BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ........../..........

BỘ NỘI VỤ ....../......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THANH TÂN

HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ........../..........

BỘ NỘI VỤ ....../......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THANH TÂN HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐÀM BÍCH HIÊN

THỪA THIÊN HUẾ - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự

hỗ trợ từ Giảng viên hướng dẫn là TS. Đàm Bích Hiên. Các số liệu, nội

dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những kết luận

khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình

nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018

Học viên

Lê Thanh Tân

LỜI CẢM ƠN

Trước hết em xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, quý thầy cô Khoa Sau

đại học- Học viện Hành chính Quốc gia và quý thầy cô tham gia giảng dạy đã tận

tình truyền đạt kiến thức, giúp đỡ em trong thời gian học tập. Đặc biệt, em xin gửi

lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đàm Bích Hiên đã dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ

để hướng dẫn em hoàn thành Luận văn này.

Em xin gửi lời cảm ơn đến ông Phạm Trung Uy- Chánh án Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi; Tập thể Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; Phòng kiểm

tra nghiệp vụ và thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và thi đua khen

thưởng- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và toàn thể công chức Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khóa học và

Luận văn.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè là nguồn động viên lớn để em tham

gia học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn.

Trong thời gian qua, bản thân em rất nỗ lực trong việc học cũng như viết

Luận văn. Tuy nhiên, do kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên quá trình viết

Luận văn sẽ có những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý bấu của quý

thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thừa Thiên Huế, ngày 15 tháng 10 năm 2018

Học viên

Lê Thanh Tân

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA

NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH .............. 8

1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh ................................................................... 8

1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân

tỉnh ......................................................................................................................... 12

1.3. Những vấn đề lý luận về thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh .................... 22

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 33

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI

HÀNH ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI .......................... 34

2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ................................. 34

2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi ....................................................................................................................... 36

2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án từ năm 2013-2017 ..... 54

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 67

Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG

KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG NGÃI ............................................................................................. 68

3.1. Phương hướng đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án .............. 68

3.2. Giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án .................. 73

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................. 105

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 106

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 107

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT CHỮ VIẾT TẮT CHỮ RÕ

1 BLHS Bộ luật hình sự

2 BLHS 1999 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009

3 BLHS 2015 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

4 BLTTDS 2015 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

5 BLTTHS 2003 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

6 BLTTHS 2015 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

7 CQĐT Cơ quan điều tra

8 CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng

9 ĐTV Điều tra viên

10 HĐTPTANDTC Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

11 KSV Kiểm sát viên

12 LTCTAND 2002 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

13 LTCTAND 2014 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

14 LTCVKSND 2002 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002

15 LTCVKSND 2014 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

16 LTTHC 2015 Luật tố tụng hành chính năm 2015

17 NBC Người bào chữa

18 NBVQLHPCĐS Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự

19 NCQL&NVLQ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

20 NTGTT Người tham gia tố tụng

21 NTHTT Người tiến hành tố tụng

22 TAND Tòa án nhân dân

23 TAND huyện Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã

24 TAND tỉnh Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

25 TANDCC Tòa án nhân dân cấp cao

26 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

27 TP; HTND Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân

28 VKS Viện kiểm sát

29 VKSND Viện kiểm sát nhân dân

30 VKSNDCC Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện thực hóa Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về Cải cách tư pháp đến năm

2020; Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ của Tòa án

nhân dân, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định trách nhiệm,

nghĩa vụ chứng minh của Tòa án trong tố tụng nhằm bảo đảm Tòa án là cơ quan xét

xử và thực hiện quyền tư pháp.

Để có thể ngày càng thực hiện tốt chức năng nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách

tư pháp chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, yêu cầu của Hiến pháp bảo đảm quyền con

người, quyền công dân, nâng cao vị trí, vai trò, tầm quan trọng công tác xét xử, Tòa

án là trung tâm Cải cách tư pháp, đòi hỏi hệ thống Tòa án phải luôn chú trọng hoạt

động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án; vì vậy, Quyết định số 345/2016/QĐ-CA

ngày 7 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có quy định về tổ

chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa

án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, trong đó có quy định về Phòng Kiểm tra nghiệp

vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, và Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao đã ra Quyết định số 346a/2017/QĐ-TANDTC ngày 01 tháng 3 năm 2017 về

việc ban hành Quy chế kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân.

Hoạt động kiểm tra của hệ thống Tòa án nhằm đảm bảo tuân thủ nguyên tắc

mọi hoạt động của các chủ thể trong việc áp dụng, thi hành, tuân thủ, sử dụng pháp

luật đều phải được kiểm tra; đồng thời, hoạt động thi hành án là khâu quan trọng để

bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án phải được các cơ

quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và các chủ thể thi hành án, chấp hành án phải thực

hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ, chủ thể kiểm tra là Chánh án Tòa án

nhân dân cấp trên đối với những chủ thể được kiểm tra là toàn thể công chức, người

lao động do mình quản lý và Tòa án cấp dưới trực thuộc. Đối tượng kiểm tra nghiệp

vụ là sự tuân thủ pháp luật của những chủ thể được kiểm tra đối với toàn bộ hoạt

động chuyên môn trong quá trình tiếp nhận, thụ lý, giải quyết, xét xử các loại án,

1

giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và về hành chính – tư pháp, hoạt động thi

hành án và các hoạt động liên quan đến những hoạt động nghiệp vụ để phát hiện, xử

lý những sai phạm theo quy định pháp luật, phục vụ hướng dẫn, trao đổi nghiệp vụ,

tổng kết kinh nghiệm xét xử, phòng ngừa vi phạm và nhân rộng những ưu điểm,

những cách làm mới, phục vụ công tác thi đua khen thưởng, hoạt động quản lý hành

chính – tư pháp và công tác tổ chức cán bộ.

Tòa án nhân dân là cơ quan ra các quyết định về thi hành án hình sự, giải

thích bản án, quyết định giải quyết các loại án, loại việc theo yêu cầu của cơ quan

thi hành án và công dân, ra quyết định buộc thi hành án hành chính khi có đơn yêu

cầu, phối hợp với cơ quan chức năng, cơ quan liên quan trong công tác thi hành án

theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên đến nay, công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án vẫn còn

những bất cập như công tác kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án chưa được

luật hóa, người làm công tác kiểm tra cũng chưa được quan tâm đào tạo chuyên

môn về công tác này, trong thời gian dài chưa có hành lang pháp lý về công tác

kiểm tra; pháp luật về thi hành án thời gian qua ngoài việc quy định ở luật chuyên

ngành, còn quy định tại luật tổ chức và nhiều văn bản dưới luật do nhiều cơ quan

ban hành, phối hợp ban hành nên việc đánh giá hiệu quả hoạt động kiểm tra nghiệp

vụ và thi hành án thời gian qua cũng có khó khăn, bất cập nhất định.

Quá trình đổi mới theo chủ trương của Đảng, các lĩnh vực đời sống xã hội

từng bước phát triển, đã thúc đẩy hệ thống pháp luật được kiện toàn để phát huy vai

trò của nó trong thực tiễn. Do đó, tất yếu công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

trong hệ thống Tòa án nhân dân ngày càng là vấn đề mang tính thời sự.

Vì thế, tôi chọn đề tài “Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án từ thực

tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Qua tìm hiểu thấy rằng, liên quan đến lĩnh vực pháp luật về thi hành án hình sự,

pháp luật về thi hành án phạt tù có thời hạn nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu,

nhiều bài viết trên tạp chí với nhiều góc độ, nhiều khía cạnh, phạm vi khác nhau, như:

2

Sách “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và

thực tiễn” của PGS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng đã đề cập

đến thực trạng pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án hình sự và phương hướng,

giải pháp hoàn thiện;

Sách “Thử bàn về pháp luật thi hành án” của TS. Nguyễn Đình Lộc đã

nghiên cứu về bản chất, nội dung hoạt động thi hành án, tính tư pháp và tính hành

chính trong pháp luật về thi hành án hình sự, dân sự, hành chính;

Sách “Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án hình sự ở

Việt Nam” của TS. Vũ Trọng Hách, do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006 đã

nghiên cứu các quan điểm về bản chất, nội dung của thi hành án hình sự, thực trạng

và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về mô hình quản lý Nhà nước

trong thi hành án hình sự;

“Một số vấn đề về thi hành án hình sự” của TS. Trần Quang Tiệp, do nhà

xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2002; “Bình luận khoa học Luật thi hành

án hình sự” Nxb Hồng Đức (2011) của TS. Trần Minh Hưởng;

Bài viết “Thực trạng pháp luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn

thiện” của TS. Phạm Văn Lợi, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2006

đã phân tích thực trạng thi hành án phạt tù, đề xuất mô hình tổ chức bộ máy thi hành

án và trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án phạt tù;

Bài “Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị” của TS.

Nguyễn Phong Hoà, đăng trên tạp chí TAND số 21/2006 đã nghiên cứu từ thực tiễn

về công tác thi hành án hình sự, kiến nghị hoàn thiện Luật tổ chức, Luật chuyên

ngành về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành án hình sự;

Luận văn Thạc sỹ luật học “Những vấn đề về thi hành án phạt tù có thời hạn

ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Nam (2010). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn

đề thi hành án hình sự Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người” của Hứa

Thị Thơ (2011). Luận văn Thạc sỹ luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

hoãn thi hành án trong Luật thi hành án hình sự Việt Nam” của Nguyễn Văn Sơn

(2014) đã nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của hoạt động thi hành án hình sự;

3

Bài “Những vấn đề cần chú ý khi phục hồi điều tra vụ án, bắt, tạm giữ, tạm

giam người bị truy nã, phục hồi điều tra bị can” của Dương Ngọc An, Tạp chí Kiểm

sát số 06/2010 viết về cơ quan điều tra, VKS, Tòa án cần chú ý rà soát những

trường hợp tạm đình chỉ để đưa ra đình chỉ những vụ án đủ điều kiện trong các

trường hợp: Đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, truy tố, chuẩn bị xét xử, đưa ra xét xử

nhưng tạm đình chỉ do bị can, bị cáo bỏ trốn, sau đó do pháp luật hình sự thay đổi

nên hành vi đã bị khởi tố không bị coi là tội phạm; Chưa khởi tố bị can nhưng hết

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự…để tránh phục hồi điều tra vụ án, khởi tố,

truy tố, đưa ra xét xử oan, sai và hoạt động kiểm sát giam, giữ và thi hành án hình

sự, hoạt động kiểm tra cần chú ý các vấn đề này…).

Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến các nội dung cơ bản về

thi hành án và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nhưng chưa có công trình nào nghiên

cứu toàn diện,có hệ thống về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa

án nhân dân tỉnh nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Do đó,

tác giả chọn hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh nói chung và Tòa

án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, qua đó góp phần tác động tích cực đến các

hoạt động chuyên môn của 2 cấp Tòa án trong tỉnh Quảng Ngãi.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động

kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở

nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong hệ thống

Tòa án nhân dân và phân tích những kết quả đạt được và hạn chế trong thực hiện

hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án trong

hệ thống Tòa án nhân dân.

4

- Nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật về các lĩnh vực công tác cụ

thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tòa án và các hoạt động kiểm tra nghiệp vụ,

hoạt động thi hành án

- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

- Đề xuất các giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật, của hệ thống

Tòa án và quy định của TAND tỉnh Quảng Ngãi về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án gắn với thực tiễn thi hành tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nghiên cứu về nội dung:

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án cấp tỉnh là một vấn

đề rất rộng và đa dạng. Tuy nhiên, với phạm vi Luận văn Thạc sỹ, đề tài tập trung

nghiên cứu lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án và thực tiễn thi

hành đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành

chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, về hành chính – tư pháp và hoạt động

thi hành án hình sự, án hành chính.

- Phạm vi không gian:

Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi thời gian:

Đề tài nghiên cứu về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, từ đó làm cơ

sở đánh giá kết quả, đồng thời tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó để đề ra

các giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động này.

5

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Về phương pháp luận, đề tài sử dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về

chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, gồm: nguyên lý về mối liên

hệ phổ biến; phạm trù nhân quả, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực; lý

luận nhận thức; pháp luật xã hội chủ nghĩa về vi phạm pháp luật, về các giai đoạn của

quá trình áp dụng pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta vận

dụng Chủ nghĩa Mác – Lê nin vào quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam về mục

tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về nguyên tắc tổ chức hoạt động và

chức năng, nhiệm vụ, bản chất của Nhà nước ta, về phương pháp giải quyết đấu tranh

giai cấp, ghi nhận và bảo vệ quyền con người, trách nhiệm của cán bộ công chức với

nhân dân, với Đảng, với Nhà nước; cơ chế phối hợp và chế ước trong hệ thống các cơ

quan tư pháp của nước ta; mô hình tố tụng đan xen trong các luật tố tụng; tư tưởng về

đổi mới và quá trình đổi mới cùng các quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp, về

chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.

- Về phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi

nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của triết học Mác-Lênin cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như

phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh;

phương pháp thống kê.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả nghiên cứu và các giải pháp trong luận văn cung cấp thông tin về

lý luận và hoạt động thực tiễn với những biện pháp cải tiến đang và cần phải được

tiếp tục áp dụng trong công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án để góp phần cho

việc luôn chú trọng khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy những ưu điểm,

tiếp tục tìm những giải pháp hữu ích trong quá trình thực hiện các hoạt động này

không chỉ đối với Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, mà chúng tôi cho rằng còn có

thể được các Tòa án nhân dân 2 cấp các tỉnh xem xét ứng dụng, góp phần thiết

thực nâng cao kết quả, chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng và thi hành án cũng

như hoạt động kiểm tra để ngày càng thực hiện tốt chức năng xét xử và thực hiện

6

quyền tư pháp của hệ thống Tòa án cũng như phục vụ chức năng giám đốc xét xử,

tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân dân cấp trên

đối với Tòa án nhân dân cấp dưới, bảo đảm pháp chế thống nhất trong hoạt động

tố tụng, bảo đảm tính đúng đắn, kịp thời trong hoạt động thi hành án cũng như góp

phần thiết thực phục vụ yêu cầu chính trị của các địa phương trong quá trình thực

hiện các mục tiêu phát triển.

Luận văn còn có thể cung cấp thông tin cho người quan tâm để ứng dụng trong

thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, trong

điều tra, truy tố án hình sự; việc thụ lý, giải quyết các loại án theo các thủ tục tố tụng,

cấp tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả trong giải quyết các tranh chấp dân sự, trong

đấu tranh phòng chống các loại vi phạm, tội phạm và hoạt động thi hành án hình sự

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trên phạm vi toàn quốc nói chung.

Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng

pháp luật thi hành án, pháp luật dân sự, hành chính, hình sự, pháp luật tố tụng hình

sự về hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần tích lũy tri

thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng và hoạt động thi hành án hình sự, phục

vụ hoạt động quản lý hành chính – tư pháp, góp phần hoàn thiện chế định công tác

kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của hệ thống Tòa án, nâng cao ý thức trách nhiệm

của những người làm công tác này, ngăn chặn vi phạm trong hoạt động tư pháp và

phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

7. Cơ cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, nội dung gồm ba chương, mỗi

chương có tiểu kết luận, kết thúc Luận văn có kết luận; được kết cấu như sau:

- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án của tòa án nhân dân tỉnh

- Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

- Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ

VÀ THI HÀNH ÁN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH

1.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh

Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực

hiện quyền tư pháp. Luật tổ chức TAND năm 2014 đã qui định tổ chức TAND bao

gồm: TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương;

các Toà án quân sự (Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014). Như vậy Tòa án nhân

dân tỉnh là một bộ phận trong hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân hiện nay.

1.1.1. Vị trí của Tòa án nhân dân tỉnh

Tòa án nhân dân tỉnh xét xử nhân danh Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa

Việt Nam, căn cứ vào pháp luật hiện hành của nhà nước để đưa ra những phán

quyết thể hiện trực tiếp ý chí của nhà nước, của nhân dân đối với từng vụ việc cụ

thể. Ý chí đó được thể hiện bằng những quyết định mang tính chất pháp lý cao,

đánh giá khách quan bản chất sự việc cụ thể và được thể hiện dưới hình thức là bản

án hay quyết định. Như vậy, hoạt động xét xử của TAND tỉnh phản ánh một cách

trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước, ý chí của nhân dân.

Thông qua hoạt động xét xử của mình, Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện được

việc kiểm tra hành pháp của các cơ quan nhà nước, quyền công dân, quyền con

người thông qua hoạt động xét xử, hơn nữa là còn góp phần bảo vệ trật tự xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, TAND cấp tỉnh có vị trí trung tâm trong việc tổ chức,

thực hiện quyền tư pháp ở cấp tỉnh, với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động

xét xử . Đây là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách

tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020 và đã được Hiến

pháp năm 2013 quy định tại điều 102.

8

1.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa án

nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở các qui định

nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014

đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Xuất phát từ địa vị pháp lý

của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các đạo

luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy rằng,

chức năng xét xử của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt quá

trình ra đời và phát triển của Tòa án. Với tư cách là một trong các cấp của hệ thống

Tòa án, TAND tỉnh có chức năng xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh

thương mại, lao động, hành chính thuộc thẩm quyền theo qui định của pháp luật.

Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của pháp luật

tố tụng, TAND tỉnh còn có trách nhiệm trong một số hoạt động thi hành án hình sự,

hành chính. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn hoặc tạm đình

chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian thử thách của án treo, xét

miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành

hình phạt tử hình; ra quyết định thi hành án hành chính. Điểm mới theo Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy

định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án

Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.

1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tỉnh

Theo quy định tại Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014, Tòa án nhân dân

cấp tỉnh có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.

- Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp

luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

9

- Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm pháp

luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa

án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.

- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

1.1.4. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh

Thẩm quyền xét xử của Tòa án là một trong các nội dung của hệ thống pháp

luật về tổ chức và hoạt động của TAND. Theo từ điển Luật học thì “thẩm quyền xét

xử là sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau. Việc

phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào những dấu hiệu nhất định và tính chất của

từng vụ án cụ thể; thẩm quyền xét xử theo loại việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh

thổ hoặc theo địa phương, thẩm quyền xét xử theo vụ án có liên quan với nhau”.

Vấn đề thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh là nội dung phức tạp vì nó có liên

quan đến thẩm quyền xét xử đối với các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương

mại, lao động, hành chính và các việc khác theo qui định của pháp luật qua các thời

kỳ khác nhau, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn tư pháp.

- Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh được qui định như sau:

+ Điều 37 Luật Tổ chức TAND năm 2014 và khoản 2 Điều 268 Bộ luật Tố

tụng hình sự 2015 qui định TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử: Sơ thẩm những vụ

việc theo quy định của pháp luật tố tụng; sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội

phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm

quyền của Tòa án cấp dưới mà TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử; phúc thẩm vụ việc

mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo

quy định của pháp luật. Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện

có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị

với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét,

kháng nghị; và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

10

+ Theo Điều 37 BLTTDS 2015, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ

thẩm những vụ việc: Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh

thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của BLTTDS, trừ

những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy

định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; yêu cầu về dân sự, hôn nhân và

gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 27, 29, 31 và 33

của BLTTDS, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân

cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của BLTTDS; tranh chấp, yêu

cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có

thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền

giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của BLTTDS mà

Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc

theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.

+ Theo Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Tòa án cấp tỉnh giải

quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây: Khiếu kiện quyết định

hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính,

hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi

kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc

hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi

cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.

Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một

trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết định hành

chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người

khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc

hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi

11

cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.

Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp

tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm

quyền trong cơ quan nhà nước đó. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi

hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Khiếu kiện quyết định

hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan

đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành chính với

Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án

có thẩm quyền là Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành

phố Hồ Chí Minh. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng

đầu cơ quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi

làm việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án. Khiếu

kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà

người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa

giới hành chính với Tòa án. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể

lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp

huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính 2015.

1.2. Những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án

nhân dân tỉnh

1.2.1. Khái niệm hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

Trong xã hội loài người, hoạt động quản lý không phải là nhu cầu mang tính

lịch sử mà là nhu cầu vĩnh viễn. Nói một cách khác, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài

người kể cả khi xã hội loài người không còn giai cấp. Ăng ghen đã chỉ ra “Chức

năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội”.

Vì thế, bất cứ hoạt động công hay tư và thuộc lĩnh vực nào cũng cần có kiểm

tra, bởi đây là khâu không thể thiếu đối với vai trò quản lý. Quản lý nhà nước lại

càng cần có kiểm tra. Chỉ nói riêng sự kiểm tra đối với các quyết định và hành vi

12

trong lĩnh vực hành chính, lĩnh vực tư pháp, hành chính–tư pháp cũng bao gồm

phạm vi rất rộng: Kiểm tra tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính cần thiết; kiểm tra của

cấp trên đối với cấp dưới…Hoạt động quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám

sát. Một cơ quan nắm trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà

nước mà không được kiểm tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền vì

động cơ mục đích cá nhân, cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối

tượng, chủ thể tổ chức thực hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để

chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế

kiểm tra của Nhà nước ta gồm nhiều loại hình kiểm tra nói trên.

Theo Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh (nhà xuất bản Mũi Cà Mau,

1997) thì, “kiểm tra” được xem là kiểm xét, tra cứu [7, tr.651]; còn “nghiệp vụ” được

xem là việc làm, nghề [7, tr.874]. Từ điển pháp luật Anh - Việt của tác giả Nguyễn

Thế Kỳ (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1994) thì “Kiểm tra” là xem xét tình

hình thực tế để đánh giá, nhận xét [12, tr.203], để chỉ hoạt động của chủ thể kiểm tra

tác động vào chủ thể được kiểm tra.

Khái niệm kiểm tra: Theo nghĩa rộng, để chỉ hoạt động của các tổ chức xã

hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo

nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực

hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà

nước. Theo nghĩa hẹp, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét,

xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù

hợp với yêu cầu đòi hỏi của pháp luật và chủ thể kiểm tra có thể áp dụng các chế tài,

biện pháp pháp lý theo quy định của pháp luật.

Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn

thanh tra. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một

chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp. Trên

một bình diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận

13

xét của bất kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi

con người biết lao động một cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải

kiểm tra, như Ăng ghen đã nói “Mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người

đều chứa đựng trong đó những yếu tố của kiểm tra. Đối với mỗi con người tự nhiên,

mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra được xem như là phương thức hành động để

thực hiện mục đích”. Như vậy, về lịch sử hình thành và phát triển thì kiểm tra xuất

hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu tiên trong

lịch sử và kiểm tra cũng là yếu tố cơ bản để hình thành Nhà nước.

Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, cá nhân nhất định và mang

tính định hướng của chủ thể kiểm tra để cho các hoạt động của chủ thể được kiểm

tra ngày càng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, chức trách được giao và sự phân

công, phối hợp giữa các chủ thể này luôn hoàn thiện để hoàn thành tốt kế hoạch đã

đề ra. Do vậy, khi kiểm tra phải nắm tình hình thực tế để đánh giá xác đáng rằng các

chủ thể được kiểm tra có đủ các yếu tố, các điều kiện cần thiết để thực hiện tốt các

hoạt động được giao hay không. Khi kết luận kiểm tra hiệu quả thực tế đối với các

chủ thể được kiểm tra phải đối chiếu với kế hoạch đặt ra của chủ thể kiểm tra và có

thể đối với cả chủ thể được kiểm tra. Từ đó mới có cơ sở hướng dẫn và điều chỉnh

kịp thời các yếu tố liên quan để đảm bảo hiệu quả công việc của từng đơn vị, cá

nhân được kiểm tra và đạt mục đích kiểm tra.

Kiểm tra nội bộ trong hoạt động quản lý công có mục tiêu tìm kiếm động cơ,

nguyên nhân cán bộ làm tốt hay không nhiệm vụ được giao để đề ra và tổ chức thực

hiện các giải pháp thiết thực thúc đẩy, nhân rộng cái tốt, hạn chế cái chưa tốt . Tuy

nhiên, ngoài hoạt động kiểm tra nội bộ của bộ máy quản lý, thì hoạt động quản lý

công cũng chịu sự kiểm tra ở ngoài hệ thống nội bộ, đó là kiểm soát ngoại lai với rất

nhiều chủ thể, nhiều lý do, phương thức, biện pháp, phạm vi, mục đích.

Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà chúng ta

không thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những

người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt

động kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề

14

nếp kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức, giữa hai nhân tố chủ quan và khách

quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.

Từ những phân tích trên có thể hiểu kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa

án là hoạt động mang tính nội bộ của chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra

để đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ thể được kiểm tra và vai trò quản lý, lãnh

đạo, điều hành của chủ thể kiểm tra nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp thời và

giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định của

pháp luật. Đây là hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước trong quản lý hành chính

– tư pháp để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.

Đối với Tòa án nhân dân tỉnh, kiểm tra nghiệp vụ là hoạt động xem xét đánh

giá hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân huyện trực thuộc và vai trò quản lý,

lãnh đạo, điều hành của Tòa án nhân dân tỉnh nhằm phát huy ưu điểm, phát hiện kịp

thời và giải quyết các vi phạm, sai lầm trong hoạt động nghiệp vụ theo các quy định

của pháp luật để thực hiện tốt chức năng xét xử và quyền tư pháp.

1.2.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

Xuất phát từ quan hệ pháp luật mang tính quyền lực giữa chủ thể kiểm tra

với chủ thể được kiểm tra, hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

có những đặc điểm sau:

- Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có thẩm quyền. Hoạt động kiểm

tra nghiệp vụ là một việc làm thường xuyên nhằm đảm bảo cho hệ thống Tòa án

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật. Người có quyền kiểm

tra, cũng chính là nghĩa vụ pháp lý của họ. Kiểm tra nghiệp vụ là một hoạt động có

định hướng và thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật.

- Được tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Kiểm

tra nghiệp vụ là hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm quyền theo quy

định của pháp luật khi đề ra kế hoạch với các phương pháp để kiểm tra những

hành vi, sản phẩm của những cơ quan, tổ chức, cá nhân được kiểm tra, nhất là

kiểm tra các hoạt động tố tụng và thi hành án, trong đó có những hồ sơ các loại vụ

án mà bản án hoặc quyết định xử lý vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đã

15

hoặc đang hoặc sẽ thi hành án để xác định tính đúng, sai, thậm chí nếu phát hiện

có sai lầm nghiêm trọng thì phải xử lý theo pháp luật và xử lý theo quy định của

ngành Tòa án đối với người vi phạm. Cho nên hoạt động này phải được tuân theo

trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định thì mới có giá trị pháp lý về

tính căn cứ và tính hợp pháp.

- Mang tính khách quan. Hoạt động kiểm tra phải mang tính khách quan của

sự xem xét đánh giá từ phía chủ thể kiểm tra đối với chủ thể được kiểm tra; không

phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chủ thể kiểm tra hay chủ thể được kiểm tra.

Kết quả kiểm tra phải chỉ ra được đầy đủ và kịp thời những ưu điểm, những cái tốt,

những cách làm hay, những vướng mắc, hạn chế tồn tại và nguyên nhân, có biện

pháp pháp lý để khắc phục đúng thời hạn sai lầm, vi phạm nhằm phòng ngừa hoặc

ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả và đề ra các giải pháp để khắc phục hạn chế. Kết

quả kiểm tra còn phục vụ yêu cầu về công tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng.

Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ;

nếu kiểm tra nhằm chỉ tìm ra cái sai vì lý do cá nhân, bao che sai phạm của nhau

hoặc kết luận kiểm tra không khách quan do năng lực người kiểm tra hoặc do kiểm

tra sơ sài, cảm tính, do sự chống đối của chủ thể được kiểm tra, thì sẽ đi ngược lại

với mục đích yêu cầu của hoạt động này và gây ra những hệ lụy xấu cho xã hội.

- Mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Hoạt

động áp dụng pháp luật có các giai đoạn phổ biến: phân tích đánh giá bản chất vụ

việc, lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng, kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn

bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành văn bản đó. Đặc điểm của hoạt động áp

dụng pháp luật là mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, mang tính cá biệt, tính

bắt buộc thực hiện và mang tính sáng tạo, linh hoạt của chủ thể.

Các lĩnh vực hoạt động nghiệp của Tòa án chính là hoạt động áp dụng pháp

luật, nhất là các hoạt động tố tụng và thi hành án. Mỗi một hành vi hay sản phẩm

của hoạt động tố tụng và thi hành án hay trong quản lý hành chính – tư pháp cũng

đều mang tính cá biệt, tính linh hoạt và sáng tạo vì đây là các thuộc tính của hoạt

động áp dụng pháp luật.

16

Cần nhận thức rằng, tính linh hoạt và sáng tạo là nhân tố chủ quan của người

có hành vi hay sản phẩm được kiểm tra, có nền tảng từ tinh thần trách nhiệm đối với

nghề nghiệp, với công việc được giao, từ trình độ văn hóa, trình độ pháp luật, trình

độ về khoa học cơ bản, các kiến thức, kinh nghiệm, từ việc đề cao ý thức pháp luật,

niềm tin nội tâm… vì hoạt động áp dụng pháp luật không phải là khuôn mẫu cứng

nhắc. Tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể được kiểm tra hoàn toàn trái ngược với

sự thờ ơ thiếu trách nhiệm, chủ quan duy ý chí hay tùy tiện hoặc vì động cơ cá nhân

nào khác khi thực hiện các hành vi pháp lý, ban hành các sản phẩm pháp lý, mà đó

là thể hiện cao độ của sự tinh thông nghề nghiệp, sự kết hợp giữa lý luận với năng

lực thực tiễn và thể hiện cao độ trách nhiệm và bản lĩnh của mình.

Vì thế, chủ thể kiểm tra khi kiểm tra, đánh giá về mặt pháp lý từng hành vi hay

sản phẩm của chủ thể được kiểm tra cũng phải thể hiện và tôn trọng các thuộc tính

trên thì mới có thể nhận thức, đánh giá và kết luận đúng từng hành vi, sản phẩm. Khi

tôn trọng các thuộc tính này, từ đó, khi cần thiết thì chủ thể kiểm tra mới có thể có

nhận xét đánh giá mang tính chung đối với từng loại hành vi, từng loại sản phẩm.

1.2.3. Đối tượng của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

Có nhiều ý kiến cho rằng, đối tượng kiểm tra chính là những con người, cơ

quan, tổ chức, cá nhân mà chịu sự lãnh đạo, điều hành, quản lý của chủ thể kiểm tra.

Theo ý kiến này, trong hệ thống TAND thì TAND cấp trên, như TAND tỉnh thì

Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh là chủ thể kiểm tra, còn các Phó Chánh án, các

Chánh Tòa, các Thẩm phán và các công chức khác trong Tòa án tỉnh cùng tất cả các

cán bộ, công chức của các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc Tòa án nhân dân

tỉnh đều là đối tượng kiểm tra.

Ngược lại, chúng tôi cho rằng, tùy theo từng ngành, cơ quan, tổ chức, mà đối

tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật, các văn bản

dưới luật, các nội quy, quy chế, điều lệ…của các chủ thể được kiểm tra là các cá

nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, chức trách

được giao. Từ đó, đối với TAND cấp tỉnh thì Chánh án là chủ thể kiểm tra, còn đối

tượng kiểm tra chính là hoạt động tuân thủ các quy định của pháp luật nội dung,

17

pháp luật tố tụng, pháp luật chuyên ngành, pháp luật về thi hành án, pháp luật về án

phí, lệ phí, pháp luật khác có liên quan, các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật,

các nội quy, quy chế của hệ thống Tòa án, của TAND tỉnh của tất cả cán bộ, công

chức, người lao động của 2 cấp Tòa án chịu sự quản lý, chỉ đạo điều hành của

Chánh án TAND tỉnh và những người này là chủ thể được kiểm tra.

1.2.4. Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

Nguyên tắc của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ cũng chính là tư tưởng chỉ đạo

trong quá trình xây dựng pháp luật và hạ tầng pháp lý với các thuộc tính của nó,

được chủ thể kiểm tra, chủ thể được kiểm tra nhận thức, quán triệt, tôn trọng và tuân

thủ thi hành nghiêm túc; từ đó, nguyên tắc này sẽ phải được hiện thực hóa cả trong

quá trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của hệ thống Tòa án. Các nguyên tắc cơ

bản cần phải tuân thủ trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ như sau:

- Nguyên tắc xuất phát từ lợi ích chung: Khi xác định mục đích kiểm tra,

khi tiến hành kiểm tra và khi kết luận, phải xuất phát từ lợi ích chung, phải

khách quan, thực sự cầu thị, không định kiến, thiên lệch, phải đặt lợi ích của toàn

hệ thống lên trên hết.

- Nguyên tắc kịp thời và có hiệu quả: Kiểm tra phải đạt được yêu cầu phát

hiện và rút kinh nghiệm kịp thời, thường xuyên đối với vi phạm, sai sót. Khi kiểm

tra phải đánh giá được ưu điểm, hạn chế tồn tại và phải có có biện pháp phát huy ưu

điểm, khắc phục hạn chế, tồn tại, kiên quyết không cho những vi phạm, sai sót lặp

lại và phải có thái độ xử lý đúng mực đối với cá nhân hay tập thể mắc khuyết điểm.

- Nguyên tắc thủ trưởng có trách nhiệm kiểm tra: Chánh án TAND tỉnh có

trách nhiệm thực hiện sự kiểm tra trong phạm vi quản lý hệ thống Tòa án hai cấp.

Các Chánh tòa, Trưởng phòng, Chánh án cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước

Chánh án TAND tỉnh.

- Nguyên tắc mỗi cá nhân tham gia kiểm tra: Về quản lý cũng như về kiểm

tra phải huy động được sự tham gia rộng rãi của tất cả cán bộ công chức trong hệ

18

thống Tòa án hai cấp. Phải đòi hỏi cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án tỉnh

đều có trách nhiệm kiểm tra, ai làm việc gì kiểm tra việc ấy.

1.2.5. Nội dung hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh

Tòa án nhân dân kiểm tra toàn diện các hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án

trực thuộc. Cụ thể đối với Tòa án nhân dân là kiểm tra các Tòa án nhân dân cấp

huyện trực thuộc các nội dung sau:

- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án hình sự.

- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án dân sự.

- Kiểm tra việc giải quyết các vụ án hành chính.

- Kiểm tra công tác thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các

hoạt động tố tụng và hành chính – tư pháp của Tòa án cấp huyện

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ tập trung vào kiểm tra hoạt động áp dụng các

quy định cụ thể của pháp luật trong quá trình thụ lý, xét xử các vụ án hình sự, dân

sự, hành chính, thi hành án hình sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các hoạt động

tố tụng và hành chính – tư pháp của các TAND cấp dưới trực thuộc nhằm tổng kết

kinh nghiệm các hoạt động chuyên môn, phát hiện những ưu điểm để nhân rộng,

phát hiện kịp thời những vi phạm, sai lầm để khắc phục hoặc có biện pháp khắc

phục theo quy định pháp luật, nhất là hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, tái

thẩm; phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành, tham gia xây dựng

pháp luật, hướng dẫn pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử; công tác thi đua –

khen thưởng, công tác cán bộ…v…v…

1.2.6. Phương pháp kiểm tra nghiệp vụ

Phương pháp kiểm tra là các hình thức, cách thức, biện pháp, chiến thuật tác

động hợp quy luật, hợp pháp và cần thiết do chủ thể có quyền kiểm tra sử dụng đối

với các chủ thể được kiểm tra để làm sáng tỏ và kết luận đúng, đầy đủ, kịp thời đối

tượng được kiểm tra. Đây là phương pháp mang tính mệnh lệnh quyền uy để thực

hiện đúng mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của hoạt động kiểm tra. Nhận thức lý luận về

phương pháp kiểm tra để chủ thể kiểm tra sử dụng linh hoạt, kịp thời, đúng pháp

luật trong thực tiễn và chủ thể được kiểm tra chấp hành chủ thể kiểm tra; tránh biểu

19

hiện chiếu lệ, sơ sài, đối phó, trốn tránh hoặc vì động cơ cá nhân, bệnh thành

tích,…giữa hai phía chủ thể trong quan hệ kiểm tra.

1.2.7. Ý nghĩa của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

Ý nghĩa chính trị: Việc quy định và thực hiện tốt công tác kiểm tra trong hệ

thống Tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa

tập quyền dân chủ có sự phân công phân nhiệm, góp phần quan trọng vào thực thi

pháp luật xã hội chủ nghĩa, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân, củng cố lòng tin của nhân dân và đồng nghiệp đối

với Đảng, Nhà nước và hệ thống Tòa án; phục vụ các yêu cầu khác về chính trị, về

công tác cán bộ, thi đua khen thưởng, xử lý kỷ luật và tạo ra sự tác động qua lại lẫn

nhau trong quan hệ kiểm tra, quan hệ tố tụng và quản lý hành chính – tư pháp.

Ý nghĩa pháp lý: Công tác kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án là căn

cứ, cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật về hoạt động kiểm tra của chủ thể

kiểm tra với chủ thể được kiểm tra nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm và chất lượng

hoạt động của các chủ thể này trong quá trình hoạt động thực tiễn. Qua kiểm tra,

một mặt bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân,

mặt khác thông qua sửa chữa những sai lầm, vi phạm của các chủ thể được kiểm tra,

để từ đó phục vụ công tác giám đốc xét xử, tổng kết kinh nghiệm xét xử, tổng kết

hoạt động kháng nghị và xét xử theo các thủ tục tố tụng đặc biệt, tổng kết công tác

thi hành án, tổng kết kinh nghiệm công tác kiểm tra nhằm ngày càng hoàn thiện hệ

thống pháp luật và hoàn thiện các quy định về hoạt động kiểm tra. Công tác kiểm

tra chống lại tư tưởng chủ quan ỷ lại của những chủ thể có quyền kiểm tra và chủ

thể được kiểm tra trong quan hệ quản lý điều hành, chống lại những vi phạm, tiêu

cực trong quan hệ tố tụng, quan hệ hành chính – tư pháp. Công tác kiểm tra còn có

một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác là làm cơ sở để ghi nhận cũng như đảm bảo

thực hiện tốt các nguyên tắc, thủ tục của các luật tố tụng, thực hiện tốt các luật nội

dung, luật chuyên ngành, các văn bản hướng dẫn không chỉ trong hệ thống Tòa án

mà còn tác động tích cực đến cả các cơ quan và người tiến hành tố tụng, người tham

gia tố tụng để góp phần giải quyết đúng đắn, kịp thời các vụ án, các loại vụ việc

20

nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức và công dân, góp phần tạo môi trường pháp lý đúng nghĩa trong nội bộ cơ

quan Tòa án và mối quan hệ phối hợp và chế ước trong các loại quan hệ pháp luật tố

tụng giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Ý nghĩa xã hội: Công tác kiểm tra nghiệp vụ góp phần đảm bảo công bằng

xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động thụ lý, giải quyết, xét xử và

thi hành án của Tòa án, nhằm đảm bảo uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung và cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp là Tòa án nói riêng. Việc đảm

bảo pháp luật được thực thi, giải thích và áp dụng thống nhất là điều kiện quan

trọng để hành vi của mọi công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật

thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực

hiện một xã hội công bằng, dân chủ văn minh; đảm bảo được các quyền cơ bản

của công dân, nhất là trong lĩnh vực hình sự không để xảy ra các trường hợp oan

sai hay bỏ lọt tội phạm.

1.2.8. Các yếu tố tác động đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án

nhân dân tỉnh

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tỉnh chịu sự tác động của

các yếu tố sau:

- Các qui định của pháp luật về kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án

nhân dân.

Hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm tra nghiệp vụ chưa

được quy định riêng biệt, cụ thể, rõ ràng; mới chỉ quy định trong chức năng, nhiệm

vụ của Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả

của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ. Pháp luật cần qui định đầy đủ, cụ thể để tạo

thuận lợi cho Tòa án nhân dân tỉnh thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ.

- Nhận thức của các chủ thể có trách nhiệm đối với hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ.

Các chủ thể có trách nhiệm đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nếu nhận

thức được đúng đắn vai trò của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ đối với việc thực hiện

21

nhiệm vụ của Tòa án sẽ quan tâm và tích cực thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp

vụ. Hiện nay, một số thủ trưởng đơn vị được phân công là thành viên có thẩm

quyền nhưng chưa chú trọng đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ; hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ còn mang tính hình thức.

- Năng lực của đội ngũ công chức thực hiện hoạt động kiểm tra nghiệp vụ.

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ đòi hỏi công chức thực hiện hoạt động kiểm

tra phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm và có những kỹ năng

cần thiết. Nếu công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ nhưng chưa đáp

ứng được yêu cầu, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sẽ không phát hiện được vi

phạm trong quá trình kiểm tra, dẫn đến sai phạm không được xử lý, mục đích của

kiểm tra không đạt được.

1.3. Những vấn đề lý luận về thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh

1.3.1. Khái niệm thi hành án

Theo từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê (nhà xuất bản Khoa học xã

hội, Hà Nội, 1988) thì "thi hành" có nghĩa là làm cho thành hiện thực điều đã được

chính thức quyết định [14, tr.903]. Theo Từ điển tiếng Việt của tác giả Phan Canh

(nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1997) thì thuật ngữ “thi hành”, được hiểu là đưa ra làm

thực sự, và thuật ngữ “án” được giải thích là: Lời phán quyết của Thẩm phán/Lời

phán quyết của công chúng [7, tr.1217].

Thời gian qua Nhà nước ta đã từng bước kiện toàn pháp luật về thi hành các

loại án và mô hình tổ chức thi hành các loại án, nhưng đến nay hoạt động thi hành

án vẫn được quy định trong nhiều ngành luật như: LTCTAND năm 2014, BLTTHS

năm 2015, BLTTDS năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Thi hành

án hình sự năm 2010, Luật Đặc xá năm 2007, Luật Thi hành án dân sự năm 2014 và

nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn; trong khi mỗi một lĩnh vực thi hành án thì lại

khác nhau cơ bản như về tính chất, đặc điểm, trình tự thủ tục, về chủ thể thi hành

án, chủ thể chấp hành án,…và pháp luật nước ta có quy định về thi hành bản án,

quyết định của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa

22

án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Vì thế, thời gian qua có nhiều

quan điểm khác nhau về hoạt động thi hành án.

Có ý kiến cho rằng thi hành án là hoạt động tư pháp, là một giai đoạn tố tụng

độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa

trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá

trình tố tụng, cho nên hoạt động này chịu sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân

theo quy định của pháp luật. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, hoạt động thi hành án

vừa mang tính chất hoạt động hành chính, vừa mang tính chất hoạt động tư pháp vì

hoạt động thi hành án là thi hành các bản án, quyết định giải quyết các loại vụ án,

vụ việc của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và được quy định cả trong Luật Tố chức

Tòa án nhân dân, trong các luật tố tụng, luật chuyên ngành nên là hoạt động tư

pháp, nhưng hệ thống tổ chức của các cơ quan thi hành án lại thuộc cơ quan hành

pháp. Một số ít ý kiến cho rằng hoạt động thi hành án là hoạt động hành chính vì do

cơ quan hành pháp thực hiện, còn hoạt động tư pháp đã chấm dứt kể từ khi bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp bản án, quyết định đó bị

kháng nghị một phần hoặc toàn bộ theo các thủ tục tố tụng đặc biệt, thì sẽ được giải

quyết theo quy định của pháp luật tố tụng. Các ý kiến trên chúng tôi thấy đều có lý.

Việc đưa ra khái niệm thi hành án chỉ là khiên cưỡng, cho dù tôi đồng tình cao với

quan điểm thứ hai, bởi vì:

Về bản chất, thi hành án không phải là một giai đoạn tố tụng nên mang tính

tư pháp, mà là một giai đoạn mang tính hành chính-tư pháp. Bởi thi hành án có mục

đích khác với mục đích của tố tụng. Tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các loại

vụ án, các loại việc đã diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết các vụ án, các

việc theo đúng các quy định của pháp luật, cho nên quá trình tố tụng diễn ra theo

quy trình hết sức chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của nó, đến khi có

phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quá trình tố tụng kết thúc, trừ

trường hợp do bị kháng nghị và xét xử theo thủ tục tố tụng đặc biệt. Còn thi hành án

là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của

23

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong hoạt động thi

hành án là tổ chức thi hành, có tính hành chính, mệnh lệnh.

Tính hành chính thể hiện ở chỗ, thi hành án là dạng hoạt động chấp hành,

quản lý. Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở

các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn

bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều

nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của

Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. Là dạng hoạt động quản lý vì thi

hành án là sự tác động của pháp luật, của các cơ quan thi hành án tới chủ thể phải

thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành

nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các

quy định của pháp luật; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của

cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người hoàn lương có ích cho xã hội.

Không thể chỉ dựa vào tính tư pháp trong thi hành án để cho rằng bản chất của

thi hành án là giai đoạn tiếp theo của tố tụng nên là hoạt động tư pháp. Tính tư pháp

thể hiện ở chỗ, căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của Tòa án và có sự

tham gia của các cơ quan vào quá trình thi hành án. Tính tư pháp trong thi hành án là

tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm

TAND, VKSND, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án. Nhưng về mặt lý luận thì

nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và

phán quyết về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các hành vi, quyết định của các

chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước, của các tổ chức xã hội và công dân; chỉ có

Tòa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất có quyền phán quyết.

Tính hành chính - tư pháp thể hiện trong quy định pháp luật về tổ chức và

hoạt động thi hành án bằng việc xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức, quản

lý, chỉ đạo công tác thi hành án thuộc cơ quan hành pháp các cấp; quy định những

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án và các chủ thể này có tính

độc lập tương đối, hoạt động theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước.

Đặc điểm mỗi loại hình thi hành án cũng như mỗi nhóm vụ, việc trong từng loại

24

hình thi hành án sẽ quy định mức độ của các tính này nhưng thường thì tính hành

chính cao hơn.

Về khái niệm thi hành án, căn cứ vào nội dung, chúng ta có thể phân chia thi

hành án thành ba loại hình cơ bản: Thi hành án hình sự, dân sự (theo nghĩa rộng) và

hành chính. Tuy nhiên đến nay chưa có định nghĩa tổng quát chung về thi hành án,

và trong các luật về thi hành án cùng các văn bản liên quan cũng không có định

nghĩa về thi hành án. Chúng tôi có thể đưa ra khái niệm như sau: Thi hành án là

việc đưa các bản án, quyết định giải quyết các loại vụ án, các loại việc của Tòa án

có hiệu lực pháp luật có đủ các điều kiện thi hành ra thi hành và giải quyết các vấn

đề liên quan theo quy định của pháp luật. Như vậy đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thi

hành án là việc Tòa án nhân dân tỉnh đưa các bản án, quyết định giải quyết các loại

vụ án, các loại việc của Tòa án có hiệu lực pháp luật có đủ các điều kiện thi hành

ra thi hành và giải quyết các vấn đề liên quan theo quy định của pháp luật.

Thi hành án gồm thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án

hành chính.

- Thi hành án hình sự: là hoạt động thực hiện các bản án, quyết định về hình

sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được

thi hành ngay. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự phải thực

hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng các quy định của pháp luật.

- Thi hành án dân sự: là hoạt động của các chủ thể trong việc thi hành các

bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự,

hành chính và các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nước ngoài

được Tòa án Việt Nam công nhận cho thi hành và các quyết định khác theo quy

định của pháp luật.

- Thi hành án hành chính: là tổng thể các hoạt động nhằm đảm bảo mọi bản

án, quyết định giải quyết vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật của Tòa án có đủ

điều kiện thi hành phải được đưa ra thi hành nghiêm chỉnh.

25

1.3.2. Đặc điểm của thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh

Với biểu hiện của hoạt động áp dụng pháp luật, cho nên hoạt động thi hành

án của Tòa án nhân dân tỉnh có những đặc điểm cơ bản sau:

- Tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, tính định hướng. Vì hoạt động thi

hành án (hình sự, dân sự, hành chính) được Hiến pháp và pháp luật quy định nhằm

bảo đảm các bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và

đủ điều kiện thi hành, những bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành

ngay phải được đưa ra thi hành đúng pháp luật nhằm bảo đảm quyền tư pháp của

Nhà nước, bảo vệ các lợi ích và các giá trị xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,

củng cố địa vị và uy tín của Nhà nước và các cơ quan tư pháp, bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ pháp luật thi hành án.

- Là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể có thẩm quyền. Cơ quan, người

có thẩm quyền thi hành án phải xác định việc tuân thủ các quy định của pháp luật

trong quá trình tiến hành các hoạt động về thi hành án là quyền và nghĩa vụ pháp lý

của mình. Quyền và nghĩa vụ pháp lý là 2 mặt của một vấn đề. Nhận thức đúng về

thuộc tính này đòi hỏi sự thể hiện mọi hành vi và quyết định của các chủ thể này

đều phải được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

- Phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Vì thi

hành án là một hoạt động thể hiện tính quyền lực Nhà nước, đánh giá tính hiệu quả

của các hoạt động tố tụng, chức năng xét xử và quyền tư pháp của Nhà nước, được

trao cho hệ thống Tòa án; là hoạt động có định hướng của Nhà nước thông qua các

chủ thể có thẩm quyền và thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật,

cho nên, hoạt động thi hành án sẽ hợp pháp chỉ khi nào tuân theo đúng trình tự, thủ

tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định. Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi

hành án đều được pháp luật điều chỉnh.

- Làm phát sinh các quan hệ pháp luật. Trong hoạt động thi hành án, một vụ

việc được đưa ra thi hành sẽ phát sinh các quan hệ pháp luật. Chẳng hạn, Chánh án

Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt tù đối với người bị bản án của

Tòa án kết án là hình phạt tù có hiệu lực pháp luật, thì sẽ phát sinh những quan hệ

26

pháp luật sau: Quan hệ pháp luật giữa Tòa án ra quyết định thi hành án với người bị

kết án (về chấp hành quyết định thi hành án, khiếu nại quyết định thi hành án, xét

giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá, đề nghị hoãn thi hành án, đề nghị tạm

đình chỉ thi hành án.…); quan hệ pháp luật giữa Tòa án với cơ quan thi hành án

hình sự để thực hiện quyết định thi hành án; giữa VKS với Tòa án, VKS với nơi

người bị kết án chấp hành án (để kiểm sát hoạt động thi hành án)…v..v…Hay khi

người được thi hành án dân sự có đơn yêu cầu thi hành án, được Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, thì sẽ phát sinh quan hệ pháp

luật giữa người được thi hành án, người phải thi hành án với Chấp hành viên, với

Thủ trưởng cơ quan thi hành án; giữa người được thi hành án với người phải thi

hành án; giữa chủ thể thi hành án với những cơ quan có liên quan trong quá trình thi

hành án. Hoặc khi hết thời hạn tự nguyện thi hành bản án, quyết định giải quyết vụ

án hành chính của Tòa án mà người phải thi hành án chưa thi hành án, thì người

được thi hành án làm đơn yêu cầu buộc thi hành án, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ

thẩm sẽ ra quyết định buộc thi hành án khi có đủ điều kiện nên lúc đó sẽ phát sinh

các quan hệ pháp luật trong quá trình thi hành án.

1.3.3. Đối tượng của thi hành án

Việc xác định đúng đối tượng thi hành án của từng loại án nhằm để thực hiện

đúng các quy định của pháp luật thi hành án hình sự, dân sự, hành chính. Đối tượng

thi hành án được quy định trong BLHS 2015, BLTTHS 2015, Luật tố tụng hành

chính năm 2015, Luật thi hành án hình sự năm 2010, Luật thi hành án dân sự năm

2014. Nếu xác định không đúng đối tượng thì thông thường sẽ gây ra hệ lụy, thậm

chí rất nghiêm trọng đối với xã hội.

Đối tượng của thi hành án tại Tòa án là những bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật, gồm:

- Bản án hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.

- Bản án dân sự sơ thẩm, phúc thẩm.

- Bản án hôn nhân nhân và gia đình sơ thẩm, phúc thẩm.

- Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm, phúc thẩm

27

- Bản án hành chính sơ thẩm, phúc thẩm.

- Bản án lao động sơ thẩm, phúc thẩm.

- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.

- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (các loại án).

- Quyết định tuyên bố phá sản.

Ngoài những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là đối tượng thi hành

án tại Tòa án thì còn có trường hợp bản án, quyết định chưa có hiệu luật pháp luật

vẫn phải thi hành, được quy định tại Điều 363 BLTTHS 2015: "Trường hợp bị cáo

đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ giải quyết vụ án,

tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo,

hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi

thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết

định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo kháng nghị".

1.3.4. Nguyên tắc thi hành án

Xuất phát từ nguyên tắc hiến định bảo đảm mọi bản án, quyết định của Tòa

án có hiệu lực pháp luật đưa ra thi hành phải được thi hành. Nguyên tắc trong lĩnh

vực thi hành án theo nghĩa rộng là tư tưởng chỉ đạo thể hiện trong việc xây dựng và

thi hành các quy định của pháp luật về thi hành án các loại án, các loại vụ việc theo

pháp luật Việt Nam kết hợp với pháp luật quốc tế với các hình thức biểu hiện khác

nhau mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận mà chưa được nội luật hóa.

Về nguyên tắc này, tại Điều 4 Luật Thi hành án hình sự quy định hoạt động thi

hành án hình sự phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành

phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Bảo đảm

nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người

chấp hành án. Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện

pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính,

trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án. Thi hành án

28

đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,

phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội. Khuyến khích người chấp

hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt

hại. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong

hoạt động thi hành án hình sự. Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và

gia đình vào việc giáo dục cải tạo người chấp hành án.

Khác với thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm

2014 không có quy phạm nào quy định cụ thể về nguyên tắc trong thi hành án mà

quy định rải rác trong Luật này. Nghiên cứu tại Chương I – Những quy định chung,

chúng tôi có thể nêu ra một số quy định mang tính nguyên tắc sau đây: Bảo đảm

hiệu lực của bản án, quyết định: Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật

này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ

chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản

án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án. Thỏa

thuận thi hành án: Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nếu thỏa

thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Kết quả

thi hành án theo thỏa thuận được công nhận. Theo yêu cầu của đương sự, Chấp

hành viên có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án. Trường hợp

đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành

án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết

định. Tự nguyện và cưỡng chế thi hành án: Nhà nước khuyến khích đương sự tự

nguyện thi hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự

nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này. Trách

nhiệm bồi thường thiệt hại: Cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm quy định của Luật

này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Do tính chất của quan hệ pháp luật hành chính, tài phán hành chính giai đoạn

tiền tố tụng, quyền tư pháp của Tòa án trong việc phán xét hành vi, quyết định của

cơ quan, cá nhân nhân danh quyền hành pháp là một vấn đề Nhà nước ta ngày càng

quan tâm hoàn thiện để có thể đáp ứng đòi hỏi của xã hội, nên chưa luật hóa được

29

thành luật hành chính và luật thi hành án hành chính, mà hoạt động thi hành án hành

chính chỉ quy định trong Luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên, vấn đề thi hành mọi

bản án, quyết định của Tòa án đã là nguyên tắc, cho nên tại Chương XIX của Luật

tố tụng hành chính có chứa đựng nguyên tắc tự nguyện, nguyên tắc mệnh lệnh.

1.3.5. Nội dung hoạt động thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh

- Trong lĩnh vực thi hành án hình sự:

Về thi hành án hình sự, có quan điểm cho rằng không phải là một công tác

chủ yếu của Toà án mà đó chỉ là những việc liên quan đến Toà án; có quan điểm

cho rằng đây là việc chung của nhiều cơ quan chứ không phải của riêng Toà án; có

quan điểm cho rằng hoạt động này là một trong những công tác chủ yếu của Toà án.

Chúng tôi đồng tình quan điểm thứ ba, cho dù thực tiễn hiện nay một bản án, quyết

định giải quyết vụ án hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành, nhất là trong trường

hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại hình phạt được áp dụng

hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ sung.

Theo quy định của pháp luật thì Toà án nhân dân tỉnh có thẩm quyền thực

hiện các hoạt động sau đây về thi hành án hình sự: Ra quyết định thi hành án hình

sự; quyết định uỷ thác thi hành án hình sự. Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi

hành án phạt tù. Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù; quyết định miễn

chấp hành hình phạt tù. Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo. Quyết

định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích. Theo dõi việc đưa người bị

phạt tù giam vào trại giam để thi hành án; theo dõi việc thi hành án của những

người bị kết án mà Toà án đã giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án

cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án làm việc. Xem xét việc miễn, giảm

thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí. Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình.

Tham gia giúp Hội đồng đặc xá trung ương thực hiện việc đặc xá.

- Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:

Luật thi hành án dân sự năm 2014 tại Điều 170 quy định về nhiệm vụ, quyền

hạn của 4 cấp Tòa án. Theo đó, khoản 3 Điều này quy định TAND cấp tỉnh có

nhiệm vụ, quyền hạn chuyển giao bản án, quyết định, tài liệu và vật chứng có liên

30

quan cho cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của Luật này; Xem xét, quyết

định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà

nước; giải quyết kháng nghị về quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với

khoản thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định của Luật này; Thụ lý và kịp thời

giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền

sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài

sản; hủy giấy tờ, giao dịch phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền

của Tòa án; Giải quyết kiến nghị, yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và theo

dõi kết quả xử lý sau khi Tòa án trả lời. Khoản 4 Điều này quy định, khi xét xử lại

vụ án mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám

đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành

theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy.

- Trong lĩnh vực thi hành án hành chính:

Luật tố tụng hành chính năm 2015 tại Điều 10 quy định nghĩa vụ của Tòa án

về việc giải thích bản án, quyết định của Tòa án. Tại Điều 311 và Điều 312 quy

định Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định buộc thi hành án đối với người

phải thi hành án, theo đơn yêu cầu của người được thi hành án.

- Giải quyết khiếu nại về thi hành án:

Trong quá trình thi hành án nếu phát sinh các khiếu nại, Tòa án nhân dân tỉnh

có trách nhiệm giải quyết các khiếu nại thuộc thẩm quyền theo phân cấp.

1.3.6. Phương pháp thi hành án

Phương pháp thi hành án là cách thức, biện pháp, thủ thuật, chiến thuật và

những yếu tố có liên quan được sử dụng nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Mỗi một

loại hình thi hành án dù có phương pháp giống nhau, nhưng tùy theo đặc điểm của

từng loại hình mà pháp luật về thi hành án quy định phương pháp khác nhau. Trong

các lĩnh vực thi hành án, phương pháp mệnh lệnh quyền uy là phương pháp được áp

dụng chung, nhưng phương pháp này thể hiện rõ nhất trong pháp luật về thi hành án

hình sự; còn pháp luật về thi hành án dân sự thì có sử dụng các phương pháp khác

như: tự nguyện thi hành án, tự thỏa thuận thi hành án, không yêu cầu thi hành án,

31

thi hành án theo đơn yêu cầu; thi hành án hành chính có sử dụng phương pháp tự

nguyện thi hành án.

1.3.7. Ý nghĩa của thi hành án

Xuất phát từ một nguyên tắc hiến định ghi nhận tại Điều 106 Hiến pháp 2013

của nước ta “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải

được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải

nghiêm chỉnh chấp hành”. Vậy nên họat động thi hành án nói chung có ý nghĩa vô

cùng quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án bởi vì bản án, quyết định

chỉ có ý nghĩa khi bản án đó được thi hành trên thực tiễn, khi đó quyền và lợi ích

hợp pháp của Nhà nước, của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng cũng

được bảo vệ một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh

của xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ta có thể hiểu thi hành án là việc

tổ chức thi hành các bản ản, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của các

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Từ ý nghĩa trên đã bác bỏ ý kiến về việc xem

nhẹ hoạt động thi hành án; ngược lại, cần phải nhận thức đây là một hoạt động

mang ý nghĩa rất to lớn khi xét về quan hệ chính trị - pháp lý – tư tưởng – quyền tư

pháp của Nhà nước trong xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền và trong quan hệ

đối ngoại.

1.3.8. Các yếu tố tác động đến hoạt động thi hành án của Tòa án

nhân dân tỉnh

Hoạt động thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh chịu sự tác động của các yếu

tố sau:

- Pháp luật về thi hành án.

Để hoạt động thi hành án thực hiện có hiệu quả, cần phải có các qui định của

pháp luật về thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính đầy

đủ, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi. Hiện nay vẫn còn tình trạng chồng chéo

giữa các văn bản pháp luật là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt

động thi hành án.

32

- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong hoạt động thi hành án.

Đây là yếu tố quan trọng, chi phối trực tiếp đến hoạt động thi hành án. Hoạt

động thi hành án dù là thi hành án hình sự, dân sự hay hành chính đòi hỏi sự phối

hợp của rất nhiều cơ quan, đơn vị. Nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

quan, đơn vị tham gia thì hành án thì dù Tòa án nhân dân tỉnh có làm tốt đến đâu

hoạt động thi hành án cũng không đạt hiệu quả cao.

- Năng lực của đội ngũ công chức làm công tác thi hành án.

Muốn thực hiện tốt hoạt động thi hành án, đội ngũ công chức làm công tác

thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh cần phải có trình độ chuyên môn, có các kỹ

năng cần thiết về thi hành án. Hiện nay biên chế cho công chức tiến hành hoạt động

thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh còn mỏng chưa đáp ứng được yêu cầu của

nhiệm vụ thi hành án.

Tiểu kết chương 1

Chương 1 Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án tỉnh với khái niệm, đối tượng, nguyên tắc, nội

dung, phương pháp, ý nghĩa, yếu tố tác động đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án.

Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án là nhiệm vụ thường xuyên của hệ thống

Tòa án nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, về tổ chức bộ máy

của công tác kiểm tra nghiệp vụ và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ vẫn chưa được

luật hóa, cho đến nay mới chỉ đạt ở mức quy định tại văn bản dưới luật của Tòa án

nhân dân tối cao. Công tác thi hành án hình sự là nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án,

nhưng hoạt động thi hành án các loại án, các loại việc nhiều năm qua có nhiều quan

điểm khác nhau nên ảnh hưởng đến tính thống nhất của hệ thống pháp luật về mô

hình tổ chức thi hành án, và điều này lý giải vì sao công tác thi hành án hình sự lại

được quy định ở nhiều ngành luật, nhiều cơ quan chịu trách nhiệm thi hành. Thi

hành án dân sự thì Tòa án chỉ có nhiệm vụ giải thích các bản án, quyết định và phối

hợp với các cơ quan liên quan. Thi hành án hành chính lại chỉ quy định trong Luật

Tố tụng hành chính với nhiều bất cập trước yêu cầu thực tiễn.

33

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ

VÀ THI HÀNH ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Khái quát chung về Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

2.1.1. Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm: Tòa

án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, là cơ quan xét xử của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở các qui

định nêu trên, các đạo luật về tổ chức TAND các năm 1960, 1981, 1992, 2002 và

2014 đều khẳng định chức năng xét xử của cơ quan Tòa án. Xuất phát từ địa vị pháp

lý của Tòa án, trên cơ sở các qui định của pháp luật, nhất là các qui định của các

đạo luật về tổ chức Tòa án và các đạo luật về tố tụng, chúng ta có thể nhận thấy

rằng, chức năng xét xử của Tòa án là chức năng xuyên suốt, thống nhất trong suốt

quá trình ra đời và phát triển của Tòa án. Tuy nhiên, về phạm vi chức năng xét xử

của Tòa án thì có những thay đổi theo hướng tăng hơn về phạm vi các loại việc

được giao cho Tòa án xét xử. Ban đầu, các TAND, trong đó có TAND cấp huyện có

thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, dân sự (hiểu với nghĩa là các vụ án về dân

sự liên quan đến tranh chấp về tài sản và những tranh chấp về nhân thân phi tài sản,

các vụ án về hôn nhân gia đình). Sau đó, trên cơ sở các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết

các vụ án về kinh tế (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án về lao

động (năm 1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (năm 1996),

Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993) và sau đó là Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS)

năm 2004 và Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015, các Tòa án được giao thêm

có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế (từ khi có Bộ luật TTDS 2004 thì gọi là vụ

án kinh doanh, thương mại), lao động, hành chính và giải quyết đơn yêu cầu tuyên

bố phá sản doanh nghiệp (đối với Tòa án cấp tỉnh). Như vậy, với tư cách là một

trong các cấp của hệ thống Tòa án, TAND tỉnh Quảng Ngãi có chức năng xét xử các

vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính thuộc thẩm

quyền theo qui định của pháp luật.

34

Bên cạnh chức năng xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền, theo qui định của

pháp luật tố tụng, TAND tỉnh Quảng Ngãi còn có trách nhiệm trong một số hoạt

động thi hành án hình sự, hành chính và nhiệm vụ này được phân công cho Phòng

Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Cụ thể như việc ra quyết định thi hành án hình

sự, hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm hình phạt hoặc thời gian

thử thách của án treo, xét miễn chấp hành hình phạt, ra quyết định thi hành án và

thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình. Điểm mới theo Luật Tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2014 là thêm chức năng kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương, khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của

luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án

nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị. Công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

hình sự luôn được quan tâm chỉ đạo kịp thời, hàng năm đều tiến hành kiểm tra công

tác xét xử, giải quyết các loại án của 14 đơn vị Toà án các huyện, thành phố với

hàng ngàn vụ án các loại. Qua kiểm tra đã chỉ đạo kịp thời khắc phục những sai sót

trong công tác xét xử, giúp Toà án cấp huyện nâng cao chất lượng xét xử và giải

quyết các loại án bảo đảm đúng pháp luật.

2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được giao số lượng 47 biên chế, tuy

nhiên số biên chế thực hiện là 45, còn thiếu 02 biên chế. Thẩm phán trung cấp được

giao là 10 biên chế, đã thực hiện 08 biên chế, hiện còn thiếu 02.

- Lãnh đạo gồm có 01 Chánh án và 02 Phó Chánh án, hầu hết đều có trình độ

chuyên môn cử nhân Luật trở lên và cao cấp lý luận chính trị.

- Ban cán sự đảng có 04 đồng chí, gồm 03 lãnh đạo và 01 đồng chí Chánh tòa

Tòa Hình sự.

- Ủy ban thẩm phán có 05 đồng chí, gồm 03 lãnh đạo, 01 đồng chí Chánh tòa

Tòa Hình sự và 01 đồng chí Chánh tòa Tòa Hành chính.

- Tổ chức bộ máy Tòa chuyên trách và cấp phòng trực thuộc: TAND tỉnh

Quảng Ngãi có 05 Tòa chuyên trách và các phòng trực thuộc, cụ thể:

35

+ Tòa Hình sự có 07 biên chế, 01 Chánh Tòa, 01 Phó Chánh tòa.

+ Tòa Dân sự có 07 biên chế, 01 Phó Chánh tòa.

+ Tòa Hành chính có 05 biên chế, 01 Chánh tòa.

+ Tòa Kinh tế có 03 biên chế, 01 Chánh tòa.

+ Tòa Lao động có 02 biên chế, 01 Chánh tòa.

+ Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và THA có 05 biên chế, 01 Phó Trưởng phòng.

+ Phòng TCCB, thanh tra và TĐKT có 03 biên chế, 02 Phó trưởng phòng.

+ Văn phòng có 11 biên chế, 01 Chánh văn phòng và 01 Phó văn phòng.

Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án là đơn vị tham mưu cho Chánh án

trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi.

2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi

Theo LTCTAND năm 2014 có hiệu lực từ 1/6/2015 thì hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án có thay đổi là việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các

bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng

Ngãi (kể cả của Tòa án tỉnh Quảng Ngãi) sẽ thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án

cấp cao, Viện trưởng VKS cấp cao tại Đà Nẵng; còn Chánh án TAND tỉnh chỉ có

trách nhiệm báo cáo đề nghị kháng nghị. Qua kiểm tra, nếu phát hiện những bản án,

quyết định của các Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình

tiết mới, thì Phòng sẽ tham mưu cho Chánh án báo cáo đề nghị kháng nghị. Vì vậy

hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi từ

năm 2013 đến 2017, tác giả chia thành 2 giai đoạn:

2.2.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi từ 01/01/2013 đến 31/5/2015

2.2.1.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

Từ 01/01/2013 đến 31/5/2015, đã tiến hành kiểm tra thường kỳ toàn diện các

lĩnh vực thụ lý, giải quyết án, thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với 14

Tòa án nhân dân cấp huyện (13 huyện, 1 thành phố) trực thuộc Tòa án nhân dân

36

tỉnh 29 lần (mỗi đơn vị 1 lần/1năm công tác; riêng TAND thành phố Quảng Ngãi

kiểm tra 2 lần/năm). Để thực hiện kiểm tra định kỳ này, trước khi kiểm tra, Phòng

Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã tham mưu Chánh án tỉnh ban hành văn bản

thông báo về thời điểm lấy số liệu kiểm tra và nội dung, phạm vi kiểm tra, để đơn vị

được kiểm tra bố trí thời gian, nhân sự, chuẩn bị hồ sơ tài liệu cung cấp cho Đoàn

kiểm tra vào ngày tháng năm cụ thể theo thời gian quy định trong văn bản thông

báo. Tiếp đó, Tòa án nhân dân tỉnh sẽ cung cấp phương tiện xe ô tô cho Phòng và

Phòng cử cán bộ đến đơn vị được kiểm tra để nhận toàn bộ hồ sơ tài liệu kiểm tra về

Phòng, rồi phân công từng cán bộ của Phòng kiểm tra từng lĩnh vực.

Về quy trình kiểm tra thường kỳ: Sau khi từng công chức được phân công

kiểm tra từng loại công việc và đã làm xong, thì đồng chí Trường Phòng sẽ yêu cầu

từng đồng chí báo cáo kết quả kiểm tra ra tập thể. Từng đồng chí sẽ báo cáo kết quả

kiểm tra của mình (hầu hết là bản viết tay) để thư ký cuộc họp và các thành phần

tham dự ghi vào sổ, rồi tập thể Phòng bàn bạc trao đổi về những vi phạm, sai sót,

nhất là những vấn đề trọng yếu, sau đó thống nhất để trình ra Ủy ban Thẩm phán;

nếu có vấn đề có ý kiến khác nhau, thì từng đồng chí sẽ bảo lưu ý kiến khi báo cáo

ra Ủy ban Thẩm phán để chỉ đạo.

Sau khi Phòng thông qua kết quả kiểm tra và đăng ký báo cáo ra Ủy ban Thẩm

phán, thì đồng chí Trưởng Phòng cùng một đồng chí làm thư ký sẽ báo cáo kết quả

kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán (Ủy ban Thẩm phán gồm 3 đồng chí lãnh đạo và 2

Chánh tòa Tòa chuyên trách). Khi Phòng báo cáo kết quả kiểm tra, thì các đồng chí

lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh và các đồng chí ủy viên Ủy ban Thẩm phán nghe, ghi

chép, nếu có điều gì chưa rõ thì yêu cầu báo cáo kỹ hoặc yêu cầu Phòng cung cấp hồ

sơ tài liệu để xem xét, chứ Phòng không trình tài liệu về kết quả kiểm tra.

Sau khi Ủy ban Thẩm phán cho ý kiến chỉ đạo, thì lãnh đạo Phòng phân công

một đồng chí soạn thảo Kết luận kiểm tra để trình đồng chí Chánh án ký ban hành.

Phương thức kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm của các Tòa án cấp huyện,

là: Người được phân công kiểm tra qua kiểm tra nếu phát hiện vi phạm thiếu sót

nhỏ thì thông báo cho Thẩm phán biết để đính chính đúng quy định pháp luật và tập

37

hợp vi phạm để thông báo rút kinh nghiệm chung trong Hội nghị tổng kết công tác

xét xử hàng năm; nếu phát hiện vi phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải kháng nghị

giám đốc thẩm (nếu bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật) thì tham mưu

Chánh án xem xét. Việc kiểm tra các bản án, quyết định chưa được lập phiếu kiểm

tra để làm căn cứ đã kiểm tra và xác định trách nhiệm của người kiểm tra cũng như

làm cơ sở khắc phục vi phạm qua kiểm tra.

Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã tham mưu Chánh án ban hành

29 kết luận kiểm tra toàn diện và thường kỳ đối với các Tòa án cấp huyện với số

lượng các loại vụ án, vụ việc đã kiểm tra là 5.120 hồ sơ; 1.417 hồ sơ thi hành án

hình sự; 51 hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; 168 hồ sơ xét rút ngắn

thời gian thử thách án treo và xét rút ngắn thời gian thử thách hình phạt cải tạo

không giam giữ. Kết quả kiểm tra như sau:

- Trong giải quyết vụ án hình sự:

Nhiều trường hợp vi phạm về thời hạn ra Lệnh tạm giam theo hướng dẫn tại

Điểm a Tiểu mục 2.2 Mục 2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi thụ lý vụ án. Một số vụ án chậm

ra quyết định phân công Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký tiến hành tố tụng. Nhiều

vụ án Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,

nhưng sau khi Tòa án nhận lại hồ sơ, lại không ra quyết định phân công những

người tiến hành tố tụng là không đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS. Một số vụ

án, Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa nhưng biên bản phiên tòa không

thể hiện lý do hoãn hoặc ghi không đúng lý do hoãn. Biên bản phiên tòa ghi Hội

đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận hoãn phiên tòa và có vụ hoãn phiên tòa

nhưng lại lập biên bản thảo luận, là không đúng khoản 3 Điều 199 BLTTHS. Có vụ

án, ngày xét xử Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa được, nhưng Hội đồng xét

xử không ra quyết định hoãn phiên tòa mà Thẩm phán chủ tọa lại ra quyết định

hoãn, có vụ Thẩm phán lại ra Thông báo hoãn phiên tòa, có vụ không có Quyết định

hoãn phiên tòa là không đúng quy định tại điều 194 BLTTHS. Có vụ, biên bản

phiên tòa ghi không đúng thời gian mà phiên tòa tiến hành xét xử. Nhiều biên bản

38

nghị án không thảo luận xem xét tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án,

ghi quyền kháng cáo chung chung. Có vụ không có Cáo trạng, không có biên bản

giao nhận hồ sơ vụ án, không có quyết định phân công Kiểm sát viên tham gia

phiên tòa; có vụ không có quyết định phân công Kiểm sát viên kiểm sát điều tra

nhưng Kiểm sát viên đó tiến hành hỏi cung bị can; có trường hợp sau khi phạm tội,

các đối tượng bỏ trốn, Công an truy bắt, hôm sau bắt được nhưng lại lập biên bản

bắt người phạm tội quả tang – là không đủ tài liệu, không đúng thủ tục, không đảm

bảo các thuộc tính của chứng cứ. Nhiều bản án sơ thẩm xác định không đúng tư

cách người tham gia tố tụng, như: Bị hại nhưng ghi là nạn nhân, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan nhưng ghi là bị hại.

Nhiều trường hợp trong quyết định đưa vụ án ra xét xử ghi ngày xét xử quá

15 ngày kể từ ngày ban hành quyết định; Nhiều vụ án sau khi Tòa án nhận lại hồ sơ

điều tra bổ sung để quá thời hạn 15 ngày mới đưa vụ án ra xét xử, là vi phạm khoản

2 Điều 176 BLTTHS.

Nhiều vụ án giao thông bị hại chết, mặc dù các gia đình bị hại đều có đơn xin

giảm nhẹ hình phạt nhưng lại được áp dụng khoản 2 Điều 46, là không đúng với

Nghị quyết số 01/2000/HĐTP TANDTC. Có trường hợp xác định bị cáo có tiền án;

tiền sự nhưng biên bản phiên tòa, bản án không ghi cụ thể ngày tháng năm bị xử lý

hành chính hoặc bị kết án để xác định có tiền sự hoặc tiền án. Tài sản thiệt hại hơn 2

triệu đồng, xét xử khoản 1 Điều 138 BLHS, không có tình tiết tăng nặng thuộc điểm

k khoản 1 Điều 48 BLHS nhưng không xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ thuộc

điểm g “Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” khoản 1 Điều 46 BLHS. Bản án

ghi bị cáo có cha/mẹ là thương binh; chồng/vợ bị bệnh nặng và áp dụng tình tiết

giảm nhẹ thuộc khoản 2 Điều 46 BLHS nhưng hồ sơ không có tài liệu chứng minh.

Nhiều bị cáo chưa được xóa án tích do chưa thi hành phần án phí, phần bồi thường

dân sự của bản án trước, nhưng không xác định tái phạm (theo Khoản 2 Điều 64,

Khoản 3 Điều 67 và Nghị quyết số 01/2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC).

Nhiều bản án nhận định bị cáo phạm tội nhiều lần, là đúng, nhưng Biên bản nghị án,

quyết định của bản án không áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS. Có bản án áp

39

dụng điểm h khoản 1 Điều 46 BLHS (phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng) cho trường hợp bị cáo phạm tội nghiêm trọng với tính chất nghiêm trọng.

Có vụ án đồng phạm, xét xử tuyên hình phạt tù giam đối với bị cáo là người

thực hành, nhưng bị cáo là người chủ mưu cầm đầu, tổ chức lại được cho hưởng án

treo là không công bằng, không phân hóa tội phạm. Xét xử theo điểm a khoản 2

Điều 202 BLHS, lỗi hoàn toàn do bị cáo nhưng 2 Hội thẩm biểu quyết cho hưởng

án treo (cần phải quan tâm hiện tượng này) - vụ án này Thẩm phán chủ tọa không

đồng ý cho bị cáo hưởng án treo nhưng không trình bày ý kiến của mình bằng văn

bản lưu vào hồ sơ vụ án (Theo Tiểu mục 1.3, Mục 1, Phần IV Nghị quyết số

04/2004 của HĐTP TAND TC). Trong vụ án có đồng phạm, có bị cáo hành vi nguy

hiểm hơn các bị cáo khác, sau khi phạm tội, bị cáo này bỏ trốn, bị bắt truy nã, lại

được hưởng án treo, trong khi các đồng phạm không bỏ trốn, bị xét xử trước, đều bị

xử phạt tù. Nhiều bị cáo, Hội đồng xét xử không đánh giá đầy đủ các căn cứ quyết

định hình phạt theo Điều 45 BLHS, mà nặng về tình tiết giảm nhẹ, xử phạt tù nhưng

cho hưởng án treo. Nhiều trường hợp xét xử cho bị cáo hưởng án treo vi phạm Nghị

quyết số 01/2013 và Công văn số 390/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh.

Có vụ án Trộm cắp bò, người phạm tội đã dắt được 5 con bò đi xa và đang

đưa lên ô tô để chở đi tiêu thụ - hành vi phạm tội dù chưa kết thúc nhưng đã hoàn

thành, án sơ thẩm lại áp dụng Điều 18, Điều 52 BLHS là sai lầm về áp dụng pháp

luật và quyết định về hình phạt.

Về án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại: Chưa chú ý về việc người bị hại

hay đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hay không, hay chỉ

yêu cầu bồi thường các thiệt hại về dân sự, nếu có yêu cầu khởi tố thì xét kỹ về hình

thức, nội dung yêu cầu và ý chí của họ; đồng thời phải chú ý ngày yêu cầu so với

ngày khởi tố vụ án (có hồ sơ không có tài liệu yêu cầu khởi tố vụ án. Có trường hợp

đơn yêu cầu không rõ).

Có trường hợp biên bản phiên tòa ghi không đúng, không đủ ý kiến Kiểm sát

viên. Phần lý lịch bị cáo chỉ ghi tên bị cáo (không đúng theo biểu mẫu hướng dẫn tại

NQ số 04/2004 của HĐTP TAND TC). Một số biên bản phiên tòa không ghi tên của

những người tiến hành tố tụng; ghi không đúng thời gian tạm giữ, tạm giam bị cáo.

40

Nhiều biên bản nghị án không biểu quyết từng vấn đề mà biểu quyết một lần

cho tất cả các vấn đề Hội đồng xét xử giải quyết; có vụ không biểu quyết hoặc biểu

quyết lại ghi là 100% (vi phạm khoản 1 Điều 222 BLTTHS và không đúng mẫu biểu

hướng dẫn kèm theo Nghị quyết số 04/2004 của HĐTP TAND TC). Bị cáo hưởng án

treo nhưng biên bản nghị án và quyết định của bản án không ghi áp dụng Điều 60

BLHS. Nghị án không thảo luận về việc tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành

án nhưng ra quyết định tạm giam. Có trường hợp bản án ghi không đúng mức bồi

thường dân sự mà bị hại yêu cầu. Nhiều trường hợp bị cáo và những người tham gia

tố tụng khác không ai tranh luận với Kiểm sát viên nhưng bản án lại ghi “Căn cứ vào

kết quả tranh luận tại phiên tòa” là máy móc và không đúng diễn biến phiên tòa. Có

bản án thiếu phần “Xét thấy”. Có bản án phần quyết định ghi “tiếp tục tạm giam bị

cáo để đảm bảo thi hành án” là không đúng công văn số 117/2004/KHXX ngày

22/7/2004 của Tòa án nhân dân tối cao về thi hành BLTTHS. Có bản án viết dài

dòng, viện dẫn bút lục (trong khi hành vi đã rõ), phần “Xét thấy” lặp lại toàn bộ nội

dung của phần “Nhận thấy”. Có bản án phần lý lịch bị cáo không thể hiện việc bị cáo

bị bắt tạm giữ, tạm giam, xác định bị cáo có tiền án, tiền sự không đúng và việc ghi

tiền án, tiền sự của bị cáo chung chung, ghi không đầy đủ bản án số mấy ngày tháng

năm nào, do Tòa án nào xét xử là không đúng với biểu mẫu hướng dẫn tại Nghị quyết

04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của HĐTPTANDTC. Có bản án, Tòa án tuyên

buộc “bị cáo phải trồng lại diện tích rừng đã chặt phá, đồng thời phải có trách nhiệm

chăm sóc, bảo vệ rừng trồng trong 03 năm và báo cáo để Ban quản lý rừng nghiệm

thu khi hoàn thành” là thiếu thực tế, không khả thi, gây khó khăn cho công tác thi

hành án. Có bản án không tuyên các bị cáo phạm tội gì mà chỉ ghi áp dụng điều luật

để xử phạt các bị cáo, là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Có vụ không giao bản án cho

bị hại (Điều 229 BLTTHS).

Một số Bản án trong hồ sơ thi hành án không đóng dấu Tòa án; bìa hồ sơ thi

hành án hình sự ghi sai ký hiệu bản án, sai cấp Tòa án xét xử, ghi sai loại hình phạt

áp dụng; có trường hợp hết thời hạn hoãn đã lâu nhưng chưa có thủ tục đi thi hành

án; chậm ra quyết định ủy thác; quyết định thi hành án phạt tù nhưng cho hưởng án

41

treo không ghi áp dụng Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự là không đúng

khoản 2 Điều 5 Nghị quyết số 01/2013 của HĐTPTANDTC). Có 3 quyết định thi

hành án phạt tù ban hành khi án sơ thẩm chưa có hiệu lực (30 ngày), là vi phạm

Điều 234 BLTTHS. Có trường hợp hoãn thi hành án phạt tù chưa đảm bảo căn cứ;

quyết định thi hành án phạt tù không ghi đầy đủ, cụ thể phần quyết định của bản

án…Nhiều trường hợp cách tính thời gian xét rút ngắn thời gian thử thách án treo

không đúng; không có tài liệu chứng minh đã thi hành xong phần bồi thường dân

sự, án phí để từ đó có căn cứ xem xét việc có tuân thủ pháp luật trong thời gian chấp

hành thời gian thử thách của bị án hay không.

- Trong giải quyết vụ án dân sự:

Rất nhiều vụ án khi thụ lý ghi không đúng, không đủ các quan hệ tranh chấp

mà đương sự yêu cầu giải quyết. Rất nhiều vụ án, các văn bản, tài liệu tố tụng ghi

không giống nhau, mâu thuẫn nhau về các quan các hệ tranh chấp trong vụ án trong

quá trình thụ lý và giải quyết. Nhiều trường hợp vi phạm về việc giao nhận, tống

đạt, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, các quyết định tố tụng, bản án.

Nhiều trường hợp giao các văn bản, tài liệu, quyết định tố tụng từ khi thụ lý vụ án

đến khi giải quyết (bằng các hình thức) nhưng biên bản giao nhận không ghi đầy đủ

nội dung về số, ngày tháng năm của văn bản, tài liệu, quyết định đó. Nhiều cuộc

xem xét, thẩm định tại chỗ nhưng không có đại diện Ủy ban nhân dân xã (Chủ tịch

hoặc Phó Chủ tịch) tham gia mà chỉ có cán bộ Địa chính và Tư pháp xã tham gia.

Có trường hợp Hội đồng xét xử ra Quyết định đình chỉ giải quyết một phần vụ án

dân sự, sau đó tiếp tục xét xử và ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các

đương sự. Nhiều trường hợp tạm đình chỉ với lý do nguyên đơn bận đi công tác dài

ngày, là không đúng quy định tại Điều 189 BLTTDS. Nhiều quyết định giải quyết

vụ án, bản án không tuyên lãi chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 305 BLDS đối

với khoản cấp dưỡng, vi phạm thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ... HĐXX ra quyết

định đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không lập biên bản thảo luận (theo khoản 2

Điều 210 BLTTDS) mà lại lập biên bản nghị án; trong quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án cả hai Hội thẩm cùng ký tên vào trong quyết định, là không đúng với

42

biểu mẫu quy định. Ghi quyền kháng cáo, kháng nghị chung chung, không cụ thể.

Nhiều biên bản nghị án không thể hiện nghị án từng vấn đề và căn cứ pháp luật áp

dụng cho từng vấn đề, mà chỉ ghi kết quả biểu quyết 3/3 đối với tất cả các vấn đề

được xem xét khi nghị án và tất cả các căn cứ pháp luật được áp dụng (vi phạm

khoản 2 Điều 236 BLTTDS). Có trường hợp không xem xét, thảo luận về người

chịu án phí do yêu cầu mà không được Tòa chấp nhận. Người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan có yêu cầu độc lập, Tòa đã ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, họ

không nộp, nhưng Tòa án không ra thông báo trả lại đơn (theo điểm c khoản 1 Điều

168, khoản 1, khoản 2 Điều 171, Điều 178 BLTTDS, khoản 1 Điều 13 Nghị quyết

05/2012 của HĐTPTANDTC). Vợ chồng vay tiền Ngân hàng nhưng quá trình giải

quyết Tòa án hòa giải vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết nợ vay ngân hàng, là không

đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng. Nhiều bản án ghi “căn cứ kết quả tranh luận”

trong khi chỉ có nguyên đơn tại phiên tòa hoặc tại phiên tòa các bên không tranh

luận gì. Nhiều quyết định công nhận thuận tình ly hôn năm 2015 nhưng lại ghi áp

dụng điều 90 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Quyết định giải quyết việc Dân

sự về: Yêu cầu tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người mất năng

lực hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú lại ghi

một bên là người yêu cầu, một bên là người bị yêu cầu hoặc ghi nguyên đơn, bị đơn

(ghi không đúng điều 315 BLTTDS). Có quyết định giải quyết việc dân sự ghi

không đúng các chủ thể quyền kháng cáo theo Điều 316 BLTTDS. Có việc đình chỉ

lại ghi quyết định đình chỉ vụ án dân sự.

Án Kinh doanh thương mại, nhiều trường hợp vi phạm về việc giao nhận,

tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, quyết định tố tụng, bản án. Có vụ

án, văn bản, quyết định tố tụng xác định người đại diện của pháp nhân, nhưng hồ sơ

không có tài liệu chứng minh người đó là người đại diện của pháp nhân. Có vụ án

có tài sản thế chấp, nhưng trước khi giải quyết vụ án lại không ra quyết định xem

xét, thẩm định tại chỗ tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án. Có nhiều quyết định

công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ghi án phí không đúng điểm 11 Điều 27

43

Pháp lệnh án phí, lệ phí. Nhiều quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án

không tuyên quyền kháng cáo (khoản 2 Điều 245 BLTTDS).

- Về mở các loại sổ nghiệp vụ và ghi chép:

Nhiều đơn vị, sổ thụ lý đơn khởi kiện, có đơn vị ghi các cột mục không đảm

bảo. Mục “tài liệu kèm theo đơn khởi kiện” không ghi rõ ràng, cụ thể tất cả các tài

liệu kèm theo, là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực hay chỉ là bản

sao chụp; các mục “ngày nhận đơn, ngày trả lại đơn, ngày chuyển đơn khởi kiện,

ngày nộp thông báo tạm ứng án phí, ngày nộp tiền tạm ứng án phí, thụ lý vụ án và

ngày tháng năm” đều bỏ trống. Có đơn vị, sổ thụ lý và kết quả giải quyết các vụ

việc Hôn nhân và Gia đình, Dân sự tại mục “tóm tắt quyết định, bản án, quyết định

sơ thẩm” không thực hiện mà hầu như bỏ trống. Có đơn vị ghi các thông tin trong

Sổ thụ lý và kết quả giải quyết vụ án đối với tất cả các loại án Hình sự, Dân sự, Hôn

nhân và Gia đình còn chưa bảo đảm, không thực hiện đúng biểu mẫu quy định,

không ghi tóm tắt kết quả phần quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm, không

ghi quan hệ tranh chấp khi Tòa án đã giải quyết vụ án (chỉ ghi quan hệ tranh chấp

khi thụ lý); không thể hiện bản án, quyết định có bị kháng cáo, kháng nghị hay

không; không ghi thành phần NTHTT. Có đơn vị không ghi tóm tắt quyết định đình

chỉ giải quyết vụ án; không ghi hình phạt bổ sung, bồi thường dân sự, án phí.

Trong thời gian này qua kiểm tra án hình sự cấp huyện đã có hiệu lực pháp

luật, Phòng đã tham mưu Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm

2 vụ án (1 vụ án phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ; 1 vụ án phạm tội Đánh bạc có 2 bị cáo), theo hướng hủy án sơ thẩm để

xét xử sơ thẩm lại không cho các bị cáo hưởng án treo, kết quả đều được Chánh án

chấp nhận ra kháng nghị và Ủy ban Thẩm phán xét xử chấp nhận các kháng nghị.

2.2.1.2. Hoạt động thi hành án

- Hoạt động thi hành án hình sự:

Thụ lý 61 hồ sơ thi hành án hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân

tỉnh. Tham mưu Chánh án ra 76 quyết định về thi hành án (trong đó có 07 Quyết

định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo, 62 Quyết định thi hành án phạt tù,

44

04 Quyết định hoãn thi hành án phạt tù, 01 Quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt

tù, 02 Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù). Tham mưu Chánh án cấp 12 Giấy

chứng nhận xóa án tích; ra 69 Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho

69 phạm nhân, nhân dịp Tết Nguyên đán, Lễ 30/04 và ngày Quốc khánh 02/09; ra

01 Quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù. Lập thủ tục

hồ sơ trình Hội đồng đề nghị xét đặc xá cho 06 trường hợp và cấp 06 Giấy chứng

nhận đặc xá cho 06 đối tượng.

- Giải quyết khiếu nại về thi hành án:

Giải quyết theo thẩm quyền và tham mưu lãnh đạo giải quyết tổng cộng là

46 đơn. Kết quả, Phòng đã giải quyết 5 đơn, tham mưu Chánh án giải quyết 31 đơn;

ra văn bản chuyển trả và nêu lý do cho công dân 10 đơn không thuộc thẩm quyền.

Cách thức tiến hành: Quyền Trưởng Phòng phân công cho Phó phòng, Thẩm tra

viên hoặc Thư ký nghiên cứu và báo cáo ra tập thể Phòng (khi thì báo cáo bằng

miệng, khi thì báo cáo bằng văn bản có đánh máy vi tính, nhưng chỉ người báo cáo

có văn bản). Sau khi Phòng trao đổi, nếu thống nhất thì trình lãnh đạo xem xét quyết

định hoặc lãnh đạo Phòng ra văn bản giải quyết theo thẩm quyền; nếu có ý kiến

khác nhau trong Phòng thì bảo lưu.

2.2.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ngãi từ 01/6/2015 đến 31/12/2017

Theo LTCTAND năm 2014 thì việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các

bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh Quảng

Ngãi (kể cả của Tòa án tỉnh Quảng Ngãi) sẽ thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án

cấp cao, Viện trưởng VKS cấp cao tại Đà Nẵng; còn Chánh án TAND tỉnh chỉ có

trách nhiệm báo cáo đề nghị kháng nghị. Qua kiểm tra, nếu phát hiện những bản án,

quyết định của các Tòa án cấp huyện có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình

tiết mới, thì Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án sẽ tham mưu cho Chánh án

báo cáo đề nghị kháng nghị.

2.2.2.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

Trong các năm 2016, 2017 đã kiểm tra 14/14 TAND cấp huyện và tham mưu

Chánh án ban hành 30 kết luận kiểm tra. Số vụ việc các loại đã kiểm tra: 4.840 hồ

45

sơ; 1.017 hồ sơ thi hành án hình sự: 31 hồ sơ xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án

dân sự; 124 hồ sơ xét rút ngắn thời gian thử thách án treo và xét rút ngắn thời gian

thử thách hình phạt cải tạo không giam giữ. Nghiên cứu 4.521 bản án, quyết định

các loại của Tòa án cấp huyện.

Qua kiểm tra phát hiện các vi phạm sau đây của Tòa án cấp huyện, được

thông báo tại Hội nghị rút kinh nghiệm của 2 cấp TAND trong tỉnh.

- Trong giải quyết vụ án hình sự:

Vi phạm từ các năm trước nhưng nhiều Tòa án vẫn lặp lại: Nghị án không

xem xét biểu quyết từng phần mà gộp chung áp dụng các quy định của BLHS,

BLTTHS, BLDS, Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và biểu quyết chung một lần.

Giao, tống đạt các văn bản, quyết định tố tụng, bản án, lệnh tạm giam, quyết định

tạm giam cho người tham gia tố tụng. Các bị cáo đồng phạm nhưng không áp dụng

các Điều 20, 53 BLHS. Bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên nhưng khi xét

xử không áp dụng các quy định cụ thể của BLHS đối với họ. Hội đồng xét xử ra

quyết định bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa nhưng người thực hiện không lập thủ

tục đưa vào hồ sơ (điểm c khoản 1 Điều 80, Điều 84 BLTTHS).

Áp dụng quy định của BLHS về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; dấu

hiệu pháp lý để định tội, định khung, áp dụng tình tiết tăng nặng; thực hiện nguyên

tắc có lợi cho người phạm tội.

Vụ án “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 có 12 bị cáo và “Tổ chức đánh bạc”

theo khoản 1 Điều 249 BLHS có 2 bị cáo, trong đó có 4 bị cáo bị xét xử về tội Đánh

bạc, mỗi người đánh bạc dưới 5 triệu đồng, lẽ ra VKS áp dụng điểm b khoản 1 Điều 1

Nghị quyết số 109 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội để đình chỉ đối với 4 bị can này.

Khi nghiên cứu hồ sơ, xét xử Tòa án huyện không áp dụng quy định trên của Nghị

quyết và Công văn số 80 ngày 29/3/2016 của Chánh án TANDTC đối với họ.

Có 1 vụ xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản

3 Điều 140 BLHS 1999: Giai đoạn điều tra, truy tố căn cứ dấu hiệu pháp lý để định

tội là “vay, mượn tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để

chiếm đoạt tài sản đó” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 140 BLHS 1999. Kết luận

46

điều tra, Cáo trạng xác định bị can phạm tội điểm a khoản 3 Điều 140 BLHS và phạm

tội nhiều lần (điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS). Việc áp dụng điểm a khoản 3 Điều

140, điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS 1999 đối với bị cáo lẽ ra cần đối chiếu với “Thời

hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” (bị cáo vay mượn tài sản nhiều người, thời điểm

vay mượn khác nhau; thời điểm những người cho vay mượn gửi đơn có sự khác

nhau) và chưa chú trọng yêu cầu trong đơn của những người cho vay để xem xét loại

quan hệ pháp luật. Ngoài ra, đến ngày xét xử BLHS 2015 đã được công bố hơn 1

tháng mà khoản 1 Điều 175 Bộ luật này không quy định “…bỏ trốn để chiếm đoạt tài

sản đó” là dấu hiệu pháp lý để định tội, nhưng không đối chiếu để áp dụng [theo

khoản 3 Điều 7 “Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian” của BLHS 2015 thì dấu

hiệu định tội “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” trong BLHS 1999 - là trường hợp

được xóa bỏ một tội phạm, được loại trừ trách nhiệm hình sự; và dấu hiệu pháp lý để

định tội “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó” - thuộc một trong các trường hợp được

quy định tại điểm b Nghị quyết 109 ngày 27/11/2015 của Quốc hội: “b.Các điều

khoản của BLHS 2015 xóa bỏ một tội phạm,…”].

Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự. Qua kiểm

tra bản án, có trường hợp người tham gia trong vụ án không bị truy cứu trách nhiệm

hình sự do không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng án sơ thẩm lại nhận định

họ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng không đủ tuổi chịu trách

nhiệm hình sự nên cơ quan có thẩm quyền không truy cứu trách nhiệm hình sự - là

không đúng về mối quan hệ giữa tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách

nhiệm hình sự, về mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm, về phân loại vi phạm pháp

luật và trách nhiệm pháp lý tương ứng. Nêu ra vấn đề này nhằm để chú ý, ngoài

việc xác định họ không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không đồng phạm với

người thực hiện hành vi phạm tội (khi xác định cấu thành cơ bản), mà còn để khẳng

định do họ không thỏa mãn cấu thành cơ bản, không đồng phạm nên không thỏa

mãn cấu thành tăng nặng với người khác (người phạm tội) trong các vụ án mà có

tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” (căn cứ: Khoản 3 Điều 8, Điều

12, Điều 20 BLHS 1999, khoản 3 Điều 107 BLTTHS 2003, Điều 12 BLHS

47

2015,..v…v… kết hợp hành vi cụ thể và loại vi phạm pháp luật cụ thể); điều này có

ý nghĩa về mặt nhận thức để tránh sai sót đối với các trường hợp người có hành vi

vi phạm nhiều lần, xâm hại khách thể bảo vệ của Bộ luật hình sự, không có người

khác tham gia, nhưng do họ không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không thỏa

mãn cấu thành cơ bản, do đó họ không phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng

“Phạm tội nhiều lần”.

Về xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, hậu quả của tội phạm;áp dụng

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Có 1 vụ xét xử tội Trộm cắp tài sản (xe

máy) theo khoản 1 Điều 138 BLHS: Sau khi người phạm tội đã thực hiện hoàn

thành hành vi, thì bị người khác phát hiện ngăn chặn nên người phạm tội không

hoàn thành việc tẩu tán tài sản trộm cắp mà bị thu hồi, nhưng khi xét xử lại xác định

phạm tội chưa đạt nên áp dụng Điều 18 (Phạm tội chưa đạt) và khoản 3 Điều 52

BLHS 1999 (Áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt). Có 1 vụ xét

xử tội Trộm cắp tài sản (tiền, điện thoại di động) theo khoản 1 Điều 138 BLHS:

Diễn biến vụ án này tương tự như vụ án trên, lại nhận định bị cáo phạm tội nhưng

chưa gây thiệt hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội

nhưng chưa gây thiệt hại” thuộc điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 (Phòng đã

ban hành 2 thông báo rút kinh nghiệm các trường hợp này).

Về xử khác khung, khác tội VKS truy tố: Có trường hợp lẽ ra cần phải áp

dụng đúng quy định cụ thể tại Điều 196 về giới hạn xét xử, Điều 170 BLTTHS

2003 về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp và quy định về phân loại tội phạm

(khoản 3 Điều 8 BLHS 1999).

Nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và khi xét xử. Cáo trạng truy

tố 2 bị can điểm b “Phạm tội nhiều lần” thuộc khoản 2 Điều 194 BLHS. Nhưng 2 lần

mua bán trái phép chất ma túy thì có 1 người chưa đủ 16 tuổi; trong khi khoản 1 Điều

194 BLHS là tội nghiêm trọng. Lẽ ra phải căn cứ khoản 3 (Người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự) Điều 107 (Những căn

cứ không được khởi tố vụ án hình sự) của BLTTHS; khoản 3 (phân loại tội phạm)

Điều 8 (khái niệm tội phạm), khoản 2 (người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16

48

tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng) Điều 12 (tuổi chịu trách nhiệm hình sự); khoản 1 Điều

194, điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS 1999 để xác định quan hệ pháp luật đối với

hành vi người này mua bán trái phép chất ma túy khi nghiên cứu hồ sơ trong giai

đoạn chuẩn bị xét xử và khi thực hiện thủ tục bắt đầu phiên tòa. Qua ý kiến của thành

viên trong Phòng về tình tiết “Phạm tội nhiều lần” được BLHS quy định là cấu thành

tăng nặng mà đôi khi đã có sự áp dụng sai, thì HĐXX đã có biện pháp pháp lý giải

quyết. Có 1 vụ 1 bị cáo tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS và 1 bị cáo tội “Giao cho người

không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều

205 BLHS: Vụ án này tập trung vào việc thu thập, đánh giá chứng cứ buộc tội mà

không thu thập các chứng cứ gỡ tội. Hội đồng xét xử lẽ ra phải xem xét làm rõ lỗi của

bị hại như: điều khiển xe không đèn, chạy tốc độ nhanh không kịp xử lý khi gặp

chướng ngại vật nên tự tông vào thùng dầu bên hông giữa xe ô tô bên tài.

Về xử án treo; thực hiện kết hợp thủ tục thẩm vấn với tranh tụng: Nhiều

trường hợp thiên về các tình tiết giảm nhẹ xét xử cho bị cáo hưởng án treo chưa

thuyết phục. Qua công tác kiểm tra thường kỳ, kiểm tra bản án, Phòng đã có ý kiến

với các Tòa án cấp huyện rằng, để góp phần áp dụng đúng và đầy đủ các quy định

của pháp luật khi xét xử, hạn chế sai sót, án cải sửa, án hủy thì cần thực hiện tốt quy

định của BLTTHS về sự kết hợp thủ tục thẩm vấn với tranh luận đối với tất cả các

vụ án vì đây là mô hình tố tụng hình sự kiểu đan xen (hỗn hợp) mà Nhà nước ta quy

định. Đến nay, BLTTHS 2015 đã quy định thủ tục xét hỏi và tranh tụng là những

nguyên tắc cơ bản.

Về phân công người tiến hành tố tụng: Rất nhiều hồ sơ vụ án hình sự các

huyện không có quyết định của Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng VKS phân công

người tiến hành tố tụng (phân công Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Phó Viện

trưởng, Kiểm sát viên) trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố (theo mẫu tại Thông tư 06 ngày 02/08/2013 của Bộ CA-Bộ QP-Bộ TC-

Bộ NN&PTNT–VKSNDTC). Để đảm bảo thủ tục tố tụng, bảo đảm thu thập, đánh

49

giá chứng cứ, chứng minh, quyền và nghĩa vụ người tiến hành tố tụng, quyền khiếu

nại, tố cáo, yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng của người tham gia tố tụng

trong giai đoạn này và để đảm bảo việc khởi tố, tiến hành các hoạt động tố tụng,

hoạt động kiểm sát đúng pháp luật cũng như để thực hiện LTCTAND 2014 và

BLTTHS 2015 khi có hiệu lực (về mời người tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa

để phục vụ xét xử) thì Phòng đã đề nghị các Tòa án cấp huyện có ý kiến với CQĐT,

VKS thực hiện quy định nêu trên của Thông tư 06.

- Trong giải quyết vụ án dân sự:

Đa số Tòa án cấp huyện hồ sơ không có quyết định phân công những người

tiến hành tố tụng. Nhiều vụ khi thụ lý ghi không đúng, không đầy đủ quan hệ tranh

chấp mà đương sự yêu cầu giải quyết. Nhiều vụ, trong quá trình thụ lý giải quyết

ghi quan hệ tranh chấp trong các văn bản tố tụng không thống nhất với nhau, nhất là

trong án hôn nhân và gia đình, ghi không đúng theo khoản 1 Điều 27 BLTTDS

2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 hoặc khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015.

Nhiều trường hợp: Vi phạm về giao nhận, tống đạt, niêm yết, thông báo các

văn bản tố tụng, quyết định, bản án; giao các văn bản tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến

khi giải quyết (bằng các hình thức) nhưng biên bản giao nhận không ghi số, ngày

tháng năm của văn bản, quyết định Tòa án giao cho đương sự; khi xem xét, thẩm

định tại chỗ không có đại diện Ủy ban xã (Chủ tịch/Phó Chủ tịch-Điều 89

BLTTDS), chỉ có cán bộ Địa chính, Tư pháp xã tham gia. Có trường hợp không

xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trước khi

giải quyết vụ án.

Nhiều quyết định giải quyết vụ án, bản án không tuyên lãi chậm thi hành án

theo khoản 2 Điều 305 BLDS đối với khoản tiền cấp dưỡng, vi phạm thời hạn thực

hiện nghĩa vụ trả nợ; không ghi hoặc ghi thừa câu “Trường hợp bản án được thi hành

theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành

án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi

hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi

hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của

50

Luật thi hành án dân sự”. Có bản án buộc trả vàng nhưng lại tuyên “kể từ ngày có

đơn yêu cầu thi hành án nếu bên phải thi hành án không thi hành hết các khoản thi

hành thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Nhà nước quy định tương ứng

với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán” là không đúng vì thanh

toán bằng vàng trong giai đoạn thi hành án không quy định tính tiền lãi (Thông tư liên

tịch số 01/1997/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTC-BTP ngày 19/6/1997).

Nhiều biên bản nghị án không nghị án từng vấn đề và căn cứ pháp luật áp dụng

cho từng vấn đề, mà chỉ ghi kết quả biểu quyết đối với tất cả các vấn đề được xem xét

khi nghị án và tất cả các căn cứ pháp luật được áp dụng. Có trường hợp không xem xét,

thảo luận về người chịu án phí khi yêu cầu của họ không được Tòa chấp nhận.

Nhiều đơn vị sử dụng không đúng biểu mẫu 11a ban hành kèm theo Hướng

dẫn tại Nghị quyết số 05/NQ/HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán;

không thu thập bản gốc giấy chứng nhận đăng ký kết hôn trong vụ án hôn nhân gia

đình; nhiều Bản án không xem xét nguyện vọng của con muốn sống với cha hoặc

mẹ khi ly hôn khi ý kiến của con không thống nhất.

Nhiều đơn vị, quyết định giải quyết việc dân sự về “Yêu cầu tuyên bố một

người mất tích”, “Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự”, “Yêu

cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú” lại ghi không đúng các chủ

thể quyền kháng cáo theo Điều 316 BLTTDS.

- Trong giải quyết vụ án hành chính:

Một số đơn khởi kiện chưa đúng với Điều 105 Luật Tố tụng hành chính (cuối

đơn khởi kiện phải có nội dung: Người khởi kiện phải cam đoan về việc không đồng

thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại); không có giấy báo

nhận đơn khởi kiện (Điều 107 Luật Tố tụng hành chính); không có tài liệu thể hiện

giao quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cho người khởi kiện, người bị kiện

(Khoản 2 Điều 122 Luật Tố tụng hành chính).

- Về mở các sổ nghiệp vụ và ghi chép:

Sổ thụ lý đơn khởi kiện, có đơn vị ghi các cột mục không đảm bảo. Mục “Tài

liệu kèm theo đơn khởi kiện” không ghi rõ ràng, cụ thể các tài liệu kèm theo, là bản

51

chính hay bản phô tô. Các mục “Ngày nhận đơn, ngày trả lại đơn, ngày chuyển đơn

khởi kiện, ngày nộp thông báo tạm ứng án phí, ngày nộp tiền tạm ứng án phí, thụ lý

vụ án và ngày tháng năm” bỏ trống. Có đơn vị ghi các thông tin trong sổ thụ lý và

kết quả giải quyết vụ án đối với tất cả các loại án Hình sự, Dân sự còn chưa bảo

đảm, không thực hiện đúng biểu mẫu quy định, không ghi tóm tắt kết quả phần

quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm; không ghi quan hệ tranh chấp khi Tòa

án đã giải quyết vụ án, chỉ ghi quan hệ tranh chấp khi thụ lý.

2.2.2.2. Hoạt động thi hành án

- Thi hành án hình sự:

Thụ lý 31 hồ sơ thi hành án hình sự với 59 bị án và ra 62 quyết định thi hành

án (trong đó có 07 Quyết định thi hành án hình phạt tù cho hưởng án treo, 01 Quyết

định thi hành án hình phạt tử hình, 47 Quyết định thi hành án hình phạt tù, 04 Quyết

định hoãn thi hành án hình phạt tù, 01 Quyết định tạm đình chỉ thi hành án hình phạt

tù, 02 Quyết định miễn chấp hành hình phạt tù); Cấp 05 Giấy chứng nhận xóa án tích;

Ra 70 Quyết định xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 70 phạm nhân nhân

dịp Tết Nguyên đán, Lễ 30/04, Quốc khánh 02/09 (trong đó có 69 Quyết định chấp

nhận giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, 01 Quyết định không chấp nhận giảm

thời hạn chấp hành hình phạt tù); Lập thủ tục hồ sơ đề nghị xét đặc xá và cấp 06 Giấy

chứng nhận đặc xá cho 06 người bị kết án phạt tù nhân dịp Quốc khánh.

- Thi hành án dân sự:

Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi có văn

bản số 153/CCTHADS ngày 09/01/2017 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giải

thích bản án Lao động phúc thẩm số 01/2012/LĐPT ngày 20/3/2012 của TAND

tỉnh Quảng Ngãi. Phòng đã tham mưu lên Lãnh đạo TAND tỉnh Quảng Ngãi ban

hành văn bản số 31/TA- KTNV&THA ngày 01 tháng 02 năm 2017 phúc đáp.

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi có văn bản số 464/CTHADS ngày

30/8/2017 gửi TAND tỉnh đề nghị kiểm tra bản án và kiến nghị xem xét kháng nghị

theo trình tự giám đốc thẩm đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày

24/9/2015 của TAND huyện Tây Trà. Bản án kết án các bị cáo Dương Hoàng Vũ,

52

Trương Danh, Lương Trường Vân, Bùi Việt Dũng phạm tội “Cố ý làm trái quy định

của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm d khoản 2

Điều 165 BLHS. Tuyên buộc Dương Hoàng Vũ và Bùi Việt Dũng phải có trách

nhiệm liên đới hoàn trả lại cho Ủy ban nhân dân huyện Tây Trà 939.539.927 đồng,

trong đó: Dương Hoàng Vũ phải hoàn trả 917.487.416 đồng (tiền thanh toán xây lắp

khống) và Bùi Việt Dũng phải hoàn trả 22.052.511 đồng (thanh toán nghiệm thu

khống). Tuyên tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 900.000.000 đồng, trong đó

Trương Danh nộp 300.000.000 đồng, Bùi Việt Dũng nộp 250.000.000 đồng, Lương

Trường Vân nộp 250.000.000 đồng và Dương Hoàng Vũ nộp 100.000.000 đồng.

Tuyên bị cáo Dương Hoàng Vũ chịu án phí 39.524.000 đồng, bị cáo Bùi Việt Dũng

chịu án phí 1.102.000 đồng.Chúng tôi thấy bản án này có những vấn đề sau đây:

Các bị cáo cùng nhau lập chứng từ nghiệm thu khống 22.052.511 đồng + lập

khống chi phí quản lý dự án 18.765.178 đồng + thanh toán khống khối lượng

917.487.416 đồng = 958.287.195 đồng. Giai đoạn điều tra, các bị cáo nộp

900.000.000 đồng khắc phục hậu quả.

Các bị cáo đều bị truy tố, xét xử theo điểm d khoản 2 Điều 165 BLHS và đều

được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS. Hậu quả xảy

ra là hậu quả chung nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng các Điều 20 và 53 BLHS đối

với các bị cáo, không tuyên buộc 4 bị cáo phải cùng chịu trách nhiệm bồi thường

tổng số tiền thiệt hại là 939.539.927 đồng, mà chỉ tuyên Dương Hoàng Vũ phải

hoàn trả 917.487.416 đồng và Bùi Việt Dũng phải hoàn trả 22.052.511 đồng là

không đúng về các trách nhiệm pháp lý mà các đồng phạm phải gánh chịu; không

tuyên buộc cả 4 bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tổng số tiền thiệt hại, là

không đúng trách nhiệm dân sự trong đồng phạm; tuyên mâu thuẫn nhau về trách

nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí dân sự sơ thẩm. Từ đó, Chi cục Thi hành

án dân sự huyện Tây Trà đã trả lại 800.000.000 đồng mà các bị cáo đã nộp.

- Thi hành án hành chính:

Chánh án TAND tỉnh đã ra 2 quyết định buộc thi hành bản án hành chính

theo đơn yêu cầu của người được thi hành án.

53

2.3. Đánh giá về hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án từ năm

2013-2017

2.3.1.Ưu điểm

- Đã tiến hành kiểm tra toàn diện các hoạt động nghiệp vụ của các Tòa án

cấp huyện trực thuộc theo yêu cầu của Chánh án TAND tỉnh. Qua hoạt động kiểm

tra hồ sơ tài liệu các loại án, các loại vụ việc: Hình sự; dân sự, hôn nhân gia đình,

kinh doanh thương mại, lao động (gọi chung là án dân sự); hành chính; việc áp

dụng biện pháp xử lý hành chính tại tòa án mà Tòa án cấp huyện giải quyết đã có

hiệu lực pháp luật, và kiểm tra các bản án, quyết định sơ thẩm các Tòa án cấp huyện

gửi lên, để xem xét đánh giá về việc áp dụng pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng,

pháp luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn liên quan (khi ra bản án, quyết

định thì các Tòa án cấp huyện đều phải gửi về Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi

hành án của Tòa án nhân dân tỉnh để kiểm tra). Qua kiểm tra, đã phát hiện những

bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các

quy định của luật nội dung, luật tố tụng, luật chuyên ngành hoặc Nghị quyết hướng

dẫn áp dụng pháp luật của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc những

văn bản liên quan, mà gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước hoặc của các chủ thể

khác mà đủ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm để xét xử giám đốc thẩm nhằm khắc

phục vi phạm, sai lầm đó, khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của

các chủ thể, thì Phòng sẽ tham mưu cho Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị

giám đốc thẩm (theo quy định của LTCTAND năm 2002 và các Bộ luật Tố tụng

Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng hành chính), để Ủy ban Thẩm phán

TAND tỉnh Quảng Ngãi mở phiên họp xét kháng nghị.

- Đã tiến hành kiểm tra công tác thi hành án hình sự; giải quyết khiếu nại,

tố cáo trong các hoạt động tố tụng và hành chính – tư pháp của Tòa án cấp

huyện. Qua kiểm tra, phát hiện vi phạm thì tùy từng trường hợp đã tham mưu

Chánh án Tòa án tỉnh giải quyết hoặc chỉ đạo Chánh án Tòa án cấp huyện giải

quyết theo thẩm quyền.

54

- Chánh án TAND tỉnh đã ra các quyết định thi hành án hình sự thuộc thẩm

quyền, giải quyết các trường hợp miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp

hành hình phạt, đặc xá, xóa án tích, rút ngắn thời gian thử thách của án treo, rút

ngắn thời gian thử thách hình phạt cải tạo không giam giữ, tạm đình chỉ thi hành án

phạt tù, hoãn thi hành án phạt tù.

- Đã tiến hành nghiên cứu hồ sơ tài liệu về các trường hợp cơ quan Công an,

Viện Kiểm sát, Tòa án và Thi hành án hình sự cấp huyện đề nghị đặc xá cho những

người bị kết án đang được hoãn thi hành án phạt tù, đang được tạm đình chỉ thi

hành án phạt tù, trình Hội đồng xét đặc xá tỉnh xem xét, đề nghị lên Tòa án nhân

dân tối cao để trình Hội đồng đặc xá Trung ương quyết định.

- Đã giải quyết kịp thời các đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tố tụng,

trong quản lý hành chính – tư pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được trên, từ thực tiễn và kết quả, hiệu quả kiểm

tra nghiệp vụ và thi hành án trong những năm qua, cũng như thực trạng những tồn

tại, thiếu sót còn lặp lại và những vi phạm nảy sinh nhất là trong giải quyết án hình

sự, trong thời gian này hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã có những

bước đột phá rất đáng kể, cụ thể như sau:

Chánh án TAND tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập tổ công tác đột xuất tham dự

phiên tòa: Cuối năm 2015, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh đã chủ trì và phân công

lãnh đạo, Thẩm tra viên, Thư ký của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

“tham dự” đột xuất các phiên tòa về hình sự, dân sự, hành chính. Khi kết thúc từng

phiên tòa, các thành viên của Phòng tham mưu lãnh đạo các vấn đề cần rút kinh

nghiệm tại chỗ đối với toàn thể lãnh đạo, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử của

Tòa án huyện về áp dụng các quy định của pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký

và những người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử. Tổ công tác đã chỉ ra các vi

phạm, thiếu sót sau và đều được chấp nhận sửa chữa. Cụ thể: Một là, về hoãn phiên

tòa. Có 1 vụ ra quyết định hoãn để điều tra bổ sung (hoãn lần thứ 2) vì lý do không

xác định chính xác địa chỉ bị hại. Lẽ ra giai đoạn chuẩn bị xét xử, chủ tọa phải phát

hiện việc chưa lập lý lịch và chưa xác định địa chỉ bị hại để trả hồ sơ điều tra bổ

55

sung. Có 1 vụ ra quyết định hoãn nhưng trước khi quyết định, chủ tọa chỉ hỏi ý kiến

Kiểm sát viên và Hội đồng xét xử lại vào phòng nghị án thảo luận về việc hoãn. Lẽ

ra chỉ thảo luận tại chỗ về vấn đề này (khoản 3 Điều 199 BLTTHS). Có trường hợp

HĐXX quyết định hoãn phiên tòa vì thiếu nhân chứng, nhưng Chủ tọa nói rõ cần

phải có nhân chứng để phục vụ hoạt động chứng minh tình tiết định khung phạm tội

nhiều lần. Hai là, thực hiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa

chưa đúng quy định, ảnh hưởng đến chứng minh. Có vụ ra thông báo bổ sung Quyết

định đưa vụ án ra xét xử trước 03 ngày mở phiên tòa. Có vụ NCQL và NVLQ có

mặt, nhưng chủ tọa chỉ hỏi họ tên, không giải thích quyền và nghĩa vụ. Có vụ các

nhân chứng có mặt nhưng chủ tọa không đề cập đến. Có vụ không giải thích nghĩa

vụ của người làm chứng. Nhiều trường hợp khi thẩm tra căn cước, lý lịch của những

NTGTT không đầy đủ; không hỏi mối quan hệ giữa bị cáo với nhân chứng, giữa bị

hại với nhân chứng. Đa số khi giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo và những

NTGTT khác nhưng không nêu căn cứ pháp lý hoặc giải thích không đầy đủ. Nhiều

trường hợp khi đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ có chủ tọa đứng đọc và yêu

cầu bị cáo đứng lên. Có vụ án có người phiên dịch nhưng chủ tọa không giải thích

quyền và nghĩa vụ của họ, không yêu cầu họ cam đoan sẽ dịch đúng và đầy đủ.

Nhiều trường hợp nhân chứng, NCQL và NVLQ vắng mặt nhưng chủ tọa không hỏi

ý kiến bị cáo, người bị hại về sự vắng mặt của những người này và có trường hợp

HĐXX không hội ý về vấn đề này để ghi vào biên bản phiên tòa. Nhiều trường hợp

chủ tọa không hỏi bị cáo nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa, nếu nhận thì

ngày, tháng, năm nào. Nhiều trường hợp trước khi kết thúc phần thủ tục, chuyển

qua phần xét hỏi nhưng chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV, bị cáo và

tất cả những NTGTT ai có ý kiến, yêu cầu gì về thủ tục không, có yêu cầu thay đổi

các thành viên HĐXX, KSV, Thư ký, người phiên dịch không. Có trường hợp khi

kết thúc giai đoạn này và chuyển qua giai đoạn tiếp theo nhưng chủ tọa không tuyên

bố rạch ròi, lại dùng từ “tiếp theo chương trình là...”. Có trường hợp đã tuyên bố kết

thúc phần thủ tục và chuyển qua phần xét hỏi nhưng lại hỏi bị cáo có ý kiến gì

không. Nhiều trường hợp NTGTT vắng mặt nhưng chủ tọa chỉ hỏi ý kiến của KSV

56

về vấn đề này. Ba là, việc thực hiện thủ tục xét hỏi tại phiên tòa vi phạm quy định

về chứng minh, như hỏi bị cáo CQĐT bắt bị cáo có đúng tội không; bản cáo trạng

với hành vi như vậy có đúng không; hỏi những NTGTT khác cáo trạng có đúng

người đúng tội đúng pháp luật không. Không hỏi bị cáo có nghe rõ cáo trạng công

bố tại phiên tòa không, có giống với cáo trạng đã nhận không, mà lại hỏi: Cáo trạng

có đúng với tội trạng của bị cáo hay không, cáo trạng có đúng người đúng tội đúng

pháp luật không. Bị cáo không biết chữ nhưng không hỏi Kết luận điều tra, Cáo

trạng, QĐĐVARXX có ai đọc cho bị cáo nghe không. Xét xử lưu động, HĐXX hỏi

bị cáo lại dùng từ lóng, bị cáo khai say rượu nên không nhớ hành vi nhưng chủ tọa

không công bố lời khai, không giải thích quy định của BLHS về phạm tội trong tình

trạng này. Hội thẩm hỏi bị cáo có ăn năn hối cải không, bị cáo đáp có, thì Hội thẩm

lại nói rằng sao uổng vậy. Nhân chứng khai khách quan, trung thực nhưng chủ tọa,

Hội thẩm lại nói muốn đi tù phải không. Có Hội thẩm khi hỏi lại thao tác điện thoại

di động hay chỉ giải thích chứ không hỏi để chứng minh. Khi xét hỏi thì Hội thẩm

lại hỏi căn cước, lai lịch bị cáo, hỏi nhận cáo trạng chưa, nhận bao giờ; tại phiên tòa,

bị cáo thành khẩn khai báo nhưng lại nói cần thành khẩn khai báo để giảm nhẹ. Khi

hỏi bị cáo về vật chứng (không đưa ra xem xét tại Tòa) lại dùng từ không phù hợp

không toát được câu hỏi. Chủ tọa thường dùng câu hỏi “có không” “đúng không”

“phải không”, bị cáo trả lời thì chủ tọa “à đúng rồi”. Nhiều trường hợp chủ tọa chưa

lựa chọn hỏi ai trước, hỏi ai sau, hỏi vấn đề nào trước, vấn đề nào sau và phải sử

dụng chiến thuật hỏi, dạng câu hỏi đối với từng vụ án cụ thể đặt ra, nhất là án truy

xét. Chủ tọa hỏi những NTGTT khác nhưng thường sử dụng câu hỏi mang tính

khẳng định: đúng không, phải không, có không. Không hỏi kỹ bị cáo để xác định

tiền án; tiền sự (hoặc không có tội). Bị cáo chưa trả lời hết câu hỏi của HĐXX hay

KSV nhưng bị cắt ngang. Điều tra, truy tố chưa xác định đủ NTGTT và tại Tòa bị

cáo tự khai ra, nhưng giai đoạn chuẩn bị xét xử không phát hiện ra, do đó tại phiên

tòa những NTHTT không đề cập đến lời khai này, ảnh hưởng đến yêu cầu giải

quyết vụ án. Bị cáo khai ra thông tin mới về người mà VKS cho rằng chưa xác định

họ tên, địa chỉ nhưng chủ tọa không hỏi, không yêu cầu KSV hỏi. Chủ tọa yêu cầu

57

Thư ký công bố lời khai người làm chứng do vắng mặt, lẽ ra chủ tọa phải công bố

để chứng minh. Người làm chứng, NCQL và NVLQ vắng mặt trong khi bị cáo khai

không nhớ những lần phạm tội hoặc thông tin liên quan nhưng chủ tọa không công

bố lời khai để chứng minh và áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Trước khi kết thúc phần

xét hỏi để KSV đọc luận tội, đề nghị giải quyết vụ án và chuyển sang phần tranh

luận nhưng chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV có hỏi thêm gì nữa

không, không hỏi các thành viên HĐXX, KSV, bị cáo và những NTGTT khác có ai

có yêu cầu hỏi thêm về vấn đề gì nữa không. Những NTGTT là dân tộc thiểu số

nhưng HĐXX đặt câu hỏi không phù hợp. Có vụ án hiếp dâm đã hoàn thành, nạn

nhân hơn 13 tuổi là người dân tộc thiểu số. Tại tòa có bị hại, cha, mẹ bị hại nhưng

HĐXX, KSV không giải thích quyền yêu cầu về các khoản bồi thường dân sự, cũng

không hỏi phía bị hại có yêu cầu bị cáo (40 tuổi) bồi thường dân sự không. Mà chỉ

hỏi phía bị hại “có yêu cầu gì không” nên họ không hiểu và không trả lời. Chủ tọa

không hỏi rõ bị cáo, bị hại để chứng minh về hành vi, diễn biến hành vi của bị cáo,

thái độ của bị hại đối với hành vi đó về cấu thành tội phạm, giai đoạn thực hiện tội

phạm, hậu quả xảy ra, kết luận giám định, cũng không yêu cầu KSV hỏi về vấn đề

này. KSV khi hỏi bị cáo lại dùng từ “Nó (bị hại) có tự nguyện cởi không? Bị cáo có

cởi …con này chưa? Có…chưa? Nó có chống lại không…” nhưng Chủ tọa không

chấn chỉnh (thẩm vấn không như bản án thể hiện). Nhiều vụ án, trước khi tuyên bố

kết thúc phần xét hỏi, chủ tọa không hỏi các thành viên HĐXX, KSV có ai hỏi thêm

gì nữa không, không hỏi bị cáo và những NTGTT khác có ai yêu cầu hỏi thêm gì

nữa không, mà lại nói “qua tranh luận tại phiên tòa để làm sáng tỏ vụ án”. Có KSV

khi xét hỏi dùng từ đúng không, phải không nhưng chủ tọa không chấn chỉnh. Bốn

là, việc tranh luận chưa đúng trình tự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả chứng

minh. Có trường hợp sau khi KSV luận tội và đề nghị nhưng chủ tọa không hỏi bị

cáo, bị hại, NCQL và NVLQ có tranh luận với KSV không mà lại tuyên bố kết thúc

phần tranh luận, HĐXX vào phòng nghị án. Có vụ án sau khi VKS trình bày luận

tội và đề nghị, chủ tọa không hỏi rõ bị cáo và những NTGTT có ai có ý kiến tranh

luận với đại diện VKS không. Sau khi KSV phát biểu quan điểm và đề nghị, chủ tọa

58

hỏi thì bị cáo và những NTGTT nêu không tranh luận gì, lẽ ra bản án phải thể hiện

tại phiên tòa những người này không tranh luận, nhưng lại ghi “căn cứ kết quả tranh

luận”. Trước khi kết thúc phần tranh luận, chủ tọa không hỏi những NTGTT có

trình bày gì thêm không, có yêu cầu tranh luận vấn đề gì nữa không, mà lại tuyên bố

kết thúc tranh luận.

Tham mưu ban hành kế hoạch kiểm tra: Nhận thấy trước yêu cầu đòi hỏi từ

các quy định của LTCTAND năm 2014 và các Luật ban hành sau khi có Hiến pháp

2013, từ thực tiễn các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án 2 cấp trong tỉnh cũng như

công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đối với cấp huyện, Chánh án TAND tỉnh

Quảng Ngãi ban hành Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2016, Kế hoạch công tác

kiểm tra năm 2017.

Đổi mới quy trình kiểm tra thường kỳ và báo cáo kết quả: Trước đây qui

trình kiểm tra và báo cáo kết quả phải tổ chức họp Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi

hành án để thông qua kết luận kiểm tra và lãnh đạo Phòng cùng thư ký của Phòng

báo cáo kết quả kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán. Cách làm này rất tốn thời gian và

nhiều trường hợp không chính xác, thiếu tính khoa học - vì thực tế hoạt động kiểm

tra bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của Tòa án

cấp huyện, cho nên việc áp dụng, tuân thủ, sử dụng, thi hành các quy định của pháp

luật và các văn bản dưới luật cũng rất rộng. Do vậy Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án đề xuất lên lãnh đạo cách làm như sau:

Từng đồng chí trong Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án được lãnh đạo

Phòng phân công kiểm tra từng lĩnh vực và giao thời hạn hoàn thành kiểm tra. Lãnh

đạo Phòng quy định thời điểm từng cá nhân gửi báo cáo kết quả kiểm tra cho đồng

chí được phân công dự thảo kết luận kiểm tra; thời điểm đồng chí được phân công

dự thảo kết luận kiểm tra hoàn thành dự thảo và gửi cho tất cả các đồng chí trong

Phòng để đối chiếu với kết quả kiểm tra của mình và nghiên cứu kết quả kiểm tra

của các đồng chí khác để xem xét, đánh giá kết quả kiểm tra của đồng nghiệp nhằm

trao đổi trực tiếp, và soát xét lại kết quả kiểm tra của mình để điều chỉnh, bổ sung

kết luận kiểm tra trước khi báo cáo ra tập thể Phòng.

59

Khi báo cáo ra tập thể Phòng thì mỗi thành viên trong Phòng đều có được

bản dự thảo kết luận kiểm tra và cùng tham gia góp ý kiến về kết quả kiểm tra của

đồng nghiệp cũng như lý giải về kết quả kiểm tra của mình khi có ý kiến yêu cầu;

nếu có ý kiến khác nhau trong Phòng, thì nêu rõ các ý kiến đó trong dự thảo kết

luận kiểm tra để trình Ủy ban Thẩm phán xem xét quyết định.

Do đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật mang tính linh hoạt, sáng tạo

của chủ thể và tuân thủ quá trình nhận thức theo nguyên lý của lý luận nhận thức,

cho nên Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đề xuất lên Chánh án Tòa án tỉnh

thực hiện việc trước khi Phòng báo cáo kết quả kiểm tra ra Ủy ban Thẩm phán thì

Phòng cần phải gửi trước bản dự thảo kết luận kiểm tra cho tất cả các thành viên Ủy

ban Thẩm phán để nghiên cứu và cho ý kiến chỉ đạo tại cuộc họp thông qua kết luận

kiểm tra ít nhất là 3 ngày; đồng thời cũng đề nghị Ủy ban Thẩm phán khi thông qua

Kết luận kiểm tra thì hãy để cho tất cả các thành viên trong Phòng tham dự để lĩnh

hội ý kiến chỉ đạo cũng như lý giải về kết quả kiểm tra của mình và tham gia ý kiến

về kết quả kiểm tra của đồng nghiệp khi có ý kiến yêu cầu hoặc làm sáng tỏ vấn đề

kết luận qua kiểm tra và để trau dồi, học hỏi. Sau khi Ủy ban Thẩm phán thông qua

Kết luận kiểm tra thì, trước khi Chánh án ký ban hành, cần phải gửi Kết luận kiểm

tra cho đơn vị được kiểm tra để họ có ý kiến yêu cầu xem xét lại hoặc khiếu nại; sau

khi đã giải quyết ý kiến hoặc khiếu nại (nếu có), thì chuyển Kết luận kiểm tra vào

Hộp thư nội bộ để Chánh án soát xét được thuận lợi trong việc ký ban hành. Khi

ban hành, ngoài việc gửi cho Tòa án được kiểm tra, đồng thời cũng gửi cho các Tòa

án huyện để rút kinh nghiệm.

Đề xuất này được tập thể lãnh đạo và các thành viên Ủy ban Thẩm phán

đồng tình ủng hộ. Nhờ vậy, hơn 2 năm qua công tác kiểm tra thường kỳ có những

chuyển biến rất mạnh mẽ về chất lượng và thời gian; được hệ thống Tòa án 2 cấp

nhiệt tình ủng hộ.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế:

+ Đối với hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

60

Không ban hành quyết định kiểm tra đối với các cuộc kiểm tra thường kỳ,

kiểm tra theo chuyên đề, mà chỉ ban hành văn bản thông báo. Chưa xây dựng kế

hoạch kiểm tra đối với từng cuộc kiểm tra thường kỳ, kiểm tra theo chuyên đề, kiểm

tra đột xuất.

Công tác kiểm tra các bản án, quyết định sơ thẩm các loại án có thời điểm

chưa chú trọng sâu vào việc phát hiện những sai lầm vi phạm trong việc giải quyết

các loại án của cấp huyện để báo cáo Chánh án TAND tỉnh kháng nghị hoặc đề nghị

cấp trên kháng nghị giám đốc thẩm khắc phục và qua đó để góp phần nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và người

tiến hành tố tụng không chỉ đối với Tòa án. Trong lĩnh vực án dân sự chủ yếu chỉ

phát hiện những sai sót, vi phạm không lớn về tố tụng, trong khi có một số bản án

sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện có hiệu lực pháp luật được

Viện kiểm sát hoặc TAND cấp cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và được

Hội đồng giám đốc thẩm xét xử chấp nhận kháng nghị. Riêng về án hinh sự thấy

rằng, từ cuối năm 2015 trở đi khi phân công nhân sự kiểm tra phù hợp, đã phát hiện

và chỉ ra nhiều vấn đề trong áp dụng luật nội dung, nhưng việc xem xét để có biện

pháp khắc phục thì còn chừng mực.

Nhiều trường hợp pháp luật quy định đã rõ về mặt nhận thức và áp dụng

đúng, nhưng thành viên trong Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án còn có ý

kiến khác nhau về kết quả kiểm tra hoặc trả lời thỉnh thị, dẫn đến kéo dài thời hạn

giải quyết hoặc tham mưu lên lãnh đạo cơ quan giải quyết. Nhiều trường hợp cấp

huyện thỉnh thị nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại trong hoạt động tư pháp, về

nghiệp vụ thi hành án, Lãnh đạo TAND tỉnh giao cho Phòng kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án tham mưu. Lãnh đạo Phòng phân công Thư ký hoặc Thẩm tra viên

nghiên cứu đề xuất, nhưng lại không ấn định thời hạn hoàn thành hoặc thời hạn báo

cáo ra tập thể Phòng để trình lãnh đạo TAND tỉnh có ý kiến với đơn vị thỉnh thị,

dẫn đến có nhiều trường hợp chậm giải quyết.

Quy trình kiểm tra, báo cáo kết quả kiểm tra ra tập thể Phòng Kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án, ra Ủy ban Thẩm phán từ năm 2013 – 2015 khi chưa có

61

những biện pháp cải tiến còn thiếu khoa học và ảnh hưởng phần nào đến độ tin cậy

đối với kết quả kiểm tra. Lãnh đạo TAND tỉnh không áp dụng nhiều phương thức

kiểm tra mà chỉ tập trung phương thức kiểm tra thường kỳ 1 lần/năm đối với 13

TAND huyện, 2 lần/năm đối với TAND thành phố Quảng Ngãi, dẫn đến nếu phát

hiện sai lầm nghiêm trọng của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nếu kháng nghị

giám đốc thẩm thì không còn thời hạn.

Trước khi ban hành Kế hoạch kiểm tra từng năm thì việc công bố kết luận

kiểm tra đối với từng TAND cấp huyện thường là rất chậm, chưa chú trọng việc

phát kết luận kiểm tra cho toàn thể cán bộ đơn vị được kiểm tra và không gửi cho

các TAND các huyện để rút kinh nghiệm chung cũng như để xem xét khi đánh giá

thi đua khen thưởng, nên ảnh hưởng đến việc tiếp thu, khắc phục vi phạm và phản

hồi đối với kết luận kiểm tra.

Từ năm 2013 đến năm 2016, TAND tỉnh chủ yếu kiểm tra nghiệp vụ đối với

cấp huyện, chưa chú trọng tiến hành kiểm tra đối với các Tòa chuyên trách TAND tỉnh.

Chưa thường xuyên và kiên quyết đối với công tác báo cáo kiến nghị kháng

nghị giám đốc thẩm đối với bản hình sự có sai lầm. Việc xử lý sau kiểm tra đối với

cán bộ có vi phạm trong thụ lý, giải quyết các loại án và thi hành án hình sự của

TAND cấp huyện, nhất là đối với các trường hợp đáng chú ý trong giải quyết án hình

sự còn nặng về rút kinh nghiệm, dẫn đến sự chủ quan xem nhẹ trách nhiệm, ảnh

hưởng đến chất lượng hiệu quả các hoạt động tố tụng, lợi ích hợp pháp của các chủ

thể tham gia tố tụng trong vụ án, có sự bất cập trong công tác thi đua khen thưởng,

công tác đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, quy hoạch cán bộ...

+ Đối với hoạt động thi hành án:

Trong thi hành án hình sự đã ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án đối với

một người bị kết án chưa đủ thủ tục. Theo Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án

phạt tù số 74/2015/QĐ-CA của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì phạm nhân Lê

Văn Nết được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thời hạn 01 năm, kể từ ngày

18/6/2015 đến 18/6/2016. Ngày 7/7/2016, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an

tỉnh Quảng Ngãi xác minh tình trạng sức khỏe của phạm nhân Lê Văn Nết và ngày

62

11/7/2016 có Công văn số 322/CQTHAHS kèm theo hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ

chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân Lê Văn Nết, được Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi chấp nhận và ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù số

153/2016/QĐ-CA ngày 20 tháng 7 năm 2016. Tuy nhiên qua soát xét thấy rằng, hồ

sơ đề nghị chưa có tài liệu của cơ quan y tế có thẩm quyền xác định tình trạng sức

khỏe của phạm nhân Lê Văn Nết để làm căn cứ xem xét, ra quyết định tạm đình chỉ

chấp hành án phạt tù, nên TAND tỉnh đã ra quyết định hủy bỏ Quyết định nêu trên.

Sau khi người bị kết án bổ sung đủ thủ tục, thì TAND tỉnh đã kịp thời ra quyết định

tạm đình chỉ thi hành án đối với họ.

Năm 2015, có 1 trường hợp đề nghị đặc xá nhưng cán bộ của Phòng Kiểm

tra nghiệp vụ và thi hành án có sai sót về chữ đệm của họ tên người được đề nghị.

Trong thi hành án dân sự, hiện đơn vị chưa trả lời kiến nghị số 464/CTHADS

ngày 30/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.

Trong thi hành án hành chính: Theo báo cáo số 34 ngày 21/3/2018 của

TAND tỉnh Quảng Ngãi gửi Vụ Giám đốc kiểm tra III Tòa án nhân dân tối cao về

việc rà soát những bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật tính đến

thời điểm báo cáo, trong đó có bao nhiêu bản án, quyết định chưa thi hành án và

nguyên nhân, để phục vụ cho việc xây dựng pháp luật và văn bản hướng dẫn về

hoạt động thi hành án hành chính, thì Tòa Hành chính cung cấp như sau: Số bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật: 88, trong đó: Khiếu kiện quyết

định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban

nhân dân: 44; Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về lĩnh vực

đất đai, nhà ở: 41; Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong

lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính: 3. Trong số này có 44 bản án, quyết định

chưa thi hành. Tuy nhiên số liệu này Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và Thi hành án

không nắm được, trong khi Phòng có nhiệm vụ tham mưu Chánh án TAND tỉnh ra

quyết định buộc thi hành án hành chính khi có đơn yêu cầu của người được thi

hành án đối với những trường hợp thuộc thẩm quyền của TAND tỉnh, theo quy

định tại Điều 312 Luật tố tụng hành chính.

63

- Nguyên nhân hạn chế

+ Nguyên nhân từ pháp luật.

Nhiều vấn đề thực tiễn đòi hỏi nhưng BLHS mới cũng chưa giải quyết hoàn

thiện về mặt khoa học, chẳng hạn như trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc

phạm tội trong đồng phạm, phòng vệ chính đáng, các dạng người thực hành trong

phạm tội đơn lẻ hoặc phạm tội có đồng phạm…dẫn đến nhận thức, áp dụng không

thống nhất.

Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,

pháp luật về thi hành án còn rất nhiều vấn đề về kỹ thuật lập pháp mà liên quan đến

tính độc lập tương đối và tính hệ thống của nó, thể hiện ở điểm có không ít quy

phạm bất cập, không rõ ràng, mâu thuẫn nhau trong bản thân từng luật và mâu

thuẫn với luật khác làm ảnh hưởng đến nhận thức, áp dụng trong hoạt động tố tụng

và kiểm tra. Chẳng hạn như nhận thức và áp dụng pháp luật về phạm vi và hướng

kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm, về thẩm quyền của Hội đồng xét

xử phúc thẩm, Hội đồng phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng

cáo, kháng nghị một phần hoặc toàn bộ, nhận thức về phần bản án, quyết định sơ

thẩm có hiệu lực pháp luật do không bị kháng cáo, kháng nghị trong các Bộ luật tố

tụng cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí, các luật tố tụng cũng có quy

định khác nhau về kháng cáo, kháng nghị và thẩm quyền của cấp phúc thẩm, kháng

nghị và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm hoặc

bản án, quyết định sơ thẩm và bản án, quyết định phúc thẩm. Vì thế, thực tiễn có

nhiều khó khăn đối với hoạt động kiểm tra đối với những trường hợp cấp phúc thẩm

hoặc giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm hoặc bản án, quyết định sơ

thẩm và phúc thẩm để tố tụng lại ở giai đoạn sơ thẩm, sau đó bản án, quyết định sơ

thẩm giải quyết lại vụ án có hiệu lực pháp luật.

Thi hành án hành chính lại quy định trong Luật Tố tụng hành chính, mà Luật

này lại không quy định người phải thi hành án phải báo cáo/thông báo cho Tòa án

biết việc thi hành án, nên việc Tòa án theo dõi, thống kế báo cáo, góp ý xây dựng

hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là rất khó khăn. Luật này cũng không quy định

64

về thủ tục khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án; trong

khi quan hệ pháp luật hành chính là bất bình đẳng, người bị kiện là người phải thi

hành án đối với bản án, quyết định đã phán xét tính căn cứ và tính hợp pháp về hành

vi hoặc quyết định hành chính của mình.

+ Công tác kiểm tra chưa thực sự được những người có thẩm quyền quan

tâm đúng mức để thường xuyên giải quyết tốt các yếu tố của hoạt động này.

Tòa án nhân dân tối cao cũng chậm ban hành quy chế kiểm tra. Hệ thống Tòa

án cũng chưa đào tạo cán bộ làm công tác kiểm tra nên việc nghiên cứu hồ sơ tài

liệu trong quá trình kiểm tra cũng chỉ là kinh nghiệm, kỹ năng của từng người. Chế

độ đối với người làm công tác kiểm tra cũng còn bất cập như về lương và phụ cấp

ưu đãi. Về thi nâng ngạch Thẩm tra viên cũng chưa được tổ chức thực hiện. Người

làm công tác kiểm tra không được hưởng chế độ độc hại trong khi phải đầu tư

nghiên cứu rất nhiều và phải thường xuyên tiếp xúc với rất nhiều loại hồ sơ tài liệu

đã giải quyết và đưa vào lưu trữ.

Từ năm 2015 trở về trước TAND tỉnh Quảng Ngãi không ban hành Kế hoạch

kiểm tra hàng năm nên hoạt động kiểm tra còn theo thói quen và khi kiểm tra

thường kỳ, kiểm tra đột xuất đối với từng TAND cấp huyện không ban hành quyết

định kiểm tra và đề cương kiểm tra với những yếu tố đòi hỏi cơ bản của một cuộc

kiểm tra, là những nguyên nhân hạn chế đến hiệu quả kiểm tra và trách nhiệm của

người có thẩm quyền kiểm tra, của các thành phần trong đoàn kiểm tra.

Lãnh đạo Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, các Thẩm tra viên,

Thư ký được phân công kiểm tra các bản án, quyết định, các văn bản, quyết định

tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm gửi lên hầu hết chưa lập phiếu kiểm tra, cũng

chưa được người có trách nhiệm yêu cầu phải lập phiếu kiểm tra. Chỉ có 1 đồng

chí Thẩm tra viên chính được phân công kiểm tra các bản án hình sự sơ thẩm thì

có tiến hành lập phiếu này từ giữa năm 2015 đến nay, qua đó, đồng chí này đã đề

nghị Chánh án TAND tỉnh báo cáo đề nghị TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị

giám đốc thẩm 4 vụ (nêu trên).

65

+ Công tác tổ chức cán bộ của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án chưa

thực sự được quan tâm. Người được phân công làm công tác kiểm tra thường có

người sắp nghỉ hưu, người thì chờ để được đi học nghiệp vụ xét xử và phát triển

hơn nữa, người thì khó phát triển dù có đủ các khả năng và điều kiện. Từ năm 2013

đến năm 2014 thì Phòng giám đốc kiểm tra có đồng chí Quyền Trưởng Phòng

nguyên là người làm công tác Thi hành án dân sự chuyển qua, còn các đồng chí

khác thì có đồng chí nguyên là thẩm phán nhưng đã đến tuổi sắp nghỉ hưu, có đồng

chí là Thư ký dù được đào tạo cơ bản nhưng lại chưa có nhiều kinh nghiệm thực

tiễn trong các lĩnh vực tố tụng và thi hành án. Từ năm 2015 đến nay thì Phòng có 1

Phó phòng phụ trách, nguyên là Chánh án ở huyện Đảo Lý Sơn rất nhiều năm, 1

đồng chí Thẩm tra viên chính nguyên là Kiểm sát viên Trung cấp, Điều tra viên của

cơ quan điều tra các loại án tư pháp và 3 đồng chí Thư ký đều đã có hơn mười năm

tiến hành tố tụng. Trong số này có 2 Thạc sỹ, 1 người đang học thạc sỹ; có 2 người

tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Nhờ vậy, thời gian này hoạt động kiểm tra có

nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, cần phải chú trọng đến công tác cán bộ quản

lý của Phòng đối với người có năng lực, kinh nghiệm, chủ động và sáng tạo để có

thể ngang tầm trong hoạt động tham mưu, quản lý, chỉ đạo, điều hành và thực hiện

các công việc của Phòng theo yêu cầu trước mắt và lâu dài.

+ Việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn xét xử, tổng kết hoạt động

kháng nghị và xét xử theo các thủ tục đặc biệt của cấp có thẩm quyền cũng chưa

được quan tâm thường xuyên và đúng mức để tác động đến hoạt động tố tụng và

hoạt động kiểm tra.

+ Hệ thống Tòa án chưa ban hành các biểu mẫu về thi hành án hình sự, án

hành chính nên ảnh hưởng đến tính thống nhất của hoạt động thi hành án.

+ Quy trình thực hiện việc kiểm tra và một số kỹ năng cần có của người thực

hiện việc kiểm tra cũng chưa được Tòa án nhân dân tỉnh đầu tư nghiên cứu để ứng

dụng linh hoạt trong các hoạt động kiểm tra.

66

Tiểu kết chương 2

Chương 2 Luận văn đã phản ảnh rõ tình hình và đánh giá hoạt động kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án với những kết quả của nó với những nội dung và số liệu

minh chứng.

Trước yêu cầu đòi hỏi của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các bộ

luật, đạo luật mới, hàng năm, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã ban

hành Kế hoạch kiểm tra, và cán bộ của Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án đã

đề xuất và áp dụng những biện pháp cải tiến trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và

thi hành án, công tác tham mưu giải quyết khiếu nại, trả lời thỉnh thị đã tạo ra bước

chuyển biến không ngừng trong hoạt động này, đặc biệt là công tác kiểm tra các hồ

sơ vụ án và các bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật đã phát hiện nhiều sai phạm,

nhất là sai lầm về áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, từ các quy định của pháp luật và từ kết quả hoạt động thực tiễn,

chúng tôi đã chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

và thi hành án, từ đó làm cơ sở đề ra phương hướng và giải pháp.

67

Chương 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO

HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA NGHIỆP VỤ VÀ THI HÀNH ÁN

CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

3.1. Phương hướng đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

3.1.1. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án phải phục vụ yêu cầu

cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao vị trí, vai

trò, tầm quan trọng của công tác xét xử

Ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,

phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp

mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, với

phương hướng xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm,

xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ

quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.

Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách

nhiệm của NTHTT và NTGTT theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,

nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử là khâu đột

phá của hoạt động cải cách tư pháp.

Nghị quyết chỉ rõ yêu cầu thiết thực nhất của công cuộc cải cách tư pháp là

xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể THTT và TGTT, đổi mới việc tổ

chức các phiên tòa xét xử theo hướng bảo đảm công khai, dân chủ, bình đẳng trước

Tòa án và đặc biệt là nâng cao chất lượng tranh tụng. Việc đề ra yêu cầu nâng cao

chất lượng tranh tụng, đã thể hiện tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự đan

xen giữa thẩm vấn với tranh tụng; do đó, thể hiện nguyên tắc bảo đảm thực hiện

quyền bào chữa trong qúa trình tố tụng, bảo đảm các trình tự, thủ tục tố tụng trong

quá trình tố tụng, trong đó có giai đoạn Tòa án thụ lý và xét xử, bảo đảm quyền bình

68

đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội để bảo đảm việc giải quyết các loại án đúng

pháp luật, tôn trọng chân lý khách quan và điều đó thể hiện quan điểm nghiêm cấm

các hoạt động tố tụng mang tính hình thức, thủ tục, áp đặt mất dân chủ, bất bình

đẳng trontg tố tụng.

Cụ thể hóa Nghị quyết 49, Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử

lập Hiến, đã quy định tại Điều 102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Cùng với nguyên

tắc độc lập xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

được đảm bảo; Hiến pháp còn quy định cụ thể nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

được bảo đảm (khoản 5 Điều 103); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Nội luật hóa các Công ước quốc tế về Quyền con người, tại Chương II Hiến

pháp 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Hiến pháp, đã thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về đường lối xây dựng chế độ

xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn thông qua ghi nhận và giải quyết các nhu cầu cơ

bản của con người để làm cơ sở thực hiện mục tiêu chính trị của dân tộc; ghi nhận

quyền tự do thân thể của con người được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm việc xâm

phạm danh dự nhân phẩm của con người trong hoạt động tố tụng hình sự, đồng thời

thể hiện quan điểm tôn trọng các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự nói

riêng; ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự vốn là sản phẩm của

nền văn minh tư pháp trên thế giới; ghi nhận hơn nữa quyền bào chữa của người tham

gia tố tụng; trách nhiệm của Nhà nước do việc làm oan sai trong hoạt động tư pháp

hình sự và thi hành án, điều đó chứng tỏ đã không chấp nhận một thực tế chủ thể trốn

tránh trách nhiệm do làm oan, sai trong tố tụng hình sự và thi hành án nói riêng; tiếp

tục ghi nhận quyền bình đẳng giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Lần đầu tiên Hiến pháp quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp đã mở ra

nền móng của sự đột phá mạnh mẽ nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của xã hội từ

bao năm qua về yêu cầu phán xét hành vi, quyết định hợp pháp hay không hợp

69

pháp của các chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước; điều đó chính là sự thể hiện

nguyên tắc công bằng, bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án, ghi nhận công lý,

thể hiện bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa và làm thay đổi cách nghĩ, cách

nhìn, cách hành xử của hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể.

Nghị quyết số 49, Hiến pháp 2013 và LTCTAND 2014 ghi nhận lấy Tòa án

làm trung tâm cải cách tư pháp; điều đó nói lên sự đòi hỏi đối với hoạt động xây

dựng pháp luật, hướng dẫn pháp luật, các hoạt động tư pháp, hoạt động áp dụng

pháp luật khác và những hoạt động liên quan, hoạt động bổ trợ tư pháp đều phải

hướng tới nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động giải quyết các loại án của Tòa án.

Khoản 3 Điều 2 LTCTAND 2014 đã hiện thực hóa quyền tư pháp của Tòa án trong

hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động xét xử các loại án, loại vụ việc, nhất là án

hình sự; đây là một sự kiện trọng đại nói lên một trong những yêu cầu thực chất của

cải cách tư pháp, qua đó loại bỏ thói quen ỷ lại, nể nang, ngại va chạm, thờ ơ thiếu

trách nhiệm,…trong tố tụng hình sự và hoạt động kiểm tra.

3.1.2. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án phải phục vụ tăng

cường hiệu quả hoạt động tố tụng và thi hành án

Hoạt động tố tụng rất khó khăn phức tạp, đa dạng, theo xã hội học pháp luật

thì hoạt động này cũng như các hoạt động áp dụng pháp luật khác là bị chi phối bởi

nhiều yếu tố khách quan, nhiều quan hệ xã hội trái chiều, quan hệ quyền lực, quan

hệ tình cảm, sự mua chuộc, đe dọa của những phần tử xấu, trong khi hoạt động áp

dụng pháp luật mang tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể. Vì thế, yêu cầu tiên

quyết và trung tâm nhất để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách

tư pháp là vấn đề con người để tác động qua lại, kiểm soát lẫn nhau nhằm không

ngừng phục vụ tốt hoạt động giải quyết các loại vụ án, vụ việc theo các thủ tục và

tạo môi trường pháp lý trong hoạt động tố tụng trên nguyên tắc bảo đảm chức năng,

nhiệm vụ của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng.

Thấy rằng, sau khi Hiến pháp 2013 ra đời, hàng loạt các luật chuyên ngành

và các bộ luật tố tụng được sửa đổi, bổ sung; điều đó thể hiện sự pháp điển hóa của

hệ thống pháp luật, đồng thời đặt ra thách thức, đòi hỏi rất cao đối với các hoạt

70

động tố tụng nói chung, tố tụng hình sự nói riêng nhằm đưa pháp luật vào cuộc

sống. Do vậy, tăng cường hiệu quả hoạt động tố tụng, hoạt động kiểm tra nghiệp vụ

và thi hành án là đòi hỏi khách quan.

Chúng ta cần thống nhất về nhận thức mang tính tư tưởng chỉ đạo là có làm

thì có kiểm tra – hoạt động thụ lý, giải quyết các loại án, các loại vụ việc và hoạt

động thi hành án của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật (vì trong áp dụng

pháp luật đã bao hàm các hoạt động: sử dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật và thi

hành pháp luật) – là hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước, cho nên hoạt

động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà

nước để xem xét, tra cứu đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp, mức độ

hợp pháp hay không hợp pháp và hậu quả của nó để kết luận về sự tuân thủ pháp

luật đối với các chủ thể được kiểm tra để đưa ra các biện pháp pháp lý để khắc phục

các vi phạm, thiếu sót, sai lầm để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ

thể; tuyệt đối không được lơ là hay vị nể hay ngại và chạm hoặc vì bệnh thành tích.

Trong xã hội có nhiều hệ thống kiểm soát vừa có tính độc lập, vừa có tính

đan xen. Thực tế, tất cả các tiêu cực trong xã hội đó chính là lực cản của sự vận

động phát triển xã hội theo quy luật. Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

cũng chỉ là một lĩnh vực trong hệ thống kiểm soát trong hệ thống Tòa án mà thôi,

nhưng vấn đề đối với hoạt động này, chúng ta phải xác định rằng, quá trình tiến

hành hoạt động đó phải luôn luôn gắn lợi ích ngành với lợi ích của xã hội, lợi ích

của Nhà nước; không được vì lợi ích ngành mà đi ngược lại yêu cầu đòi hỏi so sánh

về lợi ích.

Việc giải quyết các loại án dân sự, án hành chính thì quá trình tố tụng đều do

Tòa án tiến hành, nhất là vai trò của các Thẩm phán; điều đó đặt ra trách nhiệm và

lương tâm đối với Thẩm phán phải bảo đảm quyền bình đẳng của các bên chủ thể

trước Tòa án, không được thiên vị bên này hay ngại va chạm trong quá trình thụ lý

giải quyết. Thực tiễn 5 năm qua chưa có bản án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh

doanh thương mại, lao động, hành chính nào của cấp huyện có hiệu lực pháp luật

mà Tòa án nhân dân tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm hoặc báo cáo đề nghị Tòa án

71

nhân dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm; trong khi từ ngày Luật tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao đã

kháng nghị giám đốc thẩm 3 vụ án dân sự do đương sự có đơn đề nghị kháng nghị

và đều đã xét xử chấp nhận kháng nghị. Điều đó nói lên rằng, có nhiều nguyên nhân

dẫn đến việc kiểm tra các loại án này còn nhiều thiếu sót.

Quá trình giải quyết án hình sự do nhiều cơ quan, người tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng tiến hành. Mặc dù các Thẩm phán không phải là những

người được tham gia từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị

khởi tố, điều tra, kiểm sát điều tra, truy tố, mà chỉ lấy pháp luật làm căn cứ trong

quá trình tiến hành tố tụng để xét xử khách quan, đúng pháp luật, nghiêm minh và

kịp thời, đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực

tế kết quả kiểm tra từ giữa năm 2015 là ngày Luật Tổ chức Tòa án nhân dân có hiệu

lực đến nay, ngoài việc Tòa án nhân dân tỉnh đã có báo cáo đề nghị Tòa án nhân

dân cấp cao kháng nghị giám đốc thẩm 4 vụ, trong đó đã xét xử 3 vụ chấp nhận

kháng nghị, thì với kết quả kiểm tra án hình sự đã được thông báo trong Hội nghị

rút kinh nghiệm từng năm, thấy rằng có không ít bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp

luật có sai lầm cần phải được khắc phục và cần phải có những biện pháp xử lý sai

phạm và phòng ngừa.

Điều đó phần nào nói lên rằng, đối với những người làm công tác kiểm tra

qua kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ, kể cả tham dự các phiên tòa xét xử, giải

quyết các loại án, các loại vụ việc đòi hỏi phải xác định đúng và mạnh dạn chỉ ra

những ưu điểm, những sai sót, vi phạm, thậm chí sai lầm của những đơn vị, cá nhân

được kiểm tra; đồng thời phải đề xuất kịp thời và đúng pháp luật đối với người có

thẩm quyền để xử lý theo các quy định của pháp luật, của ngành Tòa án.

Hoạt động thi hành án chính là những công việc để thực thi những bản án,

quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và có đủ điều kiện đưa ra thi hành. Hoạt

động này chính là giai đoạn cuối cùng của kết quả giải quyết các mâu thuẫn xã hội

nảy sinh từ các vụ án được Tòa án giải quyết. Do đó, công tác thi hành án phải luôn

được chú trọng.

72

3.2. Giải pháp đảm bảo hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

3.2.1.1. Đối với Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

- Thời gian qua có trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo,

cấp phúc thẩm hủy án để điều tra lại, sau đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng

khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 để đình chỉ vụ án và đình chỉ vụ án đối với

bị can với lý do miễn trách nhiệm hình sự. Có trường hợp lẽ ra phải kháng nghị

giám đốc thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án là tuyên hủy bản án sơ thẩm,

tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án, nhưng nhiều lý do mà không xét

đến. Có thể nói đây là một nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quá trình tố tụng

cũng như hoạt động kiểm tra, kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm nói riêng, dẫn

đến người làm oan mà không bị xử lý, người bị oan không thực hiện được quyền

lợi của mình theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định. Chúng tôi

đề nghị bổ sung vào Điều 29 BLHS 2015 “Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự” nội

dung sau đây để thực hiện đúng quy định của BLHS, BLTTHS và Luật Trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước cũng như việc xem xét hành vi ra bản án, quyết

định trái pháp luật: Nghiêm cấm các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng áp dụng Điều 29 Bộ luật này để đình chỉ các trường hợp bị khởi tố, truy tố,

xét xử, kết án oan, sai”.

- Qua nghiên cứu Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy

cấp, quý hiếm” của BLHS năm 2015, thấy rằng:

Cấu thành cơ bản quy định hành vi phạm tội khi vi phạm quy định về bảo vệ

động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh

mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I

Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc

một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm e khoản 1 Điều này.

Khung 2 tăng nặng Điều này từ điểm a đến điểm đ đã lượng hóa hành vi

phạm tội. Khung 3 tăng nặng này từ điểm a đến điểm d đã lượng hóa hành vi

phạm tội.

73

Vấn đề ở đây là tên của Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động

vật nguy cấp, quý hiếm”, trong khi khoản 1 Điều này đưa khách thể bảo vệ bao

gồm cả động vật và thực vật, và tại các tình tiết định tội (từ điểm a đến điểm e

khoản 1 Điều này) thì điểm d có quy định đối tượng tác động của tội phạm bao

gồm cả động vật và thực vật; nhưng tại các tình tiết định khung tăng nặng của

khoản 2 Điều này (từ điểm a đến điểm d) cũng chỉ quy định về động vật; khoản 3

Điều này tại các tình tiết định khung tăng nặng (từ điểm a đến điểm d) cũng chỉ

quy định về động vật, mà thôi.

Do vậy, để bảo vệ các loài động vật và thực vật quý hiếm trải qua hàng triệu

năm tiến hóa mới có được nay đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, cũng như thuận lợi

cho việc xây dựng văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện, thì trước hết cơ quan lập

pháp cần phải sửa lại tên của Điều 244 BLHS 2015 thành Tội vi phạm quy định về

bảo vệ động vật, thực vật nguy cấp, quý hiếm; đồng thời phải bổ sung vào khoản 2

và khoản 3 Điều luật này về đối tượng được bảo vệ là thực vật nguy cấp, quý hiếm.

3.2.1.2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Bộ

luật Tố tụng hình sự 2015. Thực tiễn vướng mắc của LTCTAND, LTCVKSND

2002 và BLTTHS 2003 nhưng các Luật tổ chức mới và BLTTHS 2015 chưa giải

quyết được. Cụ thể:

- BLTTHS 2015 có giải thích “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: là việc

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình

tự, thủ tục do bộ luật này quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích

hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật

khách quan, toàn diện của vụ án” (điểm o khoản 1 Điều 4). Vấn đề đặt ra ở đây thế

nào là xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố

tụng? Do đó cần ban hành văn bản giải thích.

- Về giới hạn xét xử, khoản 3 Điều 298 quy định: Sau khi trả hồ sơ vụ án mà

VKS không đồng ý tội danh nặng hơn thì Tòa có quyền xét xử tội danh nặng hơn.

Vậy nếu tội danh nặng hơn đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa cấp trên hoặc thuộc

74

trường hợp phải bắt buộc có luật sư, HĐXX năm người thì giải quyết như thế nào?

Do vậy cần phải bổ sung quy định về việc xử tội danh nặng hơn nhưng vẫn phải bảo

đảm về thẩm quyền xét xử, thành phần hội đồng xét xử, quyền bào chữa, phải bảo

đảm không vi phạm tố tụng.

- Khoản 1 Điều 307 quy định chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định

người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý, nhưng khoản 2 Điều này lại quy định khi

xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội

thẩm, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

thực hiện việc hỏi. Như vậy, quy định tại khoản 1 và khoản 2 là mâu thuẫn nhau và

mâu thuẫn với mô hình tố tụng thể hiện trong trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét

xử và trách nhiệm truy tố của VKS được KSV thể hiện nghĩa vụ chứng minh và quan

điểm đề nghị trước HĐXX. Theo chúng tôi, cần sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều này

thành: chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết định người tiến hành tố tụng nào

hỏi trước, người tiến hành tố tụng nào hỏi sau, hỏi ai trước, hỏi ai sau, rồi đến người

bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi

theo thứ tự hợp lý. Do vậy, cần bỏ khoản 2 Điều này.

- Về tranh luận tại phiên tòa, khoản 2 Điều 322 quy định Kiểm sát viên phải

đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo,

người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Vậy căn cứ nào để xác

định là đã “đối đáp đến cùng” vì đây chỉ là sự định tính và người có thẩm quyền xác

định đã đối đáp đến cùng là Thẩm phán hay Hội thẩm, KSV, người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người tham gia tố tụng? Do vậy,

cần sửa khoản 2 Điều này thành: KSV phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để

đối đáp làm sáng tỏ tất cả các ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố

tụng khác tại phiên tòa.

- Luật tổ chức TAND, LTCVKSND 2014 và BLTTHS năm 2015 lại không

quy định trách nhiệm của VKS các cấp, của TAND các cấp và những người có trách

nhiệm của các cơ quan này phải có nghĩa vụ phát hiện kịp thời và phải báo cáo cơ

quan, người có thẩm quyền của VKS hoặc TAND có thẩm quyền kháng nghị phúc

75

thẩm, giám đốc thẩm những trường hợp đủ căn cứ kháng nghị để ràng buộc trách

nhiệm nghĩa vụ pháp lý, tránh việc phát hiện khi hết thời hạn kháng nghị hoặc thờ

ơ, buông lỏng trong thanh tra, kiểm tra. Đây là một bất cập về kỹ thuật lập pháp

cũng như đáp ứng mục đích, yêu cầu của hoạt động tố tụng nói chung, xét xử, kiểm

sát xét xử và hoạt động kiểm tra nghiệp vụ nói riêng. Các Luật này cũng không quy

định trách nhiệm của người có thẩm quyền tham mưu kháng nghị, người có thẩm

quyền kháng nghị kể cả kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm mà không tham

mưu, không kháng nghị đối với những trường hợp đủ căn cứ kháng nghị để bảo vệ

lợi ích hợp pháp của các chủ thể, nhất là trường hợp sai tội danh, sai khung hình

phạt, kháng nghị minh oan.

- Khoản 1 Điều 5 LTCVKSND 2014 quy định VKS có thẩm quyền phải

kháng nghị theo các thủ tục tố tụng đối với bản án, quyết định của Tòa án. Khoản 5

Điều 19 quy định, khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ quyền hạn

kháng nghị (theo các thủ tục) bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm

trọng về thủ tục tố tụng. Thấy rằng, các quy định trên đây không thống nhất về

nghĩa vụ, nhiệm vụ quyền hạn kháng nghị.

- Về căn cứ để kháng nghị, trong đó có kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,

tại điểm k khoản 2 Điều 3 của LTCVKSND 2014 quy định VKS kháng nghị khi

phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Chúng tôi cho rằng quy định

như trên sẽ không tương đồng với các quy định của BLTTHS 2015 về kháng nghị

phúc thẩm (Điều 336), tính chất của xét xử phúc thẩm (Điều 330), thay đổi, bổ

sung, rút kháng nghị (Điều 342), thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều

355) mà được cụ thể hóa tại các Điều 356, 357,358,359, 360 và Điều 361 về thẩm

quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm cùng những quy định

liên quan của Bộ luật này về thủ tục phúc thẩm nói riêng.

Vì thế, để phục vụ hoạt động tố tụng, trong đó có tính chất của xét xử phúc

thẩm và hậu quả của kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm giải

quyết vụ án (vì có liên quan đến hoạt động kiểm tra nghiệp vụ), chúng tôi cho rằng

cần sửa đổi, bổ sung những bất cập, thiếu sót của các luật nêu trên theo hướng

(những chữ in nghiêng là đề nghị sửa đổi, bổ sung):

76

- Quy định trong các Luật này về nghĩa vụ phát hiện kịp thời vi phạm sai lầm

của bản án, quyết định giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật, nghĩa vụ báo cáo đề

nghị kháng nghị và nghĩa vụ phải kháng nghị theo các thủ tục.

- Quy định trong BLTTHS 2015 về những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm phù hợp với thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi xét kháng nghị,

để ràng buộc nghĩa vụ của các chủ thể có trách nhiệm, có thẩm quyền tham mưu

kháng nghị, kháng nghị hoặc không kháng nghị. Bổ sung vào khoản 2 Điều 336 về

một trong những nội dung chính của kháng nghị là phải có nội dung vụ án (theo

quan điểm của Viện kiểm sát).

- Điều 342 quy định về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị trước khi bắt đầu

hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, thủ tục phiên tòa phúc thẩm lại quy định

tại Điều 354, cho nên việc quy định thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại

Điều 342 là chưa phù hợp. Lẽ ra cần chuyển quy định từ Điều 342 sang Điều 354,

đồng thời quy định thêm trình tự xem xét việc chấp nhận hay không và hậu quả của

việc chấp nhận. Chẳng hạn việc xem xét, giải quyết phải được thảo luận và thông

qua tại phòng nghị án. HĐXX có thể không chấp nhận việc bổ sung, thay đổi kháng

nghị nói riêng, nếu vi phạm Điều 342. Nếu việc bổ sung kháng nghị dẫn đến việc

thay đổi phạm vi xét xử phúc thẩm vì liên quan đến những NTGTT khác chưa được

triệu tập, thì cần phải hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người có liên quan đến kháng

nghị. Cụ thể, trong trường hợp rút kháng nghị tại phiên tòa thì việc rút đó phải được

ghi vào biên bản. Nếu rút toàn bộ kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ,

nếu rút một phần hoặc còn có kháng nghị khác thì Tòa án cấp phúc thẩm xét xử

phần kháng nghị còn lại và cả những phần đã rút theo hướng giảm nhẹ về hình sự

cho bị cáo theo quy định tại Điều 345 về phạm vi xét xử phúc thẩm và sửa án sơ

thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo theo quy định tại đoạn cuối khoản 2 và khoản 3

Điều 357 về sửa bản án sơ thẩm.

Điều luật quy định rút kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm

phải được đình chỉ. Nhưng lại không quy định nếu rút kháng nghị không có căn cứ

thì xử lý bằng thủ tục gì. Thực tiễn xét xử, trường hợp rút kháng nghị không có căn

77

cứ thì việc khắc phục sai lầm của Toà án sơ thẩm chỉ có thể được thực hiện theo thủ

tục giám đốc thẩm. Cách giải quyết này vừa kéo dài vụ án vừa không bảo đảm lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của NTGTT trong khi vụ án chỉ XXPT

một lần. Do vậy theo chúng tôi, luật cần phải quy định rằng, nếu trước khi xét xử

phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm mà VKS hoặc Kiểm sát viên rút kháng nghị

không có căn cứ, thì HĐXX tạm đình chỉ vụ án và có văn bản kiến nghị lên VKS

cấp trên trực tiếp của VKS đã rút kháng nghị hoặc Viện trưởng VKS đã cử Kiểm sát

viên tham gia phiên tòa và cơ quan, cá nhân này có trách nhiệm xem xét giải quyết

kiến nghị trong một thời hạn nhất định, nếu VKS cấp trên trực tiếp hoặc Viện

trưởng VKS cử Kiểm sát viên đó không ra quyết định hủy bỏ quyết định rút kháng

nghị, thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hoặc HĐXX phúc thẩm ra quyết định đình

chỉ xét xử phúc thẩm.

- Bổ sung 1 khoản vào Điều 351 quy định tư cách người tham gia tố tụng ở

giai đoạn xét xử phúc thẩm, như sau …3. Tư cách tham gia tố tụng của NTGTT ở

giai đoạn xét xử phúc thẩm được xác định như sau: a) Những NTGTT có kháng cáo

thì tư cách tham gia tố tụng của họ được xác định như ở cấp sơ thẩm. b) Đối với bị

cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị thì xác định họ là người bị

kết án, có quyền lợi và nghĩa vụ như NCQL và NVLQ đến vụ án. c) Những NTGTT

khác thì tư cách TGTT của họ được xác định như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.

- Theo Điều 354 về thủ tục phiên tòa phúc thẩm, khoản 1 Điều này có quy

định thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được

tiến hành như phiên tòa sơ thẩm (Điều 307). Như vậy, Điều 354 không có gì thay

đổi so với Điều 247 BLTTHS 2003 vì không quy định từng hoạt động được diễn ra

tại phiên tòa phúc thẩm mà viện dẫn hầu như toàn bộ trình tự thủ tục tiến hành

phiên tòa sơ thẩm, nên gây nhiều khó khăn khi áp dụng. Có ý kiến cho rằng do

phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nên các quy định tại

phiên tòa sơ thẩm đều được áp dụng vào phiên tòa phúc thẩm miễn không trái quy

định của Điều 354. Chẳng hạn bị cáo, người thân của bị cáo trình tài liệu chứng

minh đã bồi thường thiệt hại sau phiên tòa sơ thẩm nhưng người bị hại vắng mặt tại

78

phiên tòa phúc thẩm, HĐXXPT có quyền xem xét để giảm nhẹ cho bị cáo. Trong

khi, nhiều quy định của XXST không thể áp dụng cho XXPT trong đó có phiên tòa

phúc thẩm. Điều 354 không quy định trình tự xét hỏi ra sao, tranh luận được tiến

hành như thế nào khi có ý kiến khác nhau giữa VKS với bị cáo, người bào

chữa…nên khi áp dụng Điều 307 vào phiên tòa phúc thẩm sẽ nhiều điều không hợp

lý. Bởi vì, cơ sở cho việc tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm là kháng nghị, kháng

cáo cho nên chủ thể kháng nghị, kháng cáo phải là người trình bày ý kiến của mình

bắt đầu quá trình tranh luận tại phiên tòa. Nếu có nhiều chủ thể cùng kháng nghị,

kháng cáo thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định, trong trường hợp

đó cần theo nguyên tắc VKS trình bày trước.

Do vậy, Điều 354 lẽ ra phải được quy định theo hướng mở đầu phần xét hỏi

KSV hỏi trước, sau đó đến người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.

Trong khi KSV xét hỏi, nếu không đồng ý, người bào chữa có quyền phản đối, có

thể xét hỏi (khi HĐXX cho phép) mà không nhất thiết phải chờ đến khi KSV hỏi

xong đối với bị cáo hay tất cả các bị cáo, đối với tất cả các hành vi bị xét xử. Có

như vậy mới thể hiện tinh thần dân chủ, bình đẳng giữa các bên tranh tụng. Sau khi

những người này hỏi xong mà thấy còn những vấn đề chưa rõ, chưa đủ cơ sở cho

việc ra phán quyết thì chủ tọa, Thẩm phán tham gia và các Hội thẩm tiến hành hỏi

bị cáo, bị hại, nhân chứng và những NTGTT khác.

Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung một số thủ tục phiên tòa phúc thẩm mà

chưa được quy định trong Điều 354 như: 1. Thủ tục khai mạc phiên tòa, vì thủ tục

này khác với thủ tục phiên tòa sơ thẩm nên cần đưa vào điều luật; 2. Quy định về

thủ tục kiểm tra xem NTGTT đã được giao thông báo kháng nghị, thông báo mở

phiên tòa hay chưa và giải quyết yêu cầu hoãn phiên tòa nếu họ yêu cầu vì chưa

được giao đúng luật định; 3. Thông báo phải nêu rõ thêm các vấn đề sau: xử công

khai hay xử kín; họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký , họ tên Thẩm phán dự

khuyết; họ tên KSV tham gia và dự khuyết; họ tên người bào chữa, người phiên

dịch, người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa; vật chứng cần đưa ra xem xét tại

phiên tòa. Để thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành đúng với tính chất của xét

79

xử phúc thẩm, lẽ ra Điều 354 cần quy định là:1. Phiên tòa phúc thẩm được tiến

hành như sau:a) Chủ tọa khai mạc phiên tòa và tiến hành các thủ tục bắt đầu phiên

tòa. Trong trường hợp NTGTT chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị

trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 338 BLTTHS; thông báo về việc

đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 346 BLTTHS và nếu

họ yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa. b) Nếu có bổ sung, thay đổi, rút kháng

cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì HĐXX xem xét và quyết định tại phòng nghị án,

trường hợp cần thiết HĐXX quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập thêm những

người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng

nghị tại phiên tòa thì HĐXX xét xử phần còn lại; nếu rút toàn bộ các kháng cáo,

kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ. c) Sau khi kết thúc xét hỏi tại phiên

tòa, người đã kháng cáo hoặc kháng nghị có quyền phát biểu đầu tiên. Nếu có nhiều

kháng cáo, kháng nghị thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định. 2.

Các quy định khác về thủ tục phiên tòa sơ thẩm do Bộ luật này quy định được áp

dụng đối với phiên tòa phúc thẩm nếu không trái với quy định tại khoản 1 Điều này.

Và để phân định rõ các chức năng của tố tụng, đồng thời là điều kiện để nâng

cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, Điều 307 cần sửa lại thành: 1.Tại phiên tòa,

tất cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, những tình tiết thuộc về nhân thân và những chứng cứ chứng minh

bị cáo không có tội phải được làm sáng tỏ theo trình tự xét hỏi hợp lý. 2.Khi bắt đầu

giai đoạn xét hỏi, chủ tọa phiên tòa nêu mục đích, yêu cầu của việc xét hỏi theo quy

định của pháp luật, sau đó KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương

sự tiến hành xét hỏi. Bị cáo, người bị hại và những NTGTT có quyền đặt ra các câu

hỏi về những tình tiết có liên quan đến mình nếu được chủ tọa cho phép. Sau khi

các bên hỏi xong, nếu thấy có tình tiết nào chưa rõ hoặc có mâu thuẫn thì chủ tọa

và các thành viên HĐXX tiến hành xét hỏi. 3. Khi xét hỏi, HĐXX, các bên tham gia

xét hỏi và những người tham gia xét hỏi đều có quyền xem xét những vật chứng của

vụ án và những tài liệu, đồ vật không liên quan đến vụ án.

80

- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm

+ Điều 355 quy định thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản

án sơ thẩm, theo đó, khoản 1 Điều này quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có

quyền: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; Sửa

bản án sơ thẩm; Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét

xử lại; Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án; Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Và

thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm quy định tại các điểm a,b,c,d,đ khoản 1

Điều 355, được cụ thể hóa tại Điều 356; 357; 358; 359 và 360. Chúng tôi thấy rằng,

xuất phát từ nội dung kháng nghị, kháng cáo và thẩm quyền của cấp phúc thẩm sẽ

làm phát sinh xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, kháng cáo hoặc xét cả ngoài phạm

vi kháng nghị, kháng cáo và bản án phúc thẩm cũng có thể là đối tượng bị kháng

nghị. Vì thế, nếu quy định như trên thì trong thực tiễn sẽ tiếp tục gặp nhiều khó

khăn vướng mắc khi áp dụng, chẳng hạn:

Nếu kháng nghị, kháng cáo chỉ một phần bản án sơ thẩm, nhưng Hội đồng

xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị, kháng cáo và cũng không xét đến

các phần khác của bản án sơ thẩm, thì việc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 355

“Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm” (được cụ

thể hóa tại Điều 356) là chưa khái quát được các phạm vi và hướng kháng cáo,

kháng nghị, phạm vi xét xử phúc thẩm (Điều 345) và thẩm quyền cấp phúc thẩm

trong thực tế xét xử. Chẳng hạn: M phạm 2 tội bị kết án 1 tội Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản, theo khoản 3 Điều 175 BLHS 2015; 01 tội Trộm cắp tài sản,

theo khoản 3 Điều 173. Người có thẩm quyền kháng nghị với phạm vi chỉ về hình

phạt của tội Trộm cắp tài sản và kháng nghị theo hướng sửa phần hình phạt tù của

bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt tù. Nhưng hành vi M bị kết án theo

khoản 3 Điều 175 lẽ ra phải được định tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3

Điều 174 BLHS, mà chưa được kháng nghị về thay đổi tội danh và Hội đồng xét xử

phúc thẩm không thể xét đến. Do vậy, nếu Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên không

chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm là không ổn vì chỉ xét phần

bản án bị kháng nghị mà thôi.

81

Đối với trường hợp cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm (điểm b khoản 1 Điều

355, được cụ thể hóa tại Điều 357); Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để

điều tra lại hoặc xét xử lại (điểm c khoản 1 Điều 355, được cụ thể hóa tại Điều 358);

Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (điểm d khoản 1 Điều 355, được cụ thể hóa

tại Điều 359); Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm (điểm đ khoản 1 Điều 355) cũng có

nhiều bất cập, thiếu sót, chẳng hạn lý do sau đây:

+ Nếu bị cáo phạm tội đơn lẻ và chỉ phạm một tội hoặc phạm nhiều tội, mà

kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ bản án, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm áp

dụng các quy định nêu trên không có gì khó khăn; nhưng nếu chỉ kháng nghị một

phần của bản án đối với một tội hoặc đối với nhiều tội (chẳng hạn chỉ kháng nghị về

hình phạt hoặc về bồi thường dân sự, về án phí, xử lý vật chứng, về hình phạt hoặc

về áp dụng khung hình phạt…v…v…);

+ Nếu vụ án có đồng phạm chỉ phạm một tội hoặc nhiều tội, mà kháng nghị,

kháng cáo phúc thẩm đối với toàn bộ bản án, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm áp

dụng các quy định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng cáo, kháng nghị một

phần của bản án đối với một tội đối với 1 bị cáo hoặc đối với nhiều tội đối với một

số bị cáo hoặc kháng nghị về bồi thường dân sự, án phí, về hình phạt, khung hình

phạt,…thì áp dụng rất khó khăn (vì có thể chấp nhận phần kháng nghị, kháng cáo

này nhưng không chấp nhận phần kháng cáo, kháng nghị khác đối với 1 bị cáo hoặc

đối với nhiều bị cáo, hoặc Hội đồng xét xử phúc thẩm xét đến ngoài phạm vi kháng

cáo, kháng nghị….v….v…);

+ Nếu Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án, thì cũng phải

nêu lý do căn cứ pháp luật (như: áp dụng nguyên tắc hồi tố có lợi hoặc do có 1 trong

những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 157 của

BLTTHS 2015).

+ Đã quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm

(điểm d khoản 1 Điều 355), thì lẽ ra điểm này phải bổ sung quy định về căn cứ pháp

luật để đình chỉ (như do rút toàn bộ kháng nghị hoặc rút toàn bộ kháng cáo, kháng

nghị) hoặc phải quy định viện dẫn Điều 348 BLTTHS về căn cứ đình chỉ xét xử

82

phúc thẩm vào điểm này. Tuy nhiên, Điều 348 cũng không quy định về đình chỉ vụ

án khi bị cáo chết trong giai đoạn thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

+ Điều 355 không quy định Hội đồng xét xử đình chỉ vụ án (chẳng hạn như

bị cáo chết sau khi có văn bản đưa ra xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm).

Do đó, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung các Điều 355, 358, 359 như sau:

+ Điều 355: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

1. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng nghị và

giữ nguyên bản án sơ thẩm bị kháng nghị; b) Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ

thẩm; c) Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cơ

quan có thẩm quyền để điều tra lại hoặc xét xử lại; d) Hủy và đình chỉ một phần

hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi có căn cứ quy định của BLHS, BLTTHS; đ) Đình

chỉ xét xử phúc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 348 của Bộ luật này; e) Đình

chỉ vụ án, khi có căn cứ quy định của BLHS, BLTTHS hoặc bị cáo chết mà việc

kháng cáo, kháng nghị không liên quan đến họ (đề nghị bổ sung).

+ Điều 356: Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án

sơ thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm (thay cụm từ Tòa án cấp phúc thẩm để thống

nhất với các điều luật liên quan) không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ

nguyên một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi xét thấy phần nhận định và các

quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật.

+ Điều 358: Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại

1. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ (vì không thể hủy

những phần của bản án sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật không bị kháng cáo,

kháng nghị) bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp (đã được quy định

tại các điểm a;b;c khoản 1 Điều này). 2. Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần

hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét

xử mới trong các trường hợp: (quy định tại các điểm a;b;c;d;đ khoản 2 Điều này).

Tại điểm đ khoản 2 Điều 358 quy định “đ. Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm

trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử

phúc thẩm sửa án theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật này”. Điểm đ khoản 2 Điều

83

này là quy định mới về Tòa án cấp phúc thẩm được quyền hủy bản án sơ thẩm để xét

xử lại, chứ không phải y án rồi kiến nghị cấp giám đốc thẩm nữa. Chúng tôi cho rằng,

việc Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền này sẽ sớm khắc phục vi phạm sai lầm của

bản án sơ thẩm, nhưng nếu bản án sơ thẩm chỉ bị kháng cáo, kháng nghị một phần

hoặc toàn bộ nhưng việc kháng cáo, kháng nghị này không làm xấu đi tình trạng của

bị cáo, mà cấp phúc thẩm lại hủy án theo hướng xét xử lại làm xấu đi tình trạng của

bị cáo, thì liệu có bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa không, có ràng

buộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng không, có vi phạm chế độ 2 cấp xét

xử không và liệu bản án phúc thẩm có “xé rào, lấn sân” của cấp giám đốc thẩm hay

không khi hủy các phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc

khác phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. Theo chúng tôi, nên bổ sung điểm đ

khoản 2 Điều 358 thành: Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng

pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án theo quy

định tại Điều 357 của Bộ luật này nếu có kháng cáo,kháng nghị.

Về hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại: Lẽ ra khoản 2 Điều 358 cần quy định

như sau: Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm

với thành phần Hội đồng xét xử mới trong các trường hợp:a)…;b)…;c) Người được

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm

tội, bao gồm: VKS truy tố bị cáo một hành vi về một tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm

tuyên bố bị cáo không phạm tội; VKS truy tố nhiều tội, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ

tuyên bị cáo phạm một hoặc một số tội; VKS truy tố về nhiều hành vi phạm tội về

nhiều hành vi khác nhau trong cùng một điều luật (tội liên hoàn), Tòa án cấp sơ

thẩm chỉ kết án bị cáo về một hoặc một số hành vi phạm tội về một hoặc một số tội;

VKS truy tố bị cáo về nhiều hành vi phạm tội khác nhau cùng về một tội danh

nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không kết án bị cáo tất cả các hành vi VKS đã truy tố mà

chỉ kết án một hoặc một số hành vi đã truy tố.

+ Điều 359: Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

1. Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 hoặc (thay từ và bằng

từ hoặc mới đúng) khoản 2 Điều 157 (những căn cứ không được khởi tố vụ án hình

84

sự) của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội, hủy

bản án sơ thẩm kết tội bị cáo và đình chỉ vụ án đối với bị cáo đó (để dễ áp dụng

trong vụ án có đồng phạm phạm một tội hoặc nhiều tội hoặc đối với bị cáo bị xét xử

nhiều tội…v…v….).

- Về thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm

+ “Điều 361. Thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm

1. Hội đồng phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị

và giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi xét thấy các quyết định của

Tòa án cấp sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật; b) Sửa quyết định của Tòa án cấp

sơ thẩm; c) Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa

án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án”. BLTTHS 2015 không quy định viện

dẫn về thẩm quyền này của cấp phúc thẩm nữa, mà quy định cụ thể tại Điều 361.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng:

Điểm a khoản 1 Điều này thể hiện chỉ quy định việc kháng nghị và xét kháng

nghị đối với một phần hoặc các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy nếu phần

nhận định trong quyết định sơ thẩm mà mâu thuẫn với phần quyết định của quyết

định sơ thẩm khi xét theo quy trình của hoạt động áp dụng pháp luật, thì sao;

Điểm c khoản 1 Điều này cũng chỉ có thể được hiểu rằng Tòa án cấp phúc

thẩm hủy quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án của Tòa án

cấp sơ thẩm. Vậy trường hợp các quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng

không phải là quyết định giải quyết vụ án (chẳng hạn như Viện kiểm sát kháng nghị

phúc thẩm đối với quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị tha

tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hủy quyết định tha tù trước thời hạn có

điều kiện, theo khoản 11 Điều 368 BLTTHS 2015 mà chúng tôi đã trình bày trong

luận văn) mà bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy do có kháng nghị, thì sao.

Theo chúng tôi cần phải sửa đổi bổ sung Điều 361 thành:

Điều 361. Thẩm quyền của Hội đồng phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm

1. Hội đồng phúc thẩm có quyền: a) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị

và giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi xét thấy các nội dung của

85

quyết định này có căn cứ và đúng pháp luật (bỏ cụm từ “của Tòa án cấp sơ thẩm” );

b)…; c) Hủy quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án, hồ sơ vụ

việc cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án hoặc giải quyết lại vụ việc.

- Cần hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng vào thủ tục giám đốc thẩm theo

hướng quy định phiên tòa giám đốc thẩm cần phải có sự tham gia của người bị kết

án, NCQL&NVLQ, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Cần sửa

Điều 379 BLTTHS 2015 về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng bất lợi

cho người bị kết án phù hợp với thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Cần bổ sung quy định tại Điều 381 BLTTHS 2015 trường hợp rút kháng

nghị không đúng pháp luật theo hướng:

Nếu Viện kiểm sát kháng nghị, mà trước khi xét xử giám đốc thẩm người

kháng nghị rút kháng nghị, thì Chánh án Tòa án xét xử giám đốc thẩm ra quyết định

tạm đình chỉ vụ án và có văn bản kiến nghị lên Viện trưởng (nếu người rút kháng

nghị là Phó Viện trưởng); nếu Viện trưởng kháng nghị mà rút kháng nghị, thì kiến

nghị lên Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp. Khi có văn bản trả lời việc nhất trí rút

kháng nghị, thì Chánh án ra quyết định đình chỉ vụ án. Nếu tại phiên tòa mà Kiểm

sát viên (không phải là người ban hành kháng nghị) rút kháng nghị, thì Hội đồng xét

xử giám đốc thẩm tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKS cùng cấp

xem xét giải quyết. Nếu có văn bản trả lời việc nhất trí rút kháng nghị, thì Hội đồng

xét xử giám đốc thẩm ra quyết định đình chỉ vụ án.

Nếu Tòa án kháng nghị mà trước khi xét xử giám đốc thẩm người kháng

nghị rút kháng nghị thì phải làm văn bản báo cáo Chánh án Tòa án cấp trên để xem

xét. Nếu tại phiên tòa mà người kháng nghị rút kháng nghị, thì Hội đồng xét xử

giám đốc thẩm tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Chánh án Tòa án cấp trên xem xét.

Nếu có văn bản trả lời việc nhất trí rút kháng nghị, thì Hội đồng xét xử giám đốc

thẩm ra quyết định đình chỉ vụ án.

- BLTTHS 2015 và LTCTAND, LTCVKSND có quy định Phó Chánh án;

Phó Viện trưởng khi được Chánh án; được Viện trưởng ủy quyền thay mặt mình, thì

được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án; của Viện trưởng. Trong khi

86

Điều 373 BLTTHS 2015 chỉ quy định Chánh án, Viện trưởng cấp có thẩm quyền thì

mới có quyền ban hành kháng nghị giám đốc thẩm, và tại khoản 1 Điều 383 quy

định phiên tòa giám đốc thẩm phải có Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp, mà

không quy định Kiểm sát viên đó phải là Viện trưởng. Vậy:

Nếu Phó Chánh án hoặc Phó Viện trưởng mà kháng nghị, thì trước khi hoặc

tại phiên tòa giám đốc thẩm Chánh án hoặc Viện trưởng có được quyền bổ sung,

thay đổi, rút kháng nghị không, cũng là một vấn đề cần xem xét luật hóa.

Nếu người kháng nghị là Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện

trưởng ủy quyền, nhưng người kháng nghị lại không tham dự phiên tòa giám đốc

thẩm mà ủy quyền cho Kiểm sát viên cấp mình tham gia, thì tại phiên tòa Kiểm sát

viên đó có thể tự mình thay đổi hoặc bổ sung kháng nghị theo đúng pháp luật về

phạm vi kháng nghị, hướng kháng nghị và thời hạn kháng nghị hay không, vì hệ

thống VKSND tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.

Vậy cần sửa Điều 373 BLTTHS 2015 về những người có quyền kháng nghị

giám đốc thẩm cho thống nhất với quy định của Bộ luật này và các luật chuyên

ngành nêu trên.

Đề nghị sửa Điều 383 về những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

theo hướng có sự tham gia của Kiểm sát viên VKS cùng cấp, thành có sự tham gia

phiên tòa của Kiểm sát viên là Viện trưởng VKS cùng cấp. Có như vậy mới ràng

buộc trách nhiệm của VKS (nếu Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng kháng nghị) và

góp phần bảo đảm tính khách quan khi các thành viên Hội đồng xét xử giám đốc

thẩm xét kháng nghị của Tòa án, của VKS.

- Điều 388 BLTTHS 2015: Khoản 1 quy định thẩm quyền cấp giám đốc

thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật bị kháng nghị; Khoản 2 quy định Hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng

pháp luật của Tòa án sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng

pháp luật; Khoản 3 Điều này quy định hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật để điều tra lại hoặc để xét xử lại; Khoản 4 quy định hủy bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.

87

Theo đó, khoản 1 Điều 388 được cụ thể hóa tại Điều 389; khoản 2 Điều 388

được cụ thể hóa tại Điều 390; khoản 3 Điều này được cụ thể hóa tại Điều 391 và

khoản 4 Điều này được cụ thể hóa tại Điều 392.

Theo chúng tôi, xuất phát từ nội dung kháng nghị giám đốc thẩm (phạm vi

kháng nghị và hướng kháng nghị) và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm sẽ làm

phát sinh xét xử giám đốc thẩm xét kháng nghị hoặc xét cả ngoài phạm vi kháng

nghị đối với bán án, quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật hoặc

bản án phúc thẩm, và quyết định giám đốc thẩm cũng có thể là đối tượng bị kháng

nghị. Quy định như trên, thực tiễn sẽ gặp nhiều vướng mắc, chẳng hạn:

Nếu kháng nghị giám đốc thẩm với phạm vi chỉ một phần bản án hoặc quyết

định sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm nhưng Hội đồng giám đốc thẩm

không chấp nhận kháng nghị và cũng không xét đến các phần khác, thì việc khoản 1

Điều 388 và Điều 389 quy định “Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị” là chưa khái quát được các

phạm vi và hướng kháng nghị và thẩm quyền giám đốc thẩm trong thực tế .

Giả sử: A phạm 2 tội bị kết án 1 tội Cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều

104 BLHS 1999; 01 tội Trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138. Người có thẩm

quyền kháng nghị với phạm vi chỉ về hình phạt của tội Trộm cắp và theo hướng hủy

phần hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại tăng hình phạt.

Nhưng hành vi A bị kết án khoản 3 Điều 104 lẽ ra phải định tội giết người, mà chưa

được kháng nghị về vấn đề này và Hội đồng giám đốc thẩm không xét đến. Do vậy,

nếu Hội đồng giám đốc thẩm tuyên như quy định tại khoản 1 Điều 388 hoặc Điều

389 là không ổn vì chỉ xét một phần bản án bị kháng nghị mà thôi.

Đối với khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 388 (được cụ thể hóa tại

các Điều 390,391,392,393) có nhiều bất cập, chẳng hạn lý do sau đây:

+ Nếu bị cáo phạm tội đơn lẻ và chỉ phạm một tội, hoặc phạm nhiều tội, mà

kháng nghị giám đốc thẩm đối với toàn bộ bản án hoặc quyết định, thì Hội đồng

giám đốc thẩm áp dụng các quy định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng

nghị một phần của bản án đối với một tội hoặc đối với nhiều tội (chẳng hạn chỉ

88

kháng nghị về hình phạt hoặc về dân sự hoặc về án phí hoặc xử lý vật chứng hoặc

về hình phạt và về áp dụng khung hình phạt…) thì sẽ khó khăn trong từng trường

hợp cụ thể vì không thể tuyên hủy bản án, quyết định để điều tra lại hoặc để xét xử

lại hoặc tuyên sửa bản án, mà chỉ có thể tuyên hủy một phần bản án để điều tra lại

hoặc để xét xử lại hoặc tuyên sửa một phần mà thôi;

+ Nếu vụ án có đồng phạm phạm một tội hoặc nhiều tội mà kháng nghị đối

với toàn bộ bản án hoặc quyết định, thì Hội đồng giám đốc thẩm áp dụng các quy

định nêu trên sẽ thuận lợi; nhưng nếu chỉ kháng nghị một phần của bản án đối với

một tội đối với 1 bị cáo hoặc đối với nhiều tội đối với một số bị cáo hoặc kháng

nghị về dân sự, án phí, về hình phạt, khung hình phạt,…thì áp dụng rất khó khăn (vì

có thể chấp nhận phần kháng nghị này nhưng không chấp nhận phần kháng nghị

khác hoặc xét đến ngoài phạm vi kháng nghị…).

Do đó đề nghị sửa các Điều 388, 389,390,391, 392, 393 theo hướng sau:

- Điều 388: Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm: 1. Không chấp nhận

kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng

nghị. 2. Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và

giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án

cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. 3. Hủy một phần hoặc toàn bộ

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. 4. Hủy

một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ

án. 5. Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 6. Đình chỉ xét xử giám đốc

thẩm vụ án.

- Điều 389: Không chấp nhận kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm không

chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi xét thấy bản án, quyết định đó có căn cứ và

đúng pháp luật.

- Điều 390: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên

bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc

thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật: Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy

89

một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên

bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc

thẩm nhưng bị hủy, sửa không đúng pháp luật.

- Điều 391: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại

hoặc xét xử lại: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một

trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này. Nếu hủy để xét xử lại thì

tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ

thẩm hoặc cấp phúc thẩm….

- Điều 392: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ

án: Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án hoặc các phần của vụ án nếu có một trong các

căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ theo quy định của

BLHS (do áp dụng hiệu lực hồi tố...) hoặc có căn cứ theo quy định của BLDS (nếu

kháng nghị về dân sự), của Luật chuyên ngành (vì chủ thể tội phạm theo BLHS

2015 bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khi giải quyết vụ án có thể phải áp

dụng cả luật này).

- Điều 393. Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật: Hội đồng giám

đốc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi

có đủ các điều kiện…

Ngoài ra, chúng tôi cũng đề nghị liên ngành tư pháp tỉnh cần thường xuyên

rà soát và chỉ đạo cấp huyện rà soát án tạm đình chỉ để giải quyết kịp thời các

trường hợp đủ căn cứ (để phục hồi điều tra; đình chỉ vụ án do chưa khởi tố bị can

khi hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã khởi tố bị can nhưng áp dụng

quy định mới của BLHS 2015 theo hướng có lợi), tránh phục hồi điều tra và tiến

hành tố tụng không đúng pháp luật; đồng thời cần tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm

án đình chỉ theo Điều 25 BLHS và theo các Khoản 1, 2, 3 Điều 107 BLTTHS nhằm

hạn chế thấp nhất việc làm oan, tránh trách nhiệm, gây thiệt hại cho công dân và để

thực hiện tốt BLHS và BLTTHS năm 2015.

90

3.2.1.3. Luật tố tụng hành chính năm 2015

Chúng tôi thấy có những vướng mắc, hạn chế, bất cập sau đây:

Về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc

thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị: Điều 203 của

Luật tố tụng hành chính quy định tính chất của xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp

phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có

hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tại Điều 205 quy định người

kháng cáo có quyền kháng cáo toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm chưa có hiệu

lực pháp luật. Điều 212 quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị toàn bộ hoặc

một phần bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Về hậu quả của kháng cáo, kháng nghị, khoản 1 Điều 215 quy định phần của

bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa được

đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định thi hành ngay. Khoản 2 Điều này

quy định bản án, quyết định hoặc phần của bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ

thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời

hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về phạm vi xét xử phúc thẩm, Điều 220 quy định Tòa án cấp phúc thẩm chỉ

xét lại phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị

hoặc có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Điều 241 khoản 2 quy định

Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm khi

có một trong các căn cứ quy định tại điểm a, b khoản này. Khoản 3 Điều này quy

định Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại. Điều

243 quy định về thủ tục phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm. Tại khoản 5 Điều

này quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa hoặc hủy quyết định của Tòa

án cấp sơ thẩm để cấp sơ thẩm tiếp tục giải quyết lại vụ án.

Về thi hành án đối với bản án, quyết định hành chính: Điều 309 quy định các

bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án về vụ án hành chính, trong đó có quy

định bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định sơ thẩm về vụ án hành chính

không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

91

Điều 312 quy định về yêu cầu, buộc thi hành án hành chính: Khoản 2 Điều này quy

định Tòa án đã xét xử sơ thẩm khi ra quyết định buộc thi hành án phải gửi quyết

định này cho Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án. Quy

định này trong thực tiễn nhiều bất cập, chẳng hạn:

Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện quyết định hành

chính của Ủy ban nhân dân (các cấp), thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của đơn vị

này là ai;

Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện về quyết định hành

chính của người đại diện của UBND (Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp), thì thủ

trưởng cấp trên trực tiếp của đơn vị này có phải là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

trên trực tiếp hay không; thủ trưởng cấp trên trực tiếp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh có phải là người đứng đầu hệ thống hành pháp của nước ta hay không;

Nếu bản án, quyết định hành chính giải quyết khiếu kiện về hành vi hành

chính do người của pháp nhân thực hiện, không phải do người đứng đầu pháp nhân

thực hiện (chẳng hạn như chuyên viên của cấp Phòng của Sở hoặc UBND huyện

thực hiện), thì thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người này có phải là thủ trưởng cơ

quan (Giám đốc Sở hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện) không. Việc luật không quy

định gửi quyết định buộc thi hành án cho thủ trưởng trực tiếp của người phải thi

hành án cũng là một bất cập, kế cả trong trường hợp người phải thi hành án là cấp

phó của người đứng đầu pháp nhân…v…v…

Chương XIX Luật này khi xét kỹ nội dung của các điều luật thì là quy định

những vấn đề chung về thi hành án, là các quy định về thủ tục đưa ra thi hành bản án,

quyết định của Tòa án, chưa phải là quy định hoạt động thi hành án tức là thủ tục,

trình tự nhằm tổ chức, thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Luật này chưa quy

định việc người phải thi hành án hành chính báo cáo/ thông báo cho Tòa án về thi

hành án bản, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật,

kể cả trong trường hợp tự nguyện thi hành án hoặc thi hành án theo quyết định của

Tòa án. Vấn đề này làm cho việc Tòa án theo dõi, thống kê, báo cáo về công tác thi

hành án hành chính và ra quyết định buộc thi hành án hành chính gặp nhiều khó khăn

92

vì khi Tòa án ra quyết định buộc thi hành án nhưng người có nghĩa vụ phải thi hành

án có thực hiện hay không thì Tòa án cũng khó biết được. Luật này chưa quy định về

khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo trong thi hành án hành chính.

Từ các quy định trên, chúng tôi kiến nghị cần phải sửa đổi, bổ sung, hướng

dẫn Luật tố tụng hành chính như sau:

- Bổ sung Điều 203 của Luật tố tụng hành chính quy định tính chất của xét

xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định

hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp

luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bổ sung khoản 3 Điều 241 thành: Hội đồng xét

xử phúc thẩm hủy toàn bộ hoặc một phần bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại…

Bổ sung Điều 243 thành: Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa hoặc hủy toàn

bộ hoặc một phần quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để cấp sơ thẩm tiếp tục giải

quyết lại vụ án. Bổ sung Điều 311 về việc người phải thi hành án báo cáo, thông

báo cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc đã tự nguyện thi hành án, thời hạn tự

nguyện và kết quả. Bổ sung Điều 312 về việc người phải thi hành án báo cáo/thông

báo cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc thi hành án theo quyết định của Tòa án,

thời hạn và kết quả.

- Cần hướng dẫn Điều 312 về việc Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án hành

chính gửi quyết định buộc thi hành án cho thủ trưởng cấp trên, và bổ sung quy định

gửi quyết định này cho thủ trưởng của người phải thi hành án. Ngoài ra, đề nghị bổ

sung trong Luật tố tụng hành chính quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi

hành án hành chính (trừ trường hợp thi hành án về tài sản, vì đã có Luật thi hành án

dân sự điều chỉnh).

3.2.1.4. Luật Thi hành án hình sự năm 2010

Luật này quy định Tòa án có thẩm quyền đình chỉ thi hành án trong các

trường hợp theo khoản 5 Điều 24; khoản 5 Điều 32; khoản 2 Điều 49 nhưng hiện

nay TANDTC chưa ban hành biểu mẫu về đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trường

hợp Tòa án đã ra quyết định thi hành án nhưng Tòa án cấp trên lại hủy, sửa bản án

đối với các bị cáo không kháng cáo nên quyết định thi hành án đã ban hành không

93

còn hiệu lực thì phải hủy quyết định thi hành án đã ban hành. Tuy nhiên hiện chưa

có biểu mẫu quyết định hủy quyết định thi hành án phạt tù đối với trường hợp trên.

Luật Thi hành án hình sự chỉ điều chỉnh đối với các bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật, được đưa ra thi hành án, mà không đề cập đến các trường hợp bị cáo

đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt, bản án chưa có hiệu lực pháp luật mà bị cáo chết,

sau đó bản án có hiệu lực pháp luật thì có đình chỉ thi hành án hay không.

Việc ra quyết định thi hành án phạt tù đối với bị án tại ngoại trong vụ án này

nhưng lại bị tạm giam trong vụ án khác: Luật này chưa quy định về trường hợp bị

án đã bị kết án về một tội, hiện đang tại ngoại và cư trú ở một địa phương khác, khi

bản án có hiệu lực pháp luật nên Tòa án lập hồ sơ ra quyết định ủy thác cho Tòa án

nơi bị án đang cư trú, thì nhận được thông tin bị án đang bị tạm giam về một tội

khác, nên tòa án nơi bị án đang cư trú trả lại hồ sơ ủy thác cho Tòa án đã tuyên án,

dẫn đến việc ra quyết định thi hành án kéo dài.

Về thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù hiện chưa quy định cơ quan đơn vị

nào chịu trách nhiệm xác nhận vào đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù; cũng chưa

có hướng dẫn về sự phối hợp giữa các cơ quan liên ngành đối với trường hợp nêu

trên để áp dụng thống nhất. Việc đình chỉ chấp hành hình phạt tù với người bị kết án

đã chết trong lúc được hoãn hay tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hiện chưa có

quy định về trình tự, thủ tục thực hiện.

Về thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù: Khi người bị kết án hết thời hạn

được hoãn chấp hành hình phạt tù thì cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền xác nhận

người bị kết án đã phục hồi sức khỏe, có đủ sức khỏe để chấp hành hình phạt tù?

đây là căn cứ để Tòa án ra quyết định thi hành án phạt tù (quyết định tiếp tục thi

hành án) khi lý do hoãn này đã hết, tránh tình trạng việc hoãn thi hành án kéo dài

không có giới hạn, làm cho mục đích của hình phạt không đạt được. Trường hợp

hoãn thi hành án đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì

được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi; nếu có thai nhưng đã sảy thai, con nhỏ

dưới 36 tháng tuổi đã bị chết… trường hợp này cần quy định cụ thể là cho hoãn thi

hành án nhiều lần cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, để Tòa án dễ theo dõi.

94

3.2.1.5. Luật Đặc xá. Qua gần 10 năm thi hành Luật Đặc xá, thấy rằng:

- Điều 11 quy định “Các trường hợp không đề nghị đặc xá: Người có đủ điều

kiện quy định tại Điều 10 của Luật này không được đề nghị đặc xá trong các trường

hợp sau đây: 1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; 2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về hành vi phạm tội khác; 3. Trước đó đã được đặc xá; 4. Có từ hai tiền án trở lên;

5. Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định. Chúng tôi có ý kiến như sau:

Đối với khoản 1 Điều này “1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với

người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”: Luật quy định

như vậy là quá chung chung và có khi gây bất lợi cho người bị kết án; vì rằng:

Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có thể bất lợi hoặc có lợi cho người bị kết án;

phạm vi và hướng kháng nghị cũng có thể toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết

định chẳng hạn như kháng nghị về áp dụng pháp luật hình sự hoặc pháp luật về dân

sự hoặc về pháp luật chuyên ngành khác. Thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối

với bản án, quyết định cụ thể thì pháp luật cũng không quy định số lần kháng nghị,

và không phải mọi trường hợp kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đều được

Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm chấp nhận.

Đối với khoản 2 Điều này “2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành

vi phạm tội khác”. Quy định này cũng quá chung chung, vì “truy cứu trách nhiệm

hình sự về hành vi phạm tội” cũng chỉ là phạm trù khả năng. Mà truy cứu trách

nhiệm hình sự bao gồm: bắt tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự; khởi tố bị can và

tiến hành các hoạt động tố tụng; đề nghị truy tố; truy tố, xét xử theo các thủ tục và

kết quả xét xử. Và nữa, nhiều trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vụ

án được tạm đình chỉ, tạm đình chỉ bị can/bị cáo, đình chỉ vụ án – bị can/bị cáo do

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện (do pháp luật thay đổi, do đại xá,

do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự…v…v). Do vậy, việc quy định những

người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác thì không xét

đề nghị đặc xá là không phù hợp.

95

Đối với khoản 4 Điều này “4.Có từ hai tiền án trở lên: Quy định này cũng

có nhiều bất cập vì người bị kết án đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm

hình sự “tái phạm” hoặc “tái phạm nguy hiểm” hoặc tình tiết định khung tăng nặng

hoặc yếu tố “đã bị kết án” là yếu tố định tội rồi. Mặt khác, quy định này cũng mâu

thuẫn với chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự và mâu thuẫn với nguyên tắc

chung của các chế tài pháp lý là mỗi hành vi vi phạm pháp luật chỉ có thể bị xử lý

một lần với một chế tài tương ứng.

Mặt khác, Bộ luật hình sự cũng thường được sửa đổi, bổ sung nên chi phối

đến quy định về “tiền án”. Do vậy, một người khi bị Tòa án kết án thì bị xác định là

có “tiền án”, nhưng khi án đã có hiệu lực pháp luật hoặc đã chấp hành án xong mà

phạm tội mới thì nhiều trường hợp không bị coi là “có tiền án” nữa. Do vậy, chúng

tôi đề nghị sửa đổi Luật đặc xá bỏ khoản 4 Điều 11, và đề nghị hướng dẫn cụ thể

khoản 1 và khoản 2 Điều 11.

3.2.2. Giải pháp đối với hệ thống Tòa án

3.2.2.1. Đối với Tòa án nhân dân tối cao

Cần luôn chú trọng công tác kiểm tra trong hệ thống Tòa án nhân dân, bằng việc:

- Chánh án TANDTC cần sớm ban hành các chỉ thị về tăng cường công tác

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án

và thường xuyên tổ chức hội nghị tổng kết về công tác này.

- Trên cơ sở Quy chế kiểm tra và Quy chế xử lý trách nhiệm, cần ban hành

Đề cương kiểm tra để tiến hành kiểm tra các TAND các cấp trực thuộc.

- Chỉ đạo các TAND cấp tỉnh phải tăng cường các yếu tố về công tác kiểm

tra và yêu cầu hàng năm phải ban hành quy chế kiểm tra, đề cương kiểm tra, gửi về

TANDTC để theo dõi, chỉ đạo, yêu cầu hàng tháng, quý, năm phải báo cáo về

TANDTC tình hình, kết quả hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, những ưu

điểm, khó khăn vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất kiến nghị để xem xét,

tập hợp có hướng giải quyết.

- Sớm có kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung

các Luật Tố tụng hình sự, dân sự, hành chính về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm,

96

hậu quả của kháng cáo, kháng nghị, bản án phúc thẩm và thẩm quyền của cấp phúc

thẩm; kháng nghị giám đốc thẩm, hậu quả kháng nghị, bản án giám đốc thẩm và

thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm..v…v…Luật Thi hành án hình sự mà chúng tôi

đã nêu trong phần giải pháp, để cho cơ bản thống nhất về nhận thức, áp dụng và đáp

ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

- Kiến nghị với Quốc Hội sớm ban hành Luật thi hành án hành chính.

- Chỉ đạo Học Viện Tòa án xây dựng Giáo trình đào tạo Thẩm tra viên, trong

đó đi sâu vào chương trình gảng dạy kỹ năng xây dựng kế hoạch kiểm tra và kỹ

năng kiểm tra đối với các hoạt động nghiệp vụ của Tòa án, kỹ năng hoạt động thi

hành án hình sự.

- Đề xuất với cấp có thẩm quyền về chế độ chính sách ưu đãi đối với những

người làm công tác kiểm tra.

3.2.2.2. Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

- Tăng cường công tác kiểm tra của Tòa án. Với kết quả kiểm tra phát hiện

những vi phạm, sai lầm nêu trên, và qua việc tác giả tham dự các phiên tòa hình sự

cấp huyện, nhận thấy việc kiểm tra hoạt động thụ lý và giải quyết, xét xử các loại

án, loại vụ việc của các Tòa án cấp huyện là không thể xem nhẹ. Do vậy, định kỳ

Tòa án tỉnh cần thành lập tổ công tác tiến hành kiểm tra đột xuất việc nghiên cứu hồ

sơ vụ án và đường lối giải quyết của Chủ tọa phiên tòa trong giai đoạn chuẩn bị xét

xử; và “tham dự” phiên tòa xét xử các loại án nhất là án hình sự của tất cả các Tòa

án cấp huyện trực thuộc và Tòa án tỉnh với yêu cầu đặc biệt chú trọng việc thực

hiện và áp dụng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục phiên tòa, xác định

căn cứ của những trường hợp hoãn phiên tòa hoặc tiến hành xét xử, quá trình điều

khiển của chủ tọa phiên tòa trong thẩm vấn, tranh tụng, hoạt động chứng minh để

giải quyết các yêu cầu đặt ra đối với vụ án, nghị án, tuyên án, ban hành và giao bản

án để kịp thời chỉ ra các vi phạm trong quá trình này và tổ chức sơ kết để rút kinh

nghiệm chung trong giao ban ngành Tòa án tỉnh và yêu cầu đơn vị, cá nhân có vi

phạm nghiêm túc khắc phục.

Việc kiểm tra hồ sơ các loại án giải quyết đã có hiệu lực pháp luật nhất là các

loại vụ án giải quyết bằng hình thức xét xử, cần phải chú trọng đến chất lượng xây

97

dựng, nghiên cứu hồ sơ và ra một trong các quyết định trong giai đoạn chuẩn bị xét

xử, việc xây dựng đề cương xét hỏi/hỏi, chiến thuật và trình tự xét hỏi/hỏi, quá trình

chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên Tòa và kết quả chứng minh của Hội đồng xét

xử, việc nghị án và ra bản án trong từng vụ án cụ thể để đánh giá chất lượng. Kết

luận kiểm tra bằng văn bản phải chỉ ra sai phạm cụ thể trong từng vụ việc và yêu

cầu cơ quan được kiểm tra tổ chức họp toàn đơn vị để yêu cầu Thẩm phán, Thư ký

vi phạm nghiêm túc khắc phục, vi phạm của Hội thẩm đều phải được trực tiếp góp ý

hoặc thông qua hội nghị Hội thẩm, vi phạm của Kiểm sát viên phải được thông báo

qua giao ban liên ngành.

Thường xuyên quán triệt cán bộ làm công tác kiểm tra phải tận tụy với công

việc, chuẩn mực, khách quan trong đánh giá vi phạm. Những bản án, quyết định sơ

thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì phải được

báo cáo đầy đủ và kịp thời lên Tòa án cấp có thẩm quyền để xem xét kháng nghị;

không nên bao che, bệnh thành tích, tránh né trách nhiệm.

- Ngoài việc hàng năm ban hành Kế hoạch kiểm tra và Đề cương kiểm tra,

thì mỗi cuộc kiểm tra cần ban hành Quyết định kiểm tra và Kế hoạch kiểm tra.

- Cần lập Phiếu kiểm tra bản án, quyết định; Phiếu nhận xét, đánh giá phiên

tòa rút kinh nghiệm: Từ khi về công tác tại Phòng và được giao nhiệm vụ kiểm tra

các bản án, quyết định sơ thẩm như các đồng nghiệp khác, nhận thấy đơn vị chưa

quy định về phương thức phản ảnh kết quả kiểm tra bản án, quyết định để xác định

hoạt động kiểm tra cũng như khắc phục vi phạm, thiếu sót; việc các thành viên

Đoàn công tác TAND tỉnh tham dự các phiên tòa rút kinh nghiệm, sau mỗi phiên

tòa đều tổ chức rút kinh nghiệm với đơn vị được kiểm tra, kể cả Hội đồng xét xử,

nhưng cũng chưa được lập phiếu nhận xét đánh giá để đề cao tính căn cứ. Do vậy,

chúng tôi đề xuất TAND tỉnh cần phải lập Phiếu kiểm tra bản án, quyết định của các

Tòa án cấp sơ thẩm và Phiếu nhận xét, đánh giá phiên tòa rút kinh nghiệm.

- Kiện toàn Phòng kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Hiện nay Phòng có 1

Phó phòng phụ trách, 1 Kiểm tra viên chính và 3 Thư ký. Để Phòng kiểm tra nghiệp

vụ có thể hoàn thành được các lĩnh vực công tác chuyên môn và các giải pháp nêu

98

trên, thì Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tỉnh cần phải chú trọng kiện toàn về

chức danh quản lý và chức danh pháp lý theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao.

Cụ thể là cần phải bổ nhiệm 1 Trưởng phòng, 1 Phó trưởng phòng và 2 Thẩm tra

viên. Lực lượng cán bộ tại chỗ thì có, nhưng mấy năm qua chưa được quan tâm kiện

toàn về công tác tổ chức.

3.2.2.3. Đối với Phòng Kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

- Cần thực hiện quy trình báo cáo kết quả tham mưu giải quyết đơn khiếu

nại, tố cáo về tố tụng, về hành chính – tư pháp và các đơn khác mà Lãnh đạo TAND

tỉnh phân công Phòng giải quyết theo thẩm quyền hoặc tham mưu giải quyết: Khi

lãnh đạo phân công cán bộ thuộc quyền tham mưu giải quyết thì phải quy định cụ

thể ngày báo cáo ra tập thể Phòng (nếu cần thiết), dự kiến ngày tập thể Phòng họp

bàn về hướng giải quyết, ngày tháng năm làm văn bản tham mưu lên lãnh đạo giải

quyết đơn (không thuộc thẩm quyền giải quyết của lãnh đạo Phòng) để phát huy trí

tuệ tập thể, giải quyết đúng thời hạn pháp luật quy định.

- Đối với các trường hợp thi hành án có vướng mắc thì khi lãnh đạo Phòng

phân công cán bộ thuộc quyền tham mưu giải quyết thì phải quy định cụ thể ngày

báo cáo ra tập thể Phòng (nếu cần thiết), dự kiến ngày tập thể Phòng họp bàn về

hướng giải quyết, ngày tháng năm làm văn bản tham mưu lên lãnh đạo giải quyết.

3.2.3. Hoàn thiện quy trình thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ

Để công tác kiểm tra đạt chất lượng, hiệu quả, từ hoạt động và yêu cầu thực

tiễn, chúng tôi xin đề xuất quy trình thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ ở Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ngãi như sau:

- Lập kế hoạch kiểm tra: Đây là bước quan trọng, quyết định của cuộc kiểm

tra vì nó trả lời kiểm tra ai, nội dung gì; phạm vi, thời kỳ, thời hạn kiểm tra; nhân

lực đoàn kiểm tra; cách thức kiểm tra; dự kiến những tình huống phát sinh trong

kiểm tra; kết luận kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm tra… Để kế

hoạch kiểm tra chất lượng cần xem xét theo các bước sau:

+ Xác định nhiệm vụ: Khi xác định được nhiệm vụ thì mới xây dựng được

kế hoạch kiểm tra hiệu quả; đây là cơ sở để chuẩn bị thực hiện cuộc kiểm tra.

99

+ Xây dựng kế hoạch: Kế hoạch kiểm tra quyết định thành bại của việc kiểm

tra, do vậy kế hoạch này thường có những nội dung sau:

Cơ sở pháp lý: Thẩm quyền của người ban hành quyết định kiểm tra phải

đúng quy định của pháp luật;

Phạm vi kiểm tra: Một hay một số lĩnh vực hoạt động và sự liên quan giữa

các lĩnh vực hoặc kiểm tra toàn diện đối với các chủ thể được kiểm tra; Cách thức

kiểm tra: Là yêu cầu chủ thể được kiểm tra xây dựng báo cáo theo đề cương kiểm

tra và kiểm tra trực tiếp tại đơn vị; xác minh cá nhân, tổ chức có liên quan; yêu cầu

giải trình những nội dung chưa rõ hoặc có mâu thuẫn.

Thành phần: Các thành phần trong đoàn kiểm tra phải là những người có

điều kiện, tiêu chuẩn, năng lực, kinh nghiệm và phải đảm bảo yếu tố khách quan

trong hoạt động kiểm tra và kết luận kiểm tra, xử lý sau kết luận kiểm tra.

Thời gian kiểm tra: Phải dựa trên một số yếu tố như: số lượng thành viên

đoàn kiểm tra, phạm vi kiểm tra. Ngoài ra, trừ trường hợp kiểm tra đột xuất, thì cần

lưu ý đến điều kiện, hoàn cảnh của tập thể, cá nhân được kiểm tra.

Xác định điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho việc kiểm tra: Là kinh phí,

trang bị phương tiện cần phải được dự trù, chuẩn bị và phải đảm bảo đúng định

mức, tiêu chuẩn.

- Trình Thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền ký ban hành Quyết định kiểm tra:

Quyết định kiểm tra cần có những nội dung sau: Tên chủ thể được kiểm tra; Phạm

vi, nội dung kiểm tra; Thời gian tiến hành kiểm tra; Họ và tên, chức vụ thành viên

Đoàn kiểm tra; Nhiệm vụ cơ bản thành viên Đoàn kiểm tra.

- Thông báo kế hoạch kiểm tra cho chủ thể được kiểm tra: Việc thông báo

này vừa đảm bảo tính công khai trong hoạt động kiểm tra, vừa đảm bảo chủ thể

được kiểm tra có điều kiện chuẩn bị, phối hợp tốt và không làm tâm lý căng thẳng.

Thông báo này cần có những nội dung chính sau đây: Đề cương báo cáo yêu cầu

chủ thể được kiểm tra xây dựng; Thời gian, địa điểm tiến hành kiểm tra; Nội dung

kiểm tra; Nội dung yêu cầu chủ thể được kiểm tra chuẩn bị.

100

- Tổ chức họp Đoàn kiểm tra: Trưởng đoàn tiến hành họp Đoàn kiểm tra

trước khi thực hiện kiểm tra để phân công nhiệm vụ cụ thể, chi tiết cho từng thành

viên của Đoàn theo năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của từng thành viên.

- Thực hiện kiểm tra: Trưởng đoàn công bố Quyết định kiểm tra, thông báo

Kế hoạch kiểm tra, giải thích quyền, nghĩa vụ của Đoàn kiểm tra, của chủ thể được

kiểm tra. Trong quá trình kiểm tra phải thu thập, xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu;

đây là bước quan trọng trong quá trình kiểm tra, đòi hỏi người thực hiện kiểm tra

phải có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và thực hiện việc xác

minh, làm việc trực tiếp với đối tượng kiểm tra, yêu cầu giải trình, làm rõ những nội

dung kiểm tra.

- Kết thúc kiểm tra. Xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra: Các thành viên trong

Đoàn xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra của mình trên cơ sở nhiệm vụ được phân

công và chuyển về cho thành viên được phân công nhiệm vụ tổng hợp, xây dựng dự

thảo báo cáo kết quả kiểm tra của Đoàn. Báo cáo kết quả kiểm tra cần có một số nội

dung chính sau đây: Khái quát chung về đối tượng kiểm tra. Kết quả kiểm tra: tóm

tắt nội dung kiểm tra, phân tích những tài liệu, hồ sơ xem xét, kết quả xác minh, ý

kiến của chủ thể được kiểm tra, đánh giá của Đoàn. Kết luận chung về việc kiểm

tra: nêu rõ đơn vị, cá nhân được kiểm tra làm tốt hay vi phạm; nguyên nhân, tính

chất của kết quả đạt được hoặc của vi phạm… Kiến nghị, đề xuất với cấp có thẩm

quyền: Khen thưởng; kỷ luật; những nội dung cần điều chỉnh trong quản lý, những

yêu cầu điều chỉnh cụ thể đối với từng vi phạm theo quy định cụ thể của pháp

luật…Dự thảo báo cáo kết quả kiểm tra cần gửi cho tất cả các thành viên trong

Đoàn nghiên cứu, đóng góp ý kiến. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, Đoàn sẽ

tiến hành họp bàn, trao đổi, trường hợp không thống nhất được thì Trưởng đoàn

quyết định nhưng trong Báo cáo vẫn phải nêu những ý kiến chưa thống nhất.

- Trình Báo cáo kết quả kiểm tra và xây dựng Dự thảo kết luận kiểm tra để

người có thẩm quyền ký ban hành: Trưởng đoàn trình người có thẩm quyền Báo cáo

kết quả kiểm tra. Trên cơ sở nghiên cứu Báo cáo kết quả kiểm tra, người có thẩm

quyền ban hành Kết luận kiểm tra có thể yêu cầu Đoàn kiểm tra làm rõ một số nội

101

dung trong Báo cáo. Trên cơ sở Báo cáo kết quả kiểm tra, Trưởng đoàn xây dựng

Dự thảo Kết luận kiểm tra trình người có thẩm quyền xem xét. Trên cơ sở đồng ý

của người thẩm quyền ban hành Kết luận kiểm tra, Đoàn kiểm tra gửi Dự thảo Kết

luận kiểm tra để chủ thể được kiểm tra giải trình.

- Ban hành kết luận kiểm tra: Kết luận kiểm tra phải có những nội dung: Khái

quát chung về chủ thể được kiểm tra, kết quả kiểm tra và kết luận việc kiểm tra.

- Công bố Kết luận kiểm tra: Có thể công bố công khai tại đơn vị được kiểm

tra hoặc gửi và yêu cầu thủ trưởng đơn vị được kiểm tra công bố công khai cho toàn

thể công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị biết và thực hiện.

-Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm trong Đoàn kiểm tra: Trưởng đoàn tổ

chức họp Đoàn kiểm tra để đánh giá toàn diện cuộc kiểm tra, nhận xét những mặt

tích cực, những mặt cần khắc phục của các thành viên.

- Xử lý kết quả kiểm tra: Người ban hành Kết luận kiểm tra có trách nhiệm

giải quyết các kết quả kiểm tra và theo dõi, chỉ đạo việc thực hiện.

3.2.4. Nâng cao năng lực của đội ngũ công chức thực hiện hoạt động kiểm

tra và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi

Để đảm bảo hoạt động kiểm tra và thi hành án tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ngãi có chất lượng và hiệu quả, đội ngũ công chức của Tòa án ngoài đạt chuẩn

chuyên môn về bằng cấp còn cần phải có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.

Vì vậy cần phải thường xuyên bồi dưỡng lý luận chính trị, các kiến thức nghiệp vụ

cần thiết đối với công chức làm nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án. Đặc biệt

phải có những kỹ năng cần thiết sau trong hoạt động kiểm tra nghiệp vụ:

- Kỹ năng xem xét, đánh giá, phân tích, tổng hợp.

Nhiệm vụ người thực hiện kiểm tra là xem xét, đánh giá hồ sơ, tài liệu, quá

trình hoạt động, tác nghiệp của chủ thể được kiểm tra. Để xem xét, đánh giá được

tính chất, xác định việc làm của chủ thể được kiểm tra là phù hợp hay vi phạm pháp

luật, người thực hiện kiểm tra phải xem xét toàn bộ quá trình, xâu chuỗi các sự việc

lại với nhau và phân tích, tổng hợp. Những vụ việc cần kiểm tra làm rõ nhưng số

lượng hồ sơ, tài liệu rất nhiều thì cần sắp xếp lại theo trình tự thời gian từ xa đến

102

gần để từng hoạt động được đặt theo trật tự thời gian tạo điều kiện thuận lợi cho

người thực hiện kiểm tra dễ dàng theo dõi diễn biến sự việc để có những đánh giá,

nhận xét chính xác. Quá trình xem xét đánh giá hồ sơ, tài liệu cần hết sức thận

trọng, tỷ mỷ, tuyệt đối không vội vàng khẳng định đúng sai. Để áp dụng, đánh giá

một việc cụ thể cần thận trọng nghiên cứu nhiều quy định pháp luật để đưa ra những

đánh giá chính xác.

- Kỹ năng xác minh, thu thập thông tin, tài liệu.

Ngoài hồ sơ, tài liệu mà chủ thể được kiểm tra cung cấp; để đảm bảo khách

quan, chính xác, cần tiến hành xác minh, thu thập thông tin, tài liệu từ những nguồn

hợp pháp khác. Khi thu thập, xác minh cần xác định những nội dung sau: Xác định

xác minh, thu thập thông tin tại cơ quan, cá nhân nào. Cách thức tiến hành xác

minh, thu thập phải hợp pháp, hiệu quả.

- Kỹ năng đối thoại, làm việc với chủ thể được kiểm tra.

Thông thường, đa số người được kiểm tra có tâm lý không thích kiểm tra. Do

vậy cần giữ thái độ đúng mực, không tạo áp lực căng thẳng nhưng vẫn phải cương

quyết, chỉ ra những sai phạm của họ trên cơ sở phân tích, đưa ra các tình tiết, nội

dung, áp dụng vào các quy định pháp luật và đề nghị giải thích, giải trình thường là

cách làm tương đối hiệu quả. Người kiểm tra có thái độ đúng mực, đưa ra những lập

luận của mình để cho họ có ý kiến phản hồi khiến họ được cảm thấy tôn trọng, dân

chủ và khi không có cơ sở pháp lý nào giải thích cho việc làm của bản thân thì họ

nhận vi phạm. Vì thế, ngoài kỹ năng đối thoại, người kiểm tra phải xây dựng kế

hoạch, tìm hiểu tâm lý, hoàn cảnh, chuẩn bị cách thức, biện pháp, chiến thuật làm

việc với người được kiểm tra. Việc đối thoại, làm việc phải được lập biên bản rõ

ràng, cụ thể.

- Kỹ năng ghi biên bản.

Biên bản kiểm tra được đưa vào hồ sơ. Lập biên bản làm việc với đối tượng

kiểm tra để mô tả lại sự việc, hành vi, xác nhận của chủ thể được kiểm tra và giải

thích động cơ, nguyên nhân thực hiện hành vi của họ. Biên bản này không ghi ý

kiến đánh giá, kết luận của người kiểm tra vì việc đánh giá, kết luận không chỉ dựa

103

trên kết quả làm việc mà còn dựa trên các tài liệu khác, các quy định pháp luật và

trên cơ sở thống nhất, quyết định của các thành viên tham gia xác minh. Hình thức

biên bản có thể là biên bản làm việc; biên bản xác minh; biên bản làm việc về kết

quả kiểm tra sơ bộ.

- Kỹ năng viết báo cáo kết quả kiểm tra.

Báo cáo kết quả kiểm tra là sản phẩm thể hiện toàn bộ quá trình kiểm tra,

đánh giá, phân tích và đề xuất việc xử lý. Chất lượng cuộc kiểm tra phụ thuộc xây

dựng báo cáo chất lượng, trung thực, toàn diện và người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt

vấn đề một cách khách quan và đúng đắn. Do vậy, khi xây dựng Báo cáo cần thực

hiện một số nội dung: Phần khái quát: Nêu tình hình, đặc điểm của đối tượng kiểm

tra. Phần kết quả kiểm tra: Số liệu theo báo cáo của chủ thể được kiểm tra; kết quả

đối chiếu và nhận xét, đánh giá của Đoàn kiểm tra về số liệu. Về các nội dung cụ

thể của cuộc kiểm tra: Những mặt ưu điểm, tích cực, thành tích đạt được; Nguyên

nhân có được những kết quả, thành tích; Kết luận về những ưu điểm, tích cực.

Những tồn tại, thiếu sót, vi phạm: Tóm tắt nội dung vi phạm; Phân tích nội dung vi

phạm, đối chiếu quy định pháp luật đã vi phạm quy định nào; Nguyên nhân của việc

vi phạm; kết luận về việc vi phạm. Phần kết luận: Nêu lại kết luận của từng nội

dung nói trên; Đánh giá để khen thưởng thành tích hoặc xử lý những vi phạm, tồn

tại. Phần kiến nghị: Kiến nghị người có thẩm quyền: trên cơ sở báo cáo kết quả

kiểm tra, xem xét, ban hành Kết luận kiểm tra; Kiến nghị về biện pháp, hình thức

khen thưởng, xử lý vi phạm.

104

Tiểu kết chương 3

Qua thực tiễn về công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án tại Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Ngãi trong năm năm qua, với quan điểm tác động biện chứng giữa

lý luận và pháp luật với thực tiễn để phục vụ thực tiễn, tác giả đã cơ bản nhận diện

được yêu cầu đòi hỏi của các lĩnh vực trong hoạt động này, từ đó có cơ sở đánh giá

kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của hạn chế.

Điều quan trọng nhất là qua các hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án

phải làm sao phát hiện kịp thời và hầu hết các vi phạm, sai sót và tìm ra các nguyên

nhân chủ yếu để có biện pháp, giải pháp hữu hiệu góp phần đáng kể cho việc hạn

chế đến mức thấp nhất các sai sót trong các lĩnh vực hoạt động của các Tòa án cấp

huyện, nhất là hoạt động giải quyết án hình sự; đảm bảo việc thi hành các bản án,

quyết định của Tòa án. Điều này đặt ra yêu cầu và trách nhiệm cao đối với các chủ

thể trong kiểm tra và thi hành án. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn đề ra các giải pháp

thiết thực để hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi ngày càng đạt hiệu quả cao.

105

KẾT LUẬN

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án của hệ thống Tòa án mang tính

quyền lực Nhà nước để đảm bảo địa vị tối cao của pháp luật, góp phần cho pháp

luật đi vào cuộc sống; đó là yêu cầu tiên quyết của pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Nếu hoạt động này từng nơi từng lúc không được coi trọng, thì tất yếu xảy ra

khoảng trống quyền lực, làm nảy sinh mâu thuẫn xã hội do quyền, lợi ích chính

đáng của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật bị xâm phạm, mà xét theo nguyên lý

về mối liên hệ phổ biến thì xã hội phải thụ động gánh chịu lực cản đó, ảnh hưởng

đến uy tín của Đảng và Nhà nước.

Đất nước ta đang trong giai đoạn khởi kiểm của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa

xã hội để thực hiện mục tiêu kiên định của Đảng và Bác Hồ kính yêu là “Độc lập

dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội”. Trong giai đoạn này, ngoài mâu thuẫn chủ

yếu bên ngoài là về hệ tư tưởng, thì mâu thuẫn chủ yếu bên trong là về lợi ích vật

chất và lợi ích tinh thần. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện nhiều biện

pháp trong quan hệ đối nội và đối ngoại để giải quyết ngày càng tốt 2 nhu cầu cơ

bản của nhân dân để xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh mà pháp luật là công cụ để thực hiện điều đó.

Hoạt động kiểm tra nghiệp vụ trong hệ thống Tòa án dù mang tính kiểm tra

chuyên ngành, nhưng cùng với hoạt động thi hành án góp phần để bảo vệ địa vị tối

cao của pháp luật trong hoạt động áp dụng pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật

không chỉ đối với Tòa án. Vì thế, Chương 1 Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận,

Chương 2 đã đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân, để từ đó chúng tôi tìm, đề

ra các giải pháp về pháp luật, giải pháp đối với hệ thống Tòa án và với người làm

công tác kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt

động này của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.

Dù còn nhiều hạn chế song hy vọng Luận văn có thể được người quan tâm đến

ứng dụng trong giảng dạy, học tập, xây dựng và áp dụng pháp luật, trong hoạt động

kiểm tra nghiệp vụ và thi hành án, góp phần nâng cao tri thức khoa học pháp lý và tạo

môi trường áp dụng, tuân thủ, sử dụng, thi hành pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn./.

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Ngọc An (2015), Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội

Việt Nam năm 2015, Đà Nẵng.

2. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW Nghị quyết về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW Nghị quyết của Bộ chính trị về

chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Tư pháp -Tòa án nhân dân tối cao-Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016),

Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Thông tư

liên tịch quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên

ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội.

5. Lê Văn Cảm (2010), “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong

giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Kiểm sát, số 15 và 17.

6. Phan Canh (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Mũi Cà Mau, Cà Mau.

7. Nguyễn Đăng Dung (2001), Định tội danh theo Bộ luật hình sự Nước Cộng

Hòa Xã Hội Chủ NghĩaViệt Nam, Nxb. Pháp lý, Hà Nội.

8. Trần Trí Dũng (2010), “Một số ý kiến về vấn đề công bằng trong phán quyết

của Tòa án đối với vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 18.

9. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị Quyết số 02/2007/NQ-

HĐTP Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi

hành bản án và quyết định của Tòa án” của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

10. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2007), Nghị Quyết số

01/2007/NQ-HĐTP Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời

hạn chấp hành hình phạt, Hà Nội.

11. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2010), Nghị Quyết số

02/2010/NQ-HĐTP Nghị quyết Bổ sung một số hướng dẫn của Nghị quyết số

01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 và Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP

ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Hà Nội.

107

12. Nguyễn Thế Kỳ (1994), Từ điển pháp luật Anh Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong Tố tụng Hình sự Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành

phố Hồ Chí Minh.

14. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Đặng Quang Phương (2014), Tập bài giảng: Chứng cứ, những vấn đề lý luận

và thực tiễn, Hà Nội.

16. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà Nội.

17. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà Nội.

18. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

19. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

20. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

21. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

năm 1980, Hà Nội.

22. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

23. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

24. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

năm 1992, Hà Nội.

25. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

26. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

27. Quốc hội (1999), số 15/1999/QH10 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

28. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

năm 1992, Hà Nội.

29. Quốc hội (2002), số: 33/2002/QH10 Luật của Quốc hội Tổ chức Tòa án nhân

dân, Hà Nội.

30. Quốc hội (2002), số: 34/2002/QH10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

31. Quốc hội (2003), số 19/2003/QH11 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

32. Quốc hội (2006), số: 65/2006/QH11 Luật Luật sư, Hà Nội.

108

33. Quốc hội (2007), số 07/2007/QH12 Luật đặc xá, Hà Nôị.

34. Quốc hội (2008), số 26/2008/QH12 Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

35. Quốc hội (2009), Luật số 37/2009/QH12 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

36. Quốc hội (2010), số 53/2010/QH12 Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.

37. Quốc hội (2012), số: 20/2012/QH13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật sư, Hà Nội.

38. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hà Nội.

39. Quốc hội (2014), Luật số 64/2014/QH13 Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều

của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

40. Quốc hội (2014), số: 62/2014/QH13 Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

41. Quốc hội (2014), số: 63/2014/QH13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

42. Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

43. Quốc hội (2015), Luật số 92/2015/QH13 Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

44. Quốc hội (2015), Luật số 93/2015/QH13 Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.

45. Quốc hội (2015), Luật số 99/2015/QH13 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình

sự, Hà Nội.

46. Quốc hội (2015), số 100/2015/QH13 Bộ luật hình sự, Hà Nội.

47. Quốc hội (2015), số: 94/2015/QH13 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Hà Nội.

48. Quốc hội (2017), Luật số 12/2017/QH14 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.

49. Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về thủ

tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Luật học, Số 10.

50. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Kế hoạch số 246/KHKT-TA ngày

24/11/2015 Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2016, Quảng Ngãi.

51. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017), Kế hoạch số 09/KH-TA ngày

29/11/2016 Kế hoạch công tác kiểm tra năm 2017, Quảng Ngãi.

52. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2018), Đề cương báo cáo tự kiểm tra về

công tác chuyên môn, Quảng Ngãi.

109

53. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2018), Kế hoạch số 136/KH-TA ngày

16/11/2017 Kế hoạch kiểm tra nghiệp vụ xét xử của Tòa án nhân dân cấp

huyện năm 2018, Quảng Ngãi.

54. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Quyết định 436a/2017/QĐ-TANDTC ngày

01/3/2017 Quyết định ban hành Quy chế công tác kiểm tra trong Tòa án nhân

dân, Hà Nội.

55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb pháp lý,

Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Trượng (2010), “Cần sửa đổi, bổ sung một số thủ tục tố tụng hình

sự theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6.

57. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa

đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội.

58. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2004), số 23/2004/PL-UBTVQH11 Pháp lệnh

của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.

110