BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ BẢO KHUYÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP

CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ BẢO KHUYÊN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP

CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ với đề tài “Thực hiện pháp luật về

lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương” là công trình nghiên cứu

khoa học của cá nhân tôi. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận văn

là trung thực, có trích dẫn rõ ràng.

Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình!

TP.Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bảo Khuyên

LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với

đề tài “Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được

sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô, bạn bè và người thân. Qua

đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian vừa

qua.

Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS.

Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Trưởng khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ

sở, Học viện Hành chính Quốc gia, người hướng dẫn khoa học, đã hết sức

nhiệt tình định hướng và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành

cảm ơn quý thầy cô Học viện Hành chính Quốc gia, đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và viết luận văn.

Trân trọng cảm ơn Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã tạo điều kiện, hỗ

trợ, cung cấp thông tin để tôi hoàn thành luận văn.

Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, bản thân sẽ

không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý của quý

thầy cô, đồng nghiệp và quý bạn đọc./.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bảo Khuyên

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Mở đầu...............................................................................................................1

Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LÝ LỊCH TƢ PHÁP ....................................................................................... 7

1.1. Khái quát về lý lịch tƣ pháp và thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp .............................................................................................................. 7 1.1.1. Các khái niệm .................................................................................. 7 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp .................... 12

1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp ........................ 15

1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp ............................. 19

1.2.1. Xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ................................................................................................................. 19

1.2.2. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp .............................................................. 25

1.2.3. Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp ............................................. 32

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp 36 1.3.1. Yếu tố khách quan ......................................................................... 36

1.3.2. Yếu tố chủ quan ............................................................................ 38

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG .................................... 41

2.1. Khái quát chung về Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng ......................... 41

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương ........................ 41

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản ......................................................... 43

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp của Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng ........................................................................................ 46

2.2.1. Hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp .............................................................................................. 46

2.2.2. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp ............................................. 50

2.2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp ............................ 54

2.3. Đánh giá chung ................................................................................... 57

2.3.1. Kết quả đạt được ........................................................................... 57 2.3.2. Hạn chế .......................................................................................... 59

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................. 64

Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP TẠI SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG .......................................................................................................... 68

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp .. 68

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp ........... 70

3.2.1. Nhóm giải pháp chung .................................................................. 70

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể .................................................................. 76

KẾT LUẬN…………………………………………………………...……..87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………....89

PHỤ LỤC…………………………………………………………………....94

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự BLHS

Lý lịch tư pháp LLTP

TTLLTPQG Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia

UBND Uỷ ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức về tình trạng án tích, là lý

lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm

nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp

doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.

Pháp luật về lý lịch tư pháp đã có quá trình phát triển từ rất lâu trong lịch

sử và trước yêu cầu của xã hội, Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khóa XII

thông qua ngày 17/6/2009, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Đây là

một đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền công dân và hoạt động

của các cơ quan tư pháp.

Qua quá trình thực hiện, Luật Lý lịch tư pháp đã tạo cơ sở pháp lý để

triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Những thông tin lý lịch tư

pháp cũng phát huy vai trò là công cụ quan trọng hỗ trợ cho các cơ quan nhà

nước trong quản lý dân cư, quản lý xã hội; hỗ trợ các hoạt động tố tụng hình sự,

hỗ trợ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản

lý doanh nghiệp, hợp tác xã… Đến nay có rất nhiều thủ tục hành chính có yêu

cầu Phiếu lý lịch tư pháp như cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh,

cấp chứng chỉ hành nghề dược, luật sư, nuôi con nuôi, an ninh trật tự, an ninh

hàng không,… Thông qua việc triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp, nhận

thức của xã hội về giá trị của lý lịch tư pháp ngày càng nâng cao, qua đó, lý

lịch tư pháp đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền

và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân tư pháp của

mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.

1

Luật lý lịch tư pháp và việc triển khai thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp đã

đi vào cuộc sống, cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, tuy nhiên, trước yêu

cầu của thực tiễn phát triển đất nước, với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành

chính, cải cách tư pháp, đảm bảo thực hiện quyền công dân, tăng cường tiến

trình hội nhập khu vực và quốc tế, việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp vẫn

còn những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vẫn

còn tồn tại tình trạng kết quả phiếu lý lịch tư pháp bị trễ so với ngày hẹn trả cho

người dân; tình trạng lạm dụng Phiếu lý lịch tư pháp số 2; việc phối hợp cung

cấp thông tin lý lịch tư pháp giữa các cơ quan còn chưa nhịp nhàng, chưa đảm

bảo thời gian theo luật định, chưa có chế tài phù hợp đối với những trường hợp

chậm trễ trong công tác phối hợp; pháp luật về lý lịch tư pháp so với các quy

định về lý lịch tư pháp của luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ...

Bình Dương là tỉnh có nguồn đầu tư nước ngoài mạnh, hình thành các khu

công nghiệp lớn, tập trung rất nhiều dân nhập cư, nhiều thành phần xã hội sinh

sống, do đó, số lượng người phạm tội trên địa bàn tỉnh cũng rất nhiều, lượng

thông tin lý lịch tư pháp ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng Sở Tư pháp chưa

cập nhật kịp thời thông tin lý lịch tư pháp; nhu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2

để làm hồ sơ an ninh trật tự cũng tăng nên dễ xảy ra tình trạng lạm dụng phiếu lý

lịch tư pháp số 2,…

Hiện nay, mặc dù Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã chủ động áp dụng các

phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu lý lịch tư

pháp; nghiên cứu, áp dụng nhiều giải pháp công nghệ thông tin nhằm nâng cao

chất lượng công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp, liên thông các thủ tục hành chính,

góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực lý lịch tư pháp nhưng

vẫn gặp phải những hạn chế, bất cập như việc xác minh điều kiện đương nhiên

xóa án tích cho các cá nhân để họ tái hòa nhập cộng đồng còn khó khăn; công

2

tác xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu LLTP còn hạn chế, chưa

khai thác hiệu quả,…

Để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần

Hiến pháp năm 2013; đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật trong bối

cảnh một số luật liên quan đến lý lịch tư pháp mới được ban hành như: Bộ

luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Tòa án

nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật thi

hành án hình sự năm 2010, Luật phí, lệ phí năm 2015,… Đặc biệt, với mong

muốn tháo gỡ một số hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các hoạt động liên

quan đến lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, tác giả chọn đề tài

“Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Có một số luận văn thạc sĩ và công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều

góc độ khác nhau về lý lịch tư pháp như:

Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam

Định, tác giả Trần Văn Đức (2017). Tác giả đã đánh giá về công tác quản lý

nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định và nêu ra các giải pháp, đề xuất

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý lý lịch tư pháp.

Luận văn thạc sĩ So sánh vấn đề quản lý và cấp lý lịch tư pháp giữa

Vương quốc liên hiệp Anh và Việt Nam, thực tiễn và kiến nghị về công tác

quản lý lý lịch tư pháp tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Quốc Liêm (2018). Tác

giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý lý lịch tư

pháp từ việc so sánh những quy định về lý lịch tư pháp với nước Anh.

Bài “Thực tiễn công tác phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp

Phiếu Lý lịch tư pháp”, tác giả Nguyễn Thị Minh Phương, đăng trên tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, số tháng 4/2014. Tác giả đã phân tích thực trạng công

tác tra cứu và xác minh thông tin nhân thân để thực hiện việc cấp Phiếu Lý

3

lịch tư pháp và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tra cứu

xác minh thông tin trong công tác cấp Phiếu Lý lịch tư pháp.

Bài “Lý lịch tư pháp và vấn đề xóa án tích”, tác giả Đỗ Thị Thúy Lan,

đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về lý lịch tư

pháp (2017). Thông qua các quy định về vấn đề xóa án tích của Bộ luật hình

sự, luật lý lịch tư pháp và thực tiễn thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên

xóa án tích, tác giả đã đưa ra một số đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp

luật lý lịch tư pháp về vấn đề xóa án tích.

Bài “Xây dựng tiêu chí kiểm soát chất lượng hoạt động xây dựng, quản

lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp”, tác giả Đặng Thanh

Sơn, đăng trên Viện khoa học pháp lý, nội dung tóm tắt các đề tài nghiên cứu

khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp, tập 2 (2017). Tác giả đã nghiên cứu lý luận

và thực tiễn hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu

lý lịch tư pháp và chất lượng của hoạt động, từ đó đề xuất những tiêu chí kiểm

soát nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc kiểm soát chất

lượng của hoạt động trên.

Qua các công trình nghiên cứu trên có thể thấy, các tác giả đã nghiên

cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về quản lý lý lịch tư pháp, so sánh pháp luật

lý lịch tư pháp hoặc các nghiên cứu chủ yếu tập trung một hoặc một số nội

dung cơ bản của pháp luật về lý lịch tư pháp và cũng chưa có công trình

nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương hay nghiên cứu toàn

diện về thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích: Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng thực

hiện pháp luật lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, luận văn đưa

ra các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở

Tư pháp tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.

4

- Nhiệm vụ:

Một là, phân tích các vấn đề lý luận, pháp lý trong thực hiện pháp luật

về lý lịch tư pháp.

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về lý lịch tư

pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được;

những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế.

Ba là, đưa ra phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật

về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thực hiện pháp luật về lý lịch tư

pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi về nội dung: Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp

+ Phạm vi về không gian: Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

+ Phạm vi về thời gian: 2010-2018

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp

luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; Tư tưởng

Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về

lý lịch tư pháp nhằm đảm bảo tính khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn.

- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác

giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:

Phương pháp thống kê: thống kê những số liệu thực tế qua các năm về

thực hiện các quy định pháp luật về lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương.

5

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả tổng hợp để có những nhận

định, đánh giá, những giải pháp, những kết luận phù hợp với cơ sở lý luận và

thực tiễn của pháp luật về lý lịch tư pháp.

Phương pháp so sánh: Đối chiếu, so sánh để có các nhận xét, đánh giá

và đưa ra các giải pháp pháp luật về lý lịch tư pháp.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học và

thông tin về những vấn đề liên quan đến lý luận pháp luật về lý lịch tư pháp.

Luận văn góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật lý

lịch tư pháp, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà nghiên cứu trong

xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lý lịch tư pháp.

Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công

tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp

luật lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương. Công tác thực hiện

pháp luật về lý lịch tư pháp sẽ được cải thiện hơn, từ đó tạo nhiều điều kiện

thuận lợi hơn cho người dân khi thực hiện các hoạt động liên quan đến lý lịch

tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn: Bao gồm phần Mở đầu, nội dung luận văn,

kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư

pháp tỉnh Bình Dương

Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý

lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

6

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

LÝ LỊCH TƢ PHÁP

1.1. Khái quát về lý lịch tƣ pháp và thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ

pháp

1.1.1. Các khái niệm

1.1.1.1. Lý lịch tư pháp

Lý lịch tư pháp có lịch sử phát triển từ rất sớm, ngay từ thời xa xưa,

nhiều nước đã quy định việc ghi nhớ tội phạm bằng việc đánh dấu vào mặt,

xăm lên mình những dấu ấn về những tội đã phạm phải,…tùy theo mức độ

phạm tội.

Dần theo sự phát triển của xã hội, để tránh làm đau đớn, phân biệt đối

xử đối với những người phạm tội và để có những thông tin đầy đủ hơn về

người phạm tội, phục vụ tốt hơn trong tố tụng, LLTP thành văn đã ra đời thay

thế cho những hình thức ghi nhớ hình phạt nặng nề trong lịch sử.

Ở thời kỳ Pháp thuộc, Phòng lục sự là cơ quan lập, lưu giữ, cấp LLTP

thông qua đạo luật ngày 05/8/1899 về “tư pháp lý lịch và phục quyền”. Ngày

01/9/1951, Vua Bảo Đại ban hành Dụ số 14 quy định chi tiết “về lý lịch tư

pháp và phục quyền”, thuật ngữ lý lịch tư pháp chính thức được sử dụng và

quy định trong văn bản quy phạm pháp luật tại nước ta [19].

Thuật ngữ "lý lịch tư pháp" được sử dụng với nhiều các cách gọi khác

nhau ở mỗi nước. Ở các nước Phương Tây, tiếng Pháp có từ "casier

judiciaire" được hiểu là ngăn tủ có chứa đựng hồ sơ về tư pháp, là nơi lưu giữ

những thông tin về bản án hình sự, thông tin về hành chính, thương mại …;

trong tiếng Anh có từ "Criminal records" nghĩa là sự ghi nhận án tích của

7

người bị kết án hình sự; ở Đức là việc đăng ký, lưu trữ, xử lý các thông tin về

bản án hình sự của toà án, thông tin liên quan đến các quyết định của cơ quan

công tố hình sự về việc truy tố đang thực hiện đối với một cá nhân, quyết định

của cơ quan hành chính và toà án về vi phạm trong thương mại và công

nghiệp [26].

Ở Việt Nam, LLTP được định nghĩa là lý lịch về án tích của người bị

kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,

tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập,

quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã

bị Tòa án tuyên bố phá sản [33].

Như vậy, định nghĩa LLTP bao gồm 02 nội dung:

Thứ nhất là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết

định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án theo

Bộ luật hình sự.

Lý lịch là việc ghi lại trên giấy, trên sổ những thông tin về nhân thân,

hoàn cảnh, các sự kiện chủ yếu của một cá nhân nào đó trong quá khứ, hiện

tại và có thể trích xuất ra những thông tin khi cần thiết.

Án tích được hiểu là dấu vết về án hình sự của người đã bị xử và chưa

xoá án được ghi vào một quyển sổ gọi là lý lịch tư pháp để sau này, trong một

số trường hợp, cần xem xét để đánh giá đạo đức hạnh kiểm, thái độ đối với

pháp luật. Trong lý lịch của bị can, bị cáo phải ghi rõ án tích (hiện nay dùng

phổ biến từ tiền án). Khi quyết định hình phạt, toà án có thể coi việc một

người sau khi đã kết án lại phạm tội mới là một tình tiết tăng nặng. Trong một

số trường hợp được quy định cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình

sự, án tích là cơ sở để áp dụng luật về tội nặng hơn đối với người phạm tội.

Trong một số trường hợp, án tích về tội này hay tội khác sẽ dẫn đến việc hạn

chế người mang án quyền lựa chọn nơi cư trú; còn án tích về tội vụ lợi có thể

8

sẽ là một trở ngại đối với việc được nhận vào làm những việc có liên quan

đến trách nhiệm vật chất [54, tr.16].

Như vậy, nội dung ở đây là sự ghi chép lại những thông tin về việc một

cá nhân nào đó bị Tòa án kết án, tuyên là có tội trong lĩnh vực hình sự.

Thứ hai là việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý

doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa

án tuyên bố phá sản theo luật phá sản.

Không chỉ ghi nhớ thông tin về án tích trong bản án hình sự mà LLTP

còn ghi nhớ thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh

nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã. Điều này là

phù hợp bởi lẽ, LLTP sẽ được sử dụng cả khi các cá nhân có nhu cầu thành

lập doanh nghiệp hay khi các cơ quan yêu cầu cá nhân chứng minh lý lịch để

giao cho họ đảm nhận các vị trí quan trọng. Khi đó, LLTP sẽ giúp cơ quan

quản lý dễ dàng hơn trong việc điều động, sử dụng nhân sự cho phù hợp.

Trên thực tế, tồn tại khá nhiều định nghĩa về thuật ngữ LLTP trong các

văn bản khác nhau, nhưng về bản chất của các thuật ngữ này tương tự nhau là

đều ghi nhận thông tin về hình phạt mà cơ quan có thẩm quyền đã tuyên đối

với một cá nhân liên quan chủ yếu đến bản án hình sự.

Theo quan điểm của tác giả, LLTP là việc ghi chép đầy đủ thông tin về

tình trạng thi hành án, về các tội phạm trước đây của một cá nhân khi họ bị

kết án bởi một bản án hình sự có hiệu lực và thông tin về việc cấm đảm nhiệm

chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh

nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.

1.1.1.2. Pháp luật về lý lịch tư pháp

Pháp luật về LLTP trải qua quá trình phát triển lâu dài và được chia

theo nhiều giai đoạn. Giai đoạn thời kỳ Pháp thuộc và miền Nam Việt Nam

trước năm 1975, pháp luật về LLTP được quy định, tổ chức tương đối chặt

9

chẽ từ trung ương tới địa phương. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám

năm 1945 đến năm 1955, do điều kiện kháng chiến nên việc quản lý LLTP ít

được chú ý. Giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1993, tuy pháp luật về LLTP đã

được quy định khá chi tiết nhưng lại không được quản lý LLTP một cách

riêng biệt. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2005, chủ thể quản lý LLTP thay

đổi sang cơ quan Bộ Tư pháp, chưa có thêm những quy định chi tiết và vẫn

chỉ dừng lại ở các quy định chung. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay, Luật

LLTP ra đời và được hoàn chỉnh hơn về các quy phạm pháp luật LLTP [29].

Pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự

có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí

chung của giai cấp thống trị, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện

pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế và là nhân tố điều chỉnh các quan

hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình [28].

Pháp luật về LLTP là những quy định của nhà nước điều chỉnh các

quan hệ xã hội liên quan đến lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản

án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành

án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh

nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên

bố phá sản. Cụ thể là điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cơ quan nhà nước

với các cá nhân, tổ chức, giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong quá trình

xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP.

Pháp luật về LLTP là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật

Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, góp phần điều chỉnh các quan

hệ xã hội, ổn định xã hội, giữ vững trật tự quản lý xã hội của nhà nước. Pháp

luật về LLTP bao hàm tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh về trình tự,

thủ tục cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin LLTP; lập LLTP; tổ chức và

quản lý cơ sở dữ liệu LLTP; cấp Phiếu LLTP; quản lý nhà nước về LLTP.

10

Như vậy, pháp luật về LLTP đã từng bước được xây dựng và dần đi

vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng theo hướng hiện đại, chuyên

nghiệp; là những quy phạm pháp luật, cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các

quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý nhà nước về LLTP.

1.1.1.3. Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp

Hiện nay có khá nhiều quan điểm pháp lý về thực hiện pháp luật như

“thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy

định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”[45,

tr.369-371] hay “thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm

cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi

thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [28, tr.465-466].

Các quy phạm pháp luật muốn đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả

thì cần được thực hiện thông qua hoạt động có mục đích của các chủ thể vào

các quan hệ xã hội. Hơn nữa thực hiện pháp luật còn là yếu tố không thể thiếu

của cơ chế điều chỉnh pháp luật, giúp phát huy vai trò của pháp luật và được

các chủ thể tiệp nhận, tôn trọng và tự giác thực hiện.

Như vậy, thực hiện pháp luật là tổng thể các hoạt động có mục đích của

các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật thành

các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể nhằm

phát huy vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Thực hiện pháp luật về LLTP là tổng thể các hoạt động có mục đích

của các chủ thể nhằm hiện thực hóa pháp luật về LLTP thành các hành vi thực

tế, hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo vệ tốt

hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013;

đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thực hiện pháp luật về LLTP là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan,

tổ chức, cá nhân, trong đó, trước hết thuộc về nhà nước mà đại diện là cơ

11

quan, đội ngũ cán bộ, công chức. Các chủ thể này sẽ thực hiện nhiệm vụ xây

dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; tuân thủ, chấp hành và

áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, sáng tạo. Đối với các cá nhân cũng có

quyền thực hiện pháp luật về LLTP nhằm chứng minh nhân thân tư pháp của

mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp

Thực hiện pháp luật về LLTP là những hành vi thực tế của các chủ thể

liên quan đến LLTP, nội dung của nó mang đặc trưng của thực hiện pháp luật

như: Là hành vi hợp pháp của các chủ thể, là hoạt động đưa ra các quy phạm

pháp luật được thực hiện trên thực tế, do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện

với nhiều các hình thức khác nhau, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực

nhà nước, được thực hiện chặt chẽ về hình thức, nội dung. Ngoài ra, thực hiện

pháp luật về LLTP cũng có những đặc điểm riêng, cụ thể:

Một là, thực hiện pháp luật về LLTP hỗ trợ việc chứng minh nhân thân

tư pháp của từng cá nhân

Hiện nay, khi các cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội, họ thường

được yêu cầu bổ sung phiếu LLTP đề chứng minh nhân thân của mình trong

các quan hệ pháp luật. Do đó, thực hiện pháp luật về LLTP có ý nghĩa rất

quan trọng, giúp người dân thực hiện quyền của mình, đề nghị cơ quan quản

lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp phiếu LLTP. Phiếu LLTP sẽ phản ánh toàn bộ tình

trạng pháp lý của cá nhân nhằm chứng minh nhân thân của họ từ quá khứ đến

hiện tại. Do đó, các doanh nghiệp, cơ quan yêu cầu các cá nhân bổ sung thêm

phiếu LLTP để biết rõ nhân thân về phương diện pháp lý của cá nhân đó và

đảm bảo an ninh, trật tự được ổn định.

Theo quy định của BLHS, người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách

nhiệm hình sự về một số tội phạm, người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách

nhiệm hình sự về mọi tội phạm [30]. Vì vậy, khi một cá nhân từ đủ 14 tuổi, tất

12

cả thông tin về tình trạng án tích của họ sẽ do các cơ quan như tòa án, cơ quan

thi hành án, Công an, viện kiểm sát cung cấp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ

liệu LLTP và được cập nhật, lưu trữ tại cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP

này. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cho phép mọi cá nhân có quyền cư trú, đi

lại, được học tập, lao động ở nhiều địa phương khác nhau. Tuy nhiên, sẽ rất

khó khăn để chứng minh tình trạng án tích của cá nhân nếu không có thông

tin do các cơ quan xử lý tại địa phương đó cung cấp. Do đó, pháp luật về

LLTP và thực hiện pháp luật về LLTP tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan

tố tụng cung cấp thông tin án tích, cùng với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu

LLTP xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP.

Hai là, thực hiện pháp luật về LLTP hỗ trợ bảo vệ quyền con người,

quyền công dân.

Đối với thủ tục đương nhiên được xóa án tích theo quy định trước đây,

cá nhân khi thấy mình đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, họ sẽ tự

mình liên hệ tới các cơ quan như Tòa án, cơ quan thi hành án, UBND xã nơi

cư trú, Trại giam,…để trích lục các giấy tờ nhằm chứng minh và nộp tại Tòa

án để được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích. Khi Luật LLTP và Bộ luật hình

sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, các cá nhân sẽ không cần tự mình liên hệ

tới nhiều cơ quan có liên quan nữa mà chỉ cần liên hệ tới cơ quan quản lý cơ

sở dữ liệu LLTP nộp hồ sơ cấp phiếu LLTP, còn việc xác minh tình trạng thi

hành án, thông tin xóa án tích sẽ do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP thực

hiện. Quy định này giúp quá trình thực hiện pháp luật về LLTP của người dân

được dễ dàng, tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân, tiết kiệm chi

phí đi lại, thời gian, kinh phí, đảm bảo bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá

nhân một cách tốt nhất.

Đối với công dân, pháp luật về LLTP và thực hiện pháp luật về LLTP

có ý nghĩa đáp ứng yêu cầu của cá nhân cần chứng minh bản thân có hay

13

không có án tích, có bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,

quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã. Các thông tin LLTP giúp cá nhân thực hiện

các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là công cụ hữu hiệu để mọi cá nhân

chứng minh về nhân thân, lý lịch của mình khi tham gia vào các quan hệ xã

hội. Thực hiện pháp luật về LLTP đã hỗ trợ bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, tạo ra sự công bằng, minh bạch trong các mối quan hệ, hạn chế tối

đa sự tùy tiện tước đi quyền công dân, quyền con người.

Ba là, thực hiện pháp luật về LLTP giúp quá trình thực hiện tố tụng của

các cơ quan tố tụng được thuận lợi hơn.

Theo quy định, sau khi ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp

luật, các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, công an có

nhiệm vụ cung cấp thông tin LLTP cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP.

Do đó, khi các cơ quan tiến hành cung cấp thông tin đầy đủ, thì cơ sở dữ liệu

LLTP sẽ càng đầy đủ; nhưng khi các cơ quan tiến hành cung cấp thông tin

không đầy đủ, kịp thời thì cơ sở dữ liệu LLTP sẽ bị thiếu sót, dẫn đến tình

trạng quản lý không đầy đủ tình trạng án tích của cá nhân. Vì vậy, nhiệm vụ

cung cấp thông tin của các cơ quan có liên quan là rất quan trọng, tránh bỏ lọt

tội phạm.

Pháp luật về LLTP xây dựng cơ chế quản lý LLTP với mục tiêu quan

trọng là công cụ hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình

tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan Tòa án, cơ quan

thi hành án, Viện kiểm sát, công an cũng có thể yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở

dữ liệu LLTP cung cấp thông tin án tích của cá nhân thông qua việc thực hiện

pháp luật. Đây là nguồn thông tin đáng tin cậy, đảm bảo tính chính xác cao,

đẩy đủ thông tin về tình trạng án tích. Họ có thể tùy vào tình trạng án tích

được cung cấp để biết rõ tình trạng nhân thân, có hay không có án tích, có bị

cấm hay không bị cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh

14

nhiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên

bố phá sản làm căn cứ để xác định có hay không hành vi cấu thành tội phạm

và phải chịu trách nhiệm hình sự; mức độ trách nhiệm hình sự phải gánh chịu

cũng như khả năng phải gánh chịu hình phạt và các mức hình phạt, các biện

pháp tha miễn trách nhiệm hình sự được lựa chọn. Ngoài ra, LLTP còn giúp

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định chính xác, qua đó thể

hiện nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân; giúp Kiểm sát viên

định hướng sơ bộ mức thấp nhất và mức cao nhất của hình phạt có thể được

áp dụng.

Bốn là, thực hiện pháp luật về LLTP dựa trên những quy định trong

Luật LLTP và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật.

Quốc hội đã ban hành luật LLTP để điều chỉnh mối quan hệ phát sinh

trong quá trình quản lý LLTP như mối quan hệ giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ

liệu LLTP với các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, công

an; hay mối quan hệ giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong việc cấp

phiếu LLTP.

Đồng thời, pháp luật về LLTP còn được quy định ở một số văn bản quy

phạm pháp luật khác như Bộ luật hình sự, Luật Phá sản, Luật nuôi con

nuôi,…để quy định một số nội dung như việc xóa án tích, tình trạng thi hành

án, quy định việc bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,

quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã, hay điều kiện phải có phiếu LLTP để chứng

minh nhân thân. Từ đó, việc thực hiện pháp luật về LLTP được thuận lợi hơn.

1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp

Theo xu hướng pháp luật về LLTP của nhiều nước trên thế giới, nước

ta cũng có pháp luật LLTP quy định về tình trạng án tích và thông tin cấm

đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nhiệp, hợp tác xã trong trường

hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Chúng mang lại

15

nhiều ý nghĩa trong ghi nhận việc xóa án tích, tạo điều kiện cho người bị kết

án tái hòa nhập cộng đồng; các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể sử dụng

LLTP để phục vụ trong xử lý hình sự, áp dụng các tình tiết tăng nặng hoặc

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; các tổ chức, doanh

nghiệp có thể thông qua LLTP để thuận lợi hơn cho việc tuyển dụng và quản

lý nhân sự; xem xét, đánh giá tư cách đạo đức của cá nhân. Thực hiện pháp

luật về LLTP có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, cụ thể:

Một là, thực hiện pháp luật về LLTP bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân.

Khi một cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội và được yêu cầu

chứng minh nhân thân tư pháp thì thực hiện pháp luật về LLTP là chính một

hoạt động có mục đích của cá nhân nhằm chứng minh nhân thân tư pháp một

cách chính xác nhất, là bằng chứng để họ cung cấp cho cơ quan yêu cầu.

LLTP được quy định có đẩy đủ nội dung về thông tin án tích, tình trạng

thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý

doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa

án tuyên bố phá sản. Đây là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà

nước, tổ chức chính trị - xã hội,…có cơ sở xem xét, đánh giá để có sự lựa

chọn phù hợp cho công việc của mình.

Những thông tin LLTP này là hết sức cần thiết, đáp ứng nhu cầu chọn

lọc kỹ càng đối với một số nghành, nghề như tuyển dụng công chức, xin nhận

con nuôi, vị trí việc làm thủ quỹ, kế toán,…Do đó, hiện nay rất nhiều các tổ

chức, doanh nghiệp yêu cầu cá nhân khi ứng tuyển phải cung cấp đầy đủ

thông tin tình trạng nhân thân của mình. Tuy chưa phải là tất cả để đánh giá

một con người, nhưng những thông tin LLTP này cũng một phần nào chứng

minh đạo đức của một cá nhân không có thông tin án tích tốt hơn so với

những người có thông tin án tích.

16

Hai là, thực hiện pháp luật về LLTP nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong

việc định tội và lượng hình của Tòa án và góp phần trong công cuộc đấu

tranh, phòng chống tội phạm.

Việc xác định nhân thân của bị cáo có ý nghĩa khá lớn trong việc giúp

Tòa án có những phán quyết chính xác hơn trong quá trình xét xử đối với các

vụ án hình sự, các quy định về LLTP là cơ sở hỗ trợ Tòa án áp dụng các tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối trường hợp có tiền án hay áp dụng tình

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với việc phạm tội lần đầu.

Thông qua việc thực hiện pháp luật về LLTP, Tòa án xem xét nhân

thân của bị cáo một cách khách quan, toàn diện, từ đó đưa ra những phán

quyết đúng đắn. Nếu không nắm rõ được nhân thân, tình trạng án tích của

những đối tượng tái phạm, có thể họ sẽ lợi dụng sơ hở để trốn tránh, ta sẽ bị

bỏ lọt tội phạm.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, họ cần biết không chỉ thông tin

về tình trạng nhân thân, tình trạng thi hành án, mà họ còn cần biết rõ thái độ

chấp hành hình phạt, các biện pháp bắt buộc nào đã được áp dụng với cá nhân

để có thể đưa ra các biện pháp ngăn chặn, chế tài phù hợp hơn, góp phần

trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Dựa trên việc thực hiện pháp luật về LLTP, tình hình phạm tội có thể

được thống kê và đánh giá các đặc điểm của tội phạm, diễn biến tội phạm

theo từng thời gian, từng loại tội phạm, từ đó sẽ có những biện pháp phòng

chống tội phạm, góp phần trong quản lý con người, quản lý xã hội.

Ba là, thực hiện pháp luật về LLTP có vai trò bảo vệ quyền con người,

quyền công dân

LLTP là căn cứ để thực hiện xóa án tích theo quy định của pháp luật

hình sự. Xóa án tích có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp lý bởi vì nguyên tắc pháp

lý cơ bản nhất của xóa án tích là người được xóa án tích sẽ được coi như

17

không có án tích [24]. Điều này có nghĩa là, đối với người được xóa án tích

thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ cấp phiếu LLTP với nội dung

không có án tích cho họ.

Trước khi Luật LLTP ra đời, khi nhận thấy đủ điều kiện đương nhiên

được xóa án tích, người dân phải tự mình liên hệ đến nhiều cơ quan khác

nhau như cơ quan thi hành án, cơ quan công an, cơ quan tòa án, trại giam…

để thu thập các giấy tờ chứng minh đủ điều kiện như giấy chứng nhận chấp

hành xong hình phạt tù, giấy xác nhận thi hành án, giấy chứng nhận không

phạm tội mới,…sau đó nộp đến tòa án nơi đã xét xử trước đây để làm thủ tục

xóa án tích. Đây là một việc vô cùng khó khăn, tốn kém nhiều chi phí cho

người dân.

Sau khi Luật LLTP có hiệu lực, thay vì phải đến nhiều các cơ quan

khác nhau như trước đây, người dân khi đủ điều kiện đương nhiên được xóa

án tích và muốn thực hiện xóa án tích, chứng minh nhân thân của mình, họ

chỉ cần nộp 1 bộ hồ sơ yêu cầu cấp phiếu LLTP đến cơ quan quản lý cơ sở dữ

liệu LLTP. Tại đây, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ thực hiện việc

phối hợp tra cứu, xác minh đến các cơ quan có liên quan, cùng với việc tra

cứu cơ sở dữ liệu LLTP trên hệ thống LLTP để thực hiện cấp phiếu LLTP cho

họ. Việc thực hiện pháp luật này mang tính nhân đạo, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bởi người có án tích không phải tự mình đi đến các cơ

quan khác nhau để xin từng loại giấy tờ để chứng minh mình được xóa án

tích. Những quy định của pháp luật về LLTP và việc thực hiện pháp luật về

LLTP đã tháo gỡ những khó khăn, rào cản cho người từng bị kết án, tạo điều

kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng.

Bốn là, thực hiện pháp luật về LLTP góp phần nâng cao ý thức của đội

ngũ cán bộ, công chức đồng thời hoàn thiện thể chế về LLTP.

18

Thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,

đội ngũ công chức nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện

pháp luật, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong đời sống xã hội.

Hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP đòi hỏi vai trò, trách nhiệm của đội

ngũ công chức. Việc thực hiện nghiêm minh các chế tài xử phạt khi công

chức vi phạm sẽ có tác dụng ngăn ngừa các công chức khác không vi phạm

pháp luật LLTP, góp phần nâng cao ý thức của họ.

Đội ngũ cán bộ, công chức khi đã nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm

của mình trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy

phạm pháp luật về LLTP, thể chế về LLTP cũng dần được hoàn thiện.

1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp

1.2.1. Xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu lý lịch tư

pháp

1.2.1.1. Phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp

Các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an, Thi hành án dân

sự có nhiệm vụ phối hợp cung cấp thông tin LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu

LLTP cho Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp. Đồng thời, UBND

cấp xã, cấp huyện cũng thực hiện cung cấp thông tin chứng tử, cải chính hộ

tịch theo quy định [8]. Thời hạn cung cấp thông tin LLTP là 10 ngày làm

việc, kể từ ngày các cơ quan, tổ chức nhận được văn bản đề nghị cung cấp

thông tin của TTLLTPQG, Sở Tư pháp hoặc kể từ ngày các bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật.

Cơ chế phối hợp cung cấp thông tin LLTP được quy định rõ loại thông

tin cung cấp bao gồm cả văn bản giấy và thông tin dưới dạng điện tử, thời hạn

cung cấp, cơ quan chủ trì tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP.

19

Việc cung cấp thông tin LLTP nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ chính của cơ

quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP là: Thông tin về án tích, tình trạng thi hành

án, các quyết định cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp,

hợp tác xã để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP; thông tin về án tích để phục vụ

công tác tra cứu, xác minh thông tin LLTP để cấp phiếu LLTP cho người có

yêu cầu. Khẳng định vai trò quan trọng của các cơ quan phối hợp trong việc

cung cấp thông tin.

1.2.1.2. Phối hợp rà soát thông tin lý lịch tư pháp

Định kỳ hằng quý, Sở Tư pháp phối hợp với các Tòa phúc thẩm, Ban

thư ký Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân

cấp huyện, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh,

Chi cục Thi hành án dân sự huyện, Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an cấp tỉnh,

Công an cấp huyện (Bộ phận thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) nơi các cơ

quan này có trụ sở để thực hiện rà soát về số lượng thông tin LLTP đã cung

cấp theo quy định.

Định kỳ 06 tháng và hằng năm, TTLLTPQG phối hợp với các cơ quan

Tòa án quân sự Trung ương, Vụ hợp tác quốc tế, Vụ thực hành quyền công tố

và kiểm sát xét xử thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Cục hồ sơ nghiệp

vụ Cảnh sát, Cục theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ

Công an, Trại giam, Trại tạm giam, Phòng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ

trợ tư pháp công an cấp tỉnh, Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;

Vụ thống kê tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện rà soát về số lượng

thông tin LLTP đã cung cấp theo quy định.

Định kỳ 06 tháng và hằng năm, trên cơ sở kết quả rà soát cung cấp

thông tin lý lịch tư pháp theo quy định, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và

Sở Tư pháp phối hợp thực hiện rà soát việc cung cấp thông tin LLTP. Việc

phối hợp rà soát về số lượng thông tin LLTP giữa TTLLTPQG và Sở Tư pháp

20

được thực hiện theo quy định. Trường hợp thông tin LLTP chưa đầy đủ, có

sai sót, TTLLTPQG, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho đầy đủ,

chính xác [8].

Nội dung rà soát thông tin LLTP bao gồm 2 phần:

- Đối chiếu, rà soát về số lượng thông tin đã nhận được.

- Kiểm tra, đối chiếu rà soát về chất lượng thông tin nhận được để phản

hồi lại cơ quan cung cấp thông tin, đề nghị cơ quan rà soát cung cấp thêm

thông tin trong trường hợp số lượng thông tin LLTP cung cấp chưa đầy đủ,

chính xác.

Các cơ quan nhận được công văn rà soát có nhiệm vụ cung cấp và

thông báo cho Cơ quan quản lý LLTP trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được văn bản đề nghị rà soát thông tin LLTP.

Công tác cung cấp và rà soát thông tin LLTP là hết sức quan trọng,

những thông tin này hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP một cách hoàn

chỉnh, chính xác. Nhiệm vụ này có hiệu quả tránh bỏ lọt tội phạm, tránh sai

sót thông tin nhân thân của bất cứ cá nhân nào, bảo vệ quyền và lợi ích của cá

nhân một cách tốt nhất.

1.2.1.3. Tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp

Theo quy định chung thì khi nhận được thông tin LLTP do các cơ quan

có liên quan cung cấp, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ tiến hành các

thủ tục tiếp nhận thông tin:

- Vào Sổ văn bản đến: Thông tin LLTP trước tiên sẽ do bộ phận tiếp

nhận vào Sổ văn bản đến, ghi rõ thời gian tiếp nhận, số ký hiệu văn bản, tên

văn bản, cơ quan cung cấp thông tin,…

- Vào Sổ tiếp nhận thông tin LLTP: Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu

LLTP sẽ thực hiện tiếp nhận trên phần mềm Quản lý LLTP theo mẫu sổ

08/2013/TT-LLTP ban hành kèm theo Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày

21

11/11/2013 sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 13/2011/TT-BTP ngày

27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu

mẫu và mẫu sổ LLTP. Sổ tiếp nhận thông tin LLTP bao gồm các nội dung: số

thứ tự, ngày tiếp nhận, cơ quan cung cấp, số ký hiệu văn bản, họ tên người có

thông tin LLTP, loại thông tin, người tiếp nhận, ghi chú.

Việc thực hiện tiếp nhận thông tin LLTP cần được thực hiện đầy đủ,

kịp thời, để cơ sở dữ liệu LLTP được hoàn thiện và chính xác nhất, đáp ứng

yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu.

1.2.1.4. Kiểm tra, phân loại thông tin lý lịch tư pháp

Việc kiểm tra, phân loại thông tin có thể được thực hiện ngay trong quá

trình “Vào Sổ tiếp nhận thông tin” trên phần mềm. Việc kiểm tra, phân loại

thông tin nhằm xác định những thông tin nào thuộc thẩm quyền lập LLTP,

cập nhật thông tin bố sung của Sở Tư pháp; thông tin nào Sở Tư pháp có

nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp khác hoặc TTLLTPQG.

Kiểm tra, phân loại thông tin tại Sở Tư pháp:

-Trường hợp người bị kết án thường trú tại địa phương hoặc không có

nơi thường trú nhưng tạm trú tại địa phương thì Sở Tư pháp sẽ thực hiện lập

LLTP và cập nhật bổ sung thông tin.

- Trường hợp người bị kết án thường trú ở tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương khác, Sở Tư pháp gửi thông tin LLTP đó đến Sở Tư pháp nơi

người đó thường trú.

- Trường hợp người bị kết án không có nơi cư trú, Sở Tư pháp gửi

thông tin LLTP đó đến TTLLTPQG.

- Trường hợp thông tin LLTP có nhiều bị cáo thường trú nhiều nơi khác

nhau, Sở Tư pháp thực hiện thủ tục sao thông tin LLTP đó và gửi cho Sở Tư

pháp nơi người bị kết án thường trú hoặc tạm trú.

Kiểm tra, phân loại thông tin tại TTLLTPQG:

22

TTLLTPQG có nhiệm vụ kiểm tra về thể thức văn bản, thẩm quyền lập

LLTP, tính đầy đủ của thông tin, tính trùng lặp về mã số LLTP, thông tin

nhân thân của bản LLTP, thông tin LLTP bổ sung, các thông tin LLTP; phân

loại thông tin LLTP theo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi người bị

kết án cư trú đối với thông tin LLTP do cơ quan Công an, Tòa án quân sự

Trung ương cung cấp, cụ thể:

Thông tin LLTP do Sở Tư pháp cung cấp:

- Trường hợp LLTP chưa đầy đủ, có sai sót thông tin như số bản án,

nơi cư trú,…hay thiếu thông tin thì TTLLTPQG yêu cầu Sở Tư pháp thực

hiện bổ sung, cập nhật thông tin và cung cấp thông tin đã bổ sung, đính chính

đó cho TTLLTPQG.

- Đối với bản LLTP Sở Tư pháp lập sai thẩm quyền thì TTLLTPQG

yêu cầu Sở Tư pháp đó gửi thông tin LLTP cho cơ quan có thẩm quyền lập

LLTP và thông báo yêu cầu hủy mã LLTP đã lập sai.

Thông tin LLTP do cơ quan Công an, Tòa án quân sự Trung ương cung

cấp:

TTLLTPQG tiến hành phân loại những thông tin LLTP này theo các

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi người bị kết án cư trú để thực hiện

cung cấp cho các Sở Tư pháp.

Thông tin LLTP do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp:

- Đối với thông tin LLTP của người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài,

TTLLTPQG thực hiện dịch sang Tiếng Việt và chứng thực theo quy định.

- Đối với Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường

hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, TTLLTPQG tiến hành

phân loại những thông tin LLTP này theo các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương, nơi người bị kết án cư trú để thực hiện cung cấp cho các Sở Tư

pháp.

23

Trên cơ sở tiếp nhận, kiểm tra, phân loại thông tin, cơ quan quản lý cơ

sở dữ liệu LLTP thực hiện lập LLTP, cập nhật thông tin LLTP bổ sung.

1.2.1.5. Lập lý lịch tư pháp

LLTP chỉ được lập trên cơ sở bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật; quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác

xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật [33]. Do vậy, chỉ khi một người có bản

án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của

Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật

thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP mới tiến hành lập LLTP của người

đó.

Lập LLTP là hoạt động xử lý, cập nhật, sắp xếp thông tin LLTP theo

nguyên tắc cá thể hóa và đưa vào lưu trữ trong cơ sở dữ liệu LLTP. Mục đích

của lập LLTP nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, phục vụ yêu cầu tra cứu

thông tin, cấp phiếu LLTP và yêu cầu quản lý nhà nước.

Về thẩm quyền:

- Sở Tư pháp nơi người bị kết án thường trú lập LLTP của người đó;

trường hợp không xác định được nơi thường trú thì Sở Tư pháp nơi người bị

kết án tạm trú lập LLTP.

- TTLLTPQG lập LLTP trong các trường hợp sau đây:

Không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của người bị kết

án;

Người bị kết án được dẫn độ để thi hành án hoặc được chuyển giao để

chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam;

Nhận được bản sao trích lục bản án hoặc trích lục án tích của công dân

Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp.

Nội dung của LLTP:

24

- Thông tin về nhân thân: họ tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, nơi

sinh, quốc tịch, nơi cư trú, số giấy tờ tùy thân, họ tên cha, mẹ, vợ, chồng

người đó.

- Nội dung bản án: ngày tháng năm tuyên án, số bản án, Tòa án đã

tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính hình

phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự, án phí.

- Tình trạng thi hành án: cập nhật các thông tin về tình trạng thi hành

bản án từ khi có quyết định thi hành án đến khi người bị kết án đã chấp hành

xong bản án, được đặc xá, đại xá, xóa án tích.

1.2.2. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp

1.2.2.1. Quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Phiếu LLTP là phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp có giá

trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích; bị cấm hay không bị cấm

đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường

hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản [33].

Theo quy định tại Điều 41 Luật LLTP, có hai loại Phiếu LLTP gồm

Phiếu LLTP số 1 và Phiếu LLTP số 2:

Phiếu LLTP số 1: cá nhân có thông tin án tích nhưng đã được xóa thì

không ghi vào Phiếu LLTP số 1. Thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành

lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ ghi vào Phiếu LLTP số 1 khi cá

nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu.

Phiếu LLTP số 2: cá nhân có thông tin án tích thì Phiếu LLTP số 2 sẽ

ghi tất cả các án tích vào phiếu (bao gồm án tích chưa được xóa và án tích đã

được xóa). Phiếu LLTP số 2 cũng bao gồm thông tin về cấm đảm nhiệm chức

vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

25

Như vậy, so với Phiếu LLTP số 1, Phiếu LLTP số 2 bao gồm nhiều

thông tin hơn (cả những án tích đã được xóa). Tuy nhiên, đối tượng yêu cầu

cấp Phiếu LLTP số 2 cũng hẹp hơn, chỉ bao gồm cá nhân có nhu cầu biết

được nội dung về LLTP của mình và các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan

điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố,

xét xử.

Theo quy định tại Điều 7 Luật LLTP, cá nhân, cơ quan, tổ chức có

quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP như sau:

Công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt

Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của mình.

Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục

vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền

yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động

đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

Loại phiếu được quyền yêu cầu cấp:

Công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt

Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 của mình và có quyền yêu cầu

cấp Phiếu LLTP số 2 để biết LLTP của mình

Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền

yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động

đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 để

phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Như vậy, theo quy định của Luật LLTP, quyền yêu cầu cấp Phiếu

LLTP của cá nhân (bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài) không

bị hạn chế về mục đích sử dụng Phiếu LLTP. Tùy theo yêu cầu và mục đích

26

sử dụng (xuất cảnh, xin việc, làm chứng chỉ hành nghề…), nếu đáp ứng đủ

các điều kiện về thủ tục thì cá nhân đó có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của

mình. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính

trị, tổ chức chính trị - xã hội, họ có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá

nhân có liên quan. Tuy nhiên, quyền yêu cầu này của các cơ quan bị giới hạn

bởi mục đích sử dụng Phiếu, đó là để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử

hoặc để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh,

thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.

1.2.2.2. Thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Để tạo thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu cấp phiếu

LLTP, luật LLTP quy định TTLLTPQG và Sở Tư pháp đều có thẩm quyền

cấp phiếu LLTP.

Theo quy định tại Điều 44 Luật LLTP, thẩm quyền cấp Phiếu LLTP

được quy định như sau:

TTLLTPQG thực hiện việc cấp Phiếu LLTP trong các trường hợp:

Công dân Việt Nam mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú;

Người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam.

Sở Tư pháp thực hiện việc cấp Phiếu LLTP trong các trường hợp: Công

dân Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở trong nước; Công dân Việt Nam

đang cư trú ở nước ngoài; Người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.

1.2.2.3. Thủ tục yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp

Thành phần hồ sơ đối với trường hợp yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1

hoặc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 bao gồm:

- Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP (theo mẫu 03/2013/TT-LLTP).

- Trường hợp cá nhân gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 qua dịch

vụ bưu chính thì Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2, phải được

27

chứng thực chữ ký theo quy định của pháp luật về chứng thực. Việc chứng

thực được thực hiện tại Tổ chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng

hoặc Văn phòng Công chứng) hoặc chứng thực tại UBND phường, xã, thị trấn

hoặc chứng thực tại Phòng Tư pháp quận, huyện của Việt Nam hoặc chứng

thực tại cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.

- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu

Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu đang còn giá trị sử dụng của người

được cấp Phiếu LLTP.

- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu Sổ

hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận thường trú, giấy chứng nhận tạm trú, thẻ

thường trú, thẻ tạm trú.

Thành phần hồ sơ đối với trường hợp ủy quyền cho người khác làm thủ

tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 hoặc cha, mẹ của người chưa thành

niên yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho con chưa thành niên:

- Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP (Mẫu số 04/2013/TT-LLTP);

- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu

Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu đang còn giá trị sử dụng của người

được cấp Phiếu LLTP và Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người

được ủy quyền.

- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu Sổ

hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận thường trú, giấy chứng nhận tạm trú, thẻ

thường trú, thẻ tạm trú của người được cấp Phiếu LLTP.

- Văn bản ủy quyền làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu LLTP phải được

chứng thực tại tại Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn hoặc tại Phòng Tư

pháp quận, huyện hoặc công chứng, chứng thực tại Tổ chức hành nghề công

chứng ở trong nước hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh

sự của Việt Nam ở nước ngoài.

28

Trường hợp ủy quyền theo quy định của pháp luật nước nơi người nước

ngoài là công dân hoặc thường trú thì văn bản ủy quyền phải được hợp pháp

hóa lãnh sự và dịch ra Tiếng Việt. Trừ trường hợp được miễn chứng nhận

lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước

ngoài liên quan là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại hoặc theo quy

định của pháp luật Việt Nam.

Trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu LLTP là cha, mẹ, vợ, chồng, con

của người được cấp Phiếu LLTP thì không cần văn bản ủy quyền nhưng phải

có giấy tờ chứng minh quan hệ cha, mẹ; vợ, chồng, con như: giấy đăng ký kết

hôn, giấy khai sinh hoặc sổ hộ khẩu.

Cá nhân yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 không được ủy quyền

cho người khác làm thủ tục cấp Phiếu LLTP (trừ trường hợp cha, mẹ của

người chưa thành niên yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho con chưa

thành niên).

Thành phần hồ sơ đối với trường hợp cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1

theo yêu cầu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã

hội:

Văn bản yêu cầu cấp phiếu LLTP (theo mẫu số 05a/2013/TT- LLTP).

Thành phần hồ sơ đối với trường hợp cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2

theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng:

Văn bản yêu cầu cấp phiếu LLTP (theo mẫu 05b/2013/TT-LLTP).

Như vậy, thành phần hồ sơ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ

quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chỉnh trị - xã hội đơn giản hơn so

với các cá nhân. Họ không cần nộp các giấy tờ chứng minh nhân thân như

Chứng minh nhân dân hay Sổ hộ khẩu,…

1.2.2.4. Thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp

29

Thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được

yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt

Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước

ngoài, trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích

thì thời hạn không quá 15 ngày. Trường hợp khẩn cấp theo yêu cầu của các cơ

quan tiến hành tố tụng thì thời hạn không quá 24 giờ, kể từ thời điểm nhận

được yêu cầu.

Để đảm bảo thời gian tố tụng, nên trong một số trường hợp, cơ quan

tiến hành tố tụng có thể yêu cầu Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP đẩy

nhanh tiến đó, rút ngắn thời gian cấp phiếu LLTTP.

1.2.2.5. Tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp để cấp phiếu lý lịch

tư pháp

Tra cứu, xác minh thông tin LLTP về án tích

Việc tra cứu thông tin LLTP về án tích có trước ngày 01/7/2010 để cấp

Phiếu LLTP được thực hiện tại cơ sở dữ liệu của ngành Công an. Trường hợp

người bị Tòa án kết án trước ngày 01/7/2010 nhưng từ ngày 01/7/2010

TTLLTPQG, Sở Tư pháp đã lập LLTP của người đó thì việc tra cứu thông tin

được thực hiện tại cơ sở dữ liệu LLTP của TTLLTPQG, Sở Tư pháp.

Theo quy định của Luật LLTP, kể từ ngày 01/7/2010, TTLLTPQG và

Sở Tư pháp chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP. Do đó,

TTLLTPQG và Sở Tư pháp sẽ chịu trách nhiệm đối với những thông tin

LLTP về án tích của những người bị kết án; thông tin về cấm đảm nhiệm chức

vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá

sản của Tòa án kể từ ngày 01/7/2010.

Việc tra cứu thông tin LLTP về án tích có từ ngày 01/7/2010 được thực

hiện:

30

- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP chỉ có một nơi thường trú

duy nhất tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương kể từ khi đủ 14 tuổi trở

lên thì việc tra cứu thông tin LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi người

đó thường trú.

- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP đã cư trú ở nhiều tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương kể từ khi đủ 14 tuổi trở lên thì việc tra cứu thông

tin LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi tiếp nhận yêu cầu và

TTLLTPQG.

- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt Nam có

thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài thì việc tra cứu thông tin

LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi tiếp nhận yêu cầu và TTLLTPQG.

- Trường hợp không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của

người được cấp Phiếu LLTP thì việc tra cứu thông tin LLTP được thực hiện

tại TTLLTPQG.

Trường hợp người đã được cấp phiếu LLTP kể từ ngày 01/7/2010 mà

đã được xác định không có án tích trước ngày 01/7/2010 thì khi cấp Phiếu lý

lịch tư pháp lần thứ hai cho người đó không bắt buộc phải tra cứu thông tin tại

các cơ quan Công an, Tòa án, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Quốc

phòng[9].

Xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích

Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin

về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch

tư pháp xác nhận không có án tích [30]. Như vậy, Tòa án không còn trách

nhiệm cấp Giấy chứng nhận xóa án tích đối với những người đương nhiên

được xóa án tích như trước đây nữa mà Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP

có thẩm quyền, trách nhiệm quản lý, cập nhật thông tin của người bị kết án và

31

xác nhận không có án tích trong trường hợp người bị kết án đương nhiên

được xóa án tích.

Quy định này mặc dù đặt lên vai Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP

một trách nhiệm nặng nề nhưng lại bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân khi

không phải làm đơn đề nghị hoặc phải nộp thêm bất kể giấy tờ gì cho Cơ

quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP để yêu cầu cấp phiếu LLTP mà chỉ cần thực

hiện đầy đủ các thủ tục cấp phiếu LLTP theo quy định.

TTLLTPQG, Sở Tư pháp có nhiệm vụ phối hợp với UBND cấp xã, Tòa

án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác

minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong trường hợp:

- Qua tra cứu thông tin tại cơ sở dữ liệu LLTP cho thấy người bị kết án

đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, nhưng chưa thấy thông

tin xóa án tích được cập nhật.

- Trường hợp kết quả tra cứu, xác minh thông tin tại cơ quan công an,

Tòa án để cấp phiếu LLTP cho thấy người được cấp phiếu đã từng bị kết án,

có thể đã đủ điều kiện về thời gian đương nhiên được xóa án tích nhưng chưa

có thông tin xóa án tích.

Theo quy định pháp luật hiện nay, Sở Tư pháp phải chủ động cập nhật

thông tin vào cơ sở dữ liệu LLTP, thực hiện đương nhiên xóa án tích cho

người bị kết án khi đã đủ điều kiện và cấp phiếu LLTP khi người đó có yêu

cầu, đảm bảo việc cấp phiếu LLTP được kịp thời, nhanh chóng và đẩy đủ.

1.2.3. Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

1.2.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan

Theo Điều 9 Luật LLTP quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà

nước về LLTP. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có

trách nhiệm phối hợp với Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về LLTP. Bộ

32

Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan ngang bộ trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư

pháp thực hiện quản lý nhà nước về LLTP.

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về LLTP:

- Trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo

thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về lý lịch tư pháp;

- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý

lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp; đào tạo,

bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác lý lịch tư pháp;

- Quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm lý lịch tư pháp

quốc gia;

- Bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm lý lịch

tư pháp quốc gia;

- Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp;

- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các

khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp;

- Ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý

lịch tư pháp;

- Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở

dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp;

- Thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực lý lịch tư pháp;

- Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động quản lý lý lịch tư

pháp.

UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại địa

phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

33

- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý

lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp;

- Bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho hoạt

động quản lý lý lịch tư pháp tại địa phương;

- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các

khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp;

- Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở

dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp;

- Định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động quản lý lý lịch

tư pháp tại địa phương

Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện

chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác LLTP

tại địa phương

1.2.3.2. Đối tượng quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

Đối tượng quản lý LLTP bao gồm:

Công dân Việt Nam bị kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp

luật của Toà án Việt Nam, Toà án nước ngoài mà trích lục bản án hoặc trích

lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài

cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự

hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

Người nước ngoài bị Toà án Việt Nam kết án bằng bản án hình sự đã

có hiệu lực pháp luật.

Công dân Việt Nam, người nước ngoài bị Toà án Việt Nam cấm đảm

nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong quyết định

tuyên bố phá sản đã có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, tất cả công dân Việt Nam đang cư trú, sinh sống trên lãnh thổ

Việt Nam hay cư trú, sinh sống tại nước ngoài đều là đối tượng quản lý

34

LLTP. Điều này đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước ta, quyền con

người, quyền công dân, đảm bảo sự công bằng, quản lý đầy đủ tình trạng nhân

thân của mọi người dân. Ngoài ra, người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ

Việt Nam và bị Tòa án Việt Nam kết án bằng bản án cũng chịu sự quản lý

LLTP nhằm đảm bảo trật tự xã hội, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho cơ

quan nhà nước quản lý xã hội.

1.2.3.3. Công tác xây dựng, triển khai trong quản lý nhà nước về lý lịch

tư pháp

Hệ thống Luật LLTP và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi

hành Luật LLTP đã được ban hành khá đầy đủ như Luật LLTP; Nghị định số

111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP; Thông tư số 244/2016/TT-BTC

ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý

và sử dụng phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Thông tư số 06/2013/TT-

BTP ngày 06/02/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc xây dựng,

quản lý, sử dụng và khai thác CSDL LLTP; Thông tư số 13/2011/TT-BTP

ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn sử

dụng biểu mẫu và mẫu sổ LLTP; Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày

11/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2011/TT-BTP;

Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP

ngày 10/5/2012 của hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi,

cung cấp thông tin LLTP.

Sau khi Luật LLTP được thông qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các

Bộ, ngành có liên quan tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế

hoạch triển khai thi hành Luật LLTP. Sau đó, các Bộ, ngành có liên quan và

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã ban hành văn bản

để triển khai thi hành Luật LLTP tại các Bộ, ngành, địa phương.

35

Để triển khai có hiệu quả Luật LLTP và kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn

tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật

LLTP, Bộ Tư pháp đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định về

LLTP. Tổ chức tuyên truyền dưới nhiều hình thức; kiện toàn bộ máy, nhân sự

công tác trong lĩnh vực LLTP.

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ

pháp

1.3.1. Yếu tố khách quan

1.3.1.1. Chính trị, pháp lý

Việc bảo đảm thực hiện pháp luật về LLTP phụ thuộc vào nhiều điều

kiện khác nhau, bao gồm cả những điều kiện chủ quan và điều kiện khách

quan có liên quan đến quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và môi trường

tác động của nó. Để pháp luật về LLTP trở thành công cụ điều chỉnh có hiệu

quả, thì những điều kiện bảo đảm gồm: điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội

và những điều kiện về pháp lý phải bảo đảm tính chất đồng bộ và minh bạch.

Qua thực tiễn thi hành Luật LLTP và theo quy định của pháp luật hiện hành,

có thể thấy những yếu tố thuộc về phương diện lập pháp là các điều kiện bảo

đảm thực hiện pháp luật về LLTP, cần tiến hành rà soát, kiểm tra và góp ý

xây dựng, sửa đổi các quy định về LLTP cho phù hợp hơn với điều kiện hiện

nay.

Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là định hướng có tính

chiến lược đối với sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Trong

quan hệ với pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng giữ vai trò chủ đạo,

quyết định đến nội dung của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, để cụ thể hóa

đường lối đổi mới của Đảng, nhiều đạo luật được ban hành, trong đó Luật

LLTP được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009

36

và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Sau hơn 08 năm thi hành, Luật

LLTP đã thực sự đi vào cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước,

bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính

chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư

pháp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

Trong bối cảnh chính trị, pháp lý như hiện nay, pháp luật về LLTP được

sự quan tâm đáng kể, có những định hướng cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận

lợi cho việc thực hiện pháp luật về LLTP dễ dàng hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý

nhà nước trong tình hình hội nhập, toàn cầu hóa.

1.3.1.2. Kinh tế, xã hội

Kinh tế, xã hội là một trong những yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến

việc thực hiện pháp luật về LLTP. Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh; sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh, góp

phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm thực hiện quyền công dân, góp

phần vào công cuộc hội nhập quốc tế. Trước những thực tế đó, những văn bản

quy định về LLTP và việc thực hiện pháp luật về LLTP sẽ ngày càng phát

triển để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Hiện nay, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhận thức của xã hội

ngày càng được nâng lên. Đồng thời, sự phát triển của nền kinh tế thị trường

làm cho các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, do đó sự cần thiết của Phiếu

LLTP ngày càng được khẳng định.

Thông qua thực hiện pháp luật về LLTP, nhận thức của xã hội về ý

nghĩa, giá trị của LLTP ngày càng được nâng cao, qua đó pháp luật về LLTP

trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân tư pháp khi tham gia vào

37

các quan hệ xã hội. Từ đó cho thấy, kinh tế - xã hội có tác động đến thực hiện

pháp luật về LLTP và ngược lại, pháp luật về LLTP có ý nghĩa, vai trò quan

trọng trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Những đặc điểm về kinh tế - xã hội chủ yếu nêu trên vừa là lợi thế, là

động lực phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, thách thức

cho công tác quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực, trong đó

có lĩnh vực LLTP.

1.3.2. Yếu tố chủ quan

1.3.2.1. Phẩm chất, trình độ năng lực của cán bộ, công chức

Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác LLTP là

yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP. Hoạt động

áp dụng pháp luật về LLTP của cơ quan, cán bộ, công chức và người được

Nhà nước giao quyền nếu được chú trọng và thực hiện tốt, sẽ mang lại hiệu

quả tích cực, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.

Nhận thức, năng lực áp dụng pháp luật LLTP hiện nay của cơ quan,

người có thẩm quyền được nâng lên, chất lượng được bảo đảm, hạn chế đến

mức thấp nhất các sai sót, các hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện pháp

luật LLTP. Quá trình áp dụng bảo đảm tính chính xác, khách quan, công

bằng. Các cơ quan, người có thẩm quyền đã tích cực triển khai hoạt động áp

dụng pháp luật khi cá nhân, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ. Do vậy, pháp

luật về LLTP đã được bảo đảm thực hiện tương đối tốt.

Tuy nhiên, nếu mức độ áp dụng pháp luật về LLTP của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền chưa đúng chính sách, pháp luật hoặc chậm thực

hiện. Năng lực của cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật

về LLTP hạn chế; việc phân công, bố trí cán bộ chủ quan, chưa căn cứ vào

38

trình độ, năng lực, chuyên môn được đào tạo…thì việc thực hiện pháp luật về

LLTP sẽ mang lại hiệu quả không cao, chất lượng thực hiện pháp luật kém.

Do vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, sự

phối hợp chặt chẽ của chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong việc thực

hiện pháp luật về LLTP, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ

quan từ Trung ương đến địa phương đối với LLTP cần ngày một nâng cao để

đáp ứng nhu cầu xã hội như hiện nay.

1.3.2.2. Trình độ nhận thức của người dân

Để hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP ở nước ta được diễn ra tốt,

quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức được đảm bảo thì một yếu tố

ảnh hưởng không thể thiếu là yếu tố về mặt nhận thức của người dân.

Khi người dân nhận thức được được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm

và tầm quan trọng của bản thân trong việc thực hiện pháp luật về LLTP, thì

chất lượng sử dụng pháp luật về LLTP được nâng cao, người dân sẽ nắm rõ

quy trình thủ tục, những hồ sơ cần nộp khi yêu cầu cấp phiếu LLTP, có thể

tiết kiệm được thời gian, chi phí đi lại cũng như dễ dàng hơn cho cơ quan nhà

nước, cán bộ công chức trong việc tiếp nhận hồ sơ.

Nếu người dân chưa nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của

mình, họ có thể sẽ không quan tâm nhiều đến LLTP và khi tham gia vào các

quan hệ xã hội, họ sẽ bị thiệt thòi trong việc chứng minh tình trạng nhân thân.

Từ việc không nắm rõ các quy định về pháp luật LLTP cũng làm cho việc áp

dụng pháp luật của cơ quan nhà nước khó khăn hơn, chất lượng thực hiện

pháp luật LLTP bị giảm sút.

Do vậy, cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật, nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời, bản thân mỗi cá

nhân cũng cần tự mình tìm hiểu, nắm bắt kỹ hơn các quy định của pháp luật

39

để bảo vệ quyền lợi của mình, để chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP

được bảo đảm.

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và pháp lý về thực

hiện pháp luật LLTP. Các khái niệm đã được đưa ra và làm rõ như thực hiện

pháp luật về LLTP là tổng thể các hoạt động có mục đích của các chủ thể

nhằm hiện thực hóa pháp luật về LLTP thành các hành vi thực tế, hợp pháp

của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo vệ tốt hơn quyền

con người, quyền công dân; đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật

Việt Nam. Từ đó, phân tích nội dung của thực hiện pháp luật về LLTP bao

gồm xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp phiếu

LLTP và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về LLTP. Trên cơ

sở lý luận ở chương 1, thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư

pháp tỉnh Bình Dương và phương hướng giải pháp bảo đảm thực hiện sẽ được

đề xuất trong chương 3.

40

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP

CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG

2.1. Khái quát chung về Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng

2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh

Bình Dương; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của

UBND tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về

chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.

Cùng với quá trình phát triển chung của ngành Tư pháp, Sở Tư pháp

tỉnh Bình Dương đã trải qua 37 năm xây dựng và phát triển, đạt được nhiều

kết quả trong nhiệm vụ của ngành cũng như của địa phương ở nhiều giai đoạn

khác nhau.

Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp Bình Dương được quy định cụ thể

trong Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND ngày 23/3/2015 của UBND tỉnh

Bình Dương ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.

Về lãnh đạo Sở gồm có Giám đốc Sở và không quá ba Phó Giám đốc

(hiện nay Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có hai Phó Giám đốc). Giám đốc Sở

là người đứng đầu Sở Tư pháp, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch

UBND tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Sở, việc chỉ đạo

chuyên môn, nghiệp vụ đối với Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức Tư

pháp - Hộ tịch cấp xã trên địa bàn và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn khác được giao. Phó Giám đốc Sở là người giúp Giám đốc Sở phụ

trách, chỉ đạo một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và

41

trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công. Khi Giám đốc Sở

vắng mặt, một Phó Giám đốc được Giám đốc Sở ủy nhiệm điều hành các hoạt

động của Sở.

Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có 7 phòng chuyên môn nghiệp vụ, tổ

chức tham mưu, tổng hợp bao gồm:

- Văn phòng Sở;

- Thanh tra Sở;

- Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;

- Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp

luật;

- Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Phòng Hành chính tư pháp;

- Phòng Bổ trợ tư pháp.

và 4 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở gồm:

- Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước;

- Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản;

- Phòng Công chứng số 1, số 2.

Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở hoạt động theo quy định của pháp

luật và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, chịu sự quản lý về tổ chức bộ máy, chỉ

đạo, kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ chuyên môn của Giám đốc Sở Tư pháp.

Về tình hình nhân sự, biên chế hành chính được giao cho Sở Tư pháp

hiện nay khá hạn chế, các Phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ

bố trí được từ 2-3 biên chế/Phòng. Hiện nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

được phân bổ 28 biên chế, trong đó, Phòng Hành chính tư pháp có 2 biên chế.

Thực trạng này dẫn đến những hạn chế, bất cập nhất định trong công tác lãnh

đạo, chỉ đạo, điều hành và thực hiện pháp luật của Sở Tư pháp trong nhiệm vụ

chung, cũng như nhiệm vụ LLTP.

42

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản

Thực hiện Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND ngày 23/3/2015 của

UBND tỉnh Bình Dương ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương:

Sở Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà

nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật;

kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; pháp chế; phổ biến, giáo dục

pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý

lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật;

công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại;

quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác

tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Tương ứng với chức năng như trên là những nhiệm vụ và quyền hạn

của Sở Tư pháp được quy định cụ thể tại Điều 3 Quyết định 08/2015/QĐ-

UBND, quy định như sau:

- Trình UBND tỉnh: Dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác

thuộc phạm vi thẩm quyền ban hành của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân

dân tỉnh trong lĩnh vực tư pháp.

- Trình Chủ tịch UBND tỉnh: Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập,

chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc Sở Tư pháp theo quy định của

pháp luật. Dự thảo quyết định, chỉ thị cá biệt thuộc thẩm quyền ban hành của

Chủ tịch UBND tỉnh về công tác tư pháp ở địa phương.

- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế

hoạch, chương trình, đề án, dự án trong lĩnh vực tư pháp đã được cấp có thẩm

quyền quyết định, phê duyệt.

- Các nhiệm vụ cơ bản về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; theo

dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; Tổ chức

43

thực hiện việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của Hội

đồng nhân dân và UBND tỉnh theo quy định của pháp luật; đôn đốc, hướng

dẫn, tổng hợp kết quả rà soát, hệ thống hóa chung của các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND tỉnh và của UBND cấp huyện; phổ biến, giáo dục pháp luật

và hòa giải ở cơ sở; hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và nuôi con nuôi; lý lịch tư

pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư và tư vấn pháp luật; công

chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; công tác trọng tài thương mại;

đăng ký giao dịch bảo đảm; công tác pháp chế; quản lý công tác thi hành pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính.

- Giúp UBND tỉnh hướng dẫn việc xây dựng hương ước, quy ước của

khu tổ dân phố, khu phố, ấp và một số hình thức khác (gọi chung là tổ dân

phố) phù hợp với quy định của pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ về xây dựng

xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo quy định; về thi hành án dân sự,

hành chính theo quy định của pháp luật và quy chế phối hợp công tác giữa cơ

quan tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Bộ Tư pháp ban

hành.

- Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND tỉnh thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tư

pháp, pháp luật đối với Phòng Tư pháp cấp huyện, công chức Tư pháp - Hộ

tịch cấp xã, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan theo quy định của pháp

luật.

- Kiểm tra, thanh tra đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi

hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố

cáo, phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật hoặc theo sự phân

cấp, ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh.

44

- Thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và công tác tư pháp theo quy

định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Chủ tịch UBND

tỉnh.

- Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công

tác của Văn phòng, các phòng chuyên môn nghiệp vụ và đơn vị sự nghiệp

công lập thuộc Sở Tư pháp; quản lý tổ chức bộ máy, biên chế công chức, cơ

cấu ngạch công chức, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề

nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; thực

hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng,

khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động

thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật và theo sự

phân công hoặc ủy quyền của UBND tỉnh.

Trong đó, Phòng Hành chính tư pháp được giao nhiệm vụ về công tác

LLTP:

- Xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ và sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP

tại địa phương theo quy định của pháp luật;

- Tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP do Tòa án, cơ quan Thi hành án dân

sự, các cơ quan, tổ chức có liên quan và TTLLTPQG cung cấp;

cung cấp LLTP, thông tin bổ sung cho TTLLTPQG; cung cấp thông tin LLTP

cho Sở Tư pháp khác;

- Lập LLTP, cập nhật thông tin LLTP bổ sung theo quy định;

- Cấp phiếu LLTP theo thẩm quyền.

Với tình hình cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản

của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có những ảnh hưởng, tác động không nhỏ

đến việc thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương. Từ

đó có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp phù hợp hơn để phát huy

những ưu điểm và khắc phục những hạn chế hiện nay.

45

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp của Sở Tƣ

pháp tỉnh Bình Dƣơng

2.2.1. Hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu

lý lịch tư pháp

2.2.1.1. Về mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan

Để công tác phối hợp được chặt chẽ, thường xuyên với Tòa án nhân

dân cấp tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cơ quan Công an, cơ quan có

liên quan trong quân đội, cơ quan Thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức

khác có liên quan trong cung cấp, tra cứu, xác minh, rà soát thông tin LLTP,

bảo đảm thông tin LLTP được cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy

định của Luật, Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan đã tham mưu UBND

tỉnh ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong tra cứu, xác minh, trao đổi,

cung cấp thông tin LLTP (Quyết định số 1118/QĐ-UBND ngày 16/5/2014

ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác tra cứu, xác minh, trao

đổi, cung cấp và rà soát thông tin lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình

Dương).

Đồng thời, để công tác phối hợp được đảm bảo hơn, ngày 15/5/2015,

Sở Tư pháp cũng đã ban hành Công văn số 556/STP-HCTP về việc tăng

cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu LLTP để gửi các

cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án dân sự. Xây dựng hệ thống

đầu mối thực hiện công tác lý lịch tư pháp tại 22 cơ quan cung cấp thông tin

lý lịch tư pháp trên toàn tỉnh (Cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Công an

và Viện kiểm sát); Phối hợp với các cơ quan cung cấp thông tin LLTP tiến

hành rà soát việc cung cấp, trao đổi thông tin định kỳ theo quy định.

Ngoài ra, Sở Tư pháp còn phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ

chức các hình thức phối hợp như: trao đổi ý kiến bằng văn bản; tổ chức cuộc

46

họp liên ngành (họp định kỳ 02 lần/năm hoặc họp đột xuất); liên hệ trực tiếp,

qua điện thoại, qua thư điện tử giữa các cán bộ đầu mối tại các cơ quan Tòa

án, Viện kiểm sát, thi hành án.

Để các cơ quan Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát tỉnh, Thi hành án

tỉnh kịp thời cung cấp các thông tin LLTP cho Sở Tư pháp theo đúng loại

thông tin, thời hạn cung cấp thông tin, Sở Tư pháp đã cung cấp các nội dung

pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, chức năng của từng ngành trong việc phối

hợp cung cấp thông tin và ban hành Kế hoạch tổng rà soát thông tin lý lịch tư

pháp với các cơ quan có liên quan. Ngoài ra, Sở Tư pháp cũng có công văn đề

nghị UBND cấp huyện khi ban hành Quyết định cho phép thay đổi, cải chính

hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và UBND cấp xã khi cấp giấy chứng tử

thực hiện việc gửi bản chính hoặc bản sao quyết định, giấy chứng tử đó cho

TTLLTPQG, Sở Tư pháp theo đúng thời hạn quy định.

Số lượng thông tin của các cơ quan đã cung cấp Sở Tư pháp để xây

dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP tính đến thời điểm 30/6/2018 là

hơn 100.000 thông tin [36].

2.2.1.2. Về công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những nhiệm vụ trọng tâm

của công tác LLTP nên ngay sau khi Luật LLTP có hiệu lực thi hành, Sở Tư

pháp tỉnh Bình Dương đã chủ động, phối hợp với các cơ quan có liên quan

như Tòa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Thi hành án dân sự

tỉnh và Công an tỉnh trình UBND tỉnh quy chế phối hợp liên ngành trong việc

trao đổi, rà soát, cung cấp thông tin LLTP phục vụ việc xây dựng cơ sở dữ

liệu LLTP. Theo đó, các ngành đều cử cán bộ đầu mối tra cứu, xác minh,

cung cấp thông tin LLTP. Tuy nhiên, đội ngũ này đều là kiêm nhiệm và

thường xuyên luân chuyển nên cũng ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng tra

cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo quy định.

47

Việc xử lý số lượng thông tin LLTP tại Sở Tư pháp trước khi thực hiện

Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ Tư pháp về việc tăng cường

xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP:

- Từ ngày 01/7/2010 đến 09/3/2015, số lượng thông tin chưa tiếp nhận

là 1.042 thông tin. Số lượng thông tin chưa lập LLTP, cập nhật bổ sung là

30.648 thông tin.

- Số lượng thông tin LLTP đã xử lý tính từ 01/7/2010 đến ngày

09/3/2015 là 43.086 thông tin, số lượng thông tin còn tồn đọng là 7.710 thông

tin.

Công tác tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP tại Sở Tư pháp từ ngày

10/3/2015 đến 30/6/2018:

- Số lượng thông tin Sở Tư pháp nhận được: 59.560 thông tin;

- Số lượng thông tin tiếp nhận, kiểm tra, phân loại: 59.560 thông tin;

- Số lượng thông tin lập LLTP, cập nhật bổ sung: 14.026 hồ sơ;

- Số lượng thông tin LLTP chưa tiếp nhận: 0 thông tin;

- Số lượng thông tin LLTP đã vào Sổ tiếp nhận, chưa lập LLTP, chưa

xử lý, cập nhật bổ sung thông tin LLTP: 12.760 thông tin.

(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 01 )[36].

Việc rà soát thông tin LLTP được Sở Tư pháp thực hiện định kỳ hằng

quý theo quy định của pháp luật LLTP và nhận được sự phối hợp, phản hồi

của các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án để Sở Tư pháp kịp thời cập nhật

thông tin LLTP vào cơ sở dữ liệu LLTP.

Sở Tư pháp luôn thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, kiểm soát công

tác xử lý, cập nhật thông tin, bảo đảm tính chính xác, đầy đủ của dữ liệu nhằm

nâng cao chất lượng của Cơ sở dữ liệu LLTP.

48

Về công tác lưu trữ thông tin LLTP: Tất cả các thông tin lý lịch tư pháp

tại Sở Tư pháp đều được lưu trữ điện tử và bằng văn bản giấy tại kho lưu trữ

của Sở.

2.2.1.3. Về đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp

Thực hiện Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ Tư pháp về

việc tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP,

lãnh đạo Sở Tư pháp đã quan tâm tổ chức triển khai, quán triệt nội dung Chỉ

thị tới toàn thể công chức, viên chức trong đơn vị, tạo sự thống nhất trong

nhận thức và triển khai thực hiện. Việc quán triệt lồng ghép trong cuộc họp

giao ban, Ngày pháp luật.

Thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày

28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án xây dựng Trung tâm lý lịch tư

pháp quốc gia và kiện toàn bộ máy tổ chức để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu

LLTP, UBND tỉnh đã có công văn chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện

Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, theo đó, UBND tỉnh giao

Sở Nội vụ xem xét, tham mưu UBND tỉnh bố trí đủ biên chế làm công tác

LLTP tại Sở Tư pháp. Tuy nhiên, đến nay, biên chế làm công tác LLTP vẫn

chưa được bổ sung theo quy định.

Hiện tại, do số lượng công chức Phòng Hành chính tư pháp quá ít (02

biên chế) so với khối lượng công việc, nên Sở Tư pháp đã điều động, biệt

phái viên chức từ đơn vị sự nghiệp để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, sử dụng

và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP nhưng những cán bộ này còn mới, chưa qua

đào tạo, bồi dưỡng mà chỉ tham dự tập huấn nghiệp vụ về LLTP. Hiện tại, số

lượng người làm công tác lý lịch tư pháp: 03 người. Hàng năm, Sở Tư pháp

đều cử cán bộ làm công tác LLTP tham gia các lớp tập huấn do Trung tâm lý

lịch tư pháp quốc gia – Bộ Tư pháp tổ chức. Các ngành như Tòa án, Viện

49

kiểm sát, Thi hành án, Công an đều có hướng dẫn, chỉ đạo trong ngành việc

thực hiện các quy định về pháp luật LLTP.

2.2.2. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp

2.2.1.1. Về các phương thức cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Hiện nay, Bình Dương đã triển khai các phương thức như: trực tiếp;

bưu chính và trực tuyến:

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, đáp ứng

tốt hơn yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tháng 3/2014,

được sự chấp thuận của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã ký kết với bưu điện tỉnh

về dịch vụ chuyển trả kết quả cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính.

Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015, thì Bình Dương là

một trong 06 tỉnh áp dụng thí điểm phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ

bưu chính. Do đó, để kịp thời triển khai thực hiện Đề án, Sở Tư pháp đã tham

mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về

triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính trên địa

bàn tỉnh Bình Dương.

Mặc dù Bình Dương không nằm trong các địa phương thực hiện việc

thí điểm cấp Phiếu LLTP trực tuyến nhưng thực hiện Nghị quyết số

36a/2015/NQ-CP về Chính phủ điện tử và nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách

hành chính trong lĩnh vực LLTP, rút ngắn thời gian cấp Phiếu LLTP, góp

phần tiết kiệm được thời gian đi lại, chi phí cho tổ chức và công dân có yêu

cầu và được sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh

ban hành Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về triển khai thực

hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến trên địa bàn tỉnh Bình

Dương. Tiếp đó, để thực hiện Kế hoạch trên và giúp người dân có thêm sự lựa

chọn khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP, ngày 17/6/2016, Sở Tư pháp ký kết thỏa

50

thuận hợp tác với Tổng công ty Bưu chính Viettel về việc đăng ký cấp Phiếu

LLTP trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính.

Kết quả triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu

chính và cấp Phiếu LLTP trực tuyến:

- Số lượng hồ sơ cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính là 15.960 hồ

sơ (năm 2014 là 1.970/2.723 trường hợp, chiếm 53,42%; năm 2015 là

3.465/5.089 trường hợp, chiếm 68,1%; năm 2016 là 3.538/4.678 chiếm

75.63%; năm 2017 là 2.858, đạt tỉ lệ 64,8%; năm 2018 là 4.129/5.846, đạt tỉ lệ

70,62%) [50, 51, 52].

- Số lượng hồ sơ cấp Phiếu LLTP trực tuyến là (năm 2017: 126 trường

hợp, năm 2018: 361 trường hợp) [51, 52].

Ngoài ra, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số

352/QĐ-UBND ngày 05/02/2018 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế

phối hợp thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: cấp chứng chỉ hành

nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch

tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đây cũng là một trong những phương

thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu LLTP. Kết quả

đạt được là trong năm 2018, số lượng hồ sơ liên thông thủ tục hành chính là

34 trường hợp. [39]

(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 02 ).

2.2.1.2. Về phối hợp với các cơ quan trong tra cứu, xác minh thông tin

để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Để đẩy nhanh tiến độ cấp Phiếu LLTP, hạn chế tỷ lệ trễ hẹn cấp Phiếu

LLTP, từ ngày 09/2/2015 đến nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã phối hợp

với TTLLTPQG thực hiện ứng dụng giải pháp “Kiềng ba chân” trong việc

xác minh thông tin LLTP đối với trường hợp người nước ngoài, người cư trú

tại nhiều địa phương khác nhau.

51

Đối với Công an tỉnh, Sở Tư pháp trực tiếp cử chuyên viên luân chuyển

hồ sơ (gửi và nhận kết quả) để đáp ứng tốt yêu cầu cấp Phiếu LLTP của người

dân.

Các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án thì tùy từng cơ

quan có thẩm quyền mà Sở Tư pháp thực hiện ngay việc xác minh khi cần

thiết và nhanh chóng gửi và nhận hồ sơ qua trực tiếp hoặc qua bưu điện, qua

email để đảm bảo thời gian xác minh và cấp Phiếu LLTP kịp thời theo quy

định.

Số lượng công văn xác minh thông tin án tích của Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương gửi đến các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án

dân sự, UBND cấp xã và một số cơ quan có liên quan ngày càng tăng.

2.2.1.3. Về tình hình cấp phiếu LLTP

Với yêu cầu của xã hội hiện nay, nhu cầu yêu cầu cấp Phiếu LLTP của

cá nhân, tổ chức ngày càng tăng nhanh. Dẫn đến áp lực ngày càng lớn cho đội

ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác cấp Phiếu LLTP, cũng như cán bộ

đầu mối thực hiện cung cấp thông tin LLTP phục vụ công tác cấp phiếu

LLTP. Do đó, tình trạng trễ hẹn cấp Phiếu LLTP vần còn tồn tại.

Trước thực tế đó, Sở Tư pháp đã thực hiện áp dụng giải pháp “Kiềng ba

chân” nhằm giải quyết tình trạng chậm trả lời tra cứu, xác minh thông tin

LLTP. Kể từ khi bắt đầu áp dụng giải pháp tin học hóa việc tra cứu thông tin

theo giải pháp “Kiềng ba chân” và chủ động tra cứu tại cơ sở dữ liệu tại Sở

Tư pháp, tỉ lệ trễ hẹn tại Sở Tư pháp đã giảm mạnh và bảo đảm hầu hết các

trường hợp cấp Phiếu đúng và sớm hơn thời hạn Luật định.

- Tổng số yêu cầu cấp phiếu LLTP từ ngày 01/01/2011 đến ngày

31/12/2018 là 34.228 trường hợp. Trong đó:

+ Số lượng hồ sơ trả trước hẹn là 28.731 trường hợp (chiếm tỉ lệ

83,94%)

52

+ Số lượng hồ sơ đúng hẹn là 516 trường hợp (chiếm tỉ lệ 1,51%)

+ Số lượng hồ sơ trễ hẹn là 4.981 trường hợp (chiếm tỉ lệ 14,55%)

- Tỉ lệ theo loại Phiếu LLTP số 1 và Phiếu LLTP số 2 đã cấp là:

+ Số lượng Phiếu LLTP số 2 là 8.233 trường hợp (chiếm tỉ lệ 24,18%)

+ Số lượng Phiếu LLTP số 1 là 25.812 trường hợp (chiếm tỉ lệ 75,82%)

(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 03 ) [37,38, 39, 49].

Tỉ lệ cấp Phiếu LLTP số 2 tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương rất cao. Cụ

tỉ lệ Phiếu LLTP số 1

tỉ lệ Phiếu LLTP số 2

83%

73.20%

65%

63.93%

36.07%

35%

26.80%

17%

Bình Dương

cả nước

Hồ Chí Minh

Lào Cai

thể trong năm 2017:

- Tỉnh Bình Dương cấp 4.040 Phiếu LLTP số 1, 2.279 Phiếu LLTP số 2

(Theo Báo cáo số 276/BC-UBND ngày 05/12/2017 của UBND tỉnh Bình

Dương về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017)

- Thành phố Hồ Chí Minh cấp 45.108 Phiếu LLTP số 1, 24.289 Phiếu

LLTP số 2 (Theo Báo cáo số 19260/BC-STP-VP ngày 28/11/2017 của Sở Tư

pháp Thành phố Hồ Chí Minh về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017)

- Tỉnh Lào Cai cấp 857 Phiếu LLTP số 1, 176 Phiếu LLTP số 2 (Theo

Báo cáo số 80/BC-STP ngày 11/01/2018 của Sở Tư pháp tỉnh Lào Cai về việc

tổng kết công tác tư pháp năm 2017)

53

- Cả nước cấp 331.501 Phiếu LLTP số 1, 121.335 Phiếu LLTP số 2

(Theo Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 của Bộ Tư pháp về việc tổng

kết công tác tư pháp năm 2017)

2.2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp

2.2.3.1. Về triển khai quy định trong quản lý lý lịch tư pháp

Để việc triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi

hành có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại địa

phương và phục vụ cho việc cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu,

ngày 18/5/2011, Tỉnh ủy Bình Dương đã có Công văn số 308-CV/TU về việc

triển khai Luật LLTP, tiếp đó ngày 17/10/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban

hành Công văn số 3061/UBND-NC chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện

Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.

2.2.3.2. Về đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí và

việc ứng dụng công nghệ thông tin

Việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động quản lý

LLTP được tỉnh quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng kinh phí mua sắm

trang thiết bị, phương tiện làm việc, kinh phí cho hoạt động xây dựng, quản lý

cơ sở dữ liệu LLTP của tỉnh. Đến nay, Sở Tư pháp được trang bị đầy đủ thiết

bị, máy vi tính, đường truyền, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng,

quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP. Hiện tại, Phòng Hành

chính tư pháp được bố trí 2 máy scan, 1 máy phục vụ công tác gửi xác minh

thông tin LLTP, 1 máy phục vụ công tác trao đổi, cung cấp thông tin LLTP

đến TTLLTPQG và các Sở Tư pháp khác.

Tất cả các hồ sơ LLTP đều được lưu trữ điện tử và lưu trữ bằng giấy.

Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có kho lưu trữ riêng dành cho công tác LLTP,

54

mà còn dùng chung kho lưu trữ với cơ quan. Tủ lưu trữ hồ sơ cũng chưa được

trang bị đẩy đủ, chỉ đáp ứng được 1/3 số lượng hồ sơ LLTP.

Sở Tư pháp hiện vẫn đang sử dụng Phần mềm quản lý LLTP phiên bản

dùng chung của Bộ Tư pháp, đa phần sử dụng hết các các tính năng của phần

mềm trong việc xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác và cấp Phiếu LLTP.

Từ ngày 01/3/2013 đến ngày 30/6/2018, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

đã cung cấp, trao đổi thông tin dưới dạng điện tử được khoảng 7.450 thông tin

đến TTLLTPQG [53].

Để thuận tiện trong việc nhận và gửi thông tin LLTP, Sở Tư pháp cũng

đề xuất Sở Thông tin và truyền thông cung cấp email công vụ riêng cho

phòng Hành chính tư pháp.

Việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa Sở Tư pháp với Trung tâm LLTP

quốc gia, các Sở Tư pháp khác: Kể từ Quý II/2018, Sở Tư pháp đã triển khai

việc cung cấp thông tin qua thư điện tử với các Sở Tư pháp trên cả nước.

2.2.3.3. Về công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò

của công tác LLTP

Theo chỉ đạo của UBND tỉnh việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật LLTP đã được đưa vào Kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm

của tỉnh, làm cơ sở định hướng tuyên truyền ở các ngành, địa phương. Theo

đó, Sở Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Báo,

Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến sâu

rộng nội dung của Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành đến các cấp,

các ngành, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đặc

biệt là các ngành có liên quan và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp và liên

quan đến công tác LLTP, trong đó tập trung tuyên truyền, phổ biến các nội

dung cơ bản của pháp luật LLTP. Biên soạn, phát hành 3600 tờ gấp.

55

Để người dân biết về các phương thức cấp Phiếu LLTP theo kế hoạch

1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý

lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính; Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày

12/5/2016 về triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp

trực tuyến, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương trên địa bàn thực

hiện tuyên truyền về các phương thức cấp Phiếu LLTP cho cán bộ công chức,

viên chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Đối

với phương thức này, Sở Tư pháp còn cung cấp thông tin về thủ tục, thành

phần hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho các đơn vị bưu chính để niêm yết

công khai tại các điểm bưu cục, điểm phục vụ bưu chính; ban hành văn bản

thông báo về việc đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến kết hợp với dịch vụ

nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính gửi UBND cấp huyện; các Sở, ban

ngành và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Trên cơ sở văn bản chỉ đạo của tỉnh, các Sở, ngành, UBND cấp huyện,

UBND cấp xã thực hiện việc tuyên truyền Luật LLTP. Việc tuyên truyền

được thực hiện lồng ghép thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú,

phù hợp với từng đối tượng như: đối với học sinh, sinh viên thì bằng hình

thức nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt dưới cờ, thi hái hoa dân chủ…; đối với

người lao động thì tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, đối với nhân dân thì tuyên

truyền thông qua buổi họp khu phố, cấp phát tài liệu, tuyên truyền trên hệ

thống loa phát thanh.

Tại các đơn vị bưu chính: cũng thực hiện tuyên truyền phương thức

trên qua các hình thức như: trên website của Bưu điện tỉnh, Website Tổng

Công ty Bưu điện Việt Nam; gửi nội dung truyền thông đến Công đoàn các

khu công nghiệp, phát tờ rơi tại các bưu cục…; công ty Bưu chính Viettel -

Chi nhánh Bình Dương thực hiện tuyên truyền qua các hình thức như: trên

website của công ty, đến các doanh nghiệp, qua tờ rơi…

56

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Kết quả đạt được

Sau 8 năm triển khai Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành chi

tiết, công tác LLTP tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã đạt được những kết

quả tích cực như:

- Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về LLTP được thực hiện

khá tốt, nhiều cá nhân, tổ chức biết rõ hơn về LLTP.

Sở Tư pháp đã triển khai tuyền truyền dưới nhiều hình thức khác nhau,

biên soạn tờ gấp, các tài liệu tuyền truyền; đưa nội dung phổ biến về LLTP

lên cổng thông tin điện tử của Sở, của tỉnh, trên các Đài phát thanh, đài truyền

hình; thực hiện niêm yết công khai thủ tục;… Việc tuyên truyền được thực

hiện lồng ghép thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú, phù hợp với

từng đối tượng như: đối với học sinh, sinh viên thì bằng hình thức nói chuyện

chuyên đề, sinh hoạt dưới cờ, thi hái hoa dân chủ…; đối với người lao động

thì tổ chức thi tìm hiểu pháp luật,...

- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc tra

cứu, xác minh và cung cấp thông tin LLTP cho Sở Tư pháp từng bước được

nâng cao;

Các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, UBND cấp

xã… phối hợp với Sở Tư pháp cung cấp, tra cứu, xác minh, rà soát thông tin

LLTP hiện nay khá đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Có nhiều cải cách trong công tác phối hợp, đã thực hiện việc trao đổi, cung

cấp thông tin LLTP bằng nhiều phương thức khác nhau, trực tiếp, qua đường

bưu chính hay qua thư điện tử, mang lại nhiều hiệu quả như thời hạn giải

quyết hồ sơ cấp phiếu LLTP được rút ngắn, việc cung cấp thông tin LLTP

được kịp thời,…

57

- Đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của Sở Tư pháp nhận

thức rõ vai trò và trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc xây dựng Cơ sở dữ

liệu LLTP.

Mặc dù khối lượng công việc trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử

dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và cấp phiếu LLTP ngày càng lớn, tuy

nhiên cán bộ công chức làm công tác LLTP vẫn đảm bảo thực hiện, hoàn

thành tốt được công việc. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại Sở Tư pháp

được chú trọng, nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân.

- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về LLTP được xây dựng và

triển khai tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện pháp

luật về LLTP đi vào cuộc sống.

Các văn bản triển khai, hướng dẫn thi hành đã được Sở Tư pháp tham

mưu UBND tỉnh ban hành khá đầy đủ, chi tiết. Đồng thời, Sở Tư pháp cũng

đã có các văn bản thông báo, hướng dẫn, triển khai đến địa phương, các Sở,

ban, ngành, các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trên địa bàn toàn tỉnh. Nhờ

vào đó, việc thực hiện pháp luật về LLTP của các cơ quan, nhà nước, tổ chức

cũng như của các cá nhân được dễ dàng, thuận lợi hơn.

- Tổ chức, bộ máy, nhân lực làm công tác LLTP đang từng bước được

kiện toàn.

Để đáp ứng yêu cầu công việc, Sở Tư pháp đã chủ động điều chuyển

nhân sự từ đơn vị sự nghiệp hỗ trợ công tác LLTP. Hiện nay, Sở Tư pháp tiếp

tục kiện toàn tổ chức, bộ máy; tăng cường xây dựng lề lối làm việc chuyên

nghiệp, hiện đại; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp

vụ cho đội ngũ công chức làm công tác LLTP.

- Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP được chú trọng thực hiện.

Cơ sở dữ liệu LLTP được xây dựng dưới 2 hình thức là giấy và điện tử.

Xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của

58

quản lý LLTP. Vì vậy, trong thời gian qua, Sở Tư pháp đã phối hợp với các

cơ quan có liên quan thực hiện tốt việc trao đổi, cung cấp, tiếp nhận thông tin

LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP được đầy đủ, chính xác.

- Công tác cấp Phiếu LLTP đã cơ bản đáp ứng yêu cầu của người dân

và thể hiện vai trò quan trọng của Phiếu LLTP trong quản lý nhà nước, quản

lý xã hội. Trong 08 năm thực hiện Luật LLTP (2011-2018), Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương đã cấp được 34.045 Phiếu LLTP. Ngoài ra, để tạo nhiều điều

kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp cũng đã triển khai nhiều phương

thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp như: Trực tiếp; bưu chính,

trực tuyến; đăng ký nộp hồ sơ lý lịch tư pháp trực tuyến kết hợp với nhận và

trả kết quả qua bưu điện; Trả kết quả qua hình thức: Trực tiếp, bưu chính.

- Đồng thời, Bình Dương là tỉnh đầu tiên trên cả nước thực hiện liên

thông các thủ tục hành chính: Cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa

bệnh; Cấp chứng chỉ hành nghề dược; Cấp phiếu Lý lịch tư pháp trên địa bàn

tỉnh Bình Dương.

Với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp Phiếu lý lịch tư

pháp cho tổ chức và công dân, việc triển khai phương thức liên thông các thủ

tục hành chính: cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng

chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch tư pháp là một trong những phương

thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu LLTP, giúp cá

nhân có thêm lựa chọn phù hợp khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP và tiết kiệm

được thời gian, chi phí đi lại khi liên hệ với Sở Tư pháp và Sở Y tế thực hiện

một số thủ tục hành chính.

2.3.2. Hạn chế

Thứ nhất, trong công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có

liên quan.

59

Trong thời gian qua, Sở Tư pháp nhận được sự quan tâm, phối hợp

tương đối tốt của các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát,

UBND cấp xã…trong công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án

tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số

04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012. Tuy

nhiên, công tác xác minh còn gặp khá nhiều khó khăn, vẫn còn tình trạng

chậm trả lời kết quả trong tra cứu thông tin LLTP để cấp phiếu LLTP, dẫn

đến tình trạng kết quả phiếu LLTP bị trễ so với ngày hẹn trả cho người dân.

Thông tin LLTP cung cấp đến Sở Tư pháp còn chưa đầy đủ, kịp thời, vẫn còn

những sai sót trong việc cung cấp thông tin, nên việc xây dựng cơ sở dữ liệu

tại Sở Tư pháp còn thiếu sót, chưa đầy đủ.

Việc cung cấp thông tin LLTP về án tích có trước ngày 01/7/2010 chưa

được các cơ quan liên quan kịp thời cung cấp, vẫn còn tình trạng văn bản đề

nghị cung cấp thông tin về án tích của Sở không nhận được phản hồi.

Thứ hai, trong phân bổ trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí

và nhân sự phục vụ công tác LLTP.

Thực hiện Luật LLTP, Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010

của Thủ tướng Chính phủ về Đề án xây dựng TTLLTPQG và kiện toàn bộ

máy tổ chức để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, UBND tỉnh đã có công

văn chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật, theo đó, UBND tỉnh giao Sở Nội vụ xem xét, tham

mưu UBND tỉnh bố trí đủ biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp. Tuy

nhiên, đến nay, biên chế làm công tác LLTP vẫn chưa được bổ sung theo quy

định.

Theo nội dung kiện toàn cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác lý

lịch tư pháp theo Kế hoạch triển khai Chiến lược thì trong giai đoạn 2014 –

2015 tăng cường thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy kiện toàn tổ chức, đội

60

ngũ cán bộ làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp, bảo đảm từ năm 2014-2015 bố

trí đủ biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp theo Quyết định số

2369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, nghiên cứu đề xuất bổ

sung biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp, bảo đảm phù hợp với tình

hình thực tế”. Tuy nhiên, nội dung này chưa được thực hiện trong giai đoạn

2014 – 2015. Vì vậy, Sở Tư pháp phải thực hiện việc biệt phái viên chức từ

đơn vị sự nghiệp trong Sở để làm công tác LLTP.

Hiện tại, Phòng Hành chính tư pháp có 5 người: 2 biên chế và 3 hợp

đồng được điều động, biệt phái từ đơn vị sự nghiệp, trong đó, vừa tham mưu

thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký quản lý hộ tịch, lý lịch tư pháp, quốc

tịch, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước, số lượng cán bộ đã qua đào tạo, bồi

dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp còn ít nên lượng

thông tin LLTP còn tồn đọng khá nhiều, một lượng lớn hồ sơ chưa được lập,

bổ sung đầy đủ.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm cho công tác LLTP, đặc biệt là hệ

thống Kho lưu trữ hồ sơ bằng giấy tại Sở Tư pháp chưa đáp ứng được yêu

cầu. Tại các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, kinh phí để phục vụ

cho hoạt động cung cấp thông tin LLTP để xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP đều

được lấy từ kinh phí hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Kinh

phí được trích lại Sở Tư pháp để phục vụ công tác xây dựng, quản lý, sử dụng

và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP còn chưa cao, nên việc đầu tư cơ sở vật chất,

nhân lực còn hạn chế.

Thứ ba, hoạt động cấp phiếu LLTP.

Pháp luật LLTP quy định thời hạn giải quyết hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu

LLTP là không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường

hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi

hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài, trường hợp phải tra

61

cứu, xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích thì thời hạn không

quá 15 ngày. Qua thời gian thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn

thi hành, nhận thấy, đối với công dân cư trú tại một nơi thì thời hạn giải quyết

(10 ngày) là phù hợp. Tuy nhiên, đối với những hồ sơ phải xác minh tình

trạng đương nhiên được xóa án tích thì thời hạn 15 ngày là không đảm bảo,

vì:

Thông thường, đối với những hồ sơ phức tạp: Sau khi Sở Tư pháp thực

hiện các công việc như tiếp nhận, thụ lý hồ sơ; tra cứu tại cơ sở dữ liệu của

Sở; hoàn thiện hồ sơ yêu cầu tra cứu, xác minh gửi cơ quan công an hoặc

TTLLTPQG. Sau khi có kết quả tra cứu nhưng chưa xác định rõ được nội

dung bản án, tình trạng án tích của đương sự thì Sở Tư pháp phải thực hiện

việc xác minh tại Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án, UBND cấp xã hoặc cơ

quan, tổ chức có liên quan. Thực tế việc xác minh mất nhiều thời gian hoặc

một số cơ quan có liên quan cũng không còn lưu giữ sổ sách, hồ sơ để thực

hiện việc xác minh, dẫn đến việc thời hạn xác minh phải kéo dài, ảnh hưởng

đến thời gian cấp Phiếu LLTP. Đặc biệt, có trường hợp, Sở Tư pháp phải gọi

điện thoại, gửi công văn nhiều lần nhưng không nhận được sự phản hồi. Do

đó, đối với các trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án

tích của người yêu cầu đều quá thời gian luật định.

Về phương thức cấp Phiếu LLTP trong Quyết định số 19/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ vẫn còn chưa thực sự tạo thuận lợi cho người có yêu

cầu: Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg, cho phép người dân lựa chọn hình thức

cấp Phiếu LLTP qua bưu chính hoặc đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến vẫn

phải đến cơ quan cấp Phiếu hoặc cơ quan có thẩm quyền để chứng thực giấy

tờ theo quy định (giấy tờ tùy thân, giấy tờ chứng minh về nơi cư trú, Tờ khai -

nếu là Phiếu LLTP số 2). Việc quy định như vậy, chưa tạo ra sự thuận tiện tối

62

đa cho người có yêu cầu và chưa đáp ứng hiệu quả cao trong cải cách thủ tục

hành chính.

Thứ tư, quy định về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và quản lý nhà nước về

LLTP dần xuất hiện những hạn chế.

Theo quy định của Luật LLTP, hiện nay có 2 cấp quản lý LLTP là

TTLLTPQG và Sở Tư pháp. Mô hình quản lý này rất khả thi khi mới có hiệu

lực, tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trong việc cung cấp, tiếp

nhận thông tin LLTP. Do các cơ quan ở địa phương với nhau nên dễ trao đổi

thông tin, khối lượng thông tin cũng tương đối, nên dễ dàng trong việc cung

cấp và tiếp nhận thông tin LLTP.

Tuy nhiên, dần theo sự phát triển của xã hội, lượng thông tin LLTP

ngày càng tăng, khối lượng thông tin Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan

trao đổi, cung cấp và tiếp nhận rất lớn. Đồng thời, việc trao đổi thông tin

LLTP giữa Trung ương và địa phương ngày càng nhiều, tốn rất nhiều kinh

phí, qua nhiều khâu, nhiều đầu mối nên khó đảm bảo về tính chính xác, đồng

bộ dữ liệu, bảo mật thông tin.

Việc thực hiện xây dựng mô hình quản lý cơ sở dữ liệu LLTP hai cấp

như hiện nay dẫn tới việc tra cứu thông tin qua nhiều trung gian, dẫn đến sự

chậm trễ trong cấp phiếu LLTP, thông tin LLTP không đảm bảo tính chính

xác, tính bảo mật, ảnh hưởng lớn trong việc thực hiện pháp luật LLTP.

Thứ năm, pháp luật về LLTP so với các quy định về LLTP của các luật

có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ.

Luật LLTP được ban hành năm 2009, sau 8 năm thi hành, hiện nay tình

hình đất nước đã có nhiều chuyển biến lớn về chính trị, kinh tế - xã hội, Hiến

pháp năm 2013 được ban hành và có những nội dung tư tưởng mới về việc

ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà Luật LLTP chưa kịp

cập nhật.

63

BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực và quy

định rất nhiều điểm mới như trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại,

các quy định tính đến yếu tố lỗi của người bị kết án để xem xét án tích. Trong

khi đó, Luật LLTP chỉ giới hạn LLTP của cá nhân cũng như không xét đến

yếu tố lỗi của người bị kết án, dẫn đến Luật LLTP không còn phù hợp với

những quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thứ sáu, tình trạng sử dụng phiếu LLTP số 2 đang bị lạm dụng.

Tình trạng sử dụng Phiếu LLTP số 2 không đúng mục đích ngày càng

gia tăng. Thực tế giải quyết yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho thấy, cá nhân yêu

cầu cấp Phiếu LLTP số 2 không xuất phát từ yêu cầu muốn biết về nội dung

LLTP của mình như quy định của Luật LLTP mà chủ yếu là để hoàn thiện hồ

sơ để làm một số thủ tục như: Xin việc làm, kết hôn, xuất khẩu lao động ….

theo yêu cầu của cơ quan đại diện ngoại giao một số nước như: Hoa Kỳ,

Canada, Pháp, Trung Quốc (Đài Loan), Úc; Một số trường hợp để bổ túc hồ

sơ xin việc làm theo yêu cầu của cơ quan, doanh nghiệp trong nước như chạy

xe công nghệ, hàng không…, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; một số

trường hợp để bổ túc hồ sơ xin giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật

tự theo quy định của Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính

phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư,

kinh doanh có điều kiện.

Khi Phiếu LLTP số 2 được cấp và sử dụng công khai có thể dẫn đến hệ

lụy cho cá nhân khi tái hòa nhập cộng đồng, hạn chế cơ hội tìm kiếm việc

làm, cơ hội được nhập cảnh, du học, định cư ở nước ngoài đối với người đã

từng bị kết án (mặc dù người đó đã được xóa án tích) làm hạn chế ý nghĩa

nhân đạo của chế định xóa án tích, xâm phạm bí mật đời tư của công dân.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan

64

Trong công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan

thông tin lý lịch tư pháp còn chậm, chưa được đầy đủ do một số thông tin

LLTP đã quá lâu; một số Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án không còn lưu

trữ được thông tin án tích của người đề nghị cấp Phiếu LLTP hoặc hồ sơ bị

mất mát, hư hỏng. Mặt khác, sự phối hợp trong việc tra cứu, xác minh, trao

đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại một số địa phương còn chưa nhịp

nhàng do số lượng cán bộ thực hiện công tác LLTP tại Sở Tư pháp và các cơ

quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Thi hành án,...còn ít và đều là kiêm nhiệm. Do

đó, đối với trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích

thì việc trả kết quả Phiếu LLTP thường bị trễ hơn so với ngày hẹn trả kết quả.

Hầu hết các thông tin LLTP (thông tin LLTP trước ngày 01/7/2010) do các cơ

quan này gửi cho Sở Tư pháp đều quá thời hạn luật định. Do đó, Sở Tư pháp

không thể cập nhật, bổ sung LLTP được đầy đủ và đúng thời gian quy định.

Chưa có chế tài trong trường hợp các cơ quan không cung cấp kịp thời,

đúng thời hạn các thông tin lý lịch tư pháp khi Sở Tư pháp có công văn đề

nghị xác minh về các điều kiện xóa án tích. Vì vậy, dẫn đến việc trả kết quả

đều trễ thời hạn so với quy định. Ngoài ra. quy định về thời hạn giải quyết hồ

sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.

Nhiều cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin LLTP chưa được đầu

tư kinh phí, trang thiết bị, nhân lực cho công tác này, chưa có giải pháp công

nghệ thông tin đồng bộ trong việc kết nối, chia sẻ thông tin.

Lượng thông tin LLTP ngày càng tăng, khối lượng thông tin Sở Tư

pháp và các cơ quan có liên quan trao đổi, cung cấp và tiếp nhận rất lớn nên

mô hình 2 cấp không còn phù hợp do phải qua nhiều cơ quan khác nhau.

Đồng thời, với tình hình phát triển hiện nay, dữ liệu dân cư quốc gia đang dần

hoàn thiện nên mô hình hiện tại sẽ gây khó khăn cho người dân.

65

Do Luật LLTP được ban hành khá lâu, đất nước đã có nhiều chuyển

biến lớn nên những quy định về LLTP hiện nay sẽ không còn phù hợp nữa

với các đạo luật mới được ban hành.

2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Do một số cơ quan có liên quan tâm chưa đúng mức về vị trí, vai trò

của công tác LLTP nói chung, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP nói

riêng.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả những người làm

công tác tư pháp, cán bộ lãnh đạo còn chưa đầy đủ và đúng mức về vai trò, ý

nghĩa của LLTP, cán bộ đã được tham gia đào tạo về nghiệp vụ LLTP lại điều

chuyển sang làm công việc khác theo chính sách luân chuyển cán bộ.

Bản thân các cá nhân chưa ý thức được tầm quan trọng của thông tin

nhân thân, quyền của bản thân nên họ vẫn yêu cầu cấp phiếu LLTP số 2 và

nộp cho các cơ quan. Hoặc các cơ quan, tổ chức yêu cầu cá nhân phải bổ sung

phiếu LLTP số 2 và các cá nhân đó bắt buộc phải nộp nhằm đảm bảo nhu cầu

cá nhân. Hiện nay, cũng chưa có quy định cụ thể về việc các cơ quan, tổ chức

không được yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu LLTP số 2.

Tiểu kết chƣơng 2

Chương 2 đã giới thiệu tổng quan về Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương và

đi sâu phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương. Chương đã đánh giá được những kết quả mà Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương đã đạt được như công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về

LLTP được thực hiện khá tốt; công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên

quan trong việc tra cứu, xác minh và cung cấp thông tin LLTP cho Sở Tư

pháp từng bước được nâng cao; đội ngũ công chức, viên chức, người lao động

66

của Sở Tư pháp nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của Sở Tư pháp trong

việc xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP, Sở Tư pháp cũng đã triển khai nhiều

phương thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP khác nhau tạo rất nhiều điều

kiện thuận lợi cho người dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thi

hành pháp luật về LLTP vẫn còn một số hạn chế về công tác phối hợp giữa

các cơ quan có liên quan,… Những đánh giá về thực trạng là căn cứ thực tiễn

để tác giả đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật

về LLTP tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.

67

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP TẠI SỞ TƢ PHÁP

TỈNH BÌNH DƢƠNG

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp

Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ XII, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, việc thực hiện pháp luật về LLTP ở nước ta cần được

phát triển theo hướng:

Thứ nhất, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với chủ trương,

đường lối của Đảng và Nhà nước; phù hợp với Hiến pháp, phù hợp và thống

nhất với các văn bản pháp luật hiện hành; hội nhập quốc tế, bảo đảm tính

tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cải cách

hành chính của hệ thống pháp luật về LLTP với các văn bản quy phạm pháp

luật có liên quan, đáp ứng yêu cầu thực thi Hiến pháp năm 2013, yêu cầu của

thực tiễn.

Thứ hai, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện

pháp luật về LLTP, xây dựng cơ chế cập nhật, chia sẻ, khai thác, sử dụng

thông tin về công dân giữa các cơ sở dữ liệu (Cơ sở dữ liệu LLTP, Cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu hộ

tịch). Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật nâng cao hiệu quả,

giải quyết cơ bản vấn đề nguồn nhân lực và chất lượng thông tin LLTP.

Thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế cho cơ quan quản lý

LLTP từ Trung ương đến địa phương theo hướng chuyên môn hóa, đáp ứng

68

yêu cầu nhiệm vụ; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức

làm công tác LLTP, đảm bảo tính chuyên nghiệp.

Thứ tư, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 về bảo

đảm quyền bí mật đời tư cá nhân, phát huy vai trò là công cụ pháp lý quan

trọng hỗ trợ cho hoạt động tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền,

lợi ích hợp pháp của người dân, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công

dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; khắc phục tình trạng lạm dụng trong

việc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 02; bảo đảm thực hiện chế định về đương

nhiên xóa án tích theo quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2017), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công

tác LLTP theo yêu cầu của Luật LLTP; việc cấp Phiếu LLTP chủ yếu do các

Sở Tư pháp thực hiện; đẩy mạnh việc xây dựng, quản lý, khai thác Cơ sở dữ

liệu LLTP theo hướng xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP tập trung, thống nhất.

Thứ sáu, tiếp tục cải cách thủ tục cấp Phiếu LLTP, đa dạng hóa phương

thức cấp Phiếu LLTP, đáp ứng tốt nhất yêu cầu cấp Phiếu của cá nhân, cơ

quan, tổ chức; giảm bớt gánh nặng, chi phí của người dân, chi phí xã hội trong

thực hiện thủ tục cấp Phiếu LLTP; không cổ súy, tiến tới thu hẹp dần phạm vi

các lĩnh vực yêu cầu phải có Phiếu LLTP trong thủ tục hành chính...

Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh công tác tổ chức thi hành Luật LLTP; thực

hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn 2030

được ban hành kèm theo Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của

Thủ tướng Chính phủ. Từ đó, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện pháp

luật về LLTP có hiệu quả trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai

thác cơ sở dữ liệu LLTP và hoạt động cấp Phiếu LLTP.

69

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp

3.2.1. Nhóm giải pháp chung

3.2.1.1. Bãi bỏ quy định về loại Phiếu lý lịch tư pháp số 2

Phiếu LLTP số 2 là phiếu thể hiện rõ tình trạng nhân thân của một cá

nhân; tuy nhiên, trong thực tế khi công dân khi tới giao dịch tại các cơ quan,

tổ chức, trong đó có các cơ quan, tổ chức nước ngoài, thì hầu hết các cơ quan,

tổ chức đều yêu cầu công dân phải xuất trình phiếu LLTP số 2. Do đó, bí mật

đời tư của cá nhân không được đảm bảo, xâm phạm đến quyền con người,

quyền công dân của họ. Việc tồn tại loại Phiếu LLTP số 2 như quy định hiện

hành là phức tạp, không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế [15].

Để giải quyết tình trạng lạm dụng Phiếu LLTP số 2 hiện nay, bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp và bí mật đời tư của cá nhân, không làm ảnh hưởng

tới ý nghĩa nhân đạo của chế định xóa án tích, đồng thời, để hỗ trợ hoạt động

điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng và đáp ứng yêu cầu

cung cấp thông tin LLTP của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị - xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan, quy định chặt hơn

nữa đối với Phiếu LLTP số 2. Có thể chỉ cấp Phiếu LLTP đối với người dân

có nhu cầu xem tình trạng án tích của mình và các tổ chức không được yêu

cầu người dân nộp phiếu LLTP số 2. Hoặc có thể bỏ luôn Phiếu LLTP số 2,

bổ sung quy định riêng về cung cấp thông tin LLTP theo yêu cầu cơ quan tiến

hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội

với nội dung tương tự như nội dung của Phiếu LLTP số 2 hiện nay để giải

quyết vụ việc trong hoạt động tố tụng.

3.2.1.2. Mở rộng quy định về thẩm quyền, thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư

pháp

70

Về hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP: theo quy định của Luật LLTP, thì

khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP, người yêu cầu phải nộp: (1) Tờ khai yêu cầu cấp

Phiếu LLTP; (2) Một trong số các loại giấy tờ sau của người yêu cầu cấp

Phiếu LLTP: chứng minh nhân dân; hộ chiếu (3) Sổ hộ khẩu; giấy xác nhận

thường trú; giấy xác nhận tạm trú.

Hiện nay, với nhu cầu di chuyển nơi sống thực tế của các cá nhân, cũng

như pháp luật hiện hành cho phép mọi cá nhân có quyền cư trú, đi lại, được

học tập, lao động ở nhiều địa phương khác nhau, xét thấy, cần mở rộng thẩm

quyền cấp Phiếu LLTP cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP để tạo thuận

lợi nhất cho người dân và cơ quan, tổ chức. Khi các cá nhân có nhu cầu xin

cấp Phiếu LLTP thì phải tạo điều kiện cho họ có quyền lựa chọn bất cứ cơ

quan có thẩm quyền cấp Phiếu nào hoặc thông qua mạng Internet, thông qua

Bưu điện để xin cấp Phiếu LLTP mà không phải phụ thuộc vào địa giới hành

chính. Từ đó, về thành phần hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP sẽ được giảm đi

các giấy tờ chứng minh nơi cư trú, thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hơn,

đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

Để bảo đảm phù hợp với thực tiễn cũng như những văn bản pháp luật

khác có liên quan về người dưới 14 tuổi, người không quốc tịch… đề xuất sửa

đổi về hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP đối với những đối tượng này theo

hướng người dưới 14 tuổi không cần Phiếu LLTP để chứng minh nhân thân tư

pháp, bổ sung quy định về cấp phiếu LLTP cho người không quốc tịch. Ngoài

ra, để tiết kiệm chi phí và giảm bớt khó khăn cho người nước ngoài đã từng

cư trú tại Việt Nam, việc quy định về thủ tục yêu cầu cấp Phiếu LLTP người

nước ngoài có thêm sự lựa chọn trong việc sử dụng các loại giấy tờ xác định

thời gian cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với thực tiễn và

quy định của pháp luật.

71

Để tạo thuận lợi hơn cho cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng

quản lý của ngành, cơ quan, đơn vị, đề xuất mở rộng quy định về quyền các

cơ quan nhà nước trong yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá nhân để phục vụ các

yêu cầu quản lý nhà nước của ngành, cơ quan, đơn vị.

Luật LLTP cần bổ sung quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc

yêu cầu xác nhận LLTP là pháp nhân thương mại để bảo đảm thống nhất,

đồng bộ với pháp luật khác có liên quan.

3.2.1.3. Bổ sung quy định về thời hạn của Phiếu lý lịch tư pháp

Mặc dù pháp luật về LLTP không quy định về thời hạn sử dụng Phiếu

LLTP nhưng một số văn bản chuyên nghành khác có quy định về thời hạn sử

dụng Phiếu tùy theo tính chất, lĩnh vực quản lý.

Ví dụ như trong lĩnh vực Nuôi con nuôi quy định về thời hạn có giá trị

sử dụng của giấy tờ, trong đó quy định Phiếu LLTP của người nhận con nuôi

trong nước có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày

nộp hồ sơ tại UBND cấp xã. Phiếu LLTP của người nhận trẻ em Việt Nam

làm con nuôi ở nước ngoài có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12

tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi. Phiếu LLTP của người đứng

đầu tổ chức con nuôi nước ngoài có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 06

tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi. Lãnh sự quán Hợp chủng

quốc Hoa Kỳ quy định hồ sơ xin thị thực nhập cảnh của người từ 16 tuổi trở

lên cần phải nộp Phiếu LLTP có giá trị được cấp trong vòng một năm. Tại

Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định trong thành

phần hồ sơ xin nhập, thôi và trở lại quốc tịch Việt Nam phải có Phiếu LLTP

được cấp không quá 90 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ. Ngoài ra, theo Luật

Công chứng 2014 quy định trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên

phải có Phiếu LLTP, Luật Luật sư quy định trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ

hành nghề luật sư phải có Phiếu LLTP, tuy nhiên cả hai văn bản Luật này

72

cũng không có quy định về thời hạn sử dụng Phiếu LLTP. Ngoài ra, trong

tuyển dụng công chức hiện nay, nhiều cơ quan chỉ quy định thành phần hồ sơ

phải có Phiếu LLTP mà cũng không nêu rõ là Phiếu LLTP được cấp từ thời

điểm nào.

Do đó, xuất hiện tình trạng một số cơ quan từ chối việc tiếp nhận Phiếu

LLTP do quá thời hạn sử dụng phiếu LLTP. Như vậy, thời hạn sử dụng Phiếu

LLTP hiện nay không được quy định rõ ràng, thống nhất.

Để bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật cũng như bảo

đảm tính chính xác về tình trạng án tích của đương sự, cần bổ sung quy định

về thời hạn sử dụng Phiếu LLTP cho phù hợp với quy trình tố tụng của Bộ

luật Tố tụng hình sự, tránh tình trạng từ chối Phiếu LLTP do quá thời hạn như

hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân.

3.2.1.4. Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp

Pháp luật LLTP quy định thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10 ngày,

kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu

LLTP là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở

nước ngoài, người nước ngoài, trường hợp phải xác minh về điều kiện đương

nhiên được xóa án tích thì thời hạn không quá 15 ngày. Trường hợp khẩn cấp

theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng thì thời hạn không quá 24 giờ,

kể từ thời điểm nhận được yêu cầu.

Qua thực tế giải quyết hồ sơ cấp Phiếu LLTP và để tạo điều kiện thuận

lợi nhất cho người dân, giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính, tác giả

nhận thấy có thể rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cấp Phiếu LLTP như

sau:

- Rút ngắn thời hạn cấp Phiếu từ 10 ngày xuống còn 7 ngày, kể từ ngày

nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp người được cấp Phiếu LLTP chỉ

cư trú tại một nơi duy nhất.

73

- Rút ngắn thời hạn cấp Phiếu từ 15 ngày xuống còn 10 ngày, kể từ

ngày nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp người được cấp Phiếu LLTP

đã cư trú ở nhiều nơi.

Tuy thời hạn giải quyết thủ tục hành chính rút ngắn sẽ tạo áp lực công

việc khá lớn cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện cấp Phiếu LLTP, nhưng

giải pháp này đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, giúp các cá nhân

dễ dàng hơn trong việc thực hiện thủ tục cấp Phiếu LLTP.

Ngoài ra, cũng cần bổ sung quy định thời hạn cấp Phiếu LLTP không

quá 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp phải xác

minh thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích ở nhiều cơ quan

khác nhau, Thời gian qua, hầu hết hồ sơ trễ hẹn tại Sở Tư pháp đều do Sở

phải xác minh đầy đủ tình trạng án tích của họ tại các cơ quan có liên quan, để

thực hiện xác nhận đối với người đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích. Trung

bình mỗi vụ việc, Sở Tư pháp cần phải xác minh tình trạng án tích tại 4 cơ

quan có liên quan (tối đa 8-9 cơ quan, tối thiểu 2-3 cơ quan), đòi hỏi thời hạn

cấp Phiếu LLTP đối với những trường hợp này cần dài hơn so với trường hợp

thông thường để giảm bớt áp lực cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện pháp

luật về LLTP.

3.2.1.5. Cần có chế tài phù hợp, quy định rõ trách nhiệm của các cơ

quan trong việc phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp

Theo quy định của Luật LLTP, Giám đốc TTLLTPQG, Giám đốc Sở

Tư pháp hoặc người được ủy quyền ký Phiếu LLTP và chịu trách nhiệm về

nội dung của Phiếu LLTP. Trong khi đó, để ghi được nội dung của Phiếu

LLTP thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP phải căn cứ vào kết quả tra

cứu, xác minh thông tin tại các cơ quan như cơ quan công an, cơ quan tòa án

và thông tin tại cơ sở dữ liệu LLTP (thông tin này do các cơ quan Tòa án,

công an, thi hành án dân sự,…cung cấp). Do vậy, dẫn đến tình trạng nội dung

74

của Phiếu LLTP được cấp có thể không chính xác do các cơ quan phối hợp tra

cứu, xác minh cung cấp thông tin sai hoặc cung cấp chậm, nhưng lại chưa có

chế tài cụ thể đối với các cơ quan phối hợp.

Hiện nay, Luật LLTP và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có

văn bản nào quy định về chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức là

công tác LLTP. Do đó, việc quy định rõ các cơ chế đảm bảo kiểm soát, quy

định rõ trách nhiệm, các chế tài cụ thể là rất cần thiết [18].

Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh việc quy định về nhiệm vụ của

các cơ quan trong việc phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, thực hiện tốt việc

cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, tra cứu, xác minh thông tin LLTP kịp thời,

đúng quy định để phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại Sở Tư

pháp và cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu

chung về cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng

của công dân, ta cần đưa ra các quy định cụ thể về nội dung phối hợp, trách

nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin về LLTP khi có

yêu cầu và các chế tài cụ thể đối với trường hợp không phối hợp hay phối hợp

không tốt trong công tác LLTP.

Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và các cơ quan phối hợp cần chỉ

đạo bộ phận đầu mối cung cấp, tiếp nhận, tra cứu xác minh thông tin của đơn

vị nâng cao ý thức trách nhiệm, cung cấp thông tin LLTP đầy đủ, chính xác,

kịp thời; hạn chế việc thông tin phải chuyển đi, chuyển lại để bổ sung, đính

chính. Chủ động hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành

Luật LLTP và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng

hình sự, Luật Thi hành án hình sự,… bảo đảm thực hiện thống nhất, có hiệu

quả hoạt động xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trên địa bàn tỉnh, để

phục vụ việc cấp Phiếu LLTP, giải quyết tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu

75

LLTP theo quy định của Luật LLTP nhằm đáp ứng tốt yêu cầu cấp Phiếu

LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể

3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lý lịch tư

pháp tại địa phương

Để thay đổi nhận thức của xã hội, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

của người dân là một việc làm lâu dài, thường xuyên. Do vậy, việc tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được cho là rất quan trọng, giúp các cá

nhân, tổ chức có nhận thức đúng đắn về LLTP.

Hiện nay, mặc dù Sở Tư pháp đã triển khai tuyền truyền dưới nhiều

hình thức khác nhau, biên soạn tờ gấp, các tài liệu tuyền truyền; đưa nội dung

phổ biến về LLTP lên cổng thông tin điện tử của Sở, của tỉnh, trên các Đài

phát thanh, đài truyền hình; Việc tuyên truyền được thực hiện lồng ghép

thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú, phù hợp với từng đối

tượng. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức tiếp cận

được pháp luật về LLTP, về các phương thức yêu cầu cấp Phiếu LLTP, Sở Tư

pháp cần thực hiện tuyên truyền tốt hơn nữa về các phương thức cấp Phiếu

đến mọi tầng lớp nhân dân, cơ quan, tổ chức để người dân có nhiều sự lựa

chọn khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về LLTP

nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về ý nghĩa chính trị,

pháp lý của công tác LLTP đối với việc bảo đảm và phát huy hơn nữa quyền

công dân, quyền con người của mình; làm rõ vị trí, vai trò của LLTP trong đời

sống xã hội, trong quản lý nhà nước và trong hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự

bằng nhiều hình thức mới hơn nữa tổ chức các hội thi, tuyên truyền bằng tiểu

phẩm…

76

Ngoài ra, để việc thực hiện pháp luật về LLTP được đảm bảo, thiết

nghĩ, ta cũng cần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến cán bộ, công chức, đặc

biệt là đội ngũ trực tiếp làm công tác LLTP dưới hình thức hội nghị tập huấn,

hội nghị giao ban, phát hành cẩm nang nghiệp vụ, sách hỏi đáp pháp

luật,…Các cơ quan tiếp tục thực hiện quán triệt, triển khai Luật LLTP, chỉ rõ

nhiệm vụ nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ công chức, trách nhiệm của

các cơ quan trong công tác LLTP.

3.2.2.2. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư cơ sở vật

chất xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

Để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP đáp ứng yêu cầu

của người dân, đồng thời giải quyết những hạn chế, khó khăn về nguồn nhân

lực,…thì triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng, quản lý, sử

dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những giải pháp rất quan

trọng.

Mặc dù về cơ bản, hiện nay Sở Tư pháp đã được trang bị tương đối đầy

đủ cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện pháp

luật về LLTP. Tuy nhiên, nhu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, cấp Phiếu

LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức ngày càng tăng cao, đòi hỏi cần phải tiếp

tục tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện

làm việc và kỹ thuật cho Sở Tư pháp trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP,

cấp Phiếu LLTP theo quy định. Giải pháp kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông

tin trong công tác tra cứu, xác minh thông tin phục vụ việc đăng ký cấp Phiếu

LLTP giữa Sở Tư pháp và các cơ quan: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án và thi

hành án trên phạm vi tỉnh, toàn quốc cũng cần được chú trọng.

Theo đó, Sở Tư pháp cần tập trung nguồn lực để triển khai, áp dụng

mạnh mẽ các ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp công nghệ khác

tiến tới điện tử hóa để thực hiện pháp luật về LLTP, đặc biệt là trong hoạt

77

động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu

LLTP. Triển khai ứng dụng rộng rãi chữ ký số để nâng cao chất lượng, hiệu

quả giải quyết công việc giữa Sở Tư pháp và các cơ quan phối hợp.

Cần phối hợp với TTLLTPQG để ứng dụng giải pháp cung cấp, truyền

tải thông tin LLTP bằng dữ liệu điện tử, tiến tới không sử dụng việc cung cấp

thông tin LLTP bằng văn bản giấy; Nâng cấp hoàn chỉnh Phần mềm quản lý

LLTP dùng chung và phần mềm đăng ký Phiếu LLTP trực tuyến đáp ứng yêu

cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP [16, 21]. Đồng thời, cần

phối hợp với các cơ quan có liên quan trên địa bàn tỉnh từng bước triển khai

xây dựng, ứng dụng CNTT kết nối, chuyển dữ liệu LLTP điện tử giữa Sở Tư

pháp và các đơn vị phối hợp cung cấp thông tin trên địa bàn tỉnh nhằm tiết

kiệm kinh phí, hạn chế tối đa sai sót trong việc trao đổi, cung cấp thông tin

LLTP bằng giấy. Ngoài ra, còn giúp cán bộ làm công tác LLTP của Sở Tư

pháp giảm được thời gian, chi phí trong việc phải di chuyển giữa cơ quan Sở

Tư pháp và Công an tỉnh để chuyển hồ sơ và nhận kết quả tra cứu, xác minh

thông tin LLTP.

Bên cạnh đó, để đảm bảo công tác LLTP được thực hiện một cách kịp

thời, có hiệu quả thì cần cấp kinh phí hợp lý, đảm bảo nhân lực, vật lực thực

hiện. Đồng thời, cần trang bị cơ sở vật chất cần thiết như máy tính, máy scan,

kho lưu trữ riêng…tại Sở Tư pháp và các cơ quan phối hợp khác nhằm tạo

thuận lợi trong việc trao đổi cung cấp thông tin được kịp thời, nhanh chóng.

3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại,

kiến nghị của người dân

Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về LLTP, các đơn vị có liên

quan cần tăng cường phối hợp với Sở Tư pháp đẩy mạnh công tác thanh tra,

kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra liên ngành để nắm bắt tình hình thi hành Luật

LLTP và các văn bản pháp luật có liên quan quy định chi tiết, hướng dẫn thi

78

hành Luật tại đơn vị mình nhằm kịp thời chỉnh sửa các sai sót, tránh diễn biến

phức tạp; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp

luật trong hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP; giúp cơ quan, tổ chức, cá

nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật LLTP; phát huy nhân tố tích cực;

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP;

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,

cá nhân. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, công

chức, viên chức trong triển khai thi hành Luật LLTP, kịp thời phát hiện những

bất cập trong hoạt động LLTP và có giải pháp để khắc phục.

Ngay sau khi Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 của Ủy

ban nhân dân tỉnh về triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp

qua dịch vụ bưu chính và Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về

triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến trên

địa bàn tỉnh Bình Dương, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời ban hành Quyết

định công bố, công khai thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp và chỉ đạo Sở Tư

pháp niêm yết công khai, tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của công dân

về thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Sở Tư pháp cần kịp thời xử lý các phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ

chức về các quy định hành chính có liên quan đến LLTP nhằm phát hiện các

sai sót, khó khăn, vướng mắc; chấn chỉnh, khắc phục kịp thời các sai sót xử lý

các hành vi gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục hành

chính, bảo đảm chất lượng, hiệu quả ngày càng cao của công tác LLTP nhằm

đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.

3.2.2.4. Tiếp tục triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính

cấp Phiếu lý lịch tư pháp với các thủ tục có liên quan

Hiện nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh đi đầu

trong việc triển khai phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết

79

quả cấp Phiếu LLTP, đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số

352/QĐ-UBND ngày 05/02/2018 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế

phối hợp thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: cấp chứng chỉ hành

nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch

tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả

cao và được công nhận.

Để tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo nhiều điều kiện thuận lợi

cho người dân, Sở Tư pháp cùng các cơ quan có liên quan cần tiếp tục đề xuất

triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính mới.

Theo pháp luật hiện hành, có rất nhiều thủ tục hành chính yêu cầu trong

thành phần hồ sơ có Phiếu LLTP như thủ tục hành nghề luật sư, công chứng,

bán đấu giá, giám định tư pháp, giấy phép an ninh trật tự, giấy phép lao

động,…Do đó, dựa theo tình hình thực tế, ta có thể phối hợp với cơ quan công

an triển khai phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp

Phiếu LLTP, thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Cấp giấy phép an

ninh trật tự, cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Hoặc

phối hợp với Sở Lao động thương binh và xã hội triển khai phương thức mới,

thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Cấp giấy phép lao động, cấp

Phiếu lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương,…

3.2.2.5. Triển khai thêm các phương thức nộp hồ sơ làm thủ tục cấp

Phiếu lý lịch tư pháp

Để tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương đã triển khai nhiều phương thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP

như: Trực tiếp; bưu chính, trực tuyến; đăng ký nộp hồ sơ LLTP trực tuyến kết

hợp với nhận và trả kết quả qua bưu điện; Trả kết quả qua hình thức: Trực

tiếp, bưu chính. Cụ thể:

80

Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015, Bình Dương là một

trong 06 tỉnh áp dụng thí điểm phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu

chính. Căn cứ Quyết định trên, ngày 23/6/2015 UBND tỉnh Bình Dương đã

ban hành Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai thực

hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính trên địa bàn tỉnh Bình

Dương.

Thực hiện Nghị quyết số 36a/2015/NQ-CP về Chính phủ điện tử, căn

cứ vào tình hình, điều kiện thực tế tại địa phương và nhằm tiếp tục đẩy mạnh

cải cách hành chính trong lĩnh vực LLTP, giúp người yêu cầu cấp Phiếu

LLTP có nhiều lựa chọn về các phương thức cấp Phiếu LLTP, ngày

12/5/2016, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày

12/5/2016 về triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp

trực tuyến trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

Thực hiện Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai

thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính trên địa

bàn tỉnh Bình Dương, ngày 28/7/2015, Sở Tư pháp và Bưu điện tỉnh Bình

Dương ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ nhận chuyển phát hồ sơ, kết quả

hành chính công qua dịch vụ bưu chính.

Tiếp đó, thực hiện Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về

triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến trên

địa bàn tỉnh Bình Dương, ngày 17/6/2016, Sở Tư pháp ký kết thỏa thuận hợp

tác với Tổng công ty Bưu chính Viettel về việc “đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư

pháp trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính”.

Đồng thời, để tiếp tục góp phần thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giúp cá

nhân, tổ chức có thêm lựa chọn phù hợp khi yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư

pháp, ngày 28/02/2017, Sở Tư pháp tiếp tục ký kết với Bưu điện tỉnh Bình

Dương về triển khai dịch vụ đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến kết

81

hợp với dịch vụ nhận hồ sơ, trả kết quả qua bưu chính. Đây là đơn vị thứ 02

mà Sở Tư pháp ký kết về triển khai dịch vụ đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp

trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ, trả kết quả qua bưu chính.

Như vậy từ năm 2015 – 2016, trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã triển

khai các phương thức cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính (được

giao thí điểm) và đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua trực tuyến (chủ động

phối hợp với Bộ Tư pháp để triển khai thực hiện).

Tuy nhiên, với những phương thức nộp hồ sơ trên, người dân đều phải

có mặt tại cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu LLTP hoặc cơ quan có thẩm

quyền chứng thực các giấy tờ. Trong thời gian tới, Sở Tư pháp cần tiếp tục

triển khai phương thức cấp Phiếu LLTP mới, thuận tiện cho người dân

hơn[11]. Ở phương thức mới này, người dân không phải đến cơ quan, tổ chức

nào mà có thể ở bất cứ nơi đâu, quốc gia, vùng lãnh thổ nào cũng có thể truy

cập mạng và yêu cầu cấp Phiếu LLTP.

3.2.2.6. Củng cố công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan

khác có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp

Một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến công tác

LLTP, đó chính là cơ chế phối hợp. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã chủ

động, phối hợp với các cơ quan có liên quan như Tòa án nhân dân tỉnh, Viện

Kiểm sát nhân dân tỉnh, Thi hành án dân sự tỉnh và Công an tỉnh trình UBND

tỉnh quy chế phối hợp liên ngành trong việc trao đổi, rà soát, cung cấp thông

tin lý lịch tư pháp phục vụ việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Quyết

định số 1118/QĐ-UBND ngày 16/5/2014 ban hành Quy chế phối hợp liên

ngành trong công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp và rà soát thông

tin lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương). Mặc dù việc phối hợp giữa

Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin LLTP

khá tốt, mang lại nhiều hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn

82

chế, bất cập, làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác LLTP trong

thời gian vừa qua.

Để triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành

Luật có hiệu quả, Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan cần tiếp tục phối

hợp tốt hơn nữa nhất là trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác

cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, cơ quan, tổ chức [22].

Theo đó, các bên cần quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế

phối hợp đã được các bên thống nhất, ký ban hành. Chủ động hướng dẫn, tháo

gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật LLTP và các quy định có liên

quan. Chỉ đạo bộ phận đầu mối cung cấp, tiếp nhận, tra cứu xác minh thông

tin của đơn vị nâng cao ý thức trách nhiệm, cung cấp thông tin LLTP đầy đủ,

chính xác, kịp thời; hạn chế việc thông tin phải chuyển đi, chuyển lại để bổ

sung, đính chính. Bảo đảm thực hiện thống nhất, có hiệu quả hoạt động xây

dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác

hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn nghiệp vụ LLTP không chỉ

cho cán bộ làm công tác LLTP mà cho cả cán bộ làm nhiệm vụ phối hợp tra

cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin tại các cơ quan có liên quan trên

địa bàn tỉnh.

83

Tiểu kết chƣơng 3

Dựa trên cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về LLTP và những đánh

giá về thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương giai đoạn 2010-2018, tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải

pháp như: Bãi bỏ quy định về loại Phiếu LLTP số 2; Mở rộng quy định về

thẩm quyền, thủ tục cấp Phiếu LLTP; Bổ sung quy định về thời hạn của Phiếu

LLTP; Cần có chế tài phù hợp, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong

việc phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Tăng cường ứng dụng công

nghệ thông tin, đầu tư cơ sở vật chất xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp;

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, kiến nghị của

người dân; Tiếp tục triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính cấp

Phiếu LLTP với các thủ tục có liên quan; Triển khai thêm các phương thức

nộp hồ sơ làm thủ tục cấp Phiếu LLTP…

Từ những đề xuất các giải pháp chung tới các giải pháp cụ thể về đảm

bảo thực hiện pháp luật về LLTP sẽ hỗ trợ cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu

nói chung và Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương nói riêng nâng cao hiệu quả trong

hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và hoạt

động cấp Phiếu LLTP.

84

KẾT LUẬN

Lý lịch tư pháp đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân

tư pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Do vậy, trước yêu cầu

của thực tiễn phát triển đất nước, với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính,

cải cách tư pháp, đảm bảo thực hiện quyền công dân, tăng cường tiến trình hội

nhập khu vực và quốc tế, việc thực hiện pháp luật về LLTP vẫn còn những hạn

chế không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hoàn thiện pháp

luật về LLTP và đảm bảo thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương là một yêu cầu tất yếu, mang tính khách quan. Thực hiện pháp

luật về LLTP là một hoạt động có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,

nhiều lĩnh vực, do vậy cần phải được quan tâm đúng mức và cần phải có các

giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về LLTP.

Mặc dù, việc thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương đã được chính quyền địa phương quán triệt, chỉ đạo, phối hợp triển

khai thực hiện nghiêm túc, mang lại một số hiệu quả nhất định, góp phần

nâng cao chất lượng hoạt động của ngành tư pháp theo hướng hiện đại hơn,

minh bạch hơn, thuận lợi hơn cho người dân. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những

hạn chế mà việc thực hiện pháp luật về LLTP gặp phải như công tác phối hợp

giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan còn gặp nhiều khó khăn, chưa

thật sự nhịp nhàng; việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích cho các

cá nhân để họ tái hòa nhập cộng đồng còn khó khăn; công tác xây dựng, quản

lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu LLTP còn hạn chế, chưa khai thác hiệu

quả; tình trạng lạm dụng phiếu LLTP số 2 xảy ra làm đời tư cá nhân bị xâm

phạm; tình trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác LLTP còn hạn chế; các văn

85

bản quy phạm pháp luật về LLTP chưa thống nhất, dần xuất hiện những bất

cập, hạn chế,...

Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp

luật LLTP kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đưa ra

các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp

tỉnh Bình Dương. Công tác thực hiện pháp luật về LLTP sẽ được cải thiện

hơn, từ đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho người dân khi thực hiện các

hoạt động liên quan đến LLTP.

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Hùng Anh (2017), Bàn về việc hoàn thiện pháp luật lý lịch tư

pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số

chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.

2. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016

quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin

lý lịch tư pháp.

3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2015), Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015

về việc tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác CSDL LLTP.

4. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày

06/02/2013 hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác CSDL

LLTP.

5. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 13/2011/TT-BTP ngày

27/6/2011 về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu sổ LLTP.

6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày

11/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2011/TT-BTP.

7. Bộ Tư pháp, Bộ Công an (1999), Thông tư liên tịch số

07/1999/TTLT/BTP-BCA ngày 08/02/1999 quy định cấp Phiếu LLTP.

8. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Bộ công an, Bộ quốc phòng (2012), Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-

TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của hướng dẫn trình tự, thủ

tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP.

9. Chính phủ (2010), Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP, Hà Nội.

10. Đỗ Văn Chỉnh (2010), Luật Lý lịch tư pháp với công tác Tòa án, Tạp

chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 6.

87

11. Phạm Quang Đại (2017), Dịch vụ hành chính công trực tuyến phục

vụ người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ

và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.

12. Phương Văn Đông (2011), Lý lịch tư pháp từ một góc nhìn, Tạp chí

Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 2.

13. Trần Văn Đức (2017), Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh

Nam Định, Luận văn thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia,

Hồ Chí Minh.

14. Hoàng Giai Giai (2017), Một số thành tựu trong thi hành pháp luật

về lý lịch tư pháp thời gian quan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp,

số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.

15. Nguyễn Thị Thu Hằng (2014), Xung quanh vấn đề cấp Phiếu Lý lịch

tư pháp số 2, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch

tư pháp.

16. Trần Thị Thu Hằng (2012), Tiếp nhận, xử lý và cung cấp thông tin

Lý lịch tư pháp, thực tiễn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.

17. Nguyễn Quốc Hoàng (2017), Hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực

hiện pháp luật lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số

chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.

18. Vũ Đức Hùng (2017), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số

chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.

19. Hoàng Quốc Hùng (2017), Lý lịch tư pháp và pháp luật về lý lịch tư

pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về

lý lịch tư pháp.

88

20. Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (2011), Một số vấn đề về hoạt động

đào tạo nghiệp vụ công tác Lý lịch tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật,

Học viện Tư pháp, số 2.

21. Đỗ Thị Thúy Lan (2012), Xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư

pháp theo yêu cầu của Luật Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ

Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.

22. Đỗ Thị Thúy Lan (2014), Thực tiễn công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu

Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4.

23. Đỗ Thị Thúy Lan (2014), Lý lịch tư pháp và vấn đề bảo đảm quyền

con người, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Bảo đảm

quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp.

24. Đỗ Thị Thúy Lan (2017), Lý lịch tư pháp và vấn đề xóa án tích, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư

pháp.

25. Nguyễn Huy Mạ (2014), Vai trò của cơ quan Công an trong tra cứu,

xác minh thông tin để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.

26. Nguyễn Minh Phương (2008), Pháp luật về Lý lịch tư pháp của một

số nước trên thế giới, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 10.

27. Nguyễn Thị Minh Phương (2014), Thực tiễn công tác phối hợp tra

cứu, xác minh để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ

Tư pháp, số chuyên đề 4.

28. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ biên), (2007), Giáo trình Lý luận chung về

Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Hưng Quốc (2017), Pháp luật về lý lịch tư pháp ở Việt Nam

qua các thời kỳ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề

Pháp luật về lý lịch tư pháp.

89

30. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự.

32. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

33. Quốc hội (2009), Luật Lý lịch tư pháp.

34. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự.

35. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự.

36. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 102/BC-STP ngày

28/8/2018 về việc sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày

09/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tăng cường xây dựng, quản lý,

sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

37. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo thống kê năm 2016.

38. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo thống kê năm 2017.

39. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2019), Báo cáo thống kê năm 2018.

40. Đặng Thanh Sơn (2011), Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung

tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và những vấn đề đặt ra tại thời điểm mới thành

lập, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 2.

41. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày

28/12/2010 phê duyệt Đề án “Xây dựng Trung tâm LLTP quốc gia và kiện

toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý CSDL LLTP”.

42. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày

19/02/2013 phê duyệt Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn

2030.

43. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày

08/01/2015 phê duyệt Đề án thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính,

đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến.

90

44. Đào Thị Minh Thủy (2014), Công tác cung cấp thông tin Lý lịch tư

pháp của Tòa án, thực trạng và một số kiến nghị, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4.

45. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội (1998), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

46. Hoàng Quốc Tuấn (2017), Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật lý lịch tư

pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về

lý lịch tư pháp.

47. UBND tỉnh Bình Dương (2014), Quyết định số 1118/QĐ-UBND

ngày 16/5/2014 ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác tra

cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp và rà soát thông tin lý lịch tư pháp trên địa

bàn tỉnh Bình Dương.

48. UBND tỉnh Bình Dương (2015), Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND

ngày 23/3/2015 của ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.

49. UBND tỉnh Bình Dương (2016), Báo cáo số 18/BC-UBND ngày

18/2/2016 về việc tổng kết 5 năm thi hành Luật LLTP và 4 năm thi hành Nghị

định số 111/NĐ-CP trên địa bàn Bình Dương.

50. UBND tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo số 21/BC-UBND ngày

03/3/2017 về việc Sơ kết 02 năm triển khai thực hiện thực hiện Quyết định số

19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ “Đề án thí điểm cấp

Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư

pháp trực tuyến”.

51. UBND tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo số 276/BC-UBND ngày

05/12/2017 về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017 và nhiệm vụ, giải

pháp công tác năm 2018.

91

52. UBND tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 285/BC-UBND ngày

26/11/2018 về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2018 và phương hướng,

nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019.

53. UBND tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 291/BC-UBND ngày

04/12/2018 về việc Sơ kết 5 năm thực hiện “Chiến lược phát triển lý lịch tư

pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số

338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng chính phủ) trên địa bàn tỉnh

Bình Dương.

54. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách

Khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội

92

PHỤ LỤC 1

Số lƣợng thông tin lý lịch tƣ pháp (LLTP) nhận đƣợc

Số lƣợng thông tin LLTP chia theo khâu xử lý

Giai

đoạn

Chia theo cơ quan cung cấp

Tiếp nhận, kiểm tra, phân loại

Lập LLTP, cập nhật bổ sung

Tòa án các cấp

Chia ra

Chia ra

Đã tiếp nhận, kiểm tra,

Tổng

Thông

phân loại

Tòa án

Đã lập LLTP

Đã cập nhật TTLLTP bổ sung

số

Chƣa

tin về

Viện

quân

(3) +

lập

Trung

cấm

Kiểm

sự

Tổng

(4) +

LLTP,

Cung

quan

tâm Lý

Tổng

đảm

Đã

Chưa

sát

quan

Trung

số

Chưa

Đã

(5) +

cập

cấp

Thi

lịch tư

số

nhiệm

Chưa

lưu

lưu

Đã

Chuyển

nhân

Công

ương

(17) +

Thông

kiểm

lưu

(6) +

nhật

cho

hành

pháp

(11) +

chức

lưu hồ

Đã gửi

vào

vào

gửi

Tổng

lập

dân

an cấp

và các

(21) +

tin về

tra,

Tổng

hồ sơ

Tổng

(7) +

TTLL

TTLLT

án dân

quốc

(15)

vụ,

cho

hồ sơ

hồ sơ

cho

số

LLTP,

cấp

huyện

(25)

án tích

phân

số

LLT

số

(8) +

TPBS

PQG

sự

gia

thành

LLTP

Trung

LLT

LLT

Trun

(12) +

Thông tin

tỉnh

quan

loại

(18)

P

(22)

(9)

và các

lập,

tâm

bằng

P

P

g

(14)

LLTP bổ

khác

+

bằng

+

Sở Tư

quản lý

LLTP

văn

bằng

bằng

tâm

sung

(19)

văn

(23)

pháp

DN,

QG

bản

văn

văn

LLT

bản

khác

HTX

giấy

bản

bản

PQG

giấy

giấy

giấy

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)

(10)

(11)

(12)

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

(19)

(20)

(21)

(22)

(23)

(24)

(25)

Trước

khi có

40303

25164

4

0

144

12881

937

2173

41303

40261

32389

7872

1042

32389

1525

1525

0

1525

216

216

0

216

30648

chỉ thị

02/CT-

BTP

Sau khi

có chỉ

59560

30830

27

0

515

21386

2316

4486

59560

59560

26786

32774

0

26786

9822

9822

0

9822

4204

4204

0

4204

12760

thị02/C

T-BTP

(Theo Báo cáo số 102/BC-UBND ngày 28/8/2018 của UBND tỉnh Bình Dương)

90

PHỤ LỤC 2

Số lƣợng hồ sơ cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bƣu chính và trực tuyến

Số lƣợng Hồ sơ cấp Phiếu LLTP Hồ sơ cấp Phiếu LLTP

Năm qua dịch vụ bƣu chính qua trực tuyến

2014 1.970

2015 3.465

2016 3.538

2017 126 2.858

2018 361 4.129

(Theo Báo cáo số 21/BC-UBND ngày 3/3/2017 của UBND tỉnh Bình Dương;

Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2017, năm 2018 của Sở Tư pháp tỉnh

Bình Dương)

91

PHỤ LỤC 3

Số lƣợng Phiếu LLTP đã cấp của Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng

Loại phiếu Phiếu số 1 Phiếu số 2 Tổng cộng

(Phiếu) Năm

2.155 2.155 01/10/2010-

30/9/2011

1.767 1.767 01/10/2011-

30/9/2012

2.373 639 3.012 2013

3.054 778 3.832 2014

4.010 947 4.957 2015

3.412 1.175 4.587 2016

4.040 2.279 6.319 2017

5.001 2.415 7.416 2018

(Theo Báo cáo thống kê năm 2016, 2017, 2018 của Sở Tư pháp tỉnh Bình

Dương; Báo cáo số 18/BC-UBND ngày 18/2/2016 của UBND tỉnh Bình Dương)

92