VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIẾN DŨNG
ĐẤU THẦU MUA THUỐC CHỮA BỆNH TẬP TRUNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIẾN DŨNG
ĐẤU THẦU MUA THUỐC CHỮA BỆNH TẬP TRUNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 01 07
PGS. TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung kết quả nhiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào khác.
Các số liệu, ví dụ trích dẫn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau, đảm bảo tính chính xác, trung thực và
tin cậy.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã hoàn thành việc thanh toán các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học Xã hội xem xét để tôi
có thể được bảo vệ Luận văn.
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA THUỐC
CHỮA BỆNH TẬP TRUNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .......... 7
1.1 Khái quát về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung ...................................... 7
1.1.1 Khái niệm đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung ............................................... 7
1.1.2 Đặc điểm của đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung. ...................................... 10
1.1.3 Ý nghĩa, vai trò của đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung .............................. 13
1.2 Pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung ..................................... 16
1.2.1 Khái niệm pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung. ....................... 16
1.2.2 Nội dung pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung .......................... 18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA THUỐC
CHỮA BỆNH TẬP TRUNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ... 27
2.1 Thực trạng các quy định pháp luật về mua sắm thuốc chữa bệnh tập trung ở
Việt Nam hiện nay ........................................................................................................ 27
2.1.1 Chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung .................... 27
2.1.2 Đối tượng đấu thầu ................................................................................................ 31
2.1.3 Hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu ....................................................... 31
2.1.4 Đánh giá hồ sơ dự thầu ......................................................................................... 35
2.1.5 Cách thức thực hiện ............................................................................................... 39
2.1.6 Thương thảo hợp đồng .......................................................................................... 40
2.2. Thực tiễn về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung tại thành phố Hồ Chí
Minh............................................................................................................................... 45
2.2.1 Nhu cầu sử dụng thuốc chữa bệnh tại thành phố Hồ Chí Minh ............................ 45
2.2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung tại thành
phố Hồ Chí Minh ........................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẤU THẦU TRONG MUA THUỐC CHỮA BỆNH TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................................... 57
3.1 Phương hướng hoàn thiện ..................................................................................... 57
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung cần đặt trong
xu hướng hội nhập quốc tế, thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0................................... 58
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung hướng tới sự
đồng bộ, hài hóa pháp luật kinh tế nói chung ................................................................ 59
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung phải đảm bảo
minh bạch và hiệu quả .................................................................................................... 60
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư ........................................... 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu trong mua thuốc chữa bệnh tập
trung ở Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 63
3.2.1. Hoàn thiện, bảo đảm hài hòa và thống nhất giữa các quy định pháp luật đấu thầu
và luật chuyên ngành đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung .................................... 63
3.2.2. Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin đấu thầu, trung tâm đào tạo cán bộ làm
công tác đấu thầu chất lượng cao ................................................................................... 65
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định dự án và quản lý công tác đấu
thầu ................................................................................................................................. 65
3.2.4. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đồng thời tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát công tác đấu thầu ............................................................... 66
3.2.5. Kiên quyết giải quyết triệt để những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật về đầu
tư mua sắm, đấu thầu...................................................................................................... 67
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HSDT: Hồ sơ dự thầu
HSMT: Hồ sơ mời thầu
UBND: Ủy ban nhân dân
BHYT: Bảo hiểm y tế
TCB: Thuốc chữa bệnh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sức khỏe là vàng, có sức khỏe là có tất cả, hẳn chúng ta ai cũng biết giá trị của
sức khỏe, ai cũng mong muốn mình được khỏe mạnh. Vì vậy công tác chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân rất được Đảng và Nhà nước chú trọng, quan tâm. TCB có
một vai trò rất quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vê ̣sức khỏe nhân dân. Cũng như
tình hình thực tế tại nhiều nước đang phát triển, chi phí cho TCB ở Việt Nam luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí y tế nói chung và chi phí khám chữa bệnh nói
riêng.
Thời gian qua, Bộ Y tế đã dành kinh phí rất lớn để xây dựng và hoàn thiện các
cơ sở khám, chữa bệnh khắp đất nước từ các bệnh viện Trung ương cho đến địa
phương, trong đó việc đầu tư cho TCB chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn kinh phí của Nhà
nước dành cho phát triển ngành y tế. Tuy nhiên, TCB là một loại hàng hóa đặc biệt, tác
động trực tiếp tới sức khỏe, tính mạng con người nên để mua được TCB phù hợp với
từng cơ sở khám, chữa bệnh là một bài toán khó cho các nhà quản lý, hoạch định chính
sách về y tế trong bối cảnh hiện nay. Luật đấu thầu 2013 được ban hành và có hiệu lực
giúp cho việc đấu thầu mua sắm hàng hóa trở nên thuận tiện, tiết kiệm và có hiệu quả
cao, mang đến lợi ích cho cả bên chủ đầu tư và nhà thầu. Việc đấu thầu mua sắm TCB
để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của
Luật đấu thầu 2013 khi chủ đầu tư là các bệnh viện, trung tâm y tế có sử dụng nguồn
kinh phí của Nhà nước.
Để làm rõ hơn thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu
mua sắm hàng hóa nói chung và TCB nói riêng có điểm gì giống và khác nhau? Làm
sao để có một giải pháp tối ưu giúp cơ sở khám chữa bệnh có thể mua được thuốc tốt
để điều trị cho bệnh nhân nhưng vẫn tiết kiệm, đảm bảo tính hiệu quả? Những thách
thức nào đặt ra đối với thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu mua sắm TCB nói
1
chung và đấu thầu mua sắm TCB tập trung nói riêng?
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, người viết chọn đề tài “Đấu thầu mua
thuốc chữa bệnh tập trung theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa đã có từ lâu.
Trước đây cũng đã có những bài báo, công trình nghiên cứu viết về vấn đề này như:
- Phạm Lương Sơn (2012), “Nghiên cứu thực trạng đấu thầu mua thuốc BHYT
cho các cơ sở khám, chữa bệnh công lập ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Dược học,
Trường Đại học Dược Hà Nội; [18]
- Nguyễn Thị Hiệp (2017), “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí tượng thủy
văn”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; [17]
- Nguyễn Thị Hương Giang (2017), “Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật về đấu thầu từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội; [15]
- Cao Thị Lê Thương (2018), “Bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Viện Nhà nước và pháp luật – Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam; [19]
- Nguyễn Sơn Hà (2019). “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam” Luận văn Thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội; [16]
Tuy nhiên, qua tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả nhận thấy:
Thứ nhất, trước đây đã có nhiều tác giả nghiên cứu và công bố về lĩnh vực pháp
luật đấu thầu mua sắm hàng hóa nói chung nhưng công trình nghiên cứu khoa học
chuyên sâu về pháp luật đấu thầu mua TCB tập trung chưa thấy được công bố.
Thứ hai, khi đề cập đến việc đầu tư mua TCB, có nhiều bài báo viết về công tác
2
mua sắm thuốc tại các cơ sở khám, chữa bệnh trong nước nhưng phần lớn chỉ nói tới
việc đấu thầu riêng lẻ của các cơ sở khám chữa bệnh hoặc nếu có nói tới đấu thầu tập
trung thì cũng chỉ dừng lại ở các nội dung: liệt kê những tồn tại, lãng phí mua sắm;
hiệu quả sử dụng TCB sau đầu tư…
Kể từ khi Luật đấu thầu năm 2013 có hiệu lực thi hành đã cập nhật thêm nhiều
quy định mới hơn so với Luật đấu thầu năm 2005, việc cập nhật những vấn đề mới
nhằm tạo ra môi trường công khai, minh bạch, cạnh tranh công bằng trong hoạt động
đấu thầu, điều này góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật
về mua sắm có sử dụng vốn của nhà nước, như: các phương thức lựa chọn nhà thầu,
một số quy định pháp luật nhằm hạn chế những tiêu cực, bất cập trong quá trình đấu
thầu mua sắm hàng hóa, thương thảo hợp đồng… Đây cũng là vấn đề người viết muốn
mổ xẻ, phân tích kỹ hơn trong luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luân văn là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu
thầu mua TCB tập trung; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi
pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung ở Việt Nam hiện nay; qua đó kiến nghị một
số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung ở
Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của đề tài được xác định
bao gồm:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đấu thầu mua TCB tập trung;
- Phân tích thực trạng pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung ở Việt Nam
hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung
3
ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm mục đích hoàn thiện các quy
định của pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận, các quy định pháp luật
và thực tiễn thực thi các quy định pháp luật về đấu thầu mua sắm TCB tập trung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích các phương diện pháp lý, cơ
sở lý luận, thực tiễn áp dụng trong thời gian qua và nội dung các quy định của pháp
luật về đấu thầu mua sắm TCB tập trung ở Việt Nam nói chung, TP Hồ Chí Minh nói
riêng có sử dụng kinh phí Nhà nước.
Thứ hai, luận văn đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm bổ sung
và hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động đấu thầu mua sắm TCB tập
trung tại Việt Nam với mục đích tiết kiệm, mang lại hiệu quả cao nhất.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phương pháp luận là phép biện chứng
duy vật, cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước để phân tích, đánh giá
nhằm làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Người viết đã sử dụng các phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu khoa học nói
chung và nghiên cứu về khoa học pháp lý nói riêng để thực hiện và hoàn thành luận
văn, như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thống
4
kê – đối chiếu và một số phương pháp khác để làm sáng tỏ các vấn đề đưa ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đưa ra những luận cứ dựa trên các căn cứ khoa học pháp lý và phân
tích thực tiễn, qua đó người viết kiến nghị một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu mua sắm TCB tập trung nói
riêng, giúp cho hoạt động đấu thầu mua sắm TCB tập trung ở Việt Nam mang lại hiệu
quả cao.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kể từ khi Luật đấu thầu năm 2013 được Quốc hội thông qua đã thay đổi, bổ
sung nhiều nội dung mới so với Luật đấu thầu trước đó, đã khắc phục được một số vấn
đề bất cập. Mặc dù vậy, tác giả thấy cũng cần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề như:
Một là, những căn cứ để lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu mua sắm hàng hóa,
trong đó có TCB còn nhiều điểm chưa phù hợp.
Hai là, những biểu mẫu dùng để xây dựng HSMT mua sắm hàng hóa được Bộ
Kế hoạch đầu tư quy định, có nhiều chổ còn mang tính chung chung chưa rõ ràng, từ
đó tạo ra kẽ hở để bên mời thầu, nhà thầu bắt tay với nhau đưa ra những “tiêu chí phụ”
hoặc những đặc tính độc lạ mà chỉ một số nhà thầu thõa mãn nhằm hạn chế tính cạnh
tranh trong hoạt động đấu thầu.
Ba là, pháp luật quy định chủ đầu tư thành lập các Tổ chuyên gia trong đấu thầu
như: xây dựng kế hoạch đấu thầu, lập HSMT, thẩm định HSMT, thẩm định kết quả lựa
chọn nhà thầu…với các tiêu chí chỉ có tính chất định tính, phần nhiều mang tính hình
thức, đã từng có các trường hợp mà thành viên Tổ chuyên gia đứng về phía chủ đầu tư
hoặc bên nhà thầu, qua đó làm xuất hiện tiêu cực trong hoạt động đấu thầu.
Bốn là, TCB có thể coi là loại hàng hóa đặc thù tại vì nó tác động trực tiếp lên
sức khỏe, tính mạng, đời sống của con người nhưng lại sử dụng những biểu mẫu chung
do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định cho hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nên đã
5
gây ra những khó khan nhất định cho nhà đầu tư, bên mời thầu khi áp dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn bao gồm: phần mở đầu, chương 1, chương 2, chương 3,
phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, trong đó:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về đấu thầu mua TCB tập trung theo pháp luật
Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đấu thầu mua TCB tập trung từ thực tiễn tại
Tp Hồ Chí Minh.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu trong mua
6
TCB tập trung ở Việt Nam hiện nay.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU MUA THUỐC CHỮA BỆNH
TẬP TRUNG THEO PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
1.1.1 Khái niệm đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
Thuật ngữ “Procurement” được giải thích trong Quy định mẫu về đấu thầu mua
sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) có nghĩa là sự giành được hàng hóa,
công trình hoặc dịch vụ nào đó (Điều 2, khoản a). Qua đó, hàng hóa ở đây có thể hiểu
là: “Tất cả các vật thể mô tả được bao gồm cả nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết
bị, các vật thể định hình hoặc dưới dạng lỏng, điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa
nhưng có giá trị thấp hơn hàng hóa (bao gồm: các loại hàng hóa khác theo quy định
của từng nước)” (Điều 2, khoản c)[21] .
Trong Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ biên soạn năm 1998) diễn tả hoạt
động “đấu thầu” được hiểu là việc “đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện
tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng”. Ngân hàng thế giới WB thì quy
định các từ “bid” và “tender” (trong tiếng Anh) cùng có nghĩa giống nhau đó là “đấu
thầu" [20]. Hiểu một cách chung thì đấu thầu mua sắm hàng hóa là hoạt động chọn lựa
nhà thầu, đơn vị cung cấp đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn của bên mời thầu để tiến
hành ký kết và thực hiện hợp đồng mua sắm hàng hóa đó dựa trên cơ sở bảo đảm tính
công khai, minh bạch, cạnh tranh công bằng và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất . Đó
cũng là phương pháp mà các nhà làm luật tiếp cận trong Luật đấu thầu số
43/2013/QH12 ngày 26 tháng 11 năm 2013 của Việt Nam (Điều 4, khoản 12). Từ đây,
có thể khẳng định là, hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa cùng với những quy định
pháp luật chặt chẽ của nó là điều hết sức cần thiết và đã mang lại nhiều lợi ích cho nhà
thầu, chủ đầu tư, nhà tài trợ và Chính phủ của quốc gia được hưởng lợi. Trong lời nói
7
đầu Quy định mẫu về đấu thầu mua sắm hàng hóa của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL)
viết về mục đích, vai trò của luật đấu thầu mua sắm hàng hóa cũng đã khẳng định rõ
ràng:
- Tăng cường cao nhất tính kinh tế và hiệu quả của hoạt động đấu thầu
- Khuyến khích các đối tác, nhà thầu, nhà cung cấp không phụ thuộc vào quốc
tịch tham gia quy trình mua sắm, từ đó phát triển thương mại quốc tế.
- Tăng cường tính cạnh tranh giữa các nhà thầu
- Đối xử công bằng với tất cả các nhà thầu
- Tăng cường sự công khai, minh bạch, liêm chính, cạnh tranh công bằng và đạt
được niềm tin của người dân
- Đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch của các khâu liên quan trong quá trình mua
sắm.
Cùng với sự phát triển và yêu cầu minh bạch của nền kinh tế thị trường, đấu
thầu ngày càng trở thành biện pháp, phương thức và công cụ hữu hiệu được áp dụng
rộng rãi trên toàn thế giới. Lúc đầu các quy định về đấu thầu chỉ đơn giản là: công khai
và cạnh tranh. Khi được áp dụng vào thực tế thì đòi hỏi những quy định đó phải rõ
ràng, đầy đủ, không những dừng lại ở các quy chế, quy định mang tính chất tạm thời
mà bắt buộc cần phải có một hệ thống pháp lý chặt chẽ. Điều đó là rất quan trọng, cần
thiết và phù hợp với những quy luật của xã hội phát triển theo nền kinh tế hàng hóa thị
trường. Qua đó, có thể khẳng định là, hoạt động đấu thầu có mục đích, vai trò bảo đảm
bốn nội dung: hiệu quả - cạnh tranh - công bằng - minh bạch.
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu mua sắm công ngày càng
lớn nguy cơ thất thoát trong quá trình mua sắm công ngày càng gia tăng vì lĩnh vực hay
ngành nghề nào cũng cần mua sắm công. Hoạt động mua sắm công chiếm tỷ lệ lớn,
nhất là ở các nước đang phát triển.
Trong quá trình tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm công, đang có sự kết hợp
giữa hai mô hình là mua sắm tập trung (đối với các loại tài sản có số lượng mua sắm
8
nhiều, tổng giá trị lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ, hiện đại); mua sắm phân
tán (đối với các loại tài sản, hàng hóa có số lượng mua sắm ít, tổng giá trị nhỏ). Tuy
nhiên, ở bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, yêu cầu thắt chặt chi tiêu công
gắn với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đang được đặt ra, việc hoàn thiện
cơ chế mua sắm tập trung và mở rộng phạm vi áp dụng là hết sức cần thiết, phù hợp
với xu hướng chung của nhiều quốc gia hiện nay.
Đấu thầu mua TCB tập trung được hiểu là cách tổ chức đấu thầu công khai
rộng rãi để lựa chọn nhà thầu cung cấp TCB thông qua đơn vị mua sắm tập trung của
ngành y tế với mục đích cuối cùng là nhằm giảm chi phí, thời gian, đầu mối trong quá
trình tổ chức đấu thầu, tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu, góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế. Đấu thầu mua sắm TCB tập trung được áp dụng trong trường
hợp chủ đầu tư có nhu cầu mua TCB với số lượng lớn, quy cách và tính chất tương tự ở
một hoặc một số cơ sở khám chữa bệnh. Đấu thầu mua sắm tập trung có thể được thực
hiện dựa theo một trong hai cách như sau:
(i) Đơn vị mua sắm tập trung ngành y tế tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành
lựa chọn nhà thầu là các công ty dược, trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa
chọn cung cấp TCB;
(ii) Đơn vị mua sắm tập trung ngành y tế tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành
lựa chọn nhà thầu là các công ty dược, ký văn bản thỏa thuận khung với một hoặc
nhiều nhà thầu được lựa chọn làm căn cứ cơ sở để các đơn vị, bệnh viện có nhu cầu
mua sắm trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn để cung cấp TCB.
Đơn vị mua sắm tập trung căn cứ vào cơ sở nhiệm vụ được giao hoặc hợp đồng
ký với các cơ sở khám chữa bệnh có nhu cầu mua sắm để lựa chọn nhà thầu.
Như vậy, với cách hiểu ở trên, đấu thầu tập trung không phải là tập trung việc
mua sắm TCB vào một đầu mối sau đó cấp phát cho các đơn vị sử dụng mà đấu thầu
TCB tập trung, trước hết là tạo ra một thiết chế để tổng hợp, rà soát nhu cầu sử dụng
thuốc của các cơ quan, bệnh viện đảm bảo hợp lý, tiết kiệm; trên cơ sở đó lựa chọn các
9
nhà cung cấp thuốc có chất lượng và giá cả hợp lý nhất làm cơ sở cho các cơ sở khám
chữa bệnh ký hợp đồng mua sắm với các nhà cung cấp được lựa chọn; cơ quan mua
sắm tập trung cũng là cơ quan tư vấn, hỗ trợ, có vai trò cụ thể hóa các quy định của
Nhà nước vào việc mua sắm đối với từng loại TCB để cho các cơ sở khám chữa bệnh
tổ chức thực hiện được thuận lợi, dễ dàng.
Đấu thầu mua TCB tập trung còn là hoạt động tham mưu, hỗ trợ cho Chính phủ,
UBND cấp tỉnh trong việc thực hiện các chức năng quản lý chi tiêu mua sắm công và
quản lý tài sản nhà nước, đồng thời tư vấn, hỗ trợ cho các cơ quan, bệnh viện thực hiện
việc mua sắm theo đúng quy trình, quy định của Nhà nước một cách tiết kiệm và hiệu
quả. Việc quy định hình thức đấu thầu mua sắm TCB tập trung là nhằm thay vì tổ chức
mua sắm thuốc với số lượng nhiều, chủng loại tương tự ở nhiều bệnh viện khác nhau,
thì đơn vị mua sắm tập trung của ngành y sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên
nghiệp một lần. Hình thức này vừa giảm chi phí tổ chức đấu thầu, rút ngắn thời gian
đồng thời tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu thầu mua sắm, góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2 Đặc điểm của đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung.
Thứ nhất, đấu thầu mua TCB tập trung khác với kế hoạch hóa tập trung
Từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta bước vô thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội, năm 1960 miền Bắc đưa vào áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Ưu điểm của mô hình này là trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng,
tức là dựa vào sự tăng đầu tư. khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ và một số lợi
thế khác, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp có những tác dụng nhất định.
Nó tạo sự tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong
quá trình công nghiệp hóa theo chiều hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Cơ
chế này giúp tạo sự thống nhất trong thực hiện các mục tiêu.
Bên cạnh những ưu điểm thì cơ chế này cũng có những hạn chế như thủ tiêu sự
10
cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế,
sáng tạo đối với người lao động. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung hạn chế sự phát triển
của các thành phần kinh tế khác, kìm hãm lao động sản xuất, làm giảm năng suất, chất
lượng, gây rối loạn trong lưu thông phân phối và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội như tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành
chính nhà nước trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển chiều sâu dựa vào việc
áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại thì cơ chế
quản lý này càng bộc lộ rõ nét những khiếm khuyết của nó, làm cho nền kinh tế các
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là tất yếu, hết sức cần thiết.
Đấu thầu mua TCB tập trung là việc áp dụng phương thức mua sắm mới để mua
thuốc nhằm làm tăng hiệu quả, tính chuyên nghiệp trong công tác mua sắm công, giảm
bớt sự trùng lặp công việc, lãng phí trong sử dụng nhân sự. Phương thức đấu thầu mua
sắm này giúp phát triển sản xuất, làm tăng năng suất lao động, khuyến khích tăng
cường chất lượng TCB và tạo cơ hội để ứng dụng công nghệ thông tin giúp làm tăng
hiệu quả mua sắm.
Thứ hai, mô hình đấu thầu mua TCB tập trung đối lập với mô hình mua sắm
phân tán
Mô hình mua sắm phân tán trong mua sắm TCB là Nhà nước phân bổ dự toán
cho từng cơ sở khám chữa bệnh để họ tự tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm theo quy
định đối với các gói thầu của dự án thuộc phạm vi quản lý cửa cơ sở khám chữa bệnh
đó.
Đấu thầu mua TCB tập trung là mô hình mua sắm trên cơ sở tổng hợp các nhu
cầu mua sắm giống nhau của nhiều cơ sở khám chữa bệnh. Các cơ sở khám chữa bệnh
có nhu cầu mua sắm thống nhất giao hoặc ký hợp đồng với đơn vị mua sắm tập trung
để họ tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu cung cấp TCB theo nhu cầu tổng hợp chung
11
đó.
Thứ ba, đấu thầu mua TCB tập trung là việc mua sắm một lần với số lượng lớn.
Căn cứ trên cơ sở tập hợp nhu cầu mua sắm giống nhau của nhiều cơ sở khám
chữa bệnh, đơn vị mua sắm tập trung tổ chức đấu thầu một lần nhằm lựa chọn được
một hoặc nhiều nhà thầu cung cấp TCB. Như vậy, khối lượng mua sắm là lớn hơn
nhiều so với mua sắm theo mô hình phân tán như cách áp dụng mua sắm truyền thống.
Ngoài ra, thay bằng việc mỗi cơ sở khám chữa bệnh tự tổ chức đấu thầu để lựa chọn
nhà thầu cung cấp thì đơn vị mua sắm tập trung sẽ tổ chức đấu thầu một lần.
Thứ tư, có nhiều chủ thể tham gia vào quá trình đấu thầu mua sắm thuốc tập
trung
Khi đấu thầu mua sắm thuốc tập trung thì hoạt động này được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp nhà nước, nên có nhiều chủ thể tham gia vào
quá trình mua sắm tập trung để bảo đảm được các mục tiêu của mua sắm tập trung là
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Các chủ thể tham gia bao gồm:
a) Các đối tượng tham gia trực tiếp vào hoạt động đấu thầu mua sắm TCB tập
trung:
- Bên mua: Chính là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước, bao gồm:
(i) Người có thẩm quyền quyết định việc đấu thầu mua sắm tập trung;
(ii) Bên mời thầu, là cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ;
(iii) Tổ chuyên gia, bao gồm các cá nhân được bên mời thầu quyết định thành
lập để thực hiện nhiệm vụ đánh giá HSDT, lựa chọn nhà thầu phù hợp với yêu cầu căn
cứ HSMT và tổ chức đấu giá;
(iv) Cơ quan, tổ chức thẩm định.
- Bên bán: Nhà thầu tham gia mua sắm tập trung các gói thầu phù hợp với điều
kiện năng lực và kinh nghiệm của mình để dành được các hợp đồng trên cơ sở cạnh
tranh hoặc thông qua các hình thức lựa chọn khác theo quy định.
b) Các đối tượng tham gia gián tiếp vào hoạt động đấu thầu mua sắm TCB tập
12
trung:
Ngoài bên mua và bên bán là các đối tượng tham gia trực tiếp hoạt động đấu
thầu mua sắm tập trung còn có một bộ phận thứ ba gián tiếp tham gia vào hoạt động
này, bao gồm:
- Cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát;
- Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập;
- Các cơ quan báo chí, truyền thông;
- Sự tham gia của cộng đồng với vai trò giám sát.
1.1.3 Ý nghĩa, vai trò của đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
- Ý nghĩa của đấu thầu mua TCB tập trung
+ Giá thuốc sẽ giảm mạnh
Trước đây tình trạng chênh lệch giá thuốc gây ảnh hưởng lớn đến người bệnh.
Cùng một mặt hàng thuốc của một công ty sản xuất mà mỗi nơi một giá khác nhau. Giá
thuốc giữa các tỉnh khác nhau đã đành (vì có thể do khoảng cách địa lý, nhà thầu tính
thêm phí vận chuyển) nhưng do việc đấu thầu đơn lẻ tại các bệnh viện đã tạo ra sự
chênh lệch giá đối với cùng một loại thuốc, với cùng một dạng hoạt chất và cùng một
dạng bào chế ở các cơ sở khám chữa bệnh trong cùng một địa phương. Nó cũng tạo
nên sự hỗn loạn về các mặt hàng thuốc khi có khá nhiều loại thuốc trúng thầu có cùng
một hoạt chất nhưng với tỉ lệ khác nhau. Việc xét thầu lâu nay đã đẻ ra những thủ thuật
“lách luật”, “cài thầu” để thuốc vào được danh mục sử dụng của cơ sở khám chữa
bệnh. Nhiều dạng bào chế với hàm lượng “lạ” để không bị cạnh tranh đã xuất hiện
khiến cho TCB từ “ma trận” về giá dẫn đến “mê hồn trận” về hàm lượng và dạng bào
chế.
Tình trạng này sẽ được khắc phục triệt để khi đấu thầu mua sắm tập trung với
các thuốc có hoạt chất được sử dụng với số lượng lớn. Đấu thầu tập trung cũng sẽ khắc
phục được tình trạng giá thuốc chênh lệch giữa các cơ sở khám chữa bệnh trong cùng
địa phương. Một nguyên lý sơ đẳng trong buôn bán bất cứ loại hàng hóa nào là nếu tôi
13
bán được nhiều hàng thì giá của tôi sẽ giảm hơn ở cửa hàng khác cùng chủng loại. Mua
với số lượng lớn sẽ rẻ hơn mua lẻ tẻ từng món. Đấu thầu thuốc tập trung với số lượng
rất lớn thì giá phải giảm là điều dễ thấy. Mặt khác, khi nhà thầu trúng thầu cung ứng
thuốc với số lượng lớn, họ cũng sẽ khá yên tâm với doanh số, tất nhiên trong điều kiện
nhà thầu đó phải có năng lực sản xuất và phân phối đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật khi xét
thầu.
+ Đảm bảo chất lượng thuốc thống nhất trong cả nước
Chỉ các thuốc đủ điểm kỹ thuật mới được xem xét đến giá, tức là chất lượng
phải được đặt lên hàng đầu. Trong sản xuất kinh doanh dược phẩm, bộ tiêu chí
GP (Thực hành tốt) với các chuẩn rất cao theo EU hoặc WHO đã được các doanh
nghiệp dược quan tâm triển khai. Khi các thuốc trúng thầu đảm bảo đủ các yếu tố kỹ
thuật sẽ được phân vào 5 nhóm đối với thuốc tân dược nhóm Generic (thuốc tương
đương sinh học với biệt dược gốc đã hết hạn bản quyền). Năm nhóm đó hoàn toàn có
những tiêu chí rất rõ ràng, minh bạch, cố định, để xem thuốc đó có hay không được xếp
vào nhóm đó. Thuốc chỉ được đấu giá với nhau trong cùng một nhóm. Cho nên sẽ
không có chuyện thuốc chất lượng ở nhóm thấp hơn lại lọt vào trúng thầu ở nhóm
thuốc có chất lượng cao hơn. Mặt khác, quá trình đấu thầu luôn tuân thủ nguyên tắc
đấu thầu rộng rãi, đảm bảo sự cạnh tranh và tính minh bạch để chọn ra thuốc tốt có giá
thành tốt theo xu hướng giá thuốc đấu thầu tập trung phải giảm hơn so với đấu thầu
riêng lẻ ở nhiều nơi.
+ Điều phối giữa nơi dùng ít và nơi dùng nhiều
Chủ đầu tư, bên mời thầu có thể thực hiện vai trò điều phối thuốc trong quá trình
thực hiện cung ứng thuốc của các hãng dược. Việc giảm bớt thủ tục hành chính trong
điều phối thuốc như vậy sẽ tiện lợi hơn vì không phải chờ đợi xét duyệt mỗi khi thiếu
thuốc. Các cơ sở khám chữa bệnh không phải tổ chức xây dựng gói thầu, giá kế hoạch,
tổ chức đấu thầu; các nhà thầu cũng biết trước một lượng thuốc lớn và ổn định họ sẽ
phải cung cấp trong một thời gian dài cố định mà không phải làm hàng trăm bộ HSDT,
14
tham dự hàng trăm cuộc đấu thầu.
Cái được rất lớn của việc đấu thầu thuốc tập trung chính là tạo động lực cho nền
sản xuất thuốc trong nước phát triển. DN chủ động được nguồn cung, đơn hàng dồi
dào, từ đó chủ động nâng cao năng suất, chuyển giao công nghệ để nâng sức cạnh tranh
trong đấu thầu.
- Vai trò của đấu thầu mua TCB tập trung
Việc đấu thầu mua sắm TCB tập trung có vai trò bảo đảm đạt được bốn yếu tố,
đó là: hiệu quả - công bằng - minh bạch và cạnh tranh. Yếu tố hiệu quả có thể được
đánh giá dựa vào mặt tài chính hoặc thời gian thực hiện hay một yêu cầu, tiêu chí nào
đó phụ thuộc vào mục tiêu dự án. Chủ đầu tư muốn đảm bảo yêu cầu hiệu quả tốt nhất
cho dự án thì phải tạo mọi điều kiện để các nhà thầu có thể cạnh tranh công khai trong
phạm vi rộng nhất nhằm tạo ra sự minh bạch, công bằng, đáp ứng lợi ích cao nhất cho
các bên tham gia vào hoạt động đấu thầu.
Đối với chủ đầu tư, thông qua hoạt động đấu thầu mua sắm giúp chủ đầu tư có
thể chọn được các nhà thầu thõa mãn được yêu cầu về chất lượng TCB, tiết kiệm được
chi phí mua thuốc, bảo đảm tiến độ cung ứng thuốc. Bảo đảm quyền chủ động, tránh
tình trạng quá phụ thuộc vào một nhà thầu sẽ có thể nảy sinh nhiều hệ quả. Tạo ra một
môi trường có tính cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp dược
tham gia thầu. Hoạt động đấu thầu giúp chủ đầu tư nâng cao năng lực cũng như trình
độ các cán bộ, nhân viên của chủ đầu tư.
Đối với nhà thầu, với mong muốn trúng thầu khi tham dự thầu thì các nhà thầu
cần phải tự mình hoàn thiện trên tất cả mọi mặt. Nhờ nguyên tắc minh bạch, công khai
và bình đẳng giữa các nhà thầu trong đấu thầu nên các nhà thầu phải cố gắng phát huy
cao nhất sự chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và ký kết hợp
đồng (nếu trúng thầu), qua đó giúp tạo việc làm cho người lao động, tạo động lực phát
triển sản xuất kinh doanh. Thông qua hoạt động đấu thầu, các nhà thầu phải chọn lọc,
15
tính toán làm sao để việc đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực sản xuất và
phân phối, từ đó sẽ nâng cao năng lực của doanh nghiệp, giúp cho nâng cao hiệu quả
kinh tế khi giá tham dự thầu thấp nhưng vẫn thu được lợi nhuận hợp lý.
Đối với nền kinh tế quốc dân, đấu thầu có vai trò giúp phát huy hiệu quả công
tác quản lý điều hành nhà nước về đầu tư mua sắm công, qua đó kéo giảm tới mức thấp
nhất vấn đề thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Mặt khác, hoạt động đấu thầu mua sắm tập
trung cũng góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
đầu tư sản xuất dược nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung, tạo ra môi trường cạnh
tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mang lại động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển
của ngành công nghiệp dược nước ta, tạo điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ vào
thực tiễn sản xuất, đổi mới kỹ thuật, rút ngắn khoảng cách để từng bước hội nhập với
các nước trong khu vực và quốc tế.
1.2. Pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
1.2.1 Khái niệm pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung.
Hoạt động đấu thầu đã xuất hiện từ rất lâu với những hình thức khác nhau, thế
nhưng các quy định pháp luật dùng để điều chỉnh hoạt động đấu thầu thì lại ra đời trễ
hơn. Các Biểu mẫu liên quan đến đấu thầu do Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn
(FIDIC) biên soạn là một trong những căn cứ pháp lý dùng để điều chỉnh hoạt động
đấu thầu. Cùng với đó, nhiều quốc gia và những tổ chức quốc tế cũng đã tiếp tục xây
dựng các quy định, hướng dẫn, thể lệ và quy chế về hoạt động đấu thầu. Thời kỳ Pháp
thuộc, Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện hình thức đấu thầu, năm 1954 sau khi hiệp định
Giơnevơ được ký kết về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, miền Bắc bắt tay vào xây
dựng đất nước, phát triển kinh tế, hoạt động đấu thầu được thực hiện bằng hình thức
đàm phán trực tiếp với các cấp kinh phí, tài trợ để mua sắm máy móc, thiết bị nhà
xưởng. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, Việt Nam đã tổ
chức đấu thầu để chọn nhà thầu thi công hồ thủy lợi Dầu Tiếng vào năm 1979. Từ đó
đến nay nước ta đã thực hiện rất nhiều cuộc đấu thầu với mức độ to nhỏ khác nhau và
16
các lĩnh vực khác nhau trên khắp các địa phương tỉnh thành, qua đó giúp tiết kiệm
được nguồn tiền bạc, nhân công cho nền kinh tế nước nhà. Trước đây khi mà chưa có
một văn bản pháp lý nào điều chỉnh trực tiếp hoạt động đấu thầu thì nước ta áp dụng
một số văn bản có các quy định liên quan để điều chỉnh hoạt động đấu thầu mua sắm
hàng hóa như: Luật thương mại năm 1997, Nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 của
Chính phủ, Thông tư liên tịch số 02/TTLB ngày 25/02/1997 về việc hướng dẫn thực
hiện Quy chế đấu thầu… Luật Đấu thầu số 61/2005/QH/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005 ra đời chính thức trở thành văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp hoạt động đấu
thầu mua sắm hàng hóa, tạo cơ sở nền tảng và khung pháp lý cho việc thực hiện những
cuộc đấu thầu sau đó.
Kể từ khi Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2013 có hiệu
lực pháp lý thay thế cho Luật Đấu thầu số 61/2005/QH/QH11 ngày 29 tháng 11 năm
2005, thì hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa nói chung và đấu thầu mua TCB tập
trung nói riêng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý, như: Luật Thương mại năm
2005, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, Luật Doanh nghiệp năm
2014 , Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13,...Theo thời gian càng về sau thì hệ thống
các văn bản pháp luật về đấu thầu, đấu thầu mua sắm tập trung càng được hoàn thiện
hơn, làm cơ sở hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động đấu thầu mua sắm. Các quy
định của pháp luật đã góp phần tạo ra môi trường đấu thầu công bằng, minh bạch nhằm
đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể tham gia vào quá trình đấu thầu. Tuy nhiên,
mặc dù đã có nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu thầu nói chung, đấu thầu
mua sắm tập trung nói riêng nhưng cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trên phương
diện lý luận lẫn thực tiễn áp dụng. Điều này đã tác động khá lớn tới hiệu quả của hoạt
động đấu thầu, gây ra ảnh hưởng không tốt trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể
tham gia. Việc vận dụng đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các nguyên tắc trong hoạt động
đấu thầu mua sắm tập trung góp phần tăng cường hiệu quả trong đấu thầu lẫn trong quá
17
trình giải quyết các tranh chấp xảy ra từ hoạt động đấu thầu. Pháp luật về đấu thầu mua
sắm tập trung là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành với mục đích
điều chỉnh những quan hệ xã hội về tổ chức hoạt động đấu thầu, trong đó có các quan
hệ xã hội về đấu thầu mua sắm TCB tập trung. Các quan hệ xã hội về hoạt động đấu
thầu phát sinh trực tiếp từ quá trình xây dựng, duy trì, thay đổi và hoàn thành hoạt động
đấu thầu (mời tham dự thầu, hình thức và phương thức đấu thầu, chọn nhà thầu, tổ
chức đấu thầu, thương thảo hợp đồng, ký kết hợp đồng…). Pháp luật về đấu thầu mua
sắm TCB tập trung được hiểu là: tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong quá trình tổ
chức, quản lý, thực hiện và áp dụng các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu
thầu mua sắm TCB tập trung nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân và các chủ thể khác.
1.2.2 Nội dung pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
- Chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu mua TCB tập trung
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là một hoạt động thương mại, theo đó bên có nhu
cầu mua hàng hóa thông qua hoạt động mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm chọn ra
trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đạt được
tốt nhất các tiêu chí do bên mời thầu yêu cầu và được lựa chọn để ký kết và thực hiện
hợp đồng (gọi là bên trúng thầu). Đấu thầu mua sắm tập trung là một trong các cách
thức thực hiện hoạt động đấu thầu. Do đó, có thể hiểu rằng tham gia vào hoạt động đấu
thầu mua sắm hàng hóa tập trung nói chung, đấu thầu mua sắm TCB tập trung nói
riêng bao gồm hai nhóm chủ thể chính là bên mời thầu và bên dự thầu.
Thứ nhất, bên mời thầu, là bên có nhu cầu mua sắm hàng hóa, mà ở đây cụ thể
là mua TCB, là cơ quan, cơ sở khám chữa bệnh có đủ chuyên môn và năng lực để tổ
chức và thực hiện các hoạt động đấu thầu, đó là: Chủ đầu tư hay tổ chức khác do chủ
đầu tư thành lập hoặc lựa chọn; Đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng nguồn vốn mua sắm
thường xuyên; Đơn vị mua sắm tập trung; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay tổ
18
chức trực thuộc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền lựa chọn. Đối với trường hợp chủ
sở hữu vốn không đồng thời là bên mời thầu thì chủ sở hữu vốn thật sự cũng có vai trò
ảnh hưởng nhất định đến gói thầu.
Thứ hai, bên dự thầu được hiểu là các thương nhân có năng lực cung cấp hàng
hóa mà cụ thể ở đây là TCB muốn thông qua đấu thầu để giành quyền cung cấp TCB
và được bên mời thầu mời tham dự đấu thầu. Bên dự thầu là thương nhân Việt Nam
hoặc thương nhân nước ngoài đáp ứng đầy đủ điều kiện.
Trong quá trình đấu thầu thì có nhiều thương nhân khác nhau cùng tham gia dự
thầu, tuy nhiên chỉ có thương nhân nào đạt các tiêu chí của bên mời thầu và xếp hạng
cao nhất (bên trúng thầu) mới được lựa chọn để ký kết hợp đồng cung ứng hàng hóa,
dịch vụ với bên mời thầu. Bên cạnh điều kiện về tư cách chủ thể phải là thương nhân
thì bên dự thầu cũng cần đáp ứng một số yêu cầu như: có năng lực pháp luật dân sự ,
trường hợp thương nhân là cá nhân thì cần phải có năng lực hành vi dân sự để ký kết và
thực hiện hợp đồng, phải độc lập về tài chính.
Bên dự thầu bao gồm nhà thầu chính, nhà thầu phụ, nhà thầu trong nước, nhà
thầu nước ngoài. Bên cạnh đó còn có các chủ thể trung gian khác như: Tổ Thẩm định
HSMT, Tổ thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu…
Các chủ thể trên xuất hiện tham gia vào quan hệ đấu thầu mua TCB tập trung
nhưng vẫn chưa được pháp luật quy định rõ về tư cách pháp lý, quyền lợi và nghĩa vụ
mặc dù có một vai trò rất quan trọng trong quá trình tổ chức và thực hiện đấu thầu. Sự
tham gia của họ giúp cho hoạt động đấu thầu được thực hiện nghiêm túc, theo đúng
quy định của pháp luật, kịp thời phát hiện những bất cập, thiếu sót và đưa ra các đề
xuất để điều chỉnh cho phù hợp. Do đó, việc sớm đưa ra các quy định rõ ràng về các
chủ thể này trong luật là vô cùng cần thiết.
- Đối tượng đấu thầu
Đối tượng của đấu thầu mua sắm là TCB được cho phép kinh doanh trên thị
trường theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
19
- Hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu
Hình thức lựa chọn nhà thầu trong đấu thầu mua sắm tập trung là chỉ áp dụng
đấu thầu rộng rãi và được sử dụng đối với trường hợp có nhu cầu mua sắm với số
lượng lớn, quy cách và tính chất tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức hoặc chủ
đầu tư.
Phương thức lựa chọn nhà thầu: trong đấu thầu mua sắm tập trung có thể sử
dụng một trong bốn phương thức sau:
+ Một giai đoạn một túi hồ sơ;
+ Một giai đoạn hai túi hồ sơ;
+ Hai giai đoạn một túi hồ sơ;
+ Hai giai đoạn hai túi hồ sơ.
Trước đây, lúc chưa có danh mục quy định các hoạt chất phải đấu thầu mua sắm
tập trung đối với TCB do Bộ Y tế xây dựng thì các cơ sở khám chữa bệnh thường sử
dụng hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi, phương thức một giai đoạn một
túi hồ sơ.
Hiện nay, Bộ Y tế đã ban hành danh mục thuốc đấu thầu mua sắm tập trung nên
việc đấu thầu mua sắm thuốc được thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi, phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.
- Đánh giá HSDT
Sau thời điểm mở thầu, việc đánh giá HSDT được thực hiện bởi Tổ chuyên gia
đấu thầu. Trong giai đoạn lựa chọn nhà thầu, có thể coi việc đánh giá HSDT là quan
trọng nhất, đòi hỏi sự làm việc khách quan, trung thực, công bằng của những người
trực tiếp tham gia chấm thầu. Chủ đầu tư quyết định trúng thầu hay không trúng thầu là
do căn cứ vào kết quả đánh giá HSDT của Tổ chuyên gia đấu thầu sau khi đã thẩm
định kết quả đánh giá HSDT theo đúng quy định. Theo quy định của pháp luật, phương
pháp đánh giá HSDT đối với gói thầu mua sắm hàng hóa có thể sử dụng một trong ba
20
phương pháp sau:
Phương pháp giá thấp nhất: Áp dụng cho các gói thầu có tính chất đơn giản,
quy mô vừa phải mà trong đó các đề xuất về tiêu chuẩn kỹ thuật, tài chính, thương mại
được xem là cùng một mặt bằng khi thỏa mãn các tiêu chí ghi trong HSMT;
HSDT được đánh giá dựa vào HSMT, Tổ chuyên gia sẽ căn cứ vào các tiêu chí
về năng lực, kinh nghiệm; tiêu chí kỹ thuật của từng sản phẩm và toàn bộ gói thầu. Nếu
như các HSDT được đánh giá là đã đáp ứng các tiêu chí nêu trong HSMT về năng lực,
kinh nghiệm và kỹ thuật thì dựa vào giá dự thầu sau khi đã sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch
để xếp hạng. Nhà thầu có giá thấp nhất được xếp thứ nhất. Việc xếp hạng các HSDT
được thực hiện sau khi đạt được các tiêu chí về năng lực, kinh nghiệm và kỹ thuật quy
định trong HSMT, căn cứ xếp hạng là dựa vào giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai
lệch.
Phương pháp giá đánh giá: Áp dụng cho các gói thầu mà các chi phí có thể quy
đổi được trên cùng một mặt bằng về các yếu tố tiêu chuẩn kỹ thuật, tài chính, thương
mại cho toàn bộ vòng đời sử dụng của hàng hóa. Các tiêu chí được quy đổi về cùng
một mặt bằng để xác định giá đánh giá bao gồm: chi phí cần thiết để vận hành, bảo
dưỡng và các chi phí liên quan đến xuất xứ của hàng hóa, lãi vay, chất lượng của hàng
hóa, uy tín của nhà thầu và các yếu tố khác; Việc đánh giá HSDT căn cứ vào các tiêu
chí quy định trong HSMT, theo đó sẽ đánh giá về năng lực, kinh nghiệm trong trường
hợp không áp dụng sơ tuyển; đánh giá về kỹ thuật; xác định giá đánh giá. Nếu các
HSDT đã vượt qua được bước đánh giá về tiêu chuẩn kỹ thuật thì căn cứ vào giá đánh
giá để xếp hạng. Nhà thầu nào có giá đánh giá thấp nhất thì được xếp hạng thứ nhất.
Phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá: Áp dụng cho các gói thầu mua sắm
hàng hóa mà không thể áp dụng riêng lẻ được phương pháp giá thấp nhất và phương
pháp giá đánh giá. HSDT được đánh giá dựa vào các tiêu chí trong HSMT, trong đó sẽ
đánh giá về kinh nghiệm và năng lực đối với trường hợp không áp dụng sơ tuyển; tiêu
chuẩn đánh giá về kỹ thuật; tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp (được xây dựng dựa trên cơ
21
sở kết hợp vừa kỹ thuật vừa giá). Những HSDT nào vượt qua được bước đánh giá về
kỹ thuật thì dựa vào số điểm tổng hợp mà xếp hạng tương ứng. Nhà thầu nào có điểm
tổng hợp cao nhất trong số các nhà thầu tham dự thầu thì được xếp thứ nhất.
Nhà thầu cung cấp hàng hóa trong đấu thầu mua sắm được xem xét, đề nghị
trúng thầu nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, có HSDT hợp lệ theo quy định;
Thứ hai, có năng lực và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu;
Thứ ba, có đề xuất về kỹ thuật đáp ứng yêu cầu;
Thứ tư, có sai lệch thiếu không được vượt quá 10% giá dự thầu;
Thứ năm, có giá dự thầu sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá
(nếu có giảm giá) thấp nhất đối với phương pháp giá thấp nhất; có giá đánh giá thấp
nhất đối với phương pháp giá đánh giá; có điểm tổng hợp cao nhất đối với phương
pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá;
Thứ sáu, có giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu được phê duyệt.
Trong thực tế áp dụng, những gói thầu mua sắm TCB hiện nay thường sử dụng
hình thức đấu thầu rộng rãi, phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ và việc đánh giá
HSDT được tiến hành bằng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá, trong đó đánh
giá về năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu thì sử dụng tiêu chí “đạt”, “không đạt”; còn
đánh giá về kỹ thuật thì có thể sử dụng tiêu chí “đạt”, “không đạt” hoặc tiêu chí chấm
điểm với thang điểm 100 hoặc 1000. Việc đánh giá HSDT căn cứ vào tiêu chí nào, theo
những nội dung gì thì đã được quy định rõ ràng trong HSMT trước đó, Tổ chuyên gia
đấu thầu dựa vào từng nội dung cụ thể trong HSDT so với tiêu chí trong HSMT để
đánh giá, xếp loại và lập báo cáo đánh giá HSDT được quy định theo mẫu [4].
- Cách thức thực hiện;
Việc mua thuốc tập trung được thực hiện theo cách thức ký thỏa thuận khung
giữa bên mời thầu là Trung tâm Mua sắm tập trung thuốc Quốc gia hoặc Sở Y tế với
22
nhà thầu trúng thầu
Sau khi có kết quả đánh giá và xếp hạng HSDT, chủ đầu tư sẽ thực hiện trình tự
theo các bước sau:
Bước 1: Nhà thầu xếp hạng thứ nhất được bên mời thầu mời đến thương thảo
hợp đồng;
Bước 2: Trường hợp thương thảo thành công, chủ đầu tư sẽ phê duyệt kết quả
lựa chọn nhà thầu;
Bước 3: Trường hợp thương thảo thất bại thì mời nhà thầu xếp hạng kế tiếp vào
thương thảo hợp đồng. Nếu việc thương thảo với nhà thầu xếp hạng tiếp theo vẫn
không thành công, thì bên mời thầu báo cáo với chủ đầu tư để xem xét, quyết định hủy
thầu.
Trong quy trình các bước để lựa chọn nhà thầu, Luật Đấu thầu năm 2013 quy
định thương thảo hợp đồng phải được tiến hành trước lúc trình, thẩm định, phê duyệt
và công bố kết quả lựa chọn nhà thầu. Khi có kết quả công khai về việc lựa chọn nhà
thầu thì các nhà thầu được trúng thầu sẽ tiến hành ký kết thỏa thuận khung với bên mời
thầu về các nội dung như: Phạm vi cung cấp; Giá; Điều kiện tạm ứng, thanh toán,
thanh lý hợp đồng; Về điều kiện bàn giao hàng hóa; Trách nhiệm của các bên liên
quan; Thời hạn có hiệu lực của thỏa thuận khung; Bảo đảm thực hiện thỏa thuận
khung; Bất khả kháng; Luật áp dụng và giải quyết tranh chấp; Xử phạt do vi phạm;
Điều khoản chung.
- Thương thảo Hợp đồng
Thương thảo hợp đồng hay gọi cách khác là đàm phán hợp đồng. Đây là quá
trình mà không phải bên dự thầu nào cũng được tham gia. Theo quy định, chỉ bên dự
thầu nào có vị trí xếp hạng cao nhất trong bảng xếp hạng các nhà thầu mới được tham
gia. Đối với trường hợp mà nhà thầu được mời thương thảo hợp đồng nhưng không
tham dự hoặc từ chối thương thảo thì điều đó cũng có nghĩa là nhà thầu sẽ chấp nhận
mất bảo đảm dự thầu. Việc thương thảo hợp đồng phải căn cứ trên cơ sở báo cáo đánh
23
giá về HSDT; HSDT cùng với các tài liệu, văn bản kèm theo để làm rõ HSDT (nếu có)
của nhà thầu và HSMT. Không những thế, thương thảo hợp đồng không phải là việc
làm tự phát mà nó phải căn cứ trên những nguyên tắc nhất định. Trong đó, với những
nội dung mà nhà thầu đã chào thầu theo đúng quy định, yêu cầu của HSMT sẽ không
được đưa ra để thương thảo.
Đơn giá dự thầu không bị thay đổi sau khi thương thảo hợp đồng, ngoại trừ “nếu
trường hợp bên mời thầu phát hiện khối lượng mời thầu ghi trong bảng tiên lượng mời
thầu không đủ so với hồ sơ thiết kế thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu cần phải bổ sung
khối lượng công việc thiếu đó dựa trên căn cứ đơn giá đã chào; nếu trong trường hợp
HSDT chưa có đơn giá thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định việc
áp đơn giá ghi trong dự toán đã được phê duyệt đối với khối lượng công việc thiếu so
với hồ sơ thiết kế hoặc đơn giá của nhà thầu khác đã vượt qua bước đánh giá về kỹ
thuật nếu như đơn giá này thấp hơn đơn giá đã phê duyệt trong dự toán gói thầu” [6].
Thương thảo hợp đồng là việc hai bên cùng ngồi lại với nhau để bàn bạc và đưa ra một
bản kết luận cuối cùng thống nhất các nội dung chi tiết trong hợp đồng. Nội dung
thương thảo hợp đồng đa số sẽ liên quan những nội dung chưa đủ chi tiết, chưa rõ ràng
hoặc chưa thích hợp hoặc chưa có sự thống nhất giữa HSMT và HSDT. Các nội dung
khác nhau trong HSDT cũng được đưa ra để bàn bạc, xem xét. Tại vì đó có thể là
nguyên nhân làm nảy sinh các tranh chấp hoặc tạo ảnh hưởng tới trách nhiệm của các
bên trong khi thực hiện hợp đồng. Những sai lệch được nhà thầu phát hiện ra và đề
xuất trong HSDT thì cũng có thể được đem ra bàn bạc thương thảo. Ví dụ như nhà thầu
có thể kiến nghị thay đổi hoặc nêu phương án thay thế mang tính khả thi hơn nếu trong
HSMT có quy định cho nhà thầu được phép chào phương án thay thế. Mặt khác, những
vấn đề nảy sinh trong việc lựa chọn nhà thầu hoặc các vấn đề khác mà hai bên cảm
thấy cần phải trực tiếp thương thảo cũng có thể được đem ra thương thảo để tạo sự
thống nhất chung và đi đến ký kết hợp đồng. Khi tiến hành thương thảo hợp đồng, các
nội dung đưa ra thương thảo phải được lập thành biên bản và được lưa vào sổ văn bản
24
của đơn vị tư vấn đấu thầu, phải có đóng dấu của nhà thầu và bên tư vấn đấu thầu,
không nhất thiết phải có đóng dấu của chủ đầu tư. Biên bản thương thảo hợp đồng sẽ
được tư vấn đấu thầu đính kèm vô Báo cáo đánh giá HSDT để trình thẩm định, phê
duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu. Ngoài ra, cùng với việc lập biên bản thương thảo hợp
đồng, các bên sẽ thực hiện hoàn tất dự thảo của hợp đồng, nêu chi tiết từng điều kiện
cụ thể của hợp đồng và các phụ lục (nếu có). Nếu mà các bên không thể thống nhất
được với nhau các nội dung cơ bản trong dự thảo văn bản hợp đồng thì bên mời thầu sẽ
báo cáo với chủ đầu tư. Lúc đó, nhà thầu có vị trí xếp hạng kế tiếp sẽ được xem xét và
quyết định mời đến thương thảo hợp đồng. Cứ tiếp tục như vậy cho đến lúc đã chọn
được nhà thầu trong bảng xếp hạng nhà thầu.
Nếu như đã thương thảo với tất cả các nhà thầu trong bảng xếp hạng mà vẫn
không tìm được một nhà thầu nào đáp ứng yêu cầu thì bên mời thầu sẽ báo cáo việc
25
này với chủ đầu tư. Chủ đầu tư sẽ xem xét và quyết định hủy thầu.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Với sự phát triển và yêu cầu minh bạch của nền kinh tế thị trường, đấu thầu
ngày càng trở thành biện pháp, phương thức và công cụ hữu hiệu được áp dụng rộng
rãi trên toàn thế giới.
Đấu thầu mua TCB tập trung mang lại giá trị lợi ích to lớn đối với chủ đầu tư,
nhà thầu và nền kinh tế quốc dân nói chung; góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của
công tác quản lý nhà nước về đầu tư mua sắm và sản xuất, hạn chế và loại trừ được tình
trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư; tang cường hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực dược phẩm nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung; tạo ra môi trường
cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa các nhà phân phối dược phẩm. Đây là động
lực vô cùng to lớn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp dược nước ta và tạo
điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất, từng bước
hội nhập với các quốc gia trong khu vực và quốc tế.
Ở chương 1, tác giả đã khái quát và phân tích các vấn đề mang tính lý luận cơ
bản về đấu thầu mua sắm TCB tập trung. Tổng quan chung thì cách tiếp cận của pháp
luật đấu thầu ở Việt Nam mua sắm hàng hóa về cơ bản nhằm bảo đảm môi trường pháp
lý minh bạch, cạnh tranh công bằng, phát huy ứng dụng công nghệ thông tin, rút gọn
các thủ tục hành chính không cần thiết. Muốn tạo ra một sân chơi chung minh bạch
trong hoạt động đấu thầu thì những quy định pháp luật cần phải tạo ra sự công bằng,
bình đẳng với nhau giữa các loại hình doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là các doanh
nghiệp tham dự thầu được đối xử bình đẳng trong hoạt động đấu thầu và vận hành theo
26
nguyên tắc thị trường.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU MUA THUỐC CHỮA
BỆNH TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM HIÊN NAY VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Thực trạng các quy định pháp luật về mua sắm thuốc chữa bệnh tập
trung ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
- Bên mời thầu [7]
“Bên mời thầu theo quy định của Luật đấu thầu 2013 là cơ quan, tổ chức có
chuyên môn và năng lực để thực hiện các hoạt động đấu thầu, bao gồm:
a) Chủ đầu tư hoặc tổ chức do chủ đầu tư quyết định thành lập hoặc lựa chọn;
b) Đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng nguồn vốn mua sắm thường xuyên;
c) Đơn vị mua sắm tập trung;
d) Cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức trực thuộc do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền lựa chọn. ”
- Bên dự thầu
Bên dự thầu theo quy định bao gồm các nhà thầu là các tổ chức, cá nhân thỏa
mãn những yêu cầu về kỹ thuật, về kinh tế tham gia dự thầu, đó là: nhà thầu chính, nhà
thầu phụ. Những nhà thầu tham gia trong hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung có địa
vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ không giống nhau. Nhà thầu gồm có, nhà thầu nước
ngoài và nhà thầu trong nước. Nhà thầu nước ngoài là tổ chức thành lập theo quy định
của pháp luật nước ngoài hay cá nhân có quốc tịch nước ngoài dự thầu ở Việt Nam.
Nhà thầu trong nước là tổ chức thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam hay cá
nhân quốc tịch Việt Nam dự thầu.
Trong đấu thầu mua TCB tập trung có thể có sự tham gia của nhà thầu chính và
các nhà thầu phụ. Nhà thầu chính chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và
27
trực tiếp ký kết, thực hiện hợp đồng trong trường hợp trúng thầu. Nhà thầu chính là nhà
thầu độc lập hay cũng có thể thành viên của liên danh nhà thầu. Nhà thầu phụ là nhà
thầu tham gia vào việc thực hiện gói thầu theo hợp đồng thỏa thuận được ký với nhà
thầu chính. Nhà thầu phụ đặc biệt là nhà thầu phụ nhưng làm những công việc quan
trọng trong gói thầu được nhà thầu chính đề xuất trong HSDT, hồ sơ đề xuất trên căn
cứ yêu cầu nêu trong HSMT, hồ sơ yêu cầu. [7]
Không chỉ có Bên mời thầu và Bên dự thầu, trong quá trình đấu thầu mua TCB
tập trung còn có một số chủ thể khác tham gia vào, đó là: những cá nhân có kinh
nghiệm, năng lực hay những tổ chức hoạt động tư vấn đấu thầu giúp xem xét, đánh giá
hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, HSDT, hồ sơ đề xuất và làm những công việc khác
trong tổ chức hoạt động đấu thầu. Dịch vụ tư vấn ở đây có thể là một hay một số các
công việc như là: lập, đánh giá báo cáo quy hoạch; khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo đánh giá các tác động đối với môi
trường; khảo sát, lập thiết kế, dự toán; lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển,
HSMT, hồ sơ yêu cầu; đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, HSDT, hồ sơ đề
xuất; thẩm tra, thẩm định; giám sát; quản lý dự án; thu xếp tài chính; kiểm toán, đào
tạo, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác [7] .
Chủ đầu tư trong đấu thầu mua sắm TCB tập trung có các quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm sau:
- Phê duyệt những nội dung, hạng mục công việc trong quá trình lựa chọn nhà
thầu, đó là: Kế hoạch chọn nhà thầu đối với trường hợp gói thầu thực hiện trước khi có
quyết định phê duyệt dự án; Hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, danh sách ngắn;
HSMT, hồ sơ yêu cầu; Danh sách xếp hạng các nhà thầu; Kết quả lựa chọn nhà thầu.
- Ký hợp đồng hay ủy quyền ký và quản lý quá trình thực hiện hợp đồng với nhà
thầu.
- Quyết định tổ chức để thành lập bên mời thầu có các nhân sự thỏa mãn các yêu
28
cầu theo quy định của Luật này. Nếu như không có đủ nhân sự đáp ứng điều kiện thì
phải thực hiện chọn một đơn vị đấu thầu chuyên nghiệp để sử dụng làm bên mời thầu
hay thực hiện một số công việc của bên mời thầu.
- Quyết định xử lý tình huống.
- Giải quyết các đề xuất, kiến nghị ở quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu.
- Thực hiện bảo vệ các tài liệu liên quan cần giữ bí mật trong suốt quá trình lựa
chọn nhà thầu.
- Lưu giữ những thông tin có liên quan trong khi thực hiện lựa chọn nhà thầu
dựa theo các quy định của pháp luật về công tác lưu trữ và những quy định của Chính
phủ.
- Tổ chức báo cáo công tác hoạt động đấu thầu hằng năm.
- Có trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại nếu thiệt hại đó do lỗi của mình
gây ra, dựa theo các quy định của pháp luật
- Quyết định hủy thầu được quy định ở khoản 1 Điều 17 của Luật Đấu thầu.
- Trong quá trình thực hiện lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư chịu trách nhiệm trước
pháp luật và người có thẩm quyền đối với các quyết định, hành động của mình.
- Có trách nhiệm cung cấp những thông tin liên quan và giải trình, giải thích
việc thực hiện những quy định ở Điều 74 nếu người có thẩm quyền hoặc các cơ quan
thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu có yêu cầu.
- Nếu chủ đầu tư cũng là bên mời thầu thì còn phải thực hiện thêm những trách
nhiệm được quy định ở Điều 75 của Luật Đấu thầu.
- Ngoài những trách nhiệm được nêu trên thì người có thẩm quyền phải thực
hiện các trách nhiệm khác được quy định trong Luật Đấu thầu.
Trong quá trình tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm TCB tập trung, không chỉ
có sự tham gia của những chủ thể: Bên mời thầu, bên dự thầu, chủ đầu tư…mà còn có
sự tham gia của Tổ chuyên gia. Tổ chuyên gia thực hiện các quyền, nghĩa vụ và trách
29
nhiệm sau [7]:
Khi làm nhiệm vụ cần phải có thái độ trung thực, rõ ràng, khách quan và công
bằng
Đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, HSDT, hồ sơ đề xuất theo đúng
yêu cầu, nhiệm vụ;
Có trách nhiệm báo cáo với bên mời thầu về kết quả sau khi đánh giá hồ sơ quan
tâm, hồ sơ tham dự sơ tuyển, HSDT, hồ sơ đề xuất và danh sách xếp hạng thứ tự nhà
thầu, nhà đầu tư;
Bảo quản và giữ bí mật những tài liệu liên quan trong quá trình thực hiện lựa
chọn nhà thầu, nhà đầu tư;
Bảo lưu ý kiến của mình;
Có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại theo quy định pháp luật cho các bên
liên quan nếu như thiệt hại đó là do lỗi của Tổ chuyên gia;
Có trách nhiệm cung cấp các tài liệu hoặc thông tin có liên quan và giải trình
việc thực hiện các quy định trong Luật Đấu thầu nếu như người có thẩm quyền, chủ
đầu tư, bên mời thầu, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan quản lý nhà nước về hoạt
động đấu thầu có yêu cầu; Ngoài ra Tổ chuyên gia có thể thực hiện một số trách nhiệm
khác theo quy định trong Luật Đấu thầu.
Hoạt động đấu thầu chỉ được tổ chức thực hiện nếu chủ thể đáp ứng đủ điều
kiện:
+ Đối với bên mời thầu cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
Khi đã có quyết định đầu tư từ người có thẩm quyền;
Có kế hoạch về đấu thầu được người có thẩm quyền đã phê duyệt;
HSMT được người có thẩm quyền đã phê duyệt;
Thêm nữa, bên mời thầu không được dự thầu đối với những gói thầu do mình tổ
chức thực hiện.
30
+ Đối với nhà thầu dự thầu cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
Có giấy phép đăng ký kinh doanh. Đối với đấu thầu mua sắm thuốc còn
bản quyền sáng chế được quy định trong HSMT, ngoài điều kiện có giấy đăng ký kinh
doanh thì nhà thầu còn phải có giấy phép bán hàng thuộc bản quyền của nhà sản xuất;
Có đầy đủ năng lực đối với yêu cầu về kỹ thuật và tài chính của gói thầu;
Chỉ được phép tham gia một đơn vị dự thầu ở trong một gói thầu, cho dù đó là
trường hợp đơn phương hay liên doanh dự thầu. Nếu tổng công ty đứng đơn tham dự
thầu thì các công ty hay đơn vị trực thuộc không thể dự thầu trong vai trò là nhà thầu
độc lập trong cùng một gói thầu đó.
2.1.2 Đối tượng đấu thầu
Đối tượng đấu thầu là TCB cho người đã được đăng ký với cơ quan chức năng
và được phép lưu thông trên thị trường theo pháp luật Việt Nam.
Thuốc là chế phẩm có chứa dược chất hoặc dược liệu dùng cho người nhằm mục
đích phòng bệnh, chẩn đoán bệnh, chữa bệnh, điều trị bệnh, giảm nhẹ bệnh, điều chỉnh
chức năng sinh lý cơ thể người bao gồm thuốc hóa dược, thuốc dược liệu, thuốc cổ
truyền, vắc xin và sinh phẩm.[8]
Việc đấu thầu mua sắm thuốc tập trung được Bộ Y tế quy định tại Thông tư số
09/2016/TT-BYT ngày 05 tháng 5 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Cụ thể:
Phụ lục 2 Ban hành kèm theo Thông tư số 09/2016/TT-BYT quy định danh mục
thuốc đấu thầu tập trung cấp quốc gia
Phụ lục 3 Ban hành kèm theo Thông tư số 09/2016/TT-BYT quy định danh mục
thuốc đấu thầu tập trung cấp địa phương.
Đối với những hoạt chất được quy định tại Phụ lục 2 và Phụ lục 3 thì bắt buộc
phải đấu thầu tập trung, Phụ lục 4 thì áp dụng phương pháp đàm phán giá, còn lại các
hoạt chất khác nằm trong danh mục thuốc đấu thầu thì các Sở Y tế có thể quyết định
đấu thầu tập trung hoặc giao cho các bệnh viện đấu thầu riêng lẻ.
2.1.3 Hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu
31
- Hình thức lựa chọn nhà thầu ở đây là đấu thầu rộng rãi ở trong nước;
Đấu thầu rộng rãi được hiểu là hình thức chọn nhà thầu hoặc nhà đầu tư mà
trong đó không quy định giới hạn số lượng các nhà thầu hoặc nhà đầu tư nộp hồ sơ dự
thầu và được áp dụng trong tất cả các trường hợp, trừ những trường hợp sau: (i) đấu
thầu hạn chế; (ii) chỉ định thầu; (iii) chào hàng cạnh tranh; (iv) mua sắm trực tiếp; (v)
tự thực hiện; (vi) lựa chọn nhà thầu đối với những trường hợp đặc biệt và (vii) trường
hợp có sự tham gia của cộng đồng, được quy định tại điều 20 Luật đấu thầu 2013.
Bên mời thầu có trách nhiệm phải thông báo công khai về các tiêu chuẩn, điều
kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, tivi…) trước
thời điểm phát hành HSMT. Trong đấu thầu, hình thức chủ yếu được sử dụng là đấu
thầu rộng rãi. Hình thức đấu thầu rộng rãi có đặc điểm nổi bật là tính cạnh tranh cao,
giúp hạn chế những vấn đề tiêu cực trong đấu thầu, thúc đẩy các nhà thầu cần phải liên
tục nâng cao năng lực, kinh nghiệm.
- Phương thức lựa chọn nhà thầu: sử dụng phương thức một giai đoạn hai
túi hồ sơ
Theo Luật Đấu thầu thì [7]:
“1. Phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng trong các trường hợp
sau đây:
a) Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn,
dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp;
b) Đấu thầu rộng rãi đối với lựa chọn nhà đầu tư.
2. Nhà thầu, nhà đầu tư nộp đồng thời hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất
về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của HSMT.
3. Việc mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở
ngay sau thời điểm đóng thầu. Nhà thầu, nhà đầu tư thỏa mãn yêu cầu về kỹ thuật thì
được mở hồ sơ đề xuất về tài chính để đánh giá.”
Cụ thể, đối với đấu thầu mua sắm thuốc tập trung, được quy định trong thông tư
32
15/2019/TT-BYT thì:
Phương thức lựa chọn nhà thầu một giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng trong
các trường hợp sau [5]:
1. Gói thầu mua thuốc theo hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế có giá
gói thầu trên 10 tỷ đồng.
2. Gói thầu mua thuốc theo hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế có giá
gói thầu không quá 10 tỷ đồng nhưng thuốc đó cần được lựa chọn trên cơ sở kêt hợp
giữa chất lượng và giá.
Trình tự các bước thực hiện đấu thầu mua sắm tập trung theo phương thức một
giai đoạn hai túi hồ sơ:
Bước 1: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu:
Về cơ bản, nội dung thủ tục trong giai đoạn “chuẩn bị lựa chọn nhà thầu” trong
hình thức đầu thầu rộng rãi theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ giống với
phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, cũng có các thủ tục như lập HSMT theo mẫu
[2] , thẩm định và phê duyệt HSMT [3] .
Tuy nhiên, đối với phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ thì trước khi lập
HSMT, bên mời thầu có thể thực hiện thủ tục lựa chọn danh sách ngắn nếu thấy thực
sự cần thiết.
Việc lựa chọn danh sách ngắn là để nhằm mục đích lựa chọn những nhà thầu
được xác định trước theo nội dung về năng lực, kinh nghiệm theo nội dung yêu cầu của
gói thầu để tham gia đấu thầu. Việc thực hiện nội dung thủ tục lựa chọn danh sách
ngắn thực hiện qua từng bước như bên mời thầu lập hồ sơ mời sơ tuyển, phê duyệt mời
sơ tuyển, gửi thông báo mời sơ tuyển, phát hành, tiếp nhận, mở và đánh gia, trình và
thẩm định, phê duyệt kết quả mời sơ tuyển.
Bước 2: Tổ chức lựa chọn nhà thầu.
Cũng giống như ở việc đấu thầu theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ,
ở phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, việc mời thầu cũng được thể hiện thông qua
33
việc phát thông báo mời thầu qua mạng đấu thầu quốc gia hoặc qua báo Đấu thầu. Tuy
nhiên, việc thông báo mời thầu trong trường hợp này chỉ áp dụng đối với trường hợp
không tiến hành thủ tục lựa chọn danh sách ngắn.
Đối với các trường hợp có tiến hành thủ tục lựa chọn danh sách ngắn thì thay vì
gửi thông báo mời thầu thì bên mời thầu sẽ gửi thư mời thầu đến các nhà thầu được ghi
tên trong danh sách ngắn đã được xác định.
Việc phát hành, sửa đổi, làm rõ HSMT; và chuẩn bị HSDT hay, các thủ tục nộp,
tiếp nhận, quản lý, sửa đổi, rút HSDT đều thực hiện giống như ở trường hợp một giai
đoạn một túi hồ sơ.
Bên mời thầu thực hiện việc đóng thầu. Tuy nhiên, sau đó, nếu như ở một giai
đoạn một túi hồ sơ, trong khoảng thời gian 01 giờ kể từ thời điểm đóng thầu, bên mời
thầu tiến hành công khai việc mở thầu cả hồ sơ đề xuất về kỹ thuật và hồ sơ đề xuất về
tài chính thì đối với một giai đoạn hai túi hồ sơ, thay vì mở thầu toàn bộ thì bên mời
thầu sẽ thực hiện việc mở hồ sơ đề xuất kỹ thuật. Hồ sơ đề xuất về tài chính thì được
niêm phong trong 01 túi riêng biệt.
Bước 3: Đánh giá hồ sơ đề xuất về kỹ thuật.
Khác với phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ, trong phương thức đấu thầu
rộng rãi một giai đoạn hai túi hồ sơ thay vì thực hiện việc đánh giá HSDT thì bên mời
thầu và tổ chuyên gia sẽ thực hiện việc đánh giá hồ sơ đề xuất kỹ thuật.
Ở bước này, để đánh giá hồ sơ đề xuất về kỹ thuật, tổ chuyên gia sẽ kiểm tra,
đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ, đánh giá chi tiết hồ sơ và thực hiện việc trình, thẩm
định, phê duyệt những hồ sơ đề xuất đạt kỹ thuật.
Bước 4: Mở và đánh giá hồ sơ đề xuất về tài chính.
Sau khi đánh giá hồ sơ đề xuất về kỹ thuật thì tiến hành theo bước tiếp theo, bên
tổ chuyên gia sẽ tiếp tục thực hiện việc mở và đánh giá hồ sơ đề xuất về tài chính. Theo
đó, bên tổ chuyên gia kiểm tra, đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ đề xuất về tài chính; thực
hiện việc đánh giá chi tiết hồ sơ này đồng thời thông qua đó xếp hạng danh sách nhà
34
thầu.
Bước 5: Thương thảo hợp đồng.
Việc thương thảo hợp đồng thực hiện giống như trường hợp đấu thầu rộng rãi
theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ.
Bước 6: Trình, thẩm định, phê duyệt và công bố kết quả chọn nhà thầu.
Nội dung thủ tục thực hiện trong bước này cũng được thực hiện như ở trường
hợp một giai đoạn một túi hồ sơ.
Bước 7: Hoàn thiện, ký kết hợp đồng.
Cũng tương tự, thủ tục thực hiện trong bước này cũng được thực hiện như ở
trường hợp một giai đoạn một túi hồ sơ.
2.1.4 Đánh giá hồ sơ dự thầu
Sau khi tổ chức mở thầu, việc đánh giá HSDT sẽ do Tổ chuyên gia đấu thầu
thực hiện. Đối với giai đoạn thực hiện lựa chọn nhà thầu, thì việc đánh giá HSDT có
thể được coi là quan trọng nhất, việc này đòi hỏi phải có sự làm việc công bằng, khách
quan, trung thực của những người tham gia trực tiếp vào chấm thầu. Chủ đầu tư quyết
định trúng thầu hay rớt thầu cũng đều dựa vào kết quả đánh giá HSDT của Tổ chuyên
gia sau khi kết quả đánh giá HSDT đã được thẩm định đúng với quy định của pháp
luật.
Đánh giá HSDT, bao gồm:
a) Kiểm tra, đánh giá tính hợp lệ của HSDT;
b) Đánh giá chi tiết HSDT;
c) Xếp hạng nhà thầu.
Phương pháp đánh giá HSDT [7]: sử dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật
và giá đối với từng phần của gói thầu.
a) Phương pháp này áp dụng đối với gói thầu công nghệ thông tin, viễn thông
hoặc gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp khi không áp dụng được phương
35
pháp giá thấp nhất và phương pháp giá đánh giá;
b) Tiêu chuẩn đánh giá HSDT bao gồm: tiêu chuẩn đánh giá về năng lực, kinh
nghiệm trong trường hợp không áp dụng sơ tuyển; tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật; tiêu
chuẩn đánh giá tổng hợp. Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp được xây dựng trên cơ sở kết
hợp giữa kỹ thuật và giá;
c) Đối với các HSDT đã vượt qua bước đánh giá về kỹ thuật thì căn cứ vào điểm
tổng hợp để so sánh, xếp hạng tương ứng. Nhà thầu nào có điểm tổng hợp cao nhất thì
được xếp thứ nhất.
Việc xác định tiêu chuẩn đánh giá HSDT đối với gói thầu mua sắm TCB bao
gồm [6]:
a) Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm
Áp dụng tiêu chí đạt, không đạt để làm căn cứ xây dựng tiêu chuẩn đánh giá về
năng lực và kinh nghiệm, khi xây dựng cần phải ghi rõ mức yêu cầu thấp nhất để đánh
giá là đạt cho từng nội dung chi tiết về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu. Cụ thể
như sau:
- Kinh nghiệm của nhà thầu trong việc thực hiện những gói thầu tương tự; kinh
nghiệm nhà thầu hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính có liên quan
tới việc thực hiện gói thầu;
- Năng lực của nhà thầu về sản xuất và kinh doanh, cơ sở vật chất công nghệ,
trình độ hiểu biết của các cán bộ chuyên môn có liên quan tới việc thực hiện gói thầu;
- Năng lực của nhà thầu về tài chính: Đó là tổng tài sản đang có, tổng nợ cần
phải trả, những tài sản ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản doanh thu, lợi nhuận, giá trị
của các hợp đồng đang thực hiện dở dang và các chỉ tiêu cần thiết khác để đánh giá
năng lực tài chính của nhà thầu.
Để có thể xác định mức độ yêu cầu cụ thể cho từng tiêu chuẩn quy định tại
Điểm này cần phải dựa vào yêu cầu từng gói thầu cụ thể. Nếu nhà thầu nào được đánh
giá đạt toàn bộ các nội dung ghi tại Điểm này thì đáp ứng yêu cầu về năng lực và kinh
36
nghiệm.
b) Tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật
Để xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật trong HSMT, có thể áp dụng
tiêu chí đạt, không đạt hay sử dụng phương pháp chấm điểm theo thang điểm số là 100
điểm hoặc 1.000 điểm, ngoài ra cần phải có quy định mức điểm thấp nhất và mức điểm
cao nhất cho từng tiêu chuẩn tổng quát, tiêu chuẩn chi tiết khi áp dụng phương pháp
chấm điểm. Căn cứ để xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật dựa vào các yếu tố
về khả năng có thể thực hiện những yêu cầu về chất lượng, số lượng, thời gian giao
hàng, vận chuyển, bảo hành, uy tín của nhà thầu từ việc đã thực hiện những hợp đồng
tương tự trước đó và các yêu cầu khác được ghi trong HSMT. Đối với từng gói thầu cụ
thể, lúc lập HSMT phải cụ thể hóa rõ ràng, đầy đủ các tiêu chí để làm căn cứ đánh giá
về kỹ thuật, đó là:
- Đặc điểm, tính chất, các thông số kỹ thuật của hàng hóa, tiêu chuẩn về sản xuất
và lắp ráp, tiêu chuẩn về chế tạo và công nghệ;
- Tính hợp lý và mức độ hiệu quả về mặt kinh tế, chi phí của các giải pháp kỹ
thuật, cách thức tổ chức cung ứng, lắp ráp hàng hóa;
- Mức độ có thể đáp ứng các đòi hỏi về bảo hành, bảo trì;
- Năng lực cung cấp tài chính (nếu HSMT có yêu cầu);
- Khả năng thích nghi, đáp ứng về mặt địa lý, môi trường;
- Các tác động đối với môi trường và biện pháp giải quyết;
- Những yêu cầu về yếu tố điều kiện thương mại, thời gian thực hiện, huấn luyện
và chuyển giao công nghệ;
- Tiến độ cung cấp hàng hóa;
- Uy tín, độ tin cậy của nhà thầu từ việc nhà thầu đã thực hiện những hợp đồng
tương tự trước đó;
- Các yếu tố cần thiết khác.
c) Xác định giá thấp nhất (nếu sử dụng phương pháp giá thấp nhất):
37
- Xác định giá dự thầu;
- Sửa lỗi;
- Hiệu chỉnh sai lệch;
- Trừ đi giá trị giảm giá (nếu giảm giá);
- Quy đổi giá dự thầu qua một đồng tiền chung (nếu có);
- Xác định giá trị ưu đãi (nếu có);
- So sánh các HSDT nhằm xác định giá thấp nhất.
d) Tiêu chuẩn để xác định giá đánh giá (nếu sử dụng phương pháp giá đánh giá):
Công thức dùng để xác định giá đánh giá:
GĐG = G ± ∆G + ∆ƯĐ
Trong đó:
- G = (giá tham dự thầu ± giá trị sửa lỗi ± giá trị hiệu chỉnh sai lệch) - giá trị
giảm giá (trường hợp có giảm giá);
- ∆G là giá trị các yếu tố được quy đổi về một mặt bằng cho cả vòng đời sử
dụng của hàng hóa bao gồm:
+ Chi phí dùng để vận hành, bảo dưỡng;
+ Chi phí lãi suất tiền vay (nếu có);
+ Tiến độ;
+ Chất lượng (hiệu suất, công suất);
+ Xuất xứ;
+ Các yếu tố khác (nếu có).
∆ƯĐ là giá trị phải cộng thêm nếu đối tượng không được hưởng ưu đãi theo quy
định tại Điểm b Khoản 2 Điều 4 của Nghị định này.
Nhà thầu cung cấp thuốc trong đấu thầu mua TCB tập trung được xem xét, đề
nghị trúng thầu khi thỏa mãn đủ các điều kiện sau đây:
a) Có HSDT, hồ sơ đề xuất hợp lệ theo quy định;
b) Có năng lực và kinh nghiệm đạt yêu cầu;
38
c) Có đề xuất về kỹ thuật thõa mãn yêu cầu;
d) Có sai lệch thiếu không quá 10% giá dự thầu;
đ) Có giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có)
thấp nhất đối với phương pháp giá thấp nhất; có giá đánh giá thấp nhất đối với phương
pháp giá đánh giá; có điểm tổng hợp cao nhất đối với phương pháp kết hợp giữa kỹ
thuật và giá;
e) Có giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu được phê duyệt. Trường
hợp dự toán của gói thầu được phê duyệt thấp hơn hoặc cao hơn giá gói thầu được phê
duyệt thì dự toán này sẽ thay thế giá gói thầu để làm cơ sở xét duyệt trúng thầu.
Việc đánh giá HSDT theo những tiêu chí nào, nội dung ra sao thì đã được quy
định trong HSMT phát hành trước đó, Tổ chuyên gia đấu thầu sẽ dựa vào từng nội
dung trong HSDT so sánh với tiêu chí trong HSMT để đánh giá, xếp loại và lập báo
cáo đánh giá HSDT theo quy định.
2.1.5 Cách thức thực hiện
Cách thức thực hiện [5]: việc mua thuốc tập trung được thực hiện theo cách thức
ký thỏa thuận khung, trừ các trường hợp sau đây được áp dụng theo cách thức ký hợp
đồng trực tiếp :
a) Mua thuốc, vắc xin phục vụ công tác tiêm chủng mở rộng thuộc các chương
trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế
hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh;
b) Mua thuốc thuộc các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, nguồn viện trợ,
tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thuộc nguồn ngân sách nhà nước
mà nhà tài trợ có yêu cầu áp dụng theo cách thức ký hợp đồng trực tiếp;
Theo Điều 45 Luật Đấu thầu 2013 quy định:
1. Thỏa thuận khung trong mua sắm tập trung là thỏa thuận dài hạn giữa đơn vị
mua sắm tập trung với một hoặc nhiều nhà thầu được lựa chọn, trong đó bao gồm các
39
tiêu chuẩn và điều kiện để làm cơ sở cho việc mua sắm theo từng hợp đồng cụ thể.
2. Thời hạn cho việc sử dụng thỏa thuận khung được quy định trong kế hoạch
lựa chọn nhà thầu nhưng không quá 03 năm.
Về nội dung của thỏa thuận khung, được quy định tại Điều 72 nghị định
63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 [6]:
“Căn cứ quy mô, tính chất của gói thầu, đơn vị mua sắm tập trung quy định cụ
thể về nội dung chi tiết của thỏa thuận khung trong HSMT cho phù hợp nhưng phải
bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Phạm vi cung cấp hàng hóa, dịch vụ; bảng kê số lượng hàng hóa, dịch vụ;
2. Thời gian, địa điểm giao hàng, cung cấp dịch vụ dự kiến;
3. Điều kiện bàn giao hàng hóa, dịch vụ; tạm ứng, thanh toán, thanh lý hợp
đồng;
4. Mức giá trần tương ứng với từng loại hàng hóa, dịch vụ;
5. Điều kiện bảo hành, bảo trì; đào tạo, hướng dẫn sử dụng hàng hóa, dịch vụ;
6. Trách nhiệm của nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
7. Trách nhiệm của đơn vị trực tiếp ký hợp đồng mua sắm, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ;
8. Trách nhiệm của đơn vị mua sắm tập trung;
9. Thời hạn có hiệu lực của thỏa thuận khung;
10. Xử phạt do vi phạm hợp đồng;
11. Các nội dung liên quan khác.”
Đối với đấu thầu mua TCB tập trung, nội dung của thỏa thuận khung được quy
định tại Mẫu số 16 (b) trong thông tư 15/2019/TT-BYT.
2.1.6 Thương thảo hợp đồng
Sau khi có kết quả đánh giá và xếp hạng HSDT của các nhà thầu, phía chủ đầu
tư sẽ tiến hành trình tự theo các bước:
Bước 1: Nhà thầu xếp hạng cao nhất được bên mời thầu mời đến để thương thảo
40
hợp đồng;
Bước 2: Nếu việc thương thảo thành công, chủ đầu tư sẽ phê duyệt kết quả lựa
chọn nhà thầu;
Bước 3: Nếu như việc thương thảo không thành công, mời nhà thầu xếp hạng kế
tiếp đến thương thảo hợp đồng. Nếu việc thương thảo với nhà thầu xếp hạng tiếp theo
vẫn không thành công, thì bên mời thầu sẽ báo cáo cho chủ đầu tư để xem xét, quyết
định hủy thầu.
Việc thương thảo hợp đồng thực hiện theo quy định tại Điều 19 Nghị định số
63/2014/NĐ-CP và được tiến hành trước khi bên mời thầu đề xuất trúng thầu.
Nhà thầu có giá tham dự thầu sau khi đã sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá
trị giảm giá (trường hợp có giảm giá) thấp nhất nếu sử dụng phương pháp giá thấp
nhất; có giá đánh giá thấp nhất nếu sử dụng phương pháp giá đánh giá; có điểm tổng
hợp cao nhất nếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá được xếp hạng thứ
nhất và được mời đến thương thảo hợp đồng.
Nếu như nhà thầu được mời đến để thương thảo hợp đồng nhưng không đến
hoặc từ chối thương thảo hợp đồng thì nhà thầu đó sẽ không được nhận lại bảo đảm dự
thầu.
Theo Điều 19 nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết về việc thương
thảo hợp đồng [6]:
“1. Nhà thầu xếp hạng thứ nhất được mời đến để thương thảo hợp đồng. Trường
hợp nhà thầu được mời đến thương thảo hợp đồng nhưng không đến thương thảo hoặc
từ chối thương thảo hợp đồng thì nhà thầu sẽ không được nhận lại bảo đảm dự thầu.
2. Việc thương thảo hợp đồng phải dựa trên cơ sở sau đây:
a) Báo cáo đánh giá HSDT;
b) HSDT và các tài liệu làm rõ HSDT (nếu có) của nhà thầu;
c) HSMT.
41
3. Nguyên tắc thương thảo hợp đồng:
a) Không tiến hành thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã chào thầu
theo đúng yêu cầu của HSMT;
b) Việc thương thảo hợp đồng không được làm thay đổi đơn giá dự thầu của nhà
thầu sau khi sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch và trừ đi giá trị giảm giá (nếu có). Khi đánh giá
HSDT và thương thảo hợp đồng, nếu xét thấy khối lượng mời thầu nêu trong bảng tiên
lượng mời thầu không đủ so với hồ sơ thiết kế thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu phải
bổ sung thêm khối lượng công việc thiếu đó dựa trên căn cứ đơn giá đã chào thầu; nếu
như trong HSDT chưa có đơn giá thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết
định việc áp đơn giá nêu trong dự toán đã phê duyệt đối với khối lượng công việc thiếu
so với hồ sơ thiết kế hoặc đơn giá của nhà thầu khác đã vượt qua bước đánh giá về kỹ
thuật nếu đơn giá này thấp hơn đơn giá đã phê duyệt trong dự toán gói thầu;
c) Việc thương thảo đối với phần sai lệch thiếu thực hiện theo quy định tại Điểm
d Khoản 2 Điều 17 của Nghị định này.
4. Nội dung thương thảo hợp đồng:
a) Thương thảo về những nội dung chưa đủ chi tiết, chưa rõ hoặc chưa phù hợp,
thống nhất giữa HSMT và HSDT, giữa các nội dung khác nhau trong HSDT có thể dẫn
đến các phát sinh, tranh chấp hoặc ảnh hưởng đến trách nhiệm của các bên trong quá
trình thực hiện hợp đồng;
b) Thương thảo về các sai lệch do nhà thầu đã phát hiện và đề xuất trong HSDT
(nếu có), bao gồm cả các đề xuất thay đổi hoặc phương án thay thế của nhà thầu nếu
trong HSMT có quy định cho phép nhà thầu chào phương án thay thế;
c) Thương thảo về nhân sự đối với gói thầu xây lắp, hỗn hợp:
Khi tiến hành thương thảo, nhà thầu không được thay đổi những nhân sự chủ
chốt đã đề xuất trong HSDT ngoại trừ trường hợp do thời gian đánh giá HSDT kéo dài
hơn so với quy định hoặc vì lý do bất khả kháng nào đó mà các vị trí nhân sự chủ chốt
do nhà thầu đã đề xuất không có khả năng tham gia thực hiện hợp đồng. Trong trường
42
hợp đó, nhà thầu được quyền thay đổi nhân sự khác nhưng phải bảo đảm nhân sự dự
kiến thay thế có trình độ, kinh nghiệm và năng lực tương đương hoặc cao hơn với nhân
sự đã đề xuất và nhà thầu không được thay đổi giá dự thầu;
d) Thương thảo về các vấn đề phát sinh trong quá trình lựa chọn nhà thầu (nếu
có) nhằm mục tiêu hoàn thiện các nội dung chi tiết của gói thầu;
đ) Thương thảo về các nội dung cần thiết khác.
5. Trong quá trình thương thảo hợp đồng, các bên tham gia thương thảo tiến
hành hoàn thiện dự thảo văn bản hợp đồng; điều kiện cụ thể của hợp đồng, phụ lục hợp
đồng gồm danh mục chi tiết về phạm vi công việc, biểu giá, tiến độ thực hiện (nếu có).
6. Trường hợp thương thảo không thành công, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư
xem xét, quyết định mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo; trường hợp
thương thảo với các nhà thầu xếp hạng tiếp theo vẫn không thành công thì bên mời
thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định hủy thầu theo quy định tại Khoản 1 Điều
17 của Luật Đấu thầu.”
Điều kiện được xem xét đề xuất trúng thầu thực hiện theo quy định tại Điều 43
Luật đấu thầu và mẫu HSMT quy định tại Phụ lục 7 hoặc Phụ lục 8 ban hành kèm theo
Thông tư này.
Bên mời thầu đề xuất trúng thầu theo từng phần trong kế hoạch lựa chọn nhà
thầu đã được phê duyệt trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật đấu thầu, Thông tư
này và các văn bản quy định chi tiết thi hành về quản lý chất lượng thuốc và quản lý
giá thuốc. Mỗi phần trong gói thầu chỉ được đề xuất trúng thầu 01 thuốc hoặc dược liệu
đạt yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng quy định trong HSMT, hồ sơ yêu cầu và có giá dự
thầu sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá (nếu có) thấp nhất đối với
phương pháp giá thấp nhất; có giá đánh giá thấp nhất đối với phương pháp giá đánh
giá; có điểm tổng hợp cao nhất đối với phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá trong
43
nhóm thuốc đó.
Trường hợp giá dự thầu sau sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch, trừ đi giá trị giảm giá
(nếu có) của tất cả các nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật và nằm trong danh sách
xếp hạng đều vượt giá của phần đó trong gói thầu đã duyệt thì xem xét xử lý như sau:
a) Trường hợp giá của phần đó trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã được phê
duyệt và xác định là hợp lý thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu chào lại giá theo quy
định tại Khoản 8 Điều 117 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP;
b) Trường hợp giá của phần đó trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu chưa hợp lý thì
bên mời thầu phải có văn bản báo cáo, giải trình và đề xuất điều chỉnh giá của phần đó
và giá gói thầu để người có thẩm quyền xem xét, quyết định;
c) Trường hợp cần thiết phải bảo đảm đủ thuốc để đáp ứng nhu cầu khám bệnh,
chữa bệnh của cơ sở y tế, bên mời thầu được xem xét, quyết định lựa chọn thuốc trúng
thầu theo nguyên tắc xét theo thứ tự xếp hạng nhà thầu khi đáp ứng đủ các điều kiện
sau đây:
- Giá thuốc xét duyệt trúng thầu không vượt giá bán buôn kê khai, kê khai lại
còn hiệu lực của thuốc đó;
- Tổng giá trị thuốc đề nghị trúng thầu của các phần có nhà thầu dự thầu không
vượt tổng giá trị các phần đó trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Trong quá trình lựa chọn nhà thầu tập trung, để bảo đảm hiệu quả kinh tế của
gói thầu, việc thương thảo hợp đồng thực hiện theo quy định tại Khoản 3 Điều 19 Nghị
định 63/2014/NĐ-CP và có thể xem xét xử lý tình huống như sau:
a) Trường hợp có một mặt hàng thuốc với số lượng lớn được phân chia thành
các gói thầu theo quy định tại điểm a Khoản 4 Điều 40 Thông tư này và có cùng một
mặt hàng được đề nghị trúng thầu ở nhiều gói thầu với mức giá chênh lệch nhau thì có
thể xem xét theo hướng yêu cầu nhà thầu phân tích các yếu tố cấu thành giá dự thầu,
giải thích, làm rõ về sự chênh lệch giá của cùng một mặt hàng nhưng được cung cấp tại
44
các địa điểm khác nhau. Các phân tích này dùng để làm cơ sở thương thảo hợp đồng
hướng tới mức giá của mặt hàng thuốc đó tại gói thầu có giá đề nghị trúng thầu thấp
nhằm bảo đảm mang lại hiệu quả kinh tế của gói thầu.
b) Trường hợp có mặt hàng thuốc ở một nhóm thuốc chỉ có 01 giấy đăng ký lưu
hành trên thị trường nên chỉ có 01 nhà thầu tham dự, không có sự cạnh tranh về giá và
giá đề nghị trúng thầu tại nhóm này cao hơn giá đề nghị trúng thầu của mặt hàng cùng
hoạt chất, nồng độ hoặc hàm lượng, dạng bào chế đường dùng tại nhóm khác có tiêu
chuẩn kỹ thuật cao hơn và có giá cạnh tranh hơn do có nhiều nhà thầu tham dự thì có
thể xem xét việc thương thảo hợp đồng với nhà thầu về mức giá đề nghị trúng thầu
nhằm bảo đảm phù hợp với việc phân nhóm thuốc theo tiêu chí kỹ thuật theo nguyên
tắc sau:
- Giá trúng thầu Nhóm 1 không cao hơn giá trúng thầu thuốc biệt dược gốc hoặc
sinh phẩm tham chiếu;
- Giá trúng thầu Nhóm 2, Nhóm 3 không cao hơn giá trúng thầu thuốc biệt dược
gốc hoặc sinh phẩm tham chiếu và Nhóm 1;
- Giá trúng thầu Nhóm 4 không cao hơn giá trúng thầu thuốc biệt dược gốc hoặc
sinh phẩm tham chiếu; Nhóm 1; Nhóm 2 sản xuất tại Việt Nam và Nhóm 3;
- Giá trúng thầu Nhóm 5 không cao hơn giá trúng thầu thuốc biệt dược gốc hoặc
sinh phẩm tham chiếu; Nhóm 1; Nhóm 2; Nhóm 3 và Nhóm 4.
2.2. Thực tiễn về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung tại thành phố
Hồ Chí Minh
2.2.1 Nhu cầu sử dụng thuốc chữa bệnh tại thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất tại Việt Nam, và cũng là một
trong những trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học công nghệ và giáo dục
quan trọng nhất của Việt Nam. Hiện tại, Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực
thuộc trung ương và được xếp loại là đô thị đặc biệt của Việt Nam, cùng với thủ đô Hà
45
Nội.
Theo kết quả điều tra dân số tính đến ngày 01/04/2019 là 8.993.082 người, là
thành phố đông dân nhất, chiếm tỷ trọng 9,35% dân số cả nước. [12]
Với quy mô dân số đông, có mật độ dân số tập trung cao ở nội thành, ngoài ra
còn có thêm một lượng lớn dân vãng lai, nên đã phát sinh nhu cầu rất lớn về y tế và
chăm sóc sức khỏe cho người dân. Thời gian qua, ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh
đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ cả về lượng và chất. Sự thay đổi được thể
hiện rõ ở cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế, chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhiều
bệnh viện đã làm chủ kỹ thuật cao, khẳng định được thương hiệu.
Lần đầu tiên, số lượt khám bệnh tại các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố đã
vượt qua cột mốc 50 triệu lượt trong năm 2019. Số lượt điều trị nội trú cũng vượt qua
cột mốc 2,5 triệu lượt. Một dấu ấn trong năm 2019. [1]
Thêm nữa, với chính sách thông tuyến BHYT như hiện nay, thì việc người dân ở
các vùng khác đổ về các bệnh viện lớn tại thành phố Hồ Chí Minh để khám và điều trị
là rất đông, làm cho nhu cầu cung cấp TCB cũng tăng theo
Để nâng cao chất lượng khám và điều trị, ngoài nâng cao năng lực chuyên môn
của đội ngũ y bác sĩ thì việc chọn mua được TCB tốt, giá thành hợp lý để dùng cho
bệnh nhân là một yêu tố rất quan trọng.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 163/QĐ-TTg về việc giao dự
toán chi khám bệnh, chữa bệnh BHYT năm 2020 với tổng mức dự toán là 103.063,247
tỷ đồng. Trong đó, TPHCM được giao nhiều nhất - gần 19.005 tỷ đồng. [11]
Trong những năm gần đây, ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có
nhiều nỗ lực trong việc đảm bảo cung ứng TCB một cách đầy đủ, kịp thời và hiệu quả
nhất.
Theo Bộ Y Tế, suốt thời gian dài, giá thuốc tại Việt Nam cao hơn mặt bằng
chung so với các nước trong khu vực, dẫn đến số tiền mà Quỹ BHYT chi trả cho các
loại thuốc hàng năm rất cao. Đơn cử, năm 2016, chỉ riêng về thuốc, Quỹ BHYT chi trả
46
31.000 tỷ đồng, chiếm 41% tổng chi BHYT.[9]
Vì vậy, đấu thầu mua sắm thuốc tập trung được lựa chọn và đây cũng là xu
hướng mà nhiều nước trên thế giới áp dụng.
2.2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
tại thành phố Hồ Chí Minh
- Thực tiễn quy định của UBND thành phố Hồ Chí Minh về đấu thầu mua TCB
tập trung
Hiện nay, việc mua sắm tài sản nói chung, TCB nói riêng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh được quy định tại Quyết định số 21/2017/QĐ-UBND ngày 03 tháng 4
năm 2017 của UBND thành phố.
Việc mua sắm tập trung được thực hiện theo cách thức ký thỏa thuận khung giữa
Sở Y tế và nhà thầu trúng thầu.
Các yêu cầu khi tổ chức đầu thầu mua TCB tập trung:
Việc mua sắm phải tuân thủ tiêu chuẩn, định mức, chế độ, danh mục tài sản mua
sắm tập trung theo quy định.
Việc mua sắm được thực hiện trong phạm vi dự toán đã được giao và nguồn
kinh phí cho phép sử dụng, phải bảo đảm được tính công khai, minh bạch, rõ rang, tiết
kiệm và có hiệu quả.
Ngoài ra việc mua sắm phải bảo đảm tính đồng bộ, hiện đại, phù hợp với những
yêu cầu, nội dung hoạt động và quá trình cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách
tài chính công.
Việc mua sắm tập trung phải được thực hiện thông qua đơn vị mua sắm tập
trung.
Thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về đấu thầu.
Về quy trình thực hiện đấu thầu mua sắm thuốc tập trung phải tuân thủ theo
trình tự đầy đủ các bước:
+ Lập, phê duyệt dự toán mua sắm tài sản.
47
+ Tổng hợp nhu cầu mua sắm tập trung.
+ Lập kế hoạch để lựa chọn nhà thầu, thẩm định và phê duyệt kế hoạch lựa chọn
nhà thầu.
+ Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu.
+ Tổ chức lựa chọn nhà thầu.
+ Đánh giá HSDT và thương thảo thỏa thuận khung.
+ Thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu và trình người có thẩm quyền phê duyệt,
sau đó công khai kết quả lựa chọn nhà thầu.
+ Ký kết thỏa thuận khung về mua sắm tập trung.
+ Ký kết hợp đồng mua sắm tài sản.
+ Thanh toán, bàn giao, tiếp nhận tài sản, quyết toán, thanh lý hợp đồng mua
sắm tài sản.
+ Bảo hành, bảo trì tài sản.
Dựa vào dự toán đã được UBND thành phố phê duyệt, Sở Y tế sẽ thông báo tới
những đơn vị, cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc để lập kế hoạch mua sắm TCB và tiếp
nhận kế hoạch, dự trù của các đơn vị đề nghị gửi về. Phòng nghiệp vụ Dược sẽ tổng
hợp nhu cầu của các đơn vị sau khi điều chỉnh cho phù hợp với dự toán và tình hình sử
dụng thuốc thực tế tại đơn vị, trình giám đốc Sở Y tế
- Thực tiễn tổ chức thực hiện đấu thầu mua TCB tập trung tại thành phố Hồ Chí
Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên tổ chức đấu thầu thuốc tập trung
trong cả nước thực hiện từ năm 2013 đến nay. Tuy nhiên việc đấu thầu tập trung có sự
thay đổi, cụ thể:
Sau hơn bốn năm đi vào hoạt động với ba lần thực hiện tổ chức đấu thầu, Trung
tâm Mua sắm hàng hóa và tài sản công ngành y tế theo phương thức tập trung thành
phố Hồ Chí Minh đã chính thức bị giải thể. Cơ sở pháp lý để giải thể Trung tâm Mua
sắm hàng hóa và tài sản công ngành y tế theo phương thức tập trung Căn cứ Nghị định
48
số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại,
giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Thực tiễn trong quá trình hoạt động của Trung tâm
Mua sắm hàng hóa và tài sản công ngành y tế theo phương thức tập trung đã phát sinh
nhiều vấn đề bất cập, hoạt động chưa hiệu quả, dẫn đến việc thiếu thuốc, vật tư y tế.
UBND thành phố Hồ Chí Minh đã có quyết định giải thể Trung tâm Mua sắm
hàng hóa và tài sản công ngành y tế theo phương thức tập trung [13] (sau đây gọi là
Trung tâm). Trung tâm được thành lập năm 2013. Trước năm 2013 thì việc đấu thầu
được giao cho các bệnh viện tự tổ chức đấu thầu riêng lẻ. Từ khi thành lập Trung tâm
tới lúc giải thể, Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức đấu thầu mua sắm thuốc tập
trung cho tất cả các mặt hàng thuốc hai lần đó là vào các năm 2014 và 2015.
Năm 2016, Sở Y tế lựa chọn Trung tâm làm bên mời thầu để đấu thầu các hoạt
chất thuộc danh mục đấu thầu tập trung cấp địa phương, còn lại các hoạt chất không
bắt buộc đấu thầu tập trung thì được giao về cho các bệnh viện tự đấu thầu riêng lẻ.
Giai đoạn chuẩn bị để thành lập Trung tâm, Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh
khẳng định rằng việc đấu thầu mua thuốc tập trung sẽ được tổ chức thực hiện nhằm
giải quyết tình trạng cùng một mặt hàng thuốc như nhau nhưng giá khác nhau ở các
bệnh viện.
Thực tế là trước khi tổ chức đấu thầu tập trung, giá thuốc của cùng một mặt
hàng có sự chênh lệch nhau rất lớn giữa các bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh, có trường hợp chênh nhau cả chục lần giữa hai bệnh viện.
Nguyên nhân được đưa ra chính là do việc các bệnh viện tự tổ chức đấu thầu
riêng lẻ, nhiều lần và các bệnh viện chưa thực hiện nghiêm túc những quy định về đấu
thầu mua sắm thuốc.
Bảo hiểm Xã hội thành phố Hồ Chí Minh đã từng nêu ra kiến nghị tổ chức đấu
thầu thuốc tập trung để tạo một mặt bằng chung đồng bộ, thống nhất về giá thuốc, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động chi trả bảo hiểm bền vững, ổn định, cân đối cũng như
49
tăng cường tính kiểm tra, giám sát của bảo hiểm.
Từ vụ việc Công ty CP VN Pharma làm giả hồ sơ nhập khẩu thuốc trị ung thư
H-Capita để tham gia đấu thầu tập trung thuốc và trúng thầu vào năm 2014 tại thành
phố Hồ Chí Minh thì Thành ủy đã có cuộc họp và chỉ đạo Sở Y tế dựa trên các văn bản
quy phạm pháp luật giao việc đấu thầu về các bệnh viện để đẩy mạnh tính tự chủ, sáng
tạo, tự chịu trách nhiệm. Từ năm 2016 đến nay, sau khi có chỉ đạo của Thành ủy, Sở Y
tế đã áp dụng kết hợp hình thức đấu thầu vừa tập trung vừa riêng lẻ, việc này hoàn toàn
phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là theo Thông tư số
09/2016/TT-BYT ngày 05 tháng 5 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Việc Công ty CP
VN Pharma đã trúng thầu gói thầu có giá trị lớn và có mặt hàng thuốc chưa được kiểm
tra, thẩm định hồ sơ về nguồn gốc rõ ràng, đại diện Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh
cho biết, tại thời điểm tổ chức đấu thầu, thì HSDT của nhà thầu là Công ty CP VN
Pharma đều đáp ứng các yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm nhà thầu và các sản phẩm
tham dự thầu của VN Pharma đều được đánh giá tiêu chuẩn kỹ thuật theo yêu cầu của
HSMT.
Năm 2016, Trung tâm tổ chức đấu thầu mua sắm tập trung thuốc cấp địa phương
cho 106 mặt hàng với kết quả trúng thầu: “Gói thầu thuốc theo tên biệt dược hoặc
tương đương điều trị năm 2016” có giá trị trúng thầu là 801.455.312.169 đồng với 66
sản phẩm được trúng thầu. “Gói thầu thuốc theo tên Generic năm 2016” có giá trị trúng
thầu là 523.679.957.770 đồng với 285 sản phẩm được trúng thầu. Ngoài 106 mặt hàng
đấu thầu tập trung thì các mặt hàng còn lại được các bệnh viện tự tổ chức đấu thầu.
Trong giai đoạn Trung tâm giải thể, thì nhiệm vụ đấu thầu tập trung 106 mặt
hàng cấp địa phương đã được Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh giao cho các bệnh viện
đa khoa hạng nhất trực thuộc Sở Y tế, có đủ năng lực và điều kiện thực hiện. Ở đây, Sở
Y tế là chủ đầu tư, còn các bệnh viện đa khoa hạng nhất được giao nhiệm vụ đấu thầu
50
tập trung Danh mục thuốc đấu thầu tập trung cấp địa phương là bên mời thầu, do Sở Y
tế thành lập hoặc lựa chọn, được quy định trong Luật đấu thầu 2013. Đơn vị thắng thầu
có trách nhiệm cung cấp hàng cho tất cả các bệnh viện trong Thành phố.
Năm 2017, Sở Y tế lựa chọn Bệnh viện 115 tổ chức đấu thầu mua sắm tập trung
thuốc cấp địa phương cho 106 mặt hàng với kết quả trúng thầu: “Gói thầu thuốc theo
tên biệt dược hoặc tương đương điều trị” thuộc danh mục mua sắm thuốc tập trung cấp
địa phương năm 2017-2018, năm 2018-2019 có giá trị trúng thầu là 820.180.471.484
đồng với 50 sản phẩm được trúng thầu. “Gói thầu thuốc theo tên Generic” thuộc danh
mục mua sắm thuốc tập trung cấp địa phương năm 2017-2018, năm 2018-2019 có giá
trị trúng thầu là 1.523.355.879.520 đồng với 298 sản phẩm được trúng thầu.
Việc giải thể Trung tâm dẫn tới một số hệ quả, có cả mặt tích cực và tiêu cực,
bất cập. Về mặt tích cực thì việc giải thể Trung tâm, Sở Y tế chỉ đấu thầu tập trung 106
mặt hàng, còn lại trao trả về cho các bệnh viện tự đấu thầu các mặt hàng còn lại giúp
các bệnh viện tự chủ hơn trong công tác mua sắm thuốc và kế hoạch tài chính bệnh
viện, giảm rủi ro khi nhà thầu trúng thầu mà không thể cung cấp đủ số lượng lớn thuốc.
Về mặt tiêu cực, bất cập thì việc giải thể Trung tâm đi ngược lại xu thế tất yếu mà rất
nhiều nước trên thế giới đang thực hiện, làm cho việc chênh lệch giá thuốc giữa các
bệnh viện trên cùng địa bàn thành phố, gây khó khăn cho BHYT trong việc giám định.
Việc Sở Y tế giao cho các bệnh viện đa khoa hạng nhất trực thuộc sở, có năng
lực và kinh nghiệm tổ chức đấu thầu tập trung cấp địa phương 106 mặt hàng thực chất
cũng chỉ là chuyển công việc từ đơn vị này sang đơn vị khác thuộc sở làm, ở đây là
chuyển việc đấu thầu tập trung cấp địa phương từ Trung tâm qua cho bệnh viện hạng
nhất. Việc này vô hình chung gây ra áp lực rất lớn cho bệnh viện được lựa chọn vì tình
hình hiện tại tất cả các bệnh viện đều đang rất thiếu nguồn nhân lực để phục vụ công
tác khám chữa bệnh, nay phải gánh thêm công việc đấu thầu được sở giao.
- Những thành tựu đạt được từ đấu thầu mua TCB tập trung tại thành phố
51
Hồ Chí Minh
Đấu thầu mua thuốc tập trung giúp giải quyết tình trạng chênh lệch giá thuốc bất
hợp lý
Về vấn đề giá thuốc và chất lượng thuốc, cơ chế quản lý hiện hành của Liên Bộ
Y tế - Tài chính – Công Thương đã và đang thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm giá
thuốc phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng thuốc.
Theo quy định hiện hành tại Thông tư liên tịch số 50/2011/TTLT-BYT-BTC-BCT của
liên Bộ Y tế - Tài chính - Bộ Công Thương, tất cả các mặt hàng thuốc trước khi lưu
hành trên thị trường đều phải được doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu thực hiện
việc kê khai giá thuốc và các mức giá kê khai được Tổ công tác liên ngành về giá thuốc
của Bộ Y tế - Bộ Tài chính – Bộ Công Thương xem xét tính hợp lý căn cứ theo các
nhóm tiêu chuẩn chất lượng. Các thuốc kê khai giá phù hợp với mặt bằng tiêu chuẩn
chất lượng của từng nhóm thuốc sẽ được công bố công khai làm cơ sở cho các đơn vị
tham khảo trong việc mua sắm, đấu thầu và kiểm tra, giám sát. Các doanh nghiệp
không được bán vượt mức giá kê khai đã được Tổ Công tác liên ngành về giá thuốc
xem xét hợp lý và công bố.
Việc đấu thầu tập trung giúp ngành y tế thành phố kiểm soát về giá thuốc, tạo ra
sự đồng bộ trên toàn thành phố về giá của cùng một mặt hàng trúng thầu. Tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giám định của BHYT cũng như cải cách hành chính, ứng dụng công
nghệ thông tin vào việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Việc đấu thầu mua thuốc tập
trung giúp tiết kiệm chi phí mua thuốc, mua được thuốc chất lượng mà giá cả phải
chăng. Giá thuốc thống nhất giữa các cơ sở y tế giúp Nhà nước kiểm soát tốt giá thuốc
trên thị trường, giảm tối đa chi phí hành chính trong tổ chức thực hiện đấu thầu mua
sắm thuốc, góp phần vào công tác phòng chống tham nhũng lãng phí, thất thoát, thiếu
52
công khai, minh bạch trong cung ứng thuốc.
Với việc thực hiện đấu thầu mua thuốc tập trung trong 2 năm 2017-2018 và
2018-2019, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiết kiệm được hơn 1.400 tỷ đồng mua thuốc1.
Đấu thầu mua thuốc tập trung giúp tăng cường sự giám sát của cơ quan bảo hiểm:
Trong quá trình tổ chức thực hiện việc đấu thầu tập trung, có sự tham gia của đại
diện cơ quan bảo hiểm xã hội. Cùng với việc cung cấp đầy đủ các dữ liệu về giá thuốc,
nhu cầu sử dụng thuốc ở các đơn vị, việc tham gia của đại diện cơ quan bảo hiểm trong
quá trình tổ chức đấu thầu giúp việc xây dựng nhu cầu, giá kế hoạch sát với thực tế,
phù hợp với nhu cầu điều trị và khả năng chi trả của quỹ BHYT.
Đấu thầu mua thuốc tập trung ngoài việc giúp tiết kiệm chi phí còn giúp tiết
kiệm được thời gian, nhân lực; tạo được sự canh tranh cao giữa các nhà thầu vì có
nhiều nhà thầu tham dự, phù hợp với nền kinh tế thị trường.
Điều đặc biệt là đấu thầu mua thuốc tập trung giúp các cơ sở khám chữa bệnh có
thể điều chuyển số lượng thuốc với nhau dựa trên căn cứ nhu cầu sử dụng thực tế trong
quá trình cung ứng thuốc, đây là điều mà trong đấu thầu riêng lẻ không có.
- Những khó khăn, bất cập trong đấu thầu mua TCB tập trung tại thành
phố Hồ Chí Minh
Ngoài những ưu điểm thì việc đấu thầu mua sắm tập trung TCB cũng còn tồn tại
nhiều nhược điểm, bất cập, cụ thể:
Việc đấu thầu mua thuốc tập trung có thể gây ra hệ quả thiếu thuốc cục bộ. Đó
là do sau khi có kết quả trúng thầu, các nhà thầu mới bắt đầu tăng nhập khẩu hoặc tăng
sản xuất. Cho nên nếu trong một thời gian ngắn mà các cơ sở khám chữa bệnh đặt hàng
với một số lượng lớn thì sẽ gây khó khăn cho các nhà thầu trong việc cung ứng thuốc ở
giai đoạn đầu.
Việc đấu thầu mua thuốc tập trung có thể mua được thuốc giá rẻ nhưng chưa
53
hẳn chất lượng thuốc tốt, vô hình chung việc thuốc rẻ chất lượng kém làm cho công tác 1 Thông tin được ông Đỗ Văn Dũng, Trưởng phòng Quản lý Dược - Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ trong Hội nghị sơ kết công tác khám chữa bệnh 6 tháng đầu năm 2018 của Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 19/7.
khám chữa bệnh không đạt hiệu quả tốt, làm cho việc điều trị kéo dài, thậm chí là thất
bại gây nên tốn kém hơn trong bài toán tổng chi phí điều trị. Đó là do việc phân chia
thuốc về các nhóm theo tiêu chuẩn kỹ thuật, các thuốc cùng nhóm chưa chắc đã đồng
đều về chất lượng, sau khi vượt qua vòng đánh giá về tiêu chuẩn kỹ thuật thì các thuốc
cùng nhóm sẽ được xét về giá, thường là thuốc nào có giá thấp nhất sẽ trúng thầu.
Do các bất cập trong quy định, khi thuốc giá quá rẻ trúng thầu ở đấu thầu mua
thuốc tập trung thì quy mô sẽ lớn hơn việc đấu thầu riêng lẻ và các cơ sở khám chữa
bệnh không còn lựa chọn khác, dẫn đến tình trạng một số bác sĩ từ chối kê toa thuốc
BHYT, mà cho toa người bệnh phải tự mua thuốc ngoài danh mục, lúc này người bệnh
lại thiệt thòi.
Hiện nay, thực hiện chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt
động, dịch vụ công, cơ quan Bảo hiểm xã hội đã thực hiện truyền dữ liệu lên cổng
thông tin điện tử. Tuy nhiên, các địa phương vẫn đang sử dụng nhiều loại mã hóa khác
nhau cho cùng một loại thuốc trúng thầu. Chính vì điều này, làm cho việc giám định,
thanh toán của cơ quan Bảo hiểm xã hội gặp nhiều khó khăn và dẫn đến nhiều địa
phương bị xuất toán “oan”.
Bên cạnh đó, việc điều chuyển thuốc giữa các cơ sở khám chữa bệnh còn nhiều
54
thủ tục rườm rà, gây chậm trễ, ảnh hưởng tới chất lượng điều trị của người bệnh.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Việc đấu thầu mua sắm tập trung hàng hóa nói chung, TCB nói riêng được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm. Từ những chủ trương, đường lối của Đảng, quy định
của Nhà nước về mua sắm tập trung đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện đấu
thầu mua sắm tập trung TCB.
Qua nghiên cứu nêu trên, việc đấu thầu mua sắm TCB tập trung của thành phố
Hồ Chí Minh đều có quy trình, kế hoạch mua sắm đảm bảo theo quy định của pháp
luật, chặt chẽ và có xu hướng cải cách thủ tục hành chính, hạn chế tiêu cực, lựa chọn
được TCB có giá phù hợp, đáp ứng nhu cầu sử dụng theo từng cơ sở khám, chữa bệnh.
Quy trình mua sắm tập trung của thành phố Hồ Chí Minh ban hành từ giai đoạn xây
dựng danh mục, lập dự toán đến giai đoạn đấu thầu, công bố kết quả đấu thầu đều tuân
thủ theo Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật Đấu thầu của các cơ
quan có thẩm quyền. Có thể khẳng định rằng, mục tiêu của phương thức đấu thầu mua
sắm tập trung được pháp luật quy định nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là tiết
kiệm chi phí mua sắm, giảm chi phí tổ chức lựa chọn nhà thầu, tạo thuận lợi cho cơ
quan cấp trên trong việc quản lý thông qua công tác đấu thầu mua sắm, cấp phát lại
đơn vị sử dụng hoặc quản lý giá các đơn vị tiến hành theo cách thức ký thỏa thuận
khung. Tuy nhiên, phương thức mua sắm tập trung vẫn còn nhiều các yếu tố tiêu cực
trong quá trình đấu thầu, thời gian cung ứng thuốc cho cơ sở khám chữa bệnh có thể
chậm trễ, có thể xảy ra tình trạng thuốc rẻ đi kèm với chất lượng kém. Ngoài ra, khi tổ
chức mua sắm tập trung tạo nên quy mô gói thầu lớn, đòi hỏi năng lực, kinh nghiệm
nhà thầu phải đáp ứng HSMT, khả năng vốn đầu tư, tiếp cận thị trường nhập khẩu
thuốc… Những điều này có thể làm kìm hãm sự phát triển, thậm chí giết chết một số
doanh nghiệp nhỏ, có thể gây nên sự lũng đoạn thị trường kinh doanh dược khi các
doanh nghiệp lớn liên danh hoặc bắt tay nhau. Khi tiến hành mua sắm tập trung cũng
cần phải đánh giá kỹ, nghiêm túc về mức độ đáp ứng nhu cầu sử dụng, chất lượng của
55
thuốc, các dịch vụ hậu bán hàng… đặc biệt là cơ sở khám chữa bệnh trực tiếp sử dụng
thuốc. Tránh tình trạng thuốc trúng thầu không phù hợp với nhu cầu thực tế của cơ sở
56
khám chữa bệnh, thuốc trúng thầu nhưng cơ cở khám chữa bệnh không sử dụng.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU THẦU TRONG MUA THUỐC CHỮA BỆNH TẬP TRUNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luật Đấu thầu là yếu tố có tính thuyết phục là một minh chứng thể hiện sự quyết
tâm của Nhà nước ta trong việc nâng cao địa vị pháp lý, tăng cường tính công khai,
minh bạch của công tác đấu thầu tại Việt Nam khi đã là thành viên của WTO. Đặc biệt
là từ trước đây cho đến nay, kể cả sau khi đã có nhiều sự thay đổi, cập nhật trong Luật
đấu thầu 2013 thì vẫn có những ý kiến còn hoài nghi đối với tính minh bạch trong quá
trình tổ chức thực hiện đấu thầu mua sắm TCB tập trung theo phương thức một giai
đoạn, hai túi hồ sơ. Cho nên sau đây là các phương hướng cùng với giải pháp để đảm
bảo các gói thầu có thể được thực hiện đúng nội dung của pháp luật đã ban hành, đi
đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước.
3.1 Phương hướng hoàn thiện
Vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, chỉ
đạo sát sao. Đặc biệt là vấn đề TCB, trong Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã nêu rõ:
Tăng cường quản lý chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, khuyến
khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Thực hiện chặt chẽ công tác quản lý về giá
thuốc trong đó có vấn đề kê khai giá, kê khai lại giá, chấn chỉnh, rà soát lại công tác tổ
chức đấu thầu mua sắm thuốc. Cải tiến, hoàn thiện mạng lưới từ khâu sản xuất đến lưu
thông, phân phối và cung cấp thuốc; tổ chức lại mạng lưới phân phối, bán lẻ, bán buôn
TCB toàn quốc. Đẩy mạnh cải cách hành chính công, đơn giản hoá các thủ tục hành
chính, giảm phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; thúc đẩy ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý. [10]
Cùng với đó, Luật Đấu thầu năm 2013 đã xây dựng một môi trường kinh doanh
57
bình đẳng cho các nhà thầu trong nước. Cụ thể, sau khi cung ứng thuốc cho cơ sở khám
chữa bệnh theo đúng hợp đồng nếu như chủ đầu tư không thanh toán tiền có thể kiện
và đòi lãi suất từ số tiền còn nợ của chủ đầu tư. Đó là một ưu điểm mới và tiến bộ, có
lợi hơn đối với nhà thầu. Một ưu điểm quan trọng nữa là, Luật Đấu thầu năm 2013
được các nhà thầu đánh giá cao vì các quy định không ràng buộc về giá. Ngày trước,
những trường hợp nhà thầu chào giá thấp nhất đều được cho trúng thầu thì Luật mới
không quy định bắt buộc phải sử dụng tiêu chí giá thấp nhất mà thay vào đó là sử dụng
tiêu chí xác định toàn bộ, cả về kỹ thuật lẫn năng lực. Nếu nhà thầu bỏ giá thứ hai
nhưng đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về kỹ thuật thì vẫn có thể trúng thầu.
Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu mua sắm TCB tập trung nói riêng
mục đích chính là hướng tới nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt động mua sắm
công, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho nhà thầu nói riêng và cho cả nền kinh tế. Từ
những ưu điểm của đấu thầu là lựa chọn được đối tác có khả năng cung cấp TCB một
cách phù hợp nhất, tối ưu nhất cả về giá cả và chất lượng mà chúng ta cần hoàn thiện
những điểm chưa được hợp lý để làm sao đấu thầu, đấu thầu mua sắm TCB tập trung
có thể mang lại được hiệu quả kinh tế tốt hơn nữa. Khi sử dụng đấu thầu mua TCB tập
trung giúp cho các cơ quan nhà nước, cơ sở khám chữa bệnh nâng cao năng lực quản lý
nguồn vốn đối với từng gói thầu và ở mỗi giai đoạn của quy trình thực hiện để có sự
cân đối và quản lý thế nào cho tối ưu nhất, nguồn vốn dung để đầu tư cho các dự án
thường rất lớn và giúp cho phát triển kinh tế và xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân,
hiệu quả đạt được là phục vụ trực tiếp cho đời sống nhân dân cho nên cần phải làm sao
quản lý để mang lại hiệu quả không lãng phí thất thoát và phải hướng tới đạt hiệu quả
tối ưu nhất nên rất cần phải hoàn thiện hơn nữa đấu thầu, đấu thầu mua TCB tập trung
là một yêu cầu cấp thiết.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung cần đặt
trong xu hướng hội nhập quốc tế, thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn mới, phát triển lên tầm cao mới,
58
trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, bối cảnh hội nhập toàn cầu đặt ra với
mỗi quốc gia, chúng ta không thể đứng ngoài những xu thế chung của thế giới vì vậy
bắt buộc chúng ta phải hoàn thiện mọi mặt, nắm bắt cơ hội, học hỏi kinh nghiệm để rút
ngắn hơn khoảng cách về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Trong xu thế hội nhập cùng
phát triển hiện nay Việt Nam đã tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế
như thành viên Liên Hiệp quốc, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO);tổ chức khu vực như Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), thành viên của nhiều công ước quốc tế, ký kết nhiều hiệp
định đa phương, song phương, đặc biệt là là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)… thuộc các lĩnh vực kinh tế, đời
sống xã hội. Chúng ta đang đứng trước những tiềm năng, cơ hội cũng như các khó
khan, thách thức như vậy thì yêu cầu đưa ra là cần phải có sự thay đổi, hoàn thiện hệ
thống các quy định pháp luật quốc gia, trong đó có hệ thống pháp luật về đấu thầu, đấu
thầu mua TCB tập trung. Việc hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua sắm TCB tập
trung đáp ứng sự thích hợp tương ứng và hài hòa hơn nữa với các quy định pháp luật
quốc tế. Cần phải hoàn thiện và phát huy hiệu quả thực tế thi hành pháp luật về đấu
thầu, đấu thầu mua TCB tập trung là nền tảng pháp lý vững chắc, phát huy khả năng
cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế, phát triển bền vững và mạnh mẽ hơn nền kinh
tế quốc gia.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung hướng
tới sự đồng bộ, hài hóa pháp luật kinh tế nói chung
Đảng và Nhà nước xác định kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Hiện nay Việt Nam đang phát triển nền
kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
59
chủ nghĩa bằng việc thiết lập thể chế cho phát triển, xây dựng quy hoạch, kế hoạch,
chiến lược phát triển tổng thể các ngành kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng và đảm bảo
an sinh xã hội. Đó là trong quá trình chuẩn bị sản xuất, kinh doanh qua việc thực hiện
các dự án đầu tư là cơ sở quan trọng quyết định kết quả của quá trình đầu tư, nhà nước
thông qua các quy định, hệ thống pháp luật để quản lý kiểm tra giám sát, vì vậy hệ
thống pháp luật càng thống nhất, đồng bộ, càng hoàn thiện bao nhiêu thì càng đáp ứng
được yêu cầu tinh thần đổi mới phát triển đất nước bấy nhiêu, giúp nhà nước dễ dàng
hơn trong việc vận hành, quản lý và giám sát hiệu quả tối ưu nhất. Ngoài ra cũng cần
phải tạo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong nước đặc biệt là các quy
định pháp luật trong lĩnh vực đầu tư, thương mại, đấu thầu… và pháp luật kinh tế nói
chung. Khi đã đảm bảo và xây dựng được một môi trường pháp lý hoàn thiện, đồng bộ
nhất quán sẽ đảm bảo được cao nhất quyền lợi và nghĩa vụ, đảm bảo quyền tự chủ, tự
do kinh doanh và tự do cạnh tranh lành mạnh công bằng của các chủ thể tham gia vào
hoạt động đấu thầu, đấu thầu mua TCB tập trung - đó chính là đảm bảo cho tính minh
bạch và hiệu quả của công tác đấu thầu được phát huy tốt nhất.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung phải
đảm bảo minh bạch và hiệu quả
Trong thời gian tới, việc đấu thầu mua sắm hàng hóa trong nước và cả đấu thầu
quốc tế cần phải thành lập các hiệp hội các nhà tư vấn Việt Nam một cách chuyên
nghiệp, các công ty tư vấn đủ năng lực, kinh nghiệm trong lĩnh vực mua sắm công
ngành y tế. Nếu trường hợp phải sử dụng nhà tư vấn nước ngoài thì bên chủ đầu tư, bên
mời thầu cần đặc biệt lưu ý và biên soạn chặt chẽ, chi tiết hơn trong toàn bộ các điều
khoản để tránh các vướng mắc tranh chấp, cũng nên lựa chọn những đơn vị tư vấn có
uy tín để hợp tác. Hiện nay một phần do trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp, những
cơ sở đảm bảo cho việc lập dự toán chưa được hoàn thiện nên khi thực hiện đàm phán
chúng ta có thể bỏ sót hoặc do trình độ kỹ năng đàm phán chưa cao nên gây ra những
thiệt hại trong đấu thầu mua TCB. Việc xây dựng các văn bản hướng dẫn, các văn bản
60
pháp luật để điều chỉnh hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung cần phải đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, vừa phải hết sức chặt chẽ và chi tiết, ngắn gọn nhưng
không làm giảm đi nguyên tắc tự do cạnh tranh, minh bạch, khách quan, công bằng
trong đấu thầu mua sắm TCB. Để đối phó tình trạng nhà thầu bỏ giá thầu thấp thì nhà
nước cần có quy định cụ thể về chống phá giá trong đấu thầu mua sắm TCB. Vấn đề xử
phạt trong đấu thầu phải rõ ràng cụ thể hơn và phải được thực hiện một cách nghiêm
túc, mức phạt phải vừa có tính giáo dục nhưng cũng phải mang tính răn đe, không nên
quá nhẹ để chỉ mang tính hình thức. Những nội dung của quy chế đấu thầu nhìn chung
đã có rất nhiều tiến bộ, những quy định về cơ bản đã bao quát được đến toàn bộ các
yêu cầu của hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa, tuy nhiên trong thực tế đời sống
kinh tế xã hội là vô cùng đa dạng, thay đổi từng ngày yêu cầu bắt buộc phải điều chỉnh,
cải tiến và hoàn thiện mang tính tổng thể và cụ thể. Tại vì đặc điểm mua sắm hàng hóa
là không giống nhau giữa các Bộ, ngành và địa phương, các đơn vị sự nghiệp công lập
nên khó để ban hành cùng một quy chế hướng dẫn chung mà phù hợp cho toàn bộ các
trường hợp. Vấn đề đưa ra là phải có sự đầu tư nghiên cứu chi tiết của các cơ quan bộ
ngành, địa phương khác nhau giúp hình thành nên các quy định để áp dụng sao cho phù
hợp linh hoạt, tinh gọn không chồng chéo nhưng vẫn bảo đảm được các yêu cầu mục
đích của quy chế đấu thầu nói chung. Hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung để làm
sao đi vô nề nếp, là công cụ quan trọng hỗ trợ đắc lực và góp phần vào việc sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn nhà nước thì cần có sự nhất quán trong việc tổ chức thực hiện và
đồng lòng của tất cả cơ quan và chủ thể thực hiện. Để làm được điều đó, bắt buộc hệ
thống pháp luật về đấu thầu, đấu thầu mua TCB tập trung cần phải đảm bảo sự minh
bạch, đồng bộ.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung đã rất phổ biến tại
nhiều địa phương. Điều này mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong và ngoài
61
nước có thể tham gia vào hoạt động đấu thầu mua sắm TCB. Những quy định của pháp
luật về đấu thầu, đấu thầu mua TCB tập trung hiện nay vẫn còn bộc lộ một số vấn đề
hạn chế, bất cập, được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau, từ lý luận tới thực tế thi
hành. Vấn đề này đã có những tác động ít nhiều tới hoạt động đấu thầu, đấu thầu mua
TCB. Cho nên, ở giai đoạn hiện nay thì việc kiểm tra rà soát lại để đánh giá nhằm bổ
sung, sửa đổi giúp hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu thầu, đấu thầu mua TCB
tập trung là vô cùng cần thiết. Hoàn thiện pháp luật giúp tạo môi trường kinh doanh
lành mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giúp nâng cao hiệu quả
vận dụng trong đời sống thực tế. Các nhà thầu cần phải cập nhật thường xuyên quy
định pháp luật về đấu thầu, tìm hiểu thông tin về các gói thầu nếu muốn tham gia hoạt
động đấu thầu một cách công bằng và hiệu quả. Không những chỉ nắm bắt những quy
định của pháp luật về đấu thầu mua sắm hàng hóa mà quan trọng không kém là phải
nắm bắt thông tin về các dự án, nguồn vốn để thực hiện, từ các kênh thông tin như: tivi,
báo, đài, các trang web về đầu tư, đấu thầu. Các thông tin này sẽ tạo sự chủ động để
doanh nghiệp từng bước tham gia vào công tác đấu thầu mua sắm. Từ vấn đề hoàn
thiện quy định pháp luật đối với trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm TCB sẽ tạo ra được
môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh bình đẳng hơn giữa các nhà thầu và cũng
là chủ thể kinh tế khác nhau góp phần tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, bình
đẳng cho nền kinh tế nước nhà. Từ sự đa dạng, phong phú của nền kinh tế thị trường
cùng với những tiến bộ nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật trên thế giới thì
việc tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng càng phải được quan tâm
và thúc đẩy hơn nữa vai trò, trách nhiệm cũng như năng lực của các chủ thể tham gia
62
vào trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm TCB.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu thầu trong mua thuốc chữa
bệnh tập trung ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện, bảo đảm hài hòa và thống nhất giữa các quy định pháp luật
đấu thầu và luật chuyên ngành đấu thầu mua thuốc chữa bệnh tập trung
Hiện nay có sự chồng chéo, chưa thống nhất giữa các quy định của luật chuyên
ngành với pháp luật về đấu thầu. Ví dụ như từ vụ VN Pharma buôn bán hàng giả là
TCB đã lộ ra nhiều bất cập trong quản lý nhà nước về nhập khẩu, đấu thầu thuốc. Sự áp
dụng các biểu mẫu chung của Bộ Kế hoạch – Đầu tư cho đấu thầu thuốc là chưa hợp
lý, tạo ra kẻ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
Căn cứ vào các phân tích trên, để phát huy vai trò quan trọng của đấu thầu mua
sắm TCB tập trung cũng như hoạt động đấu thầu nói chung đối với nền kinh tế, cần
phải sớm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, dựa trên cơ sở đúng chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước và phải thỏa mãn được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn kinh tế xã
hội là nhu cầu cấp thiết đặt ra. Trong xu thế hội nhập quốc tế, cần phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về đấu thầu để có thể phù hợp hội nhập về tất cả
các lĩnh vực trong đó có đấu thầu mua TCB tập trung. Trước mắt, chúng ta cần tuân
thủ và căn cứ vào các quy định, hướng dẫn cụ thể của các tổ chức quốc tế, tổ chức khu
vực liên quan để tìm ra được nội dung phù hợp với tình hình trong nước mà vẫn đảm
bảo tuân thủ pháp luật quốc tế, để làm sao cho pháp luật đấu thầu của chúng ta tương
thích dần với pháp luật và thông lệ trên thế giới.
Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu thầu mua
TCB tập trung:
Đối với Bộ Y tế: cần ban hành thông tư quy định chi tiết, rõ ràng hơn về việc
phân nhóm thuốc theo tiêu chí kỹ thuật để tránh tình trạng các thuốc trong cùng một
nhóm nhưng chất lượng khác xa nhau. Quy định chặt chẽ về đăng ký thuốc, tránh để
doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở để đăng ký những thuốc có hàm lượng, dạng đóng gói,
63
dạng bào chế không cạnh tranh.
Đối với Chính phủ: Ban hành quy định lộ trình và mức giảm giá đối với thuốc
biệt dược gốc như nhiều quốc gia đã thực hiện. Quy định việc sử dụng giá thuốc trúng
thầu trung bình do Bảo hiểm xã hội Việt Nam công khai, làm căn cứ trong xây dựng kế
hoạch lựa chọn nhà thầu và là cơ sở để thương thảo giảm giá trong trường hợp giá
thuốc trúng thầu cao bất hợp lý.
Ngoài ra Luật Đấu thầu cần có quy định rõ về chế tài xử lý khi đơn vị trúng thầu
lại không mua đủ 80% số lượng trúng thầu, hoặc thậm chí là không mua dù trúng thầu.
Quy định chế tài đủ mạnh để xử lý nhà thầu trúng thầu mà không cung cấp thuốc, trong
đó có những nhà thầu bỏ giá rất thấp để trúng thầu rồi tới khi đơn vị trúng thầu đặt
hàng thì không giao, làm thiệt hại cho lợi ích chung của nhiều bên. Tác giả cũng kiến
nghị đề xuất quy định thêm rõ hơn trong Luật Đấu thầu về vị trí, vai trò và nguyên tắc
làm việc của Tổ chuyên gia theo hướng nên quy định Tổ chuyên gia là những người
được đào tạo bài bản về lĩnh vực đấu thầu TCB, có bằng cấp chứng chỉ liên quan phù
hợp do một bên thứ ba độc lập với bên mời thầu và bên dự thầu đảm nhiệm, để tránh
việc thiên vị, ý chí chủ quan trong quá trình chấm thầu, giúp cho quá trình đấu thầu
công khai, minh bạch hơn.
Nếu làm được điều đó thì những quy định về đấu thầu nói chung và đấu thầu
mua TCB tập trung nói riêng mới bền vững, phát triển và thực sự là công cụ hiệu quả
của quản lý kinh tế xã hội, cụ thể là sẽ có những văn bản pháp luật, nghị định hướng
dẫn thi hành tạo ra môi trường pháp lý ổn định và cụ thể hơn, đảm bảo công tác mua
sắm kịp thời, hiệu quả. Hơn nữa cần phải đảm bảo được tính đồng bộ với các quy định
của pháp luật liên quan như pháp luật về dược, pháp luật về đầu tư, pháp luật kinh tế,
thương mại…Vì vậy, để tránh tình trạng mâu thuẫn chồng chéo, không đúng thẩm
quyền, cần sớm chuẩn hóa, thống nhất giữa các pháp luật chuyên ngành liên quan và
các quy định pháp luật về đấu thầu, trong đó có các quy định về đấu thầu mua TCB tập
64
trung.
3.2.2. Xây dựng hệ thống cung cấp thông tin đấu thầu, trung tâm đào tạo cán bộ
làm công tác đấu thầu chất lượng cao
Trong hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung, vấn đề thông tin, xử lý thông tin
là rất quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thành công hay thất bại của đấu thầu.
Các thông tin được cung cấp một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác và bảo mật góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung. Một vấn đề khác liên quan
đến thông tin trong đấu thầu mua sắm thuốc là hệ thống thông tin về các nhà thầu. Thế
nhưng, qua thực tế cho thấy, khi muốn tra cứu thông tin đấu thầu, thông tin về nhà thầu
hoặc khi tiến hành đấu thầu quốc tế các nhà thầu nước ngoài gặp không ít khó khăn.
Cho nên, hệ thống thông tin này cần phải gấp rút hoàn thành trong thời gian sớm nhất
để đáp ứng yêu cầu tính công khai, minh bạch trong đấu thầu, yêu cầu về số hóa, ứng
dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực đời sống. Ngoài ra, xuất phát từ yêu cầu
của nền kinh tế thị trường, tại thời điểm hiện nay cần xây dựng các trung tâm đào tạo
cán bộ làm công tác đấu thầu chất lượng cao, các trung tâm đào tạo chất lượng cao này
không chỉ làm nhiệm vụ đào tạo đấu thầu cơ bản mà còn phải thực hiện thêm những
mục tiêu như cung cấp được các kiến thức liên quan đến tổ chức đấu thầu trên thế giới
và ở Việt Nam trong các lĩnh vực, tổng kết được, đúc rút được những kinh nghiệm đấu
thầu trên thế giới và tình hình đấu thầu thực tế ở Việt Nam, có như vậy mới xây dựng
được đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và có được
kinh nghiệm thực tế để khi áp dụng vào trong công tác đấu thầu tại các đơn vị mới đạt
được hiệu quả tốt. Nhà nước nên giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với các chuyên
gia có uy tín trong và ngoài nước triển khai thực hiện xây dựng hệ thống thông tin và
các trung tâm cho hoạt động đấu thầu nhằm có được hiệu quả như mong đợi.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác lập và thẩm định dự án và quản lý công tác
đấu thầu
Để nâng cao được chất lượng trong công tác lập dự án thì chủ đầu tư phải tiến
65
hành chọn đơn vị tư vấn có đủ năng lực, các chuyên gia tham gia lập dự án, cán bộ lập
dự án phải có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm trong việc lập dự án, hồ sơ lập
dự án phải có số liệu thông tin đầy đủ, có các căn cứ, có sự khảo sát so sánh điều tra
nghiêm túc chi tiết về nhu cầu đánh giá thực trạng dựa trên nền tảng khoa học thì mới
phản ánh hết được nhu cầu của người sử dụng và dự án mới mang lại hiệu quả thật sự
cho người sử dụng. Quá trình thẩm định dự án cần phải nâng cao vì kết quả của quá
trình này là yếu tố quyết định đến sự thực thi được hay không của toàn bộ dự án. Thực
hiện tốt những công tác này tạo cơ sở cho phê duyệt triển khai dự án được tiến hành và
cụ thể công tác đấu thầu được diễn ra đảm bảo được mục tiêu mà dự án hướng đến.
Nâng cao năng lực quản lý hoạt động đấu thầu mua sắm TCB và lựa chọn nhà thầu,
trong đó cụ thể phải lập được kế hoạch lựa chọn nhà thầu cho toàn dự án, lập kế hoạch
lựa chọn nhà thầu tổng thể căn cứ theo yêu cầu, mục tiêu đối tượng cùng với tiến độ
thực hiện của dự án. Lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu tổng thể cung cấp cái nhìn toàn
diện, tổng quát cho chủ đầu tư để chủ đầu tư có thể chuẩn bị chu đáo nhất cho từng giai
đoạn trong dự án. Lập kế hoạch càng rõ ràng cụ thể bao nhiêu thì càng thuận lợi cho
chủ đầu tư kiểm soát dự án và tiết kiệm được thời gian và chi phí cũng như sớm tiên
đoán được những khó khăn trong quá trình thực hiện để có kế hoạch điều chỉnh trước
để đễ dàng tiến hành.
3.2.4. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đồng thời
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác đấu thầu
Quy định giao cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm với hiệu
quả thực hiện công tác đấu thầu, cùng với đó cần có chế tài xử lý nghiêm khắc đối với
các trường hợp bao che, buông lỏng quản lý của người đứng đầu và các cơ quan chức
năng. Đồng thời, yêu cầu người đứng đầu, chủ đầu tư, bên mời thầu chịu trách nhiệm
đăng tải thông tin theo quy định. Liên tục kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm các trường
hợp không thực hiện đăng tải các thông tin, đặc biệt là thông báo mời thầu và kết quả
66
lựa chọn nhà thầu, phải có chế tài xử lý nghiêm đối với lãnh đạo các chủ đầu tư, bên
mời thầu nếu để xảy ra vi phạm. Khuyến khích các cơ quan thực hiện đăng tải HSMT
trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và website của đơn vị mình.
Nhằm phát huy vai trò hậu kiểm trong đấu thầu, các cơ quan thanh tra, kiểm tra
trong đấu thầu cần tăng cường việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên trong lĩnh vực đấu
thầu nhằm ngăn ngừa và phát hiện sớm các hành vi tiêu cực, sai phạm trong đấu thầu.
Khi nhận được những kiến nghị, phản ánh của nhà thầu về tính không minh bạch, lành
mạnh của cuộc thầu cần xác minh, kiểm tra các thông tin được cung cấp. Trường hợp
những phản ánh, kiến nghị được xác minh là chính xác, cần đưa ra các biện pháp xử lý
thích đáng. Tăng cường vai trò của giám sát cộng đồng, thường xuyên đánh giá chất
lượng các cuộc kiểm tra và có biện pháp xử lý nghiêm đối với những cán bộ có biểu
hiện buông lỏng, thiếu trách nhiệm, kiểm tra mang tính hình thức.
3.2.5. Kiên quyết giải quyết triệt để những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật
về đầu tư mua sắm, đấu thầu
Yếu tố con người trong hoạt động đấu thầu mua sắm rất quan trọng, có tuyên
truyền phổ biến pháp luật, có chế tài xử phạt chặt chẽ nghiêm minh thì các chủ thể khi
tham gia đấu thầu mới nghiêm túc thực hiện quy định. Vì vậy, cần phải có các quy định
chế tài cụ thể và nghiêm minh hơn nữa cho những vi phạm của các chủ thể trong đấu
thầu, chấm dứt hẳn những hiện tượng xấu trong đấu thầu như “quân xanh quân đỏ” hay
hiện tượng “thông thầu” nhằm giữ được sự nghiêm minh trong pháp luật và tạo ra môi
trường cạnh tranh thực sự lành mạnh cho các nhà thầu. Đối với cán bộ làm công tác
đấu thầu cũng phải luôn tuyên truyền phổ biến pháp luật, phổ biến các chính sách của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn đổi mới hiện nay để họ có kiến thức pháp luật đầy
đủ, nắm bắt được đường lối chính sách phát triển của đất nước, cũng như có được lập
trường tư tưởng vững vàng. Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đấu thầu, hạn
chế, tiến tới đẩy lùi, giải quyết tận gốc những tiêu cực, vi phạm pháp luật về đấu thầu;
tăng cường chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về đấu thầu, kịp thời phát hiện và
67
xử lý nghiêm những hành vi tiêu cực. Thực hiện nghiêm túc việc báo cáo thông tin xử
lý nhà thầu vi phạm pháp luật trong hoạt động đấu thầu đến cơ quan có thẩm quyền
theo quy định.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Dựa trên cơ sở thực trạng pháp luật và quá trình thực tế áp dụng pháp luật đấu
thầu ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là các gói thầu đã và đang triển khai khi đấu thầu
mua sắm TCB tập trung; khái quát các khía cạnh được và những tồn tại, bất cập của
Luật đấu thầu nhằm đưa ra các nhận định tổng quan về phương hướng hoàn thiện. Sau
khi đã định hình xong các vấn đề cần phải tập trung hoàn thiện thì Chương 3 cũng tập
trung kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện những mặt còn tồn tại, bất cập của Luật đấu
thầu nói chung và hơn hết đó là hoàn thiện các nội dung liên quan tới hoạt động đấu
thầu mua TCB tập trung theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Cụ thể đó là cần phải tập
trung vô 3 vấn đề nổi bật là năng lực về cạnh tranh, xoá bỏ đi rào cản và mô hình khép
kín tạo thêm nhiều khoảng trống cho hình thức đấu thầu minh bạch và công bằng, kiến
nghị phương thức xét và đánh giá năng lực của nhà thầu một cách khách quan hơn. Sau
hết là tập trung vào khía cạnh hạn chế những hành vi gian lận trong đấu thầu, từ quá
trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ về nhận thức đến năng lực, kết hợp với những hình thức
68
xử lý vi phạm trong đấu thầu rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn.
KẾT LUẬN CHUNG
Đấu thầu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động của nền kinh tế
nói chung và mua sắm thuốc phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh nói riêng. Đất nước
càng phát triển thì hoạt động đấu thầu diễn ra càng phổ biến, rộng rãi, càng cạnh tranh.
Để cho hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung đạt hiệu quả thì vấn đề quan trọng nhất
là phải phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Mà muốn
được như vậy thì cần phải phát huy vai trò của nhà nước trong việc quản lý về đấu thầu
mua sắm trong khu vực công nói chung, đấu thầu mua thuốc tập trung nói riêng.
Kết quả nghiên cứu trong Luận văn đã góp phần:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đấu thầu mua TCB tập trung ở Việt Nam. Trong
đó luận văn đã phân tích những căn cứ khoa học và các bước quy trình, nội dung về
quản lý của nhà nước đối với việc đấu thầu mua TCB tập trung; nghiên cứu đánh giá
những kinh nghiệm về quản lý hoạt động đấu thầu và một số vấn đề thực trạng còn bất
cập qua một số gói thầu thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Luận văn đã đánh giá một cách khách quan thực trạng quản lý nhà nước về
hoạt động đấu thầu mua TCB tập trung ở Việt Nam, đánh giá cả những khía cạnh được
và chưa được trong công tác quản lý đấu thầu mua TCB tập trung, qua đó để phân tích
các nguyên nhân và bất cập trong công tác quản lý đấu thầu. Dựa vào những nguyên
nhân, bất cập đó, luận văn đã kiến nghị một số giải pháp để tăng cường hơn nữa công
tác quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu mua TCB tập trung
nói riêng. Cho nên, trong thời gian sắp tới, với mục đích hoàn thiện công tác quản lý
nhà nước đối với đấu thầu mua TCB thì cần phải có thêm nhiều công trình nghiên cứu
sâu hơn về đấu thầu mua TCB tập trung, tại vì yếu tố con người vẫn là vấn đề khó khan
nhất và chưa thể có những giải pháp mang tính trực tiếp ngay được, cần phải theo dõi
69
thêm để tổng hợp và khái quát, tìm ra những giải pháp tình thế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Tài liệu trong nước
1. Báo Sài Gòn Giải Phóng, Làm chủ kỹ thuật cao - phục vụ chu đáo bệnh
nhân, ngày 08/02/2020
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT, ngày
16/06/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập HSMT mua sắm hàng
hoá
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tư số 19/2015/TT-BKHĐT, ngày
27/11/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập báo cáo thẩm định trong
quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tư số 23/2015/TT-BKHĐT, ngày
21/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết lập báo cáo đánh giá giá
HSDT
5. Bộ Y Tế (2019), Thông tư 15/2019/TT-BYT quy định việc đấu thầu
thuốc tại các cơ sở y tế công lập, ban hành ngày 11/07/2019.
6. Chính phủ (2014), Nghị định 63/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, ban hành ngày 26/06/2014.
7. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, ban hành ngày
26/11/2013
8. Quốc hội (2016), Luật Dược số 105/2016/QH13, ban hành ngày
06/04/2016
9. Thông Tấn Xã Việt Nam, Đấu thầu thuốc tập trung quốc gia: Hiệu quả
nhưng còn nhiều bất cập
10. Thủ tướng chính phủ (2013), Quyết định Phê duyệt Chiến lược quốc
gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm
nhìn đến năm 2030
11. Thủ tướng chính phủ (2020), Quyết định 163/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 22/01/2020 về việc giao dự toán chi khám bệnh, chữa bệnh BHYT
năm 2020
12. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019
13. UBND thành phố Hồ Chí Minh (2017), Quyết định số 5220/QĐ-UBND
về giải thể Trung tâm Mua sắm hàng hóa và tài sản công của ngành Y tế thành phố
theo phương thức tập trung, trực thuộc Sở Y tế, ban hành ngày 04/10/2017
14. UBND Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Quyết định 21/2017/QĐ-
UBND Ban hành Quy chế về mua sắm tài sản nhà nước theo phương thức tâp trung
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 03/04/2017.
15. Nguyễn Thị Hương Giang (2017), “Trình tự thủ tục đấu thầu mua sắm
hàng hóa theo pháp luật về đấu thầu từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập ở
Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
16. Nguyễn Sơn Hà (2019). “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn hai túi hồ sơ theo pháp luật đấu thầu ở Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
17. Nguyễn Thị Hiệp (2017), “Đấu thầu mua sắm hàng hóa theo phương
thức một giai đoạn một túi hồ sơ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn ngành khí
tượng thủy văn”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
18. Phạm Lương Sơn (2012), “Nghiên cứu thực trạng đấu thầu mua thuốc
BHYT cho các cơ sở khám, chữa bệnh công lập ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Dược
học, Trường Đại học Dược Hà Nội;
19. Cao Thị Lê Thương (2018), “Bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua
sắm hàng hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Viện Nhà nước và pháp luật –
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam;
* Tài liệu nước ngoài
20. Ngân hàng Thế giới (2004), Hướng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD
và tín dụng IDA
21. UNCTRIAL, Quy định mẫu về mua sắm đấu thầu hàng hoá.