BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ........../..........
BỘ NỘI VỤ ....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THANH TÂN
HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ........../..........
BỘ NỘI VỤ ....../......
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THANH TÂN HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐÀM BÍCH HIÊN
THỪA THIÊN HUẾ - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự
hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Đàm Bích Hiên. Các số liệu, nội
dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Học viên
Lê Thanh Tân
LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, quý thầy cô Khoa Sau
đại học- Học viện Hành chính Quốc gia và quý thầy cô tham gia giảng dạy đã tận
tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ em trong thời gian học tập. Đặc biệt, em xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đàm Bích Hiên đã dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ
để hướng dẫn em hoàn thành Luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn đến ông Phạm Trung Uy- Chánh án Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi; Tập thể Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; Phòng kiểm
tra nghiệp vụ và thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và thi đua khen
thưởng- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và toàn thể công chức Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa học và
Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè là nguồn động viên lớn để em tham
gia học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.
Trong thời gian qua, bản thân em rất nỗ lực trong việc học cũng như viết
Luận văn. Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên quá trình viết
Luận văn sẽ có những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý bấu của quý
thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018
Học viên
Lê Thanh Tân
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA
NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH .............. 8
1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh ................................................................... 8
1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân
tỉnh ......................................................................................................................... 12
1.3. Những vấn đề lý luận về thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh .................... 22
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 33
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI
HÀNH ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI .......................... 34
2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ................................. 34
2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi ....................................................................................................................... 36
2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án từ năm 2013-2017 ..... 54
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 67
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI ............................................................................................. 68
3.1. Phương hướng đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án .............. 68
3.2. Giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án .................. 73
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 105
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 107
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ RÕ
1 BLHS Bộ luật hình sự
2 BLHS 1999 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
3 BLHS 2015 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
4 BLTTDS 2015 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
5 BLTTHS 2003 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
6 BLTTHS 2015 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
7 CQĐT Cơ quan điều tra
8 CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
9 ĐTV Điều tra viên
10 HĐTPTANDTC Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
11 KSV Kiểm sát viên
12 LTCTAND 2002 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002
13 LTCTAND 2014 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
14 LTCVKSND 2002 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
15 LTCVKSND 2014 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
16 LTTHC 2015 Luật tố tụng hành chính năm 2015
17 NBC Người bào chữa
18 NBVQLHPCĐS Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự
19 NCQL&NVLQ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
20 NTGTT Người tham gia tố tụng
21 NTHTT Người tiến hành tố tụng
22 TAND Tòa án nhân dân
23 TAND huyện Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã
24 TAND tỉnh Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
25 TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao
26 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
27 TP; HTND Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân
28 VKS Viện kiểm sát
29 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
30 VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện thực hóa Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về Cải cách tư pháp đến năm
2020; Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ của Tòa án
nhân dân, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm,
nghĩa vụ chứng minh của Tòa án trong tố tụng nhằm bảo đảm Tòa án là cơ quan xét
xử và thực hiện quyền tư pháp.
Để có thể ngày càng thực hiện tốt chức năng nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, yêu cầu của Hiến pháp bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, nâng cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng công tác xét xử, Tòa
án là trung tâm Cải cách tư pháp, đòi hỏi hệ thống Tòa án phải luôn chú trọng hoạt
động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án; vì vậy, Quyết định số 345/2016/QĐ-CA
ngày 7 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quy định về tổ
chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, trong đó có quy định về Phòng Kiểm tra nghiệp
vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao đã ra Quyết định số 346a/2017/QĐ-TANDTC ngày 01 tháng 3 năm 2017 về
việc ban hành Quy chế kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Hoạt động kiểm tra của hệ thống Tòa án nhằm đảm bảo tuân thủ nguyên tắc
mọi hoạt động của các chủ thể trong việc áp dụng, thi hành, tuân thủ, sử dụng pháp
luật đều phải được kiểm tra; đồng thời, hoạt động thi hành án là khâu quan trọng để
bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án phải được các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và các chủ thể thi hành án, chấp hành án phải thực
hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ, chủ thể kiểm tra là Chánh án Tòa án
nhân dân cấp trên đối với những chủ thể được kiểm tra là toàn thể công chức, người
lao động do mình quản lý và Tòa án cấp dưới trực thuộc. Đối tượng kiểm tra nghiệp
vụ là sự tuân thủ pháp luật của những chủ thể được kiểm tra đối với toàn bộ hoạt
động chuyên môn trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết, xét xử các loại án,
1
giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và về hành chính – tư pháp, hoạt động thi
hành án và các hoạt động liên quan đến những hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, xử
lý những sai phạm theo quy định pháp luật, phục vụ hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ,
tổng kết kinh nghiệm xét xử, phòng ngừa vi phạm và nhân rộng những ưu điểm,
những cách làm mới, phục vụ công tác thi đua khen thưởng, hoạt động quản lý hành
chính – tư pháp và công tác tổ chức cán bộ.
Tòa án nhân dân là cơ quan ra các quyết định về thi hành án hình sự, giải
thích bản án, quyết định giải quyết các loại án, loại việc theo yêu cầu của cơ quan
thi hành án và công dân, ra quyết định buộc thi hành án hành chính khi có đơn yêu
cầu, phối hợp với cơ quan chức năng, cơ quan liên quan trong công tác thi hành án
theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên đến nay, công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án vẫn còn
những bất cập như công tác kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án chưa được
luật hóa, người làm công tác kiểm tra cũng chưa được quan tâm đào tạo chuyên
môn về công tác này, trong thời gian dài chưa có hành lang pháp lý về công tác
kiểm tra; pháp luật về thi hành án thời gian qua ngoài việc quy định ở luật chuyên
ngành, còn quy định tại luật tổ chức và nhiều văn bản dưới luật do nhiều cơ quan
ban hành, phối hợp ban hành nên việc đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra nghiệp
vụ và thi hành án thời gian qua cũng có khó khăn, bất cập nhất định.
Quá trình đổi mới theo chủ trương của Đảng, các lĩnh vực đời sống xã hội
từng bước phát triển, đã thúc đẩy hệ thống pháp luật được kiện toàn để phát huy vai
trò của nó trong thực tiễn. Do đó, tất yếu công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
trong hệ thống Tòa án nhân dân ngày càng là vấn đề mang tính thời sự.
Vì thế, tôi chọn đề tài “Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án từ thực
tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu thấy rằng, liên quan đến lĩnh vực pháp luật về thi hành án hình sự,
pháp luật về thi hành án phạt tù có thời hạn nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều bài viết trên tạp chí với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau, như:
2
Sách “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của PGS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng đã đề cập
đến thực trạng pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án hình sự và phương hướng,
giải pháp hoàn thiện;
Sách “Thử bàn về pháp luật thi hành án” của TS. Nguyễn Đình Lộc đã
nghiên cứu về bản chất, nội dung hoạt động thi hành án, tính tư pháp và tính hành
chính trong pháp luật về thi hành án hình sự, dân sự, hành chính;
Sách “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án hình sự ở
Việt Nam” của TS. Vũ Trọng Hách, do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006 đã
nghiên cứu các quan điểm về bản chất, nội dung của thi hành án hình sự, thực trạng
và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về mô hình quản lý Nhà nước
trong thi hành án hình sự;
“Một số vấn đề về thi hành án hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, do nhà
xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2002; “Bình luận khoa học Luật thi hành
án hình sự” Nxb Hồng Đức (2011) của TS. Trần Minh Hưởng;
Bài viết “Thực trạng pháp luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn
thiện” của TS. Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2006
đã phân tích thực trạng thi hành án phạt tù, đề xuất mô hình tổ chức bộ máy thi hành
án và trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án phạt tù;
Bài “Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị” của TS.
Nguyễn Phong Hoà, đăng trên tạp chí TAND số 21/2006 đã nghiên cứu từ thực tiễn
về công tác thi hành án hình sự, kiến nghị hoàn thiện Luật tổ chức, Luật chuyên
ngành về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án hình sự;
Luận văn Thạc sỹ luật học “Những vấn đề về thi hành án phạt tù có thời hạn
ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Nam (2010). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn
đề thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người” của Hứa
Thị Thơ (2011). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
hoãn thi hành án trong Luật thi hành án hình sự Việt Nam” của Nguyễn Văn Sơn
(2014) đã nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của hoạt động thi hành án hình sự;
3
Bài “Những vấn đề cần chú ý khi phục hồi điều tra vụ án, bắt, tạm giữ, tạm
giam người bị truy nã, phục hồi điều tra bị can” của Dương Ngọc An, Tạp chí Kiểm
sát số 06/2010 viết về cơ quan điều tra, VKS, Tòa án cần chú ý rà soát những
trường hợp tạm đình chỉ để đưa ra đình chỉ những vụ án đủ điều kiện trong các
trường hợp: Đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, truy tố, chuẩn bị xét xử, đưa ra xét xử
nhưng tạm đình chỉ do bị can, bị cáo bỏ trốn, sau đó do pháp luật hình sự thay đổi
nên hành vi đã bị khởi tố không bị coi là tội phạm; Chưa khởi tố bị can nhưng hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự…để tránh phục hồi điều tra vụ án, khởi tố,
truy tố, đưa ra xét xử oan, sai và hoạt động kiểm sát giam, giữ và thi hành án hình
sự, hoạt động kiểm tra cần chú ý các vấn đề này…).
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến các nội dung cơ bản về
thi hành án và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu toàn diện,có hệ thống về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa
án nhân dân tỉnh nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Do đó,
tác giả chọn hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh nói chung và Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, qua đó góp phần tác động tích cực đến các
hoạt động chuyên môn của 2 cấp Tòa án trong tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động
kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở
nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong hệ thống
Tòa án nhân dân và phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong thực hiện
hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong
hệ thống Tòa án nhân dân.
4
- Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các lĩnh vực công tác cụ
thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và các hoạt động kiểm tra nghiệp vụ,
hoạt động thi hành án
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật, của hệ thống
Tòa án và quy định của TAND tỉnh Quảng Ngãi về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án gắn với thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung:
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án cấp tỉnh là một vấn
đề rất rộng và đa dạng. Tuy nhiên, với phạm vi Luận văn Thạc sỹ, đề tài tập trung
nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án và thực tiễn thi
hành đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành
chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, về hành chính – tư pháp và hoạt động
thi hành án hình sự, án hành chính.
- Phạm vi không gian:
Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi thời gian:
Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, từ đó làm cơ
sở đánh giá kết quả, đồng thời tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó để đề ra
các giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động này.
5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài sử dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, gồm: nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến; phạm trù nhân quả, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực; lý
luận nhận thức; pháp luật xã hội chủ nghĩa về vi phạm pháp luật, về các giai đoạn của
quá trình áp dụng pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta vận
dụng Chủ nghĩa Mác – Lê nin vào quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam về mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tổ chức hoạt động và
chức năng, nhiệm vụ, bản chất của Nhà nước ta, về phương pháp giải quyết đấu tranh
giai cấp, ghi nhận và bảo vệ quyền con người, trách nhiệm của cán bộ công chức với
nhân dân, với Đảng, với Nhà nước; cơ chế phối hợp và chế ước trong hệ thống các cơ
quan tư pháp của nước ta; mô hình tố tụng đan xen trong các luật tố tụng; tư tưởng về
đổi mới và quá trình đổi mới cùng các quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp, về
chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.
- Về phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của triết học Mác-Lênin cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh;
phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và các giải pháp trong luận văn cung cấp thông tin về
lý luận và hoạt động thực tiễn với những biện pháp cải tiến đang và cần phải được
tiếp tục áp dụng trong công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án để góp phần cho
việc luôn chú trọng khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những ưu điểm,
tiếp tục tìm những giải pháp hữu ích trong quá trình thực hiện các hoạt động này
không chỉ đối với Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, mà chúng tôi cho rằng còn có
thể được các Tòa án nhân dân 2 cấp các tỉnh xem xét ứng dụng, góp phần thiết
thực nâng cao kết quả, chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng và thi hành án cũng
như hoạt động kiểm tra để ngày càng thực hiện tốt chức năng xét xử và thực hiện
6
quyền tư pháp của hệ thống Tòa án cũng như phục vụ chức năng giám đốc xét xử,
tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân dân cấp trên
đối với Tòa án nhân dân cấp dưới, bảo đảm pháp chế thống nhất trong hoạt động
tố tụng, bảo đảm tính đúng đắn, kịp thời trong hoạt động thi hành án cũng như góp
phần thiết thực phục vụ yêu cầu chính trị của các địa phương trong quá trình thực
hiện các mục tiêu phát triển.
Luận văn còn có thể cung cấp thông tin cho người quan tâm để ứng dụng trong
thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong
điều tra, truy tố án hình sự; việc thụ lý, giải quyết các loại án theo các thủ tục tố tụng,
cấp tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp dân sự, trong
đấu tranh phòng chống các loại vi phạm, tội phạm và hoạt động thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trên phạm vi toàn quốc nói chung.
Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng
pháp luật thi hành án, pháp luật dân sự, hành chính, hình sự, pháp luật tố tụng hình
sự về hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần tích lũy tri
thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng và hoạt động thi hành án hình sự, phục
vụ hoạt động quản lý hành chính – tư pháp, góp phần hoàn thiện chế định công tác
kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của hệ thống Tòa án, nâng cao ý thức trách nhiệm
của những người làm công tác này, ngăn chặn vi phạm trong hoạt động tư pháp và
phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Cơ cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, nội dung gồm ba chương, mỗi
chương có tiểu kết luận, kết thúc Luận văn có kết luận; được kết cấu như sau:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án của tòa án nhân dân tỉnh
- Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
- Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ
VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH
1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp. Luật tổ chức TAND năm 2014 đã qui định tổ chức TAND bao
gồm: TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;
các Toà án quân sự (Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014). Như vậy Tòa án nhân
dân tỉnh là một bộ phận trong hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân hiện nay.
1.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân tỉnh
Tòa án nhân dân tỉnh xét xử nhân danh Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam, căn cứ vào pháp luật hiện hành của nhà nước để đưa ra những phán
quyết thể hiện trực tiếp ý chí của nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ
thể. Ý chí đó được thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao,
đánh giá khách quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản
án hay quyết định. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND tỉnh phản ánh một cách
trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí của nhân dân.
Thông qua hoạt động xét xử của mình, Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện được
việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan nhà nước, quyền công dân, quyền con
người thông qua hoạt động xét xử, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ trật tự xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, TAND cấp tỉnh có vị trí trung tâm trong việc tổ chức,
thực hiện quyền tư pháp ở cấp tỉnh, với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động
xét xử . Đây là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách
tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến
pháp năm 2013 quy định tại điều 102.
8
1.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở các qui định
nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014
đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Xuất phát từ địa vị pháp lý
của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo
luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng,
chức năng xét xử của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá
trình ra đời và phát triển của Tòa án. Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống
Tòa án, TAND tỉnh có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.
Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của pháp luật
tố tụng, TAND tỉnh còn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi hành án hình sự,
hành chính. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn hoặc tạm đình
chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian thử thách của án treo, xét
miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành
hình phạt tử hình; ra quyết định thi hành án hành chính. Điểm mới theo Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy
định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tỉnh
Theo quy định tại Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Tòa án nhân dân
cấp tỉnh có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.
- Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
9
- Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa
án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh
Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp
luật về tổ chức và hoạt động của TAND. Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền xét
xử là sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc
phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của
từng vụ án cụ thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh
thổ hoặc theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”.
Vấn đề thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh là nội dung phức tạp vì nó có liên
quan đến thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật qua các thời
kỳ khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp.
- Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh được qui định như sau:
+ Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ
việc theo quy định của pháp luật tố tụng; sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội
phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp dưới mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử; phúc thẩm vụ việc
mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện
có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị
với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét,
kháng nghị; và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
10
+ Theo Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm những vụ việc: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của BLTTDS, trừ
những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy
định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; yêu cầu về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33
của BLTTDS, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; tranh chấp, yêu
cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS mà
Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc
theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.
+ Theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án cấp tỉnh giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi
kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi
cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một
trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành
chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người
khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi
11
cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp
tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước đó. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với
Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án
có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi
làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Khiếu
kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà
người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể
lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp
huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính 2015.
1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án
nhân dân tỉnh
1.2.1. Khái niệm hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Trong xã hội loài người, hoạt động quản lý không phải là nhu cầu mang tính
lịch sử mà là nhu cầu vĩnh viễn. Nói một cách khác, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài
người kể cả khi xã hội loài người không còn giai cấp. Ăng ghen đã chỉ ra “Chức
năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội”.
Vì thế, bất cứ hoạt động công hay tư và thuộc lĩnh vực nào cũng cần có kiểm
tra, bởi đây là khâu không thể thiếu đối với vai trò quản lý. Quản lý nhà nước lại
càng cần có kiểm tra. Chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định và hành vi
12
trong lĩnh vực hành chính, lĩnh vực tư pháp, hành chính–tư pháp cũng bao gồm
phạm vi rất rộng: Kiểm tra tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính cần thiết; kiểm tra của
cấp trên đối với cấp dưới…Hoạt động quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám
sát. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà
nước mà không được kiểm tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền vì
động cơ mục đích cá nhân, cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối
tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để
chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế
kiểm tra của Nhà nước ta gồm nhiều loại hình kiểm tra nói trên.
Theo Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh (nhà xuất bản Mũi Cà Mau,
1997) thì, “kiểm tra” được xem là kiểm xét, tra cứu [7, tr.651]; còn “nghiệp vụ” được
xem là việc làm, nghề [7, tr.874]. Từ điển pháp luật Anh - Việt của tác giả Nguyễn
Thế Kỳ (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1994) thì “Kiểm tra” là xem xét tình
hình thực tế để đánh giá, nhận xét [12, tr.203], để chỉ hoạt động của chủ thể kiểm tra
tác động vào chủ thể được kiểm tra.
Khái niệm kiểm tra: Theo nghĩa rộng, để chỉ hoạt động của các tổ chức xã
hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo
nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực
hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà
nước. Theo nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét,
xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù
hợp với yêu cầu đòi hỏi của pháp luật và chủ thể kiểm tra có thể áp dụng các chế tài,
biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật.
Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một
chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp. Trên
một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận
13
xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi
con người biết lao động một cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải
kiểm tra, như Ăng ghen đã nói “Mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người
đều chứa đựng trong đó những yếu tố của kiểm tra. Đối với mỗi con người tự nhiên,
mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để
thực hiện mục đích”. Như vậy, về lịch sử hình thành và phát triển thì kiểm tra xuất
hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong
lịch sử và kiểm tra cũng là yếu tố cơ bản để hình thành Nhà nước.
Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, cá nhân nhất định và mang
tính định hướng của chủ thể kiểm tra để cho các hoạt động của chủ thể được kiểm
tra ngày càng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chức trách được giao và sự phân
công, phối hợp giữa các chủ thể này luôn hoàn thiện để hoàn thành tốt kế hoạch đã
đề ra. Do vậy, khi kiểm tra phải nắm tình hình thực tế để đánh giá xác đáng rằng các
chủ thể được kiểm tra có đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các
hoạt động được giao hay không. Khi kết luận kiểm tra hiệu quả thực tế đối với các
chủ thể được kiểm tra phải đối chiếu với kế hoạch đặt ra của chủ thể kiểm tra và có
thể đối với cả chủ thể được kiểm tra. Từ đó mới có cơ sở hướng dẫn và điều chỉnh
kịp thời các yếu tố liên quan để đảm bảo hiệu quả công việc của từng đơn vị, cá
nhân được kiểm tra và đạt mục đích kiểm tra.
Kiểm tra nội bộ trong hoạt động quản lý công có mục tiêu tìm kiếm động cơ,
nguyên nhân cán bộ làm tốt hay không nhiệm vụ được giao để đề ra và tổ chức thực
hiện các giải pháp thiết thực thúc đẩy, nhân rộng cái tốt, hạn chế cái chưa tốt . Tuy
nhiên, ngoài hoạt động kiểm tra nội bộ của bộ máy quản lý, thì hoạt động quản lý
công cũng chịu sự kiểm tra ở ngoài hệ thống nội bộ, đó là kiểm soát ngoại lai với rất
nhiều chủ thể, nhiều lý do, phương thức, biện pháp, phạm vi, mục đích.
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà chúng ta
không thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những
người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt
động kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề
14
nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức, giữa hai nhân tố chủ quan và khách
quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Từ những phân tích trên có thể hiểu kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa
án là hoạt động mang tính nội bộ của chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra
để đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ thể được kiểm tra và vai trò quản lý, lãnh
đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp thời và
giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định của
pháp luật. Đây là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý hành chính
– tư pháp để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.
Đối với Tòa án nhân dân tỉnh, kiểm tra nghiệp vụ là hoạt động xem xét đánh
giá hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân huyện trực thuộc và vai trò quản lý,
lãnh đạo, điều hành của Tòa án nhân dân tỉnh nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp
thời và giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định
của pháp luật để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Xuất phát từ quan hệ pháp luật mang tính quyền lực giữa chủ thể kiểm tra
với chủ thể được kiểm tra, hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
có những đặc điểm sau:
- Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có thẩm quyền. Hoạt động kiểm
tra nghiệp vụ là một việc làm thường xuyên nhằm đảm bảo cho hệ thống Tòa án
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật. Người có quyền kiểm
tra, cũng chính là nghĩa vụ pháp lý của họ. Kiểm tra nghiệp vụ là một hoạt động có
định hướng và thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật.
- Được tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Kiểm
tra nghiệp vụ là hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật khi đề ra kế hoạch với các phương pháp để kiểm tra những
hành vi, sản phẩm của những cơ quan, tổ chức, cá nhân được kiểm tra, nhất là
kiểm tra các hoạt động tố tụng và thi hành án, trong đó có những hồ sơ các loại vụ
án mà bản án hoặc quyết định xử lý vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đã
15
hoặc đang hoặc sẽ thi hành án để xác định tính đúng, sai, thậm chí nếu phát hiện
có sai lầm nghiêm trọng thì phải xử lý theo pháp luật và xử lý theo quy định của
ngành Tòa án đối với người vi phạm. Cho nên hoạt động này phải được tuân theo
trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định thì mới có giá trị pháp lý về
tính căn cứ và tính hợp pháp.
- Mang tính khách quan. Hoạt động kiểm tra phải mang tính khách quan của
sự xem xét đánh giá từ phía chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra; không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể kiểm tra hay chủ thể được kiểm tra.
Kết quả kiểm tra phải chỉ ra được đầy đủ và kịp thời những ưu điểm, những cái tốt,
những cách làm hay, những vướng mắc, hạn chế tồn tại và nguyên nhân, có biện
pháp pháp lý để khắc phục đúng thời hạn sai lầm, vi phạm nhằm phòng ngừa hoặc
ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả và đề ra các giải pháp để khắc phục hạn chế. Kết
quả kiểm tra còn phục vụ yêu cầu về công tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng.
Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ;
nếu kiểm tra nhằm chỉ tìm ra cái sai vì lý do cá nhân, bao che sai phạm của nhau
hoặc kết luận kiểm tra không khách quan do năng lực người kiểm tra hoặc do kiểm
tra sơ sài, cảm tính, do sự chống đối của chủ thể được kiểm tra, thì sẽ đi ngược lại
với mục đích yêu cầu của hoạt động này và gây ra những hệ lụy xấu cho xã hội.
- Mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Hoạt
động áp dụng pháp luật có các giai đoạn phổ biến: phân tích đánh giá bản chất vụ
việc, lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng, kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn
bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành văn bản đó. Đặc điểm của hoạt động áp
dụng pháp luật là mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, mang tính cá biệt, tính
bắt buộc thực hiện và mang tính sáng tạo, linh hoạt của chủ thể.
Các lĩnh vực hoạt động nghiệp của Tòa án chính là hoạt động áp dụng pháp
luật, nhất là các hoạt động tố tụng và thi hành án. Mỗi một hành vi hay sản phẩm
của hoạt động tố tụng và thi hành án hay trong quản lý hành chính – tư pháp cũng
đều mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo vì đây là các thuộc tính của hoạt
động áp dụng pháp luật.
16
Cần nhận thức rằng, tính linh hoạt và sáng tạo là nhân tố chủ quan của người
có hành vi hay sản phẩm được kiểm tra, có nền tảng từ tinh thần trách nhiệm đối với
nghề nghiệp, với công việc được giao, từ trình độ văn hóa, trình độ pháp luật, trình
độ về khoa học cơ bản, các kiến thức, kinh nghiệm, từ việc đề cao ý thức pháp luật,
niềm tin nội tâm… vì hoạt động áp dụng pháp luật không phải là khuôn mẫu cứng
nhắc. Tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể được kiểm tra hoàn toàn trái ngược với
sự thờ ơ thiếu trách nhiệm, chủ quan duy ý chí hay tùy tiện hoặc vì động cơ cá nhân
nào khác khi thực hiện các hành vi pháp lý, ban hành các sản phẩm pháp lý, mà đó
là thể hiện cao độ của sự tinh thông nghề nghiệp, sự kết hợp giữa lý luận với năng
lực thực tiễn và thể hiện cao độ trách nhiệm và bản lĩnh của mình.
Vì thế, chủ thể kiểm tra khi kiểm tra, đánh giá về mặt pháp lý từng hành vi hay
sản phẩm của chủ thể được kiểm tra cũng phải thể hiện và tôn trọng các thuộc tính
trên thì mới có thể nhận thức, đánh giá và kết luận đúng từng hành vi, sản phẩm. Khi
tôn trọng các thuộc tính này, từ đó, khi cần thiết thì chủ thể kiểm tra mới có thể có
nhận xét đánh giá mang tính chung đối với từng loại hành vi, từng loại sản phẩm.
1.2.3. Đối tượng của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Có nhiều ý kiến cho rằng, đối tượng kiểm tra chính là những con người, cơ
quan, tổ chức, cá nhân mà chịu sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của chủ thể kiểm tra.
Theo ý kiến này, trong hệ thống TAND thì TAND cấp trên, như TAND tỉnh thì
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh là chủ thể kiểm tra, còn các Phó Chánh án, các
Chánh Tòa, các Thẩm phán và các công chức khác trong Tòa án tỉnh cùng tất cả các
cán bộ, công chức của các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc Tòa án nhân dân
tỉnh đều là đối tượng kiểm tra.
Ngược lại, chúng tôi cho rằng, tùy theo từng ngành, cơ quan, tổ chức, mà đối
tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật, các văn bản
dưới luật, các nội quy, quy chế, điều lệ…của các chủ thể được kiểm tra là các cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chức trách
được giao. Từ đó, đối với TAND cấp tỉnh thì Chánh án là chủ thể kiểm tra, còn đối
tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật nội dung,
17
pháp luật tố tụng, pháp luật chuyên ngành, pháp luật về thi hành án, pháp luật về án
phí, lệ phí, pháp luật khác có liên quan, các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật,
các nội quy, quy chế của hệ thống Tòa án, của TAND tỉnh của tất cả cán bộ, công
chức, người lao động của 2 cấp Tòa án chịu sự quản lý, chỉ đạo điều hành của
Chánh án TAND tỉnh và những người này là chủ thể được kiểm tra.
1.2.4. Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ cũng chính là tư tưởng chỉ đạo
trong quá trình xây dựng pháp luật và hạ tầng pháp lý với các thuộc tính của nó,
được chủ thể kiểm tra, chủ thể được kiểm tra nhận thức, quán triệt, tôn trọng và tuân
thủ thi hành nghiêm túc; từ đó, nguyên tắc này sẽ phải được hiện thực hóa cả trong
quá trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của hệ thống Tòa án. Các nguyên tắc cơ
bản cần phải tuân thủ trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ như sau:
- Nguyên tắc xuất phát từ lợi ích chung: Khi xác định mục đích kiểm tra,
khi tiến hành kiểm tra và khi kết luận, phải xuất phát từ lợi ích chung, phải
khách quan, thực sự cầu thị, không định kiến, thiên lệch, phải đặt lợi ích của toàn
hệ thống lên trên hết.
- Nguyên tắc kịp thời và có hiệu quả: Kiểm tra phải đạt được yêu cầu phát
hiện và rút kinh nghiệm kịp thời, thường xuyên đối với vi phạm, sai sót. Khi kiểm
tra phải đánh giá được ưu điểm, hạn chế tồn tại và phải có có biện pháp phát huy ưu
điểm, khắc phục hạn chế, tồn tại, kiên quyết không cho những vi phạm, sai sót lặp
lại và phải có thái độ xử lý đúng mực đối với cá nhân hay tập thể mắc khuyết điểm.
- Nguyên tắc thủ trưởng có trách nhiệm kiểm tra: Chánh án TAND tỉnh có
trách nhiệm thực hiện sự kiểm tra trong phạm vi quản lý hệ thống Tòa án hai cấp.
Các Chánh tòa, Trưởng phòng, Chánh án cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước
Chánh án TAND tỉnh.
- Nguyên tắc mỗi cá nhân tham gia kiểm tra: Về quản lý cũng như về kiểm
tra phải huy động được sự tham gia rộng rãi của tất cả cán bộ công chức trong hệ
18
thống Tòa án hai cấp. Phải đòi hỏi cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án tỉnh
đều có trách nhiệm kiểm tra, ai làm việc gì kiểm tra việc ấy.
1.2.5. Nội dung hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh
Tòa án nhân dân kiểm tra toàn diện các hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án
trực thuộc. Cụ thể đối với Tòa án nhân dân là kiểm tra các Tòa án nhân dân cấp
huyện trực thuộc các nội dung sau:
- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án dân sự.
- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án hành chính.
- Kiểm tra công tác thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các
hoạt động tố tụng và hành chính – tư pháp của Tòa án cấp huyện
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ tập trung vào kiểm tra hoạt động áp dụng các
quy định cụ thể của pháp luật trong quá trình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự, dân
sự, hành chính, thi hành án hình sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các hoạt động
tố tụng và hành chính – tư pháp của các TAND cấp dưới trực thuộc nhằm tổng kết
kinh nghiệm các hoạt động chuyên môn, phát hiện những ưu điểm để nhân rộng,
phát hiện kịp thời những vi phạm, sai lầm để khắc phục hoặc có biện pháp khắc
phục theo quy định pháp luật, nhất là hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm; phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành, tham gia xây dựng
pháp luật, hướng dẫn pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử; công tác thi đua –
khen thưởng, công tác cán bộ…v…v…
1.2.6. Phương pháp kiểm tra nghiệp vụ
Phương pháp kiểm tra là các hình thức, cách thức, biện pháp, chiến thuật tác
động hợp quy luật, hợp pháp và cần thiết do chủ thể có quyền kiểm tra sử dụng đối
với các chủ thể được kiểm tra để làm sáng tỏ và kết luận đúng, đầy đủ, kịp thời đối
tượng được kiểm tra. Đây là phương pháp mang tính mệnh lệnh quyền uy để thực
hiện đúng mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của hoạt động kiểm tra. Nhận thức lý luận về
phương pháp kiểm tra để chủ thể kiểm tra sử dụng linh hoạt, kịp thời, đúng pháp
luật trong thực tiễn và chủ thể được kiểm tra chấp hành chủ thể kiểm tra; tránh biểu
19
hiện chiếu lệ, sơ sài, đối phó, trốn tránh hoặc vì động cơ cá nhân, bệnh thành
tích,…giữa hai phía chủ thể trong quan hệ kiểm tra.
1.2.7. Ý nghĩa của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
Ý nghĩa chính trị: Việc quy định và thực hiện tốt công tác kiểm tra trong hệ
thống Tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa
tập quyền dân chủ có sự phân công phân nhiệm, góp phần quan trọng vào thực thi
pháp luật xã hội chủ nghĩa, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố lòng tin của nhân dân và đồng nghiệp đối
với Đảng, Nhà nước và hệ thống Tòa án; phục vụ các yêu cầu khác về chính trị, về
công tác cán bộ, thi đua khen thưởng, xử lý kỷ luật và tạo ra sự tác động qua lại lẫn
nhau trong quan hệ kiểm tra, quan hệ tố tụng và quản lý hành chính – tư pháp.
Ý nghĩa pháp lý: Công tác kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án là căn
cứ, cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về hoạt động kiểm tra của chủ thể
kiểm tra với chủ thể được kiểm tra nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm và chất lượng
hoạt động của các chủ thể này trong quá trình hoạt động thực tiễn. Qua kiểm tra,
một mặt bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân,
mặt khác thông qua sửa chữa những sai lầm, vi phạm của các chủ thể được kiểm tra,
để từ đó phục vụ công tác giám đốc xét xử, tổng kết kinh nghiệm xét xử, tổng kết
hoạt động kháng nghị và xét xử theo các thủ tục tố tụng đặc biệt, tổng kết công tác
thi hành án, tổng kết kinh nghiệm công tác kiểm tra nhằm ngày càng hoàn thiện hệ
thống pháp luật và hoàn thiện các quy định về hoạt động kiểm tra. Công tác kiểm
tra chống lại tư tưởng chủ quan ỷ lại của những chủ thể có quyền kiểm tra và chủ
thể được kiểm tra trong quan hệ quản lý điều hành, chống lại những vi phạm, tiêu
cực trong quan hệ tố tụng, quan hệ hành chính – tư pháp. Công tác kiểm tra còn có
một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác là làm cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo
thực hiện tốt các nguyên tắc, thủ tục của các luật tố tụng, thực hiện tốt các luật nội
dung, luật chuyên ngành, các văn bản hướng dẫn không chỉ trong hệ thống Tòa án
mà còn tác động tích cực đến cả các cơ quan và người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng để góp phần giải quyết đúng đắn, kịp thời các vụ án, các loại vụ việc
20
nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và công dân, góp phần tạo môi trường pháp lý đúng nghĩa trong nội bộ cơ
quan Tòa án và mối quan hệ phối hợp và chế ước trong các loại quan hệ pháp luật tố
tụng giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng.
Ý nghĩa xã hội: Công tác kiểm tra nghiệp vụ góp phần đảm bảo công bằng
xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động thụ lý, giải quyết, xét xử và
thi hành án của Tòa án, nhằm đảm bảo uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung và cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp là Tòa án nói riêng. Việc đảm
bảo pháp luật được thực thi, giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện quan
trọng để hành vi của mọi công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật
thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực
hiện một xã hội công bằng, dân chủ văn minh; đảm bảo được các quyền cơ bản
của công dân, nhất là trong lĩnh vực hình sự không để xảy ra các trường hợp oan
sai hay bỏ lọt tội phạm.
1.2.8. Các yếu tố tác động đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án
nhân dân tỉnh
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh chịu sự tác động của
các yếu tố sau:
- Các qui định của pháp luật về kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án
nhân dân.
Hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm tra nghiệp vụ chưa
được quy định riêng biệt, cụ thể, rõ ràng; mới chỉ quy định trong chức năng, nhiệm
vụ của Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả
của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ. Pháp luật cần qui định đầy đủ, cụ thể để tạo
thuận lợi cho Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ.
- Nhận thức của các chủ thể có trách nhiệm đối với hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ.
Các chủ thể có trách nhiệm đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nếu nhận
thức được đúng đắn vai trò của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ đối với việc thực hiện
21
nhiệm vụ của Tòa án sẽ quan tâm và tích cực thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp
vụ. Hiện nay, một số thủ trưởng đơn vị được phân công là thành viên có thẩm
quyền nhưng chưa chú trọng đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ; hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ còn mang tính hình thức.
- Năng lực của đội ngũ công chức thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ.
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ đòi hỏi công chức thực hiện hoạt động kiểm
tra phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm và có những kỹ năng
cần thiết. Nếu công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sẽ không phát hiện được vi
phạm trong quá trình kiểm tra, dẫn đến sai phạm không được xử lý, mục đích của
kiểm tra không đạt được.
1.3. Những vấn đề lý luận về thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh
1.3.1. Khái niệm thi hành án
Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê (nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1988) thì "thi hành" có nghĩa là làm cho thành hiện thực điều đã được
chính thức quyết định [14, tr.903]. Theo Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh
(nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1997) thì thuật ngữ “thi hành”, được hiểu là đưa ra làm
thực sự, và thuật ngữ “án” được giải thích là: Lời phán quyết của Thẩm phán/Lời
phán quyết của công chúng [7, tr.1217].
Thời gian qua Nhà nước ta đã từng bước kiện toàn pháp luật về thi hành các
loại án và mô hình tổ chức thi hành các loại án, nhưng đến nay hoạt động thi hành
án vẫn được quy định trong nhiều ngành luật như: LTCTAND năm 2014, BLTTHS
năm 2015, BLTTDS năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Thi hành
án hình sự năm 2010, Luật Đặc xá năm 2007, Luật Thi hành án dân sự năm 2014 và
nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn; trong khi mỗi một lĩnh vực thi hành án thì lại
khác nhau cơ bản như về tính chất, đặc điểm, trình tự thủ tục, về chủ thể thi hành
án, chủ thể chấp hành án,…và pháp luật nước ta có quy định về thi hành bản án,
quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa
22
án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Vì thế, thời gian qua có nhiều
quan điểm khác nhau về hoạt động thi hành án.
Có ý kiến cho rằng thi hành án là hoạt động tư pháp, là một giai đoạn tố tụng
độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa
trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá
trình tố tụng, cho nên hoạt động này chịu sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân
theo quy định của pháp luật. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động thi hành án
vừa mang tính chất hoạt động hành chính, vừa mang tính chất hoạt động tư pháp vì
hoạt động thi hành án là thi hành các bản án, quyết định giải quyết các loại vụ án,
vụ việc của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và được quy định cả trong Luật Tố chức
Tòa án nhân dân, trong các luật tố tụng, luật chuyên ngành nên là hoạt động tư
pháp, nhưng hệ thống tổ chức của các cơ quan thi hành án lại thuộc cơ quan hành
pháp. Một số ít ý kiến cho rằng hoạt động thi hành án là hoạt động hành chính vì do
cơ quan hành pháp thực hiện, còn hoạt động tư pháp đã chấm dứt kể từ khi bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp bản án, quyết định đó bị
kháng nghị một phần hoặc toàn bộ theo các thủ tục tố tụng đặc biệt, thì sẽ được giải
quyết theo quy định của pháp luật tố tụng. Các ý kiến trên chúng tôi thấy đều có lý.
Việc đưa ra khái niệm thi hành án chỉ là khiên cưỡng, cho dù tôi đồng tình cao với
quan điểm thứ hai, bởi vì:
Về bản chất, thi hành án không phải là một giai đoạn tố tụng nên mang tính
tư pháp, mà là một giai đoạn mang tính hành chính-tư pháp. Bởi thi hành án có mục
đích khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các loại
vụ án, các loại việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết các vụ án, các
việc theo đúng các quy định của pháp luật, cho nên quá trình tố tụng diễn ra theo
quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của nó, đến khi có
phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quá trình tố tụng kết thúc, trừ
trường hợp do bị kháng nghị và xét xử theo thủ tục tố tụng đặc biệt. Còn thi hành án
là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của
23
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi
hành án là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh.
Tính hành chính thể hiện ở chỗ, thi hành án là dạng hoạt động chấp hành,
quản lý. Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn
bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều
nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của
Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. Là dạng hoạt động quản lý vì thi
hành án là sự tác động của pháp luật, của các cơ quan thi hành án tới chủ thể phải
thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành
nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các
quy định của pháp luật; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của
cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người hoàn lương có ích cho xã hội.
Không thể chỉ dựa vào tính tư pháp trong thi hành án để cho rằng bản chất của
thi hành án là giai đoạn tiếp theo của tố tụng nên là hoạt động tư pháp. Tính tư pháp
thể hiện ở chỗ, căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của Tòa án và có sự
tham gia của các cơ quan vào quá trình thi hành án. Tính tư pháp trong thi hành án là
tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm
TAND, VKSND, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án. Nhưng về mặt lý luận thì
nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và
phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các hành vi, quyết định của các
chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước, của các tổ chức xã hội và công dân; chỉ có
Tòa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất có quyền phán quyết.
Tính hành chính - tư pháp thể hiện trong quy định pháp luật về tổ chức và
hoạt động thi hành án bằng việc xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức, quản
lý, chỉ đạo công tác thi hành án thuộc cơ quan hành pháp các cấp; quy định những
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án và các chủ thể này có tính
độc lập tương đối, hoạt động theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước.
Đặc điểm mỗi loại hình thi hành án cũng như mỗi nhóm vụ, việc trong từng loại
24
hình thi hành án sẽ quy định mức độ của các tính này nhưng thường thì tính hành
chính cao hơn.
Về khái niệm thi hành án, căn cứ vào nội dung, chúng ta có thể phân chia thi
hành án thành ba loại hình cơ bản: Thi hành án hình sự, dân sự (theo nghĩa rộng) và
hành chính. Tuy nhiên đến nay chưa có định nghĩa tổng quát chung về thi hành án,
và trong các luật về thi hành án cùng các văn bản liên quan cũng không có định
nghĩa về thi hành án. Chúng tôi có thể đưa ra khái niệm như sau: Thi hành án là
việc đưa các bản án, quyết định giải quyết các loại vụ án, các loại việc của Tòa án
có hiệu lực pháp luật có đủ các điều kiện thi hành ra thi hành và giải quyết các vấn
đề liên quan theo quy định của pháp luật. Như vậy đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thi
hành án là việc Tòa án nhân dân tỉnh đưa các bản án, quyết định giải quyết các loại
vụ án, các loại việc của Tòa án có hiệu lực pháp luật có đủ các điều kiện thi hành
ra thi hành và giải quyết các vấn đề liên quan theo quy định của pháp luật.
Thi hành án gồm thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án
hành chính.
- Thi hành án hình sự: là hoạt động thực hiện các bản án, quyết định về hình
sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được
thi hành ngay. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự phải thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng các quy định của pháp luật.
- Thi hành án dân sự: là hoạt động của các chủ thể trong việc thi hành các
bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự,
hành chính và các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nước ngoài
được Tòa án Việt Nam công nhận cho thi hành và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật.
- Thi hành án hành chính: là tổng thể các hoạt động nhằm đảm bảo mọi bản
án, quyết định giải quyết vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật của Tòa án có đủ
điều kiện thi hành phải được đưa ra thi hành nghiêm chỉnh.
25
1.3.2. Đặc điểm của thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh
Với biểu hiện của hoạt động áp dụng pháp luật, cho nên hoạt động thi hành
án của Tòa án nhân dân tỉnh có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, tính định hướng. Vì hoạt động thi
hành án (hình sự, dân sự, hành chính) được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm
bảo đảm các bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và
đủ điều kiện thi hành, những bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành
ngay phải được đưa ra thi hành đúng pháp luật nhằm bảo đảm quyền tư pháp của
Nhà nước, bảo vệ các lợi ích và các giá trị xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
củng cố địa vị và uy tín của Nhà nước và các cơ quan tư pháp, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ pháp luật thi hành án.
- Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể có thẩm quyền. Cơ quan, người
có thẩm quyền thi hành án phải xác định việc tuân thủ các quy định của pháp luật
trong quá trình tiến hành các hoạt động về thi hành án là quyền và nghĩa vụ pháp lý
của mình. Quyền và nghĩa vụ pháp lý là 2 mặt của một vấn đề. Nhận thức đúng về
thuộc tính này đòi hỏi sự thể hiện mọi hành vi và quyết định của các chủ thể này
đều phải được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
- Phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Vì thi
hành án là một hoạt động thể hiện tính quyền lực Nhà nước, đánh giá tính hiệu quả
của các hoạt động tố tụng, chức năng xét xử và quyền tư pháp của Nhà nước, được
trao cho hệ thống Tòa án; là hoạt động có định hướng của Nhà nước thông qua các
chủ thể có thẩm quyền và thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật,
cho nên, hoạt động thi hành án sẽ hợp pháp chỉ khi nào tuân theo đúng trình tự, thủ
tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi
hành án đều được pháp luật điều chỉnh.
- Làm phát sinh các quan hệ pháp luật. Trong hoạt động thi hành án, một vụ
việc được đưa ra thi hành sẽ phát sinh các quan hệ pháp luật. Chẳng hạn, Chánh án
Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị bản án của
Tòa án kết án là hình phạt tù có hiệu lực pháp luật, thì sẽ phát sinh những quan hệ
26
pháp luật sau: Quan hệ pháp luật giữa Tòa án ra quyết định thi hành án với người bị
kết án (về chấp hành quyết định thi hành án, khiếu nại quyết định thi hành án, xét
giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá, đề nghị hoãn thi hành án, đề nghị tạm
đình chỉ thi hành án.…); quan hệ pháp luật giữa Tòa án với cơ quan thi hành án
hình sự để thực hiện quyết định thi hành án; giữa VKS với Tòa án, VKS với nơi
người bị kết án chấp hành án (để kiểm sát hoạt động thi hành án)…v..v…Hay khi
người được thi hành án dân sự có đơn yêu cầu thi hành án, được Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, thì sẽ phát sinh quan hệ pháp
luật giữa người được thi hành án, người phải thi hành án với Chấp hành viên, với
Thủ trưởng cơ quan thi hành án; giữa người được thi hành án với người phải thi
hành án; giữa chủ thể thi hành án với những cơ quan có liên quan trong quá trình thi
hành án. Hoặc khi hết thời hạn tự nguyện thi hành bản án, quyết định giải quyết vụ
án hành chính của Tòa án mà người phải thi hành án chưa thi hành án, thì người
được thi hành án làm đơn yêu cầu buộc thi hành án, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ
thẩm sẽ ra quyết định buộc thi hành án khi có đủ điều kiện nên lúc đó sẽ phát sinh
các quan hệ pháp luật trong quá trình thi hành án.
1.3.3. Đối tượng của thi hành án
Việc xác định đúng đối tượng thi hành án của từng loại án nhằm để thực hiện
đúng các quy định của pháp luật thi hành án hình sự, dân sự, hành chính. Đối tượng
thi hành án được quy định trong BLHS 2015, BLTTHS 2015, Luật tố tụng hành
chính năm 2015, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Luật thi hành án dân sự năm
2014. Nếu xác định không đúng đối tượng thì thông thường sẽ gây ra hệ lụy, thậm
chí rất nghiêm trọng đối với xã hội.
Đối tượng của thi hành án tại Tòa án là những bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật, gồm:
- Bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
- Bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm.
- Bản án hôn nhân nhân và gia đình sơ thẩm, phúc thẩm.
- Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, phúc thẩm
27
- Bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm.
- Bản án lao động sơ thẩm, phúc thẩm.
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (các loại án).
- Quyết định tuyên bố phá sản.
Ngoài những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là đối tượng thi hành
án tại Tòa án thì còn có trường hợp bản án, quyết định chưa có hiệu luật pháp luật
vẫn phải thi hành, được quy định tại Điều 363 BLTTHS 2015: "Trường hợp bị cáo
đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết vụ án,
tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo,
hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi
thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết
định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo kháng nghị".
1.3.4. Nguyên tắc thi hành án
Xuất phát từ nguyên tắc hiến định bảo đảm mọi bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật đưa ra thi hành phải được thi hành. Nguyên tắc trong lĩnh
vực thi hành án theo nghĩa rộng là tư tưởng chỉ đạo thể hiện trong việc xây dựng và
thi hành các quy định của pháp luật về thi hành án các loại án, các loại vụ việc theo
pháp luật Việt Nam kết hợp với pháp luật quốc tế với các hình thức biểu hiện khác
nhau mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận mà chưa được nội luật hóa.
Về nguyên tắc này, tại Điều 4 Luật Thi hành án hình sự quy định hoạt động thi
hành án hình sự phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Bảo đảm
nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người
chấp hành án. Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện
pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính,
trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án. Thi hành án
28
đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội. Khuyến khích người chấp
hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt
hại. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong
hoạt động thi hành án hình sự. Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và
gia đình vào việc giáo dục cải tạo người chấp hành án.
Khác với thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm
2014 không có quy phạm nào quy định cụ thể về nguyên tắc trong thi hành án mà
quy định rải rác trong Luật này. Nghiên cứu tại Chương I – Những quy định chung,
chúng tôi có thể nêu ra một số quy định mang tính nguyên tắc sau đây: Bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định: Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật
này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản
án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án. Thỏa
thuận thi hành án: Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nếu thỏa
thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Kết quả
thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp
hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án. Trường hợp
đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành
án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết
định. Tự nguyện và cưỡng chế thi hành án: Nhà nước khuyến khích đương sự tự
nguyện thi hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại: Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật
này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Do tính chất của quan hệ pháp luật hành chính, tài phán hành chính giai đoạn
tiền tố tụng, quyền tư pháp của Tòa án trong việc phán xét hành vi, quyết định của
cơ quan, cá nhân nhân danh quyền hành pháp là một vấn đề Nhà nước ta ngày càng
quan tâm hoàn thiện để có thể đáp ứng đòi hỏi của xã hội, nên chưa luật hóa được
29
thành luật hành chính và luật thi hành án hành chính, mà hoạt động thi hành án hành
chính chỉ quy định trong Luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên, vấn đề thi hành mọi
bản án, quyết định của Tòa án đã là nguyên tắc, cho nên tại Chương XIX của Luật
tố tụng hành chính có chứa đựng nguyên tắc tự nguyện, nguyên tắc mệnh lệnh.
1.3.5. Nội dung hoạt động thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh
- Trong lĩnh vực thi hành án hình sự:
Về thi hành án hình sự, có quan điểm cho rằng không phải là một công tác
chủ yếu của Toà án mà đó chỉ là những việc liên quan đến Toà án; có quan điểm
cho rằng đây là việc chung của nhiều cơ quan chứ không phải của riêng Toà án; có
quan điểm cho rằng hoạt động này là một trong những công tác chủ yếu của Toà án.
Chúng tôi đồng tình quan điểm thứ ba, cho dù thực tiễn hiện nay một bản án, quyết
định giải quyết vụ án hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành, nhất là trong trường
hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại hình phạt được áp dụng
hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ sung.
Theo quy định của pháp luật thì Toà án nhân dân tỉnh có thẩm quyền thực
hiện các hoạt động sau đây về thi hành án hình sự: Ra quyết định thi hành án hình
sự; quyết định uỷ thác thi hành án hình sự. Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi
hành án phạt tù. Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù; quyết định miễn
chấp hành hình phạt tù. Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo. Quyết
định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích. Theo dõi việc đưa người bị
phạt tù giam vào trại giam để thi hành án; theo dõi việc thi hành án của những
người bị kết án mà Toà án đã giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án
cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án làm việc. Xem xét việc miễn, giảm
thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí. Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình.
Tham gia giúp Hội đồng đặc xá trung ương thực hiện việc đặc xá.
- Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:
Luật thi hành án dân sự năm 2014 tại Điều 170 quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của 4 cấp Tòa án. Theo đó, khoản 3 Điều này quy định TAND cấp tỉnh có
nhiệm vụ, quyền hạn chuyển giao bản án, quyết định, tài liệu và vật chứng có liên
30
quan cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật này; Xem xét, quyết
định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà
nước; giải quyết kháng nghị về quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với
khoản thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định của Luật này; Thụ lý và kịp thời
giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền
sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài
sản; hủy giấy tờ, giao dịch phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền
của Tòa án; Giải quyết kiến nghị, yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và theo
dõi kết quả xử lý sau khi Tòa án trả lời. Khoản 4 Điều này quy định, khi xét xử lại
vụ án mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy.
- Trong lĩnh vực thi hành án hành chính:
Luật tố tụng hành chính năm 2015 tại Điều 10 quy định nghĩa vụ của Tòa án
về việc giải thích bản án, quyết định của Tòa án. Tại Điều 311 và Điều 312 quy
định Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định buộc thi hành án đối với người
phải thi hành án, theo đơn yêu cầu của người được thi hành án.
- Giải quyết khiếu nại về thi hành án:
Trong quá trình thi hành án nếu phát sinh các khiếu nại, Tòa án nhân dân tỉnh
có trách nhiệm giải quyết các khiếu nại thuộc thẩm quyền theo phân cấp.
1.3.6. Phương pháp thi hành án
Phương pháp thi hành án là cách thức, biện pháp, thủ thuật, chiến thuật và
những yếu tố có liên quan được sử dụng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mỗi một
loại hình thi hành án dù có phương pháp giống nhau, nhưng tùy theo đặc điểm của
từng loại hình mà pháp luật về thi hành án quy định phương pháp khác nhau. Trong
các lĩnh vực thi hành án, phương pháp mệnh lệnh quyền uy là phương pháp được áp
dụng chung, nhưng phương pháp này thể hiện rõ nhất trong pháp luật về thi hành án
hình sự; còn pháp luật về thi hành án dân sự thì có sử dụng các phương pháp khác
như: tự nguyện thi hành án, tự thỏa thuận thi hành án, không yêu cầu thi hành án,
31
thi hành án theo đơn yêu cầu; thi hành án hành chính có sử dụng phương pháp tự
nguyện thi hành án.
1.3.7. Ý nghĩa của thi hành án
Xuất phát từ một nguyên tắc hiến định ghi nhận tại Điều 106 Hiến pháp 2013
của nước ta “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”. Vậy nên họat động thi hành án nói chung có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án bởi vì bản án, quyết định
chỉ có ý nghĩa khi bản án đó được thi hành trên thực tiễn, khi đó quyền và lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng cũng
được bảo vệ một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh
của xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ta có thể hiểu thi hành án là việc
tổ chức thi hành các bản ản, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Từ ý nghĩa trên đã bác bỏ ý kiến về việc xem
nhẹ hoạt động thi hành án; ngược lại, cần phải nhận thức đây là một hoạt động
mang ý nghĩa rất to lớn khi xét về quan hệ chính trị - pháp lý – tư tưởng – quyền tư
pháp của Nhà nước trong xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền và trong quan hệ
đối ngoại.
1.3.8. Các yếu tố tác động đến hoạt động thi hành án của Tòa án
nhân dân tỉnh
Hoạt động thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh chịu sự tác động của các yếu
tố sau:
- Pháp luật về thi hành án.
Để hoạt động thi hành án thực hiện có hiệu quả, cần phải có các qui định của
pháp luật về thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính đầy
đủ, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi. Hiện nay vẫn còn tình trạng chồng chéo
giữa các văn bản pháp luật là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt
động thi hành án.
32
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong hoạt động thi hành án.
Đây là yếu tố quan trọng, chi phối trực tiếp đến hoạt động thi hành án. Hoạt
động thi hành án dù là thi hành án hình sự, dân sự hay hành chính đòi hỏi sự phối
hợp của rất nhiều cơ quan, đơn vị. Nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan, đơn vị tham gia thì hành án thì dù Tòa án nhân dân tỉnh có làm tốt đến đâu
hoạt động thi hành án cũng không đạt hiệu quả cao.
- Năng lực của đội ngũ công chức làm công tác thi hành án.
Muốn thực hiện tốt hoạt động thi hành án, đội ngũ công chức làm công tác
thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh cần phải có trình độ chuyên môn, có các kỹ
năng cần thiết về thi hành án. Hiện nay biên chế cho công chức tiến hành hoạt động
thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh còn mỏng chưa đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ thi hành án.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án tỉnh với khái niệm, đối tượng, nguyên tắc, nội
dung, phương pháp, ý nghĩa, yếu tố tác động đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án.
Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án là nhiệm vụ thường xuyên của hệ thống
Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, về tổ chức bộ máy
của công tác kiểm tra nghiệp vụ và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ vẫn chưa được
luật hóa, cho đến nay mới chỉ đạt ở mức quy định tại văn bản dưới luật của Tòa án
nhân dân tối cao. Công tác thi hành án hình sự là nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án,
nhưng hoạt động thi hành án các loại án, các loại việc nhiều năm qua có nhiều quan
điểm khác nhau nên ảnh hưởng đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật về mô
hình tổ chức thi hành án, và điều này lý giải vì sao công tác thi hành án hình sự lại
được quy định ở nhiều ngành luật, nhiều cơ quan chịu trách nhiệm thi hành. Thi
hành án dân sự thì Tòa án chỉ có nhiệm vụ giải thích các bản án, quyết định và phối
hợp với các cơ quan liên quan. Thi hành án hành chính lại chỉ quy định trong Luật
Tố tụng hành chính với nhiều bất cập trước yêu cầu thực tiễn.
33
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ
VÀ THI HÀNH ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
2.1.1. Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa
án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở các qui
định nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và
2014 đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Xuất phát từ địa vị pháp
lý của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các
đạo luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy
rằng, chức năng xét xử của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt
quá trình ra đời và phát triển của Tòa án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử
của Tòa án thì có những thay đổi theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc
được giao cho Tòa án xét xử. Ban đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có
thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án về dân
sự liên quan đến tranh chấp về tài sản và những tranh chấp về nhân thân phi tài sản,
các vụ án về hôn nhân gia đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án về kinh tế (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về lao
động (năm 1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm 1996),
Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993) và sau đó là Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS)
năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015, các Tòa án được giao thêm
có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế (từ khi có Bộ luật TTDS 2004 thì gọi là vụ
án kinh doanh, thương mại), lao động, hành chính và giải quyết đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp (đối với Tòa án cấp tỉnh). Như vậy, với tư cách là một
trong các cấp của hệ thống Tòa án, TAND tỉnh Quảng Ngãi có chức năng xét xử các
vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính thuộc thẩm
quyền theo qui định của pháp luật.
34
Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của
pháp luật tố tụng, TAND tỉnh Quảng Ngãi còn có trách nhiệm trong một số hoạt
động thi hành án hình sự, hành chính và nhiệm vụ này được phân công cho Phòng
Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình
sự, hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian
thử thách của án treo, xét miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và
thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình. Điểm mới theo Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của
luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị. Công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
hình sự luôn được quan tâm chỉ đạo kịp thời, hàng năm đều tiến hành kiểm tra công
tác xét xử, giải quyết các loại án của 14 đơn vị Toà án các huyện, thành phố với
hàng ngàn vụ án các loại. Qua kiểm tra đã chỉ đạo kịp thời khắc phục những sai sót
trong công tác xét xử, giúp Toà án cấp huyện nâng cao chất lượng xét xử và giải
quyết các loại án bảo đảm đúng pháp luật.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được giao số lượng 47 biên chế, tuy
nhiên số biên chế thực hiện là 45, còn thiếu 02 biên chế. Thẩm phán trung cấp được
giao là 10 biên chế, đã thực hiện 08 biên chế, hiện còn thiếu 02.
- Lãnh đạo gồm có 01 Chánh án và 02 Phó Chánh án, hầu hết đều có trình độ
chuyên môn cử nhân Luật trở lên và cao cấp lý luận chính trị.
- Ban cán sự đảng có 04 đồng chí, gồm 03 lãnh đạo và 01 đồng chí Chánh tòa
Tòa Hình sự.
- Ủy ban thẩm phán có 05 đồng chí, gồm 03 lãnh đạo, 01 đồng chí Chánh tòa
Tòa Hình sự và 01 đồng chí Chánh tòa Tòa Hành chính.
- Tổ chức bộ máy Tòa chuyên trách và cấp phòng trực thuộc: TAND tỉnh
Quảng Ngãi có 05 Tòa chuyên trách và các phòng trực thuộc, cụ thể:
35
+ Tòa Hình sự có 07 biên chế, 01 Chánh Tòa, 01 Phó Chánh tòa.
+ Tòa Dân sự có 07 biên chế, 01 Phó Chánh tòa.
+ Tòa Hành chính có 05 biên chế, 01 Chánh tòa.
+ Tòa Kinh tế có 03 biên chế, 01 Chánh tòa.
+ Tòa Lao động có 02 biên chế, 01 Chánh tòa.
+ Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và THA có 05 biên chế, 01 Phó Trưởng phòng.
+ Phòng TCCB, thanh tra và TĐKT có 03 biên chế, 02 Phó trưởng phòng.
+ Văn phòng có 11 biên chế, 01 Chánh văn phòng và 01 Phó văn phòng.
Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án là đơn vị tham mưu cho Chánh án
trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi.
2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi
Theo LTCTAND năm 2014 có hiệu lực từ 1/6/2015 thì hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án có thay đổi là việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng
Ngãi (kể cả của Tòa án tỉnh Quảng Ngãi) sẽ thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án
cấp cao, Viện trưởng VKS cấp cao tại Đà Nẵng; còn Chánh án TAND tỉnh chỉ có
trách nhiệm báo cáo đề nghị kháng nghị. Qua kiểm tra, nếu phát hiện những bản án,
quyết định của các Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình
tiết mới, thì Phòng sẽ tham mưu cho Chánh án báo cáo đề nghị kháng nghị. Vì vậy
hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ
năm 2013 đến 2017, tác giả chia thành 2 giai đoạn:
2.2.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi từ 01/01/2013 đến 31/5/2015
2.2.1.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
Từ 01/01/2013 đến 31/5/2015, đã tiến hành kiểm tra thường kỳ toàn diện các
lĩnh vực thụ lý, giải quyết án, thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với 14
Tòa án nhân dân cấp huyện (13 huyện, 1 thành phố) trực thuộc Tòa án nhân dân
36
tỉnh 29 lần (mỗi đơn vị 1 lần/1năm công tác; riêng TAND thành phố Quảng Ngãi
kiểm tra 2 lần/năm). Để thực hiện kiểm tra định kỳ này, trước khi kiểm tra, Phòng
Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã tham mưu Chánh án tỉnh ban hành văn bản
thông báo về thời điểm lấy số liệu kiểm tra và nội dung, phạm vi kiểm tra, để đơn vị
được kiểm tra bố trí thời gian, nhân sự, chuẩn bị hồ sơ tài liệu cung cấp cho Đoàn
kiểm tra vào ngày tháng năm cụ thể theo thời gian quy định trong văn bản thông
báo. Tiếp đó, Tòa án nhân dân tỉnh sẽ cung cấp phương tiện xe ô tô cho Phòng và
Phòng cử cán bộ đến đơn vị được kiểm tra để nhận toàn bộ hồ sơ tài liệu kiểm tra về
Phòng, rồi phân công từng cán bộ của Phòng kiểm tra từng lĩnh vực.
Về quy trình kiểm tra thường kỳ: Sau khi từng công chức được phân công
kiểm tra từng loại công việc và đã làm xong, thì đồng chí Trường Phòng sẽ yêu cầu
từng đồng chí báo cáo kết quả kiểm tra ra tập thể. Từng đồng chí sẽ báo cáo kết quả
kiểm tra của mình (hầu hết là bản viết tay) để thư ký cuộc họp và các thành phần
tham dự ghi vào sổ, rồi tập thể Phòng bàn bạc trao đổi về những vi phạm, sai sót,
nhất là những vấn đề trọng yếu, sau đó thống nhất để trình ra Ủy ban Thẩm phán;
nếu có vấn đề có ý kiến khác nhau, thì từng đồng chí sẽ bảo lưu ý kiến khi báo cáo
ra Ủy ban Thẩm phán để chỉ đạo.
Sau khi Phòng thông qua kết quả kiểm tra và đăng ký báo cáo ra Ủy ban Thẩm
phán, thì đồng chí Trưởng Phòng cùng một đồng chí làm thư ký sẽ báo cáo kết quả
kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán (Ủy ban Thẩm phán gồm 3 đồng chí lãnh đạo và 2
Chánh tòa Tòa chuyên trách). Khi Phòng báo cáo kết quả kiểm tra, thì các đồng chí
lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh và các đồng chí ủy viên Ủy ban Thẩm phán nghe, ghi
chép, nếu có điều gì chưa rõ thì yêu cầu báo cáo kỹ hoặc yêu cầu Phòng cung cấp hồ
sơ tài liệu để xem xét, chứ Phòng không trình tài liệu về kết quả kiểm tra.
Sau khi Ủy ban Thẩm phán cho ý kiến chỉ đạo, thì lãnh đạo Phòng phân công
một đồng chí soạn thảo Kết luận kiểm tra để trình đồng chí Chánh án ký ban hành.
Phương thức kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm của các Tòa án cấp huyện,
là: Người được phân công kiểm tra qua kiểm tra nếu phát hiện vi phạm thiếu sót
nhỏ thì thông báo cho Thẩm phán biết để đính chính đúng quy định pháp luật và tập
37
hợp vi phạm để thông báo rút kinh nghiệm chung trong Hội nghị tổng kết công tác
xét xử hàng năm; nếu phát hiện vi phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải kháng nghị
giám đốc thẩm (nếu bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật) thì tham mưu
Chánh án xem xét. Việc kiểm tra các bản án, quyết định chưa được lập phiếu kiểm
tra để làm căn cứ đã kiểm tra và xác định trách nhiệm của người kiểm tra cũng như
làm cơ sở khắc phục vi phạm qua kiểm tra.
Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã tham mưu Chánh án ban hành
29 kết luận kiểm tra toàn diện và thường kỳ đối với các Tòa án cấp huyện với số
lượng các loại vụ án, vụ việc đã kiểm tra là 5.120 hồ sơ; 1.417 hồ sơ thi hành án
hình sự; 51 hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; 168 hồ sơ xét rút ngắn
thời gian thử thách án treo và xét rút ngắn thời gian thử thách hình phạt cải tạo
không giam giữ. Kết quả kiểm tra như sau:
- Trong giải quyết vụ án hình sự:
Nhiều trường hợp vi phạm về thời hạn ra Lệnh tạm giam theo hướng dẫn tại
Điểm a Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi thụ lý vụ án. Một số vụ án chậm
ra quyết định phân công Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký tiến hành tố tụng. Nhiều
vụ án Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
nhưng sau khi Tòa án nhận lại hồ sơ, lại không ra quyết định phân công những
người tiến hành tố tụng là không đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS. Một số vụ
án, Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa nhưng biên bản phiên tòa không
thể hiện lý do hoãn hoặc ghi không đúng lý do hoãn. Biên bản phiên tòa ghi Hội
đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận hoãn phiên tòa và có vụ hoãn phiên tòa
nhưng lại lập biên bản thảo luận, là không đúng khoản 3 Điều 199 BLTTHS. Có vụ
án, ngày xét xử Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa được, nhưng Hội đồng xét
xử không ra quyết định hoãn phiên tòa mà Thẩm phán chủ tọa lại ra quyết định
hoãn, có vụ Thẩm phán lại ra Thông báo hoãn phiên tòa, có vụ không có Quyết định
hoãn phiên tòa là không đúng quy định tại điều 194 BLTTHS. Có vụ, biên bản
phiên tòa ghi không đúng thời gian mà phiên tòa tiến hành xét xử. Nhiều biên bản
38
nghị án không thảo luận xem xét tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án,
ghi quyền kháng cáo chung chung. Có vụ không có Cáo trạng, không có biên bản
giao nhận hồ sơ vụ án, không có quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia
phiên tòa; có vụ không có quyết định phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra
nhưng Kiểm sát viên đó tiến hành hỏi cung bị can; có trường hợp sau khi phạm tội,
các đối tượng bỏ trốn, Công an truy bắt, hôm sau bắt được nhưng lại lập biên bản
bắt người phạm tội quả tang – là không đủ tài liệu, không đúng thủ tục, không đảm
bảo các thuộc tính của chứng cứ. Nhiều bản án sơ thẩm xác định không đúng tư
cách người tham gia tố tụng, như: Bị hại nhưng ghi là nạn nhân, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nhưng ghi là bị hại.
Nhiều trường hợp trong quyết định đưa vụ án ra xét xử ghi ngày xét xử quá
15 ngày kể từ ngày ban hành quyết định; Nhiều vụ án sau khi Tòa án nhận lại hồ sơ
điều tra bổ sung để quá thời hạn 15 ngày mới đưa vụ án ra xét xử, là vi phạm khoản
2 Điều 176 BLTTHS.
Nhiều vụ án giao thông bị hại chết, mặc dù các gia đình bị hại đều có đơn xin
giảm nhẹ hình phạt nhưng lại được áp dụng khoản 2 Điều 46, là không đúng với
Nghị quyết số 01/2000/HĐTP TANDTC. Có trường hợp xác định bị cáo có tiền án;
tiền sự nhưng biên bản phiên tòa, bản án không ghi cụ thể ngày tháng năm bị xử lý
hành chính hoặc bị kết án để xác định có tiền sự hoặc tiền án. Tài sản thiệt hại hơn 2
triệu đồng, xét xử khoản 1 Điều 138 BLHS, không có tình tiết tăng nặng thuộc điểm
k khoản 1 Điều 48 BLHS nhưng không xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ thuộc
điểm g “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” khoản 1 Điều 46 BLHS. Bản án
ghi bị cáo có cha/mẹ là thương binh; chồng/vợ bị bệnh nặng và áp dụng tình tiết
giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 46 BLHS nhưng hồ sơ không có tài liệu chứng minh.
Nhiều bị cáo chưa được xóa án tích do chưa thi hành phần án phí, phần bồi thường
dân sự của bản án trước, nhưng không xác định tái phạm (theo Khoản 2 Điều 64,
Khoản 3 Điều 67 và Nghị quyết số 01/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC).
Nhiều bản án nhận định bị cáo phạm tội nhiều lần, là đúng, nhưng Biên bản nghị án,
quyết định của bản án không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS. Có bản án áp
39
dụng điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS (phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng) cho trường hợp bị cáo phạm tội nghiêm trọng với tính chất nghiêm trọng.
Có vụ án đồng phạm, xét xử tuyên hình phạt tù giam đối với bị cáo là người
thực hành, nhưng bị cáo là người chủ mưu cầm đầu, tổ chức lại được cho hưởng án
treo là không công bằng, không phân hóa tội phạm. Xét xử theo điểm a khoản 2
Điều 202 BLHS, lỗi hoàn toàn do bị cáo nhưng 2 Hội thẩm biểu quyết cho hưởng
án treo (cần phải quan tâm hiện tượng này) - vụ án này Thẩm phán chủ tọa không
đồng ý cho bị cáo hưởng án treo nhưng không trình bày ý kiến của mình bằng văn
bản lưu vào hồ sơ vụ án (Theo Tiểu mục 1.3, Mục 1, Phần IV Nghị quyết số
04/2004 của HĐTP TAND TC). Trong vụ án có đồng phạm, có bị cáo hành vi nguy
hiểm hơn các bị cáo khác, sau khi phạm tội, bị cáo này bỏ trốn, bị bắt truy nã, lại
được hưởng án treo, trong khi các đồng phạm không bỏ trốn, bị xét xử trước, đều bị
xử phạt tù. Nhiều bị cáo, Hội đồng xét xử không đánh giá đầy đủ các căn cứ quyết
định hình phạt theo Điều 45 BLHS, mà nặng về tình tiết giảm nhẹ, xử phạt tù nhưng
cho hưởng án treo. Nhiều trường hợp xét xử cho bị cáo hưởng án treo vi phạm Nghị
quyết số 01/2013 và Công văn số 390/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh.
Có vụ án Trộm cắp bò, người phạm tội đã dắt được 5 con bò đi xa và đang
đưa lên ô tô để chở đi tiêu thụ - hành vi phạm tội dù chưa kết thúc nhưng đã hoàn
thành, án sơ thẩm lại áp dụng Điều 18, Điều 52 BLHS là sai lầm về áp dụng pháp
luật và quyết định về hình phạt.
Về án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại: Chưa chú ý về việc người bị hại
hay đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hay không, hay chỉ
yêu cầu bồi thường các thiệt hại về dân sự, nếu có yêu cầu khởi tố thì xét kỹ về hình
thức, nội dung yêu cầu và ý chí của họ; đồng thời phải chú ý ngày yêu cầu so với
ngày khởi tố vụ án (có hồ sơ không có tài liệu yêu cầu khởi tố vụ án. Có trường hợp
đơn yêu cầu không rõ).
Có trường hợp biên bản phiên tòa ghi không đúng, không đủ ý kiến Kiểm sát
viên. Phần lý lịch bị cáo chỉ ghi tên bị cáo (không đúng theo biểu mẫu hướng dẫn tại
NQ số 04/2004 của HĐTP TAND TC). Một số biên bản phiên tòa không ghi tên của
những người tiến hành tố tụng; ghi không đúng thời gian tạm giữ, tạm giam bị cáo.
40
Nhiều biên bản nghị án không biểu quyết từng vấn đề mà biểu quyết một lần
cho tất cả các vấn đề Hội đồng xét xử giải quyết; có vụ không biểu quyết hoặc biểu
quyết lại ghi là 100% (vi phạm khoản 1 Điều 222 BLTTHS và không đúng mẫu biểu
hướng dẫn kèm theo Nghị quyết số 04/2004 của HĐTP TAND TC). Bị cáo hưởng án
treo nhưng biên bản nghị án và quyết định của bản án không ghi áp dụng Điều 60
BLHS. Nghị án không thảo luận về việc tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành
án nhưng ra quyết định tạm giam. Có trường hợp bản án ghi không đúng mức bồi
thường dân sự mà bị hại yêu cầu. Nhiều trường hợp bị cáo và những người tham gia
tố tụng khác không ai tranh luận với Kiểm sát viên nhưng bản án lại ghi “Căn cứ vào
kết quả tranh luận tại phiên tòa” là máy móc và không đúng diễn biến phiên tòa. Có
bản án thiếu phần “Xét thấy”. Có bản án phần quyết định ghi “tiếp tục tạm giam bị
cáo để đảm bảo thi hành án” là không đúng công văn số 117/2004/KHXX ngày
22/7/2004 của Tòa án nhân dân tối cao về thi hành BLTTHS. Có bản án viết dài
dòng, viện dẫn bút lục (trong khi hành vi đã rõ), phần “Xét thấy” lặp lại toàn bộ nội
dung của phần “Nhận thấy”. Có bản án phần lý lịch bị cáo không thể hiện việc bị cáo
bị bắt tạm giữ, tạm giam, xác định bị cáo có tiền án, tiền sự không đúng và việc ghi
tiền án, tiền sự của bị cáo chung chung, ghi không đầy đủ bản án số mấy ngày tháng
năm nào, do Tòa án nào xét xử là không đúng với biểu mẫu hướng dẫn tại Nghị quyết
04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của HĐTPTANDTC. Có bản án, Tòa án tuyên
buộc “bị cáo phải trồng lại diện tích rừng đã chặt phá, đồng thời phải có trách nhiệm
chăm sóc, bảo vệ rừng trồng trong 03 năm và báo cáo để Ban quản lý rừng nghiệm
thu khi hoàn thành” là thiếu thực tế, không khả thi, gây khó khăn cho công tác thi
hành án. Có bản án không tuyên các bị cáo phạm tội gì mà chỉ ghi áp dụng điều luật
để xử phạt các bị cáo, là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Có vụ không giao bản án cho
bị hại (Điều 229 BLTTHS).
Một số Bản án trong hồ sơ thi hành án không đóng dấu Tòa án; bìa hồ sơ thi
hành án hình sự ghi sai ký hiệu bản án, sai cấp Tòa án xét xử, ghi sai loại hình phạt
áp dụng; có trường hợp hết thời hạn hoãn đã lâu nhưng chưa có thủ tục đi thi hành
án; chậm ra quyết định ủy thác; quyết định thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án
41
treo không ghi áp dụng Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự là không đúng
khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2013 của HĐTPTANDTC). Có 3 quyết định thi
hành án phạt tù ban hành khi án sơ thẩm chưa có hiệu lực (30 ngày), là vi phạm
Điều 234 BLTTHS. Có trường hợp hoãn thi hành án phạt tù chưa đảm bảo căn cứ;
quyết định thi hành án phạt tù không ghi đầy đủ, cụ thể phần quyết định của bản
án…Nhiều trường hợp cách tính thời gian xét rút ngắn thời gian thử thách án treo
không đúng; không có tài liệu chứng minh đã thi hành xong phần bồi thường dân
sự, án phí để từ đó có căn cứ xem xét việc có tuân thủ pháp luật trong thời gian chấp
hành thời gian thử thách của bị án hay không.
- Trong giải quyết vụ án dân sự:
Rất nhiều vụ án khi thụ lý ghi không đúng, không đủ các quan hệ tranh chấp
mà đương sự yêu cầu giải quyết. Rất nhiều vụ án, các văn bản, tài liệu tố tụng ghi
không giống nhau, mâu thuẫn nhau về các quan các hệ tranh chấp trong vụ án trong
quá trình thụ lý và giải quyết. Nhiều trường hợp vi phạm về việc giao nhận, tống
đạt, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, các quyết định tố tụng, bản án.
Nhiều trường hợp giao các văn bản, tài liệu, quyết định tố tụng từ khi thụ lý vụ án
đến khi giải quyết (bằng các hình thức) nhưng biên bản giao nhận không ghi đầy đủ
nội dung về số, ngày tháng năm của văn bản, tài liệu, quyết định đó. Nhiều cuộc
xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng không có đại diện Ủy ban nhân dân xã (Chủ tịch
hoặc Phó Chủ tịch) tham gia mà chỉ có cán bộ Địa chính và Tư pháp xã tham gia.
Có trường hợp Hội đồng xét xử ra Quyết định đình chỉ giải quyết một phần vụ án
dân sự, sau đó tiếp tục xét xử và ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Nhiều trường hợp tạm đình chỉ với lý do nguyên đơn bận đi công tác dài
ngày, là không đúng quy định tại Điều 189 BLTTDS. Nhiều quyết định giải quyết
vụ án, bản án không tuyên lãi chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 305 BLDS đối
với khoản cấp dưỡng, vi phạm thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ... HĐXX ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không lập biên bản thảo luận (theo khoản 2
Điều 210 BLTTDS) mà lại lập biên bản nghị án; trong quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án cả hai Hội thẩm cùng ký tên vào trong quyết định, là không đúng với
42
biểu mẫu quy định. Ghi quyền kháng cáo, kháng nghị chung chung, không cụ thể.
Nhiều biên bản nghị án không thể hiện nghị án từng vấn đề và căn cứ pháp luật áp
dụng cho từng vấn đề, mà chỉ ghi kết quả biểu quyết 3/3 đối với tất cả các vấn đề
được xem xét khi nghị án và tất cả các căn cứ pháp luật được áp dụng (vi phạm
khoản 2 Điều 236 BLTTDS). Có trường hợp không xem xét, thảo luận về người
chịu án phí do yêu cầu mà không được Tòa chấp nhận. Người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập, Tòa đã ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, họ
không nộp, nhưng Tòa án không ra thông báo trả lại đơn (theo điểm c khoản 1 Điều
168, khoản 1, khoản 2 Điều 171, Điều 178 BLTTDS, khoản 1 Điều 13 Nghị quyết
05/2012 của HĐTPTANDTC). Vợ chồng vay tiền Ngân hàng nhưng quá trình giải
quyết Tòa án hòa giải vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết nợ vay ngân hàng, là không
đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng. Nhiều bản án ghi “căn cứ kết quả tranh luận”
trong khi chỉ có nguyên đơn tại phiên tòa hoặc tại phiên tòa các bên không tranh
luận gì. Nhiều quyết định công nhận thuận tình ly hôn năm 2015 nhưng lại ghi áp
dụng điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Quyết định giải quyết việc Dân
sự về: Yêu cầu tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú lại ghi
một bên là người yêu cầu, một bên là người bị yêu cầu hoặc ghi nguyên đơn, bị đơn
(ghi không đúng điều 315 BLTTDS). Có quyết định giải quyết việc dân sự ghi
không đúng các chủ thể quyền kháng cáo theo Điều 316 BLTTDS. Có việc đình chỉ
lại ghi quyết định đình chỉ vụ án dân sự.
Án Kinh doanh thương mại, nhiều trường hợp vi phạm về việc giao nhận,
tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, quyết định tố tụng, bản án. Có vụ
án, văn bản, quyết định tố tụng xác định người đại diện của pháp nhân, nhưng hồ sơ
không có tài liệu chứng minh người đó là người đại diện của pháp nhân. Có vụ án
có tài sản thế chấp, nhưng trước khi giải quyết vụ án lại không ra quyết định xem
xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án. Có nhiều quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ghi án phí không đúng điểm 11 Điều 27
43
Pháp lệnh án phí, lệ phí. Nhiều quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án
không tuyên quyền kháng cáo (khoản 2 Điều 245 BLTTDS).
- Về mở các loại sổ nghiệp vụ và ghi chép:
Nhiều đơn vị, sổ thụ lý đơn khởi kiện, có đơn vị ghi các cột mục không đảm
bảo. Mục “tài liệu kèm theo đơn khởi kiện” không ghi rõ ràng, cụ thể tất cả các tài
liệu kèm theo, là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hay chỉ là bản
sao chụp; các mục “ngày nhận đơn, ngày trả lại đơn, ngày chuyển đơn khởi kiện,
ngày nộp thông báo tạm ứng án phí, ngày nộp tiền tạm ứng án phí, thụ lý vụ án và
ngày tháng năm” đều bỏ trống. Có đơn vị, sổ thụ lý và kết quả giải quyết các vụ
việc Hôn nhân và Gia đình, Dân sự tại mục “tóm tắt quyết định, bản án, quyết định
sơ thẩm” không thực hiện mà hầu như bỏ trống. Có đơn vị ghi các thông tin trong
Sổ thụ lý và kết quả giải quyết vụ án đối với tất cả các loại án Hình sự, Dân sự, Hôn
nhân và Gia đình còn chưa bảo đảm, không thực hiện đúng biểu mẫu quy định,
không ghi tóm tắt kết quả phần quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm, không
ghi quan hệ tranh chấp khi Tòa án đã giải quyết vụ án (chỉ ghi quan hệ tranh chấp
khi thụ lý); không thể hiện bản án, quyết định có bị kháng cáo, kháng nghị hay
không; không ghi thành phần NTHTT. Có đơn vị không ghi tóm tắt quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án; không ghi hình phạt bổ sung, bồi thường dân sự, án phí.
Trong thời gian này qua kiểm tra án hình sự cấp huyện đã có hiệu lực pháp
luật, Phòng đã tham mưu Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm
2 vụ án (1 vụ án phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ; 1 vụ án phạm tội Đánh bạc có 2 bị cáo), theo hướng hủy án sơ thẩm để
xét xử sơ thẩm lại không cho các bị cáo hưởng án treo, kết quả đều được Chánh án
chấp nhận ra kháng nghị và Ủy ban Thẩm phán xét xử chấp nhận các kháng nghị.
2.2.1.2. Hoạt động thi hành án
- Hoạt động thi hành án hình sự:
Thụ lý 61 hồ sơ thi hành án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
tỉnh. Tham mưu Chánh án ra 76 quyết định về thi hành án (trong đó có 07 Quyết
định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo, 62 Quyết định thi hành án phạt tù,
44
04 Quyết định hoãn thi hành án phạt tù, 01 Quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt
tù, 02 Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù). Tham mưu Chánh án cấp 12 Giấy
chứng nhận xóa án tích; ra 69 Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho
69 phạm nhân, nhân dịp Tết Nguyên đán, Lễ 30/04 và ngày Quốc khánh 02/09; ra
01 Quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Lập thủ tục
hồ sơ trình Hội đồng đề nghị xét đặc xá cho 06 trường hợp và cấp 06 Giấy chứng
nhận đặc xá cho 06 đối tượng.
- Giải quyết khiếu nại về thi hành án:
Giải quyết theo thẩm quyền và tham mưu lãnh đạo giải quyết tổng cộng là
46 đơn. Kết quả, Phòng đã giải quyết 5 đơn, tham mưu Chánh án giải quyết 31 đơn;
ra văn bản chuyển trả và nêu lý do cho công dân 10 đơn không thuộc thẩm quyền.
Cách thức tiến hành: Quyền Trưởng Phòng phân công cho Phó phòng, Thẩm tra
viên hoặc Thư ký nghiên cứu và báo cáo ra tập thể Phòng (khi thì báo cáo bằng
miệng, khi thì báo cáo bằng văn bản có đánh máy vi tính, nhưng chỉ người báo cáo
có văn bản). Sau khi Phòng trao đổi, nếu thống nhất thì trình lãnh đạo xem xét quyết
định hoặc lãnh đạo Phòng ra văn bản giải quyết theo thẩm quyền; nếu có ý kiến
khác nhau trong Phòng thì bảo lưu.
2.2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi từ 01/6/2015 đến 31/12/2017
Theo LTCTAND năm 2014 thì việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng
Ngãi (kể cả của Tòa án tỉnh Quảng Ngãi) sẽ thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án
cấp cao, Viện trưởng VKS cấp cao tại Đà Nẵng; còn Chánh án TAND tỉnh chỉ có
trách nhiệm báo cáo đề nghị kháng nghị. Qua kiểm tra, nếu phát hiện những bản án,
quyết định của các Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình
tiết mới, thì Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án sẽ tham mưu cho Chánh án
báo cáo đề nghị kháng nghị.
2.2.2.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
Trong các năm 2016, 2017 đã kiểm tra 14/14 TAND cấp huyện và tham mưu
Chánh án ban hành 30 kết luận kiểm tra. Số vụ việc các loại đã kiểm tra: 4.840 hồ
45
sơ; 1.017 hồ sơ thi hành án hình sự: 31 hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án
dân sự; 124 hồ sơ xét rút ngắn thời gian thử thách án treo và xét rút ngắn thời gian
thử thách hình phạt cải tạo không giam giữ. Nghiên cứu 4.521 bản án, quyết định
các loại của Tòa án cấp huyện.
Qua kiểm tra phát hiện các vi phạm sau đây của Tòa án cấp huyện, được
thông báo tại Hội nghị rút kinh nghiệm của 2 cấp TAND trong tỉnh.
- Trong giải quyết vụ án hình sự:
Vi phạm từ các năm trước nhưng nhiều Tòa án vẫn lặp lại: Nghị án không
xem xét biểu quyết từng phần mà gộp chung áp dụng các quy định của BLHS,
BLTTHS, BLDS, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và biểu quyết chung một lần.
Giao, tống đạt các văn bản, quyết định tố tụng, bản án, lệnh tạm giam, quyết định
tạm giam cho người tham gia tố tụng. Các bị cáo đồng phạm nhưng không áp dụng
các Điều 20, 53 BLHS. Bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi xét
xử không áp dụng các quy định cụ thể của BLHS đối với họ. Hội đồng xét xử ra
quyết định bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa nhưng người thực hiện không lập thủ
tục đưa vào hồ sơ (điểm c khoản 1 Điều 80, Điều 84 BLTTHS).
Áp dụng quy định của BLHS về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; dấu
hiệu pháp lý để định tội, định khung, áp dụng tình tiết tăng nặng; thực hiện nguyên
tắc có lợi cho người phạm tội.
Vụ án “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 có 12 bị cáo và “Tổ chức đánh bạc”
theo khoản 1 Điều 249 BLHS có 2 bị cáo, trong đó có 4 bị cáo bị xét xử về tội Đánh
bạc, mỗi người đánh bạc dưới 5 triệu đồng, lẽ ra VKS áp dụng điểm b khoản 1 Điều 1
Nghị quyết số 109 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội để đình chỉ đối với 4 bị can này.
Khi nghiên cứu hồ sơ, xét xử Tòa án huyện không áp dụng quy định trên của Nghị
quyết và Công văn số 80 ngày 29/3/2016 của Chánh án TANDTC đối với họ.
Có 1 vụ xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản
3 Điều 140 BLHS 1999: Giai đoạn điều tra, truy tố căn cứ dấu hiệu pháp lý để định
tội là “vay, mượn tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS 1999. Kết luận
46
điều tra, Cáo trạng xác định bị can phạm tội điểm a khoản 3 Điều 140 BLHS và phạm
tội nhiều lần (điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS). Việc áp dụng điểm a khoản 3 Điều
140, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 đối với bị cáo lẽ ra cần đối chiếu với “Thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” (bị cáo vay mượn tài sản nhiều người, thời điểm
vay mượn khác nhau; thời điểm những người cho vay mượn gửi đơn có sự khác
nhau) và chưa chú trọng yêu cầu trong đơn của những người cho vay để xem xét loại
quan hệ pháp luật. Ngoài ra, đến ngày xét xử BLHS 2015 đã được công bố hơn 1
tháng mà khoản 1 Điều 175 Bộ luật này không quy định “…bỏ trốn để chiếm đoạt tài
sản đó” là dấu hiệu pháp lý để định tội, nhưng không đối chiếu để áp dụng [theo
khoản 3 Điều 7 “Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian” của BLHS 2015 thì dấu
hiệu định tội “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” trong BLHS 1999 - là trường hợp
được xóa bỏ một tội phạm, được loại trừ trách nhiệm hình sự; và dấu hiệu pháp lý để
định tội “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” - thuộc một trong các trường hợp được
quy định tại điểm b Nghị quyết 109 ngày 27/11/2015 của Quốc hội: “b.Các điều
khoản của BLHS 2015 xóa bỏ một tội phạm,…”].
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự. Qua kiểm
tra bản án, có trường hợp người tham gia trong vụ án không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự do không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng án sơ thẩm lại nhận định
họ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng không đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự nên cơ quan có thẩm quyền không truy cứu trách nhiệm hình sự - là
không đúng về mối quan hệ giữa tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách
nhiệm hình sự, về mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm, về phân loại vi phạm pháp
luật và trách nhiệm pháp lý tương ứng. Nêu ra vấn đề này nhằm để chú ý, ngoài
việc xác định họ không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không đồng phạm với
người thực hiện hành vi phạm tội (khi xác định cấu thành cơ bản), mà còn để khẳng
định do họ không thỏa mãn cấu thành cơ bản, không đồng phạm nên không thỏa
mãn cấu thành tăng nặng với người khác (người phạm tội) trong các vụ án mà có
tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” (căn cứ: Khoản 3 Điều 8, Điều
12, Điều 20 BLHS 1999, khoản 3 Điều 107 BLTTHS 2003, Điều 12 BLHS
47
2015,..v…v… kết hợp hành vi cụ thể và loại vi phạm pháp luật cụ thể); điều này có
ý nghĩa về mặt nhận thức để tránh sai sót đối với các trường hợp người có hành vi
vi phạm nhiều lần, xâm hại khách thể bảo vệ của Bộ luật hình sự, không có người
khác tham gia, nhưng do họ không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không thỏa
mãn cấu thành cơ bản, do đó họ không phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng
“Phạm tội nhiều lần”.
Về xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm;áp dụng
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Có 1 vụ xét xử tội Trộm cắp tài sản (xe
máy) theo khoản 1 Điều 138 BLHS: Sau khi người phạm tội đã thực hiện hoàn
thành hành vi, thì bị người khác phát hiện ngăn chặn nên người phạm tội không
hoàn thành việc tẩu tán tài sản trộm cắp mà bị thu hồi, nhưng khi xét xử lại xác định
phạm tội chưa đạt nên áp dụng Điều 18 (Phạm tội chưa đạt) và khoản 3 Điều 52
BLHS 1999 (Áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt). Có 1 vụ xét
xử tội Trộm cắp tài sản (tiền, điện thoại di động) theo khoản 1 Điều 138 BLHS:
Diễn biến vụ án này tương tự như vụ án trên, lại nhận định bị cáo phạm tội nhưng
chưa gây thiệt hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội
nhưng chưa gây thiệt hại” thuộc điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 (Phòng đã
ban hành 2 thông báo rút kinh nghiệm các trường hợp này).
Về xử khác khung, khác tội VKS truy tố: Có trường hợp lẽ ra cần phải áp
dụng đúng quy định cụ thể tại Điều 196 về giới hạn xét xử, Điều 170 BLTTHS
2003 về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp và quy định về phân loại tội phạm
(khoản 3 Điều 8 BLHS 1999).
Nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và khi xét xử. Cáo trạng truy
tố 2 bị can điểm b “Phạm tội nhiều lần” thuộc khoản 2 Điều 194 BLHS. Nhưng 2 lần
mua bán trái phép chất ma túy thì có 1 người chưa đủ 16 tuổi; trong khi khoản 1 Điều
194 BLHS là tội nghiêm trọng. Lẽ ra phải căn cứ khoản 3 (Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự) Điều 107 (Những căn
cứ không được khởi tố vụ án hình sự) của BLTTHS; khoản 3 (phân loại tội phạm)
Điều 8 (khái niệm tội phạm), khoản 2 (người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
48
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng) Điều 12 (tuổi chịu trách nhiệm hình sự); khoản 1 Điều
194, điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS 1999 để xác định quan hệ pháp luật đối với
hành vi người này mua bán trái phép chất ma túy khi nghiên cứu hồ sơ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử và khi thực hiện thủ tục bắt đầu phiên tòa. Qua ý kiến của thành
viên trong Phòng về tình tiết “Phạm tội nhiều lần” được BLHS quy định là cấu thành
tăng nặng mà đôi khi đã có sự áp dụng sai, thì HĐXX đã có biện pháp pháp lý giải
quyết. Có 1 vụ 1 bị cáo tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS và 1 bị cáo tội “Giao cho người
không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều
205 BLHS: Vụ án này tập trung vào việc thu thập, đánh giá chứng cứ buộc tội mà
không thu thập các chứng cứ gỡ tội. Hội đồng xét xử lẽ ra phải xem xét làm rõ lỗi của
bị hại như: điều khiển xe không đèn, chạy tốc độ nhanh không kịp xử lý khi gặp
chướng ngại vật nên tự tông vào thùng dầu bên hông giữa xe ô tô bên tài.
Về xử án treo; thực hiện kết hợp thủ tục thẩm vấn với tranh tụng: Nhiều
trường hợp thiên về các tình tiết giảm nhẹ xét xử cho bị cáo hưởng án treo chưa
thuyết phục. Qua công tác kiểm tra thường kỳ, kiểm tra bản án, Phòng đã có ý kiến
với các Tòa án cấp huyện rằng, để góp phần áp dụng đúng và đầy đủ các quy định
của pháp luật khi xét xử, hạn chế sai sót, án cải sửa, án hủy thì cần thực hiện tốt quy
định của BLTTHS về sự kết hợp thủ tục thẩm vấn với tranh luận đối với tất cả các
vụ án vì đây là mô hình tố tụng hình sự kiểu đan xen (hỗn hợp) mà Nhà nước ta quy
định. Đến nay, BLTTHS 2015 đã quy định thủ tục xét hỏi và tranh tụng là những
nguyên tắc cơ bản.
Về phân công người tiến hành tố tụng: Rất nhiều hồ sơ vụ án hình sự các
huyện không có quyết định của Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS phân công
người tiến hành tố tụng (phân công Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên) trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố (theo mẫu tại Thông tư 06 ngày 02/08/2013 của Bộ CA-Bộ QP-Bộ TC-
Bộ NN&PTNT–VKSNDTC). Để đảm bảo thủ tục tố tụng, bảo đảm thu thập, đánh
49
giá chứng cứ, chứng minh, quyền và nghĩa vụ người tiến hành tố tụng, quyền khiếu
nại, tố cáo, yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng của người tham gia tố tụng
trong giai đoạn này và để đảm bảo việc khởi tố, tiến hành các hoạt động tố tụng,
hoạt động kiểm sát đúng pháp luật cũng như để thực hiện LTCTAND 2014 và
BLTTHS 2015 khi có hiệu lực (về mời người tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa
để phục vụ xét xử) thì Phòng đã đề nghị các Tòa án cấp huyện có ý kiến với CQĐT,
VKS thực hiện quy định nêu trên của Thông tư 06.
- Trong giải quyết vụ án dân sự:
Đa số Tòa án cấp huyện hồ sơ không có quyết định phân công những người
tiến hành tố tụng. Nhiều vụ khi thụ lý ghi không đúng, không đầy đủ quan hệ tranh
chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết. Nhiều vụ, trong quá trình thụ lý giải quyết
ghi quan hệ tranh chấp trong các văn bản tố tụng không thống nhất với nhau, nhất là
trong án hôn nhân và gia đình, ghi không đúng theo khoản 1 Điều 27 BLTTDS
2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 hoặc khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015.
Nhiều trường hợp: Vi phạm về giao nhận, tống đạt, niêm yết, thông báo các
văn bản tố tụng, quyết định, bản án; giao các văn bản tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến
khi giải quyết (bằng các hình thức) nhưng biên bản giao nhận không ghi số, ngày
tháng năm của văn bản, quyết định Tòa án giao cho đương sự; khi xem xét, thẩm
định tại chỗ không có đại diện Ủy ban xã (Chủ tịch/Phó Chủ tịch-Điều 89
BLTTDS), chỉ có cán bộ Địa chính, Tư pháp xã tham gia. Có trường hợp không
xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trước khi
giải quyết vụ án.
Nhiều quyết định giải quyết vụ án, bản án không tuyên lãi chậm thi hành án
theo khoản 2 Điều 305 BLDS đối với khoản tiền cấp dưỡng, vi phạm thời hạn thực
hiện nghĩa vụ trả nợ; không ghi hoặc ghi thừa câu “Trường hợp bản án được thi hành
theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của
50
Luật thi hành án dân sự”. Có bản án buộc trả vàng nhưng lại tuyên “kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án không thi hành hết các khoản thi
hành thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Nhà nước quy định tương ứng
với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán” là không đúng vì thanh
toán bằng vàng trong giai đoạn thi hành án không quy định tính tiền lãi (Thông tư liên
tịch số 01/1997/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTC-BTP ngày 19/6/1997).
Nhiều biên bản nghị án không nghị án từng vấn đề và căn cứ pháp luật áp dụng
cho từng vấn đề, mà chỉ ghi kết quả biểu quyết đối với tất cả các vấn đề được xem xét
khi nghị án và tất cả các căn cứ pháp luật được áp dụng. Có trường hợp không xem xét,
thảo luận về người chịu án phí khi yêu cầu của họ không được Tòa chấp nhận.
Nhiều đơn vị sử dụng không đúng biểu mẫu 11a ban hành kèm theo Hướng
dẫn tại Nghị quyết số 05/NQ/HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán;
không thu thập bản gốc giấy chứng nhận đăng ký kết hôn trong vụ án hôn nhân gia
đình; nhiều Bản án không xem xét nguyện vọng của con muốn sống với cha hoặc
mẹ khi ly hôn khi ý kiến của con không thống nhất.
Nhiều đơn vị, quyết định giải quyết việc dân sự về “Yêu cầu tuyên bố một
người mất tích”, “Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự”, “Yêu
cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú” lại ghi không đúng các chủ
thể quyền kháng cáo theo Điều 316 BLTTDS.
- Trong giải quyết vụ án hành chính:
Một số đơn khởi kiện chưa đúng với Điều 105 Luật Tố tụng hành chính (cuối
đơn khởi kiện phải có nội dung: Người khởi kiện phải cam đoan về việc không đồng
thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại); không có giấy báo
nhận đơn khởi kiện (Điều 107 Luật Tố tụng hành chính); không có tài liệu thể hiện
giao quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cho người khởi kiện, người bị kiện
(Khoản 2 Điều 122 Luật Tố tụng hành chính).
- Về mở các sổ nghiệp vụ và ghi chép:
Sổ thụ lý đơn khởi kiện, có đơn vị ghi các cột mục không đảm bảo. Mục “Tài
liệu kèm theo đơn khởi kiện” không ghi rõ ràng, cụ thể các tài liệu kèm theo, là bản
51
chính hay bản phô tô. Các mục “Ngày nhận đơn, ngày trả lại đơn, ngày chuyển đơn
khởi kiện, ngày nộp thông báo tạm ứng án phí, ngày nộp tiền tạm ứng án phí, thụ lý
vụ án và ngày tháng năm” bỏ trống. Có đơn vị ghi các thông tin trong sổ thụ lý và
kết quả giải quyết vụ án đối với tất cả các loại án Hình sự, Dân sự còn chưa bảo
đảm, không thực hiện đúng biểu mẫu quy định, không ghi tóm tắt kết quả phần
quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm; không ghi quan hệ tranh chấp khi Tòa
án đã giải quyết vụ án, chỉ ghi quan hệ tranh chấp khi thụ lý.
2.2.2.2. Hoạt động thi hành án
- Thi hành án hình sự:
Thụ lý 31 hồ sơ thi hành án hình sự với 59 bị án và ra 62 quyết định thi hành
án (trong đó có 07 Quyết định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo, 01 Quyết
định thi hành án hình phạt tử hình, 47 Quyết định thi hành án hình phạt tù, 04 Quyết
định hoãn thi hành án hình phạt tù, 01 Quyết định tạm đình chỉ thi hành án hình phạt
tù, 02 Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù); Cấp 05 Giấy chứng nhận xóa án tích;
Ra 70 Quyết định xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 70 phạm nhân nhân
dịp Tết Nguyên đán, Lễ 30/04, Quốc khánh 02/09 (trong đó có 69 Quyết định chấp
nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, 01 Quyết định không chấp nhận giảm
thời hạn chấp hành hình phạt tù); Lập thủ tục hồ sơ đề nghị xét đặc xá và cấp 06 Giấy
chứng nhận đặc xá cho 06 người bị kết án phạt tù nhân dịp Quốc khánh.
- Thi hành án dân sự:
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi có văn
bản số 153/CCTHADS ngày 09/01/2017 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giải
thích bản án Lao động phúc thẩm số 01/2012/LĐPT ngày 20/3/2012 của TAND
tỉnh Quảng Ngãi. Phòng đã tham mưu lên Lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Ngãi ban
hành văn bản số 31/TA- KTNV&THA ngày 01 tháng 02 năm 2017 phúc đáp.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi có văn bản số 464/CTHADS ngày
30/8/2017 gửi TAND tỉnh đề nghị kiểm tra bản án và kiến nghị xem xét kháng nghị
theo trình tự giám đốc thẩm đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày
24/9/2015 của TAND huyện Tây Trà. Bản án kết án các bị cáo Dương Hoàng Vũ,
52
Trương Danh, Lương Trường Vân, Bùi Việt Dũng phạm tội “Cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm d khoản 2
Điều 165 BLHS. Tuyên buộc Dương Hoàng Vũ và Bùi Việt Dũng phải có trách
nhiệm liên đới hoàn trả lại cho Ủy ban nhân dân huyện Tây Trà 939.539.927 đồng,
trong đó: Dương Hoàng Vũ phải hoàn trả 917.487.416 đồng (tiền thanh toán xây lắp
khống) và Bùi Việt Dũng phải hoàn trả 22.052.511 đồng (thanh toán nghiệm thu
khống). Tuyên tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 900.000.000 đồng, trong đó
Trương Danh nộp 300.000.000 đồng, Bùi Việt Dũng nộp 250.000.000 đồng, Lương
Trường Vân nộp 250.000.000 đồng và Dương Hoàng Vũ nộp 100.000.000 đồng.
Tuyên bị cáo Dương Hoàng Vũ chịu án phí 39.524.000 đồng, bị cáo Bùi Việt Dũng
chịu án phí 1.102.000 đồng.Chúng tôi thấy bản án này có những vấn đề sau đây:
Các bị cáo cùng nhau lập chứng từ nghiệm thu khống 22.052.511 đồng + lập
khống chi phí quản lý dự án 18.765.178 đồng + thanh toán khống khối lượng
917.487.416 đồng = 958.287.195 đồng. Giai đoạn điều tra, các bị cáo nộp
900.000.000 đồng khắc phục hậu quả.
Các bị cáo đều bị truy tố, xét xử theo điểm d khoản 2 Điều 165 BLHS và đều
được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS. Hậu quả xảy
ra là hậu quả chung nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng các Điều 20 và 53 BLHS đối
với các bị cáo, không tuyên buộc 4 bị cáo phải cùng chịu trách nhiệm bồi thường
tổng số tiền thiệt hại là 939.539.927 đồng, mà chỉ tuyên Dương Hoàng Vũ phải
hoàn trả 917.487.416 đồng và Bùi Việt Dũng phải hoàn trả 22.052.511 đồng là
không đúng về các trách nhiệm pháp lý mà các đồng phạm phải gánh chịu; không
tuyên buộc cả 4 bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tổng số tiền thiệt hại, là
không đúng trách nhiệm dân sự trong đồng phạm; tuyên mâu thuẫn nhau về trách
nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí dân sự sơ thẩm. Từ đó, Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Tây Trà đã trả lại 800.000.000 đồng mà các bị cáo đã nộp.
- Thi hành án hành chính:
Chánh án TAND tỉnh đã ra 2 quyết định buộc thi hành bản án hành chính
theo đơn yêu cầu của người được thi hành án.
53
2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án từ năm
2013-2017
2.3.1.Ưu điểm
- Đã tiến hành kiểm tra toàn diện các hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án
cấp huyện trực thuộc theo yêu cầu của Chánh án TAND tỉnh. Qua hoạt động kiểm
tra hồ sơ tài liệu các loại án, các loại vụ việc: Hình sự; dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh thương mại, lao động (gọi chung là án dân sự); hành chính; việc áp
dụng biện pháp xử lý hành chính tại tòa án mà Tòa án cấp huyện giải quyết đã có
hiệu lực pháp luật, và kiểm tra các bản án, quyết định sơ thẩm các Tòa án cấp huyện
gửi lên, để xem xét đánh giá về việc áp dụng pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng,
pháp luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn liên quan (khi ra bản án, quyết
định thì các Tòa án cấp huyện đều phải gửi về Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi
hành án của Tòa án nhân dân tỉnh để kiểm tra). Qua kiểm tra, đã phát hiện những
bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các
quy định của luật nội dung, luật tố tụng, luật chuyên ngành hoặc Nghị quyết hướng
dẫn áp dụng pháp luật của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc những
văn bản liên quan, mà gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước hoặc của các chủ thể
khác mà đủ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm để xét xử giám đốc thẩm nhằm khắc
phục vi phạm, sai lầm đó, khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các chủ thể, thì Phòng sẽ tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị
giám đốc thẩm (theo quy định của LTCTAND năm 2002 và các Bộ luật Tố tụng
Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng hành chính), để Ủy ban Thẩm phán
TAND tỉnh Quảng Ngãi mở phiên họp xét kháng nghị.
- Đã tiến hành kiểm tra công tác thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong các hoạt động tố tụng và hành chính – tư pháp của Tòa án cấp
huyện. Qua kiểm tra, phát hiện vi phạm thì tùy từng trường hợp đã tham mưu
Chánh án Tòa án tỉnh giải quyết hoặc chỉ đạo Chánh án Tòa án cấp huyện giải
quyết theo thẩm quyền.
54
- Chánh án TAND tỉnh đã ra các quyết định thi hành án hình sự thuộc thẩm
quyền, giải quyết các trường hợp miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp
hành hình phạt, đặc xá, xóa án tích, rút ngắn thời gian thử thách của án treo, rút
ngắn thời gian thử thách hình phạt cải tạo không giam giữ, tạm đình chỉ thi hành án
phạt tù, hoãn thi hành án phạt tù.
- Đã tiến hành nghiên cứu hồ sơ tài liệu về các trường hợp cơ quan Công an,
Viện Kiểm sát, Tòa án và Thi hành án hình sự cấp huyện đề nghị đặc xá cho những
người bị kết án đang được hoãn thi hành án phạt tù, đang được tạm đình chỉ thi
hành án phạt tù, trình Hội đồng xét đặc xá tỉnh xem xét, đề nghị lên Tòa án nhân
dân tối cao để trình Hội đồng đặc xá Trung ương quyết định.
- Đã giải quyết kịp thời các đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng,
trong quản lý hành chính – tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên, từ thực tiễn và kết quả, hiệu quả kiểm
tra nghiệp vụ và thi hành án trong những năm qua, cũng như thực trạng những tồn
tại, thiếu sót còn lặp lại và những vi phạm nảy sinh nhất là trong giải quyết án hình
sự, trong thời gian này hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã có những
bước đột phá rất đáng kể, cụ thể như sau:
Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập tổ công tác đột xuất tham dự
phiên tòa: Cuối năm 2015, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh đã chủ trì và phân công
lãnh đạo, Thẩm tra viên, Thư ký của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
“tham dự” đột xuất các phiên tòa về hình sự, dân sự, hành chính. Khi kết thúc từng
phiên tòa, các thành viên của Phòng tham mưu lãnh đạo các vấn đề cần rút kinh
nghiệm tại chỗ đối với toàn thể lãnh đạo, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử của
Tòa án huyện về áp dụng các quy định của pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký
và những người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử. Tổ công tác đã chỉ ra các vi
phạm, thiếu sót sau và đều được chấp nhận sửa chữa. Cụ thể: Một là, về hoãn phiên
tòa. Có 1 vụ ra quyết định hoãn để điều tra bổ sung (hoãn lần thứ 2) vì lý do không
xác định chính xác địa chỉ bị hại. Lẽ ra giai đoạn chuẩn bị xét xử, chủ tọa phải phát
hiện việc chưa lập lý lịch và chưa xác định địa chỉ bị hại để trả hồ sơ điều tra bổ
55
sung. Có 1 vụ ra quyết định hoãn nhưng trước khi quyết định, chủ tọa chỉ hỏi ý kiến
Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử lại vào phòng nghị án thảo luận về việc hoãn. Lẽ
ra chỉ thảo luận tại chỗ về vấn đề này (khoản 3 Điều 199 BLTTHS). Có trường hợp
HĐXX quyết định hoãn phiên tòa vì thiếu nhân chứng, nhưng Chủ tọa nói rõ cần
phải có nhân chứng để phục vụ hoạt động chứng minh tình tiết định khung phạm tội
nhiều lần. Hai là, thực hiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa
chưa đúng quy định, ảnh hưởng đến chứng minh. Có vụ ra thông báo bổ sung Quyết
định đưa vụ án ra xét xử trước 03 ngày mở phiên tòa. Có vụ NCQL và NVLQ có
mặt, nhưng chủ tọa chỉ hỏi họ tên, không giải thích quyền và nghĩa vụ. Có vụ các
nhân chứng có mặt nhưng chủ tọa không đề cập đến. Có vụ không giải thích nghĩa
vụ của người làm chứng. Nhiều trường hợp khi thẩm tra căn cước, lý lịch của những
NTGTT không đầy đủ; không hỏi mối quan hệ giữa bị cáo với nhân chứng, giữa bị
hại với nhân chứng. Đa số khi giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những
NTGTT khác nhưng không nêu căn cứ pháp lý hoặc giải thích không đầy đủ. Nhiều
trường hợp khi đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ có chủ tọa đứng đọc và yêu
cầu bị cáo đứng lên. Có vụ án có người phiên dịch nhưng chủ tọa không giải thích
quyền và nghĩa vụ của họ, không yêu cầu họ cam đoan sẽ dịch đúng và đầy đủ.
Nhiều trường hợp nhân chứng, NCQL và NVLQ vắng mặt nhưng chủ tọa không hỏi
ý kiến bị cáo, người bị hại về sự vắng mặt của những người này và có trường hợp
HĐXX không hội ý về vấn đề này để ghi vào biên bản phiên tòa. Nhiều trường hợp
chủ tọa không hỏi bị cáo nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa, nếu nhận thì
ngày, tháng, năm nào. Nhiều trường hợp trước khi kết thúc phần thủ tục, chuyển
qua phần xét hỏi nhưng chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV, bị cáo và
tất cả những NTGTT ai có ý kiến, yêu cầu gì về thủ tục không, có yêu cầu thay đổi
các thành viên HĐXX, KSV, Thư ký, người phiên dịch không. Có trường hợp khi
kết thúc giai đoạn này và chuyển qua giai đoạn tiếp theo nhưng chủ tọa không tuyên
bố rạch ròi, lại dùng từ “tiếp theo chương trình là...”. Có trường hợp đã tuyên bố kết
thúc phần thủ tục và chuyển qua phần xét hỏi nhưng lại hỏi bị cáo có ý kiến gì
không. Nhiều trường hợp NTGTT vắng mặt nhưng chủ tọa chỉ hỏi ý kiến của KSV
56
về vấn đề này. Ba là, việc thực hiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa vi phạm quy định
về chứng minh, như hỏi bị cáo CQĐT bắt bị cáo có đúng tội không; bản cáo trạng
với hành vi như vậy có đúng không; hỏi những NTGTT khác cáo trạng có đúng
người đúng tội đúng pháp luật không. Không hỏi bị cáo có nghe rõ cáo trạng công
bố tại phiên tòa không, có giống với cáo trạng đã nhận không, mà lại hỏi: Cáo trạng
có đúng với tội trạng của bị cáo hay không, cáo trạng có đúng người đúng tội đúng
pháp luật không. Bị cáo không biết chữ nhưng không hỏi Kết luận điều tra, Cáo
trạng, QĐĐVARXX có ai đọc cho bị cáo nghe không. Xét xử lưu động, HĐXX hỏi
bị cáo lại dùng từ lóng, bị cáo khai say rượu nên không nhớ hành vi nhưng chủ tọa
không công bố lời khai, không giải thích quy định của BLHS về phạm tội trong tình
trạng này. Hội thẩm hỏi bị cáo có ăn năn hối cải không, bị cáo đáp có, thì Hội thẩm
lại nói rằng sao uổng vậy. Nhân chứng khai khách quan, trung thực nhưng chủ tọa,
Hội thẩm lại nói muốn đi tù phải không. Có Hội thẩm khi hỏi lại thao tác điện thoại
di động hay chỉ giải thích chứ không hỏi để chứng minh. Khi xét hỏi thì Hội thẩm
lại hỏi căn cước, lai lịch bị cáo, hỏi nhận cáo trạng chưa, nhận bao giờ; tại phiên tòa,
bị cáo thành khẩn khai báo nhưng lại nói cần thành khẩn khai báo để giảm nhẹ. Khi
hỏi bị cáo về vật chứng (không đưa ra xem xét tại Tòa) lại dùng từ không phù hợp
không toát được câu hỏi. Chủ tọa thường dùng câu hỏi “có không” “đúng không”
“phải không”, bị cáo trả lời thì chủ tọa “à đúng rồi”. Nhiều trường hợp chủ tọa chưa
lựa chọn hỏi ai trước, hỏi ai sau, hỏi vấn đề nào trước, vấn đề nào sau và phải sử
dụng chiến thuật hỏi, dạng câu hỏi đối với từng vụ án cụ thể đặt ra, nhất là án truy
xét. Chủ tọa hỏi những NTGTT khác nhưng thường sử dụng câu hỏi mang tính
khẳng định: đúng không, phải không, có không. Không hỏi kỹ bị cáo để xác định
tiền án; tiền sự (hoặc không có tội). Bị cáo chưa trả lời hết câu hỏi của HĐXX hay
KSV nhưng bị cắt ngang. Điều tra, truy tố chưa xác định đủ NTGTT và tại Tòa bị
cáo tự khai ra, nhưng giai đoạn chuẩn bị xét xử không phát hiện ra, do đó tại phiên
tòa những NTHTT không đề cập đến lời khai này, ảnh hưởng đến yêu cầu giải
quyết vụ án. Bị cáo khai ra thông tin mới về người mà VKS cho rằng chưa xác định
họ tên, địa chỉ nhưng chủ tọa không hỏi, không yêu cầu KSV hỏi. Chủ tọa yêu cầu
57
Thư ký công bố lời khai người làm chứng do vắng mặt, lẽ ra chủ tọa phải công bố
để chứng minh. Người làm chứng, NCQL và NVLQ vắng mặt trong khi bị cáo khai
không nhớ những lần phạm tội hoặc thông tin liên quan nhưng chủ tọa không công
bố lời khai để chứng minh và áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Trước khi kết thúc phần
xét hỏi để KSV đọc luận tội, đề nghị giải quyết vụ án và chuyển sang phần tranh
luận nhưng chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV có hỏi thêm gì nữa
không, không hỏi các thành viên HĐXX, KSV, bị cáo và những NTGTT khác có ai
có yêu cầu hỏi thêm về vấn đề gì nữa không. Những NTGTT là dân tộc thiểu số
nhưng HĐXX đặt câu hỏi không phù hợp. Có vụ án hiếp dâm đã hoàn thành, nạn
nhân hơn 13 tuổi là người dân tộc thiểu số. Tại tòa có bị hại, cha, mẹ bị hại nhưng
HĐXX, KSV không giải thích quyền yêu cầu về các khoản bồi thường dân sự, cũng
không hỏi phía bị hại có yêu cầu bị cáo (40 tuổi) bồi thường dân sự không. Mà chỉ
hỏi phía bị hại “có yêu cầu gì không” nên họ không hiểu và không trả lời. Chủ tọa
không hỏi rõ bị cáo, bị hại để chứng minh về hành vi, diễn biến hành vi của bị cáo,
thái độ của bị hại đối với hành vi đó về cấu thành tội phạm, giai đoạn thực hiện tội
phạm, hậu quả xảy ra, kết luận giám định, cũng không yêu cầu KSV hỏi về vấn đề
này. KSV khi hỏi bị cáo lại dùng từ “Nó (bị hại) có tự nguyện cởi không? Bị cáo có
cởi …con này chưa? Có…chưa? Nó có chống lại không…” nhưng Chủ tọa không
chấn chỉnh (thẩm vấn không như bản án thể hiện). Nhiều vụ án, trước khi tuyên bố
kết thúc phần xét hỏi, chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV có ai hỏi thêm
gì nữa không, không hỏi bị cáo và những NTGTT khác có ai yêu cầu hỏi thêm gì
nữa không, mà lại nói “qua tranh luận tại phiên tòa để làm sáng tỏ vụ án”. Có KSV
khi xét hỏi dùng từ đúng không, phải không nhưng chủ tọa không chấn chỉnh. Bốn
là, việc tranh luận chưa đúng trình tự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả chứng
minh. Có trường hợp sau khi KSV luận tội và đề nghị nhưng chủ tọa không hỏi bị
cáo, bị hại, NCQL và NVLQ có tranh luận với KSV không mà lại tuyên bố kết thúc
phần tranh luận, HĐXX vào phòng nghị án. Có vụ án sau khi VKS trình bày luận
tội và đề nghị, chủ tọa không hỏi rõ bị cáo và những NTGTT có ai có ý kiến tranh
luận với đại diện VKS không. Sau khi KSV phát biểu quan điểm và đề nghị, chủ tọa
58
hỏi thì bị cáo và những NTGTT nêu không tranh luận gì, lẽ ra bản án phải thể hiện
tại phiên tòa những người này không tranh luận, nhưng lại ghi “căn cứ kết quả tranh
luận”. Trước khi kết thúc phần tranh luận, chủ tọa không hỏi những NTGTT có
trình bày gì thêm không, có yêu cầu tranh luận vấn đề gì nữa không, mà lại tuyên bố
kết thúc tranh luận.
Tham mưu ban hành kế hoạch kiểm tra: Nhận thấy trước yêu cầu đòi hỏi từ
các quy định của LTCTAND năm 2014 và các Luật ban hành sau khi có Hiến pháp
2013, từ thực tiễn các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án 2 cấp trong tỉnh cũng như
công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đối với cấp huyện, Chánh án TAND tỉnh
Quảng Ngãi ban hành Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2016, Kế hoạch công tác
kiểm tra năm 2017.
Đổi mới quy trình kiểm tra thường kỳ và báo cáo kết quả: Trước đây qui
trình kiểm tra và báo cáo kết quả phải tổ chức họp Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi
hành án để thông qua kết luận kiểm tra và lãnh đạo Phòng cùng thư ký của Phòng
báo cáo kết quả kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán. Cách làm này rất tốn thời gian và
nhiều trường hợp không chính xác, thiếu tính khoa học - vì thực tế hoạt động kiểm
tra bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Tòa án
cấp huyện, cho nên việc áp dụng, tuân thủ, sử dụng, thi hành các quy định của pháp
luật và các văn bản dưới luật cũng rất rộng. Do vậy Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án đề xuất lên lãnh đạo cách làm như sau:
Từng đồng chí trong Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án được lãnh đạo
Phòng phân công kiểm tra từng lĩnh vực và giao thời hạn hoàn thành kiểm tra. Lãnh
đạo Phòng quy định thời điểm từng cá nhân gửi báo cáo kết quả kiểm tra cho đồng
chí được phân công dự thảo kết luận kiểm tra; thời điểm đồng chí được phân công
dự thảo kết luận kiểm tra hoàn thành dự thảo và gửi cho tất cả các đồng chí trong
Phòng để đối chiếu với kết quả kiểm tra của mình và nghiên cứu kết quả kiểm tra
của các đồng chí khác để xem xét, đánh giá kết quả kiểm tra của đồng nghiệp nhằm
trao đổi trực tiếp, và soát xét lại kết quả kiểm tra của mình để điều chỉnh, bổ sung
kết luận kiểm tra trước khi báo cáo ra tập thể Phòng.
59
Khi báo cáo ra tập thể Phòng thì mỗi thành viên trong Phòng đều có được
bản dự thảo kết luận kiểm tra và cùng tham gia góp ý kiến về kết quả kiểm tra của
đồng nghiệp cũng như lý giải về kết quả kiểm tra của mình khi có ý kiến yêu cầu;
nếu có ý kiến khác nhau trong Phòng, thì nêu rõ các ý kiến đó trong dự thảo kết
luận kiểm tra để trình Ủy ban Thẩm phán xem xét quyết định.
Do đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật mang tính linh hoạt, sáng tạo
của chủ thể và tuân thủ quá trình nhận thức theo nguyên lý của lý luận nhận thức,
cho nên Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đề xuất lên Chánh án Tòa án tỉnh
thực hiện việc trước khi Phòng báo cáo kết quả kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán thì
Phòng cần phải gửi trước bản dự thảo kết luận kiểm tra cho tất cả các thành viên Ủy
ban Thẩm phán để nghiên cứu và cho ý kiến chỉ đạo tại cuộc họp thông qua kết luận
kiểm tra ít nhất là 3 ngày; đồng thời cũng đề nghị Ủy ban Thẩm phán khi thông qua
Kết luận kiểm tra thì hãy để cho tất cả các thành viên trong Phòng tham dự để lĩnh
hội ý kiến chỉ đạo cũng như lý giải về kết quả kiểm tra của mình và tham gia ý kiến
về kết quả kiểm tra của đồng nghiệp khi có ý kiến yêu cầu hoặc làm sáng tỏ vấn đề
kết luận qua kiểm tra và để trau dồi, học hỏi. Sau khi Ủy ban Thẩm phán thông qua
Kết luận kiểm tra thì, trước khi Chánh án ký ban hành, cần phải gửi Kết luận kiểm
tra cho đơn vị được kiểm tra để họ có ý kiến yêu cầu xem xét lại hoặc khiếu nại; sau
khi đã giải quyết ý kiến hoặc khiếu nại (nếu có), thì chuyển Kết luận kiểm tra vào
Hộp thư nội bộ để Chánh án soát xét được thuận lợi trong việc ký ban hành. Khi
ban hành, ngoài việc gửi cho Tòa án được kiểm tra, đồng thời cũng gửi cho các Tòa
án huyện để rút kinh nghiệm.
Đề xuất này được tập thể lãnh đạo và các thành viên Ủy ban Thẩm phán
đồng tình ủng hộ. Nhờ vậy, hơn 2 năm qua công tác kiểm tra thường kỳ có những
chuyển biến rất mạnh mẽ về chất lượng và thời gian; được hệ thống Tòa án 2 cấp
nhiệt tình ủng hộ.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế:
+ Đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
60
Không ban hành quyết định kiểm tra đối với các cuộc kiểm tra thường kỳ,
kiểm tra theo chuyên đề, mà chỉ ban hành văn bản thông báo. Chưa xây dựng kế
hoạch kiểm tra đối với từng cuộc kiểm tra thường kỳ, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm
tra đột xuất.
Công tác kiểm tra các bản án, quyết định sơ thẩm các loại án có thời điểm
chưa chú trọng sâu vào việc phát hiện những sai lầm vi phạm trong việc giải quyết
các loại án của cấp huyện để báo cáo Chánh án TAND tỉnh kháng nghị hoặc đề nghị
cấp trên kháng nghị giám đốc thẩm khắc phục và qua đó để góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng không chỉ đối với Tòa án. Trong lĩnh vực án dân sự chủ yếu chỉ
phát hiện những sai sót, vi phạm không lớn về tố tụng, trong khi có một số bản án
sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện có hiệu lực pháp luật được
Viện kiểm sát hoặc TAND cấp cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và được
Hội đồng giám đốc thẩm xét xử chấp nhận kháng nghị. Riêng về án hinh sự thấy
rằng, từ cuối năm 2015 trở đi khi phân công nhân sự kiểm tra phù hợp, đã phát hiện
và chỉ ra nhiều vấn đề trong áp dụng luật nội dung, nhưng việc xem xét để có biện
pháp khắc phục thì còn chừng mực.
Nhiều trường hợp pháp luật quy định đã rõ về mặt nhận thức và áp dụng
đúng, nhưng thành viên trong Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án còn có ý
kiến khác nhau về kết quả kiểm tra hoặc trả lời thỉnh thị, dẫn đến kéo dài thời hạn
giải quyết hoặc tham mưu lên lãnh đạo cơ quan giải quyết. Nhiều trường hợp cấp
huyện thỉnh thị nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp, về
nghiệp vụ thi hành án, Lãnh đạo TAND tỉnh giao cho Phòng kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án tham mưu. Lãnh đạo Phòng phân công Thư ký hoặc Thẩm tra viên
nghiên cứu đề xuất, nhưng lại không ấn định thời hạn hoàn thành hoặc thời hạn báo
cáo ra tập thể Phòng để trình lãnh đạo TAND tỉnh có ý kiến với đơn vị thỉnh thị,
dẫn đến có nhiều trường hợp chậm giải quyết.
Quy trình kiểm tra, báo cáo kết quả kiểm tra ra tập thể Phòng Kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án, ra Ủy ban Thẩm phán từ năm 2013 – 2015 khi chưa có
61
những biện pháp cải tiến còn thiếu khoa học và ảnh hưởng phần nào đến độ tin cậy
đối với kết quả kiểm tra. Lãnh đạo TAND tỉnh không áp dụng nhiều phương thức
kiểm tra mà chỉ tập trung phương thức kiểm tra thường kỳ 1 lần/năm đối với 13
TAND huyện, 2 lần/năm đối với TAND thành phố Quảng Ngãi, dẫn đến nếu phát
hiện sai lầm nghiêm trọng của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nếu kháng nghị
giám đốc thẩm thì không còn thời hạn.
Trước khi ban hành Kế hoạch kiểm tra từng năm thì việc công bố kết luận
kiểm tra đối với từng TAND cấp huyện thường là rất chậm, chưa chú trọng việc
phát kết luận kiểm tra cho toàn thể cán bộ đơn vị được kiểm tra và không gửi cho
các TAND các huyện để rút kinh nghiệm chung cũng như để xem xét khi đánh giá
thi đua khen thưởng, nên ảnh hưởng đến việc tiếp thu, khắc phục vi phạm và phản
hồi đối với kết luận kiểm tra.
Từ năm 2013 đến năm 2016, TAND tỉnh chủ yếu kiểm tra nghiệp vụ đối với
cấp huyện, chưa chú trọng tiến hành kiểm tra đối với các Tòa chuyên trách TAND tỉnh.
Chưa thường xuyên và kiên quyết đối với công tác báo cáo kiến nghị kháng
nghị giám đốc thẩm đối với bản hình sự có sai lầm. Việc xử lý sau kiểm tra đối với
cán bộ có vi phạm trong thụ lý, giải quyết các loại án và thi hành án hình sự của
TAND cấp huyện, nhất là đối với các trường hợp đáng chú ý trong giải quyết án hình
sự còn nặng về rút kinh nghiệm, dẫn đến sự chủ quan xem nhẹ trách nhiệm, ảnh
hưởng đến chất lượng hiệu quả các hoạt động tố tụng, lợi ích hợp pháp của các chủ
thể tham gia tố tụng trong vụ án, có sự bất cập trong công tác thi đua khen thưởng,
công tác đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, quy hoạch cán bộ...
+ Đối với hoạt động thi hành án:
Trong thi hành án hình sự đã ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án đối với
một người bị kết án chưa đủ thủ tục. Theo Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù số 74/2015/QĐ-CA của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì phạm nhân Lê
Văn Nết được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thời hạn 01 năm, kể từ ngày
18/6/2015 đến 18/6/2016. Ngày 7/7/2016, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an
tỉnh Quảng Ngãi xác minh tình trạng sức khỏe của phạm nhân Lê Văn Nết và ngày
62
11/7/2016 có Công văn số 322/CQTHAHS kèm theo hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ
chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân Lê Văn Nết, được Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi chấp nhận và ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù số
153/2016/QĐ-CA ngày 20 tháng 7 năm 2016. Tuy nhiên qua soát xét thấy rằng, hồ
sơ đề nghị chưa có tài liệu của cơ quan y tế có thẩm quyền xác định tình trạng sức
khỏe của phạm nhân Lê Văn Nết để làm căn cứ xem xét, ra quyết định tạm đình chỉ
chấp hành án phạt tù, nên TAND tỉnh đã ra quyết định hủy bỏ Quyết định nêu trên.
Sau khi người bị kết án bổ sung đủ thủ tục, thì TAND tỉnh đã kịp thời ra quyết định
tạm đình chỉ thi hành án đối với họ.
Năm 2015, có 1 trường hợp đề nghị đặc xá nhưng cán bộ của Phòng Kiểm
tra nghiệp vụ và thi hành án có sai sót về chữ đệm của họ tên người được đề nghị.
Trong thi hành án dân sự, hiện đơn vị chưa trả lời kiến nghị số 464/CTHADS
ngày 30/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
Trong thi hành án hành chính: Theo báo cáo số 34 ngày 21/3/2018 của
TAND tỉnh Quảng Ngãi gửi Vụ Giám đốc kiểm tra III Tòa án nhân dân tối cao về
việc rà soát những bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật tính đến
thời điểm báo cáo, trong đó có bao nhiêu bản án, quyết định chưa thi hành án và
nguyên nhân, để phục vụ cho việc xây dựng pháp luật và văn bản hướng dẫn về
hoạt động thi hành án hành chính, thì Tòa Hành chính cung cấp như sau: Số bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: 88, trong đó: Khiếu kiện quyết
định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban
nhân dân: 44; Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về lĩnh vực
đất đai, nhà ở: 41; Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong
lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính: 3. Trong số này có 44 bản án, quyết định
chưa thi hành. Tuy nhiên số liệu này Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án
không nắm được, trong khi Phòng có nhiệm vụ tham mưu Chánh án TAND tỉnh ra
quyết định buộc thi hành án hành chính khi có đơn yêu cầu của người được thi
hành án đối với những trường hợp thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh, theo quy
định tại Điều 312 Luật tố tụng hành chính.
63
- Nguyên nhân hạn chế
+ Nguyên nhân từ pháp luật.
Nhiều vấn đề thực tiễn đòi hỏi nhưng BLHS mới cũng chưa giải quyết hoàn
thiện về mặt khoa học, chẳng hạn như trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội trong đồng phạm, phòng vệ chính đáng, các dạng người thực hành trong
phạm tội đơn lẻ hoặc phạm tội có đồng phạm…dẫn đến nhận thức, áp dụng không
thống nhất.
Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,
pháp luật về thi hành án còn rất nhiều vấn đề về kỹ thuật lập pháp mà liên quan đến
tính độc lập tương đối và tính hệ thống của nó, thể hiện ở điểm có không ít quy
phạm bất cập, không rõ ràng, mâu thuẫn nhau trong bản thân từng luật và mâu
thuẫn với luật khác làm ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng trong hoạt động tố tụng
và kiểm tra. Chẳng hạn như nhận thức và áp dụng pháp luật về phạm vi và hướng
kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm, về thẩm quyền của Hội đồng xét
xử phúc thẩm, Hội đồng phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị một phần hoặc toàn bộ, nhận thức về phần bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật do không bị kháng cáo, kháng nghị trong các Bộ luật tố
tụng cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí, các luật tố tụng cũng có quy
định khác nhau về kháng cáo, kháng nghị và thẩm quyền của cấp phúc thẩm, kháng
nghị và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm hoặc
bản án, quyết định sơ thẩm và bản án, quyết định phúc thẩm. Vì thế, thực tiễn có
nhiều khó khăn đối với hoạt động kiểm tra đối với những trường hợp cấp phúc thẩm
hoặc giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm hoặc bản án, quyết định sơ
thẩm và phúc thẩm để tố tụng lại ở giai đoạn sơ thẩm, sau đó bản án, quyết định sơ
thẩm giải quyết lại vụ án có hiệu lực pháp luật.
Thi hành án hành chính lại quy định trong Luật Tố tụng hành chính, mà Luật
này lại không quy định người phải thi hành án phải báo cáo/thông báo cho Tòa án
biết việc thi hành án, nên việc Tòa án theo dõi, thống kế báo cáo, góp ý xây dựng
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là rất khó khăn. Luật này cũng không quy định
64
về thủ tục khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án; trong
khi quan hệ pháp luật hành chính là bất bình đẳng, người bị kiện là người phải thi
hành án đối với bản án, quyết định đã phán xét tính căn cứ và tính hợp pháp về hành
vi hoặc quyết định hành chính của mình.
+ Công tác kiểm tra chưa thực sự được những người có thẩm quyền quan
tâm đúng mức để thường xuyên giải quyết tốt các yếu tố của hoạt động này.
Tòa án nhân dân tối cao cũng chậm ban hành quy chế kiểm tra. Hệ thống Tòa
án cũng chưa đào tạo cán bộ làm công tác kiểm tra nên việc nghiên cứu hồ sơ tài
liệu trong quá trình kiểm tra cũng chỉ là kinh nghiệm, kỹ năng của từng người. Chế
độ đối với người làm công tác kiểm tra cũng còn bất cập như về lương và phụ cấp
ưu đãi. Về thi nâng ngạch Thẩm tra viên cũng chưa được tổ chức thực hiện. Người
làm công tác kiểm tra không được hưởng chế độ độc hại trong khi phải đầu tư
nghiên cứu rất nhiều và phải thường xuyên tiếp xúc với rất nhiều loại hồ sơ tài liệu
đã giải quyết và đưa vào lưu trữ.
Từ năm 2015 trở về trước TAND tỉnh Quảng Ngãi không ban hành Kế hoạch
kiểm tra hàng năm nên hoạt động kiểm tra còn theo thói quen và khi kiểm tra
thường kỳ, kiểm tra đột xuất đối với từng TAND cấp huyện không ban hành quyết
định kiểm tra và đề cương kiểm tra với những yếu tố đòi hỏi cơ bản của một cuộc
kiểm tra, là những nguyên nhân hạn chế đến hiệu quả kiểm tra và trách nhiệm của
người có thẩm quyền kiểm tra, của các thành phần trong đoàn kiểm tra.
Lãnh đạo Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, các Thẩm tra viên,
Thư ký được phân công kiểm tra các bản án, quyết định, các văn bản, quyết định
tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm gửi lên hầu hết chưa lập phiếu kiểm tra, cũng
chưa được người có trách nhiệm yêu cầu phải lập phiếu kiểm tra. Chỉ có 1 đồng
chí Thẩm tra viên chính được phân công kiểm tra các bản án hình sự sơ thẩm thì
có tiến hành lập phiếu này từ giữa năm 2015 đến nay, qua đó, đồng chí này đã đề
nghị Chánh án TAND tỉnh báo cáo đề nghị TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị
giám đốc thẩm 4 vụ (nêu trên).
65
+ Công tác tổ chức cán bộ của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án chưa
thực sự được quan tâm. Người được phân công làm công tác kiểm tra thường có
người sắp nghỉ hưu, người thì chờ để được đi học nghiệp vụ xét xử và phát triển
hơn nữa, người thì khó phát triển dù có đủ các khả năng và điều kiện. Từ năm 2013
đến năm 2014 thì Phòng giám đốc kiểm tra có đồng chí Quyền Trưởng Phòng
nguyên là người làm công tác Thi hành án dân sự chuyển qua, còn các đồng chí
khác thì có đồng chí nguyên là thẩm phán nhưng đã đến tuổi sắp nghỉ hưu, có đồng
chí là Thư ký dù được đào tạo cơ bản nhưng lại chưa có nhiều kinh nghiệm thực
tiễn trong các lĩnh vực tố tụng và thi hành án. Từ năm 2015 đến nay thì Phòng có 1
Phó phòng phụ trách, nguyên là Chánh án ở huyện Đảo Lý Sơn rất nhiều năm, 1
đồng chí Thẩm tra viên chính nguyên là Kiểm sát viên Trung cấp, Điều tra viên của
cơ quan điều tra các loại án tư pháp và 3 đồng chí Thư ký đều đã có hơn mười năm
tiến hành tố tụng. Trong số này có 2 Thạc sỹ, 1 người đang học thạc sỹ; có 2 người
tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Nhờ vậy, thời gian này hoạt động kiểm tra có
nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, cần phải chú trọng đến công tác cán bộ quản
lý của Phòng đối với người có năng lực, kinh nghiệm, chủ động và sáng tạo để có
thể ngang tầm trong hoạt động tham mưu, quản lý, chỉ đạo, điều hành và thực hiện
các công việc của Phòng theo yêu cầu trước mắt và lâu dài.
+ Việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn xét xử, tổng kết hoạt động
kháng nghị và xét xử theo các thủ tục đặc biệt của cấp có thẩm quyền cũng chưa
được quan tâm thường xuyên và đúng mức để tác động đến hoạt động tố tụng và
hoạt động kiểm tra.
+ Hệ thống Tòa án chưa ban hành các biểu mẫu về thi hành án hình sự, án
hành chính nên ảnh hưởng đến tính thống nhất của hoạt động thi hành án.
+ Quy trình thực hiện việc kiểm tra và một số kỹ năng cần có của người thực
hiện việc kiểm tra cũng chưa được Tòa án nhân dân tỉnh đầu tư nghiên cứu để ứng
dụng linh hoạt trong các hoạt động kiểm tra.
66
Tiểu kết chương 2
Chương 2 Luận văn đã phản ảnh rõ tình hình và đánh giá hoạt động kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án với những kết quả của nó với những nội dung và số liệu
minh chứng.
Trước yêu cầu đòi hỏi của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các bộ
luật, đạo luật mới, hàng năm, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã ban
hành Kế hoạch kiểm tra, và cán bộ của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã
đề xuất và áp dụng những biện pháp cải tiến trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và
thi hành án, công tác tham mưu giải quyết khiếu nại, trả lời thỉnh thị đã tạo ra bước
chuyển biến không ngừng trong hoạt động này, đặc biệt là công tác kiểm tra các hồ
sơ vụ án và các bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật đã phát hiện nhiều sai phạm,
nhất là sai lầm về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, từ các quy định của pháp luật và từ kết quả hoạt động thực tiễn,
chúng tôi đã chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
và thi hành án, từ đó làm cơ sở đề ra phương hướng và giải pháp.
67
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Phương hướng đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
3.1.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án phải phục vụ yêu cầu
cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của công tác xét xử
Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, với
phương hướng xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm,
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ
quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của NTHTT và NTGTT theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử là khâu đột
phá của hoạt động cải cách tư pháp.
Nghị quyết chỉ rõ yêu cầu thiết thực nhất của công cuộc cải cách tư pháp là
xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể THTT và TGTT, đổi mới việc tổ
chức các phiên tòa xét xử theo hướng bảo đảm công khai, dân chủ, bình đẳng trước
Tòa án và đặc biệt là nâng cao chất lượng tranh tụng. Việc đề ra yêu cầu nâng cao
chất lượng tranh tụng, đã thể hiện tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự đan
xen giữa thẩm vấn với tranh tụng; do đó, thể hiện nguyên tắc bảo đảm thực hiện
quyền bào chữa trong qúa trình tố tụng, bảo đảm các trình tự, thủ tục tố tụng trong
quá trình tố tụng, trong đó có giai đoạn Tòa án thụ lý và xét xử, bảo đảm quyền bình
68
đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội để bảo đảm việc giải quyết các loại án đúng
pháp luật, tôn trọng chân lý khách quan và điều đó thể hiện quan điểm nghiêm cấm
các hoạt động tố tụng mang tính hình thức, thủ tục, áp đặt mất dân chủ, bất bình
đẳng trontg tố tụng.
Cụ thể hóa Nghị quyết 49, Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử
lập Hiến, đã quy định tại Điều 102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Cùng với nguyên
tắc độc lập xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
được đảm bảo; Hiến pháp còn quy định cụ thể nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm (khoản 5 Điều 103); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Nội luật hóa các Công ước quốc tế về Quyền con người, tại Chương II Hiến
pháp 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hiến pháp, đã thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về đường lối xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn thông qua ghi nhận và giải quyết các nhu cầu cơ
bản của con người để làm cơ sở thực hiện mục tiêu chính trị của dân tộc; ghi nhận
quyền tự do thân thể của con người được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm việc xâm
phạm danh dự nhân phẩm của con người trong hoạt động tố tụng hình sự, đồng thời
thể hiện quan điểm tôn trọng các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự nói
riêng; ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự vốn là sản phẩm của
nền văn minh tư pháp trên thế giới; ghi nhận hơn nữa quyền bào chữa của người tham
gia tố tụng; trách nhiệm của Nhà nước do việc làm oan sai trong hoạt động tư pháp
hình sự và thi hành án, điều đó chứng tỏ đã không chấp nhận một thực tế chủ thể trốn
tránh trách nhiệm do làm oan, sai trong tố tụng hình sự và thi hành án nói riêng; tiếp
tục ghi nhận quyền bình đẳng giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Lần đầu tiên Hiến pháp quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp đã mở ra
nền móng của sự đột phá mạnh mẽ nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của xã hội từ
bao năm qua về yêu cầu phán xét hành vi, quyết định hợp pháp hay không hợp
69
pháp của các chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước; điều đó chính là sự thể hiện
nguyên tắc công bằng, bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án, ghi nhận công lý,
thể hiện bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa và làm thay đổi cách nghĩ, cách
nhìn, cách hành xử của hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể.
Nghị quyết số 49, Hiến pháp 2013 và LTCTAND 2014 ghi nhận lấy Tòa án
làm trung tâm cải cách tư pháp; điều đó nói lên sự đòi hỏi đối với hoạt động xây
dựng pháp luật, hướng dẫn pháp luật, các hoạt động tư pháp, hoạt động áp dụng
pháp luật khác và những hoạt động liên quan, hoạt động bổ trợ tư pháp đều phải
hướng tới nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động giải quyết các loại án của Tòa án.
Khoản 3 Điều 2 LTCTAND 2014 đã hiện thực hóa quyền tư pháp của Tòa án trong
hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động xét xử các loại án, loại vụ việc, nhất là án
hình sự; đây là một sự kiện trọng đại nói lên một trong những yêu cầu thực chất của
cải cách tư pháp, qua đó loại bỏ thói quen ỷ lại, nể nang, ngại va chạm, thờ ơ thiếu
trách nhiệm,…trong tố tụng hình sự và hoạt động kiểm tra.
3.1.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án phải phục vụ tăng
cường hiệu quả hoạt động tố tụng và thi hành án
Hoạt động tố tụng rất khó khăn phức tạp, đa dạng, theo xã hội học pháp luật
thì hoạt động này cũng như các hoạt động áp dụng pháp luật khác là bị chi phối bởi
nhiều yếu tố khách quan, nhiều quan hệ xã hội trái chiều, quan hệ quyền lực, quan
hệ tình cảm, sự mua chuộc, đe dọa của những phần tử xấu, trong khi hoạt động áp
dụng pháp luật mang tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể. Vì thế, yêu cầu tiên
quyết và trung tâm nhất để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách
tư pháp là vấn đề con người để tác động qua lại, kiểm soát lẫn nhau nhằm không
ngừng phục vụ tốt hoạt động giải quyết các loại vụ án, vụ việc theo các thủ tục và
tạo môi trường pháp lý trong hoạt động tố tụng trên nguyên tắc bảo đảm chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng.
Thấy rằng, sau khi Hiến pháp 2013 ra đời, hàng loạt các luật chuyên ngành
và các bộ luật tố tụng được sửa đổi, bổ sung; điều đó thể hiện sự pháp điển hóa của
hệ thống pháp luật, đồng thời đặt ra thách thức, đòi hỏi rất cao đối với các hoạt
70
động tố tụng nói chung, tố tụng hình sự nói riêng nhằm đưa pháp luật vào cuộc
sống. Do vậy, tăng cường hiệu quả hoạt động tố tụng, hoạt động kiểm tra nghiệp vụ
và thi hành án là đòi hỏi khách quan.
Chúng ta cần thống nhất về nhận thức mang tính tư tưởng chỉ đạo là có làm
thì có kiểm tra – hoạt động thụ lý, giải quyết các loại án, các loại vụ việc và hoạt
động thi hành án của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật (vì trong áp dụng
pháp luật đã bao hàm các hoạt động: sử dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật và thi
hành pháp luật) – là hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước, cho nên hoạt
động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước để xem xét, tra cứu đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp, mức độ
hợp pháp hay không hợp pháp và hậu quả của nó để kết luận về sự tuân thủ pháp
luật đối với các chủ thể được kiểm tra để đưa ra các biện pháp pháp lý để khắc phục
các vi phạm, thiếu sót, sai lầm để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ
thể; tuyệt đối không được lơ là hay vị nể hay ngại và chạm hoặc vì bệnh thành tích.
Trong xã hội có nhiều hệ thống kiểm soát vừa có tính độc lập, vừa có tính
đan xen. Thực tế, tất cả các tiêu cực trong xã hội đó chính là lực cản của sự vận
động phát triển xã hội theo quy luật. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
cũng chỉ là một lĩnh vực trong hệ thống kiểm soát trong hệ thống Tòa án mà thôi,
nhưng vấn đề đối với hoạt động này, chúng ta phải xác định rằng, quá trình tiến
hành hoạt động đó phải luôn luôn gắn lợi ích ngành với lợi ích của xã hội, lợi ích
của Nhà nước; không được vì lợi ích ngành mà đi ngược lại yêu cầu đòi hỏi so sánh
về lợi ích.
Việc giải quyết các loại án dân sự, án hành chính thì quá trình tố tụng đều do
Tòa án tiến hành, nhất là vai trò của các Thẩm phán; điều đó đặt ra trách nhiệm và
lương tâm đối với Thẩm phán phải bảo đảm quyền bình đẳng của các bên chủ thể
trước Tòa án, không được thiên vị bên này hay ngại va chạm trong quá trình thụ lý
giải quyết. Thực tiễn 5 năm qua chưa có bản án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động, hành chính nào của cấp huyện có hiệu lực pháp luật
mà Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm hoặc báo cáo đề nghị Tòa án
71
nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm; trong khi từ ngày Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao đã
kháng nghị giám đốc thẩm 3 vụ án dân sự do đương sự có đơn đề nghị kháng nghị
và đều đã xét xử chấp nhận kháng nghị. Điều đó nói lên rằng, có nhiều nguyên nhân
dẫn đến việc kiểm tra các loại án này còn nhiều thiếu sót.
Quá trình giải quyết án hình sự do nhiều cơ quan, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng tiến hành. Mặc dù các Thẩm phán không phải là những
người được tham gia từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, điều tra, kiểm sát điều tra, truy tố, mà chỉ lấy pháp luật làm căn cứ trong
quá trình tiến hành tố tụng để xét xử khách quan, đúng pháp luật, nghiêm minh và
kịp thời, đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực
tế kết quả kiểm tra từ giữa năm 2015 là ngày Luật Tổ chức Tòa án nhân dân có hiệu
lực đến nay, ngoài việc Tòa án nhân dân tỉnh đã có báo cáo đề nghị Tòa án nhân
dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm 4 vụ, trong đó đã xét xử 3 vụ chấp nhận
kháng nghị, thì với kết quả kiểm tra án hình sự đã được thông báo trong Hội nghị
rút kinh nghiệm từng năm, thấy rằng có không ít bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật có sai lầm cần phải được khắc phục và cần phải có những biện pháp xử lý sai
phạm và phòng ngừa.
Điều đó phần nào nói lên rằng, đối với những người làm công tác kiểm tra
qua kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ, kể cả tham dự các phiên tòa xét xử, giải
quyết các loại án, các loại vụ việc đòi hỏi phải xác định đúng và mạnh dạn chỉ ra
những ưu điểm, những sai sót, vi phạm, thậm chí sai lầm của những đơn vị, cá nhân
được kiểm tra; đồng thời phải đề xuất kịp thời và đúng pháp luật đối với người có
thẩm quyền để xử lý theo các quy định của pháp luật, của ngành Tòa án.
Hoạt động thi hành án chính là những công việc để thực thi những bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và có đủ điều kiện đưa ra thi hành. Hoạt
động này chính là giai đoạn cuối cùng của kết quả giải quyết các mâu thuẫn xã hội
nảy sinh từ các vụ án được Tòa án giải quyết. Do đó, công tác thi hành án phải luôn
được chú trọng.
72
3.2. Giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
3.2.1.1. Đối với Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
- Thời gian qua có trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo,
cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại, sau đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng
khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để đình chỉ vụ án và đình chỉ vụ án đối với
bị can với lý do miễn trách nhiệm hình sự. Có trường hợp lẽ ra phải kháng nghị
giám đốc thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án là tuyên hủy bản án sơ thẩm,
tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án, nhưng nhiều lý do mà không xét
đến. Có thể nói đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình tố tụng
cũng như hoạt động kiểm tra, kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm nói riêng, dẫn
đến người làm oan mà không bị xử lý, người bị oan không thực hiện được quyền
lợi của mình theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định. Chúng tôi
đề nghị bổ sung vào Điều 29 BLHS 2015 “Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự” nội
dung sau đây để thực hiện đúng quy định của BLHS, BLTTHS và Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng như việc xem xét hành vi ra bản án, quyết
định trái pháp luật: Nghiêm cấm các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng áp dụng Điều 29 Bộ luật này để đình chỉ các trường hợp bị khởi tố, truy tố,
xét xử, kết án oan, sai”.
- Qua nghiên cứu Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy
cấp, quý hiếm” của BLHS năm 2015, thấy rằng:
Cấu thành cơ bản quy định hành vi phạm tội khi vi phạm quy định về bảo vệ
động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh
mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I
Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc
một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm e khoản 1 Điều này.
Khung 2 tăng nặng Điều này từ điểm a đến điểm đ đã lượng hóa hành vi
phạm tội. Khung 3 tăng nặng này từ điểm a đến điểm d đã lượng hóa hành vi
phạm tội.
73
Vấn đề ở đây là tên của Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động
vật nguy cấp, quý hiếm”, trong khi khoản 1 Điều này đưa khách thể bảo vệ bao
gồm cả động vật và thực vật, và tại các tình tiết định tội (từ điểm a đến điểm e
khoản 1 Điều này) thì điểm d có quy định đối tượng tác động của tội phạm bao
gồm cả động vật và thực vật; nhưng tại các tình tiết định khung tăng nặng của
khoản 2 Điều này (từ điểm a đến điểm d) cũng chỉ quy định về động vật; khoản 3
Điều này tại các tình tiết định khung tăng nặng (từ điểm a đến điểm d) cũng chỉ
quy định về động vật, mà thôi.
Do vậy, để bảo vệ các loài động vật và thực vật quý hiếm trải qua hàng triệu
năm tiến hóa mới có được nay đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, cũng như thuận lợi
cho việc xây dựng văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện, thì trước hết cơ quan lập
pháp cần phải sửa lại tên của Điều 244 BLHS 2015 thành Tội vi phạm quy định về
bảo vệ động vật, thực vật nguy cấp, quý hiếm; đồng thời phải bổ sung vào khoản 2
và khoản 3 Điều luật này về đối tượng được bảo vệ là thực vật nguy cấp, quý hiếm.
3.2.1.2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015. Thực tiễn vướng mắc của LTCTAND, LTCVKSND
2002 và BLTTHS 2003 nhưng các Luật tổ chức mới và BLTTHS 2015 chưa giải
quyết được. Cụ thể:
- BLTTHS 2015 có giải thích “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: là việc
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình
tự, thủ tục do bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan, toàn diện của vụ án” (điểm o khoản 1 Điều 4). Vấn đề đặt ra ở đây thế
nào là xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng? Do đó cần ban hành văn bản giải thích.
- Về giới hạn xét xử, khoản 3 Điều 298 quy định: Sau khi trả hồ sơ vụ án mà
VKS không đồng ý tội danh nặng hơn thì Tòa có quyền xét xử tội danh nặng hơn.
Vậy nếu tội danh nặng hơn đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa cấp trên hoặc thuộc
74
trường hợp phải bắt buộc có luật sư, HĐXX năm người thì giải quyết như thế nào?
Do vậy cần phải bổ sung quy định về việc xử tội danh nặng hơn nhưng vẫn phải bảo
đảm về thẩm quyền xét xử, thành phần hội đồng xét xử, quyền bào chữa, phải bảo
đảm không vi phạm tố tụng.
- Khoản 1 Điều 307 quy định chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định
người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý, nhưng khoản 2 Điều này lại quy định khi
xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội
thẩm, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện việc hỏi. Như vậy, quy định tại khoản 1 và khoản 2 là mâu thuẫn nhau và
mâu thuẫn với mô hình tố tụng thể hiện trong trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét
xử và trách nhiệm truy tố của VKS được KSV thể hiện nghĩa vụ chứng minh và quan
điểm đề nghị trước HĐXX. Theo chúng tôi, cần sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều này
thành: chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người tiến hành tố tụng nào
hỏi trước, người tiến hành tố tụng nào hỏi sau, hỏi ai trước, hỏi ai sau, rồi đến người
bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi
theo thứ tự hợp lý. Do vậy, cần bỏ khoản 2 Điều này.
- Về tranh luận tại phiên tòa, khoản 2 Điều 322 quy định Kiểm sát viên phải
đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Vậy căn cứ nào để xác
định là đã “đối đáp đến cùng” vì đây chỉ là sự định tính và người có thẩm quyền xác
định đã đối đáp đến cùng là Thẩm phán hay Hội thẩm, KSV, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người tham gia tố tụng? Do vậy,
cần sửa khoản 2 Điều này thành: KSV phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để
đối đáp làm sáng tỏ tất cả các ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố
tụng khác tại phiên tòa.
- Luật tổ chức TAND, LTCVKSND 2014 và BLTTHS năm 2015 lại không
quy định trách nhiệm của VKS các cấp, của TAND các cấp và những người có trách
nhiệm của các cơ quan này phải có nghĩa vụ phát hiện kịp thời và phải báo cáo cơ
quan, người có thẩm quyền của VKS hoặc TAND có thẩm quyền kháng nghị phúc
75
thẩm, giám đốc thẩm những trường hợp đủ căn cứ kháng nghị để ràng buộc trách
nhiệm nghĩa vụ pháp lý, tránh việc phát hiện khi hết thời hạn kháng nghị hoặc thờ
ơ, buông lỏng trong thanh tra, kiểm tra. Đây là một bất cập về kỹ thuật lập pháp
cũng như đáp ứng mục đích, yêu cầu của hoạt động tố tụng nói chung, xét xử, kiểm
sát xét xử và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nói riêng. Các Luật này cũng không quy
định trách nhiệm của người có thẩm quyền tham mưu kháng nghị, người có thẩm
quyền kháng nghị kể cả kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm mà không tham
mưu, không kháng nghị đối với những trường hợp đủ căn cứ kháng nghị để bảo vệ
lợi ích hợp pháp của các chủ thể, nhất là trường hợp sai tội danh, sai khung hình
phạt, kháng nghị minh oan.
- Khoản 1 Điều 5 LTCVKSND 2014 quy định VKS có thẩm quyền phải
kháng nghị theo các thủ tục tố tụng đối với bản án, quyết định của Tòa án. Khoản 5
Điều 19 quy định, khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ quyền hạn
kháng nghị (theo các thủ tục) bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm
trọng về thủ tục tố tụng. Thấy rằng, các quy định trên đây không thống nhất về
nghĩa vụ, nhiệm vụ quyền hạn kháng nghị.
- Về căn cứ để kháng nghị, trong đó có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,
tại điểm k khoản 2 Điều 3 của LTCVKSND 2014 quy định VKS kháng nghị khi
phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Chúng tôi cho rằng quy định
như trên sẽ không tương đồng với các quy định của BLTTHS 2015 về kháng nghị
phúc thẩm (Điều 336), tính chất của xét xử phúc thẩm (Điều 330), thay đổi, bổ
sung, rút kháng nghị (Điều 342), thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều
355) mà được cụ thể hóa tại các Điều 356, 357,358,359, 360 và Điều 361 về thẩm
quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm cùng những quy định
liên quan của Bộ luật này về thủ tục phúc thẩm nói riêng.
Vì thế, để phục vụ hoạt động tố tụng, trong đó có tính chất của xét xử phúc
thẩm và hậu quả của kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm giải
quyết vụ án (vì có liên quan đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ), chúng tôi cho rằng
cần sửa đổi, bổ sung những bất cập, thiếu sót của các luật nêu trên theo hướng
(những chữ in nghiêng là đề nghị sửa đổi, bổ sung):
76
- Quy định trong các Luật này về nghĩa vụ phát hiện kịp thời vi phạm sai lầm
của bản án, quyết định giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật, nghĩa vụ báo cáo đề
nghị kháng nghị và nghĩa vụ phải kháng nghị theo các thủ tục.
- Quy định trong BLTTHS 2015 về những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm phù hợp với thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi xét kháng nghị,
để ràng buộc nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm, có thẩm quyền tham mưu
kháng nghị, kháng nghị hoặc không kháng nghị. Bổ sung vào khoản 2 Điều 336 về
một trong những nội dung chính của kháng nghị là phải có nội dung vụ án (theo
quan điểm của Viện kiểm sát).
- Điều 342 quy định về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi bắt đầu
hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, thủ tục phiên tòa phúc thẩm lại quy định
tại Điều 354, cho nên việc quy định thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại
Điều 342 là chưa phù hợp. Lẽ ra cần chuyển quy định từ Điều 342 sang Điều 354,
đồng thời quy định thêm trình tự xem xét việc chấp nhận hay không và hậu quả của
việc chấp nhận. Chẳng hạn việc xem xét, giải quyết phải được thảo luận và thông
qua tại phòng nghị án. HĐXX có thể không chấp nhận việc bổ sung, thay đổi kháng
nghị nói riêng, nếu vi phạm Điều 342. Nếu việc bổ sung kháng nghị dẫn đến việc
thay đổi phạm vi xét xử phúc thẩm vì liên quan đến những NTGTT khác chưa được
triệu tập, thì cần phải hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người có liên quan đến kháng
nghị. Cụ thể, trong trường hợp rút kháng nghị tại phiên tòa thì việc rút đó phải được
ghi vào biên bản. Nếu rút toàn bộ kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ,
nếu rút một phần hoặc còn có kháng nghị khác thì Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
phần kháng nghị còn lại và cả những phần đã rút theo hướng giảm nhẹ về hình sự
cho bị cáo theo quy định tại Điều 345 về phạm vi xét xử phúc thẩm và sửa án sơ
thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo theo quy định tại đoạn cuối khoản 2 và khoản 3
Điều 357 về sửa bản án sơ thẩm.
Điều luật quy định rút kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm
phải được đình chỉ. Nhưng lại không quy định nếu rút kháng nghị không có căn cứ
thì xử lý bằng thủ tục gì. Thực tiễn xét xử, trường hợp rút kháng nghị không có căn
77
cứ thì việc khắc phục sai lầm của Toà án sơ thẩm chỉ có thể được thực hiện theo thủ
tục giám đốc thẩm. Cách giải quyết này vừa kéo dài vụ án vừa không bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của NTGTT trong khi vụ án chỉ XXPT
một lần. Do vậy theo chúng tôi, luật cần phải quy định rằng, nếu trước khi xét xử
phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà VKS hoặc Kiểm sát viên rút kháng nghị
không có căn cứ, thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và có văn bản kiến nghị lên VKS
cấp trên trực tiếp của VKS đã rút kháng nghị hoặc Viện trưởng VKS đã cử Kiểm sát
viên tham gia phiên tòa và cơ quan, cá nhân này có trách nhiệm xem xét giải quyết
kiến nghị trong một thời hạn nhất định, nếu VKS cấp trên trực tiếp hoặc Viện
trưởng VKS cử Kiểm sát viên đó không ra quyết định hủy bỏ quyết định rút kháng
nghị, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc HĐXX phúc thẩm ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm.
- Bổ sung 1 khoản vào Điều 351 quy định tư cách người tham gia tố tụng ở
giai đoạn xét xử phúc thẩm, như sau …3. Tư cách tham gia tố tụng của NTGTT ở
giai đoạn xét xử phúc thẩm được xác định như sau: a) Những NTGTT có kháng cáo
thì tư cách tham gia tố tụng của họ được xác định như ở cấp sơ thẩm. b) Đối với bị
cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị thì xác định họ là người bị
kết án, có quyền lợi và nghĩa vụ như NCQL và NVLQ đến vụ án. c) Những NTGTT
khác thì tư cách TGTT của họ được xác định như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
- Theo Điều 354 về thủ tục phiên tòa phúc thẩm, khoản 1 Điều này có quy
định thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được
tiến hành như phiên tòa sơ thẩm (Điều 307). Như vậy, Điều 354 không có gì thay
đổi so với Điều 247 BLTTHS 2003 vì không quy định từng hoạt động được diễn ra
tại phiên tòa phúc thẩm mà viện dẫn hầu như toàn bộ trình tự thủ tục tiến hành
phiên tòa sơ thẩm, nên gây nhiều khó khăn khi áp dụng. Có ý kiến cho rằng do
phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nên các quy định tại
phiên tòa sơ thẩm đều được áp dụng vào phiên tòa phúc thẩm miễn không trái quy
định của Điều 354. Chẳng hạn bị cáo, người thân của bị cáo trình tài liệu chứng
minh đã bồi thường thiệt hại sau phiên tòa sơ thẩm nhưng người bị hại vắng mặt tại
78
phiên tòa phúc thẩm, HĐXXPT có quyền xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo. Trong
khi, nhiều quy định của XXST không thể áp dụng cho XXPT trong đó có phiên tòa
phúc thẩm. Điều 354 không quy định trình tự xét hỏi ra sao, tranh luận được tiến
hành như thế nào khi có ý kiến khác nhau giữa VKS với bị cáo, người bào
chữa…nên khi áp dụng Điều 307 vào phiên tòa phúc thẩm sẽ nhiều điều không hợp
lý. Bởi vì, cơ sở cho việc tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm là kháng nghị, kháng
cáo cho nên chủ thể kháng nghị, kháng cáo phải là người trình bày ý kiến của mình
bắt đầu quá trình tranh luận tại phiên tòa. Nếu có nhiều chủ thể cùng kháng nghị,
kháng cáo thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định, trong trường hợp
đó cần theo nguyên tắc VKS trình bày trước.
Do vậy, Điều 354 lẽ ra phải được quy định theo hướng mở đầu phần xét hỏi
KSV hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Trong khi KSV xét hỏi, nếu không đồng ý, người bào chữa có quyền phản đối, có
thể xét hỏi (khi HĐXX cho phép) mà không nhất thiết phải chờ đến khi KSV hỏi
xong đối với bị cáo hay tất cả các bị cáo, đối với tất cả các hành vi bị xét xử. Có
như vậy mới thể hiện tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa các bên tranh tụng. Sau khi
những người này hỏi xong mà thấy còn những vấn đề chưa rõ, chưa đủ cơ sở cho
việc ra phán quyết thì chủ tọa, Thẩm phán tham gia và các Hội thẩm tiến hành hỏi
bị cáo, bị hại, nhân chứng và những NTGTT khác.
Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung một số thủ tục phiên tòa phúc thẩm mà
chưa được quy định trong Điều 354 như: 1. Thủ tục khai mạc phiên tòa, vì thủ tục
này khác với thủ tục phiên tòa sơ thẩm nên cần đưa vào điều luật; 2. Quy định về
thủ tục kiểm tra xem NTGTT đã được giao thông báo kháng nghị, thông báo mở
phiên tòa hay chưa và giải quyết yêu cầu hoãn phiên tòa nếu họ yêu cầu vì chưa
được giao đúng luật định; 3. Thông báo phải nêu rõ thêm các vấn đề sau: xử công
khai hay xử kín; họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký , họ tên Thẩm phán dự
khuyết; họ tên KSV tham gia và dự khuyết; họ tên người bào chữa, người phiên
dịch, người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa; vật chứng cần đưa ra xem xét tại
phiên tòa. Để thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành đúng với tính chất của xét
79
xử phúc thẩm, lẽ ra Điều 354 cần quy định là:1. Phiên tòa phúc thẩm được tiến
hành như sau:a) Chủ tọa khai mạc phiên tòa và tiến hành các thủ tục bắt đầu phiên
tòa. Trong trường hợp NTGTT chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 338 BLTTHS; thông báo về việc
đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 346 BLTTHS và nếu
họ yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa. b) Nếu có bổ sung, thay đổi, rút kháng
cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì HĐXX xem xét và quyết định tại phòng nghị án,
trường hợp cần thiết HĐXX quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập thêm những
người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng
nghị tại phiên tòa thì HĐXX xét xử phần còn lại; nếu rút toàn bộ các kháng cáo,
kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ. c) Sau khi kết thúc xét hỏi tại phiên
tòa, người đã kháng cáo hoặc kháng nghị có quyền phát biểu đầu tiên. Nếu có nhiều
kháng cáo, kháng nghị thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định. 2.
Các quy định khác về thủ tục phiên tòa sơ thẩm do Bộ luật này quy định được áp
dụng đối với phiên tòa phúc thẩm nếu không trái với quy định tại khoản 1 Điều này.
Và để phân định rõ các chức năng của tố tụng, đồng thời là điều kiện để nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, Điều 307 cần sửa lại thành: 1.Tại phiên tòa,
tất cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, những tình tiết thuộc về nhân thân và những chứng cứ chứng minh
bị cáo không có tội phải được làm sáng tỏ theo trình tự xét hỏi hợp lý. 2.Khi bắt đầu
giai đoạn xét hỏi, chủ tọa phiên tòa nêu mục đích, yêu cầu của việc xét hỏi theo quy
định của pháp luật, sau đó KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương
sự tiến hành xét hỏi. Bị cáo, người bị hại và những NTGTT có quyền đặt ra các câu
hỏi về những tình tiết có liên quan đến mình nếu được chủ tọa cho phép. Sau khi
các bên hỏi xong, nếu thấy có tình tiết nào chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì chủ tọa
và các thành viên HĐXX tiến hành xét hỏi. 3. Khi xét hỏi, HĐXX, các bên tham gia
xét hỏi và những người tham gia xét hỏi đều có quyền xem xét những vật chứng của
vụ án và những tài liệu, đồ vật không liên quan đến vụ án.
80
- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
+ Điều 355 quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản
án sơ thẩm, theo đó, khoản 1 Điều này quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có
quyền: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; Sửa
bản án sơ thẩm; Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét
xử lại; Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Và
thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm quy định tại các điểm a,b,c,d,đ khoản 1
Điều 355, được cụ thể hóa tại Điều 356; 357; 358; 359 và 360. Chúng tôi thấy rằng,
xuất phát từ nội dung kháng nghị, kháng cáo và thẩm quyền của cấp phúc thẩm sẽ
làm phát sinh xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, kháng cáo hoặc xét cả ngoài phạm
vi kháng nghị, kháng cáo và bản án phúc thẩm cũng có thể là đối tượng bị kháng
nghị. Vì thế, nếu quy định như trên thì trong thực tiễn sẽ tiếp tục gặp nhiều khó
khăn vướng mắc khi áp dụng, chẳng hạn:
Nếu kháng nghị, kháng cáo chỉ một phần bản án sơ thẩm, nhưng Hội đồng
xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị, kháng cáo và cũng không xét đến
các phần khác của bản án sơ thẩm, thì việc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 355
“Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm” (được cụ
thể hóa tại Điều 356) là chưa khái quát được các phạm vi và hướng kháng cáo,
kháng nghị, phạm vi xét xử phúc thẩm (Điều 345) và thẩm quyền cấp phúc thẩm
trong thực tế xét xử. Chẳng hạn: M phạm 2 tội bị kết án 1 tội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, theo khoản 3 Điều 175 BLHS 2015; 01 tội Trộm cắp tài sản,
theo khoản 3 Điều 173. Người có thẩm quyền kháng nghị với phạm vi chỉ về hình
phạt của tội Trộm cắp tài sản và kháng nghị theo hướng sửa phần hình phạt tù của
bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt tù. Nhưng hành vi M bị kết án theo
khoản 3 Điều 175 lẽ ra phải được định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3
Điều 174 BLHS, mà chưa được kháng nghị về thay đổi tội danh và Hội đồng xét xử
phúc thẩm không thể xét đến. Do vậy, nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm là không ổn vì chỉ xét phần
bản án bị kháng nghị mà thôi.
81
Đối với trường hợp cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm (điểm b khoản 1 Điều
355, được cụ thể hóa tại Điều 357); Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để
điều tra lại hoặc xét xử lại (điểm c khoản 1 Điều 355, được cụ thể hóa tại Điều 358);
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (điểm d khoản 1 Điều 355, được cụ thể hóa
tại Điều 359); Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (điểm đ khoản 1 Điều 355) cũng có
nhiều bất cập, thiếu sót, chẳng hạn lý do sau đây:
+ Nếu bị cáo phạm tội đơn lẻ và chỉ phạm một tội hoặc phạm nhiều tội, mà
kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ bản án, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm áp
dụng các quy định nêu trên không có gì khó khăn; nhưng nếu chỉ kháng nghị một
phần của bản án đối với một tội hoặc đối với nhiều tội (chẳng hạn chỉ kháng nghị về
hình phạt hoặc về bồi thường dân sự, về án phí, xử lý vật chứng, về hình phạt hoặc
về áp dụng khung hình phạt…v…v…);
+ Nếu vụ án có đồng phạm chỉ phạm một tội hoặc nhiều tội, mà kháng nghị,
kháng cáo phúc thẩm đối với toàn bộ bản án, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm áp
dụng các quy định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng cáo, kháng nghị một
phần của bản án đối với một tội đối với 1 bị cáo hoặc đối với nhiều tội đối với một
số bị cáo hoặc kháng nghị về bồi thường dân sự, án phí, về hình phạt, khung hình
phạt,…thì áp dụng rất khó khăn (vì có thể chấp nhận phần kháng nghị, kháng cáo
này nhưng không chấp nhận phần kháng cáo, kháng nghị khác đối với 1 bị cáo hoặc
đối với nhiều bị cáo, hoặc Hội đồng xét xử phúc thẩm xét đến ngoài phạm vi kháng
cáo, kháng nghị….v….v…);
+ Nếu Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, thì cũng phải
nêu lý do căn cứ pháp luật (như: áp dụng nguyên tắc hồi tố có lợi hoặc do có 1 trong
những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 của
BLTTHS 2015).
+ Đã quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm
(điểm d khoản 1 Điều 355), thì lẽ ra điểm này phải bổ sung quy định về căn cứ pháp
luật để đình chỉ (như do rút toàn bộ kháng nghị hoặc rút toàn bộ kháng cáo, kháng
nghị) hoặc phải quy định viện dẫn Điều 348 BLTTHS về căn cứ đình chỉ xét xử
82
phúc thẩm vào điểm này. Tuy nhiên, Điều 348 cũng không quy định về đình chỉ vụ
án khi bị cáo chết trong giai đoạn thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
+ Điều 355 không quy định Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án (chẳng hạn như
bị cáo chết sau khi có văn bản đưa ra xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm).
Do đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung các Điều 355, 358, 359 như sau:
+ Điều 355: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng nghị và
giữ nguyên bản án sơ thẩm bị kháng nghị; b) Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ
thẩm; c) Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ
quan có thẩm quyền để điều tra lại hoặc xét xử lại; d) Hủy và đình chỉ một phần
hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi có căn cứ quy định của BLHS, BLTTHS; đ) Đình
chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 348 của Bộ luật này; e) Đình
chỉ vụ án, khi có căn cứ quy định của BLHS, BLTTHS hoặc bị cáo chết mà việc
kháng cáo, kháng nghị không liên quan đến họ (đề nghị bổ sung).
+ Điều 356: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án
sơ thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm (thay cụm từ Tòa án cấp phúc thẩm để thống
nhất với các điều luật liên quan) không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ
nguyên một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi xét thấy phần nhận định và các
quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật.
+ Điều 358: Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ (vì không thể hủy
những phần của bản án sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật không bị kháng cáo,
kháng nghị) bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp (đã được quy định
tại các điểm a;b;c khoản 1 Điều này). 2. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần
hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét
xử mới trong các trường hợp: (quy định tại các điểm a;b;c;d;đ khoản 2 Điều này).
Tại điểm đ khoản 2 Điều 358 quy định “đ. Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm
trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử
phúc thẩm sửa án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”. Điểm đ khoản 2 Điều
83
này là quy định mới về Tòa án cấp phúc thẩm được quyền hủy bản án sơ thẩm để xét
xử lại, chứ không phải y án rồi kiến nghị cấp giám đốc thẩm nữa. Chúng tôi cho rằng,
việc Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền này sẽ sớm khắc phục vi phạm sai lầm của
bản án sơ thẩm, nhưng nếu bản án sơ thẩm chỉ bị kháng cáo, kháng nghị một phần
hoặc toàn bộ nhưng việc kháng cáo, kháng nghị này không làm xấu đi tình trạng của
bị cáo, mà cấp phúc thẩm lại hủy án theo hướng xét xử lại làm xấu đi tình trạng của
bị cáo, thì liệu có bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa không, có ràng
buộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng không, có vi phạm chế độ 2 cấp xét
xử không và liệu bản án phúc thẩm có “xé rào, lấn sân” của cấp giám đốc thẩm hay
không khi hủy các phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc
khác phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. Theo chúng tôi, nên bổ sung điểm đ
khoản 2 Điều 358 thành: Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án theo quy
định tại Điều 357 của Bộ luật này nếu có kháng cáo,kháng nghị.
Về hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại: Lẽ ra khoản 2 Điều 358 cần quy định
như sau: Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm
với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp:a)…;b)…;c) Người được
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm
tội, bao gồm: VKS truy tố bị cáo một hành vi về một tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
tuyên bố bị cáo không phạm tội; VKS truy tố nhiều tội, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ
tuyên bị cáo phạm một hoặc một số tội; VKS truy tố về nhiều hành vi phạm tội về
nhiều hành vi khác nhau trong cùng một điều luật (tội liên hoàn), Tòa án cấp sơ
thẩm chỉ kết án bị cáo về một hoặc một số hành vi phạm tội về một hoặc một số tội;
VKS truy tố bị cáo về nhiều hành vi phạm tội khác nhau cùng về một tội danh
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không kết án bị cáo tất cả các hành vi VKS đã truy tố mà
chỉ kết án một hoặc một số hành vi đã truy tố.
+ Điều 359: Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 hoặc (thay từ và bằng
từ hoặc mới đúng) khoản 2 Điều 157 (những căn cứ không được khởi tố vụ án hình
84
sự) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội, hủy
bản án sơ thẩm kết tội bị cáo và đình chỉ vụ án đối với bị cáo đó (để dễ áp dụng
trong vụ án có đồng phạm phạm một tội hoặc nhiều tội hoặc đối với bị cáo bị xét xử
nhiều tội…v…v….).
- Về thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm
+ “Điều 361. Thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm
1. Hội đồng phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị
và giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi xét thấy các quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật; b) Sửa quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm; c) Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa
án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án”. BLTTHS 2015 không quy định viện
dẫn về thẩm quyền này của cấp phúc thẩm nữa, mà quy định cụ thể tại Điều 361.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng:
Điểm a khoản 1 Điều này thể hiện chỉ quy định việc kháng nghị và xét kháng
nghị đối với một phần hoặc các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy nếu phần
nhận định trong quyết định sơ thẩm mà mâu thuẫn với phần quyết định của quyết
định sơ thẩm khi xét theo quy trình của hoạt động áp dụng pháp luật, thì sao;
Điểm c khoản 1 Điều này cũng chỉ có thể được hiểu rằng Tòa án cấp phúc
thẩm hủy quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án của Tòa án
cấp sơ thẩm. Vậy trường hợp các quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng
không phải là quyết định giải quyết vụ án (chẳng hạn như Viện kiểm sát kháng nghị
phúc thẩm đối với quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị tha
tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có
điều kiện, theo khoản 11 Điều 368 BLTTHS 2015 mà chúng tôi đã trình bày trong
luận văn) mà bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy do có kháng nghị, thì sao.
Theo chúng tôi cần phải sửa đổi bổ sung Điều 361 thành:
Điều 361. Thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm
1. Hội đồng phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị
và giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi xét thấy các nội dung của
85
quyết định này có căn cứ và đúng pháp luật (bỏ cụm từ “của Tòa án cấp sơ thẩm” );
b)…; c) Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án, hồ sơ vụ
việc cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án hoặc giải quyết lại vụ việc.
- Cần hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng vào thủ tục giám đốc thẩm theo
hướng quy định phiên tòa giám đốc thẩm cần phải có sự tham gia của người bị kết
án, NCQL&NVLQ, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Cần sửa
Điều 379 BLTTHS 2015 về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng bất lợi
cho người bị kết án phù hợp với thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Cần bổ sung quy định tại Điều 381 BLTTHS 2015 trường hợp rút kháng
nghị không đúng pháp luật theo hướng:
Nếu Viện kiểm sát kháng nghị, mà trước khi xét xử giám đốc thẩm người
kháng nghị rút kháng nghị, thì Chánh án Tòa án xét xử giám đốc thẩm ra quyết định
tạm đình chỉ vụ án và có văn bản kiến nghị lên Viện trưởng (nếu người rút kháng
nghị là Phó Viện trưởng); nếu Viện trưởng kháng nghị mà rút kháng nghị, thì kiến
nghị lên Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp. Khi có văn bản trả lời việc nhất trí rút
kháng nghị, thì Chánh án ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu tại phiên tòa mà Kiểm
sát viên (không phải là người ban hành kháng nghị) rút kháng nghị, thì Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKS cùng cấp
xem xét giải quyết. Nếu có văn bản trả lời việc nhất trí rút kháng nghị, thì Hội đồng
xét xử giám đốc thẩm ra quyết định đình chỉ vụ án.
Nếu Tòa án kháng nghị mà trước khi xét xử giám đốc thẩm người kháng
nghị rút kháng nghị thì phải làm văn bản báo cáo Chánh án Tòa án cấp trên để xem
xét. Nếu tại phiên tòa mà người kháng nghị rút kháng nghị, thì Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Chánh án Tòa án cấp trên xem xét.
Nếu có văn bản trả lời việc nhất trí rút kháng nghị, thì Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm ra quyết định đình chỉ vụ án.
- BLTTHS 2015 và LTCTAND, LTCVKSND có quy định Phó Chánh án;
Phó Viện trưởng khi được Chánh án; được Viện trưởng ủy quyền thay mặt mình, thì
được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án; của Viện trưởng. Trong khi
86
Điều 373 BLTTHS 2015 chỉ quy định Chánh án, Viện trưởng cấp có thẩm quyền thì
mới có quyền ban hành kháng nghị giám đốc thẩm, và tại khoản 1 Điều 383 quy
định phiên tòa giám đốc thẩm phải có Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp, mà
không quy định Kiểm sát viên đó phải là Viện trưởng. Vậy:
Nếu Phó Chánh án hoặc Phó Viện trưởng mà kháng nghị, thì trước khi hoặc
tại phiên tòa giám đốc thẩm Chánh án hoặc Viện trưởng có được quyền bổ sung,
thay đổi, rút kháng nghị không, cũng là một vấn đề cần xem xét luật hóa.
Nếu người kháng nghị là Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện
trưởng ủy quyền, nhưng người kháng nghị lại không tham dự phiên tòa giám đốc
thẩm mà ủy quyền cho Kiểm sát viên cấp mình tham gia, thì tại phiên tòa Kiểm sát
viên đó có thể tự mình thay đổi hoặc bổ sung kháng nghị theo đúng pháp luật về
phạm vi kháng nghị, hướng kháng nghị và thời hạn kháng nghị hay không, vì hệ
thống VKSND tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.
Vậy cần sửa Điều 373 BLTTHS 2015 về những người có quyền kháng nghị
giám đốc thẩm cho thống nhất với quy định của Bộ luật này và các luật chuyên
ngành nêu trên.
Đề nghị sửa Điều 383 về những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
theo hướng có sự tham gia của Kiểm sát viên VKS cùng cấp, thành có sự tham gia
phiên tòa của Kiểm sát viên là Viện trưởng VKS cùng cấp. Có như vậy mới ràng
buộc trách nhiệm của VKS (nếu Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng kháng nghị) và
góp phần bảo đảm tính khách quan khi các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm xét kháng nghị của Tòa án, của VKS.
- Điều 388 BLTTHS 2015: Khoản 1 quy định thẩm quyền cấp giám đốc
thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị; Khoản 2 quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng
pháp luật của Tòa án sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng
pháp luật; Khoản 3 Điều này quy định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật để điều tra lại hoặc để xét xử lại; Khoản 4 quy định hủy bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
87
Theo đó, khoản 1 Điều 388 được cụ thể hóa tại Điều 389; khoản 2 Điều 388
được cụ thể hóa tại Điều 390; khoản 3 Điều này được cụ thể hóa tại Điều 391 và
khoản 4 Điều này được cụ thể hóa tại Điều 392.
Theo chúng tôi, xuất phát từ nội dung kháng nghị giám đốc thẩm (phạm vi
kháng nghị và hướng kháng nghị) và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm sẽ làm
phát sinh xét xử giám đốc thẩm xét kháng nghị hoặc xét cả ngoài phạm vi kháng
nghị đối với bán án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật hoặc
bản án phúc thẩm, và quyết định giám đốc thẩm cũng có thể là đối tượng bị kháng
nghị. Quy định như trên, thực tiễn sẽ gặp nhiều vướng mắc, chẳng hạn:
Nếu kháng nghị giám đốc thẩm với phạm vi chỉ một phần bản án hoặc quyết
định sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm nhưng Hội đồng giám đốc thẩm
không chấp nhận kháng nghị và cũng không xét đến các phần khác, thì việc khoản 1
Điều 388 và Điều 389 quy định “Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị” là chưa khái quát được các
phạm vi và hướng kháng nghị và thẩm quyền giám đốc thẩm trong thực tế .
Giả sử: A phạm 2 tội bị kết án 1 tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều
104 BLHS 1999; 01 tội Trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138. Người có thẩm
quyền kháng nghị với phạm vi chỉ về hình phạt của tội Trộm cắp và theo hướng hủy
phần hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại tăng hình phạt.
Nhưng hành vi A bị kết án khoản 3 Điều 104 lẽ ra phải định tội giết người, mà chưa
được kháng nghị về vấn đề này và Hội đồng giám đốc thẩm không xét đến. Do vậy,
nếu Hội đồng giám đốc thẩm tuyên như quy định tại khoản 1 Điều 388 hoặc Điều
389 là không ổn vì chỉ xét một phần bản án bị kháng nghị mà thôi.
Đối với khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 388 (được cụ thể hóa tại
các Điều 390,391,392,393) có nhiều bất cập, chẳng hạn lý do sau đây:
+ Nếu bị cáo phạm tội đơn lẻ và chỉ phạm một tội, hoặc phạm nhiều tội, mà
kháng nghị giám đốc thẩm đối với toàn bộ bản án hoặc quyết định, thì Hội đồng
giám đốc thẩm áp dụng các quy định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng
nghị một phần của bản án đối với một tội hoặc đối với nhiều tội (chẳng hạn chỉ
88
kháng nghị về hình phạt hoặc về dân sự hoặc về án phí hoặc xử lý vật chứng hoặc
về hình phạt và về áp dụng khung hình phạt…) thì sẽ khó khăn trong từng trường
hợp cụ thể vì không thể tuyên hủy bản án, quyết định để điều tra lại hoặc để xét xử
lại hoặc tuyên sửa bản án, mà chỉ có thể tuyên hủy một phần bản án để điều tra lại
hoặc để xét xử lại hoặc tuyên sửa một phần mà thôi;
+ Nếu vụ án có đồng phạm phạm một tội hoặc nhiều tội mà kháng nghị đối
với toàn bộ bản án hoặc quyết định, thì Hội đồng giám đốc thẩm áp dụng các quy
định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng nghị một phần của bản án đối với
một tội đối với 1 bị cáo hoặc đối với nhiều tội đối với một số bị cáo hoặc kháng
nghị về dân sự, án phí, về hình phạt, khung hình phạt,…thì áp dụng rất khó khăn (vì
có thể chấp nhận phần kháng nghị này nhưng không chấp nhận phần kháng nghị
khác hoặc xét đến ngoài phạm vi kháng nghị…).
Do đó đề nghị sửa các Điều 388, 389,390,391, 392, 393 theo hướng sau:
- Điều 388: Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm: 1. Không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị. 2. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án
cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. 3. Hủy một phần hoặc toàn bộ
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. 4. Hủy
một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ
án. 5. Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 6. Đình chỉ xét xử giám đốc
thẩm vụ án.
- Điều 389: Không chấp nhận kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi xét thấy bản án, quyết định đó có căn cứ và
đúng pháp luật.
- Điều 390: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên
bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc
thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật: Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy
89
một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên
bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc
thẩm nhưng bị hủy, sửa không đúng pháp luật.
- Điều 391: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại
hoặc xét xử lại: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một
trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này. Nếu hủy để xét xử lại thì
tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ
thẩm hoặc cấp phúc thẩm….
- Điều 392: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ
án: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án hoặc các phần của vụ án nếu có một trong các
căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ theo quy định của
BLHS (do áp dụng hiệu lực hồi tố...) hoặc có căn cứ theo quy định của BLDS (nếu
kháng nghị về dân sự), của Luật chuyên ngành (vì chủ thể tội phạm theo BLHS
2015 bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khi giải quyết vụ án có thể phải áp
dụng cả luật này).
- Điều 393. Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật: Hội đồng giám
đốc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi
có đủ các điều kiện…
Ngoài ra, chúng tôi cũng đề nghị liên ngành tư pháp tỉnh cần thường xuyên
rà soát và chỉ đạo cấp huyện rà soát án tạm đình chỉ để giải quyết kịp thời các
trường hợp đủ căn cứ (để phục hồi điều tra; đình chỉ vụ án do chưa khởi tố bị can
khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã khởi tố bị can nhưng áp dụng
quy định mới của BLHS 2015 theo hướng có lợi), tránh phục hồi điều tra và tiến
hành tố tụng không đúng pháp luật; đồng thời cần tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm
án đình chỉ theo Điều 25 BLHS và theo các Khoản 1, 2, 3 Điều 107 BLTTHS nhằm
hạn chế thấp nhất việc làm oan, tránh trách nhiệm, gây thiệt hại cho công dân và để
thực hiện tốt BLHS và BLTTHS năm 2015.
90
3.2.1.3. Luật tố tụng hành chính năm 2015
Chúng tôi thấy có những vướng mắc, hạn chế, bất cập sau đây:
Về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc
thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị: Điều 203 của
Luật tố tụng hành chính quy định tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tại Điều 205 quy định người
kháng cáo có quyền kháng cáo toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật. Điều 212 quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị toàn bộ hoặc
một phần bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Về hậu quả của kháng cáo, kháng nghị, khoản 1 Điều 215 quy định phần của
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được
đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định thi hành ngay. Khoản 2 Điều này
quy định bản án, quyết định hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Về phạm vi xét xử phúc thẩm, Điều 220 quy định Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
xét lại phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị
hoặc có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Điều 241 khoản 2 quy định
Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi
có một trong các căn cứ quy định tại điểm a, b khoản này. Khoản 3 Điều này quy
định Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại. Điều
243 quy định về thủ tục phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm. Tại khoản 5 Điều
này quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa hoặc hủy quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm để cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết lại vụ án.
Về thi hành án đối với bản án, quyết định hành chính: Điều 309 quy định các
bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án về vụ án hành chính, trong đó có quy
định bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định sơ thẩm về vụ án hành chính
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
91
Điều 312 quy định về yêu cầu, buộc thi hành án hành chính: Khoản 2 Điều này quy
định Tòa án đã xét xử sơ thẩm khi ra quyết định buộc thi hành án phải gửi quyết
định này cho Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án. Quy
định này trong thực tiễn nhiều bất cập, chẳng hạn:
Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện quyết định hành
chính của Ủy ban nhân dân (các cấp), thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của đơn vị
này là ai;
Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện về quyết định hành
chính của người đại diện của UBND (Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp), thì thủ
trưởng cấp trên trực tiếp của đơn vị này có phải là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
trên trực tiếp hay không; thủ trưởng cấp trên trực tiếp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh có phải là người đứng đầu hệ thống hành pháp của nước ta hay không;
Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện về hành vi hành
chính do người của pháp nhân thực hiện, không phải do người đứng đầu pháp nhân
thực hiện (chẳng hạn như chuyên viên của cấp Phòng của Sở hoặc UBND huyện
thực hiện), thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người này có phải là thủ trưởng cơ
quan (Giám đốc Sở hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện) không. Việc luật không quy
định gửi quyết định buộc thi hành án cho thủ trưởng trực tiếp của người phải thi
hành án cũng là một bất cập, kế cả trong trường hợp người phải thi hành án là cấp
phó của người đứng đầu pháp nhân…v…v…
Chương XIX Luật này khi xét kỹ nội dung của các điều luật thì là quy định
những vấn đề chung về thi hành án, là các quy định về thủ tục đưa ra thi hành bản án,
quyết định của Tòa án, chưa phải là quy định hoạt động thi hành án tức là thủ tục,
trình tự nhằm tổ chức, thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Luật này chưa quy
định việc người phải thi hành án hành chính báo cáo/ thông báo cho Tòa án về thi
hành án bản, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật,
kể cả trong trường hợp tự nguyện thi hành án hoặc thi hành án theo quyết định của
Tòa án. Vấn đề này làm cho việc Tòa án theo dõi, thống kê, báo cáo về công tác thi
hành án hành chính và ra quyết định buộc thi hành án hành chính gặp nhiều khó khăn
92
vì khi Tòa án ra quyết định buộc thi hành án nhưng người có nghĩa vụ phải thi hành
án có thực hiện hay không thì Tòa án cũng khó biết được. Luật này chưa quy định về
khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo trong thi hành án hành chính.
Từ các quy định trên, chúng tôi kiến nghị cần phải sửa đổi, bổ sung, hướng
dẫn Luật tố tụng hành chính như sau:
- Bổ sung Điều 203 của Luật tố tụng hành chính quy định tính chất của xét
xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định
hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bổ sung khoản 3 Điều 241 thành: Hội đồng xét
xử phúc thẩm hủy toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại…
Bổ sung Điều 243 thành: Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa hoặc hủy toàn
bộ hoặc một phần quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để cấp sơ thẩm tiếp tục giải
quyết lại vụ án. Bổ sung Điều 311 về việc người phải thi hành án báo cáo, thông
báo cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc đã tự nguyện thi hành án, thời hạn tự
nguyện và kết quả. Bổ sung Điều 312 về việc người phải thi hành án báo cáo/thông
báo cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc thi hành án theo quyết định của Tòa án,
thời hạn và kết quả.
- Cần hướng dẫn Điều 312 về việc Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính gửi quyết định buộc thi hành án cho thủ trưởng cấp trên, và bổ sung quy định
gửi quyết định này cho thủ trưởng của người phải thi hành án. Ngoài ra, đề nghị bổ
sung trong Luật tố tụng hành chính quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi
hành án hành chính (trừ trường hợp thi hành án về tài sản, vì đã có Luật thi hành án
dân sự điều chỉnh).
3.2.1.4. Luật Thi hành án hình sự năm 2010
Luật này quy định Tòa án có thẩm quyền đình chỉ thi hành án trong các
trường hợp theo khoản 5 Điều 24; khoản 5 Điều 32; khoản 2 Điều 49 nhưng hiện
nay TANDTC chưa ban hành biểu mẫu về đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trường
hợp Tòa án đã ra quyết định thi hành án nhưng Tòa án cấp trên lại hủy, sửa bản án
đối với các bị cáo không kháng cáo nên quyết định thi hành án đã ban hành không
93
còn hiệu lực thì phải hủy quyết định thi hành án đã ban hành. Tuy nhiên hiện chưa
có biểu mẫu quyết định hủy quyết định thi hành án phạt tù đối với trường hợp trên.
Luật Thi hành án hình sự chỉ điều chỉnh đối với các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, được đưa ra thi hành án, mà không đề cập đến các trường hợp bị cáo
đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt, bản án chưa có hiệu lực pháp luật mà bị cáo chết,
sau đó bản án có hiệu lực pháp luật thì có đình chỉ thi hành án hay không.
Việc ra quyết định thi hành án phạt tù đối với bị án tại ngoại trong vụ án này
nhưng lại bị tạm giam trong vụ án khác: Luật này chưa quy định về trường hợp bị
án đã bị kết án về một tội, hiện đang tại ngoại và cư trú ở một địa phương khác, khi
bản án có hiệu lực pháp luật nên Tòa án lập hồ sơ ra quyết định ủy thác cho Tòa án
nơi bị án đang cư trú, thì nhận được thông tin bị án đang bị tạm giam về một tội
khác, nên tòa án nơi bị án đang cư trú trả lại hồ sơ ủy thác cho Tòa án đã tuyên án,
dẫn đến việc ra quyết định thi hành án kéo dài.
Về thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù hiện chưa quy định cơ quan đơn vị
nào chịu trách nhiệm xác nhận vào đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù; cũng chưa
có hướng dẫn về sự phối hợp giữa các cơ quan liên ngành đối với trường hợp nêu
trên để áp dụng thống nhất. Việc đình chỉ chấp hành hình phạt tù với người bị kết án
đã chết trong lúc được hoãn hay tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hiện chưa có
quy định về trình tự, thủ tục thực hiện.
Về thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù: Khi người bị kết án hết thời hạn
được hoãn chấp hành hình phạt tù thì cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền xác nhận
người bị kết án đã phục hồi sức khỏe, có đủ sức khỏe để chấp hành hình phạt tù?
đây là căn cứ để Tòa án ra quyết định thi hành án phạt tù (quyết định tiếp tục thi
hành án) khi lý do hoãn này đã hết, tránh tình trạng việc hoãn thi hành án kéo dài
không có giới hạn, làm cho mục đích của hình phạt không đạt được. Trường hợp
hoãn thi hành án đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì
được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; nếu có thai nhưng đã sảy thai, con nhỏ
dưới 36 tháng tuổi đã bị chết… trường hợp này cần quy định cụ thể là cho hoãn thi
hành án nhiều lần cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, để Tòa án dễ theo dõi.
94
3.2.1.5. Luật Đặc xá. Qua gần 10 năm thi hành Luật Đặc xá, thấy rằng:
- Điều 11 quy định “Các trường hợp không đề nghị đặc xá: Người có đủ điều
kiện quy định tại Điều 10 của Luật này không được đề nghị đặc xá trong các trường
hợp sau đây: 1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; 2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về hành vi phạm tội khác; 3. Trước đó đã được đặc xá; 4. Có từ hai tiền án trở lên;
5. Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định. Chúng tôi có ý kiến như sau:
Đối với khoản 1 Điều này “1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với
người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”: Luật quy định
như vậy là quá chung chung và có khi gây bất lợi cho người bị kết án; vì rằng:
Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có thể bất lợi hoặc có lợi cho người bị kết án;
phạm vi và hướng kháng nghị cũng có thể toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết
định chẳng hạn như kháng nghị về áp dụng pháp luật hình sự hoặc pháp luật về dân
sự hoặc về pháp luật chuyên ngành khác. Thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối
với bản án, quyết định cụ thể thì pháp luật cũng không quy định số lần kháng nghị,
và không phải mọi trường hợp kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đều được
Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm chấp nhận.
Đối với khoản 2 Điều này “2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành
vi phạm tội khác”. Quy định này cũng quá chung chung, vì “truy cứu trách nhiệm
hình sự về hành vi phạm tội” cũng chỉ là phạm trù khả năng. Mà truy cứu trách
nhiệm hình sự bao gồm: bắt tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự; khởi tố bị can và
tiến hành các hoạt động tố tụng; đề nghị truy tố; truy tố, xét xử theo các thủ tục và
kết quả xét xử. Và nữa, nhiều trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vụ
án được tạm đình chỉ, tạm đình chỉ bị can/bị cáo, đình chỉ vụ án – bị can/bị cáo do
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện (do pháp luật thay đổi, do đại xá,
do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự…v…v). Do vậy, việc quy định những
người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác thì không xét
đề nghị đặc xá là không phù hợp.
95
Đối với khoản 4 Điều này “4.Có từ hai tiền án trở lên: Quy định này cũng
có nhiều bất cập vì người bị kết án đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự “tái phạm” hoặc “tái phạm nguy hiểm” hoặc tình tiết định khung tăng nặng
hoặc yếu tố “đã bị kết án” là yếu tố định tội rồi. Mặt khác, quy định này cũng mâu
thuẫn với chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự và mâu thuẫn với nguyên tắc
chung của các chế tài pháp lý là mỗi hành vi vi phạm pháp luật chỉ có thể bị xử lý
một lần với một chế tài tương ứng.
Mặt khác, Bộ luật hình sự cũng thường được sửa đổi, bổ sung nên chi phối
đến quy định về “tiền án”. Do vậy, một người khi bị Tòa án kết án thì bị xác định là
có “tiền án”, nhưng khi án đã có hiệu lực pháp luật hoặc đã chấp hành án xong mà
phạm tội mới thì nhiều trường hợp không bị coi là “có tiền án” nữa. Do vậy, chúng
tôi đề nghị sửa đổi Luật đặc xá bỏ khoản 4 Điều 11, và đề nghị hướng dẫn cụ thể
khoản 1 và khoản 2 Điều 11.
3.2.2. Giải pháp đối với hệ thống Tòa án
3.2.2.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao
Cần luôn chú trọng công tác kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân, bằng việc:
- Chánh án TANDTC cần sớm ban hành các chỉ thị về tăng cường công tác
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án
và thường xuyên tổ chức hội nghị tổng kết về công tác này.
- Trên cơ sở Quy chế kiểm tra và Quy chế xử lý trách nhiệm, cần ban hành
Đề cương kiểm tra để tiến hành kiểm tra các TAND các cấp trực thuộc.
- Chỉ đạo các TAND cấp tỉnh phải tăng cường các yếu tố về công tác kiểm
tra và yêu cầu hàng năm phải ban hành quy chế kiểm tra, đề cương kiểm tra, gửi về
TANDTC để theo dõi, chỉ đạo, yêu cầu hàng tháng, quý, năm phải báo cáo về
TANDTC tình hình, kết quả hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, những ưu
điểm, khó khăn vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất kiến nghị để xem xét,
tập hợp có hướng giải quyết.
- Sớm có kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung
các Luật Tố tụng hình sự, dân sự, hành chính về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm,
96
hậu quả của kháng cáo, kháng nghị, bản án phúc thẩm và thẩm quyền của cấp phúc
thẩm; kháng nghị giám đốc thẩm, hậu quả kháng nghị, bản án giám đốc thẩm và
thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm..v…v…Luật Thi hành án hình sự mà chúng tôi
đã nêu trong phần giải pháp, để cho cơ bản thống nhất về nhận thức, áp dụng và đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Kiến nghị với Quốc Hội sớm ban hành Luật thi hành án hành chính.
- Chỉ đạo Học Viện Tòa án xây dựng Giáo trình đào tạo Thẩm tra viên, trong
đó đi sâu vào chương trình gảng dạy kỹ năng xây dựng kế hoạch kiểm tra và kỹ
năng kiểm tra đối với các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án, kỹ năng hoạt động thi
hành án hình sự.
- Đề xuất với cấp có thẩm quyền về chế độ chính sách ưu đãi đối với những
người làm công tác kiểm tra.
3.2.2.2. Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
- Tăng cường công tác kiểm tra của Tòa án. Với kết quả kiểm tra phát hiện
những vi phạm, sai lầm nêu trên, và qua việc tác giả tham dự các phiên tòa hình sự
cấp huyện, nhận thấy việc kiểm tra hoạt động thụ lý và giải quyết, xét xử các loại
án, loại vụ việc của các Tòa án cấp huyện là không thể xem nhẹ. Do vậy, định kỳ
Tòa án tỉnh cần thành lập tổ công tác tiến hành kiểm tra đột xuất việc nghiên cứu hồ
sơ vụ án và đường lối giải quyết của Chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử; và “tham dự” phiên tòa xét xử các loại án nhất là án hình sự của tất cả các Tòa
án cấp huyện trực thuộc và Tòa án tỉnh với yêu cầu đặc biệt chú trọng việc thực
hiện và áp dụng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục phiên tòa, xác định
căn cứ của những trường hợp hoãn phiên tòa hoặc tiến hành xét xử, quá trình điều
khiển của chủ tọa phiên tòa trong thẩm vấn, tranh tụng, hoạt động chứng minh để
giải quyết các yêu cầu đặt ra đối với vụ án, nghị án, tuyên án, ban hành và giao bản
án để kịp thời chỉ ra các vi phạm trong quá trình này và tổ chức sơ kết để rút kinh
nghiệm chung trong giao ban ngành Tòa án tỉnh và yêu cầu đơn vị, cá nhân có vi
phạm nghiêm túc khắc phục.
Việc kiểm tra hồ sơ các loại án giải quyết đã có hiệu lực pháp luật nhất là các
loại vụ án giải quyết bằng hình thức xét xử, cần phải chú trọng đến chất lượng xây
97
dựng, nghiên cứu hồ sơ và ra một trong các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử, việc xây dựng đề cương xét hỏi/hỏi, chiến thuật và trình tự xét hỏi/hỏi, quá trình
chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên Tòa và kết quả chứng minh của Hội đồng xét
xử, việc nghị án và ra bản án trong từng vụ án cụ thể để đánh giá chất lượng. Kết
luận kiểm tra bằng văn bản phải chỉ ra sai phạm cụ thể trong từng vụ việc và yêu
cầu cơ quan được kiểm tra tổ chức họp toàn đơn vị để yêu cầu Thẩm phán, Thư ký
vi phạm nghiêm túc khắc phục, vi phạm của Hội thẩm đều phải được trực tiếp góp ý
hoặc thông qua hội nghị Hội thẩm, vi phạm của Kiểm sát viên phải được thông báo
qua giao ban liên ngành.
Thường xuyên quán triệt cán bộ làm công tác kiểm tra phải tận tụy với công
việc, chuẩn mực, khách quan trong đánh giá vi phạm. Những bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì phải được
báo cáo đầy đủ và kịp thời lên Tòa án cấp có thẩm quyền để xem xét kháng nghị;
không nên bao che, bệnh thành tích, tránh né trách nhiệm.
- Ngoài việc hàng năm ban hành Kế hoạch kiểm tra và Đề cương kiểm tra,
thì mỗi cuộc kiểm tra cần ban hành Quyết định kiểm tra và Kế hoạch kiểm tra.
- Cần lập Phiếu kiểm tra bản án, quyết định; Phiếu nhận xét, đánh giá phiên
tòa rút kinh nghiệm: Từ khi về công tác tại Phòng và được giao nhiệm vụ kiểm tra
các bản án, quyết định sơ thẩm như các đồng nghiệp khác, nhận thấy đơn vị chưa
quy định về phương thức phản ảnh kết quả kiểm tra bản án, quyết định để xác định
hoạt động kiểm tra cũng như khắc phục vi phạm, thiếu sót; việc các thành viên
Đoàn công tác TAND tỉnh tham dự các phiên tòa rút kinh nghiệm, sau mỗi phiên
tòa đều tổ chức rút kinh nghiệm với đơn vị được kiểm tra, kể cả Hội đồng xét xử,
nhưng cũng chưa được lập phiếu nhận xét đánh giá để đề cao tính căn cứ. Do vậy,
chúng tôi đề xuất TAND tỉnh cần phải lập Phiếu kiểm tra bản án, quyết định của các
Tòa án cấp sơ thẩm và Phiếu nhận xét, đánh giá phiên tòa rút kinh nghiệm.
- Kiện toàn Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Hiện nay Phòng có 1
Phó phòng phụ trách, 1 Kiểm tra viên chính và 3 Thư ký. Để Phòng kiểm tra nghiệp
vụ có thể hoàn thành được các lĩnh vực công tác chuyên môn và các giải pháp nêu
98
trên, thì Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tỉnh cần phải chú trọng kiện toàn về
chức danh quản lý và chức danh pháp lý theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao.
Cụ thể là cần phải bổ nhiệm 1 Trưởng phòng, 1 Phó trưởng phòng và 2 Thẩm tra
viên. Lực lượng cán bộ tại chỗ thì có, nhưng mấy năm qua chưa được quan tâm kiện
toàn về công tác tổ chức.
3.2.2.3. Đối với Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
- Cần thực hiện quy trình báo cáo kết quả tham mưu giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo về tố tụng, về hành chính – tư pháp và các đơn khác mà Lãnh đạo TAND
tỉnh phân công Phòng giải quyết theo thẩm quyền hoặc tham mưu giải quyết: Khi
lãnh đạo phân công cán bộ thuộc quyền tham mưu giải quyết thì phải quy định cụ
thể ngày báo cáo ra tập thể Phòng (nếu cần thiết), dự kiến ngày tập thể Phòng họp
bàn về hướng giải quyết, ngày tháng năm làm văn bản tham mưu lên lãnh đạo giải
quyết đơn (không thuộc thẩm quyền giải quyết của lãnh đạo Phòng) để phát huy trí
tuệ tập thể, giải quyết đúng thời hạn pháp luật quy định.
- Đối với các trường hợp thi hành án có vướng mắc thì khi lãnh đạo Phòng
phân công cán bộ thuộc quyền tham mưu giải quyết thì phải quy định cụ thể ngày
báo cáo ra tập thể Phòng (nếu cần thiết), dự kiến ngày tập thể Phòng họp bàn về
hướng giải quyết, ngày tháng năm làm văn bản tham mưu lên lãnh đạo giải quyết.
3.2.3. Hoàn thiện quy trình thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ
Để công tác kiểm tra đạt chất lượng, hiệu quả, từ hoạt động và yêu cầu thực
tiễn, chúng tôi xin đề xuất quy trình thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ ở Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi như sau:
- Lập kế hoạch kiểm tra: Đây là bước quan trọng, quyết định của cuộc kiểm
tra vì nó trả lời kiểm tra ai, nội dung gì; phạm vi, thời kỳ, thời hạn kiểm tra; nhân
lực đoàn kiểm tra; cách thức kiểm tra; dự kiến những tình huống phát sinh trong
kiểm tra; kết luận kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm tra… Để kế
hoạch kiểm tra chất lượng cần xem xét theo các bước sau:
+ Xác định nhiệm vụ: Khi xác định được nhiệm vụ thì mới xây dựng được
kế hoạch kiểm tra hiệu quả; đây là cơ sở để chuẩn bị thực hiện cuộc kiểm tra.
99
+ Xây dựng kế hoạch: Kế hoạch kiểm tra quyết định thành bại của việc kiểm
tra, do vậy kế hoạch này thường có những nội dung sau:
Cơ sở pháp lý: Thẩm quyền của người ban hành quyết định kiểm tra phải
đúng quy định của pháp luật;
Phạm vi kiểm tra: Một hay một số lĩnh vực hoạt động và sự liên quan giữa
các lĩnh vực hoặc kiểm tra toàn diện đối với các chủ thể được kiểm tra; Cách thức
kiểm tra: Là yêu cầu chủ thể được kiểm tra xây dựng báo cáo theo đề cương kiểm
tra và kiểm tra trực tiếp tại đơn vị; xác minh cá nhân, tổ chức có liên quan; yêu cầu
giải trình những nội dung chưa rõ hoặc có mâu thuẫn.
Thành phần: Các thành phần trong đoàn kiểm tra phải là những người có
điều kiện, tiêu chuẩn, năng lực, kinh nghiệm và phải đảm bảo yếu tố khách quan
trong hoạt động kiểm tra và kết luận kiểm tra, xử lý sau kết luận kiểm tra.
Thời gian kiểm tra: Phải dựa trên một số yếu tố như: số lượng thành viên
đoàn kiểm tra, phạm vi kiểm tra. Ngoài ra, trừ trường hợp kiểm tra đột xuất, thì cần
lưu ý đến điều kiện, hoàn cảnh của tập thể, cá nhân được kiểm tra.
Xác định điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho việc kiểm tra: Là kinh phí,
trang bị phương tiện cần phải được dự trù, chuẩn bị và phải đảm bảo đúng định
mức, tiêu chuẩn.
- Trình Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền ký ban hành Quyết định kiểm tra:
Quyết định kiểm tra cần có những nội dung sau: Tên chủ thể được kiểm tra; Phạm
vi, nội dung kiểm tra; Thời gian tiến hành kiểm tra; Họ và tên, chức vụ thành viên
Đoàn kiểm tra; Nhiệm vụ cơ bản thành viên Đoàn kiểm tra.
- Thông báo kế hoạch kiểm tra cho chủ thể được kiểm tra: Việc thông báo
này vừa đảm bảo tính công khai trong hoạt động kiểm tra, vừa đảm bảo chủ thể
được kiểm tra có điều kiện chuẩn bị, phối hợp tốt và không làm tâm lý căng thẳng.
Thông báo này cần có những nội dung chính sau đây: Đề cương báo cáo yêu cầu
chủ thể được kiểm tra xây dựng; Thời gian, địa điểm tiến hành kiểm tra; Nội dung
kiểm tra; Nội dung yêu cầu chủ thể được kiểm tra chuẩn bị.
100
- Tổ chức họp Đoàn kiểm tra: Trưởng đoàn tiến hành họp Đoàn kiểm tra
trước khi thực hiện kiểm tra để phân công nhiệm vụ cụ thể, chi tiết cho từng thành
viên của Đoàn theo năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của từng thành viên.
- Thực hiện kiểm tra: Trưởng đoàn công bố Quyết định kiểm tra, thông báo
Kế hoạch kiểm tra, giải thích quyền, nghĩa vụ của Đoàn kiểm tra, của chủ thể được
kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra phải thu thập, xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu;
đây là bước quan trọng trong quá trình kiểm tra, đòi hỏi người thực hiện kiểm tra
phải có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và thực hiện việc xác
minh, làm việc trực tiếp với đối tượng kiểm tra, yêu cầu giải trình, làm rõ những nội
dung kiểm tra.
- Kết thúc kiểm tra. Xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra: Các thành viên trong
Đoàn xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra của mình trên cơ sở nhiệm vụ được phân
công và chuyển về cho thành viên được phân công nhiệm vụ tổng hợp, xây dựng dự
thảo báo cáo kết quả kiểm tra của Đoàn. Báo cáo kết quả kiểm tra cần có một số nội
dung chính sau đây: Khái quát chung về đối tượng kiểm tra. Kết quả kiểm tra: tóm
tắt nội dung kiểm tra, phân tích những tài liệu, hồ sơ xem xét, kết quả xác minh, ý
kiến của chủ thể được kiểm tra, đánh giá của Đoàn. Kết luận chung về việc kiểm
tra: nêu rõ đơn vị, cá nhân được kiểm tra làm tốt hay vi phạm; nguyên nhân, tính
chất của kết quả đạt được hoặc của vi phạm… Kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm
quyền: Khen thưởng; kỷ luật; những nội dung cần điều chỉnh trong quản lý, những
yêu cầu điều chỉnh cụ thể đối với từng vi phạm theo quy định cụ thể của pháp
luật…Dự thảo báo cáo kết quả kiểm tra cần gửi cho tất cả các thành viên trong
Đoàn nghiên cứu, đóng góp ý kiến. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, Đoàn sẽ
tiến hành họp bàn, trao đổi, trường hợp không thống nhất được thì Trưởng đoàn
quyết định nhưng trong Báo cáo vẫn phải nêu những ý kiến chưa thống nhất.
- Trình Báo cáo kết quả kiểm tra và xây dựng Dự thảo kết luận kiểm tra để
người có thẩm quyền ký ban hành: Trưởng đoàn trình người có thẩm quyền Báo cáo
kết quả kiểm tra. Trên cơ sở nghiên cứu Báo cáo kết quả kiểm tra, người có thẩm
quyền ban hành Kết luận kiểm tra có thể yêu cầu Đoàn kiểm tra làm rõ một số nội
101
dung trong Báo cáo. Trên cơ sở Báo cáo kết quả kiểm tra, Trưởng đoàn xây dựng
Dự thảo Kết luận kiểm tra trình người có thẩm quyền xem xét. Trên cơ sở đồng ý
của người thẩm quyền ban hành Kết luận kiểm tra, Đoàn kiểm tra gửi Dự thảo Kết
luận kiểm tra để chủ thể được kiểm tra giải trình.
- Ban hành kết luận kiểm tra: Kết luận kiểm tra phải có những nội dung: Khái
quát chung về chủ thể được kiểm tra, kết quả kiểm tra và kết luận việc kiểm tra.
- Công bố Kết luận kiểm tra: Có thể công bố công khai tại đơn vị được kiểm
tra hoặc gửi và yêu cầu thủ trưởng đơn vị được kiểm tra công bố công khai cho toàn
thể công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị biết và thực hiện.
-Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm trong Đoàn kiểm tra: Trưởng đoàn tổ
chức họp Đoàn kiểm tra để đánh giá toàn diện cuộc kiểm tra, nhận xét những mặt
tích cực, những mặt cần khắc phục của các thành viên.
- Xử lý kết quả kiểm tra: Người ban hành Kết luận kiểm tra có trách nhiệm
giải quyết các kết quả kiểm tra và theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện.
3.2.4. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức thực hiện hoạt động kiểm
tra và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Để đảm bảo hoạt động kiểm tra và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi có chất lượng và hiệu quả, đội ngũ công chức của Tòa án ngoài đạt chuẩn
chuyên môn về bằng cấp còn cần phải có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
Vì vậy cần phải thường xuyên bồi dưỡng lý luận chính trị, các kiến thức nghiệp vụ
cần thiết đối với công chức làm nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Đặc biệt
phải có những kỹ năng cần thiết sau trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ:
- Kỹ năng xem xét, đánh giá, phân tích, tổng hợp.
Nhiệm vụ người thực hiện kiểm tra là xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu, quá
trình hoạt động, tác nghiệp của chủ thể được kiểm tra. Để xem xét, đánh giá được
tính chất, xác định việc làm của chủ thể được kiểm tra là phù hợp hay vi phạm pháp
luật, người thực hiện kiểm tra phải xem xét toàn bộ quá trình, xâu chuỗi các sự việc
lại với nhau và phân tích, tổng hợp. Những vụ việc cần kiểm tra làm rõ nhưng số
lượng hồ sơ, tài liệu rất nhiều thì cần sắp xếp lại theo trình tự thời gian từ xa đến
102
gần để từng hoạt động được đặt theo trật tự thời gian tạo điều kiện thuận lợi cho
người thực hiện kiểm tra dễ dàng theo dõi diễn biến sự việc để có những đánh giá,
nhận xét chính xác. Quá trình xem xét đánh giá hồ sơ, tài liệu cần hết sức thận
trọng, tỷ mỷ, tuyệt đối không vội vàng khẳng định đúng sai. Để áp dụng, đánh giá
một việc cụ thể cần thận trọng nghiên cứu nhiều quy định pháp luật để đưa ra những
đánh giá chính xác.
- Kỹ năng xác minh, thu thập thông tin, tài liệu.
Ngoài hồ sơ, tài liệu mà chủ thể được kiểm tra cung cấp; để đảm bảo khách
quan, chính xác, cần tiến hành xác minh, thu thập thông tin, tài liệu từ những nguồn
hợp pháp khác. Khi thu thập, xác minh cần xác định những nội dung sau: Xác định
xác minh, thu thập thông tin tại cơ quan, cá nhân nào. Cách thức tiến hành xác
minh, thu thập phải hợp pháp, hiệu quả.
- Kỹ năng đối thoại, làm việc với chủ thể được kiểm tra.
Thông thường, đa số người được kiểm tra có tâm lý không thích kiểm tra. Do
vậy cần giữ thái độ đúng mực, không tạo áp lực căng thẳng nhưng vẫn phải cương
quyết, chỉ ra những sai phạm của họ trên cơ sở phân tích, đưa ra các tình tiết, nội
dung, áp dụng vào các quy định pháp luật và đề nghị giải thích, giải trình thường là
cách làm tương đối hiệu quả. Người kiểm tra có thái độ đúng mực, đưa ra những lập
luận của mình để cho họ có ý kiến phản hồi khiến họ được cảm thấy tôn trọng, dân
chủ và khi không có cơ sở pháp lý nào giải thích cho việc làm của bản thân thì họ
nhận vi phạm. Vì thế, ngoài kỹ năng đối thoại, người kiểm tra phải xây dựng kế
hoạch, tìm hiểu tâm lý, hoàn cảnh, chuẩn bị cách thức, biện pháp, chiến thuật làm
việc với người được kiểm tra. Việc đối thoại, làm việc phải được lập biên bản rõ
ràng, cụ thể.
- Kỹ năng ghi biên bản.
Biên bản kiểm tra được đưa vào hồ sơ. Lập biên bản làm việc với đối tượng
kiểm tra để mô tả lại sự việc, hành vi, xác nhận của chủ thể được kiểm tra và giải
thích động cơ, nguyên nhân thực hiện hành vi của họ. Biên bản này không ghi ý
kiến đánh giá, kết luận của người kiểm tra vì việc đánh giá, kết luận không chỉ dựa
103
trên kết quả làm việc mà còn dựa trên các tài liệu khác, các quy định pháp luật và
trên cơ sở thống nhất, quyết định của các thành viên tham gia xác minh. Hình thức
biên bản có thể là biên bản làm việc; biên bản xác minh; biên bản làm việc về kết
quả kiểm tra sơ bộ.
- Kỹ năng viết báo cáo kết quả kiểm tra.
Báo cáo kết quả kiểm tra là sản phẩm thể hiện toàn bộ quá trình kiểm tra,
đánh giá, phân tích và đề xuất việc xử lý. Chất lượng cuộc kiểm tra phụ thuộc xây
dựng báo cáo chất lượng, trung thực, toàn diện và người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt
vấn đề một cách khách quan và đúng đắn. Do vậy, khi xây dựng Báo cáo cần thực
hiện một số nội dung: Phần khái quát: Nêu tình hình, đặc điểm của đối tượng kiểm
tra. Phần kết quả kiểm tra: Số liệu theo báo cáo của chủ thể được kiểm tra; kết quả
đối chiếu và nhận xét, đánh giá của Đoàn kiểm tra về số liệu. Về các nội dung cụ
thể của cuộc kiểm tra: Những mặt ưu điểm, tích cực, thành tích đạt được; Nguyên
nhân có được những kết quả, thành tích; Kết luận về những ưu điểm, tích cực.
Những tồn tại, thiếu sót, vi phạm: Tóm tắt nội dung vi phạm; Phân tích nội dung vi
phạm, đối chiếu quy định pháp luật đã vi phạm quy định nào; Nguyên nhân của việc
vi phạm; kết luận về việc vi phạm. Phần kết luận: Nêu lại kết luận của từng nội
dung nói trên; Đánh giá để khen thưởng thành tích hoặc xử lý những vi phạm, tồn
tại. Phần kiến nghị: Kiến nghị người có thẩm quyền: trên cơ sở báo cáo kết quả
kiểm tra, xem xét, ban hành Kết luận kiểm tra; Kiến nghị về biện pháp, hình thức
khen thưởng, xử lý vi phạm.
104
Tiểu kết chương 3
Qua thực tiễn về công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi trong năm năm qua, với quan điểm tác động biện chứng giữa
lý luận và pháp luật với thực tiễn để phục vụ thực tiễn, tác giả đã cơ bản nhận diện
được yêu cầu đòi hỏi của các lĩnh vực trong hoạt động này, từ đó có cơ sở đánh giá
kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của hạn chế.
Điều quan trọng nhất là qua các hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án
phải làm sao phát hiện kịp thời và hầu hết các vi phạm, sai sót và tìm ra các nguyên
nhân chủ yếu để có biện pháp, giải pháp hữu hiệu góp phần đáng kể cho việc hạn
chế đến mức thấp nhất các sai sót trong các lĩnh vực hoạt động của các Tòa án cấp
huyện, nhất là hoạt động giải quyết án hình sự; đảm bảo việc thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án. Điều này đặt ra yêu cầu và trách nhiệm cao đối với các chủ
thể trong kiểm tra và thi hành án. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn đề ra các giải pháp
thiết thực để hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi ngày càng đạt hiệu quả cao.
105
KẾT LUẬN
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của hệ thống Tòa án mang tính
quyền lực Nhà nước để đảm bảo địa vị tối cao của pháp luật, góp phần cho pháp
luật đi vào cuộc sống; đó là yêu cầu tiên quyết của pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nếu hoạt động này từng nơi từng lúc không được coi trọng, thì tất yếu xảy ra
khoảng trống quyền lực, làm nảy sinh mâu thuẫn xã hội do quyền, lợi ích chính
đáng của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật bị xâm phạm, mà xét theo nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến thì xã hội phải thụ động gánh chịu lực cản đó, ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Đất nước ta đang trong giai đoạn khởi kiểm của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội để thực hiện mục tiêu kiên định của Đảng và Bác Hồ kính yêu là “Độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”. Trong giai đoạn này, ngoài mâu thuẫn chủ
yếu bên ngoài là về hệ tư tưởng, thì mâu thuẫn chủ yếu bên trong là về lợi ích vật
chất và lợi ích tinh thần. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện nhiều biện
pháp trong quan hệ đối nội và đối ngoại để giải quyết ngày càng tốt 2 nhu cầu cơ
bản của nhân dân để xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh mà pháp luật là công cụ để thực hiện điều đó.
Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án dù mang tính kiểm tra
chuyên ngành, nhưng cùng với hoạt động thi hành án góp phần để bảo vệ địa vị tối
cao của pháp luật trong hoạt động áp dụng pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật
không chỉ đối với Tòa án. Vì thế, Chương 1 Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận,
Chương 2 đã đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân, để từ đó chúng tôi tìm, đề
ra các giải pháp về pháp luật, giải pháp đối với hệ thống Tòa án và với người làm
công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động này của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
Dù còn nhiều hạn chế song hy vọng Luận văn có thể được người quan tâm đến
ứng dụng trong giảng dạy, học tập, xây dựng và áp dụng pháp luật, trong hoạt động
kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, góp phần nâng cao tri thức khoa học pháp lý và tạo
môi trường áp dụng, tuân thủ, sử dụng, thi hành pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn./.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Ngọc An (2015), Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam năm 2015, Đà Nẵng.
2. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW Nghị quyết về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW Nghị quyết của Bộ chính trị về
chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp -Tòa án nhân dân tối cao-Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016),
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Thông tư
liên tịch quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên
ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
5. Lê Văn Cảm (2010), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Kiểm sát, số 15 và 17.
6. Phan Canh (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Mũi Cà Mau, Cà Mau.
7. Nguyễn Đăng Dung (2001), Định tội danh theo Bộ luật hình sự Nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ NghĩaViệt Nam, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
8. Trần Trí Dũng (2010), “Một số ý kiến về vấn đề công bằng trong phán quyết
của Tòa án đối với vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 18.
9. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị Quyết số 02/2007/NQ-
HĐTP Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi
hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
10. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị Quyết số
01/2007/NQ-HĐTP Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời
hạn chấp hành hình phạt, Hà Nội.
11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2010), Nghị Quyết số
02/2010/NQ-HĐTP Nghị quyết Bổ sung một số hướng dẫn của Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 và Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP
ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Hà Nội.
107
12. Nguyễn Thế Kỳ (1994), Từ điển pháp luật Anh Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong Tố tụng Hình sự Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
14. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Đặng Quang Phương (2014), Tập bài giảng: Chứng cứ, những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Hà Nội.
16. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà Nội.
17. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà Nội.
18. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
19. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
20. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
21. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1980, Hà Nội.
22. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
23. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1992, Hà Nội.
25. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
26. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
27. Quốc hội (1999), số 15/1999/QH10 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
28. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
năm 1992, Hà Nội.
29. Quốc hội (2002), số: 33/2002/QH10 Luật của Quốc hội Tổ chức Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
30. Quốc hội (2002), số: 34/2002/QH10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
31. Quốc hội (2003), số 19/2003/QH11 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2006), số: 65/2006/QH11 Luật Luật sư, Hà Nội.
108
33. Quốc hội (2007), số 07/2007/QH12 Luật đặc xá, Hà Nôị.
34. Quốc hội (2008), số 26/2008/QH12 Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (2009), Luật số 37/2009/QH12 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
36. Quốc hội (2010), số 53/2010/QH12 Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.
37. Quốc hội (2012), số: 20/2012/QH13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật sư, Hà Nội.
38. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
39. Quốc hội (2014), Luật số 64/2014/QH13 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều
của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
40. Quốc hội (2014), số: 62/2014/QH13 Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
41. Quốc hội (2014), số: 63/2014/QH13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
42. Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (2015), Luật số 92/2015/QH13 Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
44. Quốc hội (2015), Luật số 93/2015/QH13 Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.
45. Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình
sự, Hà Nội.
46. Quốc hội (2015), số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự, Hà Nội.
47. Quốc hội (2015), số: 94/2015/QH13 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Hà Nội.
48. Quốc hội (2017), Luật số 12/2017/QH14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.
49. Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về thủ
tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Luật học, Số 10.
50. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Kế hoạch số 246/KHKT-TA ngày
24/11/2015 Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2016, Quảng Ngãi.
51. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017), Kế hoạch số 09/KH-TA ngày
29/11/2016 Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2017, Quảng Ngãi.
52. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2018), Đề cương báo cáo tự kiểm tra về
công tác chuyên môn, Quảng Ngãi.
109
53. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2018), Kế hoạch số 136/KH-TA ngày
16/11/2017 Kế hoạch kiểm tra nghiệp vụ xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện năm 2018, Quảng Ngãi.
54. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Quyết định 436a/2017/QĐ-TANDTC ngày
01/3/2017 Quyết định ban hành Quy chế công tác kiểm tra trong Tòa án nhân
dân, Hà Nội.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb pháp lý,
Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Trượng (2010), “Cần sửa đổi, bổ sung một số thủ tục tố tụng hình
sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6.
57. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa
đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.
58. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), số 23/2004/PL-UBTVQH11 Pháp lệnh
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.