ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THÙY DƯƠNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THÙY DƯƠNG
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Thắng
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
Đại học Quốc gia Hà Nội.
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật -
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Thùy Dương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC 5
THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
5
1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự 5
1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự 11
1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự 13
1.2. Khái luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự 17
1.2.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ 18
1.2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 21
1.3. Thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư 23
1.3.1. Khái luận về thu thập chứng cứ và vai trò của luật sư 23
1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự 29
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ 34
CỦA LUẬT SƯ TRONG THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Tổng quan về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ
34
trong tố tụng dân sự
2.1.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
34
2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu
36
2.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
42
2.1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án
47
2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về vai trò của luật 49
sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
hiện nay
2.3. Những bất cập và nguyên nhân chủ yếu của pháp luật về vai 57
trò của luật sư trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 63
LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU
THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật 63
3.2. Kiến nghị tổ chức thực hiện 71
KẾT LUẬN
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
bảng
2.1 Tổng hợp kinh phí Công ty TH đã bỏ ra khắc phục thiệt 56
hại do cơn bão số 1 năm 2016 gây ra
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, cải cách tư pháp
luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong
những giai đoạn gần đây, khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế càng đẩy mạnh
thì cải cách tư pháp là nhu cầu khách quan để đáp ứng yêu cầu trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như
tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Trong đó việc tăng cường vai trò của
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận
luật sư trong hoạt động tố tụng dân sự là điều hết sức cần thiết. Nhằm bảo vệ
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng.
Do vậy, việc thu thập chứng cứ là cơ sở để tòa án đưa ra kết luận khách quan
và toàn diện về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, căn cứ vào đó để có
những bản án, quyết định đúng đắn phù hợp với thực tại khách quan.
Ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự số 103/2015/QH13 (sau đây
được gọi là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) được ban hành có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2016 với nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức đã
khắc phục kịp thời những hạn chế còn tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, đáp ứng tích cực yêu cầu cấp bách của công
với nội dung phong phú, bổ sung những quy định kịp thời, những điểm mới
quan trọng thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, nắm bắt xu thế; trong
đó vấn đề chứng cứ, nội dung về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự và vai trò của luật sư là vấn đề được quan tâm sửa đổi với những điểm
mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ của các
thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
khác, đặc biệt là vai trò của luật sư - một chức danh tư pháp giúp giải quyết
cuộc cải cách tư pháp và hội nhập thế giới. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
1
đúng đắn, triệt để những vụ việc dân sự; góp phần đảm bảo và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân;
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ thuộc về các đương sự, tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ
trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và
có đơn yêu cầu tòa án. Điều này đã giảm tải cho tòa án các công việc phải tiến
quyền định đoạt cho đương sự khi quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
hành khi giải quyết vụ việc dân sự, trả lại đúng bản chất dân sự và đảm bảo
thuộc về đương sự.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã cho thấy nhiều mặt hạn chế, khiến cho hoạt động thu
thập chứng cứ của đương sự, luật sư không đạt được hiệu quả như mong
muốn, cần thiết phải tiếp tục sửa đổi bổ sung cho phù hợp, kịp thời điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Đứng trước những yêu cầu cần thay đổi phù hợp với sự
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hội nhập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ, vai trò của luật sư trong hoạt
khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong áp
dụng các quy định của pháp luật là rất cần thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn mà còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
động thu thập chứng cứ, thực tiễn áp dụng các quy định để làm sáng tỏ về mặt
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích:
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
2
vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ khi giải quyết vụ việc
dân sự, tác giả cũng phân tích các quy định của pháp luật nhằm hiểu rõ hơn
các quy định đó. Từ đó, tác giả nhận thức được vấn đề thu thập chứng cứ của
đương sự, luật sư đồng thời chỉ ra những thiếu sót, những điểm chưa hợp lý
của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn nhằm đề ra những kiến nghị và giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động thu thập
chứng cứ của luật sư khi giải quyết vụ việc dân sự.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài viết đi sâu nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
chứng cứ và các biện pháp luật sư áp dụng để thu thập chứng cứ và vai trò của
để giải quyết các vụ việc dân sự như: khái quát chung về chứng cứ, thu thập
luật sư trong thu thập chứng cứ, các văn bản pháp lý có liên quan đến tố tụng
dân sự. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm làm hoàn thiện hơn hoạt
động thu thập chứng cứ của luật sư.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn
phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Đưa ra các vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong việc
thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Thứ hai: Thực hiện vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ
Thứ ba: Đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện các quy định
pháp luật về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự và tổ chức thực hiện.
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống từ khái niệm, ý nghĩa, phạm
vi, đối tượng, sự phát triển quy định về vai trò của luật sư trong hoạt động thu
trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự mang tính khái quát cao, không rườm rà
nhưng vẫn làm bật lên bản chất, trọng tâm của vấn đề nghiên cứu.
3
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm, quan niệm về chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tượng,
xem xét vấn đề một cách toàn diện; phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, nghiên cứu chuyên
sâu các vấn đề dưới góc độ pháp luật như phương pháp phân tích, tổng hợp,
và vai trò của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ được xem xét, đánh
so sánh… Nhờ vậy, những vấn đề về chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ
giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, xác thực và có
tính hệ thống.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhận thức về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về vai trò của luật sư trong
thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
luật sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của
4
Chương 1
NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
1.1.1.1. Khái niệm luật sư, nghề luật sư
Ngày nay trong xu thế hội nhập và không ngừng phát triển, thuật ngữ
luật sư đã trở nên quen thuộc, đội ngũ luật sư ngày càng đóng vai trò quan
tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Khi nhắc đến luật sư thì có thể hiểu
trọng trong các quan hệ xã hội, khái niệm luật sư được các nhà nghiên cứu
đó là một danh từ chỉ người, một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động trong
lĩnh vực pháp luật và cũng có thể hiểu luật sư là một nghề thuộc hệ thống
ngành nghề quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan niệm luật sư
là một nghề và yêu cầu cần thiết đối với các luật sư là có kỹ năng hành nghề
thành thục. Một luật sư cần thiết phải có nhiều kỹ năng như kỹ năng phán đoán,
kỹ năng tư duy tổng quát, kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng thuyết
trình hùng biện, kỹ năng đặt câu hỏi hay kỹ năng đàm phán thương lượng.
Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những cách hiểu về khái niệm luật
sư khác nhau, một số vẫn có sự nhầm lẫn giữa thuật ngữ "luật gia" và "luật
pháp luật về nghề luật sư nói riêng chưa được hoàn thiện, mặt khác do việc
dịch các thuật ngữ có liên quan từ ngôn ngữ nước ngoài chưa được chính xác.
Từ những giải thích của từ điển và qua các tài liệu pháp lý có thể hiểu luật gia
là các chuyên gia pháp lý, am hiểu các kiến thức pháp luật và làm việc trong
các lĩnh vực pháp lý. Ngoài ra có thể hiểu luật gia là tên gọi chung đại diện cho
sư". Nguyên nhân của hiện tượng này một mặt là do pháp luật nói chung và
một tầng lớp trí thức am hiểu và hành nghề pháp luật nhưng không có tiêu
chuẩn cụ thể. Họ có thể tốt nghiệp hoặc không tốt nghiệp các cấp độ đào tạo
5
chính quy về luật nhưng sau một quá trình trau dồi, tích lũy kinh nghiệm họ
đã đạt được sự am hiểu sâu sắc về một hay một số lĩnh vực pháp lý nhất định.
Khác với "luật gia", luật sư phải là người có trình độ pháp luật theo tiêu chuẩn
quy định và có kỹ năng hành nghề được cơ quan tổ chức có thẩm quyền công
nhận hoặc cấp chứng chỉ hành nghề để hành nghề chuyên nghiệp, thực hiện cung
cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Trong mối tương quan nhất định, luật sư
là một chuyên gia pháp luật, nhưng các luật gia nói chung ngoài bộ phận luật sư
còn có rất nhiều bộ phận khác như thẩm phán, kiểm sát viên, chuyên gia pháp
chế, các giảng viên luật, các cử nhân luật, các chuyên viên tư vấn pháp luật…
từ thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công,
Luật sư ở Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài bắt đầu
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã có các quy định về luật sư và tổ
chức đoàn thể luật sư. Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 ra đời nhưng
không đưa ra định nghĩa về luật sư mà chỉ quy định muốn làm luật sư thì phải
có đủ các điều kiện theo quy định và gia nhập một Đoàn Luật sư. Đến Pháp
lệnh Luật sư năm 2001 khái niệm luật sư mới được đặt ra, theo đó luật sư là
người có đủ điều kiện hành nghề luật sư: "Luật sư là người có đủ điều kiện
hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng,
thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác nhau theo yêu cầu của cá
nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của
sư và có Chứng chỉ hành nghề Luật sư "Người muốn được hành nghề luật sư
phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư" [39, Điều 7].
Tuy nhiên quy định về tiêu chuẩn hành nghề luật sư trong Pháp lệnh Luật sư
năm 2001 chủ yếu đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ không khái quát thành khái
niệm. Đến Luật Luật sư năm 2006, khái niệm luật sư được hoàn thiện hơn,
pháp luật" [39, Điều 1]. Người muốn hành nghề luật sư phải gia nhập Đoàn Luật
"Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
6
chức (sau đây gọi chung là khách hàng)" [20, Điều 2]. Quy định tiêu chuẩn
luật sư là một điểm mới trong khái niệm luật sư của Luật Luật sư năm 2006,
"Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề
Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm
hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [20, Điều 10]. Những điều
kiện này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư là một nghề đòi hỏi có
trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo
đức và sự tích lũy kinh nghiệm thông qua thực tế. Về điều kiện hành nghề luật
nhập một Đoàn Luật sư" [20, Điều 11].
sư, "Muốn hành nghề Luật sư phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về luật sư như sau: luật sư là người
có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, có đạo đức nghề nghiệp,
được cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư và Thẻ Luật sư, thực hiện dịch vụ
pháp lý trong phạm vi yêu cầu của khách hàng theo quy định của pháp luật và
quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
Theo Luật sư Phan Trung Hoài, nghề luật sư được khái quát hóa và
định nghĩa như sau: "Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng
kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp
góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa" [9].
Với quan điểm này, tác giả cho rằng nghề với tính chất là một nghề
nghiệp và luật sư là những người đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy
định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là "công việc
luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý,
chuyên làm theo sự phân công của xã hội" hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là
"thành thạo trong một công việc nào đó". Tác giả quan niệm nghề luật sư là
7
một nghề độc lập, tức là độc lập trong hành nghề, độc lập thực hiện các công
việc và chỉ tuân theo pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật
sư. Tính độc lập của luật sư trong hoạt động hành nghề không có nghĩa là tự
tách hoạt động của mình ra khỏi khuôn khổ của các hoạt động tố tụng khác,
tính độc lập đó cũng không thể đồng nghĩa với sự cô lập mà nó hòa quyện
trong trật tự của một nền pháp chế thống nhất. Cũng có cách hiểu cho rằng
nghề luật sư như một nghề tự do, tuy nhiên cách hiểu này sẽ không hoàn toàn
phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt
động trong khuôn khổ của pháp luật và cùng với việc được cấp chứng chỉ
định và sinh hoạt trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa
hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành nghề luật sư nhất
phương mình cư ngụ. Trong luật thực định của một số nước, luật sư được coi
là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ quan niệm tính
chất của nghề nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản
của một sự vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt
động tư pháp, là người áp dụng và truyền bá pháp luật của Nhà nước. Tính
chất độc lập được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do
là nói tới phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không
gian hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những
hạn chế, bó buộc.
nghề luật sư được hiểu là: "Nghề luật sư là một trong số nghề luật trong đó tổ
chức hành nghề và luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách
hàng một cách độc lập và chuyên nghiệp" [1].
Với cách hiểu trên những từ khóa về nghề luật sư đã được nêu lên,
giúp người đọc nắm được những nội dung cơ bản về nghề luật sư. Theo đó,
nghề luật sư trước hết là một nghề luật, có sự tự do trong nghề nghiệp, sự tự
Theo Tiến sĩ Lê Mai Anh - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Tư pháp,
do này là tự do trong phương thức hành nghề, cung cấp dịch vụ pháp lý cho
8
khách hàng một cách độc lập; nghề luật sư cũng là một nghề thuộc một ngành
dịch vụ nhưng là một ngành dịch vụ đặc biệt bởi đặc trưng của nó là ngành
nghề "kinh doanh chất xám", giúp chống bất công xã hội, tạo niềm tin vào
công lý, pháp luật. Luật sư bằng kiến thức pháp luật, kinh nghiệm tích lũy của
mình cung cấp các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng và quy định
của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo
vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.2. Đặc điểm của luật sư và nghề luật sư
- Tiêu chuẩn luật sư
cá nhân luật sư. Nói cách khác phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải
được công nhận là luật sư. Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
quy định về tiêu chuẩn để được công nhận luật sư và được cấp chứng chỉ
hành nghề bao gồm:
Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
Có phẩm chất đạo đức tốt,
Có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian
tập sự hành nghề luật sư,
- Khóa đào tạo nghề luật sư
Để nâng cao chất lượng của luật sư, đảm bảo năng lực pháp lý, ngoài
tiêu chuẩn về bằng cử nhân luật còn phải qua một khóa đào tạo nghề luật sư.
Thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư theo quy định của các nước là không
giống nhau. Singapore quy định thời gian đào tạo là 5 tháng, trong khi đó
Có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư.
Pháp quy định thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là 12 tháng, còn Nhật
quy định thời gian của khóa đào tạo là 18 tháng và Đức là 2 năm [38, tr. 11].
9
Theo quy định tại Điều 12 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là mười hai tháng, tập trung chủ yếu
vào việc đào tạo kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp luật sư, sau khi hoàn thành
chương trình đào tạo nghề luật sư, cơ sở đào tạo nghề luật sư cấp Giấy chứng
nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư.
Trong một số trường hợp theo quy định tại Điều 13 Luật Luật sư năm
2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì một số người được miễn đào tạo nghề luật
sư: Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; Giáo sư, phó giáo sư chuyên
ngành luật; tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra
giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; Đã là thẩm tra viên chính ngành
viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp,
Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu
viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật.
- Tập sự hành nghề luật sư
Thời gian tập sự của các nước quy định khác nhau. Một số quốc gia
đòi hỏi thời gian tập sự là 2 năm (như Hy Lạp, Bỉ, Italian, Anh…), một số
quốc gia khác lại chỉ quy định thời gian tập sự là 12 tháng như Thái Lan và có
nước như Singapore thì chỉ đòi hỏi thời gian tập sự là 6 tháng. Về nơi tập sự
hành nghề của luật sư, hầu hết các nước đều có quy định luật sư phải tập sự
tại văn phòng, công ty luật (Singapore, Thái Lan, Đức, Nhật bản…). Bên cạnh
sự tại Tòa án, Viện công tố (như Đức, Thụy sĩ…) [38, tr. 11].
Điều 14 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định
về tập sự hành nghề luật sư, theo đó sau khi được cấp Giấy chứng nhận tốt
nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc trong trường hợp được miễn đào tạo nghề
luật sư được tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư thì thời gian tập
việc tập sự tại các hãng luật, một số nước còn quy định cho Luật sư có thể tập
sự hành nghề luật sư là 12 (mười hai) tháng được tính từ ngày đăng ký tập sự
tại Đoàn luật sư.
10
- Kỳ thi công nhận luật sư
Kỳ thi công nhận luật sư tập trung vào kiểm tra về đạo đức nghề
nghiệp và kỹ năng hành nghề của luật sư, đây là điều kiện bắt buộc để đánh
giá khả năng hành nghề của một luật sư. Khi đã hoàn thành thời gian tập sự
theo quy định, người tập sự hành nghề luật sư được tham dự kiểm tra kết quả
tập sự hành nghề luật sư, khi đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
luật sư sẽ được Hội đồng kiểm tra cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập
sự hành nghề luật sư. Sau đó, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban chủ
- Hành nghề luật sư
nhiệm Đoàn luật sư.
Sau khi có Chứng chỉ hành nghề luật sư, cấp Thẻ Luật sư và gia nhập
một Đoàn luật sư, luật sư có thể lựa chọn một hình thức hành nghề được pháp
luật quy định. Trên thế giới hiện nay chủ yếu có hai hình thức tổ chức hành
nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh để đảm bảo tính
chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của nghề luật sư. Tại Việt Nam,
hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn vẫn được chấp nhận. Ngoài ra luật
sư có thể làm thuê cho khách hàng không chuyên môn hay còn gọi là luật sư
nội bộ, tức là người chủ thuê luật sư cũng đồng thời là khách hàng duy nhất
của luật sư đó, luật sư không có khách hàng riêng nào khác.
Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, các
vụ án dân sự tại tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Hoạt động tố tụng
dân sự được thực hiện bởi hai loại chủ thể khác nhau, đó là người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng. Nếu thiếu một trong hai loại chủ thể nêu trên
thì sẽ không hình thành quan hệ tố tụng.
1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự
Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các
11
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát,
Cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát sinh trong tố tụng
dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự
một cách nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là những quan hệ nảy
sinh giữa các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đó là các quan
hệ giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các
sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các quan hệ thuộc đối tượng
chủ thể khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… nảy
điều chỉnh của luật tố tụng dân sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong tố tụng, việc
thực hiện mục đích của tố tụng là động lực thiết lập các quan hệ. Ngoài ra, ở
các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự không có sự bình
đẳng giữa các chủ thể, địa vị pháp lý của các chủ thể trong tố tụng dân sự khác
nhau. Trong đó, tòa án, cơ quan thi hành án là các chủ thể có vai trò quyết
định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và tổ chức thi hành án dân sự.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự: Luật tố tụng dân sự
sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh và định đoạt.
Phương pháp mệnh lệnh thể hiện trong mối quan hệ giữa tòa án, viện kiểm
kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác
thực hiện nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Phương pháp định đoạt thể
hiện ở chỗ các đương sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trước tòa án. Khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay
tranh chấp các đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án giải
sát, cơ quan thi hành với các chủ thể khác; các quyết định của tòa án, viện
quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân
sự, các đương sự vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thỏa thuận giải quyết
12
những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hay
không yêu cầu thi hành án nữa.
1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự
Luật sư và nghề luật sư đã ra đời và phát triển từ rất lâu khoảng thế
kỷ XII tại Đức, Pháp, tuy nhiên ở những nước mà mối quan hệ giữa con
người với con người bị chi phối, ảnh hưởng nhiều bởi tâm linh thì nghề luật
sư chậm phát triển hơn. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát
triển, thậm chí không có nghề luật sư bởi người Hồi giáo phục tùng ý chí của
đấng Allah, người duy nhất có quyền phán xử điều đúng, sai. Đạo Hồi chính
cuộc sống mà con người phải theo.
là những lời răn dạy, những giáo lý về đạo đức cũng như những quy tắc của
Nghề luật sư được coi trọng và phát triển tại các nước dân chủ, phát
triển. Để đảm bảo công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ
phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư, thậm chí, yêu cầu có luật sư còn là
điều kiện tiên quyết khi các bên tham gia tố tụng. Theo quan điểm của luật sư
phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá
nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng
đồng xã hội.
Nhiệm vụ của luật sư là góp phần bảo vệ pháp quyền bằng việc hướng
dẫn cho khách hàng hiểu đúng quy định và tinh thần của pháp luật, thi hành,
pháp và pháp luật bảo vệ. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư với tư cách là
người có kiến thức sâu rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp
quyền là phương tiện hữu hiệu bảo đảm tốt nhất cho quyền và lợi ích của các
cá nhân, tổ chức mà chủ yếu được diễn ra thông qua hai hình thức cơ bản là tư
phục vụ công lý, bảo vệ những quyền và lợi ích của công dân đã được Hiến
vấn pháp luật và tranh tụng tại tòa… Đối với công dân, luật sư giúp công dân
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, nâng cao dân trí và nhận
13
thức pháp luật. Đối với các tổ chức kinh tế, luật sư đóng vai trò cố vấn pháp
luật, chỉ ra môi trường pháp luật an toàn cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư
và giải quyết tranh chấp khi luật sư bằng kinh nghiệm, kiến thức, uy tín của
mình tham gia vào quá trình tố tụng, góp phần hỗ trợ cho hoạt động tài phán
được khách quan toàn diện và bảo đảm nguyên tắc công bằng.
Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ
nhất những đặc trưng của nghề luật. Ngoài những yêu cầu về kiến thức và
trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ
theo quy chế đạo đức nghề nghiệp, đây là nét đặc thù riêng của nghề luật sư
sư. Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như sau:
có tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề nhất là kỹ năng tranh tụng của luật
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Luật sư hỗ trợ tối đa để khách hàng đưa
ra yêu cầu và thực hiện tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Với vai trò đảm
bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, luật sư giúp đỡ, bênh vực
cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Do đó, tính
chất trợ giúp thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là trách nhiệm, là
việc thực hiện dịch vụ pháp lý mà còn thể hiện tư cách đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: luật sư còn đóng vai trò là người hướng
dẫn cho khách hàng tuân thủ quy trình, nội dung và cách giải quyết vấn đề
pháp lý của khách hàng. Bên cạnh đó luật sư giúp khách hàng hiểu đúng tinh
hóa của dân tộc; biết cách tìm kiếm, thu thập và sử dụng chứng cứ để trước
hết tự mình thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trước pháp luật.
Thứ ba, tính chất phản biện: tính chất phản biện trong hoạt động của
luật sư là dựa trên sự hiểu biết sâu rộng về pháp lý và đạo lý để đưa ra những
biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác. Luật sư
thần và nội dung những quy định của pháp luật cũng như tục lệ và bản sắc văn
giúp khách hàng nhìn nhận vấn đề theo nhiều góc độ để bảo vệ công lý và lợi
14
ích của khách hàng. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực
để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ đúng sai… từ đó đề
xuất những biện pháp, quan điểm phù hợp bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.
Theo quy định tại Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung
năm 2012 của pháp luật thì nội dung của nghề Luật sư bao gồm:
Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy
định của pháp luật.
Thực hiện tư vấn pháp luật.
Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có
liên quan đến pháp luật.
Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này.
Nhìn chung, luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề
nghiệp của cá nhân luật sư - là yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Luật sư là
một nghề góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích
dựng Nhà nước pháp quyền và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động của luật sư trong tố tụng dân sự tuy không phải là hoạt
động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ mật thiết với hoạt động tư pháp, hỗ trợ
cho mọi hoạt động tư pháp. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự có
thể xem như một biện pháp hữu hiệu để giúp cho các cá nhân, tổ chức bảo vệ
hợp pháp của cá nhân, công dân, các tổ chức kinh tế - xã hội, góp phần xây
chung và trong tố tụng dân sự nói riêng, vị trí và vai trò của luật sư là rất lớn,
được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy trong xã hội nói
15
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền cơ bản
của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trước Tòa: Trong tố tụng dân sự, luật sư có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ
khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các cá nhân tổ chức không tránh khỏi
phát sinh những tranh chấp cần giải quyết bằng pháp luật thông qua Tòa án.
Trong khi đó trình độ nhận thức, hiểu biết về pháp luật của mỗi người là khác
hợp pháp của mình trước Tòa án. Do đó, họ cần sự trợ giúp của luật sư là
nhau, kéo theo những hạn chế nhất định để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích
người có chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, có trình độ hiểu biết pháp luật,
có kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm tham gia tố tụng để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của mình.
- Vai trò của luật sư trong việc tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động
tố tụng nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng: Luật sư là chuyên gia
pháp luật, bên cạnh việc trực tiếp tham gia tranh tụng luật sư còn đóng vai trò
tư vấn pháp luật cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức để họ nhận thức và thực
hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật hay khi
doanh nghiệp. Theo đó luật sư cùng doanh nghiệp tham gia vào "sân chơi"
kinh tế chung, để doanh nghiệp nắm vững các quy định của pháp luật tránh
vướng mắc đồng thời thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình cũng như bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trước các chủ thể khác. Cụ thể, luật sư tư
vấn, giải đáp cho đương sự các vấn đề khúc mắc có liên quan đến vụ việc trên
cơ sở đối chiếu các quy định của pháp luật, soạn thảo các văn bản liên quan.
tham gia tố tụng. Thậm chí luật sư còn được coi là người bạn đồng hành cùng
Việc tư vấn pháp luật của luật sư cũng góp phần giảm thiểu được những tranh
16
chấp trong xã hội, hạn chế được những vi phạm do sự thiếu hiểu biết pháp
luật của người dân gây ra.
- Vai trò của luật sư trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật là khâu đầu tiên, quan trọng để đưa pháp luật vào cuộc sống. Trong
điều kiện pháp luật được ban hành ngày càng nhiều, điều chỉnh đa dạng các
quan hệ xã hội phục vụ tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật tuy đã được thực hiện nhiều năm nhưng chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu bức thiết của tình hình mới. Là người có kiến thức pháp luật
dục pháp luật trong cộng đồng và xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống
sâu rộng, luật sư góp phần quan trọng trong việc tuyền truyền phổ biến giáo
pháp luật bằng việc phát hiện những hạn chế, thiếu sót của pháp luật trong
quá trình luật sư tham gia tố tụng.
Có thể thấy rằng, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự là rất quan trọng nhằm giúp các đương sự hiểu đúng,
hiểu đủ quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật, tránh bị các cơ quan tiến
hành tố tụng lạm quyền làm thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình cũng như
hiểu được bản án, quyết định của các cơ quan tố tụng tuyên đối với đương sự
đã đúng pháp luật hay chưa tránh khiếu kiện, khiếu nại kéo dài làm ảnh hưởng
đến thời gian cũng như kinh tế của các đương sự. Sự tham gia của luật sư
pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ việc, giúp cho việc giải quyết vụ việc được nhanh chóng, chính xác, khách
quan và toàn diện. Cùng với sự phát triển của nền tư pháp, luật sư đang từng
bước khẳng định vị trí và vai trò của mình khi tham gia tố tụng dân sự.
trong tố tụng dân sự không chỉ giúp đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
1.2. Khái luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đương sự có quyền, nghĩa vụ chứng minh và để có cơ sở chứng minh cho yêu
17
cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác đòi hỏi đương sự, luật
sư của đương sự phải cung cấp chứng cứ cho tòa án.
1.2.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ
Khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận tương đối đầy đủ tại
Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do
Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự [19].
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đưa ra khái niệm chứng cứ tại Điều 93
quy định như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa
án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn
cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định
yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp [27].
Việc cung cấp chứng cứ có thể được tiến hành ngay từ khi khởi kiện
tụng dân sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
cũng có trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Còn với tư cách là người đại diện của đương sự luật sư có
trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chứng cứ đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân
và trong cả quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Luật sư khi tham gia tố
sự nhưng là phạm trù pháp lý khá phức tạp. Tuy vậy, cũng như các sự vật, sự
việc khác con người vẫn có thể nhận thức được chứng cứ thông qua các thuộc
18
tính của nó. Các thuộc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách quan, tính liên
quan và tính hợp pháp.
Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ
việc dân sự. Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ nhận thức đúng bản
chất của sự vật, sự việc khi nó được phản ánh lại một cách khách quan.
Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu sẽ không bao giờ nói lên
được bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của nhận thức.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là cái có
thật, tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của con người. Chứng cứ có thể là sản phẩm
xuất hiện. Trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những
của ý chí con người nhưng từ thời điểm ra đời, tính khách quan của chứng cứ đã
người tham gia tố tụng không thể tạo ra chúng theo ý muốn chủ quan của họ.
Trong thực tiễn xét xử nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn giữa sự kiện có thật và
sự kiện do con người tạo ra, do đó để đánh giá tính khách quan của những sự
kiện mang tính chất chứng cứ được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, các
sự kiện đó phải được nghiên cứu, đánh giá, phân tích, so sánh và sử dụng
chúng trong mối liên hệ giữa chúng với nhau và với sự việc. Xác định được
tính khách quan của chứng cứ tòa án loại bỏ được những cái không có thật,
không sử dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, theo quy định của pháp luật.
sự, tòa án sử dụng chứng cứ, dựa vào chứng cứ vào để giải quyết vụ việc dân
sự. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân
sự có mối quan hệ nhất định. Nhờ chứng cứ mà tòa án có thể công nhận hay
phủ nhận được tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện khác của vụ việc
dân sự hoặc đưa ra tin tức về nó; những tình tiết, sự kiện này phải đảm bảo
Chứng cứ có tính liên quan bởi trong quá trình giải quyết vụ việc dân
các điều kiện theo quy định và phải liên quan tới việc giải quyết vụ việc dân
sự thì mới được coi là chứng cứ.
19
Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp, cũng có thể là gián tiếp.
Mối liên hệ trực tiếp là mối liên hệ mà dựa vào chứng cứ đó có thể xác định
được ngay những tình tiết cần phải chứng minh trong vụ việc dân sự. Mối quan
hệ gián tiếp là mối quan hệ mà dựa vào chứng cứ đó, phải qua nhiều khâu
trung gian mới xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ đó với những
tình tiết trong vụ kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì chứng
cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một mối quan hệ
nhất định, ngược lại hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn
dến việc hình thành các chứng cứ đó. Căn cứ vào tính liên quan của chứng cứ,
có liên quan đến vụ việc dân sự. Từ đó, không phải xác minh làm rõ chúng,
trong quá trình giải quyết vụ việc, tòa án có thể loại bỏ được những cái không
bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng đắn.
Chứng cứ có tính hợp pháp, bởi việc giải quyết vụ việc dân sự không
thể tách rời quá trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Quá trình
này lại rất phức tạp, pháp luật phải quy định cụ thể những vấn đề liên quan
đến chúng thì mới có thể làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng với bản
chất của nó. Tính hợp pháp của chứng cứ yêu cầu chứng cứ phải được rút ra
từ những nguồn nhất định, quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử
dụng phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Nếu không theo
các trình tự được quy định của pháp luật thì không được coi là chứng cứ và
bảo giá trị của chứng cứ, vừa ràng buộc tòa án tiến hành tố tụng một cách
thận trọng, chặt chẽ vừa đảm bảo độ tin cậy và khách quan của chứng cứ mà
các bên thu thập và sử dụng.
Như vậy, chứng cứ có ba thuộc tính cơ bản, căn cứ vào các thuộc tính
này, tòa án và các chủ thể khác sẽ xác định được những gì được coi là chứng
không được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự. Đây là trình tự nhằm đảm
cứ. Chỉ những sự vật có đủ ba thuộc tính đó thì mới được sử dụng với tư cách
là chứng cứ.
20
1.2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án thường chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên nên thường rất phức tạp và để giải quyết được
vụ việc dân sự thì mọi vấn đề dù được bên nào nêu ra cũng đều phải được làm
rõ trước khi tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Hoạt động này là vai
trò của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, chứng minh trong tố tụng
dân sự của các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật sẽ làm rõ các sự
kiện, tình tiết của vụ việc dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể
vụ việc dân sự.
tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của
Quá trình chứng minh diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ việc
dân sự. Hoạt động chứng minh trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân
sự bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các chủ thể tố tụng. Trong đó
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ
thể là chủ yếu và mang tính chất quyết định. Tuy vậy, nếu xem xét một cách
toàn diện thì trong quá trình tố tụng ngoài việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu
và đánh giá chứng cứ các chủ thể tố tụng còn phải làm rõ cả những cơ sở
pháp lý liên quan đến các yêu cầu trong vụ việc dân sự. Do đó, chứng minh
bao gồm cả hoạt động cung cấp, thu thập, đánh giá chứng cứ và chỉ ra các căn
Bản chất của chứng minh trong tố tụng dân sự chính là việc cung cấp,
sử dụng chứng cứ. Việc sử dụng chứng cứ để chứng minh với những đặc tính,
phản ánh sự thật khách quan của chứng cứ là một nguyên tắc trong tố tụng,
thể hiện sự logic, tính khoa học, mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Các
nguyên tắc trong pháp luật nói chung và luật tố tụng dân sự nói riêng chỉ đúng
cứ pháp lý để làm cho mọi người nhận thức đúng sự việc.
khi nó phù hợp với bản chất của ngành luật, với thực tế các quan hệ xã hội mà
ngành luật đó điều chỉnh. Chứng minh là hoạt động tố tụng dân sự cơ bản của
21
các chủ thể tố tụng. Kết quả giải quyết các vụ việc dân sự phụ thuộc một phần
rất lớn vào kết quả của hoạt động chứng minh.
Mặc dù các đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ trước tòa án
nhằm thuyết phục về những yêu cầu mà mình đưa ra là có căn cứ, song chứng cứ
do các đương sự cung cấp không phải lúc nào cũng có độ chính xác tuyệt đối vì
có thể có sự nhầm lẫn hay giả mạo chứng cứ. Do đó, luật sư cần hướng dẫn hoặc
trực tiếp thu thập, xác minh các chứng cứ đó thông qua việc nghe các đương
sự trình bày, giải thích cho các đương sự hiểu được vị trí, vai trò của mình.
Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh,
các chứng cứ với những sự kiện được thu thập từ thực tế khách quan. Thông
nó là một quá trình logic nhằm xác định giá trị chứng minh và sự phù hợp của
qua quá trình đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng hình thành được các đối tượng chứng minh và sắp xếp các sự kiện
theo một trình tự nhất định. Việc suy đoán chứng cứ có thể được sử dụng
trong quá trình đánh giá chứng cứ nhưng việc suy đoán này phải dựa trên cơ
sở các chứng cứ khác hoặc trên tổng thể các chứng cứ có trong hồ sơ chứ
không được theo nhận thức chủ quan của người đánh giá.
Đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự: Đối tượng chứng minh là
tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự cần được xác
định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
các tình tiết, sự kiện cần xác định cũng rất đa dạng bao gồm sự kiện sinh tử,
hành vi giao kết hợp đồng, hành vi gây thiệt hại, việc không thực hiện nghĩa
vụ… Việc xác định những vấn đề cần chứng minh với từng loại vụ kiện cụ
thể phải căn cứ vào những quy định của pháp luật về nội dung đối với từng
loại quan hệ pháp luật tranh chấp. Do đó, trong mỗi vụ việc dân sự cụ thể cần
Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất phong phú nên
phải xác định được đối tượng chứng minh của nó gồm những sự kiện, tình tiết
nào. Việc xác định đúng đối tượng chứng minh trong mỗi vụ việc dân sự cụ
22
thể có ý nghĩa rất quan trọng, có tính chất quyết định tới kết quả giải quyết vụ
việc dân sự. Vì xác định đối tượng chứng minh cũng có nghĩa là xác định
phạm vi những sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự cần làm rõ, thông qua đó
chứng minh làm rõ nó, để tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự được
đúng đắn. Trên cơ sở xác định được đúng đối tượng chứng minh mới xác định
được các chứng cứ, tài liệu cần có để giải quyết vụ việc dân sự, từ đó yêu cầu
các đương sự và những người đang lưu giữ cung cấp cho tòa án theo quy định
của pháp luật. Nếu như không xác định đúng đối tượng chứng minh sẽ dẫn
đến việc tiến hành chứng minh thừa hoặc thiếu các tình tiết, sự kiện liên quan
cho việc quyết định giải quyết vụ việc dân sự không có cơ sở.
đến vụ việc dân sự, điều này vừa làm mất thời gian, công sức vừa có thể làm
Nói chung, tất cả các tình tiết, sự kiện trong vụ việc dân sự thì đều cần
phải chứng minh, tuy vậy cũng có một số tình tiết, sự kiện hiển nhiên không
cần phải chứng minh như Sự kiện, tình tiết mà mọi người đều biết như thiên
tai, thảm họa; Sự kiện, tình tiết đã được chứng minh trong các bản án hình sự,
dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Điều này đảm bảo cho công tác xét xử của
tòa án được nhanh chóng, chính xác đồng thời khắc phục được tình trạng có
thể xảy ra mâu thuẫn giữa những quyết định của tòa án và các cơ quan có
thẩm quyền về cùng một vấn đề. Mặc dù không phải chứng minh nhưng khi
sử dụng những chứng cứ không cần phải chứng minh, các bên phải nêu rõ
nguồn gốc, xuất xứ của những sự kiện đó.
1.3. Thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
1.3.1. Khái luận về thu thập chứng cứ và vai trò của luật sư
Chứng cứ cung cấp cho tòa án có hai loại, một là các chứng cứ có sẵn
và hai là các chứng cứ cần phải đi tìm, thu thập. Theo Đại từ điển Tiếng Việt
thì "thu thập" được hiểu là hoạt động "góp nhặt và tập hợp lại" [38, tr. 958].
Nếu kết hợp hai định nghĩa "thu thập" và "chứng cứ" đã nêu ở trên thì có thể
hiểu một cách khái quát khái niệm thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự là:
23
hoạt động tìm kiếm, tập hợp các tài liệu, tình tiết có thật, liên quan tới vụ việc
dân sự nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ việc đó. Xét trên góc độ thông
tin, thì thu thập chứng cứ là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác
định sự thật của vụ việc. Xem xét dưới góc độ pháp luật tố tụng dân sự, hoạt
động thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa
vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ
việc dân sự, do các chủ thể của việc chứng minh thực hiện thông qua hoạt
động tìm kiếm, phát hiện, thu lại các thông tin, tài liệu, chứng cứ có liên quan
theo một trình tự thủ tục luật định nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của
vụ việc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể chứng minh.
luật sư trong tố tụng dân sự như sau: Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
là hoạt động tham gia tố tụng của luật sư bằng việc tìm kiếm, phát hiện, thu
lại các thông tin, tài liệu, chứng cứ có thật liên quan đến vụ việc nhằm làm rõ
các tình tiết khách quan qua đó xác định căn cứ cần thiết trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
Để chứng cứ có giá trị chứng minh thì việc thu thập chứng cứ phải
được thực hiện theo quy định của pháp luật thông qua các biện pháp thu thập
chứng cứ hợp pháp. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt thì "biện pháp" được hiểu là
"cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể" [38, tr. 64]. Như vậy, nếu kết
khái niệm biện pháp thu thập chứng cứ được hiểu là: cách làm, cách thực hiện
hoạt động tìm kiếm, tập hợp, góp nhặt các tài liệu, các tình tiết có liên quan
tới một vụ việc dân sự nhằm khôi phục lại sự thật khách quan của vụ việc đó.
Công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng nhất trong quá trình chứng
minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại như cung cấp, nghiên
hợp khái niệm "biện pháp" và khái niệm "hoạt động thu thập chứng cứ" thì
cứu, đánh giá chứng cứ. Do vậy, việc tiến hành thu thập chứng cứ của luật sư
cần phải đảm bảo tính hiệu quả và tính hợp pháp của chứng cứ thu thập được.
24
Thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp
lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải thực hiện theo những
nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải đảm bảo tính pháp lý, hay nói
cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về biện pháp,
trình tự, thủ tục của pháp luật.
Vai trò của luật sư là tổng hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và
nghĩa vụ của luật sư trong xã hội với vị thế là một chủ thể tham gia tích cực
vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền thu thập chứng cứ của luật
hợp pháp của đương sự, vai trò và vị trí của luật sư từng bước được nâng cao,
sư khi tham gia tố tụng dân sự với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích
là chủ thể quan trọng trong hoạt động thu thập chứng cứ. Đây là sự thay đổi
rất lớn của Bộ luật Tố tụng dân sự so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
dân sự năm 1989 về quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Trước đây theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989
thì luật sư hay nói chung là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự tham gia vào quá trình tố tụng khi hồ sơ vụ việc gần như đã hoàn tất
và luật sư chỉ tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ bằng
việc đọc, sao chụp hồ sơ sẵn có để nghiên cứu đưa ra quan điểm bảo vệ cho
đương sự theo các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ. Do vậy, vị trí vai trò
không được đánh giá cao. Năm 2004 Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành
đã ghi nhận, khẳng định nguyên tắc tự chứng minh, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về đương sự. Năm 2011, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa
đổi bổ sung, lần đầu tiên nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử được
pháp luật ghi nhận trong Điều 23a của Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi năm
và tầm quan trọng của luật sư khi tham gia tố tụng dân sự là khá mờ nhạt,
2011 với nội dung: "Điều 23a. Bảo đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương
25
sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền
tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự". Đây là sự thay
đổi quan trọng, mang tính đột phá trong cải cách tư pháp của nước ta. Các quy
định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia sâu rộng vào quá
trình tố tụng dân sự, đặc biệt qua việc chủ động thu thập chứng cứ để bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng và hoạt động chứng minh. Hơn thế nữa, Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 không chỉ kế thừa Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
trong việc ghi nhận nguyên tắc tranh tụng và các biện pháp thu thập chứng cứ,
tạo hành lang pháp lý cho việc gỡ bỏ những khó khăn trong quá trình thu thập
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm
chứng cứ của đương sự, luật sư trong quá trình thu thập chứng cứ khi áp dụng
2015, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được quy định rõ ràng, cụ thể hơn:
Điều 24. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử:
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có
quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân
sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình
bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật
cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này
Hiện nay, pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm chứng minh thuộc
về các bên đương sự, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế khi chưa tạo ra được cơ
chế tốt nhất để các bên đương sự có thể thu thập chứng cứ nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình dẫn đến việc gặp phải rất nhiều khó khăn,
áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu
vướng mắc trong quá trình thu thập chứng cứ. Đồng thời cũng do trình độ
nhận thức pháp luật còn hạn chế mà phần lớn đương sự khi tham gia tố tụng
26
dân sự không thể thực hiện tốt việc thu thập, sử dụng chứng cứ cũng như
trách nhiệm chứng minh.
Trong thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án thì tỷ lệ
số vụ việc dân sự giải quyết dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh của các
đương sự là rất ít, hầu hết các vụ việc dân sự được giải quyết đều do tòa án
chủ động, tích cực xác minh, thu thập chứng cứ. Việc tòa án tham gia thu thập
chứng cứ là nhằm mục đích làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc và
đưa ra được một bản án, quyết định đúng pháp luật, phù hợp với thực tế khách
quan trên cơ sở bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên đương
lý thực hiện nhiệm vụ, không thu thập chứng cứ với ý nghĩa bảo vệ quyền lợi
sự. Tuy nhiên, do bản thân tòa án là một cơ quan nhà nước, trung lập, vì công
bị xâm phạm của một bên nào nên có những hạn chế nhất định về mặt khách
quan cũng như chủ quan trong quá trình thu thập chứng cứ đối với mục đích
chứng minh của đương sự. Do vậy, có thể thấy sự tham gia thu thập chứng cứ
của tòa án chỉ mang tính chất hỗ trợ cho các đương sự, để bảo đảm tốt quyền
và lợi ích hợp pháp của chính mình, thì đương sự cần chủ động thu thập
chứng cứ. Và để mang lại hiệu quả cao nhất trong việc thu thập chứng cứ của
đương sự thì cần phải có sự tham gia giúp đỡ của luật sư - những người có
trình độ hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và độc lập trong khi
hành nghề luật sư.
đảm tính chính xác cao, có độ tin cậy gần như tuyệt đối, là căn cứ cho việc
bảo vệ các yêu cầu của đương sự hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự khác.
Đồng thời hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư cũng là căn cứ quan trọng
cho việc đưa ra các kết luận, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc giải quyết vụ việc dân sự. Các kết luận, phán quyết của các chủ thể tiến
Với sự tham gia của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ sẽ bảo
hành tố tụng dựa trên những tài liệu, chứng cứ do luật sư thu thập sẽ là cơ sở
khẳng định hoặc phủ định những giả thiết đã nêu trong quá trình chứng minh.
27
Như đã nói đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của mình. Căn cứ vào các chứng cứ mà đương sự cung cấp, tòa
án sẽ tiến hành thẩm định, xác minh, phân tích để thấy rõ giá trị chứng minh
cũng như tính hợp pháp của chứng cứ. Chính vì vậy, đương sự phải ý thức
được trách nhiệm của mình trong việc thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, không phải đương sự nào cũng dễ
dàng xác định được cách thức thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ, cũng
như cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đang lưu giữ chứng cứ đó. Do vậy, cần sự
hướng dẫn, tư vấn của luật sư cho đương sự đồng thời tự mình tiến hành các
nghiệm nghề nghiệp, đối với mỗi yêu cầu của đương sự, luật sư sẽ xác định
biện pháp thu thập chứng cứ. Với trình độ hiểu biết pháp luật, cũng như kinh
được các tài liệu chứng cứ cần phải thu thập và thời điểm cung cấp các
chứng cứ cho tòa án để bảo vệ tối đa lợi ích của thân chủ. Hoạt động thu
thập chứng cứ của luật sư là hoạt động cần thiết, quan trọng; là biện pháp
bảo đảm, tạo tiền đề cho các hoạt động tố tụng khác như hoạt động xét xử tại
phiên tòa, ảnh hướng rất lớn tới kết luận tại bản án, quyết định của tòa án.
Việc luật sư trực tiếp tham gia thu thập chứng cứ giúp cho luật sư làm rõ và
hiểu được sự thật khách quan, diễn biến các tính tiết của vụ việc, đồng thời
giúp luật sư hệ thống lại các tình tiết liên quan, xác định những chứng cứ
cần thiết phải thu thập thêm. Thông qua hoạt động thu thập chứng cứ luật sư
minh tốt nhất tại phiên tòa.
Luật sư đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp đương sự xác
định được giá trị chứng minh của chứng cứ, thu thập và sử dụng chứng cứ qua
đó giúp đương sự thực hiện được tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của
mình. Đồng thời hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư giúp bảo đảm chất
bổ sung chứng cứ, củng cố các tài liệu, lý lẽ để đạt được hiệu quả chứng
lượng tham gia của luật sư trong cả quá trình tố tụng dân sự nói chung cũng
như trong phiên tòa xét xử vụ án nói riêng.
28
1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự
Chứng cứ là căn cứ quan trọng nhất để xác định sự thật khách quan của
vụ việc, là cơ sở để Tòa án đưa ra phán quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Vì
thế, để thực hiện tốt hoạt động chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho thân chủ, luật sư cũng có quyền, nghĩa vụ thu thập và cung cấp chứng cứ.
Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho tòa án để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Ngay từ khi nộp đơn
khởi kiện, theo quy định tại Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì
người khởi kiện đã có trách nhiệm nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu,
pháp. Đây là một việc không phải đương sự nào cũng dễ dàng xác định được,
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp
họ cần sự hướng dẫn, tư vấn của luật sư thậm chí là ủy quyền cho luật sư đi
tìm và xuất trình chứng cứ cho tòa án. Bằng sự hiểu biết pháp luật và kinh
nghiệm nghề nghiệp, luật sư nhận biết được đối với yêu cầu của người khởi
kiện, cần phải có chứng cứ nào. Nếu những chứng cứ đó đã có thì luật sư giúp
đương sự cung cấp cho tòa án và họ biết nên cung cấp vào thời điểm nào là có
lợi nhất. Có thể nói việc xác định đúng các chứng cứ cần thiết và đúng thời
điểm cung cấp có ý nghĩa chiến lược trong việc bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Cung cấp chứng cứ chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ
vụ án, chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng
tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Luật sư sẽ giúp đương sự tìm kiếm, cung cấp
chứng cứ một cách phù hợp và hiệu quả, trong một số trường hợp với tư cách
là luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, luật sư còn yêu cầu
tòa án áp dụng một số biện pháp điều tra cần thiết hoặc trưng cầu giám định
để tìm ra những chứng cứ có giá trị nhằm bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích
cứ càng cụ thể, chính xác bao nhiêu thì việc tranh luận và vai trò phân xử của
hợp pháp của khách hàng. Tuy nhiên, do bản chất việc cung cấp chứng cứ là
không hề đơn giản ngay cả khi đương sự có sự tham gia hỗ trợ của luật sư.
29
Bởi việc cung cấp chứng cứ còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan là quá trình
thu thập chứng cứ cũng như yếu tố chủ quan là mục đích sử dụng chứng cứ
trong từng giai đoạn của quá trình tố tụng dân sự. Do vậy, với việc nộp đơn
khởi kiện, pháp luật chỉ quy định đương sự cung cấp kèm theo các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng
cứ khác người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của
tòa án trong quá trình giải quyết vụ án (Điều 6 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP).
Tại phiên tòa, các đương sự cũng có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ để
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình [27, Điều 248].
giới hạn thời điểm cung cấp chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ của luật
Để bảo đảm quyền chứng minh của luật sư, pháp luật Việt Nam không
sư cũng được diễn ra xuyên suốt quá trình của vụ việc dân sự, ngay từ trước
khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi xét xử phúc thẩm. Sau khi đã thu thập
được các chứng cứ cần thiết, luật sư tự mình hoặc hướng dẫn các đương sự
cung cấp các chứng cứ cho tòa án. Tuy vậy, từ thực tế giải quyết vụ việc dân
sự, việc cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào có lợi nhất là một vấn đề
khó khăn và mang tính chất quyết định. Có những chứng cứ cần thiết phải
được cung cấp ngay cho tòa án để nội dung của chứng cứ đó được truyền tải
cho phía đương sự đối lập, cũng có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho
tòa án và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình. Luật sư
hợp mà còn hướng dẫn các đương sự cung cấp chứng cứ cho tòa án theo lộ
trình, đạt hiệu quả nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Mặt khác, với các thông tin, tài liệu đã có, luật sư giúp đương sự phân loại
chứng cứ trước khi giao nộp cho tòa án. Bởi lẽ trên thực tế trong quá trình thu
thập chứng cứ sẽ có rất nhiều thông tin, tài liệu được đương sự và luật sư thu
không những giúp đương sự thu thập và cung cấp các chứng cứ một cách phù
thập, tập hợp về. Tuy nhiên, không phải bất cứ thông tin, tài liệu nào trong đó
cũng được coi là chứng cứ và có giá trị chứng minh. Bằng kiến thức sâu rộng
30
và trình độ hiểu biết pháp luật cao, luật sư sẽ giúp đương sự phân loại các
thông tin, tài liệu thu thập được dựa trên cơ sở quy định của pháp luật và sự
đánh giá giá trị chứng minh của thông tin, tài liệu này mà luật sư tư vấn cho
đương sự cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình.
Luật sư cũng lưu ý khách hàng khi giao nộp chứng cứ cho tòa án cần
phải được lập biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ, trong đó liệt kê đầy đủ các
chứng cứ đương sự giao nộp và ghi rõ các tài liệu bản gốc, bản sao, thời gian
giao nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và
con dấu của tòa án, biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ
trong trường hợp thất lạc chứng cứ sau này. Thực tiễn tham gia tố tụng cho thấy,
việc và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ để làm rõ trách nhiệm
phần lớn khi đương sự trực tiếp nộp đơn khởi kiện đều gặp những khó khăn nhất
định do đơn khởi kiện và hồ sơ kèm theo còn nhiều thiếu sót hoặc do cán bộ tòa
án có thái độ không thiện chí khi nhận đơn. Trong trường hợp này theo quy
định tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 sau khi chuẩn bị đơn khởi
kiện và hồ sơ gửi kèm, luật sư thường hướng dẫn cho khách hàng nộp đơn khởi
kiện qua đường bưu điện hoặc bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử
của tòa án (nếu có). Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu đương sự thuộc trường hợp
được miễn giảm án phí, luật sư hướng dẫn cho đương sự làm đơn xin miễn giảm
án phí có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Nghị quyết số
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí. Trong trường hợp tòa án ra thông
báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, hoặc trả lại đơn khởi kiện, luật sư cần
xem xét lại hồ sơ, đối chiếu với các quy định của pháp luật để giúp đương sự
sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện cho phù hợp. Nếu nhận thấy yêu cầu sửa đổi
bổ sung đơn khởi kiện hoặc việc trả lại đơn khởi kiện của tòa án không phù
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn,
hợp với tình hình thực tế, không có căn cứ pháp luật thì luật sư giúp đương sự
soạn thảo đơn khiếu nại gửi cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết.
31
Theo Điều 243, Khoản 3 Điều 248 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015,
tại phiên tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền
thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Trong
quá trình tố tụng có thể làm phát sinh hoặc sáng tỏ nhiều tình tiết, sự kiện mà
trước đó chưa có hoặc bị che giấu. Đồng thời từ khi khởi kiện cho đến khi tòa
án đưa vụ án ra xét xử, các bên đương sự và tòa án đã thu thập và bổ sung rất
nhiều chứng cứ mới có thể làm thay đổi bản chất của vụ việc hoặc tác động
đến việc chứng minh yêu cầu của các bên đương sự. Do vậy, luật sư cần xem
xét, nghiên cứu hồ sơ và tư vấn cho đương sự thay đổi nội dung yêu cầu, bổ
và chứng cứ có trong hồ sơ. Đối với các chứng cứ cung cấp tại phiên tòa có
sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu sao cho phù hợp với tình hình thực tế
thể là những chứng cứ đương sự đã có, đã thu thập được trước đó nhưng chưa
cung cấp cho tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới thu thập
được. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa có thể vì nhiều mục đích khác
nhau, có trường hợp đó là các chứng cứ đặc biệt cần nhấn mạnh và gây được
sự chú ý của tòa án, viện kiểm sát, cũng có thể đó là các chứng cứ mà khi
cung cấp tại tòa làm thay đổi cục diện của vụ án giúp tòa án nhìn nhận lại vụ
việc một cách có lợi cho khách hàng hơn.
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 được kế thừa từ các quy định trong Bộ luật Tố
năm 1989 (Điều 3), Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994
(Điều 3) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 (Điều 2).
Tuy nhiên, trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời và sau là Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 thì vẫn tồn tại giai đoạn điều tra của tòa án trong tố
tụng dân sự và như vậy việc chứng minh, thu thập chứng cứ chủ yếu được
tụng dân sự năm 2004 (Điều 6); Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
tiến hành bởi tòa án. Hầu hết các đương sự thì hoàn toàn phụ thuộc vào việc
điều tra của tòa án, còn các luật sư tham gia tố tụng một cách thụ động thông
32
qua việc nghiên cứu hồ sơ tương đối hoàn chỉnh với các tài liệu, chứng cứ đã
có sẵn trong hồ sơ dẫn đến hiệu quả hoạt động chứng minh không cao. Đến
khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời và bỏ quy định về giai đoạn điều
tra của tòa án trong tố tụng dân sự thì lúc này vai trò chứng minh của luật s ư
mới được khẳng định và đề cao, luật sư là người đóng vai trò chính trong việc
đi tìm và cung cấp các chứng cứ có giá trị chứng minh cho quyền lợi của mình
chứ không còn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư với vai trò trợ giúp
đương sự, cùng với đương sự trở thành một bên trong tố tụng dân sự, nên khi
tham gia tố tụng luật sư cũng có quyền và trách nhiệm thu thập chứng cứ, chứng
đương sự thì đây cũng chính là nhiệm vụ hết sức quan trọng của luật sư khi
minh. Cùng với sự chuyển giao trách nhiệm thu thập chứng cứ, chứng minh cho
tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Với các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, do nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự
nên vai trò và trách nhiệm của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ càng
trở nên quan trọng hơn, không còn bó hẹp và thụ động như trước đây.
Tóm lại, khi tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho thân chủ, luật sư có quyền và nghĩa vụ chứng minh, luật sư thực
hiện hoạt động chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu của đương sự là có căn cứ hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự
khác. Chứng cứ là căn cứ quan trọng nhất để xác định sự thật khách quan của
thế, để có chứng cứ cung cấp cho tòa án thì luật sư phải tiến hành tìm kiếm,
thu thập chứng cứ. Luật sư đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giúp
đương sự xác định được giá trị chứng minh của chứng cứ, thu thập và sử dụng
chứng cứ qua đó giúp đương sự thực hiện được tốt nhất quyền và nghĩa vụ
chứng minh của mình.
vụ án, là cơ sở để tòa án đưa ra phán quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Vì
33
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Tổng quan về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự
2.1.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
Trong tố tụng dân sự, luật sư tự mình tiến hành thu thập chứng cứ với
tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc với tư
Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 về phạm vi hành
cách là người đại diện hợp pháp của đương sự, được quy định cụ thể tại khoản 2
nghề của luật sư: "Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định
của pháp luật". Theo quy định tại Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về quyền, nghĩa vụ của người đại diện thì với tư cách là người đại diện hợp
pháp của đương sự, luật sư có các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong đó
có quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ; với vai trò là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư cũng có quyền và nghĩa vụ như của
vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để
thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự [27, Điều 76].
Như vậy, cho dù tiến hành thu thập chứng cứ với tư cách nào, pháp luật cũng
đều có các quy định nhằm đảm bảo hành lang pháp lý cho hoạt động thu thập
chứng cứ nói chung và hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư nói riêng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 6 Điều 76 và khoản 6 Điều 70
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về quyền, nghĩa vụ của đương sự: "Yêu cầu
đương sự: thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ
34
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài
liệu, chứng cứ đó cho mình" - luật sư với vai trò là người đại diện hay người
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình thì đây cũng chính là
quyền, nghĩa vụ của luật sư. Đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác cũng
đồng thời bị ràng buộc nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tại Điều 7 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho
đương sự, tòa án, viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu
quy định của Bộ luật này và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, tòa án, viện kiểm sát theo
về việc cung cấp tài liệu chứng cứ đó; trường hợp không cung cấp
được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho đương sự,
tòa án, viện kiểm sát [27].
Luật sư - người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham
gia tố tụng một cách độc lập, như các chủ thể tố tụng khác, luật sư cũng có các
quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Như
vậy, hoạt động thu thập chứng cứ được pháp luật tố tụng dân sự quy định như
một quyền của luật sư khi tham gia tố tụng, quyền thu thập chứng cứ của luật sư
còn được pháp luật ghi nhận và bảo vệ theo điểm a khoản 1 Điều 21 Luật Luật
nghề luật sư theo quy định của luật này và quy định của pháp luật có liên quan".
Và để đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư được thực hiện đạt
hiệu quả tốt nhất trên thực tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ,
pháp luật cũng quy định đi kèm theo đó những chế tài xử lý trong trường hợp
cá nhân, tổ chức gây khó khăn, cản trở hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư:
sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012: "Được pháp luật bảo đảm quyền hành
Người có chức vụ, quyền hạn mà có hành vi xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư hoặc
35
cản trở luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện quyền, nghĩa vụ
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật [22, Điều 91]
Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, của Luật Luật sư đã tạo
một hành lang pháp lý thuận lợi không những có ý nghĩa rất lớn đối với việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước tòa án mà còn có ý
nghĩa đối với giải quyết vụ việc dân sự của tòa án trong việc thu thập chứng
cứ, tạo điều kiện để tòa án thực sự trở thành cơ quan tài phán độc lập, bảo
đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu
Tham gia tố tụng ngay từ những giai đoạn đầu tiên của quá trình giải
quyết vụ việc, vai trò của người luật sư rất quan trọng. Mặc dù đương sự và
người đại diện theo pháp luật của đương sự là người có quyền tự định đoạt về
việc khởi kiện hay không khởi kiện nhưng trong rất nhiều trường hợp người
có quyền khởi kiện phân vân hoặc không đủ khả năng để quyết định vấn đề
này. Trong những trường hợp đó, biện pháp giải quyết đúng nhất là người
khởi kiện tìm đến luật sư với mong muốn thông qua quá trình tư vấn, tham
gia tố tụng của luật sư, quyền và lợi ích của họ được bảo vệ một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, có những trường hợp khách hàng do một số lý do mà không cung
đến vụ việc cần được giải quyết dẫn đến việc luật sư không có được cái nhìn
toàn diện, đúng vấn đề để đưa ra các phương án tốt nhất nhằm bảo vệ quyền
lợi của khách hàng. Chính vì vậy, khi nói đến hoạt động thu thập chứng cứ
của luật sư trong tố tụng dân sự thì điều đầu tiên cần phải nói là hoạt động thu
thập chứng cứ trong giai đoạn trước khi khởi kiện.
cấp, cung cấp không đầy đủ, không trung thực các thông tin, tài liệu liên quan
Để thu thập được một cách hiệu quả các chứng cứ, tài liệu luật sư cần
chuẩn bị theo một quy trình cụ thể như: Đề nghị khách hàng chuẩn bị các
36
thông tin, tài liệu liên quan tới vụ việc; Lắng nghe khách hàng trình bày sự
việc; Ghi chép lại các nội dung quan trọng đồng thời khái quát, đánh giá sơ bộ
vụ việc từ các thông tin, tài liệu khách hàng cung cấp; Sử dụng phương pháp
đặt câu hỏi làm rõ những tình tiết với khách hàng; Đưa ra phương án, định
hướng thu thập chứng cứ còn thiếu hay những chứng cứ cần bổ sung để làm
sáng tỏ tình tiết của vụ việc.
2.1.2.1. Thu thập thông tin, tài liệu từ khách hàng.
- Tiếp xúc gián tiếp
Luật sư có nhiều phương thức thu thập thông tin, tài liệu từ khách
tin online khác để nắm bắt một cách khái quát về vụ việc của khách hàng.
hàng như qua điện thoại, thư điện tử (email) hay các hình thức trao đổi thông
Qua đó luật sư xác định được một cách chính xác các vấn đề cần làm rõ, các
tài liệu chứng cứ cần thu thập để giải quyết vụ việc, có thời gian chuẩn bị,
xem xét, đánh giá, nghiên cứu vấn đề và phản hồi lại với khách hàng bằng các
luận điểm, câu hỏi đã được chuẩn bị kỹ, từ đó khai thác thông tin, tài liệu của
khách hàng cũng như trao đổi với khách hàng các phương án, cách thức thu
thập chứng cứ, chứng minh trong quá trình tham gia tố tụng. Tuy nhiên, đối
với những vụ việc cần giải quyết gấp, nhanh chóng thì tiếp xúc với khách
hàng qua email hay với những nơi chưa có điều kiện sử dụng mạng internet
phổ biến, đường truyền không ổn định thì cách tiếp xúc với khách hàng này
Điều này có thể được khắc phục bằng việc tiếp xúc với khách hàng qua điện
thoại bởi khi đó luật sư và khách hàng có sự trao đổi, phản hồi thông tin qua
lại ngay lập tức, đòi hỏi luật sư phải hết sức tinh tế, nhạy bén để nắm bắt được
nội dung khách hàng đề cập, đồng thời phải biết cách sử dụng ngôn từ phù
hợp tạo sự tin tưởng của khách hàng nhằm khai tác thông tin hoặc yêu cầu
lại gây khó khăn do thời gian truyền tải và xử lý, phản hồi thông tin chậm.
khách hàng chuẩn bị các thông tin, tài liệu cần thiết. Mỗi phương pháp đều có
ưu nhược điểm riêng nhưng tựu chung lại, thông qua việc tiếp xúc gián tiếp
37
luật sư hướng dẫn khách hàng chuẩn bị các tài liệu quan trọng, cần thiết liên
quan đến vụ việc.
- Lắng nghe khách hàng
Khi tiếp xúc khách hàng, luật sư phải lắng nghe, không định kiến,
không phản đối, không phê bình hay chê bai, tập trung vào phân tích giải
quyết khó khăn và nắm bắt nguyện vọng của khách hàng.
Kỹ năng nghe là một trong những kỹ năng quan trọng của mỗi luật sư.
Ưu điểm của truyền đạt thông tin bằng lời nói là không những nó có thể tạo ra
được sự trao đổi qua lại để có thông tin phản hồi nhanh, kịp thời mà còn cho
đổi lại theo cách khác nhau, hỏi và trả lời câu hỏi. Thông tin phản hồi ngay
luật sư cơ hội để nhận biết và điều chỉnh sự hiểu nhầm, nhắc lại ý tưởng, trao
lập tức là ưu điểm quan trọng nhất của trao đổi bằng lời qua nghe, nói. Lắng
nghe không chỉ đơn giản là nghe, điều quan trọng là hiểu những gì khách
hàng đang nói với mình, khách quan trong việc giải thích những điều nghe
được. Lắng nghe còn là hành vi quan sát sự tinh tế, điệu bộ, cử chỉ, cách biểu
cảm… của khách hàng. Kỹ năng nghe giúp cho việc thu thập và truyền đạt
thông tin của luật sư được đầy đủ, chính xác, khách quan, tránh hiểu lầm hay
mắc sai lầm đáng tiếc, nâng cao hiệu quả hoạt động nghề nghiệp luật sư.
- Hỏi khách hàng
Quá trình thu thập chứng cứ trong giai đoạn trước khi tòa án thụ lý là
phải đi vào trọng tâm của vấn đề mà người nghe đang quan tâm, phải dẫn dắt
được khách hàng, quản lý được tình cảm và kiềm chế được phản ứng. Một tác
dụng quan trọng của câu hỏi là giúp cung cấp các hướng dẫn liên quan. Qua
câu hỏi của luật sư, khách hàng sẽ tự xác định được vị trí của họ, thực trạng
về pháp lý của mình, xác định cần phải hành động như thế nào là phù hợp với
quá trình luật sư phân tích sự việc bằng cách liên tục đặt các câu hỏi. Câu hỏi
chuẩn mực, xác định xử sự đúng đắn. Đây là bước quan trọng để xác định
chính xác nội dung khách hàng trình bày, cũng như xác định được trọng tâm,
38
tính chính xác của các vấn đề, thông tin khách hàng đưa ra. Hỏi là một kỹ
năng quan trọng mà luật sư cần phải có, thông qua việc hỏi khi tiếp xúc khách
hàng luật sư nắm bắt, thu thập được các thông tin, tài liệu quan trọng liên
quan đến vụ việc cần giải quyết.
- Khái quát, đánh giá vụ việc ngay tại buổi tiếp xúc khách hàng
Sau khi nghe khách hàng trình bày và đã hỏi chi tiết vụ việc thì luật sư
cần có những đánh giá, nhận định ban đầu về vụ việc, đây là bước quan trọng
để xác định đúng nhu cầu, mong muốn của khách hàng. Trong giai đoạn này,
luật sư sàng lọc các thông tin liên quan đến vụ việc mà khách hàng trình bày
chủ quan thiếu căn cứ của khách hàng. Luật sư cần xác định quan hệ pháp luật
một cách công bằng và khách quan, loại bỏ các yếu tố chứa đựng sự đánh giá
tranh chấp là quan hệ gì, xác định chủ thể của quan hệ đó, những điểm mấu
chốt của sự việc, xác định luật áp dụng và thực tế áp dụng như thế nào, các
văn bản pháp luật liên quan. Từ đó luật sư xem xét chứng cứ và đánh giá
chứng cứ khách hàng đã cung cấp để phân loại những chứng cứ có lợi và
những chứng cứ bất lợi. Sau đó, xác định các chứng cứ cần phải thu thập để
chứng minh, bảo vệ cho yêu cầu của khách hàng.
Khi tiếp xúc khách hàng, luật sư sẽ đưa ra những phương án cho
khách hàng lựa chọn, theo hướng có lợi nhất cho những vấn đề mà khách
hàng đang quan tâm, luật sư không nên đề nghị lựa chọn phương án nào
khách hàng hướng tới.
- Phân tích thông tin tài liệu khách hàng cung cấp, tham khảo các tài
liệu liên quan nhằm đưa ra định hướng thu thập chứng cứ.
Để hiểu rõ hơn về nội dung vụ việc cũng như xác định được các thông
tin tài liệu cần phải thu thập, đặc biệt là xác định các thông tin, tài liệu khách
nhưng cũng không phải mở ra nhiều hướng mà phải lựa chọn kết quả để
hàng đang lưu giữ hoặc có khả năng thu thập, thì luật sư cần phải dành thời
gian để nghiên cứu các thông tin, tài liệu đã thu thập được, tra cứu các tài liệu
39
tham khảo trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan. Trên
thực tế, khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì khách hàng là người
đầu tiên đưa ra được các căn cứ và các tài liệu cũng như quan điểm, nhận định
để đánh giá vấn đề. Tuy nhiên thông thường đó chỉ là những cảm nhận mang
tính cá nhân, dựa trên các lý lẽ thông thường mà không phải dựa vào các căn
cứ pháp lý, quy định pháp luật. Do vậy, đối với luật sư việc tra cứu tài liệu
đặc biệt là các văn bản pháp luật là điều bắt buộc bởi nó giúp luật sư định
hướng chính xác, đưa ra các nhận định giải quyết vụ việc tránh kết luận vấn
đề theo cảm tính tư duy chủ quan. Cũng qua điểm tiếp xúc với khách hàng và
sư định hình được nội dung, xác định được các vấn đề cần chứng minh và các
sau khi nghiên cứu các thông tin tài liệu đầu tiên mà khách hàng cung cấp luật
tài liệu chứng cứ cần phải thu thập để chứng minh cho vấn đề đó.
2.1.2.2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu
cầu độc lập
Đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập là văn bản tố tụng
thể hiện ý chí và nguyện vọng của người có quyền khởi kiện được xem là
chứng cứ quan trọng của vụ án. Thông qua đó đương sự thể hiện quan điểm
yêu cầu chính đáng của mình, đặt ra những yêu cầu cần tòa án giải quyết, là
cơ sở pháp lý để tòa án bảo vệ quyền lợi cho các đương sự, cũng là căn cứ để
bên đương sự đối lập khai thác nhằm phản biện, bác bỏ yêu cầu khởi kiện của
độc lập được xem là việc thu thập chứng cứ quan trọng trong khi tham gia tố
tụng. Tuy nhiên, đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập do đương
sự tự viết có thể không bao hàm hết những nội dung mà nguyên đơn muốn
trình bày, không đưa ra được những luận điểm, căn cứ bước đầu nhằm bảo vệ
cho yêu cầu của mình. Hoặc có trường hợp trong đơn khởi kiện, đơn phản tố,
nguyên đơn. Do đó việc soạn thảo đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu
đơn yêu cầu độc lập đương sự đưa ra những tình tiết, thông tin, tài liệu không
phù hợp hay chưa nên đưa ra tại thời điểm viết đơn. Vì vậy, vai trò của luật sư
40
trong việc giúp người có quyền khởi kiện viết đơn khởi kiện, đơn phản tố,
đơn yêu cầu độc lập là rất cần thiết. Luật sư tư vấn giúp đương sự viết đơn
hoặc tự mình soạn thảo đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập cho
đương sự để ít nhất các đơn này phải thể hiện được các nội dung theo hướng
dẫn tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong
Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm".
Về hình thức của đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập để
tạo ra sự thống nhất cũng như đảm bảo về nội dung trong đơn khởi kiện được
các thông tin cần thiết như gửi đến tòa án nào, kiện ai, kiện người đó về vấn
đầy đủ, trong đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập phải chứa đựng
đề gì… và với sự giúp đỡ của luật sư, đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu
cầu độc lập sẽ được trình bày với nội dung rõ ràng, ngắn gọn và có cơ sở.
Về nội dung, để soạn thảo đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu
độc lập trong vụ án dân sự, luật sư phải nắm bắt được rõ nội dung của vụ việc,
đối chiếu các văn bản pháp luật có liên quan để phân tích các thông tin, tài
liệu, các điểm mạnh yếu trong hồ sơ vụ án, từ đó đưa ra cách viết cũng như tư
vấn cho đương sự đưa ra các yêu cầu phù hợp, bao quát, lường trước được toàn
bộ diễn biến của vụ án trong suốt quá trình tố tụng nhằm tránh việc nội dung
khởi kiện, phản tố, yêu cầu độc lập bất lợi làm cơ sở, chứng cứ để bên đối lập
quá yêu cầu. Cũng chính nhờ sự tư vấn kịp thời của luật sư mà đương sự mới
thấy rõ bản chất của vụ việc và quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.
Sau khi hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện, luật sư có thể hướng
dẫn đương sự nộp đơn tới đúng tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án, đồng
thời hướng dẫn đương sự nên cung cấp tài liệu, chứng cứ gì vào thời điểm
khai thác hoặc không bao quát dẫn đến sau này không thể bổ sung do vượt
nộp đơn khởi kiện, tư vấn cho đương sự biết về quyền và nghĩa vụ của mình
trong giai đoạn này như về nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí, quyền làm đơn xin
41
miễn, giảm tiền tạm ứng án phí hay nộp tạm ứng án phí tại đâu… điều này sẽ
giúp đương sự chủ động hơn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình. Như vậy, sự tham gia của luật sư trong quá trình viết đơn khởi kiện,
đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập là vô cùng quan trọng và cần thiết.
2.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ thể hiện chủ yếu
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Tư cách tham gia tố tụng của các chủ thể
được thiết lập ngay khi tòa án thụ lý vụ án, các đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự có đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng trong
nộp chứng cứ, tòa án xem xét hồ sơ vụ án và tiến hành thu thập chứng cứ, do
việc chứng minh, thu thập chứng cứ. Đồng thời các đương sự tiến hành giao
đó vụ án phát sinh các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong vụ
án đòi hỏi luật sư, đương sự phải tích cực thu thập chứng cứ để bảo vệ cho
yêu cầu của mình.
2.1.3.1. Hướng dẫn, tư vấn cho đương sự thu thập chứng cứ
- Thu thập chứng cứ trong việc tham gia lập các văn bản liên quan
trong quá trình tố tụng
Bên cạnh việc tư vấn, soạn thảo đơn khởi kiện, hoạt động thu thập
chứng cứ của luật sư còn thể hiện qua việc tư vấn, chuẩn bị cho đương sự các
văn bản tố tụng khác như: Bản tự khai, Bản giải trình, Đơn đề nghị… Khi viết
dung cần diễn đạt, thể hiện rõ được quan điểm, lập luận đối với vấn đề cần
giải quyết, đồng thời tránh trình bày những vấn đề không liên quan hoặc có
thể gây bất lợi cho mình. Khi viết bản giải trình, đơn đề nghị luật sư đặt ra
những mục tiêu cụ thể, giúp tòa án nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và có
hiệu quả, đồng thời cũng là các văn bản cần thiết để nêu quan điểm cũng như
về bản tự khai luật sư sẽ hướng dẫn, tư vấn để đương sự khái quát được nội
thể hiện các căn cứ để phản bác lại các lập luận của đối phương. Trong quá
trình tham gia tố tụng dân sự, đương sự phải tham gia các buổi làm việc để
42
phục vụ việc giải quyết vụ án, các buổi làm việc này được tòa án lập thành
văn bản: Biên bản lấy lời khai, Biên bản hòa giải, Biên bản đối chất, Biên bản
phiên tòa... và các văn bản này trở thành chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Do vậy,
luật sư cần tư vấn để khách hàng có sự chuẩn bị tốt trước khi tham gia các
buổi làm việc này:
Đối với biên bản lấy lời khai: Trong giai đoạn này luật sư giải thích,
hướng dẫn cho khách hàng hiểu và nắm được diễn biến nội dung vụ việc dưới
góc nhìn có lợi nhất cho đương sự, đồng thời xác định trước nội dung các câu
hỏi tòa án đưa ra cho khách hàng và chuẩn bị trước nội dung trả lời của người
khai, khách hàng phải tự đọc lại hoặc nghe đọc biên bản và ghi rõ ý kiến của
được lấy lời khai. Luật sư cũng lưu ý cho khách hàng khi kết thúc việc lấy lời
người khai đồng ý hay không đồng ý với nội dung biên bản, cuối cùng để bảo
đảm quyền lợi của mình đương sự cần kiểm tra lại chữ ký của Thư ký ghi
biên bản, chữ ký của Thẩm phán, con dấu của tòa án và chữ ký của mình đã
đầy đủ chưa.
Hòa giải là một thủ tục tố tụng quan trọng được áp dụng đối với hầu
hết các vụ án dân sự có chứa đựng mâu thuẫn, tranh chấp. Thực chất, hòa giải
là sự thương lượng, điều đình của chính các đương sự hay người đại diện hợp
pháp của đương sự về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Luật sư sẽ biết rõ
về những vụ án dân sự nào không được hòa giải [27, Điều 206] hoặc không
sự đang tham gia có cần thiết hòa giải hay không, tránh lãng phí thời gian,
công sức vào việc hòa giải. Để chuẩn bị cho buổi hòa giải, luật sư giúp đương
sự chuẩn bị các ý kiến, xác định những nội dung các đương sự có khả năng sẽ
thỏa thuận được với nhau. Trước khi hòa giải, luật sư phân tích và thỏa thuận
trước với khách hàng về một số yêu cầu cần đạt được và những vấn đề cần
tiến hành hòa giải được [27, Điều 207]. Từ đó xác định được vụ án mà đương
nhượng bộ. Sau khi kết thúc buổi hòa giải đương sự đọc lại hoặc nghe đọc
biên bản, đồng thời kiểm tra chữ ký của những người tham gia hòa giải.
43
Biên bản đối chất là văn bản ghi nhận việc đối đáp, chất vấn giữa các
bên tham gia về những vấn đề có mâu thuẫn. Trước khi đương sự tham gia
đối chất, luật sư nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, đặc biệt là lời khai của các
bên đương sự, người làm chứng, các thông tin, tài liệu, chứng cứ mà các bên
đương sự cung cấp cũng như chứng cứ do tòa án thu thập, tìm ra các điểm
mâu thuẫn trong lời khai của các bên đương sự, người làm chứng, các vấn đề
có sự mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án. Từ đó luật sư tư vấn cho đương sự các lập
luận để bảo vệ quan điểm của mình đồng thời phản bác quan điểm, chứng cứ của
bên đối tụng có sự mâu thuẫn. Bên cạnh việc tư vấn về mặt nội dung, luật sư còn
người trong cùng bối cảnh không gian thời gian sẽ thiết lập những điều kiện để
chuẩn bị tâm lý cho đương sự bởi trong buổi đối chất, việc hỏi đồng thời hai
hai người tri giác trực tiếp nội dung lời khai và thái độ của nhau trong quá trình
đối chất, là động lực thúc đẩy tác động tâm lý nhiều chiều đối với những người
được đưa ra đối chất dẫn đến những thay đổi trong lời nói, thái độ, cử chỉ của
các bên. Do vậy, sự tư vấn của luật sư là cần thiết và quan trọng để sau này
khi lập thành biên bản đối chất các bên đương sự sẽ căn cứ vào đó để phục vụ
hoạt động chứng minh của mình, đồng thời cũng là căn cứ để tòa án đánh giá
sự thật khách quan và đưa ra phán quyết đúng đắn cho vụ việc cần giải quyết.
Biên bản phiên tòa được coi là chứng cứ có vị trí rất quan trọng,
không chỉ thể hiện việc tuân thủ trình tự tố tụng của tòa án mà còn thể hiện
Tại tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, biên bản phiên tòa sơ thẩm là một
trong những căn cứ quan trọng làm cơ sở để đánh giá tính có căn cứ của bản
án, quyết định sơ thẩm.
- Thu thập chứng cứ trong việc hướng dẫn khách hàng tự thu thập
chứng cứ
kết quả tranh tụng, là cơ sở để Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định về vụ án.
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
được tốt nhất cần có sự phối hợp giữa luật sư và khách hàng, có những chứng
44
cứ đương sự phải tự mình thu thập hoặc việc thu thập chứng cứ này của
đương sự sẽ tốt hơn của luật sư. Thông thường các chứng cứ mà đương sự có
thể tự thu thập được như các bản hợp đồng di chúc, giấy chứng nhận kết hôn,
giấy khai sinh, các giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, các giấy tờ do cơ quan có
thẩm quyền cấp cho đương sự… Để đem lại hiệu quả tối đa trong việc thu
thập chứng cứ của khách hàng, luật sư cần giải thích cho khách hàng nhận
thức được tầm quan trọng của chứng cứ cần thu thập. Từ đó, luật sư tư vấn
cho khách hàng cách ứng xử phù hợp, kiểm soát cảm xúc, ngôn từ khi làm
việc với đối tượng cần thu thập chứng cứ, đồng thời tư vấn cho khách hàng
thu thập được chứng cứ cần thiết.
cách đặt vấn đề, đặt câu hỏi, cách trao đổi thông tin và nắm bắt tình huống để
Trong một số trường hợp, việc hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ
không chỉ dừng lại ở việc phân tích, giải thích và tư vấn để đương sự tự đi thu
thập chứng cứ mà luật sư còn trực tiếp đi cùng đương sự khi đương sự thực
hiện việc thu thập chứng cứ. Nhiều trường hợp, mặc dù đương sự đã được
luật sư tư vấn, giải thích quyền và nghĩa vụ trong việc thu thập chứng cứ,
đồng thời tư vấn chi tiết cho đương sự về cách thức thu thập tài liệu chứng cứ
nhưng việc thu thập chứng đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý
vẫn gặp nhiều khó khăn khi đương sự tự mình thu thập. Mặc dù đương sự đã
mất nhiều thời gian, công sức yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng
từ chối với nhiều lý do khác nhau hoặc các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn. Có những trường
hợp do trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế mà khi tiếp xúc với cơ quan
nhà nước để thu thập chứng cứ đương sự thường có tâm lý e sợ, thái độ lúng
túng đồng thời một số cán bộ trong cơ quan nhà nước do một số nguyên nhân
cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án để họ giao nộp cho tòa án nhưng đều bị
mà gây khó khăn, sách nhiễu đối với đương sự dẫn đến việc đương sự không
thể thu thập được chứng cứ. Trong những trường hợp này, sự đồng hành của
45
luật sư giúp đương sự củng cố hơn về mặt tâm lý, kịp thời phản ứng với các
tình huống bất ngờ chưa lường trước, cùng với đương sự đứng ra giải thích, yêu
cầu cán bộ nhà nước tôn trọng quyền của đương sự được pháp luật bảo hộ.
2.1.3.2. Luật sư thu thập chứng cứ từ hồ sơ vụ án
Luật sư có thể thu thập chứng cứ từ chính hồ sơ vụ án đã có bằng việc
nghiên cứu giá trị chứng minh của các thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án
do các bên đương sự, tòa án thu thập, cung cấp. Theo quy định tại Điều 70,
Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thông qua tư cách đại diện cho
đương sự hay với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự thì
điều kiện cho việc nghiên cứu hồ sơ.
luật sư đều có quyền ghi chép, sao chụp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án tạo
Có thể tài liệu mà các đương sự khác cung cấp hoặc do tòa án thu thập
khi được xem xét kỹ lại trở thành các chứng cứ có lợi cho khách hàng và là
chứng cứ bất lợi, chống lại yêu cầu của bên đương sự đối lập hoặc đó là các
thông tin, tài liệu không bảo đảm tính hợp pháp, tính khách quan, tính liên
quan để được coi là chứng cứ. Lúc này luật sư sẽ tận dụng tối đa giá trị chứng
minh của các chứng cứ này, đồng thời lập các văn bản gửi tòa án phân tích về
những điểm bất cập, mâu thuẫn, thiếu logic của các tài liệu đó nhằm gây bất
lợi cho việc chứng minh của đương sự đối lập. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc luật sư đã tìm ra được những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình.
án, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cần được luật sư thực hiện theo nguyên tắc
nghiên cứu một cách toàn diện, khách quan theo một trình tự hợp lý để không
bỏ sót bất cứ thông tin, tài liệu nào. Để việc thu thập thông tin tài liệu đạt
được hiệu quả, tiết kiệm thời gian thì trước khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư cần
phân loại hồ sơ. Việc phân loại hồ sơ có thể thực hiện theo các đề mục: Tài
Để thu được hiệu quả cao nhất của việc thu thập chứng cứ từ hồ sơ vụ
liệu do người khởi kiện cung cấp; tài liệu về phía người bị kiện cung cấp bản
khai của nguyên đơn và đương sự không có quyền, nghĩa vụ đối lập; lời khai
46
của bị đơn và đương sự có quyền, nghĩa vụ đối lập; tài liệu phía cơ quan, tổ
chức có liên quan; văn bản về lời trình bày của các cơ quan, tổ chức có liên
quan, người làm chứng; tài liệu, chứng cứ thu được khi xem xét, thẩm định tại
chỗ và các tài liệu liên quan khác do tòa án thu thập; những biên bản hòa giải,
biên bản đối chất giữa các bên; các tài liệu về thủ tục tố tụng. Trong quá trình
đọc, nghiên cứu hồ sơ, luật sư cần song song tiến hành việc đánh số thứ tự và
lập danh mục các tài liệu để tiện cho việc tra cứu.
Như vậy, qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, luật sư xác định được
trong số các tài liệu, các nguồn chứng cứ được thu thập, có trong hồ sơ vụ án
minh cho yêu cầu của khách hàng. Trường hợp chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ
thì nội dung của tài liệu, của nguồn chứng cứ nào có thể là chứng cứ chứng
hoặc bất lợi cho khách hàng thì cần thu thập các chứng cứ, tài liệu khác để bổ
sung, khắc phục bất lợi này hoặc bác bỏ chứng cứ bất lợi.
2.1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án
Trong quá trình thu thập chứng cứ, luật sư không chỉ thu thập chứng
cứ trước khi xét xử mà còn tiếp tục thu thập chứng cứ tại phiên tòa. Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015 cho phép các đương sự xuất trình chứng cứ mới ở bất kỳ
thời điểm nào, kể cả ở phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Cụ thể, ngoài các chứng
cứ đã được xem xét và thu thập ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa sơ
thẩm, đương sự vẫn có quyền đưa ra những chứng cứ mới, bổ sung những
theo Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân
dân tối cao ngày 23/12/2012 quy định: Chủ tọa phiên tòa hỏi những người
tham gia tố tụng và kiểm sát viên (nếu có) xem có ai cung cấp thêm tài liệu,
chứng cứ mới tại phiên tòa hay không. Theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết
04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
chứng cứ đã được cung cấp. Trong mẫu biên bản phiên tòa sơ thẩm ban hành
23/12/2012 thì tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự vẫn có quyền, nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi cho mình. Đồng thời khoản 5
47
Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: "Lời khai của đương sự,
lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn
bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa
âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại
phiên tòa". Tại phiên tòa, luật sư nghe lời trình bày của các đương sự và
những người tham gia tố tụng khác trong quá trình hỏi, quá trình phát biểu
quan điểm tranh luận, đối lập của đương sự. Trong quá trình đó, có thể xuất
hiện lời khai mới của đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Thu
thập chứng cứ từ việc nghe, hỏi, tranh luận tại phiên tòa là sự tương tác đa
giữa những người tham gia tố tụng với nhau. Điều này đòi hỏi luật sư phải có
chiều giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng,
các kỹ năng như lắng nghe, đặt câu hỏi hay phản biện.
Trong quá trình diễn ra phiên tòa các chứng cứ được lần lượt công bố,
phân tích, so sánh, nghiên cứu và tự thân nó bộc lộ giá trị chứng minh của
chúng. Thông qua các câu hỏi của Hội đồng xét xử hoặc đại diện Viện kiểm sát,
luật sư có thể sơ bộ đoán bắt được những quan điểm cơ bản của họ về việc đánh
giá chứng cứ, định hướng giải quyết vụ án, từ đó luật sư định hướng cách làm
việc phù hợp. Luật sư có thể điều chỉnh cách hỏi, cách tranh luận của mình
hướng vào việc làm sáng tỏ các tình tiết, tài liệu, chứng cứ mà Hội đồng xét xử
và Kiểm sát viên tập trung chú ý. Luật sư có thể dùng chính lời khai, lập luận
bác yêu cầu của bên đương sự đối lập và củng cố việc chứng minh của mình.
Để thu thập được các thông tin, tài liệu có lợi cho đương sự tại phiên
tòa luật sư cần phải có kỹ năng hỏi và tranh luận tốt. Luật sư khi tham gia tố
tụng với tư cách người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự đều có quyền đặt các câu hỏi để yêu cầu những
của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa để làm cơ sở, chứng cứ phản
người tham gia tố tụng trả lời cho Hội đồng xét xử nhằm làm rõ những tình
tiết quan trọng. Khi đặt các câu hỏi, luật sư đặt các câu hỏi đúng vào trọng
48
tâm, ngắn gọn, dễ trả lời, các câu hỏi tập trung vào những vấn đề của khách
hàng, sao cho nội dung trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho khách
hàng và cụ thể hóa các thông tin, tài liệu cần làm rõ, hơn nữa luật sư sẽ chuẩn
bị cả những tình huống dẫn đến sự thay đổi giá trị chứng minh của các chứng
cứ tài liệu đã có hoặc phát sinh các chứng cứ, tài liệu mới, qua đó đưa ra được
những câu hỏi phù hợp với diễn biến phiên tòa. Khi các câu hỏi của luật sư
được các đương sự, người tham gia tố tụng khác trả lời mà luật sư thấy cần
thiết phải nhấn mạnh thì đề nghị Hội đồng xét xử lưu ý và thư ký phiên tòa
ghi nhận điều đó vào biên bản phiên tòa. Trong phần tranh luận, luật sư tiếp
cho việc chứng minh, luật sư trình bày bản luận cứ và các lập luận phản biện
tục sử dụng các kỹ năng cần thiết để khai thác những thông tin, tình tiết có lợi
tại phần tranh luận với nhiều mục đích khác nhau trong đó có việc bác bỏ
chứng cứ bất lợi, thu thập thêm chứng cứ có lợi qua phần phản biện của bên
đương sự đối lập. Trong quá trình tranh luận, luật sư vận dụng linh hoạt các
kỹ năng nghe, hỏi, tranh luận phù hợp đồng thời viện dẫn các chứng cứ viết
có sẵn trong hồ sơ, kết hợp so sánh, phân tích đối chiếu với các thông tin, tài
liệu, tình tiết vừa được làm rõ, kiểm tra công khai tại phiên tòa để đạt hiệu
quả cao nhất trong việc thu thập chứng cứ tại phiên tòa.
2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về vai trò của luật
sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay
khác nhau trong lịch sử, nhưng nhìn chung đội ngũ luật sư Việt Nam đã đạt
được những kết quả đáng mừng, đông lên về số lượng, mạnh lên về chất
lượng cộng với phạm vi hoạt động ngày càng được mở rộng, hoạt động của
luật sư ngày càng đa dạng hơn, có hiệu quả rõ rệt hơn. Từ năm 2016 đến nay,
đội ngũ luật sư Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Theo thống kê tháng 4/2015 là
Nhìn lại chặng đường đã qua, mặc dù đã có những bước đi thăng trầm
hơn 9.000 luật sư thì nay đã tăng lên hơn 13.000 luật sư đang hành nghề; gần
5.000 người tập sự hoạt động trong hơn 4.000 tổ chức hành nghề luật sư. Luật
49
Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 ban hành đã tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của luật sư nói chung và hoạt động khi thu thập chứng cứ
nói riêng. Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 đã xác định cụ
thể tư cách pháp lý, thẩm quyền của luật sư, có cơ chế áp dụng đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi cung cấp chứng cứ. Luật sư hoạt động độc lập và
không bị ràng buộc về thời gian làm việc nên sẽ có nhiều điều kiện so với các
cơ quan, người tiến hành tố tụng khác khi thu thập chứng cứ, ngoài ra với lực
lượng đông đảo đội ngũ luật sư sẽ khắc phục được tình trạng không đủ cơ sở
vật chất hay nhân lực để đi thu thập chứng cứ tại các địa bàn khác nhau.
cũng có một phần đóng góp đáng kể của chính các luật sư thông qua hoạt
Bên cạnh đó, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động xét xử của tòa án
động thu thập chứng cứ, bởi chứng cứ là phần quan trọng nhất của mỗi vụ
việc, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc giúp tòa án đưa ra
kết luận chính xác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Thông qua
việc thu thập chứng cứ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc, luật sư đã
thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ bảo vệ hài hòa lợi ích của cá nhân với lợi ích
của nhà nước và với việc đưa ra các kiến nghị, đề xuất về việc giải quyết vụ
việc dân sự, luật sư góp phần giúp cho người tiến hành tố tụng dân sự giải
quyết đúng đắn vụ việc. Luật sư còn có khả năng hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự bằng cách chỉ ra được những điểm bất cập, hạn chế
bổ sung, hoàn thiện để phù hợp hơn với thực tế.
Tác giả xin dẫn chứng một vụ việc cụ thể tại Công ty Luật trách nhiệm
hữu hạn Trung Nam Thái để thấy được vai trò, tầm quan trọng của luật sư
trong việc thu thập chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngày 06/12/2016, Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Trung Nam Thái
của các quy định pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra các phương hướng sửa đổi
nhận được đơn mời luật sư của Công ty Cổ phần xây dựng thủy lợi TH (sau đây
gọi là Công ty TH) trợ giúp pháp lý trong Tranh chấp hợp đồng thuê khoán số
50
56/HĐGK-CĐSH ký ngày 16/01/2014 với Công ty cổ phần Cầu Đuống SH
(Sau đây gọi là Công ty SH). Vụ việc đã được Tòa án nhân dân huyện Thái
Thụy thụ lý giải quyết bằng Thông báo số 10/TB-TLVA ngày 12/08/2016.
Trên cơ sở đó, Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Trung Nam Thái quyết định
đồng ý cung cấp dịch vụ pháp lý cho Công ty TH và cử luật sư Lại Văn Doãn
là người trực tiếp tham gia bảo vệ quyền, lợi ích và bào chữa cho Công ty TH.
Ngày 25/8/2002 Công ty TH lập tờ trình đề nghị Sở Xây Dựng và Ủy
ban nhân dân (UBND) tỉnh về việc lắp đặt dây chuyền sản xuất gạch Tuynel
tại Công ty SH. Ngày 03/9/2002 Công ty TH tiếp tục gửi tờ trình cũng với nội
chấp thuận của UBND tỉnh. Đồng thời Công ty SH cũng lập tờ trình với nội
dung như trên cho Sở Xây Dựng và UBND tỉnh Thái Bình đề nghị được sự
dung Công ty TH lắp đặt dây chuyền sản xuất gạch Tuynel tại Công ty SH gửi
Sở Xây dựng và Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình.
Ngày 20/9/2002 UBND tỉnh Thái Bình đã có Chủ trương theo văn bản
số 1411/UB-CN đồng ý cho Công ty TH và Công ty SH liên doanh lắp đặt
xây dựng dây chuyền sx gạch Tuynel tại Công ty SH.
Ngày 16/01/2014 Công ty SH và Công ty TH ký hợp đồng thuê khoán
tài sản số 56/HĐGK-CĐSH với nội dung cho thuê khoán hoạt động sản xuất
kinh doanh nhà máy gạch Tuynel công suất 7 - 10 triệu viên/năm cho Công ty
TH với giá thuê khoán là 275.000.000 đồng/quý.
SH giảm tiền thu một quý từ 01/02/2015 đến 30/4/2015 giảm xuống còn
150.000.000 đồng/quý. Ngày 02/4/2015 hai bên ký phụ lục mới hợp đồng với
nội dung Công ty SH thu một quý từ 01/05/2015 đến 30/7/2015 điều chỉnh giá
lên 175.000.000 đồng/quý.
Ngày 01/8/2015 hai bên ký Phụ lục mới với nội dung Công ty SH thu
Ngày 23/3/2015 hai bên ký phụ lục hợp đồng với nội dung Công ty
một quý từ 01/08/2015 đến 30/10/2015 giá là 175.000.000 đồng/quý. Quý sau
từ 01/11/2015 đến 30/01/2016 điều chỉnh giá lên 192.500.000 đồng/quý.
51
Do các thiết bị và công trình trong nhà máy sản xuất gạch xuống cấp
nghiêm trọng dẫn tới không thể sử dụng được nên Công ty TH phải tự bỏ tiền
sửa chữa các hạng mục với tổng số tiền là 435.734.000 đồng. Trước khi tiến
hành sửa chữa, nâng cấp Công ty TH cũng đã trao đổi với Công ty SH về việc
sẽ được tiếp tục quản lý dự án theo các điều kiện hai bên đang thực hiện.
Tháng 7/2016 cơn bão số 01 gây nhiều thiệt hại nặng nề nên Công ty
TH đã họp bàn phương hướng thực hiện theo thông báo của UBND tỉnh Thái
Bình về việc nhanh chóng khắc phục hậu quả cơn bão số 01 để sớm đưa Công
ty vào sản xuất. Công ty TH đã tự bỏ tiền ra để sửa chữa các thiệt hại với tổng
Ngày 30/03/2016, Công ty SH bất ngờ gửi thông báo yêu cầu Công ty
chi phí là 1.527.870.933 VNĐ.
TH thanh lý hợp đồng thuê khoán số 56/HĐGK-CĐSH.
Ngày 01/08/2016, Công ty SH nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân
huyện Thái Thụy - tỉnh Thái Bình đòi lại nhà xưởng, máy móc thiết bị cho
thuê khoán theo Hợp đồng thuê khoán số 56/HĐTK-CĐSH ngày 16/01/2014.
Nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng trong vụ việc
này bị ảnh hưởng nghiêm trọng, luật sư đã cùng với Công ty TH tìm kiếm, thu
thập và sắp xếp các chứng cứ đồng thời hướng dẫn Công ty TH làm đơn phản
tố gửi tới đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong vụ việc này là Tòa án
nhân dân tỉnh Thái Bình. Ngoài những chứng cứ khách hàng cung cấp như:
- Thông báo về việc thụ lý vụ án ngày 12/08/2016
- Các Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh Công ty SH các lần thay
đổi 2, 3, 4, 5, 6, 7.
- Điều lệ Công ty SH.
- Hợp đồng thuê khoán và các Phụ lục hợp đồng đi kèm.
- Đơn khởi kiện ngày 01/08/2016
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng số 05/BL ngày 06/02/2014.
- Thông báo về việc thực hiện thanh lý hợp đồng của Công ty SH.
52
Về việc thu thập thêm các chứng cứ, luật sư Lại Văn Doãn đã hướng
dẫn Công ty TH tìm kiếm, thu thập củng cố thêm các chứng cứ để bảo vệ
quyền và lợi ích của mình, đồng thời có các căn cứ để phản tố lại đơn khởi
kiện của Công ty SH.
Trong 2 năm ký hợp đồng thuê khoán thì có đến 12 tháng Công ty TH
phải dừng đốt lò vì ảnh hưởng của thiên tai và các nguyên nhân khách quan
khác (Ngừng từ 20/06/2014 đến 12/02/2015 và ngừng từ 10/11/2015 đến
11/03/2016 đều có xác nhận của chính quyền địa phương). Theo quy định của
Điều 8 của Hợp đồng số 56/HĐGK-CĐSH:
Điều 8: Bất khả kháng:
8.1. Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra mang tính khách quan và
nằm ngoài tầm kiểm soát của các bên như động đất, bão, lũ, lụt, lốc, sóng thần, lở
đất, hỏa hoạn, chiến tranh hoặc có nguy cơ xảy ra chiến tranh và các thảm họa
khác chưa lường hết được, sự thay đổi chính sách (của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái
Bình) hoặc ngăn cấm của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc bên A không
đáp ứng được công nợ với ngân hàng, bị ngân hàng xiết nợ thanh lý phát mại.
- Việc một bên không hoàn thành nghĩa vụ của mình do sự kiện bất
khả kháng sẽ không phải là cơ sở để bên kia chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên,
bên bị ảnh hưởng bởi sự kiện bất khả kháng có nghĩa vụ phải:
+ Tiến hành các biện pháp ngăn ngừa hợp lý và các biện pháp thay
thế cần thiết để hạn chế tối đa ảnh hưởng do sự kiện bất khả kháng gây ra.
thời hạn 07 ngày sau khi xảy ra sự kiện bất khả kháng.
8.2. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, thời gian thực
hiện hợp đồng sẽ được kéo dài bằng thời gian diễn ra sự kiện bất khả kháng mà
bên bị ảnh hưởng không thể thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng của mình.
8.3. Nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài liên tục trong thời gian quá
+ Thông báo ngay cho bên kia về sự kiện bất khả kháng xảy ra trong
khoán này theo Điều 6 trên.
180 ngày làm việc. Một trong các bên có quyền chấm dứt hợp đồng giao
53
Việc lún lò và thiên tai là các nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý
chí chủ quan của cả hai bên nên được coi là sự kiện bất khả kháng và theo quy
định trên thì Hợp đồng số 56/HĐGK-CĐSH ký kết giữa hai bên phải được
kéo dài đúng bằng thời hạn diễn ra sự kiện bất khả kháng. Bên cạnh đó Công
ty SH cũng đã họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2015 và ra nghị
quyết kéo dài Hợp đồng số 56 nêu trên.
Để cứu dự án có nguy cơ phải ngừng hoạt động, ông Toàn - Người đại
diện theo pháp luật của Công ty TH đã chấp nhận rủi ro đứng ra gánh vác trách
nhiệm vực dậy và đưa dự án vượt qua giai đoạn khó khăn có thể khiến dự án đổ
hợp đồng thuê khoán dự án, ngày 16/01/2014 Công ty SH và Công ty TH ký hợp
bể. Do đó để hợp pháp hóa các thỏa thuận hai bên nhất trí theo hình thức ký
đồng thuê khoán tài sản số 56/HĐGK-CĐSH với nội dung cho thuê khoán hoạt
động sản xuất kinh doanh nhà máy gạch Tuynel công suất 7 - 10 triệu viên/năm
cho Công ty TH với giá thuê khoán là 275.000.000 VNĐ/quý.
Đến cuối năm 2015 do các thiết bị và công trình trong nhà máy sản
xuất gạch xuống cấp nghiêm trọng, lò nung bị lún, kho chứa đất bị đổ sập do
trời mưa dẫn tới không thể sử dụng được nên được sự đồng ý của Ban lãnh
đạo Công ty SH, Công ty TH đã tiến hành sửa chữa các hạng mục xuống cấp
để phục vụ cho dự án tiếp tục được đưa vào hoạt động, việc này ban lãnh đạo
Công ty SH đã biết và không phản đối việc sửa chữa, nâng cấp này cụ thể:
Công ty TH với ông Đặng Văn Chiến trị giá 41.194.000 VNĐ (Có chứng từ
thanh toán)
- Sửa nhà kho đất theo hợp đồng giữa Công ty TH với ông Nguyễn
Hữu Phong ngày 18/11/2015 trị giá 64.540.000 VNĐ (có chứng từ thanh toán)
- Sửa chữa lò nung gạch Tuynel Hợp đồng giữa Công ty TH với ông
- Sửa chữa đường dây hạ thế theo Hợp đồng ngày 10/11/2015 giữa
Nguyễn Đức Cường ký ngày 25/12/2015 trị giá 150.000.000 VNĐ (có chứng
từ thanh toán).
54
- Làm cửa lò nung sấy, dàn nâng cửa và đường ray trong nhà máy ký
Hợp đồng giữa Công ty TH với ông Phạm Minh Hoài ngày 20/02/2016 trị giá
80.000.000 VNĐ.
- Đốt lại lò bị thiệt hại = 100.000.000 VNĐ
+ 20 goòng gạch cháy thành tảng = 1.960v * 20goòng = 39.200v * 950đ
= 37.240.000 VNĐ
+ 15 goòng gạch loại C = 1.960 * 15 goòng = 29.400v * 600đ = 17.640.000đ
+ 25 goòng gạch A hồng = 1.960 * 25 goòng= 49.000v * 500đ = 24.500.000đ
+ 5 tấn củi nhóm lò = 5 tấn * 2.000.000/tấn= 10.000.000VNĐ
5 * 1.500.000 = 7.500.000VNĐ
+ 5 tấn than đóng bánh để kẹp gạch mộc + ném xuống lò khi nhóm =
+ Công nhóm lò = 24c * 130.000đ/c = 3.120.000VNĐ
Tổng giá trị Công ty TH đầu tư vào dự án để sửa chữa nâng cấp là
435.734.000VNĐ. Trước khi tiến hành sửa chữa, nâng cấp Công ty TH cũng
đã trao đổi với Công ty SH về việc sẽ được tiếp tục quản lý dự án theo các
điều kiện hai bên đang thực hiện, như đại hội cổ đông thường niên năm 2015
(chấp nhận tiền đầu tư sửa chữa và tiền đốt lại lò, thời gian ngừng lò của
Công ty TH để đối trừ vào tiền thuê khoán và được kéo dài thêm thời hạn hợp
đồng thuê khoán với trị giá 600.000.000 VNĐ/năm. Vậy tổng số tiền đầu tư
vào dự án 435.734.000 VNĐ tương đương bằng 9 tháng + 2 tháng tắt lò để
11 tháng nữa. Khi đó thời điểm hết hạn hợp đồng phải là ngày 31/12/2017.
Tháng 7/2016 Cơn bão số 01 gây nhiều thiệt hại nặng nề nên Công ty
TH đã họp bàn phương hướng thực hiện theo thông báo của Ủy ban nhân dân
tỉnh Thái Bình về việc nhanh chóng khắc phục hậu quả cơn bão số 01 để sớm
đưa công ty vào sản xuất. Đồng thời với tư cách là một bên liên doanh đã tham
sửa chữa trong thời điểm tháng 11/2015 thì hợp đồng phải được kéo dài thêm
gia dự án từ khi mới được Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình cấp phép năm 2002
Công ty TH đã tự bỏ tiền ra để sửa chữa các thiệt hại nhanh chóng đưa dự án
55
vào hoạt động, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao động và đóng
góp cho nhà nước. Chi phí Công ty TH đã bỏ ra khắc phục thiệt hại bao gồm:
Bảng 2.1: Tổng hợp kinh phí Công ty TH đã bỏ ra khắc phục thiệt hại
do cơn bão số 1 năm 2016 gây ra
TT
Hạng mục
Số tiền
1 Sửa lò nung sấy
210.600.000
2 Thay cửa nung sấy
16.275.000
3 Cuốn mô tơ
37.210.000
4 Sửa chữa kho đất
80.675.000
5 Lắp tủ điện
4.000.000
6 Sửa chữa nhà tọa hình+ nhà băng tải
110.307.000
7 Sửa chữa lán che goòng
2.489.988
8 Thay cột+ đường dây hạ thế
16.877.300
9 Sửa chữa máy phát điện
53.300.000
10 Thu dọn bão
134.550.000
11 Cuốn máy hàn
3.500.000
12 Làm 4 lán phơi gạch mộc
672.696.458
13 Lắp toàn bộ điện chiếu sáng trong khu vực sản xuất và
40.000.000
bảo vệ công ty
14 Tiền vật tư
- Vật tư điện tổng hợp ngày 27/7/2016 - Vật tư điện tổng hợp ngày 29/7/2016 - Tôn mạ+ nẹp chống bão
16.095.200 10.813.000 17.095.387
- Thép hình ngày 20/9/2016 - Thép hình ngày 29/7/2016 - Thép hình ngày 31/7/2016 - Tấm lợp pro ngày 06/09/2016
7.260.000 19.795.600 14.641.000 13.350.000
- Tấm lợp pro ngày 12/10/2016 - Tấm lợp pro ngày 13/10/2016 - Tấm lợp pro ngày 18/10/2016
19.000.000 13.500.000 14.500.000
TỔNG TIỀN CHI SỬA CHỮA SAU BÃO SỐ 01
1.527.870.933
Nguồn: Tài liệu vụ án của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Trung
Nam Thái.
56
Thời gian sửa chữa mất 04 tháng từ ngày 28/07/2016 đến 07/11/2016
cộng với số tiền đầu tư sửa chữa là 1,527,870,933 VNĐ tính theo đơn giá thuê
khoán của Đại hội thường niên 2015 đề nghị với mức 500.000.000 VNĐ/năm
thì số tiền đầu tư ra khấu trừ vào tiền thuê khoán sẽ tương đương với mức
36 tháng + 4 tháng sửa chữa, tổng là 40 tháng. Do đó thời hạn hết hợp đồng
phải là tháng 04/2021.
Với sự trợ giúp, tư vấn của luật sư Lại Văn Doãn trong vụ việc dân sự
này, đặc biệt là trong việc tìm kiếm, thu thập thêm các chứng cứ đồng thời nộp
đơn phản tố tới cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích cho Công ty
TH, ngày 26/10/2017 tòa án nhân dân huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2017/QĐST-KDTM với lý do
đợi Cục thuế Thái Bình cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, cùng với sự trợ giúp của luật sư đến
ngày 2/4/2018 hai bên đã tự nguyện thỏa thuận thống nhất được phương án
giải quyết tranh chấp, quyền lợi hợp pháp của các bên đã được đảm bảo. Do
vậy Công ty SH đã nộp đơn đề nghị rút đơn khởi kiện, đồng thời Công ty TH
rút đơn phản tố.
2.3. Những bất cập và nguyên nhân chủ yếu của pháp luật về vai
trò của luật sư trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thu thập chứng cứ của luật
sư trong giai đoạn hiện nay vẫn bộc lộ những bất cập, các quy định của pháp
- Về việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ
Khoản 3, khoản 4 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy
định: "Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa
án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung
cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý,
luật về thu thập chứng cứ cũng đang tồn tại những vấn đề cần được giải quyết.
theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu
lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ
57
cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu
cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng
văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu
của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật". Đây là quy định rất cần thiết, phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn tố tụng, bởi trong rất nhiều vụ việc, những chứng cứ quan trọng
có liên quan tới vụ việc không phải do đương sự nắm giữ mà do các cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác, do đó, nếu đương sự, tòa án, viện kiểm sát không được
giao quyền này thì sẽ rất khó khăn trong việc giải quyết vụ việc. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp tài liệu,
chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, khi yêu cầu tổ chức tín dụng cung
cấp các thông tin như về số tài khoản, số dư tài khoản, sao kê các lệnh chuyển
và nạp tiền vào tài khoản của đương sự… thường bị từ chối bởi tổ chức tín
dụng cho rằng việc cung cấp những thông tin trên là vi phạm nguyên tắc bảo
mật thông tin tài khoản cho khách hàng. Bên cạnh đó, quy định trên cũng
chưa làm rõ "lý do chính đáng" để cơ quan, tổ chức, cá nhân căn cứ vào đó từ
chối việc cung cấp tài liệu, chứng cứ là những lý do như thế nào, nên rất dễ
xảy ra nhiều quan điểm trái ngược nhau về sự "chính đáng" của lý do từ chối
cung cấp tài liệu, chứng cứ. Cũng chính vì thế, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang giữ tài liệu, chứng cứ nếu muốn từ chối hoặc kéo dài thời gian cung cấp
xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này.
Đồng thời cũng theo quy định này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có
thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật, tuy nhiên việc xử lý vi phạm hành chính hay truy cứu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp này rất khó có cơ chế thực hiện do chưa có
thì có thể tạo ra nhiều lý do khác nhau mà cơ quan có thẩm quyền cũng khó
hành chính hay Bộ luật Hình sự hiện hành vẫn còn bỏ ngỏ về vấn đề này.
quy định pháp luật tương ứng áp dụng dẫn chiếu sang khi Luật xử lý vi phạm
58
Tác giả xin đưa ra vụ việc cụ thể sau đây để thấy rõ được sự bất cập
khi luật sư yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Ông Vũ Hải V có đơn gửi tới Văn phòng Luật sư Minh Bạch quốc tế
đề nghị cử luật sư đại diện giải quyết vụ việc của ông. Trên cơ sở đó, Văn
phòng Luật sư Minh Bạch quốc tế cử Luật sư Nguyễn Văn Hoàng là người
trực tiếp tham gia bảo vệ quyền, lợi ích cho ông Vũ Hải V. Theo đó, ông V
trình bày có quen biết với anh Phạm Quang H, cán bộ tín dụng Ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng (VP Bank) - chi nhánh Mỹ Đình
quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, thỉnh thoảng anh H có cần tiền trong
ngày 12/06/2013 như mọi lần vì sự tin tưởng, ông Vũ Hải V vẫn tiếp tục cho
việc làm ăn nên nhờ ông V cho mình mượn tiền và hứa đều trả đầy đủ. Vào
anh H mượn thêm khoản tiền 2 tỷ đồng. Đến ngày 26/7/2013, anh H có thông
báo trả lại số tiền 2 tỷ đồng bằng 02 (hai) giấy nộp tiền mỗi biên lai ghi số
tiền là 1 tỷ đồng chuyển vào tài khoản số mở tại ngân hàng Việt Nam Thịnh
Vượng (VPBank) chi nhánh Mỹ Đình do ông Vũ Hải V là chủ tài khoản. Với
sự tin tưởng lâu nay nên ông cũng không nghi ngờ gì cho đến ngày 30/5/2014
ông V cần tiền nên ra ngân hàng rút tiền thì phát hiện số tiền 2 tỷ của mình đã
"bốc hơi" khỏi tài khoản. Khi ông V phát hiện số tiền trên bị rút ra khỏi tài
khoản của mình mà không phải do mình ký giấy tờ (có dấu hiệu của việc mạo
chữ viết, chữ ký trong ủy nhiệm chi), ông V đã làm đơn tố cáo gửi ngân hàng
khoản. Sau khi kiểm tra sao kê tài khoản ngân hàng của mình, ông V phát
hiện anh H lại chuyển trả cho ông V số tiền 2 tỷ đồng thông qua hình thức
chuyển khoản mà tại thời điểm đó ông V không có mặt tại ngân hàng mà giấy
ủy nhiệm chi vẫn được ghi tên và có chữ ký của ông V. Kể từ thời điểm đó tới
nay, đã 4 năm trôi qua, ông V đã nhiều lần làm đơn và gặp trực tiếp lãnh đạo
để điều tra về vụ việc trên và yêu cầu phía ngân hàng cung cấp bản sao kê tài
VP Bank nhưng đều không được lãnh đạo ngân hàng này giải quyết thỏa đáng
về khoản tiền bị mất.
59
Theo luật sư Nguyễn Văn Hoàng - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đại
diện Văn phòng Luật sư Minh Bạch quốc tế thì quy trình thanh toán ủy nhiệm
chi tại Khoản 2 Điều 8 Thông tư 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành
quy định về việc kiểm soát ủy nhiệm chi:
Khi nhận được ủy nhiệm chi, ngân hàng phải kiểm soát chặt chẽ đảm
bảo tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ, cụ thể:
- Đối với chứng từ giấy: Chứng từ phải được kiểm soát đầy đủ, chặt
chẽ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về chế độ chứng từ kế toán ngân
hàng, trong đó: Chứng từ phải lập đúng mẫu, đủ số liên để hạch toán và lưu
trữ. Chứng từ phải ghi đầy đủ, rõ ràng, chính xác các yếu tố, khớp đúng nội
dung giữa các liên, có đủ chữ ký và dấu (nếu có) của khách hàng và ngân
hàng trên tất cả các liên. Chữ ký và dấu (nếu có) của khách hàng trên chứng
từ phải khớp đúng với mẫu đã đăng ký tại ngân hàng nơi mở tài khoản.
- Đối với chứng từ điện tử: Ngân hàng phải kiểm soát nội dung chứng
từ, thông tin kỹ thuật (chữ ký điện tử, tính hợp lệ của bên khởi tạo dữ liệu, loại,
khuôn dạng dữ liệu, mã chứng từ,...) theo đúng quy định về chứng từ điện tử.
- Ngân hàng phải kiểm tra số dư trên tài khoản thanh toán và khả
năng thanh toán của bên trả tiền.
Nếu ủy nhiệm chi không hợp pháp, hợp lệ hoặc không được đảm bảo
khả năng thanh toán thì ngân hàng báo cho bên trả tiền để chỉnh sửa, bổ sung
Như vậy căn cứ vào thông tin và tài liệu ông V cung cấp, đối chiếu
quy định pháp luật hiện hành quy định về việc giao dịch bằng ủy nhiệm chi
thì sự việc trên của ông V xảy ra tại ngân hàng VP Bank có dấu hiệu của hành
vi giả mạo chữ ký.
Luật sư Nguyễn Văn Hoàng đã cùng với ông V yêu cầu VP Bank cung
hoặc trả lại cho bên trả tiền.
của ông V trong phiếu là đúng hay chưa đúng, nhưng nhiều lần đề nghị, gửi văn
cấp phiếu ủy nhiệm chi bản gốc để gửi tới cơ quan chức năng giám định chữ ký
60
bản, trao đổi trực tiếp yêu cầu với VP Bank, tuy nhiên ngân hàng vẫn không
cung cấp phiếu ủy nhiệm chi mà ông V cho rằng chữ ký trên ủy nhiệm chi này
không phải là của ông. Lý do mà VP Bank đưa ra là Ngân hàng không có nghĩa
vụ cung cấp phiếu ủy nhiệm chi này, luật sư không có quyền yêu cầu nên đến
nay quyền và lợi ích hợp pháp của ông V vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng.
- Giám định chứng cứ
Chứng cứ có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ việc dân
sự, có tác động rất lớn tới tính đúng đắn, chính xác, khách quan tới kết quả
của vụ việc dân sự. Do đó, chứng cứ phải được thu thập theo một trình tự thủ
tục hợp pháp, tồn tại khách quan, đúng sự thật. Tuy nhiên, trên thực tế có
nhiều trường hợp chứng cứ được đương sự cung cấp cho tòa án chưa đáng tin
cậy nên cần phải giám định như: giám định chữ ký, giám định chứng cứ giả
mạo, giám định băng ghi âm, ghi hình, ảnh chụp… Việc giám định chứng cứ
rất phức tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác nhau đòi hỏi
trình độ chính xác cao về chuyên môn nghiệp vụ tuy nhiên Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 và Luật Giám định tư pháp năm 2012 chưa có quy định nào
về trình tự, thủ tục giám định đối với từng lĩnh vực cụ thể hay giám định liên
ngành. Mặt khác, nếu trong trường hợp cùng một vật chứng đưa ra nhưng các
cơ quan, tổ chức khác nhau có chức năng giám định sau khi tiến hành giám
định lại có các kết quả khác nhau thì sẽ phải giải quyết như thế nào? Kết quả
nào sẽ được lựa chọn làm chứng cứ? Bên cạnh đó, vấn đề về chi phí giám
tụng dân sự năm 2015, trong trường hợp Tòa án nếu xét thấy cần thiết phải
giám định thì thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định nhưng Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 lại chưa quy định khoản chi phí trưng cầu giám định
này do ai chi trả, nếu căn cứ vào Điều 36 Luật giám định tư pháp năm 2012
thì người trưng cầu giám định tư pháp phải chi trả chi phí, tức là tòa án chi
định cũng vẫn chưa được quy định cụ thể. Theo khoản 2 Điều 102 Bộ luật Tố
vụ cho việc giải quyết tranh chấp giữa các đương sự.
trả, điều này là chưa hợp lý bởi tòa án không thể bỏ chi phí giám định để phục
61
- Bảo vệ chứng cứ
Khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
"Trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này
khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền đề nghị Tòa án quyết định áp
dụng biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Đề nghị của đương sự phải
thể hiện bằng văn bản. Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số
trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục
chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác". Theo đó đề nghị của
đương sự bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, tuy nhiên trong trường hợp khi
tiêu hủy chứng cứ đang diễn ra mà đương sự chỉ có thể gửi đề nghị bằng văn
phát hiện chứng cứ đang bị tiêu hủy hay có nguy cơ bị tiêu hủy tức là hành vi
bản tới tòa án để ra quyết định áp dụng biện pháp cần thiết bảo toàn chứng c ứ
thì khả năng chứng cứ đó đã bị tiêu hủy, không còn trên thực tế là rất cao mà
mục đích sau cùng của quy định này là nhà làm luật mong muốn tòa án có thể
quyết định một hoặc một trong số các biện pháp như niêm phong, thu giữ,
chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện
pháp khác nhằm bảo đảm sự tồn tại toàn vẹn của chứng cứ.
Nói chung, hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự so với luật sư
còn gặp nhiều khó khăn do không mang lại hiệu quả cao bởi còn có sự hạn
chế về trình độ hiểu biết pháp luật cũng như kinh nghiệm tố tụng. Về mặt
của mình và đồng thời do trình độ nhận thức pháp luật, kinh nghiệm tham gia
tố tụng hạn chế nên phần lớn đương sự không biết cần phải cung cấp chứng
cứ nào, xuất trình vào thời điểm nào, cách thu thập chứng cứ ra sao… Chưa
nói đến các yếu tố chủ quan là thái độ cửa quyền của các cơ quan lưu giữ tài
liệu, chứng cứ và tâm lý e sợ của chính đương sự khi tiếp xúc với các cá nhân
thực tế, không phải bất cứ đương sự nào đều hiểu trách nhiệm chứng minh
này cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thu
thập chứng cứ của đương sự.
62
Chương 3
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung
và trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nói riêng hiện nay là một
yêu cầu tất yếu của công cuộc cải cách tư pháp nhằm xây dựng Nhà nước
pháp quyền của Đảng và nhà nước ta, nâng cao vị trí, vai trò của luật sư cũng
Qua những phân tích trong luận văn có thể thấy vai trò của luật sư trong việc
là một trong những chiến lược đề ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thông qua hoạt động thu thập
chứng cứ là rất quan trọng. Tuy nhiên, vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự
cũng như trong hoạt động thu thập chứng cứ chưa thực sự được ghi nhận một
cách đúng mực. Bên cạnh đó số lượng cũng như chất lượng luật sư Việt Nam
hiện nay còn ở mức hạn chế, nhằm phát huy hơn nữa vai trò của luật sư và
khắc phục những bất cập còn tồn tại trong hoạt động thu thập chứng cứ trong
tố tụng dân sự, tác giả xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau đây.
3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành
của mình trong định hướng sự vận động của xã hội, phục vụ được mục tiêu
của nhà nước thì đòi hỏi nó phải thực tế, phù hợp với những gì đang diễn ra
trong đời sống xã hội. Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng
dân sự cũng vậy, hoạt động này diễn ra một cách có hiệu quả thì cần thiết phải
đưa ra được những biện pháp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan.
Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan,
cá nhân, tổ chức nhất là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trên cơ sở hạ tầng tương ứng, muốn pháp luật phát huy được vai trò tích cực
63
trong việc bảo đảm, tôn trọng và thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự
cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích đương sự khi tham gia tố tụng dân sự.
Việc tham gia tố tụng của luật sư có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ
với các đương sự mà có ý nghĩa với tòa án trong quá trình tìm hiểu sự thật
khách quan, giải quyết vụ việc.
Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có bổ sung hai loại nguồn
chứng cứ mới là "văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức
năng lập" và "văn bản công chứng, chứng thực". Qua nghiên cứu cho thấy
thực chất hai loại nguồn này đã thuộc về loại nguồn chứng cứ là các tài liệu
sung này là không cần thiết. Các tài liệu đọc được được coi là chứng cứ nếu là
đọc được, nghe được, nhìn được quy định tại khoản 1 điều này nên việc bổ
bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận, do đó, khi nộp cho tòa án
các tài liệu đó đương sự đều phải nộp bản chính hoặc bản sao có công chứng,
chứng thực hợp pháp. Điều này đã gây không ít phiền hà cho đương sự, nhiều
khi đi công chứng, chứng thực các tài liệu này còn bị thất lạc hoặc việc cung
cấp bản chính có thể bị mất làm đương sự không thể bảo vệ được quyền và lợi
ích của họ. Hiện nay, chúng ta đang cải cách thủ tục hành chính, trong việc
cung cấp tài liệu cho các cơ quan, tổ chức không nhất thiết phải là bản chính
có công chứng, chứng thực mà đương sự có thể cung cấp bản chính hoặc bản
bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực sẽ gây rất nhiều trở ngại
cho đương sự. Vì vậy, theo tác giả cần sửa đổi quy định này theo hướng giảm
bớt các thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp chứng cứ.
Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: "Trường hợp
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài liệu, chứng cứ mà
photocopy và xuất trình bản chính để đối chiếu. Việc buộc đương sự cung cấp
vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề nghị Tòa án ra quyết định
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ
64
cung cấp cho mình hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ
nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn". Tuy nhiên, pháp
luật cần có quy định cụ thể hướng dẫn những trường hợp nào được coi là đã
áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng không thể tự mình thu thập được
chứng cứ. Thực tế cho thấy việc đương sự, luật sư không thể tự mình thu thập
được chứng cứ, gặp nhiều khó khăn do các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền không hợp tác, không làm đúng trách nhiệm. Do đó cần làm rõ khái
niệm này để bảo đảm cho đương sự, luật sư thực hiện nghĩa vụ giao nộp
chứng cứ cho tòa án. Vấn đề áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập
thì được xem là đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ? Nếu
chứng cứ như quy định nêu trên cần được hiểu như thế nào? Trường hợp nào
đương sự viết trong đơn hoặc trực tiếp trình bày với tòa án là mình không tự
thu thập được chứng cứ và yêu cầu tòa án thu thập thì có được xem là điều
kiện để có thể yêu cầu tòa án hỗ trợ đương sự trong hoạt động thu thập chứng
cứ? Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc "đã áp dụng các biện pháp
cần thiết" đồng thời tạo ra cơ chế để giúp đương sự khi cần trong mọi trường
hợp. Vì thế giải pháp cho vấn đề này pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm
biện pháp xử lí đối với những cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ
nhưng cố tình không cung cấp chứng cứ cho đương sự như đối với trường hợp
thu thập chứng cứ của tòa án, viện kiểm sát. Đây là một bảo đảm cần thiết cho
trợ cho hoạt động của tòa án.
Bên cạnh đó khoản 6 Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi
nhận cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự quyền yêu
cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng lại chưa quy
định trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
đương sự, luật sư có thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, qua đó hỗ
mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ nhưng không
thu thập được thì có được quyền yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ hay không?
65
Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự được tốt nhất thì
cần quy định cho luật sư được quyền yêu cầu tòa án tiến hành thu thập chứng
cứ trong trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã
áp dụng các biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập được.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ gửi cho đương
sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, nếu trong những trường hợp đương sự gửi sai, gửi
không đầy đủ tài liệu cho đương sự khác dẫn đến việc đương sự khác có c ách
trọng đến định hướng hoạt động chứng minh của đương sự, luật sư nhưng Bộ
nhìn, đánh giá sai lệch về nội dung vụ việc. Điều này có thể ảnh hưởng nghiêm
luật Tố tụng dân sự năm 2015 lại chưa có quy định liên quan đến chế tài xử lý
trong những trường hợp này nhằm tăng khả năng áp dụng quy định trên thực
tế. Do vậy, tác giả kiến nghị trong những văn bản hướng dẫn Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 sẽ có những quy định cụ thể về chế tài xử lý trong trường
hợp đương sự vi phạm nghĩa vụ gửi bản sao đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ
cho đương sự khác thì tùy thuộc vào mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính
hay truy cứu trách nhiệm hình sự.
Luật sư có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người đại diện của
vụ khác nhau khi tham gia tố tụng dân sự nói chung và tham gia vào hoạt
động thu thập chứng cứ nói riêng. Để nâng cao chất lượng hoạt động thu thập
chứng cứ và bảo đảm việc giải quyết vụ án một cách khách quan và chính xác
thì pháp luật cần xem xét trao cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thêm một số quyền hạn tố tụng nhất định như: quyền đề nghị tòa án
đương sự. Với mỗi tư cách chủ thể, pháp luật quy định những quyền và nghĩa
xác minh, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá. Bởi trên thực tế nhiều trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
66
pháp của đương sự không xác minh, thu thập chứng cứ được bởi nhiều lý do
khách quan hoặc sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần thiết phải đề nghị tòa án
triệu tập người làm chứng, người trưng cầu giám định, định giá, thẩm định
nhưng pháp luật không quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự được quyền đề nghị tòa án tiến hành các hoạt động thu thập
chứng cứ này. Trong những trường hợp này, thông thường luật sư phải mất
thời gian mời đương sự đến làm việc và trao đổi, phân tích để đương sự hiểu
và hướng dẫn đương sự làm đơn đề nghị tòa án thu thập chứng cứ hoặc có
trường hợp đương sự vì lý do khách quan, chủ quan mà chưa thể làm đơn đề
chóng, kịp thời của hoạt động thu thập chứng cứ.
nghị tòa án thu thập chứng cứ làm ảnh hưởng không nhỏ đến tính nhanh
Về vấn đề trưng cầu giám định, hiện nay Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 đã quy định cho đương sự được quyền chủ động yêu cầu giám định
trong trường hợp tòa án không ra quyết định trưng cầu giám định. Tuy nhiên,
pháp luật vẫn còn bỏ ngỏ chế tài áp dụng đối với đương sự không chấp hành
quyết định về trưng cầu giám định của tòa án, cơ quan giám định tư pháp.
Qua thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ, do tính chất đặc thù của một số vụ
án (ví dụ: Vụ án xác định cha, mẹ, con; Tuyên bố mất năng lực hành vi…) kết
luận giám định được xác định là chứng cứ quan trọng có tính quyết định để
chứng minh cho yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Tuy
trưng cầu giám định sức khỏe tâm thần, khi tiến hành giám định bị đơn (người
bị kiện để xác định là cha hoặc mẹ đứa trẻ…) hoặc người đang nuôi dưỡng
người bị mất năng lực hành vi dân sự đã từ chối không chấp nhận đi giám
định ADN, không hợp tác trong việc để bác sĩ tiếp cận thăm khám, giám định
người bị mất năng lực hành vi dân sự. Khi đó, vấn đề đặt ra là theo nguyên tắc
nhiên, trong nhiều vụ án, khi nguyên đơn yêu cầu trưng cầu giám định ADN,
bất khả xâm phạm và nguyên tắc chấp thuận của cá nhân thì tòa án hoặc cơ
quan chuyên môn không thể lấy mẫu như tóc hay máu… để xét nghiệm nếu
67
người bị yêu cầu không tự nguyện và không đồng ý, cũng không thể cưỡng
chế người đang nuôi dưỡng người bị mất năng lực hành vi dân sự. Đây chính
là quy định mâu thuẫn giữa các quyền dân sự và quyền tố tụng. Mặt khác, với
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định giám định trong tố
tụng dân sự có thể được tiến hành với hai phương thức là trưng cầu giám định
và yêu cầu giám định. Khi đối chiếu hai quy định trên thì khi yêu cầu giám
định đương sự phải chứng minh mình đã bị cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng từ chối trưng cầu giám định. Vậy đương sự phải chứng minh
như thế nào nếu người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng từ chối
chế khi "chỉ được yêu cầu giám định trước khi tòa án ra quyết định đưa vụ án
không bằng văn bản. Mặt khác, thời hạn giám định của đương sự cũng bị hạn
ra xét xử sơ thẩm" vậy các trường hợp chứng cứ mới xuất trình ở cấp phúc
thẩm mà đương sự đã không thể biết ở cấp sơ thẩm vì có lý do khách quan,
chính đáng và có nghi ngờ về tính xác thực của các chứng cứ này thì đương
sự có được thực hiện quyền yêu cầu giám định khi tòa án từ chối trưng cầu
giám định hay không? Dưới góc độ tố tụng dân sự, những trường hợp này vẫn
chưa được quy định trong luật, tác giả cho rằng, khi triển khi thực thi Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao cần
thiết có hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ những bế tắc trong việc trưng cầu giám
định hiện này theo hướng sau:
cầu giám định của tòa án, cơ quan giám định tư pháp thì tòa án có quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế thực hiện; trong trường hợp việc giám định là căn
cứ bắt buộc phải có để giải quyết vụ án Chính phủ quy định chi tiết trình tự,
thủ tục cưỡng chế trưng cầu giám định.
- Việc tòa án từ chối yêu cầu trưng cầu giám định của đương sự theo
- Trong trường hợp đương sự không chấp hành quyết định về trưng
khoản 1 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần có hướng dẫn cụ thể
là: "Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự theo khoản 1 Điều 102 Bộ luật Tố
68
tụng dân sự năm 2015 phải bằng văn bản trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày
nhận được đơn yêu cầu của đương sự".
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
theo hướng bỏ quy định về thời gian thực hiện quyền tự yêu cầu giám định
trước khi tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Hiện tại khi tiến hành thu thập chứng cứ, luật sư có thể sử dụng nhiều
biện pháp thu thập chứng cứ khác nhau như lấy lời khai của người làm chứng,
biên bản đối chất, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, kết luận giám định, kết
quả định giá tài sản… Tuy nhiên, hầu hết các chứng cứ trên luật sư đều phải
dù việc giới hạn các biện pháp thu thập chứng cứ là nhằm mục đích không để
thông qua tòa án để thu thập, phải có sự xem xét chấp thuận của tòa án. Mặc
các bên đương sự quá tự do dẫn đến việc thu thập chứng cứ không được
khách quan nhưng điều này cũng làm giảm đi khả năng chủ động của luật sư
trong việc thu thập chứng cứ bởi phải thông qua hoạt động chủ quan của cán
bộ tòa án. Như vậy, có thể trao cho đương sự, luật sư một số quyền thu thập
chứng cứ cơ bản mà không phải thông qua tòa án như lấy lời khai người làm
chứng với sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền, thẩm định tại chỗ của thừa
phát lại, định giá tài sản tại cơ quan có chuyên môn. Biện pháp này có thể
giảm bớt gánh nặng cho tòa án cũng như tạo cho đương sự, luật sư khả năng
chủ động cao trong hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng và phát huy vai trò
Hiện nay, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng đã quy định
một số biện pháp thu thập chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, tuy
nhiên để các quy định này đi vào áp dụng hiệu quả trên thực tế thì cần có các
văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về chủ thể, trình tự, thủ tục áp dụng các
biện pháp thu thập chứng cứ này. Ví dụ điểm b khoản 1 Điều 97 Bộ luật Tố
trung tâm trong hoạt động tố tụng dân sự.
tụng dân sự năm 2015 quy định biện pháp thu thập chứng cứ: "Thu thập vật
chứng"; điểm c khoản 1 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định
69
biện pháp thu thập chứng cứ: xác định người làm chứng và lấy xác nhận của
người làm chứng thì cần phải có hướng dẫn chi tiết về chủ thể được quyền áp
dụng trình tự thủ tục thu thập vật chứng, xác định người làm chứng và lấy xác
nhận của người làm chứng. Theo của tác giả điểm d khoản 1 Điều 97 nêu trên
cần phải sửa là "Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng thực chữ ký của
người làm chứng" do ngoài Ủy ban nhân dân cấp xã có thể mời các Văn
phòng công chứng chứng thực chữ ký thì khoản 1 Điều 77 Luật công chứng
năm 2014 cũng quy định công chứng viên có quyền chứng thực chữ ký trong
giấy tờ, văn bản. Với biện pháp thu thập chứng cứ tại điểm h khoản 1 Điều 97
hiện công việc khác theo quy định của pháp luật" thì cần có hướng dẫn "công
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: "Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
việc khác" cụ thể là những công việc gì, trình tự, thủ tục áp dụng như thế nào,
chế tài xử lý ra sao nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện công
việc đó?
Mặt khác, vấn đề tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho luật sư hành
nghề, từng bước phủ kín các phạm vi cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó chú
trọng xây dựng được những tổ chức hành nghề tư vấn, tham gia trợ giúp pháp
lý có hiệu quả cho các cá nhân, doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập quốc
tế, trợ giúp pháp lý cho người nghèo, các đối tượng chính sách, hỗ trợ Chính
phủ và các cơ quan nhà nước trong việc cải cách thủ tục hành chính, đồng
tố tụng các vụ việc dân sự bằng việc trao thêm quyền cho luật sự trong quá
trình hành nghề cần được coi là nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan ban hành các
văn bản pháp luật. Nếu thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm nêu
trên, nâng cao chất lượng, uy tín của mỗi cá nhân và tổ chức hành nghề luật
sư, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẽ là minh
thời tháo gỡ những khó khăn, những rào cản pháp lý trong quá trình tham gia
chứng rõ nét Nghị quyết số 49-NQ/TW vẫn còn giữ nguyên giá trị và tạo
động lực cho sự phát triển nghề luật sư ở Việt Nam.
70
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời đã khắc phục được những khó
khăn, vướng mắc cơ bản trong quá trình thu thập chứng cứ của luật sư trên
thực tế áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.
Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ
của luật sư thì cần phải có các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể việc áp
dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đồng thời xem xét
hoàn thiện hơn nữa các khuyết điểm, những tồn tại còn chưa được khắc phục
trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hướng tới mục tiêu hoạt động thu thập
chứng cứ chuyển giao hẳn cho đương sự và luật sư, tòa án chỉ đóng vai trò là
đưa ra phán quyết.
trọng tài để hòa giải và dựa trên những chứng cứ mà đương sự cung cấp để
3.2. Kiến nghị tổ chức thực hiện
"Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn" - Đó là một trong những nhiệm
vụ cải cách tư pháp được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày
02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 để
nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng và hoạt động chứng
minh nói chung cần đẩy mạnh sự phát triển số lượng, chất lượng luật sư khi
tham gia tố tụng dân sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đồng thời
nâng cao hiểu biết, nhận thức của công dân về vị trí, vai trò, hoạt động của
yếu tố con người để nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư:
- Củng cố và phát triển đội ngũ luật sư, nâng cao vai trò của luật sư
trong tố tụng dân sự
Đứng trước thực tế về nhu cầu cần được trợ giúp trong lĩnh vực pháp
luật của người dân ngày càng cao nhưng hiện nay số lượng luật sư tính bình
luật sư trong tố tụng dân sự. Tác giả xin đưa ra một số giải pháp liên quan đến
quân trên tổng dân số vẫn chưa đáp ứng được. Để thực hiện được mục tiêu đó,
một trong những giải pháp tối ưu, phù hợp với tình hình hiện nay là củng cố
71
và phát triển đội ngũ luật sư, nâng cao hơn nữa vai trò của luật sư nói chung
và của luật sư trong quá trình tìm kiếm, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự nói riêng. Đi đôi với việc nhanh chóng phát triển đội ngũ luật sư, chúng ta
cần chú trọng nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư để họ có đủ khả năng
đảm đương công việc, không những nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ mà
song hành với đó là nâng cao các kỹ năng mềm, khả năng ngoại ngữ trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường luật, các trường
đào tạo nghề luật sư để bảo đảm chất lượng, uy tín đội ngũ luật sư khi tham
thường nặng về lý thuyết, thiếu hụt kỹ năng hành nghề. Sau khi ra trường,
gia hành nghề. Ở Việt Nam hiện nay, chất lượng đào tạo ở các trường luật
sinh viên muốn hành nghề luật sư thì phải tham gia khóa đào tạo hành nghề
luật sư theo quy định của pháp luật, sau đó trải qua một thời gian tập sự tại tổ
chức hành nghề luật sư và khi kết thúc thời gian tập sự theo quy định, luật sư
phải trải qua kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức và được cấp Chứng chỉ hành
nghề nếu đạt yêu cầu. Về cơ bản, quy trình đào tạo và công nhận luật sư chính
thức ở Việt Nam cũng gần giống với các nước phát triển khác trên thế giới,
tuy nhiên khác với Việt Nam ở các nước có nghề luật sư phát triển thường
không có cơ sở đào tạo hành nghề luật sư như Học viện tư pháp của Việt Nam
mà sinh viên luật sẽ được nhà trường định hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ
nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề khi còn là sinh viên nên đã tạo động lực
cho các luật sư tương lai phấn đấu nỗ lực trong học tập, nghiên cứu các chế
định pháp luật và các vụ án, tình huống để tích lũy kiến thức, kỹ năng làm nền
tảng cho việc hành nghề sau này. Với quy trình đào tại hiện nay, rất nhiều luật
sư ở Việt Nam sau khi kết thức thời gian tập sự khó có thể độc lập tiếp xúc
năng hành nghề ngay tại trường đại học. Chính vì được định hướng nghề
khách hàng, nghiên cứu hồ sơ, tình huống, chủ động thu thập chứng cứ để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Do vậy, giải pháp được đưa ra
72
là cần xác định xây dựng tính chuyên nghiệp cho luật sư thông qua định
hướng nghề nghiệp và đào tạo kỹ năng hành nghề ngay trong thời gian học tại
trường đại học. Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo nghề luật sư cũng không ngừng
hoàn thiện, phát triển để đào tạo đội ngũ luật sư tương lai có chất lượng cao.
Với kiến thức chuyên môn sâu rộng, kỹ năng nghề nghiệp phong phú
luật sư sẽ tham gia một cách có hiệu quả vào hoạt động thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, xã hội đang không ngừng phát triển, các mối
quan hệ ngày càng đa dạng, phức tạp, các văn bản quy phạm pháp luật ngày
một nhiều hơn. Do vậy, cập nhật kiến thức pháp luật mới và nâng cao kỹ năng
thời kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của luật
hành nghề là một yêu cầu tất yếu đối với luật sư nhằm cập nhật đầy đủ, kịp
sư. Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ đối với luật sư không mang tính hình thức, khẩu hiệu. Theo tác giả, cần có
quy định tất cả luật sư bắt buộc tham gia lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ do các tổ chức trong nước thực hiện theo định kỳ và quy định về việc sát
hạch, kiểm tra lại để cấp gia hạn Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Trên thực tế, trong những năm vừa qua, Học viện Tư pháp là một trong
những tổ chức có chức năng đào tạo nghề luật sư đã tổ chức rất nhiều khóa
đào tạo nghề và bồi dưỡng nghề, đồng thời cấp chứng chỉ hành nghề cho rất
nhiều luật sư. Khóa đào tạo luật sư hội nhập cũng đã bắt đầu được triển khai
năng của học viên và trình độ ngoại ngữ đáp ứng điều kiện của khóa đào tạo.
- Nâng cao năng lực của các cơ quan và cán bộ làm công tác thi
hành pháp luật, đặc biệt là của những người làm công tác giải quyết các vụ
việc dân sự
Bên cạnh việc củng cố và phát triển đội ngũ luật sư đáp ứng được các
với các yêu cầu điều kiện khắt khe hơn như về khả năng tư duy pháp lý, kỹ
yêu cầu của thực tế thì một trong những giải pháp không kém phần quan
trọng nhằm nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự là phải
73
nâng cao nhận thức, năng lực của những người làm công tác thi hành pháp
luật, nhất là những người làm công tác xét xử vụ việc dân sự. Bởi trong tố
tụng dân sự, hoạt động của luật sư gắn liền với hoạt động của tòa án mà cụ thể
là những thẩm phán, khi thẩm phán nhận thức đúng về vị trí, vai trò của luật
sư trong tố tụng dân sự thì các luật sư mới có thể tham gia vào tố tụng dân sự
một cách thuận lợi và đạt hiệu quả. Dù đã có những bước tiến đáng kể so với
trước đây, tuy nhiên trong nhiều trường hợp khi tham gia tranh tụng tại phiên
tòa, thẩm phán gặp nhiều khó khăn, nhất là về năng lực cán bộ, nhiều thẩm
phán chưa có sự nhìn nhận đúng về vai trò của luật sư nên không tạo điều
của luật sư chưa đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, công tác đào tạo đội ngũ
kiện cho luật sư tham gia tố tụng - nguyên nhân chủ yếu làm cho hoạt động
thẩm phán cần quan tâm chú trọng hơn nữa, đào tạo đội ngũ thẩm phán có đủ
năng lực làm việc, khách quan và thiện chí phối hợp với luật sư cùng tìm hiểu
vụ việc để đưa ra phán quyết đúng đắn nhất.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức pháp luật
Để mỗi người dân sống và làm việc theo pháp luật, cần tổ chức nhiều
hình thức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật hơn nữa, trong đó có
pháp luật về luật sư. Cụ thể, cần đầy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Luật sư năm
pháp luật có liên quan đến hoạt động của luật sư trong tố tụng dân sự nói
chung và hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng. Đồng thời chú trọng việc
tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng
cao nhận thức pháp luật của công dân, cán bộ nhà nước và các cơ quan, tổ
chức về vị trí, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
2006 sửa đổi bổ sung năm 2012, Nghị định của Chính phủ và các văn bản
của đương sự, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan đến hoạt
động thu thập chứng cứ của luật sư. Khi cần thiết, chúng ta cần đổi mới các
74
hình thức tuyên truyền kết hợp với việc tiến hành thường xuyên cùng với sự
phối hợp của các cơ quan, ban ngành, đặc biệt là vai trò chủ đạo của tòa án,
viện kiểm sát, công an… để đạt được hiệu quả cao trên thực tế. Công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về luật sư và pháp luật về thu thập
chứng cứ sẽ giúp người dân nâng cao hiểu biết về pháp luật từ đó xác định
được những quyền lợi hợp pháp nào sẽ được pháp luật bảo vệ và khi những
quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm, họ sẽ tìm đến luật sư khi cần thiết.
75
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập phát triển kinh tế và các mối quan hệ dân sự
đang ngày một phát triển, không chỉ đơn thuần là các quan hệ với các đối tác
trong nước mà còn mở rộng hơn với cả các đối tác nước ngoài thì vai trò của
luật sư đang ngày càng được quan tâm chú trọng nhiều hơn. Khi có tranh
chấp, mâu thuẫn trong các mối quan hệ đó, các bên là chủ thể tham gia vào
quan hệ của tố tụng dân sự thì vai trò quan trọng, nổi bật lên là của luật sư
trong hoạt động thu thập chứng cứ. Các quan hệ dân sự không ngừng biến đổi
pháp luật về thu thập chứng cứ của luật sư nói riêng cũng cần phải linh hoạt
đa dạng và ngày càng phức tạp hơn nên pháp luật về luật sư nói chung và
để đáp ứng với sự phát triển và nhu cầu xã hội. Pháp luật về luật sư và hành
nghề luật sư đã có những bước phát triển và đóng góp quan trọng tạo cơ chế
hoạt động cho luật sư hành nghề tuy nhiên vẫn còn tồn tại những bất cập gây
khó khăn cho hoạt động của các luật sư khi hành nghề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự.
Luận văn đã nêu lên những vấn đề lý luận về luật sư, hành nghề luật
sư, về chứng cứ và các biện pháp thu thập chứng cứ, nêu lên vị trí, vai trò của
luật sư trong tố tụng dân sự và vai trò, ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng
cứ của luật sư. Từ đó luận văn phân tích một cách có hệ thống các quy định
từng giai đoạn của tố tụng dân sự đồng thời lồng ghép một số vụ việc thực
tiễn để thấy được thực trạng của việc thu thập chứng cứ của luật sư ở Việt
Nam hiện nay. Dựa trên những nội dung đó, tác giả đưa ra kiến nghị để hoàn
thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về việc thu thập chứng cứ của luật
sư và việc củng cố, hoàn thiện về mặt con người để tổ chức thực hiện, đưa các
quy định của pháp luật về vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng
cứ đi vào thực tiễn đạt hiệu quả cao.
của pháp luật về vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ trong
76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (2012), Bài giảng môn học Luật sư và nghề Luật sư, Học
viện Tư pháp, Hà Nội.
2. Nguyễn Quang Anh (2016), "Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
chứng cứ trong tố tụng dân sự", http://nguoibaovequyenloi.com/User/
ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=792016145841557428&MaMT=23 .
3. Bộ Tư pháp (2013), Thông tư 19/2013/TT-BTP ngày 28/11/2013 hướng
dẫn tập sự hành nghề luật sư, Hà Nội.
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội
4. Chính phủ (2010), Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 của Thủ
nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020, Hà Nội.
5. Chính phủ (2013), Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật sư, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
8. Nguyễn Minh Hằng (2002), Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong
Hà Nội, Hà Nội.
9. Phan Trung Hoài (2008), "Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư",
Tạp chí Khoa học pháp lý, (7).
10. Học viện Tư pháp (2016), Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
gia giải quyết tranh chấp ngoài tòa án của luật sư, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
11. Học viện Tư pháp (2018), Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật và tham
77
12. Hội đồng nhà nước (1987), Pháp lệnh Tổ chức luật sư, Hà Nội.
13. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Hà Nội.
14. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2011), Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 về việc ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật
sư Việt Nam, Hà Nội.
15. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2015), Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam
được phê duyệt (kèm theo Quyết định 1573/QĐ-BTP ngày 28/8/2015 về
việc phê duyệt Điều lệ liên đoàn luật sư Việt Nam), Hà Nội.
16. Nguyễn Kim Lượng (2015), Thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong tố tụng dân sự của tòa án cấp sơ thẩm, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Anh Minh (2010), Luật sư và tổ chức hành nghề luật sư ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
18. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 46/2014/TT-NHNN
ngày 31/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt,
Hà Nội.
19. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội.
21. Quốc hội (2011), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng
dân sự, Hà Nội.
23. Quốc hội (2012), Luật Giám định tư pháp, Hà Nội.
24. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.
26. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
27. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
22. Quốc hội (2012), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Luật sư, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.
28. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
78
30. Phạm Thái Quí (2010), "Thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự còn gian
nan", https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2010/05/03/4812.
31. Nguyễn Văn Thành (2013), Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
32. Hoàng Thị Anh Thư (2014), Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định về "chứng minh và chứng cứ" của Bộ luật Tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số
34. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành một số quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại
tòa án cấp sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung
theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Tuân (2001), Luật sư và hành nghề luật sư, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
37. Nguyễn Thanh Tùng (2019), "Một số bất cập về chế định chứng cứ trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015", https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-
nam-2015.
38. Nguyễn Hữu Ước, Nguyễn Văn Điệp (2011), Tập bài giảng Luật sư và
nghề luật sư, Hà Nội.
39. Ủy ban thường vụ quốc hội (2001), Pháp lệnh Luật sư, Hà Nội.
40. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
luat/mot-so-bat-cap-ve-che-dinh-chung-cu-trong-bo-luat-to-tung-dan-su-
dụng án phí, lệ phí tòa án, Hà Nội.
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
79
41. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
42. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
43. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
44. Hoàng Thu Yến (2006), Luật sư trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
80