VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÚ
PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2020
…,, năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÚ
PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào
khác. Các trích dẫn và số liệu đưa ra đảm bảo tính khách quan, trung trực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thanh Tú
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NƯỚC THẢI VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NƯỚC THẢI ............................................................................................................. 8
1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ........................................ 8
1.2 Khái quát về pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ................. 20
1.3 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số quốc gia trên
thế giới và kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
TP.HCM .................................................................................................................. 36
2.1 Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và quản lý nước thải tại Thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................................................. 36
2.2 Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải .................... 38
2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.............................................................................. 49
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI ............................................................. 58
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải . 58
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải ............................................................................................................................ 60
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh. ............................................ 66
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Phí bảo vệ môi trường: Phí BVMT
Sở Tài Nguyên & Môi Trường: Sở TN&MT
Ngân Sách Nhà Nước: NSNN
Thành phố Hồ Chí Minh: TP.HCM
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 3.1 Số tiền phí BVMT thu được từ 01/01/2018 – 31/08/2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, tình hình
kinh tế TP.HCM đã đạt được những thành tựu đáng kể với mức tăng trưởng
khá ổn định, cụ thể như trong năm 2019, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)
đạt 1.344.743 tỷ đồng, tăng 7,86%, cao hơn so với năm 2018. Trong đó, khu
vực dịch vụ tăng 8,51%, đạt mức tăng cao hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng
8,01%), có 8/9 ngành dịch vụ chủ yếu có mức tăng trưởng cao hơn so với
cùng kỳ. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,19%, có mức tăng trưởng
thấp hơn so với cùng kỳ (cùng kỳ 8,12%), trong đó, ngành công nghiệp tăng
7,51%, (cùng kỳ có mức tăng 8,17%) và ngành xây dựng tăng thấp với
0,76%, (cùng kỳ tăng 7,95%) [41]. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế, nhiều
khu công nghiệp, công trình xây dựng được hình thành khiến cho thành phố
gặp không ít những khó khăn với các vấn đề về môi trường như ô nhiễm
không khí, ô nhiễm tiếng ồn, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe của người dân.
Hiện nay, trên địa bàn TP.HCM có hơn 2.000 kênh rạch. Những con
kênh này đã trở thành nổi ám ảnh của người dân dù nắng hay mưa bởi nó đã
bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng do các chất thải rắn, nước thải làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của những hộ dân sống ven các con kênh, con rạch này.
Các nguồn nước thải từ các khu dân cư, các hộ dân, các cơ sở chế biến, nước
thải từ các khu công nghiệp, khu chế xuất xả thải trực tiếp vào lòng sông, ao
hồ khiến nguồn nước ở đây đổi màu, bốc mùi và ô nhiễm trầm trọng.
Để BVMT do nước thải gây ra, chính quyền thành phố đã áp dụng
nhiều công cụ kiểm soát khác nhau như: công cụ hành chính, công cụ dựa vào
cộng đồng, công cụ kinh tế. Trong đó, công cụ kinh tế được xem là đem lại
1
hiệu quả khả quan nhất vì nó được tạo lập dựa trên sự cân bằng giữa tăng
trưởng kinh tế và BVMT. Công cụ này được thực hiện thông qua việc Nhà
nước thu phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với nước thải đã tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chủ động hơn trong việc tạo
lập kế hoạch BVMT kết hợp giữa phí BVMT và chi phí sản xuất kinh doanh
vào giá thành của sản phẩm.
Đến thời điểm hiện tại, những văn bản được ban hành để điều tiết về
phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng có thể kể đến
như: Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ về phí BVMT đối với
nước thải; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân
TP.HCM về việc điều chỉnh mức thu phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp trên địa bàn TP.HCM; Nghị định số 80/2014/NĐ-CP của Chính phủ
về thoát nước và xử lí nước thải; Luật BVMT năm 2014. Những văn bản này
đã thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền TP.HCM
trong công tác BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, công tác thi hành các quy định về phí BVMT đối
với nước thải còn nhiều hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lí và BVMT.
Do vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu về phí BVMT đối với nước thải là điều
cần thiết trong hệ thống các công cụ kinh tế ở lĩnh vực BVMT.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách của mỗi quốc gia, trong đó, phí
BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng là một công cụ
kinh tế quan trọng trong việc BVMT và công tác quản lí môi trường. Đây là
vấn đề cũng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nên cũng đã
có nhiều công trình nghiên cứu từ những khía cạnh tiếp cận khác nhau để làm
rõ về vấn đề này.
Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp về phí
2
BVMT đối với nước thải, có thể kể đến như:
Luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về sử dụng các công cụ kinh tế
trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh
Đào (2014) – công trình đã nghiên cứu và đưa ra thực tiễn áp dụng các công
cụ kinh tế như thuế BVMT, phí BVMT, ký quỹ…
Bài nghiên cứu “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam” của TS Đỗ Nam
Thắng trên Tạp chí môi trường số 7 năm 2010, giới thiệu kinh nghiệm thực
tiễn áp dụng phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của một số quốc gia
trên thế giới, từ đó gợi mở cho quá trình xây dựng và thực hiện về phí BVMT
ở Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trường” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (2014) nêu ra thực trạng về vấn đề bảo
vệ môi trường, qua đó đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT.
Bài nghiên cứu “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: Làm sao
thêm hiệu quả?” của tác giả Nguyễn Huế (2012) trên Tạp chí Công nghiệp,
kỳ 1, tháng 6/2012.
Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế “Vai trò của các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Diệu Linh (2015).
Bài nghiên cứu “Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và sử
dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục
tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường” của tác giả Lê Thị Thu Hằng (2018) trên
Tạp chí Nghề luật, số 2 năm 2018.
Sách “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2011 do PGS.TS Phạm Văn Lợi
chủ biên. Nội dung trọng tâm của sách quy định pháp luật và thực tiễn thi
3
hành một số công cụ kinh tế trong BVMT ở Việt Nam. Phân tích ưu nhược
điểm của các công cụ này, nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng công cụ trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Hay bài nghiên cứu “Thực trạng áp dụng một số công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Nhật
Nguyên (2013) trên Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 5 (3/2010).
Qua những bài nghiên cứu trên cho thấy rằng vấn đề phí BVMT là một
trong những vấn đề khá quan trọng, được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên,
mỗi công trình lại nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau về phí BVMT, có
công trình chỉ dừng lại ở phí BVMT đối với từng loại nước thải, chưa có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ về phí BVMT đối với nước thải được áp dụng tại
một địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận
về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP.HCM.
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận về phí và pháp luật
về phí BVMT đối với nước thải, từ đó đề xuất những giải pháp, phương
hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này nhằm đáp ứng tốt
các yêu cầu trong công tác BVMT.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để luận văn đạt được những mục tiêu nói trên, tác giả đặt ra những
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Một là phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về phí BVMT và
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải như khái niệm về phí BVMT đối
4
với nước thải theo sự điều chỉnh của pháp luật, đặc điểm, vai trò của phí
BVMT đối với nước thải và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải và điều kiện áp dụng để mang lại hiệu quả cao nhất.
Hai là đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
phí BVMT đối với nước thải từ các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn
TP.HCM trong thời gian gần đây nhằm chỉ ra những ưu điểm và bất cập của
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Từ đó xác định được những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về phí BVMT
đối với nước thải tại TP.HCM.
Ba là đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật tại TP.HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là: phí BVMT và pháp luật
về phí BVMT đối với nước thải, thực trạng pháp luật về phí BVMT và thực
tiễn thực hiện pháp luật về phí BVMT trên địa bàn TP.HCM; kinh nghiệm
của một số quốc gia trên thế giới về xây dựng pháp luật về phí BVMT đối với
nước thải.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phí BVMT đối với nước thải là vấn đề có phạm vi nghiên cứu tương
đối rộng, liên quan đến hai vấn đề chính đó là nước thải công nghiệp và nước
thải sinh hoạt. Vì vậy, phí BVMT có thể được phân tích ở nhiều khía cạnh,
góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sỹ,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những khía cạnh pháp lý của phía BVMT đối
với nước thải từ những khái niệm chung đến thực trạng pháp luật, thực tiễn
5
thực hiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải.
Với đề tài “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, tác giả còn nghiên cứu thêm
những quy định pháp luật hiện hành của Nhà nước, của HĐND, UBND
Thành Phố về phí BVMT đối với nước thải, từ đó phân tích và thực tiễn thi
hành của những quy định này. Song song đó, tác giả sẽ tìm hiểu thêm một số
quy định về phí BVMT đối với nước thải của một số quốc gia trên trên thế
giới để rút ra bài học kinh nghiệm góp phần hoàn thiện hơn pháp luật về phí
BVMT ở Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, trong quá
trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Phương pháp so sánh, phân tích, diễn giải, bình luận… được sử dụng
trong chương 1 khi nghiên cứu, đưa ra quan niệm về các vấn đề lý luận của
phí BVMT và pháp luật về phí BVMT đối với nước thải.
Với phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp vấn đề, tác giả sử dụng
trong chương 2 và chương 3 để tìm hiểu về thực tiễn thi hành pháp luật và
thực trạng về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn thành phố; từ đó chỉ ra
một số điểm đạt được và chưa được trong công tác thực hiện để rút ra bài học
kinh nghiệm, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
trong việc BVMT.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với
6
nước thải và thực tiễn thi hành từ thực tiễn TP.HCM trong công tác bảo vệ
môi trường. Luận văn có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như
sau:
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nghiên cứu và hệ thống hóa một số cơ sở quan điểm
về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thực
hiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải trên địa bàn TP.HCM. Hệ
thống về vấn đề về phí BVMT bằng biện pháp hành chính, nêu ra những điểm
tích cực và hạn chế của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, qua đó đề
xuất một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hiện
hành.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp thông tin thực tiễn và đề xuất những giải pháp mang tính
tham khảo đối với các doanh nghiệp, các cơ quan quản lí, góp phần giải quyết
những khó khăn thực tiễn trong việc thực hiện áp dụng công cụ kinh tế thu
phí BVMT đối với nước thải.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương.
Chương 1: Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải và
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải và thực tiễn thực hiện tại TP.HCM
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
7
hiệu quả thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
1.1 Khái quát về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.1.1 Khái niệm và phân loại về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.1.1.1 Sơ lược về sự hình thành về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải
Trên thế giới, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ
kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm
môi trường. Phí nước thải đã được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển
như: ở Phần Lan áp dụng năm 1961, ở Thụy Điển từ năm 1970, ở Đức từ năm
1980…đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm
do nước thải gây ra ở nước này [38]. Còn ở các nước đang phát triển, phí
nước thải được áp dụng chậm hơn, ví dụ như ở Trung Quốc và Malaysia được
áp dụng từ năm 1978, ở Philippines và Thái Lan từ năm 2000…
Ở Việt Nam, trước năm 2003, pháp luật hầu như không có quy định cụ
thể nào về việc thu phí BVMT đối với nước thải. Trong Pháp lệnh Phí và lệ
phí năm 2002, phí BVMT đối với nước thải được đề cập trong danh mục phí
BVMT và thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, nhưng chưa có văn bản
nào quy định chi tiết về loại phí này. Do không có cơ sở pháp lý cụ thể cho
việc thu phí BVMT đối với nước thải, nên về cơ bản, loại phí này mới chỉ
được nhắc tên trong quy phạm pháp luật mà chưa được đưa vào thực hiện trên
thực tế.
Ngày 13/6/2003, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Nghị định số
67/2003/NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải, có hiệu lực từ
1/1/2004. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên quy định cụ thể về phí BVMT đối với
8
nước thải. Sau đó, Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và môi trường ban hành
Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT ngày 18/2/2003 hướng
dẫn Nghị định số 67/2003/NĐ-CP. Theo đó, từ ngày 1/1/2004, các tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp và nước
thải sinh hoạt. Nguồn thu sau đó được sử dụng để tái đầu tư cho các công
trình, dự án BVMT ở địa phương.
Tiếp đó, ngày 8/1/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số
04/2007/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-
CP. Một số nội dung được sửa đổi như loại bỏ chất BOD khỏi chất gây ô
nhiễm trong nước thải; sửa đổi, bổ sung các điều về quản lý sử dụng tiền phí
thu được, về trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc công
bố định mức chất gây ô nhiễm, khảo sát, xác định chất gây ô nhiễm có trong
nước thải công nghiệp để điều chỉnh cho phù hợp.
Với mục đích hướng dẫn Nghị định số 04/2007/NĐ-CP và sửa đổi, bổ
sung Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT, liên bộ này đã
ban hành Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT-BTC-BTN&MT với nội dung
sửa đổi chủ yếu là các quy định về kê khai nộp phí; trách nhiệm của đối tượng
nộp phí, của các cơ quan có liên quan; việc quản lý sử dụng số tiền phí thu
được.
Tiếp đến, ngày 22/3/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số
26/2010/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số
67/2003/NĐ-CP. Theo văn bản này, phần phí còn lại đối với nước thải (80%
trên tổng số tiền phí BVMT đối với nước thải công nghiệp thu được) sẽ không
được chi cho ngân sách địa phương như theo quy định tại Thông tư số
125/2003/TTLT-BTC-BTN&MT nữa, mà được nộp 100% vào ngân sách địa
phương để sử dụng cho việc BVMT, đầu tư mới, nạo vét cống rãnh, duy tu,
9
bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương, bổ sung vốn hoạt động cho
Quỹ BVMT của địa phương, trả nợ vay đối với các khoản vay của các dự án
thoát nước thuộc nhiệm vụ của ngân sách địa phương.
Để tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về phí BVMT phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, ngày 29/3/2013, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí BVMT đối với
nước thải thay thế cho những văn bản trước đây quy định về loại phí này.
Cùng thời điểm đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Tài chính
ban hành Thông tư liên tịch số 63/2013/TTLT-BTC-BTN&MT ngày
15/5/2013 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 25/2013/NĐ-CP. Sự ra đời của
những văn bản này đã khắc phục một số những vướng mắc về phí BVMT đối
với nước thải ở những văn bản trước như: xác định đầy đủ và bao quát các đối
tượng nộp phí, tránh tình trạng thu phí trùng có thể xảy ra; khắc phục khó
khăn trong việc xác định lưu lượng nước thải chủ yếu thông qua hệ thống
cung cấp nước sạch; cải cách thủ tục kê khai và thẩm định tờ khai phí BVMT
đối với nước thải công nghiệp.
Ngày 16/11/2016, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định số
154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải (có hiệu lực thi hành từ
01/01/2017) đã quy định rõ các đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải
bao gồm nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Ngoài ra, Nghị định
còn bổ sung quy định hộ gia đình là người nộp phí do Nghị định số
25/2013/NĐ-CP đã quy định đối tượng chịu phí BVMT là nước thải từ hộ gia
đình nhưng lại chưa quy định hộ gia đình là người nộp phí. Với đối tượng
miễn phí BVMT được bổ sung hai thêm đối tượng là: nước thải từ các
phương tiện đánh bắt thủy, hải sản của ngư dân và nước thải sinh hoạt tập
trung do đơn vị vận hành quản lý, vận hành hệ thống thoát nước tiếp nhận và
10
đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định xả thải ra môi trường.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã không
ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phí BVMT đối với nước
thải. Những quy định của pháp luật về loại phí này luôn được ban hành kịp
thời, đúng lúc, đáp ứng được yêu cầu của thực tế xã hội, tạo nên khung pháp
lý rõ ràng và cụ thể cho công tác thu, nộp, quản lý và sử dụng phí BVMT đối
với nước thải đạt hiệu quả cao nhất trong công tác BVMT.
1.1.1.2 Cơ sở lý luận và pháp lý của phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
Nước thải là nguồn nước được thải ra từ các hoạt động kinh doanh, sản
xuất công nghiệp, thương mại – dịch vụ và các hoạt động sống của con người.
Trong đó, nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt là hai loại nước thải
đáng quan tâm nhất trong quá trình đô thị hóa hiện nay.
Nước thải sinh hoạt là loại nước được thải ra ngay sau khi sử dụng cho
các mục đích sinh hoạt từ các trường học, bệnh viện, cơ quan…Loại nước thải
này chưa hàm lượng cao chất thải rắn, dầu mỡ và một lượng đáng kể thức ăn
cho vi khuẩn (Ni tơ và Phốt pho)
Nước thải công nghiệp là nước thải được sinh ra trong quá trình sản
xuất công nghiệp từ các công đoạn sản xuất và hoạt động phục vụ sản xuất.
Trong nước thải công nghiệp thường được phân loại theo ngành công nghiệp
sản sinh ra nước thải đó, với đa dạng các loại hình sản xuất kinh doanh, đồng
nghĩa với việc cũng có đa dạng các loại nước thải công nghiệp được thải ra
hàng ngày.
Với mục tiêu bảo vệ môi trường nói chung, giảm thiểu số lượng nước
thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường nói riêng, từ đó hạn chế các chủ
thể xả thải, đồng thời, có được nguồn tài chính sử dụng để đầu tư trở lại cho
hoạt động BVMT, việc tiến hành thu phí BVMT đối với nước thải được xác
11
định là hữu hiệu hơn cả. Bên cạnh đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải được xác định là công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là những nước phát triển và đem lại những kết quả đáng ghi
nhận trong việc quản lý ô nhiễm do nước thải gây ra ở những nước này [35].
Ngoài việc xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, sự ra đời của phí BVMT đối
với nước thải cũng được dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở chính trị, pháp
lý nhất định.
Thứ nhất, về cơ sở lý luận. Theo thông lệ quốc tế, phí BVMT đối với
nước thải là công cụ trực tiếp đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm
được áp dụng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận đó là,
nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả” (PPP) và “Người hưởng thụ phải
trả tiền” (BPP).
Đối với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả” bắt nguồn từ các
sáng kiến của OECD đề ra vào năm 1972 và mở rộng năm 1974. Theo định
nghĩa chính thức khởi xướng đầu tiên bởi khối OECD, nguyên tắc người gây
ô nhiễm phải trả là nguyên tắc được dùng để phân bổ chi phí cho các biện
pháp ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nhằm khuyến khích việc sử dụng hợp
lý nguồn tài nguyên môi trường khan hiếm và tránh làm ảnh hưởng tới đầu tư
và thương mại quốc tế [39, Tr.93-117].
“Người gây ô nhiễm phải trả” có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm
(doanh nghiệp, cá nhân hay chính quyền) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự
phá hoại môi trường do hoạt động của họ gây ra. Điều này sẽ khuyến khích
các chủ thể đó giảm thiểu, điều tiết hành vi của mình, ít ra chi phí biên của
việc giảm ô nhiễm bằng chi phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Để
làm được điều đó thì tổng chi phí sản xuất ra một hàng hóa, dịch vụ bao gồm
chi phí của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó.
Việc sử dụng không khí, đất hay nước cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải
12
cũng là sử dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình
trạng định giá không tính đủ chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và
không xác định rõ quyền sở hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc
khai thác và sử dụng quá mức và có thể làm phá hủy hoàn toàn nguồn tài
nguyên đó. Nguyên tắc này buộc người gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi
phí sản xuất (chi phí sử dụng tài nguyên và làm ô nhiễm) thông qua các công
cụ như thuế, lệ phí…
Nguyên tắc PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm
thì ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải
bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt do ô nhiễm gây ra. Việc buộc
những người gây ô nhiễm trả tiền là một trong những biện pháp tốt nhất để
làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây ra làm thất bại thị trường, đảm
bảo cho môi trường ở mức chấp nhận được.
Đối với nguyên tắc “người thụ hưởng phải trả tiền”, nguyên tắc này
chủ trương tạo lập một cơ chế, định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu
về môi trường dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Đồng thời, nguyên
tắc này cũng đưa ra giải pháp BVMT với cách nhìn nhận mới, chú trọng tới
việc phòng ngừa và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả của nó có thể đạt
được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và
khả năng sử dụng tiền hợp lý cho các mục đích BVMT. Đối nghịch với người
trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người được hưởng thụ một môi trường đã
cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc này là tất cả
những ai hưởng thụ do có được môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì
đều phải nộp phí. Mức tính phí theo đầu người càng cao thì càng có nhiều
người nộp phí, thì số tiền thu được sẽ càng nhiều. Số tiền này có thể do các cá
nhận muốn BVMT, hoặc do những cá nhân không phải trả tiền cho việc thải
ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm nộp. Tuy nhiên, hạn chế của
13
nguyên tắc này đó là tiền không phải do các chủ thể gây ô nhiễm trực tiếp trả
nên sự khuyến khích đối với việc BVMT khó có thể đạt được hiệu quả cao
nhất.
Thứ hai, về cơ sở pháp lý, bảo vệ môi trường luôn được Đảng Bộ, Nhà
nước và chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm, là một trong những chủ
trưởng, chính sách và nhiệm vụ quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Để khôi phục hiện trạng môi trường và BVMT nói
chung cũng như xử lý chất thải khắc phục nguồn nước bị ô nhiễm do chất thải
gây ra, Nhà nước đã tiến hành đồng bộ cả ba biện pháp: hành chính – kinh tế -
giáo dục, trong đó, biện pháp kinh tế được xem là quan trọng nhất. Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền, do vậy, để quán triệt được các nguyên tắc “Người
gây ô nhiễm phải trả” và “người thụ hưởng phải trả tiền” và đưa những
nguyên tắc này vào cuộc sống thì nó cần phải được thể chế hóa bằng các văn
bản quy phạm pháp luật. Cho nên, việc thu phí BVMT đối với nước thải cần
căn cứ vào hệ thống pháp luật môi trường và những văn bản pháp luật có liên
quan.
Trước đây, Hiến pháp 1992 đã khẳng định, BVMT là nghĩa vụ của mọi
cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta xây
dựng các quy phạm pháp luật về phí BVMT nói chung và phí BVMT đối với
nước thải nói riêng. Trên tinh thần đó, Nghị quyết số 24-NQ-TW ngày
03/06/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT
đã ghi nhận, BVMT là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là
nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần
quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc
gia và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được phát triển.
Kế thừa những nội dung trên, Điều 43 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi
14
người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường”. Tiếp đó, Khoản 2 Điều 63 Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng
định: “Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển,
sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo”. Những nội dung trên được ghi
nhận trong Hiến pháp sẽ tạo ra một nền tảng quan trọng để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiếp tục thể chế hóa, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về
BVMT nói chung và phí BVMT đối với nước thải nói riêng.
Do đó, Luật Bảo vệ môi trường được xác định là văn bản pháp luật cơ
bản, quan trọng nhất về BVMT, về quản lý nước thải ở Việt Nam. Luật đã đặt
ra những quy định chung về tiêu chuẩn chất thải, cam kết thực hiện biện pháp
giảm thiểu, xử lý chất thải nói chung, trong đó có nước thải. Đồng thời, Điều
148 Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định, tổ chức, cá nhân xả thải ra môi
trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối với môi trường thì phải nộp phí
BVMT. Đây được xem là quy định có tính chất nguyên tắc, có tác dụng chi
phối và quyết định đến các quy định của pháp luật về thu phí BVMT. Theo
đó, mọi các nhân, tổ chức có hành vi xả thải ra môi trường đều phải nộp phí
BVMT đối với nước thải.
Bên cạnh các văn bản pháp luật về môi trường thì việc xây dựng phí
BVMT đối với nước thải còn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về tài
chính. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật phí và lệ phí năm 2015 đưa ra khái niệm về
phí như sau: “Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù
đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cung
cấp dịch vụ công được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật
này”. Theo đó, Luật phí và lệ phí sẽ điều chỉnh đối với các khoản thu phí
thuộc dịch vụ công do cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ
chức khác được giao thực hiện, không điều chỉnh đối với các khoản phí do
15
các tổ chức, cá nhân ngoài Nhà nước cung ứng. Đồng thời, trong Danh mục
phí, lệ phí ban hành kèm theo cũng có liệt kê phí BVMT đối với nước thải
thuộc về nhóm phí trong lĩnh vực BVMT nói riêng và lĩnh vực tài nguyên môi
trường nói chung. Loại phí này sẽ do Chính phủ quy định.
Hiện nay, văn bản điều chỉnh trực tiếp về phí BVMT đối với nước thải
là Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 11 năm 2016
về phí BVMT đối với nước thải.
1.1.1.3 Khái niệm phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Về khái niệm phí BVMT đối với nước thải, trên thực tế, pháp luật hiện
hành chỉ đưa ra khái niệm về phí BVMT nói chung, chưa có khái niệm cụ thể
nào là phí BVMT đối với nước thải, nhưng dựa vào những hiểu biết của tác
giả, có thể hiểu phí BVMT đối với nước thải như sau:
“Phí BVMT đối với nước thải là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải
trả cho việc xả thải gây ô nhiễm vào môi trường với mục đích giảm thiểu số
lượng nước thải chưa qua xử lý xả trực tiếp ra môi trường, đồng thời tạo
nguồn thu để phục vụ, bù đắp chi phí cho việc khôi phục và bảo vệ môi
trường”.
Nếu nhìn nhận các khoản phí thuộc nguồn thu của NSNN, có thể thấy,
khoản thu này do các tổ chức, cá nhân nộp vào quỹ NSNN khi thụ hưởng lợi
ích từ hàng hóa, dịch vụ công cộng được cung cấp bởi Nhà nước [24, Tr.160].
Chính vì vậy mà phí mang tính đối giá và tính hoàn trả trực tiếp, khác biệt so
với thuế không mang hai đặc điểm này, và khác biệt so với lệ phí không mang
tính đối giá. Khoản thu phí có tác dụng bù đắp một phần chi phí cho những
khoản đầu từ, bảo dưỡng các công trình công cộng, duy trì hoạt động dịch vụ
của Nhà nước, đồng thời, bảo đảm tính tiết kiệm trong tiêu dùng dịch vụ công
từ phía người thụ hưởng và góp phần trang bị thêm các điều kiện vật chất để
16
phục vụ tốt hơn, có hiệu quả hơn cho người thụ hưởng dịch vụ.
Như vậy, việc đóng phí của tổ chức, cá nhân chỉ phải thực hiện khi họ
nhận được sự cung ứng một dịch vụ từ một chủ thể khác. Tiền phí sẽ tương
ứng với tính chất, mức độ của dịch vụ được cung ứng. Do đó, phí BVMT đối
với nước thải mà các tổ chức, cá nhân khi xả thải vào môi trường phải nộp
thực chất là số tiền mà họ phải đóng cho Nhà nước để nhận lấy sự cung cấp
dịch vụ từ phía Nhà nước, đó là những hoạt động nhằm bảo vệ và đầu tư cho
môi trường tại địa phương nơi họ xả thải mà đáng lẽ ra những hoạt động này
phải do chính các chủ thể xả thải phải thực hiện, nhưng Nhà nước đã đứng ra
thực hiện thay họ.
Phí BVMT đối với nước thải có những dấu hiệu cơ bản để nhận diện
như sau:
Một là, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ kinh
tế trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường.
Phí BVMT là được coi là công cụ kinh tế hữu hiệu trong việc kiểm soát
ô nhiễm nguồn nước vì nó có tác dụng điều chỉnh hành vi của người xả thải.
Người xả thải phải chi trả một khoản tiền nhất định cho mỗi đơn vị chất gây ô
nhiễm, nồng độ càng cao thì số phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra càng lớn.
Ngược lại, nếu lượng nước thải của doanh nghiệp giảm cũng như hàm lượng
chất gây ô nhiễm trong nước thải khi xả ra môi trường ít thì số phí nộp cũng
sẽ ít đi. Do vậy, mục đích của việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải là
khuyến khích giảm các tác nhân gây ô nhiễm, giảm thiểu lượng chất gây ô
nhiễm thải ra môi trường và tăng thêm nguồn thu cho Nhà nước để sử dụng
cho việc khôi phục, cải thiện chất lượng môi trường sống.
Việc thu phí BVMT đối với nước thải có thể bù đắp một phần chi phí
thường xuyên và không thường xuyên cho việc duy trì, bảo vệ và cả thiện các
17
thành phần môi trường, giữ gìn sự cân bằng sinh thái và các chi phí khác về tổ
chức và quản lý phục vụ cho vấn đề BVMT nói chung và vấn đề nước thải nói
riêng.
Hai là, việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải không gây ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế vì mức phí này được quy định trên điều kiện
kinh tế - xã hội, thu nhập và mức sống của người dân, nên khi áp dụng loại
phí này, các nhà chuyên môn đã có sự tính toán, cân nhắc để không ảnh
hưởng việc tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ba là, công tác thu phí BVMT đối với nước thải cũng góp phần làm
giảm ô nhiễm nước, đồng thời, tạo nguồn thu cho công tác BVMT, tái đầu tư
vào các hoạt động BVMT. Song song đó, việc thu phí cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến hành vi của các tổ chức, cá nhân bởi vì càng thải nhiều chất độc hại
ra môi trường càng phải nộp phí nhiều và để không phải nộp phí nhiều, họ
phải cắt giảm lượng nước thải xả trực tiếp ra môi trường. Điều này cho thấy
phí BVMT đối với nước thải góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường nước,
đồng thời số phí thu được sẽ dùng cho các hoạt động xử lý, khắc phục thiệt
hại từ nước thải và các hoạt động BVMT khác.
Sau cùng, để cho việc thu phí BVMT đạt được hiệu quả cao nhất, cần
phải có hệ thống kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xử lý nghiêm đối với các hành vi
vi phạm. Việc thu đúng, thu đủ phí BVMT đối với nước thải gặp không ít khó
khăn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là công tác kiểm tra, giám
sát, thanh tra và xử lý vi phạm chưa thật sự triệt để. Vì vậy, để công tác thu
phí đạt hiệu quả, cần làm tốt hơn trong công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra
và xử lí vi phạm triệt để.
1.1.1.4 Phân loại phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Hiến chương châu Âu quan điểm nước thải là việc ô nhiễm nước, cụ
thể, đó là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất lượng nước, làm
18
nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công nghiệp, nông
nghiệp, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật nuôi và các loài hoang dã. Còn ở Việt
Nam, nước thải là nước đã được thải ra từ sau khi đã sử dụng hoặc được tạo
ra trong quá trình công nghệ và không còn giá trị trực tiếp đối với quá trình đó
[33]. Nước thải được chia thành nhiều loại khác nhau để tiện cho việc quản lý
và tạo cơ sở cho việc lựa chọn biện pháp giải quyết hay công nghệ xử lý phù
hợp.
Theo quan điểm quản lý môi trường, xuất phát từ các nguồn gây ô
nhiễm nước, nước thải được phân thành hai loại: nước thải có nguồn xác định
và nước thải không có nguồn xác định:
(i) Nước thải có nguồn xác định bao gồm nước thải đô thị và nước thải
công nghiệp, các cửa cống xả nước mưa và tất cả các nguồn tiếp nhận nước
có tổ chức qua hệ thống cống và kênh thải
(ii) Nước thải có nguồn không xác định bao gồm nước chảy trôi trên bề
mặt đất, nước mưa và các nguồn phân tán khác.
Căn cứ phổ biến hơn để phân loại nước thải, đó là dựa theo nguồn gốc
phát thải của chúng. Theo đó, nước thải được phân thành những loại sau:
Nước thải công nghiệp là nước thải từ các cơ sở sản xuất, cơ sở chế
biến nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi trường… [10, Khoản 2, Điều
2]
Nước thải sinh hoạt là từ các hộ gia đình, tổ chức khác không phải là
các cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản xả thải ra môi
trường. [10, Khoản 3, Điều 2]
Dựa vào những tiêu chí phân loại này mà Nhà nước đưa ra những quy
định điều chỉnh hoạt động, quản lý đối với từng loại nước thải tương ứng.
Theo đó, pháp luật của Việt Nam hiện nay chỉ quy định thu phí đối với hai
loại nước thải, đó là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt vì đây là
19
hai loại nước thải chủ yếu, chứa hàm lượng cao các chất gây ô nhiễm. Vì vậy,
cần phải thu phí BVMT đối với hai loại nước thải này để có nguồn kinh phí
xử lý nước thải, cải tạo và chống ô nhiễm môi trường.
Cụ thể, nước thải sinh hoạt là nước được thải ra từ các hoạt động sống
của con người. Trong nước thải sinh hoạt thường chứa nhiều độc tố, tạp chất
khác nhau cùng nhiều loại vi sinh vật gây bệnh. Thành phần và tính chất của
nước thải sinh hoạt phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước thải sinh hoạt. Ngoài
ra lượng nước thải ít hay nhiều còn phụ thuộc vào tập quán sinh hoạt. Hiện
nay, có hai cách để tính mức tạo ta nước thải sinh hoạt. Một là thông qua tính
thông số cơ bản trong đánh giá chất lượng nước. Hai là dựa vào lượng chất
thải tổng số, chất thải hữu cơ và vô cơ của một người trong một ngày. Ngoài
ra còn có cách tính khác thông qua khối lượng nước thải theo chỉ số dân
tương ứng.
Nước thải công nghiệp rất đa dạng, khác nhau về thành phần cũng như
lượng phát thải và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: loại hình công nghiệp, công
nghệ sử dụng, tính hiện đại của công nghệ, tuổi thọ của thiết bị, trình độ quản
lý của cơ sở và ý thức của cán bộ công nhân viên. So với nước thải sinh hoạt
thì nước thải công nghiệp có thành phần và tính chất phức tạp hơn nhiều.
Tuy nhiên, dù nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp, nếu
không được xử lý thì khi thải trực tiếp vào nguồn nước tự nhiên sẽ gây ra
những thay đổi về tính chất vật lý, thành phần hóa học và sinh học của nguồn
nước, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên.
1.2 Khái quát về pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
1.2.1 Khái niệm pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Bảo vệ môi trường là vấn đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với công cuộc đấu
tranh xóa đói, giảm nghèo ở mỗi quốc gia và cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến
20
bộ của xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với điều kiện của nước ta hiện nay,
khi Nhà nước chú trọng nguyên tắc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật,
tiến tới xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, yêu cầu thể chế hóa các chủ
trương, định hướng của Đảng trong công tác BVMT thành các quy định của
pháp luật để điều chỉnh quan hệ, hành vi của con người trong việc ứng xử với
môi trường. Đồng thời, pháp luật về phí BVMT cần được xây dựng để làm
sao đủ sức tác động vào nhận thức của các chủ thể ở cả ba phương diện: khai
thác, sử dụng tài nguyên môi trường; giữ gìn và BVMT thiên thiên; phòng
ngừa và khắc phục sự cố môi trường khi môi trường bị xâm hại hoặc bị tàn
phá. Để đạt những mục tiêu trên, ngoài việc phải coi trọng công tác xây dựng
pháp luật mà còn phải tạo dựng một cơ chế đảm bảo thi hành pháp luật đủ
mạnh. Đây là nhân tố quan trọng và cũng là tiêu chí đánh giá tính khả thi và
hiệu quả của hệ thống pháp luật về BVMT.
Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải sẽ bao gồm những quy định
chi tiết, cụ thể điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý
nhà nước đối với những chủ thể xả nước thải ra môi trường. Ngoài ra, pháp
luật cũng sẽ xác định loại nước thải nào phải chịu phí, chủ thể nào xả thải
phải nộp phí và cơ chế thu, nộp, quản lý và sử dụng ra sao.
Tóm lại, nói một cách khái quát, tác giả có thể đưa ra định nghĩa pháp
luật về phí BVMT đối với nước thải như sau:
Pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu – nộp phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải.
Như vậy, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải có mục đích là điều
chỉnh hành vi xả nước thải ra môi trường của các chủ thể, từ đó có nguồn
ngân sách để khắc phục, xử lý đối với lượng nước thải. Pháp luật này được
21
coi là một trong những bộ phận của pháp luật BVMT và là yếu tố cấu thành
không thể thiếu với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng
địa phương. Ngoài ra, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải cũng có mối
quan hệ hệ với các loại pháp luật phí khác, do đây là phí có tư cách là một
loại phí tạo lập, bổ sung nguồn thu của NSNN.
1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải
Mỗi quốc gia có điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, do
vậy, hoạt động BVMT và thu phí BVMT nói chung, cũng như thu phí BVMT
đối với nước thải nói riêng cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, dù ở quốc gia đã
phát triển, đang phát triển hay chưa phát triển đều hy vọng khoản phí BVMT
đối với nước thải sẽ đạt được những vai trò riêng của nó, tạo nguồn thu cho
NSNN, tác động đến hành vi của chủ thể xả thải và có nguồn tài chính khắc
phục hậu quả của lượng nước thải có thể sẽ gây tác động xấu đến môi trường.
Vì vậy, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải thông thường sẽ bao gồm
những nội dung cơ bản sau đây:
Một là, về đối tượng chịu phí, đối tượng không chịu phí BVMT đối với
nước thải
Đối với đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải, đó là những loại
nước thải có khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường. Nước thải bao gồm
nhiều loại khác nhau, tuy nhiên, Nhà nước sẽ xác định loại nước thải nào sẽ
phải chịu phí BVMT căn cứ vào nguồn gốc, mức độ ô nhiễm và hậu quả của
từng loại nước thải. Các quốc gia trên thế giới thông thường chỉ thu phí
BVMT đối với hai loại nước thải, đó là nước thải công nghiệp và nước thải
sinh hoạt.
Nước thải công nghiệp được xác định là nước thải ra môi trường từ các
nguồn sau: cơ sở sản xuất, chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản; cơ sở sản
22
xuất, chế biến thực phẩm, rượu, bia, nước giải khát, thuốc lá; cơ sở chăn nuôi,
giết mổ: gia súc, gia cầm tập trung;cơ sở nuôi trồng thủy sản; cơ sở sản xuất
thủ công nghiệp trong các làng nghề; cơ sở: thuộc da, tái chế da; cơ sở: khai
thác, chế biến khoáng sản; cơ sở: dệt, nhuộm, may mặc; cơ sở sản xuất giấy,
bột giấy, nhựa, cao su; cơ sở sản xuất: phân bón, hóa chất, dược phẩm, thuốc
bảo vệ thực vật, vật liệu xây dựng, văn phòng phẩm, đồ gia dụng; cơ sở: cơ
khí, luyện kim, gia công kim loại, chế tạo máy và phụ tùng; cơ sở sản xuất:
linh kiện, thiết bị điện, điện tử; cơ sở: sơ chế phế liệu, phá dỡ tàu cũ, vệ sinh
súc rửa tàu; nhà máy cấp nước sạch ; hệ thống xử lý nước thải tập trung trong
khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất khác [10, Khoản 2 Điều 2].
Như vậy, các quy định của pháp luật hiện hành đã xác định tương đối
chi tiết danh mục những cơ sở sản xuất, kinh doanh xả nước thải ra môi
trường phải nộp phí BVMT đối với nước thải. Quy định này đã khắc phục
được việc xác định đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp,
do trước đây số lượng các chủ thể, các cơ sở sản xuất kinh doanh quá nhiều
và đa dạng ngành nghề nên việc thống kê đầy đủ các lĩnh vực hoạt động của
các cơ quan chức năng cũng gặp không ít khó khăn. Đồng thời, quy định này
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước thực hiện và quản lý việc
thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp mang lại hiệu quả tốt hơn, tranh
bỏ sót đối tượng chịu phí.
Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ hộ gia đình; cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân (trừ các cơ sở sản xuất,
cơ sở chế biến thuộc các đơn vị vũ trang nhân dân); trụ sở điều hành, chi
nhánh văn phòng của các tổ chức, cá nhận không gắn liền với địa điểm sản
xuất, chế biến; cơ sở: rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy;
bệnh viện, phòng khám chữa bệnh, nhà hàng, khách sạn, cơ sở đào tạo,
23
nghiên cứu, cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác [10, Khoản 3 Điều 2].
Như vậy, có thể thấy rằng pháp luật cũng quy định khá cụ thể các nhóm
đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt nhằm tránh nhầm lẫn
với các đối tượng phải nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, khắc
phục được tình trạng nhầm lẫn trong quá trình thực hiện dễ dẫn đến việc thu
trùng phí. Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp đóng trụ sở trong các khu,
các cụm công nghiệp nhưng chỉ là các chi nhánh, trụ sở văn phòng mà không
có hoạt động sản xuất, nên được xếp vào nhóm đối tượng nộp phí BVMT đối
với nước thải sinh hoạt. Nếu trước đây, khi pháp luật không phân định rõ ràng
về nhóm chủ thể này với nước thải công nghiệp nên gây không ít khó khăn và
bất cập cho cả phía người nộp phí và cơ quan thu phí, thì hiện nay, vấn đề này
đã được khắc phục.
Bên cạnh việc quy định về đối tượng chịu phí, pháp luật cũng có quy
định về việc miễn thu phí BVMT đối với nước thải trong các trường hợp sau
đây [10, Điều 5]:
(i) Nước xả ra từ các nhà máy thủy điện, nước tuần hoàn trong các cơ
sở sản xuất, chế biến mà không thải ra môi trường dưới bất kỳ hình thức nào
(chất rắn, chất lỏng, chất khí)
(ii) Nước biển dùng vào sản xuất muối xả ra;
(iii) Nước thải sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình ở địa bàn
đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá để có giá nước phù hợp với đời
sống kinh tế - xã hội;
(iv) Nước thải sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình ở các xã
thuộc vùng nông thôn và những nơi chưa có hệ thống cấp nước sạch;
(v) Nước làm mát thiết bị, máy móc không trực tiếp tiếp xúc với các
chất gây ô nhiễm, có đường thoát riêng;
(vi) Nước mưa tự nhiên chảy tràn (trừ diện tích thuộc khu vực nhà máy
24
hóa chất);
(vii) Nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy, hải sản của ngư dân;
(viii) Nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý, vận hành hệ
thống thoát nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy
định xả thải ra môi trường.
Quy định về những trường hợp không thu phí BVMT đối với nước thải
nêu ở trên thể hiện chính sách hỗ trợ, khuyến khích của Nhà nước đối với
từng trường hợp cụ thể. Việc pháp luật quy định nước thải sinh hoạt từ các hộ
gia đình đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá, hộ gia đình ở các xã
thuộc vùng nông thôn, ở những vùng có điều kiện khó khăn…thì không phải
chịu phí BVMT đối với nước thải. Đây được xem là quy định cho thấy sự
quan tâm của Nhà nước đối với những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, sát sao với chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ, tạo
điều kiện cho những đối tượng nêu trên.
Thêm nữa, Nghị định 154/2016/NĐ-CP còn bổ sung thêm hai đối
tượng được miễn phí (Phụ lục 2) đó là nước thải từ các phương tiện đánh bắt
thủy, hải sản của ngư dân và nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý,
vận hành hệ thống thoát nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật quy định xả thải ra môi trường. Tác giả cho rằng, đây được xem là
điểm mới và tiến bộ của Nghị định 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ. Việc
thêm đối tượng miễn phí là nước thải từ các phương tiện đánh bắt thủy, hải
sản của ngư dân nhằm khuyến khích, tạo nguồn động lực lớn cho ngư dân
bám biển, khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Còn trường hợp miễn
phí đối với nước thải sinh hoạt tập trung do đơn vị quản lý, vận hành thoát
nước tiếp nhận và đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quy định xả
thải ra môi trường để khuyến khích các đơn vị này xử lý nước thải đạt tiêu
25
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật xả thải, tăng cường hiệu quả quản lý và BVMT.
Hai là, quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí BVMT đối
với nước thải. Có hai nhóm chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này đó là
người nộp phí và người thu phí. Phí BVMT đối với nước thải là một khoản
phí thuộc nguồn thu của NSNN, do vậy, chủ thể thu loại phí này phải là cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền được pháp luật quy định hoặc ủy quyền. Tùy
vào quan điểm của mỗi nước về vị trí của phí BVMT mà cơ quan thu phí có
thể là những cơ quan, tổ chức khác nhau nhưng có sự phân định rõ ràng về
thẩm quyền thực hiện, có thể chia ra thành cơ quan có thẩm quyền quy định
về phí, cơ quan có thẩm quyền quy định mức phí và cơ quan có thẩm quyền
thu phí. Giới hạn về quyền lực thực thi, các cơ quan, tổ chức thu phí sẽ phải
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình theo đúng các quy định
của pháp luật.
Người nộp phí là chủ thể thứ hai tham gia vào quan hệ pháp luật phí
BVMT đối với nước thải với mục đích tác động đến hành vi xả thải ra môi
trường, người nộp phí được quy định tương đối rộng với nhiều chủ thể khác
nhau bao gồm cá nhân, tổ chức xả nước thải sinh hoạt hay nước thải công
nghiệp.
Ba là, quy định về mức thu phí, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
BVMT đối với nước thải
Mức thu phí BVMT đối với nước thải sẽ được xác định tương ứng với
từng loại nước thải, mức độ độc hai và định hướng điều tiết của Nhà nước.
Thực tế, các nước trên thế giới đều có cách xác định mức thu phí BVMT đối
với nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện và
hoàn cảnh của nước đó nên mức thu phí cũng sẽ khác nhau. Đồng thời, quy
định về về chế độ thu, nộp phí cũng điều chỉnh tới việc phí BVMT đối với
nước thải sẽ được người nộp phí chuyển giao đến người thu theo cách thức và
26
quy trình ra sao. Thêm nữa, do phí BVMT đối với nước thải là khoản thu
thuộc về quỹ NSNN, nên chế độ quản lý và sử dụng phí này cũng phải tuân
theo những quy định cụ thể, chặt chẽ của pháp luật, để đảm bảo thu đúng, thu
đủ và sử dụng có hiệu quả nguồn phí thu được.
Bốn là, quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu nộp phí
và xử lý vi phạm pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thu nộp phí BVMT đối với
nước thải là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường. Từ những hoạt động này, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có thể phát hiện ra những vi phạm từ các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật phí BVMT đối với nước thải, từ đó có những chế tài thích
đáng tương ứng với hành vi mà các chủ thể đó gây tác hại đến môi trường.
Đây là nhóm quy định có tính răn đe cao đối với những hành vi vi phạm pháp
luật về phí BVMT đối với nước thải.
1.3 Quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ở một số quốc
gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Thành phố Hồ Chí Minh
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa, lịch sử và tình hình môi trường mà mỗi quốc gia có hệ thống
pháp luật về môi trường có tính đặc thù riêng. Phí BVMT nói chung và phí
BVMT đối với nước thải nói riêng là một trong những công cụ kinh tế được
nhiều nước áp dụng nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường. Ở nhiều quốc gia trên
thế giới, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý… và các nước
đang phát triển như: Philippines, Thái Lan, Malaysia…đều đã thành công
trong việc thu phí BVMT đối với nước thải.
1.3.1 Kinh nghiệm của một số nước thuộc nhóm OECD
Nếu như vài ba thập kỷ trước, các công cụ kinh tế, đặc biệt là các biện
pháp thị trường còn chưa hề được các nước OECD chú ý thì hiện nay, nhờ có
27
các ưu thế và hiệu quả linh hoạt, mềm dẻo, các công cụ kinh tế đã được các
nước sử dụng ngày càng nhiều trong việc hoạch định và thực thi các chính
sách kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường. Các quốc gia này
đều chủ trương thu phí BVMT đánh vào nguồn gây ô nhiễm và nguồn sử
dụng. Theo báo cáo của OECD, phần lớn các nức đều có mức phí khác biệt
tùy vào khối lượng và nồng độ của các chất ô nhiễm có trong nước thải. Hệ
thống phí ô nhiễm của Hàn Quốc, Bỉ, Cộng hòa liên bang Đức đều đạt mục
tiêu tạo khuyến khích và thay đổi hành vi của người gây ô nhiễm, trong khi đó
tại các nước khác, mục tiêu chính là tạo ra nguồn thu… (Phụ lục 1)
Thực tiễn sử dụng các công cụ kinh tế vào mục đích BVMT nói chung
và đối với nước thải nói riêng ở các nước thuộc OECD đã chứng tỏ nhiều mặt
tích cực:
Một là, khi áp dụng các công cụ kinh tế vào mục đích BVMT vừa có
tác dụng lâu dài, vừa trực tiếp làm thay đổi hành vi của các chủ thể, doanh
nghiệp, lại vừa có tác dụng sâu xa đến việc nghiên cứu, triển khai, trao đổi
công nghệ và kỹ thuật sản xuất có lợi cho môi trường.
Hai là, giúp nguồn thu nhập của quỹ BVMT được gia tăng, tạo cơ sở
vật chất vững chắc cho việc phục vụ, tái tạo trở lại cho môi trường, đồng thời,
nó còn góp phần đáng kể vào nguồn thu của NSNN.
Ba là, đây được xem là một công cụ điều chỉnh hành vi môi trường một
cách tự động, thích ứng với cơ chế của thị trường và đạt hiệu quả chi phí với
một mức phát thải nhất định.
Bốn là, với mục đích hướng tới một sự phát triển bền vững trong tương
lai, các công cụ kinh tế duy trì và chuyển giao hợp lý nguồn lực thông qua
việc đánh giá các nguồn tài nguyên môi trường, đồng thời, góp phần sử dụng
có hiệu quả nguồn lực hiện tại.
28
1.3.2 Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển
Hiện nay, hệ thống quản lý môi trường ở các nước đang phát triển chủ
yếu vẫn dựa vào các công cụ CAC (quy định pháp lý về “điều chỉnh và kiểm
soát”). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự trợ giúp của các nước
thuộc OECD về mặt kinh nghiệm và kỹ thuật, một số Chính phủ đã bắt đầu
quan tâm hơn đến các công cụ kinh tế. Công cụ kinh tế thường được áp dụng
nhất là đối với phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm và phí đánh vào sản phẩm.
Nhưng khác với các nước OECD áp dụng các công cụ kinh tế này một cách
riêng lẻ thì ở một số nước đang phát triển luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa
yếu tố pháp luật với các công cụ kinh tế.
Theo đó, ở các quốc gia này, hệ thống các tiêu chuẩn của công cụ pháp
luật vẫn đóng vai trò là cơ sở để đánh gia mức hiệu quả của các chính sách, và
các mặt tích cực của biện pháp điều hành bằng pháp luật được bổ sung bằng
tính mềm dẻo và linh hoạt của các biện pháp kinh tế. Bởi vậy, nó góp phẩn
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi có hiệu quả các hoạt động bảo vệ chất
lượng môi trường ở các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới,
chủ yếu là dưới các hình thức phí, lệ phí và cao hơn nữa là thuế phát thải. Tại
mỗi quốc gia đều có sẵn hệ thống thuế hiện hành, nên việc thu thuế, phí, lệ
phí dễ dàng tiến hành hơn. Tuy nhiên, khi áp dụng phí đánh vào nguồn gây ô
nhiễm và phí đánh vào sản phẩm tại các nước đang phát triển còn tại tại một
số vấn đề.
Ở Philippines, phí nước thải được áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc
các ngành công nghiệp trọng điểm có mức thải trung bình hàng năm từ 4 tấn
BOD trở lên. Từ năm 1998, hệ thống phí được mở rộng, bao gồm tất cả các
doanh nghiệp thuộc địa phận hành chính của vùng hồ Laguna và có nước thải
vào hồ. Các doanh nghiệp này gồm các doanh nghiệp sản xuất, thương mại,
các doanh nghiệp công nông nghiệp, các cụm dân cư và các hộ gia đình. Phí
29
nước thải công nghiệp đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết
số 26 của Ban quản lý hồ Laguna ở Philippines bao gồm hai phần là phí cố
định và phí biến đổi.
Phí cố định hàng năm: Mục đích thu phí cố định hàng năm là nhằm
trang trải các chi phí quản lý của Ban quản lý hồ Laguna. Phí cố định được
xác định dựa vào lượng nước thải bình quân/ngày của cơ sở sản xuất. Nếu
lượng nước thải của cơ sở sản xuất dưới 30m3/ngày thì mức phí cố định là
5.000 Peso/năm; nếu lượng nước thải 30 – 150m3/ngày thì mức phí là 10.000
Peso/năm; nếu lượng nước thải của cơ sở trên 150m3/ngày thì mức phí cố
định là 15.000 Peso/năm [36, 40].
Phí biến đổi: là phí tính trong một quý của cơ sở sản xuất tính theo tổng
lượng ô nhiễm gây ra trong quý và tính trên một đơn vị ô nhiễm gây ra.
Ở Trung Quốc, phí nước thải được quy định trong Luật bảo vệ môi
trường năm 1979. Từ năm 2003, việc tính phí nước thải ở quốc gia này được
dựa trên tải lượng chứ không chỉ dựa trên nồng độ. Phí được tính với tất cả
các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị trên và dưới tiêu chuẩn cho phép); phí được
tính với hơn 100 thông số ô nhiễm trong nước thải. Các tiêu chuẩn do Bộ Môi
trường quy định thay đổi tùy thuộc vào từng ngành công nghiệp và mức phí
thay đổi tùy theo loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra, các địa phương có thể đưa
ra các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn tiêu chuẩn quốc gia và có thể đưa ra mức phí
cao hơn mức phí do Bộ Môi trường quy định. Đồng thời, Trung Quốc quy
định mức phí được xác định thay đổi theo số lượng, nồng độ và loại chất gây
ô nhiễm được thải ra; phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công
nghiệp đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân
với lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn [21].
Còn ở Thái Lan, sự tăng trưởng kinh tế nhanh ở quốc gia này kéo theo
nhiều vấn đề ngày càng trở nên nặng nề và cấp bách trong đó có ô nhiễm môi
30
trường. Nguồn nước và không khí ở các đô thị lớn, các khu công nghiệp bị ô
nhiễm trầm trọng dẫn tới việc Chính phủ nước này phải áp dụng chế độ phí
đối với nước thải. Ở Băng Cốc, họ áp dụng hai loại phí: phí đánh vào các xí
nghiệp lớn và phí đánh vào các hộ gia đình và các xí nghiệp công nghiệp nhỏ.
Đối với xí nghiệp lớn, mức phí được tính theo công thức có hai yếu tố
là khối lượng nước tiêu thụ và mức độ tích tụ các chất thải BOD (chất oxy
sinh hóa) trong nước thải. Phần phí dánh vào BOD được xác định như phần
phí vi phạm và chỉ tính cho mức chất thải đã vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Còn đối với hộ gia đình và các xí nghiệp nhỏ, phí được dựa vào hóa
đơn thu tiền nước tiêu thụ hàng tháng (theo đồng hồ đo). Với việc chỉ thu phí
ô nhiễm từ các cơ sở gây ô nhiễm lớn, đưa phí vào hóa đơn thu tiền nước của
các hộ gia đình và các xí nghiệp nhỏ đã làm đơn giản hóa việc thu phí và việc
theo dõi chấp hành các tiêu chuẩn đã được quy định cũng vì thế mà dễ dàng
hơn.
Thêm vào đó, nguồn thu phí ở Thái Lan chủ yếu được đưa vào quỹ môi
trường để dùng vào việc trợ cấp, giúp các xí nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào
công nghệ kiểm soát ô nhiễm. Phần thu còn lại được dùng cho vận hành và
bảo quản nhà máy xử lý nước thải trung tâm, các nhà máy xả chất thải, cho
chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước có trách nhiệm thu phí dịch
vụ và tiền phạt.
Từ kinh nghiệm của các nước quốc tế cho thấy việc áp dụng phí BVMT
đối với nước thải có một số đặc điểm sau:
Phí BVMT đối với nước thải là một trong số các công cụ kinh tế được
áp dụng tại các quốc gia trên thế giới, nó thường áp dụng và phối hợp cùng
với công cụ mệnh lệnh, kiểm soát.
Việc áp dụng phí BVMT đối với nước thải không gây ảnh hưởng đến
31
tăng trưởng kinh tế và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phí BVMT đối với nước thải góp phần đáng kể làm giảm ô nhiễm nước
và tạo nguồn thu cho công tác BVMT. Tuy nhiên, mức độ thành công có khác
nhau tùy thuộc vào cơ chế thu khác nha và có tỷ lệ thành công cao hơn với
các nước có:
- Cơ chế thu đơn giản
- Áp dụng quy mô thí điểm trước khi áp dụng rộng rãi
- Áp dụng việc đánh phí với tất cả các đơn vị ô nhiễm (cả đơn vị vượt
tiêu chuẩn và không vượt tiêu chuẩn)
Đa số các nước sử dụng phí BVMT đối với nước thải để tái đầu tư vào
các hoạt động bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của việc thu phí, các cơ quan thu phí
cần thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát, xử phạt nghiêm minh những đơn vị
không đóng phí. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống quản lý môi trường trong
các doanh nghiệp để tăng tính công khai, minh bạch của các số liệu xả thải
cũng là việc làm cần thiết.
1.3.3 Một số gợi mở cho Thành phố Hồ Chí Minh
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng phí BVMT đối
với nước thải của một số quốc gia trên thế giới nêu trên, có thể thấy rằng, loại
phí này là một trong những công cụ kinh tế đã được áp dụng tương đối rộng
rãi và phổ biến nhằm hạn chế, kiểm soát tình trạng ô nhiễm môi trường. Song
song đó, việc áp dụng này đã tạo nên sự liên kết hữu hiệu giữa các chính sách
kinh tế với chính sách môi trường tùy vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của
mỗi nước mà công cụ phí này sẽ được thực hiện với những mục tiêu khác
nhau. Nhìn chung, phí BVMT đối với nước thải có hai mục tiêu chính: một là
tạo nguồn thu cho NSNN để chi cho hoạt động BVMT và hai là khuyến khích
32
người gây ô nhiễm giảm lượng chất thải ô nhiễm ra môi trường.
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm thu phí của các nước cũng cho thấy, không
phải việc thu phí nào cũng đạt được cả hai mục tiêu nêu trên với vị trí ngang
nhau. Ở các nước OECD, mục tiêu khuyến khích giảm ô nhiễm được coi là
quan trọng hơn khi mục tiêu tăng nguồn thu để chi cho hoạt động cải thiện
môi trường vẫn đang giữ ưu thế ở phần lớn các nước, đặc biệt là ở một số
nước đang phát triển. Bên cạnh đó, có nhiều nước dù đặt ra mục tiêu của việc
thu phí là khuyến khích giảm ô nhiễm song lại không đạt được mục tiêu đó vì
mức phí quy định quá thấp, không khuyến khích được các xí nghiệp thay đổi
hành vi gây ô nhiễm. Nhưng dù thế nào, việc đặt ra mục tiêu cho công tác thu
phí rất quan trọng, bởi nó quyết định đến mục tiêu dự kiến sẽ đạt được trong
chương trình thu phí và góp phần quyết định đến cách thu phí.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật về phí BVMT đối
nước thải, TP.HCM có thể tiếp thu những kinh nghiệm quý báu sau:
Một là, mức phí phải dựa trên những cơ sở mang tính phương pháp
nhất định, đặc biệt phải được điều chỉnh theo các yêu cầu cụ thể của vùng ô
nhiễm, đặc tính của loại hình sản xuất. Mức phí phải ở mức có thể chấp nhận
được, không quá thấp vì sẽ không tạo nên sự thay đổi về hành vi của những
chủ thể gây ô nhiễm theo hướng có lợi cho môi trường, và ngược lại, không
quá cao vì có thể làm cho tính cạnh tranh của sản phẩm giảm đi và lợi nhuận
của nghiệp bị suy giảm, vấp phải sự chống đối của những chủ thể gây ô
nhiễm.
Hai là, phí BVMT đối với nước thải chỉ thực sự có tác dụng khi có sự
ổn định kinh tế vĩ mô và khi có môi trường cạnh tranh thật sự. Môi trường
kinh doanh sẽ là cơ chế tự động buộc những đối tượng gây ô nhiễm phải giảm
chi phí, tối ưu hóa chi phí và hợp lý hóa kinh doanh, còn doanh nghiệp giữ
33
độc quyền thường sẽ tìm cách tăng giá hàng hóa để đối phó. Nếu hiện tượng
này xảy ra, người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu phí BVMT đối với nước thải
chứ không phải là doanh nghiệp.
Ba là, phí BVMT đối với nước thải chỉ phát huy tác dụng nếu có được
bộ máy hành chính tốt và hiệu quả, đi theo đó là một hệ thống giám sát môi
trường hữu hiệu để thực hiện. Những hiện tượng như trốn phí, tham nhũng sẽ
khiến tác dụng của phí bị vô hiệu. Việc xác định phí đòi hỏi phải có hệ thống
giám sát ô nhiễm môi trường tốt, cơ bản để giám sát được lượng chất thải,
mức độ ô nhiễm, có như vậy mới có cơ sở thực tế để xác định được một cách
đúng đắn phí BVMT đối với nước thải [35].
Tiểu kết chương 1
Phí BVMT đối với nước thải được xây dựng và tạo lập trên nền tảng cơ
sở lý luận, pháp lý chặt chẽ. Dựa trên những cơ sở này, phí BVMT đối với
nước thải được hiểu là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức phải trả cho việc xả
nước thải vào môi trường với mục đích giảm thiểu số lượng nước thải chưa
qua xử lý xả trực tiếp vào môi trường để bù đắp chi phí cho việc khôi phục,
bảo vệ môi trường. Có nhiều tiêu chí để phân loại phí BVMT đối với nước
thải nhưng nhìn chung pháp luật của các quốc gia chỉ thu phí BVMT đối với
nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt.
Phí BVMT đối với nước thải có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng
trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt ý nghĩa, loại phí này thể
hiện sự quan tâm của Nhà nước đến lĩnh vực môi trường; sự gắn kết chặt chẽ
giữa môi trường và phát triển kinh tế, góp phần giáo dục, nâng cao nhận thức
của người dân về BVMT. Về vai trò, phí BVMT đối với nước thải là một
trong những công cụ kinh tế hữu hiệu trong công tác quản lý và BVMT; giúp
34
điều chỉnh hành vi của người xả thải; bổ sung nguồn thu cho NSNN và giúp
quá trình quản lý nhà nước về BVMT trong nền kinh tế thị trường được thuận
lợi và phát triển.
Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp phí BVMT đối với nước
thải. Những nội sung cơ bản của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải
gồm có: Quy định về đối tượng chịu phí, đối tượng không chịu phí BVMT đối
với nước thải; Quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí BVMT đối
với nước thải; Quy định về thu, nộp, quản lý và sử dụng phí BVMT đối với
nước thải; Quy định về kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu nộp phí và
xử lý vi phạm pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Phí BVMT đối với
nước thải đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới như các nước thuộc
nhóm OECD, Trung Quốc, Philippines, Thái Lan…và từ những kinh nghiệm
của những nước này, chúng ta rút ra được bài học áp dụng cho Việt Nam cũng
35
như cho TP.HCM.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1 Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và quản lý nước thải tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh là xếp thứ nhất về Tổng sản phẩm
trên địa bàn (GRDP), xếp thứ nhất về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ
24 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP đạt 1.331.440 tỷ đồng (tương ứng với
52,92 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 154,84 triệu đồng (tương ứng
với 6.725 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,30% [42].
Song song với sự phát triển nhanh về kinh tế thì tốc độ gia tăng dân số,
cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, nhận thức của người dân
còn kém về vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và đối với nước thải nói
riêng. TP.HCM hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất
lớn, đặc biệt là hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống
sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế
chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động. Đơn cử
như ở cụm công nghiệp Tham Lương, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi các chất
thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính khoảng 500.000 m3/ngày.
2.1.1 Lượng nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh chịu phí bảo vệ môi
trường
Qua báo cáo của Sở Tài nguyên và môi trường, hiện nay, trên địa bàn
TP.HCM có gần 2.790 cơ sở sản xuất (thuộc 16 nhóm) đang nộp phí BVMT
đối với nước thải (tổng lưu lượng khoảng 143.430m3/ngày đêm), thu về cho
36
NSNN mỗi năm khoảng 8 tỷ đồng.
Tuy nhiên, các cơ sở y tế có phát sinh nước thải y tế (523 cơ sở, thải
hơn 22.260m3/ngày đêm) lại không thuộc đối tượng chịu phí BVMT đối với
nước thải. Các cơ sở này có lưu lượng phát sinh nước thải lớn, có khả năng
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trong nhưng không thuộc đối tượng nộp phí
là không công bằng. Vì vậy, UBND TP.HCM đã đề xuất tăng phí BVMT đối
với nước thải công nghiệp theo hướng tăng phí nhằm đảm bảo sự công bằng
giữa các đối tượng nộp phí, tác động đến hành vi giảm xả nước thải ô nhiễm
ra môi trường.
Dựa trên mức thu phí hiện hữu, TP.HCM sẽ áp dụng hệ số K để tính
phí điều chỉnh. Theo đó, mức phí BVMT sẽ tăng thêm tương ứng là 833
đồng/m3. Mức phí tăng thêm này được đề xuất tính theo cách:
Đối với cơ sở có lưu lượng xả dưới 5m3/ngày đêm vẫn áp dụng tính
mức cố định như hiện nay là 1,5 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, đối với cơ sở có
tổng lưu lượng nước thải từ 5m3/ngày đêm trở lên thì ngoài mức phí cố định
1,5 triệu đồng/năm còn được tính thêm dựa theo lưu lượng xả thải cũng như
tính chất ô nhiễm của nước và tính theo hệ số K.
Song song đó, để tăng tổng nguồn thu, ngoài các nhóm thu phí hiện
hữu (hiện có 16 nhóm), TP.HCM sẽ mở rộng thu phí. Theo tính toán, sau khi
bổ sung, tổng số các cơ sở phải đóng phí là 3.310 cơ sở. Tổng lượng nước thải
của các cơ sở thải ra khoảng 173.000m3/ngày đêm. Việc tăng mức thu phí này
sẽ ảnh hưởng một phần đến đời sống xã hội của người dân nhất là khi phí tăng
có thể dẫn đến làm tăng mức phí các dịch vụ liên quan đến y tế, xử lý rác thải.
Tuy nhiên, nó sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức về BVMT, khuyến khích họ
tiết kiệm nước, đầu tư hệ thống xử lý nước thải (giảm thiểu xả nước thải ô
nhiễm ra môi trường) và tạo sự công bằng giữa các đối tượng nộp phí. Đồng
thời, nguồn phí thu từ hoạt động này tăng thêm cho NSNN, góp phần cải thiện
37
môi trường, từ đó nâng cao chất sống của người dân.
2.1.2 Hiện trạng xử lý nước thải
Qua kết quả triển khai đề án tổng thể BVMT lưu vực sông Đồng Nai
trên địa bàn TP.HCM đến năm 2020, UBND TP.HCM đã xây dựng 3 nhà
máy xử lý nước thải tập trung, gồm: Nhà máy Bình Hưng giai đoạn 1, công
suất 141.000m3/ngày đêm; Nhà máy Bình Hưng Hòa công suất
30.000m3/ngày đêm; Nhà máy Tham Lương – Bến Cát giai đoạn 1 (chưa đi
vào hoạt động, đang trong giai đoạn vận hành thử), công suất 131.000m3/ngày
đêm.
Do đó, nếu tính luôn lượng nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý
cục bộ tại các khu dân cư mới, khu thương mại, dịch vụ và khu chung cư
(khoảng 200.000m3/ngày đêm) thì tổng lượng nước thải đô thị trên địa bàn
TP.HCM được thu gom, xử lý trước khi thải ra môi trường là khoảng hơn
370.000m3/ngày đêm, đạt tỉ lệ 21,2%.
Dự kiến đến năm 2020, thành phố sẽ có Nhà máy xử lý nước thải Tham
Lương – Bến Cát chính thức đi vào hoạt động, triển khai Nhà máy Bình Hưng
giai đoạn 2 nâng công suất lên 469.000m3/ngày đêm và Nhà máy xử lý nước
thải Nhiêu Lộc – Thị Nghè công suất 480.000m3/ngày đêm.
Về nước thải công nghiệp, tính đến tháng 8-2019, TP.HCM có 4.335 cơ
sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 4.200/4.335 cơ sở thực hiện thu gom, xử
lý nước thải công nghiệp đạt chuẩn QCVN40:2011/BTNMT, chiếm 96%. Các
cơ sở chưa có hệ thống xử lý nước thải đa phần có quy mô tương đối nhỏ,
hoạt động lâu đời, xen cài trong khu dân cư.
Đối với nước thải y tế, trong tổng số 121 bệnh viện trên địa bàn thành
phố, đến nay hầu hết đã có hệ thống xử lý nước thải với tỷ lệ nước thải được
thu gom, xử lý đạt quy chuẩn QCVN 28: 2010/VTNMT, chiếm tỷ lệ gần 99%
[43].
38
2.2 Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
2.2.1 Quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải
Tham gia vào quan hệ pháp luật về phí BVMT đối với nước thải có hai
nhóm chủ thể, một là các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền trong việc
ban hành, quản lý, thu phí và hai là người nộp phí.
Các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành, quản lý và thu phí
BVMT đối với nước thải. Sự phân cấp trách nhiệm, quyền hạn khiến cho có
nhiều cơ quan, bộ phận có vai trò tham gia vào quá trình ban hành, quản lý và
thu phí BVMT đối với nước thải, cụ thể như:
Thứ nhất, đối với các cơ quan có thẩm quyền chung trong việc ban
hành, quản lý, thu phí BVMT đối với nước thải. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Danh mục phí và lệ phí kèm
theo Pháp lệnh Phí và lệ phí, còn Chính phủ quy định chi tiết Danh mục phí
và lệ phí. Đến Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/06/2002 quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh Phí và lệ phí, thẩm quyền quy định đối với một số loại
phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan đến nhiều chính sách kinh tế - xã hội
của Nhà nước thuộc Chính phủ, trong đó có việc quy định về phí BVMT đối
với nước thải. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này, Chính phủ ban hành Nghị
định số 67/2003/NĐ-CP quy định về phí BVMT đối với nước thải. Nghị định
này được thay thế bởi Nghị định số 25/2013/NĐ-CP và gần đây nhất là Nghị
định 154/2016/NĐ-CP quy định chi tiết hơn về phí BVMT đối với nước thải.
Theo đó, đối với việc quy định về thẩm quyền và mức thu phí, Chính
phủ chỉ quy định mức khung thu phí, còn tỷ lệ thu cụ thể do các cơ quan khác
quy định. Chẳng hạn, mức thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt được
tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán của 1m3 nước sạch, do HĐND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức cụ thể phù hợp với tình
39
hình thực tế tại địa phương với mức phí là 10% trên giá bán nước sạch chưa
bao gồm thuế giá trị gia tăng. Hay đối với nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ
chức, hộ gia đình tự khai thác để sử dụng (trừ những hộ gia đình chưa có hệ
thống cấp nước sạch và đang được Nhà nước thực hiện chế độ bù giá để có
giá nước phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội ở địa bàn) thì mức phí được
xác định theo từng người sử dụng nước căn cứ vào số lượng nước sử dụng
bình quân của một người trong xã, phường, thị trấn nơi khai thác và giá bán
1m3 nước sạch trung bình tại xã, phường, thị trấn [10].
Còn đối với nước thải công nghiệp, trách nhiệm quy định cụ thể mức
thu phí cố định và mức thu đối với từng chất gây ô nhiễm trong nước thải
công nghiệp quy định cụ thể theo điểm c Khoản 2 Điều 6 của Nghị định
154/2016/NĐ-CP của Chính phủ.
Thứ hai, nhóm cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thu phí BVMT đối với
nước thải.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan, tổ chức trực tiếp thu
phí BVMT đối với nước thải có sự khác biệt với nhau tương ứng với từng đối
tượng chịu phí khác nhau, cụ thể như:
Đối với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt, chủ thể tiến hành thu là
đơn vị cung cấp nước sạch. Bởi loại phí này được xác định mức thu trên cơ sở
lượng nước sạch mà người nộp phí sử dụng và giá bán nước sạch do đơn vị
cung cấp nước bán cho khách hàng, nên đơn vị này trong quá trình thu tiền
nước đã bán cho người sử dụng sẽ tiến hành thu luôn phí BVMT đối với nước
thải sinh hoạt. Quy định này vừa tập trung được đầu mối thu, đồng thời thuận
lợi hơn trong việc tính toán số phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt phải
nộp cho từng chủ thể có trách nhiệm nộp phí.
Trong trường hợp nước thải sinh hoạt thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình
tự khai thác nước để sử dụng, HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
40
sẽ quy định thẩm quyền cụ thể cho cơ quan có trách nhiệm thu phí BVMT
trong trường hợp này. Trong thực tế, các địa phương thường trao thẩm quyền
này cho UBND xã, phường, thị trấn trực tiếp thu.
Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, cơ quan có trách
nhiệm thu là Sở TN&MT. Theo đó, người nộp phí BVMT đối với nước thải
công nghiệp có nghĩa vụ kê khai, nộp phí BVMT cho Sở TN&MT; theo thông
báo nộp phí, người nộp phí tiến hành nộp đủ, đúng hạn số tiền phí phải nộp
vào Kho bạc Nhà nước của địa phương và quyết toán tiền phí phải nộp hàng
năm với Sở TN&MT. Đồng thời, căn cứ vào yêu cầu thu phí của mỗi địa
phương và khả năng quản lý của cơ quan TN&MT cấp huyện, mà Sở
TN&MT có thể báo cáo UBND cấp tỉnh để phân cấp cho Phòng TN&MT cấp
huyện thực hiện thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn.
2.2.2 Quy định về mức thu phí, chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải
2.2.2.1 Quy định về cách tính phí và mức thu phí
* Đối với nước thải công nghiệp
Mức phí BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính như sau [10;
Khoản 2 Điều 6]:
Phí BVMT đối với nước thải của cơ sở sản xuất, cơ sở chế biến không
thuộc danh mục lĩnh vực, ngành sản xuất, chế biến có nước thải chứa kim loại
nặng quy định do Bộ TN&MT ban hành được tính theo công thức:
F = f + C
Trong đó:
F là số phí phải nộp
f là mức phí cố định 1.500.000 đồng/năm
C là phí biến đổi, tính theo: tổng lượng nước thải ra; hàm lượng thông
số ô nhiễm và mức thu đối với mỗi chất theo biểu dưới đây:
41
Số TT Thông số ô nhiễm tính phí Mức phí (đồng/kg)
1 Nhu cầu ô xy hóa học (COD) 2.000
2 Chất rắn lơ lửng (TSS) 2.400
3 Thủy ngân (Hg) 20.000.000
4 Chì (Pb) 1.000.000
5 Arsenic (As) 2.000.000
6 Cadmium (Cd) 2.000.000
Cơ sở sản xuất, chế biến có tổng lượng nước thải dưới 20m3/ngày đêm
quy định tại điều này, không áp dụng mức phí biến đổi.
Số phí biến đổi (C) được tính cho từng chất gây ô nhiễm theo công thức sau:
Mức thu phí Số phí Tổng Hàm lượng BVMT đối với BVMT đối lượng chất gây ô nước thải công với nước thải nước thải x nhiễm có x 10-3 x nghiệp của chất = công thải ra trong nước gây ô nhiễm thải ra nghiệp phải (m3) thải (mg/l) môi trường nộp (đồng) (đồng/kg)
Xác định lượng nước thải ra:
Đối với các cơ sở có đồng hồ đo lượng nước thải, lượng nước thải ra
được xác định căn cứ vào số đo trên đồng hồ;
Đối với các cơ sở không có đồng hồ đo lượng nước thải thì lượng nước
thải được xác định dựa trên kết quả đo đạc thực tế của cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường hoặc được tính bằng 80% lượng nước sử dụng hoặc
thông tin trong báo cáo đánh giá tác động môi trường theo định kỳ hàng quý.
Xác định hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong nước thải: dựa theo
kết quả phân tích chất lượng nước thải (kết quả đo đạc của cơ quan quản lý
nhà nước về môi trường hoặc kết quả kiểm tra, thanh tra gần nhất nhưng
42
không quá 12 tháng tính đến thời điểm khai, nộp phí)
* Đối với nước thải sinh hoạt
Mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1
m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Đối với nước thải sinh hoạt
thải ra từ các tổ chức, hộ gia đình tự khai thác nước để sử dụng (trừ trường
hợp thuộc đối tượng miễn thu phí) thì mức phí được xác định theo từng người
sử dụng nước căn cứ vào số lượng nước sử dụng bình quân của một người
trong xã, phường, thị trấn nơi khai thác và giá bán 1 m3 nước sạch trung bình
tại xã, phường, thị trấn.
Số phí BVMT phải nộp đối với nước thải sinh hoạt được xác định như
sau:
Số lượng nước Giá bán nước Mức thu Số phí phải = x x sạch sử dụng (m3) sạch (đồng/m3) phí nộp (đồng)
Trong đó, số lượng nước sạch sử dụng được xác định theo đồng hồ đo
lượng nước sạch tiêu thụ của người nộp phí.
Trường hợp người nộp phí chưa lắp được đồng hồ đo lượng nước sạch
tiêu thụ thì áp dụng theo định mức khoán lượng nước sạch tiêu thụ đối với
từng loại đối tượng sử dụng nước sạch do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương quy định phù hợp với từng loại đối tượng sử dụng.
Trường hợp tự khai thác nước thì số lượng nước sạch sử dụng được xác
định căn cứ vào số người theo sổ hộ khẩu gia đình (đối với gia đình) hoặc
bảng chấm công, bảng lương, hợp đồng lao động (đối với tổ chức không sản
xuất, chế biến) và lượng nước sạch bình quân theo đầu người trong xã,
phường, thị trấn.
Đối với các cơ sở kinh doanh, dịch vụ tự khai thác nước để sử dụng thì
số lượng nước sạch sử dụng được xác định căn cứ vào quy mô hoạt động kinh
doanh, dịch vụ do cơ sở tự kê khai và thẩm định của Ủy ban nhân dân xã,
43
phường, thị trấn.
2.2.2.2 Quy định về quản lí và sử dụng phí
Phí BVMT đối với nước thải được xác định là một khoản thu thuộc
NSNN, được quản lý và sử dụng như sau:
Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp thì theo Nghị định
154/2016/NĐ-CP, nguồn thu từ phí BVMT đối với nước thải công nghiệp
được chia là hai phần:
Một là, để lại một phần số phí (25%) thu được cho cơ quan, đơn vị trực
tiếp thu phí trên tổng số tiền phí BVMT thu được để trang trải chi phí cho
việc thu phí, chi phí đánh giá, lấy mẫu phân tích nước thải phục vụ cho việc
thẩm định phí, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với nước thải công nghiệp;
Phần phí thu được còn lại (75%) sau khi đã trừ đi phần để lại nêu trên, đơn vị
thu phí có trách nhiệm nộp toàn bộ vào ngân sách địa phương để sử dụng cho
công tác BVMT, bổ sung vốn hoạt động cho Quỹ BVMT của địa phương đó,
sử dụng cho phương án công nghệ, kỹ thuật xử lý ô nhiễm môi trường nước.
Với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt, tỉ lệ phí để lại cho đơn vị
cung cấp nước sạch là 10%, tỉ lệ phí để lại cho việc trang trải trong hoạt động
thu phí theo pháp luật hiện hành được điều chỉnh với mức là 25% thay cho
mức cũ là 15%. Việc điều chỉnh tỉ lệ quản lý và sử dụng nước thải sinh hoạt
theo Nghị định số 154/2016/NĐ-CP là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay, giúp cơ quan thu phí có thêm kinh phí trang trải cho các hoạt động
thu phí, cải tạo môi trường, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ
quan này.
2.2.2.3 Quy định về kê khai, thẩm định tờ khai và nộp phí
Đối với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt được thực hiện
theo các bước sau:
Thứ nhất, xác định số phí phải nộp: hàng tháng, đơn vị cung cấp nước
44
sạch xác định số phí BVMT phải nộp của chủ thể sử dụng nước do đơn vị
cung cấp. Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp xã xác định số phí đối với các tổ
chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh, dịch vụ tự khai thác nước để sử
dụng trên địa bàn.
Thứ hai, thu và nộp phí: Người nộp phí thực hiện nộp phí BVMT đối
với nước thải cho đơn vị cung cấp nước sạch đồng thời với việc thanh toán
tiền sử dụng nước sạch theo hóa đơn bán hàng hàng tháng. Ủy ban nhân dân
cấp xã thu phí đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, cơ sở kinh doanh,
dịch vụ tự khai thác nước để sử dụng trên địa bàn.
Quy định thu phí BVMT đối với nước sinh hoạt với việc thanh toán
tiền sử dụng nước sạch theo hóa đơn bán hàng tạo điều kiện thuận lợi trong
việc thu phí và chống thất thoáng trong công tác thu phí BVMT.
Đối với phí BVMT đối với nước thải công nghiệp:
Theo quy định, việc nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp
được thực hiện theo các bước chính sau: kê khai, thẩm định và ra thông báo
nộp phí, nộp phí.
Kê khai số phí phải nộp: Người nộp phí kê khai số phí phải nộp hàng
quý trong vòng 05 ngày đầu tháng đầu tiên của quý tiếp theo với tổ chức thu
phí.
Thẩm định tờ khai và ra thông báo số phí phải nộp: Sở TN&MT có
nhiệm vụ thẩm định tờ khai phí BVMT, ra thông báo số phí phải nộp và thời
hạn nộp tiền, chậm nhất không quá ngày cuối cùng tháng đầu tiên của quý
tiếp theo.
Nộp phí: Người nộp phí có nghĩa vụ nộp đủ và đúng hạn số tiền phí
phải nộp vào tài khoản “Tạm thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
công nghiệp” tại Kho bạc Nhà nước theo thông báo của Sở TN&MT, nhưng
chậm nhất không quá 10 ngày kể từ khi có thông báo về số phí phải nộp của
45
Sở TN&MT.
2.2.3 Quy định về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về phí bảo vệ
môi trường đối với nước thải
2.2.3.1 Quy định về kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải
Công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động thu, nộp phí BVMT đối với
nước thải là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về
môi trường. Pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định cụ thể về
công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động thu, nộp phí BVMT
đối với nước thải mà nội dung này thực hiện theo quy định tương ứng về môi
trường nói chung và các quy định về thanh tra, kiểm tra phí, lệ phí.
Đối với việc thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác thu nộp phí BVMT,
đặc biệt là phí BVMT đối với nước thải công nghiệp nên vai trò của Thanh tra
TN&MT rất quan trọng. Bởi đây là cơ quan được giao nhiệm vụ, quyền hạn
để thực hiện việc thanh tra, kiểm tra đối với các hoạt động về môi trường.
Theo Điều 18 Nghị định số 35/2009/NĐ-CP ngày 07/04/2009 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tài nguyên và Môi trường,
thì cơ quan này sẽ đảm nhận việc thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành về môi trường. Theo đó, thanh tra hành chính là thanh tra việc chấp
hành chính sách, pháp luật và thực hiện nhiệm vụ được giao của cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp. Còn
thanh tra chuyên ngành về môi trường là thanh tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật về tài nguyên và môi trường trong phạm vi quản lý nhà
nước của Thủ trưởng cùng cấp đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có hoạt
động liên quan đến tài nguyên và môi trường, bao gồm: tài nguyên đất; nước;
khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thủy văn…Hoạt động thanh tra
được thực hiện dưới hình thức thanh tra theo chương trình, kế hoạch và thanh
46
tra đột xuất.
Còn kiểm tra hoạt động thu nộp phí BVMT đối với nước thải là việc
xem xét các tổ chức, doanh nghiệp có kê khai nộp đúng và đủ số phí phải nộp
không. Trong quá trình kiểm tra tình hình hoạt động và thực hiện công tác
BVMT, đoàn thanh tra về môi trường đồng thời kiểm tra việc kê khai và nộp
phí của doanh nghiệp, tổ chức.
Ngoài ra, cùng với Thanh tra TN&MT, Bộ TN&MT có trách nhiệm
giám sát, kiểm tra hoạt động thẩm định tờ khai của Sở TN&MT và hướng dẫn
giải quyết kịp thời các vướng mắc khi phát sinh. Sở TN&MT có trách nhiệm
thẩm định tờ khai phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, mở sổ sách kế
toán để theo dõi riêng tiền phí BVMT đối với nước thải công nghiệp của đối
tượng nộp phí trên địa bàn, theo dõi và quản lý, sử dụng phần tiền phí theo
quy định. Trong quá trình tiến hành thẩm định tờ khai, Sở TN&MT sẽ kiểm
tra được tình hình kê khai, nộp phí của doanh nghiệp; Bộ TN&MT sẽ giám
sát lại, kiểm tra hoạt động thẩm định tờ khai của Sở TN&MT, qua đó, phát
hiện được các doanh nghiệp đã thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ nộp phí nước
thải hay chưa.
Còn đối với nước thải sinh hoạt thì đơn vị cung cấp nước sạch sẽ thu
phí cùng với việc thu tiền sử dụng nước sạch, vì thế, đơn vị này cũng sẽ kiểm
tra, theo dõi được việc nộp phí của các đối tượng, chủ thể phải nộp phí.
2.2.3.2 Xử lí vi phạm về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Vi phạm pháp luật là hành vi vi phạm, làm trái, làm không đúng như
các quy định trong pháp luật nhà nước do các cá nhân hay tổ chức có năng lực
pháp lý theo quy định pháp luật thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ và phải chịu chế tài thích hợp [44]. Theo đó, vi phạm
pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là hành vi cố ý hoặc vô ý của tổ
chức, cá nhân không tuân thủ các quy định về phí BVMT đối với nước thải.
47
Theo đó, hành vi vi phạm có thể là kê khai không đúng số phí phải nộp,
không nộp phí, nộp không đầy đủ, đúng hạn, kéo dài nợ phí và một số vi
phạm về quản lý và sử dụng số tiền phí thu được…Tùy thuộc vào tính chất và
mức độ của hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân sẽ bị áp dụng trách nhiệm
pháp lý tương ứng như trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm kỷ luật.
Trong lĩnh vực phí BVMT đối với nước thải thì không áp dụng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại và trách nhiệm hình sự.
Về trách nhiệm hành chính, pháp luật hiện hành không có một văn bản
riêng quy định về việc xử lý vi phạm hành chính về phí BVMT đối với nước
thải. Bởi loại phí này là một trong những loại phí thuộc vào NSNN nên quy
định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực phí và lệ phí sẽ được áp dụng khi xử lý
vi phạm về phí BVMT đối với nước thải, cụ thể là quy định tại Thông tư số
186/2013/TT-BTC ngày 05/12/2013 hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí. Đồng thời, phí BVMT đối với
nước thải là một trong những công cụ kinh tế BVMT, nên xử lý vi phạm hành
chính đối với loại phí này còn có Nghị định 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng
11 năm 2016 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.
Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này hiện nay được áp dụng
tùy theo vi phạm thực tế: phạt tiền và buộc thực hiện biện pháp giảm thiểu chỉ
số các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi
trường, tạm đình chỉ hoạt động các doanh nghiệp cho đến khi thực hiện xong
các biện pháp BVMT cần thiết; truy thu phí phải nộp do kê khai không trung
thực… Ngoài ra, chủ thể vi phạm còn bị xử lý bằng một trong các biện pháp:
buộc thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, phục hồi môi
trường.
Về trách nhiệm kỷ luật, xử lý vi phạm trong lĩnh vực pháp luật về phí
48
BVMT được áp dụng với cán bộ, công chức, viên chức, công nhân viên của
các tổ chức khi họ vi phạm các quy tắc, nghĩa vụ trong hoạt động thực thi
công vụ hoặc có các hành vi như: bao che cho người vi phạm pháp luật, thiếu
tinh thần trách nhiệm hoặc vi phạm nghĩa vụ nộp phí BVMT…tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra mà mức xử lý vi phạm có thể là bị
khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc…
2.3 Thực tiễn thực hiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1 Tình hình kê khai, nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
2.3.1.1 Kê khai phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp
Theo Khoản 2 Điều 8 Nghị định 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11
năm 2016, doanh nghiệp có tổng lượng nước thải trên 20m3/ngày đêm có
nghĩa vụ kê khai tờ khai nộp phí BVMT gửi về Sở Tài nguyên và môi trường
(Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM) trước ngày mùng 5 vào tháng đầu tiên
của quý tiếp theo. Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp kê khai và nộp từ khai phí
đúng hạn. Đa phần doanh nghiệp kê khai trễ hạn hoặc đối phó khi có Đoàn
kiểm tra của một số cơ quan quản lý kiểm tra thì doanh nghiệp mới kê khai tờ
khai phí BVMT đối với nước thải.
Còn nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của phí
BVMT và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện đóng phí BVMT đối với
nước thải công nghiệp, do đó, nhiều doanh nghiệp chưa tự giác kê khai, hoặc
kê khai không đúng với thực tế xả thải để đóng phí ở mức thấp nhất.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp lớn có lượng nước thải nhiều chỉ kê khai
sau khi Sở TN&MT (Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM) gửi thư mời như:
Công ty bao bì nhựa Thành Phú, Công Ty TNHH Sản Xuất TM-DV Minh
Đạt, Cơ sở Tân Thành, Công Ty Cổ Phần Kỹ Nghệ Thực Phẩm Việt Sin…
Phí BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính dựa vào lưu lượng
49
và nồng độ các chất gây ô nhiễm có trong nước thải. Nồng độ các chất ô
nhiễm trong nước và lưu lượng thải của mỗi doanh nghiệp là khác nhau tùy
thuộc ngành nghề, quy mô hoạt động, công nghệ sản xuất và biện pháp giảm
thiểu ô nhiễm. Do vậy, việc điều tra, khảo sát thực tế, lấy mẫu tại doanh
nghiệp là cần thiết nhằm thu thập thông tin về hoạt động sản xuất, dây chuyền
công nghệ, nguyên nhiên liệu, sản phẩm và các biện pháp xử lí nước thải của
doanh nghiệp để có cơ sỡ tính phí lưu lượng thải thực tế; phân tích nồng độ
các chất ô nhiễm có trong mẫu nước thải được lấy từ doanh nghiệp để có cơ
sở xác định mức phí BVMT phù hợp mà doanh nghiệp phải nộp.
Ngoài ra, các thông tin điều tra, khảo sát là đơn lẻ của từng doanh
nghiệp cụ thể, chưa có đánh giá tổng quát giúp lãnh đạo Chi cục Bảo vệ môi
trường thuận lợi hơn trong việc đánh giá hiệu quả của chương trình điều tra,
khảo sát để từ đó có những chỉ đạo chuẩn xác nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thu phí BVMT. Do vậy, kết quả điều tra, khảo sát cần được tổng hợp qua
đó làm căn cứ số liệu để so sánh, đánh giá tình hình thực tế việc khảo sát điều
tra, đánh giá lưu lượng và nồng độ có trong nước thải của doanh nghiệp đồng
thời còn là cơ sở dữ liệu để báo cáo các cấp có thẩm quyền. Vì vậy, trong năm
2019, Chi Cục Bảo vệ môi trường TP.HCM tiếp tục tổ chức đo đạc, khảo sát
và thẩm định tờ khai phí hàng năm của 400 doanh nghiệp trên địa bàn 19
quận/huyện: 1, 2, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 12, Bình Thạnh, Bình Tân, Gò Vấp…
Chi Cục Bảo vệ môi trường khảo sát, thẩm định lưu lượng, nồng độ
nước thải tại các doanh nghiệp dựa vào đặc điểm ngành nghề, lượng nước xả
thải, đối tượng sản xuất và là những doanh nghiệp mới kê khai lần đầu hay có
báo cáo thay đổi về quy mô, công nghệ, lưu lượng cũng như địa điểm hoạt
động sản xuất.
Phần lớn, các doanh nghiệp có lượng nước thải trên 20m3/ngày đêm kê
khai tờ khai phí BVMT có kèm theo hồ sơ đầy đủ bao gồm sổ theo dõi lượng
50
nước khai thác giếng, xả thải, kết quả phân tích nồng độ các chất gây ô nhiễm.
Tuy nhiên, do đặc thù của báo cáo định kỳ về công tác quản lý môi trường
của doanh nghiệp là 06 tháng/2 lần/năm nên hầu hết các doanh nghiệp sử
dụng kết quả phân tích này cho kê khai tờ khai phí cho 02 quý. Điều này chưa
thực sự đánh giá hết chất lượng nước thải đầu ra của doanh nghiệp trong thời
gian 06 tháng.
Đối với doanh nghiệp xả thải dưới 20m3/ngày đêm tuy trong Nghị định
154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016 không quy định kê khai tờ khai
phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trong năm nhưng để theo dõi, quản
lý và cập nhật liên tục về lượng nước thải doanh nghiệp cũng như để lưu hồ
sơ quản lý nên Chi cục bảo vệ môi trường TP.HCM đã phát hành Phiếu kê
khai lượng nước thải phục vụ thu phí bảo vệ môi trường để doanh nghiệp thực
hiện kê khai trước ngày 5 của quý 2 trong năm.
2.3.1.2 Số phí bảo vệ môi trường thu được từ 2018 – 2019
Theo Nghị định số 154/2016/NĐ-CP của Chính phủ, phí BVMT đối
với nước thải công nghiệp thu phí dựa trên lưu lượng và nồng độ có trong
nước thải. Trong đó, nồng độ nước thải đóng vai trò quyết định đến số phí
phải nộp của của doanh nghiệp.
Bảng 3.1 Số tiền phí BVMT thu được từ 01/01/2018 – 31/08/2019
Năm Số tiền thu được Số doanh nghiệp thực hiện
01/2018 – 10/05/2018 2.369.254.061 đồng 3020
Tháng 01/2019 586.152.182 đồng Chưa thống kê
01/2019 – 31/08/2019 25.830.136.816 đồng Chưa thống kê
2.3.2 Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải
2.3.2.1 Những kết quả đạt được
Về công tác chuyên môn, dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo Chi cục
51
Bảo vệ môi trường cùng với sự cố gắng, nổ lực của các chuyên viên Phòng
Thu phí bảo vệ môi trường cùng với sự phối hợp chặt chẽ của Phòng Tài
nguyên – Môi trường quận, huyện, Ban quản lý KCN – KCX, sự tham gia có
ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp và cộng đồng, trong năm 2019 công
tác thu phí đã đạt được một số kết quả, cụ thể là:
Phòng Thu phí bảo vệ môi trường – Chi cục Bảo vệ môi trường phối
hợp với Phòng Tài nguyên – Môi trường của 24 quận, huyện tiến hành thống
kê, lập danh sách các doanh nghiệp thuộc đối tượng phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố.
Tham mưu lãnh đạo Sở TN&MT quy trình phối với với Cục Thuế và
Tổng công ty cấp nước Sài Gòn thực hiện việc ngưng thu hoàn trả phí trên
hóa đơn tiền nước cho các sơ sở sản xuất thuộc đối tượng nộp phí BVMT đối
với nước thải công nghiệp.
Phát hành thông báo nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp cho
5.937 doanh nghiệp có lưu lượng xả thải dưới 5m3/ngày theo danh sách của
Phòng Tài nguyên và môi trường 24 quận/huyện cung cấp và 901 doanh
nghiệp bao gồm các doanh nghiệp có lưu lượng xả thải trên 5m3/ngày, các
khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn thành phố. Tổng số tiền thu phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp từ tháng 01/2019 đến ngày 31/08/2019
là: 25.830.136.816 đồng.
Sở TN&MT phối hợp với Phòng Tài nguyên & Môi trường quận,
huyện thẩm định, khảo sát, lấy mẫu, điều tra thu thập thông tin của 400 cơ sở
sản xuất thuộc đối tượng chịu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trên
địa bàn thành phố.
Tham mưu lãnh đạo Sở gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường báo cáo công
tác bảo vệ môi trường năm 2018 theo Thông tư 19/2016/TT-BTNMT của Bộ
52
Tài nguyên và Môi trường.
Phối hợp với phòng Kế hoạch tổng hợp tổ chức đấu thầu thực hiện báo
cáo công tác bảo vệ môi trường năm 2019 theo Thông tư 19/2016/TT-
BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Tham mưu lãnh đạo Sở gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành
Văn bản số 6796/STNMT-CCBVMT ngày 12 tháng 8 năm 2019 đề nghị Ủy
ban nhân dân 24 quận – huyện thực hiện báo cáo công tác bảo vệ môi trường
cấp huyện theo quy định của Thông tư 19/2016/TT-BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường và cập nhật số liệu năm 2019 để thực hiện báo cáo
công tác bảo vệ môi trường của Thành phố.
Về các công tác phối hợp khác, Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp
cùng Sở TN&MT ban hành một số văn bản:
Văn bản gửi Công ry TNHH Lập Phúc về báo cáo đánh giá tác động
môi trường dự án “Mở rộng, nâng công suất nhà máy sản xuất khuôn mẫu
kim loại từ 2.000 tấn/năm lên 3.000 tấn/năm và sản xuất các sản phẩm nhựa
từ 5.000 tấn/năm lên 7.000 tấn/năm” tại phường Phú Thuận, Quận 7 của Công
ty TNHH Lập Phúc;
Văn bản gửi Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước
Thành phố về ý kiến đối với hồ sơ xác nhận đăng ký kế hoạch bảo vệ môi
trường dự án Nạo vét rạch Bến Chùa (từ cửa xả đường số 1 đến nhánh Rạch
Chiếc) Quận 9.
Ngoài ra, Chi cục Bảo vệ môi trường tham mưu cùng Sở TN&MT cho
ý kiến trao đổi một số vấn đề về môi trường như: dự án nạo vét rạch Bến
Chùa; thủ tục môi trường đối với việc thay đổi, bổ sung danh mục các chủng
loại hàng hóa dự án Kho lạnh chứa dược phẩm và hóa chất, công suất 1.700
tấn; bổ sung hồ sơ pháp lý của báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự
án Cơ sở giặt là làm sạch các sản phẩm dệt và lông thú; ý kiến chấp thuận vị
53
trí bãi đỗ bùn của dự án Nạo vét khu nước bến cảng Tân Cảng Phú Hữu; điều
chỉnh phương án xây dựng hệ thống xử lý nước thải của dự án Khu tái định
cư Tham Lương,…
2.3.2.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện quy định về phí
BVMT đối với nước thải còn tồn tại những vấn đề sau:
Thứ nhất, hạn chế của việc thực thi phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp
Một là, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính đối với
các đối tượng chậm kê khai, chậm nộp, không kê khai hoặc không nộp phí
còn chưa thực sự quyết liệt, triệt để, chưa đủ sức răn đe dẫn đến tình trạng
không tuân thủ theo yêu cầu của cơ quan quản lý, gây thất thu cho ngân sách
nhà nước.
Sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan như các công ty kinh doanh
nước sạch, đơn vị thuộc Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an…. với Sở Tài nguyên
và Môi trường chưa chặt chẻ, thiếu sự liên kết dẫn đến tình trạng số liệu
không thống nhất trong phân loại đối tượng chịu phí, không kịp thời trong rà
soát, thống kê các đối tượng xả thải trên địa bàn.
Hai là, ý thức tự giác tuân thủ quy định của pháp luật về phí BVMT đối
với nước thải chưa cao.
Mặc dù các doanh nghiệp đều nhận thấy rằng vấn đề BVMT là cần
thiết nhưng phần lớn các doanh nghiệp lại tranh né việc đóng phí cho việc
BVMT. Khi triển khai thu phí BVMT trên địa bàn thành phố thì chỉ có những
doanh nghiệp có đầu tư cơ sở hạ tầng tốt cho các trang thiết bị xử lý chất thải
là đồng tình, còn lại đa số các doanh nghiệp luôn né tránh, không chịu kê khai
hoặc kê khai không đúng với thực tế để giảm đóng phí BVMT ở mức thấp
54
nhất.
Chính sách thu phí BVMT vẫn được coi là mới đối với một số doanh
nghiệp chưa nắm bắt, không biết kê khai (quy trình kê khai, nộp phí, thiếu
thông tin để kê khai…) nên vẫn chờ khi có đại diện của cơ quan chuyên trách
đến hướng dẫn mới thực hiện kê khai; thậm chí có một số doanh nghiệp đã kê
khai nhưng vẫn chưa muốn đóng phí, chần chừ không nộp, đến khi có cơ
quan chuyên trách nhắc nhở, làm việc thì mới chịu nộp.
Một số doanh nghiệp có sử dụng nước cấp của Tổng công ty cấp nước
Sài Gòn, trên hóa đơn tiền nước đã có thu phí BVMT rồi nên họ cho rằng
mình đã hoàn thành nghĩa vụ nộp phí, do đó các doanh nghiệp này lãng tránh
việc kê khai nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp, phần lớn là các
doanh nghiệp không có phát sinh nước thải trong quá trình sản xuất.
Ba là, nguồn lực cho công tác kiểm soát nguồn thải còn hạn chế.
Hàng năm, Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM phải thẩm định sơ bộ
10.120 tờ khai cho 2.530 doanh nghiệp cho 4 quý. Vì thế, để xác định đúng và
đủ số phí phải nộp so với tờ khai thì Chi cục phải thực hiện và lấy mẫu nước
thải thẩm định đủ 10.120 tờ khai phí của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do hạn chế
về nhân lực và kinh phí được duyệt để thẩm định số tờ khai trên nên số doanh
nghiệp được thẩm định hàng năm chỉ dao động từ 400-600 doanh nghiệp.
Vì vậy, việc thẩm định phí chủ yếu còn dựa trên số liệu kê khai và kết
quả quan trắc định kỳ của doanh nghiệp, chính vì vậy không tránh được thực
tế là số phí thu được thấp hơn nhiều so với hoạt động công nghiệp có phát
sinh nước thải.
Trang thiết bị, công cụ hỗ trợ chưa đầy đủ như thiết bị xác định lưu
lượng nước thải tại chỗ khi thực hiện, kiểm tra đột xuất, phần mềm lưu giữ
thông tin nguồn thải…làm mất nhiều thời gian và dẫn đến nhầm lẫn trong quá
55
trình tính toán, xác định số phí phải nộp (hiện nay, công tác tổng hợp thông
tin, thẩm định tờ khai nộp phí vẫn còn được thực hiện theo phương pháp thủ
công).
Thứ hai, hạn chế của việc thực thi phí BVMT đối với nước thải sinh
hoạt
Thực tế cho thấy rằng việc thu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt
cùng với nước cấp sinh hoạt tương đối dễ dàng và hiệu quả, không bỏ sót
nguồn thu, vì nếu người sử dụng không thực hiện nghĩa vụ tài chính thì sẽ bị
ảnh hưởng tới nhu cầu sử dụng nước sạch của họ. Tuy nhiên, do phí BVMT
đối với nước thải được thu cùng với tiền sử dụng nước sạch hàng tháng nên
mục tiêu tác động đến hành vi hạn chế sử dụng nước sạch để giảm bớt lượng
nước thải sinh hoạt không đạt được mục tiêu cũng như không tác động hoàn
toàn tuyệt đối đến nhận thức của người sử dụng. Bởi lẽ, người dân chỉ quan
tâm đến số tiền nước phải đóng hàng tháng, chứ ít khi họ quan tâm đến số tiền
mình phải đóng ấy gồm có những nội dung gì.
Ngoài ra, số tiền phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt phải nộp được
tính dựa trên số lượng nước sạch sử dụng của người nộp phí trên cùng một địa
bàn nên mỗi hộ dân sử dụng khác nhau thì mức phí phải nộp cũng sẽ khác
nhau. Tuy nhiên, việc người dân không nắm được các quy định của pháp luật
về loại phí này phải nói đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật từ phía
các cơ quan nhà nước vẫn chưa được tốt. Thậm chí, bản thân những nhân viên
đi thu tiền nước – là người trực tiếp thực hiện việc thu phí theo ủy quyền của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng hoàn toàn không hiểu về loại phí này
56
để có thể giải thích cho người dân khi có thắc mắc.
Tiểu kết chương 2
Từ việc nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về phí BVMT đối với nước thải ở TP.HCM hiện nay, luận văn rút ra một
số kết luận sau đây:
1. Về thực trạng pháp luật
Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải đã đạt được một số kết quả
như sau: Xác định và làm rõ đối tượng chịu phí; Đảm bảo công bằng giữa các
chủ thể nộp phí; Đơn giản cách tính phí và kê khai phí tạo sự thuận lợi cho
doanh nghiệp khi kê khai cũng như cơ quan quản lý nhà nước khi thực hiện
thẩm định, giảm tổn thất xã hội vô ích; Lược bỏ được số lần kê khai, nộp
phí…Bên cạnh đó, pháp luật về phí BVMT đối với nước thải vẫn còn tồn tại
một số hạn chế như: chưa bao quát hết đối tượng không chịu phí, quy định về
chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phí còn bỏ sót chủ thể, chưa thể hiện đầy
đủ, rõ ràng trách nhiệm quyền hạn của các chủ thể; quy định về mức thu, chế
độ thu, nộp quản lý và sử dụng phí còn nhiều bất cập, quy định về xử lý vi
phạm pháp luật về phí chưa đủ mạnh…
2. Về thực tiễn thực hiện pháp luật
Phí BVMT đối với nước thải đã góp phần tạo nguồn thu cho NSNN và
tác động hành vi của người nộp phí. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền trong hoạt động quản lý thu phí cũng thực hiện rất hữu hiệu chức trách
của mình. Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thực hiện thu phí
BVMT đối với nướct hải vẫn có một số điểm còn hạn chế trong việc thực thi
xuất phát từ phía các chủ thể có thẩm quyền, chủ thể nộp phí, trong công tác
xử phạt vi phạm pháp luật, trong công khai, minh bạch thông tin có liên quan
57
đến việc thu, quản lý và sử dụng phí.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải
đảm bảo tính minh bạch, khả thi
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong các văn bản pháp luật là quan điểm mang tính định hướng và là
yêu cầu hết sức quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối
với nước thải. Để đáp ứng yêu cầu này, việc hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải cần phải được thực hiện theo hướng làm tăng tính cụ
thể và tính khả thi của các quy định trong các văn bản luật hiện hành. Theo
đó:
Về tính cụ thể, cần khắc phục tình trạng tồn tại những quy định thiếu
tính cụ thể về người nộp phí, cách xác định phí, kê khai thẩm định phí…gây
lúng túng cho cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức, cá nhân có liên quan
khi thực hiện các quy định này.
Về tính khả thi, việc hoàn thiện quy định của pháp luật về phí BVMT
đối với nước thải đòi hỏi sự thay đổi kịp thời những quy định của pháp luật
hiện hành chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, khả năng và điều kiện của các
đối tượng áp dụng, làm giảm hiệu quả áp dụng của chúng trên thực tế.
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải để đảm
bảo mục tiêu phát triển bền vững
Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định: “Phát triển bền vững là phát
58
triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Nhà nước tạo điều thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khai thác,
sử dụng các yếu tố của môi trường vào các mục đích khác nhau, nhưng các
chủ thể này cũng phải thực hiện nghĩa vụ duy trì và cải thiện chất lượng môi
trường cho thế hệ mai sau. Hoạt động BVMT được đặt ngang tầm với các
hoạt động phát triển kinh tế cho thấy rằng, để phát triển bền vững, việc hoàn
thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải cần hướng tới những việc sau:
Một là, đảm bảo đồng thời lợi ích của chủ nguồn thải với lợi ích của
quốc gia, lợi ích công cộng. Các quy định về phí BVMT đối với nước thải cần
được chỉnh sửa cho phù hợp hơn với thực tiễn, khuyến khích các chủ nguồn
thải thay đổi hành vi theo hướng có lợi cho môi trường, qua đó, đảm bảo lợi
ích kinh tế của họ cũng như đảm bảo lợi ích môi trường công cộng.
Hai là, để đảm bảo các hoạt động sản xuất luôn được thực hiện trên cơ
sở kết hợp hài hòa giữa BVMT với phát triển kinh tế, cần xây dựng các quy
định của pháp luật về sản xuất sạch hơn, nhằm hạn chế việc xả thải ra môi
trường.
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải
đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật môi trường
Pháp luật về phí BVMT đối với nước thải là một bộ phận của pháp luật
về môi trường. Vì thế, việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước
thải luôn luôn phải đảm bảo sự thống nhất với các bộ phận pháp luật khác của
pháp luật về môi trường, tránh sự trùng lặp, chồng chéo, gây ảnh hưởng tới
lợi ích của người nộp phí. Giả sử, đối với hoạt động khai thác, chế biến
khoáng sản, chủ thể khai thác phải nộp phí BVMT đối với hoạt động khai
thác đó, ngoài ra, chủ thể được phép khai thác khoáng sản còn phải nộp phí
59
BVMT đối với nước thải nếu trong quá trình khai thác, chế biến khoáng sản
làm phát sinh nước thải theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP về phí BVMT đối
với nước thải. Do đó, với hành vi này, chủ thể khai thác có thể sẽ phải nộp hai
loại phí, dẫn đến hiện tượng “phí trùng phí”. Bởi, hoạt động khai thác khoáng
sản là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp nặng nề đến nguồn đất, nước, môi
trường xung quanh khu vực khai thác. Một trong những ảnh hưởng đó xuất
phát từ hành vi xả nước thải – một trong những công đoạn của quá trình khai
thác khoáng sản.
3.1.4 Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải phải
đáp ứng yêu cầu của hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế trong bảo vệ môi
trường
Để thỏa mãn các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, phát huy hiệu quả
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực BVMT, việc hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải ở nước ta cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp có thể tiếp cận và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào
sản xuất song song với BVMT.
Nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay đã có những thành công nhất định
trong việc triển khai công tác thu phí BVMT đối với nước thải. Việt Nam nói
chung và TP.HCM nói riêng đã và đang học tập kinh nghiệp của các nước có
điều kiện tương tự như: Philippines, Thái Lan trong việc thiết kế và triển khai
hệ thống thu phí nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu phí BVMT đối với
nước thải, đặc biệt là với nước thải công nghiệp, góp phần giảm thiểu tình
trạng ô nhiễm môi trường ở những đô thị lớn mà TP.HCM là một điển hình.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải
Thứ nhất, xác định rõ ràng đối tượng chịu phí đối với nước thải tại các
siêu thị có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh, các
60
cửa hàng thức ăn nhanh.
Về mặt pháp lí, các cửa hàng thức ăn nhanh, các siêu thị, trung tâm
thương mại là các cơ sở kinh doanh, không phải là cơ sở sản xuất dù có chế
biến thực phẩm, thức ăn nhanh. Do đó, theo quy định về đối tượng chịu phí
thì các cơ sở này thuộc đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên, tất
cả các siêu thị, trung tâm thương mai dù có chế biến thực phẩm, thức ăn
nhanh, sản xuất bánh hay không đề là đối tượng chịu phí của phí nước thải
sinh hoạt là không công bằng. Cần phải xác định mức độ gây ô nhiễm môi
trường của hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh, sản xuất bánh hay
để xác định các cơ sở này thuộc đối tượng chịu phí nào.
Vì thế, tác giả đề xuất, đối với siêu thị, trung tâm thương mại, pháp luật
nên quy định thành hai trường hợp:
Một là, nếu các siêu thị, trung tâm thương mại là các cơ sở kinh doanh
không có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh sẽ thuộc đối tượng
chịu phí nước thải sinh hoạt.
Hai là, nếu các cơ sở này có hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn
nhanh mà hoạt động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh là hoạt động chính thì
các cơ sở này sẽ thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp.
Riêng đối với các cửa hàng thức ăn nhanh, hoạt động chính là hoạt
động chế biến thực phẩm, thức ăn nhanh vì thế tác giả đề xuất pháp luật nên
quy định rõ đây là đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp.
Thứ hai, bổ sung hệ thống xử lý nước thải tập trung đô thị là đối tượng
chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp.
Việc không điều chỉnh về hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị
thuộc đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp hay nước thải sinh hoạt là
khiếm khuyết của pháp luật về phí BVMT đối với nước thải. Hệ thống xử lí
nước thải tập trung khu đô thị và hệ thống xử lý nước thải tập trung khu công
61
nghiệp có cùng chức năng là thu gom và xử lí nước thải và chỉ khác nhau về
phạm vi thu gom và xử lí nước thải trong khu đô thị hay trong khu công
nghiệp.
Theo quy định hiện hành, hệ thống xử lí nước thải tập trung khu công
nghiệp là đối tượng chịu phí nước thải công nghiệp. Để tạo sự công bằng
trong việc thu phí giữa hệ thống xử lí nước thải tập trung khu công nghiệp và
hệ thống xử lý nước thải tập trung khu đô thị, tác giả đề xuất cẩn phải bổ sung
quy định “hệ thống xử lí nước thải tập trung khu đô thị là đối tượng chịu phí
công nghiệp”.
Trong trường hợp cần huy động vốn và khuyến khích các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài đầu tư hệ thống xử lí nước thải tập trung khi đô thi,
có thể tạo chính sách ưu đãi bằng cách miễn nộp phí BVMT trong một thời
gian nhất định. Tạo chính sách ưu đãi miễn phí BVMT không đồng nghĩa với
việc không quy định nghĩa vụ nộp phí BVMT đối với hệ thống xử lí nước thải
tập trung khu đô thị.
Thứ ba, loại bỏ đối tượng tính phí không phù hợp
Việc quy định nước tuần hoàn bị thất thoát trong quá trình hoạt động
của cơ sở và nước mưa chảy tràn qua khu vực nhà máy sản xuất hóa chất,
doanh nghiệp phải kê khai, đóng phí BVMT là hoàn toàn không hợp lí cả về
mặt lí luận và thực tiễn, thiếu tính khả thi và nếu bắt buộc phải thực hiện
trong thực tiễn thì sẽ gây lãng phí nguồn lực xã hội rất lớn. Thực tế cho thấy,
trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP hầu hết các địa
phương đã không thu được phí BVMT từ nước mưa chảy tràn qua khu vực
sản xuất vì về nguyên tắc phí BVMT được tính theo khối lượng chất gây ô
nhiễm thải ra môi trường.
Để nâng cáo tính khả thi của pháp luật và không gây lãng phí về nguồn
62
lực xã hội, tác giả đề xuất không quy định đây là đối tượng chịu phí BVMT.
Thứ tư, đối với nước thải sinh hoạt, để nâng cao hiệu quả của phí
BVMT nước thải sinh hoạt trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm
bảo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả khi tính phí BVMT nước thải sinh
hoạt, tác giả đề xuất cần phải tăng phí BVMT nước thải sinh hoạt. Việc tăng
phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt sẽ giúp giảm chi từ ngân sách và bù
đắp một phần chi phí cho hoạt động thoát nước, xử lí nước thải; đồng thời,
nâng cao ý thức của người dân về việc sử dụng hợp lí nước sạch. Để có thể
tăng mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt theo khuyến cáo của các
chuyên gia, các nhà hoạch định cần sớm xây dựng lộ trình tăng phí hợp lí,
tránh trường hợp tăng phí đột ngột tạo nên những tác động tâm lí không tốt
đối với việc nộp phí từ đối tượng chịu phí nước thải sinh hoạt.
Thứ năm, đối với chế tài xử phạt vi phạm hành chính, ngoài việc tính
toán tăng mức phạt để đủ sức răn đe đối với các chủ thể thì cần bổ sung thêm
hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Không chỉ dừng ở hình thức cảnh báo,
pháp luật cần bổ sung hình thức tước giấy phép kinh doanh có thời hạn hoặc
buộc đóng cửa vĩnh viễn đối với các cơ sở vi phạm pháp luật về phí BVMT
tùy theo mức độ vi phạm.
Theo tác giả, nên bổ sung thêm chế tài hình sự để xử phạt đối với các
hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT nếu chủ thể đã bị xử lí vi phạm hành
chính mà vẫn tiếp tục vi phạm hoặc lẫn trốn nộp phí BVMT với số tiền lớn.
Những hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT nếu không kịp thời được xử
lí sẽ gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội: i) Làm thất thu NSNN trong hoạt
động BVMT; ii) Làm vô hiệu hóa mục tiêu điều chỉnh hành vi của chủ thể
theo hướng có lợi cho môi trường và pháp luật về phí BVMT. Việc bổ sung
chế tài hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT sẽ góp
63
phần hạn chế sự vi phạm pháp luật về phí BVMT.
Đa dạng hóa các hình thức xử phạt và sử dụng hình thức xử phạt hợp lí
sẽ góp phần hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật về phí BVMT, giúp nâng
cao hiệu lực và hiệu quả của pháp luật về phí BVMT đối với mục tiêu giảm
thiểu ô nhiễm môi trường.
Thứ sáu, công khai các thông tin liên quan đến tổng thu và chi của loại
phí này định kỳ hàng năm, hàng quý trên cổng thông tin điện tử của Sở Tài
nguyên và môi trường. Đây là thông tin rất quan trọng để các doanh nghiệp
hiểu rằng phí BVMT đối với nước thải là vì BVMT chứ không phải là một
khoản tận thu. Số phí thu được hàng năm, hàng quý được tái sử dụng cho các
hoạt động cải tạo môi trường, hỗ trợ cho các giải pháp cải tiến công nghệ, ứng
dụng trong sản xuất để môi trường ngày càng sạch hơn.
Thứ bảy, xây dựng cơ sở dữ liệu để hỗ trợ, từng bước ứng dụng công
nghệ, kê khai qua mạng và sử dụng phần mềm thẩm định phí. Theo đó, các cơ
quan thực hiện chính sách thu phí BVMT đối với nước thải cần nghiên cứu,
tạo lập một hệ thống cơ sở dữ liệu chung để lưu trữ các thông tin liên quan
của các chủ thể thuộc đối tượng nộp phí. Các thông tin này sẽ liên quan đến
việc xả thải của doanh nghiệp như nồng đồ, lưu lượng, kết quả các cuộc thanh
tra, kiểm tra môi trường sẽ được các bên hữu quan cập nhật thường xuyên.
Thứ tám, từng bước triển khai hình thức kê khai phí qua mạng bên
cạnh hình thức kê khai như hiện nay, song song đó, cần triển khai phần mềm
tính toán phí BVMT đối với nước thải. Các thông tin do doanh nghiệp kê khai
sẽ được kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu chung để đối chiếu và các nhân
viên thẩm định phí sẽ căn cứ trên kết quả đối chiếu này xác định được số phí
doanh nghiệp phải nộp. Như vậy, với cách làm trên, sẽ rút ngắn được thời
gian nhập dữ liệ và nâng cao hiệu quả làm việc của các nhân viên nhà nước.
64
Đồng thời, ngày từ giai đoạn đầu tiên triển khai hình thực kê khai qua mạng,
các nhân viên thuộc tổ thu phí BVMT đối với nước thải cần theo dõi, ghi
nhận thắc mắc của các doanh nghiệp và tận tình hướng dẫn, giải đáp.
Thứ chín, để nâng cao hiệu quả chính sách, cần tăng cường sự phối
hợp và hỗ trợ giữa các bên hữu quan bao gồm trong khu vực công như: Sở
TN&MT, các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện) và khu vực tư (các
phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài, người dân…). Thông qua đó, tuyên
truyền, phổ biến cho người dân, các công đồng dân cư, các doanh nghiệp biết
về phí BVMT đối với nước thải, ý nghĩa và chế độ pháp lý của loại phí này;
quyền và trách nhiệm, lợi ích của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp khi nộp phí.
Thứ mười, thiết lập chỉ tiêu đo lường công việc nhằm định hướng cho
tổ chức thu phí làm việc theo đúng mục tiêu của chính sách đã đặt ra. Hiện
nay, tiêu chí đang được sử dụng để đo lường hiệu quả chính sách mới là số
doanh nghiệp đóng phí, tổng số phí thu được. Tuy nhiên, với sự tăng trưởng
nhanh của số lượng doanh nghiệp như hiện nay, chỉ tiêu này sẽ không phản
ánh chính xác hiệu quả của chính sách. Trong ngắn hạn, mục tiêu đo lường
hiệu quả công việc sẽ bao gồm các tiêu chí tỷ lệ doanh nghiệp đã kê khai, nộp
phí so với tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng nộp phí. Tiêu chí này được
thiết lập nhằm mục đích hướng các tổ chức, cơ quan thu phí có biện pháp
thích hợp để kiểm tra và thu đủ số phí doanh nghiệp đã kê khai. Tuy nhiên,
trong dài hạn, tiêu chí đo lường chính xác nhất để phản ánh hiệu quả đó là
mức độ giảm ô nhiễm do nước thải. Do đó, bộ phận thẩm định phí cần đảm
bảo vai trò là nhà tư vấn cho doanh nghiệp là các khách hàng của mình trong
việc đổi mới các công nghệ sản xuất, tận dụng hiệu quả các nguyên liệu đầu
vào, ít xả thải ra môi trường hoặc các công nghệ xử lý nước thải hiệu quả
nhất.
Cuối cùng, tăng cường các giải pháp hỗ trợ, thiết lập các cơ chế
65
khuyến khích đối với người nộp phí. Trong thực tế, các cán bộ, công chức,
viên chức, nhân viên thực thi những nội dung hoạt động trực tiếp trong các
khâu tiến hành quản lý, thu phí BVMT đối với nước thải là cầu nối giúp
người nộp phí có được sự hiểu biết, thuận lợi hơn trong việc tuân thủ các quy
định của pháp luật, đảm bảo cho chính sách đạt được mục tiêu đề ra.
Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần nhanh chóng thiết lập các cơ chế
khuyến khích sự tuân thủ từ phía người nộp phí. Hiện nay, việc tuân thủ chính
sách phí BVMT đối với nước thải chủ yêu dựa trên sự tự giác. Do vậy, cần có
các biện pháp khuyến khích đối với những chủ thể có ý thức cao trong
BVMT, kê khai, nộp phí một cách trung thực, đầy đủ. Tiêu chí thực hiện các
cuộc kiểm tra sẽ dựa trên ý thức của người nộp phí, đặc biệt là các doanh
nghiệp. Tức là, doanh nghiệp nào kê khai trung thực, đóng phí đầy đủ thì có
thể giảm tần suất kiểm tra và tăng tần suất kiểm tra đối với các doanh nghiệp
có mức độ vi phạm cao. Bên cạnh các biện pháp hành chính, có thể áp dụng
thêm các biện pháp khen thưởng nhằm động viên, khuyến khích doanh nghiệp
nâng cao hơn nữa trong việc ý thức BVMT.
Thêm vào đó, cần khai thác tiềm năng, hỗ trợ giám sát việc BVMT, thu
– nộp phí BVMT đối với nước thải từ phía cộng đồng dân cư. Theo đó, cộng
đồng có tác dụng rất quan trọng đối với hành vi xả nước thải của doanh
nghiệp, tổ chức. Người dân hoàn toàn có thể gây áp lực trực tiếp đối với
doanh nghiệp hoặc gián tiếp thông qua các kênh khiếu nại, tố cáo, từ đó hoàn
toàn có thể kết hợp với chính quyền giám sát việc xả thải, tuân thủ pháp luật
về phí BVMT đối với nước thải từ phía doanh nghiệp.
3.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về phí bảo
vệ môi trường đối với nước thải tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.3.1 Xây dựng hệ thống thông tin quản lý thu phí
Ở TP.HCM hiện nay, trước khi tổ chức thực hiện thu phí BVMT đối
66
với nước thải công nghiệp, Sở TN&MT – Chi cục Bảo vệ môi trường tiến
hành tổ chức các buổi tập huấn và hướng dẫn kê khai nộp phí cho doanh
nghiệp. Theo đó, Chi cục sẽ đảm bảo các doanh nghiệp biết được chủ trương,
các quy định về phí BVMT đồng thời sẽ thuận lợi hơn cho doanh nghiệp
trong quá trình kê khai nộp phí. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào
cũng tham dự được vì nhiều lý do. Cho nên, sau một thời gian sẽ có những
thay đổi nhân sự tại các doanh nghiệp hoặc có thêm những doanh nghiệp mới
thành lập hoặc có những quy định mới bổ sung, sửa đổi, nhưng việc tổ chức
các buổi tập huấn thì cần phải có thời gian và cũng không thường xuyên nên
sẽ phần nào có những hạn chế trong việc phổ biến các thông tin về các chính
sách, quy định thu phí BVMT đến với doanh nghiệp. Do đó, cần đưa những
thông tin các quy định về phí BVMT cũng như quy trình kê khai, nộp phí,
cách tính phí và các thông tin khác có liên qua trang mạng của doanh nghiệp
để dễ dàng tiếp cận.
Theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2016, phí
BVMT đối với nước thải công nghiệp được tính dựa trên tổng lượng nước
thải và nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải thực tế thải ra của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc xác định những thông số này còn gặp nhiều khó khăn,
Chi cục Bảo vệ môi trường không thể tổ chức quan trắc hết tất cả các doanh
nghiệp do không đủ nguồn lực (nhân lực, kinh phí, thời gian…). Hiện tại Chi
cục Bảo vệ môi trường vẫn phải dựa trên kết quả tự khai của các doanh
nghiệp và chỉ tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc các ngành nghề có
mức phát thải cao để tổ chức thẩm định lại, sau đó sẽ so sánh lại với kết quả
kê khai của các doanh nghiệp để xác định mức phí mà doanh nghiệp phải nộp.
Ngoài ra, những doanh nghiệp mới hoạt động hoặc giải thể do Sở Đầu Tư
thành phố, cơ quan Thuế hay Phòng Kinh tế Quận, huyện không cập nhật liên
tục. Do đó, Chi cục Bảo vệ môi trường cũng sẽ phải quản lý rất nhiều thông
67
tin thay đổi theo thời gian, không gian (số lượng doanh nghiệp kê khai, kết
quả kê khai, kết quả thẩm định, các thông tin thu thập từ khảo sát thực tế)
cũng như cập nhật kịp thời tình hình của các doanh nghiệp. Ngoài ra, cũng
theo Nghị định 154/2016/NĐ-CP thì với việc quản lý tình hình thu và sử dụng
phí nước thải, Chi cục Bảo vệ môi trường cũng phải quản lý các thông tin
như: mức phí phải nộp hàng quý, thời gian nộp, số phí đã nộp, số phí còn nợ,
các biên lai đã phát hành… và tất các thông tin trên định kỳ hoặc đột xuất
phải thổng hợp, thống kê kịp thời, chính xác theo yêu cầu của cấp trên; hoặc
các cơ quan quản lý môi trường địa phương cần nắm bắt tình hình về kê khai
nộp phí của các doanh nghiệp trên địa bàn để kiểm tra, đôn đốc việc thực
hiện.
Theo trình tự thực hiện thu phí hiện nay, đối với việc nộp phiếu kê khai
thì các doanh nghiệp có thể gửi phiếu kê khai nộp phí đến Chi cục Bảo vệ môi
trường hoặc Cơ quan quản lý môi trường địa phương (Phòng Tài nguyên và
Môi trường quận, huyện) sau đó các cơ quan này sẽ chuyển các phiếu kê khai
nhận được đến Chi cục Bảo vệ môi trường; Chi cục Bảo vệ môi trường sau
khi ra thông báo nộp phí sẽ gửi cho cơ quan quản lý môi trường địa phương
để chuyển đến doanh nghiệp.
Về việc phát hành biên lai nộp phí, hàng tháng các Kho bạc Nhà nước
sẽ chuyển giấy báo của các doanh nghiệp đã nộp tiền đến Chi cục Bảo vệ môi
trường để ra biên lai, sau đó sẽ chuyển các biên lai này đến cơ quan quản lý
môi trường địa phương để gửi cho doanh nghiệp. Một điều dễ nhận thấy là
với trình tự như trên sẽ mất rất nhiều thời gian, đôi khi sẽ có những thất lạc
trong quá trình lưu chuyển.
Như vậy, có thể thấy rằng, để nâng cáo hiệu quả công tác thu phí
BVMT đối với nước thải thì nhất thiết phải xây dựng một hệ thống thông tin
68
quản lý thu phí, trong đó phải có một số chức năng sau:
+ Kê khai, thông báo mức phí và trao đổi thông tin liên quan đến việc
thu nộp phí trực tuyến trên mạng.
+ Tính toán, quản lý cơ sở dữ liệu về thu phí.
+ Phân cấp độ quản lý cơ sở dữ liệu đối với các cơ quan quản lý và
doanh nghiệp.
+ Kết nối thông tin điện tử với các cơ quan quản lý khác về tình hình
hoạt động của donah nghiệp như: đăng ký mới, giải thể, chuyển đồi mô hình
hoạt động, thay đổi chủ thể quản lý.
3.3.2 Điều chỉnh mức thu và phương pháp thu phí
Đối với mức thu phí cố định 1.500.000 đồng/đơn vị/năm (lượng nước
thải ra dưới 20 m3/ngày đêm) giữa các cơ sở sản xuất chưa phù hợp (Ví dụ:
Cơ sở sản xuất có lượng nước thải ra 01 m3/ngày đêm với cơ sở sản xuất có
lượng nước thải ra 19 m3/ngày đêm hoặc giữa đơn vị có hệ thống xử lý nước
thải và đơn vị không có hệ thống xử lý nước thải đều chịu mức phí cố định
như nhau). Điều này chưa tạo sự công bằng giữa các doanh nghiệp, nhất là
trên địa bàn TP.HCM các đơn vị có lượng nước thải ra dưới 19 m3/ngày đêm
chiếm tỷ lệ lớn. Với mức phí như hiện nay vẫn chưa tác động nhiều đến ý
thức của doanh nghiệp trong việc BVMT và thậm chí cũng chưa có sự công
bằng giữa các doanh nghiệp trong việc đóng góp tài chính cho việc BVMT.
Do đó để nâng cao hiệu quả của việc thu phí có thể điều chỉnh lại như
sau:
Thứ nhất, về cách thu:
• Đối với những doanh nghiệp hoạt động ngành nghề phát sinh nhiều
nước thải trong quá trình sản xuất và có nồng độ chất ô nhiễm cao thì sửa đổi
như sau: Phí này vẫn sẽ được tách thành hai phần đó là phí cố định và phí
69
biến đổi nhưng được tính như sau:
+ Phần phí cố định: là phí xả thải, được thu bằng với mức thu của nước
thải sinh hoạt (hiện nay mức thu là 9.600 đồng/m3 theo hoá đơn tiền nước đối
với hoạt động sản xuất) và phí cố định được tính bằng lượng nước thải nhân
với mức thu.
Phí cố định = Lượng nước thải * 9.600 đồng
+ Phần phí biến đổi: Tính theo tải lượng chất ô nhiễm thải ra nhưng chỉ
tính theo phần chênh lệch giữa nồng độ chất ô nhiễm có trong nước thải ra và
tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Điều này sẽ khích lệ các doanh nghiệp sẽ
tích cực hơn trong việc xây dựng và vận hành HTXL nước thải.
• Đối với những doanh nghiệp có lượng nước thải dưới 20m3/ngày như
hiện nay thì sửa đổi mức giá thu tương ứng với lượng nước luỹ tiến như
5m3/ngày; 10m3/ngày; 15m3/ngày; 20m3/ngày nhưng phải đảm bảo mức phí
thấp nhất với lượng nước xả thải thấp nhất phải đóng phí phải bằng hoặc cao
hơn mức phí BVMT đóng trên hoá đơn tiền nước. Trong thời điểm hiện tại,
mức phí điều chỉnh ít nhất bằng 2 lần mức hiện tại để đảm bảo sự công bằng
trong việc đóng góp tài chính cho việc bảo vệ môi trường giữa các doanh
nghiệp.
Thứ hai, về cơ sở đề nghị mức phí
Đối với các cơ sở sản xuất có lưu lượng xả thải trên 20m3/ngày đêm và
đã xử lý nước thải đạt quy chuẩn cho phép thì mức phí BVMT đối với nước
thải công nghiệp sẽ thấp hơn so với phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt
(Ví dụ: cơ sở nhuộm vải xả thải 200m3/ngày đêm, nồng độ COD = 100 mg/l,
TSS = 50 mg/l, hệ số K=1 thì nộp phí BVMT đối với nước thải công nghiệp
là 11.484.000 đồng/năm; còn nếu nộp phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt
là 200 m3/ngày đêm x 10% x 5.300 đồng/m3 (đơn giá nước sạch trong định
mức)*26 ngày/tháng*12 tháng/năm = 33.072.000 đồng/năm). Do đó, việc nộp
70
phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt lại cao hơn nhiều so với những cơ sở
hoạt động sản xuất có phát sinh nước thải gây ô nhiễm. Điều này là vô cùng
bất hợp lý và không công bằng trong thực hiện nghĩa vụ khuyến khích và bảo
vệ tài nguyên môi trường. Và chúng ta sẽ nghiên cứu để xây dựng lộ trình
tăng mức phí hàng năm phù hợp với điều kiện phát triển của thành phố.
Thu theo cách này thì số phí thu được sẽ tăng và khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư giảm thiểu phát thải chất thải, đặc biệt là thành phố hiện đang
dự thảo quy định khuyến khích áp dụng sản xuất sạch hơn sẽ là một thúc đẩy
nữa để doanh nghiệp tham gia tích cực hơn trong công tác bảo vệ môi trường.
3.3.3 Phân cấp thẩm định cho cơ quan quản lý môi trường địa phương
Theo quy định thì việc thẩm định Tờ khai phí BVMT đối với nước thải
công nghiệp hiện nay do Sở TN&MT (Chi cục Bảo vệ môi trường) đảm
nhiệm. Khi nhận được phiếu kê khai của các doanh nghiệp, Chi cục sẽ tạm
thông báo theo mức kê khai của doanh nghiệp, sau đó sẽ tổ chức thẩm định để
đánh giá lại tính chính xác thông tin do doanh nghiệp kê khai. Như đã trình
bày, Chi cục không đủ nguồn lực để tổ chức khảo sát tại tất cả các doanh
nghiệp hoặc không thể đến để giải thích, hướng dẫn và xác định mức phí tại
từng doanh nghiệp mặc dù một số cơ sở vừa và nhỏ vẫn muốn cơ quan
chuyên trách xuống đánh giá để xác định chính thức mức phí mà họ phải nộp.
Do đó, để đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện thu phí cần phân cấp cho
cơ quan quản lý môi trường địa phương (UBND quận – huyện, HEPZA) tổ
chức khảo sát, đánh giá để xác định mức phí cho các doanh nghiệp trên địa
bàn quản lý đối với những doanh nghiệp không có phát sinh nước thải trong
quá trình sản xuất và những doanh nghiệp có mức phát thải lưu lượng thấp
(dưới 10m3/ngày). Nghĩa là sau khi nhận được phiếu kê khai của các doanh
nghiệp thì các cơ quan này tổ chức thẩm định và sau đó thông báo kết quả
thẩm định đến Chi cục để phát hành thông báo nộp phí. Điều này sẽ đảm bảo
71
các cơ quan này luôn quan tâm đôn đốc các doanh nghiệp trên địa bàn thực
hiện đầy đủ việc kê khai, nộp phí; và các cơ quan này sẽ phải coi đây là một
nhiệm vụ thường xuyên và đưa vào trong công tác quản lý môi trường tại địa
phương mình. Đối với những doanh nghiệp thuộc ngành nghề phát sinh nhiều
nước thải trong quá trình sản xuất và có hàm lượng chất ô nhiễm cao thì sẽ do
Chi cục tổ chức thực hiện thẩm định.
Tiểu kết chương 3
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về phí BVMT đối với
nước thải, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật loại phí này ở
TP.HCM, luận văn rút ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí BVMT
đối với nước thải như sau:
1. Việc hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải theo
một số định hướng sau: Các quy định của pháp luật về phí BVMT đối với
nước thải phải đảm bảo tính minh bạch, khả thi; Hoàn thiện pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững; Hoàn
thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải phải đảm bảo sự đồng bộ của
hệ thống pháp luật môi trường; Hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với
nước thải phải đáp ứng yêu cầu của hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế trong
BVMT.
2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải ở TP.HCM bao gồm: Công khai thông ltin liên đến
tổng thu và chi từ loại phí này; Xây dựng cơ sở dữ liệu hỗ trợ, từng bước ứng
dụng kê khai qua mạng và sử dụng phần mềm thẩm định phí; Triển khai hình
thức kê khai phí qua mạng bên cạnh hình thức kê khai như hiện nay và cần
triển khai phần mềm tính toán phí BVMT đối với nước thải; Tăng cường sự
72
phối hợp và hỗ trợ giữa các bên hữu quan bao gồm trong khu vực công và khu
vực tư; Thiết lập chỉ tiêu đo lường công việc nhằm định hướng cho đội ngũ
cán bộ thu phí làm việc theo đúng mục tiêu của chính sách đã đặt ra; Tăng
cường các giải pháp hỗ trợ, thiết lập các cơ chế khuyến khích đối với người
nộp phí.
3. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý thu phí nhằm quản lý doanh
nghiệp có tính hệ thống, tránh bỏ sót doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cập nhật,
quản lý kịp thời tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh
nghiệp trốn tránh nghĩa vụ khi ngưng hoạt động hoặc chuyển hoạt động sang
địa phương khác. Điều chỉnh mức thu và phương pháp thu gồm có phí cố định
và phí biến đổi nhằm đưa ra mức thu hợp lý, tăng nguồn thu cho NSNN. Phân
cấp thẩm định cho cơ quan quản lý môi trường địa phương nhằm đảm bảo
thẩm định đầy đủ các tờ khai thu phí của doanh nghiệp. Đồng thời, tránh tình
trạng bỏ sót doanh nghiệp, doanh nghiệp né tránh kê khai và nộp phí, tăng
73
hiệu quả cho công tác thu phí.
KẾT LUẬN CHUNG
Trên cơ sở những nghiên cứu đã được trình bày ở chương 1, chương 2
và chương 3, tác giả rút ra được một số kết luận cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phí BVMT đối với nước thải là một trong những công cụ
kinh tế hữu hiệu trong BVMT và là một bước tiến quan trọng trong công tác
quản lý môi trường. Thông qua loại phí này, Nhà nước có thể điều tiết, thay
đổi hành vi của người xả thải, đồng thời bổ sung nguồn thu cho NSNN. Để có
thể tác động đến các quan hệ xã hội phát sinh trong các khía cạnh khác nhau
của việc thu nộp phí BVMT đối với nước thải, các quy phạm pháp luật sẽ
hướng tới nội dung này. Mục đích của pháp luật về phí BVMT đối với nước
thải là điều chỉnh, tác động đến những chủ thể có hành vi xả nước thải ra môi
trường, từ đó, có nguồn thu để khắc phục, xử lý với lượng nước thải đã thải
ra, cùng với đó là đạt được những mục tiêu đa chiều do Nhà nước đề ra.
Thứ hai, việc thực hiện các quy định và chính sách của pháp luật về phí
BVMT đối với nước thải mới được áp dụng từ những năm 2003 – 2004
nhưng đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong quá
trình thực thi pháp luật về phí này cũng không tránh khỏi những điểm hạn chế
còn tồn tại nhất là ở TP.HCM với đặc thù địa bàn dân cư đông đúc, quá trình
đô thị hóa diễn ra nhanh cũng phần nào đó tác động đến môi trường. Bởi thế,
việc hoàn thiện pháp luật về loại phí này là điều rất cần thiết.
Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp với mục địch góp
phần hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, cũng như hoàn
thiện hơn nữa quá trình thực thi bộ phận pháp luật này trong thực tế. Qua đó,
cùng với sự tương thích, mối tương quan với các bộ phận pháp luật khác, như
pháp luật về phí, lệ phí, pháp luật về BVMT…Mong rằng, trong thời gian tới,
74
phí BVMT đối với nước thải sẽ đạt được những thành tựu cao hơn nữa, góp
phần thúc đẩy kinh tế không chỉ ở TP.HCM mà còn ở nhiều địa phương khác
75
phát triển mạnh mẽ và bền vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Danh mục văn bản pháp luật
1. Bộ Tài Chính (2013), Thông tư số 186/2013/TT-BTC hướng dẫn thực hiện xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí, ban hành ngày
05/12/2013
2. Bộ Tài Chính (2017), Công văn 13842/BTC-CST về việc phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải, ban hành ngày 16/10/2017
3. Chi cục Bảo vệ môi trường Thành phố Hồ Chí Minh (2019), “Báo cáo tình
hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm và các nhiệm vụ trọng tâm 3 tháng cuối
năm 2019”.
4. Chính phủ (2002), Nghị định số 57/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
pháp lệnh phí và lệ phí, ban hành ngày 03/06/2002
5. Chính phủ (2003), Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải, ban hành ngày 13/06/2003.
6. Chính phủ (2007), Nghị định số 04/2007/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải, ban hành ngày 08/01/2007
7. Chính phủ (2009), Nghị định số 35/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của
thanh tra tài nguyên và môi trường, ban hành ngày 07/04/2009
8. Chính phủ (2013), Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối
với nước thải, ban hành 29/03/2013
9. Chính phủ (2014), Nghị định số 80/2014/NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước
thải, ban hành ngày 06/08/2014
10. Chính phủ (2016), Nghị định số 154/2016/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường
đối với nước thải, ban hành ngày 18/11/2016
11. Chính phủ (2016), Nghị định số 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ban hành ngày 18/11/2016
76
12. Hội Đồng Nhân Dân TP.HCM (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐND về
điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 16/03/2018
13. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12, ban hành ngày
13/11/2008
14. Quốc hội (2013), Hiến Pháp 2013 thông qua tại kỳ họp thứ 6, khóa XIII,
ngày 28/11/2013
15. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13, ban hành ngày
23/06/2014
16. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13, ban hành
ngày 25/06/2015
17. Quốc hội (2015), Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ban hành ngày
25/11/2015
18. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày
17/08/2004 về định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam
19. Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Quyết định số 2129/QĐ-
UBND về việc điều chỉnh mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành ngày 18/05/2018
20. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2001), Pháp lệnh số 38/2001/P1-UBTVQH, ban
hành ngày 28/8/2001 về phí và lệ phí
* Tài liệu trong nước
21. Bộ môn Luật môi trường – Khoa Pháp luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội
(2005), “Kinh nghiệm của nước ngoài trong việc sử dụng các công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường”, Tài liệu hội thảo, Viện Khoa học pháp lý
22. Nguyễn Ngọc Anh Đào (2014), “Pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong
bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội
23. Nguyễn Thị Vân Hà (2007), Quản lý chất lượng môi trường, NXB Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
77
24. TS. Trần Vũ Hải, “Tìm hiểu Thuật ngữ Pháp luật tài chính công”, Nxb. Tư
pháp, Tr.160
25. Nguyễn Thị Hằng (2014), “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường”,
Luận văn Thạc sỹ luật học
26. Lê Thị Thu Hằng (2018), “Đánh giá tác động của pháp luật về mức phí và
sử dụng nguồn thu từ phí bảo vệ môi trường nước thải công nghiệp đối với mục
tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường”, Tạp chí Nghề luật, số 2 năm 2018.
27. Nguyễn Huế (2012), “Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải: Làm sao
thêm hiệu quả?” trên Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 6/2012.
28. Trần Thanh Lâm (2006), “Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế”, Nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội.
29. Nguyễn Diệu Linh (2015), “Vai trò của các công cụ kinh tế trong quản lý
môi trường ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế.
30. PGS.TS Phạm Văn Lợi (2011), “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trường: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư pháp.
31. Trần Nhật Nguyên (2013), “Thực trạng áp dụng một số công cụ kinh tế
trong quản lý môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh”, tạp chí Nghiên cứu và
phát triển số 5 (3/2010).
32. TS Đỗ Nam Thắng, “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trường đối với
nước thải công nghiệp và đề xuất định hướng cho Việt Nam”, Tạp chí môi
trường số 7 năm 2010
33. Thuật ngữ, phần 1, Tiêu chuẩn Việt Nam 5980: 1995 và ISO 6170/1-1980,
mục 1.2.1. Chất lượng nước.
34. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2007), Chuyên đề “Bảo vệ môi
trường để phát triển bền vững”, số 5 năm 2007.
35. Vụ Chính sách Bộ Tài chính (1997), “Xây dựng hệ thống phí gây ô nhiễm”,
Đề tài khoa học cấp Bộ
*Tài liệu nước ngoài
78
36. Ken Rubin (2000), Establishing and Industrial wastewater Effluent Fee
Program, Laguna De Bay, Philippines. www.gwptoolbox.org/index.php
37. Lanham (1996), Office for Official Publications of the European,
International Government publication, English
38. O’Connor, D. (1999), Applying economic instruments in developing
countries: From theory to implementation, OECD Development Center, May
1999.
39. OECD (1975). “An Exemination of the Polluter Pays Principle on Case
Studies in The Polluter Pays Principle: Definition, Analysis, Implementation”,
OECD, Paris, Tr. 93-117.
40. Philippines – Economic Incentives
for Water Pollution Prevention
Abatement. Establishing and Industrial wastewater Effluent Fee Program,
Laguna De Bay.
*Website tham khảo
41.
http://www.pso.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?uuid=5ee2d3
75-3ef7-4dc1-92cf-53b0e67c1c7e&groupId=18
42.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H%E1%BB%93
_Ch%C3%AD_Minh
43.
http://www.donre.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/default.aspx?Source=%2ftintuc&
Category=Tin+t%e1%bb%a9c+s%e1%bb%b1+ki%e1%bb%87n&ItemID=8499
&Mode=1
44. https://iura.vn/bai-viet/vi-pham-phap-luat-va-trach-nhiem-phap-ly.html
45. Hà Phạm (2018), 85% lượng nước thải sinh hoạt đô thị ở Thành phố Hồ Chí
Minh
chưa
được
xử
lý
đăng
ngày
19/03/2018
tại
địa
chỉ
http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Xa-hoi/896049/85-luong-nuoc-thai-sinh-hoat-do-
79
thi-o-tp-ho-chi-minh-chua-duoc-xu-ly?fbclid=IwAR3vSAaYHVi5WWnr-
CGGySWjGS-4xDvbm5j2PmJHZoC46T-1ljZUzFKM5Dw
46. Tạp chí Công Thương, Thực thi phí BVMT đối với nước thải: Kinh nghiệm
thế giới và thực tiễn ở Việt Nam, truy cập ngày 10/07/2019 tại địa chỉ
http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-thi-phi-bvmt-doi-voi-nuoc-thai-kinh-
nghiem-the-gioi-va-thuc-tien-o-viet-nam-18557.htm
80
PHỤ LỤC 1
CĂN CỨ TÍNH PHÍ NƯỚC THẢI TẠI CÁC NƯỚC OECD
Khối lượng, độ mặn, mức độ ô nhiễm và vùng ảnh hưởng
Australia
Số lượng và mức độ ô nhiễm
Bỉ (Flanders)
Khối lượng phát thải một số chất gây ô nhiễm hàng năm
Canada
Tổng khối lượng phát thải của các hộ gia đình
(Quebec)
Tổng khối lượng phát thải của các doanh nghiệp, lưu vực
Cộng hòa Pháp
sông, khu vực thải và loại chất ô nhiễm.
Tổng mức độ ô nhiễm
CHLB Đức
Lượng ô nhiễm vượt chỉ tiêu cho phép
Hàn Quốc
Lượng nước thải vượt quá tiêu chuẩn cho phép về nồng độ
Mexico
COD và TSS và khu vực thải
Mức phí đồng nhất cho mỗi loại nguồn thải hay lượng nước
Mỹ
thải
(Nguồn: OECD, 1999)
81
PHỤ LỤC 2
QUY ĐỊNH MIỄN PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NƯỚC THẢI CÔNG NGHIỆP
Nghị định số
Nghị định số
Nghị định số
154/2016/NĐ-CP về các
25/2013/NĐ-CP về các
67/2003/NĐ-CP không
trường hợp miễn phí
đối tượng không chịu phí
thu phí BVMT
1. Nước xả ra từ các nhà
1. Nước xả ra từ các nhà
1. Nước xả ra từ các nhà
máy thủy điện, nước tuần
máy thủy điện, nước tuần
máy thủy điện, nước
hoàn trong các cơ sở sản
hoàn trong các cơ sở sản
tuần hoàn trong các nhà
xuất, chế biến mà không
xuất, chế biến mà không
máy điện.
thải ra môi trường dưới
thải ra môi trường.
bất kỳ hình thức nào
(chất rắn, chất lỏng, chất
khí)
2. Nước biển dùng vào
2. Nước biển dùng vào sản
2. Nước biển dùng vào
sản xuất muối xả ra.
xuất muối xả ra.
sản xuất muối xả ra.
3. Nước thải sinh hoạt
3. Nước thải sinh hoạt của
3. Nước thải sinh hoạt
của các tổ chức, cá nhân,
các hộ gia đình ở địa bàn
của hộ gia đình ở địa
hộ gia đình ở địa bàn
đang được Nhà nước thực
bàn đang được Nhà
đang được Nhà nước
hiện chế độ bù giá để có
nước thực hiện chế độ
thực hiện chế độ bù giá
giá nước phù hợp với đời
bù giá để có giá nước
để có giá nước phù hợp
sống kinh tế - xã hội
phù hợp với đời sống
với đời sống kinh tế - xã
kinh tế - xã hội
hội
4. Nước thải sinh hoạt
4. Nước thải sinh hoạt của
4. Nước thải sinh hoạt
của các tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình ở các xã thuộc
của hộ gia đình ở các xã
hộ gia đình ở các xã
vùng nông thôn và những
thuộc vùng nông thôn
thuộc vùng nông thôn và
nơi chưa có hệ thống cấp
và những nơi chưa có
82
những nơi chưa có hệ
nước sạch
hệ thống cấp nước sạch
thống cấp nước sạch
5.Nước làm mát thiết bị,
5. Nước làm mát thiết bị,
Không quy định
máy móc không trực tiếp
máy móc không trực tiếp
tiếp xúc với các chất gây
tiếp xúc với các chất gây ô
ô nhiễm, có đường thoát
nhiễm, có đường
thoát
riêng
riêng
6. Nước mưa tự nhiên
6. Nước mưa tự nhiên
Không quy định
chảy tràn (trừ diện tích
chảy tràn
thuộc khu vực nhà máy
hóa chất)
7. Nước
thải
từ các
Không quy định
Không quy định
phương
tiện đánh bắt
thủy, hải sản của ngư dân
8. Nước thải sinh hoạt
Không quy định
Không quy định
tập trung do đơn vị quản
lý, vận hành hệ thống
thoát nước tiếp nhận và
đã xử lý đạt tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật quy
định xả
thải
ra môi
trường.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các Nghị định của Chính phủ)
83