ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIỀN

TRî GIóP PH¸P Lý CHO PHô N÷ N¤NG TH¤N

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIỀN

TRî GIóP PH¸P Lý CHO PHô N÷ N¤NG TH¤N

ë VIÖT NAM HIÖN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm

bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các

môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định

của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi

có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hiền

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP

LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 9

1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và hình thức Trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nông thôn ở Việt Nam ..................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam .................................... 9

1.1.2. Mục đích của việc TGPL đối với phụ nữ nông thôn ở Việt Nam ................ 14

1.1.3. Nội dung và hình thức của TGPL cho phụ nữ nông thôn ............................ 19

1.2. Đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và TGPL đối với phụ nữ

nông thôn ở VN ........................................................................................... 22

1.2.1. Đặc điểm của Phụ nữ nông thôn .................................................................. 22

1.2.2. Đặc điểm của TGPL đối với Phụ nữ nói chung và PN nông thôn nói riêng .......... 27

1.3. Các yếu tố tác động đến việc cần phải TGPL cho phụ nữ nông

thôn ở Việt Nam.......................................................................................... 29

1.3.1. Yếu tố về văn hóa, phong tục, tập quán ....................................................... 29

1.3.2. Yếu tố về kinh tế, lao động, xã hội .............................................................. 30

1.3.3. Yếu tố về nhận thức pháp luật của phụ nữ nông thôn .................................. 33

1.3.4. Yếu tố về năng lực của chủ thể TGPL cho phụ nữ nông thôn ..................... 35

1.4. Các điều kiện để đảm bảo cho hoạt động TGPL ..................................... 37

1.4.1. Điều kiện về nguyên tắc hoạt động TGPL ................................................... 37

1.4.2. Điều kiện về tài chính .................................................................................. 38

1.4.3. Điều kiện về con ngƣời, năng lực, kỹ năng của chủ thể TGPL ................... 39

1.4.4. Điều kiện về cơ sở trang thiết bị vật chất ..................................................... 41

1.4.5. Các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với đối tƣợng đƣợc TGPL và

chủ thể TGPL ............................................................................................... 43

1.5. Một số mô hình TGPL trên Thế giới hiện nay liên quan đến đối

tƣợng là phụ nữ và phụ nữ nông thôn ...................................................... 46

1.5.1. Chủ thể thực hiện TGPL .............................................................................. 52

1.5.2. Đối tƣợng đƣợc TGPL ................................................................................. 52

1.5.3. Phạm vi TGPL .............................................................................................. 55

1.5.4. Lĩnh vực thực hiện TGPL ............................................................................ 56

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 60

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN HIỆN NAY ............ 61

2.1. Thực trạng pháp luật về TGPL cho Phụ nữ nông thôn ......................... 61

2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống PL về TGPL .............. 61

2.1.2. Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ nông

thôn hiện nay ................................................................................................ 65

2.2. Thực tiễn thực hiện TGPL cho Phụ nữ nông thôn ................................. 70

2.2.1. Kết quả TGPL cho Phụ nữ nông thôn trong những năm gần đây ................ 70

2.2.2. Những cản trở, khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn .......... 72

2.2.3. Những bất cập và thách thức trong hoạt động TGPL còn tồn tại ................ 77

2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn ........... 81

2.3.1. Kết quả triển khai hoạt động TGPL ............................................................. 81

2.3.2. Công tác hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ....................................... 86

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 92

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ Ở NÔNG THÔN ........ 93

3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nông thôn ....................................................................................... 93

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ

nữ nông thôn ............................................................................................... 98

3.2.1. Giải pháp chung ........................................................................................... 98

3.2.2. Một số giải pháp cụ thể .............................................................................. 101

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 111

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 114

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCA Bộ Công An

BQP Bộ Quốc phòng

BTC Bộ Tài chính

BTP Bộ Tƣ pháp

CNH – HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CV – VB Công văn - Văn bản

HLHPN Hội Liên Hiệp Phụ nữ

NĐ – CP Nghị định - Chính phủ

TANDTC Tòa án Nhân dân tối cao

TGPL Trợ giúp pháp lý

TT – TTLT Thông tƣ - Thông tƣ liên tịch

VKSNDTC Viện kiểm sát Nhân dân tối cao

VPTW Văn phòng Trung ƣơng

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn

cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nƣớc ngàn năm văn hiến,

tạo dựng nên truyền thống bản sắc của ngƣời Việt nói chung và truyền thống riêng

của phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Để khẳng định vai

trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng

và hội nhập trong xu thế phát triển chung của nhân loại, đòi hỏi phụ nữ phải nỗ lực

phấn đấu nhiều mặt: có tri thức, có văn hóa, có kỹ năng sống tự lập, biết đối mặt với

áp lực và vƣơn lên trong khó khăn thử thách. Phụ nữ Việt Nam ngày nay tham gia

nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao vị trí và vai trò của mình.

Bên cạnh sự thành công đó là cả một hệ thống pháp luật đồng bộ bảo vệ tối đa quyền

và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Các quy định của pháp luật hiện nay

đã và đang cố gắng tạo điều kiện thuận lợi để ngƣời phụ nữ có thể phát huy hết mình

góp phần xây dựng xã hội văn minh, đất nƣớc hiện đại và giàu đẹp.

Những năm qua, thực hiện Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật, Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong hoàn thiện

và tổ chức thi hành pháp luật nhằm tăng cƣờng tiếp cận công lý, tiếp cận pháp luật

cho nhân dân. Việc cho ra đời Báo điện tử Công lý của Tòa án Nhân dân tối cao hay

việc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt dự án “Tăng cƣờng tiếp cận công lý và bảo vệ

quyền tại Việt Nam” do Bộ tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan luật và tƣ

pháp khác của Việt Nam thực hiện là các sự kiện minh chứng cho việc cơ quan Nhà

nƣớc đặc biệt quan tâm tiếp cận công lý của ngƣời dân nói chung và phụ nữ nói

riêng trong xã hội hiện nay

Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu về thực trạng và thực ti n áp dụng pháp luật

của phụ nữ qua nhiều kênh thông tin phƣơng tiện truyền thông đại chúng, tác giả

luận văn nhận thấy: Phụ nữ nông thôn còn nhiều thiếu xót trong việc quan tâm đến

quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp về các quy định pháp luật và các chính

1

sách của Nhà nƣớc. Làm thế nào để phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay cần am

hiểu, nâng cao kiến thức và làm đúng các quy định của pháp luật, khi quyền lợi của

ngƣời phụ nữ nông thôn bị xâm phạm thì hoạt động trợ giúp pháp lý thực hiện một

cách kịp thời, nhanh chóng Phụ nữ nông thôn cần làm gì để tự bảo vệ mình và gia

đình khi quyền lợi đó bị xâm phạm Đây là vấn đề lớn đòi hỏi sự quan tâm của tất

cả các cấp, các ngành t trung ƣơng đến địa phƣơng. Qua hai năm học tập, nghiên

cứu tại Khoa Luật - Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội, đƣợc sự hƣớng d n khoa học

của PGS.TS Nguy n Minh Tuấn, tôi chọn đề tài Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ

nông thôn ở Việt Nam hiện nay làm đề tài bảo vệ luận văn Thạc sĩ. Tôi mong

muốn qua luận văn này đƣa ra đƣợc thực trạng c ng nhƣ những kiến nghị, đề xuất

phƣơng hƣớng trong công tác hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn ở

Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa với mục đích làm sáng tỏ những cơ sở, lý luận

và đánh giá đúng thực trạng TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay, t

đó góp phần chỉ ra những bất cập, hạn chế của công tác này và đƣa ra những biện

pháp cần khắc phục, thay đổi nhận thức pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ ở vùng nông thôn“ sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” để đảm

bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn cần giải quyết những vấn

đề sau:

Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, đánh giá kết

quả nghiên cứu của các công trình, rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về TGPL phụ nữ nông thôn ở Việt Nam:

Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung và hình thức TGPL, các yếu tố và điều

kiện đảm bảo cho hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực ti n thực hiện pháp luật TGPL, đánh

2

giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn, những kết quả đã đạt

đƣợc và những bất cập còn tồn tại, nguyên nhân của tồn tại đó.

Đề xuất các quan điểm và giải pháp cho hoạt động TGPL và phƣơng hƣớng

nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho phụ nữ ở nông thôn.

3. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn góp phần chứng minh sự phát triển đúng đắn của hoạt động TGPL.

Đánh giá sâu sát, toàn diện tình hình thực hiện các quy định pháp luật về

TGPL, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho việc phát triển

bền vững hoạt động TGPL; đề xuất giải pháp có “tính mới và có sự thay đổi” để

hoàn thiện pháp luật

TGPL tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho

phụ nữ nông thôn ở nƣớc ta hiện nay. Đề xuất các phƣơng án, đƣờng lối và các giải

pháp cơ bản về giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn. Đồng

thời, luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về pháp luật TGPL cho

phụ nữ nông thôn ở Việt Nam sau này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là cơ sở lý luận và thực ti n thực hiện

pháp luật TGPL phụ nữ nông thôn ở Việt Nam. Trên cơ sở đó có các định hƣớng,

giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả hoạt động của phụ nữ.

Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề về pháp luật, về TGPL cho

phụ nữ nông thôn bao gồm: khái niệm TGPL, khung pháp luật về TGPL ở Việt

Nam và pháp luật về TGPL ở một số nƣớc trên thế giới; thực trạng các quy định về

chủ thể, đối tƣợng, hình thức, phạm vi, lĩnh vực; thực ti n thực hiện pháp luật

TGPL trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp, phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp

luật TGPL cho phụ nữ nông thôn.

Cách hiểu của tác giả luận văn về phụ nữ nông thôn bao gồm những chủ thể:

có hộ khẩu thƣờng trú tại huyện, xã, làng, các thôn bản vùng sâu vùng xa, làm việc

và sinh sống thuộc quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Những chủ thể

không phải là phụ nữ nông thôn theo tác giả luận văn bao gồm: Những phụ nữ

3

thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã lớn và có hộ khẩu thƣờng trú tại nơi họ

sinh sống và làm việc.

Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn và trong khuôn khổ cho phép của

luận văn thạc sĩ cho nên tác giả luận văn đã tổng hợp lấy số liệu hoạt động TGPL t

các kết quả báo cáo những năm gần đây theo chƣơng trình phối hợp của Bộ Tƣ

Pháp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và thu thập thêm số liệu thực tế về hoạt

động TGPL của một vài tỉnh thành trong cả nƣớc qua các bài báo điện tử chính

thống: Báo Đại biểu Nhân dân, báo điện tử của Cục TGPL Việt Nam, Báo Phụ nữ

Việt Nam, ... làm cơ sở và căn cứ khoa học để phân tích, đánh giá số liệu.

5. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

TGPL là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.

Đây là vấn đề đã và đang đƣợc các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Nhiều công

trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã đƣợc công bố, nhƣ:

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đề tài Mô hình tổ chức và hoạt động

TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay do Viện Khoa học pháp lý

- Bộ Tƣ pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: Tạ Thị Minh Lý. Đề tài tập đã tập

trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, mục đích, ý nghĩa của hoạt động TGPL, t đó đề

xuất các phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động này trong thời gian tới

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn

xây dựng Pháp lệnh TGPL” do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ Pháp chủ trì thực

hiện, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực ti n để xây dựng Pháp lệnh TGPL

thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến việc thực

hiện về pháp luật TGPL trong thời gian qua

Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam hiện nay” của

tác giả Tạ Thị Minh Lý, năm 2008, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, tập trung nghiên

cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về

TGPL, thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phƣơng hƣớng hoàn thiện việc

điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới

Luận văn Thạc sĩ “ Hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý

4

ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Văn Tùy, năm 2016, Khoa Luật- Trƣờng Đại

học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực

ti n về chế định ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan

điểm, giải pháp hoàn thiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL trong thời gian tới.

Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động TGPL của Luật sư ở Việt Nam hiện nay” của

tác giả Trần Thị Việt Hà, năm 2015, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực ti n về vị trí,

vai trò của luật sƣ trong hoạt động TGPL, dựa vào cơ sở đó để đánh giá một cách

khách quan, chính xác nhất về giá trị của luật sƣ trong hoạt động TGPL để t đó chỉ

ra định hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sƣ trong hoạt động TGPL.

Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về TGPL cho người nghèo và các đối tượng

chính sách xã hội khác” của tác giả Hoàng Thị Liên, năm 2015, Khoa Luật- Trƣờng

Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng

pháp luật TGPL cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách xã hội khác, thực ti n

tại Việt Nam, dựa vào cơ sở đó tác giả sẽ đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện

pháp luật TGPL.

Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng TGPL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đào

Dƣ Long, năm 2013, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn nghiên

cứu một cách toàn diện, hệ thống những vấn đề lý luận và thực ti n về chất lƣợng

TGPL, bao gồm khái niệm, mục tiêu, những đặc điểm và các tiêu chí đánh giá chất

lƣợng TGPL, chỉ ra thực trạng công tác TGPL trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề

xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng cƣờng hiệu quả công tác đánh giá chất

lƣợng, nâng cao hoạt động TGPL góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tƣợng yếu thế trong xã hội

Luận văn Thạc sĩ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL” của

tác giả Nguy n Bích Ngọc, năm 2012, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà

Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực ti n hoạt

động TGPL, hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam và đề xuất các định hƣớng nâng

cao hiệu quả hoạt động TGPL.

5

Luận văn Thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan,

năm 2009, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn tập trung

nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực ti n về TGPL tại cơ sở và đề xuất một số

giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cƣờng hiệu quả phát huy tích cực của các phƣơng

thức này.

Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu, bài viết về TGPL đƣợc đăng trên Tạp

chí Luật học, Tạp chí khoa học nhƣ: “Bàn về thời điểm kết thúc vụ việc trợ giúp

pháp lý ” của tác giả Trịnh Thị Thanh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 2019. - Số

chuyên đề 2/2019, tr. 13-15; Bài viết “ Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc ít

người nhìn từ thực tiễn ở Yên Bái” của tác giả Ths. Hoàng Thị Hƣơng Thu, đăng

trên Tạp chí Ngƣời Làm Báo số 389 - Tháng 7/2016; Bài viết “Đánh giá chất lượng

vụ việc trợ giúp pháp lý là hình thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật

TGPL” của tác giả TS. Tạ Thị Minh Lý, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp –

Văn phòng Quốc hội; Tạp chí bài viết “Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và các

yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý” của tác giả Đỗ Xuân

Lân, đăng trên Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Số 1/2008, tr. 22 – 29; Bài

viết “Cần tìm hướng đi mới, tích cực hơn cho trợ giúp pháp lý lưu động hiện nay”

của tác giả Lê Hằng Vân, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề

11/2010, tr. 17 - 19...

Trong những năm gần đây, TGPL trở thành mối quan tâm của rất nhiều Nhà

nghiên cứu khoa học, học giả và độc giả. Nhìn chung, các công trình trên đều mang

tính khoa học về hoạt động TGPL, thông qua cách nhìn nhận, phân tích một cách

toàn diện của quy định pháp luật. Các tác giả, các Nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu

hoạt động của quản lý Nhà nƣớc về TGPL, hay tập trung nghiên cứu các đối tƣợng

chính sách theo Luật TGPL quy định về thực ti n hoạt động TGPL và đề xuất các

giải pháp và định hƣớng trong những năm tới.

Luật TGPL 2006 đầu tiên ra đời đã thể hiện nhất quán chính sách của Đảng

và Nhà nƣớc trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của công dân. Đánh dấu bƣớc chuyển về chất, đƣa công tác TGPL

6

lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực ti n đất nƣớc và xu thế

thời đại. Chính vì vậy, hoạt động TGPL đã không còn xa lạ với độc giả và các Nhà

khoa học và dần đi sâu vào tiềm thức của ngƣời dân cả nƣớc. Theo tác giả, việc

nghiên cứu về hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay v n là

một đề tài cần phải quan tâm, mang tính chất cấp bách và trọng đại. Thể hiện sự dự

đoán đƣợc tƣơng lai với định hƣớng chƣơng trình mục tiêu Quốc Gia xây dựng phát

triển Nông thôn Việt Nam hiện đại, kiểu mới. Hầu nhƣ, các công trình nghiên cứu

về Phụ nữ nông thôn Việt Nam chỉ d ng lại ở việc đảm bảo quyền của phụ nữ nông

thôn ở Việt Nam hiện nay, hay đặc trƣng cơ bản của phụ nữ nông thôn và giáo dục

pháp luật đến với phụ nữ Việt Nam hiện nay. Chƣa có công trình nào nghiên cứu

chuyên sâu về việc hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn Việt Nam. Vì vậy, đây

có thể đƣợc coi là đóng góp mới, nghiên cứu về lý luận và thực ti n hoạt động

TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp nghiên cứu đƣơc sử dụng trong Triết học nghĩa Mác - Lênin và

tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng về

TGPL. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung

năm 2001, năm 2013 và các văn bản pháp luật về TGPL, các báo cáo kết quả hoạt

động, các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nƣớc c ng đƣợc tham khảo

và kế th a có chọn lọc. Cụ thể t ng chƣơng sử dụng các phƣơng pháp nhƣ sau:

Chƣơng 1: tác giả sử dụng phƣơng pháp luận, dựa trên cơ sở phƣơng pháp

khái quát hóa, tr u tƣợng khoa học ở mục 1.1; 1.2; 1.3 và 1.4, tác giả có đƣa ra khái

niệm: phụ nữ nông thôn và TGPL cho phụ nữ nông thôn, đặc điểm và các nội dung,

yếu tố tác động đến phụ nữ nông thôn. Phƣơng pháp so sánh vận dụng các mô hình

TGPL ở các nƣớc trên Thế giới và thực ti n TGPL ở Việt Nam đƣợc sử dụng ở mục

1.5 trong bài. Bên cạnh đó, tác giả luận văn có sử dụng phƣơng pháp phân tích tài

liệu nghiên cứu, sử dụng sách chuyên khảo, các bài viết đƣợc đăng trên tạp chí khoa

học trong và ngoài nƣớc để triển khai luận văn.

7

Chƣơng 2: tác giả sử dụng phƣơng pháp logic-lịch sử, phƣơng pháp phân

tích và phƣơng pháp luận để triển khai bài ở mục 2.1; Mục 2.2 và 2.3 tác giả sử

dụng phƣơng pháp phân tích thống kê, phân tích tổng hợp, phƣơng pháp sƣu tầm và

lấy các sự kiện thu thập thông tin ở các bài viết đƣợc đăng trên các bài báo, Cổng

thông tin điện tử chính thống nhƣ: Báo Đại biểu Nhân dân, Cục TGPL Việt Nam,

Báo Phụ nữ Việt Nam, Bộ Tƣ Pháp...làm cơ sở và căn cứ khoa học để phân tích,

đánh giá số liệu.

Chƣơng 3: tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp để hoàn thành

luận văn.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận

văn đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng sau đây:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về TGPL cho phụ nữ nông thôn ở

Việt Nam hiện nay

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực ti n thực hiện pháp luật TGPL cho

phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay

Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL

cho phụ nữ ở nông thôn.

8

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ

CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và hình thức Trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nông thôn ở Việt Nam

1.1.1. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam

1.1.1.1. Khái niệm TGPL

Thuật ngữ “Trợ giúp pháp lý” là một cụm t đƣợc sử dụng phổ biến trong các

tài liệu ở nƣớc ta t năm 1995. Đó là khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt

động TGPL tại Việt Nam. Theo t điển tiếng Việt “trợ giúp là sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ

trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến” [29]; “trợ

giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một ngƣời hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ

mà không lấy tiền công” [11]; “trợ giúp là giúp đỡ, và giúp đỡ lại đƣợc giải thích là

giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm cho ai một việc gì đó hoặc cho ai cái

gì đó mà ngƣời ấy đang cần” [17]. Thuật ngữ “pháp lý” đƣợc hiểu là “lý lẽ, lẽ phải

theo pháp luật, nói một cách khái quát, pháp lý là lý luận, luận điểm cơ bản đối với

pháp luật của một chế độ” [27]. Trong điều kiện hiện nay thì pháp luật là hệ thống

các quy phạm do Nhà nƣớc ban hành để quản lý xã hội. Mọi ngƣời dân phải lấy

pháp luật làm chuẩn mực để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu theo hƣớng

tiếp cận này thì “TGPL chính là thực hiện một dịch vụ pháp lý mi n phí hoặc giảm

phí so với giá trị thực tế cho loại đối tƣợng đang cần sự giúp đỡ pháp lý mà họ

không tự thực hiện đƣợc” [12].

TGPL xuất phát t lý luận về nhân quyền và bảo đảm nhân quyền, nhƣ một

biện pháp bảo đảm tƣ pháp dành cho ngƣời không có điều kiện (về kinh tế, sức

khỏe, kiến thức hiểu biết..) để tiếp cận và sử dụng các quy định pháp luật, nhằm bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, để mỗi ngƣời đều có quyền bình đẳng trƣớc

pháp luật, nhất là trong điều kiện tiếp cận công lý và tổng quát chung TGPL mà

chính sách Nhà nƣớc mang đến là: kinh tế, pháp lý; xã hội và nhân đạo.

9

Tính kinh tế, pháp lý trong TGPL đƣợc thể hiện: TGPL dành cho những đối

tƣợng không có khả năng về mặt tài chính hoặc có điều kiện hoàn cảnh khó khăn,

họ gần nhƣ không thể thậm chỉ là bất lực trong việc chi trả cho các chi phí khi tiếp

cận với các dịch vụ pháp lý. Nhà nƣớc đảm bảo hoạt động này mang tính quy định

trong hệ thống pháp luật, là “trách nhiệm của nhà nƣớc”.

Tính xã hội và nhân đạo đó là tạo cơ hội cho những ngƣời có điều kiện, hoàn

cảnh khó khăn cần phải nhận thức pháp luật, bình đẳng với ngƣời khác trong việc

sử dụng, tiếp cận pháp luật nhằm xoá đói, giảm nghèo nâng cao trình độ dân trí.

Đồng thời c ng huy động đƣợc sự tham gia rộng rãi của các lực lƣợng xã hội có

hiểu biết về pháp luật, có trình độ pháp luật cơ bản hoặc chuyên sâu vào hoạt động

TGPL để bảo đảm cho những hoạt động TGPL đạt đƣợc hiệu quả trên thực tế.

Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã thông qua bản Các

Nguyên tắc và hƣớng d n tiếp cận TGPL trong tƣ pháp hình sự, với 14 nguyên tắc

và 18 hƣớng d n. Theo đó, nguyên tắc 1 thì TGPL đƣợc th a nhận là thành tố cơ

bản trong hệ thống tƣ pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho

việc thụ hƣởng các quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là

một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công

chúng đối với tiến bộ của hệ thống tƣ pháp hình sự. Nhà nƣớc cần bảo đảm quyền

đƣợc TGPL trong hệ thống pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể.

Hoạt động TGPL rất cần thiết trong đời sống của con ngƣời hiện nay, bên

cạnh mục đích là đảm bảo cho việc xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền mà TGPL

mang tầm quan trọng nhƣ một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý.

Xu hƣớng phát triển chung của các nƣớc trên thế giới đều mong muốn cung cấp cho

ngƣời đƣợc TGPL dịch vụ có chất lƣợng một cách kịp thời để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời trong tiếp cận công lý.

Khái niệm TGPL tại Việt Nam lần đầu tiên đƣợc quy định tại Điều 3, Luật

TGPL năm 2006, nhƣ sau:

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời đƣợc

TGPL theo quy định của Luật này, giúp ngƣời đƣợc TGPL bảo vệ quyền, lợi ích

10

hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành

pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, đảm bảo

công bằng xã hội, phòng ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [20].

Điều 2, Luật TGPL năm 2017, quy định: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp

dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp

lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân

trong tiếp cận công lý và bình đẳng trƣớc pháp luật” [21], thêm vào đó khoản 1 Điều

4 Luật này quy định “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nƣớc” [21]. Nhƣ vậy,

so với khái niệm về trợ giúp pháp lý của Luật Trợ giúp pháp lý 2006, thì Luật Trợ

giúp pháp lý 2017 đã quy định theo hƣớng phản ánh đúng nội hàm bản chất của trợ

giúp pháp lý là một dịch vụ pháp lý mi n phí, giúp đỡ về mặt pháp lý cho ngƣời

nghèo và các đối tƣợng chính sách, mang bản chất Nhà nƣớc và phản ánh tính nhân

đạo xã hội sâu sắc.

Ở một số nƣớc trên Thế giới tùy thuộc vào quy định và điều kiện tình hình mỗi

nƣớc sẽ đƣa ra các khái niệm về TGPL khác nhau, nhƣng đều mang nội hàm chung về

việc hỗ trợ mi n phí TGPL cho công dân nƣớc mình khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn về

tài chính và không thể chi trả cho hoạt động TGPL cá nhân. Điển hình nhƣ:

Ở Anh, theo t điển Pháp luật Anh: “TGPL là một dạng phúc lợi xã hội do

Nhà nƣớc bảo đảm để những những ngƣời không có khả năng trả tiền cho luật sƣ

(thƣờng là các bị cáo hình sự) đều có thể tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ pháp lý

mi n phí” [36, tr.170]. (đƣợc dịch bởi t điển pháp luật Anh bởi nhà xuất bản Wiley

2006 tr.170)

Ở Úc, quy định của mỗi Bang có sự đặc thù, Điều 5 Luật TGPL năm 1997

của bang Queensland (Úc) nêu ra ý nghĩa của việc TGPL nhƣ sau:

1) TGPL (legal assistance) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tư vấn

pháp luật miễn phí hoặc thanh toán số tiền ít hơn chi phí cung cấp dịch vụ; 2) Dịch

vụ có thể được cung cấp bởi luật sư Trợ giúp pháp lý hoặc nhà cung cấp dịch vụ

Trợ giúp pháp lý [39]. Tại Bang Victoria (Úc), TGPL nghĩa là: (a) Giáo dục, tư vấn,

thông tin pháp luật; (b) Bất cứ dịch vụ pháp luật nào do luật sư cung cấp; (c) Các

11

dịch vụ khác trong phạm vi thẩm quyền của TGPL, bao gồm dịch vụ của luật sư

theo nghĩa vụ, tư vấn pháp luật và hỗ trợ pháp luật (Điều 2 Mục I Luật TGPL bang

Victoria năm 1978 của Australia) [38].

Ở Moldova, điều 2 Luật TGPL Moldova năm 2007 quy định:

“TGPL của Nhà nước là việc cung cấp dịch vụ pháp lý theo quy định của

Luật TGPL từ nguồn kinh phí TGPL cho người không có đủ tiền để trả và người

đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật này” [37].

Nhƣ vậy, t một số khái niệm TGPL ở một số Quốc gia trên thế giới, tác giả

luận văn chỉ ra bản chất của TGPL của Nhà nƣớc ta hiện nay nhƣ sau:

Thứ nhất: TGPL hƣớng tới giúp đỡ về mặt pháp lý cho ngƣời đƣợc trợ giúp

pháp lý: mục đích giúp đỡ về mặt pháp lý cho những đối tƣợng yếu thế trong xã hội,

bị thiệt thòi về kinh tế, tinh thần và thể chất trong xã hội. Luôn cần Nhà nƣớc và xã

hội quan tâm giúp đỡ, nhất là giúp đỡ trong việc tiếp cận và sử dụng pháp luật. Vì

pháp luật là một công cụ hữu hiệu để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của

mình. Trên thực tế, những ngƣời đƣợc TGPL theo quy định thƣờng là những ngƣời

bị hạn chế thực hiện các quyền và nghĩa vụ vì họ không có điều kiện tiếp cận với

các tiện ích xã hội c ng nhƣ kiến thức pháp luật. Do đó, cơ hội để họ biết và thực

hiện quyền, nghĩa vụ của mình bị hạn chế.

Thứ hai, TGPL mang bản chất nhân đạo sâu sắc, không trái với đạo đức xã

hội: TGPL là một trong những chính sách mang tính nhân đạo, nhân văn của Đảng

và Nhà nƣớc nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật và

thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân

dân. Giúp ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,

nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào

việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng

ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Nội dung của TGPL không đƣợc

trái với đạo đức xã hội, bởi lẽ, đạo đức xã hội là chuẩn mực chung đƣợc công nhận

và tự giác tuân thủ. TGPL có phù hợp với đạo đức xã hội, thì nội dung TGPL mới

đƣợc cộng đồng nói chung và ngƣời đƣợc TGPL nói riêng chấp thuận

12

Thứ ba, TGPL cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí: Theo đó, đối tƣợng đƣợc

hƣởng dịch vụ TGPL theo quy định của Luật TGPL sẽ không phải trả bất kỳ một

khoản lệ phí, thù lao nào, kể cả những lệ phí liên quan đến giấy tờ, đi lại khi họ yêu

cầu đƣợc TGPL. Điều này xuất phát t bản chất của ngƣời đƣợc TGPL đó là

“những ngƣời có khó khăn về tài chính”. Khi họ không đủ điều kiện tài chính để

học tập, ăn uống, chăm sóc sức khỏe... thì những chi phí cho dịch vụ pháp lý lại

càng trở nên xa vời. Do vậy, không thu phí, lệ phí, thù lao t ngƣời đƣợc TGPL

chính là một trong những bản chất chính của hoạt động TGPL và mang ý nghĩa

nhân đạo sâu sắc t chính sách của Nhà nƣớc khích lệ tinh thần của ngƣời dân khắc

phục, vƣơn lên trong mọi hoàn cảnh và thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc

trong việc tiếp cận TGPL đến với ngƣời dân.

1.1.1.2. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam

Khái niệm Nông thôn: Ở Việt Nam, chƣa có định nghĩa chính thức về nông

thôn, song t các nghiên cứu về nông thôn, theo quan điểm của tác giả luận văn

khái niệm về nông thôn nhƣ sau: Nông thôn là vùng/khu vực lãnh thổ không thuộc

nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; đƣợc quản lý trực tiếp bởi chính

quyền xã; là địa bàn sinh sống của nhiều cộng đồng dân cƣ, những tộc ngƣời khác

nhau, chủ yếu lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp; là nơi lƣu giữ các giá

trị văn hóa cổ truyền, tập quán tốt đẹp và các ngành nghề nông nghiệp lâu đời và

truyền thống

Khái niệm Phụ nữ Nông thôn, tác giả luận văn chỉ ra: Phụ nữ nông thôn là

một cộng đồng ngƣời phong phú, đa dạng sinh sống ở các vùng miền nông thôn

gồm những dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ học vấn khác nhau. Họ hoạt động ở

mọi ngành nghề - t ngành nghề nông nghiệp truyền thống duy trì lâu đời: cấy lúa,

trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi, thu hoạch muối biển, kéo lƣới đánh bắt cá, trồng cây

công nghiệp lâu năm ... cho đến những công việc ngành nghề nặng nhọc và độc hại

để tăng thu nhập kinh tế nuôi sống bản thân và gia đình. Phụ nữ nông thôn Việt

Nam giữ vai trò chính trong việc chăm sóc gia đình t việc quyết định các công việc

lao động nông nghiệp, chăm lo sức khỏe cho con cái và ngƣời thân, là ngƣời sản

13

xuất chính các sản phẩm lƣơng thực, thực phẩm để nuôi sống gia đình. Họ gần nhƣ

không có thời gian nghỉ ngơi cho bản thân và luôn chịu sự bất công về bất bình

đẳng giới còn tồn đọng t phong kiến cổ hủ trong văn hóa gia đình cổ xƣa.

Về mặt Pháp luật Việt Nam theo Luật TGPL năm 2017 chƣa quy định rõ về

việc Phụ nữ nông thôn sẽ là chủ thể đƣợc Nhà nƣớc TGPL mi n phí (chỉ có quy

định chung chung không phân biệt nam-nữ: ngƣời thuộc hộ nghèo, ngƣời nhi m

bệnh hiv, ngƣời bị bạo lực gia đình và là nạn nhân của hành vi buôn bán ngƣời

nhƣng phải đáp ứng điều kiện cần là khó khăn về mặt tài chính). Việc TGPL đến

với phụ nữ nông thôn Việt Nam là hành động thiết thực và cần thiết, ngƣời phụ nữ

nông thôn sẽ có cơ hội đƣợc tiếp xúc với các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp chính đáng nhiều hơn. Nâng cao trình độ văn hóa về sự hiểu

biết pháp luật, đáp ứng nhu cầu mà Đảng và Nhà nƣớc đang phấn đấu xây dựng xã

hội hóa vùng nông thôn kiểu mới phát triển, văn minh. Co thể chỉ ra khái niệm về

TGPL cho Phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay nhƣ sau: Pháp luật TGPL cho Phụ

nữ nông thôn là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm

quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ chức và hoạt

động TGPL, đó là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp đến với Phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay.

1.1.2. Mục đích của việc TGPL đối với phụ nữ nông thôn ở Việt Nam

Hoạt động TGPL nhằm giúp ngƣời đƣợc TGPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình một cách tốt nhất, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật,

có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo công

bằng xã hội, phòng ng a, hạn chế các tranh chấp và vi phạm pháp luật xảy ra. Góp

phần đảm bảo cho mọi công dân đều đƣợc quyền bình đẳng trƣớc pháp luật và đảm

bảo công bằng xã hội trong việc tiếp cận pháp luật.

Phụ nữ nông thôn lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,

ngƣ nghiệp, các ngành nghề thủ công truyền thống. Là lực lƣợng đông đảo nhất

trong cơ cấu dân cƣ, cơ cấu lao động của xã hội nông thôn Việt Nam; Đa số phụ nữ

ở nông thôn lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp; Điều kiện kinh tế, lao

14

động của phụ nữ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn; Trình độ học vấn của phụ nữ ở

nông thôn còn thấp và chịu nhiều ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng phong kiến, là nạn nhân

của những hủ tục, tập quán truyền thống lạc hậu. Tƣ tƣởng định kiến giới còn hiện

hữu trong chính gia đình và trong các tổ chức xã hội nơi mà họ tham gia lao động

và làm việc, nghiêm trọng hơn, phụ nữ các vùng nông thôn còn là nạn nhân việc

buôn bán ngƣời xuyên Quốc Gia.

Xuất phát t nông thôn, nên đa phần hầu hết Phụ nữ đều không nắm rõ kiến

thức pháp luật, sự thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật của một bộ phận ngƣời dân,

đặc biệt phụ nữ nông thôn vùng sâu vùng xa, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, là

một trong nguyên nhân d n đến việc vi phạm pháp luật. Đây c ng là điều kiện thuận

lợi để các đối tƣợng xấu lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội. Trang bị kiến thức

pháp luật cho ngƣời dân, nhất là đối với ngƣời phụ nữ, là vấn đề luôn đƣợc các cấp,

các ngành quan tâm.

Phụ nữ nông thôn luôn phải đối đầu với những bất công ngay trong chính gia

đình hay cộng đồng nơi họ sinh sống nhƣ: sự phân biệt lớn về giới tính, bạo lực gia

đình, hay xâm phạm tình dục ngày một gia tăng. Ngƣời phụ nữ phải làm nhiều công

việc hơn, ngoài việc chăm sóc ngƣời thân trong gia đình, họ phải gánh vác công

việc lao động làm thêm bên ngoài để trang trải cuộc sống. Họ phải chịu áp lực về

kinh tế, đối diện với cuộc sống nghèo khó, không đủ chi tiêu trong gia đình. Phụ nữ

nông thôn chịu nhiều sự vất vả, thiệt thòi về điều kiện sống, sức khỏe không đƣợc

đảm bảo nên thƣờng xuyên đối mặt với bệnh tật, ốm đau, chất lƣợng sống không ổn

định gây ảnh hƣởng lớn đến tinh thần tâm lý của ngƣời phụ nữ nông thôn

Các vụ việc về bạo lực gia đình đối với Phụ nữ chƣa đƣợc giải quyết triệt để,

họ phải cam chịu, nh n nhịn chịu đựng những cơn đau về thể xác l n tinh thần.

Phần lớn vì không am hiểu pháp luật để tự bảo vệ chính bản thân mình.

Theo kết quả điều tra ở 08 tỉnh của Hội liên hiệp Phụ nữ năm 2008, có 23%

số gia đình đƣợc hỏi có hành vi bạo hành về thể chất; 30% số gia đình có hành vi

bạo lực về tình dục; 25% số gia đình đƣợc hỏi có hành vi bạo lực về tinh thần trong

đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu

15

Giới và Phát triển, bạo lực gia đình d n đến tình trạng ly hôn chiếm 497%. Theo số

liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao trung bình trong 5 năm t 2000 đến 2005

cả nƣớc có 352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm

53,1%) [15, tr.24 - 27].

Không chỉ là nạn nhân của Bạo lực gia đình, phụ nữ còn là nạn nhân chính

của tội mua bán ngƣời. “Tính đến ngày 22/10/2009 theo một báo cáo của Chính

phủ, hơn 4.000 phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của những tổ chức buôn ngƣời đã

đƣợc phát hiện trong 05 năm quá (2004 - 2009) ngoài ra cả nƣớc có khoảng 22.000

phụ nữ, trẻ em đã rời khỏi địa phƣơng, đến nay không rõ tung tích” [15, tr. 24 - 27].

Tình trạng buôn bán ngƣời ngày càng di n biến phức tạp; nhiều ngƣời bị l a gạt về

các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc,

Campuchia, Lào và các nƣớc châu Á khác, trong đó có Malaysia, Hàn Quốc,

Singapore, Đài Loan và Thái Lan, Nam Triều Tiền. Đặc điểm chung của các nạn

nhân bị l a gạt buôn bán trái phép đều xuất phát t những phụ nữ nông thôn, đa số

họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chỉ làm ruộng hoặc không có việc làm, trình độ

học vấn thấp, vì sự nhẹ dạ cả tin, vi n cảnh về tƣơng lai tốt đẹp và hứa hẹn vùng

kinh tế mới mà bọn buôn ngƣời đƣa ra. Chính vì sự thiếu hiểu biết trầm trọng về

kiến thức pháp luật, không cập nhật thông tin truyền thông nhanh chóng, nên phụ

nữ nông thôn thƣờng bị ngƣời xấu lợi dụng lòng tin. Khi đƣợc cơ quan chức năng

Việt Nam giải cứu, hỗ trợ đƣa về nƣớc thì họ lại mặc cảm với cộng đồng nơi họ

sinh sống hay làng xóm v n chƣa có cái nhìn bao dung đối với các nạn nhân; điều

tiếng xã hội, dƣ luận xóm giềng đã làm cho các nạn nhân nhiều lúc rất tự ti, mặc

cảm. Điều này khiến nhiều nạn nhân sau bao năm đƣợc đoàn tụ với gia đình c ng

rất khó hòa nhập cộng đồng.

Phụ nữ nông thôn phải làm rất nhiều công việc, vì đa phần trình độ văn hóa

của phụ nữ nông thôn rất thấp, bỏ học giữa ch ng nên họ không có cơ hội làm việc

tại các cơ quan Nhà nƣớc hoặc các tổ chức chuyên nghiệp, họ phải gánh vác kinh tế

để đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình. Khi quyền lợi của ngƣời phụ nữ nông thôn

bị xâm phạm, họ c ng không muốn dùng tài chính của mình để chi trả (nếu phụ nữ

16

nông thôn không thuộc diện TGPL mi n phí theo điều 7 của Luật TGPL 2017 thì họ

sẽ phải bỏ chi phí cho hoạt động TGPL) vì phụ nữ nông thôn thƣờng phải đối mặt

với nhiều khoản chi: phí sinh hoạt bản thân, phí sinh hoạt cho gia đình và chăm sóc

con cái, ngƣời thân… rất nhiều chi phí khác nữa mà ngƣời phụ nữ nông thôn phải

gánh lên đôi vai, nên tâm lý đến Tổ chức và Trung tâm để đăng ký TGPL họ gần

nhƣ không tham gia. Chính vì vậy, phụ nữ nông thôn thƣờng bỏ lỡ nhiều cơ hội về

quyền lợi của mình khi đƣợc TGPL.

Xuất phát t những thực trạng trên, mục đích cho hoạt động TGPL phụ nữ

nông thôn Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc xác định đúng định hƣớng,

mục tiêu TGPL cho phụ nữ nông thôn, việc chỉ ra các phƣơng pháp, nội dung và

hình thức TGPL cần phải xác định đúng mục đích của hoạt động TGPL cho phụ nữ

nông thôn. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn, thời kỳ phát triển kinh tế xã hội để chỉ ra

mục đích TGPL cho phụ nữ nông thôn. Theo quan điểm của tác giả luận văn, TGPL

cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam bao gồm các mục đích cơ bản sau:

Mục đích thứ nhất: là mục đích về nhận thức pháp luật, phụ nữ nông thôn

cần phải hiểu về pháp luật, nhận thức đúng đắn về Pháp luật Việt Nam trong hoạt

động TGPL. Hiện nay, các vùng nông thôn ở Việt Nam, đại đa số phụ nữ nông thôn

chƣa đƣợc trang bị kiến thức pháp luật, khi quyền và lợi ích bị xâm phạm, ngƣời

phụ nữ nông thôn không biết cần phải làm gì để bảo vệ chính mình. Thực trạng này

di n ra suốt nhiều năm, vì điều kiện kinh tế khó khăn, hiểu biết pháp luật không có,

họ thƣờng là nạn nhân trong các vụ buôn bán ngƣời, nạn bạo lực gia đình, bị xâm

hại tình dục hay gặp thiệt thòi trong phân chia tài sản ly hôn…

Mục đích thứ hai: xây dựng niềm tin tuyệt đối về pháp luật cho phụ nữ nông

thôn. Sự đầu tƣ của Nhà nƣớc đối với phụ nữ nông thôn góp phần bảo vệ và phát

triển đời sống cho phụ nữ vùng nông thôn nhƣ: Thành lập Quỹ vay vốn, Hợp tác xã

nông nghiệp, Quỹ bảo hiểm y tế và nhân thọ, xây dựng Nhà tạm lánh mang tên

Ngôi nhà bình yên. Bên cạnh những thành tựu đã thực hiện đƣợc, Nhà nƣớc cần lên

kế hoạch xây dựng các chƣơng trình hỗ trợ pháp lý đến với phụ nữ nông thôn, đó

c ng là mục tiêu cho việc giám sát, quản lý có hiệu quả nhằm thúc đẩy nếp sống

17

văn hóa, điều kiện kinh tế ở vùng nông thôn. Thẳng thắn lên án, phê bình các cán bộ

địa phƣơng làm việc tắc trách, làm sai quy định pháp luật về việc hỗ trợ cho phụ nữ

nông thôn. Nhà nƣớc quan tâm đến phụ nữ nông thôn thì họ sẽ tin yêu vào chính

sách của Đảng, luôn chấp hành đúng các quy định của pháp luật, cùng đoàn kết góp

phần thúc đẩy kinh tế địa phƣơng đi lên đáp ứng nhu cầu của thời đại trong việc xây

dựng và phát triển Nông thôn kiểu mới

Mục đích thứ ba: hình thành động cơ, hành vi xử sự cho phụ nữ nông thôn

theo chuẩn các quy định pháp luật. Dựa vào hai mục đích ở trên, khi đƣợc trang bị

đầy đủ kiến thức pháp luật, phụ nữ nông thôn sẽ tự tin hơn, nắm bắt đƣợc quyền, lợi

ích hợp pháp của mình khi tham gia TGPL đồng thời có kiến thức pháp luật và xây

dựng đƣợc kỹ năng tham gia TGPL để bảo vệ mình, có thể phản biện lại những

hành động, hành vi t việc làm sai trái t chủ thể khác, ý thức luôn tuân thủ các quy

phạm hƣớng d n của pháp luật.

T những mục đích TGPL cho phụ nữ nông thôn, hiện nay hoạt động TGPL

cho phụ nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, pháp luật Việt Nam mới chỉ d ng lại

ở việc ban hành những văn bản quy định, nghị định pháp luật bao gồm tất cả các

chủ thể đối tƣợng và trong đó có phụ nữ nhƣ: Luật Bình Đẳng giới năm 2006; Luật

phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật phòng, chống mua bán ngƣời năm

2011; Luật Đất Đai 2013; Bộ Luật Lao Động 2012; Nghị định 08/2009/NĐ-CP quy

định chi tiết và hƣớng d n thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia

đình; Nghị định 09/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật

phòng, chống mua bán ngƣời… Nhƣng văn bản về TGPL cho phụ nữ nông thôn

hiện nay chƣa có, đất nƣớc ngày một phát triển và nhiều nhu cầu xã hội phát sinh,

Đảng và Nhà nƣớc ta cần có những biện pháp khắc phục và hỗ trợ đến với phụ nữ

nông thôn nhƣ một chính sách khích lệ ủng hộ tinh thần và đảm bảo quyền, lợi ích

hợp pháp cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam.

Thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn là một chính sách góp phần bảo đảm

các quyền tự do, dân chủ của ngƣời phụ nữ nông thôn, giúp họ có điều kiện sử dụng

pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Bởi vì họ là nhóm đối tƣợng yếu thế,

18

không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền và

nghĩa vụ của mình, phụ nữ nông thôn cần phải đƣợc quan tâm, giúp đỡ. Có nhƣ vậy,

mới phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nƣớc của Nhân dân, do Nhân dân

và vì Nhân dân, mới bảo đảm để tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về Nhân dân, tạo

lập công bằng, bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể. Việc xác định đúng đắn các

mục đích, định hƣớng của TGPL đối với phụ nữ nông thôn là một trong những yếu

tố tạo nên cấu trúc bên trong của thực hiện TGPL.

1.1.3. Nội dung và hình thức của TGPL cho phụ nữ nông thôn

Hoạt động TGPL cho Phụ nữ nông thôn cần phải tập trung vào các nội dung

chính quy định về quyền, nghĩa vụ của ngƣời đƣợc hƣởng trợ giúp pháp lý nhằm

nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, phổ biến kịp thời các

chủ trƣơng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, không ng ng đƣa các quy

định của pháp luật đến với ngƣời dân nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói

riêng. Góp phần trang bị cho phụ nữ nông thôn đƣợc tham gia hay tiếp cận pháp

luật để t đó nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp

hành pháp luật đồng thời góp phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời

đƣợc trợ giúp pháp lý và giảm thiểu những vấn đề bức xúc di n ra trong đời sống

hằng ngày, mang lợi ích giúp cho các cơ quan nhà nƣớc giải quyết các vụ việc một

cách chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; góp phần giải toả những

vƣớng mắc pháp luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà

nƣớc; góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tạo lập cơ chế thực

hiện nguyên tắc Hiến định: Mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bảo đảm

công bằng xã hội; góp phần giữ vững và tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Hình thức TGPL đƣợc hiểu hình thức tổ chức hoạt động TGPL giữa chủ thể

thực hiện TGPL và ngƣời đƣợc TGPL nhằm mục đích hỗ trợ ngƣời đƣợc TGPL

đƣợc đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp. Theo khoản 2 Điều 27 Luật TGPL

2017 Các hình thức TGPL hiện nay bao gồm: a, Tham gia tố tụng; b, Tƣ vấn pháp

luật; c, Đại diện ngoài tố tụng

19

Hình thức tham gia tố tụng [21, Điều 31]: là việc tổ chức TGPL cử ngƣời

thực hiện đại diện, bào chữa cho phụ nữ nông thôn cần TGPL trƣớc cơ quan tiến

hành tố tụng. Đây là hình thức TGPL cơ bản nhất, đƣợc quy định rất cụ thể trong

các công ƣớc quốc tế và tất cả các quy định, chế định TGPL các nƣớc. Hình thức

này thực hiện t ngƣời đƣợc đào tạo bài bản và am hiểu nắm bắt các quy định, thủ

tục về pháp luật, có kỹ năng hành nghề luật sƣ.

Hình thức tƣ vấn pháp luật theo Điều 31 Luật TGPL 2017 [21, Điều 32]:

đƣợc áp dụng phổ biến trong các hoạt động TGPL ở tất cả các nƣớc. Tƣ vấn pháp

luật đƣợc hiểu là một loại dịch vụ pháp lý nhằm giải thích pháp luật và hƣớng d n

việc thiện pháp luật cho các đối tƣợng TGPL. Tƣ vấn viên sẽ lắng nghe những tâm

tƣ tình cảm, những khó khăn trong đời sống mà khách hàng hay gặp phải và đƣa ra

lời khuyên hay những hƣớng đi mang tính chất đúng đắn, hợp tình hợp lý. Tƣ vấn

pháp luật đƣợc thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc có thể tƣ vấn gián tiếp

thông qua hình thức: gửi thƣ tín, thƣ điện tử, điện thoại…)

Hình thức đại diện ngoài tố tụng theo Điều 32 Luật TGPL 2017 [21, Điều 33]:

Đại diện ngoài tố tụng là việc trợ giúp viên pháp lý, luật sƣ thực hiện đại diện ngoài

tố tụng cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ đƣợc quyền, lợi

ích hợp pháp của mình. Việc đại diện ngoài tố tụng đƣợc thực hiện trong phạm vi

yêu cầu của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý.

Để áp dụng các hình thức TGPL theo quy định luật TGPL 2017 với phụ nữ

vùng nông thôn. Các cơ quan Nhà nƣớc, các tổ chức chính trị xã hội có nghĩa vụ

thành lập, phối hợp cùng chỉ đạo các tổ chức TGPL thực hiện theo đúng quy định

pháp luật về việc hỗ trợ TGPL cho phụ nữ nông thôn mang lại sự yên tâm của phụ

nữ nông thôn đối với chính quyền địa phƣơng nơi họ sinh sống, cụ thể việc phối

hợp nhƣ sau:

Đảng và Nhà nƣớc nên thực hiện ban hành chính sách, pháp luật TGPL hỗ

trợ phụ nữ nông thôn đƣợc quyền tiếp cận dịch vụ pháp lý mi n phí, luôn quan tâm

đến các hoạt động pháp luật đối với phụ nữ vùng nông thôn.

Bộ tƣ pháp cần phải có trách nhiệm trƣớc chính phủ trong việc thực hiện

20

TGPL cho các đối tƣợng theo luật TGPL 2017 nói chung và TGPL cho phụ nữ vùng

nông thôn nói riêng. Chủ động phối hợp với các bộ, các ban ngành, UBND tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ƣơng thƣờng xuyên tiến hành kiểm tra, rà soát các văn

bản pháp luật về TGPL đã lạc hậu, cập nhật xây dựng văn bản pháp luật mới sao

cho phù hợp để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật

về TGPL tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sƣ và trợ giúp viên pháp lý tham gia tố

tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc TGPL

Bộ lao động thƣơng binh và xã hội phối hợp với Hội liên hiệp Phụ nữ Việt

Nam tổ chức các Hội thảo hỗ trợ phụ nữ vùng nông thôn nhƣ: triển khai công tác

bình đẳng giới; Xây dựng mô hình phát triển kinh tế ở địa phƣơng mục đích tạo

công ăn việc làm cho phụ nữ nông thôn; Tuyên truyền về chế độ bảo hiểm, chăm

sóc sức khỏe đến với phụ nữ nông thôn; Phòng chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ

em tại vùng nông thôn; Bảo vệ hỗ trợ nạn nhân bị l a buôn bán xuyên biên giới tái

hòa nhập với cộng đồng ổn định cuộc sống, giúp đỡ nạn nhân bị mua bán trở về cần

đƣợc triển khai phù hợp với nguyện vọng và đƣợc cấp ủy, chính quyền ủng hộ, giúp

nạn nhân ổn định cuộc sống. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp là nòng cốt trong việc tìm

kiếm, vận động các nguồn lực để hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về, trong đó hội

phụ nữ cơ sở chính là những ngƣời gần g i, chia sẻ, nắm bắt tình hình đời sống và

là sợi dây kết nối với các cơ sở hỗ trợ khi nạn nhân tiếp tục cần sự trợ giúp, t đó

góp phần hỗ trợ chị em tháo gỡ khó khăn trong cuộc sống.

Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm cần phải chỉ

đạo các cơ quan chuyên môn tại các địa phƣơng trong địa bàn rà soát, kiểm tra, kiện

toàn tổ chức, cán bộ đảm bảo biên chế kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm

việc, tăng cƣờng năng lực hoạt động cho trung tâm và các chi nhánh của trung tâm

TGPL, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của phụ nữ nông thôn tại địa phƣơng

mà thành lập các chi nhánh TGPL nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL cho phụ nữ

nông thôn, cần tiến hành và rà soát tổ chức tham gia TGPL ở địa phƣơng để tổ chức

này hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật về TGPL, làm tốt công tác thanh

tra, kiểm tra và công tác thi đua khen thƣởng trong hoạt động TGPL.

21

1.2. Đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và TGPL đối với phụ nữ

nông thôn ở VN

1.2.1. Đặc điểm của Phụ nữ nông thôn

1.2.1.1. Phụ nữ nông thôn thường ít quan tâm đến Pháp luật

Những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc đã có những quan điểm, chủ trƣơng nhất

quán, xuyên suốt để đảm bảo các quyền cho ngƣời dân, trong đó có phụ nữ Việt

Nam nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng. Các hệ thống văn bản pháp

luật hiện ban hành đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đến với phụ nữ hiện nay nhƣ:

Luật bình đẳng giới 2006; Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007; Luật phòng,

chống mua bán ngƣời 2011; Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật Đất Đai 2013;

Bộ Luật Lao Động 2012… Tuy nhiên, với trình độ nhận thức không đồng đều thì

cách tiếp cận, thực thi các quy định của pháp luật của phụ nữ Việt Nam hiện nay

còn rất nhiều hạn chế đặc biệt đối với phụ nữ vùng nông thôn.

Điều phụ nữ nông thôn quan tâm nhiều nhất chủ yếu là cuộc sống thƣờng

ngày trong gia đình, phần nhiều vì các hủ tục phong kiến để lại, phụ nữ nông

thôn thƣờng ít quan tâm đến các hoạt động pháp luật ở chính quyền địa phƣơng,

họ chỉ cần khi quyền và lợi ích của họ hay ngƣời thân trong gia đình bị xâm

phạm, nhƣng ngay chính bản thân ngƣời phụ nữ không biết tham khảo luật hiện

hành nào để bảo vệ quyền lợi cho mình. Trình độ dân trí ở vùng nông thôn còn

nhiều hạn chế nên chị em chƣa quan tâm nhiều đến việc tiếp cận, tìm hiểu thông tin

về chính sách, luật pháp.

Các vấn đề về quyền cơ bản của phụ nữ và thực trạng chung về Hôn nhân gia

đình, bạo lực gia đình phụ nữ nông thôn không nắm bắt hết: Hôn nhân ở tuổi vị

thành niên, nhất là ở vùng núi cao, vùng dân tộc thiểu số, không phải là hiếm. Việc

tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân

tộc thiểu số, v n còn hạn chế và chƣa đƣợc coi trọng. Định kiến giới và tƣ tƣởng

thích con trai cùng với việc tiếp cận d dàng các dịch vụ kỹ thuật chẩn đoán sớm

giới tính thai nhi và dịch vụ phá thai là những nguyên nhân cơ bản góp phần làm gia

tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

22

Ở các khu vực nông thôn, phụ nữ v a làm việc đồng áng, nội trợ và chăm

sóc ngƣời thân, những ngành nghề chủ yếu hiện nay dành cho phụ nữ nông thôn

nhƣ dệt may, nông - lâm nghiệp… đều là những ngành lao động phổ thông, nặng

nhọc, năng suất thấp, d bị tổn thƣơng với mức thu nhập thấp; điều kiện làm việc thì

khắc nghiệt mà tính rủi ro do mất việc rất cao. Khi kinh tế biến động cần sa thải

nhân công thì lao động nữ c ng là “ƣu tiên hàng đầu”. Lý do là vì ít đào tạo trình độ

thấp nên cơ hội việc làm có lƣơng cao rất hạn chế. Và khi bị xâm phạm đến lợi ích

thì ngƣời phụ nữ c ng không thể đứng lên bảo vệ chính bản thân mình.

1.2.1.2. Phụ nữ nông thôn chỉ hiểu biết một số điều luật cơ bản mang tính

chất chung chung

Nhận thức của phụ nữ nông thôn chƣa đồng đều, một số ngƣời chỉ nắm rõ

quy định pháp luật một cách chung chung, chƣa thật sự nâng cao vốn hiểu biết về

kiến thức pháp luật, ảnh hƣởng đến công tác phối hợp, triển khai thực hiện các quy

định pháp luật về hoạt động TGPL. Sống trong môi trƣờng ít thông tin, học vấn

thấp, lại chịu sức ép theo những khuôn m u cổ hủ, phong kiến, cột chặt ngƣời phụ

nữ nông thôn vào những khuôn phép, tục lệ “hầu chồng, chăm con”, nên kiến thức

pháp luật, ý thức về hành vi pháp luật của ngƣời phụ nữ nông thôn chƣa cao. Mặc

dù đƣợc sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của tỉnh ủy, sự phối hợp chặt chẽ với các Ban,

ngành, đoàn thể, sự đoàn kết, nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao đối với công

việc của tập thể cán bộ, hội trƣởng Hội Phụ nữ các vùng nông thôn thực hiện nhiệm

vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong khu vực địa phƣơng phù hợp với văn hóa,

phong tục, tập quán. Tuy nhiên, việc phổ cập giáo dục về quyền và nghĩa vụ đến với

phụ nữ vùng nông thôn còn hạn chế, phần lớn do trình độ dân trí không đồng đều,

nhận thức của nhân dân còn thấp.

Khó khăn hơn nữa là việc khó áp dụng theo luật bởi vì yêu cầu về bằng

chứng, phần lớn phụ nữ nông thôn do không hiểu biết về pháp luật, họ không biết

cách giữ lại bằng chứng. Khi bạo lực xảy ra, phụ nữ nông thôn chỉ có tìm cách chạy

trốn, né tránh vụ việc, không dám báo cáo sự việc lên các cấp chính quyền địa

phƣơng phần vì lối suy nghĩ hủ tục t nhiều đời. Sự che giấu này đã dung túng, làm

23

tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi. Bên cạnh đó, phần đông nạn nhân của

BLGĐ không nắm đƣợc các quy định về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

mình… Một số ngƣời quan niệm chỉ khi d n đến hậu quả nặng nề về sức khỏe, thể

chất mới xem đó là bạo lực BLGĐ. Khi quyền và lợi ích bị xâm phạm, phụ nữ nông

thôn chỉ biết hành vi của đối tƣợng là vi phạm sai quy định của pháp luật nhƣng

không nắm rõ đƣợc các thủ tục cần phải thực hiện là gì. Khi tìm đến các văn phòng

TGPL thƣờng không có giấy tờ, biên bản xác nhận của cơ quan chức năng nhƣ:

Bệnh viện, Ủy ban nhân dân, Công an gây khó khăn cho văn phòng TGPL gặp khó

khăn trong việc làm thủ tục cử ngƣời thực hiện TGPL. Hơn nữa, nhiều chị em phụ

nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội buôn bán phụ nữ… nhƣng

không muốn để ai biết mình là nạn nhân, tâm lý mặc cảm, sợ bị chê trách nên không

đến tổ chức trợ giúp pháp lý để đƣợc trợ giúp pháp lý.

1.2.1.3. Phụ nữ nông thôn là nhóm đối tượng có quyền và lợi ích hợp pháp

dễ bị xâm phạm

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy

quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền nhƣ nhau” [13, tr.260]. Thực hiện đấu

tranh giải phóng dân tộc là để có phần giành quyền lợi về phía phụ nữ, bởi vì theo

Ngƣời, dân tộc chƣa độc lập thì quyền lợi của phụ nữ chƣa đƣợc giải phóng,

quyền phụ nữ gắn liền với quyền dân tộc, quyền của giai cấp và quyền của con

ngƣời. Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm tới quyền của phụ nữ ở nông thôn, nơi

lao động nữ là lực lƣợng chủ yếu. Ngƣời thấu hiểu nỗi vất vả của ngƣời phụ nữ

nông thôn trong điều kiện lao động chân tay “một nắng, hai sƣơng”, “bán mặt cho

đất, bán lƣng cho trời”. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ đƣợc thể hiện

trong Chánh cƣơng vắn tắt năm 1930 của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong

đó nêu rõ: “Về phƣơng diện xã hội thì: a) Dân chúng đƣợc tự do tổ chức. b) Nam

nữ bình quyền. v.v…” [14, tr.1]

Tuy nhiên, trong t ng giai đoạn, ở nhiều thời điểm, việc thực hiện quyền của

phụ nữ nông thôn còn những hạn chế, bất cập. Phụ nữ nông thôn luôn là nhóm đối

tƣợng d bị xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp nhất. Nhiều quyền phụ nữ

24

không những không đƣợc thực thi nhƣ đã cam kết mà còn bị khƣớc t dƣới các hình

thức, luật lệ, hƣơng ƣớc, l giáo phong kiến và tâm lý bảo thủ trì trệ, gia trƣởng của

nhiều thành phần trong xã hội. Xuất phát t những quan điểm cổ hủ, lạc hậu và

những định kiến giới đã ăn sâu bám r trong tiềm thức của con ngƣời là phụ nữ

nông thôn bị coi là phái yếu, học thức kém nên không đƣợc tham gia vào việc quyết

định những vấn đề quan trọng trong gia đình. Đặc biệt là trong vấn đề tiếp cận sở

hữu liên quan đến đất đai, nhà ở, quyền đƣa ra những quan điểm đóng góp ý kiến

trong gia đình, vì vậy họ không có cơ hội tiếp cận các nguồn lực c ng nhƣ phát huy

khả năng lao động của mình. Phụ nữ nông thôn luôn phải đối mặt với sự phân biệt

đối xử, có khi bị bóc lột sức lao động một cách trắng trợn trong thị trƣờng lao động

và trong việc thụ hƣởng quyền lợi kinh tế. Những hình thức bạo lực trực tiếp hƣớng

đến phụ nữ, đã tƣớc đoạt những quyền lợi và đôi khi là cuộc đời của họ. Những

công việc nội trợ và công việc có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập trong xã

hội, ngày ngày kìm hãm, hầu nhƣ không cho phụ nữ đƣợc thụ hƣởng những quyền

lợi của mình.

Việc thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn là hoạt động hết sức cần

thiết, chính quyền địa phƣơng không thể thực hiện việc tuyên truyền TGPL cho phụ

nữ ở địa phƣơng bằng hình thức, bằng vụ việc đã xảy ra, thực hiện cho có để đạt chỉ

tiêu mà thay vào đó, chính quyền các cấp cần phải có hành động cụ thể, cần phải

quan tâm tích cực tăng cƣờng hoạt động TGPL đến với phụ nữ nông thôn trong khu

vực địa phƣơng, thực hiện tuyên truyền sâu những lĩnh vực mang tính chất nhạy

cảm, bức xúc mà phụ nữ nông thôn hiện nay đang rất quan tâm nhƣ: sự phân biệt

đối xử trong gia đình, xã hội; bạo lực gia đình xâm phạm mạnh đến thân thể; nạn

buôn bán ngƣời trái phép; tranh chấp đất đai...Việc thực hiện TGPL cho phụ nữ

nông thôn cần phải có báo cáo kế hoạch chi tiết, kết quả theo t ng năm để chứng

minh di n biến hoạt động TGPL đã mang lại những kết quả nhƣ thế nào. Những

mặt tích cực, thuận lợi và những khó khăn để t đó đƣa ra những phƣơng hƣơng,

giải pháp khắc phục để nâng cao TGPL cho phụ nữ nông thôn đƣợc hiệu quả hơn

Bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn cần phải nắm đƣợc quyền và lợi ích hợp

25

pháp của chính mình để t đó có thể bảo vệ bản thân trƣớc những cám dỗ, những

nguy hiểm trong xã hội mà họ rất d gặp phải.

1.2.1.4. Luật TGPL chưa tiếp cận hết đến quyền lợi ích cho người phụ nữ

Hoạt động TGPL với phụ nữ nông thôn hiện nay còn gặp nhiều khó khăn và

bất cập:

Thứ nhất, không phải tất cả phụ nữ đều đƣợc trợ giúp pháp lý, theo quy định

của Điều 7, Luật TGPL 2017 thì không phải tất cả phụ nữ nói chung và phụ nữ

nông thôn nói riêng đƣợc TGPL mi n phí, mà luật chỉ hỗ trợ một số chủ thể đặc biệt

(đã phân tích ở mục 1.1.1.2 “Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam”.

Đây c ng là khó khăn cho ngƣời phụ nữ nông thôn khi họ đăng ký hỗ trợ TGPL,

bởi lẽ do điều kiện sống của phụ nữ nông thôn thƣờng gặp nhiều khó khăn hơn phụ

nữ thành thị, ngoài công việc nhà hằng ngày, họ phải tham gia sản xuất nông nghiệp

để tăng thu nhập cho gia đình.

Thứ hai, luật TGPL chƣa tiếp cận đến quyền lợi của ngƣời phụ nữ nông thôn,

ví dụ nhƣ: quyền của phụ nữ nông thôn trong việc sử dụng đất đai nhà ở hay các

vấn đề hôn nhân gia đình: ly hôn, phân chia tài sản... không đƣợc Luật TGPL 2017

bảo hộ mà sẽ có quy định tại các văn bản Luật riêng biệt. Khi bị xâm phạm về

quyền và lợi ích, ngƣời phụ nữ nông thôn c ng không thể tự mình nắm rõ đƣợc quy

định cụ thể của pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi của mình, nhiều phụ nữ nông thôn

v n chƣa biết đƣợc về quyền trợ giúp pháp lý hoặc chƣa chủ động khi tiếp cận với

trợ giúp pháp lý. Nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội

buôn bán phụ nữ, khi đến Trung tâm thƣờng không có giấy tờ chứng minh là nạn

nhân của những hành vi này nhƣ: Biên bản, giấy xác nhận của các cơ quan Công an,

bệnh viện, Uỷ ban nhân dân xã hay Trƣởng các thôn, bản vì thế thủ tục cử ngƣời

thực hiện TGPL cho họ là rất khó khăn. Hay khi ngƣời phụ nữ nông thôn bị xâm

phạm về quyền và lợi ích, họ c ng không biết tìm đến các văn phòng TGPL để

đƣợc yêu cầu TGPL.

Để quản lý, kiểm soát tốt hoạt động TGPL, các cấp chính quyền địa phƣơng

cần phối hợp, thực hiện đúng quy định của pháp luật, đúng chính sách của Nhà

26

nƣớc đƣa ra phƣơng án nâng cao trách nhiệm các bộ, ngành, địa phƣơng trong

việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các

văn bản hƣớng d n thi hành phù hợp với điều kiện thực tế của t ng vùng, miền,

địa phƣơng; nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có

liên quan đến trợ giúp pháp lý để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ; đồng thời

phải đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm cho công tác trợ giúp pháp lý đƣợc

duy trì và phát triển.

1.2.2. Đặc điểm của TGPL đối với Phụ nữ nói chung và PN nông thôn nói riêng

Trợ giúp pháp lý đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý cho

ngƣời dân và xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng. TGPL chỉ phát huy tác

dụng khi hai yếu tố khác đƣợc thoả mãn. Thứ nhất, quyền và lợi ích chính đáng của

ngƣời phụ nữ nông thôn phải đƣợc luật pháp bảo vệ, hay nói cách khác đó là quyền

và lợi chính đáng trở thành quyền và lợi ích hợp pháp. Thứ hai, ngƣời phụ nữ nói

chung và phụ nữ nông thôn nói riêng phải biết quyền và lợi ích của mình đƣợc luật

pháp th a nhận và muốn tìm sự bảo vệ của hệ thống công lý khi họ cảm thấy quyền

và lợi ích đó bị xâm hại.

Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc

và các tổ chức hành nghề luật sƣ, tổ chức tƣ vấn pháp luật của các tổ chức chính trị

xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Nhƣ vậy, hoạt động trợ giúp pháp lý là một

loại hoạt động v a có tính chất nhà nƣớc, v a mang tính chất xã hội.

Ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý theo khoản 1 Điều 17 Luật TGPL quy định

nhƣ sau:

a) Trợ giúp viên pháp lý; b) Luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp

đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc; luật sƣ thực hiện trợ giúp

pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; c) Tƣ vấn

viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên làm việc

tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; d) Cộng tác viên trợ giúp pháp lý.

Tổ chức thực hiện TGPL theo khoản 1 Điều 10 Luật TGPL Tổ chức thực

hiện trợ giúp pháp lý bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và tổ chức tham

gia trợ giúp pháp lý

27

Theo Luật TGPL 2017, phụ nữ vùng nông thôn không phải là đối tƣợng

đƣợc TGPL mi n phí. Đây c ng là khó khăn và hạn chế trong việc hỗ trợ TGPL đến

với phụ nữ nông thôn. Trong những năm tới, khi Quốc Hội sửa đổi, bổ sung Luật

TGPL nên cần có thêm phụ nữ vùng nông thôn là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí

góp phần xây dựng phát triển xã hội, nâng cao tinh thần ý thức pháp luật đến với

phụ nữ nông thôn. Đây c ng là sự khích lệ động viên của Đảng và Nhà nƣớc trong

hoạt động TGPL đối với phụ nữ nông thôn và c ng là bƣớc chuyển biến tích cực

phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nông thôn kiểu mới.

Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Hoạt động trợ giúp pháp lý đƣợc thực hiện đối với

tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc trợ

giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật, tr các vụ việc có liên quan đến

lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại.

Mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý đối vụ phụ nữ nông thôn theo quan

điểm của tác giả luận văn: nhằm giúp ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành

pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ng a, hạn

chế tranh chấp và vi phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho mọi công dân đều bình

đẳng trƣớc pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.

Có thể hiểu rõ, TGPL còn là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp, là

một trong những chức năng xã hội của Nhà nƣớc và các chi phí cho hoạt động

TGPL do ngân sách Nhà nƣớc bảo đảm. Bên cạnh đó, TGPL là một dịch vụ mang

đậm tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu của TGPL hƣớng đến những đối tƣợng có

hoàn cảnh đặc biệt, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc đến với nhân dân nói

chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng. Ngoài ra, TGPL còn thể hiện tính ổn

định chính trị- xã hội t Trung ƣơng đến địa phƣơng, t thị xã đến các vùng nông

thôn, vùng núi sâu xa. Góp phần thiết lập sự ổn định, niềm tin của ngƣời dân vào

chế độ, qua đó là phƣơng thức hiệu quả để Nhà nƣớc d dàng quản lý, đảm bảo ổn

định trật tự và an toàn xã hội.

28

1.3. Các yếu tố tác động đến việc cần phải TGPL cho phụ nữ nông thôn

ở Việt Nam

1.3.1. Yếu tố về văn hóa, phong tục, tập quán

T xƣa đến này, hình ảnh ngƣời Phụ nữ Việt Nam mang trong mình truyền

thống đấu tranh anh d ng và lao động cần cù, thông minh, sáng tạo. Bên cạnh

truyền thống tốt đẹp đó, ngƣời phụ nữ Việt Nam còn có truyền thống đảm đang

gánh vác trách nhiệm công việc trong gia đình. Ngày nay, thời đại công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nƣớc vai trò nội trợ chăm lo gia đình của ngƣời phụ nữ tuy khác đi,

họ có thể không trực tiếp phải làm tất cả các công việc trong gia đình nhƣng họ v n

là ngƣời phải lo toan, quán xuyến, theo dõi mọi hoạt động của các thành viên để hỗ

trợ, chăm sóc, làm tròn bổn phận của ngƣời con, ngƣời mẹ và ngƣời vợ. Định kiến

giới “trọng nam, khinh nữ” đến nay v n còn tồn tại và ảnh hƣởng không nhỏ đến

vấn đề bình đẳng giới.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy, nam giới chiếm ƣu thế trong kiểm

soát đất đai và các tài sản có giá trị khác. Nam giới có cơ hội tiếp cận và kiểm soát

đất sản xuất là 24,8% so với 4,8% của nữ giới. Có khoảng gần 80% chủ hộ là nam

giới so với 20% chủ hộ là nữ giới, do đó trên thực tế phần lớn nam giới là ngƣời

đứng tên trên giấy tờ nhà và đất. Đặc biệt ở nông thôn, đa số trƣờng hợp nhà ở và

đất ở là tài sản th a kế do bố mẹ chia cho con trai khi họ lập gia đình và tách ra ở

riêng, do vậy tỷ trọng nam giới đứng tên chủ sở hữu nhà ở rất cao. Theo số liệu điều

tra cơ bản về gia đình Việt Nam (1998-2000) “79,7% hộ gia đình ở đồng bằng và

82,1% hộ gia đình ở trung du - miền núi có nam giới là ngƣời đứng tên sở hữu nhà ở và đất ở, còn ở thành phố, tỷ lệ chiếm 49,8%” [26, tr.430].

Khi thế chấp tài sản hay đất đai để vay vốn, c ng phải do chủ hộ quyết định.

Và khi có các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp thì tất nhiên ngƣời tham

gia phải là chủ hộ, ngƣời đại diện cho hộ gia đình, và trong đa số trƣờng hợp là nam

giới. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, ngƣời phụ nữ nông thôn ít đƣợc tiếp cận thông tin

mới t chính sách, các quy định pháp luật của Nhà nƣớc

Phụ nữ v n chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới trên lĩnh vực văn hoá giáo

29

dục. Trong gia đình, nếu phải lựa chọn việc cho con trai hay con gái tiếp tục theo

học các bậc hệ cao hơn thì con trai bao giờ c ng đƣợc ƣu tiên hơn. Đó là một trong

những nguyên nhân lý giải vì sao ở nông thôn, đa số phụ nữ chỉ học hết cấp I và cấp

II. Tỷ lệ phụ nữ mù chữ, trẻ em gái bỏ học giữa ch ng luôn nhiều hơn nam giới.

Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình năm học 2007 – 2008, “tỷ lệ học

sinh nữ trong các cấp học là: bậc Mầm non: 49,6%; bậc Tiểu học: 48,2%; bậc Trung

học cơ sở: 48,7%” [1, tr.181].

Đặc biệt, quyền đƣợc đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật cho lao động nữ nông

thôn hiện đang gặp nhiều thách thức. Tƣ tƣởng “trọng nam, khinh nữ” d n đến số

phụ nữ có trình độ học vấn cao rất ít, lại không đƣợc tạo điều kiện để tiếp cận các

khoá tập huấn đào tạo kỹ thuật canh tác, sản xuất mới nên tay nghề và kỹ thuật cho

lực lƣợng lao động nữ v n còn ở mức thấp. Sự chênh lệch giữa nam giới và phụ nữ

trong lĩnh vực này là điều đáng quan tâm. Phong tục, tập quán thể hiện bản sắc văn

hoá riêng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Trong quá trình đổi mới và hội nhập

quốc tế hiện nay, cần phải phát huy những nét đẹp của văn hoá truyền thống, bên

cạnh đó cần phải kiên quyết loại bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, là rào

cản cho sự tiếp cận và hƣởng thụ quyền bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực dân

sự, chính trị; kinh tế, xã hội và văn hoá để góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng

giới ở Việt Nam hiện nay.

Việc TGPL cho phụ nữ nông thôn là điều kiện cần thiết và quan trọng, chính

quyền địa phƣơng nên phối hợp chặt chẽ với Hội phụ nữ trong khu vực thực hiện

chiến lƣợc động viên, tuyên truyền đến phụ nữ xây dựng văn hóa thôn làng văn

minh, xóa đi những rào cản t những hủ tục phong kiến, hòa mình với những hội

nhập xã hội và hơn hết phụ nữ nông thôn cần phải biết đến những hoạt động liên

quan đến TGPL mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.

1.3.2. Yếu tố về kinh tế, lao động, xã hội

Do đặc điểm lịch sử phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc, phụ nữ xƣa kia

c ng nhƣ hiện nay v n giữ một vai trò trụ cột trong sản xuất nông nghiệp. Phần lớn

các khâu trong sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi đều do ngƣời phụ nữ thuộc vùng

nông thôn đảm nhiệm.

30

Có thể nói, phụ nữ là lực lƣợng lao động quan trọng và chủ chốt trong sản

xuất nông nghiệp. Do tác động mạnh mẽ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,

HĐH) đất nƣớc hiện nay, phụ nữ nông thôn ngày càng tham gia tích cực hơn vào thị

trƣờng lao động chung của cả nƣớc, nhất là các ngành kinh tế nhƣ: thƣơng mại -

dịch vụ, công nghiệp và du lịch ở ngay nông thôn hay ở các trung tâm kinh tế lớn.

Tuy nhiên, chất lƣợng việc làm của lao động nữ nông thôn còn thấp, tính ổn

định, bền vững trong việc làm và tiếp cận tới các dịch vụ an sinh xã hội không cao,

phụ nữ nông thôn thƣờng phải tham gia các công việc không chính thức và d bị tổn

thƣơng. Nhiều phụ nữ nông thôn phải tự tạo việc làm hoặc làm việc trong gia đình mà

không đƣợc trả công. Phụ nữ nông thôn làm việc trong các khu vực không chính thức

có tiền công thấp hơn, tay nghề thấp hơn và ít cơ hội nâng cao tay nghề và đào tạo.

Việc đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn tuy đã đƣợc chú trọng nhƣng

các loại hình đào tạo thƣờng ngắn hạn, đầu ra sau học nghề gặp nhiều khó khăn.

Lao động nữ lớn tuổi càng khó khăn trong chuyển đổi việc làm. Bên cạnh đó, khả

năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất nhƣ đất đai, công nghệ và dịch vụ tài chính

của phụ nữ nông thôn còn rất hạn chế. Phụ nữ nông thôn c ng chịu ảnh hƣởng nặng

nề t biến đổi khí hậu gây ảnh hƣởng đến năng suất, kinh tế nông nghiệp ở nông

thôn vì phụ nữ nông thôn là lực lƣợng phải đảm đƣơng vấn đề an ninh lƣơng thực

cho gia đình, có trách nhiệm chăm sóc gia đình

Khi phụ nữ nông thôn am hiểu pháp luật, nắm rõ các quy định trong Bộ luật

Lao động 2012, thì sẽ không có tình trạng việc lao động nữ ở nông thôn rơi vào

cảnh thất nghiệp, bị đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động không rõ lý do, hay

việc phụ nữ nông thôn là nạn nhân của bạo lực gia đình và bất bình đẳng giới ở địa

phƣơng cả nƣớc sẽ giảm thiểu đáng kể khi họ chủ động đến các tổ chức, trung tâm

TGPL đăng ký hỗ trợ tƣ vấn và TGPL.

Một số chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã đƣợc ban hành

nhƣng trên thực tế không phát huy hiệu quả, chẳng hạn nhƣ: Luật bình đẳng quy

định mang tính ƣu tiên trong một số lĩnh vực của đời sống gia đình, xã hội, tuy

nhiên trên thực tế đang tạo ra rào cản đối với sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào

31

các hoạt động xã hội. Ví dụ, quy định "Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động

nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật" (điểm a khoản 2

Điều 12) là một biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nhƣng

trong thực ti n hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ không đƣợc

hƣởng lợi. Nguyên nhân là do các quy trình, thủ tục để đƣợc hƣởng các chính sách

ƣu đãi về thuế đối với doanh nghiệp khá phức tạp, số tiền đƣợc giảm thuế chƣa bù

đắp đƣợc các chi phí khi áp dụng các ƣu đãi dành cho lao động nữ, vì vậy, các

doanh nghiệp thƣờng ngại hoặc không muốn tiếp cận với chính sách ƣu đãi này.

Trong khi chính sách hỗ trợ và bảo vệ ngƣời sử dụng lao động nữ còn thiếu và chƣa

cụ thể thì các chính sách hiện hành bảo vệ lao động nữ lại tƣơng đối đầy đủ, do đó

chƣa khuyến khích đƣợc doanh nghiệp sử dụng lao động nữ.

Vì phụ nữ nông thôn không phải là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo quy

định của Luật TGPL 2017 (tr trƣờng hợp quy định tại Điều 7 của luật), khi quyền

lợi của phụ nữ nông thôn bị xâm phạm, họ sẽ bỏ ra chi phí để đƣợc tƣ vấn và TGPL,

kinh tế khó khăn, số tiền ngƣời phụ nữ nông thôn kiếm ra dùng để san sẻ và gánh

vác cùng với ngƣời chồng trong việc chi tiêu hỗ trợ con cái, ngƣời thân nên việc chi

trả cho hoạt động TGPL sẽ rơi vào bế tắc, thiếu thốn. Thậm chí phụ nữ nông thôn với

tâm lý mặc cảm về kinh tế sẽ không tự tin đến các trung tâm, tổ chức TGPL. Vì vậy,

để khắc phục hạn chế này thì chính quyền địa phƣơng nên xin ngân sách cho việc

TGPL mi n phí đến với phụ nữ nông thôn sinh sống trong khu vực, chỉ thị phƣơng

hƣớng t cấp trên các kế hoạch phát triển ổn định kinh tế đến với phụ nữ nông thôn

để giảm thiểu số hộ nghèo trên địa bàn. Xây dựng ngôi nhà tình thƣơng đối với phụ

nữ nông thôn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để họ có động lực tham gia sản xuất

cùng phát triển nông thôn mới, có niềm tin yêu vào chính quyền và Nhà nƣớc.

Tác động của sự chuyển đổi kinh tế và công nghiệp hóa đối với phụ nữ và

nam giới rất khác nhau. Trong các gia đình ở nông thôn có một sự phân công lao

động phổ biến theo khuynh hƣớng vợ ở lại nhà, chồng rời gia đình đi nơi khác trong

môi trƣờng lao động tiên tiến hơn, thu nhập bằng tiền mặt. Do vậy phụ nữ nông

thôn d bị tụt hậu so với nam giới trong quá trình cải kinh tế và công nghiệp hóa.

32

Trong khi nam giới đƣợc chuẩn bị để đi vào nền kinh tế mới, thì phụ nữ có nguy cơ

đứng bên lề của nền kinh tế đó. Những hoạt động kinh tế của phụ nữ trong nông

nghiệp tuy vất vả nhƣng thu nhập thấp, và bằng hiện vật chứ không phải tiền mặt.

Trong khi đó, ở nền kinh tế thị trƣờng, khi tiền mặt là thƣớc đo thu nhập, đóng góp

của phụ nữ vào kinh tế gia đình không đƣợc đánh giá cao, và địa vị của họ không

tƣơng xứng với cống hiến của họ [9, tr.40].

1.3.3. Yếu tố về nhận thức pháp luật của phụ nữ nông thôn

Đời sống văn hóa của phụ nữ nông thôn c ng còn rất nhiều hạn chế. Học

hành phần nhiều dở dang. Số nữ sinh viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng là ngƣời

nông thôn, miền núi ít hơn hẳn nữ sinh viên ở thành thị. Họ thƣờng không có thời

gian cho việc học tập và nghiên cứu, cho đến nay, trình độ học vấn của phụ nữ nông

thôn đang còn thấp hơn so với nam giới. Đó là một thiệt thòi to lớn, là một lực cản

đối với sự cải thiện và nâng cao địa vị ngƣời phụ nữ ở nông thôn. Bản thân ngƣời

phụ nữ không nhận thức đƣợc đầy đủ các quyền của mình, bởi vậy khi bị đối xử bất

công trong gia đình và có vi phạm xảy ra họ đành cam chịu hoặc là không biết phải

khiếu nại, tố cáo ở đâu và không biết phải tự bảo vệ mình nhƣ thế nào.

Xuất phát t yếu tố truyền thống với phần lớn thời gian dành cho công việc

nội trợ, chức năng làm mẹ, chăm sóc con cái và gia đình, v n luôn đƣợc cho là trách

nhiệm chủ yếu của phụ nữ, c ng ảnh hƣởng không nhỏ đến sự chất lƣợng công việc

của phụ nữ nông thôn, ngƣời phụ nữ không có thời gian để tự tìm hiểu hay tham gia

các khóa tập huấn để nâng cao kiến thức của mình về các quy định của pháp luật.

Bên cạnh yếu tố truyền thống t những rào cản t quan niệm phong kiến cổ hủ đánh

giá thấp khả năng và tiềm năng của phụ nữ thì nhiều phụ nữ với bản chất rụt rè,

nhút nhát, thiếu tự tin, tâm lý mặc cảm không có ý thức học hỏi nâng cao trình độ,

hiểu biết của bản thân.

Tƣ tƣởng định kiến giới còn tồn tại trong xã hội đã ảnh hƣởng lớn đến sự

tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội. Các kết quả

nghiên cứu xã hội học về phân công lao động trong gia đình trong những năm gần

đây ở các địa phƣơng, các nhóm xã hội thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, trình độ học

33

vấn khác nhau đều cho thấy phụ nữ v n là những ngƣời đảm nhiệm phần lớn các

công việc gia đình. Ngay cả những phụ nữ đi làm có thu nhập cao v n là ngƣời phải

chịu trách nhiệm chính về việc nhà.

Ở các khu vực vùng nông thôn Việt Nam, tình hình trật tự đời sống của

ngƣời dân thƣờng ít phức tạp hơn đối với cuộc sống ở khu vực thành phố nhƣng

tình hình tội phạm xảy ra hết sức phức tạp. Bản thân ngƣời phụ nữ vùng nông thôn

luôn hình thành tƣ duy “sợ” liên quan đến pháp luật, vì cho rằng thủ tục pháp luật

rƣờm rà, lâu thực hiện. Khi có tranh chấp về quyền và lợi ích, tội phạm xảy ra nhƣ:

Bạo lực gia đình, định kiến về giới, tội phạm l a đảo tài sản, con ngƣời, vấn nạn

xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em vùng nông thôn luôn là những chủ đề

di n ra thƣờng xuyên nhƣng phụ nữ nông thôn “không” tố cáo lên chính quyền địa

phƣơng và các tổ chức, trung tâm TGPL không can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền

lợi cho ngƣời phụ nữ, phần lớn lý do vì định kiến hủ tục phong kiến làng quê, tâm

lý lo sợ về danh tiếng, nhân phẩm của mình bị ảnh hƣởng, điều tiếng t xóm làng...

Nhận thức của xã hội, truyền thống văn hóa ảnh hƣởng rất lớn đến việc tiếp cận

pháp lý cho phụ nữ, do vậy nhiều phụ nữ bị bạo hành thuộc đối tƣợng trợ giúp pháp

lý c ng chƣa chủ động tìm đến sử dịch vụ trợ giúp pháp lý để đƣợc hỗ trợ. Mặc dù

Nhà nƣớc ban hành pháp luật rất cụ thể, có quy định rõ về khung hình phạt các hành

vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể bị hại, nhƣng phụ nữ nông thôn mang

tâm lý mặc cảm, tự ti, không nắm bắt đƣợc quyền lợi của mình sẽ đƣợc pháp luật

bảo vệ nhƣ nào, họ thƣờng tự thỏa thuận hoặc giải quyết vì lý do tình cảm tế nhị

nên hầu hết nạn nhân đều chấp nhận, tự dàn xếp hay ấm ức chịu đựng mà không tố

cáo đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

Khi không đƣợc trang bị về kiến thức pháp luật, thì ngƣời phụ nữ sẽ không

nắm đƣợc quyền và trách nhiệm của mình, họ rất d trở thành nạn nhân hoặc là đối

tƣợng vi phạm pháp luật. Khi quyền lợi bị xâm phạm, phụ nữ nông thôn chƣa nhận

thức đƣợc vai trò của công tác TGPL trong việc đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của họ. Phụ nữ và trẻ em gái ở khu vực này đang còn chịu nhiều

thiệt thòi hơn nam giới c ng nhƣ so với phụ nữ ở khu vực thành thị về cơ hội học

34

tập, việc làm, tiếp cận thông tin và thụ hƣởng các thành quả của cuộc sống. Việc

nhận thức đúng vai trò, vị trí của phụ nữ sẽ giúp phụ nữ tự tin hơn trong cuộc sống,

vƣợt qua những rào cản của xã hội để vƣơn lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã t ng nói:

Phụ nữ ta còn có một số nhƣợc điểm nhƣ bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu

tin tƣởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ c ng gặp nhiều khó

khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào

Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin

tƣởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ

nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính

quyền…[16].

Câu nói của Bác Hồ rất đúng với xu thế phát triển Phụ nữ nông thôn Việt

Nam hiện đại, ngoài sự trợ giúp t Đảng và Nhà nƣớc, các cấp chính quyền tại địa

phƣơng, thì bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn phải có sự nỗ lực, cố gắng học tập,

rèn luyện tri thức và tiếp thu tinh thần của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình.

1.3.4. Yếu tố về năng lực của chủ thể TGPL cho phụ nữ nông thôn

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đƣợc Đảng ta xác định là một bộ phận

của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng và là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính

trị đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng; là một nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ xây

dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng và

Chính phủ luôn quan tâm thực hiện bằng nhiều chủ trƣơng, chính sách.

Đƣợc sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành,

công tác TGPL đối với phụ nữ nông thôn có nhiều thay đổi và đi vào ổn định cuộc

sống. Trong những năm gần đây, các cấp Hội phụ nữ khu vực nông thôn đã có

nhiều hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức,

hiểu biết pháp luật cho phụ nữ, các hình thức đƣợc cấp Hội thực hiện nhiều nhƣ:

tuyên truyền qua những tiểu phẩm kịch, những bài thơ, ca, hò,vè… đi giao lƣu

tuyên truyền tại cơ sở; Đây là hình thức tuyên truyền thu hút đƣợc nhiều chị em phụ

nữ tham gia với vai trò v a là tuyên truyền viên, v a là di n viên và c ng là những

35

ngƣời đánh giá hiệu quả của công tác tuyên truyền, nên các chị có nhiều kinh

nghiệm cho cả công tác tuyên truyền và tƣ vấn cho hội viên. Tuyên truyền qua sinh

hoạt các Câu lạc bộ phòng chống tệ nạn xã hội,câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu

lạc bộ pháp luật, phòng chống bạo lực gia đình.

Công tác tổ chức TGPL đến với các khu vực vùng nông thôn đã đi vào ổn

định, đa dạng về nội dung và hình thức nhƣng v n còn gặp nhiều khó khăn và thách

thức vì lí do về khả năng nhận thức, trình độ và sự hiểu biết pháp luật của nhân dân.

Một số địa phƣơng, việc củng cố kiện toàn mạng lƣới tổ chức thực hiện trợ giúp

pháp lý, xây dựng đội ng trợ giúp viên pháp lý còn chậm so với tiến độ đề ra hoặc

lúng túng trong việc tổ chức thực hiện, thiếu nguồn cán bộ để bổ sung. Công tác

TGPL cho phụ nữ vùng nông thôn chƣa quán triệt đầy đủ các quan điểm chủ trƣơng

của Đảng và Nhà nƣớc d n đến việc nhiều phụ nữ ở vùng nông thôn chƣa biết đến

hoạt động TGPL hoặc chƣa hiểu biết đầy đủ mục đích, ý nghĩa của hoạt động

TGPL, do đó việc tiếp cận TGPL đến với phụ nữ còn nhiều khó khăn.

Ở các vùng nông thôn vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số, khi tiến hành

TGPL cho ngƣời dân, đội ng TGPL chƣa đi sâu sát về tình hình thực tế, họ gặp

hạn chế trong giao tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số, còn nhiều lúng túng và đa số hỗ

trợ TGPL là cộng tác viên chứ không phải là luật sƣ. Đội ng ngƣời thực hiện trợ

giúp pháp lý của một số tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn trẻ, chƣa có nhiều

kinh nghiệm và kỹ năng làm việc với nhóm đối tƣợng phụ nữ có tâm lý nhạy cảm,

thiếu tự tin về trình độ văn hóa và tổn thƣơng về mặt tinh thần và thể xác nhƣ: nạn

nhân bạo lực gia đình, phụ nữ bị mua bán, bị nhi m HIV, bị khuyết tật…

Tuy hoạt động TGPL còn gặp nhiều khó khăn nhƣng để TGPL phát triển thì

cần phải có sự quan tâm, phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành trong việc chỉ

đạo, điều hành thực hiện các chính sách TGPL, tránh tình trạng thiếu ngƣời thực

hiện TGPL ở khu vực nông thôn các địa phƣơng thì chính quyền nên xây dựng thêm

mạng lƣới cộng tác viên cấp xã theo phƣơng hƣớng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu

trợ giúp pháp lý của đối tƣợng. Cần phải đổi mới chƣơng trình tập huấn, bồi dƣỡng

cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL (nên tập trung tập huấn các kỹ năng tƣ vấn pháp

36

luật) tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm sau khi thực hiện vụ việc TGPL cho đối

tƣợng phụ nữ nông thôn, để t đó có thể nắm bắt đƣợc tâm lý, những tâm tƣ tình

cảm và những khó khăn hiện nay mà ngƣời phụ nữ nông thôn gặp phải. Dựa trên cơ

sở đó, chủ thể ngƣời trực tiếp thực hiện TGPL sẽ đƣa ra những lời khuyên, hƣớng đi

đúng đắn để phụ nữ nông thôn thêm tin tƣởng vào chính quyền, tạo dựng niềm tin

vào chính sách, hƣớng đi của Đảng và Nhà nƣớc.

1.4. Các điều kiện để đảm bảo cho hoạt động TGPL

1.4.1. Điều kiện về nguyên tắc hoạt động TGPL

TGPL là một chính sách bảo đảm quyền con ngƣời, sự ra đời của Luật TGPL

năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác TGPL

nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ

cơ bản của công dân nói chung. TGPL là một yếu tố quan trọng trong hệ thống tƣ

pháp, là trách nhiệm của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công

dân cho đối tƣợng đƣợc TGPL.

Hoạt động TGPL mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, khi mà đối tƣợng

đƣợc trợ giúp pháp lý không phải chi trả bất cứ một khoản kinh phí nào t việc thụ

hƣởng các giá trị mà dịch vụ pháp lý mang lại. Đƣợc xác định là một loại hình nghề

nghiệp đặc biệt với những chuẩn mực, yêu cầu nhất định nhằm đảm bảo quyền bình

đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ pháp lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của

đối tƣợng đƣợc TGPL, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành

pháp luật, phòng ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Những chuẩn mực

về hành vi, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp và

những yêu cầu đối với tổ chức thực hiện TGPL, với ngƣời thực hiện TGPL phải

tuân theo đƣợc gọi là quy tắc nghề nghiệp TGPL.

Luật TGPL năm 2017 có quy định về việc các tổ chức, cá nhân để đƣợc cung

cấp dịch vụ TGPL cần phải đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo

đảm chất lƣợng dịch vụ họ cung cấp. Có thể nói, với những quy định chặt chẽ ngay

t khi xác định các tổ chức, cá nhân có quyền cung cấp dịch vụ TGPL, Nhà nƣớc đã

thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lƣợng đến

với nhân dân, t đó nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL trong cả nƣớc.

37

1.4.2. Điều kiện về tài chính

Để hoạt động TGPL đến với các đối tƣợng chính sách nói chung và phụ nữ

nông thôn nói riêng di n ra thuận lợi, đòi hỏi Nhà nƣớc ta phải đảm bảo và quản lý

tốt về nguồn tài chính. Theo quyết định số 35/QĐ-CTGPL ngày 20 tháng 9 năm

2018 của Cục trƣởng Cục TGPL, Quyết định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

của các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc thuộc Cục TGPL, chức năng,

nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng tài chính và quản lý chất lƣợng TGPL.

Theo quyết định số 35/ QĐ-CTGPL 20/09/2018 của Cục trƣởng Cục TGPL

quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Chính sách và Quản lý

nghiệp vụ trợ giúp pháp lý nhƣ sau:

Phòng Tài chính và Quản lý chất lƣợng trợ giúp pháp lý có chức năng tham

mƣu, giúp Cục trƣởng trong công tác quản lý nhà nƣớc và quản lý chuyên ngành về

chất lƣợng trợ giúp pháp lý và hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý; tổ chức thẩm định,

hỗ trợ kinh phí vụ việc trợ giúp pháp lý cho các địa phƣơng; hƣớng d n, theo dõi

tổng hợp dự toán, lập phƣơng án phân bổ kinh phí, kiểm tra việc thực hiện tài chính

của các địa phƣơng nhận hỗ trợ và giúp Cục trƣởng trong công tác quản lý, thực

hiện công tác tài chính, kế toán đối với các hoạt động của Cục [7].

Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 thì: “Trợ giúp pháp lý là

trách nhiệm của Nhà nƣớc” [21].

Do đó, Nhà nƣớc quy định cụ thể nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp

lý rất cụ thể trong Điều 5 Luật TGPL nhƣ sau:

1) Nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý bao gồm nguồn ngân

sách nhà nƣớc; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nƣớc, ngoài

nƣớc và các nguồn hợp pháp khác.

2) Kinh phí ngân sách nhà nƣớc đƣợc bố trí trong dự toán ngân sách nhà

nƣớc hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nƣớc về trợ giúp pháp

lý theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nƣớc. Đối với địa

phƣơng chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách, ƣu tiên bố trí ngân sách t số bổ

sung cân đối ngân sách hằng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc trợ

giúp pháp lý phức tạp, điển hình.

38

3) Kinh phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý của tổ chức tự nguyện thực

hiện do tổ chức đó tự bảo đảm [21].

1.4.3. Điều kiện về con người, năng lực, kỹ năng của chủ thể TGPL

Theo Luật TGPL năm 2017, điều kiện về ngƣời TGPL đƣợc quy định.

Những ngƣời thực hiện TGPL theo khoản 1 điều 17 Luật TGPL bao gồm:

a) Trợ giúp viên pháp lý; b) Luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp

đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc; luật sƣ thực hiện trợ giúp

pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; c) Tƣ vấn

viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên làm việc tại

tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; d) Cộng tác viên trợ giúp pháp lý [21].

Điều kiện năng lực của chủ thể TGPL:

+ Trợ giúp viên pháp lý: Trong đó Luật quy định Trợ giúp viên pháp lý phải

trải qua tập sự nghề trợ giúp pháp lý trong thời gian là 12 tháng để đảm bảo thời

gian thực hành, vận dụng kiến thức, giúp hoàn thiện những kỹ năng nghề nghiệp,

đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng để tự tin cung cấp dịch vụ pháp lý khi đƣợc bổ

nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.

+ Luật sƣ thực hiện TGPL: Đáp ứng yêu cầu theo pháp luật về luật sƣ nhƣ:

đã tốt nghiệp lớp đào tạo luật sƣ, tập sự hành nghề luật sƣ, đăng ký tại đoàn luật sƣ

địa phƣơng; phải đáp ứng các điều kiện theo Luật TGPL nhƣ: không đang trong

thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, không bị truy cứu trách

nhiệm hình sự; Phải đƣợc Trung tâm TGPL lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL

+ Tƣ vấn viên pháp luật: Có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên

làm việc tại các tổ chức tham gia TGPL (các tổ chức đáp ứng đƣợc các điều kiện tối

thiểu theo quy định của Luật TGPL năm 2017).

+ Cộng tác viên TGPL: chỉ có ở một số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

đặc biệt khó khăn; chỉ một số đối tƣợng có thể trở thành Cộng tác viên TGPL, ví dụ:

thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, TGVPL đã về hƣu.

Điều kiện về kỹ năng của chủ thể thực hiện TGPL:

Trong quá trình tiến hành TGPL, yêu cầu chủ thể thực hiện TGPL cần bám

39

sát yêu cầu TGPL, tuân thủ các nguyên tắc hoạt động và sử dụng các biện pháp hợp

pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của ngƣời đƣợc TGPL và ngƣời thực hiện

TGPL đƣợc bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhi u

hoặc can thiệp trái pháp luật là một trong những nguyên tắc hoạt động TGPL; quy

định trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện cho ngƣời

thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng và việc tổ chức lấy

ý kiến của ngƣời đƣợc TGPL hoặc ngƣời thân thích về thái độ, trách nhiệm, chuyên

môn của ngƣời thực hiện TGPL và mức độ hài lòng vụ việc TGPL.

Để nâng cao chất lƣợng đội ng Trợ giúp viên pháp lý nhằm cung cấp dịch vụ

TGPL có chất lƣợng, đội ng này phải tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức,

kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL tối thiểu 08 giờ/năm theo Điểm b

khoản 2 Điều 18 Luật TGPL 2017 và khoản 1 Điều 4 Thông tƣ số 12/2018/TT-BTP [5].

Trƣờng hợp, nếu trợ giúp viên pháp lý bị mi n nhiệm và thu hồi thẻ khi

không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục, tr trƣờng

hợp do nguyên nhân khách quan (điểm d khoản 1 Điều 22 Luật TGPL 2017). Ngoài

ra, Luật tiếp tục ghi nhận sự tham gia của đội ng luật sƣ, tƣ vấn viên pháp luật

đang hoạt động có hiệu quả và chọn lọc những ngƣời có kiến thức pháp luật, kinh

nghiệm thực ti n và bảo đảm về mặt thời gian tham gia TGPL để làm cộng tác viên

TGPL. Bên cạnh đó, Cục Trợ giúp pháp lý đều tổ chức các lớp tập huấn (t 06 - 09

lớp/năm) nhằm trang bị cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL nói chung các kiến thức

chuyên sâu về Luật TGPL c ng nhƣ kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình

sự, dân sự, hành chính và kỹ năng thực hiện TGPL cho một số đối tƣợng đặc thù

nhƣ ngƣời khuyết tật, trẻ em, phụ nữ các vùng nông thôn đặc biệt. Ngoài ra, Học

viện Tƣ pháp hàng năm đều thực hiện rà soát nhu cầu để tổ chức lớp bồi dƣỡng Trợ

giúp viên pháp lý để bảo đảm cho các Trợ giúp viên pháp lý đủ điều kiện tiêu chuẩn

về đạo đức nghề nghiệp để thi nâng hạng lên Trợ giúp viên pháp lý chính theo quy

định tại Thông tƣ liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016 của Bộ

trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh

nghề nghiệp viên chức Trợ giúp viên pháp lý [2].

40

Ở địa phƣơng, Sở Tƣ pháp và Trung tâm TGPL nhà nƣớc đều tổ chức các

lớp tập huấn nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện

TGPL cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL.Công tác quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng

vụ việc TGPL đƣợc quan tâm và đƣợc chú trọng hơn trƣớc. Hàng năm Cục TGPL,

các Trung tâm đều tổ chức việc kiểm tra, đánh giá đối với các hồ sơ, sổ sách thụ lý

vụ việc TGPL để kịp thời ghi nhận, nhân rộng những điển hình; phát hiện và khắc

phục đối với những sai sót, vƣớng mắc, bất cập liên quan đến chất lƣợng vụ việc

TGPL để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về TGPL, đặc biệt

là chất lƣợng vụ việc TGPL và công tác đánh giá chất lƣợng vụ việc TGPL.

Để Tƣ vấn pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn có

hiệu quả, theo tác giả luận văn, Ngƣời thực hiện tƣ vấn và trợ giúp pháp lý cần

phải: Thực sự yêu thƣơng và cảm thông với hoàn cảnh của ngƣời phụ nữ nông

thôn vì họ luôn phải đối mặt những khó khăn trong cuộc sống, t điều kiện kinh tế

cho đến kiến thức văn hóa còn nhiều hạn chế, d sinh ra mặc cảm và thiếu tự tin

khi giao tiếp và không có kỹ năng trong việc giải quyết tình huống phát sinh trong

cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, Ngƣời thực hiện TGPL cần phải có kỹ năng

thu thập thông tin một cách chính xác, xử lý thông tin kịp thời, nắm vững và cập

nhật những văn bản mới quy định của pháp luật thể hiện xu hƣớng đa dạng hóa

chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, có tính kế th a Luật hiện hành, đặc biệt là đã

bảo đảm nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL. Qua đó sẽ tạo sự tin tƣởng t ngƣời

đƣợc TGPL đối với ngƣời thực hiện TGPL và góp phần nâng cao đƣợc vị trí, vai

trò của công tác TGPL trong xã hội.

1.4.4. Điều kiện về cơ sở trang thiết bị vật chất

Theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm

2017 của Chính phủ quy định nhƣ sau:

Căn cứ vào khối lƣợng công việc, tính chất, đặc điểm hoạt động chuyên

môn nghiệp vụ, yêu cầu của công tác trợ giúp pháp lý tại địa phƣơng và

theo đề xuất của Giám đốc Sở Tƣ pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh quyết định số lƣợng ngƣời làm việc của Trung tâm và bảo đảm kinh

41

phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện làm việc thích hợp cho Trung tâm tiếp tục xây dựng, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế

Trung tâm theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, phù hợp với

yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng [6].

Tuy nhiên, kinh phí và cơ sở vật chất, phƣơng tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt

động Phổ biến giáo dục pháp luật và TGPL đến với phụ nữ nông thôn còn thiếu so

với yêu cầu nhiệm vụ không đáp ứng đƣợc yêu cầu để đạt đƣợc mục tiêu đó đặt ra.

Do đó, việc triển khai hoạt động TGPL cho đối tƣợng là phụ nữ nông thôn chƣa sâu

rộng, toàn diện, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu tìm hiểu pháp luật của hội viên phụ nữ

nông thôn và phụ nữ dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất tại các Trung tâm trợ giúp

pháp lý, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý chƣa đầy đủ chƣa bố trí đƣợc phòng

tiếp phụ nữ riêng nên nhiều phụ nữ không dám đến Trung tâm vì e sợ nhiều ngƣời

biết chuyện gia đình họ nên thực tế nhiều đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp luật theo

Luật c ng chƣa đƣợc sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.

Các trung tâm trụ sở của TGPL ở các vùng nông thôn chƣa đƣợc đầu tƣ xây

dựng lại, đa số đều là nhà cấp 4 với diện tích nhỏ, không rộng rãi ảnh, việc kết nối

mạng với các trang thông tin của Chính phủ còn chậm do chƣa đƣợc đầu tƣ nhiều

về trang thiết bị máy tính, máy ảnh và máy chiếu. Ở một số huyện, thị trấn vùng sâu

vùng xa việc kết nối phủ sóng mạng không dây gặp nhiều khó khăn, trợ giúp viên

pháp lý phải mất rất nhiều thời gian cập nhật các thông tin mới không phải t báo

điện tử liên quan đến TGPL mà bằng hình thức nhận công văn t cấp Trung ƣơng

báo về. Nhƣ vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý về tổ chức và

hoạt động trợ giúp pháp lý chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Điều kiện đi lại của Trợ

giúp viên pháp lý còn gặp nhiều khó khăn, khi cần phải đi hỗ trợ TGPL ở các vùng

bản sâu xa phần lớn trợ giúp viên pháp lý đều phải tự túc phƣơng tiện, đƣờng sá đi

lại không thông thuận rất khó cho việc di chuyển nếu vào mùa mƣa bão, l lụt gặp

nhiều khó khăn và nguy hiểm. Do cơ sở vật chất thiếu kém và không có trang thiết

bị dự phòng, khi xảy ra thiên tai thì khu vực đó gần nhƣ bị tê liệt, không thể kết nối

ra bên ngoài gây tâm lý đến trợ giúp viên pháp lý, ảnh hƣởng lớn đến tinh thần và

42

sức khỏe của họ. Khu nhà ở của trung tâm TGPL chƣa đƣợc đầu tƣ kỹ về cơ sở vật

chất hạ tầng, còn sơ sài, thiếu thốn. Các trung tâm trụ sở TGPL vùng nông thôn hầu

nhƣ không có xe chuyên dụng để phục vụ cho hoạt động TGPL lƣu động, phục vụ

vận chuyển tài liệu xuống các cấp cơ sở.

1.4.5. Các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với đối tượng được TGPL và

chủ thể TGPL

Để hoạt động TGPL đạt hiệu quả tốt và có tính lan rộng mạnh, theo tác giả

luận văn: Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam,

Đài Truyền hình Việt Nam cần ban hành một văn bản liên tịch quy định cơ chế

phối hợp về truyền thông trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý để hoạt động này đƣợc

thƣờng xuyên, liên tục và hiệu quả hơn; tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt

động trợ giúp pháp lý.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông pháp luật về trợ giúp

pháp lý đến với phụ nữ nông thôn và các cơ quan, ban, ngành nhất là ở vùng sâu,

vùng xa, biên giới, hải đảo. Nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy, chính quyền

các địa phƣơng về công tác trợ giúp pháp lý, Sở Tƣ pháp phối hợp với các cơ quan

truyền thanh, truyền hình tỉnh tăng cƣờng tuyên truyền về công tác trợ giúp pháp và

hoạt động trợ giúp pháp lý. Hiện nay, trang thông tin điện tử của Cục TGPL đã

đƣợc nâng cấp với một phiên bản mới, đây là kênh thông tin phong phú, đa dạng về

tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phản ánh tƣơng đối đầy đủ các hoạt động trợ

giúp pháp lý trong toàn quốc, là di n đàn trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng trợ giúp

pháp lý của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, phổ biến chính sách trợ giúp pháp lý

của Nhà nƣớc đến đông đảo ngƣời dân. Công tác truyền thông cần phải đƣa các

thông tin chính xác và cập nhật kịp thời để tăng sự tin tƣởng cho chị em phụ nữ

nông thôn đối với các cấp chính quyền. Nội dung truyền thông nên đa dạng, phong

phú về trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của t ng địa phƣơng, vùng miền

c ng nhƣ trình độ dân trí để thu hút đƣợc sự quan tâm, chú ý của mọi ngƣời dân.

PSG.TS Nguy n Đăng Dung và PGS.TS Nguy n Hoàng Anh nhận định rõ:

“Thời đại hiện nay không có chỗ nào không thể ứng dụng công nghệ thông tin.

43

Chính công nghệ thông tin đã giúp cho con ngƣời nhiều thủ tục phiền hà trƣớc đây

do con ngƣời đảm nhiệm” [8, tr.204-211].

Ở địa phƣơng, các Sở Tƣ pháp cần thực hiện phối hợp với Báo, Đài của tỉnh

thƣờng xuyên có các chuyên mục về trợ giúp pháp lý nhƣ: “Pháp luật và đời sống”.

Đài Phát thanh và truyền hình các huyện, thị xã và địa phƣơng cần có mục “Trả lời

thƣ bạn nghe đài”, “Hộp thƣ truyền hình”, c ng nhƣ các phóng sự, phim tài liệu về

hoạt động trợ giúp pháp lý, tin tức về các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động

Bên cạnh đó, Chủ tịch ủy ban nhân dân phối hợp với các Chi hội Phụ nữ ở

các thôn xây dựng “Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý” (với các nội dung nhƣ:

ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý; quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý;

thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý; địa chỉ, điện thoại liên hệ của Trung tâm, Chi

nhánh) đƣợc dán niêm yết công khai tại Nhà văn hóa của thôn, xóm; các trụ sở tiếp

công dân tại cấp chính quyền địa phƣơng và tổ chức thực hiện TGPL để mọi ngƣời

dân d dàng tiếp cận biết đƣợc trình tự thủ tục TGPL.

Với vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ

nông thôn. Chủ tịch Hội phụ nữ xã phối hợp với các chi Hội trƣởng Hội phụ nữ

thôn thƣờng xuyên tổ chức các chƣơng trình Câu lạc bộ về TGPL, động viên và

khuyến khích các chị em phụ nữ trong vùng tham gia, nhằm nâng cao nhận thức,

kiến thức pháp luật cho phụ nữ và cộng đồng.

Tiếp tục tăng cƣờng công tác phối hợp giữa cấp uỷ Đảng với các ban, ngành,

đoàn thể thực hiện có hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật

đến với phụ nữ nông thôn, phổ biến các văn bản pháp luật mới, các văn bản pháp

luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ, các văn bản quy phạm pháp luật

phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc, các văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh

vực quản lý nhà nƣớc và đối tƣợng là phụ nữ theo nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi

bên. Thƣờng xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trên địa bàn các tỉnh

vùng nông thôn. Tổ chức các buổi tuyên truyền pháp luật cho hội viên phụ nữ các

cấp, chú trọng tuyên truyền cho phụ nữ các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu

số nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật của phụ nữ về quyền và lợi ích chính

đáng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

44

Nhà nƣớc và Sở tƣ pháp cần Xây dựng và củng cố, nâng cao trình độ, kỹ

năng tuyên truyền của đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp Hội; tổ

chức các đợt hội nghị tập huấn, bồi dƣỡng kiến thức pháp luật theo 6 tháng/ lần.

Đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

cho phụ nữ. Biên soạn, phát hành tài liệu sách hỏi - đáp, tờ gấp pháp luật, qua đó,

giúp cho phụ nữ nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Chỉ đạo Hội phụ nữ các cấp

cơ sở phối hợp với ủy Ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp giới thiệu cán bộ Hội đủ tiêu

chuẩn tham gia hòa giải viên tại các tổ hòa giải, đảm bảo cơ cấu nữ hòa giải viên

trong tổ hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở. Tổ chức bồi dƣỡng, tập

huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật, cung cấp tài

liệu pháp luật cho đội ng hòa giải viên ở cơ sở.

Cùng phối hợp chỉ đạo, hƣớng d n thực hiện các hoạt động tƣ vấn pháp luật,

trợ giúp pháp lý cho phụ nữ theo quy định. Chú trọng tập trung xây dựng mạng lƣới

tƣ vấn viên pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sƣ

thực hiện trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho đối tƣợng phụ nữ vùng nông thôn bị

yếu thế, gặp khó khăn về kinh tế, chất lƣợng cuộc sống không ổn định. Phối hợp

liên kết hoạt động giữa Trung tâm tƣ vấn pháp luật và Hỗ trợ kết hôn của Hội

LHPN ở các vùng nông thôn với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và các Văn

phòng chi nhánh trợ giúp pháp lý trên địa bàn các tỉnh, huyện, xã tổ chức trợ giúp

pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn

Thực hiện lập bảng khảo sát nhu cầu, mong muốn đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ pháp

lý của các đối tƣợng phụ nữ; Tổ chức phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý lƣu

động cho phụ nữ tại các cơ sở có nhu cầu, các địa bàn có nhiều khó khăn, phức

tạp, các điểm nóng, tuyên truyền vận động phụ nữ thực hiện các quy định của

pháp luật về giải quyết đơn thƣ, phản ánh, tránh tình trạng gửi đơn thƣ vƣợt cấp,

khiếu kiện đông ngƣời. Giới thiệu phụ nữ là đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý đến

tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để đƣợc trợ giúp theo quy định của pháp luật;

phối hợp tạo điều kiện tiếp cận thông tin, tài liệu liên quan đến việc trợ giúp pháp

lý để thực hiện trợ giúp pháp lý.

45

Cần tập trung đầu tƣ vào cơ sở chật chất trang thiết bị nhƣ: xe lƣu động, máy

ảnh, máy tính và máy chiếu để TGPL đƣợc tiến hành một cách có hiệu quá. đồng

thời để trung tâm nâng cao chất lƣợng dịch vụ, cần phải tăng thu nhập cho cán bộ,

viên chức tham gia trợ giúp pháp lý. Nhà nƣớc và Sở tƣ pháp cần tạo lập các cơ chế

để thu hút nhiều hơn sự tham gia của các tổ chức, cá nhân có kiến thức về pháp luật

trong xã hội đăng ký tham gia hỗ trợ TGPL, san sẻ trách nhiệm của nhà nƣớc với xã

hội. Một mặt v a tận dụng đƣợc trí tuệ, trình độ vào nguồn lực trong xã hội; mặt

khác, góp phần giảm gánh nặng cho nhà nƣớc về tổ chức biên chế, ngân sách đào

tạo, bồi dƣỡng văn hóa cán bộ và chi phí hành chính

1.5. Một số mô hình TGPL trên Thế giới hiện nay liên quan đến đối

tƣợng là phụ nữ và phụ nữ nông thôn

Trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động phúc lợi xã hội đƣợc khởi nguồn t

nƣớc Anh và đã có lịch sử hơn 500 năm. T thế kỷ 15, pháp luật Anh quốc đã

quy định: “cần dành cho ngƣời nghèo khổ sự giúp đỡ để họ đƣợc hƣởng quyền

lợi mà pháp luật ban cho. Năm 1495, vua Henry VII trong một nghị án đã có quy

định cụ thể hơn về vấn đề này: chính nghĩa cần đƣợc dành chung cho ngƣời

nghèo và những ngƣời thực hiện quyền tự do họ đƣợc hƣởng - điều đó không có

gì thay thế đƣợc” [33].

Nhìn chung, trên thế giới hiện nay có 3 mô hình TGPL chủ yếu, đó là: mô

hình luật sƣ công (mô hình do Nhà nƣớc thực hiện hoàn toàn), mô hình TGPL do luật

sƣ và tổ chức xã hội thực hiện hoàn toàn, mô hình hỗn hợp (TGPL do Nhà nƣớc

thành lập tổ chức thực hiện và thu hút luật sƣ, các tổ chức xã hội tham gia). Tuy

nhiên, xu hƣớng phổ biến nhất hiện nay là hệ thống TGPL theo mô hình hỗn hợp.

a. Mô hình luật sư công (do Nhà nước thực hiện hoàn toàn)

Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện toàn bộ các vụ việc TGPL bằng cách thành lập

ra hệ thống của mình, tuyển dụng đội ng ngƣời thực hiện TGPL và cấp kinh phí

cho hệ thống hoạt động. Qua nghiên cứu mô hình TGPL của các nƣớc thì thấy rằng,

không có nhiều nƣớc áp dụng mô hình này.

Hiện nay, có Philippines và Argentina là nƣớc theo mô hình này và có các ƣu

46

điểm nhƣ sau: Nhà nƣớc hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng và thống nhất tổ

chức thực hiện chƣơng trình, kế hoạch TGPL của mình trong phạm vi toàn quốc; Tổ

chức và ngƣời thực hiện TGPL chủ động, không bị phụ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ

trong việc thực hiện vụ việc; có điều kiện tập trung đào tạo, nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ trong tất cả các lĩnh vực TGPL, kể cả những lĩnh vực không

có luật sƣ tƣ tham gia; Nhà nƣớc chủ động và thống nhất quản lý công tác TGPL;

chủ động giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lƣợng vụ việc TGPL thông qua hệ thống

các cơ quan và ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc.

Tại Philippines, Nhà nƣớc có hệ thống cơ quan chuyên thực hiện TGPL mà

không huy động các lực lƣợng xã hội tham gia vào hoạt động này. Tổ chức TGPL

của Nhà nƣớc gồm Văn phòng Luật sƣ công (PAO), 18 Văn phòng khu vực, 288

Văn phòng cấp quận và 5 Văn phòng cấp dƣới trực thuộc. PAO có 1.652 luật sƣ

công và 1.023 nhân viên hỗ trợ. PAO là một cơ quan TGPL độc lập của Nhà nƣớc

phụ thuộc Bộ Tƣ pháp trong việc xây dựng chính sách và điều phối các chƣơng

trình TGPL. PAO có chức năng quản lý, điều hành hoạt động của các Văn phòng

khu vực, Văn phòng cấp quận và Văn phòng cấp dƣới trực thuộc, đồng thời trực

tiếp thực hiện vụ việc TGPL trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính. Giám đốc

PAO do Tổng thống bổ nhiệm [4].

Tại Argentina, hệ thống TGPL nhà nƣớc là Văn phòng Luật sƣ bào chữa

công liên bang thuộc Bộ Xã hội. Văn phòng luật sƣ công liên bang bao gồm: Văn

phòng luật sƣ công trung ƣơng (giám sát, điều hành và quản lý những dịch vụ bào

chữa, đảm bảo việc thực hiện TGPL hiệu quả và thiết lập, thực hiện các chính sách

công); Văn phòng Luật sƣ công tại thành phố tự trị Buenos Aires, các Văn phòng

Luật sƣ công cấp tỉnh và các Phòng Luật sƣ tranh tụng trực tại Tòa án trực tiếp thực

hiện TGPL trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính. Đến tháng 12/2013, Văn

phòng Luật sƣ công liên bang có 2.125 nhân viên, bao gồm 590 Luật sƣ bào chữa

công và các cán bộ cấp cao, còn lại là 1.535 nhân viên hỗ trợ pháp lý, nhân viên

hành chính kỹ thuật và nhân viên khối dịch vụ hỗ trợ [4].

Ƣu điểm của mô hình Luật sƣ công: Nhà nƣớc trực tiếp chỉ đạo thực hiện,

47

chủ động tổ chức TGPL, không bị động và phụ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ, chi phí

thực hiện vụ việc sẽ tiết kiệm hơn so với việc thuê luật sƣ tƣ.

Tuy nhiên mô hình này có nhƣợc điểm: Do chỉ có hệ thống TGPL của Nhà

nƣớc nên ngƣời đƣợc TGPL chỉ đƣợc lựa chọn ngƣời thực hiện TGPL là ngƣời do

Nhà nƣớc tuyển dụng, không thể lựa chọn luật sƣ tƣ; Trong trƣờng hợp nhu cầu

TGPL của ngƣời dân lớn gây ra sự quá tải, tạo áp lực cho ngƣời thực hiện TGPL của

Nhà nƣớc; Một số trƣờng hợp khó bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình

xử lý vụ việc do mối quan hệ giữa cơ quan TGPL của Nhà nƣớc và các cơ quan tố

tụng trong cùng hệ thống bộ máy của Nhà nƣớc; Nguồn nhân lực và tài chính cho

TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào Chính phủ, nên có thể gây áp lực cho ngân sách nhà

nƣớc nhất là khi phải đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng tăng của xã hội.

b. Mô hình luật sư tư

Cơ quan nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về TGPL, xây

dựng kế hoạch, chính sách, xem xét điều kiện TGPL, giao vụ việc cho luật sƣ và các

tổ chức xã hội thực hiện, nghiệm thu vụ việc và thanh toán thù lao cho ngƣời thực

hiện TGPL. Nhà nƣớc trả lƣơng cho luật sƣ tƣ theo tháng mà không trả theo. vụ

việc Qua nghiên cứu thì thấy rằng rất ít nƣớc tổ chức hệ thống TGPL theo mô hình

này nhƣ Indonesia, Hungary, Ý, Tây Ban Nha, ví dụ thực ti n mô hình này:

Ƣu điểm của mô hình: Lực lƣợng Luật sƣ có trình độ cao, am hiểu kiến thức

pháp luật, nắm bắt mạnh các điều luật. Họ thực hiện và quản lý rất tốt về hoạt động

TGPL, về các chi phí thực hiện TGPL. Nhà nƣớc không cần thành lập hệ thống các

cơ quan TGPL nên Nhà nƣớc không cần đầu tƣ về trụ sở, trang thiết bị; không phải

tuyển dụng, đào tạo và quản lý đội ng cán bộ và không phải trả lƣơng, các chi phí

hành chính cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc, giúp tinh giản biên

chế và bộ máy Nhà nƣớc sẽ gọn gàng, bớt cồng kềnh hơn.

Nhƣợc điểm của mô hình: Việc thực hiện TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào

đội ng luật sƣ tƣ, do đó, Nhà nƣớc không chủ động trong việc cử luật sƣ thực

hiện TGPL; Vì đội ng Luật sƣ có trình độ cao, am hiểu Pháp luật nên chi phí

đầu tƣ thực hiện vụ việc TGPL của luật sƣ tƣ cao; Nếu mức thù lao không phù

48

hợp với công sức của Luật sƣ bỏ ra khi thực hiện TGPL, thì Luật sƣ rất d t

chối thực hiện TGPL.

Mô hình luật sƣ tƣ ngày nay v n đƣợc các Quốc Gia trên thế giới áp dụng.

Có một số nƣớc đã t ng áp dụng mô hình Luật sƣ tƣ nhƣng nay đã chuyển đổi sang

mô hình hỗn hợp. Ví dụ, trƣớc năm 2006 tại Nhật Bản, hoạt động TGPL giao hoàn

toàn cho Liên đoàn luật sƣ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Liên

đoàn luật sƣ đã không đáp ứng đủ nhu cầu TGPL của ngƣời dân, đặc biệt là vùng

sâu, vùng xa vì phụ thuộc nhiều về yếu tố kinh phí và cơ sở vật chất, phƣơng tiện.

Do đó, Nhà nƣớc đã thành lập hệ thống TGPL của Nhà nƣớc và ký hợp đồng với

luật sƣ tƣ để thực hiện một số vụ việc. Tại Nam Phi, t năm 1969 công việc TGPL

đƣợc giao cho luật sƣ; sau một thời gian thực hiện thấy rằng cơ quan nhà nƣớc

không thể kiểm soát yêu cầu chi phí thực hiện TGPL của luật sƣ tƣ c ng nhƣ chất

lƣợng dịch vụ pháp lý cung cấp cho ngƣời đƣợc TGPL. Nhiều luật sƣ kê khống thời

gian thực hiện TGPL và yêu cầu Nhà nƣớc trả tiền. Do đó, Nam Phi đã nghiên cứu

xây dựng thí điểm mô hình tổ chức TGPL của Nhà nƣớc, tuyển dụng các luật sƣ

làm việc thƣờng xuyên tại tổ chức và trả lƣơng hàng tháng, bên cạnh đó Nhà nƣớc

c ng có cơ chế huy động luật sƣ tƣ thực hiện TGPL thông qua ký hợp đồng vụ việc.

c. Mô hình hỗn hợp

Theo mô hình này, các nƣớc thành lập hệ thống TGPL của Nhà nƣớc, ký hợp

đồng với các tổ chức xã hội hoặc luật sƣ tham gia thực hiện TGPL và trả thù lao cho

luật sƣ, tổ chức xã hội. Mô hình này là sự kết hợp của 02 mô hình trên, nên có thể

phát huy đƣợc hiệu quả, ƣu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế của 02 mô

hình trên. Hiện nay, rất nhiều nƣớc áp dụng mô hình này (Nhật Bản, Ailen, bang

Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada),

Malaysia, Israel, Indonesia, Hungary, Thụy Điển…). Cụ thể mô hình tổ chức TGPL

một số nƣớc nhƣ sau:

Nhật Bản

Hệ thống cơ quan TGPL của Nhà nƣớc: Tổ chức TGPL của Nhà nƣớc ở

Nhật Bản đƣợc tổ chức theo ngành dọc. Cơ quan TGPL Nhật Bản là cơ quan quản

49

lý về TGPL ở Trung ƣơng điều phối nhân sự, kinh phí, thanh tra, kiểm tra hoạt động

TGPL các tổ chức trực tiếp thực hiện TGPL. Cơ quan TGPL thành lập các tổ chức

trực tiếp thực hiện TGPL là 50 Trung tâm TGPL, 11 Chi nhánh, Tiểu Chi nhánh, 37

Văn phòng luật trên cả nƣớc.

Tham gia TGPL của luật sƣ: luật sƣ tƣ nếu có đủ điều kiện và có nguyện

vọng thực hiện TGPL thì gửi đơn đề nghị đến các Trung tâm TGPL, Chi nhánh,

Tiểu chi nhánh. Giám đốc các Trung tâm TGPL, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh sẽ xem

xét nếu thấy luật sƣ không thuộc các trƣờng hợp đang bị đình chỉ hành nghề theo

Điều lệ Liên đoàn Luật sƣ, chƣa t ng bị hủy hợp đồng và đáp ứng các yêu cầu

TGPL thì sẽ ký kết hợp đồng. Hiện có khoảng 22.000 luật sƣ tƣ ký hợp đồng để

thực hiện TGPL. Các luật sƣ tƣ đƣợc nhận thù lao khi vụ việc kết thúc.

Ailen

TGPL của Nhà nƣớc: Hội đồng TGPL là một cơ quan độc lập. Hội đồng gồm

có Chủ tịch Hội đồng và 12 thành viên do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bình đẳng bổ

nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng TGPL có một số nhiệm vụ chính là: chỉ đạo

chiến lƣợc TGPL; phê duyệt và giám sát việc sử dụng kinh phí; quyết định các vấn

đề cụ thể khác. Hội đồng TGPL ký hợp đồng và chi trả thù lao cho luật sƣ. Hội

đồng thành lập 33 Trung tâm TGPL tại các địa phƣơng làm việc toàn thời gian và

12 Trung tâm TGPL bán thời gian trực tiếp thực hiện TGPL.

Tham gia TGPL của luật sƣ: Các luật sƣ tƣ thực hiện TGPL trên cơ sở hợp

đồng ký với Hội đồng TGPL.

Nam Phi

Tổ chức TGPL của Nhà nƣớc ở Nam Phi có Cơ quan TGPL ở Trung ƣơng,

06 Văn phòng khu vực trực thuộc giúp Cơ quan TGPL quản lý và 64 Trung tâm

TGPL. Các Trung tâm này có chức năng trực tiếp thực hiện TGPL và báo cáo hoạt

động cho Văn phòng khu vực phụ trách. Các Văn phòng vệ tinh là đơn vị phụ thuộc

của các Trung tâm, có chức năng trực tiếp thực hiện TGPL.

Bên cạnh hệ thống TGPL của Nhà nƣớc, Cơ quan TGPL thu hút các luật sƣ

tƣ tham gia thực hiện TGPL theo phƣơng thức ký hợp đồng thực hiện TGPL.

50

Bang Ontario (Canada)

TGPL nhà nƣớc: Cơ quan TGPL bang Ontario (Canada) là cơ quan có chức

năng quản lý, điều phối nguồn lực cho công tác TGPL. Cơ quan TGPL thành lập

các Văn phòng TGPL tại địa phƣơng trực tiếp thực hiện TGPL.

TGPL của xã hội: Cơ quan TGPL bang Ontario ký hợp đồng với một số tổ

chức xã hội nhƣ Trung tâm pháp luật cộng đồng để thực hiện TGPL theo yêu cầu

của Nhà nƣớc.

Đánh giá về mô hình hỗn hợp:

Đây là mô hình phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và c ng là mô hình đƣợc

đánh giá về mức độ quản lý chặt chẽ của Nhà nƣớc đối với hoạt động TGPL. Mô

hình này cho phép sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nƣớc và xã hội do

kết hợp và phát huy đƣợc các lợi thế của ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc và

các luật sƣ tƣ, các tổ chức xã hội. Do có đội ng ngƣời thực hiện TGPL của Nhà

nƣớc nên Nhà nƣớc bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL của ngƣời dân ở

những địa bàn khác nhau (ngay cả vùng sâu, vùng xa, nơi không có hoặc có rất ít

luật sƣ tƣ), không bị quá lệ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ; đồng thời, Nhà nƣớc có thể

chủ động điều phối các nguồn lực (kể cả nhân lực và kinh phí) ở mọi thời điểm, bảo

đảm cho công tác TGPL phát triển ổn định và hiệu quả, thông qua đó Nhà nƣớc

thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác công tác TGPL; Nhà nƣớc có thể

huy động đƣợc các nguồn lực khác nhau trong xã hội tham gia công tác TGPL, căn

cứ vào nhu cầu TGPL của ngƣời dân và nguồn kinh phí dành cho công tác TGPL.

Nhà nƣớc có thể lựa chọn và ký hợp đồng TGPL với các luật sƣ tƣ, tổ chức tham

gia TGPL và điều phối vụ việc TGPL trong những trƣờng hợp cần thiết; Đội ng

ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc hoạt động ổn định do họ đƣợc tuyển dụng,

đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chính sách phát triển của Nhà

nƣớc và đƣợc trả lƣơng theo quy định chung của Nhà nƣớc; Tạo môi trƣờng cạnh

tranh lành mạnh giữa ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc và luật sƣ tƣ nhằm nâng

cao chất lƣợng dịch vụ và giảm chi phí vụ việc. Vì vậy, ngƣời đƣợc TGPL có cơ hội

đƣợc hƣởng dịch vụ TGPL tốt hơn.

51

1.5.1. Chủ thể thực hiện TGPL

Chủ thể thực hiện TGPL ở các nƣớc trên thế giới hiện nay, về mặt pháp lý và

mô hình TGPL khác nhau mà chủ thể thực hiện TGPL sẽ có những đặc thù riêng

biệt, phụ thuộc vào các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa, sự phát triển của ngành

luật ở Quốc gia đó, đặc biệt là trách nhiệm và vai trò của Nhà nƣớc đối với hoạt

động TGPL.

Ở các Quốc gia, chủ thể thực hiện TGPL có thể đƣợc gọi với các chức danh sau:

Chức danh Luật sƣ công hoặc Luật sƣ Nhà nƣớc hoặc Luật sƣ TGPL (Anh,

Philippines, Hà Lan, Phần Lan, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Bang New South Wales

của Úc, Israel…): là công chức của Nhà nƣớc hoặc đƣợc Nhà nƣớc tuyển dụng vào

làm việc tại tổ chức TGPL, hƣởng chế độ lƣơng t ngân sách Nhà nƣớc và thực

hiện vụ việc theo sự phân công của lãnh đạo tổ chức TGPL

Chức danh Luật sƣ hành nghề tự do theo quy định pháp luật về Luật sự

(Thụy Điển, Singapore, Malaysia, Ailen, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức,

Hồng Kông…): là thành viên của Hiệp hội luật sự hoặc Đoàn Luật sự, tự nguyện

tham gia thực hiện TGPL theo yêu cầu Chính phủ, đƣợc Chính phủ trả thù lao.

Cán bộ Nhà nƣớc không phải là Luật sƣ nhƣng có trình độ pháp luật tƣơng

đƣơng luật sƣ (Bang Ontario của Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nam Phi…): là viên

chức của Nhà nƣớc, hƣởng chế độ lƣơng t ngân sách Nhà nƣớc, chủ yếu thực hiện tƣ

vấn pháp luật theo sự phân công của tổ chức, không đƣợc quyền tham gia tranh tụng,

chỉ thực hiện các vụ việc TGPL mang tính chất đơn giản và thủ tục hành chính.

Ngoài ra còn có sinh viên Luật đến t các trƣờng đại học, ngƣời làm việc

trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật (Hà Làn, Canada, Trung Quốc…), ngƣời

tự nguyện làm việc trong các tổ chức đoàn thể xã hội để thực hiện TGPL (Trung

Quốc; thành viên của tổ chức TGPL cộng đồng (Úc, Philippines, Hàn Quốc, Mỹ…)

và các công chứng viên (Nhật Bản).

1.5.2. Đối tượng được TGPL

Tùy thuộc vào sự phát triển, thực trạng đời sống của cộng đồng dân cƣ ở mỗi

Quốc gia sẽ có quy định khác nhau về điều kiện, tiêu chuẩn đối tƣợng đƣợc

52

TGPL.Nhìn chung, có thể khái quát các nhóm đối tƣợng cơ bản sau thuộc diện đƣợc

TGPL theo pháp luật TGPL của các nƣớc:

Thứ nhất, ngƣời đƣợc TGPL là những ngƣời nghèo, không có hoặc không

đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý. Đây là đối tƣợng đƣợc

TGPL phổ biến ở tất cả các nƣớc, thậm chí là đối tƣợng duy nhất đƣợc TGPL theo

pháp luật một số nƣớc nhƣ Indonesia, Hà Lan, Nam Phi, bang Victoria (Úc),

Campuchia, Nhật Bản (đối với TGPL trong lĩnh vực dân sự). Lý do là các nƣớc

trên thế giới đều có chủ thuyết TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, do đó Nhà

nƣớc có trách nhiệm bảo đảm công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho

những ngƣời nghèo không có khả năng thuê luật sƣ, không có khả năng tiếp cận

các dịch vụ pháp lý trong xã hội.

Thứ hai, đối tƣợng TGPL là những ngƣời yếu thế không có khả năng tự

bảo vệ cần đƣợc sự trợ giúp về pháp luật nhƣ: ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất

hoặc tâm thần, ngƣời khuyết tật, phụ nữ và trẻ em (ví dụ Ấn Độ, Australia,

Trung Quốc, Đài Loan, Lào, Litva, Mi-an-ma), ngƣời chƣa thành niên (ví dụ Ấn

Độ, Trung Quốc, Malaysia, Nam Phi, Lào, Thái Lan), nạn nhân của tội mua bán

ngƣời (ví dụ Ấn Độ), nạn nhân bạo lực gia đình (ví dụ Tây Ban Nha), ngƣời già

(ví dụ Mi-an-ma, Croatia).

Ngày 12/6/2017 Ấn Độ có triển khai chƣơng trình TGPL mi n phí trên kênh

truyền hình nông thôn, đây là một bƣớc tiến quan trọng và đổi mới của đất nƣớc Ấn

Độ (nơi mà có tỷ lệ phụ nữ bị xâm hại tình dục cao nhất thế giới). Theo Bộ Pháp

luật của nƣớc Ấn Độ cho biết, Bộ sẽ thí điểm tại 500 thôn ở các bang phía bắc của

Uttar Pradesh và Bihar, và sau đó đƣợc đƣa ra khắp đất nƣớc theo t ng giai đoạn.

Ngƣời dân đất nƣớc này sẽ có cơ hội tiếp cận các luật sƣ đƣợc chính phủ lựa chọn

t các thành phố và tìm lời tƣ vấn pháp luật về bất cứ điều gì, t tranh chấp đất đai

đến các vụ bạo lực gia đình thông qua chƣơng trình truyền hình. Theo đó phụ nữ

nông thôn tại các thôn c ng sẽ đƣợc đào tạo nhƣ một trợ lý pháp luật tình nguyện và

sẽ là ngƣời tiếp xúc đầu tiên của ngƣời dân ở các vùng nông thôn để giải thích lời tƣ

vấn của luật sƣ và trợ giúp thêm nếu cần. Việc đào tạo sẽ bao gồm việc hiểu về luật

53

công bằng xã hội và các quyền cơ bản, bao gồm quyền của phụ nữ và trẻ em c ng

nhƣ luật pháp liên quan đến lao động [40], [41].

Ở Úc (Australia) Mô hình Các trung tâm luật pháp cộng đồng (Community

Legel Centers) xây dựng ở Canberra đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp

các dịch vụ pháp lý cho ngƣời dân và hiện có hơn 200 trung tâm nhƣ vậy ở các

thành phố, các khu vực nông thôn c ng nhƣ các vùng hẻo lánh. Các trung tâm này

là các tổ chức phi lợi nhuận và là các tổ chức dựa vào cộng đồng, với trọng tâm là

hƣớng tới các cộng đồng thiệt thòi. Vì là các tổ chức dựa vào cộng đồng, các trung

tâm này đều có sự tham gia của đại diện cộng đồng và d dàng đáp ứng các nhu cầu

pháp lý của cộng đồng. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ tƣ vấn pháp luật cho cá

nhân, các trung tâm còn chú trọng tới cộng đồng thông quá các hình thức giáo dục

pháp luật vận động chính sách để thay đổi luật pháp theo hƣớng ngăn ng a c ng

nhƣ xây dựng tính đoàn kết trong cộng đồng. Nƣớc Úc xây dựng trung tâm luật

pháp dành cho phụ nữ ở Canberra đƣợc thành lập với mục đích giải quyết những

khó khăn của phụ nữ địa phƣơng và thổ dân. Có khá nhiều trở ngại ngăn cản họ tiếp

cận các dịch vụ pháp lý ở cộng đồng. Những trở ngại đó bao gồm cả tâm lý chung

là thiếu tin tƣởng vào hệ thống luật pháp của nhà nƣớc, thiếu hiểu biết về các dịch

vụ pháp lý, không tiếp cận đến điện thoại, khó khăn về kinh tế, không có phƣơng

tiện giao thông c ng nhƣ các dịch vụ chăm sóc và trông giữ trẻ em nên khó có thể

sử dụng các dịch vụ qua điện thoại hay đến dự các buổi hẹn gặp. Trung tâm tổ chức

các buổi tham vấn với những phụ nữ thổ dân địa phƣơng để tìm hiểu các vấn đề của

họ về tiếp cận dịch vụ pháp lý, cùng với họ xây dựng các chiến lƣợc hoạt động. Các

hoạt động của Trung tâm bao gồm các hình thức trợ giúp pháp lý khác nhau nhƣ tƣ

vấn qua điện thoại, hoặc trực tiếp và về các nội dung gần g i với các vấn đề của

ngƣời dân. Trung tâm c ng tổ chức các di n đàn trao đổi các vấn đề pháp lý của phụ

nữ tại cộng đồng c ng nhƣ có các hoạt động tiếp cận cộng đồng và tƣ vấn pháp luật

ngay tại cộng đồng. Với việc thành lập một Trung tâm dành riêng cho phụ nữ và có

sự tham gia tích cực của phụ nữ bản địa trong việc lập kế hoạch và thực hiện, lƣợng

phụ nữ bản địa tiếp cận các dịch vụ pháp lý tại trung tâm đã tăng lên đáng kể [28].

54

Thêm vào đó, miền Tây Nam Queensland nƣớc Úc (Australia), xây dựng

chƣơng trình Tiếp cận dịch vụ Pháp lý cho Phụ nữ ở nông thôn đƣợc gọi là:

RWOLS với mục đích thông tin pháp lý mi n phí cho phụ nữ ở vùng nông thôn và

vùng sâu vùng xa của Tây Nam Queensland. Chƣơng trình triển khai xây dựng hoàn

toàn mi n phí đối với phụ nữ nông thôn và trẻ em, hỗ trợ phụ nữ nông thôn các thủ

tục: ly hôn, cách nuôi dạy con cái, các vấn đề về Luật Hình sự, hỗ trợ trẻ em, bạo

lực gia đình, bảo vệ trẻ em, Luật Dân sự, Luật Ngƣời tiêu dùng.... hình thức thực

hiện sẽ tƣ vấn trực tiếp hoặc gọi qua video theo lịch đã đƣợc hẹn [42].

Ở California có chạy chƣơng trình trên trang điện tử với chủ đề “Hỗ trợ pháp

lý ở khu vực nông thôn” là dịch vụ pháp lý phi lợi nhuận, tên gọi tắt là: CRLA, mục

đích của hoạt động này để giúp đỡ các cá nhân và cộng đồng vùng nông thôn có thu

nhập thấp của California đƣợc tiếp cận TGPL, đây c ng là điều kiện cho phụ nữ

nông thôn có thể đăng ký TGPL để đƣợc hỗ trợ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của mình. CRIA đƣợc thành lập vào năm 1966 và đến nay có 18 văn phòng để tiếp

tục đáp ứng nhu cầu pháp lý cho ngƣời dân vùng nông thôn, đặc biệt là phụ nữ nông

thôn và trẻ em gái. Mỗi năm, trung tâm cung cấp cho hơn 43.000 ngƣời dân

California ở nông thôn thu nhập thấp đƣợc hỗ trợ pháp lý mi n phí và một loạt các

chƣơng trình giáo dục và tiếp cận cộng đồng mục đích và đáp ứng tiêu chí “công lý

bình đẳng cho tất cả mọi ngƣời” [35].

1.5.3. Phạm vi TGPL

Nhiều nƣớc trên thế giới có sự phân biệt giữa cụm t “Trợ giúp pháp lý”

(tiếng Anh là legal aid) và cụm t “dịch vụ pháp lý thiện nguyện mi n phí” (tiếng

Anh là pro-bono). TGPL là dịch vụ pháp lý do Nhà nƣớc bảo đảm để cung cấp mi n

phí cho đối tƣợng đƣợc TGPL; ngƣời thực hiện TGPL đƣợc trả lƣơng hoặc tiền bồi

dƣỡng t ngân sách Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, TGPL thuộc trách nhiệm xã hội của Nhà

nƣớc và Nhà nƣớc ban hành luật TGPL để thực thi chính sách xã hội đó. Trong khi

đó, dịch vụ pháp lý thiện nguyện mi n phí do luật sƣ hoặc các cá nhân, tổ chức sử

dụng nguồn lực của mình hoặc của tổ chức xã hội để cung cấp dịch vụ pháp lý mi n

phí cho bất kỳ ai có nhu cầu giúp đỡ về mặt pháp lý, theo ý muốn chủ quan của cá

55

nhân, tổ chức đó. Nhƣ vậy, trong dịch vụ pháp lý thiện nguyện, ngƣời cung cấp dịch

vụ pháp lý không nhận lƣơng hoặc thù lao t ngân sách nhà nƣớc và ngƣời đƣợc

hƣởng dịch vụ c ng không phải trả chi phí. Hầu hết các nƣớc đều xác định TGPL là

trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với ngƣời nghèo và những ngƣời yếu thế trong xã hội

không có khả năng tiếp cận dịch vụ có thu phí của luật sƣ. Thông qua việc ban hành

Luật TGPL, Nhà nƣớc tạo khuôn khổ pháp lý để bảo đảm thực hiện trách nhiệm này

của mình đối với xã hội, đặc biệt là nhóm ngƣời yếu thế trong xã hội.

Luật TGPL một số nƣớc thể hiện rõ phạm vi điều chỉnh ở ngay tên gọi của

Luật. Ví dụ, các nƣớc nhƣ Latvia và Moldova ban hành “Luật TGPL do Nhà nƣớc

bảo đảm” (tên tiếng Anh là “State Guaranteed Legal Aid Law”). Đa số Luật TGPL

của các nƣớc không có một điều riêng về phạm vi điều chỉnh của Luật nhƣng nội

dung của Luật điều chỉnh TGPL do Nhà nƣớc bảo đảm hoặc trách nhiệm của các cơ

quan Nhà nƣớc trong việc bảo đảm TGPL đối với ngƣời đƣợc TGPL. Luật TGPL

của hầu hết các nƣớc quy định về các nguyên tắc, ngƣời đƣợc TGPL, ngƣời thực

hiện TGPL, tổ chức TGPL, trình tự thủ tục thực hiện TGPL do Nhà nƣớc thực hiện

cấp hoạt động kinh phí, ví dụ Luật TGPL của Nam Phi, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật

Bản, Ailen, Hà Lan, Nepal, Úc, bang Ontario – Canada, Singapore, Israel, Phần

Lan, Nga, Đài Loan... Đồng thời, các nƣớc có chính sách khuyến khích các tổ chức,

cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo

và ngƣời yếu thế trong xã hội.

1.5.4. Lĩnh vực thực hiện TGPL

Lĩnh vực TGPL là một trong những chế định quan trọng trong hoạt động TGPL

các nƣớc. Về cơ bản, hầu hết các nƣớc đều thực hiện TGPL trong lĩnh vực dân sự và

hình sự; ví dụ Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Hà Lan, Lít va, Malaysia, Nam Phi, Ailen,

Nhật Bản, Philippines, bang Victoria (Úc), Singapore, Anh...Ngoài ra, một số nƣớc quy

định TGPL trong lĩnh vực hành chính nhƣ Hàn Quốc, Hà Lan, Đài Loan, Philippine,

Moldova. Một số nƣớc quy định thêm TGPL trong lĩnh vực gia đình nhƣ Đài Loan, Hà

Lan, Bang Victoria và Bang Queensland (Úc), Ireland, Brunei. Một số nƣớc có thêm

TGPL trong lĩnh vực lao động nhƣ Philippines, Hà Lan...

56

- TGPL trong lĩnh vực hình sự

Hầu hết các nƣớc đều thực hiện TGPL đối với các vụ việc trong lĩnh vực

hình sự vì gắn liền với quyền con ngƣời, quyền công dân và nhân thân của ngƣời

đƣợc TGPL. Đặc biệt, một số nƣớc quy định đối với các vụ việc có mức án tử hình

(Trung Quốc, Singapore, Brunei), vụ việc đối với trẻ vị thành niên (Trung Quốc) thì

cơ quan tiến hành tố tụng phải mời luật sƣ đại diện cho bị cáo trong trƣờng hợp họ

không có ngƣời đại diện hợp pháp.

Tuy nhiên, có nƣớc quy định TGPL trong lĩnh vực hình sự nhƣng hạn chế

trong một số trƣờng hợp cụ thể. Ví dụ, theo Luật TGPL Ấn Độ năm 1987 sửa đổi

năm 1994, nếu vụ việc tố tụng hình sự liên quan đến một phần hoặc toàn bộ sự vu

khống, ngƣời bị buộc tội không chấp hành các thủ tục Tòa án, khai man trƣớc Toà

án, ngƣời bị buộc tội về tội phạm kinh tế và những tội phạm về đạo đức xã hội thì

sẽ không đƣợc TGPL. Bên cạnh đó, ngƣời bị buộc tội về một tội có mức phạt

không quá 50 rupi thì không đƣợc TGPL. Có thể hiểu đây là mức phạt thấp, chi

phí thực hiện TGPL cao hơn mức phạt nên không thực hiện. Tại Nhật Bản, bị cáo

chỉ đƣợc TGPL trong lĩnh vực hình sự khi bị truy cứu về tội có khung hình phạt t

3 năm tù trở lên [4].

- TGPL trong lĩnh vực dân sự

Đa số các nƣớc có hệ thống TGPL đều thực hiện TGPL trong lĩnh vực dân sự

(ví dụ: Myanmar, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Litva, Nam Phi, Úc, Ailen,...).

Tuy nhiên, khái niệm dân sự theo pháp luật một số nƣớc đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,

bao gồm cả lĩnh vực hôn nhân gia đình, đất đai, lao động, việc làm, di cƣ, kinh

doanh thƣơng mại. Ví dụ, Luật TGPL dân sự năm 1972 của Israel cho phép TGPL

trong lĩnh vực kinh doanh và nhãn hiệu thƣơng mại vì lý do lĩnh vực này thuộc lĩnh

vực dân sự và việc TGPL trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại sẽ giúp cho ngƣời

đƣợc TGPL có điều kiện vƣợt qua khó khăn. Một số nƣớc giới hạn phạm vi đƣợc

TGPL cho một số đối tƣợng nhất định, chẳng hạn Moldova quy định ngƣời nƣớc

ngoài và ngƣời không tịch đƣợc TGPL trong tố tụng và trong những vụ việc thuộc

thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính công và Tòa án [4].

57

Bài học kinh nghiệm

So với nhiều nƣớc phát triển trên thế giới, TGPL ở Việt Nam ra đời muộn

hơn và điều kiện kinh tế của Việt Nam khó khăn hơn. Tuy nhiên, hệ thống TGPL ở

Việt Nam đã có những bƣớc phát triển đáng m ng, dần tiến đến có nhiều điểm ƣu

việt hơn và tƣơng đồng với các nƣớc trên thế giới. Trên cơ sở nghiên cứu kinh

nghiệm nƣớc ngoài về TGPL, đặc biệt là ƣu, nhƣợc điểm của t ng mô hình, ngay t

ngày đầu thành lập Việt Nam đã lựa chọn mô hình hỗn hợp. Mô hình này thể hiện

rõ trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc chủ động nguồn lực thực hiện TGPL, đồng

thời huy động sự tham gia tự nguyện của các tổ chức xã hội. Áp dụng mô hình này

Nhà nƣớc có sự chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu TGPL của ngƣời dân, tránh bị

động phụ thuộc vào nguồn lực ngoài Nhà nƣớc. Hơn nữa, sự tồn tại song song hai

chủ thể thực hiện TGPL sẽ tạo ra sự canh tranh trong việc nâng cao khả năng đáp

ứng nhu cầu TGPL của ngƣời dân c ng nhƣ chất lƣợng vụ việc TGPL.

Tùy thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia sẽ quy định về đối tƣợng

TGPL khác nhau, nhƣng nhìn chung các quốc gia rất quan tâm đến quyền của ngƣời

phụ nữ: Ấn Độ, Australia, Indonesia…và đặc biệt triển khai các trung tâm, cách

thức hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn.

Dựa vào những kinh nghiệm về hoạt động TGPL cho phụ nữ vùng nông thôn

của các quốc gia, Việt Nam thực hiện triển khai việc TGPL đến với phụ nữ nông

thôn qua các dự án:

+ “Phát triển câu lạc bộ TGPL cho phụ nữ ở tỉnh Bến Tre” [10, tr. 28 - 32],

mục đích của việc thành lập câu lạc bộ TGPL tạo ra một di n đàn để các chị em phụ

nữ có nơi tâm sự, vui chơi và tìm hiểu pháp luật, và c ng là nơi các cấp chính quyền

địa phƣơng phối hợp với Hội phụ nữ giới thiệu đến phụ nữ nông thôn những quy

định mới của pháp luật, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày c ng nhƣ

các hoạt động thiết thực mang lại kết quả tốt của chính quyền địa phƣơng.

+ “Phổ biến, giáo dục pháp luật và TGPL cho phụ nữ nghèo” [22, tr. 28 - 32]

với mục đích tạo đƣợc ý thức chủ động, tích cực tìm hiểu pháp luật. giáo dục và

ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật (tệ nạn xã hội, khiếu nại tố cáo…)

58

góp phần nâng cao trách nhiệm của phụ nữ trong việc giáo dục, quản lý con em

trong gia đình không vi phạm pháp luật, tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận đƣợc

những thông tin về pháp luật, tìm hiểu pháp luật và tƣ vấn, giải đáp những vƣớng mắc pháp luật, giúp phụ nữ hiểu sâu hơn về quyền và nghĩa vụ của mình...

So sánh với quy định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam cho thấy

ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam c ng có điểm tƣơng đồng với hầu hết các

nƣớc, bao gồm đội ng Trợ giúp viên pháp lý hƣởng lƣơng t ngân sách nhà

nƣớc (về bản chất là luật sƣ công); đội ng cộng tác viên TGPL; luật sƣ, tƣ vấn

viên pháp luật của các tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Việc Luật TGPL năm

2017 bổ sung tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý ngang bằng với luật sƣ là một

điểm tiến bộ, giúp quy định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam gần hơn nữa

với thế giới. Bên cạnh đó, việc thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn ở Việt

Nam chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi, mà chỉ xuất phát t một số tỉnh thành trong cả

nƣớc: tỉnh Bến Tre, Ninh Bình, Bắc Kạn, Bắc Giang... nhìn t thực ti n của t ng

tỉnh để tiến hành TGPL cho phụ nữ nông thôn. Nhà nƣớc nên thực hiện chính

sách mở rộng TGPL mi n phí cho phụ nữ nông thôn ở khắp tất cả tỉnh thành và

có hƣớng đi mới trong việc TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam vì mục tiêu

dân chủ văn minh phát triển pháp luật của đất nƣớc.

59

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về Trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay, chƣơng 1 tác giả luận văn đã phân tích kỹ

về đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và đặc điểm của TGPL, đồng thời đƣa

ra khái niệm, mục đích và nội dung của TGPL đối với phụ nữ nông thôn. Những

nội dung này thể hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho phụ nữ nông thôn, bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận pháp

luật. Bên cạnh đó, chƣơng 1 tác giả luận văn có Giới thiệu đến mô hình TGPL trên

thế giới, về tổ chức và hoạt động TGPL ở một số Quốc gia hiện nay và có rút ra

bài học kinh nghiệm. Những vấn đề lý luận đƣợc tác giả luận văn trình bày ở

Chƣơng 1 là cơ sở để phân tích báo cáo, đánh giá thực trạng hiệu quả tổ chức hoạt

động TGPL của các chƣơng sau.

60

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRỢ

GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN HIỆN NAY

2.1. Thực trạng pháp luật về TGPL cho Phụ nữ nông thôn

2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống PL về TGPL

TGPL là việc giúp đỡ pháp lý (về các mặt nhƣ: tƣ vấn pháp luật, hòa giải, đại

diện…) mi n phí của Nhà nƣớc và xã hội cho các đối tƣợng nhận đƣợc TGPL theo

quy định của pháp luật nhằm giải toả những vƣớng mắc pháp luật, nâng cao ý thức

pháp luật của công dân để họ tự mình biết cách ứng xử sao cho phù hợp với pháp

luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tăng

cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định

chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân.

Hiến Pháp 1992 có quy định:

Nhà nƣớc bảo đảm và không ng ng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt

của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc

và của nhân dân; xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, thực hiện công bằng xã

hội, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát

triển toàn diện [19, Điều 3].

Để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong t ng bƣớc và t ng

chính sách phát triển, tuân theo nguyên tắc của Hiến Pháp, Đảng và Nhà nƣớc ta

thực hiện chủ trƣơng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để thực hiện các mục tiêu

trên, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã quan tâm chỉ đạo:

... Cần phải mở rộng loại hình tƣ vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu

cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao

ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống

hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tƣ vấn pháp luật không

lấy tiền để hƣớng d n nhân dân sống và làm việc theo pháp luật [24].

61

Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá trình chuyển biến sâu sắc,

mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của đời sống pháp luật, tạo tiền

đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của công tác TGPL.

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, dƣới sự chỉ đạo

của Chính phủ, Bộ Tƣ pháp và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ)

đã chủ động nghiên cứu, triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm TGPL của nhà

nƣớc tại Cần Thơ (7/1996) và Hà Tây (01/1997). Việc triển khai thí điểm TGPL ở

02 địa phƣơng cho thấy, nhân dân địa phƣơng đón nhận hoạt động nhƣ một chính

sách xã hội rộng lớn của Đảng và Nhà nƣớc. Trên nền tảng nghiên cứu kinh nghiệm

tổ chức và hoạt động TGPL của các nƣớc trên thế giới, Bộ Tƣ pháp và Ban Tổ chức

Chính phủ đã hoàn thiện Đề án về việc thành lập tổ chức TGPL và xin ý kiến của

Trung ƣơng, Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ đã đồng ý phê duyệt về nguyên tắc

đối với việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam. Hoạt động TGPL không

chỉ d ng lại trong lĩnh vực tƣ vấn pháp luật nhƣ nghiên cứu ban đầu mà bao gồm cả

tƣ vấn pháp luật, đại diện, bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đƣơng sự

trƣớc cơ quan tiến hành tố tụng. Tại kỳ họp lần thứ 3 (1997), Ban Chấp hành Trung

ƣơng Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức tƣ vấn pháp luật

cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho ngƣời nghèo đƣợc hƣởng

dịch vụ tƣ vấn pháp luật mi n phí…”. Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá

trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của

đời sống pháp luật, tạo tiền đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của

công tác TGPL.

Giai đoạn trước khi thành lập đến năm 2006

Ngày 06/9/1997, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg

về việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính sách,

thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tƣ pháp. Cục TGPL v a có chức năng giúp Bộ

trƣởng Bộ Tƣ pháp quản lý nhà nƣớc về TGPL, v a trực tiếp thực hiện TGPL trong

trƣờng hợp cần thiết. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng, Trung tâm

TGPL trực thuộc Sở Tƣ pháp đƣợc thành lập. Nhằm tăng cƣờng hoạt động phối hợp

62

giữa các ngành, các cấp trong hoạt động TGPL, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt

động, đƣa hoạt động TGPL về cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, ngày

01/3/2000 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/2000/CT-TTg về việc tăng

cƣờng công tác TGPL. Để thực hiện Quyết định số 734/TTg, Bộ Tƣ pháp đã chủ trì

và phối hợp với các Bộ, ngành ban hành 16 văn bản hƣớng d n thi hành. Ở địa

phƣơng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành các văn bản triển khai thi hành.

Ngày 06/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tƣ pháp, trong đó

quy định Bộ Tƣ pháp có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nƣớc về TGPL cho ngƣời

nghèo, đối tƣợng chính sách và các đối tƣợng khác theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, ngày 21/5/2002, Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Chiến lƣợc toàn diện

về tăng trƣởng và xoá đói giảm nghèo đến 2010 nhằm mục đích chung là tạo môi

trƣờng tăng trƣởng nhanh, bền vững và xoá đói, giảm nghèo, trong đó đã xác định

rõ: Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cƣờng TGPL và khả năng tiếp cận pháp lý

cho ngƣời nghèo. Mở rộng mạng lƣới trợ giúp pháp luật để ngƣời nghèo ở nông

thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp luật. TGPL

cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách đƣợc xác định là một trong những

chính sách của Chiến lƣợc.

Giai đoạn từ khi có luật TGPL cho đến nay

Ngày 29/6/2006, bƣớc tiến lịch sử trong hoạt động lập pháp trong lĩnh vực

TGPL là Quốc hội đã thông qua phê duyệt Luật TGPL 2006 nâng tầm thể chế t

Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ. Sự ra đời của Đạo luật này đã thể hiện ý chí

nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ

về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là đối

tƣợng yếu thế trong xã hội. Đó là mốc son rực rỡ đánh dấu bƣớc chuyển về chất,

đƣa công tác TGPL lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nƣớc

và xu thế thời đại.

Ngày 28/12/2007, Thông tƣ liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-

BTC-VKSNDTC-TANDTC về TGPL trong hoạt động tố tụng đƣợc ban hành,

63

Thông tƣ liên ngành đầu tiên hƣớng d n việc thực hiện bào chữa, bảo vệ quyền lợi

hợp pháp cho đƣơng sự trong quá trình tố tụng (nay đƣợc thay thế bởi Thông tƣ liên

tịch số 11/2013/TTLT - BTP - BCA - BQP - BTC - VKSNDTC - TANDTC ngày

04/7/2013). Ngày 10/5/2011, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số

678/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lƣợc phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020,

định hƣớng đến năm 2030 đã tạo ra một lộ trình cụ thể cho việc hoàn thiện hệ thống

pháp luật về TGPL ở Việt Nam. Đây là Chiến lƣợc đầu tiên của ngành Tƣ pháp (kể

t năm 1945 đến nay), đã tạo môi trƣờng để TGPL phát triển. Tiếp tục phát huy vai

trò nòng cốt của Nhà nƣớc và huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội, sự hỗ

trợ, đóng góp của cộng đồng quốc tế, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân

cho công tác TGPL.

Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò công

tác TGPL bằng việc thông qua Luật TGPL với tỷ lệ 100% đại biểu có mặt tán thành.

Sự ra đời của Luật TGPL năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn

thiện thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền

con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Qua đó tiếp tục

khẳng định TGPL là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong hệ thống tƣ pháp hình sự,

là trách nhiệm của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân cho

đối tƣợng đƣợc TGPL

So với Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 5)

quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL, theo đó bao gồm nguồn ngân sách

nhà nƣớc; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nƣớc, ngoài nƣớc và các

nguồn hợp pháp khác. Nhà nƣớc bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm

của cơ quan thực hiện quản lý nhà nƣớc về TGPL theo quy định của pháp luật về

ngân sách nhà nƣớc. Đồng thời, đối với các tỉnh chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách,

Luật quy định việc ƣu tiên bố trí ngân sách t số bổ sung cân đối ngân sách hằng

năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm

mới quan trọng so với Luật TGPL năm 2006, khẳng định trách nhiệm của Nhà nƣớc

trong việc bảo đảm cho ngƣời thuộc diện TGPL đƣợc giúp đỡ pháp lý khi họ có các

64

vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phục phần nào tình trạng bỏ sót

nhu cầu TGPL của ngƣời dân, qua đó thể hiện cam kết của Nhà nƣớc trong việc bảo

đảm quyền đƣợc TGPL đƣợc thực thi trên thực tế.

Có thể thấy, TGPL là một trong những chính sách mang tính nhân đạo, nhân

văn của Đảng và Nhà nƣớc nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trƣớc

pháp luật và thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ

của nhân dân. Để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu trong Chiến lƣợc TGPL cho các

đối tƣợng đƣợc TGPL thì ở địa phƣơng, nhà nƣớc cần tạo điều kiện bố trí trụ sở làm

việc, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động tƣơng xứng cho Trung tâm và các Chi

nhánh của Trung tâm; bên cạnh đó, cần tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc đối

với công tác TGPL, tăng cƣờng kiểm tra quản lý chất lƣợng hoạt động TGPL của tổ

chức, cá nhân, đảm bảo chất lƣợng vụ việc TGPL

2.1.2. Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ

nông thôn hiện nay

Pháp luật hiện nay còn những bất cập, hạn chế về vấn đề TGPL cho phụ nữ

nông thôn

Hiện nay, có 19 văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực trong lĩnh vực

TGPL tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, điều chỉnh khá toàn diện tổ chức và

hoạt động TGPL nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, có chất lƣợng cho ngƣời

đƣợc TGPL, phù hợp với xu hƣớng phát triển TGPL trên thế giới (gồm 01 Luật, 01

Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ, 08 Thông tƣ liên tịch, 08

Thông tƣ của Bộ Tƣ pháp).

Mặc dù hệ thống pháp luật TGPL đã tƣơng đối đầy đủ, công tác TGPL đã đạt

đƣợc những kết quả đáng trân trọng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

các đối tƣợng trong diện TGPL mi n phí theo Điều 7 của Luật TGPL 2017 quy

định. Tuy nhiên, Luật TGPL chƣa tiếp cận dịch vụ TGPL mi n phí đến với ngƣời

phụ nữ nông thôn Việt Nam.

Trƣớc nay, hình ảnh ngƣời phụ nữ nông thôn gắn liền với ruộng đồng, nuôi

trồng sản xuất tại địa phƣơng theo hộ cá nhân, nhờ vào sự phát triển kinh tế của đất

65

nƣớc, đời sống nhân dân nâng cao. Phụ nữ nông thôn đã biết tham gia vào công

nghệ qua việc sử dụng mạng Internet, họ đã linh động hơn trong việc làm kinh tế

tăng thu nhập nhƣ: bán hàng nông sản vùng nông thôn, thực hiện đăng ký đầu tƣ sản

phẩm cây trồng ngắn hạn, cây ăn quả lâu năm: bƣởi di n, bƣởi da xanh, cam canh,

quýt, thanh long… (thực hiện tại một số vùng kinh tế: Hòa Bình- cam canh, Tuyên

Quang- cam sành, Bắc Giang – bƣởi da xanh, Phúc Thọ- bƣởi da xanh, bƣởi di n,

thanh long…), mở các công ty trách nhiệm hữu hạn về nông sản theo mô hình Hộ

gia đình và liên kết với nhau mục đích tăng thu nhập và phát triển lâu dài. Khi xảy

ra tranh chấp, mâu thu n về quyền lợi kinh tế, phụ nữ nông thôn sẽ cần phải đến các

tổ chức, trung tâm để đƣợc hỗ trợ TGPL. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, phụ nữ nông

thôn không phải là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo Luật TGPL quy định (tr

trƣờng hợp đƣợc quy định tại Điều 7 Luật TGPL 2017).

Phụ nữ nông thôn thƣờng là những ngƣời yếu thế trong gia đình, họ phải

tham gia gánh vác công việc tƣơng đƣơng với nam giới, nhƣng quyền lợi của họ

trong gia đình bị thu hẹp nhƣ: quyền làm chủ, quyền tự quyết, quyền chăm sóc sức

khỏe. Đa số ngƣời đàn ông trong gia đình nông thôn hiện nay đƣợc coi là trụ cột lao

động kinh tế chính. Nhƣng ngƣời phụ nữ nông thôn trong gia đình phải đảm nhiệm

quán xuyến tất cả công việc nhà, song song đó làm thêm công việc ngoài để tăng

thu nhập cho gia đình. Khi quyền lợi và lợi ích của phụ nữ nông thôn bị xâm phạm,

tâm lý không muốn bỏ chi phí cho việc đăng ký TGPL vì còn nhiều công việc trong

gia đình phải lo, chƣa chủ động đi đến các tổ chức, trung tâm TGPL để nhận tƣ vấn.

Để khắc phục đƣợc tình trạng trên, theo tác giả luận văn thì điều kiện trƣớc

tiên là cần phải tập hợp, rà soát, sửa đổi bổ sung để khắc phục những hạn chế còn

bất cập trong tổ chức và hoạt động TGPL, t ng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật

về TGPL. Trong thời gian chờ Luật sửa đổi và ban hành thì biện pháp ngắn hạn đối

với chính quyền địa phƣơng ở các vùng nông thôn là cần thực hiện xin ngân sách

cấp trên để hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn, đây c ng là biện pháp quản lý

tình hình an ninh trật tự tại địa phƣơng nắm bắt đƣợc tình hình đời sống của phụ nữ

nông thôn trong khu vực và c ng là chính sách thúc đẩy hoạt động tham gia TGPL

66

tích cực t phụ nữ nông thôn và các hoạt động phúc lợi có ích cho phát triển vùng

nông thôn hiện nay. Nhà nƣớc luôn vận động, khuyến khích địa phƣơng trong cả

nƣớc xây dựng mô hình nông thôn kiểu mới, hiện đại hóa, phát triển hóa. Phụ nữ

nông thôn đang cố gắng đi lên làm giàu cho gia đình, cho địa phƣơng đáp ứng nhu

cầu phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bản thân họ phải chịu chi phí TGPL mà

không đƣợc mi n phí, Nhà nƣớc nên để hoạt động TGPL mi n phí đối với phụ nữ

nông thôn nhƣ một biện pháp khích lệ tinh thần trong công tác phát triển kinh tế và

văn hóa làng xã vùng nông thôn

TGPL cho phụ nữ nông thôn nhiều nhất vẫn là tư vấn viên, cộng tác viên và

trợ giúp viên TGPL, ít được hỗ trợ TGPL từ Luật sư

Mặc dù TGPL ở Việt Nam theo mô hình hỗn hợp, v a là sự quản lý của Nhà

nƣớc và có sự hỗ trợ t phía các tổ chức Luật sƣ. Nhƣng ngƣời dân và phụ nữ nông

thôn đƣợc phổ cập pháp luật nhiều nhất và biết đến nhiều nhất là những nhân viên

TGPL của Nhà nƣớc và do các ban ngành, tổ chức TGPL do Nhà nƣớc chỉ định.

Phụ nữ nông thôn ít đƣợc tiếp xúc sự hỗ trợ TGPL t luật sƣ, có thể thấy việc tham

gia thực hiện các vụ việc TGPL của tổ chức luật sƣ và luật sƣ c ng còn chƣa cao, vì

đây là khu vực nông thôn, thậm chí vùng sâu, vùng xa mà các văn phòng luật sƣ và

tổ chức luật sƣ đều đƣợc đặt tại vị trí các tỉnh-thành phố lớn cho nên việc di chuyển

thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn trở nên khó khăn hơn, đa phần TGPL

của phụ nữ nông thôn đều là những vụ việc v a và nhỏ trong tầm trợ giúp viên,

cộng tác viên và tƣ vấn viên có thể thực hiện đƣợc. Ngoài những lý do trên, ở khu

vực nông thôn, chi phí hỗ trợ luật sƣ t Nhà nƣớc chƣa phù hợp với công sức mà

luật sƣ đã bỏ ra. Chính vì những điều đó d n đến hạn chế việc yêu cầu ngƣời thực

hiện TGPL đến t luật sƣ.

Nhận xét về thực trạng quy định pháp luật TGPL và thực hiện TGPL cho phụ

nữ nông thôn từ trước đến nay

Sự ra đời của Luật TGPL đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện

thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp về quyền con ngƣời,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Qua đó tiếp tục khẳng định

67

TGPL là một yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là trách nhiệm

của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân cho đối tƣợng đƣợc

TGPL. Nhà nƣớc ta cơ bản đã ban hành tƣơng đối đầy đủ pháp luật về phụ nữ; tuy

nhiên quá trình triển khai thực hiện cho thấy pháp luật về vấn đề này v n còn một

số hạn chế, bất cập nhất định - đây là những vấn đề cản trở cho việc thực thi pháp

luật, tổ chức thi hành pháp luật TGPL.

Thứ nhất, về mô hình tổ chức không phải tất cả phụ nữ đều đƣợc trợ giúp

pháp lý. Pháp luật hiện hành chƣa có nhiều quy định đặc thù để đảm bảo quyền của

ngƣời phụ nữ ở nông thôn. Hiện nay, việc trợ giúp pháp lý mi n phí chỉ đƣợc áp

dụng cho phụ nữ là một trong những nhóm sau: ngƣời nghèo, ngƣời có công với

cách mạng, ngƣời già cô đơn không nơi nƣơng tựa, ngƣời khuyết tật, nạn nhân bị

buôn bán, ngƣời dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn thì mới đƣợc trợ giúp

pháp lý. Luật TGPL 2017 đã tiếp cận đến những chủ thể yếu thế trong xã hội, quy

định rất rõ ràng, chi tiết và hợp lý. Nhƣng theo tác giả luận văn, việc áp dụng TGPL

mi n phí đến với phụ nữ nông thôn c ng là biện pháp khuyến khích phát triển

nguồn nhân lực bền vững, lâu dài, đảm bảo đƣợc ngƣời phụ nữ nông thôn sẽ nắm

bắt đƣợc tinh thần của pháp luật, chủ động tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Phụ nữ

nông thôn là những ngƣời thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu hiểu biết về quyền của

mình khi tham gia TGPL. Do không có điều luật quy định riêng về đối tƣợng là phụ

nữ nông thôn nên khi chủ thể thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn thƣờng gặp

khó khăn trong việc tham chiếu điều luật, họ phải sử dụng điều luật khác để hỗ trợ

TGPL cho phụ nữ nông thôn, chính vì vậy d n đến sự chồng chéo và bất cập về luật

trong hoạt động TGPL.

Thứ hai, Nhận thức về hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động

trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, nhiều phụ

nữ v n chƣa biết đƣợc về quyền trợ giúp pháp lý hoặc còn e ngại khi tiếp cận với

trợ giúp pháp lý. Phụ nữ nông thôn khi bị xâm phạm đến quyền và lợi ích nhƣ: là

nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị xâm hại tình dục thƣờng cam chịu, không

dám lên tiếng do vậy gây khó khăn cho những ngƣời trực tiếp thực hiện trợ giúp

68

pháp lý trong việc thu nhận bằng chứng, các thông tin liên quan. Hầu hết phụ nữ

vùng nông thôn thƣờng có hoàn cảnh sống khó khăn, trình độ dân trí thấp, thiếu

hiểu biết pháp luật, không rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình và họ c ng không

biết đến tổ chức trợ giúp pháp lý để yêu cầu giúp đỡ khi cần thiết.

Thứ ba, Năng lực của tổ chức trợ giúp pháp lý và đội ng ngƣời thực hiện

TGPL còn có những hạn chế, đội ng ngƣời thực hiện TGPL nói chung còn thiếu về

số lƣợng, các tổ chức, trung tâm TGPL còn đặt cách xa với nơi ở của dân nên rất d

bị động trong việc tiếp nhận thông tin, thậm chí nhiều vụ việc xảy ra rất lâu rồi thì

các tổ chức, trung tâm mới nhận đƣợc thông tin qua hình thức truyền miệng. Đây

c ng là khó khăn và thách thức lớn của ngƣời thực hiện TGPL trong việc tiếp cận

phụ nữ nông thôn. Đặc biệt tỷ lệ ngƣời thực hiện TGPL là nữ còn rất ít, chƣa có

nhiều chuyên gia nữ, lại chƣa đƣợc trang bị kỹ năng tiếp xúc, tâm lý làm việc với

phụ nữ nông thôn và giải quyết các vấn đề nhạy cảm có liên quan tới phụ nữ nên

hiệu quả TGPL cho phụ nữ chƣa cao.

Chính sách của Nhà nƣớc còn thiếu sự quan tâm, chƣa có những đãi ngộ phù

hợp với công sức của tổ chức, trung tâm TGPL bỏ ra. Đặc biệt là những luật sƣ

đƣợc thuê tại các trung tâm và tổ chức cho hoạt động thực hiện TGPL. Rất nhiều

trƣờng hợp Luật sƣ kết thúc hợp đồng với Nhà nƣớc trong việc TGPL tại các trung

tâm, lý do khách quan chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu, nguyện vọng của họ, lý do chủ

quan thì ban đầu những Luật sƣ này đăng ký tham gia để lấy kinh nghiệm cho hoạt

động TGPL và là nền tảng sau này để các Luật sƣ có thể mở văn phòng Luật, khiến

cho Luật sƣ coi hoạt động thực hiện TGPL nhƣ một nghĩa vụ và là trải nghiệm về

thực hiện hoạt động TGPL của Luật sƣ do Nhà nƣớc chỉ định.

Mô hình TGPL ở Việt Nam hiện nay là mô hình hỗn hợp, đan xen quản lý

Nhà nƣớc và có sự hỗ trợ t phía Luật sƣ đăng ký với Nhà nƣớc. Luật sƣ thực hiện

TGPL hiện nay gặp rất nhiều khó khăn và thách thức, tệ nạn quan liêu gây ảnh

hƣởng trong việc phối hợp, thiếu hỗ trợ của các cơ quan chức năng, chính quyền địa

phƣơng trong việc để TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Mặc dù, Luật sƣ làm rất tốt

trong công tác TGPL, những năm gần đây số lƣợng sinh viên tốt nghiệp chuyên

69

ngành Luật và học viên tốt nghiệp Hành nghề Luật sƣ ở Học viện Tƣ pháp ngày một

tăng cao d n đến việc gia tăng Luật sƣ về số lƣợng và chất lƣợng tại Việt Nam,

trong thời kỳ Nhà nƣớc dần thắt chặt, tinh giản biên chế ở một số bộ, cơ quan,

quyền lợi của các cơ quan này sẽ bị ảnh hƣởng, thậm chí là bị “đe dọa” bởi đội ng

Luật sƣ chuyên nghiệp, có trình độ và đƣợc đào tạo bài bản chuyên ngành Luật, họ

nắm rất chắc kiến thức, chuyên môn và thực hiện rất tốt các hoạt động này. Chính vì

vậy, sẽ gây ra ảnh hƣởng liên quan đến lợi ích của một số ban ngành chính quyền

nên Luật sƣ thƣờng gặp khó khăn cho hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn.

2.2. Thực tiễn thực hiện TGPL cho Phụ nữ nông thôn

2.2.1. Kết quả TGPL cho Phụ nữ nông thôn trong những năm gần đây

Phụ nữ nông thôn Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong việc đẩy

mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kinh tế nông thôn mới. Là nguồn nhân lực

đông đảo của Nhà nƣớc Việt Nam, tuy nhiên họ c ng là đối tƣợng yếu thế trong

gia đình, d bị xâm phạm quyền và lợi ích pháp luật. Mặc dù hoạt động TGPL cho

phụ nữ nông thôn hiện nay chƣa lan rộng và phổ biến, nhƣng ở một số tỉnh thành

coi hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn là mục tiêu lâu dài, cần thiết và quan

trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế nông thôn mới phát triển. Cụ thể tác giả luận

văn xin nêu một số tỉnh thành, thị xã, huyện mà tác giả có thu thập theo những

năm gần đây nhƣ sau:

Năm 2014, tại tỉnh Quảng Ninh, thực hiện Kế hoạch phối hợp số 41-

KHPH/PN-TP ngày 31/3/2014 giữa Sở Tƣ pháp và Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh về

phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ năm 2014, Trung tâm Trợ giúp pháp lý đã phối hợp với Ban Chính sách

pháp luật - Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức Trợ giúp pháp lý lƣu động có hiệu quả

cho hội viên Hội Phụ nữ tại 10 xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố, bao

gồm: huyện Hải Hà, Đầm Hà, Ba Chẽ, Đông Triều, Bình Liêu, Quảng Yên, Tiên

Yên, Hoành Bồ, thành phố Uông Bí và Thành phố Móng Cái. Trung tâm đã trực

tiếp tiến hành Trợ giúp pháp lý bằng các hình thức tƣ vấn pháp luật, cử đại diện

tham gia tố tụng, cử đại diện ngoài tố tụng cho 452 ngƣời đƣợc Trợ giúp pháp lý là

70

nữ giới. Các lĩnh vực pháp luật đƣợc tƣ vấn chủ yếu là chế độ chính sách của Đảng,

Nhà nƣớc có liên quan đến Luật Đất đai, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Dân sự, Luật

Phòng chống bạo lực gia đình, các vấn đề, câu chuyện pháp luật đƣợc chị em phụ

nữ quan tâm [30].

Năm 2016, tại tỉnh Ninh Bình, Trung tâm TGPL tỉnh đã phối hợp với Hội

Phụ nữ tỉnh, Hội phụ nữ và Phòng Tƣ pháp các huyện, thành phố, UBND các xã,

phƣờng, thị trấn trong tỉnh tổ chức truyền thông, tƣ vấn pháp luật cho hội viên Hội

phụ nữ và nhân dân tại 28 xã, phƣờng, thị trấn, thực hiện tƣ vấn pháp luật mi n phí

cho 382 trƣờng hợp với 385 vụ việc chủ yếu thuộc các lĩnh vực pháp luật nhƣ: dân

sự, đất đai, hôn nhân gia đình, ƣu đãi chính sách, hành chính và lĩnh vực pháp luật khác. Hoạt động TGPL đã góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành

pháp luật cho phụ nữ nông thôn địa bàn tỉnh đảm bảo đƣợc quyền và lợi ích của

ngƣời phụ nữ, đồng thời c ng tạo điều kiện tiền đề trong việc phụ nữ sẽ chủ động

tiếp cận, đến với các trung tâm TGPL nhiều hơn để đƣợc giải đáp vƣớng mắc thông

qua tƣ vấn pháp luật tại cơ sở và tại trụ sở Trung tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho mình [31].

Ngày 19/3/2018, Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Yên D ng tỉnh Bắc Giang đã

Thực hiện Chƣơng trình phối hợp số 01/CTPH-PTP-HLHPN, ngày 01/01/2018 giữa

Hội liên hiệp Phụ nữ huyện với Phòng Tƣ pháp huyện về việc thực hiện công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải

ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2017-2022, tiến hành

TGPL cho 70 chị em phụ nữ tại xã Nham Sơn trực thuộc huyện và trực tiếp tƣ vấn

pháp luật và trợ giúp pháp lý về các vấn đề mà hội viên phụ nữ quan tâm nhƣ: vấn

đề về định giá và đấu giá đất đai, quyền sở hữu bìa đỏ, phân chia tài sản sau ly hôn.

Kết quả sau buổi thực hiện TGPL và tuyên truyền pháp luật đã góp phần nâng cao

nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ tham

gia quản lý nhà nƣớc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phƣơng [32]

Ngày 17/4/2018, Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang phối

hợp với Hội phụ nữ tỉnh tổ chức tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý cho 200

71

cán bộ, hội viên phụ nữ tại xã Đông Sơn, Hƣơng Vỹ. Tƣ vấn viên pháp luật tổ chức

tƣ vấn, trợ giúp pháp lý mi n phí cho cán bộ, hội viên phụ nữ những nội dung chủ

yếu liên quan đất đai và các kiến nghị khác mà phụ nữ xã có nhu cầu [34].

Các kết quả hoạt động trên tuy chỉ là chính sách của t ng tỉnh, địa phƣơng

xin t ngân sách Nhà nƣớc nhƣng cho thấy,hoạt động TGPL những năm gần đây có

dấu hiệu tích cực trong việc nhận thức tầm quan trọng của TGPL cho phụ nữ nông

thôn. Ngày nay, phụ nữ nông thôn đã biết vận dụng một cách sáng tạo để phát triển

quyền theo hƣớng tích cực xây dựng mô hình phát triển kinh tế ở nông thôn nhƣ:

mô hình nông trại, trồng cây công nghiệp lâu năm, xuất nhập khẩu hoa quả ra về các

tỉnh thành trong cả nƣớc mang lại thu nhập ổn định kinh tế. Đời sống của ngƣời phụ

nữ nông thôn và gia đình của họ đƣợc cải thiện, thoát ly khỏi nghèo đói, khó khăn.

Hoạt động TGPL mi n phí cho phụ nữ nông thôn nhƣ một bàn đạp thúc đẩy nhận

thức pháp luật cho phụ nữ và c ng là chính sách khuyến khích của chính quyền địa

phƣơng đến với phụ nữ nông thôn.

2.2.2. Những cản trở, khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn

Hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn đang đƣợc các cơ quan chức năng

của địa phƣơng đẩy mạnh triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện

đã bộc lộ vƣớng mắc, nguyên nhân cần đƣợc quan tâm tháo gỡ kịp thời.

Nhận thức của người phụ nữ nông thôn trong việc tham gia TGPL

Bản thân phụ nữ ở nông thôn chƣa đủ kiến thức, kinh nghiệm, sự tự tin và

bản lĩnh để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của bản thân. Khi quyền

lợi bị xâm phạm, ngƣời phụ nữ chỉ biết im lặng và không chủ động tìm đến các cơ

sở TGPL.

Do cùng lúc phải đóng nhiều vai trò, nhất là vai trò thay thế nam giới hầu

nhƣ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội nông thôn nên d n đến một số

hậu quả sau: Lao động quá sức, không có thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức lao

động đang ảnh hƣởng trầm trọng đến sức khỏe, đời sống các gia đình nông thôn còn

nghèo, phụ nữ thƣờng là ngƣời phải hy sinh bản thân mình trong sự nghèo khổ đó,

họ không có điều kiện học tập, giao lƣu, thụ hƣởng các giá trị văn hóa tinh thần, vì

72

vậy trình độ văn hóa vốn đã thấp lại không có điều kiện bổ sung, nâng cao, sự hiểu

biết xã hội hạn chế, lạc hậu.

Phụ nữ nông thôn v n còn bảo thủ trong việc tham gia đăng ký TGPL, sự tồn

tại của những tập tục khuôn m u c , tác động đến việc phụ nữ nông thôn không

muốn đƣợc hỗ trợ TGPL, họ mặc cảm về trình độ học vấn, về cuộc sống và về kinh

tế. Đặc biệt, phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa không có điều kiện đƣợc tiếp xúc

với bất kỳ loại thông tin nào liên quan đến TGPL, và TGPL v n là khái niệm khá

mới mẻ đối với họ. Phụ nữ nông thôn v n chƣa hiểu hết đƣợc quyền của mình khi

đƣợc TGPL, mang tâm lý mặc cảm về kiến thức và ngại học tập. Phần lớn họ t

chối các dịch vụ TGPL và cho rằng không cần thiết, nhƣng khi quyền lợi của họ bị

xâm phạm, phụ nữ nông thôn sẽ rất d bị xao động và vô tình vi phạm những quy

định của pháp luật. Kinh tế ở vùng nông thôn gặp nhiều khó khăn, quyền lợi bị xâm

phạm khiến phụ nữ nông thôn sẽ có những suy nghĩ tiêu cực, không phấn đấu để

vƣợt qua thậm chí rất d bị kẻ xấu lợi dụng, mất niềm tin vào chính quyền gây ảnh

hƣởng cho các Trung tâm, tổ chức tiếp cận trở nên khó khăn về hoạt động TGPL

cho phụ nữ nông thôn

Đảng và Nhà nƣớc cần xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan,

tổ chức, các ngành, các cấp trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện

TGPL cho phụ nữ nông thôn. Đặc biệt, cần tăng cƣờng phối hợp chặt chẽ, thƣờng

xuyên giữa ngành tƣ pháp, tổ chức thực hiện TGPL, Hội phụ nữ các cấp để thực

hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn, cụ thể: tổ chức các hoạt động phối hợp khảo sát

nhu cầu trợ giúp pháp lý của phụ nữ ở nông thôn; phối hợp mở các lớp tập huấn phổ

biến, giáo dục pháp luật, bình đẳng giới cho phụ nữ; các trung tâm, tổ chức TGPL

phối hợp với chính quyền địa phƣơng thực hiện trợ giúp pháp lý lƣu động tại cơ sở,

song song hoạt động TGPL, Hội Phụ nữ địa phƣơng là ngƣời tổ chức, vận động chị

em tham gia đầy đủ, tích cực, để họ có cơ hội chia sẻ những những khó khăn,

vƣớng mắc và đƣợc hƣởng quyền đƣợc TGPL một cách tối đa.

Nhận thức về hoạt động TGPL của một số cơ quan, ban, ngành còn chưa đầy

đủ và thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả TGPL

Việc quán triệt quan điểm của Đảng về hoạt động TGPL và nhận thức của

73

các chủ thể về vị trí, vai trò, của phụ nữ ở nông thôn; về công tác phụ nữ; về vấn đề

bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến giới còn tồn tại

trong nhân dân và cả trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Định hƣớng lãnh

đạo, chỉ đạo, phƣơng pháp vận động phụ nữ còn thiếu cụ thể, chƣa sát hợp với t ng

đối tƣợng, khu vực, vùng miền; thiếu quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện hoặc chỉ đạo

triển khai còn mang tính hình thức nghiêng về tuyên truyền hô hào vận động thay vì

hoạt động thiết thực. Chất lƣợng đội ng cán bộ làm công tác TGPL, giáo dục pháp

luật đến phụ nữ nông thôn chƣa cao. Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa

phƣơng, đơn vị trong triển khai thực hiện bình đẳng giới chƣa chặt chẽ và chủ động.

Hoạt động TGPL chƣa phát huy hết vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong

bảo vệ quyền của phụ nữ ở nông thôn, cá biệt có cơ quan, tổ chức v n coi TGPL là

nhiệm vụ của riêng ngành Tƣ pháp.

Sự quan tâm và nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo địa phƣơng vùng nông

thôn đối với công tác hỗ trợ TGPL phụ nữ nông thôn còn ở mức độ chung chung,

điển hình nhƣ việc thực hiện chế độ báo cáo và thống kê thực hiện các mục tiêu

quốc gia về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình... ở một số bộ ngành và nhiều địa

phƣơng chƣa nghiêm túc, làm ảnh hƣởng đến công tác thống kê số liệu toàn quốc.

Bộ máy thực hiện công tác bình đẳng giới còn hạn chế về số lƣợng và chất lƣợng

ảnh hƣởng đến ngân sách thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn

Nhiều ngƣời dân và cơ quan, tổ chức địa phƣơng vùng sâu, vùng xa v n

chƣa biết đến Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam tại địa chỉ

(www.trogiupphaply.gov.vn), c ng nhƣ chƣa có phƣơng tiện để tiếp cận, khai thác

và sử dụng Trang thông tin này đặc biệt khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa,

vùng có điều kiện đi lại khó khăn.

Trong quá trình thực hiện TGPL, cơ quan chính quyền tại địa phƣơng chƣa

thật sự hợp tác, nhiệt tình trong việc thực hiện TGPL. Chính quyền địa phƣơng nắm

bắt rất rõ tình hình trị an trong khu vực quản lý, khi có sự việc phát sinh họ thƣờng

tự giải quyết mà không đƣa ra lời khuyên cho phụ nữ địa phƣơng nên tìm đến các tổ

chức, trung tâm TGPL.. Mặc dù, tổ chức Luật sƣ làm rất tốt vì họ có năng lực

74

chuyên môn, kinh nghiệm cao, tiếp nhận nhiều vụ việc về hoạt động TGPL. Phần

nhiều sẽ ảnh hƣởng đến lợi ích của một số chủ thể chính quyền địa phƣơng, lo sợ

quyền quản lý mất đi vì Bộ máy Nhà nƣớc hiện nay đang cố gắng giảm bớt, tinh

giản biên chế bớt cồng kềnh, rƣờm rà. Nên các vụ việc khi giải quyết mang nhiều

hƣớng cảm tính. Cơ quan chức năng thƣờng là những chủ thể nhận đƣợc tin tức đầu

tiên, không có sự hỗ trợ hợp tác hay thông báo đến các trung tâm TGPL mà thƣờng

đứng ra “tự xử lý” gây khó khăn cho việc trung tâm TGPL không nắm đƣợc tình

hình thực tế của phụ nữ nông thôn để có đề án hỗ trợ kịp thời. Hoặc do địa điểm

trung tâm TGPL quá xa, 1 trung tâm TGPL hoạt động trên 1 địa phƣơng quá lớn (1

huyện thƣờng có 30-50 xã chỉ có 1 trung tâm TGPL) với khu vực xảy ra vụ việc,

khi xảy ra rồi thì sự việc đã qua, phụ nữ nông thôn không muốn trợ giúp hay trình

báo thêm phần vì bị mặc cảm tâm lý chi phối. Điều đó cho thấy, sự thiếu quan tâm,

quản lý lỏng lẻo của các ban ngành chính quyền không có sự gắn kết giữa trung tâm

TGPL và cơ quan ban ngành tại địa phƣơng. Bên cạnh đó, phụ nữ nông thôn chƣa

chủ động tiếp cận đến các dịch vụ hỗ trợ TGPL vì luôn có quan niệm sai lầm về

việc cứ đến các trung tâm TGPL sẽ bị mất phí. Hay khi phụ nữ nông thôn đến

Trung tâm TGPL xin hỗ trợ, họ gặp phải nhiều vấn đề về thủ tục, quy trình rắc rối

vì không có điều luật quy định về phụ nữ nông thôn trong diện đƣợc TGPL cho nên

phải áp dụng nhiều bộ luật chồng chéo và bất cập

Về quy định pháp luật

Nhƣ đã nêu ở mục 2.1.2 “Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL

cho phụ nữ nông thôn hiện nay” mà tác giả luận văn phân tích. Một số văn bản luật

chƣa đƣợc sửa đổi, bổ sung kịp thời bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống

pháp luật. Một số văn bản hƣớng d n thi hành Luật còn chậm đƣợc ban hành (văn

bản hƣớng d n TGPL cho một số đối tƣợng đặc thù trong đó phụ nữ nông thôn là

điển hình, chính sách phúc lợi tốt đối với ngƣời thực hiện TGPL để khuyến khích

chủ thể tham gia TGPL) chƣa thu hút đƣợc các cá nhân, tổ chức xã hội tham gia

hoạt động TGPL

Việc lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chƣa đƣợc

quan tâm đúng mức và còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Pháp luật hiện hành

75

chƣa có nhiều quy định đặc thù để đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn. Quy

định pháp luật về quyền của phụ nữ nói chung, phụ nữ ở nông thôn nói riêng chƣa

thực sự phù hợp, thiếu tính cụ thể, bộc lộ nhiều hạn chế. Các quy định về cơ cấu, tổ

chức bộ máy của các cơ quan làm công tác phụ nữ còn nhiều bất cập.

Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL ở một số địa phương chưa được củng cố,

kiện toàn theo quy hoạch, chưa đáp ứng yêu cầu TGPL của phụ nữ vùng nông thôn

Ở một số địa phƣơng, mạng lƣới tổ chức thực hiện TGPL chƣa đƣợc củng

cố, đội ng ngƣời thực hiện TGPL chƣa đƣợc tăng cƣờng tƣơng xứng với yêu cầu

TGPL của phụ nữ nông thôn. Nhiều khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa chƣa

thành lập đƣợc Chi nhánh TGPL vì lý do kinh phí, chƣa tuyển đƣợc ngƣời thực hiện

TGPL. Các Câu lạc bộ thành lập với mục đích tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến

với ngƣời dân nói riêng và phụ nữ nói chung nhƣng nhìn chung chất lƣợng hoạt

động chƣa cao, quỹ câu lạc bộ gần nhƣ không có, ban chủ nhiệm Câu lạc bộ chƣa

thực sự tâm huyết với hoạt động TGPL. Bên cạnh đó, khu vực địa bàn thôn trong

khu vực cấp xã thành lập quá nhiều Câu lạc bộ giải trí: Câu lạc bộ quan họ, Câu lạc

bộ khiêu v , Câu lạc bộ kịch hội, Câu lạc bộ đàn ca sáo nhị...thu hút nhiều ngƣời

dân tham gia vì mang tính chất giải trí tinh thần. Câu lạc bộ về TGPL nội dung chƣa

thực sự phong phú, sự đầu tƣ về chất lƣợng còn ít, không thu hút đƣợc nhiều phụ nữ

nông thôn và các đối tƣợng khác tham gia. Chính quyền địa phƣơng, thôn xóm chƣa

thực sự quan tâm, hỗ trợ công tác tuyên truyền hoạt động Câu lạc bộ TGPL, có quá

nhiều Câu lạc bộ khiến việc ngƣời tham gia có nhiều sự lựa chọn, thay vì việc lựa

chọn Câu lạc bộ pháp luật khô khan thì ngƣời dân sẽ lựa chọn Câu lạc bộ mang tính

chất giải tỏa tinh thần hơn. Ở một số nơi, Ủy ban nhân dân còn e ngại với hoạt động

triển khai Câu lạc bộ TGPL vì phải đối thoại trực tiếp với ngƣời dân về những vấn

đề đang trọng thời gian chờ thụ lý giải quyết. Điều kiện đi lại khó khăn do đƣờng xá

xa xôi, công tác quá nhiều nên Trung tâm đôi khi không hỗ trợ tham dự đầy đủ các

buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ. Đời sống kinh tế của ngƣời dân tại địa phƣơng còn

rất nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, vì vậy ý thức của họ về pháp luật còn rất

kém, đa số ngƣời dân không quan tâm đến việc tìm hiểu pháp luật.

76

Mặc dù địa phƣơng đã triển khai, vận động khuyến khích các tổ chức hành nghề

luật sƣ, các Trung tâm tƣ vấn pháp luật thuộc các tổ chức đoàn thể xã hội, nhƣng số

lƣợng ngƣời tham gia TGPL trong các tổ chức này còn hạn chế, số lƣợng vụ việc thực

hiện TGPL chƣa cao, chủ yếu chỉ tập trung ở những vụ việc pháp luật đơn giản và các

đợt tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật đến với nhân dân.

Đội ngũ người thực hiện TGPL hiện nay còn thiếu về số lượng, thù lao của

Luật sư không xứng đáng với công sức

Các Chi nhánh trung tâm TGPL hiện nay chƣa bố trí đủ nguồn nhân lực

trong việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn và ngƣời dân trong địa phƣơng.

Số lƣợng Trợ giúp viên pháp lý đăng ký tham gia thực hiện TGPL còn thiếu gây

khó khăn trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nguồn cán bộ chuyên trách TGPL. Mặc dù

hàng năm Bộ Tƣ pháp đều tích cực chủ động mở các lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ

TGPL nâng cao chất lƣợng Trợ giúp viên pháp lý nhƣng ở địa phƣơng không có

ngƣời đủ tiêu chuẩn để tham gia, đây c ng là khó khăn không nhỏ mà Bộ Tƣ pháp

và địa phƣơng cần phải có biện pháp khắc phục nhanh chóng. Vì mục tiêu phát triển

Nông thôn mới, đây c ng là kế hoạch và nhiệm vụ lâu dài mà chính quyền địa

phƣơng cần có phƣơng án triển khai phù hợp với sự phát triển của kinh tế đất nƣớc

trong những năm tới.

Số lƣợng luật sƣ tham gia làm cộng tác viên chiếm tỷ lệ nhỏ, các vụ việc

tham gia tố tụng chủ yếu do Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm thực hiện. Kinh

phí nhà nƣớc ở địa phƣơng dành cho công tác TGPL còn nhiều hạn chế. Thù lao chi

trả cho Luật sƣ khi giải quyết vụ việc không phù hợp với mong muốn của Luật sƣ,

không xứng đáng công sức của Luật sƣ gây ảnh hƣởng đến chất lƣợng công việc.

Chính sách chƣa tốt d kéo theo hệ lụy Luật sƣ sẽ ng ng cộng tác với Nhà nƣớc

trong hoạt động TGPL mà hiện nay tỷ lệ đội ng Luật sƣ tham gia vào công tác

TGPL trong cả nƣớc rất thấp, thậm chí một số vùng địa phƣơng vùng sâu vùng xa

thiếu Luật sƣ trầm trọng.

2.2.3. Những bất cập và thách thức trong hoạt động TGPL còn tồn tại

Ngoài những cản trở và khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông

thôn, hoạt động TGPL còn gặp những bất cập và thách thức sau:

77

Thứ nhất, nhận thức về vị trí, vai trò và yêu cầu TGPL trong giai đoạn hiện

nay của một số lãnh đạo Sở Tƣ pháp, lãnh đạo Trung tâm và viên chức Trung tâm

TGPL nhà nƣớc, cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có liên quan còn chƣa đầy

đủ, chƣa đáp ứng yêu cầu về công tác TGPL đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển

xã hội văn minh. Một số cán bộ chƣa chủ động tham gia các lớp tập huấn, huấn

luyện về hoạt động TGPL để rèn luyện, nâng cao kinh nghiệm trong công tác

TGPL, v n còn mang theo lối tƣ duy c , chƣa khách quan về kinh phí cho hoạt

động TGPL, chỉ thực hiện theo hình thức đủ và chƣa có sự sáng tạo trong hoạt động

TGPL trong khi nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ pháp lý của ngƣời dân ngày càng tăng lên,

một số trƣờng hợp v n để bỏ lọt đối tƣợng đƣợc TGPL.

Thứ hai, hoạt động TGPL lƣu động mang tính hình thức, chƣa chú trọng đến

chất lƣợng, không thực hiện nhiều vụ việc mà chủ yếu tuyên truyền, phổ biến về các

lĩnh vực pháp luật hoặc phổ biến các văn bản pháp luật mới

Việc TGPL lƣu động còn mang tính phân bổ dàn trải nhƣ huyện nào c ng có

vài xã đƣợc TGPL lƣu động hàng năm, dựa trên kinh phí đã đƣợc cấp, chƣa thực sự

quan tâm đến yếu tố là có nhu cầu hay không, bao nhiêu, lĩnh vực pháp luật nào,

nên sự chuẩn bị chƣa đƣợc chu đáo, chƣa sát với yêu cầu của đối tƣợng đăng ký

tham gia nhận TGPL và khi lập hồ sơ của đối tƣợng trong đợt TGPL lƣu động c ng

chƣa đƣợc chặt chẽ, chính xác, nên nhiều đơn yêu cầu TGPL không thể hiện tài liệu

chứng minh mình là đối tƣợng, nhƣng v n lƣu hồ sơ, v n tính là vụ việc TGPL gây

ảnh hƣởng trong việc làm báo cáo không chính xã và gây ảnh hƣởng lãng phí về

kinh phí thực hiện TGPL. Việc thông báo đến tham gia TGPL lƣu động cho ngƣời

dân phải nhờ đến Ủy ban nhân dân xã nới đƣợc TGPL, nên xã nhiệt tình thì có

thông báo, xã không nhiệt tình thì không thông báo hoặc thông báo hạn chế nên

ngƣời dân không thể biết để đến dự đƣợc [25, tr. 17 - 19].

Thứ ba, nhiều Câu lạc bộ TGPL thành lập ở cơ sở chủ yếu mang tính hình

thức, nội dung sinh hoạt chƣa thực sự phong phú, thảo luận trao đổi về pháp luật

con chung chung, chƣa đi đúng trọng tâm về vấn đề cần TGPL cho phụ nữ ở nông

thôn, hoạt động của Câu lạc bộ không có ngƣời thực hiện TGPL để tƣ vấn, hƣớng

d n cách giải quyết vụ việc và áp dụng các điều luật.

78

Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL nội dung truyền thông chỉ đƣa

ra các hoạt động TGPL đối với nhóm ngƣời đƣợc quy định trong Điều 7 của Luật

TGPL. Ở vùng nông thôn Việt Nam, phụ nữ nông thôn là đối tƣợng cần đƣợc TGPL,

cần đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, vì họ là lực lƣợng lao động quan trọng và chủ

chốt trong sản xuất nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn đã và đang góp phần quan trọng

vào tăng trƣởng kinh tế và phát triển xã hội của Việt Nam, nhƣng đến nay, các quy

định pháp luật còn bỏ ngỏ, chƣa đảm bảo hết quyền và lợi ích cho phụ nữ nông thôn,

các quy định chỉ d ng lại ở việc: hôn nhân gia đình, chống bạo lực gia đình và xâm

hại tình dục, chống nạn buôn bán ngƣời trái phép và chống bất bình đẳng giới. Ngoài

những vấn đề trên, Nhà nƣớc chƣa thiết lập đƣợc các cơ chế, chính sách đặc thù đảm

bảo các quyền kinh tế của phụ nữ ở nông thôn; trong nhiều chính sách, chƣơng trình,

mục tiêu về phát triển kinh tế vùng nông thôn chƣa chú trọng nhiều đến vấn đề giới;

chƣa có các biện pháp hữu hiệu để đảm bảo rằng phụ nữ ở nông thôn đƣợc tham gia

vào các công việc có trả lƣơng, hoặc có quyền tiếp cận với những việc làm trong khu

vực lao động chính thức và chỉ d ng lại ở việc đƣa ra các sự kiện, chƣa phản ánh sinh

động hoạt động của công tác nên chƣa thực sự thu hút.

Thứ tƣ, hệ thống tổ chức thực hiện TGPL chƣa phù hợp, d n đến hiệu quả

hoạt động chƣa cao so với những yêu cầu thực ti n. Tổ chức bộ máy TGPL hiện

đang áp dụng chung mô hình trên toàn quốc mà chƣa tính đến đặc thù t ng vùng,

miền nên một số địa phƣơng khi triển khai hoạt động công tác TGPL đến ngƣời dân

còn gặp nhiều hạn chế, năng suất công việc không cao. Điều kiện về cơ sở vật chất

chƣa bảo đảm gây khó khăn cho trợ giúp viên pháp lý khi thực hiện TGPL phụ

thuộc vào kinh phí hoạt động. Việc đầu tƣ về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động

TGPL ở một số địa phƣơng còn gặp nhiều bất cập. Mặc dù, Trung tâm là đơn vị sự

nghiệp công lập không có thu, thực hiện nhiều nhiệm vụ TGPL đặc thù nhƣng mức

cấp cho Trung tâm v n khoán theo chỉ tiêu biên chế, kinh phí cho TGPL trên thực tế

còn rất thấp. Địa điểm tiếp công dân ở một số Trung tâm còn chật hẹp, chƣa thuận

tiện cho dân, các cơ sở vật chất đƣợc các Dự án đầu tƣ đã hƣ hỏng, xuống cấp

nhiều. Phòng tiếp đón đối tƣợng TGPL là phụ nữ và trẻ em nông thôn không có

79

phòng riêng, những vấn đề nhạy cảm khi phụ nữ nông thôn cần TGPL nhƣng muốn

trợ giúp viên giữ bí mật để không ảnh hƣởng đến cuộc sống hàng ngày.

Thứ năm, việc huy động nguồn lực tham gia TGPL gặp nhiều khó khăn, mặc

dù đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc trong việc đƣa ra các chính sách tuyển

dụng, khuyến khích hỗ trợ Nhà nƣớc TGPL đến vùng nông thôn, nhƣng số lƣợng

chủ thể tham gia còn ít, sự phân bố đội ng luật sƣ không đồng đều, đa số các luật

sƣ có kinh nghiệm đều muốn công tác tại thành phố lớn nhƣ: Hà Nội, Hồ Chí

Minh... Ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa chủ yếu luật sƣ còn khá trẻ, mới

hành nghề, mặc dù kiến thức pháp luật rất tốt nhƣng hạn chế lớn về kỹ năng và

thiếu kinh nghiệm thực nghiệm TGPL, chất lƣợng vụ việc chƣa đáp ứng đƣợc yêu

cầu. Và để giải quyết vụ việc mang tính chất phức tạp, thì phải đợi đội ng luật sƣ

nhiều kinh nghiệm có đợt công tác tại địa phƣơng, vụ việc kéo dài lâu và mất nhiều

thời gian. Chủ thể thực hiện TGPL v n còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn trong

thực hiện chƣơng trình, tra cứu văn bản, tham gia xây dựng, giám sát c ng nhƣ

phản biện xã hội. Việc TGPL mi n phí cho phụ nữ bằng hình thức tham gia tố tụng,

đại diện ngoài tố tụng còn thấp so với nhu cầu thực tế.

Do vậy, để tiếp tục đƣa các quy định của Luật TGPL và các văn bản quy

định chi tiết, hƣớng d n thi hành vào cuộc sống phụ nữ nông thôn cần tiếp tục đẩy

mạnh các hoạt động sau:

+ Tiếp tục tăng cƣờng công tác quán triệt Lãnh đạo các sở, ban, ngành ở địa

phƣơng để có nhận thức đúng và đầy đủ về chính sách TGPL của Nhà nƣớc;

+ Tiếp tục tăng cƣờng công tác truyền thông về TGPL, thực hiện ứng dụng

mạnh mẽ công nghệ thông tin trong toàn hệ thống tổ chức TGPL. Đa dạng các hình

thức, phƣơng thức truyền thông về TGPL để nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ

chức trong xã hội về vị trí, vai trò của hoạt động TGPL, trƣớc hết là những ngƣời

làm công tác quản lý, thực hiện và phối hợp trong công tác này; quyết liệt trong việc

ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải quyết công

việc chuyên môn, nghiệp vụ.

+ Tiếp tục tăng cƣờng tập huấn nâng cao năng lực cho đội ng ngƣời thực

80

hiện TGPL, tăng cƣờng công tác kiểm tra, kết nối với các cơ quan quản lý, tổ chức

thực hiện TGPL tại địa phƣơng; nắm bắt, theo dõi việc triển khai Luật TGPL và các

văn bản pháp luật về TGPL, kịp thời hƣớng d n, tháo gỡ khó khăn, vƣớng mắc cho

các địa phƣơng;

+ Tiếp tục tập trung nguồn lực tổ chức triển khai thi hành Luật TGPL và các

văn bản hƣớng d n thi hành bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả trên

phạm vi cả nƣớc;

+ Nâng cao số lƣợng c ng nhƣ chất lƣợng dịch vụ TGPL, đặc biệt là các vụ

việc tham gia tố tụng; nâng cao năng lực cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL, hạn

chế bỏ lọt đối tƣợng đƣợc TGPL, tăng số lƣợng các vụ án có Luật sƣ và Trợ giúp

viên pháp lý tham gia;

+ Tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, thực hiện kiểm tra và đánh giá chất

lƣợng đối với công tác TGPL tại các địa phƣơng để tiếp tục tạo sự chuyển biến

mạnh mẽ về công tác TGPL; tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các Bộ, ngành,

địa phƣơng, các tổ chức có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác TGPL,

nhất là công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng....

Khi xảy ra các vấn đề liên quan đến tranh chấp pháp lý, Trung tâm TGPL rất

bị động, chỉ nhận đƣợc thông tin vụ việc khi có ngƣời đến báo mà hoàn toàn không

có kênh thông tin để tìm hiểu những vấn đề xảy ra trên địa bàn để thực hiện TGPL.

Đa số Trung tâm TGPL cần phải dựa vào sự hỗ trợ t các bộ và ban ngành ở địa

phƣơng hợp tác đƣa ra số liệu, thông tin chi tiết để thực hiện TGPL.

2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn

2.3.1. Kết quả triển khai hoạt động TGPL

Có thể nói, chế độ, chính sách cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL đã đƣợc

quan tâm. Công tác TGPL bƣớc đầu đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi

tốt nhất cho các đối tƣợng yếu thế phụ nữ nông thôn trong các vụ án hình sự, dân

sự... đƣợc ngƣời dân tin tƣởng, ủng hộ. Hầu hết các địa phƣơng đã thể hiện sự nhất

trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Kết quả cụ thể nhƣ sau:

Về xây dựng văn bản: Bám sát nội dung của Luật TGPL năm 2017 và Nghị

81

định số 144/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số

điều của Luật TGPL, trong năm 2018, liên ngành, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp ký ban

hành 04 văn bản quy phạm pháp luật (01 Thông tƣ liên tịch; 03 Thông tƣ của Bộ

trƣởng Bộ Tƣ pháp), đặc biệt là việc phối hợp ban hành Thông tƣ liên tịch số

10/2018/TTLT/BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29/6/2018 đã tạo

bƣớc đột phá trong công tác phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng. Tất cả các

vụ việc TGPL không phụ thuộc vào việc có yêu cầu TGPL hay không đều đƣợc các

cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến Trung tâm TGPL nhà nƣớc. Thông tƣ liên

tịch số 10 sẽ hạn chế bỏ lọt đối tƣợng, đƣa Luật TGPL năm 2017 vào cuộc sống,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc TGPL.

Bộ Tƣ pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các văn

bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động TGPL và trình Thủ

tƣớng Chính phủ Báo cáo kết quả rà soát các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm

phù hợp với quy định của Luật TGPL năm 2017 (Báo cáo số 118/BC-BTP ngày

24/5/2018) và Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 11281/VPCP-TLPL ngày

20/11/2018 thông báo ý kiến của Phó Thủ tƣớng Chính phủ Trƣơng Hòa Bình về việc

rà soát văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm phù hợp với Luật TGPL năm 2017.

- Kết quả triển khai Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết,

hƣớng d n thi hành tại các địa phƣơng

+ Đến nay, 63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ƣơng đã ban hành Kế hoạch

triển khai thi hành Luật và tổ chức Hội nghị triển khai Luật TGPL năm 2017, cụ thể:

Các địa phƣơng đã và đang thực hiện rà soát và đánh giá hiệu quả hoạt động

của các Chi nhánh; rà soát tổ chức tham gia TGPL và ngƣời tham gia TGPL, rà soát

ngƣời đƣợc TGPL. Đồng thời, cơ quan thực hiện quản lý TGPL ở trung ƣơng c ng

đã thông qua nhiều kênh nhằm nắm bắt, giải đáp kịp thời những vƣớng mắc của địa

phƣơng trong việc triển khai Luật, các văn bản quy định chi tiết và hƣớng d n thi

hành nhƣ tổ chức các hội nghị triển khai văn bản mới, các lớp tập huấn tăng cƣờng

năng lực, văn bản trả lời kiến nghị, hƣớng d n nghiệp vụ TGPL.

Ngày 10/1/2013, Bộ Tƣ pháp và Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

82

đã ban hành Chƣơng trình phối hợp số 14/CTPH-BTP-HLHPNVN về việc đẩy

mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho

phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2013- 2017

đánh dấu bƣớc ngoặt lớn trong hoạt động TGPL, giáo dục pháp luật đến với toàn

thể phụ nữ Việt nam nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng, sau gần 5 năm

thực hiện chƣơng trình phối hợp đã đạt một số kết quả tiêu biểu trong việc TGPL,

giáo dục pháp luật đến với phụ nữ khu vực vùng nông thôn nhƣ sau:

Về hoạt động TGPL

Sở Tƣ pháp và Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã quan tâm, chủ động tiếp cận, xử

lý các thông tin liên quan đến ngƣời đƣợc TGPL là phụ nữ để kịp thời bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ nông thôn.

Trong chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, các Trung tâm TGPL đã phối hợp với

Hội liên hiệp phụ nữ các cấp triển khai việc khảo sát nhu cầu TGPL nhằm xác định

những lĩnh vực pháp luật nào ngƣời dân có nhiều vƣớng mắc để tập trung giải

quyết, thực hiện chƣơng trình lồng ghép nội dung bình đẳng giới; phòng, chống

buôn bán ngƣời; phòng, chống bạo lực gia đình; phòng, chống nạn xâm hại tình dục

trong các hoạt động truyền thông TGPL hoặc thông qua các đợt TGPL lƣu động

hoặc tiếp cận trực tiếp với phụ nữ nông thôn để tƣ vấn, giới thiệu phụ nữ đến với

các tổ chức, trung tâm TGPL để nhận đƣợc hỗ trợ pháp lý mi n phí.

Kết quả hoạt động TGPL cho phụ nữ t năm 2013- 2016 [3, tr.7]:

Tỷ lệ % Năm Số phụ nữ đƣợc TGPL Tổng số ngƣời đƣợc TGPL

63.492 130.808 48.54% 2013

60.809 130.224 46.70% 2014

65.567 142.660 45.9% 2015

45.923 96.963 47.36% 2016

Sau thành công của chƣơng trình phối hợp mang lại kết quả đáng trân trọng,

ngày 05/01/2018, Bộ Tƣ pháp và Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiếp

83

tục ban hành Chƣơng trình phối hợp số 60/CTPH-BTP-HLHPNVN về thực hiện

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ;

hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2018-2022.

Đây là một trong những chƣơng trình phối hợp có sức tác động lớn đến phụ nữ ở

vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm quyền đƣợc thông tin về pháp luật của

phụ nữ, kịp thời hòa giải mâu thu n, tranh chấp, vi phạm pháp luật tại cộng đồng

dân cƣ, thúc đẩy việc thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, hội

viên phụ nữ. Phát huy đầy đủ vai trò, nâng cao trách nhiệm của ngành Tƣ pháp và

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải ở cơ sở và lồng ghép

giới trong xây dựng pháp luật.

- Công tác truyền thông về TGPL đƣợc triển khai đồng bộ trên các phƣơng

tiện thông tin đại chúng, cụ thể: Thƣờng xuyên duy trì, vận hành Trang thông tin

điện tử của Cục TGPL; thực hiện các cuộc phỏng vấn chuyên sâu về TGPL; phóng

sự về việc thực hiện TGPL cho ngƣời đƣợc TGPL; Biên soạn và tổ chức in ấn,

phát hành 04 tờ gấp pháp luật giới thiệu về hoạt động TGPL và 01 cuốn sách:

“Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hƣớng d n thi hành (tập 1)”; viết bài và

đăng các tạp chí, báo viết về các quy định Luật TGPL và các văn bản quy định chi

tiết, hƣớng d n thi hành. Ở địa phƣơng, có sự tăng cƣờng phối hợp với các Đài

truyền hình, đài phát thanh, báo viết, trang thông tin điện tử để tích cực truyền

thông về công tác TGPL. Đến nay, hoạt động truyền thông về TGPL ngày một

nâng cao và đổi mới, các vùng nông thôn luôn đƣợc tiếp cận thông tin về TGPL

một cách kịp thời, nhanh chóng và chính xác. Hình thành thói quen cho ngƣời dân

việc tham gia các hoạt động TGPL, lắng nghe thông tin TGPL t loa đài, góp phần

xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật trong các thôn xóm ở vùng nông thôn, vùng

sâu, vùng xa và biên giới hải đảo.

- Tiếp tục nâng cao chất lƣợng tham gia tố tụng cho đội ng ngƣời thực hiện

TGPL, ở Trung ƣơng và địa phƣơng đã tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng TGPL

trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho ngƣời

84

khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ,

nạn nhân buôn bán ngƣời trái phép, phụ nữ vùng nông thôn và trẻ em gái độ tuổi

dƣới 18 tuổi. Với nội dung tập huấn thiết thực, bổ ích do đội ng giảng viên giàu

kinh nghiệm giảng dạy đến t các trƣờng đại học chuyên ngành Luật của cả nƣớc,

các lớp tập huấn luôn nhận đƣợc những phản hồi tích cực t phía đội ng ngƣời

thực hiện TGPL ở địa phƣơng. Về ứng dụng công nghệ thông tin trong TGPL: Năm

2018, Phần mềm Quản lý tổ chức và hoạt động TGPL đã đƣợc hoàn thiện và chạy

thử nghiệm tại trên 30 Trung tâm TGPL nhà nƣớc trên toàn quốc nhƣ Hà Nội, Hải

Phòng, Hồ Chí Minh, Hải Dƣơng, Hà Tĩnh, Gia Lai...; thực hiện cấp tài khoản cho

63 Trung tâm TGPL nhà nƣớc và là bƣớc tiến quan trọng cho việc triển khai chính

thức trong toàn quốc trong năm 2019.

Song song với việc triển khai các hoạt động truyền thông TGPL. Hàng năm,

Ngành Tƣ pháp các cấp c ng đã tham mƣu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp triển

khai thực hiện Ngày Pháp luật (9/11) để tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, đồng thời

tăng cƣờng nhận thức cho mọi ngƣời về vai trò của luật pháp trong đời sống, tăng

cƣờng sự hiểu biết pháp luật và khả năng thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý

Nhà nƣớc, hoạt động kinh tế - xã hội và sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân.

Thông qua Ngày Pháp luật giúp cho mọi tổ chức, cá nhân, công dân có ý

thức tuân thủ pháp luật tốt hơn, là dịp để đánh giá lại những kết quả đã đạt đƣợc và

những hạn chế trong hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật; là cơ hội để tổ chức

nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cộng đồng thông qua những cách

thức khác nhau. Hiện nay, Ngày pháp luật (9/11 hàng năm) đang ngày càng đƣợc tổ

chức bài bản với nhiều mô hình sáng tạo ở các địa phƣơng, các Ban, Ngành, Đoàn

thể nhƣ: Mít tinh, tọa đàm, hội nghị, hội thảo, cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật...

Việc tổ chức Ngày pháp luật là dịp để các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng tổ

chức thực hiện truyền thông pháp luật với cƣờng độ cao đến các mọi tầng lớp Nhân

dân. Nhờ đó, nhận thức, hiểu biết của ngƣời dân về pháp luật, trong đó có đối tƣợng

là chị em phụ nữ vùng nông thôn đƣợc tăng cƣờng.

Theo tác giả luận văn, một trong những hình thức có hiệu quả trong công tác

85

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đối tƣợng là phụ nữ nông thôn là

việc tổ chức xây dựng các mô hình Câu lạc bộ (CLB) pháp luật nhƣ: CLB Phụ nữ

nông thôn với pháp luật, trong đó, Hội Phụ nữ cần phối hợp với cơ quan Tƣ pháp

các cấp thành lập các CLB Phụ nữ nông thôn với pháp luật tại các xã, phƣờng, thị

trấn trên địa bàn tỉnh.

Tuỳ theo nhu cầu và điều kiện thực tế, các câu lạc bộ Phụ nữ nông thôn với

pháp luật xây dựng nội dung sinh hoạt phù hợp với tình hình địa phƣơng để tuyên

truyền, trợ giúp pháp lý cho hội viên các vấn đề về: Dân sự, hôn nhân và gia đình,

bạo lực gia đình, bình đẳng giới, chính sách đối với ngƣời có công, trẻ em... Với

hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, nội dung sinh hoạt thiết thực, bổ ích gần

g i với thực tế cuộc sống, không khí sinh hoạt vui tƣơi, cởi mở... các thành viên

trong CLB Phụ nữ nông thôn với pháp luật cùng trao đổi, thảo luận, chia sẻ về

những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, t đó chuyển tải các chủ trƣơng, đƣờng lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc một cách d hiểu, d nhớ, thu hút

đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia. Qua hoạt động CLB giúp các thành viên nâng

cao hiểu biết pháp luật để thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, thiên chức của ngƣời vợ,

ngƣời mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các hội viên

của CLB là những nhân tố gƣơng m u chấp hành đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách,

pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc và các quy định của địa phƣơng. Là những tuyên

truyền viên tích cực tham gia tuyên truyền pháp luật đến với ngƣời dân. Bên cạnh

sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật cho các đối tƣợng là phụ nữ, thì rất cần sự nỗ lực, tìm tòi, học hỏi t chính

bản thân mỗi ngƣời, để phụ nữ có thể nâng cao trình độ, nhận thức và ý thức về

pháp luật để tự bảo vệ mình và con cái.

2.3.2. Công tác hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn

2.3.2.1. Công tác phối hợp để tổ chức thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn

Hoạt động TGPL do tổ chức TGPL thực hiện, nhƣng để TGPL đi sâu đƣợc

tình hình thực tế của ngƣời dân tại địa phƣơng, đánh giá đúng thực trạng hoạt động

TGPL, tổ chức TGPL cần có sự phối hợp của các ban ngành các cấp, các tổ chức,

86

đoàn thể. Tổ chức TGPL có năng suất công tác tốt hay không phụ thuộc vào sự liên

kết phối hợp có hiệu quả của các ban ngành, các cấp.

Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài

Truyền hình Việt Nam cần ban hành một văn bản liên tịch quy định cơ chế phối

hợp về truyền thông trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý để hoạt động này đƣợc thƣờng

xuyên, liên tục và hiệu quả hơn; tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ

giúp pháp lý.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông pháp luật về trợ giúp

pháp lý đến với nhân dân và các cơ quan, ban, ngành nhất là ở vùng nông thôn,

vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy,

chính quyền các địa phƣơng về công tác trợ giúp pháp lý, Sở Tƣ pháp phối hợp với

các cơ quan truyền thanh, truyền hình tỉnh tăng cƣờng tuyên truyền về công tác trợ

giúp pháp và hoạt động trợ giúp pháp lý. Hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng đều

thực hiện nghiêm túc việc niêm yết công khai bảng thông tin về trợ giúp pháp lý;

phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý; hƣớng d n, giải

thích quyền đƣợc trợ giúp pháp lý cho đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý và đề nghị,

giới thiệu đối tƣợng đến Trung tâm, Chi nhánh yêu cầu trợ giúp pháp lý; đăng ký

tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý

Trung tâm TGPL chủ động, thƣờng xuyên giữ mối quan hệ công tác với cơ

quan Nhà nƣớc, tổ chức các hoạt động liên quan trong công tác trợ giúp pháp lý,

chủ động tham gia giới thiệu văn bản mới liên quan đến việc TGPL cho ngƣời

dân, tham gia thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh, kết hợp tuyên

truyền, phổ biến Luật TGPL, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia

đình, Luật Phòng, chống tội phạm mua bán ngƣời, Luật Phòng, chống bạo lực gia

đình, chính sách ƣu đãi tại địa phƣơng và các văn bản pháp luật về TGPL đến

đông đảo ngƣời dân. Các trung tâm TGPL cần phối hợp với Hội phụ nữ vùng nông

thôn tổ chức các đợt tập huấn, các câu lạc bộ sinh hoạt về pháp luật cho phụ nữ

trong vùng, góp phần giải toả những vƣớng mắc pháp luật của nhân dân, tạo niềm

tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc; góp phần ổn định chính trị, giữ gìn

87

trật tự an toàn xã hội; tạo lập cơ chế thực hiện nguyên tắc Hiến định: Mọi công

dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội; góp phần giữ vững

và tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Giữ vững hoạt động chƣơng trình Chƣơng trình phối hợp số 60/CTPH-BTP-

HLHPNVN về thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ

vấn pháp luật cho phụ nữ; hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp

luật giai đoạn 2018-2022, lấy chƣơng trình phối hợp là tiêu chí, tiền đề trong việc

hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn.

Đối với TGPL trong hoạt động tố tụng, các trung tâm TGPL cần phải phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng (dựa theo tiêu chí của Thông tƣ liên tịch

số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANNDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy

định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tƣ liên

tịch số 10)) để thực hiện, đảm bảo quyền và lợi ích cho đối tƣợng đƣợc trợ giúp.

Khi có đơn yêu cầu TGPL, trung tâm chủ động tiếp cận thông tin, kiểm tra, rà soát

và cử trợ giúp viên hoặc luật sƣ là cộng tác viên tham gia bào chữa. Nhiều vụ án với

sự tham gia tố tụng ngay t đầu của các trợ giúp viên, luật sƣ là cộng tác viên của

trung tâm góp phần làm sáng tỏ nội dung sự việc, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ

quan tố tụng giải quyết vụ việc nhanh chóng, chính xác và đúng theo trình tự thủ tục

quy định pháp luật.

2.3.2.2. Công tác truyền thông, giáo dục và phổ biến TGPL đến với phụ nữ

nông thôn

Kể t khi hệ thống trợ giúp pháp lý đƣợc hình thành và phát triển đến nay,

công tác truyền thông về hoạt động trợ giúp pháp lý luôn đƣợc đặc biệt quan tâm,

đã có nhiều hình thức truyền thông đến với ngƣời dân nhƣ: giới thiệu về hoạt động

trợ giúp pháp lý trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, tờ gấp pháp luật, đặt Bảng

thông tin về trợ giúp pháp lý tại cơ quan tiến hành tố tụng, trụ sở tiếp công dân. Bên

cạnh đó công tác truyền thông c ng đƣợc đẩy mạnh thông qua loa truyền thanh của

xã, thôn, bản, nói chuyện pháp luật buổi tối và qua trợ giúp pháp lý lƣu động

88

Nhờ tuyên truyền tích cực về công tác trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp

pháp lý, nhận thức của các cơ quan nhà nƣớc về chức năng, phạm vi, lĩnh vực hoạt

động và sự cần thiết của trợ giúp pháp lý đã đƣợc nâng cao và ngày càng nhận đƣợc

sự tín nhiệm, tin tƣởng của cấp ủy, chính quyền các địa phƣơng. Theo số liệu của

Bộ Tƣ Pháp năm 2017, nhiều địa phƣơng đã tạo điều kiện, tăng biên chế c ng nhƣ

ngân sách hoạt động hàng năm cho Trung tâm (Hà Nội: 63 biên chế; Lào Cai: 30;

Cao Bằng: 23; Đăk Lăk: 24; thành phố Hồ Chí Minh 20; Cần Thơ: 44;), nhiều

Trung tâm đã đƣợc bố trí trụ sở riêng thuận lợi cho việc tiếp công dân c ng nhƣ

đƣợc trang bị: máy ảnh, máy chiếu và ô tô công vụ phục vụ cho công tác trợ giúp

pháp lý lƣu động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng

Các hình thức truyền thông phổ biến TGPL mà Bộ tƣ pháp đang thực hiên:

a. Tờ gấp, cẩm nang, tài liệu pháp luật

Hàng năm, hệ thống trợ giúp pháp lý t Trung ƣơng đến địa phƣơng thƣờng

xuyên biên soạn các loại tờ gấp pháp luật đi sát vào đời sống tinh thần của nhân

dân. Thực hiện phát các loại Tờ gấp pháp luật phát mi n phí cho ngƣời dân khi

thực hiện tƣ vấn, trong các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động, tổ chức sinh hoạt Câu

Lạc bộ hoặc đƣợc đặt trong Hộp tin trợ giúp pháp lý, để thông qua tờ gấp pháp

luật, ngƣời dân sẽ nắm đƣợc các quy định pháp luật để vận dụng trong đời sống

hàng ngày...Có thể thấy, hình thức truyền thông này sẽ tiếp tục mang lại những

những hiệu quả thiết thực, tiết kiệm chi phí, truyền tải đƣợc nhiều nội dung pháp

luật, đặc biệt phù hợp với điều kiện ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,

vùng có điều kiện đi lại khó khăn.

b. Truyền thông qua các chuyên Trang, chuyên mục trên Đài Phát thanh,

truyền hình, Báo, Tạp chí, Bản tin

Ở Trung ƣơng, Cục Trợ giúp pháp lý đã tích cực phối hợp với các ban, ngành

để tuyên truyền, nâng cao vị trí, vai trò, của trợ giúp pháp lý trong xã hội, đã phối

hợp với Đài truyền hình Việt Nam thực hiện phóng sự truyền hình về hoạt động

TGPL; phối hợp với Báo Pháp luật Việt Nam,Tạp chí Dân chủ và pháp luật đƣa các

chuyên mục về trợ giúp pháp lý với các tin, bài viết nghiên cứu về hoạt động TGPL.

89

Ngoài ra, một số báo có uy tín c ng thƣờng xuyên có các bài viết về hoạt động trợ

giúp pháp lý.

Ở địa phƣơng, các Sở Tƣ pháp đã phối hợp với Báo, Đài của tỉnh thƣờng

xuyên có các chuyên mục về trợ giúp pháp lý nhƣ: Pháp luật và đời sống, Luật sƣ

của bạn. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh và truyền hình các tỉnh, thành phố có mục Trả

lời thƣ bạn nghe đài, Hộp thƣ truyền hình... c ng nhƣ các phóng sự, phim tài liệu về

hoạt động trợ giúp pháp lý, tin tức về các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động để nhân dân

trong vùng nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng cập nhật thông tin nhanh

chóng, chính xác.

c. Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam

Đẩy mạnh phát triển tối đa công tác truyền thông, kịp thời cập nhật và truyền

tải các hoạt động TGPL trên cả nƣớc, Trang thông tin điện tử của Cục TGPL đã

đƣợc nâng cấp với một phiên bản mới, đây là kênh thông tin phong phú, đa dạng về

tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phản ánh tƣơng đối đầy đủ các hoạt động trợ

giúp pháp lý trong toàn quốc, là di n đàn trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng trợ giúp

pháp lý của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, phổ biến chính sách trợ giúp pháp lý

của Nhà nƣớc đến đông đảo ngƣời dân. Số lƣợng các bài viết không ng ng đƣợc

tăng lên với nội dung phong phú và có chất lƣợng, t năm 2013 đến nay đã có

khoảng 450 bài viết đƣợc đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục Trợ giúp

pháp lý Việt Nam.

Để giới thiệu đến bạn bè quốc tế về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam,

Cục Trợ giúp pháp lý đã và đang hoàn thiện Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý

Việt Nam bằng phiên bản tiếng Anh, với mục đích tạo di n đàn trao đổi, chia sẻ

kinh nghiệm, nghiên cứu những mô hình trợ giúp pháp lý trên thế giới đang áp dụng

vào thực ti n hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam,.

d. Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý

Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý (với các nội dung nhƣ: ngƣời đƣợc trợ

giúp pháp lý; quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý; thủ tục yêu cầu

trợ giúp pháp lý; địa chỉ, điện thoại liên hệ của Trung tâm, Chi nhánh) ngoài việc

90

đƣợc niêm yết tại trụ sở các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn đƣợc niêm yết

công khai tại trụ sở tiếp công dân của các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại Tạm

giam; Nhà Tạm giữ; các cơ quan, ban, ngành để mọi ngƣời dân d dàng tiếp cận

biết đƣợc trình tự.

e. Truyền thông thông qua loa truyền thanh của xã, phường, thôn, bản

Việc tuyên truyền về công tác trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý

qua các phƣơng tiện truyền thông tại xã, phƣờng, thị trấn, thôn, bản đã t ng bƣớc

đƣợc chú trọng, nhiều địa phƣơng đã tổ chức phát thanh vào các buổi chiều hàng

tuần t 17:00 giờ đến 18:30 giờ để ngƣời dân nói chung và phụ nữ nói riêng lắng

nghe và tiếp cận thông tin chính xác nhất. Đây là một trong những kênh thông tin

đem lại hiệu quả tốt, đặc biệt là ở những địa bàn vùng nông thôn, vùng sâu, vùng

xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện đi lại khó khăn.

91

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Chƣơng 2, tác giả luận văn phân tích lịch sử hình thành và phát triển của hệ

thống pháp luật về TGPL, đi vào thực ti n về hiệu quả và kết quả hoạt động TGPL

thông qua việc phân tích thực trạng về tổ chức thực hiện TGPL, đội ng ngƣời thực

hiện TGPL, thực trạng về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí bảo đảm cho hoạt động

TGPL, thực trạng về hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn mà trọng tâm là hoạt

động cung cấp dịch vụ pháp lý đến với phụ nữ, chất lƣợng vụ việc TGPL, hoạt động

truyền thông về TGPL, công tác phối hợp trong TGPL. Đối với mỗi vấn đề, tác giả

luận văn phân tích những kết quả đã đạt đƣợc c ng nhƣ chỉ ra những khó khăn,

nguyên nhân và những bất cập còn tồn tại đã gây ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động

TGPL cho phụ nữ ở nông thôn trong thời gian qua.

T thực trạng về tổ chức, hoạt động TGPL cho phụ nữ ở nông thôn hiện nay,

tác giả luận văn muốn chỉ ra những khó khăn, thách thức, bất cập cần phải nâng cao

chất lƣợng, hiệu quả hoạt động TGPL là một yêu cầu tất yếu và cần thiết. Vì vậy

cần có các phƣơng hƣớng đúng đắn và giải pháp cụ thể để nâng cao hoạt động

TGPL cho phụ nữ nông thôn trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn nữa đáp ứng

đƣợc những yêu cầu của ngƣời dân.

92

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ Ở NÔNG THÔN

3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nông thôn

Trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với quá

trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã giúp nâng

cao nhận thức pháp luật cho phụ nữ nông thôn. Đây là một quá trình giáo dục ý thức

pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nƣớc bằng pháp luật, xác

định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nƣớc và xã hội và trƣớc

các chủ thể khác, để t đó họ nhận thấy đƣợc những hành vi đƣợc phép làm và

những hành vi không đƣợc phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ việc cụ thể,

hoạt động TGPL sẽ giúp phụ nữ nông thôn nắm bắt đƣợc nội dung pháp luật và

cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc sống, nắm đƣợc nội

dung các văn bản pháp luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính

xác, tích cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan

hệ xã hội. Để mở rộng và phát triển, nâng cao chất lƣợng TGPL đến phụ nữ nông

thôn, Đảng và Nhà nƣớc phối hợp với các ban ngành liên quan xây dựng mục tiêu,

phƣơng hƣớng phát triển TGPL đến phụ nữ nông thôn bền vững và lâu dài, cụ thể:

Quan điểm chỉ đạo giám sát, xây dựng cơ sở vật chất trung tâm TGPL của

Đảng và Nhà nước

Lập đƣờng dây nóng: số điện thoại nóng đến các nhân viên trực ban tại

Trung tâm TGPL, thông báo đến t ng hộ gia đình của hội viên phụ nữ nông thôn,

để khi xảy ra vấn đề tranh chấp pháp lý thì có thể liên hệ ngay đến đƣờng dây nóng

để đƣợc hỗ trợ tƣ vấn pháp luật mi n phí, tƣ vấn viên trực sẵn 24/7 đảm bảo đƣờng

dây và các cuộc gọi đều mi n phí, các cuộc gọi đều cài sẵn chế độ ghi âm để tiện

theo dõi, tránh bỏ sót để đảm bảo tối đa một cách tốt nhất thông tin cung cấp

Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ vấn đề chất lƣợng vụ việc TGPL trong nội dung

93

quản lý nhà nƣớc về TGPL, làm cơ sở để quy định rõ trong quá trình sửa đổi, bổ

sung Luật TGPL. Nhà nƣớc cần ban hành chính sách pháp luật hỗ trợ TGPL đến

phụ nữ nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng, vì họ là những đối tƣợng

quan trọng trong đời sống xã hội của con ngƣời. Thực hiện xây dựng quy trình giám

sát nghiêm ngặt về chất lƣợng vụ việc TGPL t thời điểm thụ lý vụ việc cho đến khi

vụ việc đó đƣợc hoàn thành, đảm bảo tính công bằng, dân chủ và khách quan của vụ

việc trong hoạt động TGPL

Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở các Chi nhánh TGPL, đầu

tƣ trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TGPL đƣợc hiểu quả c ng là mục tiêu cho

việc xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.

Tập trung giải quyết những vấn đề: TGPL cho phụ nữ nông thôn, giải quyết

các vấn đề về: bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới, nạn nhân buôn bán ngƣời xuyên

biên giới trái phép, lao động, kinh tế văn hóa xã hội đối với phụ nữ nông thôn

Tăng cƣờng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ

quan và t ng đại biểu hội đồng nhân dân, nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành

Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm

quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị

quyết của hội đồng nhân dân.

Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý chất lƣợng vụ việc

TGPL theo hƣớng xây dựng phần mềm quản lý vụ việc TGPL áp dụng trong toàn

quốc để quản lý đƣợc nội dung vụ việc, quá trình giải quyết vụ việc. Để t đó, Cục

TGPL có căn cứ để lựa chọn vụ việc kiểm tra, đánh giá; phân loại vụ việc; xác định

uy tín của ngƣời thực hiện TGPL

Nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện TGPL

Chế độ đãi ngộ, giữ nhân tài của Nhà nƣớc, thay đổi cách nhìn của Luật sƣ

đối với hoạt động TGPL. Tạo môi trƣờng làm việc tích cực, tạo sự thoải mái trong

công việc gắn kết cơ quan ban ngành Nhà nƣớc với đội ng luật sƣ trong công tác

hoạt động TGPL. Nhà nƣớc cần thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý Trung tâm TGPL,

cần có ngƣời quản lý chính xuyên suốt tại Trung tâm, phối hợp với các ban ngành

trực tiếp TGPL

94

Nâng cao chất lƣợng và trách nhiệm của đội ng trợ giúp viên TGPL, tổ chức

các lớp tập huấn, bồi dƣỡng với các nội dung phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của

đội ng này, góp phần nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL. Cục TGPL và các Trung

tâm TGPL nhà nƣớc cần tăng cƣờng tổ chức các lớp bồi dƣỡng, tập huấn với các

nội dung đa dạng nhƣ: cập nhật kiến thức pháp luật, kiến thức nghiệp vụ chung về

TGPL; các kỹ năng thực hiện TGPL trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính;

kỹ năng thực hiện TGPL cho các đối tƣợng đặc thù nhƣ: trẻ em, phụ nữ, nạn nhân

mua bán ngƣời, nạn nhân bạo lực gia đình, ngƣời khuyết tật, ngƣời dân tộc thiểu

số...; kỹ năng thực hiện các vụ việc phức tạp cần làm việc nhiều với các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan; kỹ năng mềm trong giao tiếp (giao tiếp với ngƣời đƣợc

TGPL, ứng xử với các cơ quan tiến hành tố tụng)

Tăng cƣờng đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề đƣợc đặt

ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách

nhi u, quan liêu, tham nh ng... trong các cơ quan nhà nƣớc. Thực ti n cho thấy, dù

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế,

quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà nƣớc có đạt đến độ hoàn mỹ thì c ng khó

có thể đem lại hiệu quả nhƣ mong muốn nếu nhƣ trong quá trình thực thi công vụ,

cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy

chế, quy tắc ứng xử đã đƣợc thể chế hóa.

Đề xuất xây dựng văn bản Luật có quy định TGPL đến phụ nữ vùng nông

thôn Việt Nam và công tác tuyên truyền, phối hợp về hoạt động TGPL

- Tác giả luận văn đã phân tích ở mục 1.2.1.4 “Luật TGPL chƣa tiếp cận hết

đến quyền lợi ích cho ngƣời phụ nữ”. Theo tác giả luận văn, cần kiến nghị hoàn

thiện hành lang pháp lý về TGPL cho phụ nữ nông thôn Việt Nam. Bên cạnh việc

xây dựng pháp luật, để tạo điều kiện cho phụ nữ có điều kiện tiếp cận với pháp luật,

Nhà nƣớc và các trung tâm TGPL cần tuyên truyền nhiều chuyên đề pháp luật thuộc

các lĩnh vực nhƣ đất đai, hôn nhân gia đình, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật

về phòng chống bạo lực gia đình đến với phụ nữ nông thôn. Đặc biệt là các chuyên

đề về bạo lực gia đình, quyền của phụ nữ và trẻ em, phòng chống tội phạm buôn

95

bán ngƣời đang đƣợc xã hội quan tâm, trọng điểm tại vùng nông thôn, vùng sâu,

vùng xa, những nơi v n đang tồn tại các định kiến lạc hậu về vai trò của ngƣời phụ

nữ trong gia đình và xã hội.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức

chấp hành pháp luật. Thực ti n cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của

việc thực hiện pháp luật chƣa tốt là do kiến thức về luật pháp của phụ nữ vùng nông

thôn chƣa tốt, nhiều ngƣời dân chƣa am hiểu về luật pháp, chƣa ý thức đƣợc sự cần

thiết phải chấp hành luật, hoặc do không nắm đƣợc luật nên vi phạm mà không biết.

Chính vì vậy, để tăng cƣờng việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự

tham gia của các phƣơng tiện thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị - xã

hội c ng nhƣ bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ

cƣơng hành chính, để mệnh lệnh hành chính luôn đƣợc chấp hành một cách nghiêm

túc và thông suốt t trung ƣơng đến cơ sở.

Trong thời gian tới các cấp Hội LHPN trong tỉnh tăng cƣờng sự chỉ đạo của

các cấp uỷ Đảng, chính quyền về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, xứng

đáng với tầm quan trọng của công tác này trong thời kỳ xây dựng nhà nƣớc pháp

quyền xã hội chủ nghĩa; thƣờng xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lƣợng đội

ng làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cƣờng đội ng trẻ và có trình độ

chuyên môn luật. Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ theo kế hoạch và yêu cầu của địa

phƣơng cho đội ng làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Đồng thời, cung cấp

tài liệu để họ thƣờng xuyên cập nhật thông tin, phổ biến kịp thời, chính xác các văn

bản. Duy trì việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc họp,

sinh hoạt định kỳ hàng tháng, quý ở cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể; Thực thi

pháp luật nghiêm minh ở các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền là điều kiện để

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả. Đồng thời, tạo niềm tin vào

pháp luật trong hội viên phụ nữ và nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của

phụ nữ nông thôn

96

Nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý từ yêu cầu hội nhập quốc tế

TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề

chất lƣợng TGPL ngày càng đƣợc đề cao nhằm bảo đảm cho ngƣời dân, phụ nữ

vùng nông thôn đã đƣợc Nhà nƣớc và các ban ngành đoàn thể quan tâm hơn. Trong

thời kỳ hội nhập quốc tế, quyền phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn Việt Nam

nói riêng luôn đƣợc các nƣớc trên thế giới quan tâm về chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp luật đối với phụ nữ. Năm 2019 Hội Liên hiệp

phụ nữ Việt Nam cam kết thực hiện dự án với chủ đề “An toàn cho phụ nữ và trẻ

em gái”: Chăm sóc trẻ em; dinh dƣỡng cho trẻ em và phụ nữ; xây dựng các mô hình

áp dụng pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ, thân thiện với phụ nữ; mô hình các xã biên

giới an toàn nhằm hạn chế tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em và có sự liên kết

chặt chẽ phối hợp với các tổ chức Quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp đến phụ nữ Việt Nam.

Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Ngày 20/12/2012 về các

nguyên tắc và hƣớng d n của liên hợp quốc về tiếp cận TGPL trong hệ thống tƣ

pháp hình sự đã th a nhận TGPL là một thành tố cơ bản của hệ thống tƣ pháp hình

sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Trong Bản quy tắc và hƣớng d n tiếp cận TGPL

trong tƣ pháp hình sự ngày 20/12/2014, Liên Hợp Quốc khuyến nghị các quốc gia

“tạo điều kiện tiếp cận TGPL có chất lƣợng ở mọi vùng của đất nƣớc”. Mặc dù đây

là những nguyên tắc mang tính khuyến nghị của Liên hợp quốc nhƣng những

khuyến nghị này có tầm ảnh hƣởng khá lớn tới thể chế, chính sách của các quốc gia.

Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế sâu rộng nhƣ hiện nay, việc nội

luật hóa các cam kết quốc tế c ng nhƣ đƣa pháp luật quốc gia tiệm cận với các

chuẩn mực quốc tế sẽ nâng cao vị thế, vai trò và hình ảnh Việt Nam trên trƣờng

quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trƣơng chủ động, tích cực hội nhập quốc

tế của Đảng đề ra.

- TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện, nhiều nƣớc trên

thế giới coi TGPL là một trong các tiêu chí của Nhà nƣớc pháp quyền, bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con ngƣời. Hiến pháp nhiều nƣớc quy định quyền đƣợc TGPL

97

trong tƣ pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền

tiếp cận công lý cho những ngƣời không có khả năng thuê luật sƣ, đặc biệt trong vụ

án hình sự. Nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và

mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Xuất phát t việc hội nhập

thế giới mang tính toàn diện, chế định TGPL là rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho

phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ

nông thôn

3.2.1. Giải pháp chung

Nhƣ tác giả luận văn đã nêu ở mục 1.4.5 về “Các biện pháp khuyến khích, hỗ

trợ đối với đối tƣợng đƣợc TGPL và chủ thể TGPL”. Để nâng cao hiệu quả công tác

trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn, Cục trợ giúp pháp lý cần phối hợp với các

ban ngành: Bộ lao động và Thƣơng binh-xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đẩy

mạnh hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ ở nông thôn; cung cấp

số điện thoại đƣờng dây nóng, danh sách địa chỉ, số điện thoại của ngƣời thực hiện

trợ giúp pháp lý, Trung tâm và Chi nhánh, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.

Tiếp tục nâng cao năng lực của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, không chỉ

về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng trợ giúp pháp lý mà còn cần hiểu biết về tâm lý

và cách thức tiếp cận, trao đổi với ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý là phụ nữ nông thôn,

có kỹ năng giải quyết các vấn đề nhạy cảm: bạo lực gia đình, xâm hại tình dục.... Bố

trí địa điểm tiếp phù hợp để họ trình bày cung cấp thông tin, tài liệu một cách đầy

đủ nhất. Cần ghi nhận và khuyến khích sự tham gia của đội ng luật sƣ, tƣ vấn viên

pháp luật có kinh nghiệm đang hoạt động có hiệu quả, đồng thời chọn lọc những

ngƣời có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực ti n và bảo đảm về mặt thời gian

tham gia TGPL để làm cộng tác viên TGPL một cách thực chất, hiệu quả.

Đảng và Nhà nƣớc, chính quyền, mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội phụ nữ

cần coi trọng công tác dân vận, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của chị

em phụ nữ nông thôn. Cần phải đặc biệt chú ý đến phụ nữ thuộc diện chính sách,

phụ nữ cao tuổi, vì đời sống của họ gặp nhiều khó khăn nhất. Luật pháp cần xử lý

98

kịp thời và nghiêm khắc những hành vi xâm hại, l a đảo phụ nữ, để bảo vệ quyền

sống của chị em. Mặt khác, ngƣời phụ nữ nông thôn kể t em học sinh đến bậc cao

tuổi, cần nâng cao hiểu biết pháp luật, gắng gỏi vƣợt lên hoàn cảnh để tự bảo vệ

mình, tự khẳng định mình, làm cho mình có cuộc sống tƣơi vui, xây dựng các gia

đình văn hóa và góp phần vào sự phát triển đất nƣớc.

Để giúp phụ nữ nông thôn có kiến thức pháp luật, có kỹ năng phòng ng a

xâm hại tình dục, bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội... các cấp Hội thực hiện nhiều hình

thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, kỹ năng phòng ng a xâm hại phụ

nữ, trẻ em nhƣ sinh hoạt hội viên, đối thoại chính sách, tƣ vấn pháp luật, trợ giúp

pháp lý lƣu động, sân khấu hóa, thi tìm hiểu pháp luật, viết bài đƣa tin trên hệ thống

thông tin đại chúng, tổ chức các câu lạc bộ (Câu lạc bộ Phụ nữ với pháp luật, Câu

lạc bộ trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình); phòng chống ma

túy t trong gia đình; phòng chống mua bán ngƣời, tố giác tội phạm, v.v…

Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt của các cơ

quan, ngƣời tiến hành tố tụng về công tác TGPL, vị trí và vai trò của nó đối với

ngƣời dân, nhất là ngƣời yếu thế trong xã hội. Nâng cao vị thế của các cơ quan quản

lý nhà nƣớc về TGPL, đặc biệt là Sở Tƣ pháp tại địa phƣơng. Nhà nƣớc cần quan

tâm đầu tƣ thích đáng về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động TGPL, trong đó chú

ý đến yếu tố đặc biệt của hoạt động TGPL: TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, đây

là hoạt động hoàn toàn không có thu, ngƣời đƣợc TGPL hoàn toàn đƣợc mi n phí.

Tiếp tục nghiên cứu các cơ chế góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động

TGPL về kinh phí, về chế độ, chính sách cho ngƣời thực hiện TGPL, tiếp tục

nghiên cứu và đổi mới để tăng cƣờng sự tham gia của các tổ chức hành nghề luật

sƣ, tổ chức tƣ vấn pháp luật có chất lƣợng, uy tín vào hoạt động TGPL thông qua

nhiều hình thức đa dạng, phát huy tốt mọi nguồn lực của xã hội cho hoạt động

TGPL. Qua đó, tăng sự cạnh tranh giữa tổ chức thực hiện TGPL, ngƣời thực hiện

TGPL của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia thực hiện TGPL.

Mặc dù trong bối cảnh thực hiện tinh giản biên chế, xã hội hóa mạnh mẽ dịch

vụ công nói chung, tuy nhiên Nhà nƣớc cần tính đến yếu tố con ngƣời ở các tỉnh

99

vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để

bảo đảm ngƣời đƣợc TGPL có nhu cầu thì sẽ có ngƣời thực hiện cung ứng dịch vụ,

do đó, cần tăng cƣờng số lƣợng ngƣời thực hiện TGPL ở những nơi này;

Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể để triển

khai hiệu quả Luật TGPL và các văn bản hƣớng d n, quy định chi tiết Luật TGPL,

nhất là các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng trong việc phối hợp TGPL trong hoạt

động TGPL. Tăng cƣờng vai trò của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL ở trung

ƣơng và địa phƣơng trong việc triển khai các quy định về phối hợp TGPL trong tố

tụng; đặc biệt trong việc nâng cao nhận thức và cơ chế phối hợp trong việc giải thích

quyền TGPL, chuyển, gửi vụ việc TGPL của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng.

Tăng cƣờng vai trò chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc về TGPL,

nhất là trong triển khai, theo dõi việc thực hiện pháp luật về TGPL. Nhà nƣớc quản

lý tổ chức và hoạt động TGPL sát sao, tăng cƣờng công tác kiểm tra, kiểm soát,

đánh giá chất lƣợng TGPL đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL trong toàn

quốc. Đặc biệt, vai trò của Sở Tƣ pháp đối với công tác TGPL tại địa phƣơng cần

đƣợc phát huy tối đa hơn nữa. Đồng thời, tăng cƣờng sự phối hợp, kết nối giữa Bộ

Tƣ pháp và Sở tƣ pháp với tƣ cách là cơ quan tham mƣu cho cơ quan quản lý nhà

nƣớc về TGPL ở Trung ƣơng và địa phƣơng trong việc quản lý nhà nƣớc về chất

lƣợng TGPL.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về TGPL theo hƣớng bảo đảm minh

bạch, công khai và đơn giản hóa tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia TGPL

và ngƣời dân tiếp cận dịch vụ TGPL, đặc biệt là ứng dụng điện tử trong việc cung

ứng dịch vụ công trực tuyến, hƣớng đến Chính phủ điện tử.Trong bối cảnh đang xây

dựng Chính phủ điện tử, chúng ta c ng cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin

trong hoạt động TGPL nói chung và trong quản lý TGPL nói riêng, nhất là trong

việc giám sát, đánh giá chất lƣợng và hiệu quả TGPL.

Tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lƣợng TGPL theo quy định tại Thông

tƣ số 12/2018/TT-BTP, có thể phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ

chức nghề nghiệp, xã hội nghề nghiệp có chức năng quản lý các tổ chức và ngƣời

100

thực hiện TGPL khác để cùng tham gia việc đánh giá chất lƣợng, đặc biệt, chú ý

đến sự hài lòng của ngƣời sử dụng dịch vụ. Thực hiện việc đánh giá chất lƣợng vụ

việc và giám sát việc đánh giá chất lƣợng vụ việc theo đúng quy định, qua đó nắm

bắt kịp thời thực trạng chất lƣợng vụ việc TGPL để có những giải pháp bảo đảm

chất lƣợng vụ việc.

Tăng cƣờng hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động TGPL;

khen thƣởng, xử lý vi phạm trong hoạt động TGPL. Tăng cƣờng sự kết nối giữa

Trung ƣơng - địa phƣơng; cơ quan quản lý nhà nƣớc - tổ chức thực hiện TGPL, đặc

biệt, chú trọng đến sự tham gia và chất lƣợng dịch vụ do các tổ chức tham gia

TGPL cung cấp. Đổi mới công tác quản lý, tăng cƣờng kiểm tra hoạt động TGPL

của Bộ Tƣ pháp (Cục TGPL) và Sở tƣ pháp đối với các tổ chức thực hiện TGPL

thông qua công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất.

3.2.2. Một số giải pháp cụ thể

Hầu hết những vấn đề lớn về chính sách TGPL của Đảng và Nhà nƣớc đã

đƣợc quy định ở Luật TGPL 2017 rất rõ, tạo thành cơ chế pháp lý điều chỉnh các

vấn đề tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. Tuy nhiên, đứng trƣớc sự thay đổi

của nền kinh tế- xã hội hóa của đất nƣớc, sự phát triển của pháp luật nói chung và

pháp luật liên quan đến hoạt động TGPL nói riêng, khi thực hiện TGPL đến phụ nữ

vùng nông thôn đã bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù

hợp. Với mục tiêu đổi mới công tác TGPL theo hƣớng phát triển xã hội hóa, nắm

bắt kịp thời cơ, xu thể, d dàng hòa nhập nhƣng không hòa tan với TGPL thế giới

hiện nay, thì TGPL ở Việt Nam cần có những giải pháp thay đổi cụ thể nhƣ sau:

3.2.2.1. Thực hiện xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan

đến TGPL cho phụ nữ nông thôn

Nhƣ tác giả luận văn đã phân tích ở mục 2.1.2 về “Thực trạng các quy định

TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn hiện nay” trang 65,66. Hiện nay,

luật TGPL chƣa quy định rõ phụ nữ vùng nông thôn là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n

phí, mà chỉ có phụ nữ của: nạn nhân của hành vi mua bán ngƣời theo quy định của

Luật Phòng, chống mua bán ngƣời, ngƣời nhi m HIV nhƣng không có khả năng tài

101

chính để thuê dịch vụ pháp lý, Ngƣời dân tộc thiểu số cƣ trú tại các vùng có điều

kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình.

Nhƣng để đƣợc TGPL mi n phí thì họ phải chứng minh không có khả năng về tài

chính của chính mình theo Nghị định số 144/2017 NĐ-CP của Chính Phủ.

Vậy, phụ nữ thuộc nhóm đối tƣợng nêu trên nếu không chứng minh đƣợc họ

không có khả năng về tài chính thì họ sẽ phải thanh toán chi phí cho việc thực hiện

TGPL. Quy định còn khá mâu thu n, chồng chéo. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là

một trong những chủ thể chịu thiệt thòi nhất trong xã hội t bao đời nay. Trong khi,

Đảng và Nhà nƣớc ta đang có chính sách khuyến khích phụ nữ nông thôn tham gia

phát triển kinh tế, xây dựng Nông thôn mới, tham gia tập huấn kỹ năng tiếp thu về

các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì việc

thực hiện thu phí TGPL đối với phụ nữ nông thôn chƣa đƣợc hợp lý.

Việc TGPL đến với phụ nữ nông thôn thƣờng chỉ d ng lại ở việc phối hợp

với các bộ, ngành theo t ng năm và có thời hạn, trong khi phụ nữ vùng nông thôn

luôn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, luôn bị xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp

pháp. Hiện nay có một số tỉnh thành đang áp dụng chƣơng trình, thực hiện TGPL

mi n phí cho phụ nữ nông thôn trong địa bàn tỉnh nhƣ: Quảng Ninh, Hà Nam,

Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tây Ninh...chính sách TGPL mi n phí chƣa đƣợc áp dụng

phổ biến, việc các tỉnh thực hiện TGPL cho phụ nữ trên địa bàn xuất phát t ý chí

của các tổ chức trung tâm TGPL, chủ thể thực hiện TGPL và công tác triển khai của

t ng tỉnh. Vậy để đồng bộ cơ chế này, Đảng và Nhà nƣớc cần có phƣơng án, lên kế

hoạch và nên thêm điều luật để áp dụng TGPL mi n phí đến với phụ nữ nông thôn

Việt Nam.Trƣớc hết hoạt động TGPL mang bản chất nhà nƣớc - Nhà nƣớc do dân

và vì dân. Nhà nƣớc tổ chức xây dựng lên mạng lƣới TGPL cho phụ nữ nông thôn

cho 63 tỉnh thành trong cả nƣớc với mô hình phù hợp hiệu quả, sẽ kết hợp đƣợc sức

mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Nhân dân

thêm tin yêu chính sách của chính quyền, góp phần tích cực tập trung xây dựng

Nông thôn mới hiện đại hóa.

102

3.2.2.2. Cần phải thay đổi về mặt tư duy, nhận thức về vấn đề TGPL

Đối với cán bộ, chính quyền địa phương

Trƣớc tiên, nhóm đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo quy định trong điều 7

của Luật TGPL 2017 đang ở trong trạng thái tĩnh. Tƣ duy pháp lý còn đóng khung,

cứng nhắc. Xã hội luôn vận động, thay đổi theo hƣớng đi hiện đại và tích cực hơn.

Nhƣng tƣ duy về mặt pháp lý còn lạc hậu, chỉ thực hiện TGPL theo đúng quy định

của luật và quỹ TGPL cho phép, nhƣ vậy thì pháp luật chƣa thể gần g i với ngƣời dân

đƣợc và nhất là với phụ nữ nông thôn. Chúng ta cần phải có sự nhìn nhận bổ sung để

làm sao hoạt động TGPL hoàn toàn phù hợp, bắt kịp với xu thế phát triển đất nƣớc.

Việc thực hiện TGPL còn mang hƣớng tƣ duy đóng kín, chỉ có Nhà nƣớc

mới có quyền quyết định và theo dõi hoạt động TGPL, luật sự tham gia vào hoạt

động TGPL còn khó khăn, xây dựng hệ thống luật sƣ công chuyên đảm trách TGPL

thì chƣa có. Chúng ta cần hiểu rõ, hoạt động TGPL không phải là việc ban ơn, phân

chia lợi ích, mà TGPL là hoạt động mang tính chất xã hội vì mục tiêu văn minh,

phát triển đất nƣớc. Luật sƣ là những ngƣời làm rất tốt việc thực hiện TGPL vì năng

lực và kiến thức của họ xuất phát t những nhà học luật, họ đảm bảo tối đa về

quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Vậy, Nhà nƣớc nên thay đổi lại hƣớng đi

trong hoạt động TGPL, phải xã hội hóa các chính sách mới, có chế độ đãi ngộ tốt

đối với đội ng luật sƣ để họ có thể giúp Nhà nƣớc quản lý hoạt động TGPL một

cách tốt nhất, bộ máy Nhà nƣớc sẽ tinh giản, gọn gàng hơn.

Đội ng cán bộ ở địa phƣơng là lực lƣợng trực tiếp tuyên truyền, phổ biến ý

nghĩa hoạt động TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Đảng, Nhà nƣớc cần xây dựng kế

hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt ở địa phƣơng vùng nông thôn v a có đức, v a có

tài, chỉ rõ trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong trong hoạt động TGPL,

chủ động tìm hiểu nhu cầu và những khó khăn của phụ nữ nông thôn để t đó phối

hợp với các trung tâm TGPL trên địa bàn tìm ra hƣớng đi và biện pháp khắc phục

hỗ trợ đến với phụ nữ nông thôn. PGS.TS Nguy n Minh Tuấn cho rằng: “Một khi

cán bộ đảng viên nhận thức đúng và thấy đƣợc lợi ích chung c ng nhƣ lợi ích của

mỗi ngƣời dân khi thực hiện họ sẽ tự giác và chủ động thực hiện hơn, khắc phục

103

đƣợc thái độ thờ ơ, chƣa sẵn sàng” [23, tr.130]. Trong công tác tiếp dân, cán bộ địa

phƣơng cần chú trọng đến phong thái khi tiếp nhận thông tin: “Cách cƣ xử cởi mở,

ch ng mực của cán bộ cơ sở tạo cho nhân dân một cảm tình nhất định, làm cho

nhân dân thấy gần g i thoải mái khi liên hệ với chính quyền. Ngƣời cán bộ cơ sở có

đầy đủ lƣơng tâm và ý thức trách nhiệm mới có thể tạo đƣợc bầu không khí thân

thiện với nhân dân” [18, tr.68].

Đảng và Nhà nƣớc cần giải quyết kịp thời về chế độ phụ cấp thỏa đáng cho

cán bộ chính quyền địa phƣơng để tƣơng xứng với khối lƣợng và chất lƣợng công

việc, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ, trách nhiệm trong hoạt động

phối hợp TGPL và quản lý địa bàn trong khu vực, c ng là sự khích lệ của Đảng và

Nhà nƣớc đến với chính quyền địa phƣơng.

Đối với phụ nữ nông thôn

Bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn phải nỗ lực vƣơn lên, vƣợt qua rào cản để

tiếp cận và hƣởng thụ quyền. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, phụ nữ

Việt Nam có nhiều cơ hội phát huy vai trò của mình. Để làm đƣợc điều đó, phụ nữ

nông thôn cần rèn luyện đức tính tự tin để có bản lĩnh vƣợt qua những khó khăn,

thách thức trong cuộc sống.

Phụ nữ phải thể hiện mình thật sự có vai trò trong gia đình và ngoài xã hội;

luôn chủ động tham gia các hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng để bù đắp những thiếu hụt

của bản thân, để đảm bảo điều kiện cần và đủ sẵn sàng nhận giữ trọng trách mới.

Tuyệt đối không nên ỉ lại mình là phụ nữ để an phận, thủ thƣờng, cho phép bằng

lòng với hiện tại, khi đã đạt đƣợc trình độ nhất định thì tự thỏa mãn, không tiếp tục

phấn đấu học hỏi.

Phụ nữ luôn phải phấn đấu học hỏi, chú trọng rèn luyện kỹ năng sống, tự tin

tham gia các chƣơng trình huấn luyện nâng cao sự hiểu biết pháp luật, sáng tạo,

quyết đoán, biết hoạch định kế hoạch, biết đối mặt với áp lực, biết chăm sóc bản

thân, bảo vệ bản thân không bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp.

3.2.2.3. Nâng cao chất lượng và trách nhiệm, tăng quyền của chủ thể tham

gia thực hiện hoạt động TGPL

Chủ thể tham gia thực hiện hoạt động TGPL là những chủ thể bảo vệ quyền

104

và lợi ích hợp phải của ngƣời đƣợc TGPL. Họ cần phải Tuân thủ nguyên tắc hoạt

động TGPL đã đƣợc quy định đầy đủ ở Điều 3 Luật TGPL năm 2017 bao gồm: tuân

thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL; kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng

sự thật khách quan; bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc

TGPL; không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác t ngƣời đƣợc TGPL.

Cục TGPL cần tổ chức các lớp tập huấn nhằm trang bị cho đội ng TGPL

các kiến thức chuyên sâu về luật trợ giúp c ng nhƣ kỹ năng về TGPL trong lĩnh vực

hình sự, dân sự, hành chính. Bên cạnh đó, Học viện Tƣ pháp c ng tiến hành rà soát

nhu cầu, tổ chức lớp bồi dƣỡng pháp lý bảo đảm cho các trợ giúp viên có đủ điều

kiện nâng ngạch, đây c ng là chính sách thu hút, khuyến khích chủ thể tham gia

thực hiện TGPL, đảm bảo quyền lợi cho lực lƣợng lao động có năng lực.

Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đổi mới chƣơng trình đào tạo, bồi

dƣỡng cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL, tập trung tập huấn các kỹ năng, tổng kết,

rút kinh nghiệm thực hiện vụ việc TGPL. Đảng và Nhà nƣớc cần hỗ trợ kinh phí các

lớp đào tạo nghề luật sƣ, kinh phí tập huấn nghiệp vụ TGPL, chế độ phụ cấp phù

hợp đến với các tổ chức, trung tâm và chủ thể TGPL làm nguồn động lực lớn trong

hoạt động công tác TGPL.

Ngoài các lớp bồi dƣỡng kỹ năng ngắn hạn, Cục TGPL nên mở thêm các lớp

tập huấn dài ngày và thay đổi phƣơng pháp bồi dƣỡng theo hƣớng kết hợp nhiều

tình huống thực ti n với lý thuyết để cùng nhau đƣa ra các phƣơng án hỗ trợ tốt

nhất, Cục nên phát triển trang thông tin điện tử TGPL lớn mạnh hơn, cập nhật nhiều

bài viết mới theo t ng tuần về kết quả, báo cáo, nghiên cứu khoa học trong quá trình

thực hiện công tác TGPL, là di n đàn để ngƣời thực hiện TGPL có thể học tập, trao

đổi kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng nghiệp vụ trong hoạt động TGPL

Đặc biệt, cần tăng cƣờng số lƣợng trợ giúp viên pháp lý tại những vùng nông

thôn thuộc vùng sâu, vùng xa nơi hoạt động nghề nghiệp của luật sƣ hành nghề tự

do ít phát triển. Cần thực hiện đào tạo, bồi dƣỡng đội ng chuyên viên pháp lý hiện

có thành trợ giúp viên pháp lý ở những tỉnh có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn,

nơi khó huy động đội ng luật sƣ hành nghề tự do tham gia TGPL.

105

3.2.2.4. Tập trung tốt vào công tác truyền thông, phổ biến pháp luật và nâng

cao vai trò của Câu lạc bộ TGPL cho phụ nữ nông thôn

Đảng và Nhà nƣớc phối hợp với các ban ngành liên quan tiếp tục thực hiện

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức phối hợp với Bộ lao động và Thƣơng

binh-xã hội, Hội đồng Ủy ban Nhân dân, Hội phụ nữ thực hiện triển khai nội dung

các văn bản pháp luật mới, các văn bản pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ

của phụ nữ, các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất

nƣớc, các văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý nhà nƣớc và đối tƣợng là

phụ nữ theo nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp

luật tại các địa phƣơng vùng nông thôn. Tổ chức các buổi tuyên truyền pháp luật cho

hội viên phụ nữ các cấp, chú trọng tuyên truyền cho phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng

dân tộc thiểu số nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật của phụ nữ về quyền và

lợi ích chính đáng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

Xây dựng và củng cố, nâng cao trình độ, kỹ năng tuyên truyền của đội ng

báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp Hội; tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi

dƣỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật cho phụ nữ. Biên soạn, phát hành tài liệu sách hỏi - đáp, tờ gấp

pháp luật, qua đó, giúp cho phụ nữ nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Chỉ đạo

Hội phụ nữ các cơ sở phối hợp với ủy Ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức thăm

hỏi, động viên phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, đƣa ra phƣơng hƣớng hỗ trợ để họ có

cuộc sống ấm no hơn.

Phối hợp chỉ đạo, hƣớng d n thực hiện các hoạt động tƣ vấn pháp luật, trợ

giúp pháp lý cho phụ nữ theo quy định. Xây dựng mạng lƣới tƣ vấn viên pháp luật,

trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp

lý, tƣ vấn pháp luật cho đối tƣợng phụ nữ yếu thế, khó khăn. Phối hợp liên kết hoạt

động giữa Trung tâm tƣ vấn pháp luật và Hỗ trợ kết hôn của Hội LHPN Hà Nội với

Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và các Văn phòng chi nhánh trợ giúp pháp lý

trên địa bàn tổ chức trợ giúp pháp lý cho phụ nữ xa trung tâm thành phố, địa bàn có

điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

106

Khảo sát nhu cầu, mong muốn đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ pháp lý của các đối tƣợng

phụ nữ; Tổ chức phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý lƣu động cho phụ nữ tại các cơ

sở có nhu cầu, các địa bàn có nhiều khó khăn, phức tạp, các điểm nóng, tuyên

truyền vận động phụ nữ thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết đơn thƣ,

phản ánh, tránh tình trạng gửi đơn thƣ vƣợt cấp, khiếu kiện đông ngƣời. Giới thiệu

phụ nữ là đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để

đƣợc trợ giúp theo quy định của pháp luật; phối hợp tạo điều kiện tiếp cận thông tin,

tài liệu liên quan đến việc trợ giúp pháp lý để thực hiện trợ giúp pháp lý.

Trang bị đầy đủ kiến thức về bình đẳng giới cho phụ nữ ở nông thôn để họ tự

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Thúc đẩy hoạt động giáo dục nhằm

nâng cao nhận thức cho các cấp lãnh đạo, xã hội, gia đình và phụ nữ về quyền của

phụ nữ, trong đó chú trọng thƣờng xuyên mở các lớp đào tạo về giới, bình đẳng giới

và quyền cho các đối tƣợng là cán bộ lãnh đạo nữ của các ban ngành, đoàn thể, cán

bộ Hội phụ nữ các cấp và nhân dân. Bản thân ngƣời phụ nữ phải nỗ lực vƣơn lên,

vƣợt qua rào cản để tiếp cận và hƣởng thụ quyền. Trong xu thế hội nhập và phát

triển hiện nay, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội và c ng gặp nhiều thách thức để có

thể khẳng định và phát huy vai trò của mình. Do đó, ngƣời phụ nữ trƣớc hết phải ý

thức đƣợc đầy đủ vai trò về giới của mình mới có thể nắm bắt đƣợc những cơ hội,

cùng với xã hội, hƣớng tới cách ứng xử bình đẳng giới.

Tăng cƣờng phối hợp giữa Trung tâm thực hiện tổ chức TGPL với ban tuyên

giáo của thôn, xóm và các bộ liên quan: Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh

niên trong khu vực địa phƣơng phát động pháp luật và cuộc sống đến với phụ nữ

nông thôn. Giao chỉ tiêu thực hiện theo t ng kỳ, tối thiểu 2 tuần thực hiện tuyên

truyền pháp luật trên một lần để đảm bảo việc tiếp cận pháp luật “gõ cửa”t ng nhà

Đối với hoạt động Câu lạc bộ TGPL, tăng cƣờng xây dựng đội ng Ban chủ

nhiệm vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có kỹ năng và kinh nghiệm trong việc

thực hiện TGPL để Câu lạc bộ là trợ thủ đắc lực trong việc hỗ trợ, kết nối pháp luật

và TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Bên cạnh đó, cần có biện pháp nâng cao trách

nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, hỗ trợ, cung cấp địa điểm

107

làm việc, hỗ trợ kinh phí sinh hoạt Câu lạc bộ. Xem Câu lạc bộ là cầu nối pháp luật

đến với phụ nữ nông thôn để có thể nắm bắt đƣợc tâm lý và tình hình đời sống của

nhân dân tại địa phƣơng.

3.2.2.5. Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và kinh phí hoạt động

cho các tổ chức thực hiện TGPL

Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị, bảo đảm kinh phí hoạt động

cho các Trung tâm TGPL nhà nƣớc. Xây dựng mới hoặc cải tạo lại trụ sở làm việc

của các Trung tâm TGPL và chi nhánh của Trung tâm theo hƣớng thuận lợi, d

dàng tiếp cận với phụ nữ nông thôn, thiết kế phòng riêng cho các trƣờng hợp cần

giữ bí mật riêng tƣ, các vụ việc mang tính chất nhạy cảm. Đầu tƣ thêm phƣơng tiện

đi lại thuận tiện phục vụ cho hoạt động TGPL, các trang thiết bị: máy tính, máy ảnh,

máy ghi âm...để phục vụ tốt cho công tác ghi nhận thông tin hỗ trợ TGPL.

Kinh phí cho hoạt động TGPL phải tƣơng xứng với việc phát triển tổ chức

bộ máy, chất lƣợng vụ việc TGPL. Dự liệu đủ nguồn kinh phí đảm bảo cho việc xây

dựng, cải tạo nâng cao trụ sở làm việc, trang thiết bị hạ tầng cho Trung tâm và các

chi nhánh TGPL. Ủy ban nhân dân các cấp nên cần tạo điều kiện tốt về kinh phí để

tổ chức thực hiện triển khai hoạt động TGPL đạt hiệu quả tốt.

3.2.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm tổ chức hoạt

động TGPL

Để nâng cao hiệu quả công tác hoạt động TGPL, Nhà nƣớc cần tiếp tục tăng

cƣờng và mở rộng hợp tác với các quốc gia, tổ chức phi chính phủ, tham gia các hội

thảo mang tính chất quốc tế để lắng nghe, học hỏi kinh nghiệm về hoạt động TGPL

để áp dụng phù hợp với thực ti n hoạt động TGPL, đẩy mạnh việc ký kết các

chƣơng trình hợp tác về đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam

nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng.

Sự hỗ trợ và hợp tác của các nhà tài trợ quốc tế sẽ góp phần đảm bảo phụ nữ

nông thôn có cơ hội đƣợc tiếp cận công lý, bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp tối đa.

Tăng cƣờng giao lƣu, công tác nghiên cứu lý luận, trao đổi chia sẻ và học tập

108

kinh nghiệm phát triển mô hình TGPL của các nƣớc đang phát triển để có thể tranh

thủ đƣợc những kinh nghiệm hay, những bài học bổ ích trong thực ti n triển khai

kiểm tra, đánh giá chất lƣợng TGPL, để vận dụng cho phù hợp với điều kiện và

hoàn cảnh đất nƣớc

3.2.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác TGPL

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu

trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là lực lƣợng nòng cốt

lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội. Đảng giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng và lãnh đạo

toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội,

luật pháp... trong đó có cả lĩnh vực tƣ pháp nói chung và hoạt động TGPL nói riêng.

Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL, Đảng cần phải tập hợp, rà soát, sửa

đổi bổ sung để khắc phục những hạn chế bất cập, trong tổ chức và hoạt động trợ

giúp pháp lý, t ng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGPL.

Nhiệm vụ đặt ra đối với các Trung tâm và chi nhánh TGPL ở địa phƣơng,

đƣa công tác Trợ giúp pháp lý thực sự trở thành một chính sách xã hội rộng lớn của

Đảng và Nhà nƣớc mang đến. Trợ giúp pháp lý phải trở thành một địa chỉ tin cậy,

quen thuộc đối với phụ nữ nông thôn, vì mục tiêu đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp, phát triển kinh tế đối với phụ nữ nông thôn, mục tiêu dài hạn xây dựng Nông

thôn mới, tất cả ngƣời đều có cuộc sống ấm no, dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ và văn minh.

3.2.2.8. Nâng cao hoạt động quản lý Nhà nước về TGPL ở nông thôn

Để hoạt động TGPL đạt hiệu quả cần tăng cƣờng nâng cao quản lý nhà nƣớc

đối với hoạt động TGPL nhƣ: Tăng cƣờng công tác hƣớng d n, mọi hoạt động quản

lý đều phải công khai, minh bạch và công bằng trƣớc nhân dân. Nhà nƣớc có trách

nhiệm theo dõi cán bộ địa phƣơng và các trung tâm TGPL trong hoạt động thực

hiện TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn hiện nay, chú trọng công tác quản lý và

bồi dƣỡng đội ng ngƣời thực hiện TGPL.

Tăng cƣờng công tác hƣớng d n, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra về tổ chức

hoạt động TGPL ở các địa phƣơng, kịp thời phát hiện ra những hạn chế, khó khăn

109

để đƣa ra các phƣơng án hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động TGPL đƣợc thực hiện

đúng theo quy định, trình tự thủ tục của pháp luật, đáp ứng nhu cầu TGPL đối với

phụ nữ nông thôn. Theo PGS.TS Nguy n Minh Tuấn cho rằng: “Cần phải có một

chiến lƣợc qui hoạch, đào tạo đội ng cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Phải cƣơng quyết

xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật làm mất niềm tin trong nhân dân, phải đƣa

cán bộ có khuyết điểm ra kiểm điểm trƣớc dân. Những nơi có vấn đề “nổi cộm”

cần tập trung kiểm tra, thanh tra, kết luận xử lý thích đáng, kịp thời, công khai

trƣớc dân” [23, tr.130].

Bảo đảm hoạt động kiểm tra chất lƣợng vụ việc TGPL đƣợc thực hiện

thƣờng xuyên, có hiệu quả. Giám sát việc cung cấp dịch vụ TGPL của các tổ chức

hành nghề luật sƣ và tổ chức tham gia TGPL, tổ chức trực tiếp giải quyết vụ việc

đối với các loại vấn đề, vụ việc mà địa phƣơng có khó khăn.

Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình

mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các

tổ chức chính trị - xã hội, tạo bƣớc chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở

t ng ngành, địa phƣơng và đơn vị.

110

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Trên cơ sở đƣa ra các quan điểm tổ chức và hoạt động TGPL, chƣơng 3 đƣa

ra phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả cho hoạt động TGPL đề xuất một số giải pháp

chung và giải pháp nâng cao hoạt động TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn: hoàn

thiện pháp luật về TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn, nâng cao trách nhiệm và

tinh thần của chủ thể khi tham gia hỗ trợ TGPL, tập trung tốt vào công tác truyền

thông và giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn, dự liệu đƣợc kinh phí hoạt động

TGPL và xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc phù hợp để nâng cao chất

lƣợng TGPL, tăng cƣờng hợp tác quốc tế, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác TGPL và tăng cƣờng hoạt động quản lý Nhà nƣớc về TGPL.

111

KẾT LUẬN

1. Phụ nữ ở nông thôn là lực lƣợng chính trong sản xuất nông nghiệp, quyết

định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là

đối tƣợng chủ yếu đảm nhiệm công việc trong gia đình, nuôi dạy con cái, giữ gìn

truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay, phụ nữ ở nông

thôn v n phải đối mặt với các rào cản về định kiến xã hội phong kiến lâu đời, ít có

cơ hội đƣợc tiếp cận nguồn lực đất đai, tín dụng và nguồn tài nguyên, cơ hội tiếp

cận với dịch vụ an sinh xã hội chƣa cao, đa số phụ nữ ở nông thôn lao động trong

khu vực phi chính thức, không đƣợc trả lƣơng… Điều đó đặt ra nghĩa vụ, trách

nhiệm của các chủ thể trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy thực hiện các quyền

và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ nông thôn.

2. Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn là trách nhiệm của các cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong việc đƣa ra các phƣơng hƣớng, điều kiện về chính trị, pháp lý,

kinh tế, xã hội, văn hóa và thực hiện các biện pháp để phụ nữ ở nông thôn có cơ hội

đƣợc tiếp cận, thụ hƣởng đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn

hóa theo quy định. Điều 14, Công ƣớc CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên

đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn để họ có những điều kiện sống thích đáng

và đƣa ra những biện pháp đặc biệt nhằm đảm bảo cho họ trên cơ sở bình đẳng với

nam giới cùng đƣợc thụ hƣởng lợi ích t sự phát triển của nông thôn. Các biện pháp

đặc biệt để có thể đạt đƣợc mục tiêu này bao gồm: Đảm bảo quyền tham gia xây

dựng và thực hiện kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp; quyền tiếp cận các dịch vụ

chăm sóc sức khỏe; quyền đƣợc hƣởng phúc lợi trực tiếp t các chƣơng trình bảo

hiểm xã hội; quyền đƣợc hƣởng các loại hình giáo dục đào tạo...

3. Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ nói chung và của phụ nữ ở nông thôn nói

riêng luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống chính sách,

pháp luật về đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn t ng bƣớc đƣợc hoàn thiện,

tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho phụ nữ ở nông thôn đƣợc thực hiện các quyền

của mình. Công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền phụ nữ ở

nông thôn ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao nhận

112

thức chung cho toàn xã hội. Vị thế, vai trò của ngƣời phụ nữ ở nông thôn Việt

Nam hiện nay đang dần đƣợc cải thiện và ngày càng đƣợc nâng cao trong tiến

trình đổi mới đất nƣớc.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật về quyền của phụ

nữ, trong đó có phụ nữ ở nông thôn chƣa thực sự hoàn thiện, nhiều quy định chƣa

tính đến yếu tố đặc thù của phụ nữ ở nông thôn, còn chung chung. Việc triển khai

các biện pháp đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn chƣa đạt hiệu quả cao, còn

thiếu nhất quán.

4. Phụ nữ nông thôn đã và đang góp phần quan trọng vào tăng trƣởng kinh tế

và phát triển xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông

thôn và xây dựng nông thôn mới hiện nay, trên cơ sở lý luận và thực ti n đảm bảo

quyền của phụ nữ ở nông thôn cần phải nắm rõ định hƣớng tiếp cận mới về quyền

của phụ nữ hiện nay là tập trung vào quyền của nhóm phụ nữ d bị tổn thƣơng,

trong đó đặc biệt chú ý đến nhóm phụ nữ nghèo, nông thôn; xác định rõ trách nhiệm

đảm bảo quyền của phụ nữ là yêu cầu khách quan, xuất phát t yêu cầu thực hiện

trách nhiệm của quốc gia thành viên trƣớc cộng đồng quốc tế và khu vực; đƣa các

chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về đảm bảo

quyền của phụ nữ ở nông thôn vào đời sống thực ti n.

5. Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam hiện nay chỉ có thể

thực hiện tốt khi thực hiện đồng bộ nhóm giải pháp là: Nâng cao nhận thức về

quyền và trách nhiệm đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn; Tiếp tục xây dựng,

hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn;

Tăng cƣờng các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo quyền của phụ nữ ở

nông thôn trên một số lĩnh vực; Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan có

thẩm quyền trong đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ ở nông thôn; Tăng cƣờng

hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực để đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn./.

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1.

Nguy n Thị Báo - Viện Nghiên cứu Quyền con ngƣời, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2009), “Tác động của phong tục, tập

quán đối với việc thực hiện bình đẳng giới – t góc nhìn đồng bằng bắc bộ”,

Tạp chí Cộng sản, (13), tr.181.

2.

Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ (2016), Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức Trợ giúp viên pháp lý, Hà Nội.

3. Bộ Tƣ Pháp (2013), Số 08/BC-BTP Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện

Chương trình phối hợp số 14/CTPH-BTP-HLHPNVN ngày 10/01/2013 về

việc đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư

vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng

pháp luật giai đoạn 2013- 2017, Hà Nội.

4. Bộ Tƣ Pháp (2017), Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về trợ giúp

pháp lý, thảo luận tại kỳ họp thứ 2 khóa XIV 2016 và được thông qua kỳ họp

thứ 3 khóa XIV 2017, Hà Nội.

5. Bộ Tƣ Pháp (2018), Thông tư số 12/2018/TT-BTP hướng dẫn hoạt động nghiệp

vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

6. Chính Phủ (2017), Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm

2017 quy định chi tiết một số điều của luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

7. Cục trƣởng Cục TGPL (2018), Quyết định số 35/QĐ-CTGPL 20/09/2018

Quyết định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước thuộc Cục Trợ giúp pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Chính sách và Quản lý nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

8. Nguy n Đăng Dung, Nguy n Hoàng Anh (2012), “Tăng cƣờng tính minh

bạch của quyết định hành chính”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, (28), tr.204-211.

114

9.

Nguy n Thị Kim Hoa (2000), Vị thế và vai trò xã hội của phụ nữ nông thôn trong chức năng kinh tế hộ gia đình, Hội nghị khoa học nữ lần thứ 5, Hà Nội.

10. Nguy n Minh Khoa (2013), “Vai trò và hiệu quả của câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho phụ nữ”, Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề tháng 9), tr. 20 – 22.

11. Nguy n Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

12. Tạ Thị Minh Lý (2005), “Bàn về khái niệm trợ giúp pháp lý”, Nhà nước và

Pháp luật, (10), tr.77 – 83.

13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

15. Nguy n Bích Ngọc (2010), “Trợ giúp pháp lý với bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình và buôn bán phụ nữ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

(chuyên đề 1), tr. 24 - 27.

16. “Nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền

toàn miền Bắc ngày 01/8/1960”, Báo Nhân dân, (2.327), ngày 2-8-1960.

17. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Lê Minh Phúc (2003), “Bộ mặt công chức cơ sở”, Nghiên cứu lập pháp, tr.68.

19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

20. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

21. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.

22. Trần Thị Sẵn (2013), “Phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho

phụ nữ nghèo”, Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề tháng 9), tr. 28 – 32.

23. Nguy n Minh Tuấn (2006), Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý, Nxb Công An

Nhân dân.

24. Văn phòng Trung ƣơng Đảng (1995), Thông báo số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995 của ý kiến chỉ đạo của Ban bí thư đối với Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật, Hà Nội.

25.

Lê Hằng Vân (2010), “Cần tìm hƣớng đi mới, tích cực hơn cho trợ giúp pháp lý lƣu động hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề 11), tr. 17 - 19.

115

26. Lê Ngọc Văn (2011), Biến đổi gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Viện Khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb T điển Bách Khoa

Hà Nội.

28. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng (2010), Báo cáo đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của phụ nữ dân tộc thiểu số Phần 4: Bài học kinh nghiệm từ các nước về tăng cường tiếp cận dịch vụ pháp lý cho phụ nữ dân tộc thiểu số, Hà Nội.

29. Nguy n Nhƣ Ý (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

II. Tài liệu trang Website

30.

tỉnh Quảng Ninh Sở Tƣ Pháp điện tử

Trần Cƣờng (2015), Trung tâm TGPL “Kết quả công tác phối hợp trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trên địa bàn tỉnh năm 2014” đƣợc đăng trên Cổng thông 11/01/2015 tin https://www.quangninh.gov.vn/So/sotuphap/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid= 971&Page=4.

31. Đoàn Thị Ngọc Hải (2016), “Những kết quả nổi bật trong công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm 2016” đăng ngày 6/12/2016 trên website Cục Trợ Giúp Pháp Lý Việt Nam: https://trogiupphaply.gov.vn/tin- tuc/nhung-ket-qua-noi-bat-trong-cong-tac-tro-giup-phap-ly-tren-dia-ban- tinh-ninh-binh-nam-2016.

tử Hội

32. Hội LHPN huyện Yên D ng phối hợp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho hội viên phụ nữ” đƣợc đăng trên Cổng thông tin liên hiệp phụ nữ Bắc Giang ngày 28/3/2019 điện https://hlhpn.bacgiang.gov.vn/thong-tin-tuyen-truyen-pho-bien-phap- luat/hoi-lhpn-huyen-yen-dung-phoi-hop-tuyen-truyen-pho-bien-giao-duc- phap-luat-va-tro-giup-phap-ly-cho-hoi-vien-phu-nu.htm.

33.

Thanh Trịnh (2019), “Sơ lƣợc một số nội dung về TGPL trên thế giới” đƣợc đăng trên website của Cục trợ giúp pháp lý Việt Nam ngày 23/8/2019, https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/so-luoc-mot-so-noi-dung- ve-tro-giup-phap-ly-tren-the-gioi website: https://trogiupphaply.gov.vn.

34.

Trợ giúp pháp lý cho cán bộ hội viên phụ nữ huyện Yên Thế” đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử Hội liên hiệp phụ nữ Bắc Giang ngày 18/4/2019 https://hlhpn.bacgiang.gov.vn/thong-tin-tuyen-truyen-pho-bien-phap-luat/tro- giup-phap-ly-cho-can-bo-hoi-vien-phu-nu-huyen-yen-the.htm.

116

III. Tài liệu tiếng Anh

35. California rural legal assistance, INC (Hỗ trợ pháp lý ở khu vực nông thôn)

website: https://www.crla.org/about-us.

36. Dictionary of law (webster 2006- Wiley Publishing), (t điển Pháp luật Anh

bởi nhà xuất bản Wiley).

37. Law on state guaranteed legal aid 2007 (Luật TGPL Moldova 2007).

38. Legal Aid Act 1978 (luật của Bang Victoria thuộc nƣớc Úc).

39. Legal Aid Queensland Act 1997 (luật của Bang Queensland thuộc nƣớc Úc)

website: https://www.legislation.qld.gov.au/view/html/inforce/current/act-

1997-018#sec.5.

40. Nita Bhalla (2017), India launches free legal aid via video conferencing to

villagers. - link,

https://uk.reuters.com/search/news?sortBy=&dateRange=&blob=Common+

Service+Centers+India

41. Reuters international news organization (Ấn Độ ra mắt chƣơng trình trợ giúp pháp lý mi n phí thông qua kênh truyền hình ở nông thôn 2017- đăng trên

báo tin tức Quốc tế Reuters ngày 12/6/2017).

42. Rural Womens outreach legal service (Tiếp cận dịch vụ Pháp lý cho Phụ nữ

ở nông thôn miền Tây Nam Queensland nƣớc Úc) website:

http://www.tasclaw.com.au/rural-womens-outreach-legal-service/.

117