VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MẠNH CHUNG

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ

THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI, năm 2021

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp

quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những cơ quan trong

hệ thống cơ quan nhà nước, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ

kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách

nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng

sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực" (Lê

Duẩn).

Ngay từ khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã coi

trọng đến công tác cán bộ và những vấn đề pháp lý về công tác cán bộ. Trong

đó có lực lượng cán bộ tư pháp các cấp. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã ký Sắc lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đây là cơ

sở pháp lý đầu tiên xác lập sự ra đời của VKSND và cũng đánh dấu sự hình

thành chức danh Kiểm sát viên VKSND, là chức danh pháp lý quan trọng

trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố.

Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là lực lượng quan trọng, được bổ

nhiệm để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của ngành; trong bộ máy nhà nước,

Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, một bộ phận của lực lượng cán bộ,

công chức, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, góp phần bảo

vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật

nghiêm minh, công bằng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân.

Với những đặc thù về địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội, tình hình tội phạm

và vi phạm pháp luật, VKSND tỉnh Thanh Hóa nói riêng và Kiểm sát viên hai

cấp VKSND tỉnh Thanh Hóa đang có những thuận lợi và cũng phải đối mặt với

nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thanh Hóa nằm khu vực

2

Bắc Trung Bộ, là một trong những tỉnh lớn, diện tích đứng thứ 5 của cả nước,

với 11.129,48 km2, dân số đứng thứ 3 cả nước với 3,65 triệu dân, chỉ sau

Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thanh Hóa hiện là tỉnh có nhiều đơn vị

hành chính cấp huyện nhất Việt Nam, với tổng số thành phố, thị xã, huyện là

27 đơn vị hành chính. Là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, phía Bắc

giáp Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; phía

Nam và Tây Nam nằm liền kề Nghệ An với đường ranh giới hơn 160 km; phía

Tây nối liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân

Lào với đường biên giới dài 192 km; phía Đông mở ra phần giữa của Vịnh Bắc

Bộ thuộc biển Đông với đường bờ biển dài trên 102 km. Địa hình Thanh Hoá

khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây - Đông. Từ phía Tây

sang phía Đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển.Thanh

Hóa nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam nước ta, với

nhiều tuyến đường giao thông đi qua, đã tạo cho Thanh Hóa cơ hội giao lưu

kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở

rộng hợp tác quốc tế.

Trong những năm qua, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các loại

tranh chấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng

về số lượng và phức tạp về tính chất, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Với chức

năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh

Thanh Hóa đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa

trở thành một cực tăng trưởng ở khu vực phía Bắc. Góp phần bảo đảm pháp

luật được chấp hành nghiêm chỉnh, phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm

và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Để ngành Kiểm

sát nhân dân thực hiện được nhiệm vụ và sứ mệnh chính trị to lớn mà Đảng,

Nhà nước và nhân dân giao phó, con người luôn là yếu tố quan trọng, quyết

định. VKSND tỉnh Thanh Hóa không thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính

trị, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên

3

hai cấp. Vì vậy, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và

năng lực, kỹ năng nghề và thái độ tận tâm với công việc là nhiệm vụ có ý nghĩa

vô cùng quan trọng. Để xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu

thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hiệu quả...

Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên hiện nay đã bộc lộ những yếu

kém, bất cập như: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất giữa các văn bản pháp

luật về Kiểm sát viên; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên

còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm

vụ cụ thể của từng đơn vị; tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên còn nhiều mâu

thuẫn, chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm

sát viên chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết, chưa đa dạng hình thức đào tạo

gắn với nhiệm vụ công tác thực tế. Đặc biệt chưa quan tâm đào tạo kỹ năng

tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ

khác đối với Kiểm sát viên chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều điểm

chưa hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên

chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài

năng chưa được quan tâm; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây

dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời,

các quy định về Kiểm sát viên còn rời rạc trong nhiều văn bản pháp luật khác

nhau nên thiếu tính thống nhất, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền năng

pháp lý của Kiểm sát viên, đặc biệt là thực hiện chức năng thực hành quyền

công tố... Những thiếu sót, bất cập nêu trên là một trong những nguyên nhân

không nhỏ dẫn đến chất lượng, kỹ năng và tính tận tâm, nhiệt huyết của đội

ngũ Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Thanh Hóa chưa

cao. Đặc biệt là hạn chế về kỹ năng nghề như kỹ năng hỏi cung, lấy lời khai,

kỹ năng tranh tụng, đối đáp, tác phong khi tranh tụng tại phiên tòa. Một bộ

phận không nhỏ Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với nghề, có biểu hiện

tham nhũng, tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ; quyền năng

4

pháp lý của Kiểm sát viên và VKSND chưa được thực hiện hiệu quả trên thực

tiễn.

Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, cần xây dựng hệ thống pháp luật về

Kiểm sát viên đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo chất lượng, có mục đích pháp lý,

nguyên tắc và định hướng rõ ràng. Trước yêu cầu trên, đã đặt ra nhiều vấn đề

lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp triệt để, có căn cứ khoa học và phù hợp

với thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu khách

quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy

nhiên, vấn đề pháp luật về Kiểm sát viên thuộc chuyên ngành Luật Hiến pháp và

Luật Hành chính là vấn đề còn khá mới, chưa có công trình nghiên cứu chuyên

sâu. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cho thấy, nội dung này

các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, có thể

kể đến một số công trình nghiên cứu như:

- Tô Tử Hạ (2016), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức

hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;

- Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2018), Cơ sở lý luận và

thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội;

- TS. Nguyễn Minh Tuấn (2017), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán

bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia -

sự thật;

- Lê Hữu Thể (chủ biên) (2018), Thực hành quyền công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

- Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn;

5

- Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và

pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Lê Tuấn Phong

(2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp”;

- Luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình

sự - Đại học Luật Hà Nội, tác giả Đàm Quang Ngọc (2020), “Chức năng công

tố trong tố tụng Hình sự Việt Nam và Đức”;

- Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về công tố”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật;

- Đỗ Văn Đương (2019), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải

cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;

- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số

vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ;

- Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS

nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019;

- Phạm Hồng Hải (2019), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ

thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật…

Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn

diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh

Hóa. Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý

luận và thực tiễn về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ

thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ những vấn

đề lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu, góp phần khắc phục tình trạng

nêu trên.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở các quy định của pháp luật về Kiểm

6

sát viên VKSND, từ thực tiễn VKSND tỉnh Thanh Hóa, tôi đặt ra cho mình

mục đích nhận thức toàn diện về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa và làm rõ những kết quả đã đạt

được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở

cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, trong luận văn

tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:

- Luận văn phân tích cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

như xây dựng khái niệm, nêu lên đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố bảo

đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND.

- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn

tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn từ 2015 đến nay), để có những đánh giá khách quan

về những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn

chế, vướng mắc.

- Từ những phân tích hình thành cơ sở lý luận và nghiên cứu thực trạng,

luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị cơ bản, có

tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện trên địa

bàn VKSND tỉnh Thanh Hóa, thời gian từ năm 2015 đến nay, dưới góc độ tiếp

cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên học thuyết Mác -

7

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, quan điểm

của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam, về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp

cận đa ngành và liên ngành luật học, sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng phương

pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như:

phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh pháp luật. Đồng thời còn sử dụng

các phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu văn bản, các công trình

nghiên cứu có liên quan, phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,... để chọn

lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm ở trong và ngoài nước.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đây là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu và đầy

đủ trên một địa bàn cụ thể về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh

Thanh Hóa trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Ở một mức độ

nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo

đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như

những ai quan tâm nhận thức đầy đủ về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Các

kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống

lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những

quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức; về đổi mới công tác cán bộ và cải

cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao

nhận thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn có

thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập

tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng

cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

8

của luận văn gồm 03 chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân

Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Thanh Hóa

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm

thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

9

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm sát viên VKSND trước hết là cán bộ, công chức nhà nước. Vì

vậy, để xây dựng khái niệm về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải làm

rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước. Theo các văn bản quy phạm pháp

luật hiện hành thì ở nước ta sử dụng đồng thời ba thuật ngữ cán bộ, công chức

và viên chức.

Cán bộ, được hiểu theo nghĩa thông thường nhất là những người được

nhà nước tuyển dụng để làm việc trong bộ máy chính quyền các cấp, lực

lượng vũ trang (mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên

nghiệp, công nhân quốc phòng), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh

tế…

Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung

năm 2019 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê

chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung

ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp

tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp

huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37]

Theo đó, cán bộ là những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ theo

quy định của pháp luật, công chức theo quy định của pháp luật và được

tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức

chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức

danh theo nhiệm kỳ.

10

Theo quy định của Hiến pháp thì những người làm việc trong các cơ

quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Điều 8,

Hiến pháp năm 2013 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,

viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…"

[12].

Công chức, là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hơn cán bộ, là thuật

ngữ mang tính lịch sử và được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế

giới. Nhưng mỗi quốc gia khái niệm công chức lại mang một màu sắc riêng,

phản ánh đặc sắc riêng của tổ chức bộ máy nhà nước và nền công vụ ở mỗi

quốc gia. Mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi nền công vụ và chế độ chính sách

ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà khái niệm công chức được hiểu theo nghĩa

khác nhau.

Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung

năm 2019 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,

bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong

cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội

ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội

nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân

quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải

là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công

an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37].

Là một bộ phận hợp thành của cán bộ, công chức, Kiểm sát viên

VKSND là khái niệm được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên năm

2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến

nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND

năm 2014 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định

của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các

11

hoạt động tư pháp [38].

Đồng thời, căn cứ Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy

định những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt

Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên

chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương

của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong

các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4].

Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND là người làm việc trong

hệ thống VKSND các cấp, nằm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách

nhà nước.

Đối với VKSND tối cao, gồm: Các Phó Viện trưởng VKSND tối cao;

kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban

và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao.

Đối với VKSND cấp cao, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm

sát viên, kiểm tra viên, người làm việc trong văn phòng, Viện nghiệp vụ

thuộc VKSND cấp cao.

Đối với VKSND cấp tỉnh, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng; kiểm

sát viên, kiểm tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc

VKSND cấp tỉnh.

Đối với VKSND cấp huyện, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng;

kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện.

Qua phân tích các quy định trên đây, có thể khái quát: Kiểm sát viên

VKSND là công dân Việt Nam, được tuyển dụng vào ngạch công chức của

VKSND, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ

nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

12

1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận trong bộ máy cơ quan nhà

nước. Kiểm sát viên VKSND là những người được bổ nhiệm thực hiện

nhiệm vụ của VKSND theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và Viện trưởng VKSND. Kiểm

sát viên là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Do đó,

hoạt động của Kiểm sát viên trước hết nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của

cán bộ, công chức nhà nước.

Về vị trí: VKSND là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, Kiểm sát

viên VKSND là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vấn đề này

được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.

Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp.

Về tổ chức, quyền hạn: VKSND là một hệ thống cơ quan trong bộ

máy nhà nước, gồm có bốn cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND

cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự được phân cấp đảm

nhiệm chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND. Ở

mỗi cấp, VKSND được phân bổ số lượng Kiểm sát viên theo ngạch. Có

Kiểm sát viên được bổ nhiệm chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; một số Kiểm sát viên vừa được bổ nhiệm để

thực hiện chức năng trên của Kiểm sát viên, vừa giữ chức danh quản lý theo

nhiệm kỳ.

Về hoạt động: VKSND thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công tố là hoạt động của

VKSND để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội,

được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

13

khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình

sự; kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ pháp luật

trong hoạt động tư pháp.

Kiểm sát viên VKSND có các đặc điểm cụ thể sau:

Kiểm sát viên là công chức ngành kiểm sát, là một chức danh pháp lý

được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công

tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với đặc thù là người thực thi pháp luật và

thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt

động tư pháp, hoạt động của Kiểm sát viên nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo

đảm pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và

thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.

Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tiêu chuẩn: Là công dân Việt

Nam; về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phải tuyệt đối trung thành

với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; có tinh thần đấu tranh không khoan

nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm mục tiêu bảo vệ Hiến

pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; Kiểm sát viên VKSND phải

không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đối với cán bộ ngành Kiêm sát “Công minh, chính trực, khách quan,

thận trọng, khiêm tốn”; có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nguyên tắc tổ

chức của VKSND. Với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp và pháp luật

quy định, Kiểm sát viên là những người trực tiếp thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của VKSND nên có điều kiện gần dân, thông qua thực hiện nhiệm

vụ dễ làm dân tin, dân mến. Từ đó tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân

dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Cùng với

sự phát triển của đất nước, Kiểm sát viên VKSND là lực lượng quan trọng,

tiên phong góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, trên

14

thực tế cơ chế để đảm bảo thực thi quyền của VKSND nói chung và Kiểm

sát viên VKSND còn chưa đảm bảo, chế độ chính sách đối với Kiểm sát

viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Nên, còn không ít Kiểm sát

viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc, chưa tâm huyết với nhiệm vụ được

giao.

Ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, Kiểm sát viên VKSND

phải bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Theo quy định

tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND: Kiểm sát viên phải có trình độ cử nhân

Luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệm vụ kiểm sát. Xuất phát từ yêu cầu

hiện nay, đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải “Tinh thông về pháp luật”, nắm

vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước

quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành. Nhất là các quy định pháp luật

trong lĩnh vực công tác được giao để thực hiện chức năng hiệu quả. Đồng

thời góp phần nâng cao tính đúng đắn của việc áp dụng pháp luật của các cơ

quan tư pháp.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn có các kỹ năng đặc thù như: kỹ năng hỏi;

kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng phân loại và giải quyết vấn đề một cách

quyết đoán; kỹ năng thu thập, phân tích thông tin và tổng hợp báo cáo; kỹ

năng tranh tụng tại phiên tòa, thuyết phục, hùng biện trước đám đông. Các

kỹ năng đó được hình thành và hoàn thiện từ thực tiễn công tác. Với tính

chất và yêu cầu công việc được giao, Kiểm sát viên phải tham gia quan hệ

pháp luật với nhiều chủ thể khác nhau: Bị can, bị cáo, các đương sự, Điều

tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên… nên tính chủ động, phối hợp với các

ban ngành, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là một trong những đòi

hỏi để Kiểm sát viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời hình thành nhiều

kỹ năng nghề nghiệp đặc thù.

Xuất pháp từ nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành

15

Kiểm sát nhân dân, khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên tuân theo pháp

luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân cấp mình. Đồng thời chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện

trưởng VKSND tối cao về hành vi, quyết định của mình trong việc thực

hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối

tượng công chức nhà nước khác.

Kiểm sát viên là công chức nhà nước, làm việc trong bộ máy nhà

nước theo định biên, các chế độ làm việc, tuổi nghỉ hưu giống công chức

nhà nước khác nhưng chức danh Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý,

được thi tuyển và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (trước đây mỗi nhiệm kỳ Kiểm

sát viên là 05 năm, hiện nay tăng lên 10 năm trong trường hợp bổ nhiệm

lại), nếu hết nhiệm kỳ không được bổ nhiệm lại thì không còn giữ chức danh

Kiểm sát viên nữa. Về quyền lợi, vì là một chức danh pháp lý nên Kiểm sát

viên được hưởng phụ cấp. Đồng thời, nghĩa vụ, trách nhiệm cao, phải chịu

trách nhiệm pháp lý nặng nề nếu để xảy ra oan sai, thậm chí phải bồi thường

hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên phải làm việc với áp

lực công việc lớn nhưng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, dẫn đến một bộ

phận không nhỏ Kiểm sát viên không tâm huyết với nghề, không giành thời

gian nâng cao năng lực chuyên môn, do đó chưa nắm vững các quy định

pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm.

1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là một thiết chế Hiến

định được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, có chức năng

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ

Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ

16

thống cơ quan VKSND gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND

cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao

là cơ quan cao nhất của VKSND, có nhiệm vụ của VKSND là thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngoài ra còn có chức

năng quản lý chung đối với VKSND các cấp; VKSND cấp cao thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh

và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp trong phạm vi địa phương mình. Đối với các trường hợp theo quy định

thì VKSND cấp trên thực hành quyền công tố đối với những vụ án thuộc

thẩm quyền của VKSND cấp dưới. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội.

1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Kiểm sát viên là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vì

vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vừa được quy định trong các văn

bản pháp lý riêng đối với cán bộ, công chức của VKSND, vừa được quy

định trong các văn bản về cán bộ, công chức nhà nước nói chung. Do đó,

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản

pháp luật khác nhau như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các nghị

định… Là lĩnh vực khoa học pháp lý rộng, mang tính liên ngành. Trong đó,

Luật cán bộ, công chức và Luật tổ chức VKSND là hai văn bản chủ yếu, với

ý nghĩa là những văn bản quy định chung.

Hiến pháp là đạo luật khung, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để

làm hình thành Luật tổ chức VKSND và pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND. Hiến pháp điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất

17

trong một quốc gia, đặc biệt là các mối quan hệ liên quan tới cách thức tổ

chức quyền lực nhà nước, cách thức vận hành của các cơ quan nhà nước,

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của công chức trong bộ máy nhà nước.

Các quy định nói chung và quy định về cán bộ, công chức nói riêng trong

Hiến pháp là cơ sở định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật

về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng.

Luật cán bộ, công chức là văn bản pháp luật quy định một cách tổng

hợp mọi mặt liên quan đến cán bộ, công chức dưới góc độ đời sống công vụ,

gồm: phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ; các quy tắc chung về tuyển

dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... của cán

bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND là một trong số đó.

Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức

VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn

bản trực tiếp, cơ bản và quan trọng nhất quy định về cơ cấu tổ chức của

VKSND và Kiểm sát viên VKSND. Đối với những quy định về Kiểm sát

viên VKSND, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định các nội dung cụ thể

của Kiểm sát viên như: tuyển dụng, bổ niệm, các ngạch Kiểm sát viên, chế

độ sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường, bồi

hoàn, trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND…

Tóm lại, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một nhóm những văn

bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ,

chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND từ tiêu chuẩn bổ nhiệm,

trách nhiệm, quản lý… và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản này do

cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

tuyển dụng, sử dụng, thực hiện nhiệm vụ và chế độ chính sách của đội ngũ

Kiểm sát viên.

18

Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm: Pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chứa đựng các quy định liên quan

đến Kiểm sát viên như: các nguyên tắc của chế độ công vụ, điều chỉnh các

quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức danh công chức của VKSND;

các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND trong quá trình thực thi

nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách Kiểm sát viên VKSND.

1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân

Như đã nêu ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định

ở nhiều văn bản khác nhau, là một vấn đề nghiên cứu rộng lớn. Nghiên cứu

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là nghiên cứu một cách tổng thể tất cả

các quy định về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ Luật Hiến pháp - Luật

Hành chính, dựa vào các quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND, trên cơ sở thực tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung

của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau:

- Địa vị pháp lý của chức danh Kiểm sát viên, Kiểm sát viên có phải

là cán bộ, công chức và có được điều chỉnh bởi Luật cán bộ, công chức

không và nằm ở đâu trong nền công vụ nước ta.

- Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.

- Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên.

- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.

- Chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên.

Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, có thể thấy, hiện

nay có hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm sát viên là: Thứ

nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát viên, là những

19

quy định chung nhất về Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, bao gồm các

quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của

Kiểm sát viên khi thực thi công vụ; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý

(hành chính), chế độ độ đãi ngộ, sử dụng đối với Kiểm sát viên như: tuyển

chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đào tạo, chế độ đãi ngộ, luân chuyển, điều

động, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cách chức, trách nhiệm khi thực thi

công vụ. Luận văn chủ yếu tập trung vào một số nội dung về: nhiệm vụ,

quyền hạn, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhhiệm, cách

chức Kiểm sát viên; mối quan hệ công vụ với các cơ quan, các thủ thể tham

gia tố tụng có liên quan như: Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và

mối quan hệ công vụ của Kiểm sát viên với Viện trưởng, Phó Viện trưởng

VKSND trong quá trình thực thi công vụ.

1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận của pháp luật nói

chung. Vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và vận hành bộ máy nhà

nước là vấn đề được tất cả các quốc gia ghi nhận. Ở nước ta, vai trò của

pháp luật được thể hiện rõ ràng nhất ở mục tiêu của Đảng là xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật, nhà nước của dân,

do dân, vì dân; quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà

nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan

trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Muốn xây

dựng nhà nước pháp quyền, đòi hỏi pháp luật phải là công cụ hữu hiệu của

nhà nước, để pháp luật phát huy được vai trò của mình, trước hết phải xây

dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện, trong đó có pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND. Do đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây dựng NNPQ

XHCN. Đồng thời là bức tranh phản ánh tính đúng đắn của đường lối, chính

20

sách của Đảng, cụ thể như sau:

Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thể hiện quan điểm của

Đảng ta về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.

Đồng thời, là phương tiện, công cụ để thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm,

chính sách của Đảng ta vào thực tiễn. Quan điểm, chính sách của Đảng

mang tính định hướng, chỉ đạo, pháp luật phải quy định chi tiết cụ thể từ

quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ, cơ chế thực thi và chế độ chính sách có liên

quan để các đường lối, chính sách của Đảng được đưa vào thực tiễn. Ngược

lại, thực tiễn chính là nơi kiểm nghiệm hiệu quả nhất tính đúng đắn, phù hợp

của chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm chủ trương, đường lối, định

hướng về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên. Từ đó, sẽ tổng kết thực tiễn để

điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp.

Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng

trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Nhà nước muốn quản lý xã

hội phải thông qua bộ máy hành chính - nhân sự. Vì vậy, xây dựng những

quy phạm pháp luật để quản lý nền hành chính - nhân sự là mối quan tâm

hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào. Một bộ máy hành chính - nhân sự hoạt

động hiệu quả sẽ tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước, thúc đẩy kinh

tế - xã hội phát triển; một hệ thống pháp luật đồng bộ, có chất lượng sẽ giúp

cho việc quản lý, vận hành bộ máy nhà nước đạt hiệu quả cao. Do đó, hoạt

động công vụ của Kiểm sát viên VKSND có hiệu quả hay không phụ thuộc

rất lớn vào chất lượng hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.

Các văn bản pháp luật đó quy định theo các nhóm: Quy định về phạm

vi, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trên cơ sở các chức

vụ hành chính được nhà nước trao cho, nhằm tạo cơ sở pháp lý để Kiểm sát

viên thực thi công vụ, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Việc

21

quy định nhiệm vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm

và không được làm trong các văn bản quy phạm pháp luật vừa khẳng định

địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, giúp cho Kiểm sát

viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp

luật. Đồng thời, tránh việc lạm quyền trong thực thi công vụ, là biện pháp

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm

bảo các mệnh lệnh, quyết định của VKSND đều đúng quy định của pháp

luật; quy định về chế độ chính sách gồm các quy định về tuyển dụng, bổ

nhiệm, khen thưởng, kỷ luật… đảm bảo các chế độ, chính sách đối với Kiểm

sát viên được thực hiện đầy đủ, công bằng trên thực tiễn.

Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện pháp lý cho

đội ngũ Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, là cơ sở pháp lý

để góp phần thực hiện nhiệm vụ của VKSND là bảo vệ lợi ích nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. VKSND

là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nước ta. Các hoạt động của Kiểm

sát viên VKSND là hoạt động công vụ mang tính quyền lực nhà nước, nhằm

thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát viên VKSND là những người được nhà

nước lựa chọn thay mặt nhà nước để thi hành công vụ. Do đó, hoạt động của

Kiểm sát viên là hoạt động thay mặt nhà nước, chịu sự điều chỉnh bởi các

văn bản pháp luật quản lý hành chính nhân sự.

Do đó, trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước:

Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật quy định về quyền, nghĩa vụ,

trách nhiệm, những việc Kiểm sát viên không được làm, cơ chế miễn nhiệm,

bổ nhiệm, kỷ luật… nhằm tạo hành lang pháp lý cho Kiểm sát viên VKSND

hoàn thành chức trách, nhiệm vụ do nhà nước giao phó. Ngược lại, những

quy định đó cũng là sự ràng buộc để Kiểm sát viên VKSND thực hiện đúng

22

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình để bảo vệ danh dự, uy tín và lợi

ích của nhà nước, của quốc gia. Về nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên

với nhà nước, pháp luật có vai trò là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm của

Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước. Các văn bản pháp luật quy định

Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành với tổ quốc, có trách nhiệm

phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, Kiểm sát viên là công chức nhà nước

nên trước hết phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phải bảo đảm các

mệnh lệnh, quyết định của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, góp phần

bảo vệ lợi ích của nhà nước.

Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này,

pháp luật xác định Kiểm sát viên có nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân;

nhân dân là đối tượng bị tác động bởi những hành vi, quyết định của Kiểm

sát viên VKSND trong quá trình thực thi công vụ. Do đó, những quy định về

địa vị pháp lý, những việc không được làm, khen thưởng và kỷ luật, trách

nhiệm bồi thường, miễn nhiệm… là ràng buộc pháp lý quan trọng để Kiểm

sát viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình, với mục đích là phục

vụ nhân dân. Các quy định của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm

đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của VKSND (cơ quan đại diện cho nhà

nước) được thi hành nghiêm chỉnh, hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm, thờ

ơ, vô cảm, tham nhũng, nhận hối lộ làm không đúng chức trách, nhiệm vụ.

Từ đó, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc dù Kiểm sát

viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi hành nhiệm

vụ, công vụ nhưng về bản chất, việc nhà nước quy định cho Kiểm sát viên

VKSND có những quyền năng pháp lý đó là để nhằm mục đích bảo vệ

quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do

dân, vì dân, cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, có nghĩa vụ phục

vụ nhân dân. Do đó, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân là mối

23

quan hệ giữa một bên là người phục vụ và một bên là người được phục vụ.

Nhằm mục đích bảo vệ quyền con người, quyền công dân trên cơ sở thượng

tôn pháp luật.

Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân, thì yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật là yêu cầu tất yếu. Trong đó, pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, VKSND là cơ quan thực thi

pháp luật, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, Kiểm sát viên VKSND là lực

lượng chủ yếu, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của VKSND. Do đó, pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện, hiệu quả sẽ nâng cao vai trò của pháp

luật, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND. Từ đó, góp phần

xây dựng một xã hội thượng tôn pháp luật. Ngoài ra, pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về xây dựng

đội ngũ Kiểm sát viên VKSND trong tình hình mới, là phương tiện quan

trọng để nhà nước thực hiện hoạt động quản lý đối với cơ quan nhà nước là

VKSND. Một hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND hoàn thiện sẽ

giúp phát huy tốt chức năng của VKSND nói riêng và hiệu quả quản lý nhà

nước nói chung nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân

1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý

Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là kim chỉ nam trong

xây dựng nhà nước Việt Nam hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân

chủ, công bằng, văn minh. Điều đó đã được xác định rõ ràng trong các văn

kiện quan trọng nhất của Đảng qua các thời kỳ và ghi nhận trang trọng trong

Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

24

Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,

vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm

chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh

giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [12].

Xây dựng NNPQ là nhiệm vụ quan trọng, điều này đã được kiểm

nghiệm và khẳng định từ thực tế lịch sử. Pháp luật đóng vai trò không thể

thiếu trong đời sống xã hội, nó tác động toàn diện đến tất cả các mặt đời

sống xã hội, một hệ thống pháp luật đồng bộ, hiệu quả sẽ thúc đẩy quá trình

hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác quốc tế là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện

bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, góp

phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội. Trong khi đó, hệ thống

pháp luật của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, nhiều quy định

vòn chồng chéo, chưa bắt kịp sự phát triển của xã hội, thiếu các quy phạm

pháp luật điều chỉnh về quan hệ thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế,

về hành chính, công vụ, về cơ chế giám sát, vận hành hoạt động thực thi

công vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước và của cán bộ, công chức…

Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn

diện trong điều kiện xây dựng NNPQ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính

trị, xã hội ở nước ta và phục vụ hiệu quả cho việc mở rộng quan hệ hợp tác

quốc tế. Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây

dựng NNPQ cần phải đáp ứng được những yêu tố cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND đạt chất lượng. Trong điều kiện xây dựng NNPQ,

điều cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật,

đảm bảo Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối cao trong đời sống xã hội.

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được xây dựng và hoàn thiện trên

25

cơ sở kế thừa những thành tựu lập pháp trước đây. Đồng thời, phải phù hợp

với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta trên cơ sở kế thừa các thành tựu

khoa học pháp lý hiện đại vào công tác lập pháp, lập quy. Các quy phạm

pháp luật nói chung và quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói

riêng trong NNPQ XHCN không thể là sản phẩm chủ quan của nhà nước và

các nhà làm luật. Ngược lại, trong NNPQ xã hội chủ nghĩa, pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với bản chất khách quan của các quan

hệ xã hội, ý chí của toàn dân và các nguyên tắc pháp luật XHCN và phải phù

hợp với nguyên tắc tổ chức, hoạt động của VKSND.

Tuy nhiên, để xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói

chung và văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND có chất

lượng, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

Trước hết, Đảng ta phải xây dựng được đường lối, chính sách phản ánh đầy

đủ và khách quan quy luật tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội cần

phải được điều chỉnh bằng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao

năng lực hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của Chính

phủ và các cơ quan nhà nước khác; pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải

được thông qua theo trình tự thủ tục pháp lý chặt chẽ, dân chủ và khoa học.

Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa

phải được sắp xếp theo một thứ bậc chặt chẽ nhất. Trong đó, Hiến pháp là

đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất [43]. Các quy định của Hiến pháp là cơ

sở pháp lý, là căn cứ cho tất cả các văn bản pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND. Quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải tuân

thủ Hiến pháp cả về nội dung lẫn hình thức, cả thủ tục ban hành lẫn phạm vi

hiệu lực. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm tính thống nhất

26

với pháp luật về cán bộ, công chức nhà nước nói chung và không được trái,

không được mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp.

Thứ ba, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND phải tuân thủ quy trình lập pháp, đảm bảo: công

khai, khách quan, dân chủ, phải đảm bảo tính khoa học và chặt chẽ. Điều

này đòi hỏi trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND chúng ta phải xác định đúng đối tượng và phạm vi

điều chỉnh, bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ; mức độ điều chỉnh của các

văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với

từng lĩnh vực quan hệ xã hội, tránh tạo ra sự vênh nhau giữa các mức độ và

phạm vi điều chỉnh; bảo đảm một thứ tự ưu tiên hợp lý và sự cụ thể hóa kịp

thời bằng các văn bản hướng dẫn. Như vậy, chúng ta mới tạo ra được một cơ

chế đủ sức huy động cao nhất là các sáng kiến lập pháp, lập quy của nhân

dân, của các cơ quan Đảng, Nhà nước và bảo đảm tính khả thi của các quy

định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, tạo ra khả năng phối hợp một cách

đồng bộ các cơ chế, chính sách và tổ chức để thực thi, đưa pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND vào cuộc sống.

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ xã hội chủ nghĩa

phải là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản

Việt Nam về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND

và cải cách chế độ công vụ. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải thể

hiện bản chất dân chủ, giá trị công bằng, bình đẳng, phù hợp với hiện thực

khách quan và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Không thể xây dựng và

hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND một cách tùy tiện. Tình trạng

ban hành hoặc thay đổi quá nhanh và thiếu tính khả thi các văn bản quy

phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND của các Bộ, ngành và địa phương

sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào những giá trị công bằng và khả

27

năng điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong

việc xây dựng NNPQ là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật

nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói riêng, đặt công việc đó

trên một nền tảng khoa học.

Để thực hiện được những yêu cầu nhiệm vụ trên đây, trước hết cần

phải có một chiến lược xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thật sự

khoa học, tiên tiến, phù hợp với thực tiễn điều kiện Việt Nam và theo kịp xu

thế của quốc tế; nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, lập quy và chất

lượng của hoạt động lập pháp, lập quy.

1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có

sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong

tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là nguyên tắc quan trọng trong

xây dựng NNPQ, các cơ quan nhà nước ở địa phương chịu sự chỉ đạo tập

trung, thống nhất từ trung ương, có sự phân công, phân cấp rõ ràng giữa các

cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đây chính là bước phát triển trong nhận

thức của Đảng ta tiếp thu những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền

trong xây dựng NNPQ ở nước ta. Trong điều kiện không có đối trọng và

kiềm chế lẫn nhau giữa các quyền lực như ở các nhà nước theo nguyên tắc

phân quyền thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt

động nhà nước là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu ở nước ta và vì thế

đẩy mạnh xây dựng NNPQ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước trước hết phải

là hoàn thiện cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, kiện toàn các

cơ quan và các thiết chế giám sát. Trong cơ chế giám sát đó thì VKSND là

một thành tố, là thiết chế giám sát có tính chuyên nghiệp cần thiết cho Quốc

28

hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình. Ở góc độ khác phải thấy

rằng, Chính phủ, VKSND tối cao, Toà án nhân dân tối cao không chỉ là đối

tượng giám sát tối cao của Quốc hội mà các cơ quan này cũng có vai trò

nhất định trong phản biện quyền lực của Quốc hội thông qua những ý kiến

phản hồi về tính thiếu khả thi, chồng chéo không thống nhất của hệ thống

pháp luật, những hạn chế của các đạo luật cụ thể do Quốc hội ban hành. Đây

chính là quan hệ biện chứng về kiểm soát quyền lực trong điều kiện cụ thể

của nước ta.

Với ý nghĩa hết sức quan trọng của cơ cấu, tổ chức bộ máy trong việc

thực hiện pháp luật Kiểm sát viên có hiệu quả. Do đó, xác định nhiệm vụ rồi

mới thành lập tổ chức, có tổ chức mới sắp xếp, bố trí công tác, cán bộ. Mỗi

Viện kiểm sát và cán bộ, Kiểm sát viên các cấp đều phải được tổ chức, xác

định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng. Các khâu công tác, cũng như

việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải trên cơ sở yêu cầu và

nội dung của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng tổ chức trong

sạch, vững mạnh.

VKSND mặc dù có những thay đổi nhất định nhưng về tổng thể luôn

là một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động

đặc thù, có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Hệ thống VKSND bao

gồm: VKSND tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương (VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh và tương đương (VKSND cấp huyện); Viện kiểm sát quân sự các

cấp.

Tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn

phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tương đương; các cơ sở đào

tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác;

Viện kiểm sát quân sự trung ương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao

29

gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các viện và tương đương. Tổ chức bộ

máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các phòng

và tương đương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp huyện gồm có văn phòng

và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ

phận công tác và bộ máy giúp việc [38].

Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự trung

ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân

sự khu vực. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có:

Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các phòng và tương đương.

Tổ chức bộ máy của VKS quân sự quân khu và tương đương gồm có: Ủy

ban kiểm sát; các ban và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy của VKS quân

sự khu vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc [38].

Ngoài ra, các quy định về thể chế và cơ chế vận hành cụ thể của

VKSND vẫn bảo đảm nguyên tắc chung trong xây dựng NNPQ. VKSND

nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, có vai trò quan trọng trong

xây dựng NNPQ, bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự

do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức

Ngày 26/7/1960, ngành Kiểm sát được thành lập. Dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và trưởng

thành, ngành Kiểm sát đã từng bước củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm

sát, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 quy định: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động

tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ. Tăng cường

công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ

30

chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố

trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí

cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện

trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp” [8].

Công tác tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên, tạo nguồn, có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định đến chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên.

Do đó, việc tuyển dụng cần thông báo công khai rộng rãi trên các phương

tiện thông tin đại chúng, việc thành lập và hoạt động của Hội đồng tuyển

dụng công chức, các Ban giúp việc cho Hội đồng tuyển dụng công chức đều

được bảo đảm đúng quy trình, thủ tục theo quy định của VKSND tối cao,

tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển, qua đó, có điều kiện sàng lọc, tuyển

dụng được những cán bộ có tài, có đức. Cán bộ Kiểm sát viên phải tuyệt đối

trung thành với Tổ quốc, phụng sự tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; phải

kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; phải

đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật;

không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát “Công minh, chính trực,

khách quan, thận trọng, khiêm tốn” [38], [44].

1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính

Điều kiện về cơ sở vật chất luôn là điều kiện quan trọng đối với bất kỳ

lĩnh vực hoạt động nào của đời sống xã hội. Xây dựng đội ngũ cán bộ Kiểm

sát viên có chất lượng thì yếu tố cơ sở, vật chất, nguồn lực tài chính, chế độ

chính sách là yếu tố không thể thiếu. Yếu tố về cơ sở vật chất, nguồn lực tài

chính đảm bảo sẽ tạo điều kiện để Kiểm sát viên VKSND có điều kiện thuận

lợi hơn để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng thời, phát huy và khích lệ tính chủ

động, tích cực, tính tự giác, trách nhiệm cá nhân. Đối với pháp luật quy định

về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính đối với Kiểm sát viên VKSND cần

31

tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm

không có kỳ hạn; có chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp, kịp thời.

Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn lực tài

chính sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát huy tài năng sáng tạo của

đội ngũ Kiểm sát viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Đầu tư nguồn lực tài chính đầy đủ và phù hợp sẽ góp phần xây dựng

được đội ngũ Kiểm sát viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Theo

đó,cần đầu tư kinh phí về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi học, ưu tiên đào tạo

cán bộ trẻ, trong diện quy hoạch... Khi cử cán bộ đi học, hỗ trợ tiền ăn, ở,

học phí, đi lại, tiền mua giáo trình, tài liệu... theo từng đối tượng phù hợp,

đảm bảo các điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập nhằm nâng cao trình

độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học...

Hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là hoạt

động đặc biệt, đòi hỏi cường độ lao động cao, sự đầu tư về trí tuệ lớn, trách

nhiệm pháp lý nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Thực tế cho

thấy, đại đa số cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn do đồng lương

thấp. Việc đổi mới chính sách về tiền lương đối với đội ngũ cán bộ các cơ

quan tư pháp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng là cần thiết. Chế độ đãi ngộ,

chính sách về tiền lương, phụ cấp đảm bảo sẽ tạo điều kiện để Kiểm sát viên

giảm bớt khó khăn, yên tâm nhiệt huyết hơn với công việc.

Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác thi đua khen thưởng theo hướng

thực chất hơn, tránh cào bằng, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời

dựa vào kết quả hoàn thành niệm vụ, khen thưởng cả về vật chất và tinh thần

đối với những Kiểm sát viên có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác.

32

Kết luận chương 1

Bằng phương pháp tiếp cận có khoa học để xác định những nội dung

quan trọng liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp

ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn đã tập

trung phân tích các khái niệm cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên

VKSND nói riêng, chỉ ra sự khác nhau giữa cán bộ và công chức cũng như

đặc điểm và vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND.

Dưới góc độ luật học, luận văn đã luận giải và xây dựng khái niệm

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nhận diện, phân tích các đặc điểm của

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, xuất phát từ nhu cầu của quản lý và đổi

mới, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.

Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn

một mặt phân tích để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND, mặt khác chỉ rõ yêu cầu của NNPQ xã hội chủ nghĩa đối

với việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở những

căn cứ và tiêu chí khoa học.

Qua việc phân tích một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề nêu

trên, có thể khẳng định hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp

ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay hoàn toàn có cơ sở

lý luận khoa học và là yêu cầu khách quan và tất yếu.

33

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

Ở TỈNH THANH HÓA

2.1. Đặc điểm về địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Thanh Hóa

Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ, diện tích 11.129,48 km2,

là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp

giáp với các tỉnh và nước bạn như sau: Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La,

Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; Phía Nam: giáp tỉnh

Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km; Phía Đông: giáp biển Đông với

chiều dài đường bờ biển 102 km; Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước

CHDCND Lào với đường biên giới dài 192 km.

Thanh Hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh

phía Nam nước ta. Trong lịch sử, Thanh Hóa từng là căn cứ địa vững chắc

chống ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.

Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt

động du lịch, khai thác cảng biển; có đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh,

đường sắt xuyên Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy

mô diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Đặc điểm về vị trí địa lý

trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn

hóa - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.

Với nền văn hoá đa dân tộc, mỗi dân tộc có đăc trưng riêng về văn hoá

phi vật thể và văn hoá vật thể là tiềm năng, lợi thế đối với du lịch; những thiết

chế văn hoá xã hội truyền thống của từng dân tộc như: thiết chế Bản Mường

của người Thái dựa trên lãnh thổ công, thiết chế lang đạo của người Mường,

thiết chế dòng họ của người H’Mông... những phong tục tập quán trong sản

34

xuất, sinh hoạt và trong tín ngưỡng, hội hè... là điểm đến hấp dẫn, thu hút

khách du lịch trong nước và quốc tế. Với các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và

dân số nêu trên, Thanh Hóa có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế, văn hóa - xã

hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế đó cũng đặt ra cho Thanh Hóa nhiều

khó khăn cho việc quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn. Đặc biệt, trong điều

kiện kinh tế - xã hội tỉnh còn nhiều khó khăn, số lượng người trong độ tuổi

lao động nhiều và ngày một tăng cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, thu

nhập bình quân đầu người còn thấp, khả năng giải quyết việc làm còn nhiều

hạn chế, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và sự thay đổi của

các mặt đời sống xã hội như: sự du nhập của văn hóa, công nghệ... càng trở

nên sâu sắc, đây là những nguyên nhân căn bản gây nguy cơ gia tăng số lượng

tội phạm. Đồng thời, những đặc điểm phức tạp của xã hội sẽ gây khó khăn

cho công tác điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội nói chung và hoạt động

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND nói riêng.

2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân

2.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát

viên

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên là vấn đề

quan trọng trong các quy phạm pháp luật quy định về Kiểm sát viên. Theo

Điều 83 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, Kiểm sát viên có các

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau:

- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát

viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.

Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp

luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố,

35

thay mặt nhà nước buộc tội người phạm tội và thực hiện các quyền như

quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khi kiểm sát hoạt động tư pháp.

Trong thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định

của Viện trưởng VKSND cấp mình và cấp trên. Đồng thời, chịu sự lãnh đạo

tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ, nếu có căn cứ cho rằng quyết định của Viện trưởng là trái

pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhận nhiệm vụ bằng văn bản,

nếu Viện trưởng vẫn quyết định thi hành thì phải có văn bản chỉ đạo, Kiểm

sát viên phải báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên và không phải chịu

trách nhiệm về hậu quả quyết định của Viện trưởng. Trường hợp này, Viện

trưởng quyết định thi hành phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước

Viện trưởng VKSND cấp trên về quyết định của mình.

Viện trưởng VKSND có trách nhiệm thực hiện các hoạt động để kiểm

tra, giám sát hoạt động của Kiểm sát viên, Nếu phát hiện vi phạm thì tùy

mức độ có quyền xử lý; có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định

trái pháp luật của Kiểm sát viên.

- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định.

- Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm

sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát

viên ở ngạch cao hơn.

- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết

luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật [38].

Bên cạnh những quy định nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm, pháp luật cũng quy định những việc Kiểm sát viên không được làm:

- Trước hết Kiểm sát viên cũng là cán bộ, công chức nên Kiểm sát

viên không được làm những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức

36

không được làm.

- Ngoài ra, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên không

được: Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc

người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không

đúng quy định của pháp luật.; can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc

hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải

quyết vụ án, vụ việc; đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan

nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có

thẩm quyền; tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác

trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định

[38].

Để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về vai trò của người

Kiểm sát viên, Điều 85 Luật tổ chức VKSND năm 2014 còn quy định việc

Tuyên thệ của Kiểm sát viên khi được bổ nhiệm

Người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ:

Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân;

Thứ hai, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm

pháp luật;

Thứ ba, kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng

xã hội;

Thứ tư, không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ

tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm

tốn”;

Thứ năm, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt

động của Viện kiểm sát nhân dân [38], [44].

2.2.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên

Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành Kiểm sát được tổ chức

37

gồm bốn cấp gồm: VKSND tối cao, cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện, ngành

Kiểm sát nhân dân hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo

trong ngành, đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao. Trong hoạt động

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng

VKSND được quy định nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện các chức năng

của VKSND. Tuy nhiên, Viện trưởng không thể tự mình thực hiệc hết các

chức năng theo quy định của pháp luật mà phải thông qua Phó viện trưởng

và đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên. Do đó, Kiểm sát viên VKSND khi thực

hiện nhiệm vụ phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKSND và trước

pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, đòi

hỏi mỗi Kiểm sát viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, nắm vững quy

đinh của pháp luật và kiến thức xã hội phục vụ nhiệm vụ. Đồng thời không

ngừng tu dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, mỗi Kiểm sát viên

VKSND phải “Giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản

lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.

Kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố là một nhiệm

vụ chính trị, là hoạt động công vụ, hoạt động của Kiểm sát viên góp phần

cùng với các cán bộ, công chức nhà nước phục vụ nhiệm vụ trọng tâm, chiến

lược mà Đảng và Nhà nước định ra trong từng thời kỳ (từng giai đoạn cách

mạng). Vì lẽ đó, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi chưa đủ, Kiểm sát

viên phải có đạo đức chính trị, phải trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã

hội, có ý thức pháp luật cao, đấu tranh không khoan nhượng với bất cứ hành

vi vi phạm pháp luật nào. Kiểm sát viên phải là người “Công minh, chính

trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn” như lời Bác Hồ dạy. Là lực lượng

chủ yếu của VKSND, những công dân được bổ nhiệm Kiểm sát viên phải

đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo pháp luật quy định, đó là những

tiêu chuẩn chung và riêng đối với Kiểm sát viên VKSND.

38

 Về tiêu chuẩn chung

Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn chung của

Kiểm sát viên tại Điều 75 như sau: “Là công dân Việt Nam trung thành với

Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm

chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh

thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử nhân luật

trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; có thời gian làm công tác

thực tiễn theo quy định của Luật này; có sức khoẻ để đảm hoàn thành nhiệm

vụ được giao” [38].

Như vậy, tiêu chuẩn chung của người được tuyển chọn bổ nhiệm làm

Kiểm sát viên gồm có tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ, thời gian công tác thực tiễn và sức khỏe đảm bảo hoàn thành

nhiệm vụ. Tiêu chuẩn này đã được đề cập tới tại Điều 53, Sắc lệnh số 13/SL

ngày 26 tháng 01 năm 1946 với quy định: “Vào ngạch thẩm phán phải có đủ

ba điều kiện chung: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông đàn bà;

có hạnh kiểm tốt; chưa can án bao giờ” (theo Sắc lệnh này thẩm phán gồm

thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội, thẩm phán buộc tội là người thực

hiện chức năng công tố), sau đó được cụ thể hơn trong luật tổ chức VKSND

các năm 1981, 1992, 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 1993, 2002 và hiện

nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014.

 Tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp

Trên cơ sở tiêu chuẩn chung trên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã

xác định tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp.

Đối với Kiểm sát viên sơ cấp, phải đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại

Điều 77 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “Người có đủ tiêu chuẩn

chungcủa Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là có thời gian làm công tác

pháp luật từ 04 năm trở lên; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát

39

hoạt động tư pháp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp

thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân

dân;nếulà sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát

viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].

Đối với Kiểm sát viên trung cấp, theo quy định tại Điều 78 Luật tổ

chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm

sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm;

có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả

năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động

tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm

sát viên trung cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của

Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ

nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].

Đối với Kiểm sát viên cao cấp, theo quy định tại Điều 79 Luật tổ chức

VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát

viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm;

có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả

năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động

tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm

sát viên cao cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của

VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm

sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].

Đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao, theo quy định tại Điều 80

Luật tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của

Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất

05 năm; có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền công tố,

kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tối cao; có năng lực giải quyết

40

những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối cao thì có thể

được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên” [38].

Như vậy, điểm mới của Luật tổ chức VKSND năm 2014 so với Pháp

lệnh Kiểm sát viên 2002 là quy định có 04 ngạch Kiểm sát viên gồm: Kiểm

sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp,

Kiểm sát viên sơ cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp tương

ứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao hiện nay và

nâng cao tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao. Về số lượng

Kiểm sát viên VKSND tối cao quy định không quá 19 người. Về nhiệm kỳ

Kiểm sát viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định Kiểm sát viên

được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại

hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm. Về cơ chế tuyển chọn Kiểm sát

viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: Áp dụng hình thức thi tuyển

vào các ngạch Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Hội đồng thi được

tổ chức ở VKSND tối cao, do Viện trưởng VKSND tối cao làm Chủ tịch,

các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Không áp dụng hình thức

thi tuyển vào ngạch đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao. Trong trường

hợp cần thiết, có thể bổ nhiệm những người đủ thời gian làm Kiểm sát viên

cấp dưới trực tiếp theo quy định của pháp luật. Quy định này, giúp VKSND

cấp trên có thể mở rộng phạm vi lựa chọn được những Kiểm sát viên cấp

dưới có năng lực thực tiễn cho VKSND cấp trên.

2.2.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và

thuyên chuyển Kiểm sát viên

 Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên

Tuyển chọn Kiểm sát viên là một nội dung quan trọng, việc lựa chọn

người có đủ tiêu chuẩn để được bổ nhiệm là Kiểm sát viên VKSND sẽ giúp

cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả và các hoạt động

41

tiếp theo như đào tạo, nâng cao năng lực sẽ thuận lợi hơn. Quy định về

tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên nhằm đạt được mục đích: tuyển chọn

được những người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên, bảo đảm tính khách

quan, công bằng hoạt động tuyển chọn. Từ đó chọn được đội ngũ Kiểm sát

viên có chất lượng, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là nhằm chuẩn hoá đội ngũ Kiểm sát

viên đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vì vậy, trong công tác tuyển chọn,

điều kiện tuyển chọn, phương thức, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ hoạt

động của Kiểm sát viên là những vấn đề cơ bản, cần quan tâm trước tiên.

Nhìn lại quy định về bổ nhiệm, tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND

thời kỳ trước cho thấy, điều kiện và quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm hiện nay

khắt khe hơn. Thời kỳ 1946 - 1959, chức danh Kiểm sát viên do cử thì từ

năm 1960 đến nay, Kiểm sát viên được tiến hành theo thủ tục bổ nhiệm.

Theo đó, người có đủ điều kiện được bổ nhiệm được tuyển chọn làm Kiểm

sát viên do người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm, riêng

đối với Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu. Theo quy định của

Pháp lệnh kiểm sát viên năm 2002, để giúp Chủ tịch nước và Viện trưởng

VKSND tối cao trong việc bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND ở mỗi cấp đều

có Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên. Theo quy định của Luật tổ chức

VKSND năm 2014 thì có những đổi mới, thể hiện:

Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao:

Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao gồm: Chủ tịch là Viện

trưởng VKSND tối cao và các uỷ viên là đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng,

Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội

luật gia Việt Nam. Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên

VKSND tối cao do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của

Viện trưởng VKSND tối cao.

42

Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị tuyển

chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao, trình bày ý kiến đề

nghị việc tuyển chọn và bổ nhiệm đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao,

theo đề nghị của Ủy ban kiểm sátVKSND tối cao, Hội đồng tuyển chọn

Kiểm sát viên VKSND tối cao làm việc theo chế độ tập thể và quyết định

của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao phải được quá nữa

tổng số ủy viên biểu quyết tán thành rồi báo cáo danh sách Kiểm sát viên

được chọn đến Viện trưởng VKSND tối cao để trình Chủ tịch nước xem xét

và quyết định bổ nhiệm.

 Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát

viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp:

Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp,

Kiểm sát viên cao cấp gồm có Chủ tịch là Viện trưởng VKSND tối cao và

các ủy viên là một Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm

sát quân sự trung ương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ

ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh sách Hội đồng thi tuyển

Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do

Viện trưởng VKSND tối cao quyết định.

Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người đề nghị thi tuyển để

bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên

cao cấp, theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao, Hội đồng thi tuyển

KSV sơ cấp, KSV trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp tổ chức các kỳ thi tuyển

Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp và

công bố danh sách những người trúng tuyển. Hội đồng báo cáo danh sách

người trúng tuyển đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên

trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp VKSND các cấp để đề nghị Viện trưởng

VKSND tối cao xem xét và quyết định bổ nhiệm.

43

Việc quy định thành phần và quy trình bổ nhiệm như trên thể hiện

tính dân chủ, khách quan, công bằng trong việc tuyển chọn người xứng đáng

thực hiện trọng trách và nhiệm vụ thay mặt nhà nước thực hiện việc buộc tội

và kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khác. Mặt khác, quy định này

cũng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng

tuyển chọn kiểm sát viên VKSND tối cao và Hội đồng thi tuyển Kiểm sát

viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Bên cạnh đó, việc tổ chức thi tuyển Kiểm sát

viên là cách phù hợp, công khai, minh bạch nhất để lựa chọn được người có

đủ điều kiện, tiêu chuẩn để bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND các cấp.

 Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp

Việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ

tịch nước quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Việc

miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên VKSND cấp cao, trung cấp, sơ

cấp do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện

trưởng VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng

VKSND cấp cao.

Trình tự, thủ tục xem xét đề nghị miễn nhiệm, cách chức chức danh

kiểm sát viên được tiến hành theo trình tự sau: Viện trưởng VKSND tối cao

báo cáo với Hội đồng tuyển chọn về hồ sơ đề nghị miễn nhiệm hoặc cách

chức đối với chức danh Kiểm sát viên và trình bày ý kiến đề nghị miễn

nhiệm, cách chức. Các thành viên trong Hội đồng căn cứ vào quy định của

pháp luật và hồ sơ đề nghị, tiến hành thảo luận, trao đổi về miễn nhiệm, cách

chức. Chủ tịch Hội đồng kết luận, các thành viên Hội đồng có mặt biểu

quyết công khai bằng hình thức giơ tay. Sau đó, Viện trưởng VKSND tối

cao làm văn bản đề nghị Chủ tịch nước quyết định miễn nhiệm hoặc cách

chức chức danh Kiểm sát viên VKSND tối cao; Viện trưởng VKSND cấp

tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp cao làm văn bản đề nghị Viện trưởng

44

VKSND tối cao miễn nhiệm hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên

VKSND cấp mình.

 Thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên

Việc thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên các cấp được pháp

luật quy định nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý

theo địa giới hành chính hoặc theo nhiệm vụ công tác của địa phương. Do

đó, thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên phải đáp ứng được yêu

cầu của công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố

nhà nước, đồng thời phải đảm bảo đời sống của Kiểm sát viên. Việc điều

động, biệt phái Kiểm sát viên từ VKSND địa phương này tới VKSND cùng

cấp ở địa phương khác do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định.

2.2.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố

tụng khác

 Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Cơ quan điều tra.

Cơ quan điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện các biện pháp

nghiệp vụ thông qua các Điều tra viên để xác định sự thật của vụ việc đã xảy

ra một cách khách quan, chính xác và toàn diện.

Trong hệ thống tư pháp, điều tra và công tố luôn là mắt xích quan

trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác kịp thời, xử lý

nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan

người vô tội. Hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên có quan hệ mật thiết với

cơ quan điều tra, đặc biệt trong tư pháp hình sự. Pháp luật đã quy định mối

quan hệ chặt chẽ giữa các khâu phát hiện, điều tra tội phạm nhằm mục đích

truy tố chính xác tội phạm và người phạm tội ra trước tòa.

Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên thực

hiện quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra

khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố theo ủy quyền của Viện trưởng

45

VKSND cấp mình. Kiểm sát viên có quyền yêu cầu, tham gia hoặc trực tiếp

tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định. Khi kiểm sát việc điều tra

của cơ quan điều tra, đảm bảo việc điều tra đúng pháp luật, Kiểm sát viên

thực hiện kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập

hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra, có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khắc

phục vi phạm trong quá trình điều tra, cung cấp tài liệu khi cần và khi điều

tra viên vi phạm pháp luật. Đồng thời báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát

cấp mình khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra để Viện trưởng có quyết

định kịp thời, đảm bảo điều tra đúng tiến độ.

Như vậy, Kiểm sát viên là người trực tiếp kiểm tra giám sát cơ quan

điều tra trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện

các yêu cầu và quyết định của Kiểm sát viên (trường hợp không đồng ý, Cơ

quan điều tra có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên). Để hoạt động

điều tra của cơ quan điều tra đảm bảo tính khách quan, toàn diện và chính

xác, rất cần hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên VKSND - người thực hiện

chức năng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

 Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Tòa án.

Tòa án là cơ quan tư pháp có chức năng xét xử. Kiểm sát viên thực

hiện chức năng công tố tại Tòa án là chức năng riêng có của VKSND theo

ủy quyền của Viện trưởng, tại phiên tòa xét xử hình sự, Kiểm sát viên đọc

cáo trạng, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát và tham gia tranh tụng.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên

tại phiên tòa là điều kiện bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt mà không có

Kiểm sát viên dự khuyết thay thế thì phải hoãn phiên tòa. Đối với phiên tòa

dân sự, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, sự có mặt của Kiểm sát

viên là cần thiết, nếu vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Tại phiên toà

hình sự, chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên đối đáp những ý

46

kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham gia tố tụng

khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với những

quy định này, Tòa án đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm

sát viên tại phiên tòa, đảm bảo tất cả mọi vấn đề trong vụ án đều được Kiểm

sát viên lập luận đầy đủ, thuyết phục khi bảo vệ quan điểm của VKSND.

Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn thực

hiện kiểm sát việc xét xử của tòa án, đảm bảo tòa án xét xử đúng người,

đúng tội. Khác với mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Kiểm sát viên mối

quan hệ này thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử. Giai đoạn này, Tòa án

thực hiện chức năng xét xử còn Kiểm sát viên vừa thực hiện chức năng công

tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhằm mục đích

cuối cùng là xác định sự thật của vụ án để xét xử khách quan, đúng pháp

luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội

chủ nghĩa.

 Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan thi hành án.

Trong chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có

công tác kiểm sát thi hành án và Luật thi hành án cũng quy định VKSND

kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp

hành viên... Có nghĩa giữa cơ quan thi hành án và Kiểm sát viên tồn tại một

quan hệ chặt chẽ. Bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải

được thi hành, và cơ quan thi hành án là người chịu trách nhiệm chính. Việc

bản án, quyết định của tòa án được thi hành trên thực tế mới đảm bảo được

tính giáo dục phòng ngừa đối với cộng đồng, mới khẳng định được sự

nghiêm minh của pháp luật. Thời điểm án được thi hành cũng là thời điểm

Kiểm sát viên hoàn thành nhiệm vụ được giao đối với một vụ án cụ thể.

Thực hiện công tác kiểm sát thi hành án Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ

quan thi hành án ra quyết định thi hành án đúng quy định, tự kiểm tra việc

47

thi hành, trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án cùng

cấp và cấp dưới, quyền kháng nghị và yêu cầu khi có căn cứ đối với cơ quan

thi hành án... Pháp luật hiện hành quy định cơ quan thi hành án không phải

là cơ quan độc lập mà chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà

nước, và sự quản lý về chuyên môn của Cục Thi hành án trực thuộc Bộ tư

pháp, điều này đã ảnh hưởng không ít tới chất lượng thi hành án, vấn đề này

sẽ được sửa đổi khi luật thi hành án ra đời. Khi cơ quan thi hành án là một

cơ quan độc lập, mối quan hệ với Kiểm sát viên sẽ có sự thay đổi.

 Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Luật sư.

Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, được Bộ tư pháp công nhận

quyền tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác (khi có

đủ tiêu chuẩn theo luật định) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân tổ chức, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Khác với ba mối quan hệ trên, mối quan hệ giữa Luật sư và Kiểm sát

viên, nhìn từ góc độ luật tố tụng hình sự, là quan hệ giữa hai chức danh tư

pháp có những khác biệt cơ bản. Nếu như Kiểm sát viên đại diện cho quyền

lực nhà nước, thực hiện quyền công tố theo ủy quyền của Viện trưởng, tức

là người buộc tội, thì luật sư là người đại diện cho người bị Kiểm sát viên

truy tố (thân chủ), là người “gỡ tội”, bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên

tòa. Mối quan hệ này thể hiện khá rõ trong quá trình tranh luận tại phiên tòa.

Quan điểm của Kiểm sát viên và của Luật sư được thể hiện sẽ giúp Hội đồng

xét xử có cái nhìn toàn diện, khách quan chính xác. Sự có mặt của luật sư tại

các buổi hỏi cung sẽ khắc phục được những vi phạm tố tụng, hạn chế tình

trạng phản cung của bị cáo tại phiên tòa, có những vụ án nhiều tình tiết mới

được luật sư phát hiện và được điều tra bổ sung góp phần rất lớn vào việc

xét xử đúng người đúng tội của tòa án. Những hoạt động này của Luật sư đã

hỗ trợ, bổ sung cho hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên tại tòa, phát huy

48

được khả năng của mình khi thực hiện quyền công tố.

Như vậy, Luật sư và Kiểm sát viên có mối quan hệ hỗ trợ bổ sung

trong việc đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, trong bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân và bảo vệ pháp chế. Chính điều này đã và

đang góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, Luật sư tinh

thông nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, đáp ứng yêu cầu của

công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay

Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số

08-NQ/TW ngày 02 tháng 09 năm 2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24

tháng 5 năm 2005 và Nghị quyết số 49-/NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005

của Bộ Chính trị, VKSND đang đẩy mạnh công tác xây dựng ngành, nâng

cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp. Là chức danh tư pháp, trực tiếp thực hiện chức năng của Viện kiểm

sát, Kiểm sát viên VKSND là người, nhân danh quyền lực nhà nước, đại

diện cho công lý bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân. Quá trình hình thành và phát triển, pháp luật về

Kiểm sát viên đã thể hiện được tính ưu việt của mình và đang từng bước

hoàn thiện. Nghiên cứu tìm hiểu những ưu điểm, hạn chế từ đó có những

giải pháp hoàn thiện chế định Kiểm sát viên là góp phần vào thực hiện

nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp: Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên

tinh thông nghiệp vụ, trong sạch vững mạnh, dũng cảm đấu tranh bảo vệ

công lý và pháp chế xã hội chủ nghĩa, có tinh thần trách nhiệm và lương tâm

nghề nghiệp.

49

2.3.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

Kiểm sát viên

Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014, có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/6/2015 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam.” [38]. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát

viên trong hoạt động kiểm sát được giảm bớt, không còn công tác kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế. Việc giảm bớt

nhiệm vụ như nêu trên sẽ giúp giải quyết tình trạng quá tải về khối lượng

công việc đối với Viện kiểm sát nói chung và với Kiểm sát viên nói riêng,

tập trung vào thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm.

 Trong lĩnh vực thực hành quyền công tố

Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát viên nhân danh quyền lực nhà

nước, đại diện cho công lý, cho sự nghiêm minh của pháp luật truy tố người

phạm tội ra trước tòa, đồng thời duy trì sự buộc tội tại tòa án, đảm bảo mọi

hành vi phạm tội đều phải được điều tra, khởi tố và xử lý kịp thời, không để

lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Với vai trò là

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật.

- Thực hành quyền công tố việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố

Tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định: VKSND thực

hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Lần đầu tiên Luật quy định một mục riêng về công tác “Thực hành quyền

công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến

50

nghị khởi tố” [38] nhằm khẳng định đây là lĩnh vực công tác thực hiện chức

năng độc lập của VKSND (Mục 1 Chương II). Thể chế hoá chủ trương của

Nghị quyết số 49-NQ/TW “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra, gắn công tố với điều tra” [8]. Thực hiện công tác thực hành

quyền công tố ngay từ giai đoạn ban đầu nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra

kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.

Kiểm sát viên được phân công đã chú trọng đến kiểm sát lập hồ sơ và

đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh đối với từng tin báo tội phạm mà Cơ quan

điều tra đã thụ lý; kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, bị can để

điều tra đối với những tin báo có dấu hiệu tội phạm mà Cơ quan điều tra

chậm ra quyết định khởi tố. Đối với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền

giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã

chỉ đạo các đơn vị tiếp tục thực hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo

tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao.

Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Thanh Hóa đã

yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố: 93 vụ, 121 bị can (năm 2020: 20 vụ, 32 bị

can; năm 2019: 26 vụ, 41 bị can; năm 2018: 16 vụ, 27 bị can; năm 2017: 24

vụ, 17 bị can; năm 2016: 7 vụ, 4 bị can; 2015 không phát sinh số liệu);

không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 02 trường hợp vào năm 2018 [52].

Đối với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan

điều tra VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tiếp

tục thực hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị

khởi tố thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao. Năm 2016,

VKSND tỉnh đã tiến hành xác minh ban đầu 06 tin và chuyển Cơ quan điều

tra VKSND tối cao điều tra giải quyết theo thẩm quyền 04 tin.Cơ quan điều

51

tra VKSND tối cao đã điều tra làm rõ và khởi tố 02 vụ, 02 bị can [52].

- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình

sự

Kiểm sát viên hai cấp đã chủ động hơn trong việc tham mưu cho lãnh

đạo VKSND trong việc yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và khẩn trương yêu

cầu điều tra tội phạm [45]. Kiểm sát viên đề xuất và thực hiện nhiều biện

pháp để tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công

tố với hoạt động điều tra theo chủ trương của Đảng và quy định của pháp

luật. Kiểm sát chặt chẽ các vụ án hình sự ngay sau khi khởi tố, chủ động,

tích cực đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can, chống

lạm dụng việc bắt khẩn cấp hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không

làm oan người vô tội. Vì vậy, chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố được nâng

lên, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung có trách

nhiệm của Kiểm sát viên hoặc án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm xử hủy,

sửa. Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng các căn cứ pháp luật trong tạm đình chỉ,

đình chỉ điều tra vụ án, bị can, nhất là các trường hợp đình chỉ miễn trách

nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật hình sự. Đã phục hồi nhiều vụ án để

điều tra theo quy định, không để xảy ra quá hạn điều tra; tích cực chủ động

phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án điểm, án

theo thủ tục rút gọn.

Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp huỷ 04 quyết định

khởi tố vụ án (năm 2016), huỷ 13 quyết định khởi tố bị can của Cơ quan

điều tra (năm 2015 hủy 02 quyết định, năm 2016 hủy 06 quyết đinh, năm

2017 hủy 03 quyết định, năm 2019 hủy 02 quyết định); huỷ 11 quyết định

không khởi tố vụ án không có căn cứ của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát ra

quyết định khởi tố vụ án 10 vụ (năm 2016: 08 vụ, năm 2017: 02 vụ); không

phê chuẩn 06 quyết định khởi tố bị can (năm 2015), hủy bỏ 02 quyết định

52

đình chỉ điều tra vụ án (năm 2017), hủy bỏ 05 quyết định đình chỉ điều tra bị

can của Cơ quan điều tra; phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 981 người, không

phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 11 bị can, không phê chuẩn lệnh tạm giam 26

bị can, hủy bỏ quyết định tạm giam 12 bị can, không phê chuẩn lệnh bắt

khẩn cấp 01 trường hợp (2015); không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ

19 trường hợp; hủy quyết định tạm giữ 43 trường hợp. Viện kiểm sát hai cấp

trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung 78 vụ để bổ sung chứng

cứ 39 vụ; khởi tố thêm bị can 15 vụ; vi phạm tố tụng 11 vụ; thay đổi tội

danh 10 vụ, khởi tố thêm tội danh 03 vụ [52].

Các vi phạm của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra như:

một số vụ án không kịp thời tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ, dẫn đến

phải gia hạn thời hạn điều tra; vi phạm trong việc thu thập chứng cứ, lập hồ

sơ vụ án; việc thực hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát chưa đầy đủ,

chưa kịp thời, dẫn đến một số vụ án phải trả để điều tra bổ sung; một số vụ

án, Cơ quan điều tra ban hành các quyết định tố tụng không đúng quy định

của pháp luật… được Kiểm sát viên tổng hợp tham mưu ban hành kiến nghị

yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục. Các kiến nghị của Viện kiểm sát đều

được Cơ quan điều tra tiếp thu và đề ra biện pháp khắc phục.

- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm

Trong công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, Viện

kiểm sát hai cấp quan tâm giải quyết các vụ án đã thụ lý đúng thời hạn luật

định, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để

xảy ra trường hợp nào Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử tuyên bị cáo

không phạm tội hoặc thay đổi hoặc rút quyết định truy tố; hạn chế đến mức

thấp nhất các trường hợp bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung, án bị hủy, sửa có

trách nhiệm của Kiểm sát viên. Trước khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát

viên đã chủ động nghiên cứu, kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ vụ án, khi các

53

chứng cứ, thủ tục tố tụng của vụ án đã đầy đủ thì mới thống nhất với Điều

tra viên để kết thúc điều tra, nên đã hạn chế đến mức thấp nhất việc kết thúc

điều tra vụ án mới đề xuất trả hồ sơ điều tra bổ sung. Ở hầu hết các vụ án,

trước khi truy tố, Kiểm sát viên đã nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về chứng cứ,

bảo đảm việc truy tố có căn cứ, đúng người, đúng tội. Việc ban hành các

quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra vụ án, bị can đảm bảo đúng căn cứ

pháp luật, nhất là các trường hợp đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo

Điều 29 Bộ luật hình sự.

Số vụ án Viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so với tổng số vụ án đã

kết thúc điều tra [45]. Từ năm 2015 đến năm 2020, Viện kiểm sát hai cấp

truy tố 10.949 vụ, 20.967 bị can so với số vụ và số bị can đã kết thúc điều

tra 11.208 vụ, 21.311 bị can. Trong đó: Năm 2015 quyết định truy tố 1.694

vụ, 3.235 bị can/ 1.734 vụ, 3.289 bị can, chiếm 97,6%; năm 2016 truy tố

1.880 vụ, 3.552 bị can/ 1.924 vụ, 3.646 bị can, chiếm 97,7%; năm 2017 truy

tố 1.673 vụ, 3.088 bị can/ 1.717vụ, 3.180 bị can, chiếm 97,4%; năm 2018

truy tố 1.689 vụ, 3.076 bị can/ 1.748 vụ, 3.076 bị can, chiếm 96,67%; năm

2019 truy tố 1.949 vụ, 3.983 bị can/ 1.998 vụ, 4.095 bị can, chiếm 97,5%;

năm 2020 truy tố 2.064 vụ, 4.033 bị can/ 2.087 vụ, 4.025 bị can, chiếm

98,89% [52].

- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự

Theo quy định tại Điều 18 Luật tổ chức VKSND năm 2014, ở giai

đoạn xét xử các vụ án hình sự, quyền công tố của VKSND được Kiểm sát

viên sử dụng tại phiên tòa qua việc công bố cáo trạng hoặc quyết định truy

tố theo thủ tục rút gọn, xét hỏi, thực hiện việc luận tội đối với bị cáo, tranh

luận với bị cáo, luật sư; phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án tại phiên

tòa và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định

của Bộ luật tố tụng hình sự [38].

54

Ở hầu hết các vụ án, trước khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên

chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, dự kiến tình huống diễn biến tại phiên tòa;

nâng cao chất lượng luận tội; chủ động tham gia xét hỏi, tranh luận, đối đáp

với những người tham gia tố tụng; đề nghị áp dụng hình phạt và mức hình

phạt phù hợp quy định của pháp luật... Kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án áp

dụng các Điều 51, 54 và 65 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt nhẹ hoặc

cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đúng quy định của

pháp luật. Tăng cường phối hợp với Tòa án để tổ chức các phiên tòa xét xử

lưu động và các phiên tòa để rút kinh nghiệm theo tinh thần cải cách tư

pháp...

Công tác kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án được hầu

hết các đơn vị thực hiện tốt; lập phiếu kiểm sát và gửi Viện kiểm sát cấp

trên, do vậy, đã kịp thời phát hiện những vi phạm của Tòa án để tổng hợp,

kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, hoặc ban hành kháng nghị, đề nghị

kháng nghị khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát hai cấp

tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc kiểm sát biên bản phiên tòa

đảm bảo biên bản này phải được ghi chép khách quan, đầy đủ, đúng pháp

luật.

Trong đó, xét xử sơ thẩm năm 2015: 1.627 vụ, 3.125 bị cáo; năm

2016 xét xử 1.846 vụ, 3.497 bị cáo; năm 2017 xét xử 1.643 vụ, 3.002 bị cáo,

năm 2018 xét xử 1.724 vụ, 3.114 bị cáo; năm 2019 xét xử 1.905 vụ, 3.827 bị

cáo; năm 2020 xét xử 1.847 vụ, 3.703 bị cáo. Xét xử phúc thẩm, năm 2015:

174 vụ, 303 bị cáo; năm 2016: 170 vụ, 335 bị cáo; năm 2017: 151 vụ, 245 bị

cáo, năm 2018: 169 vụ, 264 bị cáo; năm 2019: 205 vụ, 399 bị cáo; năm

2020: 198 vụ, 353 bị cáo [52].

Việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm trong nhiều năm đã được

VKSND hai cấp phối hợp với Tòa án chú trọng về chất lượng, tăng cường

55

số lượng (mỗi Kiểm sát viên có ít nhất 02 phiên tòa hình sự /năm) nhằm

mục tiêu nâng cao chất lượng tranh tụng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng tranh

luận, xử lý tình huống và năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử

của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm hiệu lực, vai trò của quyền công tố

trong việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội trong các phiên tòa xét

xử vụ án hình sự.

 Trong lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư pháp

Bên cạnh việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, Viện

kiểm sát các cấp ngày càng quan tâm đến công tác kiểm sát các hoạt động tư

pháp, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, mang tính đột phá nhằm đảm bảo hoạt

động của các cơ quan tư pháp theo đúng quy định của pháp luật.

- Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và

kiến nghị khởi tố.

Kiểm sát viên hai cấp đã chú trọng kiểm sát chặt chẽ việc thụ lý, giải

quyết tin báo tội phạm, phân công Kiểm sát viên lập hồ sơ kiểm sát. Kiểm

sát viên lập hồ sơ kiểm sát và đề ra yêu cầu xác minh đối với từng tin báo tội

phạm mà Cơ quan điều tra đã thụ lý; định kỳ hàng tháng, Viện kiểm sát đã

họp với Cơ quan điều tra để đánh giá tình hình tội phạm, kết quả xác minh,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan

điểm xử lý, nhằm nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội. Đối

với các tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra

VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tiếp tục thực

hiện tốt Quy chế tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố

thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; chủ động tiếp nhận,

tiến hành xác minh ban đầu đối với một số tin báo tội phạm và kịp thời

chuyển Cơ quan điều tra VKSND tối cao giải quyết theo thẩm quyền.

56

- Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự

Thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”; “Tăng cường các biện

pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi

thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”, Kiểm sát

viên hai cấp đã chú trọng nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra các vụ án

hình sự, kiểm sát chặt chẽ vụ án ngay từ khi khởi tố; chủ động nghiên cứu

hồ sơ để xây dựng kế hoạch kiểm sát điều tra, đề ra yêu cầu điều tra sát,

đúng với nội dung vụ án, đồng thời nắm chắc tiến độ điều tra để thường

xuyên đôn đốc, yêu cầu điều tra, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ đảm bảo

cho việc giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Hạn chế đến mức

thấp nhất tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc án bị cấp phúc thẩm,

giám đốc thẩm xử hủy, sửa có trách nhiệm của Kiểm sát viên.

Lãnh đạo VKSND tỉnh đã ban hành và chỉ đạo thực hiện thống nhất

trong toàn ngành VKSND tỉnh mẫu “Phiếu kiểm sát Quyết định đình chỉ

điều tra vụ án (bị can)”; theo đó, tất cả các vụ án, bị can, khi có quyết định

đình chỉ của Cơ quan điều tra hoặc Tòa án cùng cấp thì Kiểm sát viên phải

kiểm tra căn cứ của việc đình chỉ, đối với các trường hợp đình chỉ theo

khoản khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên phải gặp

và lấy lời khai của người rút yêu cầu khởi tố, nếu xét thấy việc đình chỉ là có

căn cứ, đúng pháp luật thì ban hành Phiếu kiểm sát (theo mẫu) và gửi báo

cáo phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh để tổng hợp, theo dõi chung.

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong

giai đoạn truy tố

Trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố,

Kiểm sát viên quan tâm giải quyết các vụ án đã thụ lý đúng thời hạn luật

định, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để

57

xảy ra trường hợp nào Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử tuyên bị cáo

không phạm tội, thay đổi hoặc rút quyết định truy tố. Ở hầu hết các vụ án,

trước khi truy tố, Kiểm sát viên đều tiến hành phúc cung bị can, nghiên cứu,

đánh giá đầy đủ về chứng cứ, thủ tục tố tụng, bảo đảm việc truy tố có căn

cứ, đúng người, đúng tội.

Viện kiểm sát hai cấp đã quan tâm thực hiện tốt công tác kiến nghị

phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, đã kịp thời ban hành 53 kiến

nghị đề nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan đề ra các giải pháp nhằm phòng

ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trên địa bàn tỉnh (các cơ quan, tổ chức

hữu quan đã có văn bản tiếp thu và chỉ đạo các cấp, các ngành, các cơ quan

có liên quan thực hiện tốt các nội dung kiến nghị của Viện kiểm sát) [52].

- Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự

Trong quá trình kiểm sát xét xử, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ

thường xuyên chú trọng, phát hiện, tổng hợp vi phạm để tham mưu ban hành

kháng nghị, kiến nghị đối với các bản án, quyết định vi phạm pháp luật.

Viện kiểm sát hai cấp quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03/CT-

VKSTC và Chỉ thị số 08/CT-VKSTC của VKSND tối cao về tăng cường

công tác kháng nghị phúc thẩm; hầu hết các kháng nghị đều đảm bảo chất

lượng, nội dung kháng nghị và hình thức văn bản kháng nghị đều có căn cứ

và đúng pháp luật, góp phần vào việc hạn chế những thiếu sót, vi phạm của

cấp sơ thẩm trong việc điều tra, truy tố, xét xử.

Thông qua công tác kiểm sát xét xử án hình sự, trong thời gian từ năm

2015 đến năm 2020, Kiểm sát viên hai cấp với nhiệm vụ được giao đã tham

mưu lãnh đạo ban hành kháng nghị phúc thẩm 179 vụ, 373 bị cáo; Tòa án và

Viện kiểm sát đã giải quyết 164 vụ; kháng nghị được Tòa án xét xử chấp

nhận 155 vụ. Kiểm sát viên nghiên cứu bản án, quyết định, báo cáo đề xuất

để Lãnh đạo VKSND tỉnh báo cáo đề nghị VKSND cấp cao tại Hà Nội

58

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để hủy 05 vụ (năm 2017), báo cáo

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm để hủy 02 vụ (năm 2020); đối với các vi

phạm trong hoạt động xét xử như: chậm giao bản án cho Viện kiểm sát; một

số vụ án, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp

luật; trong một số bản án, việc áp dụng pháp luật không đúng hoặc không

đầy đủ, không áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội quy định

trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); sai lầm

nghiêm trọng trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật về hình sự, dân sự

trong xét xử các vụ án… Kiểm sát viên đã tổng hợp, tham mưu ban hành

216 kiến nghị yêu cầu TAND cùng cấp khắc phục vi phạm, thiếu sót. Các

kiến nghị của Viện kiểm sát đều được Toà án cùng cấp chấp nhận và tiếp

thu, khắc phục [52].

- Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự.

Trong kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ, thực hiện nhiệm vụ theo luật

định, kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân đã tiến hành kiểm sát chặt chẽ

việc bắt, tạm giữ, tạm giam, đảm bảo các trường hợp bị bắt, tạm giữ, tạm

giam có căn cứ, đúng pháp luật; kiên quyết không phê chuẩn đối với các

trường hợp bắt, tạm giam không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, số người bị

bắt, tạm giữ chuyển khởi tố hình sự chiếm tỷ cao so với chỉ tiêu kế hoạch;

không để xảy ra trường hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam.

Đối với công tác kiểm sát thi hành án hình sự, Kiểm sát viên đã chủ

động kiểm sát chặt chẽ các bị án thi hành hình phạt tù đã có hiệu lực nhưng

chưa thi hành, việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ tại địa phương.

Kiểm sát việc áp dụng trình tự, thủ tục xem xét quyết định hoãn, miễn chấp

hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian áp dụng

biện pháp xử lý hành chính còn lại của Tòa án cùng cấp; phối hợp với các cơ

quan hữu quan tổ chức các đợt rút ngắn thời gian thời gian thử thách của án

59

treo, miễn, giảm thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ; vào các dịp

lễ, tết, kiểm sát chặt chẽ công tác xét đề nghị đặc xá cho các phạm nhân

đang chấp hành án và có đủ tiêu chuẩn, điều kiện.

- Kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân

và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy

định của pháp luật

Thông qua công tác kiểm sát, Kiểm sát viên đã phát hiện vi phạm đề

xuất lãnh đạo ban hành kháng nghị yêu cầu Toà án khắc phục các vi phạm

trong việc giải quyết án hành chính, dân sự như: gửi chậm thông báo thụ lý,

bản án, quyết định; vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử; xác minh thu thập

chứng cứ không đầy đủ, toàn diện; tính án phí không đúng quy định của

pháp luật; không chuyển một số hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để xem xét,

giải quyết theo thẩm quyền... Các kiến nghị của Viện kiểm sát đều được Toà

án chấp nhận và khắc phục vi phạm.

- Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.

Công tác kiểm sát thi hành án giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp

phần bảo đảm cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành

trên thực tế, kịp thời, nghiêm chỉnh, đúng pháp luật,.

Kiểm sát viên hai cấp đã kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định thi hành

án; chú trọng kiểm sát việc trả lại đơn, hoãn, tạm đình chỉ và cưỡng chế thi

hành án. Việc lập hồ sơ kiểm sát các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ

thi hành án, xác minh, phân loại điều kiện thi hành án bảo đảm đúng quy

định. Thông qua kiểm sát trực tiếp, cũng như qua công tác kiểm sát thường

xuyên đối với cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp đã phát hiện một số vi

phạm, như: vi phạm thời hạn cưỡng chế, kê biên, vi phạm trình tự bán đấu

giá, thẩm định giá, vi phạm trong thu, chi tiền thi hành án, vi phạm trong xác

minh phân loại án chưa có điều kiện thi hành, chậm gửi các quyết định thi

60

hành án cho Viện kiểm sát…; đã ban hành 216 kháng nghị, kiến nghị yêu

cầu khắc phục vi phạm và được các cơ quan Thi hành án dân sự tiếp thu,

khắc phục vi phạm [52].

- Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp

của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu

nại tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền.

Công tác tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đã được Kiểm sát viên được phân công

hai cấp quan tâm thực hiện. Viện kiểm sát hai cấp đã tiến hành kiểm sát trực

tiếp và kiểm sát gián tiếp đối với các cơ quan tư pháp trong việc thụ lý, giải

quyết đơn trong lĩnh vực tư pháp; từ đó ban hành 213 kiến nghị yêu cầu và

được các cơ quan tư pháp tiếp thu, khắc phục các vi phạm về trình tự, thủ

tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc lập và lưu giữ hồ sơ giải quyết

khiếu nại, tố cáo... [52].

2.3.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn

nhiệm cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Tiêu chuẩn kiểm sát viên như đã trình bày tại chương một, gồm tiêu

chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên các cấp.

Pháp luật hiện hành quy định tiêu chuẩn chung của kiểm sát viên là

những tiêu chuẩn về Quốc tịch, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, về

chuyên môn nghiệp vụ, thời gian công tác và sức khỏe đảm bảo hoàn thành

nhiệm vụ.

Quy định về trình độ cử nhân luật đối với người được bổ nhiệm làm

kiểm sát viên là điểm rất mới, rất tiến bộ của Pháp lệnh kiểm sát viên 1993

và tiếp tục được khẳng định tại Pháp lệnh kiểm sát viên 2002, Luật tổ chức

VKSND năm 2014, nó đã góp phần thống nhất mặt bằng trình độ của Kiểm

sát viên VKSND, khắc phục được tình trạng bổ sung cán bộ không theo quy

61

định, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng kiểm sát trong một thời gian tương

đối dài. Trước đây, yêu cầu về bằng cấp đối với người được tuyển chọn bổ

nhiệm chỉ dừng lại ở trình độ cao đẳng, mà cụ thể là tốt nghiệp Cao đẳng

kiểm sát, chưa đảm bảo được trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật

cần thiết. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật hiện hành quy định một

trong những tiêu chuẩn của kiểm sát viên là phải có trình độ cử nhân luật,

bảo đảm cho các kiểm sát viên có kiến thức pháp lý sâu rộng, được đào tạo

bài bản, giúp kiểm sát viên có sự nhìn nhận, đánh giá vấn đề khách quan,

chính xác, đầy đủ hơn.

Về phẩm chất chính trị, đạo đức, hầu hết các Kiểm sát viên đều có

phẩm chất đạo đức trong sạch, có lập trường chính trị vững vàng, vô tư,

khách quan trong khi làm nhiệm vụ, xứng đáng là người đại diện cho công

lý, là lực lượng nòng cốt của VKSND thực hiện nhiệm vụ chính trị mà

Đảng, nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Cán bộ kiểm sát đều phải

bảo đảm tiêu chuẩn về sức khỏe, để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, với khối

lượng và áp lực công việc lớn; việc miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hầu như

không xảy ra.

Thời gian công tác thực tiễn là điều kiện bắt buộc trong Quy trình bổ

nhiệm Kiểm sát viên các cấp. Quy định về thời gian công tác thực tiễn đối

với Kiểm sát viên là vấn đề hết sức cần thiết, với trách nhiệm và quyền hạn

nặng nề, đại diện nhà nước, Kiểm sát viên VKSND ngoài yêu cầu về trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải được thực tiễn kiểm nghiệm và được đào

tạo, trưởng thành từ thực tiễn để có thêm những kinh nghiệm, trau dồi thêm

kiến thức, kỹ năng, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tế.

Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), đã

quy định rất cụ thể về thời gian công tác pháp luật đối với người được tuyển

chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy

62

định, ngoài các điều kiện chung, người được tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát

viên sơ cấp phải có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên; đối

với Kiểm sát viên trung cấp phải có ít nhất 05 năm là Kiểm sát viên sơ cấp;

Kiểm sát viên cấp cao phải có ít nhất 05 năm là Kiểm sát viên trung cấp.

Ngoài ra, theo Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, để được bổ nhiệm

là Kiểm sát viên, phải trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên. Trừ

trường hợp ngoại lệ do nhu cầu cán bộ ngành được quy định và người có đủ

điều kiện tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND năm

2014, đã có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có năng lực thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền

VKSND cấp tỉnh, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ đối với Viện kiểm sát

cấp dưới thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp;

đối với trường hợp chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên cấp dưới hoặc thời

gian làm công tác pháp luật, nhưng trong trường hợp cần thiết vẫn có thể

được tuyển chọn, bổ nhiệm làm kiểm sát viên theo quy định của pháp luật.

Đối với người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, điều

kiện về thời gian công tác pháp luật vẫn là 4 năm. Đây là khoảng thời gian

tương đối phù hợp cho quá trình phấn đấu rèn luyện và tích lũy kinh

nghiệm, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác.

Về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức

Kiểm sát viên. Việc tuyển chọn bổ nhiệm, Kiểm sát viên phải thông qua Uỷ

ban kiểm sát xét tuyển để chọn người đủ điều kiện dự thi; bổ sung quy định

về Hội đồng thi tuyển các ngạch Kiểm sát viên nêu trên. Đây là điểm mới

của Luật tổ chức VKSND năm 2014 so với luật tổ chức VKSND trước đó.

Đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao tiếp tục

thực hiện cơ chế tuyển chọn thông qua Hội đồng tuyển chọn.

Việc miễn nhiệm, cách chức kiểm sát viên các cấp phải qua một Hội

63

đồng tuyển chọn cụ thể. Hội đồng làm việc theo chế độ tập thể và biểu quyết

theo đa số, lựa chọn người đủ tài đức vào vị trí người bảo vệ công lý. Những

quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn kiểm sát viên là tiền đề để thực hiện những

quy định về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

2.3.3. Về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng

khác

Trong quá trình thực hiện công tác, Kiểm sát viên với Cơ quan điều

tra đều thực hiện tốt công tác phối hợp để đánh giá tình hình tội phạm, kết

quả xác minh, giải quyết tin báo tội phạm, việc thu thập chứng cứ, điều tra,

khởi tố vụ án; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan điểm xử lý; kịp thời yêu

cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, bị can để điều tra đối với những tin báo

có dấu hiệu tội phạm mà Cơ quan điều tra chậm ra quyết định khởi tố, nhiều

tin báo phức tạp, tin báo được dư luận xã hội quan tâm, tin báo quá thời hạn

giải quyết đã được Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phối hợp xử lý dứt

điểm và đúng pháp luật, đã góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn

chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, đảm bảo không làm oan người

vôtội.

Kiểm sát viên được phân công đã phối hợp với Cơ quan điều tra và

TAND cùng cấp xác lập, giải quyết tốt các vụ án trọng điểm, vụ án theo thủ

tục rút gọn, tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động và phiên tòa hình sự rút

kinh nghiệm. Từ năm 2015 đến năm 2020, tổ chức 1.342 phiên tòa rút kinh

nghiệm chung cho cả hai ngành Viện kiểm sát và Tòa án, qua đó, nâng cao

nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ các cơ quan tư

pháp. Các Kiểm sát viên của Phòng nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh đã phối

hợp chặt chẽ với nhau hoặc với Cơ quan điều tra, Tòa án để kịp thời nghiên

cứu và có văn bản trả lời đối với những vụ, việc có khó khăn, vướng mắc

mà các Viện kiểm sát hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện thỉnh

64

thị [52].

Kiểm sát viên phối hợp chặt chẽ với Cơ quan thi hành án hình sự, Tòa

án và các cơ quan có liên quan, tiến hành rà soát các bị án chưa thi hành án

phạt tù để yêu cầu ra quyết định thi hành hoặc áp giải theo quy định; nắm

chắc các trường hợp hoãn thi hành án để yêu cầu ra quyết định thi hành án

kịp thời. Thông qua hoạt động kiểm sát, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ

yêu cầu tòa án ra quyết định thi hành án đối với các trường hợp bị kết án có

điều kiện thi hành nhưng chưa có quyết định thi hành án. Đồng thời với

kiểm sát thi hành án phạt tù, Kiểm sát viên chú trọng kiểm sát việc thi hành

án phạt tù cho hưởng án treo, án cải tạo không giam giữ tại các xã, phường,

thị trấn; kiên quyết kháng nghị, kiến nghị những vi phạm pháp luật của Tòa

án và cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi hành án.

2.4. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay

2.4.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

Kiểm sát viên.

Kiểm sát viên tăng cường công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, điều tra, truy tố

và xét xử các vụ án hình sự, nhất là các vụ án trọng điểm, các vụ án lớn

được dư luận quan tâm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đã phát

hiện đều được khởi tố điều tra theo quy định. Kiểm sát viên lập hồ sơ kiểm

sát và đề ra yêu cầu xác minh đối với từng tin báo tội phạm mà Cơ quan

điều tra đã thụ lý; định kỳ hàng tháng, Viện kiểm sát đã họp với Cơ quan

điều tra để đánh giá tình hình tội phạm, kết quả xác minh, giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm; trao đổi, phối hợp và thống nhất quan điểm xử lý, nhằm

65

nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.

Kiểm sát viên duy trì tốt mối quan hệ với các cơ quan hữu quan, với

cấp ủy đảng, chính quyền và các ngành ở địa phương, thể hiện: phối hợp

chặt chẽ với lãnh đạo TAND tỉnh trực tiếp tham dự và chỉ đạo việc rút kinh

nghiệm tại các phiên tòa hình sự đồng thời phối hợp với Cơ quan điều tra và

các cơ quan tố tụng để kịp thời nghiên cứu và có văn bản trả lời đối với

những vụ, việc có khó khăn, vướng mắc; chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ

quan trong khối nội chính cùng cấp nhất là các cơ quan tư pháp, các cơ quan

tiến hành tố tụng tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,

thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

Thứ hai, về cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn, trình độ, bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.

Hầu hết các Kiểm sát viên đều có đủ trình độ theo quy định, có năng

lực thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp, khả năng

hướng dẫn nghiệp vụ đối với kiểm sát viên cấp dưới, đảm bảo về thời gian

công tác thực tiễn pháp luật để được tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên

và phẩm chất đạo đức, sức khỏe để đáp ứng yêu cầu công tác. Với sự quan

tâm của Đảng và nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh quy định của pháp luật

về tiêu chuẩn tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên, công tác cán bộ của

ngành kiểm sát được chú trọng về cả chất và lượng. Đội ngũ cán bộ Kiểm

sát viên VKSND được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội

phạm đã ngày càng trưởng thành, được phân công đảm nhiệm những trọng

trách trong những khâu công tác trọng tâm của ngành, là lực lượng nòng cốt

kế thừa và phát huy những thành quả 60 năm xây dựng ngành Kiểm sát nhân

dân nói chung và ngành Kiểm sát Thanh Hóa nói riêng.

Về trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên được thực

66

hiện rất chặt chẽ. Việc tuyển chọn bổ nhiệm kiểm sát viên được thông qua

Uỷ ban kiểm sát xét tuyển để chọn người đủ điều kiện dự thi và được Hội

đồng thi tuyển công nhận kết quả trúng tuyển mới được xem xét bổ nhiệm.

Đối với việc tuyển chọn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao, tiếp tục

thực hiện cơ chế tuyển chọn thông qua Hội đồng tuyển chọn. Hội đồng làm

việc theo chế độ tập thể và biểu quyết theo đa số, lựa chọn người đủ tài đức

vào vị trí người bảo vệ công lý.

Ở mỗi nhiệm kỳ, đội ngũ Kiểm sát viên được sắp xếp, kiện toàn hơn,

đảm bảo năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; luôn

phấn đấu rèn luyện, học hỏi kinh nghiệm nhất là tự học tập, trau dồi kiến

thức để khi được phân công đảm nhận chức trách, nhiệm vụ có thể hoàn

thành xuất sắc nhiệm vụ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm sát viên được tăng cường và đầu tư có

trọng tâm, hiệu quả nên đội ngũ Kiểm sát viên tiếp tục hoàn thiện cả về chất

và lượng.

Quán triệt, triển khai nghiêm túc Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị, Kiểm sát viên hai cấp luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, không

ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được

giao theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Chính vì vậy, trong các năm qua,

hoạt động thực hành chức năng của VKSND đã có nhiều tiến bộ, chất lượng

hiệu quả của các khâu công tác ngày càng cao; hiệu lực, hiệu quả của công

tác kiểm sát ngày càng được khẳng định; đặc biệt là sau khi Luật tổ chức

VKSND năm 2014 có hiệu lực.

2.4.2. Những hạn chế, bất cập

Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của

VKSND hai cấp trong những năm qua đã có nhiều kết quả, hiệu quả đáng

67

khích lệ. Viện kiểm sát các cấp đã chủ động phối hợp với các cơ quan bảo

vệ pháp luật giải quyết nhiều vụ án lớn, trọng điểm, phức tạp, nhất là

những vụ án tham nhũng, chức vụ, được dư luận đồng tình ủng hộ. Công

tác kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố; truy tố được chú trọng, nâng

cao hơn trước; tiến độ giải quyết án được đẩy nhanh… Tuy nhiên, với yêu

cầu của cải cách tư pháp và thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định

của Hiến pháp và pháp luật thì công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát các cấp còn nhiều hạn chế, yếu kém:

Thứ nhất, trong thi hành pháp luật về thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên.

Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận,

giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm do Cơ quan điều tra tiếp nhận, thụ lý;

một số vụ án đã khởi tố nhưng không được vào sổ thụ lý tin báo; một số tin

báo chưa được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; một số Kiểm sát viên

được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc xác minh, giải quyết

tin báo nhưng chưa bám sát tiến độ xác minh, giải quyết của Điều tra viên,

chưa chủ động nghiên cứu hồ sơ để phối hợp với Điều tra viên đề ra các

biện pháp xác minh làm rõ; một số tin báo đã đủ căn cứ giải quyết nhưng

Kiểm sát viên chưa kịp thời trao đổi, phối hợp với Điều tra viên để tham

mưu, đề xuất cho lãnh đạo đơn vị giải quyết dứt điểm… dẫn đến tin báo tội

phạm quá thời hạn giải quyết có trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát vẫn

còn chiếm tỷ lệ cao ở một số đơn vị.

Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ở một số

vụ án, Kiểm sát viên chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, chưa làm

hết trách nhiệm của mình, không kịp thời đề ra yêu cầu điều tra hoặc nội

dung yêu cầu điều tra không sát, đúng với nội dung vụ án; không bám sát

tiến độ điều tra của Điều tra viên, dẫn đến Điều tra viên thu thập chứng cứ

68

không đầy đủ, bỏ lọt tội phạm, dẫn đến phải gia hạn thời hạn điều tra hoặc

trả hồ sơ để điều tra bổ sung; một số vụ án, bị can ra quyết định đình chỉ

điều tra không đúng quy định của pháp luật; một số đơn vị còn để xảy ra

trường hợp án bị cấp phúc thẩm xử hủy hoặc cải sửa nghiêm trọng, thậm chí

là phải đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm…

Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên nghiên cứu chưa đầy đủ, toàn

diện nên tham mưu, đề xuất lãnh đạo đơn vị truy tố chưa chính xác, chứng

cứ, thủ tục tố tụng chưa đầy đủ nên Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ

sung; việc áp dụng điểm, khoản của điều luật để đề nghị truy tố chưa đầy

đủ; không ghi lời khai của người bị hại trong trường hợp người bị hại rút

đơn yêu cầu khởi tố...

Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử ở một số

vụ án hình sự, vẫn còn những hạn chế, tồn tại, chủ yếu diễn ra ở Kiểm sát

viên sơ cấp, như: chứng cứ vụ án được thu thập chưa đầy đủ, vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

việc áp dụng pháp luật và xác định các tình tiết định khung; các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khôngđúng quy định; một số vụ án vẫn

còn bị cấp phúc thẩm xử hủy hoặc cải sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của

Kiểm sát viên.

Đối với công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án vẫn còn

những tồn tại. Số lượng kháng nghị còn hạn chế về công tác thi hành án,

kiểm sát chưa chặt chẽ việc thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, hôn

nhân gia đình, lao động, kinh tế và hành chính, tình trạng bị án bỏ trốn chưa

được phát hiện và kiến nghị kịp thời, đầy đủ; số lần kiểm sát nhà tạm giữ,

trại tạm giam, trại giam, cơ sở chữa bệnh có kết luận ít, chưa phát hiện hết vi

phạm hoặc kiến nghị vi phạm thiếu cụ thể, thiếu thuyết phục, khi ban hành

69

quyết định kiểm sát trực tiếp, kết luận và ban hành kháng nghị, kiến nghị

không đúng với quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngành…

Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, dânsự ở

một số Viện kiểm sát cấp huyện chất lượng còn thấp; một số Kiểm sát viên

thiếu tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn

nên không phát hiện được hết những vi phạm của Tòa án để tham mưu cho

lãnh đạo Viện có biện pháp tác động kịp thời; một số đơn vị, mặc dù còn có

án bị cấp phúc thẩm hủy, sửa có lỗi của Kiểm sát viên, nhưng Viện kiểm sát

cùng cấp chưa phát hiện được để ban hành kháng nghị hoặc có kháng nghị

nhưng tỷ lệ còn thấp; chưa thường xuyên tổng hợp vi phạm của Tòa án để

kiến nghị hoặc có tổng hợp nhưng không đầy đủ, thiếu chính xác; việc báo

cáo, thống kê không đầy đủ, thiếu kịp thời…

Thứ hai, về tiêu chuẩn, chế độ bổ nhiệm, thuyên chuyển, điều động

Kiểm sát viên VKSND.

Mặc dù số lượng và chất lượng Kiểm sát viên được nâng lên một

bước cơ bản so với những năm trước đây, nhưng so với yêu cầu của thực tế

thì thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay vẫn còn có những hạn chế

nhất định về số lượng và chất lượng.

Về số lượng kiểm sát viên, theo dự kiến của ngành kiểm sát tỉnh

Thanh Hóa, năm 2020 chỉ tiêu Kiểm sát viên VKSND hai cấp là 297, nhưng

trên thực tế số lượng Kiểm sát viên VKSND các cấp được bổ nhiệm không

đủ, còn thiếu 16 Kiểm sát viên. Việc phân bổ Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát

các cấp (cấp tỉnh, cấp huyện) chưa có sự đồng đều, đặc biệt là ở cấp huyện,

tình trạng thiếu Kiểm sát viên vẫn đang xảy ra [53].

Về chất lượng Kiểm sát viên, đây cũng là vấn đề có nhiều điều phải

bàn. Bên cạnh những Kiểm sát viên có trình độ chuyên môn tốt, bản lĩnh

chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch, thì vẫn có những Kiểm

70

sát viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, có những biểu hiện tham nhũng, tiêu

cực. Đặc biệt, chất lượng Kiểm sát viên chưa đồng đều, nhiều người là Kiểm

sát viên lâu năm nhưng vẫn chưa qua đào tạo bài bản, số mới tuy đã được

đào tạo bài bản về luật nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu nghề kiểm

sát và thiếu kinh nghiệm... dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng như

mong muốn.

Chất lượng hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành

quyền công tố nhà nước trong thời gian qua có nhiều kết quả đáng khích lệ,

nhưng vẫn còn có nhiều vụ việc mà dư luận và các phương tiện thông tin đại

chúng phản ánh còn chưa khách quan, làm ảnh hưởng tới lòng tin của nhân

dân vào đội ngũ Kiểm sát viên....

Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên khi được phân

công tại phiên toà hình sự và tham gia giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân

gia đình, lao động, kinh tế và hành chính có những hạn chế nhất định. Đó là

tình trạng kiểm sát viên yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,thực tế

hiện nay, tại các phiên tòa vẫn còn những kiểm sát viên ngồi ghế công tố với

những bản luận tội sơ sài, mô tả lại diễn biến vụ án đơn thuần, không có sự

phân tích, đánh giá hay chứng minh để bảo vệ quan điểm truy tố; vẫn còn

những Kiểm sát viên đuối lý hoặc không tranh luận trước những phát biểu

của Luật sư, tại một số ít phiên tòa kiểm sát viên hầu như không tiến hành

đối đáp.

Việc thực hiện quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp còn có những

vướng mắc. Đó là vẫn còn tồn tại những vụ án phải điều tra lại, điều tra bổ

sung, tồn tại những trường hợp án chưa được thi hành...

Thực tiễn cho thấy, kỹ năng tranh tụng, lập luận, diễn đạt của Kiểm

sát viên tại phiên tòa vẫn là những hạn chế cần quan tâm khắc phục. Một số

Kiểm sát viên trình bày cáo trạng không rõ ràng, khúc chiết, mất bình tĩnh,

71

nóng nảy khi tranh luận, lập luận với luật sư và những người tham gia tố

tụng khác. Vì vậy, cần được nhìn nhận vấn đề này một cách đúng đắn và có

hướng đào tạo, bồi dưỡng kịp thời.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

Những tồn tại, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố của

Viện kiểm sát có nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân khách quan và

nguyên nhân chủ quan. Nhưng nhìn chung, thấy có những nguyên nhân

chính sau đây:

Thứ nhất, về thể chế về Kiểm sát viên.

Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ, cụ thể, dẫn đến còn có

nhận thức khác nhau trong các cơ quan tiến hành tố tụng ở một số vụ án;

chưa có nhiều cơ chế để bảo đảm cho hoạt động của Viện kiểm sát, cụ thể

như:

Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, tại phiên toà xét

xử hình sự, Kiểm sát viên thực hiện song song hai nhiệm vụ thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử, có nghĩa là kiểm sát viên vừa là chủ thể

buộc tội, một bên của tố tụng, vừa đứng ra kiểm sát việc xét xử. Thực tiễn

tại các phiên tòa, bên cạnh việc Kiểm sát viên lo chuẩn bị cho những vấn đề

thuộc hoạt động công tố còn phải kiểm sát việc xét xử của Hội đồng xét xử,

của những người tham gia tố tụng. Với trách nhiệm nặng nề đó là một trong

những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa.

Trong hoạt động của Kiểm sát viên có một vấn đề không thể không

nhắc tới, đó là văn hoá ứng xử của Kiểm sát viên, đặc biệt tại các phiên toà.

Trong quá trình xây dựng và phát triển 60 năm ngành Kiểm sát nhân dân, đã

có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về các lĩnh vực họat động thực

hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp dưới nhiều góc độ

72

và trên nhiều phương diện khác nhau, nhưng nghiên cứu về văn hóa ứng xử

của Kiểm sát viên - một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu

quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành ở VKSND các cấp thì chưa có

nhiều và chưa được quan tâm đúng mức.

Đây là nguyên nhân khách quan nhưng rất cơ bản, đòi hỏi phải được

khắc phục kịp thời, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ quan

tiến hành tố tụng hoạt động hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội

phạm.

Thứ hai, về công tác tổ chức, điều kiện hoạt động công tác của Kiểm

sát viên

Biên chế của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tuy đã được bổ sung, nhưng

chưa đáp ứng được với nhu cầu công việc. Thực hiện công tác sắp xếp, điều

động công chức, lãnh đạo quản lý chưa hợp lý để phục vụ cho công tác

chuẩn bị nhân sự để giới thiệu Ủy ban kiểm sát là căn cứ xem xét tuyển

chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên trong thời gian tới để đảm bảo được chính

sách cán bộ, Kiểm sát viên.

Công tác kiện toàn, bổ nhiệm chức vụ, các chức danh kiểm sát viên

được thực hiện đúng quy trình, thủ tục, hồ sơ đầy đủ tài liệu cần thiết theo

quy định nhưng một số Kiểm sát viên vẫn chưa thực sự đảm bảo đủ các tiêu

chuẩn, điều kiện được đề nghị bổ nhiệm.

Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKSND các cấp còn

thiếu thường xuyên, sâu sát; việc kiểm tra của Lãnh đạo đối với cán bộ,

Kiểm sát viên chưa sâu sát nên nhiều vi phạm, hạn chế, thiếu sót của Kiểm

sát viên không được phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.

Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của VKSND các cấp nhìn chung

còn yếu và thiếu, không đáp ứng được yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp

thời của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính sách, chế độ tiền

73

lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên chậm được điều

chỉnh, bổ sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được giao, nhất là

chế độ phu cấp đặc thù của cán bộ, công chức VKSND được quy định tại

Điều 96 Luật tổ chức VKSND năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/6/2015)

đến nay vẫn chưa được thực hiện [45].

Thứ ba, về tiêu chuẩn, trình độ, năng lực Kiểm sát viên

Nguyên nhân của các vi phạm trên, một mặt do bản thân Kiểm sát

viên thiếu ý thức rèn luyện đạo đức, nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp và

năng lực chuyên môn. Nhận thức của một số Kiểm sát viên về vị trí, vai trò,

thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự

nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng chưa đầy đủ,

đúng đắn nên tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu chủ động trong hoạt

động thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp.

Năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của một số

Kiểm sát viên còn hạn chế; chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình

sự, tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn, dẫn đến lúng túng trong việc

áp dụng pháp luật, có trường hợp áp dụng sai, gây oan sai hoặc bỏ lọt tội

phạm và người phạm tội.

Một số Kiểm sát viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu

bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc làm tha hoá, biến chất, tiếp tay cho

tội phạm, che dấu tội phạm.

74

Kết luận chương 2

Trong Chương 2 tác giả đã nghiên cứu, hệ thống quy định pháp luật

về Kiểm sát viên, phân tích các vấn đề về thực trạng thi hành hoạt động thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; trình độ, năng lực và

việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, luân chuyển, điều động, biệt phái

Kiểm sát viên VKSND; phân tích làm rõ những ưu điểm, tồn tại, hạn chế

thực hiện pháp luật Kiểm sát viên. Từ lý luận về pháp luật Kiểm sát viên

VKSND kết hợp với các phương pháp phân tích thực trạng, chương 2 đã cho

thấy được tình hình của thực hiện pháp luật Kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2020 thông qua các thông

số từ nguồn số liệu của thống kê có giá trị cao của VKSND và các tài liệu

khác mà tác giả thu thập được.

Từ nghiên cứu chương 2 là cơ sở để đi sâu đề xuất các biện pháp thiết

thực, phương hướng hoàn thiện cụ thể về các mặt như lý luận, tổ chức hoạt

động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáo dục, bồi dưỡng... để pháp luật

Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa được thực hiện một

cách thống nhất và có hiệu quả.

75

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân

3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân

Quá trình đổi mới đất nước theo hướng xây dựng NNPQ XHCN của

dân, do dân, vì dân đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi hoàn thiện hệ

thống pháp luật nói chung và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói riêng.

Trên cơ sở quán triệt các quan điểm và qua kết quả nghiên cứu về sự hình

thành, phát triển của pháp luật Kiểm sát viên VKSND; xuất phát từ những

yêu cầu cầu xây dựng NNPQ và tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND, chúng tôi cho rằng phương hướng bao trùm là hướng tới xây

dựng, hoàn thiện Luật tổ chức VKSND trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực

tiễn pháp luật về cán bộ, công chức và Kiểm sát viên hiện nay và những yêu

cầu đặt ra trong thời gian tới để có cái nhìn tổng thể, toàn diện về chế độ

công vụ, công chức Việt Nam.

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở

nghiên cứu những quy định pháp luật về Kiểm sát viên các nước trên thế

giới, phù hợp với thực tiễn nước ta nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên

VKSND “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,

công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp

công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Hoạt động của Nhà nước do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện,

chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như chính trị, kinh tế - xã hội,

76

thể chế của nền công vụ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, các trang

thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động công vụ. Đội ngũ Kiểm sát viên

VKSND là lực lượng quan trọng, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của VKSND,

là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực hiện chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo pháp luật quy định và sự phân cấp quản lý

của Nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

phải trên cơ sở phù hợp với thực tiễn pháp luật về cán bộ, công chức ở nước

ta nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND ngày một chính quy hiện

đại theo các nội dung sau:

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đặt trong tổng

thể công tác xây dựng đội ngũ công chức nhà nước. Không thể hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tách rời việc xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức nhà nước. Công tác này phải được xem là một bộ phận trong cả

hệ thống và phải được đặt trong tổng thể chiến lược về xây dựng đội ngũ

cán bộ, công chức. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức về vị trí của đội

ngũ Kiểm sát viên VKSND trong quan hệ với đội ngũ công chức nói chung.

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải dựa trên cơ sở

phân loại và tiêu chuẩn hóa từng loại công chức VKSND. Cán bộ, công

chức VKSND hiện nay bao gồm Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên,

Công chức, viên chức và người lao động khác...

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với đặc

điểm, tính chất của các vùng, miền; phải dựa trên việc phân cấp quản lý.

Thực tế cho thấy, các đơn vị hành chính các cấp ở nước ta rất khác nhau về

điều kiện địa lý, dân số, mức sống người dân... Có tỉnh, huyện diện tích nhỏ,

dân số ít, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật không nhiều. Ngược lại,

có huyện, tỉnh lại có diện tích lớn, dân số đông, tình hình tội phạm, tranh

chấp phức tạp. Do đó, việc quy định số lượng và bố trí Kiểm sát viên

VKSND cũng như chế độ, chính sách đối với đội ngũ Kiểm sát viên

77

VKSND này phải căn cứ vào việc phân loại đơn vị hành chính phù hợp với

đặc điểm, tính chất của từng vùng miền.

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tính hệ

thống, đồng bộ, khả thi, sát với thực tiễn và cụ thể. Kiểm sát viên VKSND

là những người đảm đương các chức vụ, cương vị công tác khác nhau của

bộ máy chính quyền trong hệ thống chính trị cơ sở, nó vừa có các quan hệ

ngang với các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở, lại vừa có

mối quan hệ dọc của mình từ trung ương đến cơ sở.

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được tiến hành

một cách tích cực, khẩn trương nhưng phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ,

từng bước vững chắc, phù hợp với thực trạng năng lực và số lượng đội ngũ

Kiểm sát viên VKSND, với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng,

miền, của mỗi loại hình đô thị, nông thôn. Việc xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần được tiến hành tích cực, nhưng phải

từng bước, vững chắc, có đầy đủ căn cứ lý luận khoa học và thực tiễn, phù

hợp với tình hình và đặc điểm, thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND,

phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm, tính chất đặc thù

của ngành Kiểm sát.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở

các nguyên tắc của chế độ công vụ, công chức trong điều kiện mới.

Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và

vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc

hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm được hài hòa

lợi ích của nhà nước, của xã hội, của công dân và lợi ích bản thân người

Kiểm sát viên VKSND. Bởi vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:

Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND phải bảo đảm dân chủ từ công tác quản lý nhân sự, tuyển

78

chọn, bổ nhiệm được những người có đủ tài đức, xứng đáng được nhân dân

ủy thác nắm giữ quyền lực nhà nước. Đồng thời, pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND phải tạo điều kiện nhân dân được tham gia giám sát hoạt độngcủa

Kiểm sát viên, được quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền khen thưởng những Kiểm sát viên có thành tích và đề nghị kỷ luật,

miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, tác

phong. Ngoài ra, trong quan hệ giữa nhà nước và Kiểm sát viên cũng phải

được xác lập theo tinh thần dân chủ.

Nguyên tắc công khai, bình đẳng: Công khai, bình đẳng là nguyên tắc

đảm bảo sự minh bạch, tránh lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Theo

nguyên tắc này, tất cả các nội dung quy định của pháp luật có liên quan đến

nghĩa vụ, quyền và các hoạt động thực thi nhiệm vụ, công vụ của Kiểm sát

viên VKSND cần phải được công khai, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân

dân.

Nguyên tắc thi tuyển, sát hạch: Đảm bảo được nguyên tắc này, cũng

là tiền đề để đảm bảo hai nguyên tắc trên. Nếu việc tuyển dụng, bổ

nhiệmthực hiện thi tuyển, sát hạch thì vừa đảm bảo nguyên tắc dân chủ,

nguyên tắc công khai, bình đẳng, bảo đảm tính khách quan, vô tư trong

tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND. Trong nền công vụ hiện đại, việc tuyển

chọn, bổ nhiệm vào ngạch, đề bạt đều phải thực hiện theo nguyên tắc này.

Nguyên tắc dựa vào thành tích và công trạng: Nguyên tắc này đòi hỏi

việc đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND giữ các chức vụ, vị

trí trọng trách trong từng vị trí hoặc khen thưởng, nâng lương đều phải thông

qua tài năng thực sự, thành tích hoạt động thực tế và công trạng lập được.

Nguyên tắc ổn định: Một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, đòi

hỏi pháp luật phải bảo đảm tính ổn định về nghề nghiệp và các chế độ chính

sách, đây là điều kiện cho đội ngũ Kiểm sát viên VKSND yên tâm công tác,

gắn bó với nghề, tích lũy được kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng hành chính

79

và chuyên môn nghiệp vụ ngày một tốt hơn, xử lý công việc chuyên nghiệp

và có hiệu quả hơn.

Nguyên tắc đảm bảo vật chất và tinh thần: Cán bộ, công chức nói

chung, Kiểm sát viên VKSND nói riêng phải có nghĩa vụ tận tụy phục vụ

nhà nước, phục vụ nhân dân. Song song với nghĩa vụ đó, Kiểm sát viên phải

được Nhà nước đảm bảo về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện để Kiểm sát

viên yên tâm công tác và thực thi nhiệm vụ. Địa vị pháp lý của Kiểm sát

viên phải được xác lập và tôn trọng, được đảm bảo an toàn về pháp lý trong

quá trình thi hành nhiệm vụ, công vụ. Chế độ tiền lương và các quyền lợi về

tinh thần khác của Kiểm sát viên phải được bảo đảm theo quy định của pháp

luật.

Nguyên tắc hợp pháp: Đội ngũ Kiểm sát viên VKSND là những người

thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước, được làm những gì mà pháp

luật cho phép. Vì vậy, các nội dung về Kiểm sát viên và hoạt động công vụ

của họ phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy định pháp lý có hiệu lực

cao; nếu không sẽ dẫn tới tùy tiện, lạm quyền trong thi hành nhiệm vụ, công

vụ. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm thiết lập trật tự kỷ cương trong đội ngũ

Kiểm sát viên, góp phần xây dựng chính quyền nhà nước của dân, do dân và

vì dân.

3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân

Trên cơ sở các quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho

việc hoàn thiện, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên, đáp ứng yêu cầu

xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân.

Thứ nhất, tổ chức rà soát, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn một cách có

hệ thống về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

80

Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của VKSND và đội ngũ

Kiểm sát viên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành với một số

lượng không nhỏ các văn bản quy phạm pháp luật. Qua phân tích cho thấy,

các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được xây dựng ở

các thời điểm khác nhau và trong những điều kiện, hoàn cảnh cũng khác

nhau, xuất phát từ nhu cầu và tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ. Nhu cầu và

những điều kiện kinh tế - xã hội luôn biến đổi không ngừng, đòi hỏi pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND cũng phải thay đổi tương ứng. Bất cứ một

văn bản pháp luật nào đều có tính lịch sử của nó, ở thời điểm này có thể là

phù hợp và có tác dụng tốt trong đời sống xã hội, nhưng sau một thời gian

nó có thể trở nên lỗi thời, lạc hậu, không những không còn tác dụng mà còn

gây ra thiếu sự đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn với các văn bản, quy phạm

pháp luật khác. Văn bản pháp luật về Kiểm sát viện VKSND cũng không

ngoại lệ.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND

Nội dung các quy định của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND rất rộng và đa dạng, được quy định trong nhiều văn bản do

nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do vậy, cần thiết xây

dựng và hệ thống một văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND nhưng phải bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với Luật tổ chức

VKSND. Nội dung các quy phạm pháp luật cần đáp ứng yêu cầu thực tiễn

quản lý, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND hiện nay, phù hợp với

định hướng xây dựng cán bộ tư pháp nói chung và định hướng xây dựng đội

ngũ Kiểm sát viên của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, các văn bản quy

phạm pháp luật đó phải đảm bảo tính ổn định nhất định trong thời đẩy mạnh

kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung,

hoàn thiện nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

81

VKSND rất cần tập trung vào các vấn đề sau đây:

- Về tiêu chuẩn hóa và tạo nguồn Kiểm sát viên VKSND: Xây dựng

tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý là căn cứ cơ bản, chỗ dựa chủ yếu để triển khai các

nhiệm vụ xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây

dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay. Việc quy định tiêu chuẩn của Kiểm

sát viên cần phải xác định các tiêu chí cụ thể, ngoài tiêu chuẩn về trình độ

chuyên môn, cần có những tiêu chuẩn về kỹ năng nghề, khả năng và năng

lực thực tiễn... Vì vậy, cần phải nâng cao tiêu chuẩn về trình độ của Kiểm

sát viên VKSND mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động công tố và kiểm

sát hoạt động tư pháp của VKSND trong quá trình phát triển kinh tế thị

trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cũng cần có những quy định

mở về tiêu chuẩn đối với Kiểm sát viên ở khu vực miền núi, vùng có điều

điện kinh tế khó khăn, trình độ dân trí thấp.

Về bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND cần đảm bảo hơn nữa quyền dân

chủ thực sự cũng như tính cạnh tranh của các cán bộ, công chức để lựa chọn

được những Kiểm sát viên xứng đáng là người đại diện cho nhà nước thực

hiện chức năng nhiệm vụ. Đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm để mỗi

Kiểm sát viên được bổ nhiệm đều là những người có đầy đủ phẩm chất đạo

đức, trình độ, năng lực và khả năng thực hiện nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng như pháp luật

về cán bộ, công chức nói chung lâu nay mới chỉ quan tâm tới "đầu vào" mà

chưa chú ý "đầu ra" của Kiểm sát viên VKSND nên không giảm bớt được

gánh nặng biên chế, không đảm bảo được chất lượng Kiểm sát viên.

Việc bổ nhiệm Kiểm sát viên có chính sách thích hợp và linh hoạt đối

với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn để khắc phục tình trạng thiếu nguồn nhân lực ở các khu vực này.

Để phát huy năng lực, sở trường, kinh nghiệm và tạo điều kiện thực tế

cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của mỗi Kiểm sát viên thì

82

công tác bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên có vai trò rất quan

trọng. Để bố trí, sử dụng khoa học, hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên, quá trình

hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần chú ý những đặc điểm

sau:

Bố trí, sắp xếp từng người vào từng vị trí chức danh, vị trí nghiệp vụ

phải phù hợp trình độ năng lực, sở trường của mỗi người. Trong việc sử

dụng Kiểm sát viên cần phân biệt rõ giữa Kiểm sát viên là những cán bộ

lãnh đạo, quản lý và Kiểm sát viên làm công tác nghiệp vụ. Do đó, cần xây

dựng các phương án luân chuyển và bố trí kiêm nhiệm (hợp lý) trong những

điều kiện cụ thể và từng giai đoạn khác nhau. Việc sử dụng Kiểm sát viên

cần phải tính đến các phương án bố trí kiêm nhiệm nhưng phải phù hợp với

khối lượng và tính chất công việc của từng chức danh.

Để xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cần phải nhanh chóng

hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc

cụ thể hóa từng nội dung của việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.

Hiện nay, việc triển khai còn chậm và thiếu đồng bộ giữa các địa phương,

các ban ngành, thậm chí còn có nhiều văn bản mâu thuẫn, gây khó khăn cho

việc tổ chức triển khai thực hiện. Vì vậy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể

chế quản lý Kiểm sát viên VKSND một cách chặt chẽ, khoa học, đồng bộ,

quản lý khoa học, hiệu quả.

Hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động, cùng với những quy định

mở rộng thẩm quyền và bảo đảm tính chủ động trong tuyển chọn, sử dụng

Kiểm sát viên. Ngoài các nội dung quản lý đã quy định, cần bổ sung thêm

một số nội dung về xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; thanh

tra, kiểm tra hoạt động; xử lý vi phạm; thống nhất việc quản lý hồ sơ Kiểm

sát viên VKSND...

Về nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý công tác đào tạo, bồi

dưỡng, cần ban hành những văn bản hướng dẫn nhằm thực hiện triệt để việc

83

phân cấp đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND. Đồng thời, nghiên cứu

hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đối

với Kiểm sát viên VKSND, tạo một cơ chế thoáng và đảm bảo tính chủ động

cho các địa phương tổ chức tốt hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Các quy định

về đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên phải gắn với yêu cầu thực tiễn (cả yêu

cầu về năng lực chuyên môn, cả yêu cầu về quy hoạch, tạo nguồn). Mặt

khác, cần chuẩn hóa và nâng cao chất lương hệ thống giáo trình, bài giải;

phải có quy định cụ thể về việc chuẩn hóa hệ thống tài liệu này, quy định về

nguồn lực tài chính để xây dựng, đảm bảo giáo trình, tài liệu có chất lượng,

không xa rời thực tiễn, đảm bảo học để làm việc, tránh tình trạng học không

gắn với hành.

Trên cơ sở đó, việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi

dưỡng cho Kiểm sát viên VKSND được xác định như sau: Tiếp tục sắp xếp

và kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng là trường Đại học Kiểm

sát, Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát. Cần ban hành đầy đủ và

kịp thời văn bản hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các cơ sở đào tạo,

bồi dưỡng, hình thành một mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên

thống nhất, ổn định. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp quy về

tổ chức bộ máy của một số cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho

phù hợp với tình hình mới, đặc biệt chú trọng đến các quy định về tuyển

chọn đội ngũ giảng viên.

Xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ đội ngũ giảng viên.

Có chính sách đầu tư kinh phí cho công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao năng lực cho đội ngũ giảng viên cơ hữu về kiến thức chuyên môn và

phương pháp sư phạm hiện đại, đảm bảo nguyên tắc giảng viên trong các cơ

sở đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND phải được đào tạo cơ bản về

chuyên môn giảng dạy. Nghiên cứu xây dựng chính sách và tổ chức đào tạo

nguồn giảng viên và cơ chế cử giảng viên đi hoạt động thực tế tại cơ sở. Có

84

thể lựa chọn những Kiểm sát viên có năng lực, có khả năng để đào tạo, bồi

dưỡng họ trở thành giảng viên.

Bên cạnh đó, có chế độ khuyến khích và bắt buộc học tập đối với đội

ngũ Kiểm sát viên, đồng thời kiểm tra định kỳ về kiến thức, trình độ chuyên

môn nghiệp vụ thông qua các hình thức thi về chuyên môn nghiệp vụ do

VKSND tối cao tổ chức hoặc VKSND địa phương tổ chức.

- Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Kiểm sát viên VKSND gồm có:

tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm, hưu trí, chế độ khen thưởng…

Về chế độ tiền lương, do đặc điểm của đội ngũ Kiểm sát viên VKSND

là thực hiện nhiệm vụ có nhiều đặc thù, nên ngoài nguồn thu nhập là tiền

lương thì cần quy định thu nhập tăng thêm bằng việc trích các khoản tiết

kiệm chi phí thường xuyên theo cơ chế khoán thu, chi ngân sách và tự chủ

tài chính. Nhất là thực hiện chế độ phụ cấp đặc thù cho các bộ, công chức,

viên chức VKSND được quy định tại Điều 96 Luật tổ chức VKSND năm

2014. Những thu nhập thêm ngoài tiền lương này vừa có tác dụng động

viên, khuyến khích đội ngũ Kiểm sát viên, vừa cho phép khắc phục những

bất hợp lý của chế độ, chính sách chung.

Thứ ba, nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình xây dựng, hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND bảo đảm

chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ là một quá trình phức tạp và

lâu dài. Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau,

trong đó quy trình soạn thảo, thẩm định và trình ban hành có một vai trò rất

quan trọng. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Cần phải đổi mới và hoàn thiện

quy trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật".

Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

hiện nay chưa được quy định cụ thể theo quy trình soạn thảo thống nhất, dẫn

85

đến nội dung, hình thức, phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp

luật này không đồng nhất và khó thực hiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp

luật đã ban hành không bảo đảm về hình thức và nội dung, còn có tình trạng

cục bộ, trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn nhất định.

Để khắc phục những tồn tại nêu trên và bảo đảm nâng cao chất lượng

của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phải tiếp tục đổi

mới quy trình lập quy theo hướng lấy ý kiến rộng rãi của nhận dân và những

đơn vị có liên quan, khai thác tối đa trí tuệ của nhân dân và tổng kết thực

tiễn vào hoạt động xây dựng pháp luật. Nhà nước phải có lộ trình xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là chương trình xây dựng luật và pháp

lệnh của Quốc hội. Gắn chương trình này với yêu cầu hoàn thiện pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND, phân định chính xác nhu cầu và các thứ bậc ưu

tiên của luật, pháp lệnh cần ban hành, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện, ổn

định và khả thi của hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.

Đồng thời, chương trình xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên phải là

cơ sở cho việc lập chương trình lập quy của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa

phương. Chương trình lập quy phải bao gồm cả cơ chế, biện pháp bảo đảm

thực hiện, ngân sách dành cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn

thảo, cơ quan ban hành, dự tính toàn diện các điều kiện, bảo đảm nguyên tắc

không ban hành văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND khi

chưa có đủ điều kiện.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp luật để tạo chỗ dựa

khoa học cho hoạt động xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, đồng

thời thường xuyên tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND

và Kiểm sát viên nhằm: làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn về Kiểm sát viên

VKSND; vị trí, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phạm vi

điều chỉnh, đối tượng mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh,

86

phương pháp mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh.

Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND cần chú ý những vấn đề sau:

Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng,

nhiệm vụ Viện kiểm sát nào thì giao cho Viện kiểm sát chủ trì việc soạn

thảo. Đơn vị chủ trì phải lập chương trình, kế hoạch, lựa chọn thành thần

tham gia soạn thảo và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan để thực

hiện đúng tiến độ và có chất lượng.

Đơn vị được giao chủ trì soạn thảo, ngoài việc nghiên cứu vấn đề soạn

thảo một cách có hệ thống, trên cơ sở xem xét toàn diện cả yếu tố lịch sử thì

cần nghiên cứu pháp luật quốc tế có liên quan để lựa chọn những điểm mới,

phù hợp với điều kiện nước ta. Đồng thời, khảo sát, nghiên cứu thực tiễn về

nội dung vấn đề đang soạn thảo; thu thập, nghiên cứu các thông tin, tư liệu

có liên quan, tiến hành hệ thống hóa, tổng kết, đánh giá những văn bản hiện

hành về lĩnh vực, nội dung đang soạn thảo để tìm ra những bất cập cần sửa

đổi, bổ sung; xây dựng đề cương, xác định nội dung, chương mục, tên gọi,

bố cục dự thảo văn bản; trên cơ sở đó tiến hành dự thảo nội dung văn bản

quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND và lấy ý kiến nhân dân, các

đơn vị có liên quản để tổng hợp, lựa chọn điểm cần sửa đổi, bổ sung.

Công tác dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND phải đáp ứng những nội dung về: sự cần thiết phải ban hành văn

bản; tính hợp Hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ

thống văn bản quy định về Kiểm sát viên; tính khả thi của văn bản; sự phù

hợp của hình thức văn bản; bố cục của văn bản; kỹ thuật soạn thảo văn bản.

Sau khi nhận được văn bản thẩm định dự thảo, đơn vị chủ trì có trách

nhiệm lấy ý kiến từ tổ chức, cá nhân, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; đồng thời

giải trình bằng văn bản việc tiếp thu ý kiến thẩm định và trình hồ sơ đã được

thẩm định cho cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để ban hành đúng

87

trình tự, thủ tục.

3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND hiện nay

3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Về khen thưởng Kiểm sát viên, cơ sở pháp lý chủ yếu vẫn là Luật thi

đua khen thưởng. Việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến

khích vật chất đối với tổ chức, cá nhân có thành tích đã được Luật quy định

tương đối đầy đủ. Bên cạnh những phần thưởng về tinh thần, những phần

thưởng về vật chất cũng có những ý nghĩa nhất định. Vấn đề này cần được

quy định chính thức và đầy đủ hơn trong hệ thống pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND, theo hướng quy định rõ các nguyên tắc, tiêu chuẩn, điều kiện,

hình thức, trình tự, nguồn tài chính, đảm bảo việc khen thưởng đối với Kiểm

sát viên VKSND phải công khai, minh bạch, công bằng. Các tiêu chuẩn

khen thưởng nên quy định theo hướng nhấn mạnh kết quả công việc và cần

có sự định lượng rõ ràng về "thành tích xuất sắc", "thành tích đặc biệt",

“thành tích đột xuất”… để công tác khen thưởng đối với Kiểm sát viên

VKSND đạt hiệu quả thiết thực.

Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, hội nhập quốc tế thì việc tăng cường các điều kiện đảm bảo thực hiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND về cơ sở vật chất, trang thiết bị phương

tiện làm việc và các điều kiện đảm bảo cho hoạt động của Kiểm sát viên

VKSND là yêu cầu thiết yếu. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, có thể thấy trong

bối cảnh hiện nay, điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND cần:

Một là, quan tâm đến đời sống cán bộ, công chức VKSND nói chung

và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, đảm bảo cho Kiểm sát viên VKSND

88

có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ; quan tâm đào tạo, đặc biệt là đào

tạo về ứng dụng công nghệ cho cán bộ, Kiểm sát viên VKSND, đẩy mạnh

ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa hoạt động của

VKSND trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị; xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ, cần quy định

kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động, chế độ chính sách

của cán bộ, Kiểm sát viên VKSND và cán bộ các cơ quan tư pháp phải có

những đặc thù riêng.

Hai là, có lộ trình kế hoạch dài hạn và cụ thể từng năm trong việc

tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động

của Kiểm sát viên VKSND.

Ba là, xác định loại, số lượng, định mức cụ thể về cơ sở vật chất,

phương tiện phục vụ hoạt động của Kiểm sát viên VKSND như: Trụ sở

làm việc, phương tiện đi lại, trang thiết bị kỹ thuật v.v.

Bốn là, xây dựng các quy định về quản lý, sử dụng kinh phí, trang

thiết bị, phương tiện hiện đại cho hoạt động của Kiểm sát viên VKSND.

3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật của Kiểm

sát viên VKSND là một nội dung quan trọng của công tác quản lý cán bộ,

công chức. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra có thể phát hiện được vi

phạm, từ đó đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý cán bộ. Để việc thanh tra,

kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả, cần xây dựng các quy định pháp luật về

thanh, kiểm tra, tránh việc lạm dụng kiểm tra mà gây phiền hà đến hoạt

động của cán bộ, Kiểm sát viên. Đồng thời, đảm bảo công khai, minh bạch,

dân chủ, công bằng trong quy trình kiểm tra và xử lý vi phạm (nếu có). Quy

định cụ thể các tiêu chí, phương pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi

phạm pháp luật Kiểm sát viên VKSND, cần phải có tiêu chuẩn vừa mang

89

tính định tính và tiêu chẩn mang tính định lượng theo hướng gắn với kết

quả, mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ cũng như vi phạm của Kiểm

sát viên VKSND. Tổng kết cuối năm, yêu cầu mỗi Kiểm sát viên VKSND

phải kê khai kết quả công tác của mình, làm cơ sở để đánh giá và phân loại

thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên

VKSND.

Một trong những nguyên tắc của việc sử dụng Kiểm sát viên VKSND

là phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa thưởng và phạt. Về công tác xử lý vi

phạm, cơ sở pháp lý được áp dụng là Nghị định số 35/2005/NĐ-CP về xử lý

kỷ luật đối với cán bộ, công chức và Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Thông

tư số 03/2004/TT-BNV và quy định tại Luật tổ chức VKSND năm 2014,

Quy định về xử lý kỷ luật trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành theo

Quyết định số 183/QĐ-VKSTC-T1 ngày 04/4/2016 của Viện trưởng

VKSND tối cao. Tuy nhiên, có thể thấy các quy định pháp luật về xử lý kỷ

luật đối với cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên nói riêng hiện

vẫn còn nhiều hạn chế. Quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND cần quy định rõ khách thể của vi phạm pháp luật; thế nào là vi

phạm pháp luật; vi phạm ở mức độ nặng, nhẹ; trách nhiệm liên đới của công

chức lãnh đạo khi người dưới quyền vi phạm v.v… làm cơ sở để xác định

trách nhiệm pháp lý đối với Kiểm sát viên VKSND.

Mặt khác, hiện nay việc quy định thành phần và quy chế hoạt động

của Hội đồng kỷ luật chưa cụ thể. Điều này dễ dẫn đến tình trạng các

VKSND thực hiện việc kỷ luật đối với Kiểm sát viên theo những cách khác

nhau. Trong khi Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận hữu cơ của đội ngũ

cán bộ, công chức nhà nước, vì vậy xử lý kỷ luật Kiểm sát viên VKSND,

cũng như các vấn đề khác về chế độ pháp lý đối với họ cần phải được quy

định và áp dụng thống nhất trên cả nước.

90

Kết luận chương 3

Để xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống văn bản pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt

Nam hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trước hết

phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết thực tiễn; phân tích, đánh

giá đầy đủ những kết quả đạt được, mặt còn hạn chế, bất cập của thực trạng

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND và lý giải rõ những nguyên nhân chủ

yếu của thực trạng đó. Đồng thời, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND cần quán triệt một số quan điểm cơ bản, đó là hoàn thiện pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của

Đảng về công tác cán bộ; hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân; hoàn

thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu cải cách hành

chính nhà nước.

Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu

cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân chỉ có thể đạt được khi

tiến hành thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: Tổ chức công tác rà

soát, hệ thống hóa, tổng kết kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện pháp

luật Kiểm sát viên VKSND; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung văn bản

quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao chất lượng, đổi

mới quy trình xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND trên cơ sở phát huy dân chủ ở cơ sở.

91

KẾT LUẬN

Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có

hệ thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa trên

cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận

văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ, công chức của Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay, bổ sung vào hệ thống lý luận trên cơ sở đánh giá

thực tiễn vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Từ đó đưa

ra giải pháp, định hướng hoàn thiện trong thời gian tới, góp phần đổi mới công

tác cán bộ và cải cách tư pháp.

Bên cạnh những đóng góp chung, các kết quả nghiên cứu chuyên sâu về

pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong luận văn còn góp phần nâng cao nhận

thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong hệ thống pháp

luật và trong đời sống xã hội. Từ những phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thưc

tiễn, luận văn đã đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND

nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm

sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên, góp phần rất quan trọng vào việc đấu

tranh, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng và trên cả

nước nói chung, nhằm mục tiêu chung là bảo vệ tính mạng, sức khỏe nhân dân,

bảo vệ trật tự an toàn xã hội, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trên cơ sở lý luận, phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật Kiểm sát

viên VKSND, tác giả đã lồng ghép phân tích thực trạng của pháp luật Kiểm sát

viên VKSND trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa. Đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, điều

kiện của tình hình thực hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện phát luật.

Từ những vấn đề lý luận và tiễn, đưa ra phương hướng và đề xuất một số giải

92

pháp để hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong tương lai. Kết quả đạt

được bước đầu trong luận văn là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân tác giả với sự

giúp đỡ nghiêm túc và tinh thần đầy trách nhiệm của các thầy cô, các nhà khoa

học, bạn bè, đồng nghiệp trong ngành Kiểm sát và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình

của thầy hướng dẫn khoa học Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Ngọc Vượng. Tuy nhiên,

do điều kiện nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ và khả năng của bản thân tác giả

cũng mới bước đầu nghiên cứu khoa học nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi

những hạn chế, thiếu sót. Tác giả luận văn với tinh thần cầu thị rất mong đón nhận

được sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học và các đồng nghiệp để một mặt

tiếp tục hoàn thiện bản thân và mặt khác để tiếp thu chỉnh sửa làm cho luận văn

hoàn thiện hơn./

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ (2015), Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2020 định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2016), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực

hiện năm 2020 (giai đoạn 2016-2020), Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2015), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2015 của Bộ Chính

trị Về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ

quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020.

4. Chính phủ (2016), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm

2010

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Chỉ thị số 29- CT/TW ngày 8/11 của

Ban Bí thư trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ

quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của

Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2020, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của

Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

9. Đảng, Đoàn Quốc hội (2015), Kế hoạch số 290-KH/ĐĐQH về việc thực

hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội.

10. Đỗ Văn Đương (2016), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách

tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.

11. Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2013 (2014), Nxb Lao động

94

xã hội, Hà Nội.

12. Hiến pháp Việt Nam từ năm 2016 (2017), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

13. Lê Lan Chi (2017), Phân biệt khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự với các khái niệm liền kề”, Tạp chí Nghề Luật số

5/2017.

14. Lê Thị Tuyết Hoa (2012), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Luật học, Hà Nội

15. Lê Hữu Thể (2012), "Bàn về khái niệm quyền công tố", Tạp chí kiểm sát,

(8).

16. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2015), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

17. Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn.

18. Lê Văn Quang - Văn Đức Thanh (2016), Nhà nước pháp quyền XHCN

và các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Ngô Thành Can (2017), Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực

trong khu vực công, Nxb Lao động.

20. Nguyễn Minh Sản (2019), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền

cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb. Chính

trị - Hành chính, Hà Nội.

21. Nguyễn Minh Tuấn (2015), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật.

22. Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số

vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

23. Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS

nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019.

24. Phạm Hồng Hải (2016), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ

95

thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật.

25. Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011).

26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981), Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật tổ chức

Quốc hội, Hà Nội.

28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Bộ luật tố

tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật tổ chức

Quốc hội, HàNội.

30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật tổ chức

Chính phủ, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật ban

hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật tổ chức

Quốc hội, Hà Nội.

33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Pháp lệnh

Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),Hà Nội.

34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Bộ luật tố

tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ luật tố

tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Cán bộ

công chức, Hà Nội.

38. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật tổ chức

96

Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

39. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật tố

tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

40. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật dân

sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

41. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2015), Cơ sở lý luận và thực

tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Tô Tử Hạ (2013), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện

nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Tào Thị Quyên (2018) “Bảo vệ Hiến pháp góp phần bảo đảm sự bền

vững của chế độ chính trị”, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-

cuu-ly-luan/item/2437-bao-ve-hien-phap-gop-phan-bao-dam-su-ben-vung-

cua-che-do-chinh-tri.html, (27/3/2018).

44. Minh Vũ (2016) “Triển khai thi hành các đạo luật trong lĩnh vực tư

pháp”, http://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc-su-kien/trien-khai-thi-hanh-cac-

dao-luat-trong-linh-vuc-tu-phap-470964, (03/04/2016).

45. Lê Tuấn Phong (2016) “Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam”,

kiem-sat-vien-vien-kiem-sat-nhan-dan-trong-thuc-hanh-quyen-cong-to-o-

viet-nam.html>, (25/4/2016).

46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình lý luận chung về nhà

nước và pháp luật, Nxb Bộ Tư pháp, Hà Nội.

47. Từ điển tiếng Việt (2011), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học.

48. Từ điển luật học (2016), Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp.

49. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2012), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân, Hà Nội.

50. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Kế hoạch số 23/KH-VKSTC về

97

thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2016-2020,

Hà Nội.

51. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Quyết định số 29/2012/QĐ-TCCB

ngày 15 tháng 01 năm 2012 về việc ban hành quy chế làm việc của Hội đồng

tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân

52. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh (2015 - 2020), Báo cáo hoạt động công tác

kiểm sát từ năm 2015 đến năm 2020.

53. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2015 - 2020), Báo cáo công tác

tổ chức cán bộ từ năm 2015 đến năm2020.

98