ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HIỀN
TRî GIóP PH¸P Lý CHO PHô N÷ N¤NG TH¤N
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HIỀN
TRî GIóP PH¸P Lý CHO PHô N÷ N¤NG TH¤N
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hiền
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................... 9
1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và hình thức Trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nông thôn ở Việt Nam ..................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam .................................... 9
1.1.2. Mục đích của việc TGPL đối với phụ nữ nông thôn ở Việt Nam ................ 14
1.1.3. Nội dung và hình thức của TGPL cho phụ nữ nông thôn ............................ 19
1.2. Đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và TGPL đối với phụ nữ
nông thôn ở VN ........................................................................................... 22
1.2.1. Đặc điểm của Phụ nữ nông thôn .................................................................. 22
1.2.2. Đặc điểm của TGPL đối với Phụ nữ nói chung và PN nông thôn nói riêng .......... 27
1.3. Các yếu tố tác động đến việc cần phải TGPL cho phụ nữ nông
thôn ở Việt Nam.......................................................................................... 29
1.3.1. Yếu tố về văn hóa, phong tục, tập quán ....................................................... 29
1.3.2. Yếu tố về kinh tế, lao động, xã hội .............................................................. 30
1.3.3. Yếu tố về nhận thức pháp luật của phụ nữ nông thôn .................................. 33
1.3.4. Yếu tố về năng lực của chủ thể TGPL cho phụ nữ nông thôn ..................... 35
1.4. Các điều kiện để đảm bảo cho hoạt động TGPL ..................................... 37
1.4.1. Điều kiện về nguyên tắc hoạt động TGPL ................................................... 37
1.4.2. Điều kiện về tài chính .................................................................................. 38
1.4.3. Điều kiện về con ngƣời, năng lực, kỹ năng của chủ thể TGPL ................... 39
1.4.4. Điều kiện về cơ sở trang thiết bị vật chất ..................................................... 41
1.4.5. Các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với đối tƣợng đƣợc TGPL và
chủ thể TGPL ............................................................................................... 43
1.5. Một số mô hình TGPL trên Thế giới hiện nay liên quan đến đối
tƣợng là phụ nữ và phụ nữ nông thôn ...................................................... 46
1.5.1. Chủ thể thực hiện TGPL .............................................................................. 52
1.5.2. Đối tƣợng đƣợc TGPL ................................................................................. 52
1.5.3. Phạm vi TGPL .............................................................................................. 55
1.5.4. Lĩnh vực thực hiện TGPL ............................................................................ 56
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 60
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN HIỆN NAY ............ 61
2.1. Thực trạng pháp luật về TGPL cho Phụ nữ nông thôn ......................... 61
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống PL về TGPL .............. 61
2.1.2. Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ nông
thôn hiện nay ................................................................................................ 65
2.2. Thực tiễn thực hiện TGPL cho Phụ nữ nông thôn ................................. 70
2.2.1. Kết quả TGPL cho Phụ nữ nông thôn trong những năm gần đây ................ 70
2.2.2. Những cản trở, khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn .......... 72
2.2.3. Những bất cập và thách thức trong hoạt động TGPL còn tồn tại ................ 77
2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn ........... 81
2.3.1. Kết quả triển khai hoạt động TGPL ............................................................. 81
2.3.2. Công tác hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ....................................... 86
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 92
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ Ở NÔNG THÔN ........ 93
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nông thôn ....................................................................................... 93
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ
nữ nông thôn ............................................................................................... 98
3.2.1. Giải pháp chung ........................................................................................... 98
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể .............................................................................. 101
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 111
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 114
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA Bộ Công An
BQP Bộ Quốc phòng
BTC Bộ Tài chính
BTP Bộ Tƣ pháp
CNH – HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CV – VB Công văn - Văn bản
HLHPN Hội Liên Hiệp Phụ nữ
NĐ – CP Nghị định - Chính phủ
TANDTC Tòa án Nhân dân tối cao
TGPL Trợ giúp pháp lý
TT – TTLT Thông tƣ - Thông tƣ liên tịch
VKSNDTC Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
VPTW Văn phòng Trung ƣơng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn
cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nƣớc ngàn năm văn hiến,
tạo dựng nên truyền thống bản sắc của ngƣời Việt nói chung và truyền thống riêng
của phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Để khẳng định vai
trò, khả năng, sức sáng tạo của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thích ứng
và hội nhập trong xu thế phát triển chung của nhân loại, đòi hỏi phụ nữ phải nỗ lực
phấn đấu nhiều mặt: có tri thức, có văn hóa, có kỹ năng sống tự lập, biết đối mặt với
áp lực và vƣơn lên trong khó khăn thử thách. Phụ nữ Việt Nam ngày nay tham gia
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao vị trí và vai trò của mình.
Bên cạnh sự thành công đó là cả một hệ thống pháp luật đồng bộ bảo vệ tối đa quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Các quy định của pháp luật hiện nay
đã và đang cố gắng tạo điều kiện thuận lợi để ngƣời phụ nữ có thể phát huy hết mình
góp phần xây dựng xã hội văn minh, đất nƣớc hiện đại và giàu đẹp.
Những năm qua, thực hiện Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong hoàn thiện
và tổ chức thi hành pháp luật nhằm tăng cƣờng tiếp cận công lý, tiếp cận pháp luật
cho nhân dân. Việc cho ra đời Báo điện tử Công lý của Tòa án Nhân dân tối cao hay
việc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt dự án “Tăng cƣờng tiếp cận công lý và bảo vệ
quyền tại Việt Nam” do Bộ tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan luật và tƣ
pháp khác của Việt Nam thực hiện là các sự kiện minh chứng cho việc cơ quan Nhà
nƣớc đặc biệt quan tâm tiếp cận công lý của ngƣời dân nói chung và phụ nữ nói
riêng trong xã hội hiện nay
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu về thực trạng và thực ti n áp dụng pháp luật
của phụ nữ qua nhiều kênh thông tin phƣơng tiện truyền thông đại chúng, tác giả
luận văn nhận thấy: Phụ nữ nông thôn còn nhiều thiếu xót trong việc quan tâm đến
quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp về các quy định pháp luật và các chính
1
sách của Nhà nƣớc. Làm thế nào để phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay cần am
hiểu, nâng cao kiến thức và làm đúng các quy định của pháp luật, khi quyền lợi của
ngƣời phụ nữ nông thôn bị xâm phạm thì hoạt động trợ giúp pháp lý thực hiện một
cách kịp thời, nhanh chóng Phụ nữ nông thôn cần làm gì để tự bảo vệ mình và gia
đình khi quyền lợi đó bị xâm phạm Đây là vấn đề lớn đòi hỏi sự quan tâm của tất
cả các cấp, các ngành t trung ƣơng đến địa phƣơng. Qua hai năm học tập, nghiên
cứu tại Khoa Luật - Trƣờng Đại học Quốc gia Hà Nội, đƣợc sự hƣớng d n khoa học
của PGS.TS Nguy n Minh Tuấn, tôi chọn đề tài Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ
nông thôn ở Việt Nam hiện nay làm đề tài bảo vệ luận văn Thạc sĩ. Tôi mong
muốn qua luận văn này đƣa ra đƣợc thực trạng c ng nhƣ những kiến nghị, đề xuất
phƣơng hƣớng trong công tác hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn ở
Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa với mục đích làm sáng tỏ những cơ sở, lý luận
và đánh giá đúng thực trạng TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay, t
đó góp phần chỉ ra những bất cập, hạn chế của công tác này và đƣa ra những biện
pháp cần khắc phục, thay đổi nhận thức pháp luật và thực hiện trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ ở vùng nông thôn“ sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” để đảm
bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn cần giải quyết những vấn
đề sau:
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, đánh giá kết
quả nghiên cứu của các công trình, rút ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về TGPL phụ nữ nông thôn ở Việt Nam:
Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nội dung và hình thức TGPL, các yếu tố và điều
kiện đảm bảo cho hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực ti n thực hiện pháp luật TGPL, đánh
2
giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn, những kết quả đã đạt
đƣợc và những bất cập còn tồn tại, nguyên nhân của tồn tại đó.
Đề xuất các quan điểm và giải pháp cho hoạt động TGPL và phƣơng hƣớng
nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho phụ nữ ở nông thôn.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần chứng minh sự phát triển đúng đắn của hoạt động TGPL.
Đánh giá sâu sát, toàn diện tình hình thực hiện các quy định pháp luật về
TGPL, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho việc phát triển
bền vững hoạt động TGPL; đề xuất giải pháp có “tính mới và có sự thay đổi” để
hoàn thiện pháp luật
TGPL tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL cho
phụ nữ nông thôn ở nƣớc ta hiện nay. Đề xuất các phƣơng án, đƣờng lối và các giải
pháp cơ bản về giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn. Đồng
thời, luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về pháp luật TGPL cho
phụ nữ nông thôn ở Việt Nam sau này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là cơ sở lý luận và thực ti n thực hiện
pháp luật TGPL phụ nữ nông thôn ở Việt Nam. Trên cơ sở đó có các định hƣớng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả hoạt động của phụ nữ.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề về pháp luật, về TGPL cho
phụ nữ nông thôn bao gồm: khái niệm TGPL, khung pháp luật về TGPL ở Việt
Nam và pháp luật về TGPL ở một số nƣớc trên thế giới; thực trạng các quy định về
chủ thể, đối tƣợng, hình thức, phạm vi, lĩnh vực; thực ti n thực hiện pháp luật
TGPL trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp, phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp
luật TGPL cho phụ nữ nông thôn.
Cách hiểu của tác giả luận văn về phụ nữ nông thôn bao gồm những chủ thể:
có hộ khẩu thƣờng trú tại huyện, xã, làng, các thôn bản vùng sâu vùng xa, làm việc
và sinh sống thuộc quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Những chủ thể
không phải là phụ nữ nông thôn theo tác giả luận văn bao gồm: Những phụ nữ
3
thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã lớn và có hộ khẩu thƣờng trú tại nơi họ
sinh sống và làm việc.
Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn và trong khuôn khổ cho phép của
luận văn thạc sĩ cho nên tác giả luận văn đã tổng hợp lấy số liệu hoạt động TGPL t
các kết quả báo cáo những năm gần đây theo chƣơng trình phối hợp của Bộ Tƣ
Pháp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và thu thập thêm số liệu thực tế về hoạt
động TGPL của một vài tỉnh thành trong cả nƣớc qua các bài báo điện tử chính
thống: Báo Đại biểu Nhân dân, báo điện tử của Cục TGPL Việt Nam, Báo Phụ nữ
Việt Nam, ... làm cơ sở và căn cứ khoa học để phân tích, đánh giá số liệu.
5. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
TGPL là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Đây là vấn đề đã và đang đƣợc các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Nhiều công
trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã đƣợc công bố, nhƣ:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đề tài Mô hình tổ chức và hoạt động
TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay do Viện Khoa học pháp lý
- Bộ Tƣ pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: Tạ Thị Minh Lý. Đề tài tập đã tập
trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, mục đích, ý nghĩa của hoạt động TGPL, t đó đề
xuất các phƣơng hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động này trong thời gian tới
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn
xây dựng Pháp lệnh TGPL” do Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ Pháp chủ trì thực
hiện, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực ti n để xây dựng Pháp lệnh TGPL
thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến việc thực
hiện về pháp luật TGPL trong thời gian qua
Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Tạ Thị Minh Lý, năm 2008, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, tập trung nghiên
cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về
TGPL, thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phƣơng hƣớng hoàn thiện việc
điều chỉnh pháp luật về TGPL trong điều kiện đổi mới
Luận văn Thạc sĩ “ Hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý
4
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Văn Tùy, năm 2016, Khoa Luật- Trƣờng Đại
học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
ti n về chế định ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm, giải pháp hoàn thiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL trong thời gian tới.
Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động TGPL của Luật sư ở Việt Nam hiện nay” của
tác giả Trần Thị Việt Hà, năm 2015, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực ti n về vị trí,
vai trò của luật sƣ trong hoạt động TGPL, dựa vào cơ sở đó để đánh giá một cách
khách quan, chính xác nhất về giá trị của luật sƣ trong hoạt động TGPL để t đó chỉ
ra định hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sƣ trong hoạt động TGPL.
Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về TGPL cho người nghèo và các đối tượng
chính sách xã hội khác” của tác giả Hoàng Thị Liên, năm 2015, Khoa Luật- Trƣờng
Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng
pháp luật TGPL cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách xã hội khác, thực ti n
tại Việt Nam, dựa vào cơ sở đó tác giả sẽ đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện
pháp luật TGPL.
Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng TGPL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đào
Dƣ Long, năm 2013, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống những vấn đề lý luận và thực ti n về chất lƣợng
TGPL, bao gồm khái niệm, mục tiêu, những đặc điểm và các tiêu chí đánh giá chất
lƣợng TGPL, chỉ ra thực trạng công tác TGPL trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy tăng cƣờng hiệu quả công tác đánh giá chất
lƣợng, nâng cao hoạt động TGPL góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
ngƣời nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tƣợng yếu thế trong xã hội
Luận văn Thạc sĩ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL” của
tác giả Nguy n Bích Ngọc, năm 2012, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực ti n hoạt
động TGPL, hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam và đề xuất các định hƣớng nâng
cao hiệu quả hoạt động TGPL.
5
Luận văn Thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan,
năm 2009, Khoa Luật- Trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực ti n về TGPL tại cơ sở và đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cƣờng hiệu quả phát huy tích cực của các phƣơng
thức này.
Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu, bài viết về TGPL đƣợc đăng trên Tạp
chí Luật học, Tạp chí khoa học nhƣ: “Bàn về thời điểm kết thúc vụ việc trợ giúp
pháp lý ” của tác giả Trịnh Thị Thanh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 2019. - Số
chuyên đề 2/2019, tr. 13-15; Bài viết “ Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc ít
người nhìn từ thực tiễn ở Yên Bái” của tác giả Ths. Hoàng Thị Hƣơng Thu, đăng
trên Tạp chí Ngƣời Làm Báo số 389 - Tháng 7/2016; Bài viết “Đánh giá chất lượng
vụ việc trợ giúp pháp lý là hình thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật
TGPL” của tác giả TS. Tạ Thị Minh Lý, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp –
Văn phòng Quốc hội; Tạp chí bài viết “Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và các
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý” của tác giả Đỗ Xuân
Lân, đăng trên Tạp chí Dân chủ Pháp luật, Bộ Tƣ pháp, Số 1/2008, tr. 22 – 29; Bài
viết “Cần tìm hướng đi mới, tích cực hơn cho trợ giúp pháp lý lưu động hiện nay”
của tác giả Lê Hằng Vân, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề
11/2010, tr. 17 - 19...
Trong những năm gần đây, TGPL trở thành mối quan tâm của rất nhiều Nhà
nghiên cứu khoa học, học giả và độc giả. Nhìn chung, các công trình trên đều mang
tính khoa học về hoạt động TGPL, thông qua cách nhìn nhận, phân tích một cách
toàn diện của quy định pháp luật. Các tác giả, các Nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu
hoạt động của quản lý Nhà nƣớc về TGPL, hay tập trung nghiên cứu các đối tƣợng
chính sách theo Luật TGPL quy định về thực ti n hoạt động TGPL và đề xuất các
giải pháp và định hƣớng trong những năm tới.
Luật TGPL 2006 đầu tiên ra đời đã thể hiện nhất quán chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân. Đánh dấu bƣớc chuyển về chất, đƣa công tác TGPL
6
lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực ti n đất nƣớc và xu thế
thời đại. Chính vì vậy, hoạt động TGPL đã không còn xa lạ với độc giả và các Nhà
khoa học và dần đi sâu vào tiềm thức của ngƣời dân cả nƣớc. Theo tác giả, việc
nghiên cứu về hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay v n là
một đề tài cần phải quan tâm, mang tính chất cấp bách và trọng đại. Thể hiện sự dự
đoán đƣợc tƣơng lai với định hƣớng chƣơng trình mục tiêu Quốc Gia xây dựng phát
triển Nông thôn Việt Nam hiện đại, kiểu mới. Hầu nhƣ, các công trình nghiên cứu
về Phụ nữ nông thôn Việt Nam chỉ d ng lại ở việc đảm bảo quyền của phụ nữ nông
thôn ở Việt Nam hiện nay, hay đặc trƣng cơ bản của phụ nữ nông thôn và giáo dục
pháp luật đến với phụ nữ Việt Nam hiện nay. Chƣa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về việc hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn Việt Nam. Vì vậy, đây
có thể đƣợc coi là đóng góp mới, nghiên cứu về lý luận và thực ti n hoạt động
TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu đƣơc sử dụng trong Triết học nghĩa Mác - Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của Đảng về
TGPL. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung
năm 2001, năm 2013 và các văn bản pháp luật về TGPL, các báo cáo kết quả hoạt
động, các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài nƣớc c ng đƣợc tham khảo
và kế th a có chọn lọc. Cụ thể t ng chƣơng sử dụng các phƣơng pháp nhƣ sau:
Chƣơng 1: tác giả sử dụng phƣơng pháp luận, dựa trên cơ sở phƣơng pháp
khái quát hóa, tr u tƣợng khoa học ở mục 1.1; 1.2; 1.3 và 1.4, tác giả có đƣa ra khái
niệm: phụ nữ nông thôn và TGPL cho phụ nữ nông thôn, đặc điểm và các nội dung,
yếu tố tác động đến phụ nữ nông thôn. Phƣơng pháp so sánh vận dụng các mô hình
TGPL ở các nƣớc trên Thế giới và thực ti n TGPL ở Việt Nam đƣợc sử dụng ở mục
1.5 trong bài. Bên cạnh đó, tác giả luận văn có sử dụng phƣơng pháp phân tích tài
liệu nghiên cứu, sử dụng sách chuyên khảo, các bài viết đƣợc đăng trên tạp chí khoa
học trong và ngoài nƣớc để triển khai luận văn.
7
Chƣơng 2: tác giả sử dụng phƣơng pháp logic-lịch sử, phƣơng pháp phân
tích và phƣơng pháp luận để triển khai bài ở mục 2.1; Mục 2.2 và 2.3 tác giả sử
dụng phƣơng pháp phân tích thống kê, phân tích tổng hợp, phƣơng pháp sƣu tầm và
lấy các sự kiện thu thập thông tin ở các bài viết đƣợc đăng trên các bài báo, Cổng
thông tin điện tử chính thống nhƣ: Báo Đại biểu Nhân dân, Cục TGPL Việt Nam,
Báo Phụ nữ Việt Nam, Bộ Tƣ Pháp...làm cơ sở và căn cứ khoa học để phân tích,
đánh giá số liệu.
Chƣơng 3: tác giả sử dụng phƣơng pháp phân tích và tổng hợp để hoàn thành
luận văn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn đƣợc kết cấu thành 03 chƣơng sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về TGPL cho phụ nữ nông thôn ở
Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực ti n thực hiện pháp luật TGPL cho
phụ nữ nông thôn ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL
cho phụ nữ ở nông thôn.
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, mục đích, nội dung và hình thức Trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nông thôn ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm TGPL
Thuật ngữ “Trợ giúp pháp lý” là một cụm t đƣợc sử dụng phổ biến trong các
tài liệu ở nƣớc ta t năm 1995. Đó là khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt
động TGPL tại Việt Nam. Theo t điển tiếng Việt “trợ giúp là sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ
trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến” [29]; “trợ
giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một ngƣời hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ
mà không lấy tiền công” [11]; “trợ giúp là giúp đỡ, và giúp đỡ lại đƣợc giải thích là
giúp để làm giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm cho ai một việc gì đó hoặc cho ai cái
gì đó mà ngƣời ấy đang cần” [17]. Thuật ngữ “pháp lý” đƣợc hiểu là “lý lẽ, lẽ phải
theo pháp luật, nói một cách khái quát, pháp lý là lý luận, luận điểm cơ bản đối với
pháp luật của một chế độ” [27]. Trong điều kiện hiện nay thì pháp luật là hệ thống
các quy phạm do Nhà nƣớc ban hành để quản lý xã hội. Mọi ngƣời dân phải lấy
pháp luật làm chuẩn mực để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu theo hƣớng
tiếp cận này thì “TGPL chính là thực hiện một dịch vụ pháp lý mi n phí hoặc giảm
phí so với giá trị thực tế cho loại đối tƣợng đang cần sự giúp đỡ pháp lý mà họ
không tự thực hiện đƣợc” [12].
TGPL xuất phát t lý luận về nhân quyền và bảo đảm nhân quyền, nhƣ một
biện pháp bảo đảm tƣ pháp dành cho ngƣời không có điều kiện (về kinh tế, sức
khỏe, kiến thức hiểu biết..) để tiếp cận và sử dụng các quy định pháp luật, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, để mỗi ngƣời đều có quyền bình đẳng trƣớc
pháp luật, nhất là trong điều kiện tiếp cận công lý và tổng quát chung TGPL mà
chính sách Nhà nƣớc mang đến là: kinh tế, pháp lý; xã hội và nhân đạo.
9
Tính kinh tế, pháp lý trong TGPL đƣợc thể hiện: TGPL dành cho những đối
tƣợng không có khả năng về mặt tài chính hoặc có điều kiện hoàn cảnh khó khăn,
họ gần nhƣ không thể thậm chỉ là bất lực trong việc chi trả cho các chi phí khi tiếp
cận với các dịch vụ pháp lý. Nhà nƣớc đảm bảo hoạt động này mang tính quy định
trong hệ thống pháp luật, là “trách nhiệm của nhà nƣớc”.
Tính xã hội và nhân đạo đó là tạo cơ hội cho những ngƣời có điều kiện, hoàn
cảnh khó khăn cần phải nhận thức pháp luật, bình đẳng với ngƣời khác trong việc
sử dụng, tiếp cận pháp luật nhằm xoá đói, giảm nghèo nâng cao trình độ dân trí.
Đồng thời c ng huy động đƣợc sự tham gia rộng rãi của các lực lƣợng xã hội có
hiểu biết về pháp luật, có trình độ pháp luật cơ bản hoặc chuyên sâu vào hoạt động
TGPL để bảo đảm cho những hoạt động TGPL đạt đƣợc hiệu quả trên thực tế.
Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã thông qua bản Các
Nguyên tắc và hƣớng d n tiếp cận TGPL trong tƣ pháp hình sự, với 14 nguyên tắc
và 18 hƣớng d n. Theo đó, nguyên tắc 1 thì TGPL đƣợc th a nhận là thành tố cơ
bản trong hệ thống tƣ pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho
việc thụ hƣởng các quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là
một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công
chúng đối với tiến bộ của hệ thống tƣ pháp hình sự. Nhà nƣớc cần bảo đảm quyền
đƣợc TGPL trong hệ thống pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể.
Hoạt động TGPL rất cần thiết trong đời sống của con ngƣời hiện nay, bên
cạnh mục đích là đảm bảo cho việc xây dựng Nhà nƣớc Pháp quyền mà TGPL
mang tầm quan trọng nhƣ một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý.
Xu hƣớng phát triển chung của các nƣớc trên thế giới đều mong muốn cung cấp cho
ngƣời đƣợc TGPL dịch vụ có chất lƣợng một cách kịp thời để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời trong tiếp cận công lý.
Khái niệm TGPL tại Việt Nam lần đầu tiên đƣợc quy định tại Điều 3, Luật
TGPL năm 2006, nhƣ sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời đƣợc
TGPL theo quy định của Luật này, giúp ngƣời đƣợc TGPL bảo vệ quyền, lợi ích
10
hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, đảm bảo
công bằng xã hội, phòng ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [20].
Điều 2, Luật TGPL năm 2017, quy định: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp
dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp
lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân
trong tiếp cận công lý và bình đẳng trƣớc pháp luật” [21], thêm vào đó khoản 1 Điều
4 Luật này quy định “Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nƣớc” [21]. Nhƣ vậy,
so với khái niệm về trợ giúp pháp lý của Luật Trợ giúp pháp lý 2006, thì Luật Trợ
giúp pháp lý 2017 đã quy định theo hƣớng phản ánh đúng nội hàm bản chất của trợ
giúp pháp lý là một dịch vụ pháp lý mi n phí, giúp đỡ về mặt pháp lý cho ngƣời
nghèo và các đối tƣợng chính sách, mang bản chất Nhà nƣớc và phản ánh tính nhân
đạo xã hội sâu sắc.
Ở một số nƣớc trên Thế giới tùy thuộc vào quy định và điều kiện tình hình mỗi
nƣớc sẽ đƣa ra các khái niệm về TGPL khác nhau, nhƣng đều mang nội hàm chung về
việc hỗ trợ mi n phí TGPL cho công dân nƣớc mình khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn về
tài chính và không thể chi trả cho hoạt động TGPL cá nhân. Điển hình nhƣ:
Ở Anh, theo t điển Pháp luật Anh: “TGPL là một dạng phúc lợi xã hội do
Nhà nƣớc bảo đảm để những những ngƣời không có khả năng trả tiền cho luật sƣ
(thƣờng là các bị cáo hình sự) đều có thể tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ pháp lý
mi n phí” [36, tr.170]. (đƣợc dịch bởi t điển pháp luật Anh bởi nhà xuất bản Wiley
2006 tr.170)
Ở Úc, quy định của mỗi Bang có sự đặc thù, Điều 5 Luật TGPL năm 1997
của bang Queensland (Úc) nêu ra ý nghĩa của việc TGPL nhƣ sau:
1) TGPL (legal assistance) là việc cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tư vấn
pháp luật miễn phí hoặc thanh toán số tiền ít hơn chi phí cung cấp dịch vụ; 2) Dịch
vụ có thể được cung cấp bởi luật sư Trợ giúp pháp lý hoặc nhà cung cấp dịch vụ
Trợ giúp pháp lý [39]. Tại Bang Victoria (Úc), TGPL nghĩa là: (a) Giáo dục, tư vấn,
thông tin pháp luật; (b) Bất cứ dịch vụ pháp luật nào do luật sư cung cấp; (c) Các
11
dịch vụ khác trong phạm vi thẩm quyền của TGPL, bao gồm dịch vụ của luật sư
theo nghĩa vụ, tư vấn pháp luật và hỗ trợ pháp luật (Điều 2 Mục I Luật TGPL bang
Victoria năm 1978 của Australia) [38].
Ở Moldova, điều 2 Luật TGPL Moldova năm 2007 quy định:
“TGPL của Nhà nước là việc cung cấp dịch vụ pháp lý theo quy định của
Luật TGPL từ nguồn kinh phí TGPL cho người không có đủ tiền để trả và người
đáp ứng các điều kiện quy định tại Luật này” [37].
Nhƣ vậy, t một số khái niệm TGPL ở một số Quốc gia trên thế giới, tác giả
luận văn chỉ ra bản chất của TGPL của Nhà nƣớc ta hiện nay nhƣ sau:
Thứ nhất: TGPL hƣớng tới giúp đỡ về mặt pháp lý cho ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý: mục đích giúp đỡ về mặt pháp lý cho những đối tƣợng yếu thế trong xã hội,
bị thiệt thòi về kinh tế, tinh thần và thể chất trong xã hội. Luôn cần Nhà nƣớc và xã
hội quan tâm giúp đỡ, nhất là giúp đỡ trong việc tiếp cận và sử dụng pháp luật. Vì
pháp luật là một công cụ hữu hiệu để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Trên thực tế, những ngƣời đƣợc TGPL theo quy định thƣờng là những ngƣời
bị hạn chế thực hiện các quyền và nghĩa vụ vì họ không có điều kiện tiếp cận với
các tiện ích xã hội c ng nhƣ kiến thức pháp luật. Do đó, cơ hội để họ biết và thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình bị hạn chế.
Thứ hai, TGPL mang bản chất nhân đạo sâu sắc, không trái với đạo đức xã
hội: TGPL là một trong những chính sách mang tính nhân đạo, nhân văn của Đảng
và Nhà nƣớc nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật và
thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân. Giúp ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào
việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng
ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Nội dung của TGPL không đƣợc
trái với đạo đức xã hội, bởi lẽ, đạo đức xã hội là chuẩn mực chung đƣợc công nhận
và tự giác tuân thủ. TGPL có phù hợp với đạo đức xã hội, thì nội dung TGPL mới
đƣợc cộng đồng nói chung và ngƣời đƣợc TGPL nói riêng chấp thuận
12
Thứ ba, TGPL cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí: Theo đó, đối tƣợng đƣợc
hƣởng dịch vụ TGPL theo quy định của Luật TGPL sẽ không phải trả bất kỳ một
khoản lệ phí, thù lao nào, kể cả những lệ phí liên quan đến giấy tờ, đi lại khi họ yêu
cầu đƣợc TGPL. Điều này xuất phát t bản chất của ngƣời đƣợc TGPL đó là
“những ngƣời có khó khăn về tài chính”. Khi họ không đủ điều kiện tài chính để
học tập, ăn uống, chăm sóc sức khỏe... thì những chi phí cho dịch vụ pháp lý lại
càng trở nên xa vời. Do vậy, không thu phí, lệ phí, thù lao t ngƣời đƣợc TGPL
chính là một trong những bản chất chính của hoạt động TGPL và mang ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc t chính sách của Nhà nƣớc khích lệ tinh thần của ngƣời dân khắc
phục, vƣơn lên trong mọi hoàn cảnh và thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc
trong việc tiếp cận TGPL đến với ngƣời dân.
1.1.1.2. Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam
Khái niệm Nông thôn: Ở Việt Nam, chƣa có định nghĩa chính thức về nông
thôn, song t các nghiên cứu về nông thôn, theo quan điểm của tác giả luận văn
khái niệm về nông thôn nhƣ sau: Nông thôn là vùng/khu vực lãnh thổ không thuộc
nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; đƣợc quản lý trực tiếp bởi chính
quyền xã; là địa bàn sinh sống của nhiều cộng đồng dân cƣ, những tộc ngƣời khác
nhau, chủ yếu lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp; là nơi lƣu giữ các giá
trị văn hóa cổ truyền, tập quán tốt đẹp và các ngành nghề nông nghiệp lâu đời và
truyền thống
Khái niệm Phụ nữ Nông thôn, tác giả luận văn chỉ ra: Phụ nữ nông thôn là
một cộng đồng ngƣời phong phú, đa dạng sinh sống ở các vùng miền nông thôn
gồm những dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, trình độ học vấn khác nhau. Họ hoạt động ở
mọi ngành nghề - t ngành nghề nông nghiệp truyền thống duy trì lâu đời: cấy lúa,
trồng dâu nuôi tằm, chăn nuôi, thu hoạch muối biển, kéo lƣới đánh bắt cá, trồng cây
công nghiệp lâu năm ... cho đến những công việc ngành nghề nặng nhọc và độc hại
để tăng thu nhập kinh tế nuôi sống bản thân và gia đình. Phụ nữ nông thôn Việt
Nam giữ vai trò chính trong việc chăm sóc gia đình t việc quyết định các công việc
lao động nông nghiệp, chăm lo sức khỏe cho con cái và ngƣời thân, là ngƣời sản
13
xuất chính các sản phẩm lƣơng thực, thực phẩm để nuôi sống gia đình. Họ gần nhƣ
không có thời gian nghỉ ngơi cho bản thân và luôn chịu sự bất công về bất bình
đẳng giới còn tồn đọng t phong kiến cổ hủ trong văn hóa gia đình cổ xƣa.
Về mặt Pháp luật Việt Nam theo Luật TGPL năm 2017 chƣa quy định rõ về
việc Phụ nữ nông thôn sẽ là chủ thể đƣợc Nhà nƣớc TGPL mi n phí (chỉ có quy
định chung chung không phân biệt nam-nữ: ngƣời thuộc hộ nghèo, ngƣời nhi m
bệnh hiv, ngƣời bị bạo lực gia đình và là nạn nhân của hành vi buôn bán ngƣời
nhƣng phải đáp ứng điều kiện cần là khó khăn về mặt tài chính). Việc TGPL đến
với phụ nữ nông thôn Việt Nam là hành động thiết thực và cần thiết, ngƣời phụ nữ
nông thôn sẽ có cơ hội đƣợc tiếp xúc với các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp chính đáng nhiều hơn. Nâng cao trình độ văn hóa về sự hiểu
biết pháp luật, đáp ứng nhu cầu mà Đảng và Nhà nƣớc đang phấn đấu xây dựng xã
hội hóa vùng nông thôn kiểu mới phát triển, văn minh. Co thể chỉ ra khái niệm về
TGPL cho Phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay nhƣ sau: Pháp luật TGPL cho Phụ
nữ nông thôn là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc tổ chức và hoạt
động TGPL, đó là việc cung cấp các dịch vụ pháp lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp đến với Phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Mục đích của việc TGPL đối với phụ nữ nông thôn ở Việt Nam
Hoạt động TGPL nhằm giúp ngƣời đƣợc TGPL bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình một cách tốt nhất, góp phần nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật,
có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, đảm bảo công
bằng xã hội, phòng ng a, hạn chế các tranh chấp và vi phạm pháp luật xảy ra. Góp
phần đảm bảo cho mọi công dân đều đƣợc quyền bình đẳng trƣớc pháp luật và đảm
bảo công bằng xã hội trong việc tiếp cận pháp luật.
Phụ nữ nông thôn lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngƣ nghiệp, các ngành nghề thủ công truyền thống. Là lực lƣợng đông đảo nhất
trong cơ cấu dân cƣ, cơ cấu lao động của xã hội nông thôn Việt Nam; Đa số phụ nữ
ở nông thôn lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp; Điều kiện kinh tế, lao
14
động của phụ nữ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn; Trình độ học vấn của phụ nữ ở
nông thôn còn thấp và chịu nhiều ảnh hƣởng bởi tƣ tƣởng phong kiến, là nạn nhân
của những hủ tục, tập quán truyền thống lạc hậu. Tƣ tƣởng định kiến giới còn hiện
hữu trong chính gia đình và trong các tổ chức xã hội nơi mà họ tham gia lao động
và làm việc, nghiêm trọng hơn, phụ nữ các vùng nông thôn còn là nạn nhân việc
buôn bán ngƣời xuyên Quốc Gia.
Xuất phát t nông thôn, nên đa phần hầu hết Phụ nữ đều không nắm rõ kiến
thức pháp luật, sự thiếu hiểu biết về kiến thức pháp luật của một bộ phận ngƣời dân,
đặc biệt phụ nữ nông thôn vùng sâu vùng xa, trình độ dân trí còn nhiều hạn chế, là
một trong nguyên nhân d n đến việc vi phạm pháp luật. Đây c ng là điều kiện thuận
lợi để các đối tƣợng xấu lợi dụng thực hiện hành vi phạm tội. Trang bị kiến thức
pháp luật cho ngƣời dân, nhất là đối với ngƣời phụ nữ, là vấn đề luôn đƣợc các cấp,
các ngành quan tâm.
Phụ nữ nông thôn luôn phải đối đầu với những bất công ngay trong chính gia
đình hay cộng đồng nơi họ sinh sống nhƣ: sự phân biệt lớn về giới tính, bạo lực gia
đình, hay xâm phạm tình dục ngày một gia tăng. Ngƣời phụ nữ phải làm nhiều công
việc hơn, ngoài việc chăm sóc ngƣời thân trong gia đình, họ phải gánh vác công
việc lao động làm thêm bên ngoài để trang trải cuộc sống. Họ phải chịu áp lực về
kinh tế, đối diện với cuộc sống nghèo khó, không đủ chi tiêu trong gia đình. Phụ nữ
nông thôn chịu nhiều sự vất vả, thiệt thòi về điều kiện sống, sức khỏe không đƣợc
đảm bảo nên thƣờng xuyên đối mặt với bệnh tật, ốm đau, chất lƣợng sống không ổn
định gây ảnh hƣởng lớn đến tinh thần tâm lý của ngƣời phụ nữ nông thôn
Các vụ việc về bạo lực gia đình đối với Phụ nữ chƣa đƣợc giải quyết triệt để,
họ phải cam chịu, nh n nhịn chịu đựng những cơn đau về thể xác l n tinh thần.
Phần lớn vì không am hiểu pháp luật để tự bảo vệ chính bản thân mình.
Theo kết quả điều tra ở 08 tỉnh của Hội liên hiệp Phụ nữ năm 2008, có 23%
số gia đình đƣợc hỏi có hành vi bạo hành về thể chất; 30% số gia đình có hành vi
bạo lực về tình dục; 25% số gia đình đƣợc hỏi có hành vi bạo lực về tinh thần trong
đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. Theo số liệu điều tra của Trung tâm Nghiên cứu
15
Giới và Phát triển, bạo lực gia đình d n đến tình trạng ly hôn chiếm 497%. Theo số
liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao trung bình trong 5 năm t 2000 đến 2005
cả nƣớc có 352.000 vụ ly hôn thì có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình (chiếm
53,1%) [15, tr.24 - 27].
Không chỉ là nạn nhân của Bạo lực gia đình, phụ nữ còn là nạn nhân chính
của tội mua bán ngƣời. “Tính đến ngày 22/10/2009 theo một báo cáo của Chính
phủ, hơn 4.000 phụ nữ và trẻ em gái là nạn nhân của những tổ chức buôn ngƣời đã
đƣợc phát hiện trong 05 năm quá (2004 - 2009) ngoài ra cả nƣớc có khoảng 22.000
phụ nữ, trẻ em đã rời khỏi địa phƣơng, đến nay không rõ tung tích” [15, tr. 24 - 27].
Tình trạng buôn bán ngƣời ngày càng di n biến phức tạp; nhiều ngƣời bị l a gạt về
các cơ hội lao động và sau đó bị bán cho các nhà thổ ở vùng biên giới Trung Quốc,
Campuchia, Lào và các nƣớc châu Á khác, trong đó có Malaysia, Hàn Quốc,
Singapore, Đài Loan và Thái Lan, Nam Triều Tiền. Đặc điểm chung của các nạn
nhân bị l a gạt buôn bán trái phép đều xuất phát t những phụ nữ nông thôn, đa số
họ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chỉ làm ruộng hoặc không có việc làm, trình độ
học vấn thấp, vì sự nhẹ dạ cả tin, vi n cảnh về tƣơng lai tốt đẹp và hứa hẹn vùng
kinh tế mới mà bọn buôn ngƣời đƣa ra. Chính vì sự thiếu hiểu biết trầm trọng về
kiến thức pháp luật, không cập nhật thông tin truyền thông nhanh chóng, nên phụ
nữ nông thôn thƣờng bị ngƣời xấu lợi dụng lòng tin. Khi đƣợc cơ quan chức năng
Việt Nam giải cứu, hỗ trợ đƣa về nƣớc thì họ lại mặc cảm với cộng đồng nơi họ
sinh sống hay làng xóm v n chƣa có cái nhìn bao dung đối với các nạn nhân; điều
tiếng xã hội, dƣ luận xóm giềng đã làm cho các nạn nhân nhiều lúc rất tự ti, mặc
cảm. Điều này khiến nhiều nạn nhân sau bao năm đƣợc đoàn tụ với gia đình c ng
rất khó hòa nhập cộng đồng.
Phụ nữ nông thôn phải làm rất nhiều công việc, vì đa phần trình độ văn hóa
của phụ nữ nông thôn rất thấp, bỏ học giữa ch ng nên họ không có cơ hội làm việc
tại các cơ quan Nhà nƣớc hoặc các tổ chức chuyên nghiệp, họ phải gánh vác kinh tế
để đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình. Khi quyền lợi của ngƣời phụ nữ nông thôn
bị xâm phạm, họ c ng không muốn dùng tài chính của mình để chi trả (nếu phụ nữ
16
nông thôn không thuộc diện TGPL mi n phí theo điều 7 của Luật TGPL 2017 thì họ
sẽ phải bỏ chi phí cho hoạt động TGPL) vì phụ nữ nông thôn thƣờng phải đối mặt
với nhiều khoản chi: phí sinh hoạt bản thân, phí sinh hoạt cho gia đình và chăm sóc
con cái, ngƣời thân… rất nhiều chi phí khác nữa mà ngƣời phụ nữ nông thôn phải
gánh lên đôi vai, nên tâm lý đến Tổ chức và Trung tâm để đăng ký TGPL họ gần
nhƣ không tham gia. Chính vì vậy, phụ nữ nông thôn thƣờng bỏ lỡ nhiều cơ hội về
quyền lợi của mình khi đƣợc TGPL.
Xuất phát t những thực trạng trên, mục đích cho hoạt động TGPL phụ nữ
nông thôn Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc xác định đúng định hƣớng,
mục tiêu TGPL cho phụ nữ nông thôn, việc chỉ ra các phƣơng pháp, nội dung và
hình thức TGPL cần phải xác định đúng mục đích của hoạt động TGPL cho phụ nữ
nông thôn. Tùy thuộc vào mỗi giai đoạn, thời kỳ phát triển kinh tế xã hội để chỉ ra
mục đích TGPL cho phụ nữ nông thôn. Theo quan điểm của tác giả luận văn, TGPL
cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam bao gồm các mục đích cơ bản sau:
Mục đích thứ nhất: là mục đích về nhận thức pháp luật, phụ nữ nông thôn
cần phải hiểu về pháp luật, nhận thức đúng đắn về Pháp luật Việt Nam trong hoạt
động TGPL. Hiện nay, các vùng nông thôn ở Việt Nam, đại đa số phụ nữ nông thôn
chƣa đƣợc trang bị kiến thức pháp luật, khi quyền và lợi ích bị xâm phạm, ngƣời
phụ nữ nông thôn không biết cần phải làm gì để bảo vệ chính mình. Thực trạng này
di n ra suốt nhiều năm, vì điều kiện kinh tế khó khăn, hiểu biết pháp luật không có,
họ thƣờng là nạn nhân trong các vụ buôn bán ngƣời, nạn bạo lực gia đình, bị xâm
hại tình dục hay gặp thiệt thòi trong phân chia tài sản ly hôn…
Mục đích thứ hai: xây dựng niềm tin tuyệt đối về pháp luật cho phụ nữ nông
thôn. Sự đầu tƣ của Nhà nƣớc đối với phụ nữ nông thôn góp phần bảo vệ và phát
triển đời sống cho phụ nữ vùng nông thôn nhƣ: Thành lập Quỹ vay vốn, Hợp tác xã
nông nghiệp, Quỹ bảo hiểm y tế và nhân thọ, xây dựng Nhà tạm lánh mang tên
Ngôi nhà bình yên. Bên cạnh những thành tựu đã thực hiện đƣợc, Nhà nƣớc cần lên
kế hoạch xây dựng các chƣơng trình hỗ trợ pháp lý đến với phụ nữ nông thôn, đó
c ng là mục tiêu cho việc giám sát, quản lý có hiệu quả nhằm thúc đẩy nếp sống
17
văn hóa, điều kiện kinh tế ở vùng nông thôn. Thẳng thắn lên án, phê bình các cán bộ
địa phƣơng làm việc tắc trách, làm sai quy định pháp luật về việc hỗ trợ cho phụ nữ
nông thôn. Nhà nƣớc quan tâm đến phụ nữ nông thôn thì họ sẽ tin yêu vào chính
sách của Đảng, luôn chấp hành đúng các quy định của pháp luật, cùng đoàn kết góp
phần thúc đẩy kinh tế địa phƣơng đi lên đáp ứng nhu cầu của thời đại trong việc xây
dựng và phát triển Nông thôn kiểu mới
Mục đích thứ ba: hình thành động cơ, hành vi xử sự cho phụ nữ nông thôn
theo chuẩn các quy định pháp luật. Dựa vào hai mục đích ở trên, khi đƣợc trang bị
đầy đủ kiến thức pháp luật, phụ nữ nông thôn sẽ tự tin hơn, nắm bắt đƣợc quyền, lợi
ích hợp pháp của mình khi tham gia TGPL đồng thời có kiến thức pháp luật và xây
dựng đƣợc kỹ năng tham gia TGPL để bảo vệ mình, có thể phản biện lại những
hành động, hành vi t việc làm sai trái t chủ thể khác, ý thức luôn tuân thủ các quy
phạm hƣớng d n của pháp luật.
T những mục đích TGPL cho phụ nữ nông thôn, hiện nay hoạt động TGPL
cho phụ nữ nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, pháp luật Việt Nam mới chỉ d ng lại
ở việc ban hành những văn bản quy định, nghị định pháp luật bao gồm tất cả các
chủ thể đối tƣợng và trong đó có phụ nữ nhƣ: Luật Bình Đẳng giới năm 2006; Luật
phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật phòng, chống mua bán ngƣời năm
2011; Luật Đất Đai 2013; Bộ Luật Lao Động 2012; Nghị định 08/2009/NĐ-CP quy
định chi tiết và hƣớng d n thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia
đình; Nghị định 09/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
phòng, chống mua bán ngƣời… Nhƣng văn bản về TGPL cho phụ nữ nông thôn
hiện nay chƣa có, đất nƣớc ngày một phát triển và nhiều nhu cầu xã hội phát sinh,
Đảng và Nhà nƣớc ta cần có những biện pháp khắc phục và hỗ trợ đến với phụ nữ
nông thôn nhƣ một chính sách khích lệ ủng hộ tinh thần và đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam.
Thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn là một chính sách góp phần bảo đảm
các quyền tự do, dân chủ của ngƣời phụ nữ nông thôn, giúp họ có điều kiện sử dụng
pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Bởi vì họ là nhóm đối tƣợng yếu thế,
18
không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình, phụ nữ nông thôn cần phải đƣợc quan tâm, giúp đỡ. Có nhƣ vậy,
mới phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nƣớc của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân, mới bảo đảm để tất cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về Nhân dân, tạo
lập công bằng, bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể. Việc xác định đúng đắn các
mục đích, định hƣớng của TGPL đối với phụ nữ nông thôn là một trong những yếu
tố tạo nên cấu trúc bên trong của thực hiện TGPL.
1.1.3. Nội dung và hình thức của TGPL cho phụ nữ nông thôn
Hoạt động TGPL cho Phụ nữ nông thôn cần phải tập trung vào các nội dung
chính quy định về quyền, nghĩa vụ của ngƣời đƣợc hƣởng trợ giúp pháp lý nhằm
nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, phổ biến kịp thời các
chủ trƣơng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, không ng ng đƣa các quy
định của pháp luật đến với ngƣời dân nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói
riêng. Góp phần trang bị cho phụ nữ nông thôn đƣợc tham gia hay tiếp cận pháp
luật để t đó nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp
hành pháp luật đồng thời góp phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời
đƣợc trợ giúp pháp lý và giảm thiểu những vấn đề bức xúc di n ra trong đời sống
hằng ngày, mang lợi ích giúp cho các cơ quan nhà nƣớc giải quyết các vụ việc một
cách chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; góp phần giải toả những
vƣớng mắc pháp luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nƣớc; góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; tạo lập cơ chế thực
hiện nguyên tắc Hiến định: Mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bảo đảm
công bằng xã hội; góp phần giữ vững và tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Hình thức TGPL đƣợc hiểu hình thức tổ chức hoạt động TGPL giữa chủ thể
thực hiện TGPL và ngƣời đƣợc TGPL nhằm mục đích hỗ trợ ngƣời đƣợc TGPL
đƣợc đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp. Theo khoản 2 Điều 27 Luật TGPL
2017 Các hình thức TGPL hiện nay bao gồm: a, Tham gia tố tụng; b, Tƣ vấn pháp
luật; c, Đại diện ngoài tố tụng
19
Hình thức tham gia tố tụng [21, Điều 31]: là việc tổ chức TGPL cử ngƣời
thực hiện đại diện, bào chữa cho phụ nữ nông thôn cần TGPL trƣớc cơ quan tiến
hành tố tụng. Đây là hình thức TGPL cơ bản nhất, đƣợc quy định rất cụ thể trong
các công ƣớc quốc tế và tất cả các quy định, chế định TGPL các nƣớc. Hình thức
này thực hiện t ngƣời đƣợc đào tạo bài bản và am hiểu nắm bắt các quy định, thủ
tục về pháp luật, có kỹ năng hành nghề luật sƣ.
Hình thức tƣ vấn pháp luật theo Điều 31 Luật TGPL 2017 [21, Điều 32]:
đƣợc áp dụng phổ biến trong các hoạt động TGPL ở tất cả các nƣớc. Tƣ vấn pháp
luật đƣợc hiểu là một loại dịch vụ pháp lý nhằm giải thích pháp luật và hƣớng d n
việc thiện pháp luật cho các đối tƣợng TGPL. Tƣ vấn viên sẽ lắng nghe những tâm
tƣ tình cảm, những khó khăn trong đời sống mà khách hàng hay gặp phải và đƣa ra
lời khuyên hay những hƣớng đi mang tính chất đúng đắn, hợp tình hợp lý. Tƣ vấn
pháp luật đƣợc thực hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc có thể tƣ vấn gián tiếp
thông qua hình thức: gửi thƣ tín, thƣ điện tử, điện thoại…)
Hình thức đại diện ngoài tố tụng theo Điều 32 Luật TGPL 2017 [21, Điều 33]:
Đại diện ngoài tố tụng là việc trợ giúp viên pháp lý, luật sƣ thực hiện đại diện ngoài
tố tụng cho ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý khi họ không thể tự bảo vệ đƣợc quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Việc đại diện ngoài tố tụng đƣợc thực hiện trong phạm vi
yêu cầu của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý.
Để áp dụng các hình thức TGPL theo quy định luật TGPL 2017 với phụ nữ
vùng nông thôn. Các cơ quan Nhà nƣớc, các tổ chức chính trị xã hội có nghĩa vụ
thành lập, phối hợp cùng chỉ đạo các tổ chức TGPL thực hiện theo đúng quy định
pháp luật về việc hỗ trợ TGPL cho phụ nữ nông thôn mang lại sự yên tâm của phụ
nữ nông thôn đối với chính quyền địa phƣơng nơi họ sinh sống, cụ thể việc phối
hợp nhƣ sau:
Đảng và Nhà nƣớc nên thực hiện ban hành chính sách, pháp luật TGPL hỗ
trợ phụ nữ nông thôn đƣợc quyền tiếp cận dịch vụ pháp lý mi n phí, luôn quan tâm
đến các hoạt động pháp luật đối với phụ nữ vùng nông thôn.
Bộ tƣ pháp cần phải có trách nhiệm trƣớc chính phủ trong việc thực hiện
20
TGPL cho các đối tƣợng theo luật TGPL 2017 nói chung và TGPL cho phụ nữ vùng
nông thôn nói riêng. Chủ động phối hợp với các bộ, các ban ngành, UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng thƣờng xuyên tiến hành kiểm tra, rà soát các văn
bản pháp luật về TGPL đã lạc hậu, cập nhật xây dựng văn bản pháp luật mới sao
cho phù hợp để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật
về TGPL tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sƣ và trợ giúp viên pháp lý tham gia tố
tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc TGPL
Bộ lao động thƣơng binh và xã hội phối hợp với Hội liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam tổ chức các Hội thảo hỗ trợ phụ nữ vùng nông thôn nhƣ: triển khai công tác
bình đẳng giới; Xây dựng mô hình phát triển kinh tế ở địa phƣơng mục đích tạo
công ăn việc làm cho phụ nữ nông thôn; Tuyên truyền về chế độ bảo hiểm, chăm
sóc sức khỏe đến với phụ nữ nông thôn; Phòng chống bạo lực đối với phụ nữ và trẻ
em tại vùng nông thôn; Bảo vệ hỗ trợ nạn nhân bị l a buôn bán xuyên biên giới tái
hòa nhập với cộng đồng ổn định cuộc sống, giúp đỡ nạn nhân bị mua bán trở về cần
đƣợc triển khai phù hợp với nguyện vọng và đƣợc cấp ủy, chính quyền ủng hộ, giúp
nạn nhân ổn định cuộc sống. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp là nòng cốt trong việc tìm
kiếm, vận động các nguồn lực để hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về, trong đó hội
phụ nữ cơ sở chính là những ngƣời gần g i, chia sẻ, nắm bắt tình hình đời sống và
là sợi dây kết nối với các cơ sở hỗ trợ khi nạn nhân tiếp tục cần sự trợ giúp, t đó
góp phần hỗ trợ chị em tháo gỡ khó khăn trong cuộc sống.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW có trách nhiệm cần phải chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn tại các địa phƣơng trong địa bàn rà soát, kiểm tra, kiện
toàn tổ chức, cán bộ đảm bảo biên chế kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm
việc, tăng cƣờng năng lực hoạt động cho trung tâm và các chi nhánh của trung tâm
TGPL, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của phụ nữ nông thôn tại địa phƣơng
mà thành lập các chi nhánh TGPL nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL cho phụ nữ
nông thôn, cần tiến hành và rà soát tổ chức tham gia TGPL ở địa phƣơng để tổ chức
này hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật về TGPL, làm tốt công tác thanh
tra, kiểm tra và công tác thi đua khen thƣởng trong hoạt động TGPL.
21
1.2. Đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và TGPL đối với phụ nữ
nông thôn ở VN
1.2.1. Đặc điểm của Phụ nữ nông thôn
1.2.1.1. Phụ nữ nông thôn thường ít quan tâm đến Pháp luật
Những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc đã có những quan điểm, chủ trƣơng nhất
quán, xuyên suốt để đảm bảo các quyền cho ngƣời dân, trong đó có phụ nữ Việt
Nam nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng. Các hệ thống văn bản pháp
luật hiện ban hành đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đến với phụ nữ hiện nay nhƣ:
Luật bình đẳng giới 2006; Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007; Luật phòng,
chống mua bán ngƣời 2011; Luật hôn nhân và gia đình 2014, Luật Đất Đai 2013;
Bộ Luật Lao Động 2012… Tuy nhiên, với trình độ nhận thức không đồng đều thì
cách tiếp cận, thực thi các quy định của pháp luật của phụ nữ Việt Nam hiện nay
còn rất nhiều hạn chế đặc biệt đối với phụ nữ vùng nông thôn.
Điều phụ nữ nông thôn quan tâm nhiều nhất chủ yếu là cuộc sống thƣờng
ngày trong gia đình, phần nhiều vì các hủ tục phong kiến để lại, phụ nữ nông
thôn thƣờng ít quan tâm đến các hoạt động pháp luật ở chính quyền địa phƣơng,
họ chỉ cần khi quyền và lợi ích của họ hay ngƣời thân trong gia đình bị xâm
phạm, nhƣng ngay chính bản thân ngƣời phụ nữ không biết tham khảo luật hiện
hành nào để bảo vệ quyền lợi cho mình. Trình độ dân trí ở vùng nông thôn còn
nhiều hạn chế nên chị em chƣa quan tâm nhiều đến việc tiếp cận, tìm hiểu thông tin
về chính sách, luật pháp.
Các vấn đề về quyền cơ bản của phụ nữ và thực trạng chung về Hôn nhân gia
đình, bạo lực gia đình phụ nữ nông thôn không nắm bắt hết: Hôn nhân ở tuổi vị
thành niên, nhất là ở vùng núi cao, vùng dân tộc thiểu số, không phải là hiếm. Việc
tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân
tộc thiểu số, v n còn hạn chế và chƣa đƣợc coi trọng. Định kiến giới và tƣ tƣởng
thích con trai cùng với việc tiếp cận d dàng các dịch vụ kỹ thuật chẩn đoán sớm
giới tính thai nhi và dịch vụ phá thai là những nguyên nhân cơ bản góp phần làm gia
tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
22
Ở các khu vực nông thôn, phụ nữ v a làm việc đồng áng, nội trợ và chăm
sóc ngƣời thân, những ngành nghề chủ yếu hiện nay dành cho phụ nữ nông thôn
nhƣ dệt may, nông - lâm nghiệp… đều là những ngành lao động phổ thông, nặng
nhọc, năng suất thấp, d bị tổn thƣơng với mức thu nhập thấp; điều kiện làm việc thì
khắc nghiệt mà tính rủi ro do mất việc rất cao. Khi kinh tế biến động cần sa thải
nhân công thì lao động nữ c ng là “ƣu tiên hàng đầu”. Lý do là vì ít đào tạo trình độ
thấp nên cơ hội việc làm có lƣơng cao rất hạn chế. Và khi bị xâm phạm đến lợi ích
thì ngƣời phụ nữ c ng không thể đứng lên bảo vệ chính bản thân mình.
1.2.1.2. Phụ nữ nông thôn chỉ hiểu biết một số điều luật cơ bản mang tính
chất chung chung
Nhận thức của phụ nữ nông thôn chƣa đồng đều, một số ngƣời chỉ nắm rõ
quy định pháp luật một cách chung chung, chƣa thật sự nâng cao vốn hiểu biết về
kiến thức pháp luật, ảnh hƣởng đến công tác phối hợp, triển khai thực hiện các quy
định pháp luật về hoạt động TGPL. Sống trong môi trƣờng ít thông tin, học vấn
thấp, lại chịu sức ép theo những khuôn m u cổ hủ, phong kiến, cột chặt ngƣời phụ
nữ nông thôn vào những khuôn phép, tục lệ “hầu chồng, chăm con”, nên kiến thức
pháp luật, ý thức về hành vi pháp luật của ngƣời phụ nữ nông thôn chƣa cao. Mặc
dù đƣợc sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của tỉnh ủy, sự phối hợp chặt chẽ với các Ban,
ngành, đoàn thể, sự đoàn kết, nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao đối với công
việc của tập thể cán bộ, hội trƣởng Hội Phụ nữ các vùng nông thôn thực hiện nhiệm
vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong khu vực địa phƣơng phù hợp với văn hóa,
phong tục, tập quán. Tuy nhiên, việc phổ cập giáo dục về quyền và nghĩa vụ đến với
phụ nữ vùng nông thôn còn hạn chế, phần lớn do trình độ dân trí không đồng đều,
nhận thức của nhân dân còn thấp.
Khó khăn hơn nữa là việc khó áp dụng theo luật bởi vì yêu cầu về bằng
chứng, phần lớn phụ nữ nông thôn do không hiểu biết về pháp luật, họ không biết
cách giữ lại bằng chứng. Khi bạo lực xảy ra, phụ nữ nông thôn chỉ có tìm cách chạy
trốn, né tránh vụ việc, không dám báo cáo sự việc lên các cấp chính quyền địa
phƣơng phần vì lối suy nghĩ hủ tục t nhiều đời. Sự che giấu này đã dung túng, làm
23
tăng mức độ nghiêm trọng của hành vi. Bên cạnh đó, phần đông nạn nhân của
BLGĐ không nắm đƣợc các quy định về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình… Một số ngƣời quan niệm chỉ khi d n đến hậu quả nặng nề về sức khỏe, thể
chất mới xem đó là bạo lực BLGĐ. Khi quyền và lợi ích bị xâm phạm, phụ nữ nông
thôn chỉ biết hành vi của đối tƣợng là vi phạm sai quy định của pháp luật nhƣng
không nắm rõ đƣợc các thủ tục cần phải thực hiện là gì. Khi tìm đến các văn phòng
TGPL thƣờng không có giấy tờ, biên bản xác nhận của cơ quan chức năng nhƣ:
Bệnh viện, Ủy ban nhân dân, Công an gây khó khăn cho văn phòng TGPL gặp khó
khăn trong việc làm thủ tục cử ngƣời thực hiện TGPL. Hơn nữa, nhiều chị em phụ
nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội buôn bán phụ nữ… nhƣng
không muốn để ai biết mình là nạn nhân, tâm lý mặc cảm, sợ bị chê trách nên không
đến tổ chức trợ giúp pháp lý để đƣợc trợ giúp pháp lý.
1.2.1.3. Phụ nữ nông thôn là nhóm đối tượng có quyền và lợi ích hợp pháp
dễ bị xâm phạm
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy
quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền nhƣ nhau” [13, tr.260]. Thực hiện đấu
tranh giải phóng dân tộc là để có phần giành quyền lợi về phía phụ nữ, bởi vì theo
Ngƣời, dân tộc chƣa độc lập thì quyền lợi của phụ nữ chƣa đƣợc giải phóng,
quyền phụ nữ gắn liền với quyền dân tộc, quyền của giai cấp và quyền của con
ngƣời. Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm tới quyền của phụ nữ ở nông thôn, nơi
lao động nữ là lực lƣợng chủ yếu. Ngƣời thấu hiểu nỗi vất vả của ngƣời phụ nữ
nông thôn trong điều kiện lao động chân tay “một nắng, hai sƣơng”, “bán mặt cho
đất, bán lƣng cho trời”. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quyền của phụ nữ đƣợc thể hiện
trong Chánh cƣơng vắn tắt năm 1930 của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong
đó nêu rõ: “Về phƣơng diện xã hội thì: a) Dân chúng đƣợc tự do tổ chức. b) Nam
nữ bình quyền. v.v…” [14, tr.1]
Tuy nhiên, trong t ng giai đoạn, ở nhiều thời điểm, việc thực hiện quyền của
phụ nữ nông thôn còn những hạn chế, bất cập. Phụ nữ nông thôn luôn là nhóm đối
tƣợng d bị xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp nhất. Nhiều quyền phụ nữ
24
không những không đƣợc thực thi nhƣ đã cam kết mà còn bị khƣớc t dƣới các hình
thức, luật lệ, hƣơng ƣớc, l giáo phong kiến và tâm lý bảo thủ trì trệ, gia trƣởng của
nhiều thành phần trong xã hội. Xuất phát t những quan điểm cổ hủ, lạc hậu và
những định kiến giới đã ăn sâu bám r trong tiềm thức của con ngƣời là phụ nữ
nông thôn bị coi là phái yếu, học thức kém nên không đƣợc tham gia vào việc quyết
định những vấn đề quan trọng trong gia đình. Đặc biệt là trong vấn đề tiếp cận sở
hữu liên quan đến đất đai, nhà ở, quyền đƣa ra những quan điểm đóng góp ý kiến
trong gia đình, vì vậy họ không có cơ hội tiếp cận các nguồn lực c ng nhƣ phát huy
khả năng lao động của mình. Phụ nữ nông thôn luôn phải đối mặt với sự phân biệt
đối xử, có khi bị bóc lột sức lao động một cách trắng trợn trong thị trƣờng lao động
và trong việc thụ hƣởng quyền lợi kinh tế. Những hình thức bạo lực trực tiếp hƣớng
đến phụ nữ, đã tƣớc đoạt những quyền lợi và đôi khi là cuộc đời của họ. Những
công việc nội trợ và công việc có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập trong xã
hội, ngày ngày kìm hãm, hầu nhƣ không cho phụ nữ đƣợc thụ hƣởng những quyền
lợi của mình.
Việc thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn là hoạt động hết sức cần
thiết, chính quyền địa phƣơng không thể thực hiện việc tuyên truyền TGPL cho phụ
nữ ở địa phƣơng bằng hình thức, bằng vụ việc đã xảy ra, thực hiện cho có để đạt chỉ
tiêu mà thay vào đó, chính quyền các cấp cần phải có hành động cụ thể, cần phải
quan tâm tích cực tăng cƣờng hoạt động TGPL đến với phụ nữ nông thôn trong khu
vực địa phƣơng, thực hiện tuyên truyền sâu những lĩnh vực mang tính chất nhạy
cảm, bức xúc mà phụ nữ nông thôn hiện nay đang rất quan tâm nhƣ: sự phân biệt
đối xử trong gia đình, xã hội; bạo lực gia đình xâm phạm mạnh đến thân thể; nạn
buôn bán ngƣời trái phép; tranh chấp đất đai...Việc thực hiện TGPL cho phụ nữ
nông thôn cần phải có báo cáo kế hoạch chi tiết, kết quả theo t ng năm để chứng
minh di n biến hoạt động TGPL đã mang lại những kết quả nhƣ thế nào. Những
mặt tích cực, thuận lợi và những khó khăn để t đó đƣa ra những phƣơng hƣơng,
giải pháp khắc phục để nâng cao TGPL cho phụ nữ nông thôn đƣợc hiệu quả hơn
Bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn cần phải nắm đƣợc quyền và lợi ích hợp
25
pháp của chính mình để t đó có thể bảo vệ bản thân trƣớc những cám dỗ, những
nguy hiểm trong xã hội mà họ rất d gặp phải.
1.2.1.4. Luật TGPL chưa tiếp cận hết đến quyền lợi ích cho người phụ nữ
Hoạt động TGPL với phụ nữ nông thôn hiện nay còn gặp nhiều khó khăn và
bất cập:
Thứ nhất, không phải tất cả phụ nữ đều đƣợc trợ giúp pháp lý, theo quy định
của Điều 7, Luật TGPL 2017 thì không phải tất cả phụ nữ nói chung và phụ nữ
nông thôn nói riêng đƣợc TGPL mi n phí, mà luật chỉ hỗ trợ một số chủ thể đặc biệt
(đã phân tích ở mục 1.1.1.2 “Khái niệm TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam”.
Đây c ng là khó khăn cho ngƣời phụ nữ nông thôn khi họ đăng ký hỗ trợ TGPL,
bởi lẽ do điều kiện sống của phụ nữ nông thôn thƣờng gặp nhiều khó khăn hơn phụ
nữ thành thị, ngoài công việc nhà hằng ngày, họ phải tham gia sản xuất nông nghiệp
để tăng thu nhập cho gia đình.
Thứ hai, luật TGPL chƣa tiếp cận đến quyền lợi của ngƣời phụ nữ nông thôn,
ví dụ nhƣ: quyền của phụ nữ nông thôn trong việc sử dụng đất đai nhà ở hay các
vấn đề hôn nhân gia đình: ly hôn, phân chia tài sản... không đƣợc Luật TGPL 2017
bảo hộ mà sẽ có quy định tại các văn bản Luật riêng biệt. Khi bị xâm phạm về
quyền và lợi ích, ngƣời phụ nữ nông thôn c ng không thể tự mình nắm rõ đƣợc quy
định cụ thể của pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi của mình, nhiều phụ nữ nông thôn
v n chƣa biết đƣợc về quyền trợ giúp pháp lý hoặc chƣa chủ động khi tiếp cận với
trợ giúp pháp lý. Nhiều phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của tội
buôn bán phụ nữ, khi đến Trung tâm thƣờng không có giấy tờ chứng minh là nạn
nhân của những hành vi này nhƣ: Biên bản, giấy xác nhận của các cơ quan Công an,
bệnh viện, Uỷ ban nhân dân xã hay Trƣởng các thôn, bản vì thế thủ tục cử ngƣời
thực hiện TGPL cho họ là rất khó khăn. Hay khi ngƣời phụ nữ nông thôn bị xâm
phạm về quyền và lợi ích, họ c ng không biết tìm đến các văn phòng TGPL để
đƣợc yêu cầu TGPL.
Để quản lý, kiểm soát tốt hoạt động TGPL, các cấp chính quyền địa phƣơng
cần phối hợp, thực hiện đúng quy định của pháp luật, đúng chính sách của Nhà
26
nƣớc đƣa ra phƣơng án nâng cao trách nhiệm các bộ, ngành, địa phƣơng trong
việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các
văn bản hƣớng d n thi hành phù hợp với điều kiện thực tế của t ng vùng, miền,
địa phƣơng; nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có
liên quan đến trợ giúp pháp lý để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ; đồng thời
phải đầu tƣ cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm cho công tác trợ giúp pháp lý đƣợc
duy trì và phát triển.
1.2.2. Đặc điểm của TGPL đối với Phụ nữ nói chung và PN nông thôn nói riêng
Trợ giúp pháp lý đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý cho
ngƣời dân và xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng. TGPL chỉ phát huy tác
dụng khi hai yếu tố khác đƣợc thoả mãn. Thứ nhất, quyền và lợi ích chính đáng của
ngƣời phụ nữ nông thôn phải đƣợc luật pháp bảo vệ, hay nói cách khác đó là quyền
và lợi chính đáng trở thành quyền và lợi ích hợp pháp. Thứ hai, ngƣời phụ nữ nói
chung và phụ nữ nông thôn nói riêng phải biết quyền và lợi ích của mình đƣợc luật
pháp th a nhận và muốn tìm sự bảo vệ của hệ thống công lý khi họ cảm thấy quyền
và lợi ích đó bị xâm hại.
Chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý là các tổ chức trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc
và các tổ chức hành nghề luật sƣ, tổ chức tƣ vấn pháp luật của các tổ chức chính trị
xã hội, chính trị xã hội nghề nghiệp. Nhƣ vậy, hoạt động trợ giúp pháp lý là một
loại hoạt động v a có tính chất nhà nƣớc, v a mang tính chất xã hội.
Ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý theo khoản 1 Điều 17 Luật TGPL quy định
nhƣ sau:
a) Trợ giúp viên pháp lý; b) Luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp
đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc; luật sƣ thực hiện trợ giúp
pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; c) Tƣ vấn
viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên làm việc
tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; d) Cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
Tổ chức thực hiện TGPL theo khoản 1 Điều 10 Luật TGPL Tổ chức thực
hiện trợ giúp pháp lý bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và tổ chức tham
gia trợ giúp pháp lý
27
Theo Luật TGPL 2017, phụ nữ vùng nông thôn không phải là đối tƣợng
đƣợc TGPL mi n phí. Đây c ng là khó khăn và hạn chế trong việc hỗ trợ TGPL đến
với phụ nữ nông thôn. Trong những năm tới, khi Quốc Hội sửa đổi, bổ sung Luật
TGPL nên cần có thêm phụ nữ vùng nông thôn là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí
góp phần xây dựng phát triển xã hội, nâng cao tinh thần ý thức pháp luật đến với
phụ nữ nông thôn. Đây c ng là sự khích lệ động viên của Đảng và Nhà nƣớc trong
hoạt động TGPL đối với phụ nữ nông thôn và c ng là bƣớc chuyển biến tích cực
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nông thôn kiểu mới.
Lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Hoạt động trợ giúp pháp lý đƣợc thực hiện đối với
tất cả các vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc trợ
giúp pháp lý trong hầu hết các lĩnh vực pháp luật, tr các vụ việc có liên quan đến
lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại.
Mục đích của hoạt động trợ giúp pháp lý đối vụ phụ nữ nông thôn theo quan
điểm của tác giả luận văn: nhằm giúp ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ng a, hạn
chế tranh chấp và vi phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho mọi công dân đều bình
đẳng trƣớc pháp luật, góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Có thể hiểu rõ, TGPL còn là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp, là
một trong những chức năng xã hội của Nhà nƣớc và các chi phí cho hoạt động
TGPL do ngân sách Nhà nƣớc bảo đảm. Bên cạnh đó, TGPL là một dịch vụ mang
đậm tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu của TGPL hƣớng đến những đối tƣợng có
hoàn cảnh đặc biệt, là sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc đến với nhân dân nói
chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng. Ngoài ra, TGPL còn thể hiện tính ổn
định chính trị- xã hội t Trung ƣơng đến địa phƣơng, t thị xã đến các vùng nông
thôn, vùng núi sâu xa. Góp phần thiết lập sự ổn định, niềm tin của ngƣời dân vào
chế độ, qua đó là phƣơng thức hiệu quả để Nhà nƣớc d dàng quản lý, đảm bảo ổn
định trật tự và an toàn xã hội.
28
1.3. Các yếu tố tác động đến việc cần phải TGPL cho phụ nữ nông thôn
ở Việt Nam
1.3.1. Yếu tố về văn hóa, phong tục, tập quán
T xƣa đến này, hình ảnh ngƣời Phụ nữ Việt Nam mang trong mình truyền
thống đấu tranh anh d ng và lao động cần cù, thông minh, sáng tạo. Bên cạnh
truyền thống tốt đẹp đó, ngƣời phụ nữ Việt Nam còn có truyền thống đảm đang
gánh vác trách nhiệm công việc trong gia đình. Ngày nay, thời đại công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc vai trò nội trợ chăm lo gia đình của ngƣời phụ nữ tuy khác đi,
họ có thể không trực tiếp phải làm tất cả các công việc trong gia đình nhƣng họ v n
là ngƣời phải lo toan, quán xuyến, theo dõi mọi hoạt động của các thành viên để hỗ
trợ, chăm sóc, làm tròn bổn phận của ngƣời con, ngƣời mẹ và ngƣời vợ. Định kiến
giới “trọng nam, khinh nữ” đến nay v n còn tồn tại và ảnh hƣởng không nhỏ đến
vấn đề bình đẳng giới.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy, nam giới chiếm ƣu thế trong kiểm
soát đất đai và các tài sản có giá trị khác. Nam giới có cơ hội tiếp cận và kiểm soát
đất sản xuất là 24,8% so với 4,8% của nữ giới. Có khoảng gần 80% chủ hộ là nam
giới so với 20% chủ hộ là nữ giới, do đó trên thực tế phần lớn nam giới là ngƣời
đứng tên trên giấy tờ nhà và đất. Đặc biệt ở nông thôn, đa số trƣờng hợp nhà ở và
đất ở là tài sản th a kế do bố mẹ chia cho con trai khi họ lập gia đình và tách ra ở
riêng, do vậy tỷ trọng nam giới đứng tên chủ sở hữu nhà ở rất cao. Theo số liệu điều
tra cơ bản về gia đình Việt Nam (1998-2000) “79,7% hộ gia đình ở đồng bằng và
82,1% hộ gia đình ở trung du - miền núi có nam giới là ngƣời đứng tên sở hữu nhà ở và đất ở, còn ở thành phố, tỷ lệ chiếm 49,8%” [26, tr.430].
Khi thế chấp tài sản hay đất đai để vay vốn, c ng phải do chủ hộ quyết định.
Và khi có các lớp tập huấn khoa học kỹ thuật nông nghiệp thì tất nhiên ngƣời tham
gia phải là chủ hộ, ngƣời đại diện cho hộ gia đình, và trong đa số trƣờng hợp là nam
giới. Trong trƣờng hợp nhƣ vậy, ngƣời phụ nữ nông thôn ít đƣợc tiếp cận thông tin
mới t chính sách, các quy định pháp luật của Nhà nƣớc
Phụ nữ v n chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới trên lĩnh vực văn hoá giáo
29
dục. Trong gia đình, nếu phải lựa chọn việc cho con trai hay con gái tiếp tục theo
học các bậc hệ cao hơn thì con trai bao giờ c ng đƣợc ƣu tiên hơn. Đó là một trong
những nguyên nhân lý giải vì sao ở nông thôn, đa số phụ nữ chỉ học hết cấp I và cấp
II. Tỷ lệ phụ nữ mù chữ, trẻ em gái bỏ học giữa ch ng luôn nhiều hơn nam giới.
Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình năm học 2007 – 2008, “tỷ lệ học
sinh nữ trong các cấp học là: bậc Mầm non: 49,6%; bậc Tiểu học: 48,2%; bậc Trung
học cơ sở: 48,7%” [1, tr.181].
Đặc biệt, quyền đƣợc đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật cho lao động nữ nông
thôn hiện đang gặp nhiều thách thức. Tƣ tƣởng “trọng nam, khinh nữ” d n đến số
phụ nữ có trình độ học vấn cao rất ít, lại không đƣợc tạo điều kiện để tiếp cận các
khoá tập huấn đào tạo kỹ thuật canh tác, sản xuất mới nên tay nghề và kỹ thuật cho
lực lƣợng lao động nữ v n còn ở mức thấp. Sự chênh lệch giữa nam giới và phụ nữ
trong lĩnh vực này là điều đáng quan tâm. Phong tục, tập quán thể hiện bản sắc văn
hoá riêng của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền. Trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay, cần phải phát huy những nét đẹp của văn hoá truyền thống, bên
cạnh đó cần phải kiên quyết loại bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, là rào
cản cho sự tiếp cận và hƣởng thụ quyền bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực dân
sự, chính trị; kinh tế, xã hội và văn hoá để góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay.
Việc TGPL cho phụ nữ nông thôn là điều kiện cần thiết và quan trọng, chính
quyền địa phƣơng nên phối hợp chặt chẽ với Hội phụ nữ trong khu vực thực hiện
chiến lƣợc động viên, tuyên truyền đến phụ nữ xây dựng văn hóa thôn làng văn
minh, xóa đi những rào cản t những hủ tục phong kiến, hòa mình với những hội
nhập xã hội và hơn hết phụ nữ nông thôn cần phải biết đến những hoạt động liên
quan đến TGPL mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình.
1.3.2. Yếu tố về kinh tế, lao động, xã hội
Do đặc điểm lịch sử phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc, phụ nữ xƣa kia
c ng nhƣ hiện nay v n giữ một vai trò trụ cột trong sản xuất nông nghiệp. Phần lớn
các khâu trong sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi đều do ngƣời phụ nữ thuộc vùng
nông thôn đảm nhiệm.
30
Có thể nói, phụ nữ là lực lƣợng lao động quan trọng và chủ chốt trong sản
xuất nông nghiệp. Do tác động mạnh mẽ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,
HĐH) đất nƣớc hiện nay, phụ nữ nông thôn ngày càng tham gia tích cực hơn vào thị
trƣờng lao động chung của cả nƣớc, nhất là các ngành kinh tế nhƣ: thƣơng mại -
dịch vụ, công nghiệp và du lịch ở ngay nông thôn hay ở các trung tâm kinh tế lớn.
Tuy nhiên, chất lƣợng việc làm của lao động nữ nông thôn còn thấp, tính ổn
định, bền vững trong việc làm và tiếp cận tới các dịch vụ an sinh xã hội không cao,
phụ nữ nông thôn thƣờng phải tham gia các công việc không chính thức và d bị tổn
thƣơng. Nhiều phụ nữ nông thôn phải tự tạo việc làm hoặc làm việc trong gia đình mà
không đƣợc trả công. Phụ nữ nông thôn làm việc trong các khu vực không chính thức
có tiền công thấp hơn, tay nghề thấp hơn và ít cơ hội nâng cao tay nghề và đào tạo.
Việc đào tạo nghề cho lao động nữ nông thôn tuy đã đƣợc chú trọng nhƣng
các loại hình đào tạo thƣờng ngắn hạn, đầu ra sau học nghề gặp nhiều khó khăn.
Lao động nữ lớn tuổi càng khó khăn trong chuyển đổi việc làm. Bên cạnh đó, khả
năng tiếp cận các nguồn lực sản xuất nhƣ đất đai, công nghệ và dịch vụ tài chính
của phụ nữ nông thôn còn rất hạn chế. Phụ nữ nông thôn c ng chịu ảnh hƣởng nặng
nề t biến đổi khí hậu gây ảnh hƣởng đến năng suất, kinh tế nông nghiệp ở nông
thôn vì phụ nữ nông thôn là lực lƣợng phải đảm đƣơng vấn đề an ninh lƣơng thực
cho gia đình, có trách nhiệm chăm sóc gia đình
Khi phụ nữ nông thôn am hiểu pháp luật, nắm rõ các quy định trong Bộ luật
Lao động 2012, thì sẽ không có tình trạng việc lao động nữ ở nông thôn rơi vào
cảnh thất nghiệp, bị đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng lao động không rõ lý do, hay
việc phụ nữ nông thôn là nạn nhân của bạo lực gia đình và bất bình đẳng giới ở địa
phƣơng cả nƣớc sẽ giảm thiểu đáng kể khi họ chủ động đến các tổ chức, trung tâm
TGPL đăng ký hỗ trợ tƣ vấn và TGPL.
Một số chính sách, biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới đã đƣợc ban hành
nhƣng trên thực tế không phát huy hiệu quả, chẳng hạn nhƣ: Luật bình đẳng quy
định mang tính ƣu tiên trong một số lĩnh vực của đời sống gia đình, xã hội, tuy
nhiên trên thực tế đang tạo ra rào cản đối với sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào
31
các hoạt động xã hội. Ví dụ, quy định "Các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật" (điểm a khoản 2
Điều 12) là một biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế nhƣng
trong thực ti n hầu hết các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ không đƣợc
hƣởng lợi. Nguyên nhân là do các quy trình, thủ tục để đƣợc hƣởng các chính sách
ƣu đãi về thuế đối với doanh nghiệp khá phức tạp, số tiền đƣợc giảm thuế chƣa bù
đắp đƣợc các chi phí khi áp dụng các ƣu đãi dành cho lao động nữ, vì vậy, các
doanh nghiệp thƣờng ngại hoặc không muốn tiếp cận với chính sách ƣu đãi này.
Trong khi chính sách hỗ trợ và bảo vệ ngƣời sử dụng lao động nữ còn thiếu và chƣa
cụ thể thì các chính sách hiện hành bảo vệ lao động nữ lại tƣơng đối đầy đủ, do đó
chƣa khuyến khích đƣợc doanh nghiệp sử dụng lao động nữ.
Vì phụ nữ nông thôn không phải là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo quy
định của Luật TGPL 2017 (tr trƣờng hợp quy định tại Điều 7 của luật), khi quyền
lợi của phụ nữ nông thôn bị xâm phạm, họ sẽ bỏ ra chi phí để đƣợc tƣ vấn và TGPL,
kinh tế khó khăn, số tiền ngƣời phụ nữ nông thôn kiếm ra dùng để san sẻ và gánh
vác cùng với ngƣời chồng trong việc chi tiêu hỗ trợ con cái, ngƣời thân nên việc chi
trả cho hoạt động TGPL sẽ rơi vào bế tắc, thiếu thốn. Thậm chí phụ nữ nông thôn với
tâm lý mặc cảm về kinh tế sẽ không tự tin đến các trung tâm, tổ chức TGPL. Vì vậy,
để khắc phục hạn chế này thì chính quyền địa phƣơng nên xin ngân sách cho việc
TGPL mi n phí đến với phụ nữ nông thôn sinh sống trong khu vực, chỉ thị phƣơng
hƣớng t cấp trên các kế hoạch phát triển ổn định kinh tế đến với phụ nữ nông thôn
để giảm thiểu số hộ nghèo trên địa bàn. Xây dựng ngôi nhà tình thƣơng đối với phụ
nữ nông thôn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để họ có động lực tham gia sản xuất
cùng phát triển nông thôn mới, có niềm tin yêu vào chính quyền và Nhà nƣớc.
Tác động của sự chuyển đổi kinh tế và công nghiệp hóa đối với phụ nữ và
nam giới rất khác nhau. Trong các gia đình ở nông thôn có một sự phân công lao
động phổ biến theo khuynh hƣớng vợ ở lại nhà, chồng rời gia đình đi nơi khác trong
môi trƣờng lao động tiên tiến hơn, thu nhập bằng tiền mặt. Do vậy phụ nữ nông
thôn d bị tụt hậu so với nam giới trong quá trình cải kinh tế và công nghiệp hóa.
32
Trong khi nam giới đƣợc chuẩn bị để đi vào nền kinh tế mới, thì phụ nữ có nguy cơ
đứng bên lề của nền kinh tế đó. Những hoạt động kinh tế của phụ nữ trong nông
nghiệp tuy vất vả nhƣng thu nhập thấp, và bằng hiện vật chứ không phải tiền mặt.
Trong khi đó, ở nền kinh tế thị trƣờng, khi tiền mặt là thƣớc đo thu nhập, đóng góp
của phụ nữ vào kinh tế gia đình không đƣợc đánh giá cao, và địa vị của họ không
tƣơng xứng với cống hiến của họ [9, tr.40].
1.3.3. Yếu tố về nhận thức pháp luật của phụ nữ nông thôn
Đời sống văn hóa của phụ nữ nông thôn c ng còn rất nhiều hạn chế. Học
hành phần nhiều dở dang. Số nữ sinh viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng là ngƣời
nông thôn, miền núi ít hơn hẳn nữ sinh viên ở thành thị. Họ thƣờng không có thời
gian cho việc học tập và nghiên cứu, cho đến nay, trình độ học vấn của phụ nữ nông
thôn đang còn thấp hơn so với nam giới. Đó là một thiệt thòi to lớn, là một lực cản
đối với sự cải thiện và nâng cao địa vị ngƣời phụ nữ ở nông thôn. Bản thân ngƣời
phụ nữ không nhận thức đƣợc đầy đủ các quyền của mình, bởi vậy khi bị đối xử bất
công trong gia đình và có vi phạm xảy ra họ đành cam chịu hoặc là không biết phải
khiếu nại, tố cáo ở đâu và không biết phải tự bảo vệ mình nhƣ thế nào.
Xuất phát t yếu tố truyền thống với phần lớn thời gian dành cho công việc
nội trợ, chức năng làm mẹ, chăm sóc con cái và gia đình, v n luôn đƣợc cho là trách
nhiệm chủ yếu của phụ nữ, c ng ảnh hƣởng không nhỏ đến sự chất lƣợng công việc
của phụ nữ nông thôn, ngƣời phụ nữ không có thời gian để tự tìm hiểu hay tham gia
các khóa tập huấn để nâng cao kiến thức của mình về các quy định của pháp luật.
Bên cạnh yếu tố truyền thống t những rào cản t quan niệm phong kiến cổ hủ đánh
giá thấp khả năng và tiềm năng của phụ nữ thì nhiều phụ nữ với bản chất rụt rè,
nhút nhát, thiếu tự tin, tâm lý mặc cảm không có ý thức học hỏi nâng cao trình độ,
hiểu biết của bản thân.
Tƣ tƣởng định kiến giới còn tồn tại trong xã hội đã ảnh hƣởng lớn đến sự
tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, xã hội. Các kết quả
nghiên cứu xã hội học về phân công lao động trong gia đình trong những năm gần
đây ở các địa phƣơng, các nhóm xã hội thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, trình độ học
33
vấn khác nhau đều cho thấy phụ nữ v n là những ngƣời đảm nhiệm phần lớn các
công việc gia đình. Ngay cả những phụ nữ đi làm có thu nhập cao v n là ngƣời phải
chịu trách nhiệm chính về việc nhà.
Ở các khu vực vùng nông thôn Việt Nam, tình hình trật tự đời sống của
ngƣời dân thƣờng ít phức tạp hơn đối với cuộc sống ở khu vực thành phố nhƣng
tình hình tội phạm xảy ra hết sức phức tạp. Bản thân ngƣời phụ nữ vùng nông thôn
luôn hình thành tƣ duy “sợ” liên quan đến pháp luật, vì cho rằng thủ tục pháp luật
rƣờm rà, lâu thực hiện. Khi có tranh chấp về quyền và lợi ích, tội phạm xảy ra nhƣ:
Bạo lực gia đình, định kiến về giới, tội phạm l a đảo tài sản, con ngƣời, vấn nạn
xâm phạm tình dục đối với phụ nữ và trẻ em vùng nông thôn luôn là những chủ đề
di n ra thƣờng xuyên nhƣng phụ nữ nông thôn “không” tố cáo lên chính quyền địa
phƣơng và các tổ chức, trung tâm TGPL không can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền
lợi cho ngƣời phụ nữ, phần lớn lý do vì định kiến hủ tục phong kiến làng quê, tâm
lý lo sợ về danh tiếng, nhân phẩm của mình bị ảnh hƣởng, điều tiếng t xóm làng...
Nhận thức của xã hội, truyền thống văn hóa ảnh hƣởng rất lớn đến việc tiếp cận
pháp lý cho phụ nữ, do vậy nhiều phụ nữ bị bạo hành thuộc đối tƣợng trợ giúp pháp
lý c ng chƣa chủ động tìm đến sử dịch vụ trợ giúp pháp lý để đƣợc hỗ trợ. Mặc dù
Nhà nƣớc ban hành pháp luật rất cụ thể, có quy định rõ về khung hình phạt các hành
vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể bị hại, nhƣng phụ nữ nông thôn mang
tâm lý mặc cảm, tự ti, không nắm bắt đƣợc quyền lợi của mình sẽ đƣợc pháp luật
bảo vệ nhƣ nào, họ thƣờng tự thỏa thuận hoặc giải quyết vì lý do tình cảm tế nhị
nên hầu hết nạn nhân đều chấp nhận, tự dàn xếp hay ấm ức chịu đựng mà không tố
cáo đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
Khi không đƣợc trang bị về kiến thức pháp luật, thì ngƣời phụ nữ sẽ không
nắm đƣợc quyền và trách nhiệm của mình, họ rất d trở thành nạn nhân hoặc là đối
tƣợng vi phạm pháp luật. Khi quyền lợi bị xâm phạm, phụ nữ nông thôn chƣa nhận
thức đƣợc vai trò của công tác TGPL trong việc đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Phụ nữ và trẻ em gái ở khu vực này đang còn chịu nhiều
thiệt thòi hơn nam giới c ng nhƣ so với phụ nữ ở khu vực thành thị về cơ hội học
34
tập, việc làm, tiếp cận thông tin và thụ hƣởng các thành quả của cuộc sống. Việc
nhận thức đúng vai trò, vị trí của phụ nữ sẽ giúp phụ nữ tự tin hơn trong cuộc sống,
vƣợt qua những rào cản của xã hội để vƣơn lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã t ng nói:
Phụ nữ ta còn có một số nhƣợc điểm nhƣ bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu
tin tƣởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ c ng gặp nhiều khó
khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào
Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin
tƣởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ
nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính
quyền…[16].
Câu nói của Bác Hồ rất đúng với xu thế phát triển Phụ nữ nông thôn Việt
Nam hiện đại, ngoài sự trợ giúp t Đảng và Nhà nƣớc, các cấp chính quyền tại địa
phƣơng, thì bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn phải có sự nỗ lực, cố gắng học tập,
rèn luyện tri thức và tiếp thu tinh thần của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
1.3.4. Yếu tố về năng lực của chủ thể TGPL cho phụ nữ nông thôn
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đƣợc Đảng ta xác định là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng và là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính
trị đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng; là một nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng và
Chính phủ luôn quan tâm thực hiện bằng nhiều chủ trƣơng, chính sách.
Đƣợc sự quan tâm chỉ đạo kịp thời, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành,
công tác TGPL đối với phụ nữ nông thôn có nhiều thay đổi và đi vào ổn định cuộc
sống. Trong những năm gần đây, các cấp Hội phụ nữ khu vực nông thôn đã có
nhiều hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức,
hiểu biết pháp luật cho phụ nữ, các hình thức đƣợc cấp Hội thực hiện nhiều nhƣ:
tuyên truyền qua những tiểu phẩm kịch, những bài thơ, ca, hò,vè… đi giao lƣu
tuyên truyền tại cơ sở; Đây là hình thức tuyên truyền thu hút đƣợc nhiều chị em phụ
nữ tham gia với vai trò v a là tuyên truyền viên, v a là di n viên và c ng là những
35
ngƣời đánh giá hiệu quả của công tác tuyên truyền, nên các chị có nhiều kinh
nghiệm cho cả công tác tuyên truyền và tƣ vấn cho hội viên. Tuyên truyền qua sinh
hoạt các Câu lạc bộ phòng chống tệ nạn xã hội,câu lạc bộ gia đình hạnh phúc, câu
lạc bộ pháp luật, phòng chống bạo lực gia đình.
Công tác tổ chức TGPL đến với các khu vực vùng nông thôn đã đi vào ổn
định, đa dạng về nội dung và hình thức nhƣng v n còn gặp nhiều khó khăn và thách
thức vì lí do về khả năng nhận thức, trình độ và sự hiểu biết pháp luật của nhân dân.
Một số địa phƣơng, việc củng cố kiện toàn mạng lƣới tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý, xây dựng đội ng trợ giúp viên pháp lý còn chậm so với tiến độ đề ra hoặc
lúng túng trong việc tổ chức thực hiện, thiếu nguồn cán bộ để bổ sung. Công tác
TGPL cho phụ nữ vùng nông thôn chƣa quán triệt đầy đủ các quan điểm chủ trƣơng
của Đảng và Nhà nƣớc d n đến việc nhiều phụ nữ ở vùng nông thôn chƣa biết đến
hoạt động TGPL hoặc chƣa hiểu biết đầy đủ mục đích, ý nghĩa của hoạt động
TGPL, do đó việc tiếp cận TGPL đến với phụ nữ còn nhiều khó khăn.
Ở các vùng nông thôn vùng sâu vùng xa, dân tộc thiểu số, khi tiến hành
TGPL cho ngƣời dân, đội ng TGPL chƣa đi sâu sát về tình hình thực tế, họ gặp
hạn chế trong giao tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số, còn nhiều lúng túng và đa số hỗ
trợ TGPL là cộng tác viên chứ không phải là luật sƣ. Đội ng ngƣời thực hiện trợ
giúp pháp lý của một số tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn trẻ, chƣa có nhiều
kinh nghiệm và kỹ năng làm việc với nhóm đối tƣợng phụ nữ có tâm lý nhạy cảm,
thiếu tự tin về trình độ văn hóa và tổn thƣơng về mặt tinh thần và thể xác nhƣ: nạn
nhân bạo lực gia đình, phụ nữ bị mua bán, bị nhi m HIV, bị khuyết tật…
Tuy hoạt động TGPL còn gặp nhiều khó khăn nhƣng để TGPL phát triển thì
cần phải có sự quan tâm, phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành trong việc chỉ
đạo, điều hành thực hiện các chính sách TGPL, tránh tình trạng thiếu ngƣời thực
hiện TGPL ở khu vực nông thôn các địa phƣơng thì chính quyền nên xây dựng thêm
mạng lƣới cộng tác viên cấp xã theo phƣơng hƣớng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
trợ giúp pháp lý của đối tƣợng. Cần phải đổi mới chƣơng trình tập huấn, bồi dƣỡng
cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL (nên tập trung tập huấn các kỹ năng tƣ vấn pháp
36
luật) tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm sau khi thực hiện vụ việc TGPL cho đối
tƣợng phụ nữ nông thôn, để t đó có thể nắm bắt đƣợc tâm lý, những tâm tƣ tình
cảm và những khó khăn hiện nay mà ngƣời phụ nữ nông thôn gặp phải. Dựa trên cơ
sở đó, chủ thể ngƣời trực tiếp thực hiện TGPL sẽ đƣa ra những lời khuyên, hƣớng đi
đúng đắn để phụ nữ nông thôn thêm tin tƣởng vào chính quyền, tạo dựng niềm tin
vào chính sách, hƣớng đi của Đảng và Nhà nƣớc.
1.4. Các điều kiện để đảm bảo cho hoạt động TGPL
1.4.1. Điều kiện về nguyên tắc hoạt động TGPL
TGPL là một chính sách bảo đảm quyền con ngƣời, sự ra đời của Luật TGPL
năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác TGPL
nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân nói chung. TGPL là một yếu tố quan trọng trong hệ thống tƣ
pháp, là trách nhiệm của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công
dân cho đối tƣợng đƣợc TGPL.
Hoạt động TGPL mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, khi mà đối tƣợng
đƣợc trợ giúp pháp lý không phải chi trả bất cứ một khoản kinh phí nào t việc thụ
hƣởng các giá trị mà dịch vụ pháp lý mang lại. Đƣợc xác định là một loại hình nghề
nghiệp đặc biệt với những chuẩn mực, yêu cầu nhất định nhằm đảm bảo quyền bình
đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ pháp lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
đối tƣợng đƣợc TGPL, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật, phòng ng a, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Những chuẩn mực
về hành vi, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp và
những yêu cầu đối với tổ chức thực hiện TGPL, với ngƣời thực hiện TGPL phải
tuân theo đƣợc gọi là quy tắc nghề nghiệp TGPL.
Luật TGPL năm 2017 có quy định về việc các tổ chức, cá nhân để đƣợc cung
cấp dịch vụ TGPL cần phải đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo
đảm chất lƣợng dịch vụ họ cung cấp. Có thể nói, với những quy định chặt chẽ ngay
t khi xác định các tổ chức, cá nhân có quyền cung cấp dịch vụ TGPL, Nhà nƣớc đã
thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lƣợng đến
với nhân dân, t đó nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL trong cả nƣớc.
37
1.4.2. Điều kiện về tài chính
Để hoạt động TGPL đến với các đối tƣợng chính sách nói chung và phụ nữ
nông thôn nói riêng di n ra thuận lợi, đòi hỏi Nhà nƣớc ta phải đảm bảo và quản lý
tốt về nguồn tài chính. Theo quyết định số 35/QĐ-CTGPL ngày 20 tháng 9 năm
2018 của Cục trƣởng Cục TGPL, Quyết định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc thuộc Cục TGPL, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng tài chính và quản lý chất lƣợng TGPL.
Theo quyết định số 35/ QĐ-CTGPL 20/09/2018 của Cục trƣởng Cục TGPL
quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Chính sách và Quản lý
nghiệp vụ trợ giúp pháp lý nhƣ sau:
Phòng Tài chính và Quản lý chất lƣợng trợ giúp pháp lý có chức năng tham
mƣu, giúp Cục trƣởng trong công tác quản lý nhà nƣớc và quản lý chuyên ngành về
chất lƣợng trợ giúp pháp lý và hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý; tổ chức thẩm định,
hỗ trợ kinh phí vụ việc trợ giúp pháp lý cho các địa phƣơng; hƣớng d n, theo dõi
tổng hợp dự toán, lập phƣơng án phân bổ kinh phí, kiểm tra việc thực hiện tài chính
của các địa phƣơng nhận hỗ trợ và giúp Cục trƣởng trong công tác quản lý, thực
hiện công tác tài chính, kế toán đối với các hoạt động của Cục [7].
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Trợ giúp pháp lý 2017 thì: “Trợ giúp pháp lý là
trách nhiệm của Nhà nƣớc” [21].
Do đó, Nhà nƣớc quy định cụ thể nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp
lý rất cụ thể trong Điều 5 Luật TGPL nhƣ sau:
1) Nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý bao gồm nguồn ngân
sách nhà nƣớc; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nƣớc, ngoài
nƣớc và các nguồn hợp pháp khác.
2) Kinh phí ngân sách nhà nƣớc đƣợc bố trí trong dự toán ngân sách nhà
nƣớc hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nƣớc về trợ giúp pháp
lý theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nƣớc. Đối với địa
phƣơng chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách, ƣu tiên bố trí ngân sách t số bổ
sung cân đối ngân sách hằng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc trợ
giúp pháp lý phức tạp, điển hình.
38
3) Kinh phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý của tổ chức tự nguyện thực
hiện do tổ chức đó tự bảo đảm [21].
1.4.3. Điều kiện về con người, năng lực, kỹ năng của chủ thể TGPL
Theo Luật TGPL năm 2017, điều kiện về ngƣời TGPL đƣợc quy định.
Những ngƣời thực hiện TGPL theo khoản 1 điều 17 Luật TGPL bao gồm:
a) Trợ giúp viên pháp lý; b) Luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp
đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc; luật sƣ thực hiện trợ giúp
pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; c) Tƣ vấn
viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên làm việc tại
tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; d) Cộng tác viên trợ giúp pháp lý [21].
Điều kiện năng lực của chủ thể TGPL:
+ Trợ giúp viên pháp lý: Trong đó Luật quy định Trợ giúp viên pháp lý phải
trải qua tập sự nghề trợ giúp pháp lý trong thời gian là 12 tháng để đảm bảo thời
gian thực hành, vận dụng kiến thức, giúp hoàn thiện những kỹ năng nghề nghiệp,
đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng để tự tin cung cấp dịch vụ pháp lý khi đƣợc bổ
nhiệm Trợ giúp viên pháp lý.
+ Luật sƣ thực hiện TGPL: Đáp ứng yêu cầu theo pháp luật về luật sƣ nhƣ:
đã tốt nghiệp lớp đào tạo luật sƣ, tập sự hành nghề luật sƣ, đăng ký tại đoàn luật sƣ
địa phƣơng; phải đáp ứng các điều kiện theo Luật TGPL nhƣ: không đang trong
thời gian thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; Phải đƣợc Trung tâm TGPL lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện TGPL
+ Tƣ vấn viên pháp luật: Có 02 năm kinh nghiệm tƣ vấn pháp luật trở lên
làm việc tại các tổ chức tham gia TGPL (các tổ chức đáp ứng đƣợc các điều kiện tối
thiểu theo quy định của Luật TGPL năm 2017).
+ Cộng tác viên TGPL: chỉ có ở một số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn; chỉ một số đối tƣợng có thể trở thành Cộng tác viên TGPL, ví dụ:
thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, TGVPL đã về hƣu.
Điều kiện về kỹ năng của chủ thể thực hiện TGPL:
Trong quá trình tiến hành TGPL, yêu cầu chủ thể thực hiện TGPL cần bám
39
sát yêu cầu TGPL, tuân thủ các nguyên tắc hoạt động và sử dụng các biện pháp hợp
pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của ngƣời đƣợc TGPL và ngƣời thực hiện
TGPL đƣợc bảo đảm thực hiện TGPL độc lập, không bị đe dọa, cản trở, sách nhi u
hoặc can thiệp trái pháp luật là một trong những nguyên tắc hoạt động TGPL; quy
định trách nhiệm phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện cho ngƣời
thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng và việc tổ chức lấy
ý kiến của ngƣời đƣợc TGPL hoặc ngƣời thân thích về thái độ, trách nhiệm, chuyên
môn của ngƣời thực hiện TGPL và mức độ hài lòng vụ việc TGPL.
Để nâng cao chất lƣợng đội ng Trợ giúp viên pháp lý nhằm cung cấp dịch vụ
TGPL có chất lƣợng, đội ng này phải tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức,
kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL tối thiểu 08 giờ/năm theo Điểm b
khoản 2 Điều 18 Luật TGPL 2017 và khoản 1 Điều 4 Thông tƣ số 12/2018/TT-BTP [5].
Trƣờng hợp, nếu trợ giúp viên pháp lý bị mi n nhiệm và thu hồi thẻ khi
không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục, tr trƣờng
hợp do nguyên nhân khách quan (điểm d khoản 1 Điều 22 Luật TGPL 2017). Ngoài
ra, Luật tiếp tục ghi nhận sự tham gia của đội ng luật sƣ, tƣ vấn viên pháp luật
đang hoạt động có hiệu quả và chọn lọc những ngƣời có kiến thức pháp luật, kinh
nghiệm thực ti n và bảo đảm về mặt thời gian tham gia TGPL để làm cộng tác viên
TGPL. Bên cạnh đó, Cục Trợ giúp pháp lý đều tổ chức các lớp tập huấn (t 06 - 09
lớp/năm) nhằm trang bị cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL nói chung các kiến thức
chuyên sâu về Luật TGPL c ng nhƣ kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình
sự, dân sự, hành chính và kỹ năng thực hiện TGPL cho một số đối tƣợng đặc thù
nhƣ ngƣời khuyết tật, trẻ em, phụ nữ các vùng nông thôn đặc biệt. Ngoài ra, Học
viện Tƣ pháp hàng năm đều thực hiện rà soát nhu cầu để tổ chức lớp bồi dƣỡng Trợ
giúp viên pháp lý để bảo đảm cho các Trợ giúp viên pháp lý đủ điều kiện tiêu chuẩn
về đạo đức nghề nghiệp để thi nâng hạng lên Trợ giúp viên pháp lý chính theo quy
định tại Thông tƣ liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016 của Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp viên chức Trợ giúp viên pháp lý [2].
40
Ở địa phƣơng, Sở Tƣ pháp và Trung tâm TGPL nhà nƣớc đều tổ chức các
lớp tập huấn nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện
TGPL cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL.Công tác quản lý nhà nƣớc về chất lƣợng
vụ việc TGPL đƣợc quan tâm và đƣợc chú trọng hơn trƣớc. Hàng năm Cục TGPL,
các Trung tâm đều tổ chức việc kiểm tra, đánh giá đối với các hồ sơ, sổ sách thụ lý
vụ việc TGPL để kịp thời ghi nhận, nhân rộng những điển hình; phát hiện và khắc
phục đối với những sai sót, vƣớng mắc, bất cập liên quan đến chất lƣợng vụ việc
TGPL để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về TGPL, đặc biệt
là chất lƣợng vụ việc TGPL và công tác đánh giá chất lƣợng vụ việc TGPL.
Để Tƣ vấn pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn có
hiệu quả, theo tác giả luận văn, Ngƣời thực hiện tƣ vấn và trợ giúp pháp lý cần
phải: Thực sự yêu thƣơng và cảm thông với hoàn cảnh của ngƣời phụ nữ nông
thôn vì họ luôn phải đối mặt những khó khăn trong cuộc sống, t điều kiện kinh tế
cho đến kiến thức văn hóa còn nhiều hạn chế, d sinh ra mặc cảm và thiếu tự tin
khi giao tiếp và không có kỹ năng trong việc giải quyết tình huống phát sinh trong
cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, Ngƣời thực hiện TGPL cần phải có kỹ năng
thu thập thông tin một cách chính xác, xử lý thông tin kịp thời, nắm vững và cập
nhật những văn bản mới quy định của pháp luật thể hiện xu hƣớng đa dạng hóa
chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, có tính kế th a Luật hiện hành, đặc biệt là đã
bảo đảm nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL. Qua đó sẽ tạo sự tin tƣởng t ngƣời
đƣợc TGPL đối với ngƣời thực hiện TGPL và góp phần nâng cao đƣợc vị trí, vai
trò của công tác TGPL trong xã hội.
1.4.4. Điều kiện về cơ sở trang thiết bị vật chất
Theo khoản 1 Điều 10 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm
2017 của Chính phủ quy định nhƣ sau:
Căn cứ vào khối lƣợng công việc, tính chất, đặc điểm hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ, yêu cầu của công tác trợ giúp pháp lý tại địa phƣơng và
theo đề xuất của Giám đốc Sở Tƣ pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định số lƣợng ngƣời làm việc của Trung tâm và bảo đảm kinh
41
phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện làm việc thích hợp cho Trung tâm tiếp tục xây dựng, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế
Trung tâm theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phƣơng [6].
Tuy nhiên, kinh phí và cơ sở vật chất, phƣơng tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động Phổ biến giáo dục pháp luật và TGPL đến với phụ nữ nông thôn còn thiếu so
với yêu cầu nhiệm vụ không đáp ứng đƣợc yêu cầu để đạt đƣợc mục tiêu đó đặt ra.
Do đó, việc triển khai hoạt động TGPL cho đối tƣợng là phụ nữ nông thôn chƣa sâu
rộng, toàn diện, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu tìm hiểu pháp luật của hội viên phụ nữ
nông thôn và phụ nữ dân tộc thiểu số. Cơ sở vật chất tại các Trung tâm trợ giúp
pháp lý, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý chƣa đầy đủ chƣa bố trí đƣợc phòng
tiếp phụ nữ riêng nên nhiều phụ nữ không dám đến Trung tâm vì e sợ nhiều ngƣời
biết chuyện gia đình họ nên thực tế nhiều đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp luật theo
Luật c ng chƣa đƣợc sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Các trung tâm trụ sở của TGPL ở các vùng nông thôn chƣa đƣợc đầu tƣ xây
dựng lại, đa số đều là nhà cấp 4 với diện tích nhỏ, không rộng rãi ảnh, việc kết nối
mạng với các trang thông tin của Chính phủ còn chậm do chƣa đƣợc đầu tƣ nhiều
về trang thiết bị máy tính, máy ảnh và máy chiếu. Ở một số huyện, thị trấn vùng sâu
vùng xa việc kết nối phủ sóng mạng không dây gặp nhiều khó khăn, trợ giúp viên
pháp lý phải mất rất nhiều thời gian cập nhật các thông tin mới không phải t báo
điện tử liên quan đến TGPL mà bằng hình thức nhận công văn t cấp Trung ƣơng
báo về. Nhƣ vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý về tổ chức và
hoạt động trợ giúp pháp lý chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Điều kiện đi lại của Trợ
giúp viên pháp lý còn gặp nhiều khó khăn, khi cần phải đi hỗ trợ TGPL ở các vùng
bản sâu xa phần lớn trợ giúp viên pháp lý đều phải tự túc phƣơng tiện, đƣờng sá đi
lại không thông thuận rất khó cho việc di chuyển nếu vào mùa mƣa bão, l lụt gặp
nhiều khó khăn và nguy hiểm. Do cơ sở vật chất thiếu kém và không có trang thiết
bị dự phòng, khi xảy ra thiên tai thì khu vực đó gần nhƣ bị tê liệt, không thể kết nối
ra bên ngoài gây tâm lý đến trợ giúp viên pháp lý, ảnh hƣởng lớn đến tinh thần và
42
sức khỏe của họ. Khu nhà ở của trung tâm TGPL chƣa đƣợc đầu tƣ kỹ về cơ sở vật
chất hạ tầng, còn sơ sài, thiếu thốn. Các trung tâm trụ sở TGPL vùng nông thôn hầu
nhƣ không có xe chuyên dụng để phục vụ cho hoạt động TGPL lƣu động, phục vụ
vận chuyển tài liệu xuống các cấp cơ sở.
1.4.5. Các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với đối tượng được TGPL và
chủ thể TGPL
Để hoạt động TGPL đạt hiệu quả tốt và có tính lan rộng mạnh, theo tác giả
luận văn: Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam,
Đài Truyền hình Việt Nam cần ban hành một văn bản liên tịch quy định cơ chế
phối hợp về truyền thông trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý để hoạt động này đƣợc
thƣờng xuyên, liên tục và hiệu quả hơn; tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động trợ giúp pháp lý.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông pháp luật về trợ giúp
pháp lý đến với phụ nữ nông thôn và các cơ quan, ban, ngành nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo. Nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy, chính quyền
các địa phƣơng về công tác trợ giúp pháp lý, Sở Tƣ pháp phối hợp với các cơ quan
truyền thanh, truyền hình tỉnh tăng cƣờng tuyên truyền về công tác trợ giúp pháp và
hoạt động trợ giúp pháp lý. Hiện nay, trang thông tin điện tử của Cục TGPL đã
đƣợc nâng cấp với một phiên bản mới, đây là kênh thông tin phong phú, đa dạng về
tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phản ánh tƣơng đối đầy đủ các hoạt động trợ
giúp pháp lý trong toàn quốc, là di n đàn trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng trợ giúp
pháp lý của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, phổ biến chính sách trợ giúp pháp lý
của Nhà nƣớc đến đông đảo ngƣời dân. Công tác truyền thông cần phải đƣa các
thông tin chính xác và cập nhật kịp thời để tăng sự tin tƣởng cho chị em phụ nữ
nông thôn đối với các cấp chính quyền. Nội dung truyền thông nên đa dạng, phong
phú về trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của t ng địa phƣơng, vùng miền
c ng nhƣ trình độ dân trí để thu hút đƣợc sự quan tâm, chú ý của mọi ngƣời dân.
PSG.TS Nguy n Đăng Dung và PGS.TS Nguy n Hoàng Anh nhận định rõ:
“Thời đại hiện nay không có chỗ nào không thể ứng dụng công nghệ thông tin.
43
Chính công nghệ thông tin đã giúp cho con ngƣời nhiều thủ tục phiền hà trƣớc đây
do con ngƣời đảm nhiệm” [8, tr.204-211].
Ở địa phƣơng, các Sở Tƣ pháp cần thực hiện phối hợp với Báo, Đài của tỉnh
thƣờng xuyên có các chuyên mục về trợ giúp pháp lý nhƣ: “Pháp luật và đời sống”.
Đài Phát thanh và truyền hình các huyện, thị xã và địa phƣơng cần có mục “Trả lời
thƣ bạn nghe đài”, “Hộp thƣ truyền hình”, c ng nhƣ các phóng sự, phim tài liệu về
hoạt động trợ giúp pháp lý, tin tức về các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động
Bên cạnh đó, Chủ tịch ủy ban nhân dân phối hợp với các Chi hội Phụ nữ ở
các thôn xây dựng “Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý” (với các nội dung nhƣ:
ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý; quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý;
thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý; địa chỉ, điện thoại liên hệ của Trung tâm, Chi
nhánh) đƣợc dán niêm yết công khai tại Nhà văn hóa của thôn, xóm; các trụ sở tiếp
công dân tại cấp chính quyền địa phƣơng và tổ chức thực hiện TGPL để mọi ngƣời
dân d dàng tiếp cận biết đƣợc trình tự thủ tục TGPL.
Với vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ
nông thôn. Chủ tịch Hội phụ nữ xã phối hợp với các chi Hội trƣởng Hội phụ nữ
thôn thƣờng xuyên tổ chức các chƣơng trình Câu lạc bộ về TGPL, động viên và
khuyến khích các chị em phụ nữ trong vùng tham gia, nhằm nâng cao nhận thức,
kiến thức pháp luật cho phụ nữ và cộng đồng.
Tiếp tục tăng cƣờng công tác phối hợp giữa cấp uỷ Đảng với các ban, ngành,
đoàn thể thực hiện có hiệu quả hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
đến với phụ nữ nông thôn, phổ biến các văn bản pháp luật mới, các văn bản pháp
luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của phụ nữ, các văn bản quy phạm pháp luật
phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc, các văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh
vực quản lý nhà nƣớc và đối tƣợng là phụ nữ theo nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi
bên. Thƣờng xuyên tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trên địa bàn các tỉnh
vùng nông thôn. Tổ chức các buổi tuyên truyền pháp luật cho hội viên phụ nữ các
cấp, chú trọng tuyên truyền cho phụ nữ các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu
số nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật của phụ nữ về quyền và lợi ích chính
đáng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
44
Nhà nƣớc và Sở tƣ pháp cần Xây dựng và củng cố, nâng cao trình độ, kỹ
năng tuyên truyền của đội ng báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp Hội; tổ
chức các đợt hội nghị tập huấn, bồi dƣỡng kiến thức pháp luật theo 6 tháng/ lần.
Đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
cho phụ nữ. Biên soạn, phát hành tài liệu sách hỏi - đáp, tờ gấp pháp luật, qua đó,
giúp cho phụ nữ nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Chỉ đạo Hội phụ nữ các cấp
cơ sở phối hợp với ủy Ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp giới thiệu cán bộ Hội đủ tiêu
chuẩn tham gia hòa giải viên tại các tổ hòa giải, đảm bảo cơ cấu nữ hòa giải viên
trong tổ hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở. Tổ chức bồi dƣỡng, tập
huấn kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ tuyên truyền pháp luật, cung cấp tài
liệu pháp luật cho đội ng hòa giải viên ở cơ sở.
Cùng phối hợp chỉ đạo, hƣớng d n thực hiện các hoạt động tƣ vấn pháp luật,
trợ giúp pháp lý cho phụ nữ theo quy định. Chú trọng tập trung xây dựng mạng lƣới
tƣ vấn viên pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sƣ
thực hiện trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho đối tƣợng phụ nữ vùng nông thôn bị
yếu thế, gặp khó khăn về kinh tế, chất lƣợng cuộc sống không ổn định. Phối hợp
liên kết hoạt động giữa Trung tâm tƣ vấn pháp luật và Hỗ trợ kết hôn của Hội
LHPN ở các vùng nông thôn với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và các Văn
phòng chi nhánh trợ giúp pháp lý trên địa bàn các tỉnh, huyện, xã tổ chức trợ giúp
pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn
Thực hiện lập bảng khảo sát nhu cầu, mong muốn đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ pháp
lý của các đối tƣợng phụ nữ; Tổ chức phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý lƣu
động cho phụ nữ tại các cơ sở có nhu cầu, các địa bàn có nhiều khó khăn, phức
tạp, các điểm nóng, tuyên truyền vận động phụ nữ thực hiện các quy định của
pháp luật về giải quyết đơn thƣ, phản ánh, tránh tình trạng gửi đơn thƣ vƣợt cấp,
khiếu kiện đông ngƣời. Giới thiệu phụ nữ là đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý đến
tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để đƣợc trợ giúp theo quy định của pháp luật;
phối hợp tạo điều kiện tiếp cận thông tin, tài liệu liên quan đến việc trợ giúp pháp
lý để thực hiện trợ giúp pháp lý.
45
Cần tập trung đầu tƣ vào cơ sở chật chất trang thiết bị nhƣ: xe lƣu động, máy
ảnh, máy tính và máy chiếu để TGPL đƣợc tiến hành một cách có hiệu quá. đồng
thời để trung tâm nâng cao chất lƣợng dịch vụ, cần phải tăng thu nhập cho cán bộ,
viên chức tham gia trợ giúp pháp lý. Nhà nƣớc và Sở tƣ pháp cần tạo lập các cơ chế
để thu hút nhiều hơn sự tham gia của các tổ chức, cá nhân có kiến thức về pháp luật
trong xã hội đăng ký tham gia hỗ trợ TGPL, san sẻ trách nhiệm của nhà nƣớc với xã
hội. Một mặt v a tận dụng đƣợc trí tuệ, trình độ vào nguồn lực trong xã hội; mặt
khác, góp phần giảm gánh nặng cho nhà nƣớc về tổ chức biên chế, ngân sách đào
tạo, bồi dƣỡng văn hóa cán bộ và chi phí hành chính
1.5. Một số mô hình TGPL trên Thế giới hiện nay liên quan đến đối
tƣợng là phụ nữ và phụ nữ nông thôn
Trợ giúp pháp lý là một loại hoạt động phúc lợi xã hội đƣợc khởi nguồn t
nƣớc Anh và đã có lịch sử hơn 500 năm. T thế kỷ 15, pháp luật Anh quốc đã
quy định: “cần dành cho ngƣời nghèo khổ sự giúp đỡ để họ đƣợc hƣởng quyền
lợi mà pháp luật ban cho. Năm 1495, vua Henry VII trong một nghị án đã có quy
định cụ thể hơn về vấn đề này: chính nghĩa cần đƣợc dành chung cho ngƣời
nghèo và những ngƣời thực hiện quyền tự do họ đƣợc hƣởng - điều đó không có
gì thay thế đƣợc” [33].
Nhìn chung, trên thế giới hiện nay có 3 mô hình TGPL chủ yếu, đó là: mô
hình luật sƣ công (mô hình do Nhà nƣớc thực hiện hoàn toàn), mô hình TGPL do luật
sƣ và tổ chức xã hội thực hiện hoàn toàn, mô hình hỗn hợp (TGPL do Nhà nƣớc
thành lập tổ chức thực hiện và thu hút luật sƣ, các tổ chức xã hội tham gia). Tuy
nhiên, xu hƣớng phổ biến nhất hiện nay là hệ thống TGPL theo mô hình hỗn hợp.
a. Mô hình luật sư công (do Nhà nước thực hiện hoàn toàn)
Nhà nƣớc trực tiếp thực hiện toàn bộ các vụ việc TGPL bằng cách thành lập
ra hệ thống của mình, tuyển dụng đội ng ngƣời thực hiện TGPL và cấp kinh phí
cho hệ thống hoạt động. Qua nghiên cứu mô hình TGPL của các nƣớc thì thấy rằng,
không có nhiều nƣớc áp dụng mô hình này.
Hiện nay, có Philippines và Argentina là nƣớc theo mô hình này và có các ƣu
46
điểm nhƣ sau: Nhà nƣớc hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng và thống nhất tổ
chức thực hiện chƣơng trình, kế hoạch TGPL của mình trong phạm vi toàn quốc; Tổ
chức và ngƣời thực hiện TGPL chủ động, không bị phụ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ
trong việc thực hiện vụ việc; có điều kiện tập trung đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ trong tất cả các lĩnh vực TGPL, kể cả những lĩnh vực không
có luật sƣ tƣ tham gia; Nhà nƣớc chủ động và thống nhất quản lý công tác TGPL;
chủ động giám sát, kiểm tra, đánh giá chất lƣợng vụ việc TGPL thông qua hệ thống
các cơ quan và ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc.
Tại Philippines, Nhà nƣớc có hệ thống cơ quan chuyên thực hiện TGPL mà
không huy động các lực lƣợng xã hội tham gia vào hoạt động này. Tổ chức TGPL
của Nhà nƣớc gồm Văn phòng Luật sƣ công (PAO), 18 Văn phòng khu vực, 288
Văn phòng cấp quận và 5 Văn phòng cấp dƣới trực thuộc. PAO có 1.652 luật sƣ
công và 1.023 nhân viên hỗ trợ. PAO là một cơ quan TGPL độc lập của Nhà nƣớc
phụ thuộc Bộ Tƣ pháp trong việc xây dựng chính sách và điều phối các chƣơng
trình TGPL. PAO có chức năng quản lý, điều hành hoạt động của các Văn phòng
khu vực, Văn phòng cấp quận và Văn phòng cấp dƣới trực thuộc, đồng thời trực
tiếp thực hiện vụ việc TGPL trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính. Giám đốc
PAO do Tổng thống bổ nhiệm [4].
Tại Argentina, hệ thống TGPL nhà nƣớc là Văn phòng Luật sƣ bào chữa
công liên bang thuộc Bộ Xã hội. Văn phòng luật sƣ công liên bang bao gồm: Văn
phòng luật sƣ công trung ƣơng (giám sát, điều hành và quản lý những dịch vụ bào
chữa, đảm bảo việc thực hiện TGPL hiệu quả và thiết lập, thực hiện các chính sách
công); Văn phòng Luật sƣ công tại thành phố tự trị Buenos Aires, các Văn phòng
Luật sƣ công cấp tỉnh và các Phòng Luật sƣ tranh tụng trực tại Tòa án trực tiếp thực
hiện TGPL trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính. Đến tháng 12/2013, Văn
phòng Luật sƣ công liên bang có 2.125 nhân viên, bao gồm 590 Luật sƣ bào chữa
công và các cán bộ cấp cao, còn lại là 1.535 nhân viên hỗ trợ pháp lý, nhân viên
hành chính kỹ thuật và nhân viên khối dịch vụ hỗ trợ [4].
Ƣu điểm của mô hình Luật sƣ công: Nhà nƣớc trực tiếp chỉ đạo thực hiện,
47
chủ động tổ chức TGPL, không bị động và phụ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ, chi phí
thực hiện vụ việc sẽ tiết kiệm hơn so với việc thuê luật sƣ tƣ.
Tuy nhiên mô hình này có nhƣợc điểm: Do chỉ có hệ thống TGPL của Nhà
nƣớc nên ngƣời đƣợc TGPL chỉ đƣợc lựa chọn ngƣời thực hiện TGPL là ngƣời do
Nhà nƣớc tuyển dụng, không thể lựa chọn luật sƣ tƣ; Trong trƣờng hợp nhu cầu
TGPL của ngƣời dân lớn gây ra sự quá tải, tạo áp lực cho ngƣời thực hiện TGPL của
Nhà nƣớc; Một số trƣờng hợp khó bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình
xử lý vụ việc do mối quan hệ giữa cơ quan TGPL của Nhà nƣớc và các cơ quan tố
tụng trong cùng hệ thống bộ máy của Nhà nƣớc; Nguồn nhân lực và tài chính cho
TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào Chính phủ, nên có thể gây áp lực cho ngân sách nhà
nƣớc nhất là khi phải đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng tăng của xã hội.
b. Mô hình luật sư tư
Cơ quan nhà nƣớc chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về TGPL, xây
dựng kế hoạch, chính sách, xem xét điều kiện TGPL, giao vụ việc cho luật sƣ và các
tổ chức xã hội thực hiện, nghiệm thu vụ việc và thanh toán thù lao cho ngƣời thực
hiện TGPL. Nhà nƣớc trả lƣơng cho luật sƣ tƣ theo tháng mà không trả theo. vụ
việc Qua nghiên cứu thì thấy rằng rất ít nƣớc tổ chức hệ thống TGPL theo mô hình
này nhƣ Indonesia, Hungary, Ý, Tây Ban Nha, ví dụ thực ti n mô hình này:
Ƣu điểm của mô hình: Lực lƣợng Luật sƣ có trình độ cao, am hiểu kiến thức
pháp luật, nắm bắt mạnh các điều luật. Họ thực hiện và quản lý rất tốt về hoạt động
TGPL, về các chi phí thực hiện TGPL. Nhà nƣớc không cần thành lập hệ thống các
cơ quan TGPL nên Nhà nƣớc không cần đầu tƣ về trụ sở, trang thiết bị; không phải
tuyển dụng, đào tạo và quản lý đội ng cán bộ và không phải trả lƣơng, các chi phí
hành chính cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc, giúp tinh giản biên
chế và bộ máy Nhà nƣớc sẽ gọn gàng, bớt cồng kềnh hơn.
Nhƣợc điểm của mô hình: Việc thực hiện TGPL hoàn toàn phụ thuộc vào
đội ng luật sƣ tƣ, do đó, Nhà nƣớc không chủ động trong việc cử luật sƣ thực
hiện TGPL; Vì đội ng Luật sƣ có trình độ cao, am hiểu Pháp luật nên chi phí
đầu tƣ thực hiện vụ việc TGPL của luật sƣ tƣ cao; Nếu mức thù lao không phù
48
hợp với công sức của Luật sƣ bỏ ra khi thực hiện TGPL, thì Luật sƣ rất d t
chối thực hiện TGPL.
Mô hình luật sƣ tƣ ngày nay v n đƣợc các Quốc Gia trên thế giới áp dụng.
Có một số nƣớc đã t ng áp dụng mô hình Luật sƣ tƣ nhƣng nay đã chuyển đổi sang
mô hình hỗn hợp. Ví dụ, trƣớc năm 2006 tại Nhật Bản, hoạt động TGPL giao hoàn
toàn cho Liên đoàn luật sƣ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, Liên
đoàn luật sƣ đã không đáp ứng đủ nhu cầu TGPL của ngƣời dân, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa vì phụ thuộc nhiều về yếu tố kinh phí và cơ sở vật chất, phƣơng tiện.
Do đó, Nhà nƣớc đã thành lập hệ thống TGPL của Nhà nƣớc và ký hợp đồng với
luật sƣ tƣ để thực hiện một số vụ việc. Tại Nam Phi, t năm 1969 công việc TGPL
đƣợc giao cho luật sƣ; sau một thời gian thực hiện thấy rằng cơ quan nhà nƣớc
không thể kiểm soát yêu cầu chi phí thực hiện TGPL của luật sƣ tƣ c ng nhƣ chất
lƣợng dịch vụ pháp lý cung cấp cho ngƣời đƣợc TGPL. Nhiều luật sƣ kê khống thời
gian thực hiện TGPL và yêu cầu Nhà nƣớc trả tiền. Do đó, Nam Phi đã nghiên cứu
xây dựng thí điểm mô hình tổ chức TGPL của Nhà nƣớc, tuyển dụng các luật sƣ
làm việc thƣờng xuyên tại tổ chức và trả lƣơng hàng tháng, bên cạnh đó Nhà nƣớc
c ng có cơ chế huy động luật sƣ tƣ thực hiện TGPL thông qua ký hợp đồng vụ việc.
c. Mô hình hỗn hợp
Theo mô hình này, các nƣớc thành lập hệ thống TGPL của Nhà nƣớc, ký hợp
đồng với các tổ chức xã hội hoặc luật sƣ tham gia thực hiện TGPL và trả thù lao cho
luật sƣ, tổ chức xã hội. Mô hình này là sự kết hợp của 02 mô hình trên, nên có thể
phát huy đƣợc hiệu quả, ƣu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế của 02 mô
hình trên. Hiện nay, rất nhiều nƣớc áp dụng mô hình này (Nhật Bản, Ailen, bang
Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada),
Malaysia, Israel, Indonesia, Hungary, Thụy Điển…). Cụ thể mô hình tổ chức TGPL
một số nƣớc nhƣ sau:
Nhật Bản
Hệ thống cơ quan TGPL của Nhà nƣớc: Tổ chức TGPL của Nhà nƣớc ở
Nhật Bản đƣợc tổ chức theo ngành dọc. Cơ quan TGPL Nhật Bản là cơ quan quản
49
lý về TGPL ở Trung ƣơng điều phối nhân sự, kinh phí, thanh tra, kiểm tra hoạt động
TGPL các tổ chức trực tiếp thực hiện TGPL. Cơ quan TGPL thành lập các tổ chức
trực tiếp thực hiện TGPL là 50 Trung tâm TGPL, 11 Chi nhánh, Tiểu Chi nhánh, 37
Văn phòng luật trên cả nƣớc.
Tham gia TGPL của luật sƣ: luật sƣ tƣ nếu có đủ điều kiện và có nguyện
vọng thực hiện TGPL thì gửi đơn đề nghị đến các Trung tâm TGPL, Chi nhánh,
Tiểu chi nhánh. Giám đốc các Trung tâm TGPL, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh sẽ xem
xét nếu thấy luật sƣ không thuộc các trƣờng hợp đang bị đình chỉ hành nghề theo
Điều lệ Liên đoàn Luật sƣ, chƣa t ng bị hủy hợp đồng và đáp ứng các yêu cầu
TGPL thì sẽ ký kết hợp đồng. Hiện có khoảng 22.000 luật sƣ tƣ ký hợp đồng để
thực hiện TGPL. Các luật sƣ tƣ đƣợc nhận thù lao khi vụ việc kết thúc.
Ailen
TGPL của Nhà nƣớc: Hội đồng TGPL là một cơ quan độc lập. Hội đồng gồm
có Chủ tịch Hội đồng và 12 thành viên do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bình đẳng bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng TGPL có một số nhiệm vụ chính là: chỉ đạo
chiến lƣợc TGPL; phê duyệt và giám sát việc sử dụng kinh phí; quyết định các vấn
đề cụ thể khác. Hội đồng TGPL ký hợp đồng và chi trả thù lao cho luật sƣ. Hội
đồng thành lập 33 Trung tâm TGPL tại các địa phƣơng làm việc toàn thời gian và
12 Trung tâm TGPL bán thời gian trực tiếp thực hiện TGPL.
Tham gia TGPL của luật sƣ: Các luật sƣ tƣ thực hiện TGPL trên cơ sở hợp
đồng ký với Hội đồng TGPL.
Nam Phi
Tổ chức TGPL của Nhà nƣớc ở Nam Phi có Cơ quan TGPL ở Trung ƣơng,
06 Văn phòng khu vực trực thuộc giúp Cơ quan TGPL quản lý và 64 Trung tâm
TGPL. Các Trung tâm này có chức năng trực tiếp thực hiện TGPL và báo cáo hoạt
động cho Văn phòng khu vực phụ trách. Các Văn phòng vệ tinh là đơn vị phụ thuộc
của các Trung tâm, có chức năng trực tiếp thực hiện TGPL.
Bên cạnh hệ thống TGPL của Nhà nƣớc, Cơ quan TGPL thu hút các luật sƣ
tƣ tham gia thực hiện TGPL theo phƣơng thức ký hợp đồng thực hiện TGPL.
50
Bang Ontario (Canada)
TGPL nhà nƣớc: Cơ quan TGPL bang Ontario (Canada) là cơ quan có chức
năng quản lý, điều phối nguồn lực cho công tác TGPL. Cơ quan TGPL thành lập
các Văn phòng TGPL tại địa phƣơng trực tiếp thực hiện TGPL.
TGPL của xã hội: Cơ quan TGPL bang Ontario ký hợp đồng với một số tổ
chức xã hội nhƣ Trung tâm pháp luật cộng đồng để thực hiện TGPL theo yêu cầu
của Nhà nƣớc.
Đánh giá về mô hình hỗn hợp:
Đây là mô hình phổ biến nhất hiện nay trên thế giới và c ng là mô hình đƣợc
đánh giá về mức độ quản lý chặt chẽ của Nhà nƣớc đối với hoạt động TGPL. Mô
hình này cho phép sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nƣớc và xã hội do
kết hợp và phát huy đƣợc các lợi thế của ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc và
các luật sƣ tƣ, các tổ chức xã hội. Do có đội ng ngƣời thực hiện TGPL của Nhà
nƣớc nên Nhà nƣớc bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL của ngƣời dân ở
những địa bàn khác nhau (ngay cả vùng sâu, vùng xa, nơi không có hoặc có rất ít
luật sƣ tƣ), không bị quá lệ thuộc vào đội ng luật sƣ tƣ; đồng thời, Nhà nƣớc có thể
chủ động điều phối các nguồn lực (kể cả nhân lực và kinh phí) ở mọi thời điểm, bảo
đảm cho công tác TGPL phát triển ổn định và hiệu quả, thông qua đó Nhà nƣớc
thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác công tác TGPL; Nhà nƣớc có thể
huy động đƣợc các nguồn lực khác nhau trong xã hội tham gia công tác TGPL, căn
cứ vào nhu cầu TGPL của ngƣời dân và nguồn kinh phí dành cho công tác TGPL.
Nhà nƣớc có thể lựa chọn và ký hợp đồng TGPL với các luật sƣ tƣ, tổ chức tham
gia TGPL và điều phối vụ việc TGPL trong những trƣờng hợp cần thiết; Đội ng
ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc hoạt động ổn định do họ đƣợc tuyển dụng,
đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chính sách phát triển của Nhà
nƣớc và đƣợc trả lƣơng theo quy định chung của Nhà nƣớc; Tạo môi trƣờng cạnh
tranh lành mạnh giữa ngƣời thực hiện TGPL của Nhà nƣớc và luật sƣ tƣ nhằm nâng
cao chất lƣợng dịch vụ và giảm chi phí vụ việc. Vì vậy, ngƣời đƣợc TGPL có cơ hội
đƣợc hƣởng dịch vụ TGPL tốt hơn.
51
1.5.1. Chủ thể thực hiện TGPL
Chủ thể thực hiện TGPL ở các nƣớc trên thế giới hiện nay, về mặt pháp lý và
mô hình TGPL khác nhau mà chủ thể thực hiện TGPL sẽ có những đặc thù riêng
biệt, phụ thuộc vào các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa, sự phát triển của ngành
luật ở Quốc gia đó, đặc biệt là trách nhiệm và vai trò của Nhà nƣớc đối với hoạt
động TGPL.
Ở các Quốc gia, chủ thể thực hiện TGPL có thể đƣợc gọi với các chức danh sau:
Chức danh Luật sƣ công hoặc Luật sƣ Nhà nƣớc hoặc Luật sƣ TGPL (Anh,
Philippines, Hà Lan, Phần Lan, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Bang New South Wales
của Úc, Israel…): là công chức của Nhà nƣớc hoặc đƣợc Nhà nƣớc tuyển dụng vào
làm việc tại tổ chức TGPL, hƣởng chế độ lƣơng t ngân sách Nhà nƣớc và thực
hiện vụ việc theo sự phân công của lãnh đạo tổ chức TGPL
Chức danh Luật sƣ hành nghề tự do theo quy định pháp luật về Luật sự
(Thụy Điển, Singapore, Malaysia, Ailen, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức,
Hồng Kông…): là thành viên của Hiệp hội luật sự hoặc Đoàn Luật sự, tự nguyện
tham gia thực hiện TGPL theo yêu cầu Chính phủ, đƣợc Chính phủ trả thù lao.
Cán bộ Nhà nƣớc không phải là Luật sƣ nhƣng có trình độ pháp luật tƣơng
đƣơng luật sƣ (Bang Ontario của Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nam Phi…): là viên
chức của Nhà nƣớc, hƣởng chế độ lƣơng t ngân sách Nhà nƣớc, chủ yếu thực hiện tƣ
vấn pháp luật theo sự phân công của tổ chức, không đƣợc quyền tham gia tranh tụng,
chỉ thực hiện các vụ việc TGPL mang tính chất đơn giản và thủ tục hành chính.
Ngoài ra còn có sinh viên Luật đến t các trƣờng đại học, ngƣời làm việc
trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật (Hà Làn, Canada, Trung Quốc…), ngƣời
tự nguyện làm việc trong các tổ chức đoàn thể xã hội để thực hiện TGPL (Trung
Quốc; thành viên của tổ chức TGPL cộng đồng (Úc, Philippines, Hàn Quốc, Mỹ…)
và các công chứng viên (Nhật Bản).
1.5.2. Đối tượng được TGPL
Tùy thuộc vào sự phát triển, thực trạng đời sống của cộng đồng dân cƣ ở mỗi
Quốc gia sẽ có quy định khác nhau về điều kiện, tiêu chuẩn đối tƣợng đƣợc
52
TGPL.Nhìn chung, có thể khái quát các nhóm đối tƣợng cơ bản sau thuộc diện đƣợc
TGPL theo pháp luật TGPL của các nƣớc:
Thứ nhất, ngƣời đƣợc TGPL là những ngƣời nghèo, không có hoặc không
đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý. Đây là đối tƣợng đƣợc
TGPL phổ biến ở tất cả các nƣớc, thậm chí là đối tƣợng duy nhất đƣợc TGPL theo
pháp luật một số nƣớc nhƣ Indonesia, Hà Lan, Nam Phi, bang Victoria (Úc),
Campuchia, Nhật Bản (đối với TGPL trong lĩnh vực dân sự). Lý do là các nƣớc
trên thế giới đều có chủ thuyết TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, do đó Nhà
nƣớc có trách nhiệm bảo đảm công lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho
những ngƣời nghèo không có khả năng thuê luật sƣ, không có khả năng tiếp cận
các dịch vụ pháp lý trong xã hội.
Thứ hai, đối tƣợng TGPL là những ngƣời yếu thế không có khả năng tự
bảo vệ cần đƣợc sự trợ giúp về pháp luật nhƣ: ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất
hoặc tâm thần, ngƣời khuyết tật, phụ nữ và trẻ em (ví dụ Ấn Độ, Australia,
Trung Quốc, Đài Loan, Lào, Litva, Mi-an-ma), ngƣời chƣa thành niên (ví dụ Ấn
Độ, Trung Quốc, Malaysia, Nam Phi, Lào, Thái Lan), nạn nhân của tội mua bán
ngƣời (ví dụ Ấn Độ), nạn nhân bạo lực gia đình (ví dụ Tây Ban Nha), ngƣời già
(ví dụ Mi-an-ma, Croatia).
Ngày 12/6/2017 Ấn Độ có triển khai chƣơng trình TGPL mi n phí trên kênh
truyền hình nông thôn, đây là một bƣớc tiến quan trọng và đổi mới của đất nƣớc Ấn
Độ (nơi mà có tỷ lệ phụ nữ bị xâm hại tình dục cao nhất thế giới). Theo Bộ Pháp
luật của nƣớc Ấn Độ cho biết, Bộ sẽ thí điểm tại 500 thôn ở các bang phía bắc của
Uttar Pradesh và Bihar, và sau đó đƣợc đƣa ra khắp đất nƣớc theo t ng giai đoạn.
Ngƣời dân đất nƣớc này sẽ có cơ hội tiếp cận các luật sƣ đƣợc chính phủ lựa chọn
t các thành phố và tìm lời tƣ vấn pháp luật về bất cứ điều gì, t tranh chấp đất đai
đến các vụ bạo lực gia đình thông qua chƣơng trình truyền hình. Theo đó phụ nữ
nông thôn tại các thôn c ng sẽ đƣợc đào tạo nhƣ một trợ lý pháp luật tình nguyện và
sẽ là ngƣời tiếp xúc đầu tiên của ngƣời dân ở các vùng nông thôn để giải thích lời tƣ
vấn của luật sƣ và trợ giúp thêm nếu cần. Việc đào tạo sẽ bao gồm việc hiểu về luật
53
công bằng xã hội và các quyền cơ bản, bao gồm quyền của phụ nữ và trẻ em c ng
nhƣ luật pháp liên quan đến lao động [40], [41].
Ở Úc (Australia) Mô hình Các trung tâm luật pháp cộng đồng (Community
Legel Centers) xây dựng ở Canberra đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
các dịch vụ pháp lý cho ngƣời dân và hiện có hơn 200 trung tâm nhƣ vậy ở các
thành phố, các khu vực nông thôn c ng nhƣ các vùng hẻo lánh. Các trung tâm này
là các tổ chức phi lợi nhuận và là các tổ chức dựa vào cộng đồng, với trọng tâm là
hƣớng tới các cộng đồng thiệt thòi. Vì là các tổ chức dựa vào cộng đồng, các trung
tâm này đều có sự tham gia của đại diện cộng đồng và d dàng đáp ứng các nhu cầu
pháp lý của cộng đồng. Ngoài việc cung cấp các dịch vụ tƣ vấn pháp luật cho cá
nhân, các trung tâm còn chú trọng tới cộng đồng thông quá các hình thức giáo dục
pháp luật vận động chính sách để thay đổi luật pháp theo hƣớng ngăn ng a c ng
nhƣ xây dựng tính đoàn kết trong cộng đồng. Nƣớc Úc xây dựng trung tâm luật
pháp dành cho phụ nữ ở Canberra đƣợc thành lập với mục đích giải quyết những
khó khăn của phụ nữ địa phƣơng và thổ dân. Có khá nhiều trở ngại ngăn cản họ tiếp
cận các dịch vụ pháp lý ở cộng đồng. Những trở ngại đó bao gồm cả tâm lý chung
là thiếu tin tƣởng vào hệ thống luật pháp của nhà nƣớc, thiếu hiểu biết về các dịch
vụ pháp lý, không tiếp cận đến điện thoại, khó khăn về kinh tế, không có phƣơng
tiện giao thông c ng nhƣ các dịch vụ chăm sóc và trông giữ trẻ em nên khó có thể
sử dụng các dịch vụ qua điện thoại hay đến dự các buổi hẹn gặp. Trung tâm tổ chức
các buổi tham vấn với những phụ nữ thổ dân địa phƣơng để tìm hiểu các vấn đề của
họ về tiếp cận dịch vụ pháp lý, cùng với họ xây dựng các chiến lƣợc hoạt động. Các
hoạt động của Trung tâm bao gồm các hình thức trợ giúp pháp lý khác nhau nhƣ tƣ
vấn qua điện thoại, hoặc trực tiếp và về các nội dung gần g i với các vấn đề của
ngƣời dân. Trung tâm c ng tổ chức các di n đàn trao đổi các vấn đề pháp lý của phụ
nữ tại cộng đồng c ng nhƣ có các hoạt động tiếp cận cộng đồng và tƣ vấn pháp luật
ngay tại cộng đồng. Với việc thành lập một Trung tâm dành riêng cho phụ nữ và có
sự tham gia tích cực của phụ nữ bản địa trong việc lập kế hoạch và thực hiện, lƣợng
phụ nữ bản địa tiếp cận các dịch vụ pháp lý tại trung tâm đã tăng lên đáng kể [28].
54
Thêm vào đó, miền Tây Nam Queensland nƣớc Úc (Australia), xây dựng
chƣơng trình Tiếp cận dịch vụ Pháp lý cho Phụ nữ ở nông thôn đƣợc gọi là:
RWOLS với mục đích thông tin pháp lý mi n phí cho phụ nữ ở vùng nông thôn và
vùng sâu vùng xa của Tây Nam Queensland. Chƣơng trình triển khai xây dựng hoàn
toàn mi n phí đối với phụ nữ nông thôn và trẻ em, hỗ trợ phụ nữ nông thôn các thủ
tục: ly hôn, cách nuôi dạy con cái, các vấn đề về Luật Hình sự, hỗ trợ trẻ em, bạo
lực gia đình, bảo vệ trẻ em, Luật Dân sự, Luật Ngƣời tiêu dùng.... hình thức thực
hiện sẽ tƣ vấn trực tiếp hoặc gọi qua video theo lịch đã đƣợc hẹn [42].
Ở California có chạy chƣơng trình trên trang điện tử với chủ đề “Hỗ trợ pháp
lý ở khu vực nông thôn” là dịch vụ pháp lý phi lợi nhuận, tên gọi tắt là: CRLA, mục
đích của hoạt động này để giúp đỡ các cá nhân và cộng đồng vùng nông thôn có thu
nhập thấp của California đƣợc tiếp cận TGPL, đây c ng là điều kiện cho phụ nữ
nông thôn có thể đăng ký TGPL để đƣợc hỗ trợ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. CRIA đƣợc thành lập vào năm 1966 và đến nay có 18 văn phòng để tiếp
tục đáp ứng nhu cầu pháp lý cho ngƣời dân vùng nông thôn, đặc biệt là phụ nữ nông
thôn và trẻ em gái. Mỗi năm, trung tâm cung cấp cho hơn 43.000 ngƣời dân
California ở nông thôn thu nhập thấp đƣợc hỗ trợ pháp lý mi n phí và một loạt các
chƣơng trình giáo dục và tiếp cận cộng đồng mục đích và đáp ứng tiêu chí “công lý
bình đẳng cho tất cả mọi ngƣời” [35].
1.5.3. Phạm vi TGPL
Nhiều nƣớc trên thế giới có sự phân biệt giữa cụm t “Trợ giúp pháp lý”
(tiếng Anh là legal aid) và cụm t “dịch vụ pháp lý thiện nguyện mi n phí” (tiếng
Anh là pro-bono). TGPL là dịch vụ pháp lý do Nhà nƣớc bảo đảm để cung cấp mi n
phí cho đối tƣợng đƣợc TGPL; ngƣời thực hiện TGPL đƣợc trả lƣơng hoặc tiền bồi
dƣỡng t ngân sách Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, TGPL thuộc trách nhiệm xã hội của Nhà
nƣớc và Nhà nƣớc ban hành luật TGPL để thực thi chính sách xã hội đó. Trong khi
đó, dịch vụ pháp lý thiện nguyện mi n phí do luật sƣ hoặc các cá nhân, tổ chức sử
dụng nguồn lực của mình hoặc của tổ chức xã hội để cung cấp dịch vụ pháp lý mi n
phí cho bất kỳ ai có nhu cầu giúp đỡ về mặt pháp lý, theo ý muốn chủ quan của cá
55
nhân, tổ chức đó. Nhƣ vậy, trong dịch vụ pháp lý thiện nguyện, ngƣời cung cấp dịch
vụ pháp lý không nhận lƣơng hoặc thù lao t ngân sách nhà nƣớc và ngƣời đƣợc
hƣởng dịch vụ c ng không phải trả chi phí. Hầu hết các nƣớc đều xác định TGPL là
trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với ngƣời nghèo và những ngƣời yếu thế trong xã hội
không có khả năng tiếp cận dịch vụ có thu phí của luật sƣ. Thông qua việc ban hành
Luật TGPL, Nhà nƣớc tạo khuôn khổ pháp lý để bảo đảm thực hiện trách nhiệm này
của mình đối với xã hội, đặc biệt là nhóm ngƣời yếu thế trong xã hội.
Luật TGPL một số nƣớc thể hiện rõ phạm vi điều chỉnh ở ngay tên gọi của
Luật. Ví dụ, các nƣớc nhƣ Latvia và Moldova ban hành “Luật TGPL do Nhà nƣớc
bảo đảm” (tên tiếng Anh là “State Guaranteed Legal Aid Law”). Đa số Luật TGPL
của các nƣớc không có một điều riêng về phạm vi điều chỉnh của Luật nhƣng nội
dung của Luật điều chỉnh TGPL do Nhà nƣớc bảo đảm hoặc trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nƣớc trong việc bảo đảm TGPL đối với ngƣời đƣợc TGPL. Luật TGPL
của hầu hết các nƣớc quy định về các nguyên tắc, ngƣời đƣợc TGPL, ngƣời thực
hiện TGPL, tổ chức TGPL, trình tự thủ tục thực hiện TGPL do Nhà nƣớc thực hiện
cấp hoạt động kinh phí, ví dụ Luật TGPL của Nam Phi, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Ailen, Hà Lan, Nepal, Úc, bang Ontario – Canada, Singapore, Israel, Phần
Lan, Nga, Đài Loan... Đồng thời, các nƣớc có chính sách khuyến khích các tổ chức,
cá nhân cung cấp dịch vụ pháp lý mi n phí cho ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nghèo
và ngƣời yếu thế trong xã hội.
1.5.4. Lĩnh vực thực hiện TGPL
Lĩnh vực TGPL là một trong những chế định quan trọng trong hoạt động TGPL
các nƣớc. Về cơ bản, hầu hết các nƣớc đều thực hiện TGPL trong lĩnh vực dân sự và
hình sự; ví dụ Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Hà Lan, Lít va, Malaysia, Nam Phi, Ailen,
Nhật Bản, Philippines, bang Victoria (Úc), Singapore, Anh...Ngoài ra, một số nƣớc quy
định TGPL trong lĩnh vực hành chính nhƣ Hàn Quốc, Hà Lan, Đài Loan, Philippine,
Moldova. Một số nƣớc quy định thêm TGPL trong lĩnh vực gia đình nhƣ Đài Loan, Hà
Lan, Bang Victoria và Bang Queensland (Úc), Ireland, Brunei. Một số nƣớc có thêm
TGPL trong lĩnh vực lao động nhƣ Philippines, Hà Lan...
56
- TGPL trong lĩnh vực hình sự
Hầu hết các nƣớc đều thực hiện TGPL đối với các vụ việc trong lĩnh vực
hình sự vì gắn liền với quyền con ngƣời, quyền công dân và nhân thân của ngƣời
đƣợc TGPL. Đặc biệt, một số nƣớc quy định đối với các vụ việc có mức án tử hình
(Trung Quốc, Singapore, Brunei), vụ việc đối với trẻ vị thành niên (Trung Quốc) thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải mời luật sƣ đại diện cho bị cáo trong trƣờng hợp họ
không có ngƣời đại diện hợp pháp.
Tuy nhiên, có nƣớc quy định TGPL trong lĩnh vực hình sự nhƣng hạn chế
trong một số trƣờng hợp cụ thể. Ví dụ, theo Luật TGPL Ấn Độ năm 1987 sửa đổi
năm 1994, nếu vụ việc tố tụng hình sự liên quan đến một phần hoặc toàn bộ sự vu
khống, ngƣời bị buộc tội không chấp hành các thủ tục Tòa án, khai man trƣớc Toà
án, ngƣời bị buộc tội về tội phạm kinh tế và những tội phạm về đạo đức xã hội thì
sẽ không đƣợc TGPL. Bên cạnh đó, ngƣời bị buộc tội về một tội có mức phạt
không quá 50 rupi thì không đƣợc TGPL. Có thể hiểu đây là mức phạt thấp, chi
phí thực hiện TGPL cao hơn mức phạt nên không thực hiện. Tại Nhật Bản, bị cáo
chỉ đƣợc TGPL trong lĩnh vực hình sự khi bị truy cứu về tội có khung hình phạt t
3 năm tù trở lên [4].
- TGPL trong lĩnh vực dân sự
Đa số các nƣớc có hệ thống TGPL đều thực hiện TGPL trong lĩnh vực dân sự
(ví dụ: Myanmar, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Litva, Nam Phi, Úc, Ailen,...).
Tuy nhiên, khái niệm dân sự theo pháp luật một số nƣớc đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm cả lĩnh vực hôn nhân gia đình, đất đai, lao động, việc làm, di cƣ, kinh
doanh thƣơng mại. Ví dụ, Luật TGPL dân sự năm 1972 của Israel cho phép TGPL
trong lĩnh vực kinh doanh và nhãn hiệu thƣơng mại vì lý do lĩnh vực này thuộc lĩnh
vực dân sự và việc TGPL trong lĩnh vực kinh doanh thƣơng mại sẽ giúp cho ngƣời
đƣợc TGPL có điều kiện vƣợt qua khó khăn. Một số nƣớc giới hạn phạm vi đƣợc
TGPL cho một số đối tƣợng nhất định, chẳng hạn Moldova quy định ngƣời nƣớc
ngoài và ngƣời không tịch đƣợc TGPL trong tố tụng và trong những vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính công và Tòa án [4].
57
Bài học kinh nghiệm
So với nhiều nƣớc phát triển trên thế giới, TGPL ở Việt Nam ra đời muộn
hơn và điều kiện kinh tế của Việt Nam khó khăn hơn. Tuy nhiên, hệ thống TGPL ở
Việt Nam đã có những bƣớc phát triển đáng m ng, dần tiến đến có nhiều điểm ƣu
việt hơn và tƣơng đồng với các nƣớc trên thế giới. Trên cơ sở nghiên cứu kinh
nghiệm nƣớc ngoài về TGPL, đặc biệt là ƣu, nhƣợc điểm của t ng mô hình, ngay t
ngày đầu thành lập Việt Nam đã lựa chọn mô hình hỗn hợp. Mô hình này thể hiện
rõ trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc chủ động nguồn lực thực hiện TGPL, đồng
thời huy động sự tham gia tự nguyện của các tổ chức xã hội. Áp dụng mô hình này
Nhà nƣớc có sự chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu TGPL của ngƣời dân, tránh bị
động phụ thuộc vào nguồn lực ngoài Nhà nƣớc. Hơn nữa, sự tồn tại song song hai
chủ thể thực hiện TGPL sẽ tạo ra sự canh tranh trong việc nâng cao khả năng đáp
ứng nhu cầu TGPL của ngƣời dân c ng nhƣ chất lƣợng vụ việc TGPL.
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia sẽ quy định về đối tƣợng
TGPL khác nhau, nhƣng nhìn chung các quốc gia rất quan tâm đến quyền của ngƣời
phụ nữ: Ấn Độ, Australia, Indonesia…và đặc biệt triển khai các trung tâm, cách
thức hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn.
Dựa vào những kinh nghiệm về hoạt động TGPL cho phụ nữ vùng nông thôn
của các quốc gia, Việt Nam thực hiện triển khai việc TGPL đến với phụ nữ nông
thôn qua các dự án:
+ “Phát triển câu lạc bộ TGPL cho phụ nữ ở tỉnh Bến Tre” [10, tr. 28 - 32],
mục đích của việc thành lập câu lạc bộ TGPL tạo ra một di n đàn để các chị em phụ
nữ có nơi tâm sự, vui chơi và tìm hiểu pháp luật, và c ng là nơi các cấp chính quyền
địa phƣơng phối hợp với Hội phụ nữ giới thiệu đến phụ nữ nông thôn những quy
định mới của pháp luật, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày c ng nhƣ
các hoạt động thiết thực mang lại kết quả tốt của chính quyền địa phƣơng.
+ “Phổ biến, giáo dục pháp luật và TGPL cho phụ nữ nghèo” [22, tr. 28 - 32]
với mục đích tạo đƣợc ý thức chủ động, tích cực tìm hiểu pháp luật. giáo dục và
ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật (tệ nạn xã hội, khiếu nại tố cáo…)
58
góp phần nâng cao trách nhiệm của phụ nữ trong việc giáo dục, quản lý con em
trong gia đình không vi phạm pháp luật, tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận đƣợc
những thông tin về pháp luật, tìm hiểu pháp luật và tƣ vấn, giải đáp những vƣớng mắc pháp luật, giúp phụ nữ hiểu sâu hơn về quyền và nghĩa vụ của mình...
So sánh với quy định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam cho thấy
ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam c ng có điểm tƣơng đồng với hầu hết các
nƣớc, bao gồm đội ng Trợ giúp viên pháp lý hƣởng lƣơng t ngân sách nhà
nƣớc (về bản chất là luật sƣ công); đội ng cộng tác viên TGPL; luật sƣ, tƣ vấn
viên pháp luật của các tổ chức đăng ký tham gia TGPL. Việc Luật TGPL năm
2017 bổ sung tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý ngang bằng với luật sƣ là một
điểm tiến bộ, giúp quy định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam gần hơn nữa
với thế giới. Bên cạnh đó, việc thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn ở Việt
Nam chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi, mà chỉ xuất phát t một số tỉnh thành trong cả
nƣớc: tỉnh Bến Tre, Ninh Bình, Bắc Kạn, Bắc Giang... nhìn t thực ti n của t ng
tỉnh để tiến hành TGPL cho phụ nữ nông thôn. Nhà nƣớc nên thực hiện chính
sách mở rộng TGPL mi n phí cho phụ nữ nông thôn ở khắp tất cả tỉnh thành và
có hƣớng đi mới trong việc TGPL cho phụ nữ nông thôn ở Việt Nam vì mục tiêu
dân chủ văn minh phát triển pháp luật của đất nƣớc.
59
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về Trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay, chƣơng 1 tác giả luận văn đã phân tích kỹ
về đặc điểm cơ bản của phụ nữ nông thôn và đặc điểm của TGPL, đồng thời đƣa
ra khái niệm, mục đích và nội dung của TGPL đối với phụ nữ nông thôn. Những
nội dung này thể hiện trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho phụ nữ nông thôn, bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận pháp
luật. Bên cạnh đó, chƣơng 1 tác giả luận văn có Giới thiệu đến mô hình TGPL trên
thế giới, về tổ chức và hoạt động TGPL ở một số Quốc gia hiện nay và có rút ra
bài học kinh nghiệm. Những vấn đề lý luận đƣợc tác giả luận văn trình bày ở
Chƣơng 1 là cơ sở để phân tích báo cáo, đánh giá thực trạng hiệu quả tổ chức hoạt
động TGPL của các chƣơng sau.
60
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRỢ
GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ NÔNG THÔN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng pháp luật về TGPL cho Phụ nữ nông thôn
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống PL về TGPL
TGPL là việc giúp đỡ pháp lý (về các mặt nhƣ: tƣ vấn pháp luật, hòa giải, đại
diện…) mi n phí của Nhà nƣớc và xã hội cho các đối tƣợng nhận đƣợc TGPL theo
quy định của pháp luật nhằm giải toả những vƣớng mắc pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật của công dân để họ tự mình biết cách ứng xử sao cho phù hợp với pháp
luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tăng
cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Hiến Pháp 1992 có quy định:
Nhà nƣớc bảo đảm và không ng ng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân; xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, thực hiện công bằng xã
hội, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện [19, Điều 3].
Để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong t ng bƣớc và t ng
chính sách phát triển, tuân theo nguyên tắc của Hiến Pháp, Đảng và Nhà nƣớc ta
thực hiện chủ trƣơng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để thực hiện các mục tiêu
trên, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã quan tâm chỉ đạo:
... Cần phải mở rộng loại hình tƣ vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu
cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao
ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống
hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tƣ vấn pháp luật không
lấy tiền để hƣớng d n nhân dân sống và làm việc theo pháp luật [24].
61
Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá trình chuyển biến sâu sắc,
mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của đời sống pháp luật, tạo tiền
đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của công tác TGPL.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, dƣới sự chỉ đạo
của Chính phủ, Bộ Tƣ pháp và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ)
đã chủ động nghiên cứu, triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm TGPL của nhà
nƣớc tại Cần Thơ (7/1996) và Hà Tây (01/1997). Việc triển khai thí điểm TGPL ở
02 địa phƣơng cho thấy, nhân dân địa phƣơng đón nhận hoạt động nhƣ một chính
sách xã hội rộng lớn của Đảng và Nhà nƣớc. Trên nền tảng nghiên cứu kinh nghiệm
tổ chức và hoạt động TGPL của các nƣớc trên thế giới, Bộ Tƣ pháp và Ban Tổ chức
Chính phủ đã hoàn thiện Đề án về việc thành lập tổ chức TGPL và xin ý kiến của
Trung ƣơng, Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ đã đồng ý phê duyệt về nguyên tắc
đối với việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam. Hoạt động TGPL không
chỉ d ng lại trong lĩnh vực tƣ vấn pháp luật nhƣ nghiên cứu ban đầu mà bao gồm cả
tƣ vấn pháp luật, đại diện, bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đƣơng sự
trƣớc cơ quan tiến hành tố tụng. Tại kỳ họp lần thứ 3 (1997), Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức tƣ vấn pháp luật
cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho ngƣời nghèo đƣợc hƣởng
dịch vụ tƣ vấn pháp luật mi n phí…”. Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá
trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của
đời sống pháp luật, tạo tiền đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của
công tác TGPL.
Giai đoạn trước khi thành lập đến năm 2006
Ngày 06/9/1997, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg
về việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính sách,
thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tƣ pháp. Cục TGPL v a có chức năng giúp Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp quản lý nhà nƣớc về TGPL, v a trực tiếp thực hiện TGPL trong
trƣờng hợp cần thiết. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng, Trung tâm
TGPL trực thuộc Sở Tƣ pháp đƣợc thành lập. Nhằm tăng cƣờng hoạt động phối hợp
62
giữa các ngành, các cấp trong hoạt động TGPL, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt
động, đƣa hoạt động TGPL về cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, ngày
01/3/2000 Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/2000/CT-TTg về việc tăng
cƣờng công tác TGPL. Để thực hiện Quyết định số 734/TTg, Bộ Tƣ pháp đã chủ trì
và phối hợp với các Bộ, ngành ban hành 16 văn bản hƣớng d n thi hành. Ở địa
phƣơng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành các văn bản triển khai thi hành.
Ngày 06/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tƣ pháp, trong đó
quy định Bộ Tƣ pháp có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nƣớc về TGPL cho ngƣời
nghèo, đối tƣợng chính sách và các đối tƣợng khác theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, ngày 21/5/2002, Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt Chiến lƣợc toàn diện
về tăng trƣởng và xoá đói giảm nghèo đến 2010 nhằm mục đích chung là tạo môi
trƣờng tăng trƣởng nhanh, bền vững và xoá đói, giảm nghèo, trong đó đã xác định
rõ: Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cƣờng TGPL và khả năng tiếp cận pháp lý
cho ngƣời nghèo. Mở rộng mạng lƣới trợ giúp pháp luật để ngƣời nghèo ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp luật. TGPL
cho ngƣời nghèo và các đối tƣợng chính sách đƣợc xác định là một trong những
chính sách của Chiến lƣợc.
Giai đoạn từ khi có luật TGPL cho đến nay
Ngày 29/6/2006, bƣớc tiến lịch sử trong hoạt động lập pháp trong lĩnh vực
TGPL là Quốc hội đã thông qua phê duyệt Luật TGPL 2006 nâng tầm thể chế t
Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ. Sự ra đời của Đạo luật này đã thể hiện ý chí
nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ
về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là đối
tƣợng yếu thế trong xã hội. Đó là mốc son rực rỡ đánh dấu bƣớc chuyển về chất,
đƣa công tác TGPL lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển đất nƣớc
và xu thế thời đại.
Ngày 28/12/2007, Thông tƣ liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-
BTC-VKSNDTC-TANDTC về TGPL trong hoạt động tố tụng đƣợc ban hành,
63
Thông tƣ liên ngành đầu tiên hƣớng d n việc thực hiện bào chữa, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp cho đƣơng sự trong quá trình tố tụng (nay đƣợc thay thế bởi Thông tƣ liên
tịch số 11/2013/TTLT - BTP - BCA - BQP - BTC - VKSNDTC - TANDTC ngày
04/7/2013). Ngày 10/5/2011, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
678/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lƣợc phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020,
định hƣớng đến năm 2030 đã tạo ra một lộ trình cụ thể cho việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về TGPL ở Việt Nam. Đây là Chiến lƣợc đầu tiên của ngành Tƣ pháp (kể
t năm 1945 đến nay), đã tạo môi trƣờng để TGPL phát triển. Tiếp tục phát huy vai
trò nòng cốt của Nhà nƣớc và huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội, sự hỗ
trợ, đóng góp của cộng đồng quốc tế, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
cho công tác TGPL.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò công
tác TGPL bằng việc thông qua Luật TGPL với tỷ lệ 100% đại biểu có mặt tán thành.
Sự ra đời của Luật TGPL năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn
thiện thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền
con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Qua đó tiếp tục
khẳng định TGPL là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong hệ thống tƣ pháp hình sự,
là trách nhiệm của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân cho
đối tƣợng đƣợc TGPL
So với Luật TGPL năm 2006, Luật TGPL năm 2017 đã bổ sung 01 Điều (Điều 5)
quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL, theo đó bao gồm nguồn ngân sách
nhà nƣớc; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nƣớc, ngoài nƣớc và các
nguồn hợp pháp khác. Nhà nƣớc bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm
của cơ quan thực hiện quản lý nhà nƣớc về TGPL theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nƣớc. Đồng thời, đối với các tỉnh chƣa tự cân đối đƣợc ngân sách,
Luật quy định việc ƣu tiên bố trí ngân sách t số bổ sung cân đối ngân sách hằng
năm để hỗ trợ cho việc thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm
mới quan trọng so với Luật TGPL năm 2006, khẳng định trách nhiệm của Nhà nƣớc
trong việc bảo đảm cho ngƣời thuộc diện TGPL đƣợc giúp đỡ pháp lý khi họ có các
64
vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phục phần nào tình trạng bỏ sót
nhu cầu TGPL của ngƣời dân, qua đó thể hiện cam kết của Nhà nƣớc trong việc bảo
đảm quyền đƣợc TGPL đƣợc thực thi trên thực tế.
Có thể thấy, TGPL là một trong những chính sách mang tính nhân đạo, nhân
văn của Đảng và Nhà nƣớc nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trƣớc
pháp luật và thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân. Để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu trong Chiến lƣợc TGPL cho các
đối tƣợng đƣợc TGPL thì ở địa phƣơng, nhà nƣớc cần tạo điều kiện bố trí trụ sở làm
việc, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động tƣơng xứng cho Trung tâm và các Chi
nhánh của Trung tâm; bên cạnh đó, cần tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc đối
với công tác TGPL, tăng cƣờng kiểm tra quản lý chất lƣợng hoạt động TGPL của tổ
chức, cá nhân, đảm bảo chất lƣợng vụ việc TGPL
2.1.2. Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ
nông thôn hiện nay
Pháp luật hiện nay còn những bất cập, hạn chế về vấn đề TGPL cho phụ nữ
nông thôn
Hiện nay, có 19 văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực trong lĩnh vực
TGPL tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, điều chỉnh khá toàn diện tổ chức và
hoạt động TGPL nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, có chất lƣợng cho ngƣời
đƣợc TGPL, phù hợp với xu hƣớng phát triển TGPL trên thế giới (gồm 01 Luật, 01
Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ, 08 Thông tƣ liên tịch, 08
Thông tƣ của Bộ Tƣ pháp).
Mặc dù hệ thống pháp luật TGPL đã tƣơng đối đầy đủ, công tác TGPL đã đạt
đƣợc những kết quả đáng trân trọng, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các đối tƣợng trong diện TGPL mi n phí theo Điều 7 của Luật TGPL 2017 quy
định. Tuy nhiên, Luật TGPL chƣa tiếp cận dịch vụ TGPL mi n phí đến với ngƣời
phụ nữ nông thôn Việt Nam.
Trƣớc nay, hình ảnh ngƣời phụ nữ nông thôn gắn liền với ruộng đồng, nuôi
trồng sản xuất tại địa phƣơng theo hộ cá nhân, nhờ vào sự phát triển kinh tế của đất
65
nƣớc, đời sống nhân dân nâng cao. Phụ nữ nông thôn đã biết tham gia vào công
nghệ qua việc sử dụng mạng Internet, họ đã linh động hơn trong việc làm kinh tế
tăng thu nhập nhƣ: bán hàng nông sản vùng nông thôn, thực hiện đăng ký đầu tƣ sản
phẩm cây trồng ngắn hạn, cây ăn quả lâu năm: bƣởi di n, bƣởi da xanh, cam canh,
quýt, thanh long… (thực hiện tại một số vùng kinh tế: Hòa Bình- cam canh, Tuyên
Quang- cam sành, Bắc Giang – bƣởi da xanh, Phúc Thọ- bƣởi da xanh, bƣởi di n,
thanh long…), mở các công ty trách nhiệm hữu hạn về nông sản theo mô hình Hộ
gia đình và liên kết với nhau mục đích tăng thu nhập và phát triển lâu dài. Khi xảy
ra tranh chấp, mâu thu n về quyền lợi kinh tế, phụ nữ nông thôn sẽ cần phải đến các
tổ chức, trung tâm để đƣợc hỗ trợ TGPL. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra, phụ nữ nông
thôn không phải là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo Luật TGPL quy định (tr
trƣờng hợp đƣợc quy định tại Điều 7 Luật TGPL 2017).
Phụ nữ nông thôn thƣờng là những ngƣời yếu thế trong gia đình, họ phải
tham gia gánh vác công việc tƣơng đƣơng với nam giới, nhƣng quyền lợi của họ
trong gia đình bị thu hẹp nhƣ: quyền làm chủ, quyền tự quyết, quyền chăm sóc sức
khỏe. Đa số ngƣời đàn ông trong gia đình nông thôn hiện nay đƣợc coi là trụ cột lao
động kinh tế chính. Nhƣng ngƣời phụ nữ nông thôn trong gia đình phải đảm nhiệm
quán xuyến tất cả công việc nhà, song song đó làm thêm công việc ngoài để tăng
thu nhập cho gia đình. Khi quyền lợi và lợi ích của phụ nữ nông thôn bị xâm phạm,
tâm lý không muốn bỏ chi phí cho việc đăng ký TGPL vì còn nhiều công việc trong
gia đình phải lo, chƣa chủ động đi đến các tổ chức, trung tâm TGPL để nhận tƣ vấn.
Để khắc phục đƣợc tình trạng trên, theo tác giả luận văn thì điều kiện trƣớc
tiên là cần phải tập hợp, rà soát, sửa đổi bổ sung để khắc phục những hạn chế còn
bất cập trong tổ chức và hoạt động TGPL, t ng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật
về TGPL. Trong thời gian chờ Luật sửa đổi và ban hành thì biện pháp ngắn hạn đối
với chính quyền địa phƣơng ở các vùng nông thôn là cần thực hiện xin ngân sách
cấp trên để hỗ trợ TGPL đến với phụ nữ nông thôn, đây c ng là biện pháp quản lý
tình hình an ninh trật tự tại địa phƣơng nắm bắt đƣợc tình hình đời sống của phụ nữ
nông thôn trong khu vực và c ng là chính sách thúc đẩy hoạt động tham gia TGPL
66
tích cực t phụ nữ nông thôn và các hoạt động phúc lợi có ích cho phát triển vùng
nông thôn hiện nay. Nhà nƣớc luôn vận động, khuyến khích địa phƣơng trong cả
nƣớc xây dựng mô hình nông thôn kiểu mới, hiện đại hóa, phát triển hóa. Phụ nữ
nông thôn đang cố gắng đi lên làm giàu cho gia đình, cho địa phƣơng đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bản thân họ phải chịu chi phí TGPL mà
không đƣợc mi n phí, Nhà nƣớc nên để hoạt động TGPL mi n phí đối với phụ nữ
nông thôn nhƣ một biện pháp khích lệ tinh thần trong công tác phát triển kinh tế và
văn hóa làng xã vùng nông thôn
TGPL cho phụ nữ nông thôn nhiều nhất vẫn là tư vấn viên, cộng tác viên và
trợ giúp viên TGPL, ít được hỗ trợ TGPL từ Luật sư
Mặc dù TGPL ở Việt Nam theo mô hình hỗn hợp, v a là sự quản lý của Nhà
nƣớc và có sự hỗ trợ t phía các tổ chức Luật sƣ. Nhƣng ngƣời dân và phụ nữ nông
thôn đƣợc phổ cập pháp luật nhiều nhất và biết đến nhiều nhất là những nhân viên
TGPL của Nhà nƣớc và do các ban ngành, tổ chức TGPL do Nhà nƣớc chỉ định.
Phụ nữ nông thôn ít đƣợc tiếp xúc sự hỗ trợ TGPL t luật sƣ, có thể thấy việc tham
gia thực hiện các vụ việc TGPL của tổ chức luật sƣ và luật sƣ c ng còn chƣa cao, vì
đây là khu vực nông thôn, thậm chí vùng sâu, vùng xa mà các văn phòng luật sƣ và
tổ chức luật sƣ đều đƣợc đặt tại vị trí các tỉnh-thành phố lớn cho nên việc di chuyển
thực hiện TGPL đến với phụ nữ nông thôn trở nên khó khăn hơn, đa phần TGPL
của phụ nữ nông thôn đều là những vụ việc v a và nhỏ trong tầm trợ giúp viên,
cộng tác viên và tƣ vấn viên có thể thực hiện đƣợc. Ngoài những lý do trên, ở khu
vực nông thôn, chi phí hỗ trợ luật sƣ t Nhà nƣớc chƣa phù hợp với công sức mà
luật sƣ đã bỏ ra. Chính vì những điều đó d n đến hạn chế việc yêu cầu ngƣời thực
hiện TGPL đến t luật sƣ.
Nhận xét về thực trạng quy định pháp luật TGPL và thực hiện TGPL cho phụ
nữ nông thôn từ trước đến nay
Sự ra đời của Luật TGPL đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện
thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp về quyền con ngƣời,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Qua đó tiếp tục khẳng định
67
TGPL là một yếu tố quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là trách nhiệm
của Nhà nƣớc trong bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân cho đối tƣợng đƣợc
TGPL. Nhà nƣớc ta cơ bản đã ban hành tƣơng đối đầy đủ pháp luật về phụ nữ; tuy
nhiên quá trình triển khai thực hiện cho thấy pháp luật về vấn đề này v n còn một
số hạn chế, bất cập nhất định - đây là những vấn đề cản trở cho việc thực thi pháp
luật, tổ chức thi hành pháp luật TGPL.
Thứ nhất, về mô hình tổ chức không phải tất cả phụ nữ đều đƣợc trợ giúp
pháp lý. Pháp luật hiện hành chƣa có nhiều quy định đặc thù để đảm bảo quyền của
ngƣời phụ nữ ở nông thôn. Hiện nay, việc trợ giúp pháp lý mi n phí chỉ đƣợc áp
dụng cho phụ nữ là một trong những nhóm sau: ngƣời nghèo, ngƣời có công với
cách mạng, ngƣời già cô đơn không nơi nƣơng tựa, ngƣời khuyết tật, nạn nhân bị
buôn bán, ngƣời dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn thì mới đƣợc trợ giúp
pháp lý. Luật TGPL 2017 đã tiếp cận đến những chủ thể yếu thế trong xã hội, quy
định rất rõ ràng, chi tiết và hợp lý. Nhƣng theo tác giả luận văn, việc áp dụng TGPL
mi n phí đến với phụ nữ nông thôn c ng là biện pháp khuyến khích phát triển
nguồn nhân lực bền vững, lâu dài, đảm bảo đƣợc ngƣời phụ nữ nông thôn sẽ nắm
bắt đƣợc tinh thần của pháp luật, chủ động tiếp cận với dịch vụ pháp lý. Phụ nữ
nông thôn là những ngƣời thiếu hiểu biết về luật pháp, thiếu hiểu biết về quyền của
mình khi tham gia TGPL. Do không có điều luật quy định riêng về đối tƣợng là phụ
nữ nông thôn nên khi chủ thể thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn thƣờng gặp
khó khăn trong việc tham chiếu điều luật, họ phải sử dụng điều luật khác để hỗ trợ
TGPL cho phụ nữ nông thôn, chính vì vậy d n đến sự chồng chéo và bất cập về luật
trong hoạt động TGPL.
Thứ hai, Nhận thức về hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động
trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, nhiều phụ
nữ v n chƣa biết đƣợc về quyền trợ giúp pháp lý hoặc còn e ngại khi tiếp cận với
trợ giúp pháp lý. Phụ nữ nông thôn khi bị xâm phạm đến quyền và lợi ích nhƣ: là
nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị xâm hại tình dục thƣờng cam chịu, không
dám lên tiếng do vậy gây khó khăn cho những ngƣời trực tiếp thực hiện trợ giúp
68
pháp lý trong việc thu nhận bằng chứng, các thông tin liên quan. Hầu hết phụ nữ
vùng nông thôn thƣờng có hoàn cảnh sống khó khăn, trình độ dân trí thấp, thiếu
hiểu biết pháp luật, không rõ về các quyền và nghĩa vụ của mình và họ c ng không
biết đến tổ chức trợ giúp pháp lý để yêu cầu giúp đỡ khi cần thiết.
Thứ ba, Năng lực của tổ chức trợ giúp pháp lý và đội ng ngƣời thực hiện
TGPL còn có những hạn chế, đội ng ngƣời thực hiện TGPL nói chung còn thiếu về
số lƣợng, các tổ chức, trung tâm TGPL còn đặt cách xa với nơi ở của dân nên rất d
bị động trong việc tiếp nhận thông tin, thậm chí nhiều vụ việc xảy ra rất lâu rồi thì
các tổ chức, trung tâm mới nhận đƣợc thông tin qua hình thức truyền miệng. Đây
c ng là khó khăn và thách thức lớn của ngƣời thực hiện TGPL trong việc tiếp cận
phụ nữ nông thôn. Đặc biệt tỷ lệ ngƣời thực hiện TGPL là nữ còn rất ít, chƣa có
nhiều chuyên gia nữ, lại chƣa đƣợc trang bị kỹ năng tiếp xúc, tâm lý làm việc với
phụ nữ nông thôn và giải quyết các vấn đề nhạy cảm có liên quan tới phụ nữ nên
hiệu quả TGPL cho phụ nữ chƣa cao.
Chính sách của Nhà nƣớc còn thiếu sự quan tâm, chƣa có những đãi ngộ phù
hợp với công sức của tổ chức, trung tâm TGPL bỏ ra. Đặc biệt là những luật sƣ
đƣợc thuê tại các trung tâm và tổ chức cho hoạt động thực hiện TGPL. Rất nhiều
trƣờng hợp Luật sƣ kết thúc hợp đồng với Nhà nƣớc trong việc TGPL tại các trung
tâm, lý do khách quan chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu, nguyện vọng của họ, lý do chủ
quan thì ban đầu những Luật sƣ này đăng ký tham gia để lấy kinh nghiệm cho hoạt
động TGPL và là nền tảng sau này để các Luật sƣ có thể mở văn phòng Luật, khiến
cho Luật sƣ coi hoạt động thực hiện TGPL nhƣ một nghĩa vụ và là trải nghiệm về
thực hiện hoạt động TGPL của Luật sƣ do Nhà nƣớc chỉ định.
Mô hình TGPL ở Việt Nam hiện nay là mô hình hỗn hợp, đan xen quản lý
Nhà nƣớc và có sự hỗ trợ t phía Luật sƣ đăng ký với Nhà nƣớc. Luật sƣ thực hiện
TGPL hiện nay gặp rất nhiều khó khăn và thách thức, tệ nạn quan liêu gây ảnh
hƣởng trong việc phối hợp, thiếu hỗ trợ của các cơ quan chức năng, chính quyền địa
phƣơng trong việc để TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Mặc dù, Luật sƣ làm rất tốt
trong công tác TGPL, những năm gần đây số lƣợng sinh viên tốt nghiệp chuyên
69
ngành Luật và học viên tốt nghiệp Hành nghề Luật sƣ ở Học viện Tƣ pháp ngày một
tăng cao d n đến việc gia tăng Luật sƣ về số lƣợng và chất lƣợng tại Việt Nam,
trong thời kỳ Nhà nƣớc dần thắt chặt, tinh giản biên chế ở một số bộ, cơ quan,
quyền lợi của các cơ quan này sẽ bị ảnh hƣởng, thậm chí là bị “đe dọa” bởi đội ng
Luật sƣ chuyên nghiệp, có trình độ và đƣợc đào tạo bài bản chuyên ngành Luật, họ
nắm rất chắc kiến thức, chuyên môn và thực hiện rất tốt các hoạt động này. Chính vì
vậy, sẽ gây ra ảnh hƣởng liên quan đến lợi ích của một số ban ngành chính quyền
nên Luật sƣ thƣờng gặp khó khăn cho hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn.
2.2. Thực tiễn thực hiện TGPL cho Phụ nữ nông thôn
2.2.1. Kết quả TGPL cho Phụ nữ nông thôn trong những năm gần đây
Phụ nữ nông thôn Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong việc đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kinh tế nông thôn mới. Là nguồn nhân lực
đông đảo của Nhà nƣớc Việt Nam, tuy nhiên họ c ng là đối tƣợng yếu thế trong
gia đình, d bị xâm phạm quyền và lợi ích pháp luật. Mặc dù hoạt động TGPL cho
phụ nữ nông thôn hiện nay chƣa lan rộng và phổ biến, nhƣng ở một số tỉnh thành
coi hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn là mục tiêu lâu dài, cần thiết và quan
trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế nông thôn mới phát triển. Cụ thể tác giả luận
văn xin nêu một số tỉnh thành, thị xã, huyện mà tác giả có thu thập theo những
năm gần đây nhƣ sau:
Năm 2014, tại tỉnh Quảng Ninh, thực hiện Kế hoạch phối hợp số 41-
KHPH/PN-TP ngày 31/3/2014 giữa Sở Tƣ pháp và Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh về
phối hợp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ năm 2014, Trung tâm Trợ giúp pháp lý đã phối hợp với Ban Chính sách
pháp luật - Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức Trợ giúp pháp lý lƣu động có hiệu quả
cho hội viên Hội Phụ nữ tại 10 xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố, bao
gồm: huyện Hải Hà, Đầm Hà, Ba Chẽ, Đông Triều, Bình Liêu, Quảng Yên, Tiên
Yên, Hoành Bồ, thành phố Uông Bí và Thành phố Móng Cái. Trung tâm đã trực
tiếp tiến hành Trợ giúp pháp lý bằng các hình thức tƣ vấn pháp luật, cử đại diện
tham gia tố tụng, cử đại diện ngoài tố tụng cho 452 ngƣời đƣợc Trợ giúp pháp lý là
70
nữ giới. Các lĩnh vực pháp luật đƣợc tƣ vấn chủ yếu là chế độ chính sách của Đảng,
Nhà nƣớc có liên quan đến Luật Đất đai, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Dân sự, Luật
Phòng chống bạo lực gia đình, các vấn đề, câu chuyện pháp luật đƣợc chị em phụ
nữ quan tâm [30].
Năm 2016, tại tỉnh Ninh Bình, Trung tâm TGPL tỉnh đã phối hợp với Hội
Phụ nữ tỉnh, Hội phụ nữ và Phòng Tƣ pháp các huyện, thành phố, UBND các xã,
phƣờng, thị trấn trong tỉnh tổ chức truyền thông, tƣ vấn pháp luật cho hội viên Hội
phụ nữ và nhân dân tại 28 xã, phƣờng, thị trấn, thực hiện tƣ vấn pháp luật mi n phí
cho 382 trƣờng hợp với 385 vụ việc chủ yếu thuộc các lĩnh vực pháp luật nhƣ: dân
sự, đất đai, hôn nhân gia đình, ƣu đãi chính sách, hành chính và lĩnh vực pháp luật khác. Hoạt động TGPL đã góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành
pháp luật cho phụ nữ nông thôn địa bàn tỉnh đảm bảo đƣợc quyền và lợi ích của
ngƣời phụ nữ, đồng thời c ng tạo điều kiện tiền đề trong việc phụ nữ sẽ chủ động
tiếp cận, đến với các trung tâm TGPL nhiều hơn để đƣợc giải đáp vƣớng mắc thông
qua tƣ vấn pháp luật tại cơ sở và tại trụ sở Trung tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho mình [31].
Ngày 19/3/2018, Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Yên D ng tỉnh Bắc Giang đã
Thực hiện Chƣơng trình phối hợp số 01/CTPH-PTP-HLHPN, ngày 01/01/2018 giữa
Hội liên hiệp Phụ nữ huyện với Phòng Tƣ pháp huyện về việc thực hiện công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải
ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2017-2022, tiến hành
TGPL cho 70 chị em phụ nữ tại xã Nham Sơn trực thuộc huyện và trực tiếp tƣ vấn
pháp luật và trợ giúp pháp lý về các vấn đề mà hội viên phụ nữ quan tâm nhƣ: vấn
đề về định giá và đấu giá đất đai, quyền sở hữu bìa đỏ, phân chia tài sản sau ly hôn.
Kết quả sau buổi thực hiện TGPL và tuyên truyền pháp luật đã góp phần nâng cao
nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ tham
gia quản lý nhà nƣớc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phƣơng [32]
Ngày 17/4/2018, Hội liên hiệp Phụ nữ huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang phối
hợp với Hội phụ nữ tỉnh tổ chức tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý cho 200
71
cán bộ, hội viên phụ nữ tại xã Đông Sơn, Hƣơng Vỹ. Tƣ vấn viên pháp luật tổ chức
tƣ vấn, trợ giúp pháp lý mi n phí cho cán bộ, hội viên phụ nữ những nội dung chủ
yếu liên quan đất đai và các kiến nghị khác mà phụ nữ xã có nhu cầu [34].
Các kết quả hoạt động trên tuy chỉ là chính sách của t ng tỉnh, địa phƣơng
xin t ngân sách Nhà nƣớc nhƣng cho thấy,hoạt động TGPL những năm gần đây có
dấu hiệu tích cực trong việc nhận thức tầm quan trọng của TGPL cho phụ nữ nông
thôn. Ngày nay, phụ nữ nông thôn đã biết vận dụng một cách sáng tạo để phát triển
quyền theo hƣớng tích cực xây dựng mô hình phát triển kinh tế ở nông thôn nhƣ:
mô hình nông trại, trồng cây công nghiệp lâu năm, xuất nhập khẩu hoa quả ra về các
tỉnh thành trong cả nƣớc mang lại thu nhập ổn định kinh tế. Đời sống của ngƣời phụ
nữ nông thôn và gia đình của họ đƣợc cải thiện, thoát ly khỏi nghèo đói, khó khăn.
Hoạt động TGPL mi n phí cho phụ nữ nông thôn nhƣ một bàn đạp thúc đẩy nhận
thức pháp luật cho phụ nữ và c ng là chính sách khuyến khích của chính quyền địa
phƣơng đến với phụ nữ nông thôn.
2.2.2. Những cản trở, khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn
Hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn đang đƣợc các cơ quan chức năng
của địa phƣơng đẩy mạnh triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện
đã bộc lộ vƣớng mắc, nguyên nhân cần đƣợc quan tâm tháo gỡ kịp thời.
Nhận thức của người phụ nữ nông thôn trong việc tham gia TGPL
Bản thân phụ nữ ở nông thôn chƣa đủ kiến thức, kinh nghiệm, sự tự tin và
bản lĩnh để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của bản thân. Khi quyền
lợi bị xâm phạm, ngƣời phụ nữ chỉ biết im lặng và không chủ động tìm đến các cơ
sở TGPL.
Do cùng lúc phải đóng nhiều vai trò, nhất là vai trò thay thế nam giới hầu
nhƣ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội nông thôn nên d n đến một số
hậu quả sau: Lao động quá sức, không có thời gian nghỉ ngơi để phục hồi sức lao
động đang ảnh hƣởng trầm trọng đến sức khỏe, đời sống các gia đình nông thôn còn
nghèo, phụ nữ thƣờng là ngƣời phải hy sinh bản thân mình trong sự nghèo khổ đó,
họ không có điều kiện học tập, giao lƣu, thụ hƣởng các giá trị văn hóa tinh thần, vì
72
vậy trình độ văn hóa vốn đã thấp lại không có điều kiện bổ sung, nâng cao, sự hiểu
biết xã hội hạn chế, lạc hậu.
Phụ nữ nông thôn v n còn bảo thủ trong việc tham gia đăng ký TGPL, sự tồn
tại của những tập tục khuôn m u c , tác động đến việc phụ nữ nông thôn không
muốn đƣợc hỗ trợ TGPL, họ mặc cảm về trình độ học vấn, về cuộc sống và về kinh
tế. Đặc biệt, phụ nữ nông thôn vùng sâu, vùng xa không có điều kiện đƣợc tiếp xúc
với bất kỳ loại thông tin nào liên quan đến TGPL, và TGPL v n là khái niệm khá
mới mẻ đối với họ. Phụ nữ nông thôn v n chƣa hiểu hết đƣợc quyền của mình khi
đƣợc TGPL, mang tâm lý mặc cảm về kiến thức và ngại học tập. Phần lớn họ t
chối các dịch vụ TGPL và cho rằng không cần thiết, nhƣng khi quyền lợi của họ bị
xâm phạm, phụ nữ nông thôn sẽ rất d bị xao động và vô tình vi phạm những quy
định của pháp luật. Kinh tế ở vùng nông thôn gặp nhiều khó khăn, quyền lợi bị xâm
phạm khiến phụ nữ nông thôn sẽ có những suy nghĩ tiêu cực, không phấn đấu để
vƣợt qua thậm chí rất d bị kẻ xấu lợi dụng, mất niềm tin vào chính quyền gây ảnh
hƣởng cho các Trung tâm, tổ chức tiếp cận trở nên khó khăn về hoạt động TGPL
cho phụ nữ nông thôn
Đảng và Nhà nƣớc cần xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan,
tổ chức, các ngành, các cấp trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện
TGPL cho phụ nữ nông thôn. Đặc biệt, cần tăng cƣờng phối hợp chặt chẽ, thƣờng
xuyên giữa ngành tƣ pháp, tổ chức thực hiện TGPL, Hội phụ nữ các cấp để thực
hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn, cụ thể: tổ chức các hoạt động phối hợp khảo sát
nhu cầu trợ giúp pháp lý của phụ nữ ở nông thôn; phối hợp mở các lớp tập huấn phổ
biến, giáo dục pháp luật, bình đẳng giới cho phụ nữ; các trung tâm, tổ chức TGPL
phối hợp với chính quyền địa phƣơng thực hiện trợ giúp pháp lý lƣu động tại cơ sở,
song song hoạt động TGPL, Hội Phụ nữ địa phƣơng là ngƣời tổ chức, vận động chị
em tham gia đầy đủ, tích cực, để họ có cơ hội chia sẻ những những khó khăn,
vƣớng mắc và đƣợc hƣởng quyền đƣợc TGPL một cách tối đa.
Nhận thức về hoạt động TGPL của một số cơ quan, ban, ngành còn chưa đầy
đủ và thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả TGPL
Việc quán triệt quan điểm của Đảng về hoạt động TGPL và nhận thức của
73
các chủ thể về vị trí, vai trò, của phụ nữ ở nông thôn; về công tác phụ nữ; về vấn đề
bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến giới còn tồn tại
trong nhân dân và cả trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý. Định hƣớng lãnh
đạo, chỉ đạo, phƣơng pháp vận động phụ nữ còn thiếu cụ thể, chƣa sát hợp với t ng
đối tƣợng, khu vực, vùng miền; thiếu quyết liệt trong chỉ đạo thực hiện hoặc chỉ đạo
triển khai còn mang tính hình thức nghiêng về tuyên truyền hô hào vận động thay vì
hoạt động thiết thực. Chất lƣợng đội ng cán bộ làm công tác TGPL, giáo dục pháp
luật đến phụ nữ nông thôn chƣa cao. Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, địa
phƣơng, đơn vị trong triển khai thực hiện bình đẳng giới chƣa chặt chẽ và chủ động.
Hoạt động TGPL chƣa phát huy hết vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong
bảo vệ quyền của phụ nữ ở nông thôn, cá biệt có cơ quan, tổ chức v n coi TGPL là
nhiệm vụ của riêng ngành Tƣ pháp.
Sự quan tâm và nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo địa phƣơng vùng nông
thôn đối với công tác hỗ trợ TGPL phụ nữ nông thôn còn ở mức độ chung chung,
điển hình nhƣ việc thực hiện chế độ báo cáo và thống kê thực hiện các mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới, hôn nhân gia đình... ở một số bộ ngành và nhiều địa
phƣơng chƣa nghiêm túc, làm ảnh hƣởng đến công tác thống kê số liệu toàn quốc.
Bộ máy thực hiện công tác bình đẳng giới còn hạn chế về số lƣợng và chất lƣợng
ảnh hƣởng đến ngân sách thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn
Nhiều ngƣời dân và cơ quan, tổ chức địa phƣơng vùng sâu, vùng xa v n
chƣa biết đến Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam tại địa chỉ
(www.trogiupphaply.gov.vn), c ng nhƣ chƣa có phƣơng tiện để tiếp cận, khai thác
và sử dụng Trang thông tin này đặc biệt khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng có điều kiện đi lại khó khăn.
Trong quá trình thực hiện TGPL, cơ quan chính quyền tại địa phƣơng chƣa
thật sự hợp tác, nhiệt tình trong việc thực hiện TGPL. Chính quyền địa phƣơng nắm
bắt rất rõ tình hình trị an trong khu vực quản lý, khi có sự việc phát sinh họ thƣờng
tự giải quyết mà không đƣa ra lời khuyên cho phụ nữ địa phƣơng nên tìm đến các tổ
chức, trung tâm TGPL.. Mặc dù, tổ chức Luật sƣ làm rất tốt vì họ có năng lực
74
chuyên môn, kinh nghiệm cao, tiếp nhận nhiều vụ việc về hoạt động TGPL. Phần
nhiều sẽ ảnh hƣởng đến lợi ích của một số chủ thể chính quyền địa phƣơng, lo sợ
quyền quản lý mất đi vì Bộ máy Nhà nƣớc hiện nay đang cố gắng giảm bớt, tinh
giản biên chế bớt cồng kềnh, rƣờm rà. Nên các vụ việc khi giải quyết mang nhiều
hƣớng cảm tính. Cơ quan chức năng thƣờng là những chủ thể nhận đƣợc tin tức đầu
tiên, không có sự hỗ trợ hợp tác hay thông báo đến các trung tâm TGPL mà thƣờng
đứng ra “tự xử lý” gây khó khăn cho việc trung tâm TGPL không nắm đƣợc tình
hình thực tế của phụ nữ nông thôn để có đề án hỗ trợ kịp thời. Hoặc do địa điểm
trung tâm TGPL quá xa, 1 trung tâm TGPL hoạt động trên 1 địa phƣơng quá lớn (1
huyện thƣờng có 30-50 xã chỉ có 1 trung tâm TGPL) với khu vực xảy ra vụ việc,
khi xảy ra rồi thì sự việc đã qua, phụ nữ nông thôn không muốn trợ giúp hay trình
báo thêm phần vì bị mặc cảm tâm lý chi phối. Điều đó cho thấy, sự thiếu quan tâm,
quản lý lỏng lẻo của các ban ngành chính quyền không có sự gắn kết giữa trung tâm
TGPL và cơ quan ban ngành tại địa phƣơng. Bên cạnh đó, phụ nữ nông thôn chƣa
chủ động tiếp cận đến các dịch vụ hỗ trợ TGPL vì luôn có quan niệm sai lầm về
việc cứ đến các trung tâm TGPL sẽ bị mất phí. Hay khi phụ nữ nông thôn đến
Trung tâm TGPL xin hỗ trợ, họ gặp phải nhiều vấn đề về thủ tục, quy trình rắc rối
vì không có điều luật quy định về phụ nữ nông thôn trong diện đƣợc TGPL cho nên
phải áp dụng nhiều bộ luật chồng chéo và bất cập
Về quy định pháp luật
Nhƣ đã nêu ở mục 2.1.2 “Thực trạng các quy định TGPL và thực hiện TGPL
cho phụ nữ nông thôn hiện nay” mà tác giả luận văn phân tích. Một số văn bản luật
chƣa đƣợc sửa đổi, bổ sung kịp thời bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống
pháp luật. Một số văn bản hƣớng d n thi hành Luật còn chậm đƣợc ban hành (văn
bản hƣớng d n TGPL cho một số đối tƣợng đặc thù trong đó phụ nữ nông thôn là
điển hình, chính sách phúc lợi tốt đối với ngƣời thực hiện TGPL để khuyến khích
chủ thể tham gia TGPL) chƣa thu hút đƣợc các cá nhân, tổ chức xã hội tham gia
hoạt động TGPL
Việc lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức và còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Pháp luật hiện hành
75
chƣa có nhiều quy định đặc thù để đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn. Quy
định pháp luật về quyền của phụ nữ nói chung, phụ nữ ở nông thôn nói riêng chƣa
thực sự phù hợp, thiếu tính cụ thể, bộc lộ nhiều hạn chế. Các quy định về cơ cấu, tổ
chức bộ máy của các cơ quan làm công tác phụ nữ còn nhiều bất cập.
Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL ở một số địa phương chưa được củng cố,
kiện toàn theo quy hoạch, chưa đáp ứng yêu cầu TGPL của phụ nữ vùng nông thôn
Ở một số địa phƣơng, mạng lƣới tổ chức thực hiện TGPL chƣa đƣợc củng
cố, đội ng ngƣời thực hiện TGPL chƣa đƣợc tăng cƣờng tƣơng xứng với yêu cầu
TGPL của phụ nữ nông thôn. Nhiều khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa chƣa
thành lập đƣợc Chi nhánh TGPL vì lý do kinh phí, chƣa tuyển đƣợc ngƣời thực hiện
TGPL. Các Câu lạc bộ thành lập với mục đích tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến
với ngƣời dân nói riêng và phụ nữ nói chung nhƣng nhìn chung chất lƣợng hoạt
động chƣa cao, quỹ câu lạc bộ gần nhƣ không có, ban chủ nhiệm Câu lạc bộ chƣa
thực sự tâm huyết với hoạt động TGPL. Bên cạnh đó, khu vực địa bàn thôn trong
khu vực cấp xã thành lập quá nhiều Câu lạc bộ giải trí: Câu lạc bộ quan họ, Câu lạc
bộ khiêu v , Câu lạc bộ kịch hội, Câu lạc bộ đàn ca sáo nhị...thu hút nhiều ngƣời
dân tham gia vì mang tính chất giải trí tinh thần. Câu lạc bộ về TGPL nội dung chƣa
thực sự phong phú, sự đầu tƣ về chất lƣợng còn ít, không thu hút đƣợc nhiều phụ nữ
nông thôn và các đối tƣợng khác tham gia. Chính quyền địa phƣơng, thôn xóm chƣa
thực sự quan tâm, hỗ trợ công tác tuyên truyền hoạt động Câu lạc bộ TGPL, có quá
nhiều Câu lạc bộ khiến việc ngƣời tham gia có nhiều sự lựa chọn, thay vì việc lựa
chọn Câu lạc bộ pháp luật khô khan thì ngƣời dân sẽ lựa chọn Câu lạc bộ mang tính
chất giải tỏa tinh thần hơn. Ở một số nơi, Ủy ban nhân dân còn e ngại với hoạt động
triển khai Câu lạc bộ TGPL vì phải đối thoại trực tiếp với ngƣời dân về những vấn
đề đang trọng thời gian chờ thụ lý giải quyết. Điều kiện đi lại khó khăn do đƣờng xá
xa xôi, công tác quá nhiều nên Trung tâm đôi khi không hỗ trợ tham dự đầy đủ các
buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ. Đời sống kinh tế của ngƣời dân tại địa phƣơng còn
rất nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, vì vậy ý thức của họ về pháp luật còn rất
kém, đa số ngƣời dân không quan tâm đến việc tìm hiểu pháp luật.
76
Mặc dù địa phƣơng đã triển khai, vận động khuyến khích các tổ chức hành nghề
luật sƣ, các Trung tâm tƣ vấn pháp luật thuộc các tổ chức đoàn thể xã hội, nhƣng số
lƣợng ngƣời tham gia TGPL trong các tổ chức này còn hạn chế, số lƣợng vụ việc thực
hiện TGPL chƣa cao, chủ yếu chỉ tập trung ở những vụ việc pháp luật đơn giản và các
đợt tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật đến với nhân dân.
Đội ngũ người thực hiện TGPL hiện nay còn thiếu về số lượng, thù lao của
Luật sư không xứng đáng với công sức
Các Chi nhánh trung tâm TGPL hiện nay chƣa bố trí đủ nguồn nhân lực
trong việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn và ngƣời dân trong địa phƣơng.
Số lƣợng Trợ giúp viên pháp lý đăng ký tham gia thực hiện TGPL còn thiếu gây
khó khăn trong việc đào tạo, bồi dƣỡng nguồn cán bộ chuyên trách TGPL. Mặc dù
hàng năm Bộ Tƣ pháp đều tích cực chủ động mở các lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ
TGPL nâng cao chất lƣợng Trợ giúp viên pháp lý nhƣng ở địa phƣơng không có
ngƣời đủ tiêu chuẩn để tham gia, đây c ng là khó khăn không nhỏ mà Bộ Tƣ pháp
và địa phƣơng cần phải có biện pháp khắc phục nhanh chóng. Vì mục tiêu phát triển
Nông thôn mới, đây c ng là kế hoạch và nhiệm vụ lâu dài mà chính quyền địa
phƣơng cần có phƣơng án triển khai phù hợp với sự phát triển của kinh tế đất nƣớc
trong những năm tới.
Số lƣợng luật sƣ tham gia làm cộng tác viên chiếm tỷ lệ nhỏ, các vụ việc
tham gia tố tụng chủ yếu do Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm thực hiện. Kinh
phí nhà nƣớc ở địa phƣơng dành cho công tác TGPL còn nhiều hạn chế. Thù lao chi
trả cho Luật sƣ khi giải quyết vụ việc không phù hợp với mong muốn của Luật sƣ,
không xứng đáng công sức của Luật sƣ gây ảnh hƣởng đến chất lƣợng công việc.
Chính sách chƣa tốt d kéo theo hệ lụy Luật sƣ sẽ ng ng cộng tác với Nhà nƣớc
trong hoạt động TGPL mà hiện nay tỷ lệ đội ng Luật sƣ tham gia vào công tác
TGPL trong cả nƣớc rất thấp, thậm chí một số vùng địa phƣơng vùng sâu vùng xa
thiếu Luật sƣ trầm trọng.
2.2.3. Những bất cập và thách thức trong hoạt động TGPL còn tồn tại
Ngoài những cản trở và khó khăn trong hoạt động TGPL cho phụ nữ nông
thôn, hoạt động TGPL còn gặp những bất cập và thách thức sau:
77
Thứ nhất, nhận thức về vị trí, vai trò và yêu cầu TGPL trong giai đoạn hiện
nay của một số lãnh đạo Sở Tƣ pháp, lãnh đạo Trung tâm và viên chức Trung tâm
TGPL nhà nƣớc, cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có liên quan còn chƣa đầy
đủ, chƣa đáp ứng yêu cầu về công tác TGPL đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển
xã hội văn minh. Một số cán bộ chƣa chủ động tham gia các lớp tập huấn, huấn
luyện về hoạt động TGPL để rèn luyện, nâng cao kinh nghiệm trong công tác
TGPL, v n còn mang theo lối tƣ duy c , chƣa khách quan về kinh phí cho hoạt
động TGPL, chỉ thực hiện theo hình thức đủ và chƣa có sự sáng tạo trong hoạt động
TGPL trong khi nhu cầu cần đƣợc hỗ trợ pháp lý của ngƣời dân ngày càng tăng lên,
một số trƣờng hợp v n để bỏ lọt đối tƣợng đƣợc TGPL.
Thứ hai, hoạt động TGPL lƣu động mang tính hình thức, chƣa chú trọng đến
chất lƣợng, không thực hiện nhiều vụ việc mà chủ yếu tuyên truyền, phổ biến về các
lĩnh vực pháp luật hoặc phổ biến các văn bản pháp luật mới
Việc TGPL lƣu động còn mang tính phân bổ dàn trải nhƣ huyện nào c ng có
vài xã đƣợc TGPL lƣu động hàng năm, dựa trên kinh phí đã đƣợc cấp, chƣa thực sự
quan tâm đến yếu tố là có nhu cầu hay không, bao nhiêu, lĩnh vực pháp luật nào,
nên sự chuẩn bị chƣa đƣợc chu đáo, chƣa sát với yêu cầu của đối tƣợng đăng ký
tham gia nhận TGPL và khi lập hồ sơ của đối tƣợng trong đợt TGPL lƣu động c ng
chƣa đƣợc chặt chẽ, chính xác, nên nhiều đơn yêu cầu TGPL không thể hiện tài liệu
chứng minh mình là đối tƣợng, nhƣng v n lƣu hồ sơ, v n tính là vụ việc TGPL gây
ảnh hƣởng trong việc làm báo cáo không chính xã và gây ảnh hƣởng lãng phí về
kinh phí thực hiện TGPL. Việc thông báo đến tham gia TGPL lƣu động cho ngƣời
dân phải nhờ đến Ủy ban nhân dân xã nới đƣợc TGPL, nên xã nhiệt tình thì có
thông báo, xã không nhiệt tình thì không thông báo hoặc thông báo hạn chế nên
ngƣời dân không thể biết để đến dự đƣợc [25, tr. 17 - 19].
Thứ ba, nhiều Câu lạc bộ TGPL thành lập ở cơ sở chủ yếu mang tính hình
thức, nội dung sinh hoạt chƣa thực sự phong phú, thảo luận trao đổi về pháp luật
con chung chung, chƣa đi đúng trọng tâm về vấn đề cần TGPL cho phụ nữ ở nông
thôn, hoạt động của Câu lạc bộ không có ngƣời thực hiện TGPL để tƣ vấn, hƣớng
d n cách giải quyết vụ việc và áp dụng các điều luật.
78
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL nội dung truyền thông chỉ đƣa
ra các hoạt động TGPL đối với nhóm ngƣời đƣợc quy định trong Điều 7 của Luật
TGPL. Ở vùng nông thôn Việt Nam, phụ nữ nông thôn là đối tƣợng cần đƣợc TGPL,
cần đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, vì họ là lực lƣợng lao động quan trọng và chủ
chốt trong sản xuất nông nghiệp. Phụ nữ nông thôn đã và đang góp phần quan trọng
vào tăng trƣởng kinh tế và phát triển xã hội của Việt Nam, nhƣng đến nay, các quy
định pháp luật còn bỏ ngỏ, chƣa đảm bảo hết quyền và lợi ích cho phụ nữ nông thôn,
các quy định chỉ d ng lại ở việc: hôn nhân gia đình, chống bạo lực gia đình và xâm
hại tình dục, chống nạn buôn bán ngƣời trái phép và chống bất bình đẳng giới. Ngoài
những vấn đề trên, Nhà nƣớc chƣa thiết lập đƣợc các cơ chế, chính sách đặc thù đảm
bảo các quyền kinh tế của phụ nữ ở nông thôn; trong nhiều chính sách, chƣơng trình,
mục tiêu về phát triển kinh tế vùng nông thôn chƣa chú trọng nhiều đến vấn đề giới;
chƣa có các biện pháp hữu hiệu để đảm bảo rằng phụ nữ ở nông thôn đƣợc tham gia
vào các công việc có trả lƣơng, hoặc có quyền tiếp cận với những việc làm trong khu
vực lao động chính thức và chỉ d ng lại ở việc đƣa ra các sự kiện, chƣa phản ánh sinh
động hoạt động của công tác nên chƣa thực sự thu hút.
Thứ tƣ, hệ thống tổ chức thực hiện TGPL chƣa phù hợp, d n đến hiệu quả
hoạt động chƣa cao so với những yêu cầu thực ti n. Tổ chức bộ máy TGPL hiện
đang áp dụng chung mô hình trên toàn quốc mà chƣa tính đến đặc thù t ng vùng,
miền nên một số địa phƣơng khi triển khai hoạt động công tác TGPL đến ngƣời dân
còn gặp nhiều hạn chế, năng suất công việc không cao. Điều kiện về cơ sở vật chất
chƣa bảo đảm gây khó khăn cho trợ giúp viên pháp lý khi thực hiện TGPL phụ
thuộc vào kinh phí hoạt động. Việc đầu tƣ về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động
TGPL ở một số địa phƣơng còn gặp nhiều bất cập. Mặc dù, Trung tâm là đơn vị sự
nghiệp công lập không có thu, thực hiện nhiều nhiệm vụ TGPL đặc thù nhƣng mức
cấp cho Trung tâm v n khoán theo chỉ tiêu biên chế, kinh phí cho TGPL trên thực tế
còn rất thấp. Địa điểm tiếp công dân ở một số Trung tâm còn chật hẹp, chƣa thuận
tiện cho dân, các cơ sở vật chất đƣợc các Dự án đầu tƣ đã hƣ hỏng, xuống cấp
nhiều. Phòng tiếp đón đối tƣợng TGPL là phụ nữ và trẻ em nông thôn không có
79
phòng riêng, những vấn đề nhạy cảm khi phụ nữ nông thôn cần TGPL nhƣng muốn
trợ giúp viên giữ bí mật để không ảnh hƣởng đến cuộc sống hàng ngày.
Thứ năm, việc huy động nguồn lực tham gia TGPL gặp nhiều khó khăn, mặc
dù đƣợc sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc trong việc đƣa ra các chính sách tuyển
dụng, khuyến khích hỗ trợ Nhà nƣớc TGPL đến vùng nông thôn, nhƣng số lƣợng
chủ thể tham gia còn ít, sự phân bố đội ng luật sƣ không đồng đều, đa số các luật
sƣ có kinh nghiệm đều muốn công tác tại thành phố lớn nhƣ: Hà Nội, Hồ Chí
Minh... Ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa chủ yếu luật sƣ còn khá trẻ, mới
hành nghề, mặc dù kiến thức pháp luật rất tốt nhƣng hạn chế lớn về kỹ năng và
thiếu kinh nghiệm thực nghiệm TGPL, chất lƣợng vụ việc chƣa đáp ứng đƣợc yêu
cầu. Và để giải quyết vụ việc mang tính chất phức tạp, thì phải đợi đội ng luật sƣ
nhiều kinh nghiệm có đợt công tác tại địa phƣơng, vụ việc kéo dài lâu và mất nhiều
thời gian. Chủ thể thực hiện TGPL v n còn lúng túng, gặp nhiều khó khăn trong
thực hiện chƣơng trình, tra cứu văn bản, tham gia xây dựng, giám sát c ng nhƣ
phản biện xã hội. Việc TGPL mi n phí cho phụ nữ bằng hình thức tham gia tố tụng,
đại diện ngoài tố tụng còn thấp so với nhu cầu thực tế.
Do vậy, để tiếp tục đƣa các quy định của Luật TGPL và các văn bản quy
định chi tiết, hƣớng d n thi hành vào cuộc sống phụ nữ nông thôn cần tiếp tục đẩy
mạnh các hoạt động sau:
+ Tiếp tục tăng cƣờng công tác quán triệt Lãnh đạo các sở, ban, ngành ở địa
phƣơng để có nhận thức đúng và đầy đủ về chính sách TGPL của Nhà nƣớc;
+ Tiếp tục tăng cƣờng công tác truyền thông về TGPL, thực hiện ứng dụng
mạnh mẽ công nghệ thông tin trong toàn hệ thống tổ chức TGPL. Đa dạng các hình
thức, phƣơng thức truyền thông về TGPL để nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ
chức trong xã hội về vị trí, vai trò của hoạt động TGPL, trƣớc hết là những ngƣời
làm công tác quản lý, thực hiện và phối hợp trong công tác này; quyết liệt trong việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và giải quyết công
việc chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Tiếp tục tăng cƣờng tập huấn nâng cao năng lực cho đội ng ngƣời thực
80
hiện TGPL, tăng cƣờng công tác kiểm tra, kết nối với các cơ quan quản lý, tổ chức
thực hiện TGPL tại địa phƣơng; nắm bắt, theo dõi việc triển khai Luật TGPL và các
văn bản pháp luật về TGPL, kịp thời hƣớng d n, tháo gỡ khó khăn, vƣớng mắc cho
các địa phƣơng;
+ Tiếp tục tập trung nguồn lực tổ chức triển khai thi hành Luật TGPL và các
văn bản hƣớng d n thi hành bảo đảm kịp thời, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả trên
phạm vi cả nƣớc;
+ Nâng cao số lƣợng c ng nhƣ chất lƣợng dịch vụ TGPL, đặc biệt là các vụ
việc tham gia tố tụng; nâng cao năng lực cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL, hạn
chế bỏ lọt đối tƣợng đƣợc TGPL, tăng số lƣợng các vụ án có Luật sƣ và Trợ giúp
viên pháp lý tham gia;
+ Tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, thực hiện kiểm tra và đánh giá chất
lƣợng đối với công tác TGPL tại các địa phƣơng để tiếp tục tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về công tác TGPL; tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các Bộ, ngành,
địa phƣơng, các tổ chức có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác TGPL,
nhất là công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng....
Khi xảy ra các vấn đề liên quan đến tranh chấp pháp lý, Trung tâm TGPL rất
bị động, chỉ nhận đƣợc thông tin vụ việc khi có ngƣời đến báo mà hoàn toàn không
có kênh thông tin để tìm hiểu những vấn đề xảy ra trên địa bàn để thực hiện TGPL.
Đa số Trung tâm TGPL cần phải dựa vào sự hỗ trợ t các bộ và ban ngành ở địa
phƣơng hợp tác đƣa ra số liệu, thông tin chi tiết để thực hiện TGPL.
2.3. Đánh giá chung về việc thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn
2.3.1. Kết quả triển khai hoạt động TGPL
Có thể nói, chế độ, chính sách cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL đã đƣợc
quan tâm. Công tác TGPL bƣớc đầu đi vào chiều sâu, thực chất, bảo đảm quyền lợi
tốt nhất cho các đối tƣợng yếu thế phụ nữ nông thôn trong các vụ án hình sự, dân
sự... đƣợc ngƣời dân tin tƣởng, ủng hộ. Hầu hết các địa phƣơng đã thể hiện sự nhất
trí, đồng tình cao đối với chính sách TGPL hiện hành. Kết quả cụ thể nhƣ sau:
Về xây dựng văn bản: Bám sát nội dung của Luật TGPL năm 2017 và Nghị
81
định số 144/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số
điều của Luật TGPL, trong năm 2018, liên ngành, Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp ký ban
hành 04 văn bản quy phạm pháp luật (01 Thông tƣ liên tịch; 03 Thông tƣ của Bộ
trƣởng Bộ Tƣ pháp), đặc biệt là việc phối hợp ban hành Thông tƣ liên tịch số
10/2018/TTLT/BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29/6/2018 đã tạo
bƣớc đột phá trong công tác phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng. Tất cả các
vụ việc TGPL không phụ thuộc vào việc có yêu cầu TGPL hay không đều đƣợc các
cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến Trung tâm TGPL nhà nƣớc. Thông tƣ liên
tịch số 10 sẽ hạn chế bỏ lọt đối tƣợng, đƣa Luật TGPL năm 2017 vào cuộc sống,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc TGPL.
Bộ Tƣ pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát các văn
bản quy phạm pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động TGPL và trình Thủ
tƣớng Chính phủ Báo cáo kết quả rà soát các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm
phù hợp với quy định của Luật TGPL năm 2017 (Báo cáo số 118/BC-BTP ngày
24/5/2018) và Văn phòng Chính phủ đã có Thông báo số 11281/VPCP-TLPL ngày
20/11/2018 thông báo ý kiến của Phó Thủ tƣớng Chính phủ Trƣơng Hòa Bình về việc
rà soát văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm phù hợp với Luật TGPL năm 2017.
- Kết quả triển khai Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết,
hƣớng d n thi hành tại các địa phƣơng
+ Đến nay, 63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ƣơng đã ban hành Kế hoạch
triển khai thi hành Luật và tổ chức Hội nghị triển khai Luật TGPL năm 2017, cụ thể:
Các địa phƣơng đã và đang thực hiện rà soát và đánh giá hiệu quả hoạt động
của các Chi nhánh; rà soát tổ chức tham gia TGPL và ngƣời tham gia TGPL, rà soát
ngƣời đƣợc TGPL. Đồng thời, cơ quan thực hiện quản lý TGPL ở trung ƣơng c ng
đã thông qua nhiều kênh nhằm nắm bắt, giải đáp kịp thời những vƣớng mắc của địa
phƣơng trong việc triển khai Luật, các văn bản quy định chi tiết và hƣớng d n thi
hành nhƣ tổ chức các hội nghị triển khai văn bản mới, các lớp tập huấn tăng cƣờng
năng lực, văn bản trả lời kiến nghị, hƣớng d n nghiệp vụ TGPL.
Ngày 10/1/2013, Bộ Tƣ pháp và Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
82
đã ban hành Chƣơng trình phối hợp số 14/CTPH-BTP-HLHPNVN về việc đẩy
mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho
phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2013- 2017
đánh dấu bƣớc ngoặt lớn trong hoạt động TGPL, giáo dục pháp luật đến với toàn
thể phụ nữ Việt nam nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng, sau gần 5 năm
thực hiện chƣơng trình phối hợp đã đạt một số kết quả tiêu biểu trong việc TGPL,
giáo dục pháp luật đến với phụ nữ khu vực vùng nông thôn nhƣ sau:
Về hoạt động TGPL
Sở Tƣ pháp và Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã quan tâm, chủ động tiếp cận, xử
lý các thông tin liên quan đến ngƣời đƣợc TGPL là phụ nữ để kịp thời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ nông thôn.
Trong chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao, các Trung tâm TGPL đã phối hợp với
Hội liên hiệp phụ nữ các cấp triển khai việc khảo sát nhu cầu TGPL nhằm xác định
những lĩnh vực pháp luật nào ngƣời dân có nhiều vƣớng mắc để tập trung giải
quyết, thực hiện chƣơng trình lồng ghép nội dung bình đẳng giới; phòng, chống
buôn bán ngƣời; phòng, chống bạo lực gia đình; phòng, chống nạn xâm hại tình dục
trong các hoạt động truyền thông TGPL hoặc thông qua các đợt TGPL lƣu động
hoặc tiếp cận trực tiếp với phụ nữ nông thôn để tƣ vấn, giới thiệu phụ nữ đến với
các tổ chức, trung tâm TGPL để nhận đƣợc hỗ trợ pháp lý mi n phí.
Kết quả hoạt động TGPL cho phụ nữ t năm 2013- 2016 [3, tr.7]:
Tỷ lệ % Năm Số phụ nữ đƣợc TGPL Tổng số ngƣời đƣợc TGPL
63.492 130.808 48.54% 2013
60.809 130.224 46.70% 2014
65.567 142.660 45.9% 2015
45.923 96.963 47.36% 2016
Sau thành công của chƣơng trình phối hợp mang lại kết quả đáng trân trọng,
ngày 05/01/2018, Bộ Tƣ pháp và Trung ƣơng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiếp
83
tục ban hành Chƣơng trình phối hợp số 60/CTPH-BTP-HLHPNVN về thực hiện
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ;
hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật giai đoạn 2018-2022.
Đây là một trong những chƣơng trình phối hợp có sức tác động lớn đến phụ nữ ở
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, bảo đảm quyền đƣợc thông tin về pháp luật của
phụ nữ, kịp thời hòa giải mâu thu n, tranh chấp, vi phạm pháp luật tại cộng đồng
dân cƣ, thúc đẩy việc thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cán bộ, hội
viên phụ nữ. Phát huy đầy đủ vai trò, nâng cao trách nhiệm của ngành Tƣ pháp và
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, trợ giúp pháp lý, tƣ vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải ở cơ sở và lồng ghép
giới trong xây dựng pháp luật.
- Công tác truyền thông về TGPL đƣợc triển khai đồng bộ trên các phƣơng
tiện thông tin đại chúng, cụ thể: Thƣờng xuyên duy trì, vận hành Trang thông tin
điện tử của Cục TGPL; thực hiện các cuộc phỏng vấn chuyên sâu về TGPL; phóng
sự về việc thực hiện TGPL cho ngƣời đƣợc TGPL; Biên soạn và tổ chức in ấn,
phát hành 04 tờ gấp pháp luật giới thiệu về hoạt động TGPL và 01 cuốn sách:
“Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hƣớng d n thi hành (tập 1)”; viết bài và
đăng các tạp chí, báo viết về các quy định Luật TGPL và các văn bản quy định chi
tiết, hƣớng d n thi hành. Ở địa phƣơng, có sự tăng cƣờng phối hợp với các Đài
truyền hình, đài phát thanh, báo viết, trang thông tin điện tử để tích cực truyền
thông về công tác TGPL. Đến nay, hoạt động truyền thông về TGPL ngày một
nâng cao và đổi mới, các vùng nông thôn luôn đƣợc tiếp cận thông tin về TGPL
một cách kịp thời, nhanh chóng và chính xác. Hình thành thói quen cho ngƣời dân
việc tham gia các hoạt động TGPL, lắng nghe thông tin TGPL t loa đài, góp phần
xây dựng, phát triển văn hóa pháp luật trong các thôn xóm ở vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa và biên giới hải đảo.
- Tiếp tục nâng cao chất lƣợng tham gia tố tụng cho đội ng ngƣời thực hiện
TGPL, ở Trung ƣơng và địa phƣơng đã tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng TGPL
trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính; kỹ năng TGPL cho ngƣời
84
khuyết tật có khó khăn về tài chính; kỹ năng TGPL cho nạn nhân bạo lực phụ nữ,
nạn nhân buôn bán ngƣời trái phép, phụ nữ vùng nông thôn và trẻ em gái độ tuổi
dƣới 18 tuổi. Với nội dung tập huấn thiết thực, bổ ích do đội ng giảng viên giàu
kinh nghiệm giảng dạy đến t các trƣờng đại học chuyên ngành Luật của cả nƣớc,
các lớp tập huấn luôn nhận đƣợc những phản hồi tích cực t phía đội ng ngƣời
thực hiện TGPL ở địa phƣơng. Về ứng dụng công nghệ thông tin trong TGPL: Năm
2018, Phần mềm Quản lý tổ chức và hoạt động TGPL đã đƣợc hoàn thiện và chạy
thử nghiệm tại trên 30 Trung tâm TGPL nhà nƣớc trên toàn quốc nhƣ Hà Nội, Hải
Phòng, Hồ Chí Minh, Hải Dƣơng, Hà Tĩnh, Gia Lai...; thực hiện cấp tài khoản cho
63 Trung tâm TGPL nhà nƣớc và là bƣớc tiến quan trọng cho việc triển khai chính
thức trong toàn quốc trong năm 2019.
Song song với việc triển khai các hoạt động truyền thông TGPL. Hàng năm,
Ngành Tƣ pháp các cấp c ng đã tham mƣu cho Uỷ ban nhân dân cùng cấp triển
khai thực hiện Ngày Pháp luật (9/11) để tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, đồng thời
tăng cƣờng nhận thức cho mọi ngƣời về vai trò của luật pháp trong đời sống, tăng
cƣờng sự hiểu biết pháp luật và khả năng thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý
Nhà nƣớc, hoạt động kinh tế - xã hội và sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân.
Thông qua Ngày Pháp luật giúp cho mọi tổ chức, cá nhân, công dân có ý
thức tuân thủ pháp luật tốt hơn, là dịp để đánh giá lại những kết quả đã đạt đƣợc và
những hạn chế trong hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật; là cơ hội để tổ chức
nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cộng đồng thông qua những cách
thức khác nhau. Hiện nay, Ngày pháp luật (9/11 hàng năm) đang ngày càng đƣợc tổ
chức bài bản với nhiều mô hình sáng tạo ở các địa phƣơng, các Ban, Ngành, Đoàn
thể nhƣ: Mít tinh, tọa đàm, hội nghị, hội thảo, cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật...
Việc tổ chức Ngày pháp luật là dịp để các cơ quan, đơn vị, địa phƣơng tổ
chức thực hiện truyền thông pháp luật với cƣờng độ cao đến các mọi tầng lớp Nhân
dân. Nhờ đó, nhận thức, hiểu biết của ngƣời dân về pháp luật, trong đó có đối tƣợng
là chị em phụ nữ vùng nông thôn đƣợc tăng cƣờng.
Theo tác giả luận văn, một trong những hình thức có hiệu quả trong công tác
85
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến đối tƣợng là phụ nữ nông thôn là
việc tổ chức xây dựng các mô hình Câu lạc bộ (CLB) pháp luật nhƣ: CLB Phụ nữ
nông thôn với pháp luật, trong đó, Hội Phụ nữ cần phối hợp với cơ quan Tƣ pháp
các cấp thành lập các CLB Phụ nữ nông thôn với pháp luật tại các xã, phƣờng, thị
trấn trên địa bàn tỉnh.
Tuỳ theo nhu cầu và điều kiện thực tế, các câu lạc bộ Phụ nữ nông thôn với
pháp luật xây dựng nội dung sinh hoạt phù hợp với tình hình địa phƣơng để tuyên
truyền, trợ giúp pháp lý cho hội viên các vấn đề về: Dân sự, hôn nhân và gia đình,
bạo lực gia đình, bình đẳng giới, chính sách đối với ngƣời có công, trẻ em... Với
hình thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, nội dung sinh hoạt thiết thực, bổ ích gần
g i với thực tế cuộc sống, không khí sinh hoạt vui tƣơi, cởi mở... các thành viên
trong CLB Phụ nữ nông thôn với pháp luật cùng trao đổi, thảo luận, chia sẻ về
những kinh nghiệm thực tế cuộc sống, t đó chuyển tải các chủ trƣơng, đƣờng lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc một cách d hiểu, d nhớ, thu hút
đông đảo hội viên, phụ nữ tham gia. Qua hoạt động CLB giúp các thành viên nâng
cao hiểu biết pháp luật để thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, thiên chức của ngƣời vợ,
ngƣời mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các hội viên
của CLB là những nhân tố gƣơng m u chấp hành đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nƣớc và các quy định của địa phƣơng. Là những tuyên
truyền viên tích cực tham gia tuyên truyền pháp luật đến với ngƣời dân. Bên cạnh
sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cho các đối tƣợng là phụ nữ, thì rất cần sự nỗ lực, tìm tòi, học hỏi t chính
bản thân mỗi ngƣời, để phụ nữ có thể nâng cao trình độ, nhận thức và ý thức về
pháp luật để tự bảo vệ mình và con cái.
2.3.2. Công tác hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn
2.3.2.1. Công tác phối hợp để tổ chức thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn
Hoạt động TGPL do tổ chức TGPL thực hiện, nhƣng để TGPL đi sâu đƣợc
tình hình thực tế của ngƣời dân tại địa phƣơng, đánh giá đúng thực trạng hoạt động
TGPL, tổ chức TGPL cần có sự phối hợp của các ban ngành các cấp, các tổ chức,
86
đoàn thể. Tổ chức TGPL có năng suất công tác tốt hay không phụ thuộc vào sự liên
kết phối hợp có hiệu quả của các ban ngành, các cấp.
Bộ Tƣ pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam cần ban hành một văn bản liên tịch quy định cơ chế phối
hợp về truyền thông trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý để hoạt động này đƣợc thƣờng
xuyên, liên tục và hiệu quả hơn; tăng cƣờng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ
giúp pháp lý.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông pháp luật về trợ giúp
pháp lý đến với nhân dân và các cơ quan, ban, ngành nhất là ở vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy,
chính quyền các địa phƣơng về công tác trợ giúp pháp lý, Sở Tƣ pháp phối hợp với
các cơ quan truyền thanh, truyền hình tỉnh tăng cƣờng tuyên truyền về công tác trợ
giúp pháp và hoạt động trợ giúp pháp lý. Hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng đều
thực hiện nghiêm túc việc niêm yết công khai bảng thông tin về trợ giúp pháp lý;
phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý; hƣớng d n, giải
thích quyền đƣợc trợ giúp pháp lý cho đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý và đề nghị,
giới thiệu đối tƣợng đến Trung tâm, Chi nhánh yêu cầu trợ giúp pháp lý; đăng ký
tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý
Trung tâm TGPL chủ động, thƣờng xuyên giữ mối quan hệ công tác với cơ
quan Nhà nƣớc, tổ chức các hoạt động liên quan trong công tác trợ giúp pháp lý,
chủ động tham gia giới thiệu văn bản mới liên quan đến việc TGPL cho ngƣời
dân, tham gia thẩm định văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh, kết hợp tuyên
truyền, phổ biến Luật TGPL, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân và gia
đình, Luật Phòng, chống tội phạm mua bán ngƣời, Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, chính sách ƣu đãi tại địa phƣơng và các văn bản pháp luật về TGPL đến
đông đảo ngƣời dân. Các trung tâm TGPL cần phối hợp với Hội phụ nữ vùng nông
thôn tổ chức các đợt tập huấn, các câu lạc bộ sinh hoạt về pháp luật cho phụ nữ
trong vùng, góp phần giải toả những vƣớng mắc pháp luật của nhân dân, tạo niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nƣớc; góp phần ổn định chính trị, giữ gìn
87
trật tự an toàn xã hội; tạo lập cơ chế thực hiện nguyên tắc Hiến định: Mọi công
dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội; góp phần giữ vững
và tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Giữ vững hoạt động chƣơng trình Chƣơng trình phối hợp số 60/CTPH-BTP-
HLHPNVN về thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tƣ
vấn pháp luật cho phụ nữ; hòa giải ở cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng pháp
luật giai đoạn 2018-2022, lấy chƣơng trình phối hợp là tiêu chí, tiền đề trong việc
hỗ trợ pháp lý cho phụ nữ vùng nông thôn.
Đối với TGPL trong hoạt động tố tụng, các trung tâm TGPL cần phải phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng (dựa theo tiêu chí của Thông tƣ liên tịch
số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANNDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy
định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tƣ liên
tịch số 10)) để thực hiện, đảm bảo quyền và lợi ích cho đối tƣợng đƣợc trợ giúp.
Khi có đơn yêu cầu TGPL, trung tâm chủ động tiếp cận thông tin, kiểm tra, rà soát
và cử trợ giúp viên hoặc luật sƣ là cộng tác viên tham gia bào chữa. Nhiều vụ án với
sự tham gia tố tụng ngay t đầu của các trợ giúp viên, luật sƣ là cộng tác viên của
trung tâm góp phần làm sáng tỏ nội dung sự việc, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan tố tụng giải quyết vụ việc nhanh chóng, chính xác và đúng theo trình tự thủ tục
quy định pháp luật.
2.3.2.2. Công tác truyền thông, giáo dục và phổ biến TGPL đến với phụ nữ
nông thôn
Kể t khi hệ thống trợ giúp pháp lý đƣợc hình thành và phát triển đến nay,
công tác truyền thông về hoạt động trợ giúp pháp lý luôn đƣợc đặc biệt quan tâm,
đã có nhiều hình thức truyền thông đến với ngƣời dân nhƣ: giới thiệu về hoạt động
trợ giúp pháp lý trên phƣơng tiện thông tin đại chúng, tờ gấp pháp luật, đặt Bảng
thông tin về trợ giúp pháp lý tại cơ quan tiến hành tố tụng, trụ sở tiếp công dân. Bên
cạnh đó công tác truyền thông c ng đƣợc đẩy mạnh thông qua loa truyền thanh của
xã, thôn, bản, nói chuyện pháp luật buổi tối và qua trợ giúp pháp lý lƣu động
88
Nhờ tuyên truyền tích cực về công tác trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp
pháp lý, nhận thức của các cơ quan nhà nƣớc về chức năng, phạm vi, lĩnh vực hoạt
động và sự cần thiết của trợ giúp pháp lý đã đƣợc nâng cao và ngày càng nhận đƣợc
sự tín nhiệm, tin tƣởng của cấp ủy, chính quyền các địa phƣơng. Theo số liệu của
Bộ Tƣ Pháp năm 2017, nhiều địa phƣơng đã tạo điều kiện, tăng biên chế c ng nhƣ
ngân sách hoạt động hàng năm cho Trung tâm (Hà Nội: 63 biên chế; Lào Cai: 30;
Cao Bằng: 23; Đăk Lăk: 24; thành phố Hồ Chí Minh 20; Cần Thơ: 44;), nhiều
Trung tâm đã đƣợc bố trí trụ sở riêng thuận lợi cho việc tiếp công dân c ng nhƣ
đƣợc trang bị: máy ảnh, máy chiếu và ô tô công vụ phục vụ cho công tác trợ giúp
pháp lý lƣu động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng
Các hình thức truyền thông phổ biến TGPL mà Bộ tƣ pháp đang thực hiên:
a. Tờ gấp, cẩm nang, tài liệu pháp luật
Hàng năm, hệ thống trợ giúp pháp lý t Trung ƣơng đến địa phƣơng thƣờng
xuyên biên soạn các loại tờ gấp pháp luật đi sát vào đời sống tinh thần của nhân
dân. Thực hiện phát các loại Tờ gấp pháp luật phát mi n phí cho ngƣời dân khi
thực hiện tƣ vấn, trong các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động, tổ chức sinh hoạt Câu
Lạc bộ hoặc đƣợc đặt trong Hộp tin trợ giúp pháp lý, để thông qua tờ gấp pháp
luật, ngƣời dân sẽ nắm đƣợc các quy định pháp luật để vận dụng trong đời sống
hàng ngày...Có thể thấy, hình thức truyền thông này sẽ tiếp tục mang lại những
những hiệu quả thiết thực, tiết kiệm chi phí, truyền tải đƣợc nhiều nội dung pháp
luật, đặc biệt phù hợp với điều kiện ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng có điều kiện đi lại khó khăn.
b. Truyền thông qua các chuyên Trang, chuyên mục trên Đài Phát thanh,
truyền hình, Báo, Tạp chí, Bản tin
Ở Trung ƣơng, Cục Trợ giúp pháp lý đã tích cực phối hợp với các ban, ngành
để tuyên truyền, nâng cao vị trí, vai trò, của trợ giúp pháp lý trong xã hội, đã phối
hợp với Đài truyền hình Việt Nam thực hiện phóng sự truyền hình về hoạt động
TGPL; phối hợp với Báo Pháp luật Việt Nam,Tạp chí Dân chủ và pháp luật đƣa các
chuyên mục về trợ giúp pháp lý với các tin, bài viết nghiên cứu về hoạt động TGPL.
89
Ngoài ra, một số báo có uy tín c ng thƣờng xuyên có các bài viết về hoạt động trợ
giúp pháp lý.
Ở địa phƣơng, các Sở Tƣ pháp đã phối hợp với Báo, Đài của tỉnh thƣờng
xuyên có các chuyên mục về trợ giúp pháp lý nhƣ: Pháp luật và đời sống, Luật sƣ
của bạn. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh và truyền hình các tỉnh, thành phố có mục Trả
lời thƣ bạn nghe đài, Hộp thƣ truyền hình... c ng nhƣ các phóng sự, phim tài liệu về
hoạt động trợ giúp pháp lý, tin tức về các đợt trợ giúp pháp lý lƣu động để nhân dân
trong vùng nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng cập nhật thông tin nhanh
chóng, chính xác.
c. Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý Việt Nam
Đẩy mạnh phát triển tối đa công tác truyền thông, kịp thời cập nhật và truyền
tải các hoạt động TGPL trên cả nƣớc, Trang thông tin điện tử của Cục TGPL đã
đƣợc nâng cấp với một phiên bản mới, đây là kênh thông tin phong phú, đa dạng về
tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phản ánh tƣơng đối đầy đủ các hoạt động trợ
giúp pháp lý trong toàn quốc, là di n đàn trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng trợ giúp
pháp lý của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, phổ biến chính sách trợ giúp pháp lý
của Nhà nƣớc đến đông đảo ngƣời dân. Số lƣợng các bài viết không ng ng đƣợc
tăng lên với nội dung phong phú và có chất lƣợng, t năm 2013 đến nay đã có
khoảng 450 bài viết đƣợc đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục Trợ giúp
pháp lý Việt Nam.
Để giới thiệu đến bạn bè quốc tế về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam,
Cục Trợ giúp pháp lý đã và đang hoàn thiện Trang thông tin điện tử trợ giúp pháp lý
Việt Nam bằng phiên bản tiếng Anh, với mục đích tạo di n đàn trao đổi, chia sẻ
kinh nghiệm, nghiên cứu những mô hình trợ giúp pháp lý trên thế giới đang áp dụng
vào thực ti n hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam,.
d. Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý
Bảng thông tin về trợ giúp pháp lý (với các nội dung nhƣ: ngƣời đƣợc trợ
giúp pháp lý; quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý; thủ tục yêu cầu
trợ giúp pháp lý; địa chỉ, điện thoại liên hệ của Trung tâm, Chi nhánh) ngoài việc
90
đƣợc niêm yết tại trụ sở các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý còn đƣợc niêm yết
công khai tại trụ sở tiếp công dân của các cơ quan tiến hành tố tụng, Trại Tạm
giam; Nhà Tạm giữ; các cơ quan, ban, ngành để mọi ngƣời dân d dàng tiếp cận
biết đƣợc trình tự.
e. Truyền thông thông qua loa truyền thanh của xã, phường, thôn, bản
Việc tuyên truyền về công tác trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý
qua các phƣơng tiện truyền thông tại xã, phƣờng, thị trấn, thôn, bản đã t ng bƣớc
đƣợc chú trọng, nhiều địa phƣơng đã tổ chức phát thanh vào các buổi chiều hàng
tuần t 17:00 giờ đến 18:30 giờ để ngƣời dân nói chung và phụ nữ nói riêng lắng
nghe và tiếp cận thông tin chính xác nhất. Đây là một trong những kênh thông tin
đem lại hiệu quả tốt, đặc biệt là ở những địa bàn vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện đi lại khó khăn.
91
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Chƣơng 2, tác giả luận văn phân tích lịch sử hình thành và phát triển của hệ
thống pháp luật về TGPL, đi vào thực ti n về hiệu quả và kết quả hoạt động TGPL
thông qua việc phân tích thực trạng về tổ chức thực hiện TGPL, đội ng ngƣời thực
hiện TGPL, thực trạng về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí bảo đảm cho hoạt động
TGPL, thực trạng về hoạt động TGPL cho phụ nữ nông thôn mà trọng tâm là hoạt
động cung cấp dịch vụ pháp lý đến với phụ nữ, chất lƣợng vụ việc TGPL, hoạt động
truyền thông về TGPL, công tác phối hợp trong TGPL. Đối với mỗi vấn đề, tác giả
luận văn phân tích những kết quả đã đạt đƣợc c ng nhƣ chỉ ra những khó khăn,
nguyên nhân và những bất cập còn tồn tại đã gây ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động
TGPL cho phụ nữ ở nông thôn trong thời gian qua.
T thực trạng về tổ chức, hoạt động TGPL cho phụ nữ ở nông thôn hiện nay,
tác giả luận văn muốn chỉ ra những khó khăn, thách thức, bất cập cần phải nâng cao
chất lƣợng, hiệu quả hoạt động TGPL là một yêu cầu tất yếu và cần thiết. Vì vậy
cần có các phƣơng hƣớng đúng đắn và giải pháp cụ thể để nâng cao hoạt động
TGPL cho phụ nữ nông thôn trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn nữa đáp ứng
đƣợc những yêu cầu của ngƣời dân.
92
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO PHỤ NỮ Ở NÔNG THÔN
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nông thôn
Trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với quá
trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã giúp nâng
cao nhận thức pháp luật cho phụ nữ nông thôn. Đây là một quá trình giáo dục ý thức
pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nƣớc bằng pháp luật, xác
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nƣớc và xã hội và trƣớc
các chủ thể khác, để t đó họ nhận thấy đƣợc những hành vi đƣợc phép làm và
những hành vi không đƣợc phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ việc cụ thể,
hoạt động TGPL sẽ giúp phụ nữ nông thôn nắm bắt đƣợc nội dung pháp luật và
cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc sống, nắm đƣợc nội
dung các văn bản pháp luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính
xác, tích cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan
hệ xã hội. Để mở rộng và phát triển, nâng cao chất lƣợng TGPL đến phụ nữ nông
thôn, Đảng và Nhà nƣớc phối hợp với các ban ngành liên quan xây dựng mục tiêu,
phƣơng hƣớng phát triển TGPL đến phụ nữ nông thôn bền vững và lâu dài, cụ thể:
Quan điểm chỉ đạo giám sát, xây dựng cơ sở vật chất trung tâm TGPL của
Đảng và Nhà nước
Lập đƣờng dây nóng: số điện thoại nóng đến các nhân viên trực ban tại
Trung tâm TGPL, thông báo đến t ng hộ gia đình của hội viên phụ nữ nông thôn,
để khi xảy ra vấn đề tranh chấp pháp lý thì có thể liên hệ ngay đến đƣờng dây nóng
để đƣợc hỗ trợ tƣ vấn pháp luật mi n phí, tƣ vấn viên trực sẵn 24/7 đảm bảo đƣờng
dây và các cuộc gọi đều mi n phí, các cuộc gọi đều cài sẵn chế độ ghi âm để tiện
theo dõi, tránh bỏ sót để đảm bảo tối đa một cách tốt nhất thông tin cung cấp
Tiếp tục nghiên cứu, làm rõ vấn đề chất lƣợng vụ việc TGPL trong nội dung
93
quản lý nhà nƣớc về TGPL, làm cơ sở để quy định rõ trong quá trình sửa đổi, bổ
sung Luật TGPL. Nhà nƣớc cần ban hành chính sách pháp luật hỗ trợ TGPL đến
phụ nữ nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng, vì họ là những đối tƣợng
quan trọng trong đời sống xã hội của con ngƣời. Thực hiện xây dựng quy trình giám
sát nghiêm ngặt về chất lƣợng vụ việc TGPL t thời điểm thụ lý vụ việc cho đến khi
vụ việc đó đƣợc hoàn thành, đảm bảo tính công bằng, dân chủ và khách quan của vụ
việc trong hoạt động TGPL
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở các Chi nhánh TGPL, đầu
tƣ trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TGPL đƣợc hiểu quả c ng là mục tiêu cho
việc xây dựng và phát triển kinh tế bền vững.
Tập trung giải quyết những vấn đề: TGPL cho phụ nữ nông thôn, giải quyết
các vấn đề về: bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới, nạn nhân buôn bán ngƣời xuyên
biên giới trái phép, lao động, kinh tế văn hóa xã hội đối với phụ nữ nông thôn
Tăng cƣờng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ
quan và t ng đại biểu hội đồng nhân dân, nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành
Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm
quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị
quyết của hội đồng nhân dân.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý chất lƣợng vụ việc
TGPL theo hƣớng xây dựng phần mềm quản lý vụ việc TGPL áp dụng trong toàn
quốc để quản lý đƣợc nội dung vụ việc, quá trình giải quyết vụ việc. Để t đó, Cục
TGPL có căn cứ để lựa chọn vụ việc kiểm tra, đánh giá; phân loại vụ việc; xác định
uy tín của ngƣời thực hiện TGPL
Nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện TGPL
Chế độ đãi ngộ, giữ nhân tài của Nhà nƣớc, thay đổi cách nhìn của Luật sƣ
đối với hoạt động TGPL. Tạo môi trƣờng làm việc tích cực, tạo sự thoải mái trong
công việc gắn kết cơ quan ban ngành Nhà nƣớc với đội ng luật sƣ trong công tác
hoạt động TGPL. Nhà nƣớc cần thay đổi cơ cấu bộ máy quản lý Trung tâm TGPL,
cần có ngƣời quản lý chính xuyên suốt tại Trung tâm, phối hợp với các ban ngành
trực tiếp TGPL
94
Nâng cao chất lƣợng và trách nhiệm của đội ng trợ giúp viên TGPL, tổ chức
các lớp tập huấn, bồi dƣỡng với các nội dung phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của
đội ng này, góp phần nâng cao chất lƣợng dịch vụ TGPL. Cục TGPL và các Trung
tâm TGPL nhà nƣớc cần tăng cƣờng tổ chức các lớp bồi dƣỡng, tập huấn với các
nội dung đa dạng nhƣ: cập nhật kiến thức pháp luật, kiến thức nghiệp vụ chung về
TGPL; các kỹ năng thực hiện TGPL trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính;
kỹ năng thực hiện TGPL cho các đối tƣợng đặc thù nhƣ: trẻ em, phụ nữ, nạn nhân
mua bán ngƣời, nạn nhân bạo lực gia đình, ngƣời khuyết tật, ngƣời dân tộc thiểu
số...; kỹ năng thực hiện các vụ việc phức tạp cần làm việc nhiều với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan; kỹ năng mềm trong giao tiếp (giao tiếp với ngƣời đƣợc
TGPL, ứng xử với các cơ quan tiến hành tố tụng)
Tăng cƣờng đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề đƣợc đặt
ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách
nhi u, quan liêu, tham nh ng... trong các cơ quan nhà nƣớc. Thực ti n cho thấy, dù
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế,
quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà nƣớc có đạt đến độ hoàn mỹ thì c ng khó
có thể đem lại hiệu quả nhƣ mong muốn nếu nhƣ trong quá trình thực thi công vụ,
cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy
chế, quy tắc ứng xử đã đƣợc thể chế hóa.
Đề xuất xây dựng văn bản Luật có quy định TGPL đến phụ nữ vùng nông
thôn Việt Nam và công tác tuyên truyền, phối hợp về hoạt động TGPL
- Tác giả luận văn đã phân tích ở mục 1.2.1.4 “Luật TGPL chƣa tiếp cận hết
đến quyền lợi ích cho ngƣời phụ nữ”. Theo tác giả luận văn, cần kiến nghị hoàn
thiện hành lang pháp lý về TGPL cho phụ nữ nông thôn Việt Nam. Bên cạnh việc
xây dựng pháp luật, để tạo điều kiện cho phụ nữ có điều kiện tiếp cận với pháp luật,
Nhà nƣớc và các trung tâm TGPL cần tuyên truyền nhiều chuyên đề pháp luật thuộc
các lĩnh vực nhƣ đất đai, hôn nhân gia đình, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật
về phòng chống bạo lực gia đình đến với phụ nữ nông thôn. Đặc biệt là các chuyên
đề về bạo lực gia đình, quyền của phụ nữ và trẻ em, phòng chống tội phạm buôn
95
bán ngƣời đang đƣợc xã hội quan tâm, trọng điểm tại vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, những nơi v n đang tồn tại các định kiến lạc hậu về vai trò của ngƣời phụ
nữ trong gia đình và xã hội.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật. Thực ti n cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của
việc thực hiện pháp luật chƣa tốt là do kiến thức về luật pháp của phụ nữ vùng nông
thôn chƣa tốt, nhiều ngƣời dân chƣa am hiểu về luật pháp, chƣa ý thức đƣợc sự cần
thiết phải chấp hành luật, hoặc do không nắm đƣợc luật nên vi phạm mà không biết.
Chính vì vậy, để tăng cƣờng việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự
tham gia của các phƣơng tiện thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị - xã
hội c ng nhƣ bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ
cƣơng hành chính, để mệnh lệnh hành chính luôn đƣợc chấp hành một cách nghiêm
túc và thông suốt t trung ƣơng đến cơ sở.
Trong thời gian tới các cấp Hội LHPN trong tỉnh tăng cƣờng sự chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, xứng
đáng với tầm quan trọng của công tác này trong thời kỳ xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; thƣờng xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lƣợng đội
ng làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cƣờng đội ng trẻ và có trình độ
chuyên môn luật. Tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ theo kế hoạch và yêu cầu của địa
phƣơng cho đội ng làm công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Đồng thời, cung cấp
tài liệu để họ thƣờng xuyên cập nhật thông tin, phổ biến kịp thời, chính xác các văn
bản. Duy trì việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc họp,
sinh hoạt định kỳ hàng tháng, quý ở cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể; Thực thi
pháp luật nghiêm minh ở các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền là điều kiện để
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả. Đồng thời, tạo niềm tin vào
pháp luật trong hội viên phụ nữ và nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của
phụ nữ nông thôn
96
Nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý từ yêu cầu hội nhập quốc tế
TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề
chất lƣợng TGPL ngày càng đƣợc đề cao nhằm bảo đảm cho ngƣời dân, phụ nữ
vùng nông thôn đã đƣợc Nhà nƣớc và các ban ngành đoàn thể quan tâm hơn. Trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, quyền phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn Việt Nam
nói riêng luôn đƣợc các nƣớc trên thế giới quan tâm về chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp luật đối với phụ nữ. Năm 2019 Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam cam kết thực hiện dự án với chủ đề “An toàn cho phụ nữ và trẻ
em gái”: Chăm sóc trẻ em; dinh dƣỡng cho trẻ em và phụ nữ; xây dựng các mô hình
áp dụng pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ, thân thiện với phụ nữ; mô hình các xã biên
giới an toàn nhằm hạn chế tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em và có sự liên kết
chặt chẽ phối hợp với các tổ chức Quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp đến phụ nữ Việt Nam.
Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc Ngày 20/12/2012 về các
nguyên tắc và hƣớng d n của liên hợp quốc về tiếp cận TGPL trong hệ thống tƣ
pháp hình sự đã th a nhận TGPL là một thành tố cơ bản của hệ thống tƣ pháp hình
sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Trong Bản quy tắc và hƣớng d n tiếp cận TGPL
trong tƣ pháp hình sự ngày 20/12/2014, Liên Hợp Quốc khuyến nghị các quốc gia
“tạo điều kiện tiếp cận TGPL có chất lƣợng ở mọi vùng của đất nƣớc”. Mặc dù đây
là những nguyên tắc mang tính khuyến nghị của Liên hợp quốc nhƣng những
khuyến nghị này có tầm ảnh hƣởng khá lớn tới thể chế, chính sách của các quốc gia.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế sâu rộng nhƣ hiện nay, việc nội
luật hóa các cam kết quốc tế c ng nhƣ đƣa pháp luật quốc gia tiệm cận với các
chuẩn mực quốc tế sẽ nâng cao vị thế, vai trò và hình ảnh Việt Nam trên trƣờng
quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trƣơng chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế của Đảng đề ra.
- TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện, nhiều nƣớc trên
thế giới coi TGPL là một trong các tiêu chí của Nhà nƣớc pháp quyền, bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con ngƣời. Hiến pháp nhiều nƣớc quy định quyền đƣợc TGPL
97
trong tƣ pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền
tiếp cận công lý cho những ngƣời không có khả năng thuê luật sƣ, đặc biệt trong vụ
án hình sự. Nhà nƣớc pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và
mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Xuất phát t việc hội nhập
thế giới mang tính toàn diện, chế định TGPL là rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho
phụ nữ nông thôn Việt Nam hiện nay
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ
nông thôn
3.2.1. Giải pháp chung
Nhƣ tác giả luận văn đã nêu ở mục 1.4.5 về “Các biện pháp khuyến khích, hỗ
trợ đối với đối tƣợng đƣợc TGPL và chủ thể TGPL”. Để nâng cao hiệu quả công tác
trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nông thôn, Cục trợ giúp pháp lý cần phối hợp với các
ban ngành: Bộ lao động và Thƣơng binh-xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đẩy
mạnh hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ ở nông thôn; cung cấp
số điện thoại đƣờng dây nóng, danh sách địa chỉ, số điện thoại của ngƣời thực hiện
trợ giúp pháp lý, Trung tâm và Chi nhánh, các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.
Tiếp tục nâng cao năng lực của ngƣời thực hiện trợ giúp pháp lý, không chỉ
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng trợ giúp pháp lý mà còn cần hiểu biết về tâm lý
và cách thức tiếp cận, trao đổi với ngƣời đƣợc trợ giúp pháp lý là phụ nữ nông thôn,
có kỹ năng giải quyết các vấn đề nhạy cảm: bạo lực gia đình, xâm hại tình dục.... Bố
trí địa điểm tiếp phù hợp để họ trình bày cung cấp thông tin, tài liệu một cách đầy
đủ nhất. Cần ghi nhận và khuyến khích sự tham gia của đội ng luật sƣ, tƣ vấn viên
pháp luật có kinh nghiệm đang hoạt động có hiệu quả, đồng thời chọn lọc những
ngƣời có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực ti n và bảo đảm về mặt thời gian
tham gia TGPL để làm cộng tác viên TGPL một cách thực chất, hiệu quả.
Đảng và Nhà nƣớc, chính quyền, mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội phụ nữ
cần coi trọng công tác dân vận, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của chị
em phụ nữ nông thôn. Cần phải đặc biệt chú ý đến phụ nữ thuộc diện chính sách,
phụ nữ cao tuổi, vì đời sống của họ gặp nhiều khó khăn nhất. Luật pháp cần xử lý
98
kịp thời và nghiêm khắc những hành vi xâm hại, l a đảo phụ nữ, để bảo vệ quyền
sống của chị em. Mặt khác, ngƣời phụ nữ nông thôn kể t em học sinh đến bậc cao
tuổi, cần nâng cao hiểu biết pháp luật, gắng gỏi vƣợt lên hoàn cảnh để tự bảo vệ
mình, tự khẳng định mình, làm cho mình có cuộc sống tƣơi vui, xây dựng các gia
đình văn hóa và góp phần vào sự phát triển đất nƣớc.
Để giúp phụ nữ nông thôn có kiến thức pháp luật, có kỹ năng phòng ng a
xâm hại tình dục, bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội... các cấp Hội thực hiện nhiều hình
thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, kỹ năng phòng ng a xâm hại phụ
nữ, trẻ em nhƣ sinh hoạt hội viên, đối thoại chính sách, tƣ vấn pháp luật, trợ giúp
pháp lý lƣu động, sân khấu hóa, thi tìm hiểu pháp luật, viết bài đƣa tin trên hệ thống
thông tin đại chúng, tổ chức các câu lạc bộ (Câu lạc bộ Phụ nữ với pháp luật, Câu
lạc bộ trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ phòng, chống bạo lực gia đình); phòng chống ma
túy t trong gia đình; phòng chống mua bán ngƣời, tố giác tội phạm, v.v…
Nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt của các cơ
quan, ngƣời tiến hành tố tụng về công tác TGPL, vị trí và vai trò của nó đối với
ngƣời dân, nhất là ngƣời yếu thế trong xã hội. Nâng cao vị thế của các cơ quan quản
lý nhà nƣớc về TGPL, đặc biệt là Sở Tƣ pháp tại địa phƣơng. Nhà nƣớc cần quan
tâm đầu tƣ thích đáng về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động TGPL, trong đó chú
ý đến yếu tố đặc biệt của hoạt động TGPL: TGPL là trách nhiệm của Nhà nƣớc, đây
là hoạt động hoàn toàn không có thu, ngƣời đƣợc TGPL hoàn toàn đƣợc mi n phí.
Tiếp tục nghiên cứu các cơ chế góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động
TGPL về kinh phí, về chế độ, chính sách cho ngƣời thực hiện TGPL, tiếp tục
nghiên cứu và đổi mới để tăng cƣờng sự tham gia của các tổ chức hành nghề luật
sƣ, tổ chức tƣ vấn pháp luật có chất lƣợng, uy tín vào hoạt động TGPL thông qua
nhiều hình thức đa dạng, phát huy tốt mọi nguồn lực của xã hội cho hoạt động
TGPL. Qua đó, tăng sự cạnh tranh giữa tổ chức thực hiện TGPL, ngƣời thực hiện
TGPL của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia thực hiện TGPL.
Mặc dù trong bối cảnh thực hiện tinh giản biên chế, xã hội hóa mạnh mẽ dịch
vụ công nói chung, tuy nhiên Nhà nƣớc cần tính đến yếu tố con ngƣời ở các tỉnh
99
vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để
bảo đảm ngƣời đƣợc TGPL có nhu cầu thì sẽ có ngƣời thực hiện cung ứng dịch vụ,
do đó, cần tăng cƣờng số lƣợng ngƣời thực hiện TGPL ở những nơi này;
Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể để triển
khai hiệu quả Luật TGPL và các văn bản hƣớng d n, quy định chi tiết Luật TGPL,
nhất là các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng trong việc phối hợp TGPL trong hoạt
động TGPL. Tăng cƣờng vai trò của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL ở trung
ƣơng và địa phƣơng trong việc triển khai các quy định về phối hợp TGPL trong tố
tụng; đặc biệt trong việc nâng cao nhận thức và cơ chế phối hợp trong việc giải thích
quyền TGPL, chuyển, gửi vụ việc TGPL của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng.
Tăng cƣờng vai trò chỉ đạo, quản lý của cơ quan quản lý nhà nƣớc về TGPL,
nhất là trong triển khai, theo dõi việc thực hiện pháp luật về TGPL. Nhà nƣớc quản
lý tổ chức và hoạt động TGPL sát sao, tăng cƣờng công tác kiểm tra, kiểm soát,
đánh giá chất lƣợng TGPL đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL trong toàn
quốc. Đặc biệt, vai trò của Sở Tƣ pháp đối với công tác TGPL tại địa phƣơng cần
đƣợc phát huy tối đa hơn nữa. Đồng thời, tăng cƣờng sự phối hợp, kết nối giữa Bộ
Tƣ pháp và Sở tƣ pháp với tƣ cách là cơ quan tham mƣu cho cơ quan quản lý nhà
nƣớc về TGPL ở Trung ƣơng và địa phƣơng trong việc quản lý nhà nƣớc về chất
lƣợng TGPL.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về TGPL theo hƣớng bảo đảm minh
bạch, công khai và đơn giản hóa tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham gia TGPL
và ngƣời dân tiếp cận dịch vụ TGPL, đặc biệt là ứng dụng điện tử trong việc cung
ứng dịch vụ công trực tuyến, hƣớng đến Chính phủ điện tử.Trong bối cảnh đang xây
dựng Chính phủ điện tử, chúng ta c ng cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin
trong hoạt động TGPL nói chung và trong quản lý TGPL nói riêng, nhất là trong
việc giám sát, đánh giá chất lƣợng và hiệu quả TGPL.
Tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lƣợng TGPL theo quy định tại Thông
tƣ số 12/2018/TT-BTP, có thể phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ
chức nghề nghiệp, xã hội nghề nghiệp có chức năng quản lý các tổ chức và ngƣời
100
thực hiện TGPL khác để cùng tham gia việc đánh giá chất lƣợng, đặc biệt, chú ý
đến sự hài lòng của ngƣời sử dụng dịch vụ. Thực hiện việc đánh giá chất lƣợng vụ
việc và giám sát việc đánh giá chất lƣợng vụ việc theo đúng quy định, qua đó nắm
bắt kịp thời thực trạng chất lƣợng vụ việc TGPL để có những giải pháp bảo đảm
chất lƣợng vụ việc.
Tăng cƣờng hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động TGPL;
khen thƣởng, xử lý vi phạm trong hoạt động TGPL. Tăng cƣờng sự kết nối giữa
Trung ƣơng - địa phƣơng; cơ quan quản lý nhà nƣớc - tổ chức thực hiện TGPL, đặc
biệt, chú trọng đến sự tham gia và chất lƣợng dịch vụ do các tổ chức tham gia
TGPL cung cấp. Đổi mới công tác quản lý, tăng cƣờng kiểm tra hoạt động TGPL
của Bộ Tƣ pháp (Cục TGPL) và Sở tƣ pháp đối với các tổ chức thực hiện TGPL
thông qua công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
Hầu hết những vấn đề lớn về chính sách TGPL của Đảng và Nhà nƣớc đã
đƣợc quy định ở Luật TGPL 2017 rất rõ, tạo thành cơ chế pháp lý điều chỉnh các
vấn đề tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. Tuy nhiên, đứng trƣớc sự thay đổi
của nền kinh tế- xã hội hóa của đất nƣớc, sự phát triển của pháp luật nói chung và
pháp luật liên quan đến hoạt động TGPL nói riêng, khi thực hiện TGPL đến phụ nữ
vùng nông thôn đã bộc lộ nhiều bất cập, đòi hỏi có sự điều chỉnh, thay đổi cho phù
hợp. Với mục tiêu đổi mới công tác TGPL theo hƣớng phát triển xã hội hóa, nắm
bắt kịp thời cơ, xu thể, d dàng hòa nhập nhƣng không hòa tan với TGPL thế giới
hiện nay, thì TGPL ở Việt Nam cần có những giải pháp thay đổi cụ thể nhƣ sau:
3.2.2.1. Thực hiện xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan
đến TGPL cho phụ nữ nông thôn
Nhƣ tác giả luận văn đã phân tích ở mục 2.1.2 về “Thực trạng các quy định
TGPL và thực hiện TGPL cho phụ nữ nông thôn hiện nay” trang 65,66. Hiện nay,
luật TGPL chƣa quy định rõ phụ nữ vùng nông thôn là đối tƣợng đƣợc TGPL mi n
phí, mà chỉ có phụ nữ của: nạn nhân của hành vi mua bán ngƣời theo quy định của
Luật Phòng, chống mua bán ngƣời, ngƣời nhi m HIV nhƣng không có khả năng tài
101
chính để thuê dịch vụ pháp lý, Ngƣời dân tộc thiểu số cƣ trú tại các vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình.
Nhƣng để đƣợc TGPL mi n phí thì họ phải chứng minh không có khả năng về tài
chính của chính mình theo Nghị định số 144/2017 NĐ-CP của Chính Phủ.
Vậy, phụ nữ thuộc nhóm đối tƣợng nêu trên nếu không chứng minh đƣợc họ
không có khả năng về tài chính thì họ sẽ phải thanh toán chi phí cho việc thực hiện
TGPL. Quy định còn khá mâu thu n, chồng chéo. Phụ nữ nông thôn Việt Nam là
một trong những chủ thể chịu thiệt thòi nhất trong xã hội t bao đời nay. Trong khi,
Đảng và Nhà nƣớc ta đang có chính sách khuyến khích phụ nữ nông thôn tham gia
phát triển kinh tế, xây dựng Nông thôn mới, tham gia tập huấn kỹ năng tiếp thu về
các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì việc
thực hiện thu phí TGPL đối với phụ nữ nông thôn chƣa đƣợc hợp lý.
Việc TGPL đến với phụ nữ nông thôn thƣờng chỉ d ng lại ở việc phối hợp
với các bộ, ngành theo t ng năm và có thời hạn, trong khi phụ nữ vùng nông thôn
luôn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, luôn bị xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp. Hiện nay có một số tỉnh thành đang áp dụng chƣơng trình, thực hiện TGPL
mi n phí cho phụ nữ nông thôn trong địa bàn tỉnh nhƣ: Quảng Ninh, Hà Nam,
Quảng Ngãi, Hà Tĩnh, Tây Ninh...chính sách TGPL mi n phí chƣa đƣợc áp dụng
phổ biến, việc các tỉnh thực hiện TGPL cho phụ nữ trên địa bàn xuất phát t ý chí
của các tổ chức trung tâm TGPL, chủ thể thực hiện TGPL và công tác triển khai của
t ng tỉnh. Vậy để đồng bộ cơ chế này, Đảng và Nhà nƣớc cần có phƣơng án, lên kế
hoạch và nên thêm điều luật để áp dụng TGPL mi n phí đến với phụ nữ nông thôn
Việt Nam.Trƣớc hết hoạt động TGPL mang bản chất nhà nƣớc - Nhà nƣớc do dân
và vì dân. Nhà nƣớc tổ chức xây dựng lên mạng lƣới TGPL cho phụ nữ nông thôn
cho 63 tỉnh thành trong cả nƣớc với mô hình phù hợp hiệu quả, sẽ kết hợp đƣợc sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Nhân dân
thêm tin yêu chính sách của chính quyền, góp phần tích cực tập trung xây dựng
Nông thôn mới hiện đại hóa.
102
3.2.2.2. Cần phải thay đổi về mặt tư duy, nhận thức về vấn đề TGPL
Đối với cán bộ, chính quyền địa phương
Trƣớc tiên, nhóm đối tƣợng đƣợc TGPL mi n phí theo quy định trong điều 7
của Luật TGPL 2017 đang ở trong trạng thái tĩnh. Tƣ duy pháp lý còn đóng khung,
cứng nhắc. Xã hội luôn vận động, thay đổi theo hƣớng đi hiện đại và tích cực hơn.
Nhƣng tƣ duy về mặt pháp lý còn lạc hậu, chỉ thực hiện TGPL theo đúng quy định
của luật và quỹ TGPL cho phép, nhƣ vậy thì pháp luật chƣa thể gần g i với ngƣời dân
đƣợc và nhất là với phụ nữ nông thôn. Chúng ta cần phải có sự nhìn nhận bổ sung để
làm sao hoạt động TGPL hoàn toàn phù hợp, bắt kịp với xu thế phát triển đất nƣớc.
Việc thực hiện TGPL còn mang hƣớng tƣ duy đóng kín, chỉ có Nhà nƣớc
mới có quyền quyết định và theo dõi hoạt động TGPL, luật sự tham gia vào hoạt
động TGPL còn khó khăn, xây dựng hệ thống luật sƣ công chuyên đảm trách TGPL
thì chƣa có. Chúng ta cần hiểu rõ, hoạt động TGPL không phải là việc ban ơn, phân
chia lợi ích, mà TGPL là hoạt động mang tính chất xã hội vì mục tiêu văn minh,
phát triển đất nƣớc. Luật sƣ là những ngƣời làm rất tốt việc thực hiện TGPL vì năng
lực và kiến thức của họ xuất phát t những nhà học luật, họ đảm bảo tối đa về
quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể. Vậy, Nhà nƣớc nên thay đổi lại hƣớng đi
trong hoạt động TGPL, phải xã hội hóa các chính sách mới, có chế độ đãi ngộ tốt
đối với đội ng luật sƣ để họ có thể giúp Nhà nƣớc quản lý hoạt động TGPL một
cách tốt nhất, bộ máy Nhà nƣớc sẽ tinh giản, gọn gàng hơn.
Đội ng cán bộ ở địa phƣơng là lực lƣợng trực tiếp tuyên truyền, phổ biến ý
nghĩa hoạt động TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Đảng, Nhà nƣớc cần xây dựng kế
hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt ở địa phƣơng vùng nông thôn v a có đức, v a có
tài, chỉ rõ trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong trong hoạt động TGPL,
chủ động tìm hiểu nhu cầu và những khó khăn của phụ nữ nông thôn để t đó phối
hợp với các trung tâm TGPL trên địa bàn tìm ra hƣớng đi và biện pháp khắc phục
hỗ trợ đến với phụ nữ nông thôn. PGS.TS Nguy n Minh Tuấn cho rằng: “Một khi
cán bộ đảng viên nhận thức đúng và thấy đƣợc lợi ích chung c ng nhƣ lợi ích của
mỗi ngƣời dân khi thực hiện họ sẽ tự giác và chủ động thực hiện hơn, khắc phục
103
đƣợc thái độ thờ ơ, chƣa sẵn sàng” [23, tr.130]. Trong công tác tiếp dân, cán bộ địa
phƣơng cần chú trọng đến phong thái khi tiếp nhận thông tin: “Cách cƣ xử cởi mở,
ch ng mực của cán bộ cơ sở tạo cho nhân dân một cảm tình nhất định, làm cho
nhân dân thấy gần g i thoải mái khi liên hệ với chính quyền. Ngƣời cán bộ cơ sở có
đầy đủ lƣơng tâm và ý thức trách nhiệm mới có thể tạo đƣợc bầu không khí thân
thiện với nhân dân” [18, tr.68].
Đảng và Nhà nƣớc cần giải quyết kịp thời về chế độ phụ cấp thỏa đáng cho
cán bộ chính quyền địa phƣơng để tƣơng xứng với khối lƣợng và chất lƣợng công
việc, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ, trách nhiệm trong hoạt động
phối hợp TGPL và quản lý địa bàn trong khu vực, c ng là sự khích lệ của Đảng và
Nhà nƣớc đến với chính quyền địa phƣơng.
Đối với phụ nữ nông thôn
Bản thân ngƣời phụ nữ nông thôn phải nỗ lực vƣơn lên, vƣợt qua rào cản để
tiếp cận và hƣởng thụ quyền. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, phụ nữ
Việt Nam có nhiều cơ hội phát huy vai trò của mình. Để làm đƣợc điều đó, phụ nữ
nông thôn cần rèn luyện đức tính tự tin để có bản lĩnh vƣợt qua những khó khăn,
thách thức trong cuộc sống.
Phụ nữ phải thể hiện mình thật sự có vai trò trong gia đình và ngoài xã hội;
luôn chủ động tham gia các hoạt động đào tạo, bồi dƣỡng để bù đắp những thiếu hụt
của bản thân, để đảm bảo điều kiện cần và đủ sẵn sàng nhận giữ trọng trách mới.
Tuyệt đối không nên ỉ lại mình là phụ nữ để an phận, thủ thƣờng, cho phép bằng
lòng với hiện tại, khi đã đạt đƣợc trình độ nhất định thì tự thỏa mãn, không tiếp tục
phấn đấu học hỏi.
Phụ nữ luôn phải phấn đấu học hỏi, chú trọng rèn luyện kỹ năng sống, tự tin
tham gia các chƣơng trình huấn luyện nâng cao sự hiểu biết pháp luật, sáng tạo,
quyết đoán, biết hoạch định kế hoạch, biết đối mặt với áp lực, biết chăm sóc bản
thân, bảo vệ bản thân không bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng và trách nhiệm, tăng quyền của chủ thể tham
gia thực hiện hoạt động TGPL
Chủ thể tham gia thực hiện hoạt động TGPL là những chủ thể bảo vệ quyền
104
và lợi ích hợp phải của ngƣời đƣợc TGPL. Họ cần phải Tuân thủ nguyên tắc hoạt
động TGPL đã đƣợc quy định đầy đủ ở Điều 3 Luật TGPL năm 2017 bao gồm: tuân
thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp TGPL; kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng
sự thật khách quan; bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc
TGPL; không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác t ngƣời đƣợc TGPL.
Cục TGPL cần tổ chức các lớp tập huấn nhằm trang bị cho đội ng TGPL
các kiến thức chuyên sâu về luật trợ giúp c ng nhƣ kỹ năng về TGPL trong lĩnh vực
hình sự, dân sự, hành chính. Bên cạnh đó, Học viện Tƣ pháp c ng tiến hành rà soát
nhu cầu, tổ chức lớp bồi dƣỡng pháp lý bảo đảm cho các trợ giúp viên có đủ điều
kiện nâng ngạch, đây c ng là chính sách thu hút, khuyến khích chủ thể tham gia
thực hiện TGPL, đảm bảo quyền lợi cho lực lƣợng lao động có năng lực.
Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đổi mới chƣơng trình đào tạo, bồi
dƣỡng cho đội ng ngƣời thực hiện TGPL, tập trung tập huấn các kỹ năng, tổng kết,
rút kinh nghiệm thực hiện vụ việc TGPL. Đảng và Nhà nƣớc cần hỗ trợ kinh phí các
lớp đào tạo nghề luật sƣ, kinh phí tập huấn nghiệp vụ TGPL, chế độ phụ cấp phù
hợp đến với các tổ chức, trung tâm và chủ thể TGPL làm nguồn động lực lớn trong
hoạt động công tác TGPL.
Ngoài các lớp bồi dƣỡng kỹ năng ngắn hạn, Cục TGPL nên mở thêm các lớp
tập huấn dài ngày và thay đổi phƣơng pháp bồi dƣỡng theo hƣớng kết hợp nhiều
tình huống thực ti n với lý thuyết để cùng nhau đƣa ra các phƣơng án hỗ trợ tốt
nhất, Cục nên phát triển trang thông tin điện tử TGPL lớn mạnh hơn, cập nhật nhiều
bài viết mới theo t ng tuần về kết quả, báo cáo, nghiên cứu khoa học trong quá trình
thực hiện công tác TGPL, là di n đàn để ngƣời thực hiện TGPL có thể học tập, trao
đổi kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng nghiệp vụ trong hoạt động TGPL
Đặc biệt, cần tăng cƣờng số lƣợng trợ giúp viên pháp lý tại những vùng nông
thôn thuộc vùng sâu, vùng xa nơi hoạt động nghề nghiệp của luật sƣ hành nghề tự
do ít phát triển. Cần thực hiện đào tạo, bồi dƣỡng đội ng chuyên viên pháp lý hiện
có thành trợ giúp viên pháp lý ở những tỉnh có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn,
nơi khó huy động đội ng luật sƣ hành nghề tự do tham gia TGPL.
105
3.2.2.4. Tập trung tốt vào công tác truyền thông, phổ biến pháp luật và nâng
cao vai trò của Câu lạc bộ TGPL cho phụ nữ nông thôn
Đảng và Nhà nƣớc phối hợp với các ban ngành liên quan tiếp tục thực hiện
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức phối hợp với Bộ lao động và Thƣơng
binh-xã hội, Hội đồng Ủy ban Nhân dân, Hội phụ nữ thực hiện triển khai nội dung
các văn bản pháp luật mới, các văn bản pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của phụ nữ, các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất
nƣớc, các văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý nhà nƣớc và đối tƣợng là
phụ nữ theo nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp
luật tại các địa phƣơng vùng nông thôn. Tổ chức các buổi tuyên truyền pháp luật cho
hội viên phụ nữ các cấp, chú trọng tuyên truyền cho phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số nhằm nâng cao trình độ nhận thức pháp luật của phụ nữ về quyền và
lợi ích chính đáng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Xây dựng và củng cố, nâng cao trình độ, kỹ năng tuyên truyền của đội ng
báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp Hội; tổ chức các hội nghị tập huấn, bồi
dƣỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho phụ nữ. Biên soạn, phát hành tài liệu sách hỏi - đáp, tờ gấp
pháp luật, qua đó, giúp cho phụ nữ nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Chỉ đạo
Hội phụ nữ các cơ sở phối hợp với ủy Ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức thăm
hỏi, động viên phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, đƣa ra phƣơng hƣớng hỗ trợ để họ có
cuộc sống ấm no hơn.
Phối hợp chỉ đạo, hƣớng d n thực hiện các hoạt động tƣ vấn pháp luật, trợ
giúp pháp lý cho phụ nữ theo quy định. Xây dựng mạng lƣới tƣ vấn viên pháp luật,
trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, luật sƣ thực hiện trợ giúp pháp
lý, tƣ vấn pháp luật cho đối tƣợng phụ nữ yếu thế, khó khăn. Phối hợp liên kết hoạt
động giữa Trung tâm tƣ vấn pháp luật và Hỗ trợ kết hôn của Hội LHPN Hà Nội với
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nƣớc và các Văn phòng chi nhánh trợ giúp pháp lý
trên địa bàn tổ chức trợ giúp pháp lý cho phụ nữ xa trung tâm thành phố, địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
106
Khảo sát nhu cầu, mong muốn đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ pháp lý của các đối tƣợng
phụ nữ; Tổ chức phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý lƣu động cho phụ nữ tại các cơ
sở có nhu cầu, các địa bàn có nhiều khó khăn, phức tạp, các điểm nóng, tuyên
truyền vận động phụ nữ thực hiện các quy định của pháp luật về giải quyết đơn thƣ,
phản ánh, tránh tình trạng gửi đơn thƣ vƣợt cấp, khiếu kiện đông ngƣời. Giới thiệu
phụ nữ là đối tƣợng đƣợc trợ giúp pháp lý đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để
đƣợc trợ giúp theo quy định của pháp luật; phối hợp tạo điều kiện tiếp cận thông tin,
tài liệu liên quan đến việc trợ giúp pháp lý để thực hiện trợ giúp pháp lý.
Trang bị đầy đủ kiến thức về bình đẳng giới cho phụ nữ ở nông thôn để họ tự
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Thúc đẩy hoạt động giáo dục nhằm
nâng cao nhận thức cho các cấp lãnh đạo, xã hội, gia đình và phụ nữ về quyền của
phụ nữ, trong đó chú trọng thƣờng xuyên mở các lớp đào tạo về giới, bình đẳng giới
và quyền cho các đối tƣợng là cán bộ lãnh đạo nữ của các ban ngành, đoàn thể, cán
bộ Hội phụ nữ các cấp và nhân dân. Bản thân ngƣời phụ nữ phải nỗ lực vƣơn lên,
vƣợt qua rào cản để tiếp cận và hƣởng thụ quyền. Trong xu thế hội nhập và phát
triển hiện nay, phụ nữ Việt Nam có nhiều cơ hội và c ng gặp nhiều thách thức để có
thể khẳng định và phát huy vai trò của mình. Do đó, ngƣời phụ nữ trƣớc hết phải ý
thức đƣợc đầy đủ vai trò về giới của mình mới có thể nắm bắt đƣợc những cơ hội,
cùng với xã hội, hƣớng tới cách ứng xử bình đẳng giới.
Tăng cƣờng phối hợp giữa Trung tâm thực hiện tổ chức TGPL với ban tuyên
giáo của thôn, xóm và các bộ liên quan: Cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh
niên trong khu vực địa phƣơng phát động pháp luật và cuộc sống đến với phụ nữ
nông thôn. Giao chỉ tiêu thực hiện theo t ng kỳ, tối thiểu 2 tuần thực hiện tuyên
truyền pháp luật trên một lần để đảm bảo việc tiếp cận pháp luật “gõ cửa”t ng nhà
Đối với hoạt động Câu lạc bộ TGPL, tăng cƣờng xây dựng đội ng Ban chủ
nhiệm vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có kỹ năng và kinh nghiệm trong việc
thực hiện TGPL để Câu lạc bộ là trợ thủ đắc lực trong việc hỗ trợ, kết nối pháp luật
và TGPL đến với phụ nữ nông thôn. Bên cạnh đó, cần có biện pháp nâng cao trách
nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, hỗ trợ, cung cấp địa điểm
107
làm việc, hỗ trợ kinh phí sinh hoạt Câu lạc bộ. Xem Câu lạc bộ là cầu nối pháp luật
đến với phụ nữ nông thôn để có thể nắm bắt đƣợc tâm lý và tình hình đời sống của
nhân dân tại địa phƣơng.
3.2.2.5. Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và kinh phí hoạt động
cho các tổ chức thực hiện TGPL
Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị, bảo đảm kinh phí hoạt động
cho các Trung tâm TGPL nhà nƣớc. Xây dựng mới hoặc cải tạo lại trụ sở làm việc
của các Trung tâm TGPL và chi nhánh của Trung tâm theo hƣớng thuận lợi, d
dàng tiếp cận với phụ nữ nông thôn, thiết kế phòng riêng cho các trƣờng hợp cần
giữ bí mật riêng tƣ, các vụ việc mang tính chất nhạy cảm. Đầu tƣ thêm phƣơng tiện
đi lại thuận tiện phục vụ cho hoạt động TGPL, các trang thiết bị: máy tính, máy ảnh,
máy ghi âm...để phục vụ tốt cho công tác ghi nhận thông tin hỗ trợ TGPL.
Kinh phí cho hoạt động TGPL phải tƣơng xứng với việc phát triển tổ chức
bộ máy, chất lƣợng vụ việc TGPL. Dự liệu đủ nguồn kinh phí đảm bảo cho việc xây
dựng, cải tạo nâng cao trụ sở làm việc, trang thiết bị hạ tầng cho Trung tâm và các
chi nhánh TGPL. Ủy ban nhân dân các cấp nên cần tạo điều kiện tốt về kinh phí để
tổ chức thực hiện triển khai hoạt động TGPL đạt hiệu quả tốt.
3.2.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế để học hỏi kinh nghiệm tổ chức hoạt
động TGPL
Để nâng cao hiệu quả công tác hoạt động TGPL, Nhà nƣớc cần tiếp tục tăng
cƣờng và mở rộng hợp tác với các quốc gia, tổ chức phi chính phủ, tham gia các hội
thảo mang tính chất quốc tế để lắng nghe, học hỏi kinh nghiệm về hoạt động TGPL
để áp dụng phù hợp với thực ti n hoạt động TGPL, đẩy mạnh việc ký kết các
chƣơng trình hợp tác về đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam
nói chung và phụ nữ vùng nông thôn nói riêng.
Sự hỗ trợ và hợp tác của các nhà tài trợ quốc tế sẽ góp phần đảm bảo phụ nữ
nông thôn có cơ hội đƣợc tiếp cận công lý, bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp tối đa.
Tăng cƣờng giao lƣu, công tác nghiên cứu lý luận, trao đổi chia sẻ và học tập
108
kinh nghiệm phát triển mô hình TGPL của các nƣớc đang phát triển để có thể tranh
thủ đƣợc những kinh nghiệm hay, những bài học bổ ích trong thực ti n triển khai
kiểm tra, đánh giá chất lƣợng TGPL, để vận dụng cho phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh đất nƣớc
3.2.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác TGPL
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, là lực lƣợng nòng cốt
lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội. Đảng giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng và lãnh đạo
toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội,
luật pháp... trong đó có cả lĩnh vực tƣ pháp nói chung và hoạt động TGPL nói riêng.
Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL, Đảng cần phải tập hợp, rà soát, sửa
đổi bổ sung để khắc phục những hạn chế bất cập, trong tổ chức và hoạt động trợ
giúp pháp lý, t ng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGPL.
Nhiệm vụ đặt ra đối với các Trung tâm và chi nhánh TGPL ở địa phƣơng,
đƣa công tác Trợ giúp pháp lý thực sự trở thành một chính sách xã hội rộng lớn của
Đảng và Nhà nƣớc mang đến. Trợ giúp pháp lý phải trở thành một địa chỉ tin cậy,
quen thuộc đối với phụ nữ nông thôn, vì mục tiêu đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp, phát triển kinh tế đối với phụ nữ nông thôn, mục tiêu dài hạn xây dựng Nông
thôn mới, tất cả ngƣời đều có cuộc sống ấm no, dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
3.2.2.8. Nâng cao hoạt động quản lý Nhà nước về TGPL ở nông thôn
Để hoạt động TGPL đạt hiệu quả cần tăng cƣờng nâng cao quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động TGPL nhƣ: Tăng cƣờng công tác hƣớng d n, mọi hoạt động quản
lý đều phải công khai, minh bạch và công bằng trƣớc nhân dân. Nhà nƣớc có trách
nhiệm theo dõi cán bộ địa phƣơng và các trung tâm TGPL trong hoạt động thực
hiện TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn hiện nay, chú trọng công tác quản lý và
bồi dƣỡng đội ng ngƣời thực hiện TGPL.
Tăng cƣờng công tác hƣớng d n, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra về tổ chức
hoạt động TGPL ở các địa phƣơng, kịp thời phát hiện ra những hạn chế, khó khăn
109
để đƣa ra các phƣơng án hỗ trợ đảm bảo cho hoạt động TGPL đƣợc thực hiện
đúng theo quy định, trình tự thủ tục của pháp luật, đáp ứng nhu cầu TGPL đối với
phụ nữ nông thôn. Theo PGS.TS Nguy n Minh Tuấn cho rằng: “Cần phải có một
chiến lƣợc qui hoạch, đào tạo đội ng cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Phải cƣơng quyết
xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật làm mất niềm tin trong nhân dân, phải đƣa
cán bộ có khuyết điểm ra kiểm điểm trƣớc dân. Những nơi có vấn đề “nổi cộm”
cần tập trung kiểm tra, thanh tra, kết luận xử lý thích đáng, kịp thời, công khai
trƣớc dân” [23, tr.130].
Bảo đảm hoạt động kiểm tra chất lƣợng vụ việc TGPL đƣợc thực hiện
thƣờng xuyên, có hiệu quả. Giám sát việc cung cấp dịch vụ TGPL của các tổ chức
hành nghề luật sƣ và tổ chức tham gia TGPL, tổ chức trực tiếp giải quyết vụ việc
đối với các loại vấn đề, vụ việc mà địa phƣơng có khó khăn.
Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình
mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các
tổ chức chính trị - xã hội, tạo bƣớc chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở
t ng ngành, địa phƣơng và đơn vị.
110
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Trên cơ sở đƣa ra các quan điểm tổ chức và hoạt động TGPL, chƣơng 3 đƣa
ra phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả cho hoạt động TGPL đề xuất một số giải pháp
chung và giải pháp nâng cao hoạt động TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn: hoàn
thiện pháp luật về TGPL đối với phụ nữ vùng nông thôn, nâng cao trách nhiệm và
tinh thần của chủ thể khi tham gia hỗ trợ TGPL, tập trung tốt vào công tác truyền
thông và giáo dục pháp luật cho phụ nữ nông thôn, dự liệu đƣợc kinh phí hoạt động
TGPL và xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc phù hợp để nâng cao chất
lƣợng TGPL, tăng cƣờng hợp tác quốc tế, tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác TGPL và tăng cƣờng hoạt động quản lý Nhà nƣớc về TGPL.
111
KẾT LUẬN
1. Phụ nữ ở nông thôn là lực lƣợng chính trong sản xuất nông nghiệp, quyết
định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là
đối tƣợng chủ yếu đảm nhiệm công việc trong gia đình, nuôi dạy con cái, giữ gìn
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay, phụ nữ ở nông
thôn v n phải đối mặt với các rào cản về định kiến xã hội phong kiến lâu đời, ít có
cơ hội đƣợc tiếp cận nguồn lực đất đai, tín dụng và nguồn tài nguyên, cơ hội tiếp
cận với dịch vụ an sinh xã hội chƣa cao, đa số phụ nữ ở nông thôn lao động trong
khu vực phi chính thức, không đƣợc trả lƣơng… Điều đó đặt ra nghĩa vụ, trách
nhiệm của các chủ thể trong việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy thực hiện các quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời phụ nữ nông thôn.
2. Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn là trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc đƣa ra các phƣơng hƣớng, điều kiện về chính trị, pháp lý,
kinh tế, xã hội, văn hóa và thực hiện các biện pháp để phụ nữ ở nông thôn có cơ hội
đƣợc tiếp cận, thụ hƣởng đầy đủ các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa theo quy định. Điều 14, Công ƣớc CEDAW yêu cầu các quốc gia thành viên
đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn để họ có những điều kiện sống thích đáng
và đƣa ra những biện pháp đặc biệt nhằm đảm bảo cho họ trên cơ sở bình đẳng với
nam giới cùng đƣợc thụ hƣởng lợi ích t sự phát triển của nông thôn. Các biện pháp
đặc biệt để có thể đạt đƣợc mục tiêu này bao gồm: Đảm bảo quyền tham gia xây
dựng và thực hiện kế hoạch phát triển ở tất cả các cấp; quyền tiếp cận các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe; quyền đƣợc hƣởng phúc lợi trực tiếp t các chƣơng trình bảo
hiểm xã hội; quyền đƣợc hƣởng các loại hình giáo dục đào tạo...
3. Ở Việt Nam, quyền của phụ nữ nói chung và của phụ nữ ở nông thôn nói
riêng luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống chính sách,
pháp luật về đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn t ng bƣớc đƣợc hoàn thiện,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho phụ nữ ở nông thôn đƣợc thực hiện các quyền
của mình. Công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền phụ nữ ở
nông thôn ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao nhận
112
thức chung cho toàn xã hội. Vị thế, vai trò của ngƣời phụ nữ ở nông thôn Việt
Nam hiện nay đang dần đƣợc cải thiện và ngày càng đƣợc nâng cao trong tiến
trình đổi mới đất nƣớc.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, hệ thống chính sách, pháp luật về quyền của phụ
nữ, trong đó có phụ nữ ở nông thôn chƣa thực sự hoàn thiện, nhiều quy định chƣa
tính đến yếu tố đặc thù của phụ nữ ở nông thôn, còn chung chung. Việc triển khai
các biện pháp đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn chƣa đạt hiệu quả cao, còn
thiếu nhất quán.
4. Phụ nữ nông thôn đã và đang góp phần quan trọng vào tăng trƣởng kinh tế
và phát triển xã hội của Việt Nam. Trong bối cảnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn và xây dựng nông thôn mới hiện nay, trên cơ sở lý luận và thực ti n đảm bảo
quyền của phụ nữ ở nông thôn cần phải nắm rõ định hƣớng tiếp cận mới về quyền
của phụ nữ hiện nay là tập trung vào quyền của nhóm phụ nữ d bị tổn thƣơng,
trong đó đặc biệt chú ý đến nhóm phụ nữ nghèo, nông thôn; xác định rõ trách nhiệm
đảm bảo quyền của phụ nữ là yêu cầu khách quan, xuất phát t yêu cầu thực hiện
trách nhiệm của quốc gia thành viên trƣớc cộng đồng quốc tế và khu vực; đƣa các
chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về đảm bảo
quyền của phụ nữ ở nông thôn vào đời sống thực ti n.
5. Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam hiện nay chỉ có thể
thực hiện tốt khi thực hiện đồng bộ nhóm giải pháp là: Nâng cao nhận thức về
quyền và trách nhiệm đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn; Tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn;
Tăng cƣờng các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo quyền của phụ nữ ở
nông thôn trên một số lĩnh vực; Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền trong đảm bảo thực hiện quyền của phụ nữ ở nông thôn; Tăng cƣờng
hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực để đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn./.
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1.
Nguy n Thị Báo - Viện Nghiên cứu Quyền con ngƣời, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2009), “Tác động của phong tục, tập
quán đối với việc thực hiện bình đẳng giới – t góc nhìn đồng bằng bắc bộ”,
Tạp chí Cộng sản, (13), tr.181.
2.
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp và Bộ trƣởng Bộ Nội vụ (2016), Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức Trợ giúp viên pháp lý, Hà Nội.
3. Bộ Tƣ Pháp (2013), Số 08/BC-BTP Báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện
Chương trình phối hợp số 14/CTPH-BTP-HLHPNVN ngày 10/01/2013 về
việc đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư
vấn pháp luật cho phụ nữ, hòa giải cơ sở và lồng ghép giới trong xây dựng
pháp luật giai đoạn 2013- 2017, Hà Nội.
4. Bộ Tƣ Pháp (2017), Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về trợ giúp
pháp lý, thảo luận tại kỳ họp thứ 2 khóa XIV 2016 và được thông qua kỳ họp
thứ 3 khóa XIV 2017, Hà Nội.
5. Bộ Tƣ Pháp (2018), Thông tư số 12/2018/TT-BTP hướng dẫn hoạt động nghiệp
vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
6. Chính Phủ (2017), Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm
2017 quy định chi tiết một số điều của luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
7. Cục trƣởng Cục TGPL (2018), Quyết định số 35/QĐ-CTGPL 20/09/2018
Quyết định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước thuộc Cục Trợ giúp pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Phòng Chính sách và Quản lý nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
8. Nguy n Đăng Dung, Nguy n Hoàng Anh (2012), “Tăng cƣờng tính minh
bạch của quyết định hành chính”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, (28), tr.204-211.
114
9.
Nguy n Thị Kim Hoa (2000), Vị thế và vai trò xã hội của phụ nữ nông thôn trong chức năng kinh tế hộ gia đình, Hội nghị khoa học nữ lần thứ 5, Hà Nội.
10. Nguy n Minh Khoa (2013), “Vai trò và hiệu quả của câu lạc bộ trợ giúp pháp lý cho phụ nữ”, Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề tháng 9), tr. 20 – 22.
11. Nguy n Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
12. Tạ Thị Minh Lý (2005), “Bàn về khái niệm trợ giúp pháp lý”, Nhà nước và
Pháp luật, (10), tr.77 – 83.
13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
15. Nguy n Bích Ngọc (2010), “Trợ giúp pháp lý với bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình và buôn bán phụ nữ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
(chuyên đề 1), tr. 24 - 27.
16. “Nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền
toàn miền Bắc ngày 01/8/1960”, Báo Nhân dân, (2.327), ngày 2-8-1960.
17. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Lê Minh Phúc (2003), “Bộ mặt công chức cơ sở”, Nghiên cứu lập pháp, tr.68.
19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
20. Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
21. Quốc hội (2017), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
22. Trần Thị Sẵn (2013), “Phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho
phụ nữ nghèo”, Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề tháng 9), tr. 28 – 32.
23. Nguy n Minh Tuấn (2006), Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý, Nxb Công An
Nhân dân.
24. Văn phòng Trung ƣơng Đảng (1995), Thông báo số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995 của ý kiến chỉ đạo của Ban bí thư đối với Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật, Hà Nội.
25.
Lê Hằng Vân (2010), “Cần tìm hƣớng đi mới, tích cực hơn cho trợ giúp pháp lý lƣu động hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (chuyên đề 11), tr. 17 - 19.
115
26. Lê Ngọc Văn (2011), Biến đổi gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Viện Khoa học pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb T điển Bách Khoa
Hà Nội.
28. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trƣờng (2010), Báo cáo đánh giá tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý của phụ nữ dân tộc thiểu số Phần 4: Bài học kinh nghiệm từ các nước về tăng cường tiếp cận dịch vụ pháp lý cho phụ nữ dân tộc thiểu số, Hà Nội.
29. Nguy n Nhƣ Ý (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
II. Tài liệu trang Website
30.
tỉnh Quảng Ninh Sở Tƣ Pháp điện tử
Trần Cƣờng (2015), Trung tâm TGPL “Kết quả công tác phối hợp trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trên địa bàn tỉnh năm 2014” đƣợc đăng trên Cổng thông 11/01/2015 tin https://www.quangninh.gov.vn/So/sotuphap/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid= 971&Page=4.
31. Đoàn Thị Ngọc Hải (2016), “Những kết quả nổi bật trong công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm 2016” đăng ngày 6/12/2016 trên website Cục Trợ Giúp Pháp Lý Việt Nam: https://trogiupphaply.gov.vn/tin- tuc/nhung-ket-qua-noi-bat-trong-cong-tac-tro-giup-phap-ly-tren-dia-ban- tinh-ninh-binh-nam-2016.
tử Hội
32. Hội LHPN huyện Yên D ng phối hợp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý cho hội viên phụ nữ” đƣợc đăng trên Cổng thông tin liên hiệp phụ nữ Bắc Giang ngày 28/3/2019 điện https://hlhpn.bacgiang.gov.vn/thong-tin-tuyen-truyen-pho-bien-phap- luat/hoi-lhpn-huyen-yen-dung-phoi-hop-tuyen-truyen-pho-bien-giao-duc- phap-luat-va-tro-giup-phap-ly-cho-hoi-vien-phu-nu.htm.
33.
Thanh Trịnh (2019), “Sơ lƣợc một số nội dung về TGPL trên thế giới” đƣợc đăng trên website của Cục trợ giúp pháp lý Việt Nam ngày 23/8/2019, https://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/so-luoc-mot-so-noi-dung- ve-tro-giup-phap-ly-tren-the-gioi website: https://trogiupphaply.gov.vn.
34.
Trợ giúp pháp lý cho cán bộ hội viên phụ nữ huyện Yên Thế” đƣợc đăng trên Cổng thông tin điện tử Hội liên hiệp phụ nữ Bắc Giang ngày 18/4/2019 https://hlhpn.bacgiang.gov.vn/thong-tin-tuyen-truyen-pho-bien-phap-luat/tro- giup-phap-ly-cho-can-bo-hoi-vien-phu-nu-huyen-yen-the.htm.
116
III. Tài liệu tiếng Anh
35. California rural legal assistance, INC (Hỗ trợ pháp lý ở khu vực nông thôn)
website: https://www.crla.org/about-us.
36. Dictionary of law (webster 2006- Wiley Publishing), (t điển Pháp luật Anh
bởi nhà xuất bản Wiley).
37. Law on state guaranteed legal aid 2007 (Luật TGPL Moldova 2007).
38. Legal Aid Act 1978 (luật của Bang Victoria thuộc nƣớc Úc).
39. Legal Aid Queensland Act 1997 (luật của Bang Queensland thuộc nƣớc Úc)
website: https://www.legislation.qld.gov.au/view/html/inforce/current/act-
1997-018#sec.5.
40. Nita Bhalla (2017), India launches free legal aid via video conferencing to
villagers. - link,
https://uk.reuters.com/search/news?sortBy=&dateRange=&blob=Common+
Service+Centers+India
41. Reuters international news organization (Ấn Độ ra mắt chƣơng trình trợ giúp pháp lý mi n phí thông qua kênh truyền hình ở nông thôn 2017- đăng trên
báo tin tức Quốc tế Reuters ngày 12/6/2017).
42. Rural Womens outreach legal service (Tiếp cận dịch vụ Pháp lý cho Phụ nữ
ở nông thôn miền Tây Nam Queensland nƣớc Úc) website:
http://www.tasclaw.com.au/rural-womens-outreach-legal-service/.
117