VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG MẠNH CHUNG
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN QUÂN
HÀ NỘI, năm 2021
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những cơ quan trong
hệ thống cơ quan nhà nước, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ
kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách
nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng
sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực" (Lê
Duẩn).
Ngay từ khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã coi
trọng đến công tác cán bộ và những vấn đề pháp lý về công tác cán bộ. Trong
đó có lực lượng cán bộ tư pháp các cấp. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đây là cơ
sở pháp lý đầu tiên xác lập sự ra đời của VKSND và cũng đánh dấu sự hình
thành chức danh Kiểm sát viên VKSND, là chức danh pháp lý quan trọng
trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố.
Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là lực lượng quan trọng, được bổ
nhiệm để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của ngành; trong bộ máy nhà nước,
Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, một bộ phận của lực lượng cán bộ,
công chức, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, góp phần bảo
vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật
nghiêm minh, công bằng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.
Với những đặc thù về địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội, tình hình tội phạm
và vi phạm pháp luật, VKSND tỉnh Thanh Hóa nói riêng và Kiểm sát viên hai
cấp VKSND tỉnh Thanh Hóa đang có những thuận lợi và cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thanh Hóa nằm khu vực
2
Bắc Trung Bộ, là một trong những tỉnh lớn, diện tích đứng thứ 5 của cả nước,
với 11.129,48 km2, dân số đứng thứ 3 cả nước với 3,65 triệu dân, chỉ sau
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thanh Hóa hiện là tỉnh có nhiều đơn vị
hành chính cấp huyện nhất Việt Nam, với tổng số thành phố, thị xã, huyện là
27 đơn vị hành chính. Là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, phía Bắc
giáp Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; phía
Nam và Tây Nam nằm liền kề Nghệ An với đường ranh giới hơn 160 km; phía
Tây nối liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào với đường biên giới dài 192 km; phía Đông mở ra phần giữa của Vịnh Bắc
Bộ thuộc biển Đông với đường bờ biển dài trên 102 km. Địa hình Thanh Hoá
khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây - Đông. Từ phía Tây
sang phía Đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển.Thanh
Hóa nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam nước ta, với
nhiều tuyến đường giao thông đi qua, đã tạo cho Thanh Hóa cơ hội giao lưu
kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở
rộng hợp tác quốc tế.
Trong những năm qua, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các loại
tranh chấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng
về số lượng và phức tạp về tính chất, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Với chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh
Thanh Hóa đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa
trở thành một cực tăng trưởng ở khu vực phía Bắc. Góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm
và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Để ngành Kiểm
sát nhân dân thực hiện được nhiệm vụ và sứ mệnh chính trị to lớn mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó, con người luôn là yếu tố quan trọng, quyết
định. VKSND tỉnh Thanh Hóa không thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính
trị, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
3
hai cấp. Vì vậy, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và
năng lực, kỹ năng nghề và thái độ tận tâm với công việc là nhiệm vụ có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Để xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu
thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hiệu quả...
Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên hiện nay đã bộc lộ những yếu
kém, bất cập như: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất giữa các văn bản pháp
luật về Kiểm sát viên; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên
còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ cụ thể của từng đơn vị; tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên còn nhiều mâu
thuẫn, chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm
sát viên chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết, chưa đa dạng hình thức đào tạo
gắn với nhiệm vụ công tác thực tế. Đặc biệt chưa quan tâm đào tạo kỹ năng
tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ
khác đối với Kiểm sát viên chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều điểm
chưa hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên
chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài
năng chưa được quan tâm; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây
dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời,
các quy định về Kiểm sát viên còn rời rạc trong nhiều văn bản pháp luật khác
nhau nên thiếu tính thống nhất, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền năng
pháp lý của Kiểm sát viên, đặc biệt là thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố... Những thiếu sót, bất cập nêu trên là một trong những nguyên nhân
không nhỏ dẫn đến chất lượng, kỹ năng và tính tận tâm, nhiệt huyết của đội
ngũ Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Thanh Hóa chưa
cao. Đặc biệt là hạn chế về kỹ năng nghề như kỹ năng hỏi cung, lấy lời khai,
kỹ năng tranh tụng, đối đáp, tác phong khi tranh tụng tại phiên tòa. Một bộ
phận không nhỏ Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với nghề, có biểu hiện
tham nhũng, tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ; quyền năng
4
pháp lý của Kiểm sát viên và VKSND chưa được thực hiện hiệu quả trên thực
tiễn.
Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, cần xây dựng hệ thống pháp luật về
Kiểm sát viên đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo chất lượng, có mục đích pháp lý,
nguyên tắc và định hướng rõ ràng. Trước yêu cầu trên, đã đặt ra nhiều vấn đề
lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp triệt để, có căn cứ khoa học và phù hợp
với thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu khách
quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy
nhiên, vấn đề pháp luật về Kiểm sát viên thuộc chuyên ngành Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính là vấn đề còn khá mới, chưa có công trình nghiên cứu chuyên
sâu. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cho thấy, nội dung này
các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Tô Tử Hạ (2016), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2018), Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội;
- TS. Nguyễn Minh Tuấn (2017), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia -
sự thật;
- Lê Hữu Thể (chủ biên) (2018), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn;
5
- Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và
pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Lê Tuấn Phong
(2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp”;
- Luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình
sự - Đại học Luật Hà Nội, tác giả Đàm Quang Ngọc (2020), “Chức năng công
tố trong tố tụng Hình sự Việt Nam và Đức”;
- Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về công tố”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật;
- Đỗ Văn Đương (2019), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ;
- Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS
nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019;
- Phạm Hồng Hải (2019), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh
Hóa. Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ
thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu, góp phần khắc phục tình trạng
nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở các quy định của pháp luật về Kiểm
6
sát viên VKSND, từ thực tiễn VKSND tỉnh Thanh Hóa, tôi đặt ra cho mình
mục đích nhận thức toàn diện về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa và làm rõ những kết quả đã đạt
được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở
cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, trong luận văn
tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Luận văn phân tích cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
như xây dựng khái niệm, nêu lên đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố bảo
đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn từ 2015 đến nay), để có những đánh giá khách quan
về những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn
chế, vướng mắc.
- Từ những phân tích hình thành cơ sở lý luận và nghiên cứu thực trạng,
luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị cơ bản, có
tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện trên địa
bàn VKSND tỉnh Thanh Hóa, thời gian từ năm 2015 đến nay, dưới góc độ tiếp
cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên học thuyết Mác -
7
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp
cận đa ngành và liên ngành luật học, sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng phương
pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như:
phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh pháp luật. Đồng thời còn sử dụng
các phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu văn bản, các công trình
nghiên cứu có liên quan, phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,... để chọn
lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm ở trong và ngoài nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu và đầy
đủ trên một địa bàn cụ thể về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh
Thanh Hóa trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Ở một mức độ
nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như
những ai quan tâm nhận thức đầy đủ về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Các
kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống
lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những
quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức; về đổi mới công tác cán bộ và cải
cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao
nhận thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập
tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng
cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
8
của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên VKSND trước hết là cán bộ, công chức nhà nước. Vì
vậy, để xây dựng khái niệm về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải làm
rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước. Theo các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành thì ở nước ta sử dụng đồng thời ba thuật ngữ cán bộ, công chức
và viên chức.
Cán bộ, được hiểu theo nghĩa thông thường nhất là những người được
nhà nước tuyển dụng để làm việc trong bộ máy chính quyền các cấp, lực
lượng vũ trang (mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh
tế…
Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung
năm 2019 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37]
Theo đó, cán bộ là những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ theo
quy định của pháp luật, công chức theo quy định của pháp luật và được
tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức
danh theo nhiệm kỳ.
10
Theo quy định của Hiến pháp thì những người làm việc trong các cơ
quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Điều 8,
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…"
[12].
Công chức, là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hơn cán bộ, là thuật
ngữ mang tính lịch sử và được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Nhưng mỗi quốc gia khái niệm công chức lại mang một màu sắc riêng,
phản ánh đặc sắc riêng của tổ chức bộ máy nhà nước và nền công vụ ở mỗi
quốc gia. Mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi nền công vụ và chế độ chính sách
ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà khái niệm công chức được hiểu theo nghĩa
khác nhau.
Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2019 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong
cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải
là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công
an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37].
Là một bộ phận hợp thành của cán bộ, công chức, Kiểm sát viên
VKSND là khái niệm được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến
nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
11
hoạt động tư pháp [38].
Đồng thời, căn cứ Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy
định những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt
Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên
chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong
các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4].
Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND là người làm việc trong
hệ thống VKSND các cấp, nằm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Đối với VKSND tối cao, gồm: Các Phó Viện trưởng VKSND tối cao;
kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban
và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao.
Đối với VKSND cấp cao, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm
sát viên, kiểm tra viên, người làm việc trong văn phòng, Viện nghiệp vụ
thuộc VKSND cấp cao.
Đối với VKSND cấp tỉnh, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng; kiểm
sát viên, kiểm tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc
VKSND cấp tỉnh.
Đối với VKSND cấp huyện, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng;
kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện.
Qua phân tích các quy định trên đây, có thể khái quát: Kiểm sát viên
VKSND là công dân Việt Nam, được tuyển dụng vào ngạch công chức của
VKSND, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ
nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
12
1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận trong bộ máy cơ quan nhà
nước. Kiểm sát viên VKSND là những người được bổ nhiệm thực hiện
nhiệm vụ của VKSND theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và Viện trưởng VKSND. Kiểm
sát viên là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Do đó,
hoạt động của Kiểm sát viên trước hết nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của
cán bộ, công chức nhà nước.
Về vị trí: VKSND là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, Kiểm sát
viên VKSND là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vấn đề này
được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.
Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp.
Về tổ chức, quyền hạn: VKSND là một hệ thống cơ quan trong bộ
máy nhà nước, gồm có bốn cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự được phân cấp đảm
nhiệm chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND. Ở
mỗi cấp, VKSND được phân bổ số lượng Kiểm sát viên theo ngạch. Có
Kiểm sát viên được bổ nhiệm chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; một số Kiểm sát viên vừa được bổ nhiệm để
thực hiện chức năng trên của Kiểm sát viên, vừa giữ chức danh quản lý theo
nhiệm kỳ.
Về hoạt động: VKSND thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công tố là hoạt động của
VKSND để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
13
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự; kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ pháp luật
trong hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên VKSND có các đặc điểm cụ thể sau:
Kiểm sát viên là công chức ngành kiểm sát, là một chức danh pháp lý
được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với đặc thù là người thực thi pháp luật và
thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt
động tư pháp, hoạt động của Kiểm sát viên nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo
đảm pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tiêu chuẩn: Là công dân Việt
Nam; về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phải tuyệt đối trung thành
với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; có tinh thần đấu tranh không khoan
nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm mục tiêu bảo vệ Hiến
pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; Kiểm sát viên VKSND phải
không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cán bộ ngành Kiêm sát “Công minh, chính trực, khách quan,
thận trọng, khiêm tốn”; có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nguyên tắc tổ
chức của VKSND. Với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp và pháp luật
quy định, Kiểm sát viên là những người trực tiếp thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKSND nên có điều kiện gần dân, thông qua thực hiện nhiệm
vụ dễ làm dân tin, dân mến. Từ đó tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân
dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Cùng với
sự phát triển của đất nước, Kiểm sát viên VKSND là lực lượng quan trọng,
tiên phong góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, trên
14
thực tế cơ chế để đảm bảo thực thi quyền của VKSND nói chung và Kiểm
sát viên VKSND còn chưa đảm bảo, chế độ chính sách đối với Kiểm sát
viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Nên, còn không ít Kiểm sát
viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc, chưa tâm huyết với nhiệm vụ được
giao.
Ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, Kiểm sát viên VKSND
phải bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Theo quy định
tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND: Kiểm sát viên phải có trình độ cử nhân
Luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệm vụ kiểm sát. Xuất phát từ yêu cầu
hiện nay, đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải “Tinh thông về pháp luật”, nắm
vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước
quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành. Nhất là các quy định pháp luật
trong lĩnh vực công tác được giao để thực hiện chức năng hiệu quả. Đồng
thời góp phần nâng cao tính đúng đắn của việc áp dụng pháp luật của các cơ
quan tư pháp.
Ngoài ra, Kiểm sát viên còn có các kỹ năng đặc thù như: kỹ năng hỏi;
kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng phân loại và giải quyết vấn đề một cách
quyết đoán; kỹ năng thu thập, phân tích thông tin và tổng hợp báo cáo; kỹ
năng tranh tụng tại phiên tòa, thuyết phục, hùng biện trước đám đông. Các
kỹ năng đó được hình thành và hoàn thiện từ thực tiễn công tác. Với tính
chất và yêu cầu công việc được giao, Kiểm sát viên phải tham gia quan hệ
pháp luật với nhiều chủ thể khác nhau: Bị can, bị cáo, các đương sự, Điều
tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên… nên tính chủ động, phối hợp với các
ban ngành, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là một trong những đòi
hỏi để Kiểm sát viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời hình thành nhiều
kỹ năng nghề nghiệp đặc thù.
Xuất pháp từ nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành
15
Kiểm sát nhân dân, khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên tuân theo pháp
luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp mình. Đồng thời chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện
trưởng VKSND tối cao về hành vi, quyết định của mình trong việc thực
hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối
tượng công chức nhà nước khác.
Kiểm sát viên là công chức nhà nước, làm việc trong bộ máy nhà
nước theo định biên, các chế độ làm việc, tuổi nghỉ hưu giống công chức
nhà nước khác nhưng chức danh Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý,
được thi tuyển và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (trước đây mỗi nhiệm kỳ Kiểm
sát viên là 05 năm, hiện nay tăng lên 10 năm trong trường hợp bổ nhiệm
lại), nếu hết nhiệm kỳ không được bổ nhiệm lại thì không còn giữ chức danh
Kiểm sát viên nữa. Về quyền lợi, vì là một chức danh pháp lý nên Kiểm sát
viên được hưởng phụ cấp. Đồng thời, nghĩa vụ, trách nhiệm cao, phải chịu
trách nhiệm pháp lý nặng nề nếu để xảy ra oan sai, thậm chí phải bồi thường
hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên phải làm việc với áp
lực công việc lớn nhưng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, dẫn đến một bộ
phận không nhỏ Kiểm sát viên không tâm huyết với nghề, không giành thời
gian nâng cao năng lực chuyên môn, do đó chưa nắm vững các quy định
pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là một thiết chế Hiến
định được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, có chức năng
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ
16
thống cơ quan VKSND gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao
là cơ quan cao nhất của VKSND, có nhiệm vụ của VKSND là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngoài ra còn có chức
năng quản lý chung đối với VKSND các cấp; VKSND cấp cao thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh
và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong phạm vi địa phương mình. Đối với các trường hợp theo quy định
thì VKSND cấp trên thực hành quyền công tố đối với những vụ án thuộc
thẩm quyền của VKSND cấp dưới. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội.
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Kiểm sát viên là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vì
vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vừa được quy định trong các văn
bản pháp lý riêng đối với cán bộ, công chức của VKSND, vừa được quy
định trong các văn bản về cán bộ, công chức nhà nước nói chung. Do đó,
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các nghị
định… Là lĩnh vực khoa học pháp lý rộng, mang tính liên ngành. Trong đó,
Luật cán bộ, công chức và Luật tổ chức VKSND là hai văn bản chủ yếu, với
ý nghĩa là những văn bản quy định chung.
Hiến pháp là đạo luật khung, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để
làm hình thành Luật tổ chức VKSND và pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND. Hiến pháp điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất
17
trong một quốc gia, đặc biệt là các mối quan hệ liên quan tới cách thức tổ
chức quyền lực nhà nước, cách thức vận hành của các cơ quan nhà nước,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của công chức trong bộ máy nhà nước.
Các quy định nói chung và quy định về cán bộ, công chức nói riêng trong
Hiến pháp là cơ sở định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật
về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
Luật cán bộ, công chức là văn bản pháp luật quy định một cách tổng
hợp mọi mặt liên quan đến cán bộ, công chức dưới góc độ đời sống công vụ,
gồm: phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ; các quy tắc chung về tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... của cán
bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND là một trong số đó.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức
VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn
bản trực tiếp, cơ bản và quan trọng nhất quy định về cơ cấu tổ chức của
VKSND và Kiểm sát viên VKSND. Đối với những quy định về Kiểm sát
viên VKSND, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định các nội dung cụ thể
của Kiểm sát viên như: tuyển dụng, bổ niệm, các ngạch Kiểm sát viên, chế
độ sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường, bồi
hoàn, trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND…
Tóm lại, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một nhóm những văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ,
chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND từ tiêu chuẩn bổ nhiệm,
trách nhiệm, quản lý… và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản này do
cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
tuyển dụng, sử dụng, thực hiện nhiệm vụ và chế độ chính sách của đội ngũ
Kiểm sát viên.
18
Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm: Pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chứa đựng các quy định liên quan
đến Kiểm sát viên như: các nguyên tắc của chế độ công vụ, điều chỉnh các
quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức danh công chức của VKSND;
các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND trong quá trình thực thi
nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách Kiểm sát viên VKSND.
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Như đã nêu ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định
ở nhiều văn bản khác nhau, là một vấn đề nghiên cứu rộng lớn. Nghiên cứu
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là nghiên cứu một cách tổng thể tất cả
các quy định về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ Luật Hiến pháp - Luật
Hành chính, dựa vào các quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND, trên cơ sở thực tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung
của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Địa vị pháp lý của chức danh Kiểm sát viên, Kiểm sát viên có phải
là cán bộ, công chức và có được điều chỉnh bởi Luật cán bộ, công chức
không và nằm ở đâu trong nền công vụ nước ta.
- Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.
- Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
- Chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên.
Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, có thể thấy, hiện
nay có hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm sát viên là: Thứ
nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát viên, là những
19
quy định chung nhất về Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, bao gồm các
quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của
Kiểm sát viên khi thực thi công vụ; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý
(hành chính), chế độ độ đãi ngộ, sử dụng đối với Kiểm sát viên như: tuyển
chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đào tạo, chế độ đãi ngộ, luân chuyển, điều
động, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cách chức, trách nhiệm khi thực thi
công vụ. Luận văn chủ yếu tập trung vào một số nội dung về: nhiệm vụ,
quyền hạn, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhhiệm, cách
chức Kiểm sát viên; mối quan hệ công vụ với các cơ quan, các thủ thể tham
gia tố tụng có liên quan như: Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và
mối quan hệ công vụ của Kiểm sát viên với Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND trong quá trình thực thi công vụ.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận của pháp luật nói
chung. Vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và vận hành bộ máy nhà
nước là vấn đề được tất cả các quốc gia ghi nhận. Ở nước ta, vai trò của
pháp luật được thể hiện rõ ràng nhất ở mục tiêu của Đảng là xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật, nhà nước của dân,
do dân, vì dân; quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Muốn xây
dựng nhà nước pháp quyền, đòi hỏi pháp luật phải là công cụ hữu hiệu của
nhà nước, để pháp luật phát huy được vai trò của mình, trước hết phải xây
dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện, trong đó có pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Do đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây dựng NNPQ
XHCN. Đồng thời là bức tranh phản ánh tính đúng đắn của đường lối, chính
20
sách của Đảng, cụ thể như sau:
Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thể hiện quan điểm của
Đảng ta về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
Đồng thời, là phương tiện, công cụ để thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm,
chính sách của Đảng ta vào thực tiễn. Quan điểm, chính sách của Đảng
mang tính định hướng, chỉ đạo, pháp luật phải quy định chi tiết cụ thể từ
quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, cơ chế thực thi và chế độ chính sách có liên
quan để các đường lối, chính sách của Đảng được đưa vào thực tiễn. Ngược
lại, thực tiễn chính là nơi kiểm nghiệm hiệu quả nhất tính đúng đắn, phù hợp
của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm chủ trương, đường lối, định
hướng về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên. Từ đó, sẽ tổng kết thực tiễn để
điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp.
Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Nhà nước muốn quản lý xã
hội phải thông qua bộ máy hành chính - nhân sự. Vì vậy, xây dựng những
quy phạm pháp luật để quản lý nền hành chính - nhân sự là mối quan tâm
hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào. Một bộ máy hành chính - nhân sự hoạt
động hiệu quả sẽ tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước, thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển; một hệ thống pháp luật đồng bộ, có chất lượng sẽ giúp
cho việc quản lý, vận hành bộ máy nhà nước đạt hiệu quả cao. Do đó, hoạt
động công vụ của Kiểm sát viên VKSND có hiệu quả hay không phụ thuộc
rất lớn vào chất lượng hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Các văn bản pháp luật đó quy định theo các nhóm: Quy định về phạm
vi, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trên cơ sở các chức
vụ hành chính được nhà nước trao cho, nhằm tạo cơ sở pháp lý để Kiểm sát
viên thực thi công vụ, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Việc
21
quy định nhiệm vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm
và không được làm trong các văn bản quy phạm pháp luật vừa khẳng định
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, giúp cho Kiểm sát
viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp
luật. Đồng thời, tránh việc lạm quyền trong thực thi công vụ, là biện pháp
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm
bảo các mệnh lệnh, quyết định của VKSND đều đúng quy định của pháp
luật; quy định về chế độ chính sách gồm các quy định về tuyển dụng, bổ
nhiệm, khen thưởng, kỷ luật… đảm bảo các chế độ, chính sách đối với Kiểm
sát viên được thực hiện đầy đủ, công bằng trên thực tiễn.
Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện pháp lý cho
đội ngũ Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, là cơ sở pháp lý
để góp phần thực hiện nhiệm vụ của VKSND là bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. VKSND
là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nước ta. Các hoạt động của Kiểm
sát viên VKSND là hoạt động công vụ mang tính quyền lực nhà nước, nhằm
thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát viên VKSND là những người được nhà
nước lựa chọn thay mặt nhà nước để thi hành công vụ. Do đó, hoạt động của
Kiểm sát viên là hoạt động thay mặt nhà nước, chịu sự điều chỉnh bởi các
văn bản pháp luật quản lý hành chính nhân sự.
Do đó, trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước:
Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm, những việc Kiểm sát viên không được làm, cơ chế miễn nhiệm,
bổ nhiệm, kỷ luật… nhằm tạo hành lang pháp lý cho Kiểm sát viên VKSND
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ do nhà nước giao phó. Ngược lại, những
quy định đó cũng là sự ràng buộc để Kiểm sát viên VKSND thực hiện đúng
22
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình để bảo vệ danh dự, uy tín và lợi
ích của nhà nước, của quốc gia. Về nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên
với nhà nước, pháp luật có vai trò là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm của
Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước. Các văn bản pháp luật quy định
Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành với tổ quốc, có trách nhiệm
phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, Kiểm sát viên là công chức nhà nước
nên trước hết phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phải bảo đảm các
mệnh lệnh, quyết định của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, góp phần
bảo vệ lợi ích của nhà nước.
Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này,
pháp luật xác định Kiểm sát viên có nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân;
nhân dân là đối tượng bị tác động bởi những hành vi, quyết định của Kiểm
sát viên VKSND trong quá trình thực thi công vụ. Do đó, những quy định về
địa vị pháp lý, những việc không được làm, khen thưởng và kỷ luật, trách
nhiệm bồi thường, miễn nhiệm… là ràng buộc pháp lý quan trọng để Kiểm
sát viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình, với mục đích là phục
vụ nhân dân. Các quy định của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm
đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của VKSND (cơ quan đại diện cho nhà
nước) được thi hành nghiêm chỉnh, hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm, thờ
ơ, vô cảm, tham nhũng, nhận hối lộ làm không đúng chức trách, nhiệm vụ.
Từ đó, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc dù Kiểm sát
viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi hành nhiệm
vụ, công vụ nhưng về bản chất, việc nhà nước quy định cho Kiểm sát viên
VKSND có những quyền năng pháp lý đó là để nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do
dân, vì dân, cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, có nghĩa vụ phục
vụ nhân dân. Do đó, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân là mối
23
quan hệ giữa một bên là người phục vụ và một bên là người được phục vụ.
Nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, quyền công dân trên cơ sở thượng
tôn pháp luật.
Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, thì yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật là yêu cầu tất yếu. Trong đó, pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, VKSND là cơ quan thực thi
pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, Kiểm sát viên VKSND là lực
lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của VKSND. Do đó, pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện, hiệu quả sẽ nâng cao vai trò của pháp
luật, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND. Từ đó, góp phần
xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về xây dựng
đội ngũ Kiểm sát viên VKSND trong tình hình mới, là phương tiện quan
trọng để nhà nước thực hiện hoạt động quản lý đối với cơ quan nhà nước là
VKSND. Một hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện sẽ
giúp phát huy tốt chức năng của VKSND nói riêng và hiệu quả quản lý nhà
nước nói chung nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân
1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý
Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là kim chỉ nam trong
xây dựng nhà nước Việt Nam hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Điều đó đã được xác định rõ ràng trong các văn
kiện quan trọng nhất của Đảng qua các thời kỳ và ghi nhận trang trọng trong
Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
24
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [12].
Xây dựng NNPQ là nhiệm vụ quan trọng, điều này đã được kiểm
nghiệm và khẳng định từ thực tế lịch sử. Pháp luật đóng vai trò không thể
thiếu trong đời sống xã hội, nó tác động toàn diện đến tất cả các mặt đời
sống xã hội, một hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu quả sẽ thúc đẩy quá trình
hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác quốc tế là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện
bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, góp
phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong khi đó, hệ thống
pháp luật của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, nhiều quy định
vòn chồng chéo, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội, thiếu các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về quan hệ thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế,
về hành chính, công vụ, về cơ chế giám sát, vận hành hoạt động thực thi
công vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và của cán bộ, công chức…
Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn
diện trong điều kiện xây dựng NNPQ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội ở nước ta và phục vụ hiệu quả cho việc mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế. Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây
dựng NNPQ cần phải đáp ứng được những yêu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND đạt chất lượng. Trong điều kiện xây dựng NNPQ,
điều cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật,
đảm bảo Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao trong đời sống xã hội.
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được xây dựng và hoàn thiện trên
25
cơ sở kế thừa những thành tựu lập pháp trước đây. Đồng thời, phải phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta trên cơ sở kế thừa các thành tựu
khoa học pháp lý hiện đại vào công tác lập pháp, lập quy. Các quy phạm
pháp luật nói chung và quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói
riêng trong NNPQ XHCN không thể là sản phẩm chủ quan của nhà nước và
các nhà làm luật. Ngược lại, trong NNPQ xã hội chủ nghĩa, pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với bản chất khách quan của các quan
hệ xã hội, ý chí của toàn dân và các nguyên tắc pháp luật XHCN và phải phù
hợp với nguyên tắc tổ chức, hoạt động của VKSND.
Tuy nhiên, để xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói
chung và văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND có chất
lượng, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trước hết, Đảng ta phải xây dựng được đường lối, chính sách phản ánh đầy
đủ và khách quan quy luật tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội cần
phải được điều chỉnh bằng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao
năng lực hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của Chính
phủ và các cơ quan nhà nước khác; pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải
được thông qua theo trình tự thủ tục pháp lý chặt chẽ, dân chủ và khoa học.
Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa
phải được sắp xếp theo một thứ bậc chặt chẽ nhất. Trong đó, Hiến pháp là
đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất [43]. Các quy định của Hiến pháp là cơ
sở pháp lý, là căn cứ cho tất cả các văn bản pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND. Quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải tuân
thủ Hiến pháp cả về nội dung lẫn hình thức, cả thủ tục ban hành lẫn phạm vi
hiệu lực. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm tính thống nhất
26
với pháp luật về cán bộ, công chức nhà nước nói chung và không được trái,
không được mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp.
Thứ ba, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND phải tuân thủ quy trình lập pháp, đảm bảo: công
khai, khách quan, dân chủ, phải đảm bảo tính khoa học và chặt chẽ. Điều
này đòi hỏi trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND chúng ta phải xác định đúng đối tượng và phạm vi
điều chỉnh, bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ; mức độ điều chỉnh của các
văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với
từng lĩnh vực quan hệ xã hội, tránh tạo ra sự vênh nhau giữa các mức độ và
phạm vi điều chỉnh; bảo đảm một thứ tự ưu tiên hợp lý và sự cụ thể hóa kịp
thời bằng các văn bản hướng dẫn. Như vậy, chúng ta mới tạo ra được một cơ
chế đủ sức huy động cao nhất là các sáng kiến lập pháp, lập quy của nhân
dân, của các cơ quan Đảng, Nhà nước và bảo đảm tính khả thi của các quy
định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, tạo ra khả năng phối hợp một cách
đồng bộ các cơ chế, chính sách và tổ chức để thực thi, đưa pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND vào cuộc sống.
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ xã hội chủ nghĩa
phải là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND
và cải cách chế độ công vụ. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải thể
hiện bản chất dân chủ, giá trị công bằng, bình đẳng, phù hợp với hiện thực
khách quan và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Không thể xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND một cách tùy tiện. Tình trạng
ban hành hoặc thay đổi quá nhanh và thiếu tính khả thi các văn bản quy
phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND của các Bộ, ngành và địa phương
sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào những giá trị công bằng và khả
27
năng điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong
việc xây dựng NNPQ là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói riêng, đặt công việc đó
trên một nền tảng khoa học.
Để thực hiện được những yêu cầu nhiệm vụ trên đây, trước hết cần
phải có một chiến lược xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thật sự
khoa học, tiên tiến, phù hợp với thực tiễn điều kiện Việt Nam và theo kịp xu
thế của quốc tế; nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, lập quy và chất
lượng của hoạt động lập pháp, lập quy.
1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là nguyên tắc quan trọng trong
xây dựng NNPQ, các cơ quan nhà nước ở địa phương chịu sự chỉ đạo tập
trung, thống nhất từ trung ương, có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các
cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đây chính là bước phát triển trong nhận
thức của Đảng ta tiếp thu những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền
trong xây dựng NNPQ ở nước ta. Trong điều kiện không có đối trọng và
kiềm chế lẫn nhau giữa các quyền lực như ở các nhà nước theo nguyên tắc
phân quyền thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt
động nhà nước là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu ở nước ta và vì thế
đẩy mạnh xây dựng NNPQ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước trước hết phải
là hoàn thiện cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, kiện toàn các
cơ quan và các thiết chế giám sát. Trong cơ chế giám sát đó thì VKSND là
một thành tố, là thiết chế giám sát có tính chuyên nghiệp cần thiết cho Quốc
28
hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình. Ở góc độ khác phải thấy
rằng, Chính phủ, VKSND tối cao, Toà án nhân dân tối cao không chỉ là đối
tượng giám sát tối cao của Quốc hội mà các cơ quan này cũng có vai trò
nhất định trong phản biện quyền lực của Quốc hội thông qua những ý kiến
phản hồi về tính thiếu khả thi, chồng chéo không thống nhất của hệ thống
pháp luật, những hạn chế của các đạo luật cụ thể do Quốc hội ban hành. Đây
chính là quan hệ biện chứng về kiểm soát quyền lực trong điều kiện cụ thể
của nước ta.
Với ý nghĩa hết sức quan trọng của cơ cấu, tổ chức bộ máy trong việc
thực hiện pháp luật Kiểm sát viên có hiệu quả. Do đó, xác định nhiệm vụ rồi
mới thành lập tổ chức, có tổ chức mới sắp xếp, bố trí công tác, cán bộ. Mỗi
Viện kiểm sát và cán bộ, Kiểm sát viên các cấp đều phải được tổ chức, xác
định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng. Các khâu công tác, cũng như
việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải trên cơ sở yêu cầu và
nội dung của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng tổ chức trong
sạch, vững mạnh.
VKSND mặc dù có những thay đổi nhất định nhưng về tổng thể luôn
là một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
đặc thù, có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Hệ thống VKSND bao
gồm: VKSND tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện); Viện kiểm sát quân sự các
cấp.
Tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn
phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tương đương; các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác;
Viện kiểm sát quân sự trung ương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao
29
gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các viện và tương đương. Tổ chức bộ
máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các phòng
và tương đương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp huyện gồm có văn phòng
và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ
phận công tác và bộ máy giúp việc [38].
Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự trung
ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân
sự khu vực. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có:
Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các phòng và tương đương.
Tổ chức bộ máy của VKS quân sự quân khu và tương đương gồm có: Ủy
ban kiểm sát; các ban và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy của VKS quân
sự khu vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc [38].
Ngoài ra, các quy định về thể chế và cơ chế vận hành cụ thể của
VKSND vẫn bảo đảm nguyên tắc chung trong xây dựng NNPQ. VKSND
nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, có vai trò quan trọng trong
xây dựng NNPQ, bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự
do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức
Ngày 26/7/1960, ngành Kiểm sát được thành lập. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và trưởng
thành, ngành Kiểm sát đã từng bước củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
sát, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 quy định: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động
tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ. Tăng cường
công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ
30
chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố
trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí
cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện
trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp” [8].
Công tác tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên, tạo nguồn, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên.
Do đó, việc tuyển dụng cần thông báo công khai rộng rãi trên các phương
tiện thông tin đại chúng, việc thành lập và hoạt động của Hội đồng tuyển
dụng công chức, các Ban giúp việc cho Hội đồng tuyển dụng công chức đều
được bảo đảm đúng quy trình, thủ tục theo quy định của VKSND tối cao,
tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển, qua đó, có điều kiện sàng lọc, tuyển
dụng được những cán bộ có tài, có đức. Cán bộ Kiểm sát viên phải tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, phụng sự tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; phải
kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; phải
đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật;
không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát “Công minh, chính trực,
khách quan, thận trọng, khiêm tốn” [38], [44].
1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính
Điều kiện về cơ sở vật chất luôn là điều kiện quan trọng đối với bất kỳ
lĩnh vực hoạt động nào của đời sống xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm
sát viên có chất lượng thì yếu tố cơ sở, vật chất, nguồn lực tài chính, chế độ
chính sách là yếu tố không thể thiếu. Yếu tố về cơ sở vật chất, nguồn lực tài
chính đảm bảo sẽ tạo điều kiện để Kiểm sát viên VKSND có điều kiện thuận
lợi hơn để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, phát huy và khích lệ tính chủ
động, tích cực, tính tự giác, trách nhiệm cá nhân. Đối với pháp luật quy định
về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính đối với Kiểm sát viên VKSND cần
31
tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm
không có kỳ hạn; có chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp, kịp thời.
Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực tài
chính sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát huy tài năng sáng tạo của
đội ngũ Kiểm sát viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đầu tư nguồn lực tài chính đầy đủ và phù hợp sẽ góp phần xây dựng
được đội ngũ Kiểm sát viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Theo
đó,cần đầu tư kinh phí về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi học, ưu tiên đào tạo
cán bộ trẻ, trong diện quy hoạch... Khi cử cán bộ đi học, hỗ trợ tiền ăn, ở,
học phí, đi lại, tiền mua giáo trình, tài liệu... theo từng đối tượng phù hợp,
đảm bảo các điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập nhằm nâng cao trình
độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học...
Hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là hoạt
động đặc biệt, đòi hỏi cường độ lao động cao, sự đầu tư về trí tuệ lớn, trách
nhiệm pháp lý nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Thực tế cho
thấy, đại đa số cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn do đồng lương
thấp. Việc đổi mới chính sách về tiền lương đối với đội ngũ cán bộ các cơ
quan tư pháp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng là cần thiết. Chế độ đãi ngộ,
chính sách về tiền lương, phụ cấp đảm bảo sẽ tạo điều kiện để Kiểm sát viên
giảm bớt khó khăn, yên tâm nhiệt huyết hơn với công việc.
Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác thi đua khen thưởng theo hướng
thực chất hơn, tránh cào bằng, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời
dựa vào kết quả hoàn thành niệm vụ, khen thưởng cả về vật chất và tinh thần
đối với những Kiểm sát viên có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác.
32
Kết luận chương 1
Bằng phương pháp tiếp cận có khoa học để xác định những nội dung
quan trọng liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn đã tập
trung phân tích các khái niệm cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên
VKSND nói riêng, chỉ ra sự khác nhau giữa cán bộ và công chức cũng như
đặc điểm và vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND.
Dưới góc độ luật học, luận văn đã luận giải và xây dựng khái niệm
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nhận diện, phân tích các đặc điểm của
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, xuất phát từ nhu cầu của quản lý và đổi
mới, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.
Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn
một mặt phân tích để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND, mặt khác chỉ rõ yêu cầu của NNPQ xã hội chủ nghĩa đối
với việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở những
căn cứ và tiêu chí khoa học.
Qua việc phân tích một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề nêu
trên, có thể khẳng định hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay hoàn toàn có cơ sở
lý luận khoa học và là yêu cầu khách quan và tất yếu.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
Ở TỈNH THANH HÓA
2.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ, diện tích 11.129,48 km2,
là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp
giáp với các tỉnh và nước bạn như sau: Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La,
Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; Phía Nam: giáp tỉnh
Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km; Phía Đông: giáp biển Đông với
chiều dài đường bờ biển 102 km; Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước
CHDCND Lào với đường biên giới dài 192 km.
Thanh Hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh
phía Nam nước ta. Trong lịch sử, Thanh Hóa từng là căn cứ địa vững chắc
chống ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.
Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt
động du lịch, khai thác cảng biển; có đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh,
đường sắt xuyên Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy
mô diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Đặc điểm về vị trí địa lý
trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
Với nền văn hoá đa dân tộc, mỗi dân tộc có đăc trưng riêng về văn hoá
phi vật thể và văn hoá vật thể là tiềm năng, lợi thế đối với du lịch; những thiết
chế văn hoá xã hội truyền thống của từng dân tộc như: thiết chế Bản Mường
của người Thái dựa trên lãnh thổ công, thiết chế lang đạo của người Mường,
thiết chế dòng họ của người H’Mông... những phong tục tập quán trong sản
34
xuất, sinh hoạt và trong tín ngưỡng, hội hè... là điểm đến hấp dẫn, thu hút
khách du lịch trong nước và quốc tế. Với các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và
dân số nêu trên, Thanh Hóa có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế đó cũng đặt ra cho Thanh Hóa nhiều
khó khăn cho việc quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Đặc biệt, trong điều
kiện kinh tế - xã hội tỉnh còn nhiều khó khăn, số lượng người trong độ tuổi
lao động nhiều và ngày một tăng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, thu
nhập bình quân đầu người còn thấp, khả năng giải quyết việc làm còn nhiều
hạn chế, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và sự thay đổi của
các mặt đời sống xã hội như: sự du nhập của văn hóa, công nghệ... càng trở
nên sâu sắc, đây là những nguyên nhân căn bản gây nguy cơ gia tăng số lượng
tội phạm. Đồng thời, những đặc điểm phức tạp của xã hội sẽ gây khó khăn
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội nói chung và hoạt động
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân
2.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát
viên
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên là vấn đề
quan trọng trong các quy phạm pháp luật quy định về Kiểm sát viên. Theo
Điều 83 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, Kiểm sát viên có các
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau:
- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát
viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố,
35
thay mặt nhà nước buộc tội người phạm tội và thực hiện các quyền như
quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khi kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trong thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định
của Viện trưởng VKSND cấp mình và cấp trên. Đồng thời, chịu sự lãnh đạo
tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ, nếu có căn cứ cho rằng quyết định của Viện trưởng là trái
pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhận nhiệm vụ bằng văn bản,
nếu Viện trưởng vẫn quyết định thi hành thì phải có văn bản chỉ đạo, Kiểm
sát viên phải báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên và không phải chịu
trách nhiệm về hậu quả quyết định của Viện trưởng. Trường hợp này, Viện
trưởng quyết định thi hành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước
Viện trưởng VKSND cấp trên về quyết định của mình.
Viện trưởng VKSND có trách nhiệm thực hiện các hoạt động để kiểm
tra, giám sát hoạt động của Kiểm sát viên, Nếu phát hiện vi phạm thì tùy
mức độ có quyền xử lý; có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định
trái pháp luật của Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định.
- Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm
sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát
viên ở ngạch cao hơn.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết
luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật [38].
Bên cạnh những quy định nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm, pháp luật cũng quy định những việc Kiểm sát viên không được làm:
- Trước hết Kiểm sát viên cũng là cán bộ, công chức nên Kiểm sát
viên không được làm những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức
36
không được làm.
- Ngoài ra, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên không
được: Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc
người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không
đúng quy định của pháp luật.; can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc
hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải
quyết vụ án, vụ việc; đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan
nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có
thẩm quyền; tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác
trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định
[38].
Để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về vai trò của người
Kiểm sát viên, Điều 85 Luật tổ chức VKSND năm 2014 còn quy định việc
Tuyên thệ của Kiểm sát viên khi được bổ nhiệm
Người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ:
Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân;
Thứ hai, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm
pháp luật;
Thứ ba, kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng
xã hội;
Thứ tư, không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm
tốn”;
Thứ năm, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân [38], [44].
2.2.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành Kiểm sát được tổ chức
37
gồm bốn cấp gồm: VKSND tối cao, cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện, ngành
Kiểm sát nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo
trong ngành, đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao. Trong hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng
VKSND được quy định nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện các chức năng
của VKSND. Tuy nhiên, Viện trưởng không thể tự mình thực hiệc hết các
chức năng theo quy định của pháp luật mà phải thông qua Phó viện trưởng
và đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên. Do đó, Kiểm sát viên VKSND khi thực
hiện nhiệm vụ phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND và trước
pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, đòi
hỏi mỗi Kiểm sát viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, nắm vững quy
đinh của pháp luật và kiến thức xã hội phục vụ nhiệm vụ. Đồng thời không
ngừng tu dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, mỗi Kiểm sát viên
VKSND phải “Giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản
lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
Kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố là một nhiệm
vụ chính trị, là hoạt động công vụ, hoạt động của Kiểm sát viên góp phần
cùng với các cán bộ, công chức nhà nước phục vụ nhiệm vụ trọng tâm, chiến
lược mà Đảng và Nhà nước định ra trong từng thời kỳ (từng giai đoạn cách
mạng). Vì lẽ đó, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi chưa đủ, Kiểm sát
viên phải có đạo đức chính trị, phải trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, có ý thức pháp luật cao, đấu tranh không khoan nhượng với bất cứ hành
vi vi phạm pháp luật nào. Kiểm sát viên phải là người “Công minh, chính
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” như lời Bác Hồ dạy. Là lực lượng
chủ yếu của VKSND, những công dân được bổ nhiệm Kiểm sát viên phải
đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo pháp luật quy định, đó là những
tiêu chuẩn chung và riêng đối với Kiểm sát viên VKSND.
38
Về tiêu chuẩn chung
Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn chung của
Kiểm sát viên tại Điều 75 như sau: “Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh
thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử nhân luật
trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; có thời gian làm công tác
thực tiễn theo quy định của Luật này; có sức khoẻ để đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao” [38].
Như vậy, tiêu chuẩn chung của người được tuyển chọn bổ nhiệm làm
Kiểm sát viên gồm có tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, thời gian công tác thực tiễn và sức khỏe đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ. Tiêu chuẩn này đã được đề cập tới tại Điều 53, Sắc lệnh số 13/SL
ngày 26 tháng 01 năm 1946 với quy định: “Vào ngạch thẩm phán phải có đủ
ba điều kiện chung: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông đàn bà;
có hạnh kiểm tốt; chưa can án bao giờ” (theo Sắc lệnh này thẩm phán gồm
thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội, thẩm phán buộc tội là người thực
hiện chức năng công tố), sau đó được cụ thể hơn trong luật tổ chức VKSND
các năm 1981, 1992, 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 1993, 2002 và hiện
nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp
Trên cơ sở tiêu chuẩn chung trên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã
xác định tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp.
Đối với Kiểm sát viên sơ cấp, phải đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại
Điều 77 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “Người có đủ tiêu chuẩn
chungcủa Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là có thời gian làm công tác
pháp luật từ 04 năm trở lên; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát
39
hoạt động tư pháp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp
thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân
dân;nếulà sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát
viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với Kiểm sát viên trung cấp, theo quy định tại Điều 78 Luật tổ
chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm
sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm;
có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả
năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động
tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm
sát viên trung cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của
Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với Kiểm sát viên cao cấp, theo quy định tại Điều 79 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát
viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm;
có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả
năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động
tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm
sát viên cao cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của
VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao, theo quy định tại Điều 80
Luật tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của
Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất
05 năm; có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tối cao; có năng lực giải quyết
40
những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối cao thì có thể
được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên” [38].
Như vậy, điểm mới của Luật tổ chức VKSND năm 2014 so với Pháp
lệnh Kiểm sát viên 2002 là quy định có 04 ngạch Kiểm sát viên gồm: Kiểm
sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp,
Kiểm sát viên sơ cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp tương
ứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao hiện nay và
nâng cao tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao. Về số lượng
Kiểm sát viên VKSND tối cao quy định không quá 19 người. Về nhiệm kỳ
Kiểm sát viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Kiểm sát viên
được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại
hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm. Về cơ chế tuyển chọn Kiểm sát
viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: Áp dụng hình thức thi tuyển
vào các ngạch Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Hội đồng thi được
tổ chức ở VKSND tối cao, do Viện trưởng VKSND tối cao làm Chủ tịch,
các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Không áp dụng hình thức
thi tuyển vào ngạch đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao. Trong trường
hợp cần thiết, có thể bổ nhiệm những người đủ thời gian làm Kiểm sát viên
cấp dưới trực tiếp theo quy định của pháp luật. Quy định này, giúp VKSND
cấp trên có thể mở rộng phạm vi lựa chọn được những Kiểm sát viên cấp
dưới có năng lực thực tiễn cho VKSND cấp trên.
2.2.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
thuyên chuyển Kiểm sát viên
Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên
Tuyển chọn Kiểm sát viên là một nội dung quan trọng, việc lựa chọn
người có đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm là Kiểm sát viên VKSND sẽ giúp
cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả và các hoạt động
41
tiếp theo như đào tạo, nâng cao năng lực sẽ thuận lợi hơn. Quy định về
tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên nhằm đạt được mục đích: tuyển chọn
được những người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên, bảo đảm tính khách
quan, công bằng hoạt động tuyển chọn. Từ đó chọn được đội ngũ Kiểm sát
viên có chất lượng, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là nhằm chuẩn hoá đội ngũ Kiểm sát
viên đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, trong công tác tuyển chọn,
điều kiện tuyển chọn, phương thức, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ hoạt
động của Kiểm sát viên là những vấn đề cơ bản, cần quan tâm trước tiên.
Nhìn lại quy định về bổ nhiệm, tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND
thời kỳ trước cho thấy, điều kiện và quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm hiện nay
khắt khe hơn. Thời kỳ 1946 - 1959, chức danh Kiểm sát viên do cử thì từ
năm 1960 đến nay, Kiểm sát viên được tiến hành theo thủ tục bổ nhiệm.
Theo đó, người có đủ điều kiện được bổ nhiệm được tuyển chọn làm Kiểm
sát viên do người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm, riêng
đối với Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu. Theo quy định của
Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002, để giúp Chủ tịch nước và Viện trưởng
VKSND tối cao trong việc bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND ở mỗi cấp đều
có Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên. Theo quy định của Luật tổ chức
VKSND năm 2014 thì có những đổi mới, thể hiện:
Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao:
Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao gồm: Chủ tịch là Viện
trưởng VKSND tối cao và các uỷ viên là đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng,
Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội
luật gia Việt Nam. Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên
VKSND tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của
Viện trưởng VKSND tối cao.
42
Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị tuyển
chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao, trình bày ý kiến đề
nghị việc tuyển chọn và bổ nhiệm đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao,
theo đề nghị của Ủy ban kiểm sátVKSND tối cao, Hội đồng tuyển chọn
Kiểm sát viên VKSND tối cao làm việc theo chế độ tập thể và quyết định
của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao phải được quá nữa
tổng số ủy viên biểu quyết tán thành rồi báo cáo danh sách Kiểm sát viên
được chọn đến Viện trưởng VKSND tối cao để trình Chủ tịch nước xem xét
và quyết định bổ nhiệm.
Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát
viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp:
Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp,
Kiểm sát viên cao cấp gồm có Chủ tịch là Viện trưởng VKSND tối cao và
các ủy viên là một Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát quân sự trung ương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh sách Hội đồng thi tuyển
Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do
Viện trưởng VKSND tối cao quyết định.
Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người đề nghị thi tuyển để
bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên
cao cấp, theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao, Hội đồng thi tuyển
KSV sơ cấp, KSV trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp tổ chức các kỳ thi tuyển
Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp và
công bố danh sách những người trúng tuyển. Hội đồng báo cáo danh sách
người trúng tuyển đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên
trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp VKSND các cấp để đề nghị Viện trưởng
VKSND tối cao xem xét và quyết định bổ nhiệm.
43
Việc quy định thành phần và quy trình bổ nhiệm như trên thể hiện
tính dân chủ, khách quan, công bằng trong việc tuyển chọn người xứng đáng
thực hiện trọng trách và nhiệm vụ thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội
và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khác. Mặt khác, quy định này
cũng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng
tuyển chọn kiểm sát viên VKSND tối cao và Hội đồng thi tuyển Kiểm sát
viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Bên cạnh đó, việc tổ chức thi tuyển Kiểm sát
viên là cách phù hợp, công khai, minh bạch nhất để lựa chọn được người có
đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND các cấp.
Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp
Việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ
tịch nước quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Việc
miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên VKSND cấp cao, trung cấp, sơ
cấp do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng
VKSND cấp cao.
Trình tự, thủ tục xem xét đề nghị miễn nhiệm, cách chức chức danh
kiểm sát viên được tiến hành theo trình tự sau: Viện trưởng VKSND tối cao
báo cáo với Hội đồng tuyển chọn về hồ sơ đề nghị miễn nhiệm hoặc cách
chức đối với chức danh Kiểm sát viên và trình bày ý kiến đề nghị miễn
nhiệm, cách chức. Các thành viên trong Hội đồng căn cứ vào quy định của
pháp luật và hồ sơ đề nghị, tiến hành thảo luận, trao đổi về miễn nhiệm, cách
chức. Chủ tịch Hội đồng kết luận, các thành viên Hội đồng có mặt biểu
quyết công khai bằng hình thức giơ tay. Sau đó, Viện trưởng VKSND tối
cao làm văn bản đề nghị Chủ tịch nước quyết định miễn nhiệm hoặc cách
chức chức danh Kiểm sát viên VKSND tối cao; Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp cao làm văn bản đề nghị Viện trưởng
44
VKSND tối cao miễn nhiệm hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên
VKSND cấp mình.
Thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên
Việc thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên các cấp được pháp
luật quy định nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý
theo địa giới hành chính hoặc theo nhiệm vụ công tác của địa phương. Do
đó, thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên phải đáp ứng được yêu
cầu của công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố
nhà nước, đồng thời phải đảm bảo đời sống của Kiểm sát viên. Việc điều
động, biệt phái Kiểm sát viên từ VKSND địa phương này tới VKSND cùng
cấp ở địa phương khác do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định.
2.2.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố
tụng khác
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Cơ quan điều tra.
Cơ quan điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện các biện pháp
nghiệp vụ thông qua các Điều tra viên để xác định sự thật của vụ việc đã xảy
ra một cách khách quan, chính xác và toàn diện.
Trong hệ thống tư pháp, điều tra và công tố luôn là mắt xích quan
trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác kịp thời, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội. Hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên có quan hệ mật thiết với
cơ quan điều tra, đặc biệt trong tư pháp hình sự. Pháp luật đã quy định mối
quan hệ chặt chẽ giữa các khâu phát hiện, điều tra tội phạm nhằm mục đích
truy tố chính xác tội phạm và người phạm tội ra trước tòa.
Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên thực
hiện quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra
khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố theo ủy quyền của Viện trưởng
45
VKSND cấp mình. Kiểm sát viên có quyền yêu cầu, tham gia hoặc trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định. Khi kiểm sát việc điều tra
của cơ quan điều tra, đảm bảo việc điều tra đúng pháp luật, Kiểm sát viên
thực hiện kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra, có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khắc
phục vi phạm trong quá trình điều tra, cung cấp tài liệu khi cần và khi điều
tra viên vi phạm pháp luật. Đồng thời báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát
cấp mình khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra để Viện trưởng có quyết
định kịp thời, đảm bảo điều tra đúng tiến độ.
Như vậy, Kiểm sát viên là người trực tiếp kiểm tra giám sát cơ quan
điều tra trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện
các yêu cầu và quyết định của Kiểm sát viên (trường hợp không đồng ý, Cơ
quan điều tra có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên). Để hoạt động
điều tra của cơ quan điều tra đảm bảo tính khách quan, toàn diện và chính
xác, rất cần hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên VKSND - người thực hiện
chức năng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Tòa án.
Tòa án là cơ quan tư pháp có chức năng xét xử. Kiểm sát viên thực
hiện chức năng công tố tại Tòa án là chức năng riêng có của VKSND theo
ủy quyền của Viện trưởng, tại phiên tòa xét xử hình sự, Kiểm sát viên đọc
cáo trạng, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát và tham gia tranh tụng.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên
tại phiên tòa là điều kiện bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt mà không có
Kiểm sát viên dự khuyết thay thế thì phải hoãn phiên tòa. Đối với phiên tòa
dân sự, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, sự có mặt của Kiểm sát
viên là cần thiết, nếu vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Tại phiên toà
hình sự, chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên đối đáp những ý
46
kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham gia tố tụng
khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với những
quy định này, Tòa án đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm
sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tất cả mọi vấn đề trong vụ án đều được Kiểm
sát viên lập luận đầy đủ, thuyết phục khi bảo vệ quan điểm của VKSND.
Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn thực
hiện kiểm sát việc xét xử của tòa án, đảm bảo tòa án xét xử đúng người,
đúng tội. Khác với mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Kiểm sát viên mối
quan hệ này thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử. Giai đoạn này, Tòa án
thực hiện chức năng xét xử còn Kiểm sát viên vừa thực hiện chức năng công
tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhằm mục đích
cuối cùng là xác định sự thật của vụ án để xét xử khách quan, đúng pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan thi hành án.
Trong chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có
công tác kiểm sát thi hành án và Luật thi hành án cũng quy định VKSND
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp
hành viên... Có nghĩa giữa cơ quan thi hành án và Kiểm sát viên tồn tại một
quan hệ chặt chẽ. Bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, và cơ quan thi hành án là người chịu trách nhiệm chính. Việc
bản án, quyết định của tòa án được thi hành trên thực tế mới đảm bảo được
tính giáo dục phòng ngừa đối với cộng đồng, mới khẳng định được sự
nghiêm minh của pháp luật. Thời điểm án được thi hành cũng là thời điểm
Kiểm sát viên hoàn thành nhiệm vụ được giao đối với một vụ án cụ thể.
Thực hiện công tác kiểm sát thi hành án Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án ra quyết định thi hành án đúng quy định, tự kiểm tra việc
47
thi hành, trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án cùng
cấp và cấp dưới, quyền kháng nghị và yêu cầu khi có căn cứ đối với cơ quan
thi hành án... Pháp luật hiện hành quy định cơ quan thi hành án không phải
là cơ quan độc lập mà chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà
nước, và sự quản lý về chuyên môn của Cục Thi hành án trực thuộc Bộ tư
pháp, điều này đã ảnh hưởng không ít tới chất lượng thi hành án, vấn đề này
sẽ được sửa đổi khi luật thi hành án ra đời. Khi cơ quan thi hành án là một
cơ quan độc lập, mối quan hệ với Kiểm sát viên sẽ có sự thay đổi.
Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Luật sư.
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, được Bộ tư pháp công nhận
quyền tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác (khi có
đủ tiêu chuẩn theo luật định) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân tổ chức, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khác với ba mối quan hệ trên, mối quan hệ giữa Luật sư và Kiểm sát
viên, nhìn từ góc độ luật tố tụng hình sự, là quan hệ giữa hai chức danh tư
pháp có những khác biệt cơ bản. Nếu như Kiểm sát viên đại diện cho quyền
lực nhà nước, thực hiện quyền công tố theo ủy quyền của Viện trưởng, tức
là người buộc tội, thì luật sư là người đại diện cho người bị Kiểm sát viên
truy tố (thân chủ), là người “gỡ tội”, bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên
tòa. Mối quan hệ này thể hiện khá rõ trong quá trình tranh luận tại phiên tòa.
Quan điểm của Kiểm sát viên và của Luật sư được thể hiện sẽ giúp Hội đồng
xét xử có cái nhìn toàn diện, khách quan chính xác. Sự có mặt của luật sư tại
các buổi hỏi cung sẽ khắc phục được những vi phạm tố tụng, hạn chế tình
trạng phản cung của bị cáo tại phiên tòa, có những vụ án nhiều tình tiết mới
được luật sư phát hiện và được điều tra bổ sung góp phần rất lớn vào việc
xét xử đúng người đúng tội của tòa án. Những hoạt động này của Luật sư đã
hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên tại tòa, phát huy
48
được khả năng của mình khi thực hiện quyền công tố.
Như vậy, Luật sư và Kiểm sát viên có mối quan hệ hỗ trợ bổ sung
trong việc đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, trong bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân và bảo vệ pháp chế. Chính điều này đã và
đang góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư tinh
thông nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02 tháng 09 năm 2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24
tháng 5 năm 2005 và Nghị quyết số 49-/NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ Chính trị, VKSND đang đẩy mạnh công tác xây dựng ngành, nâng
cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Là chức danh tư pháp, trực tiếp thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên VKSND là người, nhân danh quyền lực nhà nước, đại
diện cho công lý bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân. Quá trình hình thành và phát triển, pháp luật về
Kiểm sát viên đã thể hiện được tính ưu việt của mình và đang từng bước
hoàn thiện. Nghiên cứu tìm hiểu những ưu điểm, hạn chế từ đó có những
giải pháp hoàn thiện chế định Kiểm sát viên là góp phần vào thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp: Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên
tinh thông nghiệp vụ, trong sạch vững mạnh, dũng cảm đấu tranh bảo vệ
công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm
nghề nghiệp.
49
2.3.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Kiểm sát viên
Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014, có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/6/2015 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.” [38]. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên trong hoạt động kiểm sát được giảm bớt, không còn công tác kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế. Việc giảm bớt
nhiệm vụ như nêu trên sẽ giúp giải quyết tình trạng quá tải về khối lượng
công việc đối với Viện kiểm sát nói chung và với Kiểm sát viên nói riêng,
tập trung vào thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm.
Trong lĩnh vực thực hành quyền công tố
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát viên nhân danh quyền lực nhà
nước, đại diện cho công lý, cho sự nghiêm minh của pháp luật truy tố người
phạm tội ra trước tòa, đồng thời duy trì sự buộc tội tại tòa án, đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được điều tra, khởi tố và xử lý kịp thời, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Với vai trò là
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
- Thực hành quyền công tố việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố
Tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định: VKSND thực
hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Lần đầu tiên Luật quy định một mục riêng về công tác “Thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến
50
nghị khởi tố” [38] nhằm khẳng định đây là lĩnh vực công tác thực hiện chức
năng độc lập của VKSND (Mục 1 Chương II). Thể chế hoá chủ trương của
Nghị quyết số 49-NQ/TW “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với điều tra” [8]. Thực hiện công tác thực hành
quyền công tố ngay từ giai đoạn ban đầu nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra
kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Kiểm sát viên được phân công đã chú trọng đến kiểm sát lập hồ sơ và
đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh đối với từng tin báo tội phạm mà Cơ quan
điều tra đã thụ lý; kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, bị can để
điều tra đối với những tin báo có dấu hiệu tội phạm mà Cơ quan điều tra
chậm ra quyết định khởi tố. Đối với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền
giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã
chỉ đạo các đơn vị tiếp tục thực hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo
tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao.
Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố: 93 vụ, 121 bị can (năm 2020: 20 vụ, 32 bị
can; năm 2019: 26 vụ, 41 bị can; năm 2018: 16 vụ, 27 bị can; năm 2017: 24
vụ, 17 bị can; năm 2016: 7 vụ, 4 bị can; 2015 không phát sinh số liệu);
không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 02 trường hợp vào năm 2018 [52].
Đối với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan
điều tra VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tiếp
tục thực hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Năm 2016,
VKSND tỉnh đã tiến hành xác minh ban đầu 06 tin và chuyển Cơ quan điều
tra VKSND tối cao điều tra giải quyết theo thẩm quyền 04 tin.Cơ quan điều
51
tra VKSND tối cao đã điều tra làm rõ và khởi tố 02 vụ, 02 bị can [52].
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình
sự
Kiểm sát viên hai cấp đã chủ động hơn trong việc tham mưu cho lãnh
đạo VKSND trong việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và khẩn trương yêu
cầu điều tra tội phạm [45]. Kiểm sát viên đề xuất và thực hiện nhiều biện
pháp để tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công
tố với hoạt động điều tra theo chủ trương của Đảng và quy định của pháp
luật. Kiểm sát chặt chẽ các vụ án hình sự ngay sau khi khởi tố, chủ động,
tích cực đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, chống
lạm dụng việc bắt khẩn cấp hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội. Vì vậy, chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố được nâng
lên, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung có trách
nhiệm của Kiểm sát viên hoặc án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xử hủy,
sửa. Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các căn cứ pháp luật trong tạm đình chỉ,
đình chỉ điều tra vụ án, bị can, nhất là các trường hợp đình chỉ miễn trách
nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật hình sự. Đã phục hồi nhiều vụ án để
điều tra theo quy định, không để xảy ra quá hạn điều tra; tích cực chủ động
phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án điểm, án
theo thủ tục rút gọn.
Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp huỷ 04 quyết định
khởi tố vụ án (năm 2016), huỷ 13 quyết định khởi tố bị can của Cơ quan
điều tra (năm 2015 hủy 02 quyết định, năm 2016 hủy 06 quyết đinh, năm
2017 hủy 03 quyết định, năm 2019 hủy 02 quyết định); huỷ 11 quyết định
không khởi tố vụ án không có căn cứ của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát ra
quyết định khởi tố vụ án 10 vụ (năm 2016: 08 vụ, năm 2017: 02 vụ); không
phê chuẩn 06 quyết định khởi tố bị can (năm 2015), hủy bỏ 02 quyết định
52
đình chỉ điều tra vụ án (năm 2017), hủy bỏ 05 quyết định đình chỉ điều tra bị
can của Cơ quan điều tra; phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 981 người, không
phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 11 bị can, không phê chuẩn lệnh tạm giam 26
bị can, hủy bỏ quyết định tạm giam 12 bị can, không phê chuẩn lệnh bắt
khẩn cấp 01 trường hợp (2015); không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ
19 trường hợp; hủy quyết định tạm giữ 43 trường hợp. Viện kiểm sát hai cấp
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung 78 vụ để bổ sung chứng
cứ 39 vụ; khởi tố thêm bị can 15 vụ; vi phạm tố tụng 11 vụ; thay đổi tội
danh 10 vụ, khởi tố thêm tội danh 03 vụ [52].
Các vi phạm của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra như:
một số vụ án không kịp thời tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ, dẫn đến
phải gia hạn thời hạn điều tra; vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, lập hồ
sơ vụ án; việc thực hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát chưa đầy đủ,
chưa kịp thời, dẫn đến một số vụ án phải trả để điều tra bổ sung; một số vụ
án, Cơ quan điều tra ban hành các quyết định tố tụng không đúng quy định
của pháp luật… được Kiểm sát viên tổng hợp tham mưu ban hành kiến nghị
yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục. Các kiến nghị của Viện kiểm sát đều
được Cơ quan điều tra tiếp thu và đề ra biện pháp khắc phục.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm
Trong công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, Viện
kiểm sát hai cấp quan tâm giải quyết các vụ án đã thụ lý đúng thời hạn luật
định, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để
xảy ra trường hợp nào Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử tuyên bị cáo
không phạm tội hoặc thay đổi hoặc rút quyết định truy tố; hạn chế đến mức
thấp nhất các trường hợp bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung, án bị hủy, sửa có
trách nhiệm của Kiểm sát viên. Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát
viên đã chủ động nghiên cứu, kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án, khi các
53
chứng cứ, thủ tục tố tụng của vụ án đã đầy đủ thì mới thống nhất với Điều
tra viên để kết thúc điều tra, nên đã hạn chế đến mức thấp nhất việc kết thúc
điều tra vụ án mới đề xuất trả hồ sơ điều tra bổ sung. Ở hầu hết các vụ án,
trước khi truy tố, Kiểm sát viên đã nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về chứng cứ,
bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội. Việc ban hành các
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án, bị can đảm bảo đúng căn cứ
pháp luật, nhất là các trường hợp đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo
Điều 29 Bộ luật hình sự.
Số vụ án Viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so với tổng số vụ án đã
kết thúc điều tra [45]. Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp
truy tố 10.949 vụ, 20.967 bị can so với số vụ và số bị can đã kết thúc điều
tra 11.208 vụ, 21.311 bị can. Trong đó: Năm 2015 quyết định truy tố 1.694
vụ, 3.235 bị can/ 1.734 vụ, 3.289 bị can, chiếm 97,6%; năm 2016 truy tố
1.880 vụ, 3.552 bị can/ 1.924 vụ, 3.646 bị can, chiếm 97,7%; năm 2017 truy
tố 1.673 vụ, 3.088 bị can/ 1.717vụ, 3.180 bị can, chiếm 97,4%; năm 2018
truy tố 1.689 vụ, 3.076 bị can/ 1.748 vụ, 3.076 bị can, chiếm 96,67%; năm
2019 truy tố 1.949 vụ, 3.983 bị can/ 1.998 vụ, 4.095 bị can, chiếm 97,5%;
năm 2020 truy tố 2.064 vụ, 4.033 bị can/ 2.087 vụ, 4.025 bị can, chiếm
98,89% [52].
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014, ở giai
đoạn xét xử các vụ án hình sự, quyền công tố của VKSND được Kiểm sát
viên sử dụng tại phiên tòa qua việc công bố cáo trạng hoặc quyết định truy
tố theo thủ tục rút gọn, xét hỏi, thực hiện việc luận tội đối với bị cáo, tranh
luận với bị cáo, luật sư; phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án tại phiên
tòa và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự [38].
54
Ở hầu hết các vụ án, trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên
chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, dự kiến tình huống diễn biến tại phiên tòa;
nâng cao chất lượng luận tội; chủ động tham gia xét hỏi, tranh luận, đối đáp
với những người tham gia tố tụng; đề nghị áp dụng hình phạt và mức hình
phạt phù hợp quy định của pháp luật... Kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án áp
dụng các Điều 51, 54 và 65 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt nhẹ hoặc
cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đúng quy định của
pháp luật. Tăng cường phối hợp với Tòa án để tổ chức các phiên tòa xét xử
lưu động và các phiên tòa để rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư
pháp...
Công tác kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án được hầu
hết các đơn vị thực hiện tốt; lập phiếu kiểm sát và gửi Viện kiểm sát cấp
trên, do vậy, đã kịp thời phát hiện những vi phạm của Tòa án để tổng hợp,
kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, hoặc ban hành kháng nghị, đề nghị
kháng nghị khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát hai cấp
tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc kiểm sát biên bản phiên tòa
đảm bảo biên bản này phải được ghi chép khách quan, đầy đủ, đúng pháp
luật.
Trong đó, xét xử sơ thẩm năm 2015: 1.627 vụ, 3.125 bị cáo; năm
2016 xét xử 1.846 vụ, 3.497 bị cáo; năm 2017 xét xử 1.643 vụ, 3.002 bị cáo,
năm 2018 xét xử 1.724 vụ, 3.114 bị cáo; năm 2019 xét xử 1.905 vụ, 3.827 bị
cáo; năm 2020 xét xử 1.847 vụ, 3.703 bị cáo. Xét xử phúc thẩm, năm 2015:
174 vụ, 303 bị cáo; năm 2016: 170 vụ, 335 bị cáo; năm 2017: 151 vụ, 245 bị
cáo, năm 2018: 169 vụ, 264 bị cáo; năm 2019: 205 vụ, 399 bị cáo; năm
2020: 198 vụ, 353 bị cáo [52].
Việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm trong nhiều năm đã được
VKSND hai cấp phối hợp với Tòa án chú trọng về chất lượng, tăng cường
55
số lượng (mỗi Kiểm sát viên có ít nhất 02 phiên tòa hình sự /năm) nhằm
mục tiêu nâng cao chất lượng tranh tụng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng tranh
luận, xử lý tình huống và năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử
của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm hiệu lực, vai trò của quyền công tố
trong việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội trong các phiên tòa xét
xử vụ án hình sự.
Trong lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư pháp
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, Viện
kiểm sát các cấp ngày càng quan tâm đến công tác kiểm sát các hoạt động tư
pháp, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá nhằm đảm bảo hoạt
động của các cơ quan tư pháp theo đúng quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố.
Kiểm sát viên hai cấp đã chú trọng kiểm sát chặt chẽ việc thụ lý, giải
quyết tin báo tội phạm, phân công Kiểm sát viên lập hồ sơ kiểm sát. Kiểm
sát viên lập hồ sơ kiểm sát và đề ra yêu cầu xác minh đối với từng tin báo tội
phạm mà Cơ quan điều tra đã thụ lý; định kỳ hàng tháng, Viện kiểm sát đã
họp với Cơ quan điều tra để đánh giá tình hình tội phạm, kết quả xác minh,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan
điểm xử lý, nhằm nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội. Đối
với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tiếp tục thực
hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố
thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; chủ động tiếp nhận,
tiến hành xác minh ban đầu đối với một số tin báo tội phạm và kịp thời
chuyển Cơ quan điều tra VKSND tối cao giải quyết theo thẩm quyền.
56
- Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”; “Tăng cường các biện
pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”, Kiểm sát
viên hai cấp đã chú trọng nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự, kiểm sát chặt chẽ vụ án ngay từ khi khởi tố; chủ động nghiên cứu
hồ sơ để xây dựng kế hoạch kiểm sát điều tra, đề ra yêu cầu điều tra sát,
đúng với nội dung vụ án, đồng thời nắm chắc tiến độ điều tra để thường
xuyên đôn đốc, yêu cầu điều tra, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ đảm bảo
cho việc giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Hạn chế đến mức
thấp nhất tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc án bị cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm xử hủy, sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên.
Lãnh đạo VKSND tỉnh đã ban hành và chỉ đạo thực hiện thống nhất
trong toàn ngành VKSND tỉnh mẫu “Phiếu kiểm sát Quyết định đình chỉ
điều tra vụ án (bị can)”; theo đó, tất cả các vụ án, bị can, khi có quyết định
đình chỉ của Cơ quan điều tra hoặc Tòa án cùng cấp thì Kiểm sát viên phải
kiểm tra căn cứ của việc đình chỉ, đối với các trường hợp đình chỉ theo
khoản khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên phải gặp
và lấy lời khai của người rút yêu cầu khởi tố, nếu xét thấy việc đình chỉ là có
căn cứ, đúng pháp luật thì ban hành Phiếu kiểm sát (theo mẫu) và gửi báo
cáo phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh để tổng hợp, theo dõi chung.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong
giai đoạn truy tố
Trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố,
Kiểm sát viên quan tâm giải quyết các vụ án đã thụ lý đúng thời hạn luật
định, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để
57
xảy ra trường hợp nào Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử tuyên bị cáo
không phạm tội, thay đổi hoặc rút quyết định truy tố. Ở hầu hết các vụ án,
trước khi truy tố, Kiểm sát viên đều tiến hành phúc cung bị can, nghiên cứu,
đánh giá đầy đủ về chứng cứ, thủ tục tố tụng, bảo đảm việc truy tố có căn
cứ, đúng người, đúng tội.
Viện kiểm sát hai cấp đã quan tâm thực hiện tốt công tác kiến nghị
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, đã kịp thời ban hành 53 kiến
nghị đề nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan đề ra các giải pháp nhằm phòng
ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trên địa bàn tỉnh (các cơ quan, tổ chức
hữu quan đã có văn bản tiếp thu và chỉ đạo các cấp, các ngành, các cơ quan
có liên quan thực hiện tốt các nội dung kiến nghị của Viện kiểm sát) [52].
- Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự
Trong quá trình kiểm sát xét xử, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ
thường xuyên chú trọng, phát hiện, tổng hợp vi phạm để tham mưu ban hành
kháng nghị, kiến nghị đối với các bản án, quyết định vi phạm pháp luật.
Viện kiểm sát hai cấp quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03/CT-
VKSTC và Chỉ thị số 08/CT-VKSTC của VKSND tối cao về tăng cường
công tác kháng nghị phúc thẩm; hầu hết các kháng nghị đều đảm bảo chất
lượng, nội dung kháng nghị và hình thức văn bản kháng nghị đều có căn cứ
và đúng pháp luật, góp phần vào việc hạn chế những thiếu sót, vi phạm của
cấp sơ thẩm trong việc điều tra, truy tố, xét xử.
Thông qua công tác kiểm sát xét xử án hình sự, trong thời gian từ năm
2015 đến năm 2020, Kiểm sát viên hai cấp với nhiệm vụ được giao đã tham
mưu lãnh đạo ban hành kháng nghị phúc thẩm 179 vụ, 373 bị cáo; Tòa án và
Viện kiểm sát đã giải quyết 164 vụ; kháng nghị được Tòa án xét xử chấp
nhận 155 vụ. Kiểm sát viên nghiên cứu bản án, quyết định, báo cáo đề xuất
để Lãnh đạo VKSND tỉnh báo cáo đề nghị VKSND cấp cao tại Hà Nội
58
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để hủy 05 vụ (năm 2017), báo cáo
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để hủy 02 vụ (năm 2020); đối với các vi
phạm trong hoạt động xét xử như: chậm giao bản án cho Viện kiểm sát; một
số vụ án, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp
luật; trong một số bản án, việc áp dụng pháp luật không đúng hoặc không
đầy đủ, không áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội quy định
trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); sai lầm
nghiêm trọng trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật về hình sự, dân sự
trong xét xử các vụ án… Kiểm sát viên đã tổng hợp, tham mưu ban hành
216 kiến nghị yêu cầu TAND cùng cấp khắc phục vi phạm, thiếu sót. Các
kiến nghị của Viện kiểm sát đều được Toà án cùng cấp chấp nhận và tiếp
thu, khắc phục [52].
- Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự.
Trong kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ, thực hiện nhiệm vụ theo luật
định, kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân đã tiến hành kiểm sát chặt chẽ
việc bắt, tạm giữ, tạm giam, đảm bảo các trường hợp bị bắt, tạm giữ, tạm
giam có căn cứ, đúng pháp luật; kiên quyết không phê chuẩn đối với các
trường hợp bắt, tạm giam không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, số người bị
bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự chiếm tỷ cao so với chỉ tiêu kế hoạch;
không để xảy ra trường hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam.
Đối với công tác kiểm sát thi hành án hình sự, Kiểm sát viên đã chủ
động kiểm sát chặt chẽ các bị án thi hành hình phạt tù đã có hiệu lực nhưng
chưa thi hành, việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ tại địa phương.
Kiểm sát việc áp dụng trình tự, thủ tục xem xét quyết định hoãn, miễn chấp
hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian áp dụng
biện pháp xử lý hành chính còn lại của Tòa án cùng cấp; phối hợp với các cơ
quan hữu quan tổ chức các đợt rút ngắn thời gian thời gian thử thách của án
59
treo, miễn, giảm thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ; vào các dịp
lễ, tết, kiểm sát chặt chẽ công tác xét đề nghị đặc xá cho các phạm nhân
đang chấp hành án và có đủ tiêu chuẩn, điều kiện.
- Kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật
Thông qua công tác kiểm sát, Kiểm sát viên đã phát hiện vi phạm đề
xuất lãnh đạo ban hành kháng nghị yêu cầu Toà án khắc phục các vi phạm
trong việc giải quyết án hành chính, dân sự như: gửi chậm thông báo thụ lý,
bản án, quyết định; vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử; xác minh thu thập
chứng cứ không đầy đủ, toàn diện; tính án phí không đúng quy định của
pháp luật; không chuyển một số hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét,
giải quyết theo thẩm quyền... Các kiến nghị của Viện kiểm sát đều được Toà
án chấp nhận và khắc phục vi phạm.
- Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.
Công tác kiểm sát thi hành án giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp
phần bảo đảm cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành
trên thực tế, kịp thời, nghiêm chỉnh, đúng pháp luật,.
Kiểm sát viên hai cấp đã kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định thi hành
án; chú trọng kiểm sát việc trả lại đơn, hoãn, tạm đình chỉ và cưỡng chế thi
hành án. Việc lập hồ sơ kiểm sát các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ
thi hành án, xác minh, phân loại điều kiện thi hành án bảo đảm đúng quy
định. Thông qua kiểm sát trực tiếp, cũng như qua công tác kiểm sát thường
xuyên đối với cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp đã phát hiện một số vi
phạm, như: vi phạm thời hạn cưỡng chế, kê biên, vi phạm trình tự bán đấu
giá, thẩm định giá, vi phạm trong thu, chi tiền thi hành án, vi phạm trong xác
minh phân loại án chưa có điều kiện thi hành, chậm gửi các quyết định thi
60
hành án cho Viện kiểm sát…; đã ban hành 216 kháng nghị, kiến nghị yêu
cầu khắc phục vi phạm và được các cơ quan Thi hành án dân sự tiếp thu,
khắc phục vi phạm [52].
- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu
nại tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền.
Công tác tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đã được Kiểm sát viên được phân công
hai cấp quan tâm thực hiện. Viện kiểm sát hai cấp đã tiến hành kiểm sát trực
tiếp và kiểm sát gián tiếp đối với các cơ quan tư pháp trong việc thụ lý, giải
quyết đơn trong lĩnh vực tư pháp; từ đó ban hành 213 kiến nghị yêu cầu và
được các cơ quan tư pháp tiếp thu, khắc phục các vi phạm về trình tự, thủ
tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc lập và lưu giữ hồ sơ giải quyết
khiếu nại, tố cáo... [52].
2.3.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn
nhiệm cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Tiêu chuẩn kiểm sát viên như đã trình bày tại chương một, gồm tiêu
chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên các cấp.
Pháp luật hiện hành quy định tiêu chuẩn chung của kiểm sát viên là
những tiêu chuẩn về Quốc tịch, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, về
chuyên môn nghiệp vụ, thời gian công tác và sức khỏe đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ.
Quy định về trình độ cử nhân luật đối với người được bổ nhiệm làm
kiểm sát viên là điểm rất mới, rất tiến bộ của Pháp lệnh kiểm sát viên 1993
và tiếp tục được khẳng định tại Pháp lệnh kiểm sát viên 2002, Luật tổ chức
VKSND năm 2014, nó đã góp phần thống nhất mặt bằng trình độ của Kiểm
sát viên VKSND, khắc phục được tình trạng bổ sung cán bộ không theo quy
61
định, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng kiểm sát trong một thời gian tương
đối dài. Trước đây, yêu cầu về bằng cấp đối với người được tuyển chọn bổ
nhiệm chỉ dừng lại ở trình độ cao đẳng, mà cụ thể là tốt nghiệp Cao đẳng
kiểm sát, chưa đảm bảo được trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật
cần thiết. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật hiện hành quy định một
trong những tiêu chuẩn của kiểm sát viên là phải có trình độ cử nhân luật,
bảo đảm cho các kiểm sát viên có kiến thức pháp lý sâu rộng, được đào tạo
bài bản, giúp kiểm sát viên có sự nhìn nhận, đánh giá vấn đề khách quan,
chính xác, đầy đủ hơn.
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, hầu hết các Kiểm sát viên đều có
phẩm chất đạo đức trong sạch, có lập trường chính trị vững vàng, vô tư,
khách quan trong khi làm nhiệm vụ, xứng đáng là người đại diện cho công
lý, là lực lượng nòng cốt của VKSND thực hiện nhiệm vụ chính trị mà
Đảng, nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Cán bộ kiểm sát đều phải
bảo đảm tiêu chuẩn về sức khỏe, để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, với khối
lượng và áp lực công việc lớn; việc miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hầu như
không xảy ra.
Thời gian công tác thực tiễn là điều kiện bắt buộc trong Quy trình bổ
nhiệm Kiểm sát viên các cấp. Quy định về thời gian công tác thực tiễn đối
với Kiểm sát viên là vấn đề hết sức cần thiết, với trách nhiệm và quyền hạn
nặng nề, đại diện nhà nước, Kiểm sát viên VKSND ngoài yêu cầu về trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải được thực tiễn kiểm nghiệm và được đào
tạo, trưởng thành từ thực tiễn để có thêm những kinh nghiệm, trau dồi thêm
kiến thức, kỹ năng, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tế.
Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), đã
quy định rất cụ thể về thời gian công tác pháp luật đối với người được tuyển
chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
62
định, ngoài các điều kiện chung, người được tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát
viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên; đối
với Kiểm sát viên trung cấp phải có ít nhất 05 năm là Kiểm sát viên sơ cấp;
Kiểm sát viên cấp cao phải có ít nhất 05 năm là Kiểm sát viên trung cấp.
Ngoài ra, theo Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, để được bổ nhiệm
là Kiểm sát viên, phải trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên. Trừ
trường hợp ngoại lệ do nhu cầu cán bộ ngành được quy định và người có đủ
điều kiện tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND năm
2014, đã có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có năng lực thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền
VKSND cấp tỉnh, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát
cấp dưới thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp;
đối với trường hợp chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên cấp dưới hoặc thời
gian làm công tác pháp luật, nhưng trong trường hợp cần thiết vẫn có thể
được tuyển chọn, bổ nhiệm làm kiểm sát viên theo quy định của pháp luật.
Đối với người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, điều
kiện về thời gian công tác pháp luật vẫn là 4 năm. Đây là khoảng thời gian
tương đối phù hợp cho quá trình phấn đấu rèn luyện và tích lũy kinh
nghiệm, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác.
Về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Kiểm sát viên. Việc tuyển chọn bổ nhiệm, Kiểm sát viên phải thông qua Uỷ
ban kiểm sát xét tuyển để chọn người đủ điều kiện dự thi; bổ sung quy định
về Hội đồng thi tuyển các ngạch Kiểm sát viên nêu trên. Đây là điểm mới
của Luật tổ chức VKSND năm 2014 so với luật tổ chức VKSND trước đó.
Đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao tiếp tục
thực hiện cơ chế tuyển chọn thông qua Hội đồng tuyển chọn.
Việc miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên các cấp phải qua một Hội
63
đồng tuyển chọn cụ thể. Hội đồng làm việc theo chế độ tập thể và biểu quyết
theo đa số, lựa chọn người đủ tài đức vào vị trí người bảo vệ công lý. Những
quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn kiểm sát viên là tiền đề để thực hiện những
quy định về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2.3.3. Về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng
khác
Trong quá trình thực hiện công tác, Kiểm sát viên với Cơ quan điều
tra đều thực hiện tốt công tác phối hợp để đánh giá tình hình tội phạm, kết
quả xác minh, giải quyết tin báo tội phạm, việc thu thập chứng cứ, điều tra,
khởi tố vụ án; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan điểm xử lý; kịp thời yêu
cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, bị can để điều tra đối với những tin báo
có dấu hiệu tội phạm mà Cơ quan điều tra chậm ra quyết định khởi tố, nhiều
tin báo phức tạp, tin báo được dư luận xã hội quan tâm, tin báo quá thời hạn
giải quyết đã được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phối hợp xử lý dứt
điểm và đúng pháp luật, đã góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn
chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, đảm bảo không làm oan người
vôtội.
Kiểm sát viên được phân công đã phối hợp với Cơ quan điều tra và
TAND cùng cấp xác lập, giải quyết tốt các vụ án trọng điểm, vụ án theo thủ
tục rút gọn, tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động và phiên tòa hình sự rút
kinh nghiệm. Từ năm 2015 đến năm 2020, tổ chức 1.342 phiên tòa rút kinh
nghiệm chung cho cả hai ngành Viện kiểm sát và Tòa án, qua đó, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ các cơ quan tư
pháp. Các Kiểm sát viên của Phòng nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh đã phối
hợp chặt chẽ với nhau hoặc với Cơ quan điều tra, Tòa án để kịp thời nghiên
cứu và có văn bản trả lời đối với những vụ, việc có khó khăn, vướng mắc
mà các Viện kiểm sát hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện thỉnh
64
thị [52].
Kiểm sát viên phối hợp chặt chẽ với Cơ quan thi hành án hình sự, Tòa
án và các cơ quan có liên quan, tiến hành rà soát các bị án chưa thi hành án
phạt tù để yêu cầu ra quyết định thi hành hoặc áp giải theo quy định; nắm
chắc các trường hợp hoãn thi hành án để yêu cầu ra quyết định thi hành án
kịp thời. Thông qua hoạt động kiểm sát, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ
yêu cầu tòa án ra quyết định thi hành án đối với các trường hợp bị kết án có
điều kiện thi hành nhưng chưa có quyết định thi hành án. Đồng thời với
kiểm sát thi hành án phạt tù, Kiểm sát viên chú trọng kiểm sát việc thi hành
án phạt tù cho hưởng án treo, án cải tạo không giam giữ tại các xã, phường,
thị trấn; kiên quyết kháng nghị, kiến nghị những vi phạm pháp luật của Tòa
án và cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành án.
2.4. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
2.4.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Kiểm sát viên.
Kiểm sát viên tăng cường công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, điều tra, truy tố
và xét xử các vụ án hình sự, nhất là các vụ án trọng điểm, các vụ án lớn
được dư luận quan tâm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đã phát
hiện đều được khởi tố điều tra theo quy định. Kiểm sát viên lập hồ sơ kiểm
sát và đề ra yêu cầu xác minh đối với từng tin báo tội phạm mà Cơ quan
điều tra đã thụ lý; định kỳ hàng tháng, Viện kiểm sát đã họp với Cơ quan
điều tra để đánh giá tình hình tội phạm, kết quả xác minh, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan điểm xử lý, nhằm
65
nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Kiểm sát viên duy trì tốt mối quan hệ với các cơ quan hữu quan, với
cấp ủy đảng, chính quyền và các ngành ở địa phương, thể hiện: phối hợp
chặt chẽ với lãnh đạo TAND tỉnh trực tiếp tham dự và chỉ đạo việc rút kinh
nghiệm tại các phiên tòa hình sự đồng thời phối hợp với Cơ quan điều tra và
các cơ quan tố tụng để kịp thời nghiên cứu và có văn bản trả lời đối với
những vụ, việc có khó khăn, vướng mắc; chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ
quan trong khối nội chính cùng cấp nhất là các cơ quan tư pháp, các cơ quan
tiến hành tố tụng tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Thứ hai, về cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn, trình độ, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.
Hầu hết các Kiểm sát viên đều có đủ trình độ theo quy định, có năng
lực thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp, khả năng
hướng dẫn nghiệp vụ đối với kiểm sát viên cấp dưới, đảm bảo về thời gian
công tác thực tiễn pháp luật để được tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên
và phẩm chất đạo đức, sức khỏe để đáp ứng yêu cầu công tác. Với sự quan
tâm của Đảng và nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật
về tiêu chuẩn tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên, công tác cán bộ của
ngành kiểm sát được chú trọng về cả chất và lượng. Đội ngũ cán bộ Kiểm
sát viên VKSND được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm đã ngày càng trưởng thành, được phân công đảm nhiệm những trọng
trách trong những khâu công tác trọng tâm của ngành, là lực lượng nòng cốt
kế thừa và phát huy những thành quả 60 năm xây dựng ngành Kiểm sát nhân
dân nói chung và ngành Kiểm sát Thanh Hóa nói riêng.
Về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên được thực
66
hiện rất chặt chẽ. Việc tuyển chọn bổ nhiệm kiểm sát viên được thông qua
Uỷ ban kiểm sát xét tuyển để chọn người đủ điều kiện dự thi và được Hội
đồng thi tuyển công nhận kết quả trúng tuyển mới được xem xét bổ nhiệm.
Đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao, tiếp tục
thực hiện cơ chế tuyển chọn thông qua Hội đồng tuyển chọn. Hội đồng làm
việc theo chế độ tập thể và biểu quyết theo đa số, lựa chọn người đủ tài đức
vào vị trí người bảo vệ công lý.
Ở mỗi nhiệm kỳ, đội ngũ Kiểm sát viên được sắp xếp, kiện toàn hơn,
đảm bảo năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; luôn
phấn đấu rèn luyện, học hỏi kinh nghiệm nhất là tự học tập, trau dồi kiến
thức để khi được phân công đảm nhận chức trách, nhiệm vụ có thể hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên được tăng cường và đầu tư có
trọng tâm, hiệu quả nên đội ngũ Kiểm sát viên tiếp tục hoàn thiện cả về chất
và lượng.
Quán triệt, triển khai nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị, Kiểm sát viên hai cấp luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, không
ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được
giao theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Chính vì vậy, trong các năm qua,
hoạt động thực hành chức năng của VKSND đã có nhiều tiến bộ, chất lượng
hiệu quả của các khâu công tác ngày càng cao; hiệu lực, hiệu quả của công
tác kiểm sát ngày càng được khẳng định; đặc biệt là sau khi Luật tổ chức
VKSND năm 2014 có hiệu lực.
2.4.2. Những hạn chế, bất cập
Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND hai cấp trong những năm qua đã có nhiều kết quả, hiệu quả đáng
67
khích lệ. Viện kiểm sát các cấp đã chủ động phối hợp với các cơ quan bảo
vệ pháp luật giải quyết nhiều vụ án lớn, trọng điểm, phức tạp, nhất là
những vụ án tham nhũng, chức vụ, được dư luận đồng tình ủng hộ. Công
tác kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố; truy tố được chú trọng, nâng
cao hơn trước; tiến độ giải quyết án được đẩy nhanh… Tuy nhiên, với yêu
cầu của cải cách tư pháp và thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật thì công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát các cấp còn nhiều hạn chế, yếu kém:
Thứ nhất, trong thi hành pháp luật về thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên.
Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm do Cơ quan điều tra tiếp nhận, thụ lý;
một số vụ án đã khởi tố nhưng không được vào sổ thụ lý tin báo; một số tin
báo chưa được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; một số Kiểm sát viên
được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc xác minh, giải quyết
tin báo nhưng chưa bám sát tiến độ xác minh, giải quyết của Điều tra viên,
chưa chủ động nghiên cứu hồ sơ để phối hợp với Điều tra viên đề ra các
biện pháp xác minh làm rõ; một số tin báo đã đủ căn cứ giải quyết nhưng
Kiểm sát viên chưa kịp thời trao đổi, phối hợp với Điều tra viên để tham
mưu, đề xuất cho lãnh đạo đơn vị giải quyết dứt điểm… dẫn đến tin báo tội
phạm quá thời hạn giải quyết có trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát vẫn
còn chiếm tỷ lệ cao ở một số đơn vị.
Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở một số
vụ án, Kiểm sát viên chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chưa làm
hết trách nhiệm của mình, không kịp thời đề ra yêu cầu điều tra hoặc nội
dung yêu cầu điều tra không sát, đúng với nội dung vụ án; không bám sát
tiến độ điều tra của Điều tra viên, dẫn đến Điều tra viên thu thập chứng cứ
68
không đầy đủ, bỏ lọt tội phạm, dẫn đến phải gia hạn thời hạn điều tra hoặc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung; một số vụ án, bị can ra quyết định đình chỉ
điều tra không đúng quy định của pháp luật; một số đơn vị còn để xảy ra
trường hợp án bị cấp phúc thẩm xử hủy hoặc cải sửa nghiêm trọng, thậm chí
là phải đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm…
Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên nghiên cứu chưa đầy đủ, toàn
diện nên tham mưu, đề xuất lãnh đạo đơn vị truy tố chưa chính xác, chứng
cứ, thủ tục tố tụng chưa đầy đủ nên Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung; việc áp dụng điểm, khoản của điều luật để đề nghị truy tố chưa đầy
đủ; không ghi lời khai của người bị hại trong trường hợp người bị hại rút
đơn yêu cầu khởi tố...
Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử ở một số
vụ án hình sự, vẫn còn những hạn chế, tồn tại, chủ yếu diễn ra ở Kiểm sát
viên sơ cấp, như: chứng cứ vụ án được thu thập chưa đầy đủ, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
việc áp dụng pháp luật và xác định các tình tiết định khung; các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khôngđúng quy định; một số vụ án vẫn
còn bị cấp phúc thẩm xử hủy hoặc cải sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của
Kiểm sát viên.
Đối với công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án vẫn còn
những tồn tại. Số lượng kháng nghị còn hạn chế về công tác thi hành án,
kiểm sát chưa chặt chẽ việc thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, hôn
nhân gia đình, lao động, kinh tế và hành chính, tình trạng bị án bỏ trốn chưa
được phát hiện và kiến nghị kịp thời, đầy đủ; số lần kiểm sát nhà tạm giữ,
trại tạm giam, trại giam, cơ sở chữa bệnh có kết luận ít, chưa phát hiện hết vi
phạm hoặc kiến nghị vi phạm thiếu cụ thể, thiếu thuyết phục, khi ban hành
69
quyết định kiểm sát trực tiếp, kết luận và ban hành kháng nghị, kiến nghị
không đúng với quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngành…
Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, dânsự ở
một số Viện kiểm sát cấp huyện chất lượng còn thấp; một số Kiểm sát viên
thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn
nên không phát hiện được hết những vi phạm của Tòa án để tham mưu cho
lãnh đạo Viện có biện pháp tác động kịp thời; một số đơn vị, mặc dù còn có
án bị cấp phúc thẩm hủy, sửa có lỗi của Kiểm sát viên, nhưng Viện kiểm sát
cùng cấp chưa phát hiện được để ban hành kháng nghị hoặc có kháng nghị
nhưng tỷ lệ còn thấp; chưa thường xuyên tổng hợp vi phạm của Tòa án để
kiến nghị hoặc có tổng hợp nhưng không đầy đủ, thiếu chính xác; việc báo
cáo, thống kê không đầy đủ, thiếu kịp thời…
Thứ hai, về tiêu chuẩn, chế độ bổ nhiệm, thuyên chuyển, điều động
Kiểm sát viên VKSND.
Mặc dù số lượng và chất lượng Kiểm sát viên được nâng lên một
bước cơ bản so với những năm trước đây, nhưng so với yêu cầu của thực tế
thì thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay vẫn còn có những hạn chế
nhất định về số lượng và chất lượng.
Về số lượng kiểm sát viên, theo dự kiến của ngành kiểm sát tỉnh
Thanh Hóa, năm 2020 chỉ tiêu Kiểm sát viên VKSND hai cấp là 297, nhưng
trên thực tế số lượng Kiểm sát viên VKSND các cấp được bổ nhiệm không
đủ, còn thiếu 16 Kiểm sát viên. Việc phân bổ Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát
các cấp (cấp tỉnh, cấp huyện) chưa có sự đồng đều, đặc biệt là ở cấp huyện,
tình trạng thiếu Kiểm sát viên vẫn đang xảy ra [53].
Về chất lượng Kiểm sát viên, đây cũng là vấn đề có nhiều điều phải
bàn. Bên cạnh những Kiểm sát viên có trình độ chuyên môn tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch, thì vẫn có những Kiểm
70
sát viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, có những biểu hiện tham nhũng, tiêu
cực. Đặc biệt, chất lượng Kiểm sát viên chưa đồng đều, nhiều người là Kiểm
sát viên lâu năm nhưng vẫn chưa qua đào tạo bài bản, số mới tuy đã được
đào tạo bài bản về luật nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu nghề kiểm
sát và thiếu kinh nghiệm... dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng như
mong muốn.
Chất lượng hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố nhà nước trong thời gian qua có nhiều kết quả đáng khích lệ,
nhưng vẫn còn có nhiều vụ việc mà dư luận và các phương tiện thông tin đại
chúng phản ánh còn chưa khách quan, làm ảnh hưởng tới lòng tin của nhân
dân vào đội ngũ Kiểm sát viên....
Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên khi được phân
công tại phiên toà hình sự và tham gia giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân
gia đình, lao động, kinh tế và hành chính có những hạn chế nhất định. Đó là
tình trạng kiểm sát viên yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,thực tế
hiện nay, tại các phiên tòa vẫn còn những kiểm sát viên ngồi ghế công tố với
những bản luận tội sơ sài, mô tả lại diễn biến vụ án đơn thuần, không có sự
phân tích, đánh giá hay chứng minh để bảo vệ quan điểm truy tố; vẫn còn
những Kiểm sát viên đuối lý hoặc không tranh luận trước những phát biểu
của Luật sư, tại một số ít phiên tòa kiểm sát viên hầu như không tiến hành
đối đáp.
Việc thực hiện quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp còn có những
vướng mắc. Đó là vẫn còn tồn tại những vụ án phải điều tra lại, điều tra bổ
sung, tồn tại những trường hợp án chưa được thi hành...
Thực tiễn cho thấy, kỹ năng tranh tụng, lập luận, diễn đạt của Kiểm
sát viên tại phiên tòa vẫn là những hạn chế cần quan tâm khắc phục. Một số
Kiểm sát viên trình bày cáo trạng không rõ ràng, khúc chiết, mất bình tĩnh,
71
nóng nảy khi tranh luận, lập luận với luật sư và những người tham gia tố
tụng khác. Vì vậy, cần được nhìn nhận vấn đề này một cách đúng đắn và có
hướng đào tạo, bồi dưỡng kịp thời.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Những tồn tại, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát có nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan. Nhưng nhìn chung, thấy có những nguyên nhân
chính sau đây:
Thứ nhất, về thể chế về Kiểm sát viên.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ, cụ thể, dẫn đến còn có
nhận thức khác nhau trong các cơ quan tiến hành tố tụng ở một số vụ án;
chưa có nhiều cơ chế để bảo đảm cho hoạt động của Viện kiểm sát, cụ thể
như:
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, tại phiên toà xét
xử hình sự, Kiểm sát viên thực hiện song song hai nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử, có nghĩa là kiểm sát viên vừa là chủ thể
buộc tội, một bên của tố tụng, vừa đứng ra kiểm sát việc xét xử. Thực tiễn
tại các phiên tòa, bên cạnh việc Kiểm sát viên lo chuẩn bị cho những vấn đề
thuộc hoạt động công tố còn phải kiểm sát việc xét xử của Hội đồng xét xử,
của những người tham gia tố tụng. Với trách nhiệm nặng nề đó là một trong
những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa.
Trong hoạt động của Kiểm sát viên có một vấn đề không thể không
nhắc tới, đó là văn hoá ứng xử của Kiểm sát viên, đặc biệt tại các phiên toà.
Trong quá trình xây dựng và phát triển 60 năm ngành Kiểm sát nhân dân, đã
có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về các lĩnh vực họat động thực
hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp dưới nhiều góc độ
72
và trên nhiều phương diện khác nhau, nhưng nghiên cứu về văn hóa ứng xử
của Kiểm sát viên - một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu
quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành ở VKSND các cấp thì chưa có
nhiều và chưa được quan tâm đúng mức.
Đây là nguyên nhân khách quan nhưng rất cơ bản, đòi hỏi phải được
khắc phục kịp thời, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ quan
tiến hành tố tụng hoạt động hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Thứ hai, về công tác tổ chức, điều kiện hoạt động công tác của Kiểm
sát viên
Biên chế của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tuy đã được bổ sung, nhưng
chưa đáp ứng được với nhu cầu công việc. Thực hiện công tác sắp xếp, điều
động công chức, lãnh đạo quản lý chưa hợp lý để phục vụ cho công tác
chuẩn bị nhân sự để giới thiệu Ủy ban kiểm sát là căn cứ xem xét tuyển
chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên trong thời gian tới để đảm bảo được chính
sách cán bộ, Kiểm sát viên.
Công tác kiện toàn, bổ nhiệm chức vụ, các chức danh kiểm sát viên
được thực hiện đúng quy trình, thủ tục, hồ sơ đầy đủ tài liệu cần thiết theo
quy định nhưng một số Kiểm sát viên vẫn chưa thực sự đảm bảo đủ các tiêu
chuẩn, điều kiện được đề nghị bổ nhiệm.
Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKSND các cấp còn
thiếu thường xuyên, sâu sát; việc kiểm tra của Lãnh đạo đối với cán bộ,
Kiểm sát viên chưa sâu sát nên nhiều vi phạm, hạn chế, thiếu sót của Kiểm
sát viên không được phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của VKSND các cấp nhìn chung
còn yếu và thiếu, không đáp ứng được yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp
thời của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính sách, chế độ tiền
73
lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên chậm được điều
chỉnh, bổ sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được giao, nhất là
chế độ phu cấp đặc thù của cán bộ, công chức VKSND được quy định tại
Điều 96 Luật tổ chức VKSND năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/6/2015)
đến nay vẫn chưa được thực hiện [45].
Thứ ba, về tiêu chuẩn, trình độ, năng lực Kiểm sát viên
Nguyên nhân của các vi phạm trên, một mặt do bản thân Kiểm sát
viên thiếu ý thức rèn luyện đạo đức, nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp và
năng lực chuyên môn. Nhận thức của một số Kiểm sát viên về vị trí, vai trò,
thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự
nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng chưa đầy đủ,
đúng đắn nên tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu chủ động trong hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp.
Năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của một số
Kiểm sát viên còn hạn chế; chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình
sự, tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn, dẫn đến lúng túng trong việc
áp dụng pháp luật, có trường hợp áp dụng sai, gây oan sai hoặc bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội.
Một số Kiểm sát viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu
bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc làm tha hoá, biến chất, tiếp tay cho
tội phạm, che dấu tội phạm.
74
Kết luận chương 2
Trong Chương 2 tác giả đã nghiên cứu, hệ thống quy định pháp luật
về Kiểm sát viên, phân tích các vấn đề về thực trạng thi hành hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; trình độ, năng lực và
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, luân chuyển, điều động, biệt phái
Kiểm sát viên VKSND; phân tích làm rõ những ưu điểm, tồn tại, hạn chế
thực hiện pháp luật Kiểm sát viên. Từ lý luận về pháp luật Kiểm sát viên
VKSND kết hợp với các phương pháp phân tích thực trạng, chương 2 đã cho
thấy được tình hình của thực hiện pháp luật Kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020 thông qua các thông
số từ nguồn số liệu của thống kê có giá trị cao của VKSND và các tài liệu
khác mà tác giả thu thập được.
Từ nghiên cứu chương 2 là cơ sở để đi sâu đề xuất các biện pháp thiết
thực, phương hướng hoàn thiện cụ thể về các mặt như lý luận, tổ chức hoạt
động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáo dục, bồi dưỡng... để pháp luật
Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa được thực hiện một
cách thống nhất và có hiệu quả.
75
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân
Quá trình đổi mới đất nước theo hướng xây dựng NNPQ XHCN của
dân, do dân, vì dân đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm và qua kết quả nghiên cứu về sự hình
thành, phát triển của pháp luật Kiểm sát viên VKSND; xuất phát từ những
yêu cầu cầu xây dựng NNPQ và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND, chúng tôi cho rằng phương hướng bao trùm là hướng tới xây
dựng, hoàn thiện Luật tổ chức VKSND trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn pháp luật về cán bộ, công chức và Kiểm sát viên hiện nay và những yêu
cầu đặt ra trong thời gian tới để có cái nhìn tổng thể, toàn diện về chế độ
công vụ, công chức Việt Nam.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
nghiên cứu những quy định pháp luật về Kiểm sát viên các nước trên thế
giới, phù hợp với thực tiễn nước ta nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên
VKSND “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,
công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Hoạt động của Nhà nước do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện,
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như chính trị, kinh tế - xã hội,
76
thể chế của nền công vụ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, các trang
thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động công vụ. Đội ngũ Kiểm sát viên
VKSND là lực lượng quan trọng, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của VKSND,
là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo pháp luật quy định và sự phân cấp quản lý
của Nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
phải trên cơ sở phù hợp với thực tiễn pháp luật về cán bộ, công chức ở nước
ta nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND ngày một chính quy hiện
đại theo các nội dung sau:
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đặt trong tổng
thể công tác xây dựng đội ngũ công chức nhà nước. Không thể hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tách rời việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước. Công tác này phải được xem là một bộ phận trong cả
hệ thống và phải được đặt trong tổng thể chiến lược về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức về vị trí của đội
ngũ Kiểm sát viên VKSND trong quan hệ với đội ngũ công chức nói chung.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải dựa trên cơ sở
phân loại và tiêu chuẩn hóa từng loại công chức VKSND. Cán bộ, công
chức VKSND hiện nay bao gồm Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên,
Công chức, viên chức và người lao động khác...
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với đặc
điểm, tính chất của các vùng, miền; phải dựa trên việc phân cấp quản lý.
Thực tế cho thấy, các đơn vị hành chính các cấp ở nước ta rất khác nhau về
điều kiện địa lý, dân số, mức sống người dân... Có tỉnh, huyện diện tích nhỏ,
dân số ít, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật không nhiều. Ngược lại,
có huyện, tỉnh lại có diện tích lớn, dân số đông, tình hình tội phạm, tranh
chấp phức tạp. Do đó, việc quy định số lượng và bố trí Kiểm sát viên
VKSND cũng như chế độ, chính sách đối với đội ngũ Kiểm sát viên
77
VKSND này phải căn cứ vào việc phân loại đơn vị hành chính phù hợp với
đặc điểm, tính chất của từng vùng miền.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tính hệ
thống, đồng bộ, khả thi, sát với thực tiễn và cụ thể. Kiểm sát viên VKSND
là những người đảm đương các chức vụ, cương vị công tác khác nhau của
bộ máy chính quyền trong hệ thống chính trị cơ sở, nó vừa có các quan hệ
ngang với các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở, lại vừa có
mối quan hệ dọc của mình từ trung ương đến cơ sở.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được tiến hành
một cách tích cực, khẩn trương nhưng phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ,
từng bước vững chắc, phù hợp với thực trạng năng lực và số lượng đội ngũ
Kiểm sát viên VKSND, với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng,
miền, của mỗi loại hình đô thị, nông thôn. Việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần được tiến hành tích cực, nhưng phải
từng bước, vững chắc, có đầy đủ căn cứ lý luận khoa học và thực tiễn, phù
hợp với tình hình và đặc điểm, thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND,
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm, tính chất đặc thù
của ngành Kiểm sát.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
các nguyên tắc của chế độ công vụ, công chức trong điều kiện mới.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và
vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc
hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm được hài hòa
lợi ích của nhà nước, của xã hội, của công dân và lợi ích bản thân người
Kiểm sát viên VKSND. Bởi vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND phải bảo đảm dân chủ từ công tác quản lý nhân sự, tuyển
78
chọn, bổ nhiệm được những người có đủ tài đức, xứng đáng được nhân dân
ủy thác nắm giữ quyền lực nhà nước. Đồng thời, pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phải tạo điều kiện nhân dân được tham gia giám sát hoạt độngcủa
Kiểm sát viên, được quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khen thưởng những Kiểm sát viên có thành tích và đề nghị kỷ luật,
miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, tác
phong. Ngoài ra, trong quan hệ giữa nhà nước và Kiểm sát viên cũng phải
được xác lập theo tinh thần dân chủ.
Nguyên tắc công khai, bình đẳng: Công khai, bình đẳng là nguyên tắc
đảm bảo sự minh bạch, tránh lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Theo
nguyên tắc này, tất cả các nội dung quy định của pháp luật có liên quan đến
nghĩa vụ, quyền và các hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của Kiểm sát
viên VKSND cần phải được công khai, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân.
Nguyên tắc thi tuyển, sát hạch: Đảm bảo được nguyên tắc này, cũng
là tiền đề để đảm bảo hai nguyên tắc trên. Nếu việc tuyển dụng, bổ
nhiệmthực hiện thi tuyển, sát hạch thì vừa đảm bảo nguyên tắc dân chủ,
nguyên tắc công khai, bình đẳng, bảo đảm tính khách quan, vô tư trong
tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND. Trong nền công vụ hiện đại, việc tuyển
chọn, bổ nhiệm vào ngạch, đề bạt đều phải thực hiện theo nguyên tắc này.
Nguyên tắc dựa vào thành tích và công trạng: Nguyên tắc này đòi hỏi
việc đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND giữ các chức vụ, vị
trí trọng trách trong từng vị trí hoặc khen thưởng, nâng lương đều phải thông
qua tài năng thực sự, thành tích hoạt động thực tế và công trạng lập được.
Nguyên tắc ổn định: Một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, đòi
hỏi pháp luật phải bảo đảm tính ổn định về nghề nghiệp và các chế độ chính
sách, đây là điều kiện cho đội ngũ Kiểm sát viên VKSND yên tâm công tác,
gắn bó với nghề, tích lũy được kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng hành chính
79
và chuyên môn nghiệp vụ ngày một tốt hơn, xử lý công việc chuyên nghiệp
và có hiệu quả hơn.
Nguyên tắc đảm bảo vật chất và tinh thần: Cán bộ, công chức nói
chung, Kiểm sát viên VKSND nói riêng phải có nghĩa vụ tận tụy phục vụ
nhà nước, phục vụ nhân dân. Song song với nghĩa vụ đó, Kiểm sát viên phải
được Nhà nước đảm bảo về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện để Kiểm sát
viên yên tâm công tác và thực thi nhiệm vụ. Địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên phải được xác lập và tôn trọng, được đảm bảo an toàn về pháp lý trong
quá trình thi hành nhiệm vụ, công vụ. Chế độ tiền lương và các quyền lợi về
tinh thần khác của Kiểm sát viên phải được bảo đảm theo quy định của pháp
luật.
Nguyên tắc hợp pháp: Đội ngũ Kiểm sát viên VKSND là những người
thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước, được làm những gì mà pháp
luật cho phép. Vì vậy, các nội dung về Kiểm sát viên và hoạt động công vụ
của họ phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy định pháp lý có hiệu lực
cao; nếu không sẽ dẫn tới tùy tiện, lạm quyền trong thi hành nhiệm vụ, công
vụ. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm thiết lập trật tự kỷ cương trong đội ngũ
Kiểm sát viên, góp phần xây dựng chính quyền nhà nước của dân, do dân và
vì dân.
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân
Trên cơ sở các quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho
việc hoàn thiện, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
Kiểm sát viên nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu
xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân.
Thứ nhất, tổ chức rà soát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn một cách có
hệ thống về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
80
Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của VKSND và đội ngũ
Kiểm sát viên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành với một số
lượng không nhỏ các văn bản quy phạm pháp luật. Qua phân tích cho thấy,
các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được xây dựng ở
các thời điểm khác nhau và trong những điều kiện, hoàn cảnh cũng khác
nhau, xuất phát từ nhu cầu và tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ. Nhu cầu và
những điều kiện kinh tế - xã hội luôn biến đổi không ngừng, đòi hỏi pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND cũng phải thay đổi tương ứng. Bất cứ một
văn bản pháp luật nào đều có tính lịch sử của nó, ở thời điểm này có thể là
phù hợp và có tác dụng tốt trong đời sống xã hội, nhưng sau một thời gian
nó có thể trở nên lỗi thời, lạc hậu, không những không còn tác dụng mà còn
gây ra thiếu sự đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn với các văn bản, quy phạm
pháp luật khác. Văn bản pháp luật về Kiểm sát viện VKSND cũng không
ngoại lệ.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND
Nội dung các quy định của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND rất rộng và đa dạng, được quy định trong nhiều văn bản do
nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do vậy, cần thiết xây
dựng và hệ thống một văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND nhưng phải bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với Luật tổ chức
VKSND. Nội dung các quy phạm pháp luật cần đáp ứng yêu cầu thực tiễn
quản lý, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND hiện nay, phù hợp với
định hướng xây dựng cán bộ tư pháp nói chung và định hướng xây dựng đội
ngũ Kiểm sát viên của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, các văn bản quy
phạm pháp luật đó phải đảm bảo tính ổn định nhất định trong thời đẩy mạnh
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
81
VKSND rất cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Về tiêu chuẩn hóa và tạo nguồn Kiểm sát viên VKSND: Xây dựng
tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý là căn cứ cơ bản, chỗ dựa chủ yếu để triển khai các
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây
dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay. Việc quy định tiêu chuẩn của Kiểm
sát viên cần phải xác định các tiêu chí cụ thể, ngoài tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn, cần có những tiêu chuẩn về kỹ năng nghề, khả năng và năng
lực thực tiễn... Vì vậy, cần phải nâng cao tiêu chuẩn về trình độ của Kiểm
sát viên VKSND mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKSND trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cũng cần có những quy định
mở về tiêu chuẩn đối với Kiểm sát viên ở khu vực miền núi, vùng có điều
điện kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp.
Về bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND cần đảm bảo hơn nữa quyền dân
chủ thực sự cũng như tính cạnh tranh của các cán bộ, công chức để lựa chọn
được những Kiểm sát viên xứng đáng là người đại diện cho nhà nước thực
hiện chức năng nhiệm vụ. Đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm để mỗi
Kiểm sát viên được bổ nhiệm đều là những người có đầy đủ phẩm chất đạo
đức, trình độ, năng lực và khả năng thực hiện nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng như pháp luật
về cán bộ, công chức nói chung lâu nay mới chỉ quan tâm tới "đầu vào" mà
chưa chú ý "đầu ra" của Kiểm sát viên VKSND nên không giảm bớt được
gánh nặng biên chế, không đảm bảo được chất lượng Kiểm sát viên.
Việc bổ nhiệm Kiểm sát viên có chính sách thích hợp và linh hoạt đối
với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn để khắc phục tình trạng thiếu nguồn nhân lực ở các khu vực này.
Để phát huy năng lực, sở trường, kinh nghiệm và tạo điều kiện thực tế
cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của mỗi Kiểm sát viên thì
82
công tác bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên có vai trò rất quan
trọng. Để bố trí, sử dụng khoa học, hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên, quá trình
hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần chú ý những đặc điểm
sau:
Bố trí, sắp xếp từng người vào từng vị trí chức danh, vị trí nghiệp vụ
phải phù hợp trình độ năng lực, sở trường của mỗi người. Trong việc sử
dụng Kiểm sát viên cần phân biệt rõ giữa Kiểm sát viên là những cán bộ
lãnh đạo, quản lý và Kiểm sát viên làm công tác nghiệp vụ. Do đó, cần xây
dựng các phương án luân chuyển và bố trí kiêm nhiệm (hợp lý) trong những
điều kiện cụ thể và từng giai đoạn khác nhau. Việc sử dụng Kiểm sát viên
cần phải tính đến các phương án bố trí kiêm nhiệm nhưng phải phù hợp với
khối lượng và tính chất công việc của từng chức danh.
Để xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cần phải nhanh chóng
hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc
cụ thể hóa từng nội dung của việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.
Hiện nay, việc triển khai còn chậm và thiếu đồng bộ giữa các địa phương,
các ban ngành, thậm chí còn có nhiều văn bản mâu thuẫn, gây khó khăn cho
việc tổ chức triển khai thực hiện. Vì vậy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể
chế quản lý Kiểm sát viên VKSND một cách chặt chẽ, khoa học, đồng bộ,
quản lý khoa học, hiệu quả.
Hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động, cùng với những quy định
mở rộng thẩm quyền và bảo đảm tính chủ động trong tuyển chọn, sử dụng
Kiểm sát viên. Ngoài các nội dung quản lý đã quy định, cần bổ sung thêm
một số nội dung về xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; thanh
tra, kiểm tra hoạt động; xử lý vi phạm; thống nhất việc quản lý hồ sơ Kiểm
sát viên VKSND...
Về nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý công tác đào tạo, bồi
dưỡng, cần ban hành những văn bản hướng dẫn nhằm thực hiện triệt để việc
83
phân cấp đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND. Đồng thời, nghiên cứu
hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đối
với Kiểm sát viên VKSND, tạo một cơ chế thoáng và đảm bảo tính chủ động
cho các địa phương tổ chức tốt hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Các quy định
về đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên phải gắn với yêu cầu thực tiễn (cả yêu
cầu về năng lực chuyên môn, cả yêu cầu về quy hoạch, tạo nguồn). Mặt
khác, cần chuẩn hóa và nâng cao chất lương hệ thống giáo trình, bài giải;
phải có quy định cụ thể về việc chuẩn hóa hệ thống tài liệu này, quy định về
nguồn lực tài chính để xây dựng, đảm bảo giáo trình, tài liệu có chất lượng,
không xa rời thực tiễn, đảm bảo học để làm việc, tránh tình trạng học không
gắn với hành.
Trên cơ sở đó, việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cho Kiểm sát viên VKSND được xác định như sau: Tiếp tục sắp xếp
và kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng là trường Đại học Kiểm
sát, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát. Cần ban hành đầy đủ và
kịp thời văn bản hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng, hình thành một mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên
thống nhất, ổn định. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp quy về
tổ chức bộ máy của một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho
phù hợp với tình hình mới, đặc biệt chú trọng đến các quy định về tuyển
chọn đội ngũ giảng viên.
Xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ đội ngũ giảng viên.
Có chính sách đầu tư kinh phí cho công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực cho đội ngũ giảng viên cơ hữu về kiến thức chuyên môn và
phương pháp sư phạm hiện đại, đảm bảo nguyên tắc giảng viên trong các cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND phải được đào tạo cơ bản về
chuyên môn giảng dạy. Nghiên cứu xây dựng chính sách và tổ chức đào tạo
nguồn giảng viên và cơ chế cử giảng viên đi hoạt động thực tế tại cơ sở. Có
84
thể lựa chọn những Kiểm sát viên có năng lực, có khả năng để đào tạo, bồi
dưỡng họ trở thành giảng viên.
Bên cạnh đó, có chế độ khuyến khích và bắt buộc học tập đối với đội
ngũ Kiểm sát viên, đồng thời kiểm tra định kỳ về kiến thức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ thông qua các hình thức thi về chuyên môn nghiệp vụ do
VKSND tối cao tổ chức hoặc VKSND địa phương tổ chức.
- Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Kiểm sát viên VKSND gồm có:
tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm, hưu trí, chế độ khen thưởng…
Về chế độ tiền lương, do đặc điểm của đội ngũ Kiểm sát viên VKSND
là thực hiện nhiệm vụ có nhiều đặc thù, nên ngoài nguồn thu nhập là tiền
lương thì cần quy định thu nhập tăng thêm bằng việc trích các khoản tiết
kiệm chi phí thường xuyên theo cơ chế khoán thu, chi ngân sách và tự chủ
tài chính. Nhất là thực hiện chế độ phụ cấp đặc thù cho các bộ, công chức,
viên chức VKSND được quy định tại Điều 96 Luật tổ chức VKSND năm
2014. Những thu nhập thêm ngoài tiền lương này vừa có tác dụng động
viên, khuyến khích đội ngũ Kiểm sát viên, vừa cho phép khắc phục những
bất hợp lý của chế độ, chính sách chung.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND bảo đảm
chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ là một quá trình phức tạp và
lâu dài. Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau,
trong đó quy trình soạn thảo, thẩm định và trình ban hành có một vai trò rất
quan trọng. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Cần phải đổi mới và hoàn thiện
quy trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật".
Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
hiện nay chưa được quy định cụ thể theo quy trình soạn thảo thống nhất, dẫn
85
đến nội dung, hình thức, phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp
luật này không đồng nhất và khó thực hiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp
luật đã ban hành không bảo đảm về hình thức và nội dung, còn có tình trạng
cục bộ, trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn nhất định.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên và bảo đảm nâng cao chất lượng
của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phải tiếp tục đổi
mới quy trình lập quy theo hướng lấy ý kiến rộng rãi của nhận dân và những
đơn vị có liên quan, khai thác tối đa trí tuệ của nhân dân và tổng kết thực
tiễn vào hoạt động xây dựng pháp luật. Nhà nước phải có lộ trình xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là chương trình xây dựng luật và pháp
lệnh của Quốc hội. Gắn chương trình này với yêu cầu hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND, phân định chính xác nhu cầu và các thứ bậc ưu
tiên của luật, pháp lệnh cần ban hành, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện, ổn
định và khả thi của hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Đồng thời, chương trình xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên phải là
cơ sở cho việc lập chương trình lập quy của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa
phương. Chương trình lập quy phải bao gồm cả cơ chế, biện pháp bảo đảm
thực hiện, ngân sách dành cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn
thảo, cơ quan ban hành, dự tính toàn diện các điều kiện, bảo đảm nguyên tắc
không ban hành văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND khi
chưa có đủ điều kiện.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp luật để tạo chỗ dựa
khoa học cho hoạt động xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, đồng
thời thường xuyên tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND
và Kiểm sát viên nhằm: làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn về Kiểm sát viên
VKSND; vị trí, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phạm vi
điều chỉnh, đối tượng mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh,
86
phương pháp mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh.
Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND cần chú ý những vấn đề sau:
Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ Viện kiểm sát nào thì giao cho Viện kiểm sát chủ trì việc soạn
thảo. Đơn vị chủ trì phải lập chương trình, kế hoạch, lựa chọn thành thần
tham gia soạn thảo và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan để thực
hiện đúng tiến độ và có chất lượng.
Đơn vị được giao chủ trì soạn thảo, ngoài việc nghiên cứu vấn đề soạn
thảo một cách có hệ thống, trên cơ sở xem xét toàn diện cả yếu tố lịch sử thì
cần nghiên cứu pháp luật quốc tế có liên quan để lựa chọn những điểm mới,
phù hợp với điều kiện nước ta. Đồng thời, khảo sát, nghiên cứu thực tiễn về
nội dung vấn đề đang soạn thảo; thu thập, nghiên cứu các thông tin, tư liệu
có liên quan, tiến hành hệ thống hóa, tổng kết, đánh giá những văn bản hiện
hành về lĩnh vực, nội dung đang soạn thảo để tìm ra những bất cập cần sửa
đổi, bổ sung; xây dựng đề cương, xác định nội dung, chương mục, tên gọi,
bố cục dự thảo văn bản; trên cơ sở đó tiến hành dự thảo nội dung văn bản
quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND và lấy ý kiến nhân dân, các
đơn vị có liên quản để tổng hợp, lựa chọn điểm cần sửa đổi, bổ sung.
Công tác dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phải đáp ứng những nội dung về: sự cần thiết phải ban hành văn
bản; tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ
thống văn bản quy định về Kiểm sát viên; tính khả thi của văn bản; sự phù
hợp của hình thức văn bản; bố cục của văn bản; kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Sau khi nhận được văn bản thẩm định dự thảo, đơn vị chủ trì có trách
nhiệm lấy ý kiến từ tổ chức, cá nhân, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; đồng thời
giải trình bằng văn bản việc tiếp thu ý kiến thẩm định và trình hồ sơ đã được
thẩm định cho cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để ban hành đúng
87
trình tự, thủ tục.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND hiện nay
3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Về khen thưởng Kiểm sát viên, cơ sở pháp lý chủ yếu vẫn là Luật thi
đua khen thưởng. Việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến
khích vật chất đối với tổ chức, cá nhân có thành tích đã được Luật quy định
tương đối đầy đủ. Bên cạnh những phần thưởng về tinh thần, những phần
thưởng về vật chất cũng có những ý nghĩa nhất định. Vấn đề này cần được
quy định chính thức và đầy đủ hơn trong hệ thống pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND, theo hướng quy định rõ các nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện,
hình thức, trình tự, nguồn tài chính, đảm bảo việc khen thưởng đối với Kiểm
sát viên VKSND phải công khai, minh bạch, công bằng. Các tiêu chuẩn
khen thưởng nên quy định theo hướng nhấn mạnh kết quả công việc và cần
có sự định lượng rõ ràng về "thành tích xuất sắc", "thành tích đặc biệt",
“thành tích đột xuất”… để công tác khen thưởng đối với Kiểm sát viên
VKSND đạt hiệu quả thiết thực.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế thì việc tăng cường các điều kiện đảm bảo thực hiện
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND về cơ sở vật chất, trang thiết bị phương
tiện làm việc và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Kiểm sát viên
VKSND là yêu cầu thiết yếu. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, có thể thấy trong
bối cảnh hiện nay, điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND cần:
Một là, quan tâm đến đời sống cán bộ, công chức VKSND nói chung
và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, đảm bảo cho Kiểm sát viên VKSND
88
có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; quan tâm đào tạo, đặc biệt là đào
tạo về ứng dụng công nghệ cho cán bộ, Kiểm sát viên VKSND, đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa hoạt động của
VKSND trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị; xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, cần quy định
kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động, chế độ chính sách
của cán bộ, Kiểm sát viên VKSND và cán bộ các cơ quan tư pháp phải có
những đặc thù riêng.
Hai là, có lộ trình kế hoạch dài hạn và cụ thể từng năm trong việc
tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động
của Kiểm sát viên VKSND.
Ba là, xác định loại, số lượng, định mức cụ thể về cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ hoạt động của Kiểm sát viên VKSND như: Trụ sở
làm việc, phương tiện đi lại, trang thiết bị kỹ thuật v.v.
Bốn là, xây dựng các quy định về quản lý, sử dụng kinh phí, trang
thiết bị, phương tiện hiện đại cho hoạt động của Kiểm sát viên VKSND.
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật của Kiểm
sát viên VKSND là một nội dung quan trọng của công tác quản lý cán bộ,
công chức. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra có thể phát hiện được vi
phạm, từ đó đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý cán bộ. Để việc thanh tra,
kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả, cần xây dựng các quy định pháp luật về
thanh, kiểm tra, tránh việc lạm dụng kiểm tra mà gây phiền hà đến hoạt
động của cán bộ, Kiểm sát viên. Đồng thời, đảm bảo công khai, minh bạch,
dân chủ, công bằng trong quy trình kiểm tra và xử lý vi phạm (nếu có). Quy
định cụ thể các tiêu chí, phương pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm pháp luật Kiểm sát viên VKSND, cần phải có tiêu chuẩn vừa mang
89
tính định tính và tiêu chẩn mang tính định lượng theo hướng gắn với kết
quả, mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ cũng như vi phạm của Kiểm
sát viên VKSND. Tổng kết cuối năm, yêu cầu mỗi Kiểm sát viên VKSND
phải kê khai kết quả công tác của mình, làm cơ sở để đánh giá và phân loại
thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên
VKSND.
Một trong những nguyên tắc của việc sử dụng Kiểm sát viên VKSND
là phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa thưởng và phạt. Về công tác xử lý vi
phạm, cơ sở pháp lý được áp dụng là Nghị định số 35/2005/NĐ-CP về xử lý
kỷ luật đối với cán bộ, công chức và Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Thông
tư số 03/2004/TT-BNV và quy định tại Luật tổ chức VKSND năm 2014,
Quy định về xử lý kỷ luật trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo
Quyết định số 183/QĐ-VKSTC-T1 ngày 04/4/2016 của Viện trưởng
VKSND tối cao. Tuy nhiên, có thể thấy các quy định pháp luật về xử lý kỷ
luật đối với cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên nói riêng hiện
vẫn còn nhiều hạn chế. Quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND cần quy định rõ khách thể của vi phạm pháp luật; thế nào là vi
phạm pháp luật; vi phạm ở mức độ nặng, nhẹ; trách nhiệm liên đới của công
chức lãnh đạo khi người dưới quyền vi phạm v.v… làm cơ sở để xác định
trách nhiệm pháp lý đối với Kiểm sát viên VKSND.
Mặt khác, hiện nay việc quy định thành phần và quy chế hoạt động
của Hội đồng kỷ luật chưa cụ thể. Điều này dễ dẫn đến tình trạng các
VKSND thực hiện việc kỷ luật đối với Kiểm sát viên theo những cách khác
nhau. Trong khi Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận hữu cơ của đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước, vì vậy xử lý kỷ luật Kiểm sát viên VKSND,
cũng như các vấn đề khác về chế độ pháp lý đối với họ cần phải được quy
định và áp dụng thống nhất trên cả nước.
90
Kết luận chương 3
Để xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống văn bản pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt
Nam hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trước hết
phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết thực tiễn; phân tích, đánh
giá đầy đủ những kết quả đạt được, mặt còn hạn chế, bất cập của thực trạng
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND và lý giải rõ những nguyên nhân chủ
yếu của thực trạng đó. Đồng thời, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND cần quán triệt một số quan điểm cơ bản, đó là hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của
Đảng về công tác cán bộ; hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân; hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính nhà nước.
Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân chỉ có thể đạt được khi
tiến hành thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: Tổ chức công tác rà
soát, hệ thống hóa, tổng kết kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật Kiểm sát viên VKSND; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung văn bản
quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao chất lượng, đổi
mới quy trình xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND trên cơ sở phát huy dân chủ ở cơ sở.
91
KẾT LUẬN
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có
hệ thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa trên
cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, bổ sung vào hệ thống lý luận trên cơ sở đánh giá
thực tiễn vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Từ đó đưa
ra giải pháp, định hướng hoàn thiện trong thời gian tới, góp phần đổi mới công
tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Bên cạnh những đóng góp chung, các kết quả nghiên cứu chuyên sâu về
pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong luận văn còn góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong hệ thống pháp
luật và trong đời sống xã hội. Từ những phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thưc
tiễn, luận văn đã đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên, góp phần rất quan trọng vào việc đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng và trên cả
nước nói chung, nhằm mục tiêu chung là bảo vệ tính mạng, sức khỏe nhân dân,
bảo vệ trật tự an toàn xã hội, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở lý luận, phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật Kiểm sát
viên VKSND, tác giả đã lồng ghép phân tích thực trạng của pháp luật Kiểm sát
viên VKSND trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa. Đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, điều
kiện của tình hình thực hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện phát luật.
Từ những vấn đề lý luận và tiễn, đưa ra phương hướng và đề xuất một số giải
92
pháp để hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong tương lai. Kết quả đạt
được bước đầu trong luận văn là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân tác giả với sự
giúp đỡ nghiêm túc và tinh thần đầy trách nhiệm của các thầy cô, các nhà khoa
học, bạn bè, đồng nghiệp trong ngành Kiểm sát và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình
của thầy hướng dẫn khoa học Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Ngọc Vượng. Tuy nhiên,
do điều kiện nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ và khả năng của bản thân tác giả
cũng mới bước đầu nghiên cứu khoa học nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Tác giả luận văn với tinh thần cầu thị rất mong đón nhận
được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học và các đồng nghiệp để một mặt
tiếp tục hoàn thiện bản thân và mặt khác để tiếp thu chỉnh sửa làm cho luận văn
hoàn thiện hơn./
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2015), Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2016), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực
hiện năm 2020 (giai đoạn 2016-2020), Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2015), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2015 của Bộ Chính
trị Về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
4. Chính phủ (2016), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm
2010
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Chỉ thị số 29- CT/TW ngày 8/11 của
Ban Bí thư trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2020, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
9. Đảng, Đoàn Quốc hội (2015), Kế hoạch số 290-KH/ĐĐQH về việc thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội.
10. Đỗ Văn Đương (2016), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
11. Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2013 (2014), Nxb Lao động
94
xã hội, Hà Nội.
12. Hiến pháp Việt Nam từ năm 2016 (2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
13. Lê Lan Chi (2017), Phân biệt khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự với các khái niệm liền kề”, Tạp chí Nghề Luật số
5/2017.
14. Lê Thị Tuyết Hoa (2012), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Hà Nội
15. Lê Hữu Thể (2012), "Bàn về khái niệm quyền công tố", Tạp chí kiểm sát,
(8).
16. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2015), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn.
18. Lê Văn Quang - Văn Đức Thanh (2016), Nhà nước pháp quyền XHCN
và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Ngô Thành Can (2017), Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực
trong khu vực công, Nxb Lao động.
20. Nguyễn Minh Sản (2019), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb. Chính
trị - Hành chính, Hà Nội.
21. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật.
22. Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
23. Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS
nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019.
24. Phạm Hồng Hải (2016), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
95
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
25. Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).
26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981), Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật tổ chức
Quốc hội, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật tổ chức
Quốc hội, HàNội.
30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật tổ chức
Chính phủ, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật tổ chức
Quốc hội, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Pháp lệnh
Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ luật tố
tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật
dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Cán bộ
công chức, Hà Nội.
38. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật tổ chức
96
Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật tố
tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật dân
sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
41. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2015), Cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Tô Tử Hạ (2013), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Tào Thị Quyên (2018) “Bảo vệ Hiến pháp góp phần bảo đảm sự bền
vững của chế độ chính trị”, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-
cuu-ly-luan/item/2437-bao-ve-hien-phap-gop-phan-bao-dam-su-ben-vung-
cua-che-do-chinh-tri.html, (27/3/2018).
44. Minh Vũ (2016) “Triển khai thi hành các đạo luật trong lĩnh vực tư
pháp”, http://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc-su-kien/trien-khai-thi-hanh-cac-
dao-luat-trong-linh-vuc-tu-phap-470964, (03/04/2016).
45. Lê Tuấn Phong (2016) “Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam”,
kiem-sat-vien-vien-kiem-sat-nhan-dan-trong-thuc-hanh-quyen-cong-to-o- viet-nam.html>, (25/4/2016). 46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Bộ Tư pháp, Hà Nội. 47. Từ điển tiếng Việt (2011), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học. 48. Từ điển luật học (2016), Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp. 49. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Kế hoạch số 23/KH-VKSTC về 97 thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2016-2020, Hà Nội. 51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Quyết định số 29/2012/QĐ-TCCB ngày 15 tháng 01 năm 2012 về việc ban hành quy chế làm việc của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 52. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh (2015 - 2020), Báo cáo hoạt động công tác kiểm sát từ năm 2015 đến năm 2020. 53. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2015 - 2020), Báo cáo công tác tổ chức cán bộ từ năm 2015 đến năm2020. 98