BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG CỦA

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI, NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ

TRẦN THỊ HẢI

Hà Nội - Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hoàn thiện pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại,

nghiên cứu thực tiễn tại Ngân hàng Công thương Việt Nam

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

Họ và tên học viên: Trần Thị Hải

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Phúc Hiền

Hà Nội – năm 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn của TS. Nguyễn Phúc Hiền.

Các số liệu và tài liệu trong luận văn là trung thực, tất cả những tham khảo và

kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Tác giả luận văn

Trần Thị Hải

ii

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương,

nhất là các cán bộ, giảng viên khoa sau đại học, phòng Đào tạo đã giúp đỡ và tạo

điều kiện cho tác giả hoàn thành bản luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin trân trọng

cảm ơn thầy giáo hướng dẫn - TS. Nguyễn Phúc Hiền đã hết lòng ủng hộ và hướng

dẫn tác giả hoàn thành luận văn.

Tác giả cũng xin trân trọng cảm ơn Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

– Chi nhánh Uông Bí, Thư viện Trường Đại Học Ngoại Thương đã quan tâm giúp

đỡ, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong việc thu thập thông tin, tài liệu

trong quá trình thực hiện luận văn.

Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và

động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn

này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Học viên

Trần Thị Hải

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................. vii

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ................................................................................ viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN .................................. ix

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH

CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ........................................ 6

1.1. Những vấn đề chung về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại

..................................................................................................................................... 6

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quy trình cấp tín dụng .................................................. 6

1.1.2. Nguyên tắc của quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại.............. 8

1.1.3. Vai trò quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại ........................... 9

1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân

hàng thương mại .................................................................................................... 10

1.2. Cơ sở và cấu trúc pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thƣơng mại .............................................................................................................. 12

1.2.1. Cơ sở và yêu cầu pháp luật với quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thương mại ............................................................................................................ 12

1.2.2. Cấu trúc pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại .. 13

1.3. Thực trạng pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại

................................................................................................................................... 18

1.3.1. Quy định về nghiệp vụ cấp tín dụng được phép thực hiện .......................... 18

iv

1.3.2. Quy định về thẩm quyền quyết định cấp tín dụng cho khách hàng quyền

quyết định cấp tín dụng .......................................................................................... 20

1.3.3. Quy định về nội dung quy trình cấp tín dụng .............................................. 22

1.3.4. Quy định về giới hạn an toàn trong quy trình cấp tín dụng ......................... 29

Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 32

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH CẤP

TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG

VIỆT NAM .............................................................................................................. 33

2.1. Khái quát về Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Công thƣơng Việt Nam ..... 33

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công

thương Việt Nam ................................................................................................... 33

2.1.2. Kết quả kinh doanh của VietinBank giai đoạn 2015 đến hết tháng 6/2018 34

2.2. Thực trạng quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần

Công thƣơng Việt Nam ........................................................................................... 37

2.2.1. Tiếp nhận hồ sơ ............................................................................................ 37

2.2.2. Thẩm định khoản vay .................................................................................. 38

2.2.3. Xét duyệt khoản vay .................................................................................... 41

2.2.4. Soạn thảo hợp đồng ..................................................................................... 43

2.2.5. Cập nhật hệ thống ........................................................................................ 43

2.2.6. Giải ngân ...................................................................................................... 43

2.2.7. Theo dõi khoản vay, xử lý phát sinh ............................................................ 45

2.2.8. Thu nợ gốc, lãi, phí ...................................................................................... 47

2.2.9. Thanh lý hợp đồng, giải chấp tài sản bảo đảm và lưu hồ sơ ....................... 47

2.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại Ngân

hàng Thƣơng mại Công thƣơng Việt Nam ........................................................... 48

2.3.1. Kết quả đạt được .......................................................................................... 48

v

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân .............................................................................. 50

Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 54

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CÁO HIỆU

QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG TẠI NGÂN

HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM.................. 55

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của

Ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam ....................................................................... 55

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải phù hợp với

chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế

xã hội ...................................................................................................................... 55

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thương mại phải bảo đảm tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất, tính phù

hợp, tính khả thi của hệ thống pháp luật ................................................................ 56

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải khắc phục được

những tồn tại, hạn chế trong pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng ở Việt

Nam hiện nay ......................................................................................................... 57

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng và

nâng cao hiệu quả thực hiện quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Thƣơng mại

Công thƣơng Việt Nam ........................................................................................... 58

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân

hàng thương mại .................................................................................................... 58

3.2.2. Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại các Ngân

hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt

Nam nói riêng ........................................................................................................ 74

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi phâp luật về quy trình cấp tín

dụng tại Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam ........................................................... 77

3.3.1. Đối với Ngân hàng nhà nước ....................................................................... 77

3.3.2. Đối với Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam ............. 79

vi

Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 82

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

vii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

TCTD Tổ chức tín dụng

viii

DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh doanh tại Vietinbank ............................................ 35

Bảng 2.2. Các loại chứng từ giải ngân .................................................................. 44

Bảng 2.3. Tần suất kiểm tra giám sát sau khi cho vay .......................................... 46

Sơ đồ 2.1. Quy trình cấp tín dụng tại VietinBank ................................................. 37

Sơ đồ 2.2. Xét duyệt khoản vay ............................................................................ 42

ix

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN

Để thực hiện đề tài luận văn “Hoàn thiện pháp luật về quy trình cấp tín

dụng của Ngân hàng thƣơng mại, nghiên cứu thực tiễn tại Ngân hàng Công

thƣơng Việt Nam”, tác giả đã tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,

qua đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại để thực hiện các nhiệm vụ,

mục đích mà đề tài đã đặt ra ban đầu. Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận

liên quan đến quy trình cấp tín dụng tại NHTM, phân tích các quy định của pháp

luật về quy trình cấp tín dụng tại NHTM.

Trên cơ sở các lý luận và quy định của pháp luật, tác giả luận văn đã phân tích

thực trạng thực thi pháp luật về qui trình cấp tín dụng của ngân hàng thương mại,

nghiên cứu thực tiễn tại ngân hàng công thương Việt Nam, kết quả cho thấy

VietinBank đã căn cứ vào các quy định của pháp luật, các quy định của NHNN và

thực trạng hoạt động kinh doanh của đơn vị để đề xuất quy trình cấp tín dụng tại

VietinBank với 09 bước. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng quy định về quy

trình cấp tín dụng đề tài luận văn đã rút ra được các kết quả đạt được, những hạn

chế và nguyên nhân của các hạn chế, từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp

luật điều chỉnh qui trình cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam, các

giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật điều chỉnh

qui trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam trong thời gian tới.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sự phát triển của hệ thống tài chính là điều kiện cần cho sự phát triển kinh tế

của một đất nước. Một hệ thống tài chính phát triển đóng vai trò như mạch máu lưu

thông trong nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, do thị

trường tài chính - tiền tệ chưa phát triển đồng bộ nên hiện nay tín dụng Ngân hàng

đang là một kênh cung cấp vốn quan trọng của các doanh nghiệp. Quy trình cấp tín

dụng là một trong 3 hoạt động chủ yếu và truyền thống của các TCTD (cùng với

hoạt động huy động vốn và hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ). Đây là hoạt

động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính phản ứng dây

chuyền, vì vậy ở các quốc gia hoạt động tín dụng được đặt trong một hành lang

pháp lý chặt chẽ, liên tục được hoàn thiện với những điều khoản đặc biệt nhằm hạn

chế tới mức thấp nhất những rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay, hành lang pháp lý đã được

xây dựng tương đối đầy đủ đảm bảo cho sự phát triển hoạt động tín dụng của NHTM.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm pháp luật về quy trình cấp tín dụng của NHTM

cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Đặc biệt vấn đề dẫn đến nợ xấu của các NHTM

hiện nay ngày càng tăng cao, các biện pháp xử lý nợ xấu kém hiệu quả, nhiều ngân

hàng không đảm bảo quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng. Các

nguy cơ đó có thể dẫn tới tình trạng ngân hàng phá sản thậm chí khủng hoảng ngân

hàng.Do vậy, nhiều vấn đề pháp luật điều chỉnh vẫn còn bất cập, vướng mắc trong

thực tiễn trước sự thay đổi, phát sinh linh hoạt, liên tục của thị trường tài chính ngân

hàng ở Việt Nam, nhất là các văn bản dưới luật và các văn bản pháp luật có liên quan.

Thực tiễn thi hành Luật các TCTD năm 2010 và các văn bản điều chỉnh về

quy trình cấp tín dụng của các TCTD thời gian qua phát sinh nhiều vấn đề tồn tại,

vướng mắc cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nguyên nhân cơ bản là do sự

vận động biến đổi liên tục của thực tiễn; quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt

Nam, đặc điểm đặc thù trong chính sách phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam;

bản thân pháp luật về TCTD nói chung và pháp luật về hoạt động của NHTM nói

riêng mang nhiều tính đặc thù và liên quan mật thiết với nhiều hệ thống pháp luật

khác nên ngày 20/11/2017, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

Luật các Tổ chức tín dụng. Từ thực trạng các quy định pháp luật về quy trình cấp

2

tín dụng của TCTD còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế nên cần có thêm công trình

khoa học chuyên sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định

pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của NHTM, các văn bản luật có liên quan

nhằm đảm bảo cho quy trình cấp tín dụng của các NHTM thuận lợi, đa dạng, an

toàn và hiệu quả trong điều kiện và tình hình mới. Ngân hàng TMCP Công thương

Việt Nam là một trong những ngân hàng lớn nhất Việt Nam với bề dày lịch sử và

thương hiệu mạnh của thị trường tín dụng. Tuy nhiên, những vấn đề về quy trình

cấp tín dụng luôn có sự biến động trước những thay đổi liên tục của thị trường tín

dụng cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Chính vì vậy, việc

nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM từ

khi Luật TCTD 2010 có hiệu lực và được sửa đổi bổ sung năm 2017 cho đến nay là

một việc rất cần thiết nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

nói chung và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về quy trình cấp tín dụng tại

Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn

thiện pháp luật về quy trình cấp tín dụng của NHTM, nghiên cứu thực tiễn tại

Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ cở làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và phân tích các quy định của pháp luật

về quy trình cấp tín dụng của NHTM, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và

nâng cao hiệu quả thực hiện quy trình cấp tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt

Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề đạt được mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quy trình cấp tín dụng và pháp luật về quy

trình cấp tín dụng của NHTM

- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về quy trình cấp tín dụng của

NHTM hiện hành theo các nhóm nội dung cấu trúc pháp luật; chỉ rõ những ưu điểm

và hạn chế của việc áp dụng pháp luật hiện hành về quy trình cấp tín dụng tại Ngân

hàng TMCP Công thương Việt Nam.

3

- Xác định phương hướng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định

pháp luật hiện hành và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quy trình cấp tín

dụng của NHTM.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về quy trình cấp tín dụng của

NHTM Việt Nam nói chung, áp dụng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt

Nam nói riêng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung là hệ thống các quy định pháp luật về quy trình cấp tín dụng của các

NHTM ở Việt Nam trong Luật TCTD 2010, Luật TCTD sửa đổi bổ sung năm 2017 và

các văn bản pháp luật hiện hành quy định về từng hình thức cấp tín dụng, cụ thể:

Về không gian: Đề tài nghiên cứu pháp luật về quy trình cấp tín dụng thực tiễn

tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.

Về thời gian: đề tài nghiên cứu đánh giá pháp luật trên cơ sở số liệu công bố

cho kết quả hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam từ năm 2015 đến hết

tháng 6/2018.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương

pháp luận của triết học Mác - Lênin, nền tảng quan điểm duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử, lý luận chung về Nhà nước và pháp luật.

Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật lịch sử của triết học macxit, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu

như: Phương pháp hệ thống hóa để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quy trình cấp tín

dụng, pháp luật về quy trình cấp tín dụng của các NHTM ở Việt Nam; Phương pháp

phân tích và tổng hợp để nhằm làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc áp

dụng pháp luật hiện hành về quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công

thương Việt Nam; Phương pháp thống kê nhằm đưa ra và xử lý các số liệu, so sánh

kết quả giữa các năm để đánh giá thực trạng về kết quả thực hiện pháp luật hiện

4

hành về quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam;

Phương pháp quy nạp, diễn dịch được sử dụng trong toàn bộ luận văn.

5. Tổng quan định hƣớng nghiên cứu

Các công trình nghiên cứu về các hình thức cấp tín dụng và pháp luật điều

chỉnh hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại. Các công trình nghiên cứu

thường tiếp cận và làm rõ về một hình thức cấp tín dụng cụ thể của NHTM (như:

cho vay, bảo lãnh ngân hàng, chiết khấu, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng)

thay vì nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện về tất cả các hình thức cấp tín

dụng của NHTM. Các công trình này nghiên cứu có hệ thống, chi tiết về một hình

thức cấp tín dụng cụ thể hoặc một vấn đề cụ thể trong hoạt động cấp tín dụng của

các NHTM. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như sau:

Đề tài nghiên cứu cấp ngành “Việc áp dụng những tiêu chuẩn an toàn hoạt

động kinh doanh và quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế trong hệ thống ngân hàng

tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” (2012), chủ nhiệm đề tài TS. Hoàng Huy

Hà. Công trình nghiên cứu và đánh giá thực trạng quản trị rủi ro của hệ thống

NHTM Việt Nam hiện nay so với các hệ thống NHTM trong khu vực và thế giới;

khoảng cách và khả năng thích ứng của các NHTM Việt Nam đối với những điều

chỉnh mới đã được nhận diện. Đồng thời đề xuất các giải pháp và lộ trình nhằm rút

ngắn khoảng cách với khu vực và thế giới trong việc áp dụng những tiêu chuẩn an

toàn hoạt động kinh doanh và quản trị rủi ro trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Tại nghiên cứu, một số vấn đề pháp luật được đánh giá ở mức độ nhất định, đặc biệt

các quy định về quản trị rủi ro.

Luận án Tiến sỹ kinh tế “Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng

thương mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel” (2012), của tác giả Nguyễn Anh Tuấn

Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội. Luận án tập trung nghiên cứu và tìm hiểu

các nội dung trong Hiệp ước Basel với tư cách là chuẩn mực về quản trị rủi ro và

giám sát an toàn trong hoạt động của NHTM, đồng thời phân tích khả năng và

chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo Basel vào

hệ thống NHTM Việt Nam, đồng thời đề xuất giải pháp tăng cường công tác quản

trị rủi ro cho các NHTM Việt Nam.

5

Ngoài một số công trình nghiên cứu trên còn có các công trình nghiên cứu về

các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của NHTM cũng như

của các TCTD như: Luận văn Thạc sĩ Luật học (2005) của Phạm Thanh Chung về

Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở

Việt Nam; Luận văn Thạc sĩ Luật học (2010) của Trương Thị Anh Tú về Pháp luật

về quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD; ..

Một số công trình, bài viết đề cập đến vấn đề này như: Bài viết Một số vấn đề

pháp lý về hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính của tác giả Ngô

Quốc Kỳ đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật Số 7/2002, tr. 22 - 25; Bài viết

Cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn – Một hình thức cấp tín dụng của các TCTD của tác

giả Mai Thanh Hưng đăng trên Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ số 1+2/2000,

tr.16;

Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đã nghiên cứu khá

chi tiết, sâu sắc về các nội dung, vấn đề có liên quan đến hoạt động cấp tín dụng của

NHTM và của các TCTD. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu, bài viết chỉ mới

nghiên cứu, tiếp cận đối với một hình thức cấp tín dụng, một vấn đề cụ thể liên quan

đến hoạt động cấp tín dụng của NHTM và của TCTD.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quy trình cấp tín dụng của

Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại Ngân

hàng TMCP Công thương Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại Ngân

hàng TMCP Công thương Việt Nam.

6

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH

CẤP TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

1.1. Những vấn đề chung về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quy trình cấp tín dụng

Theo quan niệm cổ điển, tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn nhau

giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một

thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản

ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử

dụng(chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ

chức khác với những ràng buộc nhất định về: thời gian hoàn trả (gốc và lãi), lãi

suất, cách thức vay mượn và thu hồi... (Lê Văn Tề 2003).

Quy trình cấp tín dụng là một hoạt động cơ bản và đặc biệt quan trong của

NHTM nói riêng, của các tổ chức TCTD nói chung. Chính vì vậy, các TCTD cần xây

dựng một quy trình khoa học, hiệu quả để hoạt động này được triển khai tốt nhất.

Theo quy định tại khoản 14, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010, thì cấp tín dụng là

“việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cho phép sử dụng

một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho

thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng

khác”. Như vậy, cấp tín dụng chính là giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa

hai chủ thể là bên cấp tín dụng và khách hàng - những người có nhu cầu được cấp tín

dụng.

Theo khoản 3, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010, NHTM là “loại hình ngân

hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh

khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.

Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất khái niệm quy trình cấp tín dụng của NHTM

chính là việc “các NHTM thỏa thuận để tổ chức,cá nhân sử dụng một khoản tiền

hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng

nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân

hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.

7

Quy trình cấp tín dụng của NHTM là hoạt động với mục đích tìm kiếm lợi

nhuận, theo đó NHTM chuyển tiền với nguyên tắc có hoàn trả cho khách hàng. Mục

đích chính của hoạt động này là lợi nhuận. Nhờ có hoạt dộng cấp tín dụng, NHTM

thu được lợi nhuận và sử dụng được khoản tiền gửi nhàn rỗi để đầu tư (Nguyễn Văn

Tuyến 2005).

Đặc điểm quy trình cấp tín dụng của NHTM

Thứ nhất, cấp tín dụng là một giao dịch song vụ, trong đó cả hai nhóm chủ thể

(bên cấp tín dụng và bên nhận) đều gắn với những quyền và nghĩa vụ vật chấtnhất

định, được xác định trước; theo đó, tài sản giao dịch dưới hai hình thức là cho vay

và cho thuê. Tuy nhiên đối với NHTM, quan hệ tín dụng chủ yếu là cho vay.

Thứ hai, xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, khi thực hiện quy trình cấp tín dụng,

các NHTM phải có những cơ sở tin rằng chủ thể được cấp tín dụng có khả năng

hoàn trả đúng hạn.Đây là yêu cầu quan trọng của nghiệp vụ quản trị tín dụng của

NHTM. Đồng thời quy trình cấp tín dụng của NHTM là hành vi nhằm mục đích lợi

nhuận, do vậy, giá trị hoàn trả hay giá trị mà các NHTM nhận lại thông thường phải

lớn hơn giá trị NHTM bỏ ra ban đầu.

Thứ ba, NHTM luôn là một bên cấp tín dụng cho khách hàng. Với nội dung và

phạm vi nghiên cứu của đề tài, cấp tín dụng được hiểu là hoạt động kinh doanh

ngân hàng cơ bản và thường xuyên của NHTM.

Thứ tư, cấp tín dụng luôn mang tính sinh lời và rủi ro cho các NHTM. Theo

Phạm Thị Giang Thu và cộng sự 2011 thì quy trình cấp tín dụng là hoạt động kinh

doanh ngân hàng cơ bản trong quá trình sử dụng vốn của chủ sở hữu và đặc biệt là sử

dụng vốn của chủ thể gửi tiền, đi cùng với nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn thì

yêu cầu sinh lời cho mỗi giao dịch tín dụng được hiểu như lẽ tự nhiên. Bên cạnh đó,

việc chuyển giao tín dụng cho khách hàng cũng đồng nghĩa với nguy cơ không nhận

lại/không nhận lại đầy đủ giá trị tín dụng theo cam kết ban đầu cũng là hiện hữu, vì

thế các điều kiện cấp tín dụng cũng như các biện pháp phòng ngừa rủi ro luôn đi kèm

với quá trình chuyển giao tín dụng cho khách hàng.

Thứ năm, trong quan hệ cấp tín dụng, vốn vay được cấp trên cơ sở hoàn trả vô

điều kiện. NHTM cấp vốn cho khách hàng cần vốn, trong bất kỳ trường hợp nào,

8

khi đến hạn, chủ thể được cấp tín dụng phải hoàn trả đầy đủ cho khách hàng toàn bộ

số vốn và các cam kết khác được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.

1.1.2. Nguyên tắc của quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại

Cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh được các NHTM thực hiện nhằm hướng

tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nếu NHTM thực hiện cấp tín dụng có hiệu quả thì

hoạt động này sẽ mang lại nhiều lợi nhuận, làm tăng thêm uy tín và hiệu quả hoạt

động của NHTM; ngược lại, nó sẽ mang lại rủi ro và thậm chí dẫn đến sự sụp đổ

của NHTM. Hay nói cách khác, trong điều kiện hiện nay, quy trình cấp tín dụng có

ý nghĩa quyết định tới sự sống còn của NHTM. Vậy bản chất pháp lý của quy trình

cấp tín dụng của NHTM là việc chuyển nhượng quyền sở hữu số tiền vay từ NHTM

(bên cấp tín dụng) sang bên đi vay theo nguyên tắc hoàn trả và dựa trên cơ sở thỏa

thuận trong các hợp đồng cấp tín dụng (Nguyễn Văn Tuyến 2005).

Về nguyên tắc, quy trình cấp tín dụng của NHTM thường được thực hiện dựa

trên các nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất, quy trình cấp tín dụng của NHTM là một giao dịch dân sự, trong đó

đối tượng chuyển giao có thể được giao dịch thông qua hình thức cho vay, chiết

khấu hoặc cho thuê. Các bên thực hiện hoạt động này trên nguyên tắc thỏa thuận và

tự do ý chí nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Thứ hai, việc cấp tín dụng của NHTM phải được thực hiện trên nguyên tắc có

hoàn trả. Theo đó, khách hàng được cấp tín dụng có nghĩa vụ cam kết và hoàn trả

cho NHTM khoản vốn tín dụng đã được cấp cùng với một khoản lãi sau một

khoảng thời gian nhất định. Theo nguyên tắc này khoản tín dụng mà khách hàng

nhận được chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã được thoả

thuận trong hợp đồng (thời hạn cấp tín dụng). Khi hết hạn hợp đồng, người nhận

vốn phải trả cả gốc và lãi. Tuỳ thuộc từng nghiệp vụ cấp tín dụng và phương thức

cấp mà nghĩa vụ hoàn trả vốn tín dụng được thực hiện bằng nhiều cách.

Thứ ba, để bảo đảm khả năng hoàn trả vốn tín dụng đã được cấp của khách

hàng, việc cấp tín dụng của NHTM phải đảm bảo nguyên tắc vốn tín dụng được cấp

phải được sử dụng đúng mục đích. Theo đó, khách hàng phải đảm bảo sử dụng khoản

tín dụng được NHTM cấp theo đúng mục đích đã cam kết với NHTM, là cơ sở để

9

đảm bảo vốn vay được khách hàng sử dụng hiệu quả và phù hợp với quy định pháp

luật.

Thư tư, nguyên tắc bảo đảm an toàn trong quy trình cấp tín dụng: việc cấp tín

dụng cần đảm bảo sự thu hồi vốn cả gốc và lãi cho các NHTM. Để thực hiện được

điều này, NHTM phải tuân thủ những giới hạn và tỷ lệ an toàn trong hoạt động tín

dụng ngân hàng.

1.1.3. Vai trò quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại

Quy trình cấp tín dụng không chỉ mang lại lợi nhuận cho các NHTM mà còn

mang lại lợi ích cho khách hàng là các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quan hệ

cấp tín dụng, đồng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vai trò của

quy trình cấp tín dụng được thể hiện cụ thể như sau (Ngô Quốc Kỳ 2002):

Thứ nhất, đối với nền kinh tế, quy trình cấp tín dụng của các NHTM có vai trò

thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Quy trình cấp tín dụng của NHTM cung cấp lượng

vốn cho khách hàng là các tổ chức, cá nhân khi khách hàng không thể tự đáp ứng

nhu cầu về vốn để sử dụng vào mục đích nhất định như sản xuất, kinh doanh, hay

tiêu dùng, qua đó thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển.

Thứ hai, đối với NHTM, quy trình cấp tín dụng của NHTM mang lại nguồn

lợi nhuận lớn nhất, trực tiếp nhất cho các NHTM. Cấp tín dụng được xem như

những mạch máu, mang nguồn vốn của ngân hàng thông qua hoạt động nhận tiền

gửi và nguồn vốn tự có của bản thân ngân hàng đi cung cấp cho những nơi cần đến

và mang về nguồn tiền lớn hơn. Không có quy trình cấp tín dụng, NHTM chỉ giống

như tổ chức nhận tiền gửi thông thường, không mang đầy đủ đặc tính của một

TCTD.

Thứ ba, đối với khách hàng, quy trình cấp tín dụng của NHTM mang đến

nguồn vốn để giải quyết vấn đề của mình, có thể để sản xuất kinh doanh, đầu tư

trang thiết bị, cải tiến quy trình kỹ thuật, khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng

sản phẩm. Khách hàng được NHTM cấp tín dụng có thể là tổ chức, cá nhân và quy

trình cấp tín dụng được coi là nguồn cứu trợ cần thiết và có tính an toàn.

10

1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quy trình cấp tín dụng của

Ngân hàng thương mại

1.1.4.1. Chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà

nước

Bất kỳ quốc gia nào, cho dù tuyên ngôn không giống nhau, nhưng đều hướng

tới lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, đặc biệt trong giai đoạn cụ thể hiện nay. Các

quốc gia cho dù chế độ chính trị nào, ảnh hưởng về ý chí của đảng cầm quyền cũng

luôn rõ nét, chưa nói đến ảnh hưởng của cá nhân mang yếu tố chính trị đối với hệ

thống pháp luật thực định. Điều này tác động đến kết cấu, nội dung điều chỉnh của

pháp luật nói chung và chế định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của

NHTM nói riêng.

1.1.4.2. Thực trạng quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại trong

giai đoạn /chu kỳ xem xét

Thực trạng quy trình cấp tín dụng của các NHTM là căn cứ quan trọng để Nhà

nước ban hành quy định pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội và có ảnh hưởng lớn đến

những vấn đề mang tính an toàn cho người gửi tiền cũng như cho xã hội. Đối với

mỗi phương thức cấp tín dụng đều có rủi ro nhất định và pháp luật áp dụng trong

cấp tín dụng với mỗi phương thức này cũng có sự khác nhau nhất định.Sự điều

chỉnh của pháp luật xuất phát từ chính thực tiễn cấp tín dụng của các NHTM ở Việt

Nam. Năm 1997, Luật các TCTD áp dụng hạn mức theo từng phương thức cấp tín

mà không gộp hạn mức như Luật các TCTD 2010. Mức bảo lãnh đối với một khách

hàng và tổng mức bảo lãnh của một TCTD không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự

có của TCTD do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Khi quan hệ xã hội đã

được pháp luật điều chỉnh nhưng gặp phải vướng mắc, khó khăn trong quá trình

thực thi, Nhà nước cần điều chỉnh lại quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho sự phát

triển và an toàn của các quan hệ đó. Pháp luật về cấp tín dụng của các NHTM cũng

nằm trong những yêu cầu chung đó. Nói khác đi, thực trạng cấp tín dụng của các

NHTM là một trong những yếu tố tác động đến pháp luật về cấp tín dụng của nhóm

chủ thể này.

1.1.4.3. Kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật ở các nước trên thế giới

11

Cho đến nay, các quốc gia có chủ quyền đều có hệ thống quy định pháp luật

điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM. Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội và

văn hóa làm luật mà hình thức pháp lý, nội dung điều chỉnh pháp luật của các quốc

gia đối với quy trình cấp tín dụng của NHTM là khác nhau. Việc tiếp thu kinh

nghiệm điều chỉnh pháp luật của các quốc gia luôn được xem là nhu cầu cần thiết

đối với mọi quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngay trong quá trình xây

dựng các Luật cụ thể, Ban soạn thảo các dự án Luật cũng luôn coi kết quả đánh giá

và tiếp thu kinh nghiệm pháp luật của các quốc gia được lựa chọn như là nội dung

mang tính bắt buộc trong quá trình soạn thảo Luật. Bên cạnh việc tiếp thu có lựa

chọn kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật cácquốc gia thì việc thực hiện các cam kết

quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc thừa nhận trong lĩnh vực cấp tín dụng là nội

dung buộc phải thực hiện. Bên cạnh đó, vấn đề tương thích giữa hệ thống pháp luật

tài chính ngân hàng của Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và

tham gia nảy sinh như một nhu cầu tất yếu không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà đã

là nhu cầu từ cuối những năm 1990. Về mức độ tương thích với hệ thống pháp luật

tài chính ngân hàng của các quốc gia ký kết điều ước quốc tế, yêu cầu cơ bản đặt ra

là phải đảm bảo tính tương đồng về nguyên tắc, định hướng. Nguyên tắc cơ bản

theo thoả thuận với các quốc gia khác thường được đặt ra như yêu cầu tiên quyết là

nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc ràng buộc và cắt giảm thuế quan,

nguyên tắc công khai minh bạch.

1.1.4.4. Nhu cầu vốn của nền kinh tế trong từng thời kỳ và yêu cầu bảo đảm an

toàn của hệ thống các Ngân hàng thương mại nói riêng, hệ thống các tổ chức tín dụng

nói chung

Có thể nói, nhu cầu về vốn là nhu cầu tất yếu của các thành phần trong nền

kinh tế.Tuy nhiên, trong những thời kỳ khác nhau, nhu cầu về vốn của mỗi chủ thể

cũng sẽ khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các hoạt động

kinh tế diễn ra theo quy luật cung cầu thì quy trình cấp tín dụng của NHTM chịu

ảnh hưởng sâu sắc bởi nhu cầu về vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Bên cạnh

đó, do quy trình cấp tín dụng của NHTM là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro, có ảnh

hưởng dây chuyền nên yêu cầu đặt ra cho các NHTM khi thực hiện quy trình cấp tín

dụng là luôn phải đảm bảo an toàn cho chính mình, từ đó góp phần đảm bảo an toàn

12

cho cả hệ thống các NHTM nói riêng, hệ thống các TCTD nói chung. Do đó, pháp

luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của các NHTM vừa phải đảm bảo tạo điều

kiện để các NHTM đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể khác trong nền kinh tế

một cách phù hợp, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động của cả hệ thống các NHTM

nói riêng, hệ thống các TCTD nói chung.

1.2. Cơ sở và cấu trúc pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thƣơng mại

1.2.1. Cơ sở và yêu cầu pháp luật với quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thương mại

Quy trình cấp tín dụng của các NHTM không chỉ mang lại lợi ích cho khách

hàng là các tổ chức, cá nhân mà còn là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trước

hết, quy trình cấp tín dụng của NHTM cung cấp một lượng vốn cho khách hàng khi

khách hàng cần vốn mà khả năng tự có về vốn không thể đáp ứng được để sử dụng

vào mục đích nhất định như sản xuất, kinh doanh hay tiêu dùng qua đó thúc đẩy các

hoạt động kinh tế phát triển. Quy trình cấp tín dụng mang đến nguồn vốn để giải

quyết các vấn đề tài chính liên quan đến hoạt động kinh doanh, đầu tư hay tiêu

dùng, do đó quy trình cấp tín dụng còn được coi là “phao cứu trợ” cần thiết cho

khách hàng có nhu cầu về vốn của NHTM. Ngoài ra, quy trình cấp tín dụng của

NHTM chính là hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn nhất, trực tiếp nhất cho các

NHTM. Nếu có thể so sánh, quy trình cấp tín dụng của NHTM giống như những

mạch máu, mang nguồn vốn của ngân hàng đi cung cấp cho những nơi cần vốn và

mang về lượng tiền lớn hơn. Do đó, quy trình cấp tín dụng còn thúc đẩy chu trình

luân chuyển của dòng tiền, tạo cơ chế phân phối vốn một cách hiệu quả. Bên cạnh

đó, quy trình cấp tín dụng của các NHTM cũng liên quan mật thiết đến các chính

sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ, giúp cho các chính sách này được thực hiện

đúng mục đích trong thực tế.

Xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, cùng với xu hướng toàn cầu hóa,

đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, quy trình cấp tín dụng của NHTM đang

ngày càng phát triển sôi động trên nhiều lĩnh vực, mang lại nhiều kết quả tích cực

cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tác động mặt trái của quy trình cấp tín dụng gây hậu quả

13

xấu cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do

vậy, cần sự điều chỉnh của pháp luật để phát huy tối đa mặt tích cực đồng thời hạn

chế, ngăn chặn và phòng ngừa các tiêu cực. Một mặt, pháp luật tạo hành lang pháp

lý cần thiết, định hướng cho các quan hệ ngân hàng phát triển ổn định. Mặt khác,

pháp luật có tác dụng thúc đẩy và điều tiết các quan hệ tiền tệ - ngân hàng phát

triển.

Xuất phát từ tính rủi ro và phản ứng dây chuyền của quy trình cấp tín dụng của

NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy luật cạnh tranh thì

các hiện tượng như phá sản, mất khả năng thanh toán, hiện tượng gian dối, vi phạm

là hệ quả tất yếu khó tránh khỏi đã làm tăng nguy cơ rủi ro cho quy trình cấp tín

dụng. Mặt khác, do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng và khả năng phản ứng dây

truyền nên nếu để xảy ra rủi ro sẽ ảnh hưởng xấu cho toàn hệ thống. Vì vậy, pháp

luật điều chỉnh để hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn, lành mạnh cho quy trình cấp tín

dụng của NHTM nhằm bảo về quyền lợi của các bên khi tham gia vào quy trình cấp

tín dụng đồng thời bảo đảm thị trường tiền tệ vận hành an toàn, lành mạnh và hiệu

quả. Pháp luật quy định cụ thể các hành vi vi phạm, chế tài áp dụng, các biện pháp

giải quyết tranh chấp, cơ chế thanh tra, giám sát, các yêu cầu, biện pháp để chủ thể

tham gia thị trường thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình (Nguyễn Danh

Lương 2003)…

Bên cạnh đó, nhằm bảo về quyền lợi của các bên khi tham gia quy trình cấp

tín dụng đồng thời bảo đảm thị trường tiền tệ vận hành an toàn, lành mạnh và hiệu

quả, các quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của các

NHTM, chế tài áp dụng với các hành vi vi phạm và các biện pháp giải quyết tranh

chấp là cơ sở pháp lý quan trọng để chủ thể tham gia thị trường thực hiện đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ của mình.

1.2.2. Cấu trúc pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.2.2.1. Quy định của pháp luật về các nghiệp vụ cấp tín dụng Ngân hàng

thương mại được phép thực hiện

Theo Viên Thế Giang 2015, các nghiệp vụ của quy trình cấp tín dụng bao

gồm: Cho vay, bảo lãnh ngân hàng, bao thanh toán, chiết khấu, tái chiết khấu giấy

14

tờ có giá và các hình thức cấp tín dụng khác được Ngân hàng Nhà nước chấp

nhận.Pháp luật quy định về các nghiệp vụ cấp tín dụng:

Pháp luật về cho vay: là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành

nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện quy

trình cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của NHTM. Cho vay là nghiệp vụ cấp tín

dụng quan trọng nhất của NHTM hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn mà

NHTM cung cấp hàng năm cho khách hàng. Pháp luật về cho vay hình thành từ rất

sớm và không ngừng hoàn thiện. Pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng bằng

nghiệp vụ cho vay của NHTM bao gồm các nội dung cơ bản sau: quy định pháp luật

về các chủ thể tham gia quan hệ cấp tín dụng dưới hình thức cho vay; quy định pháp

luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng trong hoạt động cho vay; quy định về các biện

pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của NHTM; quy định về

giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong hoạt động cho vay của NHTM.

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán: điều chỉnh các quan hệ xã hội phát

sinh trong quá trình NHTM thực hiện dịch vụ cho bên bán hàng, cung ứng dịch vụ

hoặc bên mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ thông qua việc mua lại các khoản phải thu

hoặc các khoản phải trả hình thành từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

theo hợp đồng thương mại giữa các bên. Hoạt động bao thanh toán còn chịu sự điều

chỉnh bởi những quy tắc, quy ước chuẩn mực chung trong điều ước quốc tế mà Việt

Nam ký kết hoặc tham gia. Nội dung pháp luật bao thanh toán quy định cụ thể các

bên chủ thể của giao dịch bao thanh toán; đối tượng bao thanh toán; hợp đồng bao

thanh toán; các quyền và nghĩa vụ các bên khi tham gia giao dịch bao thanh toán.

Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng: là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà

nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong việc xác lập, thực hiện

và chấm dứt quan hệ bảo lãnh ngân hàng, địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các

bên khi tham gia vào quan hệ bảo lãnh và các chủ thể khác, nhằm bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các chủ thể tham gia và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.

Pháp luật về chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá và công cụ chuyển

nhượng. Đây là công cụ để nhà nước quản lý hoạt động chiết khấu/tái chiết khấu

giấy tờ có giá đảm bảo hoạt động của ngân hàng hoạt động đúng định hướng của

15

nhà nước; là cơ sở pháp lý để các ngân hàng hoạt động bình đẳng, lành mạnh.Quy

định về chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá bao gồm đối tượng, chủ thể, hợp

đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh.

Pháp luật về hoạt động phát hành thẻ tín dụng: điều chỉnh quan hệ xã hội phát

sinh trong quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng. Hoạt động phát

hành thẻ tín dụng bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 1990 bằng những

văn bản pháp quy đầu tiên. So với các nước phát triển, hoạt động phát hành thẻ tín

dụng và sử dụng thể tín dụng ở Việt Nam còn là hoạt động khá mới mẻ.

Pháp luật về các nghiệp vụ cấp tín dụng khác được Ngân hàng Nhà nước

chấp thuận

Thực chất đây là quy định dự phòng, thể hiện sự linh hoạt trong điều chỉnh của

pháp luật với các quy trình cấp tín dụng. Bởi lẽ, theo Phạm Thị Giang Thu và cộng

sự 2010 thì hoạt động của NHTM rất đa dạng, sôi động và liên tục phát triển trong

khi pháp luật có tính ổn định tương đối, nhiều hoạt động mới phát sinh mà pháp luật

chưa dự liệu được hết. Những hoạt động đó nếu phù hợp, đem lại hiệu quả thiết

thực cho các bên tham gia và cho nền kinh tế thì Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở

quy định Luật Các TCTD và các quy định có liên quan có thể chấp thuận một hoạt

động thực tế mới phát sinh là quy trình cấp tín dụng của NHTM.

1.2.2.2. Quy định của pháp luật về quyền quyết định cấp tín dụng cho khách

hàng

Cấp tín dụng là hoạt động sử dụng vốn quan trọng hàng đầu của NHTM, tỷ

trọng trên tổng tài sản lớn, hàm chứa nhiều rủi ro nên việc quyết định cấp tín dụng

(Phạm Thị Giang Thu và cộng sự 2011). Điều 94 Luật các TCTD 2010 về xét duyệt

cho khách hàng cần phải được cân nhắc và thực hiện bởi chủ thể đủ thẩm quyền

tín dụng, kiểm tra sử dụng tiền vay chỉ quy định “TCTD phải tổ chức xét duyệt cấp

tín dụng theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định

cấp tín dụng” không có nghĩa bất kỳ cá nhân hay nhóm cá nhân nào cũng có quyền

quyết định cấp tín dụng. Việc quy định về quyền cho cá nhân, nhóm cá nhân và cơ

chế kiểm soát sẽ hình thành nên hệ thống phê duyệt tín dụng của các NHTM.

16

Theo tác giả Phạm Thị Giang Thu (2011) đã viết “bộ máy quản trị & điều

hành cùng với hoạt động của họ có vai trò cực kỳ quan trọng trong quy trình cấp tín

dụng và theo đó, kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng. Hệ thống quản trị điều hành

sử dụng pháp luật để phục vụ cho chủ sở hữu TCTD với mục tiêu tối đa hóa lợi

nhuận và giảm thiểu rủi ro về vốn. Các quyết định về tổ chức từng đơn vị, quyết

định về hệ thống phê duyệt tín dụng sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu về các rào cản nhằm

hạn chế rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, chính cơ quan quản trị (Hội đồng quản trị, Hội

đồng thành viên) và bộ máy điều hành (Tổng Giám đốc và các chức danh khác được

pháp luật hoặc Điều lệ TCTD quy định) cũng có trách nhiệm đối với các khoản tín

dụng được cấp theo luật định”.

1.2.2.3. Quy định của pháp luật về nội dung các quy trình cấp tín dụng cho khách

hàng

Thông thường, khi nói đến nội dung cấp tín dụng cho khách hàng là đề cập

đến các quy định nhằm đảm bảo cho NHTM chuyển giao/hứa chuyển một lượng giá

trị nhất định cho khách hàng. Pháp luật quy định về nội dung cấp tín dụng thường

đề cập đến các vấn đề sau đây:

Nhóm quy phạm quy định về tư cách chủ thể của bên nhận tín dụng. Mặc dù

khách hàng có thể là tổ chức, cá nhân theo nghĩa chung nhất, tuy nhiên với mỗi hình

thức cấp tín dụng có những đặc thù khác nhau nên pháp luật có thể quy định thêm

để đáp ứng tính đặc thù này; Nhóm quy phạm quy định về hình thức pháp lý khi xác

lập quan hệ tín dụng với khách hàng (hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh, hợp

đồng phát hành thẻ, hợp đồng chiết khấu /tái chiết khấu, hợp đồng bao thanh toán);

Nhóm quy định về nội dung hợp đồng cấp tín dụng; Nhóm quy định về việc kiểm

soát, quản lý và thu hồi khoản tín dụng đã cấp; Nhóm quy định về xử lý khoản tín

dụng đã cấp nhằm mục đích thu hồi vốn Pháp luật quy định về nội dung cấp tín

dụng cho khách hàng có hình thức thể hiện:

- Văn bản pháp luật trực tiếp quy định về cấp tín dụng do Nhà nước ban hành.

Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật TCTD, Luật về Thương phiếu, Bộ luật Dân sự… và

các văn bản hướng dẫn thi hành là những ví dụ cụ thể. Bên cạnh đó, còn có văn bản

pháp luật gián tiếp quy định về quy trình cấp tín dụng do Nhà nước ban hành. Có thể

17

chỉ ra như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Xây dựng,

Luật Kế toán, Luật về Công chứng… và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Văn bản nội bộ của NHTM quy định trình tự, thủ tục để NHTM cấp tín dụng

cho khách hàng và quy định trình tự, thủ tục giám sát, kiểm soát việc sử dụng và thu

hồi khoản tín dụng đã cấp từ khách hàng. Nói đến quy trình là nói đến trình tự, thủ

tục, các bước cần phải thực hiện khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng. Nhằm đảm

bảo an toàn trong quy trình cấp tín dụng, NHTM thường quy định các bước cụ thể:

tìm hiểu khách hàng và nhu cầu tín dụng, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, thẩm định hồ

sơ khách hàng và thẩm định về các biện pháp bảo đảm đối với tín dụng dự định cấp,

xem xét và phê duyệt tín dụng, cấp tín dụng, giám sát sau cấp tín dụng, thực hiện các

biện pháp quản lý và xử lý nợ nhằm thu hồi khoản tín dụng đã cấp.

Nếu như một số bộ phận cấu thành của pháp luật về cấp tín dụng được Nhà

nước ban hành thì những nội dung về quy trình cấp tín dụng dường như không được

đề cập chi tiết tại văn bản pháp luật.Tuy nhiên cần phải xem xét vấn đề này ở góc

độ rộng hơn. Theo Điều 93, khoản 1, Luật các TCTD 2010 về “văn bản nội bộ”: “1.

Căn cứ vào quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan,

TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với các hoạt động nghiệp

vụ của TCTD, bảo đảm có cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro gắn

với từng quy trình nghiệp vụ kinh doanh, phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp.

2. TCTD phải ban hành các quy định nội bộ sau đây: a) Quy định về cấp tín dụng,

quản lý tiền vay để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích...”. Như thế, trách

nhiệm hình thành các quy định cụ thể trong nội bộ NHTM để cấp tín dụng theo các

yêu cầu pháp luật là bắt buộc và là căn cứ xác định tính phù hợp của các khoản tín

dụng đã cấp.

1.2.2.4. Quy định của pháp luật về giới hạn an toàn trong quy trình cấp tín

dụng của Ngân hàng thương mại

Pháp luật về đảm bảo an toàn trong quy trình cấp tín dụng của các NHTM là

một bộ phận cụ thể của pháp luật ngân hàng, bao gồm các quy định về vốn tự có, tỷ

lệ an toàn tối thiểu và quản lý nội bộ. Các quy định này có nội dung chủ yếu quy

định về việc nắm giữ tiền mặt trong thực tế, nguồn vốn bắt buộc các NHTM phải

18

duy trì để đảm bảo hoạt động cũng như đảm bảo tính an toàn cho hoạt động tín

dụng. Ngoài ra, để tăng tính an toàn cũng như tránh được các hành vi gian lận nhằm

thu lợi ích cao nhất, các quy định về an toàn trong quy trình cấp tín dụng cũng có

nêu rõ những đối tượng và trường hợp cấm, hạn chế cấp tín dụng; quy định về giới

hạn cấp tín dụng; quy định trong việc góp vốn, mua cố phẩn và quy định về tỷ lệ

đảm bảo an toàn và các quy định về dự phòng rủi ro (Phạm Thị Giang Thu và cộng

sự 2011).

1.3. Thực trạng pháp luật về quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại

1.3.1. Quy định về nghiệp vụ cấp tín dụng được phép thực hiện

Luật các TCTD năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các văn bản quy định

chi tiết của NHNN đều có những quy định chi tiết nhằm điều chỉnh quy trình cấp tín

dụng của NHTM. Các văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo ra một khung pháp lý

tương đối đầy đủ, chi tiết điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM nói riêng,

các TCTD nói chung.

Cách thức quy định tính toàn diện của các nghiệp vụ cấp tín dụng được thể

hiện rõ ràng thông qua chính phần giải thích từ ngữ tại Điều 4 Luật TCTD 2010,

việc thực hướng dẫn cụ thể về các hoạt động được coi là cấp tín dụng của NHTM

cũng được thể hiện trong các văn bản do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban

hành. Khoản 3 Điều 90 Luật các TCTD, các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh

doanh khác của TCTD theo quy định của Luật này thực hiện theo hướng dẫn của

NHNN. Bên cạnh đó, với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực

ngân hàng, trong quy trình cấp tín dụng NHNN đã ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật điều chỉnh các hình thức cấp tín dụng cụ thể. Các văn bản này với những

nội dung quy định cụ thể, mang tính chất hướng dẫn chi tiết thực hiện đã tạo ra cơ sở

pháp lý quan trọng để các NHTM thực hiện quy trình cấp tín dụng cho khách hàng

đảm bảo cho quy trình cấp tín dụng của các NHTM được thực hiện một cách hợp

pháp và thuận lợi hơn.

Hiện nay, các nghiệp vụ cấp tín dụng của NHNN đều được thực hiện theo quy

định tại các Thông tư /Quyết định của NHNN (bên cạnh việc tuân thủ các quy định

của Luật các TCTD). Hầu hết các văn bản này đều được ban hành /sửa đổi, bổ sung

19

để phù hợp với sự thay đổi của Luật các TCTD /Luật NHNN và phù hợp với thực

trạng quy trình cấp tín dụng của các NHTM. Có thể sơ lược các văn bản này như

sau:

- Đối với hoạt động cho vay: Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày

30/12/2016 quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

ngoài với khách hàng, thay thế Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN và có hiệu lực

kể từ ngày 15/3/2017.

- Đối với hoạt động bảo lãnh: Thông tư 13/2017/TT-NHNN sửa đổi bổ sung

một số điều Thông tư 07/2015/TT-NHNN ngày 25/06/2015 của Thống đốc NHNN

quy định về bảo lãnh ngân hàng

- Đối với hoạt động phát hành thẻ tín dụng: Thông tư 26/2017/TT-NHNN sửa

đổi, bổ sung một số điều Thông tư 19/2016/TT-NHNN ngày 30/06/2016 của Thống

đốc NHNN Quy định về hoạt động thẻ ngân hàng

- Đối với hoạt động chiết khấu: Thông tư số 04/2013/TT-NHNN ngày

01/3/2013 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động chiết khấu công cụ chuyển

nhượng, giấy tờ có giá khác của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với

khách hàng, có hiệu lực kể từ ngày 01/5/2013, được sửa đổi, bổ sung bởi: Thông tư

số 21/2016/TT-NHNN.

- Đối với hoạt động bao thanh toán: Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ngày

06/09/2004 của Thống đốc NHNN về ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán

của các TCTD, được sửa đổi, bổ sung bởi: Thông tư 14/2016/TT-NHNN ngày

30/6/2016.

Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo an toàn, rủi ro trong quy trình cấp tín dụng của

NHTM và để cụ thể hóa các quy định của Luật các TCTD, Thống đốc NHNN đã

ban hành các văn bản: Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định

các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, được sửa đổi, bổ

sung bởi: Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày 27/5/2016.

Nguyên tắc vay vốn được quy định tại Điều 4 Thông tư số 39/2016/TT-

NHNN. Theo đó, khách hàng vay vốn của NHTM phải đảm bảo: Sử dụng vốn vay

đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và tiền lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận với

20

TCTD. Những quy định về điều kiện cấp tín dụng được quy định tại Điều 94 Luật

các TCTD năm 2010 và các văn bản hướng dẫn chi tiết các hình thức cấp tín dụng

khác nhau.

Bên cạnh việc ghi nhận các hình thức cấp tín dụng nêu trên, pháp luật cũng

thừa nhận các hình thức biến thiên của mỗi nghiệp vụ cấp tín dụng cũng như sự kết

hợp giữa các hình thức cấp tín dụng với nhau để cung cấp dịch vụ tín dụng đầy đủ

cho khách hàng. Luật TCTD 2010 không quy định việc NHTM mua trái phiếu sơ

cấp của doanh nghiệp là một hình thức cấp tín dụng của NHTM, nhưng lại quy định

rõ tỷ lệ vốn mà NHTM đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp được tính trong giới hạn

cấp tín dụng của NHTM đối với khách hàng đó. Khoản 1 Điều 128 Luật Các TCTD

2010 quy định: “tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không vượt

quá 15% vốn tự có của NHTM. Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 128 Luật TCTD cũng

quy định “mức dư nợ cấp tín dụng bao gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do

khách hàng phát hành. Theo Tạ Hồng Hạnh 2014 thì cách quy định này xuất phát từ

lập luận cho rằng “Nếu ngân hàng mua trái phiếu sơ cấp, bản chất là cho vay đối với

tổ chức phát hành nên quy định giới hạn mua trái phiếu sơ cấp nằm trong giới hạn

cấp tín dụng là phù hợp với yêu cầu của việc quy định hạn mức”.

1.3.2. Quy định về thẩm quyền quyết định cấp tín dụng cho khách hàng quyền

quyết định cấp tín dụng

Quyết định cấp tín dụng chính là việc xem xét, phê duyệt thông qua một hạn

mức tín dụng, một khoản tín dụng cụ thể cho khách hàng. Thông thường, trong mối

quan hệ cấp tín dụng giữa NHTM với khách hàng, cụm từ "ngân hàng cấp tín dụng"

được sử dụng rất chung chung và mang tính phổ biến, tuy nhiên, các nhân hay tổ

chức nào cụ thể nhân danh NHTM để quyết định cấp tín dụng thì dường như chưa

được thực sự quan tâm.

Đối với các hợp đồng có giá trị trên 20% vốn điều lệ của NHTM hoặc một tỷ

lệ thấp hơn đối với người có liên quan theo Điều 59 khoản 2 điểm q Luật TCTD

2010 thuộc về trách nhiệm của Đại hội cổ đông hoặc Đại hội thành viên hoặc chủ sở

hữu (tùy theo tính chất sở hữu của NHTM). Như vậy, hợp đồng có giá trị lớn nêu

trên có thể là hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh ngân hàng, một hợp đồng đầu

21

tư trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp hoặc các hình thức cấp tín dụng khác. Tuy nhiên,

các hình thức cấp tín dụng khác như phát hành thẻ tín dụng, bao thanh toán, chiết

khấu các giấy tờ có giá do mục đích, thời gian sử dụng khoản tín dụng nên thường

không đặt ra trách nhiệm quyết định phê duyệt tín dụng này cho đại hội cổ đông hay

chủ sở hữu của ngân hàng. Đối với các khoản tín dụng dưới giới hạn dành cho chủ

sở hữu, Hội đồng quản trị quyết định cấp tín dụng đối với trường hợp vượt quá giới

hạn tín dụng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và thông qua các hợp đồng

với các công ty con, công ty liên kết, với các thành viên có liên qua. Luật TCTD và

các văn bản hướng dẫn về cấp tín dụng hiện hành chỉ quy định trách nhiệm quyết

định cấp tín dụng đối với chủ sở hữu NHTM (Đại hội cổ đông/Đại hội thành viên)

và Hội đồng quản trị/Hội đồng thành viên mà không đề cập đến các quyền quyết

định tín dụng của các bộ phận hoặc cá nhân khác.

Việc kiểm soát thực hiện thông qua việc xác định thẩm quyền của các bộ phận

quản trị điều hành, tạo điều kiện tự chủ cho các NHTM xây dựng hệ thống phê

duyệt/quyết định tín dụng, xác định vai trò của hệ thống quy định nội bộ do NHTM

tự xây dựng, phân định hoạt động quyết định cấp tín dụng với các hoạt động khác

liên quan đến khoản tín dụng đó.

Một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả, hiệu lực thi hành của các quy

phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội là tính ổn định. Tất nhiên không có

nghĩa là bỏ qua yêu cầu cập nhật, thay đổi các quy định pháp luật đề phù hợp, đáp

ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống quan hệ xã hội. Tính ổn định của các quy

định điều chỉnh quy trình cấp tín dụng trước hết được thể hiện thông qua hiệu lực

thi hành của Luật các TCTD. Theo đó, Luật các TCTD 2010 thay thế cho Luật các

TCTD năm 1997 (và được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Khoảng thời gian hiệu lực

của Luật các TCTD năm 1997 là khoảng 13 năm, và Luật các TCTD hiện hành

cũng đã có 06 năm thi hành và được đánh giá là đáp ứng được các yêu cầu điều

chỉnh đối với quy trình cấp tín dụng của NHTM. Các nguyên tắc, nội dung chủ yếu

của Luật các TCTD vẫn được đánh giá cao trên thực tế và hiện nay, Quốc hội cũng

chưa có kế hoạch ban hành Luật các TCTD mới để sửa đổi, bổ sung hay thay thế

đạo luật này.

22

Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật được Ngân hàng Nhà nước ban

hành nhằm cụ thể, chi tiết hóa các quy định của Luật các TCTD năm 2010 cũng

tương đối ổn định khi thời hạn thi hành của các văn bản này cũng được xác định

theo năm, như: Quy chế cho vay được ban hành năm 2001 (được sửa đổi, bổ sung

vào các năm 2002, 2005, 2011); Quy định về bảo lãnh ngân hàng được ban hành

năm 2015 để thay thế cho Quy định về bảo lãnh ngân hàng ban hành năm 2012;…

Như vậy, thông qua các đánh giá nêu trên có thể nhận thấy được tính ổn định của

các quy định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM. Đặc điểm này

của các quy định pháp luật đã góp phần quan trọng vào sự phát triển ổn định của

quy trình cấp tín dụng của NHTM trên thực tế.

1.3.3. Quy định về nội dung quy trình cấp tín dụng

(1) Cho vay theo Hợp đồng tín dụng

Về lãi suất tín dụng: Theo Điều 13 Thông tư 39/2017/TT-NHNN thì TCTD và

khách hang thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường trừ một số

trường hợp NHNN có quy định về lãi suất cho vay tối đa. NHNN tiếp tục công bố

lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách

hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc

NHNN trong từng thời kỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù

hợp với quy định của Luật NHNN Việt Nam; đồng thời chủ động áp dụng các biện

pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục

tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ (Ngô Huy Cương 2013).

Theo Điều 91 Luật các TCTD năm 2010 thì các NHTM và khách hàng có thể

thỏa thuận về lãi suất phù hợp với quy định của NHNN. Trong trường hợp hoạt

động ngân hàng có diễn biến bất thường thì NHNN có quyền quy định cơ chế xác

định lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM.Tuy nhiên, với tình hình nền

kinh tế lạm phát như hiện nay, chỉ số tiêu dùng diễn biến thất thường, lãi suất Ngân

hàng thường bị động trước những biến đổi ấy. Vì vậy, hầu hết các NHTM thường

áp dụng quy định một lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ.

Điều khoản trọng yếu của hợp đồng tín dụng là điều khoản về cho vay của

NHTM đối với khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vì đây là điều khoản chính, căn

23

cứ pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng trong mọi trường hợp phát

sinh, kể cả khi xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn. Thông thường, điều khoản cho vay

trong hợp đồng tín dụng bao gồm: Quy định về thỏa thuận số tiền vay; Thời gian

vay; Phương thức cho vay và thực hiện điều khoản cho vay. NHTM và khách hàng

vay vốn đã có sự thống nhất về việc NHTM cho phép khách hàng vay sử dụng một

khoản tiền nhất định. Vì vậy, khi thực hiện các điều khoản này, bên cho vay phải thực

hiện đúng thoả thuận về số tiền và phương thức cho vay. Đồng thời, NHTM phải thực

hiện nghĩa vụ giải ngân đúng theo thời hạn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.

Thông thường thời hạn vay vốn phụ thuộc vào quy định về phương thức cho vay mà

các bên đã thỏa thuận.

Về điều khoản sử dụng vốn: Nghĩa vụ thực hiện các điều khoản về sử dụng

vốn chủ yếu thuộc về khách hàng vay. Theo đó, vốn vay phải được sử dụng đúng

mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, không được sử dụng vào mục đích

khác. Khách hàng vay vốn buộc phải tuân thủ chặt chẽ thỏa thuận này vì một trong

những căn cứ quan trọng để bên cho vay tiến hành việc cho vay vốn chính là mục

đích sử dụng vốn của khách hàng vay. Bên cạnh đó, để đảm bảo thực hiện điều

khoản sử dụng vốn có hiệu quả trên thực tế, bên cho vay cũng cần tiến hành kiểm

tra, giám sát việc sử dụng vốn vay. Trường hợp phát hiện khách hàng vay sử dụng

vốn sai mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, NHTM có quyền đình chỉ

việc giải ngân và thu hồi vay trước thời hạn cho vay trong hợp đồng tín dụng.

Về điều khoản trả nợ: Điều khoản trả nợ là điều khoản quan trọng trong hợp

đồng. Nếu khách hàng vay vốn gặp phải những trở ngại khách quan khiến họ không

thể trả được nợ đúng hạn thì khách hàng vay có thể kiến nghị với NHTM để gia hạn

nợ hoặc điều chỉnh ký hạn trả nợ. Theo Nguyễn Anh Tuấn 2012 thì việc gia hạn nợ

hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ phải được các bên thỏa thuận và ghi rõ ràng trong hợp

đồng tín dụng. Việc đồng ý thay đổi điều khoản ký kết trong hợp đồng dựa trên

nguyên tắc tự nguyện, tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ các quy định của pháp

luật.Theo đó, phía NHTM xem xét, tạo điều kiện cho khách hàng thực hiện nghĩa

vụ của mình.

Nếu khách hàng vay vốn vi phạm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay và không được

bên cho vay gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, bên cho vay có quyền phạt vi

24

phạm hợp đồng đối với khách hàng vay bằng cách áp dụng lãi suất nợ quá hạn đối

với khoản tiền chậm thanh toán. Bên cạnh đó, theo Nguyễn Anh Tuấn 2012 thì

NHTM có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo thỏa thuận trong hợp đồng tín

dụng hoặc theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ. Trường hợp bắt buộc phải

phát mại tài bảo đảm tiền vay, số tiền thu được từ việc bán tài sản bảo đảm tiền vay

sau khi trừ đi các chi phí phát mại tài sản sẽ được ưu tiên thanh toán cho NHTM,

nếu thừa sẽ được trả lại cho khách hàng vay. Quy định này là nhằm đảm bảo quyền

lợi của NHTM với tư cách chủ nợ và quyền lợi của khách hàng với tư cách chủ sở

hữu tài sản thế chấp.

(2) Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng

Nội dung thỏa thuận cấp bảo lãnh thường bao gồm: Các quy định pháp luật áp

dụng; Thông tin về các bên trong quan hệ bảo lãnh; Nghĩa vụ được bảo lãnh; Số

tiền bảo lãnh, đồng tiền bảo lãnh; Hình thức phát hành cam kết bảo lãnh; Điều kiện

thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Phí bảo lãnh; Thỏa

thuận về bắt buộc nhận nợ trả thay, lãi suất áp dụng đối với số tiền trả thay và nghĩa

vụ, thời hạn hoàn trả nợ khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; Số hiệu, ngày ký,

hiệu lực của thỏa thuận; Giải quyết tranh chấp phát sinh.

Các quy định pháp luật áp dụng: về nguyên tắc, hoạt động bảo lãnh ngân hàng

tại Việt Nam thì phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, Điều 8

Thông tư 07/2015/TT-NHNN cũng cho phép bên được thoả thuận việc áp dụng tập

quán thương mại. Như vậy, pháp luật hiện hành cho phép các bên được lựa chọn

pháp luật trong nước hoặc tập quán thương mại làm căn cứ pháp lý để giao kết và

thực hiện hợp đồng cấp bảo lãnh.

Thực tiễn thương mại quốc tế hiện đang tồn tại một số bộ quy tắc hướng dẫn

thực hiện hoạt động bảo lãnh nhưng đến nay các ngân hàng vẫn chưa thống nhất áp

dụng một bộ quy tắc nào, như: Bộ quy tắc thống nhất về bảo lãnh hợp đồng số 325

(URCG 325); Bộ quy tắc thống nhất về bảo lãnh trả tiền ngay số 458 (URDG 458);

Ba là, Bộ quy tắc thống nhất về bảo lãnh trả tiền ngay số 758 (URDG 758); Các quy

tắc thực hành về tín dụng dự phòng quốc tế (ISP 98); Quy tắc thực hành thống nhất

25

về tín dụng chứng từ (UCP 600); Công ước của Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập

và tín dụng dự phòng.

Như vậy, đến nay có nhiều bộ quy tắc được các ngân hàng trên thế giới lựa

chọn áp dụng trong giao dịch bảo lãnh quốc tế. Theo Lê Thị Thu Thuỷ 2016, thì tại

Việt Nam, khi giao kết hợp đồng cấp bảo lãnh, các NHTM và khách hàng cũng thỏa

thuận về luật áp dụng và ghi nhận vào nội dung hợp đồng cấp bảo lãnh. Ví dụ: Tại

mẫu Hợp đồng cấp bảo lãnh của VCB có điều khoản về luật áp dụng để các bên lựa

chọn từ các nguồn luật sau: Pháp luật Việt Nam, URDG 758, ISP 98, UCP 600.

Thông tin về các bên trong quan hệ bảo lãnh: Thông tin về các bên trong quan

hệ bảo lãnh, đó là bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và các bên

liên quan khác (nếu có). Đối với thông tin về bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh:

đây chính là thông tin về các chủ thể của hợp đồng cấp bảo lãnh, các thông tin về

các bên chủ thể được nêu đầy đủ chính là cơ sở để các bên thực hiện các quyền và

nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cấp bảo lãnh.

Số tiền bảo lãnh: Số tiền bảo lãnh được hiểu là số tiền mà bên bảo lãnh chấp

nhận thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi xảy ra sự kiện thuộc điều kiện thực hiện

nghĩa vụ bảo lãnh. Về nguyên tắc, số tiền bảo lãnh và đồng tiền bảo lãnh là do các

bên chủ thể thỏa thuận. Tuy nhiên, tại Điều 4 Thông tư 07/2015/TT-NHNN có quy

định về việc quản lý ngoại hối trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, theo đó, việc

phát hành bảo lãnh bằng ngoại tệ của NHTM phải phù hợp với phạm vi kinh doanh,

cung ứng dịch vụ ngoại hối trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế của

NHTM.

Hình thức phát hành cam kết bảo lãnh: Tương tự nội dung về thông tin của

bên nhận bảo lãnh, nội dung này chính là căn cứ để NHTM thực hiện phát hành cam

kết bảo lãnh. Theo Lê Thị Thu Thuỷ 2016 thì quy định pháp luật hiện hành có các

hình thức phát hành cam kết bảo lãnh là Thư bảo lãnh và Hợp đồng bảo lãnh.

Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh: Đây là điều khoản về các điều kiện và

chứng từ làm cơ sở để thực hiện thanh toán bảo lãnh để bên bảo lãnh có căn cứ phát

hành và thực hiện cam kết bảo lãnh. Tùy theo loại hình bảo lãnh là bảo lãnh trả tiền

ngay hay bảo lãnh kèm chứng từ mà các điều kiện này có thể là đơn giản hay phức

26

tạp. Do pháp luật không quy định cụ thể về điều kiện thanh toán bảo lãnh, nên loại

hình bảo lãnh ngân hàng do các NHTM tại Việt Nam phát hành có thể là cả 2 loại

hình nêu trên.

Phí bảo lãnh: Phí bảo lãnh chính là số tiền mà bên được bảo lãnh phải trả cho

NHTM để được NHTM thực hiện bảo lãnh. Theo nguyên tắc bảo đảm quyền tự do

kinh doanh, mức phí bảo lãnh do NHTM và khách hàng thoả thuận.

(3) Nghiệp vụ cấp tín dụng thông qua thẻ tín dụng

Thông tư 19/2016/TT-NHNN đã dành riêng một Điều (Điều 13) để quy định

về hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ. Trong đó quy định các nội dung tối thiểu của

hợp đồng và theo đó, các NHTM là tổ chức phát hành thẻ cần phải rà soát, ban hành

lại Mẫu hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng để đáp ứng tuân thủ theo quy

định của Thông tư 19/2016/TT-NHNN. Việc ràng buộc trong nội dung hợp đồng

phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phải có các nội dung tối thiểu này nhằm bảo đảm

quyền lợi cho các chủ thẻ, hạn chế quyền định đoạt của các NHTM, nhằm bảo đảm

hơn nữa quyền tự do thỏa thuận của các bên trong quá trình xác lập quan hệ phát

hành và sử dụng thẻ tín dụng.

(4) Nghiệp vụ chiết khấu/tái chiết khấu

Theo Điều 12 Thông tư 04/2013/TT-NHNN, hợp đồng chiết khấu bao gồm

các nội dung chính sau: Tên, địa chỉ của TCTD, chi nhánh NHNNg thực hiện hoạt

động chiết khấu; tên, địa chỉ của khách hàng; số chứng minh thư nhân dân/hộ

chiếu/mã số thuế của khách hàng; các thông tin chính của công cụ chuyển nhượng,

giấy tờ có giá khác được chiết khấu; giá chiết khấu; mục đích sử dụng số tiền chiết

khấu; đồng tiền chiết khấu; thời hạn chiết khấu; lãi suất chiết khấu và các chi phí

liên quan; quyền và nghĩa vụ của các bên; các trường hợp chấm dứt hợp đồng chiết

khấu trước thời hạn; xử lý vi phạm hợp đồng; các nội dung khác do các bên thỏa

thuận phù hợp với quy định của pháp luật.

Từ quy định trên ta thấy, hiện nay pháp luật quy định rất rõ về các nội dung

chính của hợp đồng chiết khấu. Về bản chất pháp lý, do hợp đồng chiết khấu hối

phiếu có bản chất là một hợp đồng mua bán hối phiếu nên những điều khoản cơ bản

trong hợp đồng này tương tự như những điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán

27

hàng hóa được quy định trong Bộ luật dân sự và Luật thương mại. Bên cạnh đó, hợp

đồng chiết khấu hối phiếu cũng có những đặc thù nhất định. Các điều khoản cơ bản

của hợp đồng chiết khấu hối phiếu bao gồm:

Điều khoản về chủ thể của hợp đồng. Trong hợp đồng các bên phải ghi rõ bên

nhận chiết khấu là NHTM nào (tên, trụ sở, số điện thoại, số fax, người đại diện theo

pháp luật hoặc theo ủy quyền…) và bên được chiết khấu là tổ chức, cá nhân nào

(tên, địa chỉ, số điện thoại, số chứng minh thư nhân dân, người đại diện theo pháp

luật hoặc theo ủy quyền nếu là pháp nhân…)

Điều khoản về đối tượng của hợp đồng: Tại điều khoản này trong hợp đồng

phải ghi rõ loại hối phiếu xin chiết khấu là hối phiếu đòi nợ hay hối phiếu nhận nợ,

hối phiếu này thuộc sở hữu của ai và thời hạn thanh toán còn lại là bao nhiêu. Ngoài

ra, một vấn đề quan trọng nữa là điều kiện để một hối phiếu được chấp nhận chiết

khấu.

Điều khoản về giá cả: Trong hợp đồng, các bên cần ghi rõ lãi suất chiết khấu

đối với hối phiếu được chiết khấu, các chi phí khác, tổng mệnh giá được chiết khấu,

số tiền lợi tức bị khấu trừ, tổng số tiền còn lại khách hàng được hưởng. Lãi suất

chiết khấu do các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với lãi suất chiết khấu do

NHNN quy định. Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu và các chi phí khác có liên quan

do TCTD và khách hàng thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế NHTM thường ấn định

một mức lãi suất và mức phí chiết khấu tương ứng trong thời gian nhất định và

khách hàng, do đang cần vốn, nên thường phải chấp nhận mức lãi suất và phí chiết

khấu mà ngân hàng đưa ra.

Điều khoản về phương thức thanh toán: Về điều khoản này, các bên có thể

thỏa thuận một trong các phương thức thanh toán như, chuyển số tiền chiết khấu mà

khách hàng được hưởng vào tài khoản tiền gửi của họ hoặc trả bằng tiền mặt.

Điều khoản về phương thức chiết khấu: Căn cứ vào nhu cầu của khách hàng

xin chiết khấu và sự chấp thuận của NHTM nhận chiết khấu mà hối phiếu có thể

được chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của hối phiếu hoặc chiết khấu một phần

thời hạn của hối phiếu.

28

Điều khoản về chấm dứt hợp đồng chiết khấu trước thời hạn, xử lý vi phạm

hợp đồng. Điều khoản này quy định rõ trong trường hợp nào hợp đồng chiết khấu

có thể chấm dứt hiệu lực trước thời hạn. Thường là do lỗi của một trong hai bên dẫn

đến bên kia không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc do các nguyên nhân khách

quan gây ra. Vấn đề xử lý vi phạm hợp đồng do hành vi vi phạm được thực hiện do

lỗi của một và (hoặc) 2 bên gắn với việc áp dụng các chế tài. Đối với hoạt động

chiết khấu hối phiếu hay áp dụng chế tài dân sự và hành chính, có nghĩa là phạt vi

phạm (nếu các bên có thỏa thuận hợp pháp về phạt vi phạm trong hợp đồng) hoặc

(và) bồi thường thiệt hại gắn với mức độ thiệt hại thực tế xảy ra.

(5) Nghiệp vụ bao thanh toán

Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán

của các TCTD có quy định một số nội dung chính, cơ bản của một hợp đồng bao

thanh toán bao gồm Tên, địa chỉ, điện thoại, fax... của các bên ký hợp đồng bao

thanh toán; Giá trị các khoản phải thu được bao thanh toán, quyền và lợi ích liên

quan đến khoản phải thu theo hợp đồng mua, bán hàng; Lãi và phí bao thanh toán;

Giá mua, bán khoản phải thu: được xác định trên cơ sở giá trị khoản phải thu sau

khi trừ đi lãi và phí bao thanh toán; Số tiền ứng trước và phương thức thanh toán;

Thông báo về việc bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên có liên quan; Hình

thức bảo đảm cho đơn vị bao thanh toán truy đòi lại số tiền đã ứng trước, giá trị tài

sản làm bảo đảm; Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán…

Như vậy, bên cạnh các điều khoản tùy nghi và thường lệ, hợp đồng bao thanh

toán có một số điều khoản đặc biệt chủ yếu như sau:

Điều khoản về chủ thể hợp đồng phản ánh đầy đủ các yếu tố để xác định được

tư cách pháp lý của các bên, xác định đúng thẩm quyền của người đại diện (đại diện

theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền); là căn cứ để xác định cơ quan tài phán

và luật áp dụng, đảm bảo hiệu lực của hợp đồng bao thanh toán; Điều khoản về nội

dung của cấp tín dụng dưới hình thức bao thanh toán phản ánh các yếu tố cơ bản

của quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm các giá trị của các khoản phải thu, lãi, phí

bao thanh toán; Điều khoản về thủ tục chuyển giao các khoản phải thu, theo đó, các

bên cần thỏa thuận rõ ràng và cụ thể, khi chuyển giao các khoản phải thu, về các

29

loại và phương thức chuyển giao hợp đồng mua bán hàng hóa; chứng từ bán hàng

và các giấy tờ liên quan đến việc mua hàng và các chứng từ khác có liên quan đến

việc giao hàng và các yêu cầu thanh toán của bên bán hàng với bên mua hàng.

1.3.4. Quy định về giới hạn an toàn trong quy trình cấp tín dụng

Để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các NHTM nói riêng, các TCTD nói

chung, Luật các TCTD năm 2010 đã giành chương VI quy định rõ về các hoạt động

mà TCTD được phép thực hiện cũng như đưa ra những hạn chế để đảm bảo an toàn

trong quy trình cấp tín dụng. Quy định về đối tượng cấm cấp tín dụng; hạn chế cấp tín

dụng; giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ lệ bảo đảm an toàn;

dự phòng rủi ro; kinh doanh bất động sản được quy định với mục tiêu nêu trên.

Cụ thể hóa các quy định của Luật, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn rõ giới hạn

an toàn trong quy trình cấp tín dụng của NHNN là Thông tư 36/2015/TT-NHNN

ngày 20/11/2014 của Thống đốc NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an

toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực kể từ

01/02/2015 và được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2016/TT-NHNN ngày

27/5/2016 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 (sau đây gọi tắt là Thông tư 36).

Thứ nhất, về hạn chế, giới hạn đối với khách hàng cấp tín dụng:

Nhằm bảo đảm an toàn, giảm thiểu các rủi ro cho các NHTM trong quy trình

cấp tín dụng, pháp luật quy định cụ thể và chi tiết, đầy đủ về các hạn chế, giới hạn

về khách hàng của NHTM. Giới hạn đối với khách hàng có thể chỉ ra: Tuân thủ quy

định về các các trường hợp không được cấp tín dụng; Không được cấp tín dụng cho

khách hàng trên cơ sở bảo đảm của các đối tượng không được cấp tín dụng đồng

thời không được bảo đảm dưới bất kỳ hình thức nào để TCTD khác cấp tín dụng

cho các đối tượng không được cấp tín dụng; không được cấp tín dụng cho doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà NHTM nắm quyền

kiểm soát; không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của

chính NHTM hoặc công ty con; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD

khác trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.

Thứ hai,NHTM phải tuân thủ các quy định về các trường hợp hạn chế cấp tín

dụng. Theo Điều 127 Luật các TCTD, NHTM không được cấp tín dụng không có

30

bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi đối với một số đối tượng là khách hàng

của NHTM nhằm tạo ra sự minh bạch, công bằng, khách quan và độc lập. Các quy

định này của Luật các TCTD được quy định cụ thể, chi tiết tại Thông tư 36 ngày

20/11/2014. Cụ thể, khi thực hiện quy trình cấp tín dụng, NHTM phải tuân thủ các

quy định về giới hạn cấp tín dụng quy định tại Điều 12 Thông tư 36 ngày

20/11/2014, bao gồm: Việc xác định người có liên quan thực hiện theo quy định tại

khoản 15 Điều 3 Thông tư 36 ngày 20/11/2014 (trên cơ sở cụ thể hóa quy định về

người có liên quan tại khoản 28 Điều 4 Luật các TCTD). Theo quy định tại khoản 4

Điều 10 Thông tư 36 ngày 20/11/2014, các khoản cấp tín dụng cho công ty con,

công ty liên kết và các đối tượng được NHTM lập danh sách tại khoản 2 Điều 10

(trừ trường hợp không được cấp tín dụng quy định) phải được Hội đồng quản trị

thông qua, trừ các khoản cấp tín dụng thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.

Ban kiểm soát phải giám sát việc phê duyệt cấp tín dụng đối với các đối tượng này.

Luật các TCTD không xác định các giới hạn và điều kiện cấp tín dụng để đầu

tư, kinh doanh cổ phiếu của NHTM mà quy định nội dung này do Ngân hàng Nhà

nước quy định. Thực hiện quy định này, Ngân hàng Nhà nước đã quy định nội dung

này tại Điều 14 Thông tư 36 ngày 20/11/2014, cụ thể:

Thứ nhất, NHTM chỉ được cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu

giấy tờ có giá đối với khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu khi đáp ứng các

điều kiện sau: Việc cấp tín dụng phải đảm bảo các giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn

khác quy định tại Thông tư này; Có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%; Tuân thủ đầy đủ các quy

định về quản trị rủi ro và trích lập đủ số tiền dự phòng rủi ro theo quy định của pháp

luật; Khách hàng không phải là người có liên quan của các đối tượng không được

cấp tín dụng quy định tại Điều 126 Luật các TCTD; Khách hàng và người có liên

quan của khách hàng không thuộc đối tượng hạn chế cấp tín dụng quy định tại

khoản 1 Điều 12 Thông tư 36 ngày 20/11/2014

Thứ hai, NHTM không được cấp tín dụng cho khách hàng để đầu tư, kinh

doanh cổ phiếu trên cơ sở bảo đảm dưới bất kỳ hình thức nào của TCTD, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài khác hoặc trên cơ sở bảo đảm bằng cổ phiếu của TCTD khác;

không được cấp tín dụng trung hạn, dài hạn cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ

phiếu.

31

Thứ ba, tổng mức dư nợ cấp tín dụng của NHTM đối với tất cả khách hàng để

đầu tư, kinh doanh cổ phiếu không được vượt quá 5% vốn điều lệ, vốn được cấp của

NHTM.

Thứ tư, NHTM không được cấp tín dụng, ủy thác cho công ty con, công ty liên

kết của chính ngân hàng để: Đầu tư, kinh doanh cổ phiếu; Cho vay để đầu tư, kinh

doanh cổ phiếu.

Thứ năm, khoản cấp tín dụng của NHTM cho khách hàng để đầu tư, kinh

doanh cổ phiếu không được bảo đảm bằng chính cổ phiếu đó.

Thứ sáu, NHTM không được cấp tín dụng cho khách hàng để đầu tư, kinh

doanh cổ phiếu của chính mình, trừ trường hợp NHTM nhà nước cho vay đối với

người lao động của chính NHTM nhà nước đó để mua cổ phần phát hành lần đầu

khi cổ phần hóa.

32

Kết luận chƣơng 1

Cấp tín dụng là một trong những hoạt động quan trọng nhất của NHTM.

NHTM cấp tín dụng thông qua các nghiệp vụ: cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu

công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá; bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín

dụng; bao thanh toán trong nước, bao thanh toán quốc tế; các nghiệp vụ cấp tín

dụng khác sau khi được Ngân hàng nhà nước chấp thuận. Pháp luật điều chỉnh quy

trình cấp tín dụng của NHTM có thể được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện chức

năng quản lý quy trình cấp tín dụng của NHTM và trong quá trình NHTM thực hiện

quy trình cấp tín dụng cho khách hàng bằng các nghiệp vụ: cho vay, bảo lãnh ngân

hàng, bao thanh toán, chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá và các hình thức cấp

tín dụng khác được Ngân hàng nhà nước cho phép với mục đích bảo vệ quyền lợi

các chủ thể tham gia vào quan hệ đồng thời làm cho các quan hệ phát triển ổn định,

lành mạnh, an toàn, hiệu quả đem lại lợi nhuận cho NHTM và có lợi cho sự phát

triển kinh tế xã hội.

33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH CẤP

TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG

VIỆT NAM

2.1. Khái quát về Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Công thƣơng Việt Nam

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại cổ phần

Công thương Việt Nam

Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam được thành lập vào ngày

26/03/1988, trên cơ sở tách ra từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo Nghị định số

53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam

được Sở giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) chấp thuận niêm

yết từ ngày 16/07/2009. Hiện nay vốn điều lệ của Vietinbank là 37.234.045.560.000

đồng và vốn chủ sở hữu là 63.765.283.000.000 đồng (tại thời điểm 31/12/2017)

(VietinBank 2018).

Địa chỉ hội sở chính của Ngân hàng là 108 Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm,

Thành phố Hà Nội, Việt Nam

Giai đoạn 1988 - 2000: Xây dựng và chuyển đổi từ ngân hàng một cấp thành

ngân hàng hai cấp, đưa Ngân hàng Công Thương Việt Nam đi vào hoạt động. Giai

đoạn 2001 - 2008: Thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu Ngân hàng Công Thương

về xử lý nợ, mô hình tổ chức, cơ chế chính sách và hoạt động kinh doanh. Giai đoạn

từ 2009 đến nay: Thực hiện thành công cổ phần hóa, đổi mới mạnh mẽ, hiện đại

hóa, chuẩn hóa các mặt hoạt động ngân hàng. Chuyển đổi mô hình tổ chức, quản trị

điều hành theo thông lệ quốc tế.

Tầm nhìn của Vietinbank: Trở thành một Tập đoàn tài chính ngân hàng dẫn

đầu Việt Nam, ngang tầm khu vực, hiện đại, đa năng, hiệu quả cao (VietinBank

2017).

Năm 2018, VietinBank tập trung nguồn lực phát triển hoạt động kinh doanh

theo chiều sâu, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh doanh, tăng trưởng có chọn lọc,

gắn với hiệu quả. Cải thiện mạnh mẽ chất lượng dịch vụ, phát triển sản phẩm, dịch

34

vụ hiện đại, tăng thu dịch vụ và thu ngoài lãi, cải thiện cơ cấu thu nhập. Thực hiện

có kết quả đề án tái cơ cấu giai đoạn 2016 - 2020, không ngừng chuẩn hóa toàn diện

mọi mặt hoạt động, phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa công nghệ thông tin, nâng

cao năng lực quản trị rủi ro, quản trị điều hành theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế,

khẳng định vị thế hàng đầu trên thị trường.

Mục tiêu trung, dài hạn của VietinBank là trở thành Tập đoàn tài chính có quy

mô lớn với hiệu quả hoạt động tốt nhất hệ thống ngân hàng Việt Nam vào năm

2020. VietinBank đã xác định những trọng tâm chiến lược trong giai đoạn tiếp theo

là tiếp tục tăng trưởng kinh doanh có chọn lọc, hiệu quả, bền vững, chuyển dịch

mạnh cơ cấu khách hàng, tiếp tục tự động hóa dịch vụ với tiện ích cao, cải thiện

mạnh mẽ chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt chú trọng

dịch vụ thanh toán ứng dụng nền tảng công nghệ hiện đại; nâng cao năng lực tài

chính, tăng cường hiệu quả hoạt động ngân hàng và công ty con, công ty liên kết;

cải thiện năng suất lao động, quản trị hiệu quả chi phí.

Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, VietinBank không

chỉ theo đuổi mục tiêu kinh doanh hiệu quả và tăng trưởng lợi nhuận mà hướng đến

mục tiêu gắn sự phát triển với kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần cùng Đảng,

Chính phủ thực hiện cải thiện môi trường xã hội, xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền

vững. Bên cạnh đó, VietinBank sẽ nâng cao năng lực tài chính, con người, công

nghệ... để đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững của ngân hàng cũng như toàn xã

hội. Trong năm 2018, VietinBank phấn đấu tiếp tục là ngân hàng đi đầu thực hiện

nghĩa vụ với cộng đồng, triển khai các dự án và công trình an sinh xã hội, thể hiện

đúng triết lý “Nâng giá trị cuộc sống”.

2.1.2. Kết quả kinh doanh của VietinBank giai đoạn 2015 đến hết tháng 6/2018

Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, VietinBank không

chỉ theo đuổi mục tiêu kinh doanh hiệu quả và tăng trưởng lợi nhuận mà hướng đến

mục tiêu gắn sự phát triển với kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần cùng Đảng,

Chính phủ thực hiện cải thiện môi trường xã hội, xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền

vững. Giai đoạn 2015 đến hết tháng 6/2018 VietinBank đã đạt được những kết quả

cụ thể

35

Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu kinh doanh tại Vietinbank

Chỉ tiêu

ĐVT

31/12/2017 31/12/2016 31/12/2015 31/12/2014

Tỷ đồng

1.095.061

948.568

779.483

661.242

Tổng tài sản

Tỷ đồng

37.234

37.234

37.234

37.234

Vốn điều lệ

Tỷ đồng

1.011.314

870.163

711.785

595.093

Tổng nguồn VHĐ

Tỷ đồng

840.156

712.642

609.652

542.674

Tổng dƣ nợ TD

Tỷ đồng

9.206

8.454

7.345

7.303

LN trƣớc thuế

%

0,9

1,0

1,0

1,2

ROA

%

12,02

11,6

10,3

10,5

ROE

%

1,07

0,93

0,81

0,9

Tỷ lệ nợ xấu/dƣ nợ

tín dụng

(Nguồn: Báo cáo thường niên Vietinbank 2017)

Tình hình tài chính của Vietinbank trong những năm qua luôn đạt được những

thành tích cao, đặc biệt năm 2017 Vietinbank hoàn thành xuất sắc và toàn diện các

chỉ tiêu kinh doanh được Đại hội đồng cổ đông giao như đến 31/12/2017 tổng tài

sản tăng 15,4% so với năm 2016 và đạt 101% kế hoạch ĐHĐCĐ năm 2017, vốn

chủ sở hữu đạt 63.765 tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2016, vốn chủ sở hữu giữ

nguyên là 37.234 tỷ đồng, tiếp tục duy trì vị thế là Ngân hang TMCP có vốn chủ sở

hữu và vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống Ngân hàng.

Về chất lượng nợ: Vietinbank luôn chú trọng kiểm soát chặt chẽ, tuân thủ

nghiêm tức việc phân loại nợ theo quy định của NHNN. Vietinbank tiếp tục duy trì

chất lượng tài sản hàng đầu với tỷ lệ nợ xấu qua các năm ở mức thấp ( tỷ lệ 1,07%

tại thời điểm 31/12/2017).

Về cho vay khách hàng: Đi cùng với dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế và sản

xuất kinh doanh, dư nợ cho vay khách hàng của Vietinbank năm 2017 cũng đạt mức

tăng trưởng tốt, tăng 19,4% so với năm 2016, tỷ trọng dư nợ cho vay/tổng tài sản ở

mức 72%. Dư nợ tăng trưởng tập trung vào phân khúc khách hàng cá nhân và các

ngành được Chính phủ khuyến khích phát triển, phản ánh đúng chiến lược kinh

36

doanh của Ban lãnh đạo Vietinbank. Tương đương với tăng trưởng dư nợ là tăng

trưởng về thu hồi lãi cho vay, tăng 22% so với năm 2016 ( Báo cáo thường niên

Vietinbank 2017)

Năm 2017, VietinBank đã phát hành thành công ra công chúng 4.200 tỷ đồng

trái phiếu thứ cấp. Việc phát hành ra công chúng thành công khối lượng trái phiếu

thứ cấp lớn nhất từ trước tới nay của các NHTM khẳng định uy tín, vị thế của

VietinBank trên thị trường, đồng thời thể hiện nỗ lực của VietinBank trong việc

nâng cao năng lực vốn. Cũng trong năm 2017, VietinBank đã chuyển đổi thành

công hệ thống CoreBanking - dự án lớn và có độ phức tạp nhất trong Ngành Ngân

hàng đến thời điểm hiện tại. Việc triển khai thành công hệ thống Core đánh dấu

bước chuyển mình quan trọng, nâng tầm vị thế, đáp ứng yêu cầu công nghệ cho sự

phát triển lâu dài và bền vững. VietinBank đã hoàn thành nâng cấp tiêu chuẩn quản

lý chất lượng dịch vụ đạt tiêu chuẩn ISO 9001 - 2015 cam kết các nghiệp vụ ngân

hàng và đầu tư được phục vụ theo tiêu chuẩn cao, đồng thời ra mắt Bộ Nhận diện

Thương hiệu VietinBank 2017.

Hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm của VietinBank vẫn duy trì được mức

tăng trưởng ổn định. So với 31/12/2017, tổng tài sản đến cuối tháng 6/2018 ước đạt

1.140 nghìn tỷ đồng, tăng hơn 40 nghìn tỷ đồng, tăng 4%; dư nợ tín dụng toàn hệ

thống tăng trưởng 7,56%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn Ngành

(6,84%). Trong đó, dư nợ cho vay tăng 9,8% so với đầu năm, ROA, ROE hợp nhất

ước đạt lần lượt là 1% và 13%. Cơ cấu tài sản của VietinBank cũng có nhiều

chuyển biến so với thời điểm đầu năm. Cụ thể, các khoản cho vay khách hàng (thị

trường 1) đạt 855.081 tỷ đồng, chiếm 75% tổng tài sản, tăng trưởng 9,3%. Đối

tượng cho vay chủ yếu là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước đạt 853 tỷ đồng.

Về cơ cấu nợ theo thời gian cho vay, nợ ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn với

57,8%, tiếp đến là nợ dài hạn chiếm 33,7% và nợ trung hạn với tỷ trọng nhỏ nhất

chiếm 8,5%. Tỷ lệ nợ xấu vẫn được duy trì ở mức thấp, với 1,29% trên tổng dư nợ.

Ở chiều ngược lại, hoạt động huy động tiền gửi từ khách hàng tăng trưởng 8,8%,

ghi nhận giá trị đạt 852.447 tỷ đồng. Trong đó, tiền gửi có kỳ hạn (chủ yếu bằng

VND) đạt 732 tỷ đồng chiếm 85,9%, tăng trưởng 16%. Nếu so với mục tiêu tăng

trưởng nguồn vốn huy động từ tổ chức kinh tế và dân cư từ 10 – 14% và tăng

37

trưởng dư nợ tín dụng khoảng 14% năm 2018, VietinBank vẫn còn dư địa để tiếp

tục phát triển hoạt động kinh doanh cốt lõi ( Nguồn: Vietinbank 2018)

2.2. Thực trạng quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần

Công thƣơng Việt Nam

Quy trình cấp tín dụng của VietinBank được thực hiện theo đúng quy trình của

Tiếp nhận hồ sơ

Thẩm định khoản vay

Xét duyệt khoản vay

Giải ngân

Cập nhật hệ thống

Soạn thảo hợp đồng

Thu nợ gốc, lãi, phí

Theo dõi khoản xử lý phát sinh

Thanh lý hợp đồng, giải chấp TSBĐ

đề ra. Cụ thể gồm:

Sơ đồ 2.1. Quy trình cấp tín dụng tại VietinBank

2.2.1. Tiếp nhận hồ sơ

Trên cơ sở các văn bản pháp luật trực tiếp quy định về quy trình cấp tín dụng

do Nhà nước ban hành là Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Tổ chức tín dụng, Luật

về Thương phiếu, Bộ luật Dân sự… và các văn bản hướng dẫn thi hành là những ví

dụ cụ thể. Bên cạnh đó, còn có văn bản pháp luật gián tiếp quy định về hoạt động

cấp tín dụng do Nhà nước ban hành. Có thể chỉ ra như Luật Đất đai, Luật Nhà ở,

Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Xây dựng, Luật Kế toán, Luật về Công

chứng… và các văn bản hướng dẫn thi hành. VietinBank xây dựng các quy trình

cấp tín dụng của Ngân hàng, qua đó khi thực hiện tiếp nhận hồ sơ, các cán bộ của

Ngân hàng cần hướng dẫn khách hàng những hồ sơ cần cung cấp và tiếp nhận từ

khách hàng. Rà soát hồ sơ khoản vay: Tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của từng loại

38

hồ sơ, từ đó đề nghị, hướng dẫn khách hàng bổ sung đầy đủ, kịp thời; Đánh giá sơ

bộ xem chủ thể vay vốn, đối tượng vay vốn có được VietinBank cấp tín dụng hay

không.

Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Đây

là giai đoạn thu thập chi tiết tất cả các loại giấy tờ, văn bản, bằng chứng và thẩm

định thực tế tại đơn vị sử dụng vốn để hạn chế rủi ro tín dụng đến mức thấp nhất.

Một bộ hồ sơ đề nghị vay vốn cần phải thu thập các thông tin như: Tài liệu chứng

minh năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Tài liệu chứng

minh khả năng sử dụng vốn và khả năng hoàn trả nợ vay (vốn + lãi): phương án sản

xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, báo cáo thuế, kế hoạch vay và trả nợ. Tài liệu

liên quan đến đảm bảo tín dụng hoặc điều kiện cấp tín dụng đặc thù: hợp đồng thế

chấp, cầm cố, bảo lãnh… cùng các giấy tờ gốc liên quan đến sở hữu tài sản đảm

bảo.

2.2.2. Thẩm định khoản vay

(1) Nội dung công việc: Thu thập thông tin về khách hàng, KHsản xuất kinh

doanh/PA/DA đề nghị vay vốn, biện pháp bảo đảm khoản vay. Thẩm định khách

hàng; hoạt động kinh doanh, tài chính; kế hoạch sản xuất kinh doanh, PA/DA đề nghị

vay vốn của khách hàng (Tham khảo phụ lục 2).Thẩm định các biện pháp bảo đảm

tiền vay (Tham khảo phụ lục 3,4). Đánh giá rủi ro, lợi ích dự kiến đem lại cho

VietinBank (nếu có) nếu phê duyệt cho vay.Lập tờ trình thẩm định và đề xuất quyết

định cho vay.

(2) Điều kiện cho vay tổ chức kinh tế:

Trường hợp không có bảo đảm: Đã được Vietinbank cấp giới hạn cho vay

không có bảo đảm hoặc đủ điều kiện cấp GHTD không có bảo đảm. Mục đích vay

vốn, sử dụng vốn vay hợp pháp và phù hợp với quy định của VietinBank.Có dự án

/phương án khả thi, có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật. Có khả

năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.Phải cung cấp các thông tin

cần thiết liên quan đến khoản vay, được cập nhật đến thời điểm vay vốn theo yêu

cầu của VietinBank

Trường hợp 2: Có bảo đảm

39

Đã được VietinBank cấp giới hạn cho vay hoặc đủ điều kiện cấp giới hạn cho

vay.Mục đích vay vốn, sử dụng vốn vay hợp pháp và phù hợp với quy định của

VietinBank.Có dự án/phương án khả thi, có hiệu quả và phù hợp với quy định của

pháp luật. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.Phải cung

cấp các thông tin cần thiết liên quan đến khoản vay, được cập nhật đến thời điểm

vay vốn theo yêu cầu của VietinBank. Phải có tài liệu chứng minh thu xếp đủ nguồn

vốn ngoài số tiền đề nghị vay. Có nguồn trả nợ khả thi bằng chính nguồn thu của dự

án/phương án. Có đủ vốn chủ sở hữu tham gia vào phương án/ dự án. Thực hiện các

biện pháp tiền vay cần thiết theo quy định của VietinBank

(3) Điều kiện cho vay cá nhân - hộ gia đình:

Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự; Mục đích vay vốn, sử

dụng vốn vay hợp pháp; Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi,

có hiệu quả hoặc có phương án tiêu dùng khả thi và phù hợp với quy định của pháp

luật; Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; Phải cung cấp

kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến khoản vay; Có nơi tổ chức sản xuất

kinh doanh, dịch vụ hoặc hộ khẩu thường trú/đăng ký tạm trú cùng địa bàn , thành

phố trực thuộc trung ương nơi VietinBank đóng trụ sở; Có uy tín, thiện chí trong

quan hệ tín dụng, thanh toán với VietinBank; Mở tài khoản tiền gửi tại VietinBank

và cam kết sử dụng tài khoản này để thực hiện giao dịch thanh toán liên quan đến

hoạt động sản xuất kinh doanh; Phải có bảo đảm đầy đủ bằng tài sản

(4) Thẩm định mục đích sử dụng vốn vay:

Xác định nguồn thông tin: Đề nghị vay vốn của khách hàng; Giấy chứng nhận

đăng kí kinh doanh/Giấy chứng nhận đầu tư; Tình hình sản xuất kinh doanh của

khách hàng; Hợp đồng kinh tế, PA/DA sản xuất kinh doanh; Đối tác của khách

hàng; Thông tin thị trường

Phương án thẩm định: Đối chiếu, so sánh giữa mục đích khách hàng đề nghị

với giấy chứng nhận đăng ký doanh, giấy chứng nhận đầu tư; Xem xét năng lực sản

xuất kinh doanh, quy mô của khách hàng có thực sự cần vay vốn để thực hiện

DA/PA hay không; Xem xét mối quan hệ của khách hàng với đối tác, xem có gian

40

lận hay cấu kết gì không; Kiểm tra, tính toán làm rõ tính chính xác thông tin khách

hàng cung cấp qua các thông tin thị trường

(5) Đề xuất quyết định cho vay, bao gồm:

Xác định phương thức cho vay: Cho vay hạn mức: áp dụng với khách hàng có

tốc độ luân chuyển vốn nhanh, thường xuyên với đáp ứng một số điều kiện vay vốn

theo phương thức hạn mức; Cho vay dự án đầu tư: Khi khách hàng vay vốn thực

hiện dự án sản xuất kinh doanh: đầu tư mới, mở rộng, cải tiến sản xuất…

Xác định mức cho vay: Dựa vào các yếu tố dưới đây để xác định hạn mức cho

may: Mức VCSH/VTC và nhu cầu vay của khách hàng; Nguồn trả nợ; Giá trị tài

sản bảo đảm, loại tài sản bảo đảm và biện pháp bảo đảm tài sản; Khả năng nguồn

vốn của VietinBank; Quy định của VietinBank trong từng thời kỳ.

Xác định thời hạn cho vay: Tốc độ luân chuyển vốn; Thời hạn thu hồi vốn của

PA/DA/TN trả nợ (tiêu dùng); Quy định thời hạn tối đa đối với cho vay tiêu dùng;

Biện pháp bảo đảm tiền vay; Đề nghị và khả nợ của khách hàng; Thời gian hoạt

động còn lại của tổ chức kinh tế; Khả năng nguồn vốn của VietinBank

+ Thời hạn cho vay theo biện pháp bảo đảm

Bằng tài sản: Không được vượt quá thời gian sử dụng còn lại của tài sản bảo đảm

theo Quy định thực hiện bảo đảm cấp tín dụng hiện hành: tài sản bảo đảm là hàng hóa

đang luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh: phụ thuộc vào khả năng luân

chuyển hàng hóa, tối đa là 12 tháng; tài sản bảo đảm là sổ tiết kiệm, số dư tài khoản

tiền gửi do VietinBank phát hành hoặc TCTD phát hành cam kết phong tỏa vô thời hạn

theo yêu cầu của VietinBank: thời hạn cho vay có thể vượt quá thời gian đáo hạn

Bằng bảo lãnh (có thời hạn): Ngắn hơn thời hạn bảo lãnh một khoảng thời gian

nhất định, đủ để yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả thay theo cam kết bảo

lãnh.

Thời hạn tối đa đối với cho vay tiêu dùng

Cho vay không bảo đảm: Tối đa 5 năm. Chú ý: đối với cho vay cán bộ công

nhân viên: Đảm bảo tuổi của khách hàng tối đa là 59(nam), 54(nữ) tại thời điểm trả

41

nợ cuối cùng; Không quá thời hạn làm việc/lao động còn lại được ghi trên hợp đồng

lao động, trừ hợp đồng làm việc /hoặc hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

Cho vay có bảo đảm: tối đa 5 năm, trừ các trường hợp sau: Cho vay xây dựng

nhà ở tối đa 10 năm; Cho vay mua nhà ở chung cư, đất ở: tối đa 15 năm; Cho vay

mua đất và xây nhà ở hoặc mua nhà ở (có quyền sử dụng đất): tối đa 20 năm

Xác định lãi suất, phí

Xác định lãi suất: Với từng đối tượng khách hàng áp dụng theo mức lãi suất

do VietinBank quy định trong từng thời kỳ trên cơ sở đảm bảo bù đắp được chi phí

huy động, chi phí rủi ro và mức lợi nhuận kỳ vọng.

Phí: áp dụng theo biểu phí do VietinBank quy định trong từng thời kỳ

Thỏa thuận lãi suất trong hợp động tín dụng: Tuân thủ theo quy định trong

từng thời kỳ; Hướng dẫn thỏa thuận điều khoản lãi suất để bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của ngân hàng. Cách 1: (cá nhân và doanh nghiệp): Được xác định theo thông

báo của Ngân hàng tại thời điểm xác định lãi suất; Cách 2: (Thường áp dụng với

doanh nghiệp). Lãi suất thả nổi= Lãi suất cơ sở + Biên độ. Trường hợp “biến động

thị trường” xảy ra, cộng chi phí huy động vốn tăng thêm

Điều khoản lãi suất sàn: Theo mức sàn VietinBank thông báo hoặc đưa ra mức

lãi suất sàn cụ thể.

2.2.3. Xét duyệt khoản vay

Cấp có thẩm quyển xét duyệt cho vay: Căn cứ vào kết quả thẩm định, lãnh đạo

phòng giao dịch/ Lãnh đạo Chi nhánh quyết định và phê duyệt tín dụng trong phạm

vi mức kiểm soát thẩm định/ kiểm soát giao dịch hoặc trình trụ sở chính phê duyệt,

Cụ thể theo thứ tự xếp hạng như sau (từ thấp đến cao: Trưởng phòng Giao dịch;

Giám đốc chi nhánh; Lãnh đạo phòng đánh giá xếp hạng và phê duyệt giới hạn tín

dụng/ Lãnh đạo phòng kiểm soát giải ngân (đối với khoản bảo lãnh); Tổng giám

đốc; Hội đồng tín dụng; Hội đồng quản trị

Nguyên tắc quyết định cho vay và thay đổi khoản vay: Cấp nào quyết định cho

vay thì cấp đó quyết định tăng số tiền cho vay, kéo dài thời hạn duy trì, thời gian ân

hạn, giảm lãi suất và cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong phạm vi thẩm quyền; Chi

42

nhánh được quyền chủ động giảm số tiền cho vay, vay rút ngắn thời hạn duy trì hạn

mức, điều chỉnh thời gian giải ngân, rút ngắn thời gian ân hạn, tăng lãi suất (kể cả

các khoản vay đã được Trụ sở chính phê duyệt).

Phòng giao dịch Thẩm định và đề xuất khoản tín dụng

Cấp khoản tín dụng thuộc thẩm quyền phòng giao dịch

Lãnh đạo phòng giao dịch Quyết định khoản tín dụng

Phòng khách hàng/ Phòng giao dịch Thẩm định và đề xuất khoản tín dụng

Cấp khoản tín dụng thuộc thẩm quyền chi nhánh

Lãnh đạo chi nhánh Quyết định khoản tín dụng

Phòng khách hàng/ Phòng giao dịch Thẩm định và đề xuất khoản tín dụng

Cấp khoản tín dụng thuộc thẩm quyền vượt chi nhánh

Lãnh đạo chi nhánh Quyết định khoản tín dụng

Phòng Quản lý Hợp đồng kinh doanh/ Phòng Nghiệp vụ và tín dụng quốc tế (đối với khách hàng doanh nghiệp FDI) Kiểm soát nội dung thẩm định (trong trường hợp từ chối phê duyệt thông qua khoản tín dụng của khách hàng

Phòng ĐGXH & phê duyệt tín dụng (tại Trụ sở chính) Tái thẩm định và đề xuất tín dụng Phòng KSGN (tại Trụ sở chính) Đối với các khoản BL và CKBL

Cấp có thẩm quyền Phê duyệt khoản tín dụng

(Nguồn: Vietinbank 2017)

Sơ đồ 2.2. Xét duyệt khoản vay

43

2.2.4. Soạn thảo hợp đồng

Đàm phán, soạn thảo dự thảo hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm (nếu

chưa thực hiện khi cấp giới hạn tín dụng) và các văn bản liên quan (nếu có) trên cơ

sở tham khảo mẫu do VietinBank ban hành, phù hợp với nội dung phê duyệt của

cấp có thẩm quyền.In hợp đồng (đã được cấp có thẩm quyền rà soát) từ chương

trình, chỉnh sửa hoàn thiện dự thảo theo yêu cầu.Kiểm tra thẩm quyền ký hợp đồng

cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm của người đại diện khách hàng, bên bảo đảm.Phối

hợp với bên bảo đảm thực hiện các thủ tục về công chứng, chứng thực đăng ký giao

dịch bảo đảm đối với hợp đồng bảo đảm (nếu chưa thực thi khi cấp giới hạn tín

dụng)

2.2.5. Cập nhật hệ thống

Nhập thông tin, tạo bản ghi tài sản bảo đảm, in và ký Bảng liệt kê hồ sơ tài sản

bảo đảm kiểm phiếu nhập kho tài sản bảo đảm, trình cấp có thẩm quyền ký

duyệt.Sau đó làm thủ tục nhập kho tài sản bảo đảm.Thông báo cho lãnh đạo phòng

Kiểm soát giải ngân để vấn tin, thực hiện thủ tục liên kết tài sản bảo đảm.Scan bảng

liệt kê đã có đầy đủ chữ ký vào chương trình, cuối ngày chuyển bộ phận kế toán

giao dịch để kiểm soát và lưu chứng từ theo quy định.

2.2.6. Giải ngân

Kiểm tra hồ sơ giải ngân: Các rủi ro triển khai PA/DA mới phát sinh; Thời

hạn giải ngân; Mục đích sử dụng vốn và chứng từ chứng minh mục đích sử dụng

vốn vay; Điều kiện giải ngân, hình thức giải ngân;

Lập tờ trình đề nghị giải ngân trình cấp có thẩm quyền tại chi nhánh, cán bộ

scan vào chương trình iCdoc gửi cho phòng Kiểm soát giải ngân, sau đó thực hiện

phê duyệt của phòng Kiểm soát giải ngân;

Giao nhận chứng từ giải ngân( bản gốc) với bộ phận Kiểm tra giao dịch

Chứng từ giải ngân

44

Bảng 2.2. Các loại chứng từ giải ngân

Các loại chứng từ bắt buộc khi giải Các chứng từ hỗ trợ/ đi kèm khi giải

ngân (Trừ trƣờng hợp đƣợc nợ chứng ngân (bổ sung sau khi giải ngân)

từ)

- Hợp đồng ngoại thương/ Hợp đồng - Phiếu giao nhận hàng

thương mại - Phiếu nhập kho

- Hóa đơn - Tơ khai hải quan nhập khẩu hàng hóa/

- Bảng kê thu mua hàng hóa, dịch vụ đầu Bộ chứng từ nhập khẩu.

vào - Giấy đề nghị thanh toán; thông báo

- Bảng kê lương thanh toán

- Giấy nộp tiền, phiếu thu, giấy biên - Biên bản nghiệm thu/ bàn giao; Biên

nhận, sao kê tài khoản. bản hoàn công

- Biên bản đối chiếu công nợ

Nguyên tắc giải ngân

Mỗi hợp đồng tín dụng: rút tiền vay một hoặc nhiều lần phù hợp với yêu cầu sử

dụng vốn thực tế, hoặc ghi trực tiếp vào hợp đồng tín dụng. Lưu ý: Cho vay có bảo

đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai, chỉ giải ngân sau khi khách hàng bỏ

trước phần vốn tự có/ vốn chủ sở hữu hoặc đồng thời theo tỷ lệ cơ cấu vốn đã xác

định.

Đối tượng giải ngân: phù hợp với nội dung ghi trong GNN hoặc bảng kê

chứng từ sử dụng tiền vay. Tiền vay phải được chuyển khoản trực tiếp cho bên thụ

hưởng. Việc giải ngân bằng tiền mặt thực hiện theo quy định của Tổng giám đốc.

Nguyên tắc giải ngân bằng tiền mặt (theo CV4493/CV-VietinBank35 ngày

6/8/2010 và thông tư 09 năm 2012 của NHNN)

Phải có căn cứ xác định khách hàng bắt buộc phải sử dụng vốn vay tiền

mặt; Bên bán hàng không có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, hoặc khách hàng

không thể thanh toán bằng chuyển khoản;khách hàng phải có chứng từ giải ngân

hợp pháp, hợp lệ.

45

Nguyên tắc giải ngân bù đắp: Cho vay Tổ chức kinh tế (áp dụng đối với vay

Đầu tư dự án): Chỉ giải ngân bù đắp nguồn vốn huy động tạm thời mà khách hàng

đã sử dụngđể thanh toán các chi phí cho dự án trên cơ sở các chứng từ hợp pháp

trong thời hạn đã được phê duyệt

Cho vay khách hàng cá nhân/hộ gia đình:

Trong cho vay từng lần: Trường hợp cho vay có bảo đảm, Vietinbank

được xem xét giải ngân bù đắp nguồn vốn huy động tạm thời mà khách hàng đã sử

dụng để thanh toán các chi phí của phương án phát sinh trong thời hạn đã được

duyệt, trên cơ sở các chứng từ hợp pháp, hợp lệ và tài sản đã hình thành hình thái

vật chất.

Trong cho vay dự án đầu tư: Chỉ giải ngân bù đắp nguồn vốn huy động tạm

thời mà khách hàng đã sử dụng để thanh toán các chi phí cho dự án trên cơ sở các

chứng từ hợp pháp, hợp lệ phát sinh trong thời hạn đã được duyệt.

2.2.7. Theo dõi khoản vay, xử lý phát sinh

Nội dung: Thường xuyên theo dõi diễn biên dư nợ của khách hàng, trạng thái

nợ của hoạt động tín dụng; Thông báo khách hàng thu xếp nguồn trả nợ đúng hạn,

đôn đốc khách hàng gửi đầy đủ, đúng hạn các báo cáo phục vụ việc quản lý và giám

sát khách hàng của VietinBank; Kiểm tra sử dụng vốn vay định kì và đột xuất.Hình

thức kiểm tra có thể tùy theo tần suất giao dịch.Việc kiểm tra sử dụng vốn vay phải

được lập thành Biên bản trong đó thể hiện đầy đủ nội dung theo quy định của

VietinBank; Định kỳ 6 tháng/lần, kiểm tra toàn diện tình hình tài chính, hoạt động

sản xuất kinh doanhcủa khách hàng, tiến độ thực hiện DA/PA.

Tần suất kiểm tra, giám sát sau khi cho vay

46

Bảng 2.3. Tần suất kiểm tra giám sát sau khi cho vay

Tần suất

Kiểm tra tài sản bảo đảm: định kỳ 3 tháng/lần

Cho vay tiêu Kiểm tra nguồn thu nhập của khách hàng : định kỳ tối đa 6 tháng/lần dùng

Kiểm tra tình trạng nhân thân của khách hàng

Giải ngân bằng tiền mặt: chậm nhất trong vòng 7 ngày làm việc kể từ

ngày giải ngân

Phương thức từng lần:

- Tần suất giao dịch rút vốn ≥ 5 lần/T: định kỳ tối thiểu 1 lần/T và đột

xuất ( khi cần)

Cho vay sản - Tần suất giao dịch rút vốn ≤ 5 lần/T: chậm nhất 15 ngày làm việc kể

xuất kinh từ khi giải ngân

doanh Phương thức hạn mức: định mức tối thiểu 1 lần/T và đột xuất (khi

cần)

Phương thức cho vay Dự án đầu tư: kiểm tra sau mỗi lần giải ngân

hoặc hàng tháng đảm bảo kiểm soát được quá trình thực hiện, triển

khai dự án. Kết thúc thời gian giải ngân, định kỳ 6 tháng/lần, kiểm tra,

đánh giá lại hiệu quả của dự án.

Xử lý phát sinh: Thẩm quyền quyết định lại cơ cấu lại thời hạn trả nợ: Khoản

vay thuộc thẩm quyền phê duyệt của cấp nào thì cấp đó có thẩm quyền quyết định

cơ cấu lại thời hạn trả nợ; Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: Tối đa 4 lần (nợ gốc) và 6 lần

(nợ lãi)/1 hợp đồng tín dụng.

Gia hạn nợ: Ngắn hạn: tối đa 1 chu kỳ luân chuyển vốn nhưng không quá thời

hạn cho vay ban đầu. Trung dài hạn: tối đa ½ thời hạn cho vay ban đầu nhưng không

quá 18 tháng. Trong trường hợp vượt thẩm quyền: trình trụ sở chính xem xét, quyết

định.

47

Nguyên tắc đối với những khoản vay thuộc thẩm quyền chi nhánh

+ VietinBank chỉ được quyết định kéo dài thời hạn giải ngân tối đa bằng ½

thời hạn ban đầu

+ VietinBank quyết định kéo dài thời gian ân hạn tối đa bằng ½ thời hạn ban đầu.

2.2.8. Thu nợ gốc, lãi, phí

Nội dung: Thu gốc, lãi: Đóng tiền trả nợ gốc và lãi phải là đồng tiền cho vay;

Nguồn tiền từ thu được từ đối tượng vay vốn (thanh toán bằng chuyển khoản) phải

chuyển về tài khoản tiền gửi của khách hàng mở tại VietinBank. Thu phí: Thu ngay

khi khách hàng bắt đầu sử dụng dịch vụ (trừ trường hợp đặc biệt do Tổng giám đốc

quyết định)

Một số lưu ý khi triển khai nội dung thu nợ, lãi, phí: Phải thông báo cho khách

hàng tối thiểu 7 ngày làm việc trước khi đến hạn trả nợ; Kỳ hạn trả lãi hàng tháng:

Riêng cho vay VNĐ đối với hộ nông dân, chủ trang trại, chi nhánh xác định kỳ thu

lãi căn cứ theo mùa vụ, chu kỳ sinh trưởng trồng/vật nuôi hoặc theo sản phẩm riêng

của VietinBank; Chuyển nợ quá hạn: Mức lãi suất phạt quá hạn bằng 50% lãi suất

cho vay trong hạn. Với tổ chức kinh tế: Tổng giám đốc quyết định mức từ 20% đến

dưới 50% tùy từng trường hợp cụ thể. Trường hợp quá hạn nợ gốc dưới 10 ngày,

giám đốc VietinBank quyết định mức lãi suất phạt quá hạn để thu/không thu

2.2.9. Thanh lý hợp đồng, giải chấp tài sản bảo đảm và lưu hồ sơ

Sau khi khách hàng hoàn thành hết các nghĩa vụ với VietinBank, cán bộ làm

thủ tục thanh lý hợp đồng và giải chấp tài sản bảo đảmtheo quy định của

VietinBank. Trường hợp trong hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm không có

thỏa thuận phải thanh lý hợp đồng khi các hợp đồng này hết hiệu lực thì VietinBank

không phải thực hiện thanh lý các hợp đồng này. Trường hợp trong hợp đồng cấp tín

dụng, hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận phải thanh lý hợp đồng khi các hợp đồng này

hết hiệu lực thì cán bộ phòng khách hàng/ Phòng giao dịch soạn thảo biên bản thanh

lý hợp đồng trình lãnh đạo Phòng khách hàng/ Phòng giao dịch kiểm soát và trình

người có thẩm quyền ký kết hợp đồng ký.

48

2.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại Ngân

hàng Thƣơng mại Công thƣơng Việt Nam

2.3.1. Kết quả đạt được

Nhìn chung, chất lượng tín dụng của Chi nhánh đang duy trì ở mức khá tốt,

thể hiện thông qua các chỉ số: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, chỉ tiêu nợ quá hạn và

tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh trong giai đoạn vừa qua.

Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn của Vietinbank đã có

những thay đổi đáng kể qua các năm theo chiều hướng rất tích cực. Từ việc chỉ sử

dụng hơn 50% vốn huy động trong năm 2013, Vietinbank đã có bước nhảy vọt khi

lượng vốn được sử dụng năm 2016 và 2017 được ghi nhận lần lượt là 105,52% và

109,18%. Con số này cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng đang ở tình

trạng tốt, tuy nhiên chi nhánh cũng cần một số điều chỉnh để duy trì lượng chênh

lệch giữa sử dụng và huy động ở mức vừa phải, tránh tình trạng thiếu hụt về nguồn

vốn trong tương lai.

Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu: Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp cho thấy

quá trình cho vay có tăng trưởng lành mạnh hay không, bởi nếu doanh số cho vay

cao hơn, dư nợ tín dụng lớn hơn nhưng không thu hồi được nợ thì không hiệu quả

bằng việc cho vay thấp hơn, dư nợ thấp hơn nhưng tỷ lệ nợ lành mạnh hơn, nợ quá

hạn ở mức cho phép. Có thể nhận thấy tỷ lệ nợ quá hạn tại Vietinbank duy trì ở mức

thấp < 1% từ năm 2013-2017, lượng nợ quá hạn đã được khống chế khá tốt, tỷ trọng

nợ quá hạn giảm xuống còn 0.03% và 0.06%. Đây là tỉ lệ nợ quá hạn thấp hơn nhiều

so với quy định 5% của NHNN. Vì bất kỳ một NHTM nào cũng phải chấp nhận nợ

quá hạn, rủi ro như vấn đề tất yếu trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nên vấn

đề mà NHTM cần giải quyết không phải là tìm cách loại trừ hoàn toàn nợ quá hạn,

mà là khống chế tỷ lệ nợ quá hạn ở một mức độ thấp nhất có thể. Nhìn chung,

VietinBank đã thực hiện rất tốt điều này.

Hệ số thu nợ: Tình hình thu nợ của Vietinbank không ngừng được cải thiện,

biểu hiện là hệ số thu nợ liên tục tăng trong các năm vừa qua từ 64% năm 2013 lên

thành 85% năm 2017. Rõ ràng, mặc dù đối diện với nhiều vấn đề khách quan từ tác

động của tình hình kinh tế nhưng công tác thu nợ vẫn được thực hiện rất tốt. Điều

49

này cũng phần nào phản ánh chất lượng của quy trình cấp tín dụng của ngân hàng,

đặc biệt là trong khâu đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng và định giá tài sản

đảm bảo trong quá trình cấp tín dụng.Đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng

Công Thương Việt Nam thông qua chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, chỉ tiêu tỷ lệ nợ

quá hạn, nợ xấu và hệ số thu hồi nợ, ta có thể nhận xét quy trình tín dụng tại đây

đang phát huy được hiệu quả. Tùy vào điều kiện và yêu cầu mà mỗi Ngân hàng có

một quy trình tín dụng cũng như qui trình thẩm định riêng.Cũng như bất kỳ vấn đề

nào cũng có tính hai mặt và thẩm định cũng vậy.

(1) Đối với quy trình thẩm định của VietinBank gồm có những ưu điểm sau:

Thứ nhất, quy trình tín dụng tại ngân hàng Công Thương được xây dựng khá

chặt chẽ, các bước, các công đoạn được đầu tư khá bài bản và logic từ việc hướng

dẫn khách hàng làm hồ sơ vay, thẩm định khách hàng, đến thẩm định dự án đầu tư,

lập thành tờ trình… Quy trình tín dụng rõ ràng như vậy sẽ làm cho công tác thẩm

định được diễn ra thuận lợi và dễ dàng. Quy trình này còn được áp dụng thống nhất

trong toàn hệ thống và nhìn chung trong thời gian qua đã được cán bộ thẩm định

tuân thủ nghiêm túc.

Thứ hai, Ngân hàng Công Thương có 1 hệ thống lưu trữ dữ liệu thông tin

INCAS. Bất kỳ 1 hồ sơ nào dù có được quyết định giải ngân hay không đều được

scan lưu trữ lại. Hệ thống này giúp ích rất nhiều cho ngân hàng trong việc tìm

nguồn thông tin cần thiết.

Thứ ba, quy định về mức lãi suất, nguồn vốn phân bổ cho từng ngành, từng

loại cho vay rất chi tiết, rõ ràng, hợp lý. Ví dụ: Đối với cho vay hạn mức,

VietinBank- chi nhánh Hà Nội không cho vay hạn mức đối với các ngành hàng sản

xuất kinh doanh mang tính chất thương vụ , thời vụ như ngành đóng tàu; hạn chế

cho vay hạn mức đối với ngành xây lắp; các trường hợp cho vay đều phải xếp hạng

A trở lên.

Thứ tư, việc ký duyệt các giấy tờ thẩm định cũng được phân công, phân nhiệm

rõ ràng theo mức vay. Ngoài ra còn được biểu quyết bởi các thành viên trong Ban

giám đốc và các cán bộ tín dụng. Việc thẩm định tín dụng cũng có sự phân công

trách nhiệm rất rõ ràng. Cụ thể, với khoản tín dụng áp dụng đối với doanh nghiệp ở

50

dưới mức 20 tỷ đồng sẽ do Phó Giám đốc ký duyệt và trên mức đó thì sẽ trình lên

Giám đốc Chi nhánh. Ngoài ra, với những món vay không có tài sản bảo đảm sẽ

trình thẳng lên Giám đốc để xét duyệt.Việc phân cấp này sẽ giảm thiểu được rủi ro

tín dụng và nâng cao trách nhiệm đối với các thành viên của Chi nhánh.

Thứ năm, thủ tục cho vay thiết kế phù hợp với từng loại khách hàng, từng loại

hình cho vay.

(2) Đối với công tác vận hành quy trình cấp tín dụng.

Thứ nhất, qua quá trình nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về quy trình

cấp tín dụng ở VietinBank, đề tài nhận thấy được quy trình tín dụng ở đây thực hiện

rất nghiêm túc. Cán bộ tín dụng tiến hành thẩm định hồ sơ rất kỹ càng, tờ trình thẩm

định được nghiên cứu rất kỹ về nhu cầu, ngành cho vay, quan hệ khách hàng với

VietinBank và các ngân hàng khác trong quá khứ, phân tích chi tiết tình hình kinh

doanh tài chính dựa trên các báo cáo tài chính và các nguồn thông tin thu thập được

Thứ hai, trình độ, kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng của VietinBank đều

ổn. Ngoài ra, ngân hàng còn chú trọng vào công tác đào tạo cán bộ. Bằng chứng là

ngân hàng đã thành lập trường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Vietinbank

school.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

(1) Một sô hạn chế về về nghiệp vụ cấp tín dụng được phép thực hiện

Một số bất cập của pháp luật trong việc ghi nhận các hình thức cấp tín dụng

của NHTM: Việc ghi nhận chính thức khi thực hiện giao dịch gốc với hành vi cấp

tín dụng cho khách hàng còn nhiều điểm chưa rõ ràng; Việc xác định các dấu hiệu

của một hình thức cấp tín dụng chưa rõ ràng, không được ghi nhận bằng luật pháp

một cách chính thức.

(2) Đối với quy trình thẩm định của VietinBank

Pháp luật chưa có những quy định cần thiết để gắn trách nhiệm của người phê

duyệt tín dụng, quyết định tín dụng với người xử lý tín dụng; Pháp luật chưa quy

định nguyên tắc chung và mô hình cụ thể về hệ thống phê duyệt/quyết định tín

dụng; Về việc thực thi cơ chế ủy quyền trong quyết định tín dụng.

51

Thứ nhất, các nguồn số liệu hiện nay dựa rất nhiều vào sự kê khai của cá nhân,

doanh nghiệp trong khi các chủ thể này thường có xu hướng giảm bớt số liệu (để

tránh liên quan đến các quy định về thuế, phí...) hoặc tăng thêm số liệu (để báo cáo

thành tích, thường rơi vào các doanh nghiệp nhà nước; đây lại là nguồn khách hàng

chủ yếu của VietinBank). Hiện nay, Ngân Hàng Nhà Nước đã xây dựng trung tâm

thông tin tín dụng CIC nhằm có dữ liệu cung cấp, chia sẻ cho các NHTM trong

công tác tín dụng và tiến sâu hơn nữa là phục vụ công tác kiểm tra thông tin cho các

doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay thông tin của CIC còn chưa được cập nhật một

cách đầy đủ do các ngân hàng chưa tuân thủ đúng các yêu cầu của Ngân Hàng Nhà

Nước trong việc cung cấp số dư tín dụng của các cá nhân, doanh nghiệp.

Thứ hai, quy trình thẩm định tín dụng hiện nay tại VietinBank có sự trùng lặp

không cần thiết: có thêm phòng quản lý rủi ro thẩm định lại khi khách hàng đến

giao dịch lần đầu dù số tiền vay rất nhỏ, chưa nói đến vấn đề nhân sự của các phòng

quản lý chưa tốt về nghiệp vụ ảnh hưởng đến thời gian giải quyết hồ sơ vay và gây

phiền phức cho khách hàng.

Thứ ba, trong nội dung về thẩm định nhu cầu vay vốn chưa có bước kiểm tra

sự hợp lý của các thông số tính nhu cầu cho vay.

(3) Một số điểm còn hạn chế trong thực hiện pháp luật về nội dung các hình

thức cấp tín dụng của NHTM tại Vietinbank.

Pháp luật quy định về hình thức liên quan đến quyền lợi của bên nhận tín dụng

còn chưa đủ chặt chẽ và chưa có biện pháp kịp thời để bảo vệ bên nhận tín dụng với

tư cách là người tiêu dùng; Quy định pháp luật về điều kiện cho vay còn quá chung

chung, gây khó khăn cho NHTM trong quá trình thực hiện, dẫn đến nguy cơ vi

phạm các điều kiện cho vay mà bản thân NHTM chưa tiên lượng hoặc vi phạm với

lỗi vô ý;Quy định pháp luật đối với từng nghiệp vụ cấp tín dụng còn một số hạn

chế;Quá trình phát hành, thanh toán và sử dụng thẻ tín dụng phát sinh nhiều tình

huống bất cập và cần có sự điều chỉnh rõ ràng hơn của pháp luật; Trong quá trình

thực hiện hợp đồng bao thanh toán, bên bao thanh toán và bên được bao thanh toán

cũng như bên mua hàng cần lưu ý một số điểm như sau: Bao thanh toán ở Việt Nam

chủ yếu ở dạng có truy đòi nhằm giảm thiểu rủi ro cho hệ thống TCTD nói chung và

52

hệ thống NHTM nói riêng; tuy nhiên lại hạn chế khả năng chuyển đổi rủi ro của

doanh nghiệp;Mặc dù, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng có nhiều lợi ích

nhưng hoạt động này vẫn chưa thực sự phát triển tại Việt Nam. Phần lớn nguyên

nhân đến từ nhận thức của NHTM về tầm quan trọng của hoạt động bao thanh toán;

Pháp luật chưa có những quy định cụ thể để đảm bảo thu hồi được khoản tín dụng

đã cấp đối với những hình thức cấp tín dụng đặc thù.

(4) Đối với công tác vận hành quy trình cấp tín dụng.

Thứ nhất, sự phối hợp thông tin giữa các thành viên cũng chưa chặt chẽ

thường xuyên, khối lượng công việc của phòng khá lớn nên các cá nhân làm việc

một cách độc lập, dự án phân công cho ai thì người đó tự tìm kiếm thông tin, tự

thẩm định dựa vào năng lực của bản thân, ít có sự hợp tác hỗ trợ qua lại lẫn nhau về

mặt thông tin trong quá trình thẩm định. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thời

gian cũng như chất lượng thẩm định.

Thứ hai, cách vận hành quy trình tín dụng chưa thật sự chặt chẽ, nhiềutrường

hợp dẫn đến cho vay khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, cho vay hay gia hạn

nợ vượt mức phán quyết của chi nhánh, mức cho vay so với tài sản đảm bảo vượt tỷ

lệ quy định. Một số cán bộ tín dụng còn quá coi trọng tài sản thế chấp và sai lầm khi

coi tài sản thế chấp là yếu tố quan trọng nhất đảmbảo an toàn tín dụng trong khi

vay; nên khi khách hàng không có khả năng trảnợ, tài sản giảm giá, do đó khó phát

mại và nợ thu hồi về không đủ trả gốc và lãi.

Thứ ba, có trường hợp cán bộ kiểm tra nghiệp vụ kế toán là nhân viên phòng

kho quỹ hay phòng hành chính, hay nhân viên bàn tiết kiệm thì kiểm tra nghiệp vụ

tín dụng hay nghiệp vụ thanh toán quốc tế, do vậy khó có thể kiểm tra được sai sót

của các phòng nghiệp vụ để có biện pháp chỉnh sửa ngăn chặn rủi ro kịp thời.

(5) Những điểm còn hạn chế trong quy định về các giới hạn an toàn

Thứ nhất, về hệ thống phân loại tín dụng nội bộ và trách nhiệm của cán bộ

thẩm định. Khoản 1 Điều 94 Luật TCTD mới chỉ dừng lại ở mức độ tối thiểu (chính

điều này là một trong những nguyên nhân gia tăng nợ xấu), cán bộthẩm định và phê

duyệt theo chức trách của mình và không trái pháp luật nhưng không lường trước

được khả năng phát sinh nợ xấu do chưa đủ thông tin.

53

Thứ hai, Luật TCTD đề cập đến những nội dung thực hiện dự phòng rủi ro

theo hướng hình thành các khoản, các quỹ cần phải trích lập (Điều 131 Luật TCTD

2010) và theo đó là các văn bản hướng dẫn như Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày

21/01/2013 mà chưa đưa ra những yêu cầu cơ bản cho việc cảnh báo sớm nằm

ngoài các biện pháp trích lập rủi ro này.

Thứ ba, quy định về người liên quan và cấp tín dụng cho người liên quan. Còn

thiếu rõ ràng minh bạch trong việc quy định về cấp tín dụng cho “người có liên

quan”, thực hiện đầu tư và ủy thác đầu tư của NHTM.

54

Kết luận chƣơng 2

Nhìn chung, Luật các TCTD 2010 và các văn bản quy phạm pháp luật do

NHNN ban hành đã thiết lập cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ điều chỉnh đối với các

nội dung có liên quan đến cấp tín dụng của NHTM. Nội dung pháp luật được xem xét

phân tích, bao gồm: quy định về các hình thức cấp tín dụng áp dụng cho NHTM, về

thẩm quyền quyết định cấp tín dụng, về nội dung quy trình cấp tín dụng và về các

giới hạn đảm bảo an toàn cho NHTM khi cấp tín dụng cho khách hàng. Các quy định

pháp luật này đã góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát

sinh trong quá trình cấp tín dụng trên thực tế, góp phần vào sự phát triển ổn định của

các NHTM, giảm thiểu rủi ro pháp lý đối với các bên trong quan hệ cấp tín dụng.

Bên cạnh đó, thực tiễn quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Công thương Việt

Nam trong thời gian qua cũng đặt ra những vấn đề đối với chính ngân hàng trước

yêu cầu phải tuân thủ các quy định pháp luật cũng như đảm bảo sự phát triển. Vì

vậy, trong nội dung Chương 3, đề tài đưa ra những đề xuất về các giải pháp nhằm

hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật điều chỉnh quy trình

cấp tín dụng của NHTM cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn hoạt

động ở Việt Nam.

55

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU

QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG TẠI NGÂN

HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của

Ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải phù hợp với

chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh

tế xã hội

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình

thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Tại Đề án phát triển ngành ngân

hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo

Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ đã định

hướng phát triển hệ thống ngân hàng như sau: Cải cách căn bản, triệt để và phát

triển toàn diện hệ thống các TCTD theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt

trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng

về sở hữu, về loại hình TCTD, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh,

đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện

đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực

quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong

khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các TCTD, kể cả các TCTD nhà nước hoạt động

kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát

triển hệ thống TCTD hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công

nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động

NHTM. Phát triển các TCTD phi ngân hàng để góp phần phát triển hệ thống tài chính

đa dạng và cân bằng hơn. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng,

đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và màng lưới

phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ,

tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh

56

tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá

nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi

cácdịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của Ngân hàng

thương mại phải bảo đảm tính toàn diện, tính đồng bộ, tính thống nhất, tính phù

hợp, tính khả thi của hệ thống pháp luật

Thứ nhất, về tính toàn diện, pháp luật phải đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều

chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để các quan hệ xã hội mang

tính điển hình phổ biến cần sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật điều

chỉnh.Theo đó, pháp luật về quy trình cấp tín dụng cần điều chỉnh các quan hệ xã

hội phát sinh giữa các bên trong quan hệ cấp tín dụng.

Thứ hai, về tính đồng bộ, với vai trò là một bộ phận của pháp luật điều chỉnh

hoạt động tín dụng ngân hàng, pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải phù

hợp với pháp luật tài chính ngân hàng nói chung, pháp luật điều chỉnh các hoạt động

ngân hàng nói riêng. Đồng thời pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải

đồng bộ với pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

Thứ ba, về tính thống nhất, pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải

đảm bảo sự thống nhất với Hiến pháp, Luật các TCTD, Bộ luật dân sự, Pháp lệnh

ngoại hối và các văn bản pháp luật có liên quan.

Thứ tư, về tính phù hợp, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín

dụng phải đảm bảo phù hợp với thực tiễn xã hội, phù hợp với phong tục tập quán và

phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Đồng thời, việc hoàn

thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải đảm bảo phù hợp thông lệ

quốc tế nhằm tạo khuôn khổ pháp lý hữu ích để thúc đẩy sự phát triển của quy trình

cấp tín dụng, đảm bảo quy trình cấp tín dụng được thực hiện an toàn, hiệu quả và

đảm bảo tính cạnh tranh.

Thứ năm, về tính khả thi, pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải có

khả năng thực hiện trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại của đất

nước.Đồng thời, phải phù hợp với năng lực, trình độ và khả năng thực hiện của các

chủ thể tham gia quan hệ cấp tín dụng.

57

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng phải khắc phục

được những tồn tại, hạn chế trong pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng ở

Việt Nam hiện nay

Pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM luôn trong quá trình

hoàn thiện nhằm đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động và sự an toàn của hệ thống

ngân hàng. Ở Việt Nam hiện nay, hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho sự phát

triển hoạt động tín dụng của NHTM (đã ban hành các văn bản luật từ Luật các

TCTD, Bộ Luật Dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành)...Vì vậy, các loại hình

quy trình cấp tín dụng của NHTM đã được da dạng hóa, các điều kiện vay vốn tín

dụng ngân hàng linh hoạt hơn trước đây và đã tạo điều kiện cho các chủ thể trong

nền kinh tế có thể tiếp cận được vốn vay ngân hàng, trên cơ sở đó đảm bảo quy luật

cung cầu về vốn trong nền kinh tế,tạo sự tăng trưởng cho các doanh nghiệp và đóng

góp nguồn thu nhất định cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm,

pháp luật về quy trình cấp tín dụng của NHTM cũng tồn tại những hạn chế nhất

định, nhất là những vấn đề dẫn đến nợ xấu của các ngân hàng hiện nay ngày càng

cao, các biện pháp xử lý nợ xấu kém hiệu quả, nhiều ngân hàng không đảm bảo các

quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Từ đó có thể dẫn đến tình

trạng phá sản và thậm chí khủng hoàng ngân hàng.

Với mục tiêu của đề tài là hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín

dụng của NHTM ở Việt Nam nên yêu cầu phải khắc phục được những tồn tại, hạn

chế trong pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng hiện này là điều tất yếu. Việc

hoàn thiện này trên cơ sở các định hướng sau:

Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện các quy định chung điều chỉnh quy trình cấp tín

dụng của NHTM. Các quy định này sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, đầy đủ

điều chỉnh những nội dung về quy trình cấp tín dụng của NHTM.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh đối với từng hình thức

cấp tín dụng tại các văn bản pháp luật do NHNN ban hành về các hoạt động: cho

vay, bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín dụng; chiết khấu và bao thanh toán của

các NHTM.

58

3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng và

nâng cao hiệu quả thực hiện quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng Thƣơng mại

Công thƣơng Việt Nam

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy trình cấp tín dụng của

Ngân hàng thương mại

3.2.1.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định chung điều chỉnh quy trình cấp

tín dụng của Ngân hàng thương mại

Như đã nêu tại Chương 2, các quy định hiện hành của Luật các TCTD điều

chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM là tương đối sơ sài. Mặt khác, Hiện nay,

vẫn chưa có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật các TCTD. Về vấn đề này, tác giả

đề xuất một số nội dung cụ thể sau đây

Một là, cần bổ sung các quy định chung điều chỉnh quy trình cấp tín dụng là

một trong những yêu cầu đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Luật TCTD cũng như xem xét

việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng về quy trình cấp tín

dụng của các TCTD nhằm xác lập một quy chế pháp lý riêng và đầy đủ điều chỉnh

quy trình cấp tín dụng. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm cung cấp một bức

tranh tổng thể, bao quát và đầy đủ hơn về quy trình cấp tín dụng của TCTD cũng

như thuận tiện hơn cho các NHTM khi thực hiện quy trình cấp tín dụng để bảo đảm

phù hợp với các quy định pháp luật.

Hai là, ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Các TCTD. Các bộ quản lý

ngành ban hành hoặc đề nghị ban hành các văn bản hướng dẫn Luật chuyên ngành

có liên quan trực tiếp đến việc xác định các điều kiện cấp tín dụng:

- Ban hành nghị định hướng dẫn Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD.

Như đã phân tích về ảnh hưởng của việc thiếu văn bản hướng dẫn cấp Nghị định,

thiếu tính chi tiết của các Thông tư quy định về cấp tín dụng, các cơ quan có thẩm

quyền. Chúng tôi đã đề cập nhiều lần về việc Luật TCTD 2010 đã có hiệu lực khá lâu

nhưng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn. Nghị định 59/2009/NĐ-CP ban hành để

hướng dẫn Luật TCTD 1997 và Luật sửa đổi bổ sung 2004 hiện nay vẫn chưa có văn

bản thay thế, vì vậy nhiều nội dung của Nghị định này thực tế vẫn đang áp dụng. Nếu

xét ở góc độ tuân thủ nguyên tắc pháp chế, chúng ta không thể viện dẫn đến một văn

59

bản hướng dẫn một văn bản khác đã bị thay thế. Nếu có tranh chấp hoặc vi phạm phát

sinh, viện dẫn tứi văn bản này tạo ra tâm lý rất khiên cưỡng. Như thế cũng đồng

nghĩa với sự khó khăn cho công tác thanh tra giám sát của các cơ quan có thẩm

quyền. Đây không phải đơn giản chỉ là ý kiến cá nhân tác giả bài viết mà còn là yêu

cầu bức thiết. Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ ra việc ban hành chậm các văn bản

ảnh hường nghiêm trọng đến việc triển khai các văn bản Luật, Pháp lệnh đã có hiệu

lực.

- Sớm sửa đổi, ban hành mới hệ thống các văn bản quy định về cho vay của

TCTD đối với khách hàng. Những vấn đề nổi cộm như chủ thể giao dịch trong quan

hệ cho vay bao gồm cả bên vay và bên cho vay, điều kiện cho vay, bảo đảm tiền

vay, lãi suất, kỳ hạn trả nợ và vấn đề đảo nợ… đều cần sớm được điều chỉnh bằng

văn bản mới. Như đã đề cập tại chương 1, ngày 30.12.2016, Ngân hàng Nhà nước

đã ban hành Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, có hiệu lực vào ngày

15.3.2017, tuy nhiên ngay văn bản mới được ban hành, nhiều nội dung vẫn chưa

được làm rõ và chưa có những phương án xử lý cho các trường hợp bất cập khi áp

dụng song hành với các văn bản khác. Theo TS. Phan Minh Ngọc 2017 thì Thông tư

39/2016 có những vấn đề sau cần cân nhắc và điều chỉnh: Điều 6, về sử dụng ngôn

ngữ, Thông tư 39 quy định thỏa thuận cho vay được lập bằng tiếng Việt hoặc đồng

thời bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài. Tuy nhiên nếu cả khách hàng và ngân

hàng cho vay đều là nước ngoài thì quy định này không những thừa mà còn là một

trở ngại không đáng có cho việc vay vốn tương ứng. Điều 7 quy định khách hàng

phải có phương án sử dụng vốn khả thi, Điều 16 về cung cấp thông tin có quy định

khách hàng vay phải báo cáo việc sử dụng vốn vay và chứng minh vốn vay được sử

dụng đúng mục đích ghi trong thỏa thuận vay. Tuy nhiên điều này là cần thiết, hợp

lý nếu khách hàng là doanh nghiệp sử dụng vốn vay để sản xuất kinh doanh, nhưng

nếu khoản vay phục vụ cho mục đích tiêu dung thì đây là điều khó có thể thực hiện

đươc….

Đối với quy trình cấp tín dụng, thực tế cho thấy, để cấp được một lượng tín

dụng cho khách hàng, TCTD phải áp dụng, căn cứ vào rất nhiều văn bản pháp luật

vừa điều chỉnh trực tiếp, vừa điều chỉnh gián tiếp hoạt động tín dụng của mình.

60

Trong số những văn bản điều chỉnh trực tiếp nhất, phải kể đến Quyết định

1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31.12.2001 ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối

với khách hàng. Đây là văn bản pháp quy có hiệu lực thấp nhất (văn bản do cơ quan

cấp Bộ ban hành) nhưng lại là văn bản có vòng đời dài nhất trong hệ thống các quy

định về cấp tín dụng (khi mà văn bản Luật mà nó hướng dẫn cũng đã hết hiệu lực

cách đây 5 năm). Dường như không có câu chuyện gì cần phải đề cập nếu như nhìn

ở góc độ tích cực: đây là văn bản phù hợp nên có độ dài về thời gian đến vậy. Tuy

nhiên, xét ở góc độ ngược lại, do các điều khoản của Quyết định 1627/2001/QĐ-

NHNN quy định rất chung, không có định lượng, rất khó khăn trong quá trình thực

thi, càng khó khăn hơn nữa trong việc xác định có sai phạm hay không khi tiến hành

thanh tra giám sát. Chẳng hạn, quy định về điều kiện vay vốn của khách hàng là “có

khả năng tài chính, có mục đích vay vốn hợp pháp, có khả năng trả nợ khoản vay”,

cách hiểu của TCTD và khách hàng sẽ theo phương án mở vì không có định lượng về

các tiêu chí trên. Tuy nhiên, đây cũng chính lại là sai phạm mang tính phổ biến của các

TCTD khi có thanh tra hoạt động tín dụng hay thanh tra toàn diện. Sẽ không quá lời

nếu như các TCTD cho rằng “động đâu chết đấy”, cũng không thể ngăn được tâm lý

TCTD “không thuyết phục” khi nhận được các quyết định thanh tra. Với những phân

tích mang tính ví dụ như vậy, có thể nhận thấy ở nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh

lĩnh vực tổ chức và hoạt động của TCTD, điều chỉnh quy trình cấp tín dụng mà không

chỉ là một văn bản duy nhất có nội dung cần đánh giá xem xét và được dần thay thế

bằng Thông tư 39/2016/TT-NHNN.

Ba là, cần coi trọng vai trò của hệ thống văn bản nội bộ và có cơ chế giám sát

việc ban hành văn bản nội bộ của NHTM. Để có được cơ sở cho hoạt động ngân

hàng, trong đó có hoạt động cấp, quản lý và xử lý đối với các khoản tín dụng nhằm

hạn chế rủi ro, cần thiết phải có được các quy định, quy trình cụ thể rõ ràng. Đây là

những yêu cầu cho hệ thống quy định nội bộ, tuy vậy hệ thống các quy định này

không thể tách rời các quy định pháp luật có liên quan.Quy trình cấp tín dụng, quy

trình kiểm soát tín dụng là vấn đề quan trọng của lĩnh vực kinh doanh xương sống

của các TCTD. Quy trình này ngoài việc được ban hành đúng thẩm quyền, cần phải

bao trùm tất các các công việc gắn với hoạt động cấp tin dụng cho từng vị trí cán bộ

nhân viên trong hệ thống, xác định được đúng thời gian cần thiết (theo chuẩn mực với

61

các cấp độ khác nhau trong hệ thống các TCTD hàng đầu trên thế giới). Các bước

trong quy trình như tiếp xúc khách hàng, đánh giá hồ sơ, thẩm định hồ sơ, quyết định

tín dụng, thông báo quyết định tín dụng (chấp thuận /từ chối cấp tín dụng) cho khách

hàng là những nội dung cần phải được quy định rõ và thực hiện đúng.

3.2.1.2. Hoàn thiện quy định về hệ thống phê duyệt tín dụng

Một là, cần xây dựng các nguyên tắc cho mô hình phê duyệt tín dụng.Như đã

đề cập ở trên, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định nguyên tắc tổ chức và

hoạt động cho bộ phận phê duyệt tín dụng (từ cấp cao cho đến bộ phận phê duyệt

tín dụng ở chi nhánh /phòng giao dịch - nếu có). Mặc dù pháp luật chưa đề cập,

nhưng một số NHTM hiện nay, đặc biệt là NHTM có yếu tố nước ngoài đã có quy

định nội bộ về Ủy ban tín dụng đầu tư /Hội đồng tín dụng đầu tư. Thông thường,

các nội dung sau đây được xác định là nguyên tắc tổ chức và làm việc của Ủy ban

tín dụng /Hội đồng tín dụng:

Hội đồng tín dụng làm việc theo chế độ tập thể, tiến hành họp (hoặc lấy ý kiến

bằng văn bản trong các trường hợp đặc biệt) khi phát sinh những vấn đề nghiệp vụ

cần xem xét, quyết định thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của hội đồng tín dụng.

Trường hợp khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng, có nhu cầu đề

nghị ngân hàng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, việc phê duyệt giới hạn tín dụng

/khoản tín dụng trong thẩm quyền của hội đồng tín dụng sẽ bao gồm cả việc phê

duyệt đầu tư trái phiếu do doanh nghiệp phát hành.

Các thành viên tham gia họp hội đồng phải đảm bảo:Tuân thủ các quy định

của Hội đồng này, các quy chế, quy định của ngân hàng và các quy định của pháp

luật liên quan.Chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị /Hội đồng thành viên và

trướcpháp luật về các đề xuất, quyết định của mình

Hai là,cần xác định nguyên tắc khi phê duyệt, quyết định tín dụng. Trên cơ sở

pháp luật của một số quốc gia về quy trình cấp tín dụng của NHTM, việc thực hiện

phê duyệt hồ sơ tín dụng cần tuân thủ các nguyên tắc sau:Một hồ sơ tín dụng chỉ

được xem xét bởi 1 cấp quyết định tín dụng; Xác định nguyên tắc khi 1 hồ sơ cấp

tín dụng thuộc thẩm quyền của mình (kể cả tại Hội sở hay đơn vị kinh doanh ở

mạng lưới) thì cấp phê duyệt tín dụng đồng thời là cấp quyết định tín dụng; Trường

62

hợp tại ngân hàng không áp dụng gộp việc phê duyệt tín dụng với xử lý khoản tín

dụng thì người quyết định cơ cấu lại thời hạn trả nợ không được đồng thời là người

quyết định khoản tín dụng đó (trừ trường hợp đó là Hội đồng quản trị /Hội đồng

thành viên); Nguyên tắc xác định hồ sơ hợp vốn; Nguyên tắc xác định hồ sơ cấp tín

dụng bằng ngoại tệ.

Ba là, bên cạnh việc đề xuất trách nhiệm cá nhân, tác giả cho rằng pháp luật

phân quyền nhiều hơn cho Chủ tịch Hội đồng quản trị /Chủ tịch Hội đồng thành

viên.Việc quy định quyền cụ thể trong quyết định tín dụng cũng đồng nghĩa với

việc gắn trách nhiệm cho cá nhân có tầm ảnh hưởng đặc biệt này tại NHTM. Nếu

pháp luật quy định theo chiều hướng này, các chủ thể mà chúng tôi đề cập đều có

thực quyền, có trách nhiệm đầy đủ hơn trong quá trình thực thi nhiệm vụ, đồng thời

cũng có căn cứ pháp lý để cơ quan thanh tra giám sát xác định tính đúng đắn về

thẩm quyền phê duyệt.

3.2.1.3. Hoàn thiện quy định về xác định căn cứ đánh giá, xem xét cấp tín

dụng và giám sát thu hồi khoản tín dụng đã cấp, quy định về quy trình cấp tín dụng

cho khách hàng

Cần có những quy định rõ ràng hơn về xử lý thu hồi các khoản tín dụng đã

cấp. Pháp luật hiện hành quy định về việc mua, bán nợ của các TCTD và chi nhánh

ngân hàng nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xử lý nợ với phương

pháp bán nợ để giảm nợ xấu về ngưỡng cho phép. Đây là một trong những thành

công trong công tác xây dựng pháp luật của Ngân hàng Nhà nước, nhưng cũng cần

phải tính toán thêm để quản lý các khoản nợ có vấn đề với góc độ thực hiện tốt công

tác kiểm soát sau mà không cần có hoạt động bán nợ cho tổ chứckhác. Hiện nay

pháp luật đã quy định cụ thể về các quyền, các giải pháp để các TCTD xử lý, đòi lại

khoản vay, nhưng pháp luật lại chưa đưa ra những đường dẫn cần thiết cho việc hỗ

trợ để khôi phục lại tình trạng bình thường cho các khách hàng vay vốn mà có

khoản nợ đã lâm vào nợ loại 3 hoặc loại 4 vẫn có khả năng để trả nợ trong tương lai.

Cùng với đó, quy định về quy trình cấp tín dụng của các NHTM cũng cần phải được

quy định cụ thể hơn. Điều 25 khoản 1 của Quy chế cho vay của TCTD đối với

khách hàng ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31.12.2001

63

là ví dụ cụ thể (Văn bản này sẽ được thay thế bởi Thông tư 39/2016/TT-NHNN

ngày 30.12.2016 từ 15.3.2017, tuy nhiên nội dung nêu trên chưa được giải quyết)..

3.2.1.4. Hoàn thiện quy định về xác định các giới hạn

Thứ nhất, hoàn thiện tiêu chí tài chính để xác lập mức dự phòng rủi ro và xử lý

rủi ro

Pháp luật hiện hành xác định mức an toàn dựa theo nhiều căn cứ khác nhau.

Chẳng hạn như để đảm bảo an toàn hoạt động cho các NHTM, Điều 6 của Quyết

định số 13/2008/QĐ-NHNN ngày 29/4/2008 của Ngân hàng Nhà nước quy định về

mạng lưới hoạt động của NHTM xác định cơ sở tính an toàn theo vốn điều lệ. tác

giả cho rằng, cách xác định như vậy là chưa thỏa đáng và chưa thực tế. Các

NHTMphi Nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều có mức vốn điều lệ rất thấp.Chỉ có

một số ít NHTM cổ phần có phần vốn góp của Nhà nước hoặc là các NHTM nhà

nước được cổ phần hóa có mức vốn điều lệ cao. Trong khi đó, để thực hiện kiểm

soát, tăng cường các tiêu chí an toàn, theo thông lệ, các nước trên thế giới đều áp

dụng tiêu chí vốn tự có /vốn chủ sở hữu để xác định các tỉ lệ bảo đảm an toàn. Việc

xác định tỉ lệ an toàn dựa trên tiêu chí này sẽ giúp định hướng cho NHTM: phát

triển ổn định, thực chất; gia tăng tích lũy; tăng cường huy động nguồn vốn dài hạn,

có tính chất tương tự vốn chủ sở hữu để gia tăng sự an toàn trong hoạt động cho

ngân hàng. Vì vậy, sẽ là phù hợp nếu sử dụng mức vốn tự có để tính các chỉ số an

toàn trong phát triển hệ thống.

Thứ hai, hoàn thiện tiêu chí nhận diện khách hàng để thiết lập dự phòng và xử

lý rủi ro

Tiêu chí nhận diện khách hàng là nội dung quan trọng để TCTD quyết định có

thiết lập quan hệ tín dụng hay không, đồng thời đây cũng là tiêu chí để đánh giá

mức độ rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng.Hiện nay, mặc dù đã có nhiều văn

bản quy định về phân loại và xử lý rủi ro cấp tín dụng nhưng chưa có quy định cụ

thể nào về việc nhận diện khách hàng cùng với các tiêu chí để nhận diện khách

hàng. Các văn bản điều chỉnh quy trình cấp tín dụng hiện nay Thông tư

39/2016/TT-NHNN ngày 30.12.2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt

động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách

64

hàng mới chỉ dừng lại ở điều kiện về tình trạng pháp lý, điều kiện kinh doanh mà

chưa đi sâu vào các tiêu chí gắn với rủi ro trong quy trình cấp tín dụng. Vì vậy cần

sớm ban hành quy định cụ thể về nhận diện khách hàng để phòng ngừa rủi ro, mà

trước hết là quy định các tiêu chí nhận diện khách hàng. Căn cứ xây dựng hệ thống

xếp hạng tín dụng khách hàng là quan trọng, nhằm định hướng cho các TCTD trong

việc xếp hạng và quản trị rủi ro. Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau liên quan đến

các tiêu chí nhận diện khách hàng; tuy nhiên, chúng tôi đề xuất một số tiêu chí sau

đây:

Cần chỉ ra danh mục các chỉ tiêu để chấm điểm khách hàng.Danh mục các chỉ

tiêu nhằm giải quyết vấn đề pháp lý thực tiễn phát sinh là các quy định pháp luật về

vấn đề này mới chỉ dừng lại các yếu tố định tính mà chưa chỉ ra được các chỉ tiêu

định lượng.Các chỉ tiêu được đề cập ở đây phải là các chỉ tiêu định lượng. Để đảm

bảo tính khả thi của việc ban hành các tiêu chí, cần chọn lọc, có cơ sở để thu thập

thông tin chính xác; bên cạnh đó, cũng cần phân loại và áp dụng cho các nhóm

khách hàng khác nhau (ít nhất có thể phân loại giữa nhóm khách hàng là các doanh

nghiệp lớn hay doanh nghiệp vừa và nhỏ). Giải quyết được điều này sẽ đảm bảo an

toàn cho quy trình cấp tín dụng và cũng là tạo điều kiện tiếp cận tín dụng cho khách

hàng vừa và nhỏ, phù hợp với chính sách của Nhà nước đang khuyến khích cho loại

hình này vay vốn.

Cần xác định trọng số tính điểm của từng chỉ tiêu.Khi xác định tổng số đối với

từng chỉ tiêu phải thống nhất quan điểm chia nhóm khách hàng, tránh sử dụng tiêu

chí phân chia dựa trên loại hình sở hữu (dễ dẫn đến ý kiến cho rằng có sự phânbiệt

đối xử trong quá trình xây dựng chỉ tiêu).

Về các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính chấm điểm khách hàng doanh nghiệp

cho các doanh nghiệp với các quy mô khác nhau:

Trên thực tế, các nghiên cứu thực nghiệm sử dụng các phương pháp toán

thống kê cho thấy đối với các doanh nghiệp thuộc các quy mô khác nhau, số lượng

các chỉ tiêu tài chính, phi tài chính dùng để đánh giá khả năng trả nợ của khách

hàng có thể không giống nhau.

65

Cần sử dụng bảng xếp hạng khách hàng khác nhau cho từng nhóm khách hàng

(cá nhân, doanh nghiệp, TCTD) để tránh trường hợp đánhg giá sai tình trạng của

khách hàng.Thực tế cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn bình quân của khách hàng cá nhân

thông thường sẽ cao hơn tỷ lệ nợ quá hạn bình quân của doanh nghiệp hay của

TCTD.Chính vì vậy, có thể sẽ không chính xác nếu sử dụng một bảng xếp hạng

tương ứng với thang điểm như nhau cho các đối tượng khách hàng có tính chất khác

nhau.

Thứ ba, hoàn thiện quy định về người có liên quan. Cần sớm thống nhất quy

định về vấn đề người liên quan, với nguyên tắc sử dụng khái niệm theo Thông tư

36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 để đảm bảo tính đầy đủ, làm căn cứ cho việc

áp dụng các biện pháp phòng ngừa

Thứ tư, hoàn thiện quy định về phương pháp phân loại nợ

Theo quy định hiện hành, các khoản nợ được chia thành 5 nhóm khác nhau

(nhóm 1: nhóm đủ tiêu chuẩn; nhóm 2 (nợ chú ý): nhóm có nợ quá hạn dưới 90

ngày, các khoản nợ đã được cơ cấu lại; nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): nhóm nợ quá

hạn từ 90 ngày đến 180 ngày hoặc khoản nợ đã được cơ cấu lại nhưng nợ quá hạn

vẫn dưới 90 ngày; nhóm 4: (nợ nghi ngờ) các khoản nợ quá hạn từ trên 180 ngày

đến 360 ngày hoặc các khoản nợ đã được cơ cấu lại nhưng vẫn quá hạn từ 90 đến

180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; nhóm 5: nhóm có khả năng mất vốn.

Mục tiêu của việc phân chia này để áp dụng các biện pháp cần thiết trích lập dự

phòng (nợ nhóm 1: 0%; nợ nhóm 2:.5.%; nợ nhóm 3: 20%; nợ nhóm 4: 50%; nợ

nhóm 5: 100%). Nếu xét ở góc độ an toàn tín dụng đơn thuần thì đây là biện pháp

phòng ngừa và sẵn sàng xử lý rủi ro tốt. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ các TCTD,

chúng tôi nhận thấy cần cân nhắc quy định cho phù hợp. Nếu sử dụng phương pháp

xếp hạng khách hàng cứng nhắc sẽ dẫn đến tình trạng nợ nhóm 3 đến nhóm 5của

các TCTD sẽ có thể ở mức rất cao, làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống.

Chúng ta cũng có thể sử dụng các chỉ tiêu đánh giá tín nhiệm của các tổ chức định

mức tín nhiệm quốc tế đã sử dụng, nhưng cần tính đến đặc thù của nền kinh tế Việt

Nam, với số lượng các khách hàng có quy mô nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ áp đảo. Thông

thường, chỉ có khách hàng được xếp hạng cao (từ A đến AAA), với điều kiện khoản

nợ trong hạn và quá hạn dưới 10 ngày thì mới được phân loại thành nợ nhóm 1

66

(trích lập dự phòng 0%).Trên thực tế, số lượng khách hàng thuộc hạng này tại tất cả

các TCTD chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Phần lớn khách hàng của các TCTD được xếp

hạng chủ yếu từ BBB đến CC, nếu theo cách phân loại nợ chuẩn mực.

Hệ quả của quy định này là ngay lập tức kể từ khi cho vay, dù trả đúng hạn

đều bị phân loại nợ nhóm 3.Như vậy, tỷ lệ nợ nhóm 3 đến nhóm 5 của toàn hệ thống

sẽ rất cao, cao hơn nhiều so với bản chất loại nợ thực tế.

Như đã phân tích ở trên, việc đưa ra các tiêu chí phân loại nếu không tính tới

thực tiễn áp dụng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng

ngân hàng của đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ do các TCTD e ngại hoặc

không thể giải ngân cho nhóm khách hàng này, ảnh hưởng đến chủ trương phát

triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nước.

Bên cạnh các doanh nghiệp có quy mô lớn (các tập đoàn, tổng công ty lớn) có

khả năng tiếp cận tín dụng dễ dàng (đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước

vì bên cạnh vị thế kinh tế vốn có của tổ chức kinh tế lớn, còn nhiều yêu tố độc

quyền nhà nước đang được chuyển thành độc quyền doanh nghiệp, thể hiện trong vị

thế của các tổ chức này), các TCTD “bán lẻ” phát triển thị phần của mình bằng con

đường tiếp cận nhóm đối tượng khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Vì vậy, Nhà nước cần xem xét, điều chỉnh việc phân loại nợ vào các nhóm

theo các tiêu chí phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và các khách hàng vay của

Việt Nam. Theo đó, trừ các khách hàng xếp hạng rất thấp và rất rủi ro, các khoản

vay của các khách hàng khác với điều kiện cho vay đã được thẩm định kỹ càng theo

các tiêu chuẩn quy định của pháp luật, với khả năng trả nợ và nguồn tài chính đảm

bảo trả nợ cho khoản vay thì cần được phân loại vào nhóm 1.

Thứ năm, đánh giá lại qui định các giới hạn cụ thể và các trường hợp không

xác định giới hạn

Theo quy định hiện hành, các giới hạn cấp tín dụng được xác định riêng cho

từng hình thức cấp tín dụng: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài

chính, bao thanh toán. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nên tiếp tục quy định theo

hướng tách bạch. Những vấn đề như “dư nợ vốn hợp nhất”, “tỷ lệ an toàn vốn hợp

nhất” cần được cân nhắc và cẩn trọng trong quá trình thực hiện.

67

Đối với trường hợp không xác định giới hạn, nghĩa là trường hợp “cho vay và

bảo lãnh đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản”. Có thể hiểu rằng,

các khoản cho vay hoặc bảo lãnh này nằm trong mục tiêu, chương trình có sự kiểm

soát của Ngân hàng hoặc cho vay theo chỉ định của Chính phủ (thông qua chỉ đạo

của Ngân hàng Nhà nước), hoặc cho vay hỗ trợ các TCTD lâm vào tình trạng kiểm

soát đặc biệt. Với rất nhiều phương án đặt ra, thiết nghĩ sẽ là rõ ràng, minh bạch nếu

pháp luật quy định cụ thể về những trường hợp này.

Thứ sáu, về giới hạn chuyển vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn

Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn của TCTD

trước đây đều được quy định cùng với các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác trong cùng

một văn bản. Điều này hiện nay đã được giải quyết bởi việc ban hành các văn bản

pháp luật của Ngân hàng Nhà nước. tác giả cho rằng cần thiết giảm thiểu việc sử

dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trung, dài hạn, nhằm đảm bảo an toàn không đơn

thuần cho TCTD mà còn cho chính các chủ thể cho vay ngắn hạn đối với các tổ

chức huy động này (Trước đây Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/8/2009 quy

định tỷ lệ cho NHTM được chuyển từ vốn ngắn hạn sang cho vay trung dài hạn là

30%. Văn bản này đã hết hiệu lực và được thay bằng Thông tư 36/2014. Mặc dù có

lộ trình để giảm tỷ lệ chuyển vốn ngắn hạn sang cấp tín dụng trung dài hạn nhưng tỷ

lệ cho phép từ 2016 đến 2018 còn quá cao (NHTM được phép chuyển đến 60% cho

2016, 50% cho 2017 và 40% từ 2018), điều này đồng nghĩa với việc tăng tỷ lệ rủi ro

thanh khoản. Cho dù pháp luật có đề cập đến các công thức xác định tỷ lệ giữa vốn

ngắn hạn và tổng dự nợ cho vay trung, dài hạn, tuy nhiên việc kiểm soát thường

xuyên từ phía cơ quan quản lý đối với NHTM không dễ dàng.

3.2.1.5. Hoàn thiện các quy định điều chỉnh đối với từng hình thức cấp tín

dụng của Ngân hàng thương mại

(1) Đối với hoạt động cho vay

Một là, cần quy định cụ thể về điều kiện cho vay nhằm tạo cơ sở pháp lý cho

việc ra xem xét, ra quyết định cấp tín dụng cho khách hàng của các NHTM, đồng

thời đảm bảo cơ sở cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hoạt động thanh

tra, giám sát đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM.

68

Hai là, nhằm tạo sự ổn định tâm lý cho các chủ thể có liên quan trong hoạt

động cho vay, đặc biệt là các NHTM khi mà hoạt động cho vay là hoạt động chính

của các ngân hàng, pháp luật điều chỉnh hoạt động này cần sớm được bổ sung, hoàn

thiện một cách đồng bộ với các quy định của Luật Các TCTD, quy định pháp luật

của Bộ luật dân sự năm 2015. Bên cạnh đó, pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay

của NHTM cũng cần bổ sung các quy định về quản trị nội bộ đối với hoạt động cho

vay tạo cơ sở pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động của các NHTM trên thực tế.

Ba là, thống nhất các quy định về cho vay của TCTD đối với khách hàng trong

một văn bản duy nhất, thay vì nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung như hiện nay;

Bốn là, tạo ra sự ổn định tâm lý cho các đối tượng điều chỉnh của Quy chế cho

vay, trong đó quan trọng nhất là các NHTM khi mà hoạt độngcho vay là hoạt động

chính của các ngân hàng và sự thay đổi của pháp luật điều chỉnh hoạt động này là

một trong những sự quan tâm hàng đầu của những người quản lý, điều hành các

NHTM nhằm hoạch định các chính sách, chiến lược cũng như thay đổi hệ thống văn

bản nội bộ phù hợp với Quy chế mới này;

Năm là, Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của

TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, có hiệu lực vào ngày

15.3.2017 hy vọng khắc phục được phần lớn khó khăn, vướng mắc trong quá trình

thực thi Quy chế 1627 trong thời gian qua, đặc biệt là phù hợp với thực tiễn quy

trình cấp tín dụng của các NHTM. Tuy vậy, việc tiếp tục hướng dẫn cách thức để

đảm bảo cho quy trình cấp tín dụng dưới dạng cho vay theo văn bản mới cùng với

việc chấp nhận/không chấp nhận một số sản phẩm pháp lý đã tồn tại trong giao dịch

tín dụng mới là rất cần thiết. Chẳng hạn, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và

Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30.12.2016 không ghi nhận hộ gia đình là chủ

thể tham gia giao dịch dân sự, vậy cần xử lý thế nào đối với quan hệ tín dụng có tài

sản bảo đảm là quyền sử dụng đất ở/đất nông nghiệp được cấp cho hộ gia đình?

Cũng cần lưu ý thêm: loại giao dịch có đảm bảo mang tính khá phổ biến.

(2) Đối với hoạt động bảo lãnh ngân hàng

Căn cứ những tồn tại, hạn chế của các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động

bảo lãnh ngân hàng, đề xuất điều chỉnh một số quy định pháp luật như sau:

69

Thứ nhất, sửa đổi khái niệm bảo lãnh ngân hàng, bổ sung khái niệm hoạt động

bảo lãnh ngân hàng

Hiện nay, khái niệm về bảo lãnh ngân hàng, hoạt động bảo lãnh ngân hàng

chưa được sử dụng thống nhất, dễ gây hiểu nhầm. Nhiều trường hợp, mặc dù đề cập

đến “hoạt động bảo lãnh ngân hàng” với tư cách là một hoạt động dịch vụ ngân

hàng nhưng lại sử dụng thuật ngữ “bảo lãnh ngân hàng”. Mặt khác, theo quy định

hiện hành của Luật các TCTD, bảo lãnh ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng

nhưng lại giải thích “theo đó, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo

lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh…” thể hiện sự

không thống nhất trong chính khái niệm này và cũng không phù hợp với khái niệm

về cấp tín dụng quy định tại Luật các TCTD 2010 (Điều 4: Cấp tín dụng là việc thỏa

thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng

một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả…”) và không được sửa đổi bô sung

thêm tại Luật các TCTD sửa đổi bổ sung 2017.

Bảo lãnh ngân hàng được hiểu là một hợp đồng giữa người bảo lãnh và người

nhận bảo lãnh về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh.Nó

mang bản chất là một hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh

với bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, khác với bảo lãnh dân sự, bảo lãnh ngân hàng do

các chủ thể chuyên nghiệp (NHTM) thực hiện, nó mang tính độc lập (độc lập với

hợp đồng cơ sở và thỏa thuận cấp bảo lãnh), được xác lập và thực hiện trên cơ sở

của chứng từ và không thể đơn phương hủy ngang. Do đó, đề xuất sửa đổi khái

niệm bảo lãnh ngân hàng như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là một hợp đồng mang tính

độc lập và không thể đơn phương hủy ngang, được giao kết giữa người bảo lãnh là

các TCTD với người nhận bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người được

bảo lãnh đối với người nhận bảo lãnh, theo đó đó bên bảo lãnh cam kết thanh toán

một khoản tiền xác định theo thỏa thuận khi người nhận bảo lãnh xuất trình các

chứng từ phù hợp với thỏa thuận và trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo

lãnh”.

Bên cạnh đó, hoạt động bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động có tính dịch vụ

ngân hàng, thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận.Nó vừa là quy trình cấp tín dụng cho

khách hàng, vừa là hoạt động bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Do pháp luật hiện hành

70

chưa quy định khái niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng nên đề xuất bổ sung khái

niệm hoạt động bảo lãnh ngân hàng như sau: là một hoạt động có tính dịch vụ ngân

hàng do TCTD thực hiện nhằm cấp tín dụng cho khách, cam kết bảo đảm nghĩa vụ

tài chính của khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực

hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với bên thứ ba.

Và do đó, tên gọi văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cụ thể hoạt động bảo

lãnh ngân hàng là Thông tư số 07/2015/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng

là không phù hợp, phải sử dụng tên gọi hoạt động bảo lãnh ngân hàng mới phù hợp

và phản ánh đúng mục tiêu điều chỉnh pháp luật của văn bản này.

Thứ hai, cần bổ sung quy định về trách nhiệm của NHTM về công khai thời

hạn thẩm định hồ sơ, bảng phí dịch vụ bảo lãnh để khách hàng có thể tham khảo,

đàm phán khi ký kết hợp đồng/thỏa thuận cấp bảo lãnh. Mối quan hệ giữa NHTM

và khách hàng là mối quan hệ giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ

nên được xây dựng hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng.

Pháp luật cần bổ sung quy định về việc TCTD (trong đó có NHTM) phải nhập

thông tin phát hành bảo lãnh trên hệ thống thông tin nội bộ của mình và cho phép

khách hàng, bên có liên quan được truy cập, khai thác thông tin về những cam kết

bảo lãnh được ngân hàng phát hành. Theo đó, sau khi NHTM phát hành cam kết

bảo lãnh và chuyển nó đến người nhận bảo lãnh thì khi người nhận bảo lãnh, hoặc

khách hàng của ngân hàng hoặc bên có liên quan có thể dựa vào số hiệu của cam

kết bảo lãnh để xác định xem bảo lãnh có được phát hành đúng thẩm quyền hay

không. Quy định này sẽ đảm bảo việc tác nghiệp trên hệ thống thông tin của các

NHTM, đặc biệt là cơ chế tạo điều kiện cho khách hàng kiểm tra các cam kết bảo

lãnh do NHTM phát hành. Đây vừa là lợi ích của khách hàng nhưng đồng thời cũng

nhằm hạn chế rủi ro cho NHTM đối với các trường hợp phát hành cam kết bảo lãnh

sai thẩm quyền.

Thứ ba, cần quy định rõ các chủ thể (đặc biệt là “bên có liên quan”) tham gia

quan hệ hợp đồng /thỏa thuận cấp bảo lãnh và làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ của

các chủ thể trong quan hệ cấp bảo lãnh.

71

Thứ tư là, để đảm bảo các bên thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng của

NHTM theo đúng bản chất của hoạt động này, pháp luật cần quy định chi tiết về

tính độc lập của hợp đồng bảo lãnh (độc lập với hợp đồng cơ sơ và thỏa thuận cấp

bảo lãnh), cũng như việc xác lập và thực hiện quan hệ bảo lãnh ngân hàng trên cơ

sở của chứng từ và không thể đơn phương hủy ngang.

Năm là, cần quy định rõ các chủ thể (đặc biệt là “bên có liên quan”) tham gia

quan hệ hợp đồng/thỏa thuận cấp bảo lãnh và làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ của

các chủ thể trong quan hệ cấp bảo lãnh.

Ngoài ra, xem xét việc xây dựng cơ chế pháp lý riêng biệt để giải quyết các

tranh chấp phát sinh trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng do mang tính đặc thù, cần

thực hiện theo hướng rút gọn các trình tự, thủ tục so với thủ tục tố tụng thông

thường nhằm rút gọn thời gian giải quyết tranh chấp nhưng vẫn

(3) Đối với hoạt động phát hành thẻ tín dụng

Xuất phát từ thực tế hiện nay: Thông tư 19/2016/TT-NHNN về hoạt động thẻ

ngân hàng quy định áp dụng đối với toàn bộ các loại thẻ ngân hàng, không có một

quy chế riêng đối với hoạt động phát hành thẻ tín dụng. Trong khi, thị trường thẻ tín

dụng có những đặc thù khác biệt so với các loại thẻ ngân hàng hàng khác. Chính vì

vậy, NHNN xem xét ban hành một văn bản quy định riêng về phát hành, sử dụng,

thanh toán thẻ tín dụng, trong đó lưu ý một số nội dung:

Về vấn đề chủ thẻ tín dụng: các quy định hiện hành về chủ thẻ tín dụng mới

đáp ứng được yêu cầu cơ bản mà chưa dự liệu hết các khó khăn phát sinh. Nguyên

nhân chủ yếu là vì các quy định này được ban hành để áp dụng chung cho tất cả các

loại thẻ chứ không dành riêng cho thẻ tín dụng. Do đó nếu ban hành được một quy

định riêng về thẻ tín dụng, pháp luật sẽ có điều kiện đặt ra các tiêu chí để sàng lọc

và phân loại chủ thẻ, có cơ chế điều chỉnh khác nhau giữa chủ thẻ Việt Nam và chủ

thẻ nước ngoài, giữa chủ thẻ tổ chức và chủ thẻ cá nhân, giữa chủ thẻ chính và chủ

thẻ phụ. Trường hợp người nước ngoài là chủ thẻ tín dụng sử dụng tại Việt Nam

cũng cần có quy định cụ thể hơn, đặc biệt là vấn đề xử lý rủi ro sau phát sinh khi

chủ thẻ đã xuất cảnh ra nước ngoài. Riêng đối với chủ thẻ là tổ chức, cũng cần có

các quy định về cơ chế sử dụng thẻ thông qua người đại diện, vấn đề phân định

72

trách nhiệm của cá nhân sử dụng thẻ với pháp nhân là chủ thẻ, vấn đề bảo đảm an

toàn, bảo mật thông tin, vấn đề phân định nghĩa vụ gánh chịu rủi ro giữa các bên.

Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng liên quan đến rủi ro tín dụng, đó là điều kiệncó

năng lực tài chính, có uy tín để được sử dụng thẻ. Theo đó, pháp luật nên quy định

điều kiện để phát hành thẻ tín dụng cho chủ thẻ liên quan đến số lượng tối đa thẻ tín

dụng mà chủ thẻ được sử dụng, liên quan đến uy tín trả nợ (số lượng tối đa dư nợ

quá hạn của một chủ thẻ trong một thời gian nhất định), liên quan đến nghĩa vụ tuân

thủ các quy định của tổ chức phát hành thẻ và của pháp luật về thẻ tín dụng. Rõ

ràng là các tổ chức phát hành thẻ không nên phát hành thẻ cho người có quá nhiều

thẻ tín dụng, hoặc thường xuyên phát sinh nợ quá hạn, hoặc thường xuyên có những

vi phạm pháp luật và vi phạm hợp đồng sử dụng thẻ. Khi đã có những điều kiện

này, rủi ro với phát hành thẻ không có tài sản bảo đảm sẽ giảm đi. Hiện nay, yếu tố

tài sản bảo đảm vẫn còn là rào cản lớn của thị trường nên nếu được gỡ bỏ sẽ làm số

lượng thẻ tín dụng tăng lên. Vì thế đây cũng có thể coi là một bước đột phá để thúc

đẩy tăng trưởng tỷ lệ phát hành thẻ tín dụng tại thị trường Việt Nam.

Về việc kiểm soát giao dịch gốc trong quan hệ phát hành thẻ tín dụng: do phát

hành thẻ tín dụng được coi là quy trình cấp tín dụng đặc biệt so với các quy trình

cấp tín dụng còn lại của NHTM nên pháp luật cần quy định rõ quan hệ cần kiểm

soát là quan hệ thanh toán/rút tiền mặt hay quan hệ cấp tín dụng giữa NHTM với

khách hàng để từ đó có cơ chế kiểm soát việc sử dụng vốn vay/tiền rút được để sử

dụng đúng mục đích và đảm bảo khả năng hoàn trả của khách hàng.

(4) Đối với hoạt động chiết khấu

Thứ nhất, các quy định pháp luật hiện hành quy định rất chung chung về quy

trình thực hiện hoạt động chiết khấu. Vì vậy, cần quy định rõ các bước trong hoạt

động chiết khấu của NHTM, bao gồm: nộp hồ sơ, thẩm định hồ sơ, quyết định chiết

khấu, thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng và ký kết hợp đồng chiết

khấu,chuyển nhượng quyền sở hữu hối phiếu cho ngân hàng.

Thứ hai, cần quy định rõ điều kiện mà khách hàng phải thỏa mãn khi tham gia

vào giao dịch chiết khấu tại NHTM tại Việt Nam.

73

Thứ ba, các quy định pháp luật hiện hành chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các

chủ thể tham gia quan hệ chiết khấu. Chiết khấu được thực hiện trên cơ sở sự thỏa

thuận của các bên, tuy nhiên nhà nước lại quá “bao cấp” đối với ngân hàng vì vậy

sự tự do ý chí của các bên bị “bóp méo” và không bảo vệ được quyền lợi của khách

hàng. Khách hàng cũng có thể bị rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng

không thu hồi được số tiền trên công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khi đến hạn

thì khách hàng lại có nghĩa vụ hoàn trả khoản nợ này. Điều này là hoàn toàn vô lý,

trái với bản chất của chiết khấu là mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu.Thiết nghĩ

quy định này chỉ đúng với chủ thể chiết khấu là NHNN vì ngân hàng này hoạt động

vì mục tiêu phi lợi nhuận và thực hiện chiết khấu để đảm bảo chính sách tiền tệ quốc

gia. Trong khi đó NHTM lại hoạt động theo cơ chế lợi nhuận giống như khách hàng

thì nên chăng không nên có sự phân biệt đối xử như vậy.

(5) Đối với hoạt động bao thanh toán

Thứ nhất, cần sửa đổi quy định về việc không thừa nhận dịch vụ bao thanh

toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng (người mua) về việc

chấp nhận trả nợ theo phương thức bao thanh toán. Trên thực tế các người mua lớn

thường không thích phiền hà nên họ ít hợp tác.Điều này đã gây không ít khó khăn

cho ngân hàng và doanh nghiệp khi thực hiện dịch vụ này.

Thứ hai, việc định nghĩa bao thanh toán chỉ là một hình thức cấp tín dụng đã

khiến toàn bộ nội dung Quy chế 1096 lệch khỏi bản chất của nghiệp vụ bao thanh

toán.Quan niệm này không thống nhất với quan niệm phổ biến về bao thanh toán

trên thế giới. Bên cạnh chức năng tài trợ, đơn vị bao thanh toán còn cung cấp chức

năng theo dõi sổ sách, thu nợ tiền hàng và bảo hiểm rủi ro; đây là điểm khác nhau

cơ bản của bao thanh toán so với việc cấp tín dụng thông thường. Ngoài ra, chính vì

định nghĩa bao thanh toán là hình thức cấp tín dung nên khoản ứng trước chỉ đơn

thuần là khoản cho vay còn khoản phải thu vẫn là tài sản thuộc sở hữu của người

bán; dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn đối với đơn vị bao thanh toán trong việc chuyển

giao quyền đòi nợ từ người bán sang đơn vị bao thanh toán. Do đó, các quy định

pháp luật cần quy định liên quan đến việc xác lập mối quan hệ này.

74

3.2.2. Nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quy trình cấp tín dụng tại các

Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Công

thương Việt Nam nói riêng

Để các quy định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng có thể được áp

dụng rộng rãi, phát huy được hiệu quả và mục đích ban hành, bên cạnh việc xây

dựng và hoàn thiện pháp luật, không thể không kể đến các giải pháp bổ trợ thực thi

pháp luật. Nói cách khác, các biện pháp này là môi trường, chất xúc tác giúp cho

các quy định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng đi vào thực tiễn hoạt động

của các NHTM.Khi đó, hiệu quả mà những quy định pháp luật điều chỉnh quy trình

cấp tín dụng mang lại sẽ góp phần vào việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh

hoạt động ngân hàng về cả lý luận và thực tiễn.

3.2.2.1. Tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật và nâng cao năng lực thực

thi pháp luật cho các cán bộ tham gia vào quy trình cấp tín dụng của ngân hàng

Khi đã thiết lập được hệ thống các Quy định nội bộ để hướng dẫn thực hiện

thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng thì yếu tố then chốt còn lại là ý thức chấp

hành của các cán bộ, nhân viên trực tiếp tham gia vào quy trình, quy định. Năng lực

và nhận thức của các cán bộ, nhân viên này sẽ quyết định phần còn lại của quy trình

thực hiện quy trình cấp tín dụng cho khách hàng.

Do đó, công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung tuân thủ pháp luật điều chỉnh

quy trình cấp tín dụng là nội dung không thể bỏ qua trong quá trình tuyển dụng, sử

dụng, quản lý các cán bộ, nhân viên tham gia vào quy trình cấp tín dụng của ngân

hàng. Đây là mắt xích quan trọng trong việc đưa các quy trình, quy định vào thực

tiễn hoạt động của NHTM.

3.2.2.2. Nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật cho cán bộ quản lý,

điều hành tại Ngân hàng thương mại

Những người quản lý, điều hành của NHTM là những người quyết định đến

mức độ tuân thủ của NHTM đối với các quy định điều chỉnh hoạt động ngân hàng

nói chung, quy trình cấp tín dụng nói riêng.

Chính vì vậy, nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ của những người quản lý,

điều hành là một trong những yêu cầu hướng đến đẩy mạnh, tăng cường công tác

75

tuân thủ pháp luật của các NHTM. Yêu cầu này có thể tác động đến quy trình cấp

tín dụng của các NHTM thông qua các chỉ đạo của những người quản lý, điều hành

NHTM về việc: Thiết lập hệ thống văn bản nội bộ Quy định chi tiết, cụ thể hóa các

quy định pháp luật vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của NHTM;Thiết lập và kiện

toàn nhân sự thực hiện quy trình cấp tín dụng;Nâng cao vai trò của bộ phận Pháp

chế trong công tác tuân thủ pháp luật trong toàn hệ thống NHTM.

3.2.2.3. Hoàn thiện các nội dung của quy trình cấp tín dụng tại Ngân hàng

Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

(1) Thành lập bộ phận chuyên thu thập thông tin khách hàng.

Thông tin có được trong quá trình thẩm định là điều hết sức cần thiết và quan

trọng đối với cán bộ tín dụng. Vì nếu thông tin thu thập được chính xác sẽ giúp

nhân viên tín dụng phân tích và đánh giá đúng các nội dung thẩm định về khách

hàng, giúp cho quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng đảm bảo, rút ngắn

thời gian và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Hiện nay hệ thống tra cứu trên CIC

chưa thật sự hoàn chỉnh. Thông tin tra cứu trên CIC chưa được cập nhật kịp thời,

nhiều thông tin chưa chính xác và không chi tiết gây khó khăn trong việc thẩm định.

Chính vì vậy, VietinBank nên thành lập một bộ phận chuyên làm nhiệm vụ thu thập,

phân tích lưu trữ thông tin về khách hàng, năng động tìm kiếm các biện pháp xử lý,

khai thác, sử dụng những thông tin đó một cách có hiệu quả nhất.

(2) Hoàn thiện quy trình tín dụng.

Quy trình tín dụng tại các NHTM nói chung và VietinBank nói riêng hiện nay

có thể xem là tương đối hoàn chỉnh, quy trình này bao gồm đầy đủ các bước phân

tích và tổng hợp thông tin liên quan đến khách hàng. Tuy nhiên theo tốc độ phát

triển của xã hội, những thay đổi trong quy định, và tính chất phức tạp của môi

trường kinh doanh và việc mở rộng quy mô kinh doanh đã phần nào làm cho quy

trình này có một số khe hở dù đã được nghiên cứu và xây dựng kỹ. Do đó, chúng ta

vẫn phải thường xuyên cập nhật thông tin, đổi mới một số nội dung để hoàn thiện

quy trình sao cho nó thật sự phù hợp với thời đại mới. Đặc biệt là tiếp thu sự hỗ trợ

từ các đối tác chiến lược nước ngoài - luôn có kinh nghiệm trong việc thực hiện quy

trình hạn chế rủi ro - để học tập, xây dựng nên một quy trình thật sự thích hợp với

76

điều kiện riêng mỗi quốc gia, riêng mỗi ngân hàng, và riêng mỗi khu vực. Tuy

nhiên, trong nội dung thẩm định ngân hàng cần bổ sung thêm các nội dung sau:

- Ngân hàng cần lập ra một quy trình kiểm tra việc tính toán nhu cầu vốn vay

của khách hàng. Theo đó đối với mỗi bước thực hiện cán bộ tín dụng cần chỉ ra được

dẫn chứng thuyết phục cho số liệu nhận định của mình. Việc đánh giá đó cũng cần

được thực hiện bởi cán bộ tín dụng khác để tăng sự khách quan và kiểm tra chặt chẽ

hơn.

- Tách rời công việc tín dụng trước và tín dụng sau trong hoạt động tín dụng .

Các chi nhánh thẩm định sơ bộ khách hàng đưa ra đề xuất cấp tín dụng đối với

khách hàng. Việc tái thẩm định và phê duyệt cấp giới hạn tín dụng cho khách hàng,

các khoản vay tập trung tại trụ sở chính, theo đó việc đánh giá và phê duyệt tín dụng

khách quan hơn.

- Bộ phận quản lý rủi ro đóng vai trò kiểm soát độc lập với bộ phận kinh

doanh, thực hiện chức năng giám sát và báo cáo độc lập đối với quá trình nhận diện,

đo lường, quản lý, kiểm soát, ngăn ngừa toàn diện các loại rủi ro phát sinh trong

hoạt động kinh doanh của VietinBank, bảo đảm phù hợp với khẩu vị rủi ro của ngân

hàng, phù hợp thông lệ quốc tế.

(3) Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng.

Hệ thống xếp hạng tín dụng của VietinBank được xây dựng với nguyên tắc

chung dựa trên các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính toán đến hệ số tỷ trọng.

Hệ thống đang được xây dựng theo sự hướng dẫn của NHNN và thông lệ quốc tế về

quản trị rủi ro theo Basel II. Tuy nhiên, theo đánh giá thì kết quả xếp hạng tín dụng

nội bộ mang tính chủ quan và chưa thực sự là căn cứ để làm cơ sở xây dựng các

thước đo lượng hóa rủi ro, hỗ trợ ngân hàng tính toán chuẩn xác tổn thất dự tính và

yêu cầu vốn tối thiểu bù đắp rủi ro. Điều này dẫn đến hạn chế trong quản trị rủi ro

danh mục, định giá tín dụng của Ngân hàng. Đặc biệt, mặc dù chất lượng thông tin

đầu vào là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng của

xếp hạng tín dụng nội bộ, nhưng thực tế thông tin thiếu minh bạch, thiếu tin cậy

diễn ra rất phổ biến ở mọi lĩnh vực. Phần lớn các báo cáo tài chính của các doanh

nghiệp vừa và nhỏ không được kiểm toán. Ngay cả đối với các doanh nghiệp lớn

77

phải kiểm toán, thì sự chậm trễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất lượng

kiểm toán còn bất cập, có sự sai lệch giữa số liệu kiểm toán với thực tế. Thực trạng

này có một phần lỗi từ các NHTM trong việc cung cấp thông tin, nhưng phần lớn là

do NHNN chưa có chế tài chặt chẽ đối với việc cập nhật thông tin.

Chính vì thế, để phân loại nợ theo chuẩn quốc tế cũng như làm căn cứ để định

giá rủi ro, việc hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ Vietinbank cần tập

trung vào nhiều giải pháp:

Thứ nhất, hoàn thiện mô hình tổ chức nhân sự và hướng tới chuẩn mực quản

trị rủi ro tín dụng theo chuẩn quốc tế. Để làm tốt việc này, thì ngoài việc các cán bộ

thực hiện xếp hạng tín dụng phải chuyên sâu nghiệp vụ và am hiểu toán kinh tế để

ứng dụng các mô hình kinh tế lượng trong phân tích, quản lý rủi ro, thì mô hình tổ

chức phải đặc biệt lưu ý việc phân quyền chức năng (độc lập và kiểm soát chéo) và

tách biệt giữa các vòng kiểm soát (vòng 1: đơn vị kinh doanh; vòng 2: bộ phận kiểm

soát rủi ro; vòng 3: bộ phận kiểm toán nội bộ) đảm bảo tính độc lập, khách quan của

công tác xếp hạng tín dụng.

Thứ hai, hoàn thiện phương pháp xếp hạng tín dụng. Tức là việc xếp hạng tín

dụng phải căn cứ trên các số liệu thống kê lịch sử của chính ngân hàng cho các đối

tượng khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, để tính toán các thước đo rủi ro cho các

đối tượng này; đồng thời áp dụng các điều chỉnh cần thiết trên cơ sở ý kiến của

chuyên gia. Có như vậy việc xếp hạng tín dụng mới thực sự là công cụ hạn chế rủi

ro hữu dụng trong hoạt động tín dụng và là căn cứ để định giá theo rủi ro của

NHTM.

Thứ ba, thành lập bộ phận giám sát việc triển khai và ứng dụng xếp hạng tín

dụng trong hoạt động tín dụng để ngăn ngừa những sai sót, làm sai lệch tình hình

thực tế của khách hàng.

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi phâp luật về quy trình cấp tín

dụng tại Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam

3.3.1. Đối với Ngân hàng nhà nước

3.3.1.1. Tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng

Ngân hàng Nhà Nước (CIC)

78

Trung tâm thông tin tín dụng NHNN Việt Nam có chức năng thu thập và cung

cấp dịch vụ thông tin tín dụng cho NHNN, các tổ chức tín dụng và các tổ chức cá

nhân khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng, phòng

ngừa hạn chế rủi ro tín dụng và đảm bảo phát triển kinh tế xã hội.

Hiện tại, hoạt động của Trung tâm đã đạt được những kết quả đáng khích lệ,

cung cấp cho các tổ chức tín dụng về thông tin của các DN cả trong và ngoài nước,

về tình hình biến động trên thị trường...Tuy vậy, do nhu cầu thực tế quá lớn nên

Trung tâm chưa thể đáp ứng được vì lượng thông tin thu thập được chưa đầy đủ và

kịp thời. Do đó , để công tác thu thập và xử lý thông tin đạt hiệu quả cao hơn thì

cần:

Đổi mới công nghệ thông tin, tăng cường trang bị các phương tiện hiện đại

cho Trung tâm để tạo điều kiện tốt hơn trong việc thu thập, cung cấp và xử lý thông

tin kịp thời, đầy đủ.

Tích cực phối hợp với các TCTD trong việc thu thập, xử lý và lưu trữ thông

tin nhằm tạo dựng kho dữ liệu cho hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng.

Phát triển mạnh mẽ dịch vụ chia sẻ thông tin quan hệ tín dụng của KH

vay.Ngoài việc thu thập thông tin phục vụ yêu cầu quản lý của NHNN và các Ngân

hàng khác, trung tâm tín dụng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp và tổ chức khác có

nhu cầu thông tin để nắm chắc hơn về khách hàng của mình.

3.3.1.2. Xây dựng khung pháp lý quy định về xây dựng hệ thống xếp hạng tín

dụng nội bộ

Hiện tại, chưa có văn bản nào chính thức quy định/định hướng cho các

NHTM về việc xây dựng xếp hạng tín dụng nội bộ ngoại trừ 1 phần nhỏ được nêu

tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về “phân loại nợ,

trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng

của TCTD”. Nội dung quy định về xếp hạng tín dụng nội bộ tại Quyết định

493/2005/QĐ-NHNN chưa mang tính chất định hướng hoặc quy định khung chuẩn

để các NHTM thực hiện. Do đó, việc triển khai ở các NHTM hiện nay chủ yếu phụ

thuộc vào nhận thức riêng và khẩu vị rủi ro của từng Ngân hàng. Điều này đã dẫn

đến những bất cập trong việc so sánh, đánh giá cùng một đối tượng khách hàng,

79

nhưng lại có kết quả khác nhau, nhiều khi xung đột khi thực hiện phân loại nợ theo

định tính (cùng 1 khách hàng, có NHTM phân loại vào nhóm nợ cao, có NHTM lại

phân loại vào nhóm nợ thấp).

Vì vậy, Ngân hàng Nhà Nước cần xây dựng khung pháp lý quy định về xây

dựng hệ thống xếp hang tín dụng nội bộ, nhằm thống nhất và tạo sự tương đồng

giữa các ngân hàng thương mại.

3.3.1.3. Tăng cường vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước

Với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về tín dụng ngân hàng, NHNN

cần tăng cường vai trò của mình đối với hoạt động ngân hàng nói chung và quy

trình cấp tín dụng của các NHTM nói riêng thông qua một số đề xuất:

Thứ nhất, đề xuất việc tổ chức đánh giá tác động, hiệu quả thi hành của Luật các

TCTD năm 2010 để có cơ sở đề xuất với Quốc hội, Chính phủ về việc sửa đổi, bổ

sung Luật này. Trong đó, lưu ý về những quy định điều chỉnh quy trình cấp tín dụng.

Thứ hai, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các

quy định pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng tại các NHTM, đặc biệt là các

NHTM quy mô nhỏ để kịp thời chấn chỉnh, xử lý đối với các hành vi vi phạm tuân

thủ pháp luật.

3.3.2. Đối với Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

3.3.2.1. Quản lý, đào tạo công tác tín dụng

Mặc dù đã thành lập trường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực VietinBank

school cũng như tổ chức các buổi kiểm tra trình độ của cán bộ tín dụng thường

xuyên, tuy nhiên, theo đánh giá của cá nhân vẫn còn xuất hiện các hình thức đối phó

với các bài kiểm tra. Do vậy, cần sát sao hơn nữa trong công tác nâng cao trình độ

của các cán bộ tín dụng, vì để làm tốt quy trình tín dụng cần phải có trình độ trong

việc đánh giá các chỉ tiêu và chỉ số tài chính. Đồng thời cắt cử những cán bộ tín

dụng giàu kinh nghiệm hỗ trợ để cùng làm công tác thẩm định. Một vấn đề nữa mà

Ngân hàng cũng cần lưu tâm về đội ngũ nhân viên của mình, đó là đạo đức nghề

nghiệp. Hiện nay vấn đề này càng được ưu tiên hàng đầu, bởi nghiệp vụ chuyên

môn dù giỏi đến mấy nhưng thiếu phẩm chất đạo đức thì sẽ làm sai lệch kết quả

80

thẩm định tín dụng, gây thiệt hại cho Vietinbank. Vụ án Huyền Như ở ngay tại

VietinBank - chi nhánh Thành Phố Hồ Chí Minh gần đây là hồi chuông cảnh tỉnh

cho vấn đề này. Do đó công tác quản lý nguồn nhân lực cần được chú trọng hơn nữa

bằng cách thành lập các đoàn kiểm tra, thanh tra và giám sát nội bộ, theo thường lệ

sẽ kiểm tra hoạt động thẩm định tín dụng của từng cán bộ, đồng thời theo dõi sát

sao tiến độ thực hiện công việc của những cán bộ này.

3.3.2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát

Kiểm tra, kiểm soát là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng,đề phòng ngăn

ngừa và xử lý kịp thời, chính xác những hiện tượng có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt

động của ngân hàng. Do đó: Cán bộ tín dụng nên phát huy tối đa tính khách quan,

nhìn nhận vấn đề theo tình hình thực tế, theo số liệu cụ thế của công tác kiểm tra.

Kiểm tra, kiểm soát phải kịp thời, thường xuyên, đánh giá sự việc một cách nhanh

chong, đưa ra kết luận chính xác trong thời gian nhanh nhất.

3.2.2.3. Phân tách nhiệm vụ của các cán bộ tín dụng

Ngân hàng thay vì một cán bộ tín dụng đảm đương gần như toàn bộ quy trình,

nên chia công việc thành các giai đoạn khác nhau ví dụ như: Bộ phận tiếp xúc trực

tiếp với khách hàng: có nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ vay vốn,hướng dẫn khách hàng

lập hồ sơ vay vốn hoặc giải đáp những thắc mắc xoay quanh vấn đề tín dụng mà

khách hàng đang gặp phải; Bộ phận thẩm định hồ sơ và hỗ trợ sau tín dụng: tập

trung việc thẩm định tín dụng, bao gồm xem xét, đánh giá hồ sơ xin vay và đưa ra

đề xuất để trình lên cấp trên xét duyệt; ngoài ra còn đảm đương công việc ghi chép

sổ sách, đóng chứng từ giao dịch và các hoạt động tín dụng khác liên quan.

Bộ phận thẩm định tài sản đảm bảo: có chức năng xác định giá trị tài sản đảm

bảo nhằm tạo sự khách quan hơn khi cho vay. Một số Ngân hàng đã khắc phục

được điều này bằng những biện pháp khác nhau. Chẳng hạn như Techcombank, cán

bộ tín dụng sẽ tự định giá tài sản đảm bảo nếu giá trị khoản vay nhỏ hơn 1 tỷ đồng;

còn ở Sacombank, việc định giá tài sản đảm bảo được giao cho một công ty định giá

riêng. Với cơ cấu của Vietinbank hiện tại nên tách biệt hẳn thành một bộ phận thẩm

định sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Như vậy, công việc của các cán bộ tín dụng sẽ

được chuyên môn hóa, bảo đảm một cán bộ không đảm nhiệm cùng lúc nhiều

81

nhiệm vụ, không tạo điều kiện thao túng công việc hoặc che dấu những hành vi vi

phạm pháp luật.

3.3.2.4. Tăng cường khảo sát thực tế ở các doanh nghiệp, cá nhân cho vay

Việc đi khảo sát thực tế tại nơi sản xuất hay trụ sở kinh doanh của doanh

nghiệp là công việc nằm trong quy trình tín dụng của VietinBank, tuy vậy việc đi

thực tế này chưa được thực hiện triệt để. Đặc biệt với một số doanh nghiệp ở xa địa

bàn, việc đi khảo sát gây trở ngại và khó khăn cho các cán bộ tín dụng, từ đó hạn

chế khả năng thẩm định tín dụng. Thậm chí một số cán bộ tín dụng đã bỏ qua bước

này hoặc thực hiện một cách chiếu lệ, không nhằm mục đích phục vụ cho quy trình

tín dụng. Do đó, việc tìm hiểu và nắm vững cơ sở sản xuất hay trụ sở kinh doanh

của doanh nghiệp sẽ giúp cán bộ tín dụng thuận lợi hơn trong việc quyết định tín

dụng. Đồng thời, các cán bộ tín dụng nên tăng cường và tạo dựng mối quan hệ tốt

với nhân dân địa phương nơi mình phụ trách, vừa tiết kiệm được thời gian, chi phí,

vừa dễ dàng thu thập được những thông tin về kịp thời kịp thời và đáng tin cậy.

82

Kết luận chƣơng 3

Từ việc nghiên cứu những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều

chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM có thể rút ra những kết luận sau:Hoàn thiện

pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng là một yêu cầu khách quan, nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội trong quy trình cấp tín dụng trên cơ sở phù hợp với quan

điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đáp ứng các tiêu chí hoàn

thiện hệ thống pháp luật và khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quy định pháp

luật hiện hành.Mục tiêu hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng là

xây dựng cơ sở pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển trong thực tiễn hoạt

động của các ngân hàng nhưng cũng nhằm tạo ra sự an toàn, hạn chế các rủi ro có

thể phát sinh đối với ngân hàng và nền kinh tế.Việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh

quy trình cấp tín dụng của NHTM phải được thực hiện trên cơ sở thực hiện đồng bộ

thống nhất các giải pháp nhằm bảo đảm việc hoàn thiện pháp luật tạo ra một khuôn

khổ pháp lý hoàn thiện và đầy đủ để điều chỉnh quy trình cấp tín dụng nhưng cũng

trong bối cảnh thống nhất và phù hợp với hệ thống các quy định pháp luật có liên

quan. Ngoài ra còn tăng cường và thúc đẩy vai trò của các tổ chức, cá nhân có liên

quan tham gia vào quá trình cấp tín dụng cũng như hoạt động ngân hàng nói chung.

83

KẾT LUẬN

Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật điều

chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM, có thể rút ra những kết luận chính sau đây:

Thứ nhất, việc xây dựng nội dung lý luận về pháp luật điều chỉnh quy trình

cấp tín dụng của NHTM có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá các quy định

pháp luật trên thực tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật đảm bảo

tính khả thi, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Những nội dung khái niệm quan

trọng như: “quy trình cấp tín dụng của NHTM”, “bản chất và các nguyên tắc của

quy trình cấp tín dụng”, “đặc điểm cấp tín dụng của NHTM”, “các hình thức cấp tín

dụng của NHTM”, “cấu trúc pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của

NHTM”, “cơ sở kinh tế xã hội và yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với quy trình cấp

tín dụng của NHTM”... đã được xây dựng làm cơ sở cho việc nghiên cứu những nội

dung lý luận về pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM.

Thứ hai, cấu trúc pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng của NHTM được

xác định từ các quan hệ pháp luật phát sinh trong qúa trình cấp tín dụng của NHTM,

bao gồm 4 bộ phận chính: một là, các hình thức cấp tín dụng được phép; hai là,

thẩm quyền quyết định cấp tín dụng; ba là, nội dung cấp tín dụng; bốn là, giới hạn

an toàn trong quy trình cấp tín dụng. Tuy nhiên, viêc phân chia cũng chỉ có ý nghĩa

tương đối vì có những nội dung pháp luật này có thể vừa thuộc bộ phận này lại vừa

thuộc bộ phận kia do được đánh giá ở nhiều khía cạnh khác nhau.

Thứ ba, bên cạnh những thành tựu, pháp luật điều chỉnh quy trình cấp tín dụng

của NHTM còn rất nhiều bất cập cần đươc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, Một là, việc

ghi nhận chính thức khi thực hiện giao dịch gốc với hành vi cấp tín dụng cho khách

hàng còn nhiều điểm chưa rõ ràng; việc xác định dấu hiệu của một hình thức cấp tín

dụng chưa rõ ràng, không được ghi nhận bằng pháp luật một cách chính thức; hai là,

pháp luật chưa có những quy định cần thiết để gắn trách nhiệm của người phê duyệt

tín dụng, quyết định tín dụng với người xử lý tín dụng; chưa có nguyên tắc chung và

mô hình cụ thể, dẫn đến khả năng rủi ro ở mức độ nhất định, chưa ghi nhận bằng

pháp luật nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống phê duyệt/quyết định tín

dụng; thứ ba, các chuẩn mực để thẩm định và phê duyệt tín dụng chưa rõ ràng; hệ

84

thống cảnh báo sớm đề cập đến việc thu nhập thông tin về khoản vay, thông tin về

rủi ro, lợi nhuận và hệ thống kiểm toán nội bộ một cách đầy đủ, nhanh nhạy và

thống nhất chưa được quan tâm đúng mức...

Thứ tư, việc hoàn thiện pháp luật là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Để hoàn thiện cần bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, của

Nhà nước về yêu cầu phát triển kinh tế xã hội; đảm bảo hoàn thiện pháp luật một

cách đồng bộ, toàn diện, thống nhất, phù hợp và khả thi; khắc phục những tồn tại,

hạn chế pháp luật hiện hành và yêu cầu hội nhập quốc tế trong.

Thứ năm, bên cạnh các giải pháp về mặt pháp lý cần tăng cường các biện pháp

bổ trợ làm môi trường, chất xúc tác giúp cho các quy định pháp luật điều chỉnh quy

trình cấp tín dụng đi vào thực tiễn hoạt động của các NHTM.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Xuân Bang, Thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động

cấp tín dụng của ngân hàng thương mại,Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số

2+3/2014, tr.90-96 (trích dẫn Nguyễn Xuân Bang 2014).

2. Nguyễn Xuân Bang, Một số vấn đề của pháp luật về phòng ngừa rủi ro trong

hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại,Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp số 02/2015, tr. 18 - 24, (trích dẫn Nguyễn Xuân Bang 2015).

3. Chính phủ, Nghị định số 59/2009/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của

NHTM, Hà Nội 2009, (trích dẫn Nghị định số 59/2009/NĐ-CP).

4. Chính phủ, Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 05 năm 2013 của

Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, Hà Nội 2013,

(trích dẫn Nghị định số 53/2013/NĐ-CP).

5. Chính phủ, Nghị định số 70/2014/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối và

Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi, Hà Nội 2014, (trích dẫn Nghị định số

70/2014/NĐ-CP).

6. Chính phủ, Nghị định 96/2014/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng, Hà Nội 2014, (trích dẫn Nghị định

96/2014/NĐ-CP).

7. Ngô Huy Cương, Giáo trình Luật hợp đồng phần chung (Dùng cho đào tạo

sau đại học), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2013 (trích dẫn Ngô

Huy Cương 2013).

8. Phạm Thanh Chung, Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín

dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà

Nội 2005, (trích dẫn Phạm Thanh Chung 2005).

9. Viên Thế Giang, Các quy định pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

trong hoạt động cấp tín dụng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật số 02/2015, tr.50-55, (trích dẫn Viên Thế Giang 2015).

10. Hoàng Huy Hà, Việc áp dụng những tiêu chuẩn an toàn hoạt động kinh

doanh và quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế trong hệ thống ngân hàng tại

Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội

2012, (trích dẫn Hoàng Huy Hà 2012).

11. Tạ Hồng Hạnh, Pháp luật về hoạt động chiết khấu hối phiếu của NHTM tại

Việt Nam,Luận văn Thạc sĩ luật học, năm 2014, (trích dẫn Tạ Hồng Hạnh

2014).

12. Ngô Quốc Kỳ, Ngân hàng thương mại với việc cấp tín dụng dưới hình thức

cầm cố, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn, Kinh tế đối

ngoại 2001, (trích dẫn Ngô Quốc Kỳ 2001).

13. Ngô Quốc Kỳ, Một số vấn đề pháp lý về hoạt động cấp tín dụng dưới hình

thức cho thuê tài chính, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Hà Nội 2002,tr. 22 -

25, (trích dẫn Ngô Quốc Kỳ 2002).

14. Nguyễn Danh Lương, Những giải pháp nhằm phát triển hình thành thanh

toán thẻ ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội

2003, (trích dẫn Nguyễn Danh Lương 2003).

15. Đinh Thị Thúy Nga, Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt

động cho vay của các NHTM ở Việt Nam,Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội

2010, (trích dẫn Đinh Thị Thúy Nga 2010).

16. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật ngân hàng thương mại và các tổ chức

tín dụng một số nước, Hà Nội 1996, (trích dẫn Luật ngân hàng thương mại và

các tổ chức tín dụng một số nước 1996).

17. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ,

trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân

hàng của tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung bởi: Quyết định 18/2007/QĐ-

NHNN; Thông tư 02/2013/TT-NHNN và Thông tư 14/2014/TT-NHNN), Hà

Nội 2005, (trích dẫn Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN).

18. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN về việc ban hành

Quy chế bảo lãnh ngân hàng, Hà Nội 2006, (trích dẫn Quyết định số

26/2006/QĐ-NHNN).

19. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 63/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế

chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng của tổ chức tín dụng đối

với khách hàng, Hà Nội 2006, (trích dẫn Quyết định số 63/2006/QĐ-

NHNN).

20. Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ban hành Quy chế

phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ

ngân hàng, Hà Nội 2007, (trích dẫn Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN).

21. Ngân hàng nhà nước, Thông tư 01/2009/TT-NHNN ngày 23/01/2009 hướng

dẫn về lãi xuất thoả thuận của tổ chức tín dụng đối với cho vay các nhu cầu

phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín

dụng, Hà Nội 2009, (trích dẫn Thông tư 01/2009/TT-NHNN).

22. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 06/2010/TT-NHNN hướng dẫn về tổ chức,

quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi

giấy phép, điều lệ của NHTM, Hà Nội 2010, (trích dẫn Thông tư số

06/2010/TT-NHNN).

23. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 09/2010/TT-NHNN quy định về việc cấp

giấy phép thành lập và hoạt động NHTM cổ phần, Hà Nội 2010, (trích dẫn

Thông tư số 09/2010/TT-NHNN).

24. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ

bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (được sửa đổi, bổ

sung bởi: Thông tư 19/2010/TT-NHNN và Thông tư 22/2011/TT-NHNN), Hà

Nội 2010, (trích dẫn Thông tư số 13/2010/TT-NHNN).

25. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 40/2011/TT-NHNN quy định về việc cấp

giấy phép và tổ chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh NHNNg, văn phòng

đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt

động ngân hàng tại Việt Nam, Hà Nội 2011, (trích dẫn Thông tư số

40/2011/TT-NHNN).

26. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống

kiểm soát và kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh NHNNg, Hà

Nội 2011, (trích dẫn Thông tư số 44/2011/TT-NHNN).

27. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 28/2012/TT-NHNN quy định về bảo lãnh

ngân hàng, Hà Nội 2012, (trích dẫn Thông tư số 28/2012/TT-NHNN).

28. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 quy

định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối

với các tổ chức tín dụng, NHNN, Hà Nội 2012, (trích dẫn Thông tư số

01/2012/TT-NHNN).

29. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21.1.2013 quy

định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi

ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín

dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Hà Nội 2013, (trích dẫn Thông tư số

02/2013/TT-NHNN).

30. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 03/2013/TT-NHNN quy định về hoạt động

thông tin tín dụng, Hà Nội 2013, (trích dẫn Thông tư số 03/2013/TT-

NHNN).

31. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 04/2013/TT-NHNN quy định về hoạt động

chiết khấu công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của tổ chức tín dụng,

chi nhánh NHNNg đối với khách hàng (được sửa đổi, bổ sung bởi: Thông tư

số 21/2016/TT-NHNN), Hà Nội 2013, (trích dẫn Thông tư số 04/2013/TT-

NHNN).

32. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư 30/2014/TT-NHNN ngày 06/11/2014 của

Thống đốc NHNN quy định về uỷ thác và nhận uỷ thác của tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Hà Nội 2014, (trích dẫn Thông tư

30/2014/TT-NHNN)

33. Ngân hành Nhà nước, Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định giới hạn, tỷ

lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh NHNNg

(được sửa đổi, bổ sung bởi: Thông tư số 06/2016/TT-NHNN), Hà Nội 2014,

(trích dẫn Thông tư số 36/2014/TT-NHNN).

34. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30.12.2016 của

Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, Hà Nội 2016, (trích

dẫn Thông tư 39/2016/TT-NHNN).

35. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 07/2015/TT-NHNN quy định về bảo lãnh

ngân hàng, Hà Nội 2016, (trích dẫn Thông tư số 07/2015/TT-NHNN).

36. Ngân hàng Nhà nước, Thông tư số 19/2016/TT-NHNN Quy định về hoạt

động thẻ ngân hàng, Hà Nội 2016, (trích dẫn Thông tư số 19/2016/TT-

NHNN).

37. Phạm Duy Nghĩa, Tìm hiểu luật thương mại Việt Nam, NXB chính trị quốc

gia, Hà Nội 2000, (trích dẫn Phạm Duy Nghĩa 2000).

38. Lê Nguyên, Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng, NXB Thống kê,

thành phố Hồ Chí Minh 1996, (trích dẫn Lê Nguyên 1996).

39. Quốc hội, Luật các Tổ chức tín dụng, Hà Nội 2004, (trích dẫn Luật các Tổ

chức tín dụng 2004).

40. Quốc hội, Luật Thương mại, Hà Nội 2005, (trích dẫn Luật Thương mại

2005).

41. Quốc hội, Luật các Tổ chức tín dụng, Hà Nội 2010, (trích dẫn Luật các Tổ

chức tín dụng 2010).

42. Quốc hội, Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội 2010, (trích dẫn Luật Trọng tài

thương mại 2010).

43. Quốc hội, Luật Ngân hàng Nhà nước, Hà Nội 2010, (trích dẫn Luật Ngân

hàng Nhà nước 2010).

44. Quốc hội, Luật Đất đai, Hà Nội 2013, (trích dẫn Luật Đất đai 2013).

45. Quốc hội, Luật nhà ở, Hà Nội 2014, (trích dẫn Luật nhà ở 2014).

46. Quốc hội , Luật Doanh nghiệp, Hà Nội 2015, (trích dẫn Luật Doanh nghiệp

2015).

47. Quốc hội, Bộ luật Dân sự, Hà Nội 2015, (trích dẫn Bộ luật Dân sự 2015).

48. Quốc hội, Luật các Tổ chức tín dụng, Hà Nội sửa đổi bổ sung năm 2017,

(trích dẫn Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2017).

49. Lê Văn Tề, Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, TP. Hồ Chí

Minh 2003, (trích dẫn Lê Văn Tề 2003).

50. Trương Thị Anh Tú, Pháp luật về quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay

của các TCTD, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội 2010, (trích dẫn Trương

Thị Anh Tú 2010).

51. Nguyễn Anh Tuấn, Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương

mại Việt Nam theo Hiệp ước Basel, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học

Ngoại thương, Hà Nội 2012, (trích dẫn Nguyễn Anh Tuấn 2012).

52. Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương, Một số vấn đề cần quan tâm

khi ban hành Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi), tạp chí nghiên cứu Lập

pháp, (6/2010), trích dẫn Phạm Thị Giang Thu và cộng sự 2010).

53. Phạm Thị Giang Thu và Nguyễn Ngọc Lương, Hoàn thiện pháp luật về

phòng ngừa rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng, Tạp chí Nghiên cứu

Lập pháp 2011, (trích dẫn Phạm Thị Giang Thu và cộng sự 2011).

54. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 35/2015/QĐ-TTg ngày 20.08.2015 của

Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 02/2012/QĐ-TTg

ngày 13.01.2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng

hóa dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo biểu mẫu, điều kiện giao

dịch chung, Hà Nội 2015, (trích dẫn Quyết định 35/2015/QĐ-TTg).

55. Lê Thị Thu Thủy (chủ biên), Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2005, (trích dẫn Lê Thị Thu Thủy 2005).

56. Lê Thị Thu Thuỷ, Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động

cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 2016, (trích dẫn Lê Thị Thu Thuỷ

2016).

57. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội 2012, (trích dẫn Trường Đại học Luật Hà Nội

2012).

58. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2012, (trích dẫn Trường Đại học Luật Hà

Nội 2012).

59. Nguyễn Văn Tuyến, Giao dịch thương mại của NHTM trong điều kiện kinh

tế thị trường ở Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội 2005, (trích dẫn Nguyễn

Văn Tuyến 2005).

60. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh ngân hàng thương mại, công ty tài

chính, HTX tín dụng, Hà Nội 1990, (trích dẫn Pháp lệnh ngân hàng thương

mại, công ty tài chính, HTX tín dụng 1990).

61. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh thương phiếu, Hà Nội 1999, (trích

dẫn Pháp lệnh thương phiếu 1999).

62. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Ngoại hối, Hà Nội 2005, (trích dẫn

Pháp lệnh Ngoại hối 2005).

63. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh Ngoại hối, Hà Nội 2013, (trích dẫn

Pháp lệnh Ngoại hối 2013).

64. VietinBank, Điều lệ tổ chức và hoạt động, Hà Nội 2017, (trích dẫn

VietinBank 2017).

65. VietinBank, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Hà Nội 2015, 2016,

2017, 2018, (trích dẫn VietinBank 2015, 2016, 2017, 2018).

66. Hoàng Thị Hải Yến, Pháp luật về cho vay và các biện pháp đảm bảo an toàn

trong hoạt động cho vay của NHTM ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh

tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội 2016, (trích dẫn Hoàng Thị Hải

Yến 2016).