VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH TÚ

PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2020

…,, năm

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH TÚ

PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 838 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào

khác. Các trích dẫn và số liệu đưa ra đảm bảo tính khách quan, trung trực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thanh Tú

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI

NƯỚC THẢI VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI

NƯỚC THẢI ............................................................................................................. 8

1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ........................................ 8

1.2 Khái quát về pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ................. 20

1.3 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số quốc gia trên

thế giới và kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 27

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI

TP.HCM .................................................................................................................. 36

2.1 Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và quản lý nước thải tại Thành phố

Hồ Chí Minh ............................................................................................................. 36

2.2 Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải .................... 38

2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trên

địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.............................................................................. 49

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ

MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI ............................................................. 58

3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải . 58

3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải ............................................................................................................................ 60

3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi

trường đối với nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh. ............................................ 66

KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Phí bảo vệ môi trường: Phí BVMT

Sở Tài Nguyên & Môi Trường: Sở TN&MT

Ngân Sách Nhà Nước: NSNN

Thành phố Hồ Chí Minh: TP.HCM

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 3.1 Số tiền phí BVMT thu được từ 01/01/2018 – 31/08/2019

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, tình hình

kinh tế TP.HCM đã đạt được những thành tựu đáng kể với mức tăng trưởng

khá ổn định, cụ thể như trong năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)

đạt 1.344.743 tỷ đồng, tăng 7,86%, cao hơn so với năm 2018. Trong đó, khu

vực dịch vụ tăng 8,51%, đạt mức tăng cao hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng

8,01%), có 8/9 ngành dịch vụ chủ yếu có mức tăng trưởng cao hơn so với

cùng kỳ. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,19%, có mức tăng trưởng

thấp hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ 8,12%), trong đó, ngành công nghiệp tăng

7,51%, (cùng kỳ có mức tăng 8,17%) và ngành xây dựng tăng thấp với

0,76%, (cùng kỳ tăng 7,95%) [41]. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế, nhiều

khu công nghiệp, công trình xây dựng được hình thành khiến cho thành phố

gặp không ít những khó khăn với các vấn đề về môi trường như ô nhiễm

không khí, ô nhiễm tiếng ồn, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng xấu

đến sức khỏe của người dân.

Hiện nay, trên địa bàn TP.HCM có hơn 2.000 kênh rạch. Những con

kênh này đã trở thành nổi ám ảnh của người dân dù nắng hay mưa bởi nó đã

bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng do các chất thải rắn, nước thải làm ảnh

hưởng đến cuộc sống của những hộ dân sống ven các con kênh, con rạch này.

Các nguồn nước thải từ các khu dân cư, các hộ dân, các cơ sở chế biến, nước

thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất xả thải trực tiếp vào lòng sông, ao

hồ khiến nguồn nước ở đây đổi màu, bốc mùi và ô nhiễm trầm trọng.

Để BVMT do nước thải gây ra, chính quyền thành phố đã áp dụng

nhiều công cụ kiểm soát khác nhau như: công cụ hành chính, công cụ dựa vào

cộng đồng, công cụ kinh tế. Trong đó, công cụ kinh tế được xem là đem lại

1

hiệu quả khả quan nhất vì nó được tạo lập dựa trên sự cân bằng giữa tăng

trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ này được thực hiện thông qua việc Nhà

nước thu phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với nước thải đã tạo

điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chủ động hơn trong việc tạo

lập kế hoạch BVMT kết hợp giữa phí BVMT và chi phí sản xuất kinh doanh

vào giá thành của sản phẩm.

Đến thời điểm hiện tại, những văn bản được ban hành để điều tiết về

phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng có thể kể đến

như: Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ về phí BVMT đối với

nước thải; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân

TP.HCM về việc điều chỉnh mức thu phí BVMT đối với nước thải công

nghiệp trên địa bàn TP.HCM; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP của Chính phủ

về thoát nước và xử lí nước thải; Luật BVMT năm 2014. Những văn bản này

đã thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền TP.HCM

trong công tác BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, công tác thi hành các quy định về phí BVMT đối

với nước thải còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lí và BVMT.

Do vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về phí BVMT đối với nước thải là điều

cần thiết trong hệ thống các công cụ kinh tế ở lĩnh vực BVMT.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách của mỗi quốc gia, trong đó, phí

BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng là một công cụ

kinh tế quan trọng trong việc BVMT và công tác quản lí môi trường. Đây là

vấn đề cũng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nên cũng đã

có nhiều công trình nghiên cứu từ những khía cạnh tiếp cận khác nhau để làm

rõ về vấn đề này.

Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp về phí

2

BVMT đối với nước thải, có thể kể đến như:

Luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế

trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh

Đào (2014) – công trình đã nghiên cứu và đưa ra thực tiễn áp dụng các công

cụ kinh tế như thuế BVMT, phí BVMT, ký quỹ…

Bài nghiên cứu “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với

nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam” của TS Đỗ Nam

Thắng trên Tạp chí môi trường số 7 năm 2010, giới thiệu kinh nghiệm thực

tiễn áp dụng phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của một số quốc gia

trên thế giới, từ đó gợi mở cho quá trình xây dựng và thực hiện về phí BVMT

ở Việt Nam.

Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi

trường” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2014) nêu ra thực trạng về vấn đề bảo

vệ môi trường, qua đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về phí

BVMT.

Bài nghiên cứu “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: Làm sao

thêm hiệu quả?” của tác giả Nguyễn Huế (2012) trên Tạp chí Công nghiệp,

kỳ 1, tháng 6/2012.

Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế “Vai trò của các công cụ kinh tế

trong quản lý môi trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Diệu Linh (2015).

Bài nghiên cứu “Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và sử

dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục

tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường” của tác giả Lê Thị Thu Hằng (2018) trên

Tạp chí Nghề luật, số 2 năm 2018.

Sách “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số vấn đề lý luận và thực

tiễn” do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2011 do PGS.TS Phạm Văn Lợi

chủ biên. Nội dung trọng tâm của sách quy định pháp luật và thực tiễn thi

3

hành một số công cụ kinh tế trong BVMT ở Việt Nam. Phân tích ưu nhược

điểm của các công cụ này, nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp

dụng công cụ trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Hay bài nghiên cứu “Thực trạng áp dụng một số công cụ kinh tế trong

quản lý môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Nhật

Nguyên (2013) trên Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 5 (3/2010).

Qua những bài nghiên cứu trên cho thấy rằng vấn đề phí BVMT là một

trong những vấn đề khá quan trọng, được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên,

mỗi công trình lại nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau về phí BVMT, có

công trình chỉ dừng lại ở phí BVMT đối với từng loại nước thải, chưa có công

trình nào nghiên cứu đầy đủ về phí BVMT đối với nước thải được áp dụng tại

một địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận

về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải

tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP.HCM.

Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận về phí và pháp luật

về phí BVMT đối với nước thải, từ đó đề xuất những giải pháp, phương

hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này nhằm đáp ứng tốt

các yêu cầu trong công tác BVMT.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để luận văn đạt được những mục tiêu nói trên, tác giả đặt ra những

nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:

Một là phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí BVMT và

pháp luật về phí BVMT đối với nước thải như khái niệm về phí BVMT đối

4

với nước thải theo sự điều chỉnh của pháp luật, đặc điểm, vai trò của phí

BVMT đối với nước thải và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải và điều kiện áp dụng để mang lại hiệu quả cao nhất.

Hai là đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về

phí BVMT đối với nước thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn

TP.HCM trong thời gian gần đây nhằm chỉ ra những ưu điểm và bất cập của

pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Từ đó xác định được những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về phí BVMT

đối với nước thải tại TP.HCM.

Ba là đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp

luật tại TP.HCM.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là: phí BVMT và pháp luật

về phí BVMT đối với nước thải, thực trạng pháp luật về phí BVMT và thực

tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT trên địa bàn TP.HCM; kinh nghiệm

của một số quốc gia trên thế giới về xây dựng pháp luật về phí BVMT đối với

nước thải.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Phí BVMT đối với nước thải là vấn đề có phạm vi nghiên cứu tương

đối rộng, liên quan đến hai vấn đề chính đó là nước thải công nghiệp và nước

thải sinh hoạt. Vì vậy, phí BVMT có thể được phân tích ở nhiều khía cạnh,

góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sỹ,

tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của phía BVMT đối

với nước thải từ những khái niệm chung đến thực trạng pháp luật, thực tiễn

5

thực hiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải.

Với đề tài “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo pháp luật Việt

Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả còn nghiên cứu thêm

những quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước, của HĐND, UBND

Thành Phố về phí BVMT đối với nước thải, từ đó phân tích và thực tiễn thi

hành của những quy định này. Song song đó, tác giả sẽ tìm hiểu thêm một số

quy định về phí BVMT đối với nước thải của một số quốc gia trên trên thế

giới để rút ra bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về phí

BVMT ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trong quá

trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu sau:

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin.

Phương pháp so sánh, phân tích, diễn giải, bình luận… được sử dụng

trong chương 1 khi nghiên cứu, đưa ra quan niệm về các vấn đề lý luận của

phí BVMT và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải.

Với phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp vấn đề, tác giả sử dụng

trong chương 2 và chương 3 để tìm hiểu về thực tiễn thi hành pháp luật và

thực trạng về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn thành phố; từ đó chỉ ra

một số điểm đạt được và chưa được trong công tác thực hiện để rút ra bài học

kinh nghiệm, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

trong việc BVMT.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với

6

nước thải và thực tiễn thi hành từ thực tiễn TP.HCM trong công tác bảo vệ

môi trường. Luận văn có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như

sau:

6.1 Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần nghiên cứu và hệ thống hóa một số cơ sở quan điểm

về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thực

hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn TP.HCM. Hệ

thống về vấn đề về phí BVMT bằng biện pháp hành chính, nêu ra những điểm

tích cực và hạn chế của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, qua đó đề

xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện

hành.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Cung cấp thông tin thực tiễn và đề xuất những giải pháp mang tính

tham khảo đối với các doanh nghiệp, các cơ quan quản lí, góp phần giải quyết

những khó khăn thực tiễn trong việc thực hiện áp dụng công cụ kinh tế thu

phí BVMT đối với nước thải.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3

chương.

Chương 1: Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và

pháp luật về phí BVMT đối với nước thải

Chương 2: Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải và thực tiễn thực hiện tại TP.HCM

Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

7

hiệu quả thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI

VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI

1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

1.1.1 Khái niệm và phân loại về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

1.1.1.1 Sơ lược về sự hình thành về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải

Trên thế giới, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ

kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm

môi trường. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển

như: ở Phần Lan áp dụng năm 1961, ở Thụy Điển từ năm 1970, ở Đức từ năm

1980…đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm

do nước thải gây ra ở nước này [38]. Còn ở các nước đang phát triển, phí

nước thải được áp dụng chậm hơn, ví dụ như ở Trung Quốc và Malaysia được

áp dụng từ năm 1978, ở Philippines và Thái Lan từ năm 2000…

Ở Việt Nam, trước năm 2003, pháp luật hầu như không có quy định cụ

thể nào về việc thu phí BVMT đối với nước thải. Trong Pháp lệnh Phí và lệ

phí năm 2002, phí BVMT đối với nước thải được đề cập trong danh mục phí

BVMT và thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, nhưng chưa có văn bản

nào quy định chi tiết về loại phí này. Do không có cơ sở pháp lý cụ thể cho

việc thu phí BVMT đối với nước thải, nên về cơ bản, loại phí này mới chỉ

được nhắc tên trong quy phạm pháp luật mà chưa được đưa vào thực hiện trên

thực tế.

Ngày 13/6/2003, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số

67/2003/NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải, có hiệu lực từ

1/1/2004. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên quy định cụ thể về phí BVMT đối với

8

nước thải. Sau đó, Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành

Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT ngày 18/2/2003 hướng

dẫn Nghị định số 67/2003/NĐ-CP. Theo đó, từ ngày 1/1/2004, các tổ chức, cá

nhân, hộ gia đình phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp và nước

thải sinh hoạt. Nguồn thu sau đó được sử dụng để tái đầu tư cho các công

trình, dự án BVMT ở địa phương.

Tiếp đó, ngày 8/1/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số

04/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-

CP. Một số nội dung được sửa đổi như loại bỏ chất BOD khỏi chất gây ô

nhiễm trong nước thải; sửa đổi, bổ sung các điều về quản lý sử dụng tiền phí

thu được, về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc công

bố định mức chất gây ô nhiễm, khảo sát, xác định chất gây ô nhiễm có trong

nước thải công nghiệp để điều chỉnh cho phù hợp.

Với mục đích hướng dẫn Nghị định số 04/2007/NĐ-CP và sửa đổi, bổ

sung Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT, liên bộ này đã

ban hành Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT-BTC-BTN&MT với nội dung

sửa đổi chủ yếu là các quy định về kê khai nộp phí; trách nhiệm của đối tượng

nộp phí, của các cơ quan có liên quan; việc quản lý sử dụng số tiền phí thu

được.

Tiếp đến, ngày 22/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số

26/2010/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số

67/2003/NĐ-CP. Theo văn bản này, phần phí còn lại đối với nước thải (80%

trên tổng số tiền phí BVMT đối với nước thải công nghiệp thu được) sẽ không

được chi cho ngân sách địa phương như theo quy định tại Thông tư số

125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT nữa, mà được nộp 100% vào ngân sách địa

phương để sử dụng cho việc BVMT, đầu tư mới, nạo vét cống rãnh, duy tu,

9

bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương, bổ sung vốn hoạt động cho

Quỹ BVMT của địa phương, trả nợ vay đối với các khoản vay của các dự án

thoát nước thuộc nhiệm vụ của ngân sách địa phương.

Để tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về phí BVMT phù hợp với

tình hình phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, ngày 29/3/2013, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí BVMT đối với

nước thải thay thế cho những văn bản trước đây quy định về loại phí này.

Cùng thời điểm đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Tài chính

ban hành Thông tư liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTN&MT ngày

15/5/2013 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 25/2013/NĐ-CP. Sự ra đời của

những văn bản này đã khắc phục một số những vướng mắc về phí BVMT đối

với nước thải ở những văn bản trước như: xác định đầy đủ và bao quát các đối

tượng nộp phí, tránh tình trạng thu phí trùng có thể xảy ra; khắc phục khó

khăn trong việc xác định lưu lượng nước thải chủ yếu thông qua hệ thống

cung cấp nước sạch; cải cách thủ tục kê khai và thẩm định tờ khai phí BVMT

đối với nước thải công nghiệp.

Ngày 16/11/2016, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số

154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải (có hiệu lực thi hành từ

01/01/2017) đã quy định rõ các đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải

bao gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Ngoài ra, Nghị định

còn bổ sung quy định hộ gia đình là người nộp phí do Nghị định số

25/2013/NĐ-CP đã quy định đối tượng chịu phí BVMT là nước thải từ hộ gia

đình nhưng lại chưa quy định hộ gia đình là người nộp phí. Với đối tượng

miễn phí BVMT được bổ sung hai thêm đối tượng là: nước thải từ các

phương tiện đánh bắt thủy, hải sản của ngư dân và nước thải sinh hoạt tập

trung do đơn vị vận hành quản lý, vận hành hệ thống thoát nước tiếp nhận và

10

đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định xả thải ra môi trường.

Như vậy, có thể thấy rằng, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã không

ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phí BVMT đối với nước

thải. Những quy định của pháp luật về loại phí này luôn được ban hành kịp

thời, đúng lúc, đáp ứng được yêu cầu của thực tế xã hội, tạo nên khung pháp

lý rõ ràng và cụ thể cho công tác thu, nộp, quản lý và sử dụng phí BVMT đối

với nước thải đạt hiệu quả cao nhất trong công tác BVMT.

1.1.1.2 Cơ sở lý luận và pháp lý của phí bảo vệ môi trường đối với

nước thải

Nước thải là nguồn nước được thải ra từ các hoạt động kinh doanh, sản

xuất công nghiệp, thương mại – dịch vụ và các hoạt động sống của con người.

Trong đó, nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt là hai loại nước thải

đáng quan tâm nhất trong quá trình đô thị hóa hiện nay.

Nước thải sinh hoạt là loại nước được thải ra ngay sau khi sử dụng cho

các mục đích sinh hoạt từ các trường học, bệnh viện, cơ quan…Loại nước thải

này chưa hàm lượng cao chất thải rắn, dầu mỡ và một lượng đáng kể thức ăn

cho vi khuẩn (Ni tơ và Phốt pho)

Nước thải công nghiệp là nước thải được sinh ra trong quá trình sản

xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và hoạt động phục vụ sản xuất.

Trong nước thải công nghiệp thường được phân loại theo ngành công nghiệp

sản sinh ra nước thải đó, với đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh, đồng

nghĩa với việc cũng có đa dạng các loại nước thải công nghiệp được thải ra

hàng ngày.

Với mục tiêu bảo vệ môi trường nói chung, giảm thiểu số lượng nước

thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường nói riêng, từ đó hạn chế các chủ

thể xả thải, đồng thời, có được nguồn tài chính sử dụng để đầu tư trở lại cho

hoạt động BVMT, việc tiến hành thu phí BVMT đối với nước thải được xác

11

định là hữu hiệu hơn cả. Bên cạnh đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải được xác định là công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên

thế giới, đặc biệt là những nước phát triển và đem lại những kết quả đáng ghi

nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở những nước này [35].

Ngoài việc xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, sự ra đời của phí BVMT đối

với nước thải cũng được dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở chính trị, pháp

lý nhất định.

Thứ nhất, về cơ sở lý luận. Theo thông lệ quốc tế, phí BVMT đối với

nước thải là công cụ trực tiếp đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm

được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận đó là,

nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” (PPP) và “Người hưởng thụ phải

trả tiền” (BPP).

Đối với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” bắt nguồn từ các

sáng kiến của OECD đề ra vào năm 1972 và mở rộng năm 1974. Theo định

nghĩa chính thức khởi xướng đầu tiên bởi khối OECD, nguyên tắc người gây

ô nhiễm phải trả là nguyên tắc được dùng để phân bổ chi phí cho các biện

pháp ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nhằm khuyến khích việc sử dụng hợp

lý nguồn tài nguyên môi trường khan hiếm và tránh làm ảnh hưởng tới đầu tư

và thương mại quốc tế [39, Tr.93-117].

“Người gây ô nhiễm phải trả” có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm

(doanh nghiệp, cá nhân hay chính quyền) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự

phá hoại môi trường do hoạt động của họ gây ra. Điều này sẽ khuyến khích

các chủ thể đó giảm thiểu, điều tiết hành vi của mình, ít ra chi phí biên của

việc giảm ô nhiễm bằng chi phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Để

làm được điều đó thì tổng chi phí sản xuất ra một hàng hóa, dịch vụ bao gồm

chi phí của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó.

Việc sử dụng không khí, đất hay nước cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải

12

cũng là sử dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình

trạng định giá không tính đủ chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và

không xác định rõ quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc

khai thác và sử dụng quá mức và có thể làm phá hủy hoàn toàn nguồn tài

nguyên đó. Nguyên tắc này buộc người gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi

phí sản xuất (chi phí sử dụng tài nguyên và làm ô nhiễm) thông qua các công

cụ như thuế, lệ phí…

Nguyên tắc PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm

thì ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải

bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt do ô nhiễm gây ra. Việc buộc

những người gây ô nhiễm trả tiền là một trong những biện pháp tốt nhất để

làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây ra làm thất bại thị trường, đảm

bảo cho môi trường ở mức chấp nhận được.

Đối với nguyên tắc “người thụ hưởng phải trả tiền”, nguyên tắc này

chủ trương tạo lập một cơ chế, định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu

về môi trường dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Đồng thời, nguyên

tắc này cũng đưa ra giải pháp BVMT với cách nhìn nhận mới, chú trọng tới

việc phòng ngừa và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả của nó có thể đạt

được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và

khả năng sử dụng tiền hợp lý cho các mục đích BVMT. Đối nghịch với người

trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người được hưởng thụ một môi trường đã

cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc này là tất cả

những ai hưởng thụ do có được môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì

đều phải nộp phí. Mức tính phí theo đầu người càng cao thì càng có nhiều

người nộp phí, thì số tiền thu được sẽ càng nhiều. Số tiền này có thể do các cá

nhận muốn BVMT, hoặc do những cá nhân không phải trả tiền cho việc thải

ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm nộp. Tuy nhiên, hạn chế của

13

nguyên tắc này đó là tiền không phải do các chủ thể gây ô nhiễm trực tiếp trả

nên sự khuyến khích đối với việc BVMT khó có thể đạt được hiệu quả cao

nhất.

Thứ hai, về cơ sở pháp lý, bảo vệ môi trường luôn được Đảng Bộ, Nhà

nước và chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm, là một trong những chủ

trưởng, chính sách và nhiệm vụ quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Để khôi phục hiện trạng môi trường và BVMT nói

chung cũng như xử lý chất thải khắc phục nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải

gây ra, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ cả ba biện pháp: hành chính – kinh tế -

giáo dục, trong đó, biện pháp kinh tế được xem là quan trọng nhất. Nhà nước

ta là Nhà nước pháp quyền, do vậy, để quán triệt được các nguyên tắc “Người

gây ô nhiễm phải trả” và “người thụ hưởng phải trả tiền” và đưa những

nguyên tắc này vào cuộc sống thì nó cần phải được thể chế hóa bằng các văn

bản quy phạm pháp luật. Cho nên, việc thu phí BVMT đối với nước thải cần

căn cứ vào hệ thống pháp luật môi trường và những văn bản pháp luật có liên

quan.

Trước đây, Hiến pháp 1992 đã khẳng định, BVMT là nghĩa vụ của mọi

cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta xây

dựng các quy phạm pháp luật về phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với

nước thải nói riêng. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số 24-NQ-TW ngày

03/06/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về chủ

động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT

đã ghi nhận, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là

nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần

quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc

gia và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được phát triển.

Kế thừa những nội dung trên, Điều 43 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi

14

người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ

môi trường”. Tiếp đó, Khoản 2 Điều 63 Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng

định: “Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển,

sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo”. Những nội dung trên được ghi

nhận trong Hiến pháp sẽ tạo ra một nền tảng quan trọng để các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền tiếp tục thể chế hóa, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về

BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng.

Do đó, Luật Bảo vệ môi trường được xác định là văn bản pháp luật cơ

bản, quan trọng nhất về BVMT, về quản lý nước thải ở Việt Nam. Luật đã đặt

ra những quy định chung về tiêu chuẩn chất thải, cam kết thực hiện biện pháp

giảm thiểu, xử lý chất thải nói chung, trong đó có nước thải. Đồng thời, Điều

148 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định, tổ chức, cá nhân xả thải ra môi

trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường thì phải nộp phí

BVMT. Đây được xem là quy định có tính chất nguyên tắc, có tác dụng chi

phối và quyết định đến các quy định của pháp luật về thu phí BVMT. Theo

đó, mọi các nhân, tổ chức có hành vi xả thải ra môi trường đều phải nộp phí

BVMT đối với nước thải.

Bên cạnh các văn bản pháp luật về môi trường thì việc xây dựng phí

BVMT đối với nước thải còn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về tài

chính. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật phí và lệ phí năm 2015 đưa ra khái niệm về

phí như sau: “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù

đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự

nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cung

cấp dịch vụ công được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật

này”. Theo đó, Luật phí và lệ phí sẽ điều chỉnh đối với các khoản thu phí

thuộc dịch vụ công do cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ

chức khác được giao thực hiện, không điều chỉnh đối với các khoản phí do

15

các tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước cung ứng. Đồng thời, trong Danh mục

phí, lệ phí ban hành kèm theo cũng có liệt kê phí BVMT đối với nước thải

thuộc về nhóm phí trong lĩnh vực BVMT nói riêng và lĩnh vực tài nguyên môi

trường nói chung. Loại phí này sẽ do Chính phủ quy định.

Hiện nay, văn bản điều chỉnh trực tiếp về phí BVMT đối với nước thải

là Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 11 năm 2016

về phí BVMT đối với nước thải.

1.1.1.3 Khái niệm phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Về khái niệm phí BVMT đối với nước thải, trên thực tế, pháp luật hiện

hành chỉ đưa ra khái niệm về phí BVMT nói chung, chưa có khái niệm cụ thể

nào là phí BVMT đối với nước thải, nhưng dựa vào những hiểu biết của tác

giả, có thể hiểu phí BVMT đối với nước thải như sau:

“Phí BVMT đối với nước thải là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải

trả cho việc xả thải gây ô nhiễm vào môi trường với mục đích giảm thiểu số

lượng nước thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường, đồng thời tạo

nguồn thu để phục vụ, bù đắp chi phí cho việc khôi phục và bảo vệ môi

trường”.

Nếu nhìn nhận các khoản phí thuộc nguồn thu của NSNN, có thể thấy,

khoản thu này do các tổ chức, cá nhân nộp vào quỹ NSNN khi thụ hưởng lợi

ích từ hàng hóa, dịch vụ công cộng được cung cấp bởi Nhà nước [24, Tr.160].

Chính vì vậy mà phí mang tính đối giá và tính hoàn trả trực tiếp, khác biệt so

với thuế không mang hai đặc điểm này, và khác biệt so với lệ phí không mang

tính đối giá. Khoản thu phí có tác dụng bù đắp một phần chi phí cho những

khoản đầu từ, bảo dưỡng các công trình công cộng, duy trì hoạt động dịch vụ

của Nhà nước, đồng thời, bảo đảm tính tiết kiệm trong tiêu dùng dịch vụ công

từ phía người thụ hưởng và góp phần trang bị thêm các điều kiện vật chất để

16

phục vụ tốt hơn, có hiệu quả hơn cho người thụ hưởng dịch vụ.

Như vậy, việc đóng phí của tổ chức, cá nhân chỉ phải thực hiện khi họ

nhận được sự cung ứng một dịch vụ từ một chủ thể khác. Tiền phí sẽ tương

ứng với tính chất, mức độ của dịch vụ được cung ứng. Do đó, phí BVMT đối

với nước thải mà các tổ chức, cá nhân khi xả thải vào môi trường phải nộp

thực chất là số tiền mà họ phải đóng cho Nhà nước để nhận lấy sự cung cấp

dịch vụ từ phía Nhà nước, đó là những hoạt động nhằm bảo vệ và đầu tư cho

môi trường tại địa phương nơi họ xả thải mà đáng lẽ ra những hoạt động này

phải do chính các chủ thể xả thải phải thực hiện, nhưng Nhà nước đã đứng ra

thực hiện thay họ.

Phí BVMT đối với nước thải có những dấu hiệu cơ bản để nhận diện

như sau:

Một là, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ kinh

tế trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường.

Phí BVMT là được coi là công cụ kinh tế hữu hiệu trong việc kiểm soát

ô nhiễm nguồn nước vì nó có tác dụng điều chỉnh hành vi của người xả thải.

Người xả thải phải chi trả một khoản tiền nhất định cho mỗi đơn vị chất gây ô

nhiễm, nồng độ càng cao thì số phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra càng lớn.

Ngược lại, nếu lượng nước thải của doanh nghiệp giảm cũng như hàm lượng

chất gây ô nhiễm trong nước thải khi xả ra môi trường ít thì số phí nộp cũng

sẽ ít đi. Do vậy, mục đích của việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải là

khuyến khích giảm các tác nhân gây ô nhiễm, giảm thiểu lượng chất gây ô

nhiễm thải ra môi trường và tăng thêm nguồn thu cho Nhà nước để sử dụng

cho việc khôi phục, cải thiện chất lượng môi trường sống.

Việc thu phí BVMT đối với nước thải có thể bù đắp một phần chi phí

thường xuyên và không thường xuyên cho việc duy trì, bảo vệ và cả thiện các

17

thành phần môi trường, giữ gìn sự cân bằng sinh thái và các chi phí khác về tổ

chức và quản lý phục vụ cho vấn đề BVMT nói chung và vấn đề nước thải nói

riêng.

Hai là, việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải không gây ảnh

hưởng đến tăng trưởng kinh tế vì mức phí này được quy định trên điều kiện

kinh tế - xã hội, thu nhập và mức sống của người dân, nên khi áp dụng loại

phí này, các nhà chuyên môn đã có sự tính toán, cân nhắc để không ảnh

hưởng việc tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Ba là, công tác thu phí BVMT đối với nước thải cũng góp phần làm

giảm ô nhiễm nước, đồng thời, tạo nguồn thu cho công tác BVMT, tái đầu tư

vào các hoạt động BVMT. Song song đó, việc thu phí cũng ảnh hưởng ít

nhiều đến hành vi của các tổ chức, cá nhân bởi vì càng thải nhiều chất độc hại

ra môi trường càng phải nộp phí nhiều và để không phải nộp phí nhiều, họ

phải cắt giảm lượng nước thải xả trực tiếp ra môi trường. Điều này cho thấy

phí BVMT đối với nước thải góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường nước,

đồng thời số phí thu được sẽ dùng cho các hoạt động xử lý, khắc phục thiệt

hại từ nước thải và các hoạt động BVMT khác.

Sau cùng, để cho việc thu phí BVMT đạt được hiệu quả cao nhất, cần

phải có hệ thống kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các hành vi

vi phạm. Việc thu đúng, thu đủ phí BVMT đối với nước thải gặp không ít khó

khăn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là công tác kiểm tra, giám

sát, thanh tra và xử lý vi phạm chưa thật sự triệt để. Vì vậy, để công tác thu

phí đạt hiệu quả, cần làm tốt hơn trong công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra

và xử lí vi phạm triệt để.

1.1.1.4 Phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Hiến chương châu Âu quan điểm nước thải là việc ô nhiễm nước, cụ

thể, đó là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm

18

nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông

nghiệp, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã. Còn ở Việt

Nam, nước thải là nước đã được thải ra từ sau khi đã sử dụng hoặc được tạo

ra trong quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó

[33]. Nước thải được chia thành nhiều loại khác nhau để tiện cho việc quản lý

và tạo cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp giải quyết hay công nghệ xử lý phù

hợp.

Theo quan điểm quản lý môi trường, xuất phát từ các nguồn gây ô

nhiễm nước, nước thải được phân thành hai loại: nước thải có nguồn xác định

và nước thải không có nguồn xác định:

(i) Nước thải có nguồn xác định bao gồm nước thải đô thị và nước thải

công nghiệp, các cửa cống xả nước mưa và tất cả các nguồn tiếp nhận nước

có tổ chức qua hệ thống cống và kênh thải

(ii) Nước thải có nguồn không xác định bao gồm nước chảy trôi trên bề

mặt đất, nước mưa và các nguồn phân tán khác.

Căn cứ phổ biến hơn để phân loại nước thải, đó là dựa theo nguồn gốc

phát thải của chúng. Theo đó, nước thải được phân thành những loại sau:

Nước thải công nghiệp là nước thải từ các cơ sở sản xuất, cơ sở chế

biến nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi trường… [10, Khoản 2, Điều

2]

Nước thải sinh hoạt là từ các hộ gia đình, tổ chức khác không phải là

các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi

trường. [10, Khoản 3, Điều 2]

Dựa vào những tiêu chí phân loại này mà Nhà nước đưa ra những quy

định điều chỉnh hoạt động, quản lý đối với từng loại nước thải tương ứng.

Theo đó, pháp luật của Việt Nam hiện nay chỉ quy định thu phí đối với hai

loại nước thải, đó là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt vì đây là

19

hai loại nước thải chủ yếu, chứa hàm lượng cao các chất gây ô nhiễm. Vì vậy,

cần phải thu phí BVMT đối với hai loại nước thải này để có nguồn kinh phí

xử lý nước thải, cải tạo và chống ô nhiễm môi trường.

Cụ thể, nước thải sinh hoạt là nước được thải ra từ các hoạt động sống

của con người. Trong nước thải sinh hoạt thường chứa nhiều độc tố, tạp chất

khác nhau cùng nhiều loại vi sinh vật gây bệnh. Thành phần và tính chất của

nước thải sinh hoạt phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước thải sinh hoạt. Ngoài

ra lượng nước thải ít hay nhiều còn phụ thuộc vào tập quán sinh hoạt. Hiện

nay, có hai cách để tính mức tạo ta nước thải sinh hoạt. Một là thông qua tính

thông số cơ bản trong đánh giá chất lượng nước. Hai là dựa vào lượng chất

thải tổng số, chất thải hữu cơ và vô cơ của một người trong một ngày. Ngoài

ra còn có cách tính khác thông qua khối lượng nước thải theo chỉ số dân

tương ứng.

Nước thải công nghiệp rất đa dạng, khác nhau về thành phần cũng như

lượng phát thải và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loại hình công nghiệp, công

nghệ sử dụng, tính hiện đại của công nghệ, tuổi thọ của thiết bị, trình độ quản

lý của cơ sở và ý thức của cán bộ công nhân viên. So với nước thải sinh hoạt

thì nước thải công nghiệp có thành phần và tính chất phức tạp hơn nhiều.

Tuy nhiên, dù nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, nếu

không được xử lý thì khi thải trực tiếp vào nguồn nước tự nhiên sẽ gây ra

những thay đổi về tính chất vật lý, thành phần hóa học và sinh học của nguồn

nước, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên.

1.2 Khái quát về pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

1.2.1 Khái niệm pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Bảo vệ môi trường là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặc

biệt quan tâm, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với công cuộc đấu

tranh xóa đói, giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến

20

bộ của xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với điều kiện của nước ta hiện nay,

khi Nhà nước chú trọng nguyên tắc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật,

tiến tới xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, yêu cầu thể chế hóa các chủ

trương, định hướng của Đảng trong công tác BVMT thành các quy định của

pháp luật để điều chỉnh quan hệ, hành vi của con người trong việc ứng xử với

môi trường. Đồng thời, pháp luật về phí BVMT cần được xây dựng để làm

sao đủ sức tác động vào nhận thức của các chủ thể ở cả ba phương diện: khai

thác, sử dụng tài nguyên môi trường; giữ gìn và BVMT thiên thiên; phòng

ngừa và khắc phục sự cố môi trường khi môi trường bị xâm hại hoặc bị tàn

phá. Để đạt những mục tiêu trên, ngoài việc phải coi trọng công tác xây dựng

pháp luật mà còn phải tạo dựng một cơ chế đảm bảo thi hành pháp luật đủ

mạnh. Đây là nhân tố quan trọng và cũng là tiêu chí đánh giá tính khả thi và

hiệu quả của hệ thống pháp luật về BVMT.

Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải sẽ bao gồm những quy định

chi tiết, cụ thể điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý

nhà nước đối với những chủ thể xả nước thải ra môi trường. Ngoài ra, pháp

luật cũng sẽ xác định loại nước thải nào phải chịu phí, chủ thể nào xả thải

phải nộp phí và cơ chế thu, nộp, quản lý và sử dụng ra sao.

Tóm lại, nói một cách khái quát, tác giả có thể đưa ra định nghĩa pháp

luật về phí BVMT đối với nước thải như sau:

Pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là tổng hợp các

quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu – nộp phí

bảo vệ môi trường đối với nước thải.

Như vậy, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải có mục đích là điều

chỉnh hành vi xả nước thải ra môi trường của các chủ thể, từ đó có nguồn

ngân sách để khắc phục, xử lý đối với lượng nước thải. Pháp luật này được

21

coi là một trong những bộ phận của pháp luật BVMT và là yếu tố cấu thành

không thể thiếu với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng

địa phương. Ngoài ra, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải cũng có mối

quan hệ hệ với các loại pháp luật phí khác, do đây là phí có tư cách là một

loại phí tạo lập, bổ sung nguồn thu của NSNN.

1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải

Mỗi quốc gia có điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, do

vậy, hoạt động BVMT và thu phí BVMT nói chung, cũng như thu phí BVMT

đối với nước thải nói riêng cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, dù ở quốc gia đã

phát triển, đang phát triển hay chưa phát triển đều hy vọng khoản phí BVMT

đối với nước thải sẽ đạt được những vai trò riêng của nó, tạo nguồn thu cho

NSNN, tác động đến hành vi của chủ thể xả thải và có nguồn tài chính khắc

phục hậu quả của lượng nước thải có thể sẽ gây tác động xấu đến môi trường.

Vì vậy, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải thông thường sẽ bao gồm

những nội dung cơ bản sau đây:

Một là, về đối tượng chịu phí, đối tượng không chịu phí BVMT đối với

nước thải

Đối với đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải, đó là những loại

nước thải có khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường. Nước thải bao gồm

nhiều loại khác nhau, tuy nhiên, Nhà nước sẽ xác định loại nước thải nào sẽ

phải chịu phí BVMT căn cứ vào nguồn gốc, mức độ ô nhiễm và hậu quả của

từng loại nước thải. Các quốc gia trên thế giới thông thường chỉ thu phí

BVMT đối với hai loại nước thải, đó là nước thải công nghiệp và nước thải

sinh hoạt.

Nước thải công nghiệp được xác định là nước thải ra môi trường từ các

nguồn sau: cơ sở sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản; cơ sở sản

22

xuất, chế biến thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thuốc lá; cơ sở chăn nuôi,

giết mổ: gia súc, gia cầm tập trung;cơ sở nuôi trồng thủy sản; cơ sở sản xuất

thủ công nghiệp trong các làng nghề; cơ sở: thuộc da, tái chế da; cơ sở: khai

thác, chế biến khoáng sản; cơ sở: dệt, nhuộm, may mặc; cơ sở sản xuất giấy,

bột giấy, nhựa, cao su; cơ sở sản xuất: phân bón, hóa chất, dược phẩm, thuốc

bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng, văn phòng phẩm, đồ gia dụng; cơ sở: cơ

khí, luyện kim, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng; cơ sở sản xuất:

linh kiện, thiết bị điện, điện tử; cơ sở: sơ chế phế liệu, phá dỡ tàu cũ, vệ sinh

súc rửa tàu; nhà máy cấp nước sạch ; hệ thống xử lý nước thải tập trung trong

khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất khác [10, Khoản 2 Điều 2].

Như vậy, các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định tương đối

chi tiết danh mục những cơ sở sản xuất, kinh doanh xả nước thải ra môi

trường phải nộp phí BVMT đối với nước thải. Quy định này đã khắc phục

được việc xác định đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp,

do trước đây số lượng các chủ thể, các cơ sở sản xuất kinh doanh quá nhiều

và đa dạng ngành nghề nên việc thống kê đầy đủ các lĩnh vực hoạt động của

các cơ quan chức năng cũng gặp không ít khó khăn. Đồng thời, quy định này

cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước thực hiện và quản lý việc

thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp mang lại hiệu quả tốt hơn, tranh

bỏ sót đối tượng chịu phí.

Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ hộ gia đình; cơ quan

nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân (trừ các cơ sở sản xuất,

cơ sở chế biến thuộc các đơn vị vũ trang nhân dân); trụ sở điều hành, chi

nhánh văn phòng của các tổ chức, cá nhận không gắn liền với địa điểm sản

xuất, chế biến; cơ sở: rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy;

bệnh viện, phòng khám chữa bệnh, nhà hàng, khách sạn, cơ sở đào tạo,

23

nghiên cứu, cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác [10, Khoản 3 Điều 2].

Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật cũng quy định khá cụ thể các nhóm

đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt nhằm tránh nhầm lẫn

với các đối tượng phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, khắc

phục được tình trạng nhầm lẫn trong quá trình thực hiện dễ dẫn đến việc thu

trùng phí. Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp đóng trụ sở trong các khu,

các cụm công nghiệp nhưng chỉ là các chi nhánh, trụ sở văn phòng mà không

có hoạt động sản xuất, nên được xếp vào nhóm đối tượng nộp phí BVMT đối

với nước thải sinh hoạt. Nếu trước đây, khi pháp luật không phân định rõ ràng

về nhóm chủ thể này với nước thải công nghiệp nên gây không ít khó khăn và

bất cập cho cả phía người nộp phí và cơ quan thu phí, thì hiện nay, vấn đề này

đã được khắc phục.

Bên cạnh việc quy định về đối tượng chịu phí, pháp luật cũng có quy

định về việc miễn thu phí BVMT đối với nước thải trong các trường hợp sau

đây [10, Điều 5]:

(i) Nước xả ra từ các nhà máy thủy điện, nước tuần hoàn trong các cơ

sở sản xuất, chế biến mà không thải ra môi trường dưới bất kỳ hình thức nào

(chất rắn, chất lỏng, chất khí)

(ii) Nước biển dùng vào sản xuất muối xả ra;

(iii) Nước thải sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình ở địa bàn

đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá để có giá nước phù hợp với đời

sống kinh tế - xã hội;

(iv) Nước thải sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình ở các xã

thuộc vùng nông thôn và những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch;

(v) Nước làm mát thiết bị, máy móc không trực tiếp tiếp xúc với các

chất gây ô nhiễm, có đường thoát riêng;

(vi) Nước mưa tự nhiên chảy tràn (trừ diện tích thuộc khu vực nhà máy

24

hóa chất);

(vii) Nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy, hải sản của ngư dân;

(viii) Nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý, vận hành hệ

thống thoát nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy

định xả thải ra môi trường.

Quy định về những trường hợp không thu phí BVMT đối với nước thải

nêu ở trên thể hiện chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước đối với

từng trường hợp cụ thể. Việc pháp luật quy định nước thải sinh hoạt từ các hộ

gia đình đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá, hộ gia đình ở các xã

thuộc vùng nông thôn, ở những vùng có điều kiện khó khăn…thì không phải

chịu phí BVMT đối với nước thải. Đây được xem là quy định cho thấy sự

quan tâm của Nhà nước đối với những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó

khăn, sát sao với chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ, tạo

điều kiện cho những đối tượng nêu trên.

Thêm nữa, Nghị định 154/2016/NĐ-CP còn bổ sung thêm hai đối

tượng được miễn phí (Phụ lục 2) đó là nước thải từ các phương tiện đánh bắt

thủy, hải sản của ngư dân và nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý,

vận hành hệ thống thoát nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn

kỹ thuật quy định xả thải ra môi trường. Tác giả cho rằng, đây được xem là

điểm mới và tiến bộ của Nghị định 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Việc

thêm đối tượng miễn phí là nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy, hải

sản của ngư dân nhằm khuyến khích, tạo nguồn động lực lớn cho ngư dân

bám biển, khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Còn trường hợp miễn

phí đối với nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý, vận hành thoát

nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định xả

thải ra môi trường để khuyến khích các đơn vị này xử lý nước thải đạt tiêu

25

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xả thải, tăng cường hiệu quả quản lý và BVMT.

Hai là, quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí BVMT đối

với nước thải. Có hai nhóm chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này đó là

người nộp phí và người thu phí. Phí BVMT đối với nước thải là một khoản

phí thuộc nguồn thu của NSNN, do vậy, chủ thể thu loại phí này phải là cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền được pháp luật quy định hoặc ủy quyền. Tùy

vào quan điểm của mỗi nước về vị trí của phí BVMT mà cơ quan thu phí có

thể là những cơ quan, tổ chức khác nhau nhưng có sự phân định rõ ràng về

thẩm quyền thực hiện, có thể chia ra thành cơ quan có thẩm quyền quy định

về phí, cơ quan có thẩm quyền quy định mức phí và cơ quan có thẩm quyền

thu phí. Giới hạn về quyền lực thực thi, các cơ quan, tổ chức thu phí sẽ phải

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình theo đúng các quy định

của pháp luật.

Người nộp phí là chủ thể thứ hai tham gia vào quan hệ pháp luật phí

BVMT đối với nước thải với mục đích tác động đến hành vi xả thải ra môi

trường, người nộp phí được quy định tương đối rộng với nhiều chủ thể khác

nhau bao gồm cá nhân, tổ chức xả nước thải sinh hoạt hay nước thải công

nghiệp.

Ba là, quy định về mức thu phí, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí

BVMT đối với nước thải

Mức thu phí BVMT đối với nước thải sẽ được xác định tương ứng với

từng loại nước thải, mức độ độc hai và định hướng điều tiết của Nhà nước.

Thực tế, các nước trên thế giới đều có cách xác định mức thu phí BVMT đối

với nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện và

hoàn cảnh của nước đó nên mức thu phí cũng sẽ khác nhau. Đồng thời, quy

định về về chế độ thu, nộp phí cũng điều chỉnh tới việc phí BVMT đối với

nước thải sẽ được người nộp phí chuyển giao đến người thu theo cách thức và

26

quy trình ra sao. Thêm nữa, do phí BVMT đối với nước thải là khoản thu

thuộc về quỹ NSNN, nên chế độ quản lý và sử dụng phí này cũng phải tuân

theo những quy định cụ thể, chặt chẽ của pháp luật, để đảm bảo thu đúng, thu

đủ và sử dụng có hiệu quả nguồn phí thu được.

Bốn là, quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu nộp phí

và xử lý vi phạm pháp luật về phí BVMT đối với nước thải

Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thu nộp phí BVMT đối với

nước thải là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà

nước về bảo vệ môi trường. Từ những hoạt động này, các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền có thể phát hiện ra những vi phạm từ các chủ thể tham gia

quan hệ pháp luật phí BVMT đối với nước thải, từ đó có những chế tài thích

đáng tương ứng với hành vi mà các chủ thể đó gây tác hại đến môi trường.

Đây là nhóm quy định có tính răn đe cao đối với những hành vi vi phạm pháp

luật về phí BVMT đối với nước thải.

1.3 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số quốc

gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh

Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán, truyền

thống văn hóa, lịch sử và tình hình môi trường mà mỗi quốc gia có hệ thống

pháp luật về môi trường có tính đặc thù riêng. Phí BVMT nói chung và phí

BVMT đối với nước thải nói riêng là một trong những công cụ kinh tế được

nhiều nước áp dụng nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Ở nhiều quốc gia trên

thế giới, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý… và các nước

đang phát triển như: Philippines, Thái Lan, Malaysia…đều đã thành công

trong việc thu phí BVMT đối với nước thải.

1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước thuộc nhóm OECD

Nếu như vài ba thập kỷ trước, các công cụ kinh tế, đặc biệt là các biện

pháp thị trường còn chưa hề được các nước OECD chú ý thì hiện nay, nhờ có

27

các ưu thế và hiệu quả linh hoạt, mềm dẻo, các công cụ kinh tế đã được các

nước sử dụng ngày càng nhiều trong việc hoạch định và thực thi các chính

sách kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường. Các quốc gia này

đều chủ trương thu phí BVMT đánh vào nguồn gây ô nhiễm và nguồn sử

dụng. Theo báo cáo của OECD, phần lớn các nức đều có mức phí khác biệt

tùy vào khối lượng và nồng độ của các chất ô nhiễm có trong nước thải. Hệ

thống phí ô nhiễm của Hàn Quốc, Bỉ, Cộng hòa liên bang Đức đều đạt mục

tiêu tạo khuyến khích và thay đổi hành vi của người gây ô nhiễm, trong khi đó

tại các nước khác, mục tiêu chính là tạo ra nguồn thu… (Phụ lục 1)

Thực tiễn sử dụng các công cụ kinh tế vào mục đích BVMT nói chung

và đối với nước thải nói riêng ở các nước thuộc OECD đã chứng tỏ nhiều mặt

tích cực:

Một là, khi áp dụng các công cụ kinh tế vào mục đích BVMT vừa có

tác dụng lâu dài, vừa trực tiếp làm thay đổi hành vi của các chủ thể, doanh

nghiệp, lại vừa có tác dụng sâu xa đến việc nghiên cứu, triển khai, trao đổi

công nghệ và kỹ thuật sản xuất có lợi cho môi trường.

Hai là, giúp nguồn thu nhập của quỹ BVMT được gia tăng, tạo cơ sở

vật chất vững chắc cho việc phục vụ, tái tạo trở lại cho môi trường, đồng thời,

nó còn góp phần đáng kể vào nguồn thu của NSNN.

Ba là, đây được xem là một công cụ điều chỉnh hành vi môi trường một

cách tự động, thích ứng với cơ chế của thị trường và đạt hiệu quả chi phí với

một mức phát thải nhất định.

Bốn là, với mục đích hướng tới một sự phát triển bền vững trong tương

lai, các công cụ kinh tế duy trì và chuyển giao hợp lý nguồn lực thông qua

việc đánh giá các nguồn tài nguyên môi trường, đồng thời, góp phần sử dụng

có hiệu quả nguồn lực hiện tại.

28

1.3.2 Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển

Hiện nay, hệ thống quản lý môi trường ở các nước đang phát triển chủ

yếu vẫn dựa vào các công cụ CAC (quy định pháp lý về “điều chỉnh và kiểm

soát”). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự trợ giúp của các nước

thuộc OECD về mặt kinh nghiệm và kỹ thuật, một số Chính phủ đã bắt đầu

quan tâm hơn đến các công cụ kinh tế. Công cụ kinh tế thường được áp dụng

nhất là đối với phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm và phí đánh vào sản phẩm.

Nhưng khác với các nước OECD áp dụng các công cụ kinh tế này một cách

riêng lẻ thì ở một số nước đang phát triển luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa

yếu tố pháp luật với các công cụ kinh tế.

Theo đó, ở các quốc gia này, hệ thống các tiêu chuẩn của công cụ pháp

luật vẫn đóng vai trò là cơ sở để đánh gia mức hiệu quả của các chính sách, và

các mặt tích cực của biện pháp điều hành bằng pháp luật được bổ sung bằng

tính mềm dẻo và linh hoạt của các biện pháp kinh tế. Bởi vậy, nó góp phẩn

tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi có hiệu quả các hoạt động bảo vệ chất

lượng môi trường ở các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới,

chủ yếu là dưới các hình thức phí, lệ phí và cao hơn nữa là thuế phát thải. Tại

mỗi quốc gia đều có sẵn hệ thống thuế hiện hành, nên việc thu thuế, phí, lệ

phí dễ dàng tiến hành hơn. Tuy nhiên, khi áp dụng phí đánh vào nguồn gây ô

nhiễm và phí đánh vào sản phẩm tại các nước đang phát triển còn tại tại một

số vấn đề.

Ở Philippines, phí nước thải được áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc

các ngành công nghiệp trọng điểm có mức thải trung bình hàng năm từ 4 tấn

BOD trở lên. Từ năm 1998, hệ thống phí được mở rộng, bao gồm tất cả các

doanh nghiệp thuộc địa phận hành chính của vùng hồ Laguna và có nước thải

vào hồ. Các doanh nghiệp này gồm các doanh nghiệp sản xuất, thương mại,

các doanh nghiệp công nông nghiệp, các cụm dân cư và các hộ gia đình. Phí

29

nước thải công nghiệp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết

số 26 của Ban quản lý hồ Laguna ở Philippines bao gồm hai phần là phí cố

định và phí biến đổi.

Phí cố định hàng năm: Mục đích thu phí cố định hàng năm là nhằm

trang trải các chi phí quản lý của Ban quản lý hồ Laguna. Phí cố định được

xác định dựa vào lượng nước thải bình quân/ngày của cơ sở sản xuất. Nếu

lượng nước thải của cơ sở sản xuất dưới 30m3/ngày thì mức phí cố định là

5.000 Peso/năm; nếu lượng nước thải 30 – 150m3/ngày thì mức phí là 10.000

Peso/năm; nếu lượng nước thải của cơ sở trên 150m3/ngày thì mức phí cố

định là 15.000 Peso/năm [36, 40].

Phí biến đổi: là phí tính trong một quý của cơ sở sản xuất tính theo tổng

lượng ô nhiễm gây ra trong quý và tính trên một đơn vị ô nhiễm gây ra.

Ở Trung Quốc, phí nước thải được quy định trong Luật bảo vệ môi

trường năm 1979. Từ năm 2003, việc tính phí nước thải ở quốc gia này được

dựa trên tải lượng chứ không chỉ dựa trên nồng độ. Phí được tính với tất cả

các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị trên và dưới tiêu chuẩn cho phép); phí được

tính với hơn 100 thông số ô nhiễm trong nước thải. Các tiêu chuẩn do Bộ Môi

trường quy định thay đổi tùy thuộc vào từng ngành công nghiệp và mức phí

thay đổi tùy theo loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, các địa phương có thể đưa

ra các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia và có thể đưa ra mức phí

cao hơn mức phí do Bộ Môi trường quy định. Đồng thời, Trung Quốc quy

định mức phí được xác định thay đổi theo số lượng, nồng độ và loại chất gây

ô nhiễm được thải ra; phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công

nghiệp đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân

với lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn [21].

Còn ở Thái Lan, sự tăng trưởng kinh tế nhanh ở quốc gia này kéo theo

nhiều vấn đề ngày càng trở nên nặng nề và cấp bách trong đó có ô nhiễm môi

30

trường. Nguồn nước và không khí ở các đô thị lớn, các khu công nghiệp bị ô

nhiễm trầm trọng dẫn tới việc Chính phủ nước này phải áp dụng chế độ phí

đối với nước thải. Ở Băng Cốc, họ áp dụng hai loại phí: phí đánh vào các xí

nghiệp lớn và phí đánh vào các hộ gia đình và các xí nghiệp công nghiệp nhỏ.

Đối với xí nghiệp lớn, mức phí được tính theo công thức có hai yếu tố

là khối lượng nước tiêu thụ và mức độ tích tụ các chất thải BOD (chất oxy

sinh hóa) trong nước thải. Phần phí dánh vào BOD được xác định như phần

phí vi phạm và chỉ tính cho mức chất thải đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép.

Còn đối với hộ gia đình và các xí nghiệp nhỏ, phí được dựa vào hóa

đơn thu tiền nước tiêu thụ hàng tháng (theo đồng hồ đo). Với việc chỉ thu phí

ô nhiễm từ các cơ sở gây ô nhiễm lớn, đưa phí vào hóa đơn thu tiền nước của

các hộ gia đình và các xí nghiệp nhỏ đã làm đơn giản hóa việc thu phí và việc

theo dõi chấp hành các tiêu chuẩn đã được quy định cũng vì thế mà dễ dàng

hơn.

Thêm vào đó, nguồn thu phí ở Thái Lan chủ yếu được đưa vào quỹ môi

trường để dùng vào việc trợ cấp, giúp các xí nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào

công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Phần thu còn lại được dùng cho vận hành và

bảo quản nhà máy xử lý nước thải trung tâm, các nhà máy xả chất thải, cho

chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước có trách nhiệm thu phí dịch

vụ và tiền phạt.

Từ kinh nghiệm của các nước quốc tế cho thấy việc áp dụng phí BVMT

đối với nước thải có một số đặc điểm sau:

Phí BVMT đối với nước thải là một trong số các công cụ kinh tế được

áp dụng tại các quốc gia trên thế giới, nó thường áp dụng và phối hợp cùng

với công cụ mệnh lệnh, kiểm soát.

Việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải không gây ảnh hưởng đến

31

tăng trưởng kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Phí BVMT đối với nước thải góp phần đáng kể làm giảm ô nhiễm nước

và tạo nguồn thu cho công tác BVMT. Tuy nhiên, mức độ thành công có khác

nhau tùy thuộc vào cơ chế thu khác nha và có tỷ lệ thành công cao hơn với

các nước có:

- Cơ chế thu đơn giản

- Áp dụng quy mô thí điểm trước khi áp dụng rộng rãi

- Áp dụng việc đánh phí với tất cả các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị vượt

tiêu chuẩn và không vượt tiêu chuẩn)

Đa số các nước sử dụng phí BVMT đối với nước thải để tái đầu tư vào

các hoạt động bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của việc thu phí, các cơ quan thu phí

cần thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát, xử phạt nghiêm minh những đơn vị

không đóng phí. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống quản lý môi trường trong

các doanh nghiệp để tăng tính công khai, minh bạch của các số liệu xả thải

cũng là việc làm cần thiết.

1.3.3 Một số gợi mở cho Thành phố Hồ Chí Minh

Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng phí BVMT đối

với nước thải của một số quốc gia trên thế giới nêu trên, có thể thấy rằng, loại

phí này là một trong những công cụ kinh tế đã được áp dụng tương đối rộng

rãi và phổ biến nhằm hạn chế, kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường. Song

song đó, việc áp dụng này đã tạo nên sự liên kết hữu hiệu giữa các chính sách

kinh tế với chính sách môi trường tùy vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của

mỗi nước mà công cụ phí này sẽ được thực hiện với những mục tiêu khác

nhau. Nhìn chung, phí BVMT đối với nước thải có hai mục tiêu chính: một là

tạo nguồn thu cho NSNN để chi cho hoạt động BVMT và hai là khuyến khích

32

người gây ô nhiễm giảm lượng chất thải ô nhiễm ra môi trường.

Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thu phí của các nước cũng cho thấy, không

phải việc thu phí nào cũng đạt được cả hai mục tiêu nêu trên với vị trí ngang

nhau. Ở các nước OECD, mục tiêu khuyến khích giảm ô nhiễm được coi là

quan trọng hơn khi mục tiêu tăng nguồn thu để chi cho hoạt động cải thiện

môi trường vẫn đang giữ ưu thế ở phần lớn các nước, đặc biệt là ở một số

nước đang phát triển. Bên cạnh đó, có nhiều nước dù đặt ra mục tiêu của việc

thu phí là khuyến khích giảm ô nhiễm song lại không đạt được mục tiêu đó vì

mức phí quy định quá thấp, không khuyến khích được các xí nghiệp thay đổi

hành vi gây ô nhiễm. Nhưng dù thế nào, việc đặt ra mục tiêu cho công tác thu

phí rất quan trọng, bởi nó quyết định đến mục tiêu dự kiến sẽ đạt được trong

chương trình thu phí và góp phần quyết định đến cách thu phí.

Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật về phí BVMT đối

nước thải, TP.HCM có thể tiếp thu những kinh nghiệm quý báu sau:

Một là, mức phí phải dựa trên những cơ sở mang tính phương pháp

nhất định, đặc biệt phải được điều chỉnh theo các yêu cầu cụ thể của vùng ô

nhiễm, đặc tính của loại hình sản xuất. Mức phí phải ở mức có thể chấp nhận

được, không quá thấp vì sẽ không tạo nên sự thay đổi về hành vi của những

chủ thể gây ô nhiễm theo hướng có lợi cho môi trường, và ngược lại, không

quá cao vì có thể làm cho tính cạnh tranh của sản phẩm giảm đi và lợi nhuận

của nghiệp bị suy giảm, vấp phải sự chống đối của những chủ thể gây ô

nhiễm.

Hai là, phí BVMT đối với nước thải chỉ thực sự có tác dụng khi có sự

ổn định kinh tế vĩ mô và khi có môi trường cạnh tranh thật sự. Môi trường

kinh doanh sẽ là cơ chế tự động buộc những đối tượng gây ô nhiễm phải giảm

chi phí, tối ưu hóa chi phí và hợp lý hóa kinh doanh, còn doanh nghiệp giữ

33

độc quyền thường sẽ tìm cách tăng giá hàng hóa để đối phó. Nếu hiện tượng

này xảy ra, người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu phí BVMT đối với nước thải

chứ không phải là doanh nghiệp.

Ba là, phí BVMT đối với nước thải chỉ phát huy tác dụng nếu có được

bộ máy hành chính tốt và hiệu quả, đi theo đó là một hệ thống giám sát môi

trường hữu hiệu để thực hiện. Những hiện tượng như trốn phí, tham nhũng sẽ

khiến tác dụng của phí bị vô hiệu. Việc xác định phí đòi hỏi phải có hệ thống

giám sát ô nhiễm môi trường tốt, cơ bản để giám sát được lượng chất thải,

mức độ ô nhiễm, có như vậy mới có cơ sở thực tế để xác định được một cách

đúng đắn phí BVMT đối với nước thải [35].

Tiểu kết chương 1

Phí BVMT đối với nước thải được xây dựng và tạo lập trên nền tảng cơ

sở lý luận, pháp lý chặt chẽ. Dựa trên những cơ sở này, phí BVMT đối với

nước thải được hiểu là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức phải trả cho việc xả

nước thải vào môi trường với mục đích giảm thiểu số lượng nước thải chưa

qua xử lý xả trực tiếp vào môi trường để bù đắp chi phí cho việc khôi phục,

bảo vệ môi trường. Có nhiều tiêu chí để phân loại phí BVMT đối với nước

thải nhưng nhìn chung pháp luật của các quốc gia chỉ thu phí BVMT đối với

nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt.

Phí BVMT đối với nước thải có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng

trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt ý nghĩa, loại phí này thể

hiện sự quan tâm của Nhà nước đến lĩnh vực môi trường; sự gắn kết chặt chẽ

giữa môi trường và phát triển kinh tế, góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức

của người dân về BVMT. Về vai trò, phí BVMT đối với nước thải là một

trong những công cụ kinh tế hữu hiệu trong công tác quản lý và BVMT; giúp

34

điều chỉnh hành vi của người xả thải; bổ sung nguồn thu cho NSNN và giúp

quá trình quản lý nhà nước về BVMT trong nền kinh tế thị trường được thuận

lợi và phát triển.

Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là tổng hợp các quy phạm

pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các

quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp phí BVMT đối với nước

thải. Những nội sung cơ bản của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải

gồm có: Quy định về đối tượng chịu phí, đối tượng không chịu phí BVMT đối

với nước thải; Quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí BVMT đối

với nước thải; Quy định về thu, nộp, quản lý và sử dụng phí BVMT đối với

nước thải; Quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu nộp phí và

xử lý vi phạm pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với

nước thải đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới như các nước thuộc

nhóm OECD, Trung Quốc, Philippines, Thái Lan…và từ những kinh nghiệm

của những nước này, chúng ta rút ra được bài học áp dụng cho Việt Nam cũng

35

như cho TP.HCM.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1 Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và quản lý nước thải tại Thành

phố Hồ Chí Minh

Năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh là xếp thứ nhất về Tổng sản phẩm

trên địa bàn (GRDP), xếp thứ nhất về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ

24 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP đạt 1.331.440 tỷ đồng (tương ứng với

52,92 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 154,84 triệu đồng (tương ứng

với 6.725 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,30% [42].

Song song với sự phát triển nhanh về kinh tế thì tốc độ gia tăng dân số,

cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, nhận thức của người dân

còn kém về vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và đối với nước thải nói

riêng. TP.HCM hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất

lớn, đặc biệt là hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống

sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế

chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động. Đơn cử

như ở cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi các chất

thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính khoảng 500.000 m3/ngày.

2.1.1 Lượng nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh chịu phí bảo vệ môi

trường

Qua báo cáo của Sở Tài nguyên và môi trường, hiện nay, trên địa bàn

TP.HCM có gần 2.790 cơ sở sản xuất (thuộc 16 nhóm) đang nộp phí BVMT

đối với nước thải (tổng lưu lượng khoảng 143.430m3/ngày đêm), thu về cho

36

NSNN mỗi năm khoảng 8 tỷ đồng.

Tuy nhiên, các cơ sở y tế có phát sinh nước thải y tế (523 cơ sở, thải

hơn 22.260m3/ngày đêm) lại không thuộc đối tượng chịu phí BVMT đối với

nước thải. Các cơ sở này có lưu lượng phát sinh nước thải lớn, có khả năng

gây ô nhiễm môi trường nghiêm trong nhưng không thuộc đối tượng nộp phí

là không công bằng. Vì vậy, UBND TP.HCM đã đề xuất tăng phí BVMT đối

với nước thải công nghiệp theo hướng tăng phí nhằm đảm bảo sự công bằng

giữa các đối tượng nộp phí, tác động đến hành vi giảm xả nước thải ô nhiễm

ra môi trường.

Dựa trên mức thu phí hiện hữu, TP.HCM sẽ áp dụng hệ số K để tính

phí điều chỉnh. Theo đó, mức phí BVMT sẽ tăng thêm tương ứng là 833

đồng/m3. Mức phí tăng thêm này được đề xuất tính theo cách:

Đối với cơ sở có lưu lượng xả dưới 5m3/ngày đêm vẫn áp dụng tính

mức cố định như hiện nay là 1,5 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, đối với cơ sở có

tổng lưu lượng nước thải từ 5m3/ngày đêm trở lên thì ngoài mức phí cố định

1,5 triệu đồng/năm còn được tính thêm dựa theo lưu lượng xả thải cũng như

tính chất ô nhiễm của nước và tính theo hệ số K.

Song song đó, để tăng tổng nguồn thu, ngoài các nhóm thu phí hiện

hữu (hiện có 16 nhóm), TP.HCM sẽ mở rộng thu phí. Theo tính toán, sau khi

bổ sung, tổng số các cơ sở phải đóng phí là 3.310 cơ sở. Tổng lượng nước thải

của các cơ sở thải ra khoảng 173.000m3/ngày đêm. Việc tăng mức thu phí này

sẽ ảnh hưởng một phần đến đời sống xã hội của người dân nhất là khi phí tăng

có thể dẫn đến làm tăng mức phí các dịch vụ liên quan đến y tế, xử lý rác thải.

Tuy nhiên, nó sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức về BVMT, khuyến khích họ

tiết kiệm nước, đầu tư hệ thống xử lý nước thải (giảm thiểu xả nước thải ô

nhiễm ra môi trường) và tạo sự công bằng giữa các đối tượng nộp phí. Đồng

thời, nguồn phí thu từ hoạt động này tăng thêm cho NSNN, góp phần cải thiện

37

môi trường, từ đó nâng cao chất sống của người dân.

2.1.2 Hiện trạng xử lý nước thải

Qua kết quả triển khai đề án tổng thể BVMT lưu vực sông Đồng Nai

trên địa bàn TP.HCM đến năm 2020, UBND TP.HCM đã xây dựng 3 nhà

máy xử lý nước thải tập trung, gồm: Nhà máy Bình Hưng giai đoạn 1, công

suất 141.000m3/ngày đêm; Nhà máy Bình Hưng Hòa công suất

30.000m3/ngày đêm; Nhà máy Tham Lương – Bến Cát giai đoạn 1 (chưa đi

vào hoạt động, đang trong giai đoạn vận hành thử), công suất 131.000m3/ngày

đêm.

Do đó, nếu tính luôn lượng nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý

cục bộ tại các khu dân cư mới, khu thương mại, dịch vụ và khu chung cư

(khoảng 200.000m3/ngày đêm) thì tổng lượng nước thải đô thị trên địa bàn

TP.HCM được thu gom, xử lý trước khi thải ra môi trường là khoảng hơn

370.000m3/ngày đêm, đạt tỉ lệ 21,2%.

Dự kiến đến năm 2020, thành phố sẽ có Nhà máy xử lý nước thải Tham

Lương – Bến Cát chính thức đi vào hoạt động, triển khai Nhà máy Bình Hưng

giai đoạn 2 nâng công suất lên 469.000m3/ngày đêm và Nhà máy xử lý nước

thải Nhiêu Lộc – Thị Nghè công suất 480.000m3/ngày đêm.

Về nước thải công nghiệp, tính đến tháng 8-2019, TP.HCM có 4.335 cơ

sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 4.200/4.335 cơ sở thực hiện thu gom, xử

lý nước thải công nghiệp đạt chuẩn QCVN40:2011/BTNMT, chiếm 96%. Các

cơ sở chưa có hệ thống xử lý nước thải đa phần có quy mô tương đối nhỏ,

hoạt động lâu đời, xen cài trong khu dân cư.

Đối với nước thải y tế, trong tổng số 121 bệnh viện trên địa bàn thành

phố, đến nay hầu hết đã có hệ thống xử lý nước thải với tỷ lệ nước thải được

thu gom, xử lý đạt quy chuẩn QCVN 28: 2010/VTNMT, chiếm tỷ lệ gần 99%

[43].

38

2.2 Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

2.2.1 Quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về phí bảo vệ môi

trường đối với nước thải

Tham gia vào quan hệ pháp luật về phí BVMT đối với nước thải có hai

nhóm chủ thể, một là các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền trong việc

ban hành, quản lý, thu phí và hai là người nộp phí.

Các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành, quản lý và thu phí

BVMT đối với nước thải. Sự phân cấp trách nhiệm, quyền hạn khiến cho có

nhiều cơ quan, bộ phận có vai trò tham gia vào quá trình ban hành, quản lý và

thu phí BVMT đối với nước thải, cụ thể như:

Thứ nhất, đối với các cơ quan có thẩm quyền chung trong việc ban

hành, quản lý, thu phí BVMT đối với nước thải. Theo quy định của pháp luật

hiện hành, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Danh mục phí và lệ phí kèm

theo Pháp lệnh Phí và lệ phí, còn Chính phủ quy định chi tiết Danh mục phí

và lệ phí. Đến Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/06/2002 quy định chi

tiết thi hành Pháp lệnh Phí và lệ phí, thẩm quyền quy định đối với một số loại

phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều chính sách kinh tế - xã hội

của Nhà nước thuộc Chính phủ, trong đó có việc quy định về phí BVMT đối

với nước thải. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này, Chính phủ ban hành Nghị

định số 67/2003/NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải. Nghị định

này được thay thế bởi Nghị định số 25/2013/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị

định 154/2016/NĐ-CP quy định chi tiết hơn về phí BVMT đối với nước thải.

Theo đó, đối với việc quy định về thẩm quyền và mức thu phí, Chính

phủ chỉ quy định mức khung thu phí, còn tỷ lệ thu cụ thể do các cơ quan khác

quy định. Chẳng hạn, mức thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt được

tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán của 1m3 nước sạch, do HĐND tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức cụ thể phù hợp với tình

39

hình thực tế tại địa phương với mức phí là 10% trên giá bán nước sạch chưa

bao gồm thuế giá trị gia tăng. Hay đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ

chức, hộ gia đình tự khai thác để sử dụng (trừ những hộ gia đình chưa có hệ

thống cấp nước sạch và đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá để có

giá nước phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội ở địa bàn) thì mức phí được

xác định theo từng người sử dụng nước căn cứ vào số lượng nước sử dụng

bình quân của một người trong xã, phường, thị trấn nơi khai thác và giá bán

1m3 nước sạch trung bình tại xã, phường, thị trấn [10].

Còn đối với nước thải công nghiệp, trách nhiệm quy định cụ thể mức

thu phí cố định và mức thu đối với từng chất gây ô nhiễm trong nước thải

công nghiệp quy định cụ thể theo điểm c Khoản 2 Điều 6 của Nghị định

154/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Thứ hai, nhóm cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thu phí BVMT đối với

nước thải.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan, tổ chức trực tiếp thu

phí BVMT đối với nước thải có sự khác biệt với nhau tương ứng với từng đối

tượng chịu phí khác nhau, cụ thể như:

Đối với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt, chủ thể tiến hành thu là

đơn vị cung cấp nước sạch. Bởi loại phí này được xác định mức thu trên cơ sở

lượng nước sạch mà người nộp phí sử dụng và giá bán nước sạch do đơn vị

cung cấp nước bán cho khách hàng, nên đơn vị này trong quá trình thu tiền

nước đã bán cho người sử dụng sẽ tiến hành thu luôn phí BVMT đối với nước

thải sinh hoạt. Quy định này vừa tập trung được đầu mối thu, đồng thời thuận

lợi hơn trong việc tính toán số phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt phải

nộp cho từng chủ thể có trách nhiệm nộp phí.

Trong trường hợp nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình

tự khai thác nước để sử dụng, HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

40

sẽ quy định thẩm quyền cụ thể cho cơ quan có trách nhiệm thu phí BVMT

trong trường hợp này. Trong thực tế, các địa phương thường trao thẩm quyền

này cho UBND xã, phường, thị trấn trực tiếp thu.

Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, cơ quan có trách

nhiệm thu là Sở TN&MT. Theo đó, người nộp phí BVMT đối với nước thải

công nghiệp có nghĩa vụ kê khai, nộp phí BVMT cho Sở TN&MT; theo thông

báo nộp phí, người nộp phí tiến hành nộp đủ, đúng hạn số tiền phí phải nộp

vào Kho bạc Nhà nước của địa phương và quyết toán tiền phí phải nộp hàng

năm với Sở TN&MT. Đồng thời, căn cứ vào yêu cầu thu phí của mỗi địa

phương và khả năng quản lý của cơ quan TN&MT cấp huyện, mà Sở

TN&MT có thể báo cáo UBND cấp tỉnh để phân cấp cho Phòng TN&MT cấp

huyện thực hiện thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn.

2.2.2 Quy định về mức thu phí, chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng phí bảo vệ

môi trường đối với nước thải

2.2.2.1 Quy định về cách tính phí và mức thu phí

* Đối với nước thải công nghiệp

Mức phí BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính như sau [10;

Khoản 2 Điều 6]:

Phí BVMT đối với nước thải của cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến không

thuộc danh mục lĩnh vực, ngành sản xuất, chế biến có nước thải chứa kim loại

nặng quy định do Bộ TN&MT ban hành được tính theo công thức:

F = f + C

Trong đó:

F là số phí phải nộp

f là mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm

C là phí biến đổi, tính theo: tổng lượng nước thải ra; hàm lượng thông

số ô nhiễm và mức thu đối với mỗi chất theo biểu dưới đây:

41

Số TT Thông số ô nhiễm tính phí Mức phí (đồng/kg)

1 Nhu cầu ô xy hóa học (COD) 2.000

2 Chất rắn lơ lửng (TSS) 2.400

3 Thủy ngân (Hg) 20.000.000

4 Chì (Pb) 1.000.000

5 Arsenic (As) 2.000.000

6 Cadmium (Cd) 2.000.000

Cơ sở sản xuất, chế biến có tổng lượng nước thải dưới 20m3/ngày đêm

quy định tại điều này, không áp dụng mức phí biến đổi.

Số phí biến đổi (C) được tính cho từng chất gây ô nhiễm theo công thức sau:

Mức thu phí Số phí Tổng Hàm lượng BVMT đối với BVMT đối lượng chất gây ô nước thải công với nước thải nước thải x nhiễm có x 10-3 x nghiệp của chất = công thải ra trong nước gây ô nhiễm thải ra nghiệp phải (m3) thải (mg/l) môi trường nộp (đồng) (đồng/kg)

Xác định lượng nước thải ra:

Đối với các cơ sở có đồng hồ đo lượng nước thải, lượng nước thải ra

được xác định căn cứ vào số đo trên đồng hồ;

Đối với các cơ sở không có đồng hồ đo lượng nước thải thì lượng nước

thải được xác định dựa trên kết quả đo đạc thực tế của cơ quan quản lý nhà

nước về môi trường hoặc được tính bằng 80% lượng nước sử dụng hoặc

thông tin trong báo cáo đánh giá tác động môi trường theo định kỳ hàng quý.

Xác định hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong nước thải: dựa theo

kết quả phân tích chất lượng nước thải (kết quả đo đạc của cơ quan quản lý

nhà nước về môi trường hoặc kết quả kiểm tra, thanh tra gần nhất nhưng

42

không quá 12 tháng tính đến thời điểm khai, nộp phí)

* Đối với nước thải sinh hoạt

Mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1

m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Đối với nước thải sinh hoạt

thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước để sử dụng (trừ trường

hợp thuộc đối tượng miễn thu phí) thì mức phí được xác định theo từng người

sử dụng nước căn cứ vào số lượng nước sử dụng bình quân của một người

trong xã, phường, thị trấn nơi khai thác và giá bán 1 m3 nước sạch trung bình

tại xã, phường, thị trấn.

Số phí BVMT phải nộp đối với nước thải sinh hoạt được xác định như

sau:

Số lượng nước Giá bán nước Mức thu Số phí phải = x x sạch sử dụng (m3) sạch (đồng/m3) phí nộp (đồng)

Trong đó, số lượng nước sạch sử dụng được xác định theo đồng hồ đo

lượng nước sạch tiêu thụ của người nộp phí.

Trường hợp người nộp phí chưa lắp được đồng hồ đo lượng nước sạch

tiêu thụ thì áp dụng theo định mức khoán lượng nước sạch tiêu thụ đối với

từng loại đối tượng sử dụng nước sạch do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương quy định phù hợp với từng loại đối tượng sử dụng.

Trường hợp tự khai thác nước thì số lượng nước sạch sử dụng được xác

định căn cứ vào số người theo sổ hộ khẩu gia đình (đối với gia đình) hoặc

bảng chấm công, bảng lương, hợp đồng lao động (đối với tổ chức không sản

xuất, chế biến) và lượng nước sạch bình quân theo đầu người trong xã,

phường, thị trấn.

Đối với các cơ sở kinh doanh, dịch vụ tự khai thác nước để sử dụng thì

số lượng nước sạch sử dụng được xác định căn cứ vào quy mô hoạt động kinh

doanh, dịch vụ do cơ sở tự kê khai và thẩm định của Ủy ban nhân dân xã,

43

phường, thị trấn.

2.2.2.2 Quy định về quản lí và sử dụng phí

Phí BVMT đối với nước thải được xác định là một khoản thu thuộc

NSNN, được quản lý và sử dụng như sau:

Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp thì theo Nghị định

154/2016/NĐ-CP, nguồn thu từ phí BVMT đối với nước thải công nghiệp

được chia là hai phần:

Một là, để lại một phần số phí (25%) thu được cho cơ quan, đơn vị trực

tiếp thu phí trên tổng số tiền phí BVMT thu được để trang trải chi phí cho

việc thu phí, chi phí đánh giá, lấy mẫu phân tích nước thải phục vụ cho việc

thẩm định phí, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với nước thải công nghiệp;

Phần phí thu được còn lại (75%) sau khi đã trừ đi phần để lại nêu trên, đơn vị

thu phí có trách nhiệm nộp toàn bộ vào ngân sách địa phương để sử dụng cho

công tác BVMT, bổ sung vốn hoạt động cho Quỹ BVMT của địa phương đó,

sử dụng cho phương án công nghệ, kỹ thuật xử lý ô nhiễm môi trường nước.

Với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt, tỉ lệ phí để lại cho đơn vị

cung cấp nước sạch là 10%, tỉ lệ phí để lại cho việc trang trải trong hoạt động

thu phí theo pháp luật hiện hành được điều chỉnh với mức là 25% thay cho

mức cũ là 15%. Việc điều chỉnh tỉ lệ quản lý và sử dụng nước thải sinh hoạt

theo Nghị định số 154/2016/NĐ-CP là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội

hiện nay, giúp cơ quan thu phí có thêm kinh phí trang trải cho các hoạt động

thu phí, cải tạo môi trường, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ

quan này.

2.2.2.3 Quy định về kê khai, thẩm định tờ khai và nộp phí

 Đối với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt được thực hiện

theo các bước sau:

Thứ nhất, xác định số phí phải nộp: hàng tháng, đơn vị cung cấp nước

44

sạch xác định số phí BVMT phải nộp của chủ thể sử dụng nước do đơn vị

cung cấp. Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp xã xác định số phí đối với các tổ

chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh, dịch vụ tự khai thác nước để sử

dụng trên địa bàn.

Thứ hai, thu và nộp phí: Người nộp phí thực hiện nộp phí BVMT đối

với nước thải cho đơn vị cung cấp nước sạch đồng thời với việc thanh toán

tiền sử dụng nước sạch theo hóa đơn bán hàng hàng tháng. Ủy ban nhân dân

cấp xã thu phí đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh,

dịch vụ tự khai thác nước để sử dụng trên địa bàn.

Quy định thu phí BVMT đối với nước sinh hoạt với việc thanh toán

tiền sử dụng nước sạch theo hóa đơn bán hàng tạo điều kiện thuận lợi trong

việc thu phí và chống thất thoáng trong công tác thu phí BVMT.

 Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp:

Theo quy định, việc nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp

được thực hiện theo các bước chính sau: kê khai, thẩm định và ra thông báo

nộp phí, nộp phí.

Kê khai số phí phải nộp: Người nộp phí kê khai số phí phải nộp hàng

quý trong vòng 05 ngày đầu tháng đầu tiên của quý tiếp theo với tổ chức thu

phí.

Thẩm định tờ khai và ra thông báo số phí phải nộp: Sở TN&MT có

nhiệm vụ thẩm định tờ khai phí BVMT, ra thông báo số phí phải nộp và thời

hạn nộp tiền, chậm nhất không quá ngày cuối cùng tháng đầu tiên của quý

tiếp theo.

Nộp phí: Người nộp phí có nghĩa vụ nộp đủ và đúng hạn số tiền phí

phải nộp vào tài khoản “Tạm thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

công nghiệp” tại Kho bạc Nhà nước theo thông báo của Sở TN&MT, nhưng

chậm nhất không quá 10 ngày kể từ khi có thông báo về số phí phải nộp của

45

Sở TN&MT.

2.2.3 Quy định về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về phí bảo vệ

môi trường đối với nước thải

2.2.3.1 Quy định về kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về phí

bảo vệ môi trường đối với nước thải

Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động thu, nộp phí BVMT đối với

nước thải là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về

môi trường. Pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định cụ thể về

công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động thu, nộp phí BVMT

đối với nước thải mà nội dung này thực hiện theo quy định tương ứng về môi

trường nói chung và các quy định về thanh tra, kiểm tra phí, lệ phí.

Đối với việc thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác thu nộp phí BVMT,

đặc biệt là phí BVMT đối với nước thải công nghiệp nên vai trò của Thanh tra

TN&MT rất quan trọng. Bởi đây là cơ quan được giao nhiệm vụ, quyền hạn

để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động về môi trường.

Theo Điều 18 Nghị định số 35/2009/NĐ-CP ngày 07/04/2009 của

Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường,

thì cơ quan này sẽ đảm nhận việc thanh tra hành chính và thanh tra chuyên

ngành về môi trường. Theo đó, thanh tra hành chính là thanh tra việc chấp

hành chính sách, pháp luật và thực hiện nhiệm vụ được giao của cơ quan, tổ

chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp. Còn

thanh tra chuyên ngành về môi trường là thanh tra việc chấp hành các quy

định của pháp luật về tài nguyên và môi trường trong phạm vi quản lý nhà

nước của Thủ trưởng cùng cấp đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hoạt

động liên quan đến tài nguyên và môi trường, bao gồm: tài nguyên đất; nước;

khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn…Hoạt động thanh tra

được thực hiện dưới hình thức thanh tra theo chương trình, kế hoạch và thanh

46

tra đột xuất.

Còn kiểm tra hoạt động thu nộp phí BVMT đối với nước thải là việc

xem xét các tổ chức, doanh nghiệp có kê khai nộp đúng và đủ số phí phải nộp

không. Trong quá trình kiểm tra tình hình hoạt động và thực hiện công tác

BVMT, đoàn thanh tra về môi trường đồng thời kiểm tra việc kê khai và nộp

phí của doanh nghiệp, tổ chức.

Ngoài ra, cùng với Thanh tra TN&MT, Bộ TN&MT có trách nhiệm

giám sát, kiểm tra hoạt động thẩm định tờ khai của Sở TN&MT và hướng dẫn

giải quyết kịp thời các vướng mắc khi phát sinh. Sở TN&MT có trách nhiệm

thẩm định tờ khai phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, mở sổ sách kế

toán để theo dõi riêng tiền phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của đối

tượng nộp phí trên địa bàn, theo dõi và quản lý, sử dụng phần tiền phí theo

quy định. Trong quá trình tiến hành thẩm định tờ khai, Sở TN&MT sẽ kiểm

tra được tình hình kê khai, nộp phí của doanh nghiệp; Bộ TN&MT sẽ giám

sát lại, kiểm tra hoạt động thẩm định tờ khai của Sở TN&MT, qua đó, phát

hiện được các doanh nghiệp đã thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ nộp phí nước

thải hay chưa.

Còn đối với nước thải sinh hoạt thì đơn vị cung cấp nước sạch sẽ thu

phí cùng với việc thu tiền sử dụng nước sạch, vì thế, đơn vị này cũng sẽ kiểm

tra, theo dõi được việc nộp phí của các đối tượng, chủ thể phải nộp phí.

2.2.3.2 Xử lí vi phạm về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

Vi phạm pháp luật là hành vi vi phạm, làm trái, làm không đúng như

các quy định trong pháp luật nhà nước do các cá nhân hay tổ chức có năng lực

pháp lý theo quy định pháp luật thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội

được pháp luật bảo vệ và phải chịu chế tài thích hợp [44]. Theo đó, vi phạm

pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là hành vi cố ý hoặc vô ý của tổ

chức, cá nhân không tuân thủ các quy định về phí BVMT đối với nước thải.

47

Theo đó, hành vi vi phạm có thể là kê khai không đúng số phí phải nộp,

không nộp phí, nộp không đầy đủ, đúng hạn, kéo dài nợ phí và một số vi

phạm về quản lý và sử dụng số tiền phí thu được…Tùy thuộc vào tính chất và

mức độ của hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân sẽ bị áp dụng trách nhiệm

pháp lý tương ứng như trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm kỷ luật.

Trong lĩnh vực phí BVMT đối với nước thải thì không áp dụng trách nhiệm

bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm hành chính, pháp luật hiện hành không có một văn bản

riêng quy định về việc xử lý vi phạm hành chính về phí BVMT đối với nước

thải. Bởi loại phí này là một trong những loại phí thuộc vào NSNN nên quy

định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực phí và lệ phí sẽ được áp dụng khi xử lý

vi phạm về phí BVMT đối với nước thải, cụ thể là quy định tại Thông tư số

186/2013/TT-BTC ngày 05/12/2013 hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí. Đồng thời, phí BVMT đối với

nước thải là một trong những công cụ kinh tế BVMT, nên xử lý vi phạm hành

chính đối với loại phí này còn có Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng

11 năm 2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ

môi trường.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này hiện nay được áp dụng

tùy theo vi phạm thực tế: phạt tiền và buộc thực hiện biện pháp giảm thiểu chỉ

số các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi

trường, tạm đình chỉ hoạt động các doanh nghiệp cho đến khi thực hiện xong

các biện pháp BVMT cần thiết; truy thu phí phải nộp do kê khai không trung

thực… Ngoài ra, chủ thể vi phạm còn bị xử lý bằng một trong các biện pháp:

buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi môi

trường.

Về trách nhiệm kỷ luật, xử lý vi phạm trong lĩnh vực pháp luật về phí

48

BVMT được áp dụng với cán bộ, công chức, viên chức, công nhân viên của

các tổ chức khi họ vi phạm các quy tắc, nghĩa vụ trong hoạt động thực thi

công vụ hoặc có các hành vi như: bao che cho người vi phạm pháp luật, thiếu

tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm nghĩa vụ nộp phí BVMT…tùy theo tính

chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà mức xử lý vi phạm có thể là bị

khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc…

2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước

thải trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

2.3.1 Tình hình kê khai, nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải

2.3.1.1 Kê khai phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp

Theo Khoản 2 Điều 8 Nghị định 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11

năm 2016, doanh nghiệp có tổng lượng nước thải trên 20m3/ngày đêm có

nghĩa vụ kê khai tờ khai nộp phí BVMT gửi về Sở Tài nguyên và môi trường

(Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM) trước ngày mùng 5 vào tháng đầu tiên

của quý tiếp theo. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp kê khai và nộp từ khai phí

đúng hạn. Đa phần doanh nghiệp kê khai trễ hạn hoặc đối phó khi có Đoàn

kiểm tra của một số cơ quan quản lý kiểm tra thì doanh nghiệp mới kê khai tờ

khai phí BVMT đối với nước thải.

Còn nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của phí

BVMT và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện đóng phí BVMT đối với

nước thải công nghiệp, do đó, nhiều doanh nghiệp chưa tự giác kê khai, hoặc

kê khai không đúng với thực tế xả thải để đóng phí ở mức thấp nhất.

Ngoài ra, một số doanh nghiệp lớn có lượng nước thải nhiều chỉ kê khai

sau khi Sở TN&MT (Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM) gửi thư mời như:

Công ty bao bì nhựa Thành Phú, Công Ty TNHH Sản Xuất TM-DV Minh

Đạt, Cơ sở Tân Thành, Công Ty Cổ Phần Kỹ Nghệ Thực Phẩm Việt Sin…

Phí BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính dựa vào lưu lượng

49

và nồng độ các chất gây ô nhiễm có trong nước thải. Nồng độ các chất ô

nhiễm trong nước và lưu lượng thải của mỗi doanh nghiệp là khác nhau tùy

thuộc ngành nghề, quy mô hoạt động, công nghệ sản xuất và biện pháp giảm

thiểu ô nhiễm. Do vậy, việc điều tra, khảo sát thực tế, lấy mẫu tại doanh

nghiệp là cần thiết nhằm thu thập thông tin về hoạt động sản xuất, dây chuyền

công nghệ, nguyên nhiên liệu, sản phẩm và các biện pháp xử lí nước thải của

doanh nghiệp để có cơ sỡ tính phí lưu lượng thải thực tế; phân tích nồng độ

các chất ô nhiễm có trong mẫu nước thải được lấy từ doanh nghiệp để có cơ

sở xác định mức phí BVMT phù hợp mà doanh nghiệp phải nộp.

Ngoài ra, các thông tin điều tra, khảo sát là đơn lẻ của từng doanh

nghiệp cụ thể, chưa có đánh giá tổng quát giúp lãnh đạo Chi cục Bảo vệ môi

trường thuận lợi hơn trong việc đánh giá hiệu quả của chương trình điều tra,

khảo sát để từ đó có những chỉ đạo chuẩn xác nhằm nâng cao hiệu quả của

việc thu phí BVMT. Do vậy, kết quả điều tra, khảo sát cần được tổng hợp qua

đó làm căn cứ số liệu để so sánh, đánh giá tình hình thực tế việc khảo sát điều

tra, đánh giá lưu lượng và nồng độ có trong nước thải của doanh nghiệp đồng

thời còn là cơ sở dữ liệu để báo cáo các cấp có thẩm quyền. Vì vậy, trong năm

2019, Chi Cục Bảo vệ môi trường TP.HCM tiếp tục tổ chức đo đạc, khảo sát

và thẩm định tờ khai phí hàng năm của 400 doanh nghiệp trên địa bàn 19

quận/huyện: 1, 2, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 12, Bình Thạnh, Bình Tân, Gò Vấp…

Chi Cục Bảo vệ môi trường khảo sát, thẩm định lưu lượng, nồng độ

nước thải tại các doanh nghiệp dựa vào đặc điểm ngành nghề, lượng nước xả

thải, đối tượng sản xuất và là những doanh nghiệp mới kê khai lần đầu hay có

báo cáo thay đổi về quy mô, công nghệ, lưu lượng cũng như địa điểm hoạt

động sản xuất.

Phần lớn, các doanh nghiệp có lượng nước thải trên 20m3/ngày đêm kê

khai tờ khai phí BVMT có kèm theo hồ sơ đầy đủ bao gồm sổ theo dõi lượng

50

nước khai thác giếng, xả thải, kết quả phân tích nồng độ các chất gây ô nhiễm.

Tuy nhiên, do đặc thù của báo cáo định kỳ về công tác quản lý môi trường

của doanh nghiệp là 06 tháng/2 lần/năm nên hầu hết các doanh nghiệp sử

dụng kết quả phân tích này cho kê khai tờ khai phí cho 02 quý. Điều này chưa

thực sự đánh giá hết chất lượng nước thải đầu ra của doanh nghiệp trong thời

gian 06 tháng.

Đối với doanh nghiệp xả thải dưới 20m3/ngày đêm tuy trong Nghị định

154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016 không quy định kê khai tờ khai

phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trong năm nhưng để theo dõi, quản

lý và cập nhật liên tục về lượng nước thải doanh nghiệp cũng như để lưu hồ

sơ quản lý nên Chi cục bảo vệ môi trường TP.HCM đã phát hành Phiếu kê

khai lượng nước thải phục vụ thu phí bảo vệ môi trường để doanh nghiệp thực

hiện kê khai trước ngày 5 của quý 2 trong năm.

2.3.1.2 Số phí bảo vệ môi trường thu được từ 2018 – 2019

Theo Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ, phí BVMT đối

với nước thải công nghiệp thu phí dựa trên lưu lượng và nồng độ có trong

nước thải. Trong đó, nồng độ nước thải đóng vai trò quyết định đến số phí

phải nộp của của doanh nghiệp.

Bảng 3.1 Số tiền phí BVMT thu được từ 01/01/2018 – 31/08/2019

Năm Số tiền thu được Số doanh nghiệp thực hiện

01/2018 – 10/05/2018 2.369.254.061 đồng 3020

Tháng 01/2019 586.152.182 đồng Chưa thống kê

01/2019 – 31/08/2019 25.830.136.816 đồng Chưa thống kê

2.3.2 Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về phí bảo vệ môi trường đối

với nước thải

2.3.2.1 Những kết quả đạt được

Về công tác chuyên môn, dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo Chi cục

51

Bảo vệ môi trường cùng với sự cố gắng, nổ lực của các chuyên viên Phòng

Thu phí bảo vệ môi trường cùng với sự phối hợp chặt chẽ của Phòng Tài

nguyên – Môi trường quận, huyện, Ban quản lý KCN – KCX, sự tham gia có

ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp và cộng đồng, trong năm 2019 công

tác thu phí đã đạt được một số kết quả, cụ thể là:

Phòng Thu phí bảo vệ môi trường – Chi cục Bảo vệ môi trường phối

hợp với Phòng Tài nguyên – Môi trường của 24 quận, huyện tiến hành thống

kê, lập danh sách các doanh nghiệp thuộc đối tượng phí bảo vệ môi trường

đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố.

Tham mưu lãnh đạo Sở TN&MT quy trình phối với với Cục Thuế và

Tổng công ty cấp nước Sài Gòn thực hiện việc ngưng thu hoàn trả phí trên

hóa đơn tiền nước cho các sơ sở sản xuất thuộc đối tượng nộp phí BVMT đối

với nước thải công nghiệp.

Phát hành thông báo nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp cho

5.937 doanh nghiệp có lưu lượng xả thải dưới 5m3/ngày theo danh sách của

Phòng Tài nguyên và môi trường 24 quận/huyện cung cấp và 901 doanh

nghiệp bao gồm các doanh nghiệp có lưu lượng xả thải trên 5m3/ngày, các

khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn thành phố. Tổng số tiền thu phí

BVMT đối với nước thải công nghiệp từ tháng 01/2019 đến ngày 31/08/2019

là: 25.830.136.816 đồng.

Sở TN&MT phối hợp với Phòng Tài nguyên & Môi trường quận,

huyện thẩm định, khảo sát, lấy mẫu, điều tra thu thập thông tin của 400 cơ sở

sản xuất thuộc đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trên

địa bàn thành phố.

Tham mưu lãnh đạo Sở gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo công

tác bảo vệ môi trường năm 2018 theo Thông tư 19/2016/TT-BTNMT của Bộ

52

Tài nguyên và Môi trường.

Phối hợp với phòng Kế hoạch tổng hợp tổ chức đấu thầu thực hiện báo

cáo công tác bảo vệ môi trường năm 2019 theo Thông tư 19/2016/TT-

BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Tham mưu lãnh đạo Sở gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành

Văn bản số 6796/STNMT-CCBVMT ngày 12 tháng 8 năm 2019 đề nghị Ủy

ban nhân dân 24 quận – huyện thực hiện báo cáo công tác bảo vệ môi trường

cấp huyện theo quy định của Thông tư 19/2016/TT-BTNMT của Bộ Tài

nguyên và Môi trường và cập nhật số liệu năm 2019 để thực hiện báo cáo

công tác bảo vệ môi trường của Thành phố.

Về các công tác phối hợp khác, Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp

cùng Sở TN&MT ban hành một số văn bản:

Văn bản gửi Công ry TNHH Lập Phúc về báo cáo đánh giá tác động

môi trường dự án “Mở rộng, nâng công suất nhà máy sản xuất khuôn mẫu

kim loại từ 2.000 tấn/năm lên 3.000 tấn/năm và sản xuất các sản phẩm nhựa

từ 5.000 tấn/năm lên 7.000 tấn/năm” tại phường Phú Thuận, Quận 7 của Công

ty TNHH Lập Phúc;

Văn bản gửi Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước

Thành phố về ý kiến đối với hồ sơ xác nhận đăng ký kế hoạch bảo vệ môi

trường dự án Nạo vét rạch Bến Chùa (từ cửa xả đường số 1 đến nhánh Rạch

Chiếc) Quận 9.

Ngoài ra, Chi cục Bảo vệ môi trường tham mưu cùng Sở TN&MT cho

ý kiến trao đổi một số vấn đề về môi trường như: dự án nạo vét rạch Bến

Chùa; thủ tục môi trường đối với việc thay đổi, bổ sung danh mục các chủng

loại hàng hóa dự án Kho lạnh chứa dược phẩm và hóa chất, công suất 1.700

tấn; bổ sung hồ sơ pháp lý của báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự

án Cơ sở giặt là làm sạch các sản phẩm dệt và lông thú; ý kiến chấp thuận vị

53

trí bãi đỗ bùn của dự án Nạo vét khu nước bến cảng Tân Cảng Phú Hữu; điều

chỉnh phương án xây dựng hệ thống xử lý nước thải của dự án Khu tái định

cư Tham Lương,…

2.3.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện quy định về phí

BVMT đối với nước thải còn tồn tại những vấn đề sau:

Thứ nhất, hạn chế của việc thực thi phí BVMT đối với nước thải công

nghiệp

Một là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính đối với

các đối tượng chậm kê khai, chậm nộp, không kê khai hoặc không nộp phí

còn chưa thực sự quyết liệt, triệt để, chưa đủ sức răn đe dẫn đến tình trạng

không tuân thủ theo yêu cầu của cơ quan quản lý, gây thất thu cho ngân sách

nhà nước.

Sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan như các công ty kinh doanh

nước sạch, đơn vị thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an…. với Sở Tài nguyên

và Môi trường chưa chặt chẻ, thiếu sự liên kết dẫn đến tình trạng số liệu

không thống nhất trong phân loại đối tượng chịu phí, không kịp thời trong rà

soát, thống kê các đối tượng xả thải trên địa bàn.

Hai là, ý thức tự giác tuân thủ quy định của pháp luật về phí BVMT đối

với nước thải chưa cao.

Mặc dù các doanh nghiệp đều nhận thấy rằng vấn đề BVMT là cần

thiết nhưng phần lớn các doanh nghiệp lại tranh né việc đóng phí cho việc

BVMT. Khi triển khai thu phí BVMT trên địa bàn thành phố thì chỉ có những

doanh nghiệp có đầu tư cơ sở hạ tầng tốt cho các trang thiết bị xử lý chất thải

là đồng tình, còn lại đa số các doanh nghiệp luôn né tránh, không chịu kê khai

hoặc kê khai không đúng với thực tế để giảm đóng phí BVMT ở mức thấp

54

nhất.

Chính sách thu phí BVMT vẫn được coi là mới đối với một số doanh

nghiệp chưa nắm bắt, không biết kê khai (quy trình kê khai, nộp phí, thiếu

thông tin để kê khai…) nên vẫn chờ khi có đại diện của cơ quan chuyên trách

đến hướng dẫn mới thực hiện kê khai; thậm chí có một số doanh nghiệp đã kê

khai nhưng vẫn chưa muốn đóng phí, chần chừ không nộp, đến khi có cơ

quan chuyên trách nhắc nhở, làm việc thì mới chịu nộp.

Một số doanh nghiệp có sử dụng nước cấp của Tổng công ty cấp nước

Sài Gòn, trên hóa đơn tiền nước đã có thu phí BVMT rồi nên họ cho rằng

mình đã hoàn thành nghĩa vụ nộp phí, do đó các doanh nghiệp này lãng tránh

việc kê khai nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, phần lớn là các

doanh nghiệp không có phát sinh nước thải trong quá trình sản xuất.

Ba là, nguồn lực cho công tác kiểm soát nguồn thải còn hạn chế.

Hàng năm, Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM phải thẩm định sơ bộ

10.120 tờ khai cho 2.530 doanh nghiệp cho 4 quý. Vì thế, để xác định đúng và

đủ số phí phải nộp so với tờ khai thì Chi cục phải thực hiện và lấy mẫu nước

thải thẩm định đủ 10.120 tờ khai phí của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do hạn chế

về nhân lực và kinh phí được duyệt để thẩm định số tờ khai trên nên số doanh

nghiệp được thẩm định hàng năm chỉ dao động từ 400-600 doanh nghiệp.

Vì vậy, việc thẩm định phí chủ yếu còn dựa trên số liệu kê khai và kết

quả quan trắc định kỳ của doanh nghiệp, chính vì vậy không tránh được thực

tế là số phí thu được thấp hơn nhiều so với hoạt động công nghiệp có phát

sinh nước thải.

Trang thiết bị, công cụ hỗ trợ chưa đầy đủ như thiết bị xác định lưu

lượng nước thải tại chỗ khi thực hiện, kiểm tra đột xuất, phần mềm lưu giữ

thông tin nguồn thải…làm mất nhiều thời gian và dẫn đến nhầm lẫn trong quá

55

trình tính toán, xác định số phí phải nộp (hiện nay, công tác tổng hợp thông

tin, thẩm định tờ khai nộp phí vẫn còn được thực hiện theo phương pháp thủ

công).

Thứ hai, hạn chế của việc thực thi phí BVMT đối với nước thải sinh

hoạt

Thực tế cho thấy rằng việc thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt

cùng với nước cấp sinh hoạt tương đối dễ dàng và hiệu quả, không bỏ sót

nguồn thu, vì nếu người sử dụng không thực hiện nghĩa vụ tài chính thì sẽ bị

ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng nước sạch của họ. Tuy nhiên, do phí BVMT

đối với nước thải được thu cùng với tiền sử dụng nước sạch hàng tháng nên

mục tiêu tác động đến hành vi hạn chế sử dụng nước sạch để giảm bớt lượng

nước thải sinh hoạt không đạt được mục tiêu cũng như không tác động hoàn

toàn tuyệt đối đến nhận thức của người sử dụng. Bởi lẽ, người dân chỉ quan

tâm đến số tiền nước phải đóng hàng tháng, chứ ít khi họ quan tâm đến số tiền

mình phải đóng ấy gồm có những nội dung gì.

Ngoài ra, số tiền phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt phải nộp được

tính dựa trên số lượng nước sạch sử dụng của người nộp phí trên cùng một địa

bàn nên mỗi hộ dân sử dụng khác nhau thì mức phí phải nộp cũng sẽ khác

nhau. Tuy nhiên, việc người dân không nắm được các quy định của pháp luật

về loại phí này phải nói đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ phía

các cơ quan nhà nước vẫn chưa được tốt. Thậm chí, bản thân những nhân viên

đi thu tiền nước – là người trực tiếp thực hiện việc thu phí theo ủy quyền của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng hoàn toàn không hiểu về loại phí này

56

để có thể giải thích cho người dân khi có thắc mắc.

Tiểu kết chương 2

Từ việc nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp

luật về phí BVMT đối với nước thải ở TP.HCM hiện nay, luận văn rút ra một

số kết luận sau đây:

1. Về thực trạng pháp luật

Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải đã đạt được một số kết quả

như sau: Xác định và làm rõ đối tượng chịu phí; Đảm bảo công bằng giữa các

chủ thể nộp phí; Đơn giản cách tính phí và kê khai phí tạo sự thuận lợi cho

doanh nghiệp khi kê khai cũng như cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện

thẩm định, giảm tổn thất xã hội vô ích; Lược bỏ được số lần kê khai, nộp

phí…Bên cạnh đó, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải vẫn còn tồn tại

một số hạn chế như: chưa bao quát hết đối tượng không chịu phí, quy định về

chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí còn bỏ sót chủ thể, chưa thể hiện đầy

đủ, rõ ràng trách nhiệm quyền hạn của các chủ thể; quy định về mức thu, chế

độ thu, nộp quản lý và sử dụng phí còn nhiều bất cập, quy định về xử lý vi

phạm pháp luật về phí chưa đủ mạnh…

2. Về thực tiễn thực hiện pháp luật

Phí BVMT đối với nước thải đã góp phần tạo nguồn thu cho NSNN và

tác động hành vi của người nộp phí. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị có thẩm

quyền trong hoạt động quản lý thu phí cũng thực hiện rất hữu hiệu chức trách

của mình. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện thu phí

BVMT đối với nướct hải vẫn có một số điểm còn hạn chế trong việc thực thi

xuất phát từ phía các chủ thể có thẩm quyền, chủ thể nộp phí, trong công tác

xử phạt vi phạm pháp luật, trong công khai, minh bạch thông tin có liên quan

57

đến việc thu, quản lý và sử dụng phí.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI

3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với

nước thải

3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải

đảm bảo tính minh bạch, khả thi

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy

định trong các văn bản pháp luật là quan điểm mang tính định hướng và là

yêu cầu hết sức quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối

với nước thải. Để đáp ứng yêu cầu này, việc hoàn thiện pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải cần phải được thực hiện theo hướng làm tăng tính cụ

thể và tính khả thi của các quy định trong các văn bản luật hiện hành. Theo

đó:

Về tính cụ thể, cần khắc phục tình trạng tồn tại những quy định thiếu

tính cụ thể về người nộp phí, cách xác định phí, kê khai thẩm định phí…gây

lúng túng cho cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức, cá nhân có liên quan

khi thực hiện các quy định này.

Về tính khả thi, việc hoàn thiện quy định của pháp luật về phí BVMT

đối với nước thải đòi hỏi sự thay đổi kịp thời những quy định của pháp luật

hiện hành chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, khả năng và điều kiện của các

đối tượng áp dụng, làm giảm hiệu quả áp dụng của chúng trên thực tế.

3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải để đảm

bảo mục tiêu phát triển bền vững

Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: “Phát triển bền vững là phát

58

triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng

đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài

hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.

Nhà nước tạo điều thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khai thác,

sử dụng các yếu tố của môi trường vào các mục đích khác nhau, nhưng các

chủ thể này cũng phải thực hiện nghĩa vụ duy trì và cải thiện chất lượng môi

trường cho thế hệ mai sau. Hoạt động BVMT được đặt ngang tầm với các

hoạt động phát triển kinh tế cho thấy rằng, để phát triển bền vững, việc hoàn

thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải cần hướng tới những việc sau:

Một là, đảm bảo đồng thời lợi ích của chủ nguồn thải với lợi ích của

quốc gia, lợi ích công cộng. Các quy định về phí BVMT đối với nước thải cần

được chỉnh sửa cho phù hợp hơn với thực tiễn, khuyến khích các chủ nguồn

thải thay đổi hành vi theo hướng có lợi cho môi trường, qua đó, đảm bảo lợi

ích kinh tế của họ cũng như đảm bảo lợi ích môi trường công cộng.

Hai là, để đảm bảo các hoạt động sản xuất luôn được thực hiện trên cơ

sở kết hợp hài hòa giữa BVMT với phát triển kinh tế, cần xây dựng các quy

định của pháp luật về sản xuất sạch hơn, nhằm hạn chế việc xả thải ra môi

trường.

3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải

đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường

Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là một bộ phận của pháp luật

về môi trường. Vì thế, việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước

thải luôn luôn phải đảm bảo sự thống nhất với các bộ phận pháp luật khác của

pháp luật về môi trường, tránh sự trùng lặp, chồng chéo, gây ảnh hưởng tới

lợi ích của người nộp phí. Giả sử, đối với hoạt động khai thác, chế biến

khoáng sản, chủ thể khai thác phải nộp phí BVMT đối với hoạt động khai

thác đó, ngoài ra, chủ thể được phép khai thác khoáng sản còn phải nộp phí

59

BVMT đối với nước thải nếu trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản

làm phát sinh nước thải theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối

với nước thải. Do đó, với hành vi này, chủ thể khai thác có thể sẽ phải nộp hai

loại phí, dẫn đến hiện tượng “phí trùng phí”. Bởi, hoạt động khai thác khoáng

sản là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp nặng nề đến nguồn đất, nước, môi

trường xung quanh khu vực khai thác. Một trong những ảnh hưởng đó xuất

phát từ hành vi xả nước thải – một trong những công đoạn của quá trình khai

thác khoáng sản.

3.1.4 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải

đáp ứng yêu cầu của hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế trong bảo vệ môi

trường

Để thỏa mãn các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy hiệu quả

hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BVMT, việc hoàn thiện pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải ở nước ta cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp có thể tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào

sản xuất song song với BVMT.

Nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay đã có những thành công nhất định

trong việc triển khai công tác thu phí BVMT đối với nước thải. Việt Nam nói

chung và TP.HCM nói riêng đã và đang học tập kinh nghiệp của các nước có

điều kiện tương tự như: Philippines, Thái Lan trong việc thiết kế và triển khai

hệ thống thu phí nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu phí BVMT đối với

nước thải, đặc biệt là với nước thải công nghiệp, góp phần giảm thiểu tình

trạng ô nhiễm môi trường ở những đô thị lớn mà TP.HCM là một điển hình.

3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với

nước thải

Thứ nhất, xác định rõ ràng đối tượng chịu phí đối với nước thải tại các

siêu thị có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh, các

60

cửa hàng thức ăn nhanh.

Về mặt pháp lí, các cửa hàng thức ăn nhanh, các siêu thị, trung tâm

thương mại là các cơ sở kinh doanh, không phải là cơ sở sản xuất dù có chế

biến thực phẩm, thức ăn nhanh. Do đó, theo quy định về đối tượng chịu phí

thì các cơ sở này thuộc đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên, tất

cả các siêu thị, trung tâm thương mai dù có chế biến thực phẩm, thức ăn

nhanh, sản xuất bánh hay không đề là đối tượng chịu phí của phí nước thải

sinh hoạt là không công bằng. Cần phải xác định mức độ gây ô nhiễm môi

trường của hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh hay

để xác định các cơ sở này thuộc đối tượng chịu phí nào.

Vì thế, tác giả đề xuất, đối với siêu thị, trung tâm thương mại, pháp luật

nên quy định thành hai trường hợp:

Một là, nếu các siêu thị, trung tâm thương mại là các cơ sở kinh doanh

không có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh sẽ thuộc đối tượng

chịu phí nước thải sinh hoạt.

Hai là, nếu các cơ sở này có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn

nhanh mà hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh là hoạt động chính thì

các cơ sở này sẽ thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp.

Riêng đối với các cửa hàng thức ăn nhanh, hoạt động chính là hoạt

động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh vì thế tác giả đề xuất pháp luật nên

quy định rõ đây là đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp.

Thứ hai, bổ sung hệ thống xử lý nước thải tập trung đô thị là đối tượng

chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp.

Việc không điều chỉnh về hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị

thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp hay nước thải sinh hoạt là

khiếm khuyết của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Hệ thống xử lí

nước thải tập trung khu đô thị và hệ thống xử lý nước thải tập trung khu công

61

nghiệp có cùng chức năng là thu gom và xử lí nước thải và chỉ khác nhau về

phạm vi thu gom và xử lí nước thải trong khu đô thị hay trong khu công

nghiệp.

Theo quy định hiện hành, hệ thống xử lí nước thải tập trung khu công

nghiệp là đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp. Để tạo sự công bằng

trong việc thu phí giữa hệ thống xử lí nước thải tập trung khu công nghiệp và

hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị, tác giả đề xuất cẩn phải bổ sung

quy định “hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị là đối tượng chịu phí

công nghiệp”.

Trong trường hợp cần huy động vốn và khuyến khích các nhà đầu tư

trong nước và nước ngoài đầu tư hệ thống xử lí nước thải tập trung khi đô thi,

có thể tạo chính sách ưu đãi bằng cách miễn nộp phí BVMT trong một thời

gian nhất định. Tạo chính sách ưu đãi miễn phí BVMT không đồng nghĩa với

việc không quy định nghĩa vụ nộp phí BVMT đối với hệ thống xử lí nước thải

tập trung khu đô thị.

Thứ ba, loại bỏ đối tượng tính phí không phù hợp

Việc quy định nước tuần hoàn bị thất thoát trong quá trình hoạt động

của cơ sở và nước mưa chảy tràn qua khu vực nhà máy sản xuất hóa chất,

doanh nghiệp phải kê khai, đóng phí BVMT là hoàn toàn không hợp lí cả về

mặt lí luận và thực tiễn, thiếu tính khả thi và nếu bắt buộc phải thực hiện

trong thực tiễn thì sẽ gây lãng phí nguồn lực xã hội rất lớn. Thực tế cho thấy,

trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP hầu hết các địa

phương đã không thu được phí BVMT từ nước mưa chảy tràn qua khu vực

sản xuất vì về nguyên tắc phí BVMT được tính theo khối lượng chất gây ô

nhiễm thải ra môi trường.

Để nâng cáo tính khả thi của pháp luật và không gây lãng phí về nguồn

62

lực xã hội, tác giả đề xuất không quy định đây là đối tượng chịu phí BVMT.

Thứ tư, đối với nước thải sinh hoạt, để nâng cao hiệu quả của phí

BVMT nước thải sinh hoạt trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm

bảo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả khi tính phí BVMT nước thải sinh

hoạt, tác giả đề xuất cần phải tăng phí BVMT nước thải sinh hoạt. Việc tăng

phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt sẽ giúp giảm chi từ ngân sách và bù

đắp một phần chi phí cho hoạt động thoát nước, xử lí nước thải; đồng thời,

nâng cao ý thức của người dân về việc sử dụng hợp lí nước sạch. Để có thể

tăng mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt theo khuyến cáo của các

chuyên gia, các nhà hoạch định cần sớm xây dựng lộ trình tăng phí hợp lí,

tránh trường hợp tăng phí đột ngột tạo nên những tác động tâm lí không tốt

đối với việc nộp phí từ đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt.

Thứ năm, đối với chế tài xử phạt vi phạm hành chính, ngoài việc tính

toán tăng mức phạt để đủ sức răn đe đối với các chủ thể thì cần bổ sung thêm

hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Không chỉ dừng ở hình thức cảnh báo,

pháp luật cần bổ sung hình thức tước giấy phép kinh doanh có thời hạn hoặc

buộc đóng cửa vĩnh viễn đối với các cơ sở vi phạm pháp luật về phí BVMT

tùy theo mức độ vi phạm.

Theo tác giả, nên bổ sung thêm chế tài hình sự để xử phạt đối với các

hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT nếu chủ thể đã bị xử lí vi phạm hành

chính mà vẫn tiếp tục vi phạm hoặc lẫn trốn nộp phí BVMT với số tiền lớn.

Những hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT nếu không kịp thời được xử

lí sẽ gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội: i) Làm thất thu NSNN trong hoạt

động BVMT; ii) Làm vô hiệu hóa mục tiêu điều chỉnh hành vi của chủ thể

theo hướng có lợi cho môi trường và pháp luật về phí BVMT. Việc bổ sung

chế tài hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT sẽ góp

63

phần hạn chế sự vi phạm pháp luật về phí BVMT.

Đa dạng hóa các hình thức xử phạt và sử dụng hình thức xử phạt hợp lí

sẽ góp phần hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT, giúp nâng

cao hiệu lực và hiệu quả của pháp luật về phí BVMT đối với mục tiêu giảm

thiểu ô nhiễm môi trường.

Thứ sáu, công khai các thông tin liên quan đến tổng thu và chi của loại

phí này định kỳ hàng năm, hàng quý trên cổng thông tin điện tử của Sở Tài

nguyên và môi trường. Đây là thông tin rất quan trọng để các doanh nghiệp

hiểu rằng phí BVMT đối với nước thải là vì BVMT chứ không phải là một

khoản tận thu. Số phí thu được hàng năm, hàng quý được tái sử dụng cho các

hoạt động cải tạo môi trường, hỗ trợ cho các giải pháp cải tiến công nghệ, ứng

dụng trong sản xuất để môi trường ngày càng sạch hơn.

Thứ bảy, xây dựng cơ sở dữ liệu để hỗ trợ, từng bước ứng dụng công

nghệ, kê khai qua mạng và sử dụng phần mềm thẩm định phí. Theo đó, các cơ

quan thực hiện chính sách thu phí BVMT đối với nước thải cần nghiên cứu,

tạo lập một hệ thống cơ sở dữ liệu chung để lưu trữ các thông tin liên quan

của các chủ thể thuộc đối tượng nộp phí. Các thông tin này sẽ liên quan đến

việc xả thải của doanh nghiệp như nồng đồ, lưu lượng, kết quả các cuộc thanh

tra, kiểm tra môi trường sẽ được các bên hữu quan cập nhật thường xuyên.

Thứ tám, từng bước triển khai hình thức kê khai phí qua mạng bên

cạnh hình thức kê khai như hiện nay, song song đó, cần triển khai phần mềm

tính toán phí BVMT đối với nước thải. Các thông tin do doanh nghiệp kê khai

sẽ được kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu chung để đối chiếu và các nhân

viên thẩm định phí sẽ căn cứ trên kết quả đối chiếu này xác định được số phí

doanh nghiệp phải nộp. Như vậy, với cách làm trên, sẽ rút ngắn được thời

gian nhập dữ liệ và nâng cao hiệu quả làm việc của các nhân viên nhà nước.

64

Đồng thời, ngày từ giai đoạn đầu tiên triển khai hình thực kê khai qua mạng,

các nhân viên thuộc tổ thu phí BVMT đối với nước thải cần theo dõi, ghi

nhận thắc mắc của các doanh nghiệp và tận tình hướng dẫn, giải đáp.

Thứ chín, để nâng cao hiệu quả chính sách, cần tăng cường sự phối

hợp và hỗ trợ giữa các bên hữu quan bao gồm trong khu vực công như: Sở

TN&MT, các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện) và khu vực tư (các

phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài, người dân…). Thông qua đó, tuyên

truyền, phổ biến cho người dân, các công đồng dân cư, các doanh nghiệp biết

về phí BVMT đối với nước thải, ý nghĩa và chế độ pháp lý của loại phí này;

quyền và trách nhiệm, lợi ích của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khi nộp phí.

Thứ mười, thiết lập chỉ tiêu đo lường công việc nhằm định hướng cho

tổ chức thu phí làm việc theo đúng mục tiêu của chính sách đã đặt ra. Hiện

nay, tiêu chí đang được sử dụng để đo lường hiệu quả chính sách mới là số

doanh nghiệp đóng phí, tổng số phí thu được. Tuy nhiên, với sự tăng trưởng

nhanh của số lượng doanh nghiệp như hiện nay, chỉ tiêu này sẽ không phản

ánh chính xác hiệu quả của chính sách. Trong ngắn hạn, mục tiêu đo lường

hiệu quả công việc sẽ bao gồm các tiêu chí tỷ lệ doanh nghiệp đã kê khai, nộp

phí so với tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp phí. Tiêu chí này được

thiết lập nhằm mục đích hướng các tổ chức, cơ quan thu phí có biện pháp

thích hợp để kiểm tra và thu đủ số phí doanh nghiệp đã kê khai. Tuy nhiên,

trong dài hạn, tiêu chí đo lường chính xác nhất để phản ánh hiệu quả đó là

mức độ giảm ô nhiễm do nước thải. Do đó, bộ phận thẩm định phí cần đảm

bảo vai trò là nhà tư vấn cho doanh nghiệp là các khách hàng của mình trong

việc đổi mới các công nghệ sản xuất, tận dụng hiệu quả các nguyên liệu đầu

vào, ít xả thải ra môi trường hoặc các công nghệ xử lý nước thải hiệu quả

nhất.

Cuối cùng, tăng cường các giải pháp hỗ trợ, thiết lập các cơ chế

65

khuyến khích đối với người nộp phí. Trong thực tế, các cán bộ, công chức,

viên chức, nhân viên thực thi những nội dung hoạt động trực tiếp trong các

khâu tiến hành quản lý, thu phí BVMT đối với nước thải là cầu nối giúp

người nộp phí có được sự hiểu biết, thuận lợi hơn trong việc tuân thủ các quy

định của pháp luật, đảm bảo cho chính sách đạt được mục tiêu đề ra.

Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần nhanh chóng thiết lập các cơ chế

khuyến khích sự tuân thủ từ phía người nộp phí. Hiện nay, việc tuân thủ chính

sách phí BVMT đối với nước thải chủ yêu dựa trên sự tự giác. Do vậy, cần có

các biện pháp khuyến khích đối với những chủ thể có ý thức cao trong

BVMT, kê khai, nộp phí một cách trung thực, đầy đủ. Tiêu chí thực hiện các

cuộc kiểm tra sẽ dựa trên ý thức của người nộp phí, đặc biệt là các doanh

nghiệp. Tức là, doanh nghiệp nào kê khai trung thực, đóng phí đầy đủ thì có

thể giảm tần suất kiểm tra và tăng tần suất kiểm tra đối với các doanh nghiệp

có mức độ vi phạm cao. Bên cạnh các biện pháp hành chính, có thể áp dụng

thêm các biện pháp khen thưởng nhằm động viên, khuyến khích doanh nghiệp

nâng cao hơn nữa trong việc ý thức BVMT.

Thêm vào đó, cần khai thác tiềm năng, hỗ trợ giám sát việc BVMT, thu

– nộp phí BVMT đối với nước thải từ phía cộng đồng dân cư. Theo đó, cộng

đồng có tác dụng rất quan trọng đối với hành vi xả nước thải của doanh

nghiệp, tổ chức. Người dân hoàn toàn có thể gây áp lực trực tiếp đối với

doanh nghiệp hoặc gián tiếp thông qua các kênh khiếu nại, tố cáo, từ đó hoàn

toàn có thể kết hợp với chính quyền giám sát việc xả thải, tuân thủ pháp luật

về phí BVMT đối với nước thải từ phía doanh nghiệp.

3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo

vệ môi trường đối với nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh

3.3.1 Xây dựng hệ thống thông tin quản lý thu phí

Ở TP.HCM hiện nay, trước khi tổ chức thực hiện thu phí BVMT đối

66

với nước thải công nghiệp, Sở TN&MT – Chi cục Bảo vệ môi trường tiến

hành tổ chức các buổi tập huấn và hướng dẫn kê khai nộp phí cho doanh

nghiệp. Theo đó, Chi cục sẽ đảm bảo các doanh nghiệp biết được chủ trương,

các quy định về phí BVMT đồng thời sẽ thuận lợi hơn cho doanh nghiệp

trong quá trình kê khai nộp phí. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào

cũng tham dự được vì nhiều lý do. Cho nên, sau một thời gian sẽ có những

thay đổi nhân sự tại các doanh nghiệp hoặc có thêm những doanh nghiệp mới

thành lập hoặc có những quy định mới bổ sung, sửa đổi, nhưng việc tổ chức

các buổi tập huấn thì cần phải có thời gian và cũng không thường xuyên nên

sẽ phần nào có những hạn chế trong việc phổ biến các thông tin về các chính

sách, quy định thu phí BVMT đến với doanh nghiệp. Do đó, cần đưa những

thông tin các quy định về phí BVMT cũng như quy trình kê khai, nộp phí,

cách tính phí và các thông tin khác có liên qua trang mạng của doanh nghiệp

để dễ dàng tiếp cận.

Theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016, phí

BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính dựa trên tổng lượng nước

thải và nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải thực tế thải ra của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định những thông số này còn gặp nhiều khó khăn,

Chi cục Bảo vệ môi trường không thể tổ chức quan trắc hết tất cả các doanh

nghiệp do không đủ nguồn lực (nhân lực, kinh phí, thời gian…). Hiện tại Chi

cục Bảo vệ môi trường vẫn phải dựa trên kết quả tự khai của các doanh

nghiệp và chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc các ngành nghề có

mức phát thải cao để tổ chức thẩm định lại, sau đó sẽ so sánh lại với kết quả

kê khai của các doanh nghiệp để xác định mức phí mà doanh nghiệp phải nộp.

Ngoài ra, những doanh nghiệp mới hoạt động hoặc giải thể do Sở Đầu Tư

thành phố, cơ quan Thuế hay Phòng Kinh tế Quận, huyện không cập nhật liên

tục. Do đó, Chi cục Bảo vệ môi trường cũng sẽ phải quản lý rất nhiều thông

67

tin thay đổi theo thời gian, không gian (số lượng doanh nghiệp kê khai, kết

quả kê khai, kết quả thẩm định, các thông tin thu thập từ khảo sát thực tế)

cũng như cập nhật kịp thời tình hình của các doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng

theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP thì với việc quản lý tình hình thu và sử dụng

phí nước thải, Chi cục Bảo vệ môi trường cũng phải quản lý các thông tin

như: mức phí phải nộp hàng quý, thời gian nộp, số phí đã nộp, số phí còn nợ,

các biên lai đã phát hành… và tất các thông tin trên định kỳ hoặc đột xuất

phải thổng hợp, thống kê kịp thời, chính xác theo yêu cầu của cấp trên; hoặc

các cơ quan quản lý môi trường địa phương cần nắm bắt tình hình về kê khai

nộp phí của các doanh nghiệp trên địa bàn để kiểm tra, đôn đốc việc thực

hiện.

Theo trình tự thực hiện thu phí hiện nay, đối với việc nộp phiếu kê khai

thì các doanh nghiệp có thể gửi phiếu kê khai nộp phí đến Chi cục Bảo vệ môi

trường hoặc Cơ quan quản lý môi trường địa phương (Phòng Tài nguyên và

Môi trường quận, huyện) sau đó các cơ quan này sẽ chuyển các phiếu kê khai

nhận được đến Chi cục Bảo vệ môi trường; Chi cục Bảo vệ môi trường sau

khi ra thông báo nộp phí sẽ gửi cho cơ quan quản lý môi trường địa phương

để chuyển đến doanh nghiệp.

Về việc phát hành biên lai nộp phí, hàng tháng các Kho bạc Nhà nước

sẽ chuyển giấy báo của các doanh nghiệp đã nộp tiền đến Chi cục Bảo vệ môi

trường để ra biên lai, sau đó sẽ chuyển các biên lai này đến cơ quan quản lý

môi trường địa phương để gửi cho doanh nghiệp. Một điều dễ nhận thấy là

với trình tự như trên sẽ mất rất nhiều thời gian, đôi khi sẽ có những thất lạc

trong quá trình lưu chuyển.

Như vậy, có thể thấy rằng, để nâng cáo hiệu quả công tác thu phí

BVMT đối với nước thải thì nhất thiết phải xây dựng một hệ thống thông tin

68

quản lý thu phí, trong đó phải có một số chức năng sau:

+ Kê khai, thông báo mức phí và trao đổi thông tin liên quan đến việc

thu nộp phí trực tuyến trên mạng.

+ Tính toán, quản lý cơ sở dữ liệu về thu phí.

+ Phân cấp độ quản lý cơ sở dữ liệu đối với các cơ quan quản lý và

doanh nghiệp.

+ Kết nối thông tin điện tử với các cơ quan quản lý khác về tình hình

hoạt động của donah nghiệp như: đăng ký mới, giải thể, chuyển đồi mô hình

hoạt động, thay đổi chủ thể quản lý.

3.3.2 Điều chỉnh mức thu và phương pháp thu phí

Đối với mức thu phí cố định 1.500.000 đồng/đơn vị/năm (lượng nước

thải ra dưới 20 m3/ngày đêm) giữa các cơ sở sản xuất chưa phù hợp (Ví dụ:

Cơ sở sản xuất có lượng nước thải ra 01 m3/ngày đêm với cơ sở sản xuất có

lượng nước thải ra 19 m3/ngày đêm hoặc giữa đơn vị có hệ thống xử lý nước

thải và đơn vị không có hệ thống xử lý nước thải đều chịu mức phí cố định

như nhau). Điều này chưa tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp, nhất là

trên địa bàn TP.HCM các đơn vị có lượng nước thải ra dưới 19 m3/ngày đêm

chiếm tỷ lệ lớn. Với mức phí như hiện nay vẫn chưa tác động nhiều đến ý

thức của doanh nghiệp trong việc BVMT và thậm chí cũng chưa có sự công

bằng giữa các doanh nghiệp trong việc đóng góp tài chính cho việc BVMT.

Do đó để nâng cao hiệu quả của việc thu phí có thể điều chỉnh lại như

sau:

Thứ nhất, về cách thu:

• Đối với những doanh nghiệp hoạt động ngành nghề phát sinh nhiều

nước thải trong quá trình sản xuất và có nồng độ chất ô nhiễm cao thì sửa đổi

như sau: Phí này vẫn sẽ được tách thành hai phần đó là phí cố định và phí

69

biến đổi nhưng được tính như sau:

+ Phần phí cố định: là phí xả thải, được thu bằng với mức thu của nước

thải sinh hoạt (hiện nay mức thu là 9.600 đồng/m3 theo hoá đơn tiền nước đối

với hoạt động sản xuất) và phí cố định được tính bằng lượng nước thải nhân

với mức thu.

Phí cố định = Lượng nước thải * 9.600 đồng

+ Phần phí biến đổi: Tính theo tải lượng chất ô nhiễm thải ra nhưng chỉ

tính theo phần chênh lệch giữa nồng độ chất ô nhiễm có trong nước thải ra và

tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Điều này sẽ khích lệ các doanh nghiệp sẽ

tích cực hơn trong việc xây dựng và vận hành HTXL nước thải.

• Đối với những doanh nghiệp có lượng nước thải dưới 20m3/ngày như

hiện nay thì sửa đổi mức giá thu tương ứng với lượng nước luỹ tiến như

5m3/ngày; 10m3/ngày; 15m3/ngày; 20m3/ngày nhưng phải đảm bảo mức phí

thấp nhất với lượng nước xả thải thấp nhất phải đóng phí phải bằng hoặc cao

hơn mức phí BVMT đóng trên hoá đơn tiền nước. Trong thời điểm hiện tại,

mức phí điều chỉnh ít nhất bằng 2 lần mức hiện tại để đảm bảo sự công bằng

trong việc đóng góp tài chính cho việc bảo vệ môi trường giữa các doanh

nghiệp.

Thứ hai, về cơ sở đề nghị mức phí

Đối với các cơ sở sản xuất có lưu lượng xả thải trên 20m3/ngày đêm và

đã xử lý nước thải đạt quy chuẩn cho phép thì mức phí BVMT đối với nước

thải công nghiệp sẽ thấp hơn so với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt

(Ví dụ: cơ sở nhuộm vải xả thải 200m3/ngày đêm, nồng độ COD = 100 mg/l,

TSS = 50 mg/l, hệ số K=1 thì nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp

là 11.484.000 đồng/năm; còn nếu nộp phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt

là 200 m3/ngày đêm x 10% x 5.300 đồng/m3 (đơn giá nước sạch trong định

mức)*26 ngày/tháng*12 tháng/năm = 33.072.000 đồng/năm). Do đó, việc nộp

70

phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt lại cao hơn nhiều so với những cơ sở

hoạt động sản xuất có phát sinh nước thải gây ô nhiễm. Điều này là vô cùng

bất hợp lý và không công bằng trong thực hiện nghĩa vụ khuyến khích và bảo

vệ tài nguyên môi trường. Và chúng ta sẽ nghiên cứu để xây dựng lộ trình

tăng mức phí hàng năm phù hợp với điều kiện phát triển của thành phố.

Thu theo cách này thì số phí thu được sẽ tăng và khuyến khích doanh

nghiệp đầu tư giảm thiểu phát thải chất thải, đặc biệt là thành phố hiện đang

dự thảo quy định khuyến khích áp dụng sản xuất sạch hơn sẽ là một thúc đẩy

nữa để doanh nghiệp tham gia tích cực hơn trong công tác bảo vệ môi trường.

3.3.3 Phân cấp thẩm định cho cơ quan quản lý môi trường địa phương

Theo quy định thì việc thẩm định Tờ khai phí BVMT đối với nước thải

công nghiệp hiện nay do Sở TN&MT (Chi cục Bảo vệ môi trường) đảm

nhiệm. Khi nhận được phiếu kê khai của các doanh nghiệp, Chi cục sẽ tạm

thông báo theo mức kê khai của doanh nghiệp, sau đó sẽ tổ chức thẩm định để

đánh giá lại tính chính xác thông tin do doanh nghiệp kê khai. Như đã trình

bày, Chi cục không đủ nguồn lực để tổ chức khảo sát tại tất cả các doanh

nghiệp hoặc không thể đến để giải thích, hướng dẫn và xác định mức phí tại

từng doanh nghiệp mặc dù một số cơ sở vừa và nhỏ vẫn muốn cơ quan

chuyên trách xuống đánh giá để xác định chính thức mức phí mà họ phải nộp.

Do đó, để đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện thu phí cần phân cấp cho

cơ quan quản lý môi trường địa phương (UBND quận – huyện, HEPZA) tổ

chức khảo sát, đánh giá để xác định mức phí cho các doanh nghiệp trên địa

bàn quản lý đối với những doanh nghiệp không có phát sinh nước thải trong

quá trình sản xuất và những doanh nghiệp có mức phát thải lưu lượng thấp

(dưới 10m3/ngày). Nghĩa là sau khi nhận được phiếu kê khai của các doanh

nghiệp thì các cơ quan này tổ chức thẩm định và sau đó thông báo kết quả

thẩm định đến Chi cục để phát hành thông báo nộp phí. Điều này sẽ đảm bảo

71

các cơ quan này luôn quan tâm đôn đốc các doanh nghiệp trên địa bàn thực

hiện đầy đủ việc kê khai, nộp phí; và các cơ quan này sẽ phải coi đây là một

nhiệm vụ thường xuyên và đưa vào trong công tác quản lý môi trường tại địa

phương mình. Đối với những doanh nghiệp thuộc ngành nghề phát sinh nhiều

nước thải trong quá trình sản xuất và có hàm lượng chất ô nhiễm cao thì sẽ do

Chi cục tổ chức thực hiện thẩm định.

Tiểu kết chương 3

Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về phí BVMT đối với

nước thải, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật loại phí này ở

TP.HCM, luận văn rút ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT

đối với nước thải như sau:

1. Việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải theo

một số định hướng sau: Các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với

nước thải phải đảm bảo tính minh bạch, khả thi; Hoàn thiện pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững; Hoàn

thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đảm bảo sự đồng bộ của

hệ thống pháp luật môi trường; Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với

nước thải phải đáp ứng yêu cầu của hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế trong

BVMT.

2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải ở TP.HCM bao gồm: Công khai thông ltin liên đến

tổng thu và chi từ loại phí này; Xây dựng cơ sở dữ liệu hỗ trợ, từng bước ứng

dụng kê khai qua mạng và sử dụng phần mềm thẩm định phí; Triển khai hình

thức kê khai phí qua mạng bên cạnh hình thức kê khai như hiện nay và cần

triển khai phần mềm tính toán phí BVMT đối với nước thải; Tăng cường sự

72

phối hợp và hỗ trợ giữa các bên hữu quan bao gồm trong khu vực công và khu

vực tư; Thiết lập chỉ tiêu đo lường công việc nhằm định hướng cho đội ngũ

cán bộ thu phí làm việc theo đúng mục tiêu của chính sách đã đặt ra; Tăng

cường các giải pháp hỗ trợ, thiết lập các cơ chế khuyến khích đối với người

nộp phí.

3. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý thu phí nhằm quản lý doanh

nghiệp có tính hệ thống, tránh bỏ sót doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cập nhật,

quản lý kịp thời tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh

nghiệp trốn tránh nghĩa vụ khi ngưng hoạt động hoặc chuyển hoạt động sang

địa phương khác. Điều chỉnh mức thu và phương pháp thu gồm có phí cố định

và phí biến đổi nhằm đưa ra mức thu hợp lý, tăng nguồn thu cho NSNN. Phân

cấp thẩm định cho cơ quan quản lý môi trường địa phương nhằm đảm bảo

thẩm định đầy đủ các tờ khai thu phí của doanh nghiệp. Đồng thời, tránh tình

trạng bỏ sót doanh nghiệp, doanh nghiệp né tránh kê khai và nộp phí, tăng

73

hiệu quả cho công tác thu phí.

KẾT LUẬN CHUNG

Trên cơ sở những nghiên cứu đã được trình bày ở chương 1, chương 2

và chương 3, tác giả rút ra được một số kết luận cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ

kinh tế hữu hiệu trong BVMT và là một bước tiến quan trọng trong công tác

quản lý môi trường. Thông qua loại phí này, Nhà nước có thể điều tiết, thay

đổi hành vi của người xả thải, đồng thời bổ sung nguồn thu cho NSNN. Để có

thể tác động đến các quan hệ xã hội phát sinh trong các khía cạnh khác nhau

của việc thu nộp phí BVMT đối với nước thải, các quy phạm pháp luật sẽ

hướng tới nội dung này. Mục đích của pháp luật về phí BVMT đối với nước

thải là điều chỉnh, tác động đến những chủ thể có hành vi xả nước thải ra môi

trường, từ đó, có nguồn thu để khắc phục, xử lý với lượng nước thải đã thải

ra, cùng với đó là đạt được những mục tiêu đa chiều do Nhà nước đề ra.

Thứ hai, việc thực hiện các quy định và chính sách của pháp luật về phí

BVMT đối với nước thải mới được áp dụng từ những năm 2003 – 2004

nhưng đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá

trình thực thi pháp luật về phí này cũng không tránh khỏi những điểm hạn chế

còn tồn tại nhất là ở TP.HCM với đặc thù địa bàn dân cư đông đúc, quá trình

đô thị hóa diễn ra nhanh cũng phần nào đó tác động đến môi trường. Bởi thế,

việc hoàn thiện pháp luật về loại phí này là điều rất cần thiết.

Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp với mục địch góp

phần hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, cũng như hoàn

thiện hơn nữa quá trình thực thi bộ phận pháp luật này trong thực tế. Qua đó,

cùng với sự tương thích, mối tương quan với các bộ phận pháp luật khác, như

pháp luật về phí, lệ phí, pháp luật về BVMT…Mong rằng, trong thời gian tới,

74

phí BVMT đối với nước thải sẽ đạt được những thành tựu cao hơn nữa, góp

phần thúc đẩy kinh tế không chỉ ở TP.HCM mà còn ở nhiều địa phương khác

75

phát triển mạnh mẽ và bền vững.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Danh mục văn bản pháp luật

1. Bộ Tài Chính (2013), Thông tư số 186/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí, ban hành ngày

05/12/2013

2. Bộ Tài Chính (2017), Công văn 13842/BTC-CST về việc phí bảo vệ môi

trường đối với nước thải, ban hành ngày 16/10/2017

3. Chi cục Bảo vệ môi trường Thành phố Hồ Chí Minh (2019), “Báo cáo tình

hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm và các nhiệm vụ trọng tâm 3 tháng cuối

năm 2019”.

4. Chính phủ (2002), Nghị định số 57/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

pháp lệnh phí và lệ phí, ban hành ngày 03/06/2002

5. Chính phủ (2003), Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối

với nước thải, ban hành ngày 13/06/2003.

6. Chính phủ (2007), Nghị định số 04/2007/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối

với nước thải, ban hành ngày 08/01/2007

7. Chính phủ (2009), Nghị định số 35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của

thanh tra tài nguyên và môi trường, ban hành ngày 07/04/2009

8. Chính phủ (2013), Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối

với nước thải, ban hành 29/03/2013

9. Chính phủ (2014), Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước

thải, ban hành ngày 06/08/2014

10. Chính phủ (2016), Nghị định số 154/2016/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường

đối với nước thải, ban hành ngày 18/11/2016

11. Chính phủ (2016), Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ban hành ngày 18/11/2016

76

12. Hội Đồng Nhân Dân TP.HCM (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐND về

điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trên địa

bàn thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 16/03/2018

13. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12, ban hành ngày

13/11/2008

14. Quốc hội (2013), Hiến Pháp 2013 thông qua tại kỳ họp thứ 6, khóa XIII,

ngày 28/11/2013

15. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13, ban hành ngày

23/06/2014

16. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13, ban hành

ngày 25/06/2015

17. Quốc hội (2015), Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ban hành ngày

25/11/2015

18. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày

17/08/2004 về định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam

19. Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Quyết định số 2129/QĐ-

UBND về việc điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công

nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 18/05/2018

20. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh số 38/2001/P1-UBTVQH, ban

hành ngày 28/8/2001 về phí và lệ phí

* Tài liệu trong nước

21. Bộ môn Luật môi trường – Khoa Pháp luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội

(2005), “Kinh nghiệm của nước ngoài trong việc sử dụng các công cụ kinh tế

trong quản lý môi trường”, Tài liệu hội thảo, Viện Khoa học pháp lý

22. Nguyễn Ngọc Anh Đào (2014), “Pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong

bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội

23. Nguyễn Thị Vân Hà (2007), Quản lý chất lượng môi trường, NXB Đại học

Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

77

24. TS. Trần Vũ Hải, “Tìm hiểu Thuật ngữ Pháp luật tài chính công”, Nxb. Tư

pháp, Tr.160

25. Nguyễn Thị Hằng (2014), “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường”,

Luận văn Thạc sỹ luật học

26. Lê Thị Thu Hằng (2018), “Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và

sử dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục

tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường”, Tạp chí Nghề luật, số 2 năm 2018.

27. Nguyễn Huế (2012), “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: Làm sao

thêm hiệu quả?” trên Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 6/2012.

28. Trần Thanh Lâm (2006), “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế”, Nhà

xuất bản Lao động, Hà Nội.

29. Nguyễn Diệu Linh (2015), “Vai trò của các công cụ kinh tế trong quản lý

môi trường ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế.

30. PGS.TS Phạm Văn Lợi (2011), “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp.

31. Trần Nhật Nguyên (2013), “Thực trạng áp dụng một số công cụ kinh tế

trong quản lý môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh”, tạp chí Nghiên cứu và

phát triển số 5 (3/2010).

32. TS Đỗ Nam Thắng, “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với

nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam”, Tạp chí môi

trường số 7 năm 2010

33. Thuật ngữ, phần 1, Tiêu chuẩn Việt Nam 5980: 1995 và ISO 6170/1-1980,

mục 1.2.1. Chất lượng nước.

34. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2007), Chuyên đề “Bảo vệ môi

trường để phát triển bền vững”, số 5 năm 2007.

35. Vụ Chính sách Bộ Tài chính (1997), “Xây dựng hệ thống phí gây ô nhiễm”,

Đề tài khoa học cấp Bộ

*Tài liệu nước ngoài

78

36. Ken Rubin (2000), Establishing and Industrial wastewater Effluent Fee

Program, Laguna De Bay, Philippines. www.gwptoolbox.org/index.php

37. Lanham (1996), Office for Official Publications of the European,

International Government publication, English

38. O’Connor, D. (1999), Applying economic instruments in developing

countries: From theory to implementation, OECD Development Center, May

1999.

39. OECD (1975). “An Exemination of the Polluter Pays Principle on Case

Studies in The Polluter Pays Principle: Definition, Analysis, Implementation”,

OECD, Paris, Tr. 93-117.

40. Philippines – Economic Incentives

for Water Pollution Prevention

Abatement. Establishing and Industrial wastewater Effluent Fee Program,

Laguna De Bay.

*Website tham khảo

41.

http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?uuid=5ee2d3

75-3ef7-4dc1-92cf-53b0e67c1c7e&groupId=18

42.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H%E1%BB%93

_Ch%C3%AD_Minh

43.

http://www.donre.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/default.aspx?Source=%2ftintuc&

Category=Tin+t%e1%bb%a9c+s%e1%bb%b1+ki%e1%bb%87n&ItemID=8499

&Mode=1

44. https://iura.vn/bai-viet/vi-pham-phap-luat-va-trach-nhiem-phap-ly.html

45. Hà Phạm (2018), 85% lượng nước thải sinh hoạt đô thị ở Thành phố Hồ Chí

Minh

chưa

được

xử

đăng

ngày

19/03/2018

tại

địa

chỉ

http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Xa-hoi/896049/85-luong-nuoc-thai-sinh-hoat-do-

79

thi-o-tp-ho-chi-minh-chua-duoc-xu-ly?fbclid=IwAR3vSAaYHVi5WWnr-

CGGySWjGS-4xDvbm5j2PmJHZoC46T-1ljZUzFKM5Dw

46. Tạp chí Công Thương, Thực thi phí BVMT đối với nước thải: Kinh nghiệm

thế giới và thực tiễn ở Việt Nam, truy cập ngày 10/07/2019 tại địa chỉ

http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-thi-phi-bvmt-doi-voi-nuoc-thai-kinh-

nghiem-the-gioi-va-thuc-tien-o-viet-nam-18557.htm

80

PHỤ LỤC 1

CĂN CỨ TÍNH PHÍ NƯỚC THẢI TẠI CÁC NƯỚC OECD

Khối lượng, độ mặn, mức độ ô nhiễm và vùng ảnh hưởng

Australia

Số lượng và mức độ ô nhiễm

Bỉ (Flanders)

Khối lượng phát thải một số chất gây ô nhiễm hàng năm

Canada

Tổng khối lượng phát thải của các hộ gia đình

(Quebec)

Tổng khối lượng phát thải của các doanh nghiệp, lưu vực

Cộng hòa Pháp

sông, khu vực thải và loại chất ô nhiễm.

Tổng mức độ ô nhiễm

CHLB Đức

Lượng ô nhiễm vượt chỉ tiêu cho phép

Hàn Quốc

Lượng nước thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép về nồng độ

Mexico

COD và TSS và khu vực thải

Mức phí đồng nhất cho mỗi loại nguồn thải hay lượng nước

Mỹ

thải

(Nguồn: OECD, 1999)

81

PHỤ LỤC 2

QUY ĐỊNH MIỄN PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI CÔNG NGHIỆP

Nghị định số

Nghị định số

Nghị định số

154/2016/NĐ-CP về các

25/2013/NĐ-CP về các

67/2003/NĐ-CP không

trường hợp miễn phí

đối tượng không chịu phí

thu phí BVMT

1. Nước xả ra từ các nhà

1. Nước xả ra từ các nhà

1. Nước xả ra từ các nhà

máy thủy điện, nước tuần

máy thủy điện, nước tuần

máy thủy điện, nước

hoàn trong các cơ sở sản

hoàn trong các cơ sở sản

tuần hoàn trong các nhà

xuất, chế biến mà không

xuất, chế biến mà không

máy điện.

thải ra môi trường dưới

thải ra môi trường.

bất kỳ hình thức nào

(chất rắn, chất lỏng, chất

khí)

2. Nước biển dùng vào

2. Nước biển dùng vào sản

2. Nước biển dùng vào

sản xuất muối xả ra.

xuất muối xả ra.

sản xuất muối xả ra.

3. Nước thải sinh hoạt

3. Nước thải sinh hoạt của

3. Nước thải sinh hoạt

của các tổ chức, cá nhân,

các hộ gia đình ở địa bàn

của hộ gia đình ở địa

hộ gia đình ở địa bàn

đang được Nhà nước thực

bàn đang được Nhà

đang được Nhà nước

hiện chế độ bù giá để có

nước thực hiện chế độ

thực hiện chế độ bù giá

giá nước phù hợp với đời

bù giá để có giá nước

để có giá nước phù hợp

sống kinh tế - xã hội

phù hợp với đời sống

với đời sống kinh tế - xã

kinh tế - xã hội

hội

4. Nước thải sinh hoạt

4. Nước thải sinh hoạt của

4. Nước thải sinh hoạt

của các tổ chức, cá nhân,

hộ gia đình ở các xã thuộc

của hộ gia đình ở các xã

hộ gia đình ở các xã

vùng nông thôn và những

thuộc vùng nông thôn

thuộc vùng nông thôn và

nơi chưa có hệ thống cấp

và những nơi chưa có

82

những nơi chưa có hệ

nước sạch

hệ thống cấp nước sạch

thống cấp nước sạch

5.Nước làm mát thiết bị,

5. Nước làm mát thiết bị,

Không quy định

máy móc không trực tiếp

máy móc không trực tiếp

tiếp xúc với các chất gây

tiếp xúc với các chất gây ô

ô nhiễm, có đường thoát

nhiễm, có đường

thoát

riêng

riêng

6. Nước mưa tự nhiên

6. Nước mưa tự nhiên

Không quy định

chảy tràn (trừ diện tích

chảy tràn

thuộc khu vực nhà máy

hóa chất)

7. Nước

thải

từ các

Không quy định

Không quy định

phương

tiện đánh bắt

thủy, hải sản của ngư dân

8. Nước thải sinh hoạt

Không quy định

Không quy định

tập trung do đơn vị quản

lý, vận hành hệ thống

thoát nước tiếp nhận và

đã xử lý đạt tiêu chuẩn,

quy chuẩn kỹ thuật quy

định xả

thải

ra môi

trường.

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các Nghị định của Chính phủ)

83