VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HƯỚNG
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HƯỚNG
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN
HÀ NỘI, năm 2020
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, là
nguồn căn cứ để kịp thời phát hiện các hành vi phạm tội xảy ra; từ đó xác định
hành vi đó có dấu hiệu tội phạm hay không để xem xét khởi tố hay không khởi
tố vụ án hình sự. Đồng thời thông qua hoạt động này, CQĐT, VKS cũng như
các cơ quan hữu quan sẽ nắm được tình hình tội phạm xảy ra trên thực tế để có
các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát nhân dân là một
trong những cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước. Theo đó, VKSND là cơ
quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất,
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm
bảo không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện KSND được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận
nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng
và các hoạt động tư pháp khác nói chung.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong những năm
qua cho thấy, công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố sẽ quyết định đến chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Nhận thức được tầm quan trọng của
khâu công tác này, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung
và VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn quan tâm, chú
trọng đến khâu công tác này và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, trước sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, nhất là yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm trong tình hình mới thì công tác kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều hạn chế từ các quy định của pháp luật cũng như
trên thực tế áp dụng, dẫn đến hiệu quả việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
chưa cao, nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa được xử lý đúng quy
trình, có những tố giác, tin báo tội phạm chưa được CQĐT kịp thời xác minh
làm rõ dẫn đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa kịp thời làm ảnh hưởng
đến quá trình giải quyết vụ án…
Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm theo yêu cầu cải cách tư
pháp và việc nghiên cứu, thực hiện các quy định mới của BLTTHS năm 2015
nói chung và nhất là việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
sẽ làm sáng tỏ về mặt khoa học, nêu lên những kết quả đạt được, những bất
cập, hạn chế từ những quy định của pháp luật cũng như việc thực hiện các quy
định này trên thực tế. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng các quy định trên thực tiễn, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan
trọng. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
làm tiền đề cho việc nghiên cứu đề tài luận văn như: Bình luận khoa học
BLTTHS; Nông Xuân Trường, Vai trò, trách nhiệm của VKS trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, thực trạng và một số giải pháp, (Trang tin điện tử
VKSNDTC); ThS. Nguyễn Duy Giảng, Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 18-20/2008;
ThS. Lê Ra, Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát
số 20/2012; ThS. Lê Minh Long, Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất
cập trong giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
giết người, Tạp chí kiểm sát số 4/2011...
Ngoài ra, còn có một số các Luận văn thạc sĩ luật học như: “Kiểm sát
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án hình
sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phan Văn Khai (Hà Nội-2018);
“Kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Loan (Hà Nội-2018); “Kiểm sát việc giải quyết các tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” của
tác giả Bé Thị Thảo (Hà Nội-2018)...
Như vậy, vấn đề kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đã được các nhà nghiên cứu lý luận cũng như những người
làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Tuy nhiên, liên quan đến công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thì chưa có một bài viết, một công trình
nghiên cứu nào đề cập đến. Đây là đề tài do bản thân tác giả tự nghiên cứu
nên sẽ không trùng với bất kỳ đề tài hoặc công trình nghiên cứu nào đã được
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến công
tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ
thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đưa ra các giải pháp tiếp tục
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định theo pháp luật
TTHS Việt Nam về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2015 - 2019. Qua đó đánh giá những kết quả đã đạt được cũng
như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tìm ra nguyên nhân
của những tồn tại đó.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiểu quả kiểm sát
việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa
bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của
BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn hoạt động của công tác kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ khi CQĐT tiếp nhận đến
khi ra các Quyết định khởi tố, không khởi tố và tạm đình chỉ.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm
2015 đến 2019, số liệu thống kê của VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam.
- Về không gian: huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận về chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy
nạp, diễn dịch, phân tích quy phạm pháp luật để tổng hợp các tri thức khoa
học luật TTHS và luận cứ các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận
văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và
thực tiễn liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND. Luận văn tổng hợp các quan điểm
khoa học về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ đó xây dựng các khái niệm về kiểm sát việc giải quyết
các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh đó, luận văn
cũng chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế liên
quan đến khâu công tác này. Từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hơn
nữa hiệu quả thực hiện khâu công tác này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà nghiên
cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, học viên, sinh viên và những người làm
công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Chương 2: Thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ thực hiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, trình tự, thủ tục
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn thông tin
quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội
phạm, trên cơ sở đó sẽ tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để xác định
có căn cứ để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Đây là tiền đề quan
trọng bởi lẽ nếu kết quả kiểm tra, xác minh dẫn đến việc CQĐT ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự thì nó sẽ mở ra hoàng loạt các hoạt động tố tụng sau
này. Vì vậy, việc hiểu và đưa ra khái niệm chính xác về tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố sẽ giúp cho người THTT cũng như các Cơ quan
THTT thuận lợi hơn trong việc phân loại, giải quyết các nguồn tin báo về tội
phạm đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Trên thực tế, hoạt động giải quyết tố giác tội phạm và tố cáo thường
gây nhầm lẫn cho các chủ thể khi thực hiện nhiệm vụ vì giữa chúng có những
điểm tương đồng, gây ra không ít khó khăn trong cách hiểu và cách xử lý dẫn
đến việc phân loại không chính xác, làm cho hoạt động áp dụng pháp luật
cũng như quy trình xử lý chưa thật sự phù hợp. Vì vậy, cần phân biệt giữa
khái niệm “tố cáo” và “tố giác”
Thứ nhất, dưới góc độ ngôn ngữ:
Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: thứ nhất, tố cáo là báo
cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết hoặc hành động phạm pháp
nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi
người biết nhằm lên án, ngăn chặn. [14]
Khái niệm “Tố giác” được hiểu là báo cho chính quyền biết người hoặc
hành động phạm pháp nào đó. [14]
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý:
Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá
nhân theo thủ tục quy định của luật này báo cáo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [17]. Như
vậy, xét về bản chất việc thực hiện quyền tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà trong đó bên đi tố cáo báo cáo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp
luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (lĩnh vực dân sự,
hành chính...) theo những trình tự, thủ tục giải quyết khác nhau.
Khoản 1, Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tố giác về tội phạm
là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan
có thẩm quyền”.[15]
Từ đó có thể thấy rằng, tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm
khác biệt. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật không phân biệt tính chất, mức
độ vi phạm; còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm những hành vi có dấu hiệu
tội phạm được quy định trong BLHS nên có thể nói khái niệm tố cáo rộng
hơn, bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm. Điểm khác biệt cơ bản giữa tố
cáo và tố giác là: Tố cáo là quyền, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền vừa
là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp
luật phát sinh khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật về
tố giác tội phạm phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân
có quyền quyết định việc mình có tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp
luật nhưng bắt buộc phải tố giác nếu biết rõ một trong các tội phạm được quy
định tại Điều 389 BLHS năm 2015 đang được thực hiện hoặc chuẩn bị thực
hiện. Nếu không tố giác, công dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015.
Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa, một là, điều được
truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình huống nào đó đã xảy ra. Hai là, sự
truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau cho biết về thế giới
xung quanh và quá trình xảy ra trong nó.[14]
Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Một là, cho biết việc gì đó
đã xảy ra. Hai là, báo cho người có trách nhiệm biết về việc xảy ra có thể hại
đến trật tự an ninh chung..., là dấu hiệu biết trước.[14]
Theo đó, tin báo về tội phạm được hiểu là những thông tin về hành vi
có dấu hiệu tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan
có thẩm quyền và những thông tin được đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng có dấu hiệu tội phạm .
Kiến nghị khởi tố được hiểu là những thông tin về hành vi có dấu hiệu
tội phạm do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản gửi
kèm theo tài liệu, chứng cứ có liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền giải
quyết.
Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố về cơ bản là giống nhau nhưng chưa được cụ thể làm cho việc phân biệt
giữa các khái niệm này còn khó khăn. Đến Bộ luật TTHS năm 2015 thì khái
niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mới được quy định
một cách hoàn chỉnh, đầy đủ và cụ thể.
Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ
quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin
về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Khái niệm “Giải quyết” được hiểu là làm cho một vấn đề không còn là
vấn đề nữa.[14]
Theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 thì
CQĐT có trách nhiệm giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố.[18].
Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định: CQĐT, VKS có trách nhiệm
giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền của mình; các cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận các tố
giác, tin báo về tội phạm; các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra có trách nhiệm giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của mình.
Như vậy, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
hoạt động tố tụng đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, quá
trình này được diễn ra xuyên suốt thông qua các hoạt động tố tụng từ khâu
tiếp nhận, phân loại, thụ lý và giải quyết. Qua kiểm tra, xác minh nguồn tin
chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không để ra quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc CQĐT sử dụng các quyền năng pháp lý
của mình được quy định trong BLTTHS để thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp
luật.
Hiện nay, khái niệm “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố” chưa có định nghĩa cụ thể và thống nhất, ở nước ta mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở cấp độ kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
chung hay cụ thể là kiểm sát một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng như
kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra...
Ở nước ta, VKSND là cơ quan duy nhất trong hệ thống tổ chức bộ máy
Nhà nước được Quốc hội quy định hai chức năng là thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Chức năng của Viện KSND đã được cụ thể hóa tại Luật Tổ chức
VKSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” [18]. Trong chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có chức năng kiểm
sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đây là hoạt động của VKKSND để
kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nói chung và những người
THTT nói riêng. Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố được Ngành kiểm sát xác định là một trong những khâu
công tác quan trọng, trọng điểm. Thông qua khâu công tác này, Viện kiểm sát
mới có cơ sở để đảm bảo các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là có căn cứ, đúng pháp luật;
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và
xử lý kịp thời, không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, đảm bảo CQĐT, những người THTT và những người tham gia
tố tụng đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án. Vì vậy, trong những năm qua nhất là từ khi BLTTHS năm 2015 ra đời,
khâu công tác này luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Viện KSND tối
cao, của các cấp chính quyền địa phương.
Chức năng kiểm sát của VKSND trong giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố là việc VKSND sử dụng những nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định trong BLTTHS và những quy định pháp luật có liên quan
nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất trên thực tế.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tham gia “Kiểm tra việc chấp hành pháp
luật của Nhà nước” trong TTHS không chỉ có VKS mà còn có các chủ thể
khác như: người tham gia tố tụng, cá nhân công dân, đại biểu dân cử và toàn
thể xã hội. Các chủ thể này có quyền được kiểm tra việc chấp hành pháp luật
của Nhà nước trong lĩnh vực TTHS xuất phát từ những chế định quan trọng
của Hiến pháp và pháp luật, về tổ chức Bộ máy Nhà nước và địa vị pháp lý
của công dân. Về bản chất, hoạt động của các chủ thể này như theo dõi, yêu
cầu cơ quan THTT báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các
quyết định, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, yêu cầu khắc phục vi phạm
pháp luật. Điều này, sẽ làm ảnh hưởng đến việc kịp thời phát hiện các hành vi
vi phạm pháp luật của các cơ quan THTT và loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân trong TTHS. Nhưng không thể coi đây là
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS mà chỉ là các hoạt
động giám sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Sự khác nhau giữa hoạt
động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các chủ thể nói trên chính
là một số quyền mà pháp luật cho phép chỉ có VKSND mới có khi thực hiện
hoạt động kiểm sát như: Yêu cầu CQĐT tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; yêu
cầu kiểm tra, xác minh nguồn tin tội phạm; ra quyết định giải quyết nguồn tin
về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
các lệnh, quyết định của CQĐT... Những quyền này đồng thời cũng là nghĩa
vụ của VKSND, tạo nên sự khác biệt về phương thức hoạt động của Viện
kiểm sát mà các chủ thể khác không có. Quyền của VKSND khi kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS được thực hiện cụ thể qua các quyền của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên theo quy định tại các Điều 41,
42 BLTTHS năm 2015.
Các quyền và nghĩa vụ của VKSND đặt trong mối quan hệ tổng thể tạo
ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, riêng có của VKS, tạo sự phân biệt dễ
dàng giữa hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS với hoạt động
giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Phương thức kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một
cách liên tục trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS có quyền và
nghĩa vụ có mặt trong tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét
xử - thi hành án. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát là việc VKS có quyền
giám sát các hoạt động cụ thể như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, hỏi cung bị can, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng... VKS kiểm
sát một cách trực tiếp các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc VKS có mặt ở
những hoạt động tố tụng bắt buộc phải có sự tham gia của KSV; thường
xuyên nhắc nhở, đôn đốc kịp thời khi các cơ quan THTT thực hiện các hoạt
động giải quyết vụ án. Tuy nhiên, VKSND không phải có mặt, theo dõi và
giám sát mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi mà còn phụ thuộc vào điều kiện
thực tế về nhân sự, số lượng vụ án, tính chất từng vụ án và quy định của pháp
luật TTHS mà VKS sẽ quyết định việc trực tiếp kiểm sát diễn biến của một
hoạt động tố tụng hay chỉ cần kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố
tụng.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 và những phân tích nên trên, có thể hiểu khái niệm như
sau:
“Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
của mình được pháp luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật”.
Bên cạnh chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát còn có chức năng thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Quá trình kiểm sát hoạt động của CQĐT trong quá trình giải quyết nguồn tin
về tội phạm chúng ta cần phân biệt rõ hai chức năng này để áp dụng pháp luật
đúng đắn. Thực hành quyền công tố của VKSND trong TTHS là việc
VKSND thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân
thương mại phạm tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi giải
quyết nguồn tin tội phạm đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thực hành
quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là hoạt động của VKSND trong quá trình giải quyết những thông tin
về hành vi có dấu hiệu của tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thực hành quyền công tố trong
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKSND như: Phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn
tạm giữ, hủy bỏ quyết định tạm giữ; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh; trực
tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm trong trường hợp có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu
nhưng CQĐT không khắc phục...Chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
là hai chức năng độc lập nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Từ khi
CQĐT tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là đã phát sinh hoạt động
thực hành quyền công tố của VKSND.
1.2. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1. Về chủ thể thực hiện quyền kiểm sát
VKSND là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng này của
VKS được kế thừa từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Tuy qua các thời kỳ khác
nhau, chức năng của VKSND có những thay đổi khác nhau nhưng về cơ bản
Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng cơ bản là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. [19]. Như vậy,
một trong những nội dung đầu tiên trong công tác kiểm sát các hoạt động tư
pháp của VKSND là kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan duy nhất tham gia đầy đủ các
giai đoạn tố tụng. Chức năng thực hành quyền công tố của VKS là những hoạt
động trong việc xác định tội phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và việc
buộc tội trước Tòa án. Vì vậy, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát
hiện, xử lý theo quy định của pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm
oan người vô tội, thì các hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Đặc biệt trong tiến trình cải
cách tư pháp và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà
nước luôn yêu cầu VKS phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt
động tố tụng hình sự phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ, bởi vì
các hoạt động này đều có tác động, liên quan đến quyền con người, quyền
công dân, thậm chí là sinh mệnh chính trị của con người... đây là nguyên tắc
tối thượng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo vệ. Như vậy, việc giải
quyết tố giác, tin báo trở thành “một giai đoạn” của tố tụng hình sự, VKS
thực hành quyền công tố sớm hơn, ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm.
Tại Điều 160 BLTTHS năm 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thông qua các hoạt động kiểm sát
tuân theo pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong tố
tụng hình sự thực hiện việc tiếp nhận, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và
việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT; kiểm sát việc tạm
đình chỉ, phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi
giải quyết nguồn tin về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu liên quan
để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trường hợp khi phát hiện
việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi phạm pháp
luật thì yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động, như: (1) tiếp nhận, kiểm tra,
xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp
luật; (2) kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông
báo kết quả cho VKS; (3) cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; (4) khắc phục vi phạm pháp luật
và xử lý nghiêm người vi phạm; (5) yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ
điều tra; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm
và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS. Trong Điều luật này
cũng quy định VKS tiến hành trực tiếp các cuộc kiểm sát, là những hoạt động
kiểm sát mang tính toàn diện, để kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật
của CQĐT… trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất và ngăn
ngừa các vi phạm, xử lý nghiêm tội phạm trong hoạt động tư pháp.
Từ những quy định nêu trên, có thể thấy VKSND là cơ quan Nhà nước
duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao cho quyền được thực hiện việc
kiểm sát hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố. Đây là chức năng đặc thù của VKSND cùng với chức năng thực hành
quyền công tố, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để VKSND thực hiện tốt nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.
1.2.2. Về mục đích, đối tượng và phạm vi kiểm sát
1.2.2.1. Mục đích kiểm sát
Giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ
mới của Viện kiểm sát được quy định trong BLTTHS năm 2015. Đây là khâu
công tác hết sức quan trọng của ngành kiểm sát nói chung và của các hoạt
động tố tụng nói riêng bởi lẽ đây là giai đoạn mở đầu cho các hoạt động tố
tụng hình sự. Có tiếp nhận và giải quyết tốt các nguồn tin về tội phạm, thì mới
xác định được có tội phạm hay không có tội phạm xảy ra, để quyết định khởi
tố hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, VKS được giao nhiệm
vụ thực hiện khâu công tác này nhằm đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kịp thời, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời phải đảm bảo cho việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được khách quan, toàn diện, đảm
bảo đúng quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Đối tượng kiểm sát
Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Trách nhiệm giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định cụ thể tại Điều 145
BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017. Theo các quy định này thì mọi tố
giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải
quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tiếp nhận, không được từ
chối tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nếu
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. [15]
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo trình tự
TTHS được chia thành hai nhóm là cơ quan điều tra và cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Theo quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì
CQĐT gồm ba hệ thống là: CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT của quân
đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC. Đây là những cơ quan chuyên trách,
được trao cho nhiệm vụ, quyền hạn điều tra trong hầu hết các vụ án hình sự
nên cũng là các cơ quan chủ yếu tiến hành các hoạt động tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm.
Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là
hệ thống các Cơ quan được quy định tại Điều 35 BLTTHS năm 2015 và Luật
Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 như: Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Cảnh sát biển, Kiểm lâm...Các cơ quan này là các cơ quan quản lý hành
chính trong ngành, lĩnh vực mà mình quản lý, được pháp luật cho phép tiến
hành một số hoạt động điều tra các vụ án hình sự xảy ra trên lĩnh vực đó. Các
cơ quan này được tiến hành các hoạt động điều tra kể từ khi tiếp nhận nguồn
tin về tội phạm đối với những vụ án đơn giản, bị can có lý lịch rõ ràng; đối
với những vụ án phức tạp thì phải chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền
giải quyết.
1.2.2.3. Phạm vi thực hiện các hoạt động kiểm sát
Điều 10 và 14 Thông tư liên tịch số 01/2017 quy định: Nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo
quy định tại Điều 159, Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
tại Điều 9 Thông tư liên tịch này, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ
đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan
điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã
ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu
hiệu của tội phạm mà Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì
Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, phân công Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Khi kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố phải gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố theo quy định tại các điều 148, 154, 158 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Từ đó có thể thấy, phạm vi công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố được bắt đầu khi cơ quan có thẩm quyền
điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đến khi ra Quyết định khởi tố;
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và ban hành thông báo kết quả giải quyết
theo quy định tại Điều 147 BLTTHS năm 2015.
1.2.3. Trình tự, thủ tục, thời hạn kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.3.1. Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị
khởi tố
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức VKSND năm
2014, VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực này của VKS
được thực hiện qua việc VKS trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác
minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra để kịp thời phát hiện những sai sót trong giai đoạn này, yêu cầu cơ
quan điều tra chấn chỉnh, khắc phục, đảm bảo việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. VKS kiểm sát các
quyết định khởi tố, không khởi tố vụ án hình sự, Quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành phân
loại, xác minh sơ bộ ban đầu, nếu xác định thông tin đó là tố giác, tin báo về
tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 03 ngày
làm việc, Thủ trưởng CQĐT phải ra Quyết định phân công Điều tra viên giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm đó và gửi ngay một bản đến VKS cùng cấp
để kiểm sát việc giải quyết theo quy định. Sau khi nhận được quyết định phân
công của CQĐT, trong thời hạn 03 ngày VKS phải ra Quyết định phân công
KSV kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và gửi 01 bản cho
CQĐT. Đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực mà mình quản lý có tiếp nhận
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì khẩn trương tiến hành
kiểm tra, xác minh, quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự,
đồng thời phải thông báo cho VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan mình.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của cơ quan có thẩm quyền là hoạt động quan trọng. VKSND với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật sẽ tác
động, trực tiếp theo dõi liên tục, xuyên suốt từ khi tiếp nhận, phân công người
giải quyết, các hoạt động xác minh, lập hồ sơ cho đến kết quả giải quyết luôn
được kiểm sát chặt chẽ. Trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm,
CQĐT sẽ tiến hành các hoạt động như thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi...để xác định có dấu hiệu tội phạm
xảy ra hay không để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Trong giai đoạn tố tụng này, KSV được phân công giải quyết nguồn tin
phải lập kế hoạch theo dõi, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của ĐTV, nắm
được nội dung và tiến độ thực hiện của ĐTV. Chủ động đề ra các yêu cầu xác
minh ngay từ khi tiếp nhận, KSV phải nêu rõ những nội dung cần làm rõ để
xác định tính xác thực của nguồn tin, văn bản này phải được lưu trong hồ sơ
kiểm sát. Trong trường hợp ĐTV không đồng ý với yêu cầu của KSV thì
KSV có quyền yêu cầu ĐTV nêu rõ lý do. Nếu lý do của ĐTV không có căn
cứ thì KSV báo cáo lãnh đạo đơn vị xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng
CQĐT. Đồng thời với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKSND
phải kịp thời phát hiện và yêu cầu khắc phục ngay những vi phạm của CQĐT
trong quá trình xác minh tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, bảo
đảm các hoạt động của CQĐT tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật.
Ngoài việc kiểm sát việc giải quyết nội dung, VKS còn phải kiểm sát
chặt chẽ về thời hạn giải quyết nguồn tin. BLTTHS năm 2003 quy định thời
hạn tối đa để giải quyết nguồn tin về tội phạm là 02 tháng. Tuy nhiên, khắc
phục những khó khăn vướng mắc của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015 đã có thay đổi lớn về thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Hiện
nay theo quy định tại Điều 147 BLTTHS thì thời hạn tối đa để giải quyết
nguồn tin về tội phạm là 04 tháng. Sau khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm, CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án
hình sự, Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.[15]. Để kiểm
sát chặt chẽ thời hạn giải quyết, VKS phải nắm được nội dung thông tin cụ
thể, nếu thông tin về tội phạm cụ thể, rõ ràng và có đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm thì có thể yêu cầu CQĐT ra quyết định giải quyết ngay mà không cần
thiết phải chờ hết thời hạn giải quyết nguồn tin, nếu CQĐT vẫn để kéo dài
thời hạn thì VKS sẽ kiến nghị, yêu cầu đảm bảo cho việc giải quyết nguồn tin
được nhanh chóng, kịp thời. Trường hợp đã hết thời hạn giải quyết mà chưa
có đủ căn cứ để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, thì sau khi nhận
được thông báo của CQĐT, KSV cùng ĐTV nghiên cứu kết quả đã xác minh
và báo cáo lãnh đạo hai cơ quan để cùng thống nhất quan điểm xử lý.
1.2.3.2. Kiểm sát kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố
BLTTHS năm 2015 quy định sau khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm thì CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ
án hình sự, Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do đó, KSV
phải kiểm sát chặt chẽ kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm của CQĐT.
Trong đó, tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm là quy định
hoàn toàn mới, lần đầu tiên được thể chế hóa vào BLTTHS. Đây là một
hướng giải quyết mới, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, mở ra cơ sở pháp lý
cho việc tạm ngừng hoạt động xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
khi đủ những điều kiện luật định. Điều đó đã chấm dứt câu chuyện thực tiễn
đang còn thiếu thống nhất trong thực hiện khi phải giải quyết tin báo, tố giác
tội phạm theo những quy định “ngoài vòng tố tụng” (tạm dừng xác minh) nếu
thuộc trường hợp không đủ cơ sở để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án như
hiện nay. Nhiệm vụ của VKS khi kiểm sát quyết định tạm đình chỉ giải quyết
nguồn tin của CQĐT là kiểm sát các căn cứ tạm đình chỉ của CQĐT có đúng
quy định tại Điều 148 BLTTHS hay không. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra
quyết định tạm đình chỉ, CQĐT phải gửi quyết định và tài liệu có liên quan
đến VKS cùng cấp để kiểm sát. Nếu quyết định tạm đình chỉ không có căn cứ
thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ yêu cầu CQĐT tiếp tục
giải quyết nguồn tin tội phạm, nếu quyết định tạm đình chỉ là có căn cứ thì
VKS có quan điểm thống nhất với ý kiến của CQĐT.
Quá trình kiểm sát việc giải quyết nguồn tin tội phạm của CQĐT, KSV
nếu phát hiện việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
của CQĐT không được thực hiện đầy đủ, vi phạm pháp luật thì phải báo cáo
với lãnh đạo Viện, yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động như:
Kiểm tra việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; Cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật
trong việc tiếp nhận nguồn tin; Khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm
người vi phạm; Yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Hoặc ban
hành văn bản kiến nghị.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của Luận văn, tác giả đã nghiên cứu các vấn đề lý luận chung
và quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND. Từ đó, tác giả nêu ra các khái niệm,
đặc điểm về chủ thể, đối tượng, phạm vi cũng như trình tự, thủ tục, thời hạn
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Phân
tích các quy định của BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật có liên quan
đến công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố.
Đây là những cơ sở để tác giả nghiên cứu, khảo sát thực tiễn về hoạt
động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (giai đoạn 2015-2019); nhằm
đưa ra một số giải pháp để thực hiện có chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Ngành
kiểm sát nói chung và VKSND huyện Quế Sơn nói riêng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ
GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Tình hình giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Tình hình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam
Quế Sơn là huyện trung du của tỉnh Quảng Nam. Tổng diện tích tự
nhiên của huyện 251,17 km2, nằm cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 30 km về phía Tây
Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam. Phía Bắc giáp huyện
Duy Xuyên, phía Nam giáp huyện Hiệp Đức, phía Đông giáp huyện Thăng
Bình, phía Tây giáp huyện Nông Sơn. Toàn huyện có 13 đơn vị hành chính,
dân số huyện Quế Sơn năm 2020 là 82.967 người, được phân bố như sau: thị
trấn Đông Phú chiếm 9,7% dân số toàn huyện, các xã đồng bằng, trung du
83,6%, xã miền núi Quế Phong chiếm 6,7%. Đường Quốc lộ 1A, chạy qua địa
bàn huyện có chiều dài là 8,5km, trên địa bàn huyện có các danh lam, thắng
cảnh đã và đang kêu gọi thu hút đầu tư như: Khu du lịch sinh thái Suối Tiên
(Quế Hiệp), Khu du lịch sinh thái Suối Nước Mát-Đèo Le (Quế Long), Hồ
Giang (Quế Long), Vũng nước nóng Bàn Thạch (Quế Phong). Đến nay đã có
một nhà đầu tư vào đầu tư Khu du lịch sinh thái Suối Nước Mát-Đèo Le. Có
các khu di tích lịch sử: Tượng đài chiến thắng Cấm Dơi, Đền Tưởng niệm các
Anh hùng liệt sỹ huyện…, bình quân hằng năm lượng khách đến tham quan
các điểm du lịch trên địa bàn huyện ước khoảng 05-07 ngàn lượt người.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, huyện
Quế Sơn được đánh giá có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển
kinh tế-xã hội của toàn tỉnh. Đây là những điều kiện để nền kinh tế của huyện
tăng trưởng và phát triển, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, đời sống vật
chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, quốc phòng ngày
càng được củng cố, tình hình trật tự, an toàn xã hội luôn được giữ vững. Tuy
nhiên, dưới sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế đã, đang đặt ra những khó khăn, thách thức đối với sự ổn định của
tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
Trong thời gian qua, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Sơn đã thực
hiện tốt các hoạt động nghiệp vụ thuộc chức năng tiếp nhận, giải quyết các tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; đảm bảo công tác tiếp nhận, giải
quyết các tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được giải quyết nhanh
chóng, kịp thời. Công tác tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố được Cơ quan CSĐT thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng
trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTHS như tổ chức trực ban hình sự
24/24 giờ để tiếp nhận và vào sổ đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Trường hợp phát hiện tin báo không thuộc thẩm quyền giải
quyết của mình thì tổ chức phân loại và chuyển ngay cho CQĐT có thẩm
quyền giải quyết theo quy định.
Trong những năm qua, VKSND, CQĐT, Tòa án, Hạt kiểm lâm, Thanh
tra, Thuế, Quản lý thị trường đã ký kết quy chế phối hợp trong công tác tiếp
nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; đảm bảo
100% tố giác, tin báo về tội phạm được thụ lý, giải quyết theo đúng quy định
của pháp luật. Quy chế phối hợp đã tạo điều kiện thuân lợi cho Cơ quan điều
tra cũng như các cơ quan tham gia ký kết quy chế trong việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Việc xác minh, phân
loại, giải quyết các thông tin đều tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật
về nội dung cũng như thủ tục. Định kỳ hàng tuần, tháng và quý, giữa Điều tra
viên và Kiểm sát viên chủ động phối hợp phân loại, xác định kết quả xử lý tin
báo, tố giác. Khi gặp những tin báo phức tạp, kéo dài thì lãnh đạo các cơ quan
có sự trao đổi, bàn bạc và tổ chức các cuộc giao ban liên ngành để thống nhất
đưa ra hướng xử lý. Các cơ quan liên ngành đã chủ động hơn trong việc
chuyển nguồn thông tin về tội phạm, cũng như hồ sơ đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền giải quyết và thông báo kịp thời cho Viện kiểm sát sát biết để
kiểm sát theo luật định.
Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố, Cơ quan điều tra thường xuyên duy trì và thực hiện tốt mối quan hệ
phối hợp với Viện kiểm sát. Điều tra viên và Kiểm sát viên được phân công
giải quyết thường xuyên trao đổi các thông tin liên quan, những vấn đề cần
tập trung xác minh làm rõ nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Từ đó tránh được việc khởi tố oan sai, bỏ lọt
tội phạm.
Từ năm 2015-2019, CQĐT huyện Quế Sơn đã tiếp nhận, giải quyết 502
tố giác, tin báo về tội phạm. CQĐT đã giải quyết 474 tin, trong đó khởi tố vụ
án là 251 tin, không khởi tố vụ án là 171 tin.
Bảng 2.1. Số liệu tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp
nhận giải quyết từ năm 2015-2019
Giải quyết Tổng số tố giác, tin Chưa
Năm báo về tội phạm và giải Khởi tố vụ Không khởi Tạm
kiến nghị khởi tố quyết tố vụ án đình chỉ án
2015 77 11 10 04 52
2016 75 13 15 03 44
2017 113 50 11 07 45
Giải quyết Tổng số tố giác, tin Chưa
Năm báo về tội phạm và giải Khởi tố vụ Không khởi Tạm
kiến nghị khởi tố quyết tố vụ án đình chỉ án
51 55 06 06 2018 118
59 42 11 07 2019 119
251 171 53 27 Cộng 502
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác Công an huyện Quế Sơn từ năm 2015 đến
năm 2019.
Thực tiễn cho thấy, quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố vẫn còn để xảy ra một số sai sót như: một số tố
giác, tin báo về tội phạm chưa được tiếp nhận, xử lý đầy đủ và kịp thời; chưa
được cơ quan điều tra thực hiện một cách chặt chẽ theo đúng quy định của
pháp luật, còn để xảy ra tình trạng quá hạn giải quyết; trình tự, thủ tục giải
quyết chưa đảm bảo; việc xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ
giải quyết vụ việc còn sơ sài, thiếu chặt chẽ dẫn đến công dân có khiếu kiện
bức xúc, kéo dài; hồ sơ giải quyết tin báo sắp xếp chưa khoa học...Những vi
phạm, thiếu sót này đã phần nào làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
2.1.2. Tình hình kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố của VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
Trong tố tụng hình sự nước ta, VKS là cơ quan duy nhất tham gia đầy
đủ các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án đến khi thi hành án. Chức năng
thực hành quyền công tố của VKS là những hoạt động trong việc xác định tội
phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và việc buộc tội trước Tòa án. Do
đó, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý
theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội, thì các
hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm. Hơn nữa, trong tiến trình cải cách tư pháp và thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước luôn yêu cầu VKS
phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt động tố tụng hình sự phải
được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ, bởi vì các hoạt động này đều có
tác động, liên quan đến quyền con người, quyền công dân, thậm chí là sinh
mệnh chính trị của con người... đây là nguyên tắc tối thượng được Hiến pháp
năm 2013 ghi nhận, bảo vệ. Như vậy, việc giải quyết tố giác, tin báo trở thành
“một giai đoạn” của tố tụng hình sự, VKS thực hành quyền công tố sớm hơn,
ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.
Chính vì vậy mà trong những năm qua, VKSND huyện Quế Sơn luôn
chú trọng thực hiện tốt chức năng của mình; kịp thời tác động, ban hành các
kiến nghị, yêu cầu CQĐT cùng cấp khắc phục vi phạm, thiếu sót; đảm bảo
công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
được VKS thực hiện nghiêm túc, VKS chủ động xây dựng và ký kết Quy chế
phối hợp với CQĐT trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, đảm bảo 100% tố giác, tin báo đều được thụ lý giải quyết theo quy
định của pháp luật.
Từ năm 2015 đến 2019, VKSND huyện Quế Sơn đã thụ lý kiểm sát 502
tin báo, tố giác tội phạm, trong đó khởi tố vụ án là 251 tin, không khởi tố vụ
án là 171 tin.
Bảng 2.2. Số liệu tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố mà
VKS đã thụ lý kiểm sát từ năm 2015 đến năm 2019
Giải quyết Năm Tổng số tố giác, Chưa giải
tin báo về tội quyết Khởi tố Không Tạm
phạm và kiến vụ án khởi tố vụ đình
nghị khởi tố hình sự án hình sự chỉ
52 11 08 04 2015 77
44 13 15 03 2016 75
45 50 11 07 2017 113
51 55 06 06 2018 118
59 42 11 07 2019 119
251 171 53 27 Cộng 502
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát VKSND huyện Quế Sơn từ năm
2015 đến năm 2019.
Qua công tác kiểm sát đã phát hiện nhiều vụ, việc CQĐT chậm tiến
hành xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ, vi phạm về thời hạn giải quyết, có
dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. VKS đã kịp thời ban hành các yêu cầu xác minh đối
với từng vụ việc, yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, ban hành các kiến nghị yêu
cầu khắc phục vi phạm.
Trong 5 năm VKSND huyện Quế Sơn đã ban hành 02 Quyết định hủy
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; ban hành 02 Quyết định không phê
chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. VKS đã trực tiếp
kiểm sát 09 đơn vị, ban hành 09 kết luận - kiến nghị; ban hành 05 kiến nghị
yêu cầu CQĐT khắc phục vi phạm trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
Đối với các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đều phân
công cán bộ, KSV thụ lý và ra Quyết định phân công KSV kiểm sát tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định tại Thông tư liên tịch
số 01/2017. KSV được phân công kiểm sát theo dõi chặt chẽ quá trình xác
minh, thu thập tài liệu chứng cứ của CQĐT, phối hợp chặt chẽ với ĐTV trong
suốt quá trình giải quyết vụ việc. Hàng tuần, tháng, quý KSV và ĐTV tiến
hành đối chiếu sổ sách thụ lý, giải quyết các tin báo để phục vụ công tác báo
cáo thống kê theo quy định của ngành.
Hiện nay, BLTTHS năm 2015 chỉ quy định Viện kiểm sát được trực
tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm trong hai trường hợp là: Khi Cơ quan
điều tra có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng và khi Cơ quan điều tra có dấu
hiệu bỏ lọt tội phạm. Qua công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra trên địa bàn
huyện từ năm 2015-2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn chưa phát
hiện trường hợp nào Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra vi phạm thủ tục tố tụng và có dấu hiệu bỏ lọt tội
phạm nên không có trường hợp nào Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết nguồn
tin về tội phạm mà chỉ kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của Cơ
quan có thẩm quyền điều tra trên địa bàn huyện.
2.1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều tra là mối
quan hệ công tác trong hoạt động tố tụng hình sự, mối quan hệ phối hợp này
bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố đến khi kết thúc điều tra vụ án. Sở dĩ nói mối quan hệ này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là vì nó không hề được quy định trong bất cứ văn
bản pháp luật nào nhưng nó lại có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của các
hoạt động tố tụng. Thực hiện tốt công tác phối hợp thì việc xác minh, làm rõ
các nguồn tin về tội phạm có căn cứ để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình
sự hay không sẽ rất dễ dàng, nhanh chóng và kịp thời. Ngược lại sẽ làm cho
những hoạt động tố tụng trong giai đoạn này bị chậm trễ, dẫn đến nhiều vụ
việc hai cơ quan có quan điểm trái ngược nhau, làm ảnh hưởng đến tiến độ và
hiệu quả công việc không đạt được như mong muốn. Trong mối quan hệ này,
Cơ quan điều tra có trách nhiệm phát hiện, áp dụng các biện pháp xác minh,
thu thập tài liệu được pháp luật quy định để làm rõ tội phạm và người phạm
tội; Viện kiểm sát được pháp luật giao nhiệm vụ, quyền hạn thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố của CQĐT phải đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Viện kiểm
sát không phải là cơ quan cấp trên của Cơ quan điều tra nhưng được pháp luật
giao cho quyền hạn đặc biệt khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm, đó là quyền phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc
hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu
CQĐT cung cấp tài liệu, chứng cứ, chuyển hồ sơ vụ việc cho VKS khi có yêu
cầu...
Trong 05 năm từ năm 2015 đến 2019, CQĐT và VKS đã phối hợp thụ
lý, giải quyết 502 tin báo, tố giác về tội phạm; trong đó khởi tố vụ án là 251
tin, không khởi tố vụ án là 171 tin. Đảm bảo việc giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm trong thời hạn luật định, tỷ lệ giải quyết đạt cao (trên 91%), hạn chế
việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Ngoài ra, VKS đã tiến hành 09 cuộc trực tiếp kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại CQĐT, tại Công an các
xã, thị trấn trên địa bàn huyện; ban hành 09 kết luận, kiến nghị yêu cầu khắc
phục vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
Bảng 2.3. Số liệu các cuộc trực tiếp kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2915 đến 2019.
Ban hành Số cuộc trực CQĐT đã tiếp Năm Kết Kiến Kháng tiếp kiểm sát thu, sữa chữa luận nghị nghị
01 2015 01 01 01
01 2016 01 01 01
01 2017 01 01 01
01 2018 01 01 01
05 2019 05 05 05
09 Cộng 09 09 09
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát huyện Quế Sơn từ năm 2015 đến
2019.
2.2. Thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.2.1.1. Những kết quả đạt được
Công tác giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
bước khởi đầu và là công tác đặc biệt quan trọng trong tố tụng hình sự cũng
như trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của Cơ quan điều tra và một số cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đặc biệt, thông
qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi
phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng
người, đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Những năm gần đây, Viện KSND tối cao rất quan tâm đến khâu công
tác giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Chỉ thị công
tác những năm gần đây của Viện trưởng Viện KSND tối cao đều chỉ rõ: Các
VKS địa phương, các đơn vị kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố, xác định đây là khâu công tác trọng tâm cần
được tập trung thực hiện, thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, đánh giá thực tiễn
công tác để tổng hợp kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác.
Từ năm 2015 đến năm 2019, tình hình chính trị, xã hội trên địa bàn
huyện cơ bản ổn định, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn huyện vẫn có
chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp, thủ đoạn phạm tội của
các đối tượng ngày càng tinh vi, gây hậu quả xấu đối với trật tự an toàn xã
hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe công dân, làm thiệt hại về tài sản cho
cơ quan, tổ chức và cá nhân. Một số loại tội phạm nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng vẫn còn xảy ra trên địa bàn như: Giết người, các tội phạm về ma
túy; cướp tài sản, cướp giật tài sản; cố ý gây thương tích; trộm cắp tài sản;
đánh bạc và tổ chức đánh bạc...
Mỗi năm công tác, đơn vị đã xây dựng kế hoạch công tác năm, xác định
công tác kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, đây cũng là khâu công tác
đột phá của đơn vị. Đây là giai đoạn quan trọng trong tiến trình giải quyết vụ
án vì nó là cơ sở để ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, là tiền
đề mở đầu cho các hoạt động tố tụng giải quyết, kết thúc một vụ án hình sự.
Do đó, đơn vị đã tổ chức quán triệt và chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ
quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, đảm bảo mọi thông tin về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố đều được Viện kiểm sát nắm bắt, tham gia giải quyết kịp thời ngay từ
khi mới xảy ra vụ việc. Viện KSND huyện Quế Sơn đã chủ trì xây dựng quy
chế phối hợp liên ngành giữa Công an - Viện kiểm sát - Tòa án - Hạt Kiểm
lâm - Chi cục thuế - Đội quản lý thị trường - Thanh tra trong công tác phối
hợp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đối với
những vụ việc phức tạp, khó khăn đã chủ trì họp giao ban liên ngành để cùng
trao đổi, đề ra những biện pháp tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, thống nhất
chung trong hướng xử lý vụ việc. Lãnh đạo đơn vị đã phân công Kiểm sát
viên kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm,
thường xuyên kiểm tra sổ thụ lý tiếp nhận nguồn tin, hàng tuần, hàng tháng
yêu cầu Cơ quan điều tra, Hạt Kiểm lâm báo cáo tình hình tiếp nhận và giải
quyết nguồn tin về tội phạm, do đó các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố đều được tiếp nhận kịp thời. Đã phân công Kiểm sát viên trực
nghiệp vụ 24/24 giờ, tham gia kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, trong đó những vụ việc phức tạp, nghiêm trọng
đều có sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra.
Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
đã chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh các vụ việc, giữa Điều tra viên
và Kiểm sát viên thường xuyên trao đổi và thống nhất về kế hoạch kiểm tra,
xác minh thu nhập chứng cứ. Do đó, việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
của Cơ quan điều tra đều có căn cứ, đúng pháp luật, là cơ sở để tiến hành các
hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chính xác, đúng người, đúng tội,
không để bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Kết quả trong 05 năm từ năm 2015 - 2019, CQĐT và VKS đã phối hợp
tiếp nhận, giải quyết 502 tố giác, tin báo về tội phạm; đã giải quyết 475 tin,
đạt tỷ lệ 94,6% (vượt 3,6% so với chỉ Nghị quyết số 37 của Quốc hội đề ra,
nay là Nghị quyết 96). Đã trực tiếp kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại Cơ quan CSĐT Công an huyện
Quế Sơn 05 lần, đã ban hành 05 kết luận - kiến nghị; đã trực tiếp kiểm sát
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại
Công an các xã, thị trấn trên địa bàn huyện 04 lần, đã ban hành 04 kết luận -
kiến nghị.
Nhờ sự phối hợp tích cực, đồng bộ giữa các cơ quan chức năng và sự
quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị; từ năm 2015 đến năm 2019, chất lượng
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố đã đi
vào nề nếp, khắc phục tối đa việc bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội, nêu cao vai trò của VKSND trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn huyện Quế Sơn.
2.2.1.2. Nguyên nhân
Để đạt được những kết quả nên trên trước hết phải kể đến sự quan tâm,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt của cấp ủy Đảng, chính quyền
địa phương trong công tác tiếp nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
Lãnh đạo Viện KSND huyện Quế Sơn đã quán triệt đầy đủ, kịp thời các
Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp cũng như các Chỉ thị, kế
hoạch công tác của Viện KSNDTC; chủ trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND
Bên cạnh đó, lãnh đạo hai ngành Công an, Viện kiểm sát nhân dân
huyện đã nhận thức đúng đắn, đầy đủ tầm quan trọng của quan hệ phối hợp
giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong giải quyết nguồn tin
về tội phạm; coi mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ
quan điều tra là nhân tố hàng đầu, không thể thiếu, quyết định chất lượng,
hiệu quả của công tác giải quyết nguồn tin về tội phạm. Từ đó, tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo làm cho quan hệ phối hợp trở nên thực chất, chặt chẽ, gắn
bó trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành. Trên cơ sở Quy chế phối
hợp, sáu tháng, một năm, Viện kiểm sát chủ trì sơ kết, tổng kết công tác phối
hợp trong giải quyết nguồn tin về tội phạm. Thông qua thụ lý giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Kiểm sát viên thường xuyên
trao đổi với Điều tra viên về những vấn để vướng mắc, thiếu sót; không để
những thiếu sót, vi phạm tồn đọng kéo dài ảnh hưởng tới với chất lượng, hiệu
quả chung.
2.2.2. Những tồn tại, bất cập và nguyên nhân
2.2.2.1. Những tồn tại, bất cập
- Về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, nhiều trường hợp Công an xã, thị trấn sau khi tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm nhưng không chuyển cho CQĐT cấp huyện trong
thời hạn 24 giờ theo luật định mà tự mình tiến hành các hoạt động xác minh,
chỉ khi các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề dân sự
và có yêu cầu xử lý hình sự thì lúc này Công an xã, thị trấn mới chuyển hồ sơ
vụ việc cho CQĐT. Điều này không những vi phạm thời hạn xác minh nguồn
tin của lực lượng Công an xã mà còn làm cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ
của CQĐT đôi lúc chưa kịp thời, làm mất đi các dấu vết quan trọng làm căn
cứ giải quyết vụ án.
Thứ hai, có đôi lúc CQĐT vì thành tích thi đua của đơn vị, do tâm lý lo
ngại việc không giải quyết được nguồn tin về tội phạm sẽ dẫn đến tình trạng
nguồn tin bị tồn đọng, tỷ lệ điều tra khám phá án không đạt chỉ tiêu, làm ảnh
hưởng đến thành tích của đơn vị. Do đó, sẽ làm phát sinh trường hợp lựa chọn
các nguồn tin để tiếp nhận, giải quyết, có những sự việc xảy ra sau nhưng lại
được tiếp nhận, thụ lý và giải quyết trước, có những sự việc xảy ra trước
nhưng lại được thụ lý, giải quyết sau. Có trường hợp, CQĐT sau khi tiếp nhận
tố giác của quần chúng nhân dân nhưng không ghi vào sổ thụ lý tiếp nhận tin
báo, khi các đương sự có khiếu nại đến VKS thì vụ việc mới được phát hiện.
Điển hình là vụ “Cố ý gây thương tích” xảy ra ngày 30/9/2016 tại thôn
Xuân Quê 1, xã Quế Long, huyện Quế Sơn. Nội dung vụ án như sau: Vào
khoảng 19 giờ 30 phút ngày 30/9/2016, ông Nguyễn Tám - sinh năm: 1970 và
vợ là bà Võ Thị Thường - sinh năm: 1968 (cả hai đều trú tại thôn Xuân Quê 1,
xã Quế Long, huyện Quế Sơn) cùng con gái qua nhà hàm xóm là ông Trương
Văn Chinh để nói chuyện về việc con trai ông Chinh có hành vi sờ vào bộ
phận sinh dục của con gái ông Tám. Trong lúc nói chuyện thì hai bên xảy ra
mâu thuẫn nên ông Tám có dùng tay tát vào mặt bà Tô Thị Hồng, sinh năm:
1974 (vợ ông Chinh) một cái. Ông Chinh thấy vợ mình bị đánh nên dùng tay
ôm ông Tám lại rồi dùng đầu gối thúc vào bụng ông Tám nhiều cái theo
hướng từ dưới lên trên. Lúc này có ông Hồ Văn Thủy - sinh năm: 1972 (trú
cùng thôn) can ngăn nên ông Tám thoát ra rồi đi lùi ra ngoài cửa chính rồi
liền ôm bụng chạy về nhà. Khi đến khu vực bụi chuối trước nhà mình thì ông
Tám bị đau nên nằm xuống và được mọi người đưa đi cấp cứu ở Trung tâm y
tế huyện Quế Sơn. Sau đó, chuyển ra Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng điều trị từ
ngày 01/10/2016 đến ngày 10/10/2016 thì xuất viện.
Sau khi sự việc xảy ra, hai bên đương sự đã báo cáo sự việc đến công
an xã để giải quyết. Tuy nhiên, cả hai bên không thống nhất về vấn đề bồi
thường dân sự nên đã làm đơn báo cáo gửi đến Cơ quan CSĐT Công an
huyện nhưng mãi vẫn chưa được giải quyết. Sau đó, ông Tám đã gửi đơn đến
Viện KSND huyện Quế Sơn; qua công tác kiểm sát Viện KSND huyện đã yêu
cầu CQĐT thụ lý để giải quyết theo quy định của pháp luật. Đến nay vụ án đã
được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Thứ ba, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số ĐTV còn
hạn chế dẫn đến việc xác minh các nguồn thông tin có dấu hiệu tội phạm hay
không chưa được chính xác. Bên cạnh đó, các KSV chưa kịp thời phối hợp
với ĐTV để đề ra các yêu cầu xác minh làm ảnh hưởng đến quá trình xác
minh, xử lý các nguồn tin tội phạm.
Thứ tư, hiện nay biên chế về cán bộ còn thiếu để thực hiện nhiệm vụ
tiếp nhận, thụ lý, giải quyết các nguồn tin báo về tội phạm. Ở các VKS cấp
huyện, hầu hết chỉ có 01 KSV đảm nhận khâu công tác này, trong khi đó bản
thân KSV còn phải kiêm nhiệm các nhiệm vụ khác như khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thí, tham gia hỏi cung...nên sẽ không đủ thời gian để
hoàn thành tốt, đảm bảo đúng thời hạn trong việc tiếp nhận, tham mưu cho
lãnh đạo đơn vị ra các quyết định phân công KSV thụ lý, giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
Thứ năm, đó là sự hạn chế về kinh phí thực hiện các hoạt động liên
quan đến việc tiếp nhận, giải quyết các nguồn thông tin tội phạm nhất là trong
các trường hợp cần phải thu thập chứng cứ như: Quyết định trưng cầu giám
định, xác minh vụ việc phức tạp, ở nhiều địa phương khác nhau thì VKS sẽ
không đủ kinh phí, phương tiện và con người để tổ chức thực hiện.
- Về các quy định của pháp luật:
Thứ nhất, Khoản 3 Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố các cơ quan có thẩm
quyền có quyền áp dụng một trong bốn hoạt động gồm: Thu thập thông tin, tài
liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh
nguồn tin; khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; trưng cầu giám
định, yêu cầu định giá tài sản. Ngoài những biện pháp thu thập tài liệu chứng
cứ nêu trên thì khi giải quyết nguồn tin về tội phạm, CQĐT không được áp
dụng các biện pháp nào khác bởi mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được
thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015. Như vậy, trong quá trình
giải quyết nguồn tin về tội phạm thì những thông tin, tài liệu, đồ vật được thu
thập ngoài 04 biện pháp nêu trên thì có giá trị pháp lý hay không.
Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về việc cơ quan có thẩm quyền
được tiến hành những hoạt động nào để “Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin”.
Theo tác giả, đây là quy định theo hướng mở, cho phép cơ quan có thẩm
quyền có thể tiến hành một số hoạt động cần thiết để kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm như: Đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra...vì qua
thực tiễn công tác, tác giả nhận thấy hầu hết trong các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy thì khi các đối tượng bán ma túy không thừa nhận hành vi
phạm tội thì CQĐT sẽ tiến hành các hoạt động như đối chất, nhận dạng để
làm căn cứ buộc tội; nếu những hoạt động này không được tiến hành thì rất
khó để xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, dễ dẫn đến
tình trạng bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, Khoản 2 Điều 146 BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát
chỉ được trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
trong hai trường hợp là: Khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
khi Cơ quan điều tra có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Trong hai trường hợp này
nếu Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng Cơ quan điều tra không
khắc phục thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát có yêu cầu, cơ
quan có thẩm quyền đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố đó phải chuyển hồ sơ có liên quan cho Viện kiểm sát để xem xét,
giải quyết. Tuy nhiên, luật lại không quy định chế tài đối với CQĐT khi cơ
quan này không thực hiện yêu cầu của VKS thì sẽ chịu hậu quả pháp lý như
thế nào. Điều này làm cho các yêu cầu của VKS trong một số trường hợp chỉ
mang tính hình thức.
Thứ ba, về kiểm sát quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT.
Tại Khoản 1, Điều 158 BLTTHS không quy định cụ thể về thẩm quyền, trách
nhiệm giải quyết của Viện Kiểm sát đối với trường hợp này, trong khi chỉ quy
định CQĐT gửi quyết định và các tài liệu có liên quan cho Viện Kiểm sát để
kiểm sát, mà không quy định ngược lại, sau khi kiểm sát xong thì VKS phải
trả lời kết quả kiểm sát và hoàn trả tài liệu cho CQĐT như thế nào. Bên cạnh
đó theo quy định tại Điểm c, Khoản 3, Điều 13 Quy chế tạm thời ban hành
kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSNDTC ngày 29/12/2017, của Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thì CQĐT ra quyết định không khởi tố
vụ án hình sự và phải gửi hồ sơ, tài liệu cho VKS, nếu VKS đồng ý với quyết
định không khởi tố của CQĐT thì trả lời bằng thông báo, nhưng mẫu thông
báo trả lời lại không có trong hệ thống mẫu nghiệp vụ của ngành. Việc này
làm ảnh hưởng đến việc thống nhất hình thức văn bản thông báo giữa các cơ
quan với nhau.
Thứ tư, chế định “Phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm” là quy
định mới được quy định trong BLTTHS năm 2015 nhằm khắc phục những bất
cập khi thực hiện BLTTHS năm 2003 và TTLT số 06/2013 trong quá trình
giải quyết nguồn tin về tội phạm. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 149 BLTTHS
năm 2015 chỉ quy định việc phục hồi đối với nguồn tin trước đó đã tạm đình
chỉ, không đề cập đến việc phục hồi (giải quyết) nguồn tin trước đó đã tạm
dừng. Thực tế, tại địa phương khi thực hiện BLTTHS năm 2003, TTLT số
06/2013 và Quyết định số 1319/QĐ-BCA-C41 ngày 20/3/2015 của Bộ Công
an về Quy trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố trong Công an nhân dân đã tạm dừng việc kiểm tra, xác minh nguồn
tin về tội phạm đối với rất nhiều vụ việc; những nguồn tin này hiện nay chưa
biết giải quyết như thế nào.
Thứ năm, khi hết thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy
định tại Điều 147 BLTTHS thì CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra phải ra một trong ba quyết định là Quyết định khởi tố vụ án
hình sự, Quyết định không khởi tố vụ án hình sự và Quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trong đó, tạm đình chỉ việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm là quy định hoàn toàn mới, lần đầu tiên được quy định
trong BLTTHS nhằm hạn chế việc kéo dài thời hạn giải quyết các nguồn tin
về tội phạm, là căn cứ pháp lý cho việc tạm dừng xác minh cũng như cơ sở
cho việc phục hồi, giải quyết các nguồn tin tội phạm sau này.
Điều 148 BLTTHS 2015 chỉ quy định căn cứ để tạm đình chỉ trong 02
trường hợp là: Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu
nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; đã yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối
với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả. Đây là
những nguyên nhân khách quan thường gặp có thể làm kéo dài thời gian giải
quyết nguồn tin về tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn còn có rất nhiều trường hợp
làm kéo dài thời gian xác minh nguồn tin về tội phạm như: Người bị tố giác
cố tính trốn tránh, đã bỏ đi khỏi địa phương không xác định được địa chỉ, nơi
làm việc; không thể triệu tập để ghi lời khai hoặc đối chất trong trường hợp
lời khai của người tố giác và người bị tố giác có nhiều mâu thuẫn mà đây là
những lời khai có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền chưa làm sáng tỏ có dấu hiệu tội
phạm hay không nên chưa có căn cứ để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi
tố vụ án hình sự và cũng không thuộc trường hợp tạm đình chỉ theo quy định
tại Khoản 1 Điều 148 BLTTHS.
Mặt khác, về quy định “Cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa
quyết định...” thì đây là quy định mang tính định tính, tùy nghi, tùy theo cách
hiểu của từng người. Khi đã hiểu tùy nghi đồng nghĩa việc áp dụng cũng tùy
nghi giữa các địa phương và giữa những người THTT.
Ví dụ: Ngày 05/4/2020, chị Phan Thị Bảo Yến tố cáo chị Nguyễn Thị
Thu Hương lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi tiếp nhận, thụ lý nguồn tin
CQĐT tiến hành kiểm tra, xác minh thì nhận thấy lời khai của người tố giác
và người bị tố giác có nhiều điểm mâu thuẫn, chưa xác định được có dấu hiệu
tội phạm hay không. CQĐT đã nhiều lần triệu tập và xác minh tại gia đình,
chính quyền địa phương nhưng chị Yến đã bỏ đi khỏi địa phương, không liên
lạc được nên CQĐT không thể triệu tập để tiến hành đối chất làm căn cứ giải
quyết nguồn tin trong khi thời hạn giải quyết tin báo đã hết.
Ví dụ: Ngày 30/11/2018, Công ty Điện Máy Xanh tố cáo anh Phan Văn
Hiếu vì có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Sau khi thụ lý,
CQĐT đã triệu tập và xác minh nhiều lần nhưng Hiếu đã đi khỏi địa phương,
không làm việc được nên không thể lấy lời khai của Hiếu.
Cả hai trường hợp nêu trên đều không đủ căn cứ để khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình sự và cũng không thuộc trường hợp tạm đình chỉ việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm. Vậy, trường hợp này có được xem là “Đã yêu
cầu tổ chức, cá nhân cung cấp tìa liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết
định ...” để tạm đình chỉ việc kiểm tra xác minh hay không?
2.2.2.2. Nguyên nhân của những bất cập
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân,
nhưng đáng chú ý là các nguyên nhân sau:
Nguyên nhân khách quan:
Quy định của pháp luật TTHS chưa đầy đủ, chưa rõ ràng dẫn đến nhiều
khó khăn cho công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố.
Hiện nay, tình hình tội phạm nói chung và trên địa bàn huyện Quế Sơn
nói riêng ngày càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp, số vụ án hình
sự ngày một tăng cao. Do đó, công tác kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo
về tội phạm có nhiều khó khăn trong bối cảnh tình hình tội phạm có nhiều
biến động, quan hệ kinh tế, xã hội ngày càng phức tạp, liên quan đến nhiều
người, nhiều địa bàn...Trong khi đó, các VKS cấp huyện chưa được bổ sung
biên chế kịp thời nên phần nào làm ảnh hưởng đến công tác tiếp nhận, giải
quyết các nguồn tin về tội phạm.
Nguyên nhân chủ quan:
Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cán bộ trong các cơ quan
tư pháp liên quan trong huyện còn hạn chế, chưa nghiêm chỉnh. Qua hoạt
động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Viện KSND vẫn phát hiện và kiến nghị đối
với CQĐT vi phạm trong lĩnh vực này như: vi phạm thụ lý giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm; chưa chuyển đầy đủ, kịp thời hồ sơ giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm đến Viện kiểm sát; vi phạm thời hạn giải quyết tố giác, tin
báo; vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng chậm ra quyết định khởi tố vụ án.
Việc bố trí và phân công cán bộ phụ trách khâu công tác này còn chưa
hợp lý. Bộ phận kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố thường được giao cho KSV làm công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hình sự, chưa tách thành bộ phận nghiệp vụ chuyên trách
riêng. Phân công cán bộ trẻ, mới ra trường chưa có kinh nghiệm, thiếu các
KSV có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, chuyên sâu khi kiểm sát giải
quyết các nguồn tin về tội phạm.
Công tác chỉ đạo nghiệp vụ trong ngành đối với hoạt động kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm đôi khi chưa đáp ứng được yêu cầu,
VKS cấp trên chưa thực sự quan tâm trả lời các thỉnh thị, hướng dẫn cụ thể
liên quan đến hoạt động nghiệp vụ của VKS cấp dưới.
Trong quá trình thực hiện công tác, ngoài việc nghiên cứu hồ sơ, đề ra
các yêu cầu xác minh...VKS còn trực tiếp tham gia một số hoạt động nghiệp
vụ như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; với một khối lượng
công việc lớn nhưng trên thực tế lực lượng biên chế, điều kiện, phương tiện
phục vụ công tác nghiệp vụ của VKS hiện nay còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn.
Đối với Viện kiểm sát, nhận thức về vị trí, vai trò trách nhiệm của một
số cán bộ, KSV trong giải quyết nguồn tin về tội phạm; về chủ trương tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra
còn hạn chế; chưa nghiên cứu kỹ các quy định của BLHS, BLTTHS và các
Thông tư liên ngành.
Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra nhìn chung là
tốt, hợp tác, tạo điều kiện cho nhau hoàn thành nhiệm vụ, tuy nhiên trong
quan hệ phối hợp giải quyết một số vụ việc cụ thể sự đồng thuận chưa cao,
nhiều vụ việc quan điểm của CQĐT và VKS còn chưa thống nhất dẫn đến
việc giải quyết nguồn tin kéo dài. Bên cạnh đó, hoạt động thự hành quyền
công tố kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong một số trường hợp chỉ
dựa trên hồ sơ vụ án mà CQĐT cung cấp. Như vậy sẽ không phát huy được
vai trò của KSV.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 tác giả nghiên cứu hoạt động thực tiễn công tác kiểm sát giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2015-2019 trên
địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và đánh giá những kết quả đạt được
cũng như chỉ ra nguyên nhân của những kết quả đó. Đồng thời tìm ra những
bất cập, hạn chế trong công tác giải quyết các nguồn tin về tội phạm; nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở những kết quả đạt được cũng
như những tồn tại, hạn chế đã được phân tích ở trên, tác giả đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm ở Chương 3 của Luận văn.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT
VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ
KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát
Để hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp nói chung và hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng hoạt động có hiệu quả thì nhất thiết
cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức và hoạt
động của VKSND.
Hệ thống giám sát từ bên trong do Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
đại biểu quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội
đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận giám sát hoạt động của VKSND theo quy định của pháp luật.
Hoạt động giám sát bên trong đối với việc thực hiện nhiệm vụ của VKSND
đảm bảo các hoạt động đó được thực hiện đúng quy định của pháp luật thông
qua sự giám sát của CQĐT, người tố giác tin báo về tội phạm, bị can, bị cáo,
người bị hại...Như vậy, việc hoàn thiện chế độ giám sát bên trong và chế độ
giám sát bên ngoài đối với hoạt động của VKS đảm bảo cho hoạt động kiểm
sát của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố đúng theo quy định của pháp luật, không làm ảnh hưởng đến quá trình
giải quyết vụ án từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Làm tốt hoạt động
này sẽ tránh được sự lạm quyền của những người THTT, đảm bảo quyền lợi
ích của Nhà nước, quyền con người và quyền công dân không bị xâm phạm.
Thông qua cơ chế giám sát hoạt động của VKSND đòi hỏi các cán bộ, KSV
VKSND phải nâng cao tinh thần trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ, thực
hiện chế độ công khai, dân chủ, minh bạch khi thực hiện hoạt động kiểm sát.
3.2. Nâng cao công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành của Viện kiểm sát
Công tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành của VKS giúp định hướng đường
lối giải quyết, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, kịp
thời. Làm tốt công tác chỉ đạo điều hành sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ làm
công tác nghiệp vụ phát huy được hết trí tuệ cũng như khả năng của mình để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì
cần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành theo hướng:
Một là, chú trọng công tác quán triệt, triển khai và thực hiện văn bản:
Căn cứ vào Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, kế hoạch của VKSND
tỉnh về công tác kiểm sát, tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch công tác với
những chỉ tiêu nghiệp vụ, các biện pháp thực hiện, phân công cụ thể người
tiến hành và thời gian hoàn thành; Lãnh đạo Viện được phân công phải triển
khai văn bản kịp thời, nghiên cứu kỹ, tổng hợp nội dung và hướng dẫn, giải
đáp cụ thể những vấn đề thắc mắc của cán bộ, kiểm sát viên trong quá trình
thực hiện. Phân công người có năng lực, kinh nghiệm trong việc tổng hợp, ghi
chép biên bản họp, chủ trì cuộc họp cần kiểm tra kỹ nội dung biên bản trước
khi ký kết thúc.
Hai là, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng: Viện trưởng chịu trách
nhiệm chung, các Phó Viện trưởng được phân công quản lý và trực tiếp thực
hiện nghiệp vụ kiểm sát ở từng khâu công tác cụ thể; xây dựng kế hoạch công
tác cá nhân tuần, tháng và định kỳ hàng tuần hoặc đột xuất báo cáo kết quả
công việc với Viện trưởng (nhất là những vụ việc có vướng mắc hoặc kháng
nghị, kiến nghị vi phạm pháp luật) theo đúng quy định của Luật tổ chức
VKSND và quy chế về mối quan hệ và trách nhiệm giữa Phó Viện trưởng với
Viện trưởng. Phân công nhiệm vụ đối với cán bộ, Kiểm sát viên trên cơ sở
trình độ, năng lực công tác theo hướng phát huy sở trường, thế mạnh cá nhân;
Kiểm sát viên có kinh nghiệm phải kèm cặp, giúp đỡ Kiểm sát viên trẻ, mới
được bổ nhiệm hoặc kiểm tra viên, chuyên viên theo phương pháp đào tạo tại
chỗ “trực quan sinh động, cầm tay chỉ việc”; Cán bộ nghiệp vụ có trách
nhiệm giúp Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, đổi mới phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra: Sử dụng đồng
bộ nhiều phương pháp, trong đó kết hợp hài hòa các phương pháp mệnh lệnh
hành chính, phương pháp công khai dân chủ, phương pháp tâm lý, phương
pháp giáo dục, thuyết phục, động viên; lãnh đạo bằng cách nêu gương nhằm
tạo ra sự đồng thuận, đoàn kết gắn bó giữa Lãnh đạo với cán bộ công chức và
người lao động trong đơn vị. Trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch
công tác năm phải đặc biệt chú trọng đến những mặt còn yếu còn hạn chế, yếu
kém để từ đó xác định những nhiệm vụ trọng tâm, những khâu công tác đột
phá để triển khai thực hiện có hiệu quả, khắc phục những hạn chế của những
năm trước.
Bốn là, phát huy dân chủ, tính chủ động sáng tạo: Thực hiện công khai,
minh bạch trong mọi hoạt động như: Chi tiêu tài chính, bình xét thi đua, đề
nghị khen thưởng, nâng lương, quy hoạch, bổ nhiệm, đánh giá chất lượng xếp
loại ngày công, chất lượng lao động, phân công giao việc.... Cán bộ, Kiểm sát
viên được tạo mọi điều kiện để học tập nghiên cứu nâng cao trình độ; tham
gia ý kiến tranh luận, thẳng thắn bày tỏ quan điểm xây dựng, trao đổi, phản
biện trong công tác, từ đó xây dựng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giúp đỡ
nhau trong nội bộ đơn vị. Lãnh đạo phụ trách phải nghiên cứu, chỉ đạo các bộ
phận nghiệp vụ tiến hành lồng ghép các nội dung trong các cuộc trực tiếp
kiểm sát như: Kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm kết hợp với kiểm
sát giải quyết đơn tư pháp; Kiểm sát thi hành án treo, cải tạo không giam giữ
kết hợp với xác minh Thi hành án dân sự loại án không có điều kiện; Kiểm sát
Nhà tạm giữ kết hợp với kiểm sát cơ quan THAHS...
Năm là, phát huy vai trò gương mẫu đi đầu của Lãnh đạo đơn vị: Lãnh
đạo đơn vị cần có tầm nhìn tư duy đổi mới, sáng tạo và tâm lý quản lý tốt; có
năng lực chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng thuyết trình, thuyết phục, phản
biện… thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm, luôn
đặt lợi ích chung lên hàng đầu, luôn gương mẫu đi đầu trong mọi lĩnh vực
công tác (nhất là rèn luyện các kỹ năng nghiên cứu, tổng hợp hồ sơ, tranh
tụng, hỏi cung bị can, ghi âm ghi hình có âm thanh, phiên tòa rút kinh
nghiệm...); xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ đơn vị và
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, từ đó bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
và làm thay đổi cả về lượng và chất trong công tác quản lý, lãnh chỉ đạo điều
hành của Lãnh đạo đơn vị. Khi xảy ra sai sót, Lãnh đạo Viện gương mẫu tự
giác nhận trách nhiệm và nghiêm túc kiểm điểm trước tập thể đơn vị.
Sáu là, xây dựng mối quan hệ phối hợp: Tranh thủ sự ủng hộ của Cấp
ủy, chính quyền địa phương, duy trì mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan tư pháp, cơ quan hữu quan trên địa bàn. Xây dựng cơ chế, lề lối làm việc
cụ thể phù hợp với điều kiện thực tiễn trong việc thực hiện Quy chế phối hợp
giữa VKSND với Cơ quan điều tra, Tòa án, duy trì họp định kỳ giao ban nội
chính và liên ngành để trực tiếp trao đổi, tranh luận đi đến thống nhất về nhận
thức và hành động trong giải quyết các vấn đề vướng mắc về hình sự, dân sự,
thi hành án. Đối với các Yêu cầu xác minh tin báo, Yêu cầu điều tra vụ án của
Viện kiểm sát được gửi trực tiếp cho Thủ trưởng CQĐT để thường xuyên
kiểm tra tiến độ điều tra, xác minh của Điều tra viên đối với vụ việc vào các
ngày giao ban đầu tuần của CQĐT.Bảy là, công tác đánh giá, tổng kết rút
kinh nghiệm: Đây được coi là hoạt động có vai trò quan trọng trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ, qua đó tập thể, cá nhân rút ra bài học kinh nghiệm sau
các cuộc tự kiểm tra, phiên tòa rút kinh nghiệm, các thông báo rút kinh
nghiệm của Viện kiểm sát tỉnh và Viện kiểm sát tối cao từ đó hạn chế được
những thiếu sót khuyết điểm tương tự, có hướng khắc phục phù hợp, đồng
thời nâng cao nhận thức về lý luận cũng như thực tiễn nghiệp vụ công tác
kiểm sát.
Bảy là, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý: Lãnh
đạo Viện gương mẫu trong việc ứng dụng CNTT, sử dụng thành thạo máy vi
tính, các ứng dụng Word, Excel, kỹ thuật trình chiếu Powerpoint; phần mềm
kế toán, thống kê, quản lý án hình sự, dân sự, kết nối trực tuyến...; Thực hiện
trình và duyệt các loại văn bản hành chính (không thuộc danh mục Mật) thông
qua hộp thư điện tử nội bộ của Ngành, bảo đảm an toàn, bảo mật thông tin và
tiết kiệm chi phí văn phòng phẩm một cách hiệu quả. Tăng cường trao đổi
nghiệp vụ, kiến nghị đề xuất tại các cuộc giao ban trực tuyến hàng tuần, tháng
của VKSND tỉnh và hội nghị trực tuyến toàn Ngành.
Việc thực hiện đổi mới công tác lãnh chỉ đạo điều hành là một nhiệm
vụ cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo của VKSND cấp huyện hiện nay,
với phương châm “đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, hội nhập” từng bước xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý “có tâm, có tầm” đủ điều kiện đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát trong tình hình mới và chiến lược cải
cách tư pháp hiện nay.
3.3. Hoàn thiện pháp luật về việc giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố
Với những tồn tại, hạn chế về những quy định của pháp luật TTHS như
đã đề cập ở phần trên thì cần phải sớm có những hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung
những quy định của pháp luật hiện hành để việc áp dụng pháp luật được thống
nhất trên thực tế; đảm bảo việc giải quyết nguồn tin về tội phạm được nhanh
chóng, chính xác. Do đó, cần phải:
Thứ nhất, cần có hướng dẫn đối với các trường hợp đã tạm dừng việc
xác minh tố giác, tin báo theo quy định của TTLT 06/2013 thì nay có căn cứ
phục hồi thì sẽ giải quyết như thế nào.
Thứ hai, cần quy định chế tài và trách nhiệm đối với CQĐT khi không
thực hiện yêu cầu của VKS.
Thứ ba, cần bổ sung mẫu thông báo quyết định không khởi tố vụ án
hình sự trong hệ thống biểu mẫu của ngành để việc kiểm sát quyết định không
khởi tố vụ án của CQĐT được thống nhất trên phạm vi cả nước.
Thứ tư, cần hướng dẫn việc CQĐT được tiến hành các hoạt động nào
để thu thập các thông tin, tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp. Trong trường hợp cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc buộc tội
thì CQĐT được quyền áp dụng các biện pháp điều tra như đối chất, nhận
dạng, thực nghiệm điều tra... để tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội.
Thứ năm, việc nhà làm luật chỉ quy định 02 căn cứ để tạm đình chỉ việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm như quy định tại Khoản 1 Điều 148
BLTTHS là để tránh tình trạng tạm đình chỉ tùy tiện, tràn lan, hạn chế việc
kéo dài thời gian giải quyết nguồn tin về tội phạm là phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp vì lý do khách quan dẫn tới việc kéo
dài thời gian giải quyết nguồn tin về tội phạm, trong đó lý do người bị tố giác
bỏ trốn, không xác định được địa chỉ là một trong những lý do phổ biến
nhưng nếu áp dụng cứng các quy định của pháp luật thì vấn đề này không
được giải quyết. Mặt khác, BLTTHS 2015 không quy định trường hợp “tạm
dừng xác minh” như trước đây nên các cơ quan THTT không thể áp dụng
được. Như vậy, đối với các tố giác, tin báo về tội phạm thuộc trường hợp này
khi hết thời hạn giải quyết thì các cơ quan THTT sẽ giải quyết như thế nào?
Trong khi chờ hướng dẫn của ngành cấp trên tác giả cho rằng trong trường
hợp này, sau khi CQĐT đã gửi giấy triệu tập nhiều lần, lập biên bản xác minh
về việc người bị tố giác, người tố giác vắng mặt tại địa phương... nhưng vẫn
chưa làm việc được với họ thì khi hết thời hạn giải quyết có thể vận dụng căn
cứ “đã yêu cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định
đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả” theo
Điểm b, Khoản 1, Điều 148 BLTTHS để tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn
tin tội phạm. Hơn nữa, theo quy định của BLTTHS thì trường hợp “Chưa xác
định được bị can hoặc không biết bị can ở đâu nhưng hết thời hạn điều tra”
cũng là một trong những căn cứ để tạm đình chỉ giải quyết vụ án hình sự nên
việc vận dụng như vậy là cần thiết, tránh tình trạng để tố giác, tin báo về tội
phạm kéo dài nhưng không có kết quả giải quyết. Tuy nhiên, để tránh tình
trạng vận dụng pháp luật một cách tùy nghi thì cần có hướng dẫn “Thế nào là
đã yêu cầu...nhưng chưa có kết quả”.
Vì vậy, để hoàn thiện các quy định của pháp luật đồng thời đảm bảo
tính có căn cứ của các kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố cần có giải thích rõ ràng về căn cứ tạm đình chỉ quy định tại
Điểm b, Khoản 1, Điều 148 BLTTHS theo hướng “Thế nào là đã yêu
cầu...nhưng chưa có kết quả”- “là việc CQĐT đã gửi giấy triệu tập nhiều lần,
đã lập biên bản xác minh có xác nhận của hàng xóm láng giềng, bạn bè, gia
đình và chính quyền địa phương về việc người bị tố giác, người tố giác ,
người bị kiến nghị khởi tố vắng mặt tại địa phương nhưng vẫn chưa gặp được
họ”. Đồng thời, cần bổ sung thêm 01 căn cứ tạm đình chỉ vào Khoản 1 Điều
148 BLTTHS là “Vì lý do khách quan, chưa triệu tập, tiến hành đối chất,
nhận dạng, chưa lấy được lời khai của người bị tố giác, người tố giác, người
kiến nghị khởi tố mà những nội dung này có ý nghĩa quyết định đối với việc
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án”.
3.4. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm và hướng dẫn nghiệp
vụ kịp thời để nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Tổng kết kinh nghiệm trong kiểm sát nguồn tin tội phạm là nhiệm vụ
quan trọng của ngành kiểm sát bởi lẽ thông qua hoạt động này sẽ tổng kết, rút
kinh nghiệm về những gì đã làm được và chưa làm được trong việc thực hiện
chức năng của ngành trong khâu công tác này. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ thấy
được những quy định nào phù hợp và chưa phù hợp với thực tiễn giải quyết
các nguồn tin về tội phạm để đề xuất sửa đổi cho phù hợp, đảm bảo tính thống
nhất của pháp luật trên thực tiễn.
Để làm tốt công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động kiểm sát
việc giải quyết nguồn tin về tội phạm cần thường xuyên cập nhật kịp thời các
kết quả kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố để chỉ rõ những sai lầm, thiếu sót nhằm rút kinh nghiệm, tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm.
3.5. Kiện toàn về công tác cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất
Thứ nhất, về công tác cán bộ:
- Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống cho cán bộ, Kiểm sát viên; quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán
bộ; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm lệch lạc, sai trái, luận điệu
xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình
tiên tiến; nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
nhất là cán bộ trẻ, chú trọng rèn luyện trong thực tiễn với học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra,
đôn đốc thực hiện công tác chuyên môn nghiệp vụ theo quy định; ngăn chặn
và đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực trong công tác.
- Xử lý nghiêm đối với cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm các quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và nội quy, quy chế của Ngành về chế độ công
vụ, quy tắc ứng xử, ý thức tổ chức kỷ luật… Quan tâm, khích lệ cán bộ, KSV
phát huy ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kịp thời
động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong thực hiện
nhiệm vụ; xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, gắn với việc xem xét
đánh giá, phân loại công chức hàng năm.
- Chú trọng và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt đối với
người trực tiếp làm khâu công tác này.
- Rà soát đánh giá năng lực, trình độ chuyên môn của từng cán bộ từ đó
bố trí công tác phù hợp với năng lực theo hướng “Giỏi một việc, biết nhiều
việc”.
- Tổ chức nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, các kiến thức khác ngoài xã hội
cho KSV, đầu tư tối tân về cơ sở vật chất, kinh tế đáp ứng ngày càng cao yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm (tội phạm công nghệ cao, tội rửa tiền,
các tội mới quy định trong BLHS…)
- Hiện nay, thu nhập bình quân của công chức nói chung và của ngành
Kiểm sát nói riêng còn thấp, chưa là động lực khuyến khích người lao động
tận tâm cống hiến với công việc. Viện Kiểm sát là cơ quan đặc thù, được tổ
chức thành 4 cấp quản lý, nên việc thiết kế hệ thống thang, bảng lương và
ngạch, bậc lương phải bảo đảm tính đặc thù của ngành và công bằng so với
các lực lượng khác trong ngành tư pháp.
Thứ hai, cần xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị các phương tiện kỹ thuật
để phục vụ nhu cầu công tác của VKS:
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay của VKS cần
phải phấn đấu xây dựng được một đội ngũ cán bộ có năng lực, có phẩm chất
đạo đức tốt. Để làm được điều đó thì chế độ chính sách đảm bảo các điều kiện
về cơ sở vật chất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ ngành
kiểm sát là một yếu tố rất quan trọng.
Điều kiện cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của VKS hiện nay
chưa đảm bảo do nguồn kinh phí phân bổ còn hạn chế, còn phụ thuộc vào sự
hỗ trợ của chính quyền địa phương, điều này làm giảm tính độc lập, chủ động
trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của VKS. Nhất là theo quy định hiện nay của BL TTHS năm
2015 thì việc hỏi cung phải được ghi âm, ghi hình có âm thanh. Tuy nhiên,
hiện nay hầu hết các VKS đều chưa được đầu tư các trang thiết bị cho việc
thực hiện quy định này. Do đó, cần phải chú trọng đầu tư trang thiết bị, cơ sở
vật chất để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình
mới.
3.6. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra với Viện
kiểm sát
Nhằm phát triển hơn nữa mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong thời gian đến, chúng tôi đề xuất một số một số giải pháp nâng
cao chất lượng công tác phối hợp như sau:
Một là, luôn quan tâm nâng cao nhận thức cho cán bộ, Kiểm sát viên về
vị trí, vai trò của công tác phối hợp với các cơ quan, các ngành nói chung và
quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong công
tác đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, để cán bộ, Kiểm
sát viên có ý thức phối hợp. Phải phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra để
tìm giải pháp phát hiện, xử lý tội phạm khẩn trương nhất, đầy đủ nhất. Khi
phát hiện một thiếu sót, hạn chế trong trong quá trình giải quyết tin báo, cần
coi đó là thiếu sót, hạn chế của chính chúng ta để cùng cơ quan điều tra tìm
biện pháp khắc phục.
Hai là, Viện kiểm sát nhân dân chủ động tìm biện pháp đổi mới trong
phương thức phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, xây dựng mối
quan hệ thực chất, hiệu quả trên cở sở chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành.
Viện kiểm sát nhân dân cần chủ động trao đổi với với Cơ quan điều tra về
những vướng mắc, bất cập trong Quy chế phối hợp đã ký kết phát sinh trong
quá trình phối hợp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố để
bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng mới quy chế cho phù hợp; tạo điều kiện thuận
lợi để Điều tra viên, Kiểm sát viên làm tốt chức trách nhiệm vụ của mình.
Ba là, thường xuyên tổ chức các cuộc họp giao ban liên ngành để kịp
thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm cũng như tổng kết rút kinh nghiệm đối với những việc đã
làm, chưa làm được để nâng cao kỹ năng cho các cán bộ, KSV, ĐTV làm
công tác này.
3.7. Phát huy vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành
KSND đối với công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành KSND là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và xây dựng
Ngành; có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động thanh tra trong nội bộ Ngành
nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp
luật, vi phạm quy định của Ngành trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra cần phải:
- Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Quốc
hội, các Chỉ thị, Quy chế, quy định của Viện KSND tối cao trong lĩnh vực
hình sự và thanh tra.
- VKSND cấp tỉnh cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND cấp huyện theo quy định, chủ
động rà soát, phát hiện những tồn tại, hạn chế, thiết sót trong lĩnh vực hình sự
để kịp thời báo cáo số liệu, giải quyết các khiếu nại tố cáo nhằm tăng cường
trách nhiệm, kỷ luật trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ, hotaj động công
vụ nói riêng và hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
nói riêng.
- Hàng năm, Viện KSND cấp tỉnh thành lập các đoàn thanh tra, kiểm
tra về công tác kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đối với VKSND cấp huyện, nhất là đối với những tin báo có
khiếu kiện, khiếu nại; những tin báo được dư luận xã hội quan tâm.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra nghiệp vụ,
thanh tra công vụ theo kế hoạch và đột xuất để kịp thời phát hiện những thiếu
sót, hạn chế của cán bộ, KSV trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để kịp thời
khắc phục. Giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ việc phức tạp, hạn chế
đến mức thấp nhất số vụ vi phạm thời hạn giải quyết.
Tiểu kết chương 3
Tại chương 3 của Luận văn tác giả nghiên cứu về các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố của VKSND huyện Quế Sơn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
trong tình hình mới. Các giải pháp tập trung vào việc tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, quan tâm đến yếu tố phát triển con người, chú trọng việc giáo dục
nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của các KSV; tăng cường chế độ chính sách đối với KSV và cơ sở vật
chất, phương tiện làm việc; tăng cường mối quan hệ của VKS với các cơ quan
bảo vệc pháp luật, thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm...Trong các giải
pháp nêu trên, tác giả đi sâu phân tích giải pháp về công tác cán bộ và xây
dựng cơ sở vật chất vì muốn nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết
nguồn tin về tội phạm trước hết phải có đội ngũ cán bộ, KSV “Vững về chính
trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương
và trách nhiệm”.
KẾT LUẬN
Giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố là bước khởi
đầu và là khâu công tác đặc biệt quan trọng trong tố tụng hình sự cũng như
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; là căn cứ để kịp thời phát hiện có
hành vi phạm tội hay không để xem xét, quyết định việc khởi tố hay không
khởi tố vụ án hình sự. Ý nghĩa của công tác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố là nhằm bảo đảm tất cả các tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kiểm tra, xác
minh, xử lý kịp thời; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong công tác này phải được phát hiện, khắc phục
và xử lý kịp thời. Giải quyết tốt tố giác, tin báo về tội phạm góp phần bảo
đảm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Để đạt được kết quả đó là sự
đóng góp không nhỏ của VKSND khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, trong đó có công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Tác giải nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về
kiểm sát việc giải quyết nguồn tin tội phạm dựa trên các tài liệu, văn bản có
liên quan. Qua đó làm rõ được khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm, khái
niệm về kiểm sát để từ đó phân tích các đặc điểm về chủ thể, đối tượng và
phạm vi hoạt động, trình tự, thủ tục, thời hạn kiểm sát việc giải quyết nguồn
tin về tội phạm.
Trên cơ sở lý luận, tác giả đã nghiên cứu thực tiễn công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015-2019; tác giả đã
trình bày toàn bộ kết quả khảo sát công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm trên cơ sở số liệu do VKSND huyện Quế Sưn cung cấp. VKSND
huyện Quế Sơn đã đạt được những kết quả nhất định từ khâu công tác này,
tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế thiếu sót do cả nguyên nhân
khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. Qua đó đề ra những giải pháp khắc
phục để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành kiểm sát.
Để nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả đã cố gắng sưu tầm tài
liệu, tìm tòi nghiên cứu lý luận và vận dụng những kiến thức từ thực tiễn công
việc của bản thân. Những giải pháp được đề cập trong luận văn tương đối cụ
thể, tuy chưa được hoàn thiện nhưng về cơ bản có thể nâng cao hiệu quả công
tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Tuy nhiên, là một người làm công tác thực tiễn nên quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tác
giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Học viện khoa học xã hội, của
các bạn đồng nghiệp và các độc giả để hoàn thiện luận văn trong thời gian tới.