BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ BẢO KHUYÊN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP
CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ BẢO KHUYÊN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP
CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ với đề tài “Thực hiện pháp luật về
lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương” là công trình nghiên cứu
khoa học của cá nhân tôi. Các thông tin, số liệu được sử dụng trong luận văn
là trung thực, có trích dẫn rõ ràng.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình!
TP.Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bảo Khuyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với
đề tài “Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được
sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cô, bạn bè và người thân. Qua
đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian vừa
qua.
Tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS.
Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Trưởng khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ
sở, Học viện Hành chính Quốc gia, người hướng dẫn khoa học, đã hết sức
nhiệt tình định hướng và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành
cảm ơn quý thầy cô Học viện Hành chính Quốc gia, đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và viết luận văn.
Trân trọng cảm ơn Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã tạo điều kiện, hỗ
trợ, cung cấp thông tin để tôi hoàn thành luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, bản thân sẽ
không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy cô, đồng nghiệp và quý bạn đọc./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bảo Khuyên
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Mở đầu...............................................................................................................1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LÝ LỊCH TƢ PHÁP ....................................................................................... 7
1.1. Khái quát về lý lịch tƣ pháp và thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp .............................................................................................................. 7 1.1.1. Các khái niệm .................................................................................. 7 1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp .................... 12
1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp ........................ 15
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp ............................. 19
1.2.1. Xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ................................................................................................................. 19
1.2.2. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp .............................................................. 25
1.2.3. Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp ............................................. 32
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp 36 1.3.1. Yếu tố khách quan ......................................................................... 36
1.3.2. Yếu tố chủ quan ............................................................................ 38
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG .................................... 41
2.1. Khái quát chung về Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng ......................... 41
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương ........................ 41
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản ......................................................... 43
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp của Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng ........................................................................................ 46
2.2.1. Hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp .............................................................................................. 46
2.2.2. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp ............................................. 50
2.2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp ............................ 54
2.3. Đánh giá chung ................................................................................... 57
2.3.1. Kết quả đạt được ........................................................................... 57 2.3.2. Hạn chế .......................................................................................... 59
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế .................................................. 64
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP TẠI SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG .......................................................................................................... 68
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp .. 68
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp ........... 70
3.2.1. Nhóm giải pháp chung .................................................................. 70
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể .................................................................. 76
KẾT LUẬN…………………………………………………………...……..87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………....89
PHỤ LỤC…………………………………………………………………....94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS
Lý lịch tư pháp LLTP
TTLLTPQG Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia
UBND Uỷ ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý lịch tư pháp là nguồn thông tin chính thức về tình trạng án tích, là lý
lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm
nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp
doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.
Pháp luật về lý lịch tư pháp đã có quá trình phát triển từ rất lâu trong lịch
sử và trước yêu cầu của xã hội, Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khóa XII
thông qua ngày 17/6/2009, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Đây là
một đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền công dân và hoạt động
của các cơ quan tư pháp.
Qua quá trình thực hiện, Luật Lý lịch tư pháp đã tạo cơ sở pháp lý để
triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Những thông tin lý lịch tư
pháp cũng phát huy vai trò là công cụ quan trọng hỗ trợ cho các cơ quan nhà
nước trong quản lý dân cư, quản lý xã hội; hỗ trợ các hoạt động tố tụng hình sự,
hỗ trợ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh, thành lập, quản
lý doanh nghiệp, hợp tác xã… Đến nay có rất nhiều thủ tục hành chính có yêu
cầu Phiếu lý lịch tư pháp như cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh,
cấp chứng chỉ hành nghề dược, luật sư, nuôi con nuôi, an ninh trật tự, an ninh
hàng không,… Thông qua việc triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp, nhận
thức của xã hội về giá trị của lý lịch tư pháp ngày càng nâng cao, qua đó, lý
lịch tư pháp đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân tư pháp của
mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
1
Luật lý lịch tư pháp và việc triển khai thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp đã
đi vào cuộc sống, cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra, tuy nhiên, trước yêu
cầu của thực tiễn phát triển đất nước, với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, đảm bảo thực hiện quyền công dân, tăng cường tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế, việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp vẫn
còn những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Vẫn
còn tồn tại tình trạng kết quả phiếu lý lịch tư pháp bị trễ so với ngày hẹn trả cho
người dân; tình trạng lạm dụng Phiếu lý lịch tư pháp số 2; việc phối hợp cung
cấp thông tin lý lịch tư pháp giữa các cơ quan còn chưa nhịp nhàng, chưa đảm
bảo thời gian theo luật định, chưa có chế tài phù hợp đối với những trường hợp
chậm trễ trong công tác phối hợp; pháp luật về lý lịch tư pháp so với các quy
định về lý lịch tư pháp của luật có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ...
Bình Dương là tỉnh có nguồn đầu tư nước ngoài mạnh, hình thành các khu
công nghiệp lớn, tập trung rất nhiều dân nhập cư, nhiều thành phần xã hội sinh
sống, do đó, số lượng người phạm tội trên địa bàn tỉnh cũng rất nhiều, lượng
thông tin lý lịch tư pháp ngày càng gia tăng, dẫn đến tình trạng Sở Tư pháp chưa
cập nhật kịp thời thông tin lý lịch tư pháp; nhu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2
để làm hồ sơ an ninh trật tự cũng tăng nên dễ xảy ra tình trạng lạm dụng phiếu lý
lịch tư pháp số 2,…
Hiện nay, mặc dù Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã chủ động áp dụng các
phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu lý lịch tư
pháp; nghiên cứu, áp dụng nhiều giải pháp công nghệ thông tin nhằm nâng cao
chất lượng công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp, liên thông các thủ tục hành chính,
góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực lý lịch tư pháp nhưng
vẫn gặp phải những hạn chế, bất cập như việc xác minh điều kiện đương nhiên
xóa án tích cho các cá nhân để họ tái hòa nhập cộng đồng còn khó khăn; công
2
tác xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu LLTP còn hạn chế, chưa
khai thác hiệu quả,…
Để bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần
Hiến pháp năm 2013; đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật trong bối
cảnh một số luật liên quan đến lý lịch tư pháp mới được ban hành như: Bộ
luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật thi
hành án hình sự năm 2010, Luật phí, lệ phí năm 2015,… Đặc biệt, với mong
muốn tháo gỡ một số hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các hoạt động liên
quan đến lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, tác giả chọn đề tài
“Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có một số luận văn thạc sĩ và công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều
góc độ khác nhau về lý lịch tư pháp như:
Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam
Định, tác giả Trần Văn Đức (2017). Tác giả đã đánh giá về công tác quản lý
nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh Nam Định và nêu ra các giải pháp, đề xuất
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý lý lịch tư pháp.
Luận văn thạc sĩ So sánh vấn đề quản lý và cấp lý lịch tư pháp giữa
Vương quốc liên hiệp Anh và Việt Nam, thực tiễn và kiến nghị về công tác
quản lý lý lịch tư pháp tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Quốc Liêm (2018). Tác
giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý lý lịch tư
pháp từ việc so sánh những quy định về lý lịch tư pháp với nước Anh.
Bài “Thực tiễn công tác phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp
Phiếu Lý lịch tư pháp”, tác giả Nguyễn Thị Minh Phương, đăng trên tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số tháng 4/2014. Tác giả đã phân tích thực trạng công
tác tra cứu và xác minh thông tin nhân thân để thực hiện việc cấp Phiếu Lý
3
lịch tư pháp và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tra cứu
xác minh thông tin trong công tác cấp Phiếu Lý lịch tư pháp.
Bài “Lý lịch tư pháp và vấn đề xóa án tích”, tác giả Đỗ Thị Thúy Lan,
đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề pháp luật về lý lịch tư
pháp (2017). Thông qua các quy định về vấn đề xóa án tích của Bộ luật hình
sự, luật lý lịch tư pháp và thực tiễn thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên
xóa án tích, tác giả đã đưa ra một số đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật lý lịch tư pháp về vấn đề xóa án tích.
Bài “Xây dựng tiêu chí kiểm soát chất lượng hoạt động xây dựng, quản
lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp”, tác giả Đặng Thanh
Sơn, đăng trên Viện khoa học pháp lý, nội dung tóm tắt các đề tài nghiên cứu
khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp, tập 2 (2017). Tác giả đã nghiên cứu lý luận
và thực tiễn hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu
lý lịch tư pháp và chất lượng của hoạt động, từ đó đề xuất những tiêu chí kiểm
soát nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc kiểm soát chất
lượng của hoạt động trên.
Qua các công trình nghiên cứu trên có thể thấy, các tác giả đã nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về quản lý lý lịch tư pháp, so sánh pháp luật
lý lịch tư pháp hoặc các nghiên cứu chủ yếu tập trung một hoặc một số nội
dung cơ bản của pháp luật về lý lịch tư pháp và cũng chưa có công trình
nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu tại tỉnh Bình Dương hay nghiên cứu toàn
diện về thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng thực
hiện pháp luật lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, luận văn đưa
ra các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở
Tư pháp tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
4
- Nhiệm vụ:
Một là, phân tích các vấn đề lý luận, pháp lý trong thực hiện pháp luật
về lý lịch tư pháp.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về lý lịch tư
pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được;
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế.
Ba là, đưa ra phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động thực hiện pháp luật về lý lịch tư
pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp
+ Phạm vi về không gian: Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
+ Phạm vi về thời gian: 2010-2018
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; Tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
lý lịch tư pháp nhằm đảm bảo tính khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác
giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp thống kê: thống kê những số liệu thực tế qua các năm về
thực hiện các quy định pháp luật về lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương.
5
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả tổng hợp để có những nhận
định, đánh giá, những giải pháp, những kết luận phù hợp với cơ sở lý luận và
thực tiễn của pháp luật về lý lịch tư pháp.
Phương pháp so sánh: Đối chiếu, so sánh để có các nhận xét, đánh giá
và đưa ra các giải pháp pháp luật về lý lịch tư pháp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học và
thông tin về những vấn đề liên quan đến lý luận pháp luật về lý lịch tư pháp.
Luận văn góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật lý
lịch tư pháp, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà nghiên cứu trong
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lý lịch tư pháp.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật lý lịch tư pháp của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương. Công tác thực hiện
pháp luật về lý lịch tư pháp sẽ được cải thiện hơn, từ đó tạo nhiều điều kiện
thuận lợi hơn cho người dân khi thực hiện các hoạt động liên quan đến lý lịch
tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn: Bao gồm phần Mở đầu, nội dung luận văn,
kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp của Sở Tư
pháp tỉnh Bình Dương
Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý
lịch tư pháp tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
LÝ LỊCH TƢ PHÁP
1.1. Khái quát về lý lịch tƣ pháp và thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ
pháp
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Lý lịch tư pháp
Lý lịch tư pháp có lịch sử phát triển từ rất sớm, ngay từ thời xa xưa,
nhiều nước đã quy định việc ghi nhớ tội phạm bằng việc đánh dấu vào mặt,
xăm lên mình những dấu ấn về những tội đã phạm phải,…tùy theo mức độ
phạm tội.
Dần theo sự phát triển của xã hội, để tránh làm đau đớn, phân biệt đối
xử đối với những người phạm tội và để có những thông tin đầy đủ hơn về
người phạm tội, phục vụ tốt hơn trong tố tụng, LLTP thành văn đã ra đời thay
thế cho những hình thức ghi nhớ hình phạt nặng nề trong lịch sử.
Ở thời kỳ Pháp thuộc, Phòng lục sự là cơ quan lập, lưu giữ, cấp LLTP
thông qua đạo luật ngày 05/8/1899 về “tư pháp lý lịch và phục quyền”. Ngày
01/9/1951, Vua Bảo Đại ban hành Dụ số 14 quy định chi tiết “về lý lịch tư
pháp và phục quyền”, thuật ngữ lý lịch tư pháp chính thức được sử dụng và
quy định trong văn bản quy phạm pháp luật tại nước ta [19].
Thuật ngữ "lý lịch tư pháp" được sử dụng với nhiều các cách gọi khác
nhau ở mỗi nước. Ở các nước Phương Tây, tiếng Pháp có từ "casier
judiciaire" được hiểu là ngăn tủ có chứa đựng hồ sơ về tư pháp, là nơi lưu giữ
những thông tin về bản án hình sự, thông tin về hành chính, thương mại …;
trong tiếng Anh có từ "Criminal records" nghĩa là sự ghi nhận án tích của
7
người bị kết án hình sự; ở Đức là việc đăng ký, lưu trữ, xử lý các thông tin về
bản án hình sự của toà án, thông tin liên quan đến các quyết định của cơ quan
công tố hình sự về việc truy tố đang thực hiện đối với một cá nhân, quyết định
của cơ quan hành chính và toà án về vi phạm trong thương mại và công
nghiệp [26].
Ở Việt Nam, LLTP được định nghĩa là lý lịch về án tích của người bị
kết án bằng bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
tình trạng thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã
bị Tòa án tuyên bố phá sản [33].
Như vậy, định nghĩa LLTP bao gồm 02 nội dung:
Thứ nhất là lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản án, quyết
định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành án theo
Bộ luật hình sự.
Lý lịch là việc ghi lại trên giấy, trên sổ những thông tin về nhân thân,
hoàn cảnh, các sự kiện chủ yếu của một cá nhân nào đó trong quá khứ, hiện
tại và có thể trích xuất ra những thông tin khi cần thiết.
Án tích được hiểu là dấu vết về án hình sự của người đã bị xử và chưa
xoá án được ghi vào một quyển sổ gọi là lý lịch tư pháp để sau này, trong một
số trường hợp, cần xem xét để đánh giá đạo đức hạnh kiểm, thái độ đối với
pháp luật. Trong lý lịch của bị can, bị cáo phải ghi rõ án tích (hiện nay dùng
phổ biến từ tiền án). Khi quyết định hình phạt, toà án có thể coi việc một
người sau khi đã kết án lại phạm tội mới là một tình tiết tăng nặng. Trong một
số trường hợp được quy định cụ thể trong phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự, án tích là cơ sở để áp dụng luật về tội nặng hơn đối với người phạm tội.
Trong một số trường hợp, án tích về tội này hay tội khác sẽ dẫn đến việc hạn
chế người mang án quyền lựa chọn nơi cư trú; còn án tích về tội vụ lợi có thể
8
sẽ là một trở ngại đối với việc được nhận vào làm những việc có liên quan
đến trách nhiệm vật chất [54, tr.16].
Như vậy, nội dung ở đây là sự ghi chép lại những thông tin về việc một
cá nhân nào đó bị Tòa án kết án, tuyên là có tội trong lĩnh vực hình sự.
Thứ hai là việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý
doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa
án tuyên bố phá sản theo luật phá sản.
Không chỉ ghi nhớ thông tin về án tích trong bản án hình sự mà LLTP
còn ghi nhớ thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh
nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã. Điều này là
phù hợp bởi lẽ, LLTP sẽ được sử dụng cả khi các cá nhân có nhu cầu thành
lập doanh nghiệp hay khi các cơ quan yêu cầu cá nhân chứng minh lý lịch để
giao cho họ đảm nhận các vị trí quan trọng. Khi đó, LLTP sẽ giúp cơ quan
quản lý dễ dàng hơn trong việc điều động, sử dụng nhân sự cho phù hợp.
Trên thực tế, tồn tại khá nhiều định nghĩa về thuật ngữ LLTP trong các
văn bản khác nhau, nhưng về bản chất của các thuật ngữ này tương tự nhau là
đều ghi nhận thông tin về hình phạt mà cơ quan có thẩm quyền đã tuyên đối
với một cá nhân liên quan chủ yếu đến bản án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả, LLTP là việc ghi chép đầy đủ thông tin về
tình trạng thi hành án, về các tội phạm trước đây của một cá nhân khi họ bị
kết án bởi một bản án hình sự có hiệu lực và thông tin về việc cấm đảm nhiệm
chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản.
1.1.1.2. Pháp luật về lý lịch tư pháp
Pháp luật về LLTP trải qua quá trình phát triển lâu dài và được chia
theo nhiều giai đoạn. Giai đoạn thời kỳ Pháp thuộc và miền Nam Việt Nam
trước năm 1975, pháp luật về LLTP được quy định, tổ chức tương đối chặt
9
chẽ từ trung ương tới địa phương. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến năm 1955, do điều kiện kháng chiến nên việc quản lý LLTP ít
được chú ý. Giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1993, tuy pháp luật về LLTP đã
được quy định khá chi tiết nhưng lại không được quản lý LLTP một cách
riêng biệt. Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2005, chủ thể quản lý LLTP thay
đổi sang cơ quan Bộ Tư pháp, chưa có thêm những quy định chi tiết và vẫn
chỉ dừng lại ở các quy định chung. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay, Luật
LLTP ra đời và được hoàn chỉnh hơn về các quy phạm pháp luật LLTP [29].
Pháp luật dưới góc độ luật học được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí
chung của giai cấp thống trị, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế và là nhân tố điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp mình [28].
Pháp luật về LLTP là những quy định của nhà nước điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan đến lý lịch về án tích của người bị kết án bằng bản
án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tình trạng thi hành
án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh
nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên
bố phá sản. Cụ thể là điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa cơ quan nhà nước
với các cá nhân, tổ chức, giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong quá trình
xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP.
Pháp luật về LLTP là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật
Việt Nam, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn, góp phần điều chỉnh các quan
hệ xã hội, ổn định xã hội, giữ vững trật tự quản lý xã hội của nhà nước. Pháp
luật về LLTP bao hàm tất cả các quy phạm pháp luật điều chỉnh về trình tự,
thủ tục cung cấp, tiếp nhận, cập nhật thông tin LLTP; lập LLTP; tổ chức và
quản lý cơ sở dữ liệu LLTP; cấp Phiếu LLTP; quản lý nhà nước về LLTP.
10
Như vậy, pháp luật về LLTP đã từng bước được xây dựng và dần đi
vào cuộc sống, góp phần nâng cao chất lượng theo hướng hiện đại, chuyên
nghiệp; là những quy phạm pháp luật, cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các
quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý nhà nước về LLTP.
1.1.1.3. Thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp
Hiện nay có khá nhiều quan điểm pháp lý về thực hiện pháp luật như
“thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”[45,
tr.369-371] hay “thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi
thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [28, tr.465-466].
Các quy phạm pháp luật muốn đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả
thì cần được thực hiện thông qua hoạt động có mục đích của các chủ thể vào
các quan hệ xã hội. Hơn nữa thực hiện pháp luật còn là yếu tố không thể thiếu
của cơ chế điều chỉnh pháp luật, giúp phát huy vai trò của pháp luật và được
các chủ thể tiệp nhận, tôn trọng và tự giác thực hiện.
Như vậy, thực hiện pháp luật là tổng thể các hoạt động có mục đích của
các chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật thành
các hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể nhằm
phát huy vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thực hiện pháp luật về LLTP là tổng thể các hoạt động có mục đích
của các chủ thể nhằm hiện thực hóa pháp luật về LLTP thành các hành vi thực
tế, hợp pháp của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo vệ tốt
hơn quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013;
đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thực hiện pháp luật về LLTP là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân, trong đó, trước hết thuộc về nhà nước mà đại diện là cơ
11
quan, đội ngũ cán bộ, công chức. Các chủ thể này sẽ thực hiện nhiệm vụ xây
dựng, quản lý, khai thác cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; tuân thủ, chấp hành và
áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, sáng tạo. Đối với các cá nhân cũng có
quyền thực hiện pháp luật về LLTP nhằm chứng minh nhân thân tư pháp của
mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp
Thực hiện pháp luật về LLTP là những hành vi thực tế của các chủ thể
liên quan đến LLTP, nội dung của nó mang đặc trưng của thực hiện pháp luật
như: Là hành vi hợp pháp của các chủ thể, là hoạt động đưa ra các quy phạm
pháp luật được thực hiện trên thực tế, do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện
với nhiều các hình thức khác nhau, được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực
nhà nước, được thực hiện chặt chẽ về hình thức, nội dung. Ngoài ra, thực hiện
pháp luật về LLTP cũng có những đặc điểm riêng, cụ thể:
Một là, thực hiện pháp luật về LLTP hỗ trợ việc chứng minh nhân thân
tư pháp của từng cá nhân
Hiện nay, khi các cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội, họ thường
được yêu cầu bổ sung phiếu LLTP đề chứng minh nhân thân của mình trong
các quan hệ pháp luật. Do đó, thực hiện pháp luật về LLTP có ý nghĩa rất
quan trọng, giúp người dân thực hiện quyền của mình, đề nghị cơ quan quản
lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp phiếu LLTP. Phiếu LLTP sẽ phản ánh toàn bộ tình
trạng pháp lý của cá nhân nhằm chứng minh nhân thân của họ từ quá khứ đến
hiện tại. Do đó, các doanh nghiệp, cơ quan yêu cầu các cá nhân bổ sung thêm
phiếu LLTP để biết rõ nhân thân về phương diện pháp lý của cá nhân đó và
đảm bảo an ninh, trật tự được ổn định.
Theo quy định của BLHS, người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về một số tội phạm, người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm [30]. Vì vậy, khi một cá nhân từ đủ 14 tuổi, tất
12
cả thông tin về tình trạng án tích của họ sẽ do các cơ quan như tòa án, cơ quan
thi hành án, Công an, viện kiểm sát cung cấp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ
liệu LLTP và được cập nhật, lưu trữ tại cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP
này. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cho phép mọi cá nhân có quyền cư trú, đi
lại, được học tập, lao động ở nhiều địa phương khác nhau. Tuy nhiên, sẽ rất
khó khăn để chứng minh tình trạng án tích của cá nhân nếu không có thông
tin do các cơ quan xử lý tại địa phương đó cung cấp. Do đó, pháp luật về
LLTP và thực hiện pháp luật về LLTP tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan
tố tụng cung cấp thông tin án tích, cùng với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu
LLTP xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP.
Hai là, thực hiện pháp luật về LLTP hỗ trợ bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.
Đối với thủ tục đương nhiên được xóa án tích theo quy định trước đây,
cá nhân khi thấy mình đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, họ sẽ tự
mình liên hệ tới các cơ quan như Tòa án, cơ quan thi hành án, UBND xã nơi
cư trú, Trại giam,…để trích lục các giấy tờ nhằm chứng minh và nộp tại Tòa
án để được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích. Khi Luật LLTP và Bộ luật hình
sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, các cá nhân sẽ không cần tự mình liên hệ
tới nhiều cơ quan có liên quan nữa mà chỉ cần liên hệ tới cơ quan quản lý cơ
sở dữ liệu LLTP nộp hồ sơ cấp phiếu LLTP, còn việc xác minh tình trạng thi
hành án, thông tin xóa án tích sẽ do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP thực
hiện. Quy định này giúp quá trình thực hiện pháp luật về LLTP của người dân
được dễ dàng, tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân, tiết kiệm chi
phí đi lại, thời gian, kinh phí, đảm bảo bảo vệ quyền lợi chính đáng của cá
nhân một cách tốt nhất.
Đối với công dân, pháp luật về LLTP và thực hiện pháp luật về LLTP
có ý nghĩa đáp ứng yêu cầu của cá nhân cần chứng minh bản thân có hay
13
không có án tích, có bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã. Các thông tin LLTP giúp cá nhân thực hiện
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là công cụ hữu hiệu để mọi cá nhân
chứng minh về nhân thân, lý lịch của mình khi tham gia vào các quan hệ xã
hội. Thực hiện pháp luật về LLTP đã hỗ trợ bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, tạo ra sự công bằng, minh bạch trong các mối quan hệ, hạn chế tối
đa sự tùy tiện tước đi quyền công dân, quyền con người.
Ba là, thực hiện pháp luật về LLTP giúp quá trình thực hiện tố tụng của
các cơ quan tố tụng được thuận lợi hơn.
Theo quy định, sau khi ban hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật, các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, công an có
nhiệm vụ cung cấp thông tin LLTP cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP.
Do đó, khi các cơ quan tiến hành cung cấp thông tin đầy đủ, thì cơ sở dữ liệu
LLTP sẽ càng đầy đủ; nhưng khi các cơ quan tiến hành cung cấp thông tin
không đầy đủ, kịp thời thì cơ sở dữ liệu LLTP sẽ bị thiếu sót, dẫn đến tình
trạng quản lý không đầy đủ tình trạng án tích của cá nhân. Vì vậy, nhiệm vụ
cung cấp thông tin của các cơ quan có liên quan là rất quan trọng, tránh bỏ lọt
tội phạm.
Pháp luật về LLTP xây dựng cơ chế quản lý LLTP với mục tiêu quan
trọng là công cụ hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình
tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan Tòa án, cơ quan
thi hành án, Viện kiểm sát, công an cũng có thể yêu cầu cơ quan quản lý cơ sở
dữ liệu LLTP cung cấp thông tin án tích của cá nhân thông qua việc thực hiện
pháp luật. Đây là nguồn thông tin đáng tin cậy, đảm bảo tính chính xác cao,
đẩy đủ thông tin về tình trạng án tích. Họ có thể tùy vào tình trạng án tích
được cung cấp để biết rõ tình trạng nhân thân, có hay không có án tích, có bị
cấm hay không bị cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh
14
nhiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên
bố phá sản làm căn cứ để xác định có hay không hành vi cấu thành tội phạm
và phải chịu trách nhiệm hình sự; mức độ trách nhiệm hình sự phải gánh chịu
cũng như khả năng phải gánh chịu hình phạt và các mức hình phạt, các biện
pháp tha miễn trách nhiệm hình sự được lựa chọn. Ngoài ra, LLTP còn giúp
Thẩm phán và Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định chính xác, qua đó thể
hiện nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của công dân; giúp Kiểm sát viên
định hướng sơ bộ mức thấp nhất và mức cao nhất của hình phạt có thể được
áp dụng.
Bốn là, thực hiện pháp luật về LLTP dựa trên những quy định trong
Luật LLTP và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội đã ban hành luật LLTP để điều chỉnh mối quan hệ phát sinh
trong quá trình quản lý LLTP như mối quan hệ giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ
liệu LLTP với các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, công
an; hay mối quan hệ giữa nhà nước với các cá nhân, tổ chức trong việc cấp
phiếu LLTP.
Đồng thời, pháp luật về LLTP còn được quy định ở một số văn bản quy
phạm pháp luật khác như Bộ luật hình sự, Luật Phá sản, Luật nuôi con
nuôi,…để quy định một số nội dung như việc xóa án tích, tình trạng thi hành
án, quy định việc bị cấm hay không bị cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập,
quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã, hay điều kiện phải có phiếu LLTP để chứng
minh nhân thân. Từ đó, việc thực hiện pháp luật về LLTP được thuận lợi hơn.
1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp
Theo xu hướng pháp luật về LLTP của nhiều nước trên thế giới, nước
ta cũng có pháp luật LLTP quy định về tình trạng án tích và thông tin cấm
đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nhiệp, hợp tác xã trong trường
hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản. Chúng mang lại
15
nhiều ý nghĩa trong ghi nhận việc xóa án tích, tạo điều kiện cho người bị kết
án tái hòa nhập cộng đồng; các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể sử dụng
LLTP để phục vụ trong xử lý hình sự, áp dụng các tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; các tổ chức, doanh
nghiệp có thể thông qua LLTP để thuận lợi hơn cho việc tuyển dụng và quản
lý nhân sự; xem xét, đánh giá tư cách đạo đức của cá nhân. Thực hiện pháp
luật về LLTP có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội, cụ thể:
Một là, thực hiện pháp luật về LLTP bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân.
Khi một cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội và được yêu cầu
chứng minh nhân thân tư pháp thì thực hiện pháp luật về LLTP là chính một
hoạt động có mục đích của cá nhân nhằm chứng minh nhân thân tư pháp một
cách chính xác nhất, là bằng chứng để họ cung cấp cho cơ quan yêu cầu.
LLTP được quy định có đẩy đủ nội dung về thông tin án tích, tình trạng
thi hành án và về việc cấm cá nhân đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý
doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa
án tuyên bố phá sản. Đây là nguồn thông tin chính thức để các cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội,…có cơ sở xem xét, đánh giá để có sự lựa
chọn phù hợp cho công việc của mình.
Những thông tin LLTP này là hết sức cần thiết, đáp ứng nhu cầu chọn
lọc kỹ càng đối với một số nghành, nghề như tuyển dụng công chức, xin nhận
con nuôi, vị trí việc làm thủ quỹ, kế toán,…Do đó, hiện nay rất nhiều các tổ
chức, doanh nghiệp yêu cầu cá nhân khi ứng tuyển phải cung cấp đầy đủ
thông tin tình trạng nhân thân của mình. Tuy chưa phải là tất cả để đánh giá
một con người, nhưng những thông tin LLTP này cũng một phần nào chứng
minh đạo đức của một cá nhân không có thông tin án tích tốt hơn so với
những người có thông tin án tích.
16
Hai là, thực hiện pháp luật về LLTP nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong
việc định tội và lượng hình của Tòa án và góp phần trong công cuộc đấu
tranh, phòng chống tội phạm.
Việc xác định nhân thân của bị cáo có ý nghĩa khá lớn trong việc giúp
Tòa án có những phán quyết chính xác hơn trong quá trình xét xử đối với các
vụ án hình sự, các quy định về LLTP là cơ sở hỗ trợ Tòa án áp dụng các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối trường hợp có tiền án hay áp dụng tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với việc phạm tội lần đầu.
Thông qua việc thực hiện pháp luật về LLTP, Tòa án xem xét nhân
thân của bị cáo một cách khách quan, toàn diện, từ đó đưa ra những phán
quyết đúng đắn. Nếu không nắm rõ được nhân thân, tình trạng án tích của
những đối tượng tái phạm, có thể họ sẽ lợi dụng sơ hở để trốn tránh, ta sẽ bị
bỏ lọt tội phạm.
Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, họ cần biết không chỉ thông tin
về tình trạng nhân thân, tình trạng thi hành án, mà họ còn cần biết rõ thái độ
chấp hành hình phạt, các biện pháp bắt buộc nào đã được áp dụng với cá nhân
để có thể đưa ra các biện pháp ngăn chặn, chế tài phù hợp hơn, góp phần
trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Dựa trên việc thực hiện pháp luật về LLTP, tình hình phạm tội có thể
được thống kê và đánh giá các đặc điểm của tội phạm, diễn biến tội phạm
theo từng thời gian, từng loại tội phạm, từ đó sẽ có những biện pháp phòng
chống tội phạm, góp phần trong quản lý con người, quản lý xã hội.
Ba là, thực hiện pháp luật về LLTP có vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân
LLTP là căn cứ để thực hiện xóa án tích theo quy định của pháp luật
hình sự. Xóa án tích có ý nghĩa rất lớn về mặt pháp lý bởi vì nguyên tắc pháp
lý cơ bản nhất của xóa án tích là người được xóa án tích sẽ được coi như
17
không có án tích [24]. Điều này có nghĩa là, đối với người được xóa án tích
thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ cấp phiếu LLTP với nội dung
không có án tích cho họ.
Trước khi Luật LLTP ra đời, khi nhận thấy đủ điều kiện đương nhiên
được xóa án tích, người dân phải tự mình liên hệ đến nhiều cơ quan khác
nhau như cơ quan thi hành án, cơ quan công an, cơ quan tòa án, trại giam…
để thu thập các giấy tờ chứng minh đủ điều kiện như giấy chứng nhận chấp
hành xong hình phạt tù, giấy xác nhận thi hành án, giấy chứng nhận không
phạm tội mới,…sau đó nộp đến tòa án nơi đã xét xử trước đây để làm thủ tục
xóa án tích. Đây là một việc vô cùng khó khăn, tốn kém nhiều chi phí cho
người dân.
Sau khi Luật LLTP có hiệu lực, thay vì phải đến nhiều các cơ quan
khác nhau như trước đây, người dân khi đủ điều kiện đương nhiên được xóa
án tích và muốn thực hiện xóa án tích, chứng minh nhân thân của mình, họ
chỉ cần nộp 1 bộ hồ sơ yêu cầu cấp phiếu LLTP đến cơ quan quản lý cơ sở dữ
liệu LLTP. Tại đây, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ thực hiện việc
phối hợp tra cứu, xác minh đến các cơ quan có liên quan, cùng với việc tra
cứu cơ sở dữ liệu LLTP trên hệ thống LLTP để thực hiện cấp phiếu LLTP cho
họ. Việc thực hiện pháp luật này mang tính nhân đạo, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bởi người có án tích không phải tự mình đi đến các cơ
quan khác nhau để xin từng loại giấy tờ để chứng minh mình được xóa án
tích. Những quy định của pháp luật về LLTP và việc thực hiện pháp luật về
LLTP đã tháo gỡ những khó khăn, rào cản cho người từng bị kết án, tạo điều
kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng.
Bốn là, thực hiện pháp luật về LLTP góp phần nâng cao ý thức của đội
ngũ cán bộ, công chức đồng thời hoàn thiện thể chế về LLTP.
18
Thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật,
đội ngũ công chức nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện
pháp luật, từ đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong đời sống xã hội.
Hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP đòi hỏi vai trò, trách nhiệm của đội
ngũ công chức. Việc thực hiện nghiêm minh các chế tài xử phạt khi công
chức vi phạm sẽ có tác dụng ngăn ngừa các công chức khác không vi phạm
pháp luật LLTP, góp phần nâng cao ý thức của họ.
Đội ngũ cán bộ, công chức khi đã nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm
của mình trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về LLTP, thể chế về LLTP cũng dần được hoàn thiện.
1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp
1.2.1. Xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu lý lịch tư
pháp
1.2.1.1. Phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
Các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an, Thi hành án dân
sự có nhiệm vụ phối hợp cung cấp thông tin LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu
LLTP cho Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp. Đồng thời, UBND
cấp xã, cấp huyện cũng thực hiện cung cấp thông tin chứng tử, cải chính hộ
tịch theo quy định [8]. Thời hạn cung cấp thông tin LLTP là 10 ngày làm
việc, kể từ ngày các cơ quan, tổ chức nhận được văn bản đề nghị cung cấp
thông tin của TTLLTPQG, Sở Tư pháp hoặc kể từ ngày các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật.
Cơ chế phối hợp cung cấp thông tin LLTP được quy định rõ loại thông
tin cung cấp bao gồm cả văn bản giấy và thông tin dưới dạng điện tử, thời hạn
cung cấp, cơ quan chủ trì tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP.
19
Việc cung cấp thông tin LLTP nhằm thực hiện 2 nhiệm vụ chính của cơ
quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP là: Thông tin về án tích, tình trạng thi hành
án, các quyết định cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp,
hợp tác xã để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP; thông tin về án tích để phục vụ
công tác tra cứu, xác minh thông tin LLTP để cấp phiếu LLTP cho người có
yêu cầu. Khẳng định vai trò quan trọng của các cơ quan phối hợp trong việc
cung cấp thông tin.
1.2.1.2. Phối hợp rà soát thông tin lý lịch tư pháp
Định kỳ hằng quý, Sở Tư pháp phối hợp với các Tòa phúc thẩm, Ban
thư ký Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân
cấp huyện, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh,
Chi cục Thi hành án dân sự huyện, Phòng Hồ sơ nghiệp vụ Công an cấp tỉnh,
Công an cấp huyện (Bộ phận thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) nơi các cơ
quan này có trụ sở để thực hiện rà soát về số lượng thông tin LLTP đã cung
cấp theo quy định.
Định kỳ 06 tháng và hằng năm, TTLLTPQG phối hợp với các cơ quan
Tòa án quân sự Trung ương, Vụ hợp tác quốc tế, Vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Cục hồ sơ nghiệp
vụ Cảnh sát, Cục theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ
Công an, Trại giam, Trại tạm giam, Phòng cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ
trợ tư pháp công an cấp tỉnh, Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
Vụ thống kê tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao thực hiện rà soát về số lượng
thông tin LLTP đã cung cấp theo quy định.
Định kỳ 06 tháng và hằng năm, trên cơ sở kết quả rà soát cung cấp
thông tin lý lịch tư pháp theo quy định, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và
Sở Tư pháp phối hợp thực hiện rà soát việc cung cấp thông tin LLTP. Việc
phối hợp rà soát về số lượng thông tin LLTP giữa TTLLTPQG và Sở Tư pháp
20
được thực hiện theo quy định. Trường hợp thông tin LLTP chưa đầy đủ, có
sai sót, TTLLTPQG, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cung cấp thông tin cho đầy đủ,
chính xác [8].
Nội dung rà soát thông tin LLTP bao gồm 2 phần:
- Đối chiếu, rà soát về số lượng thông tin đã nhận được.
- Kiểm tra, đối chiếu rà soát về chất lượng thông tin nhận được để phản
hồi lại cơ quan cung cấp thông tin, đề nghị cơ quan rà soát cung cấp thêm
thông tin trong trường hợp số lượng thông tin LLTP cung cấp chưa đầy đủ,
chính xác.
Các cơ quan nhận được công văn rà soát có nhiệm vụ cung cấp và
thông báo cho Cơ quan quản lý LLTP trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được văn bản đề nghị rà soát thông tin LLTP.
Công tác cung cấp và rà soát thông tin LLTP là hết sức quan trọng,
những thông tin này hỗ trợ xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP một cách hoàn
chỉnh, chính xác. Nhiệm vụ này có hiệu quả tránh bỏ lọt tội phạm, tránh sai
sót thông tin nhân thân của bất cứ cá nhân nào, bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân một cách tốt nhất.
1.2.1.3. Tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp
Theo quy định chung thì khi nhận được thông tin LLTP do các cơ quan
có liên quan cung cấp, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ tiến hành các
thủ tục tiếp nhận thông tin:
- Vào Sổ văn bản đến: Thông tin LLTP trước tiên sẽ do bộ phận tiếp
nhận vào Sổ văn bản đến, ghi rõ thời gian tiếp nhận, số ký hiệu văn bản, tên
văn bản, cơ quan cung cấp thông tin,…
- Vào Sổ tiếp nhận thông tin LLTP: Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu
LLTP sẽ thực hiện tiếp nhận trên phần mềm Quản lý LLTP theo mẫu sổ
08/2013/TT-LLTP ban hành kèm theo Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày
21
11/11/2013 sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 13/2011/TT-BTP ngày
27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu
mẫu và mẫu sổ LLTP. Sổ tiếp nhận thông tin LLTP bao gồm các nội dung: số
thứ tự, ngày tiếp nhận, cơ quan cung cấp, số ký hiệu văn bản, họ tên người có
thông tin LLTP, loại thông tin, người tiếp nhận, ghi chú.
Việc thực hiện tiếp nhận thông tin LLTP cần được thực hiện đầy đủ,
kịp thời, để cơ sở dữ liệu LLTP được hoàn thiện và chính xác nhất, đáp ứng
yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu.
1.2.1.4. Kiểm tra, phân loại thông tin lý lịch tư pháp
Việc kiểm tra, phân loại thông tin có thể được thực hiện ngay trong quá
trình “Vào Sổ tiếp nhận thông tin” trên phần mềm. Việc kiểm tra, phân loại
thông tin nhằm xác định những thông tin nào thuộc thẩm quyền lập LLTP,
cập nhật thông tin bố sung của Sở Tư pháp; thông tin nào Sở Tư pháp có
nhiệm vụ gửi cho Sở Tư pháp khác hoặc TTLLTPQG.
Kiểm tra, phân loại thông tin tại Sở Tư pháp:
-Trường hợp người bị kết án thường trú tại địa phương hoặc không có
nơi thường trú nhưng tạm trú tại địa phương thì Sở Tư pháp sẽ thực hiện lập
LLTP và cập nhật bổ sung thông tin.
- Trường hợp người bị kết án thường trú ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương khác, Sở Tư pháp gửi thông tin LLTP đó đến Sở Tư pháp nơi
người đó thường trú.
- Trường hợp người bị kết án không có nơi cư trú, Sở Tư pháp gửi
thông tin LLTP đó đến TTLLTPQG.
- Trường hợp thông tin LLTP có nhiều bị cáo thường trú nhiều nơi khác
nhau, Sở Tư pháp thực hiện thủ tục sao thông tin LLTP đó và gửi cho Sở Tư
pháp nơi người bị kết án thường trú hoặc tạm trú.
Kiểm tra, phân loại thông tin tại TTLLTPQG:
22
TTLLTPQG có nhiệm vụ kiểm tra về thể thức văn bản, thẩm quyền lập
LLTP, tính đầy đủ của thông tin, tính trùng lặp về mã số LLTP, thông tin
nhân thân của bản LLTP, thông tin LLTP bổ sung, các thông tin LLTP; phân
loại thông tin LLTP theo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi người bị
kết án cư trú đối với thông tin LLTP do cơ quan Công an, Tòa án quân sự
Trung ương cung cấp, cụ thể:
Thông tin LLTP do Sở Tư pháp cung cấp:
- Trường hợp LLTP chưa đầy đủ, có sai sót thông tin như số bản án,
nơi cư trú,…hay thiếu thông tin thì TTLLTPQG yêu cầu Sở Tư pháp thực
hiện bổ sung, cập nhật thông tin và cung cấp thông tin đã bổ sung, đính chính
đó cho TTLLTPQG.
- Đối với bản LLTP Sở Tư pháp lập sai thẩm quyền thì TTLLTPQG
yêu cầu Sở Tư pháp đó gửi thông tin LLTP cho cơ quan có thẩm quyền lập
LLTP và thông báo yêu cầu hủy mã LLTP đã lập sai.
Thông tin LLTP do cơ quan Công an, Tòa án quân sự Trung ương cung
cấp:
TTLLTPQG tiến hành phân loại những thông tin LLTP này theo các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi người bị kết án cư trú để thực hiện
cung cấp cho các Sở Tư pháp.
Thông tin LLTP do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp:
- Đối với thông tin LLTP của người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài,
TTLLTPQG thực hiện dịch sang Tiếng Việt và chứng thực theo quy định.
- Đối với Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong trường
hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, TTLLTPQG tiến hành
phân loại những thông tin LLTP này theo các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, nơi người bị kết án cư trú để thực hiện cung cấp cho các Sở Tư
pháp.
23
Trên cơ sở tiếp nhận, kiểm tra, phân loại thông tin, cơ quan quản lý cơ
sở dữ liệu LLTP thực hiện lập LLTP, cập nhật thông tin LLTP bổ sung.
1.2.1.5. Lập lý lịch tư pháp
LLTP chỉ được lập trên cơ sở bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật; quyết định của Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác
xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật [33]. Do vậy, chỉ khi một người có bản
án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của
Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đã có hiệu lực pháp luật
thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP mới tiến hành lập LLTP của người
đó.
Lập LLTP là hoạt động xử lý, cập nhật, sắp xếp thông tin LLTP theo
nguyên tắc cá thể hóa và đưa vào lưu trữ trong cơ sở dữ liệu LLTP. Mục đích
của lập LLTP nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, phục vụ yêu cầu tra cứu
thông tin, cấp phiếu LLTP và yêu cầu quản lý nhà nước.
Về thẩm quyền:
- Sở Tư pháp nơi người bị kết án thường trú lập LLTP của người đó;
trường hợp không xác định được nơi thường trú thì Sở Tư pháp nơi người bị
kết án tạm trú lập LLTP.
- TTLLTPQG lập LLTP trong các trường hợp sau đây:
Không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của người bị kết
án;
Người bị kết án được dẫn độ để thi hành án hoặc được chuyển giao để
chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam;
Nhận được bản sao trích lục bản án hoặc trích lục án tích của công dân
Việt Nam do Viện kiểm sát nhân dân tối cao cung cấp.
Nội dung của LLTP:
24
- Thông tin về nhân thân: họ tên, giới tính, ngày tháng năm sinh, nơi
sinh, quốc tịch, nơi cư trú, số giấy tờ tùy thân, họ tên cha, mẹ, vợ, chồng
người đó.
- Nội dung bản án: ngày tháng năm tuyên án, số bản án, Tòa án đã
tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính hình
phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự, án phí.
- Tình trạng thi hành án: cập nhật các thông tin về tình trạng thi hành
bản án từ khi có quyết định thi hành án đến khi người bị kết án đã chấp hành
xong bản án, được đặc xá, đại xá, xóa án tích.
1.2.2. Cấp Phiếu lý lịch tư pháp
1.2.2.1. Quyền yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Phiếu LLTP là phiếu do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp có giá
trị chứng minh cá nhân có hay không có án tích; bị cấm hay không bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường
hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị Tòa án tuyên bố phá sản [33].
Theo quy định tại Điều 41 Luật LLTP, có hai loại Phiếu LLTP gồm
Phiếu LLTP số 1 và Phiếu LLTP số 2:
Phiếu LLTP số 1: cá nhân có thông tin án tích nhưng đã được xóa thì
không ghi vào Phiếu LLTP số 1. Thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành
lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ ghi vào Phiếu LLTP số 1 khi cá
nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu.
Phiếu LLTP số 2: cá nhân có thông tin án tích thì Phiếu LLTP số 2 sẽ
ghi tất cả các án tích vào phiếu (bao gồm án tích chưa được xóa và án tích đã
được xóa). Phiếu LLTP số 2 cũng bao gồm thông tin về cấm đảm nhiệm chức
vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
25
Như vậy, so với Phiếu LLTP số 1, Phiếu LLTP số 2 bao gồm nhiều
thông tin hơn (cả những án tích đã được xóa). Tuy nhiên, đối tượng yêu cầu
cấp Phiếu LLTP số 2 cũng hẹp hơn, chỉ bao gồm cá nhân có nhu cầu biết
được nội dung về LLTP của mình và các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố,
xét xử.
Theo quy định tại Điều 7 Luật LLTP, cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP như sau:
Công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt
Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của mình.
Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục
vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền
yêu cầu cấp Phiếu LLTP để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động
đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Loại phiếu được quyền yêu cầu cấp:
Công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang cư trú tại Việt
Nam có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 của mình và có quyền yêu cầu
cấp Phiếu LLTP số 2 để biết LLTP của mình
Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có quyền
yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động
đăng ký kinh doanh, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 để
phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Như vậy, theo quy định của Luật LLTP, quyền yêu cầu cấp Phiếu
LLTP của cá nhân (bao gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài) không
bị hạn chế về mục đích sử dụng Phiếu LLTP. Tùy theo yêu cầu và mục đích
26
sử dụng (xuất cảnh, xin việc, làm chứng chỉ hành nghề…), nếu đáp ứng đủ
các điều kiện về thủ tục thì cá nhân đó có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của
mình. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, họ có quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá
nhân có liên quan. Tuy nhiên, quyền yêu cầu này của các cơ quan bị giới hạn
bởi mục đích sử dụng Phiếu, đó là để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử
hoặc để phục vụ công tác quản lý nhân sự, hoạt động đăng ký kinh doanh,
thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
1.2.2.2. Thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Để tạo thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu cấp phiếu
LLTP, luật LLTP quy định TTLLTPQG và Sở Tư pháp đều có thẩm quyền
cấp phiếu LLTP.
Theo quy định tại Điều 44 Luật LLTP, thẩm quyền cấp Phiếu LLTP
được quy định như sau:
TTLLTPQG thực hiện việc cấp Phiếu LLTP trong các trường hợp:
Công dân Việt Nam mà không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú;
Người nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam.
Sở Tư pháp thực hiện việc cấp Phiếu LLTP trong các trường hợp: Công
dân Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở trong nước; Công dân Việt Nam
đang cư trú ở nước ngoài; Người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam.
1.2.2.3. Thủ tục yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp
Thành phần hồ sơ đối với trường hợp yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1
hoặc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 bao gồm:
- Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP (theo mẫu 03/2013/TT-LLTP).
- Trường hợp cá nhân gửi hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 qua dịch
vụ bưu chính thì Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2, phải được
27
chứng thực chữ ký theo quy định của pháp luật về chứng thực. Việc chứng
thực được thực hiện tại Tổ chức hành nghề công chứng (Phòng Công chứng
hoặc Văn phòng Công chứng) hoặc chứng thực tại UBND phường, xã, thị trấn
hoặc chứng thực tại Phòng Tư pháp quận, huyện của Việt Nam hoặc chứng
thực tại cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu
Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu đang còn giá trị sử dụng của người
được cấp Phiếu LLTP.
- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu Sổ
hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận thường trú, giấy chứng nhận tạm trú, thẻ
thường trú, thẻ tạm trú.
Thành phần hồ sơ đối với trường hợp ủy quyền cho người khác làm thủ
tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 hoặc cha, mẹ của người chưa thành
niên yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho con chưa thành niên:
- Tờ khai yêu cầu cấp Phiếu LLTP (Mẫu số 04/2013/TT-LLTP);
- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu
Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu đang còn giá trị sử dụng của người
được cấp Phiếu LLTP và Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người
được ủy quyền.
- Bản sao có chứng thực hoặc bản photo kèm bản chính để đối chiếu Sổ
hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận thường trú, giấy chứng nhận tạm trú, thẻ
thường trú, thẻ tạm trú của người được cấp Phiếu LLTP.
- Văn bản ủy quyền làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu LLTP phải được
chứng thực tại tại Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn hoặc tại Phòng Tư
pháp quận, huyện hoặc công chứng, chứng thực tại Tổ chức hành nghề công
chứng ở trong nước hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh
sự của Việt Nam ở nước ngoài.
28
Trường hợp ủy quyền theo quy định của pháp luật nước nơi người nước
ngoài là công dân hoặc thường trú thì văn bản ủy quyền phải được hợp pháp
hóa lãnh sự và dịch ra Tiếng Việt. Trừ trường hợp được miễn chứng nhận
lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước
ngoài liên quan là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại hoặc theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu LLTP là cha, mẹ, vợ, chồng, con
của người được cấp Phiếu LLTP thì không cần văn bản ủy quyền nhưng phải
có giấy tờ chứng minh quan hệ cha, mẹ; vợ, chồng, con như: giấy đăng ký kết
hôn, giấy khai sinh hoặc sổ hộ khẩu.
Cá nhân yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 không được ủy quyền
cho người khác làm thủ tục cấp Phiếu LLTP (trừ trường hợp cha, mẹ của
người chưa thành niên yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho con chưa
thành niên).
Thành phần hồ sơ đối với trường hợp cấp phiếu lý lịch tư pháp số 1
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội:
Văn bản yêu cầu cấp phiếu LLTP (theo mẫu số 05a/2013/TT- LLTP).
Thành phần hồ sơ đối với trường hợp cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2
theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng:
Văn bản yêu cầu cấp phiếu LLTP (theo mẫu 05b/2013/TT-LLTP).
Như vậy, thành phần hồ sơ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chỉnh trị - xã hội đơn giản hơn so
với các cá nhân. Họ không cần nộp các giấy tờ chứng minh nhân thân như
Chứng minh nhân dân hay Sổ hộ khẩu,…
1.2.2.4. Thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp
29
Thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt
Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước
ngoài, trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích
thì thời hạn không quá 15 ngày. Trường hợp khẩn cấp theo yêu cầu của các cơ
quan tiến hành tố tụng thì thời hạn không quá 24 giờ, kể từ thời điểm nhận
được yêu cầu.
Để đảm bảo thời gian tố tụng, nên trong một số trường hợp, cơ quan
tiến hành tố tụng có thể yêu cầu Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP đẩy
nhanh tiến đó, rút ngắn thời gian cấp phiếu LLTTP.
1.2.2.5. Tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp để cấp phiếu lý lịch
tư pháp
Tra cứu, xác minh thông tin LLTP về án tích
Việc tra cứu thông tin LLTP về án tích có trước ngày 01/7/2010 để cấp
Phiếu LLTP được thực hiện tại cơ sở dữ liệu của ngành Công an. Trường hợp
người bị Tòa án kết án trước ngày 01/7/2010 nhưng từ ngày 01/7/2010
TTLLTPQG, Sở Tư pháp đã lập LLTP của người đó thì việc tra cứu thông tin
được thực hiện tại cơ sở dữ liệu LLTP của TTLLTPQG, Sở Tư pháp.
Theo quy định của Luật LLTP, kể từ ngày 01/7/2010, TTLLTPQG và
Sở Tư pháp chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP. Do đó,
TTLLTPQG và Sở Tư pháp sẽ chịu trách nhiệm đối với những thông tin
LLTP về án tích của những người bị kết án; thông tin về cấm đảm nhiệm chức
vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã theo quyết định tuyên bố phá
sản của Tòa án kể từ ngày 01/7/2010.
Việc tra cứu thông tin LLTP về án tích có từ ngày 01/7/2010 được thực
hiện:
30
- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP chỉ có một nơi thường trú
duy nhất tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương kể từ khi đủ 14 tuổi trở
lên thì việc tra cứu thông tin LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi người
đó thường trú.
- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP đã cư trú ở nhiều tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương kể từ khi đủ 14 tuổi trở lên thì việc tra cứu thông
tin LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi tiếp nhận yêu cầu và
TTLLTPQG.
- Trường hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt Nam có
thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài thì việc tra cứu thông tin
LLTP được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi tiếp nhận yêu cầu và TTLLTPQG.
- Trường hợp không xác định được nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của
người được cấp Phiếu LLTP thì việc tra cứu thông tin LLTP được thực hiện
tại TTLLTPQG.
Trường hợp người đã được cấp phiếu LLTP kể từ ngày 01/7/2010 mà
đã được xác định không có án tích trước ngày 01/7/2010 thì khi cấp Phiếu lý
lịch tư pháp lần thứ hai cho người đó không bắt buộc phải tra cứu thông tin tại
các cơ quan Công an, Tòa án, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Quốc
phòng[9].
Xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án tích
Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin
về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch
tư pháp xác nhận không có án tích [30]. Như vậy, Tòa án không còn trách
nhiệm cấp Giấy chứng nhận xóa án tích đối với những người đương nhiên
được xóa án tích như trước đây nữa mà Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP
có thẩm quyền, trách nhiệm quản lý, cập nhật thông tin của người bị kết án và
31
xác nhận không có án tích trong trường hợp người bị kết án đương nhiên
được xóa án tích.
Quy định này mặc dù đặt lên vai Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP
một trách nhiệm nặng nề nhưng lại bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân khi
không phải làm đơn đề nghị hoặc phải nộp thêm bất kể giấy tờ gì cho Cơ
quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP để yêu cầu cấp phiếu LLTP mà chỉ cần thực
hiện đầy đủ các thủ tục cấp phiếu LLTP theo quy định.
TTLLTPQG, Sở Tư pháp có nhiệm vụ phối hợp với UBND cấp xã, Tòa
án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác
minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong trường hợp:
- Qua tra cứu thông tin tại cơ sở dữ liệu LLTP cho thấy người bị kết án
đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, nhưng chưa thấy thông
tin xóa án tích được cập nhật.
- Trường hợp kết quả tra cứu, xác minh thông tin tại cơ quan công an,
Tòa án để cấp phiếu LLTP cho thấy người được cấp phiếu đã từng bị kết án,
có thể đã đủ điều kiện về thời gian đương nhiên được xóa án tích nhưng chưa
có thông tin xóa án tích.
Theo quy định pháp luật hiện nay, Sở Tư pháp phải chủ động cập nhật
thông tin vào cơ sở dữ liệu LLTP, thực hiện đương nhiên xóa án tích cho
người bị kết án khi đã đủ điều kiện và cấp phiếu LLTP khi người đó có yêu
cầu, đảm bảo việc cấp phiếu LLTP được kịp thời, nhanh chóng và đẩy đủ.
1.2.3. Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp
1.2.3.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
Theo Điều 9 Luật LLTP quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về LLTP. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
trách nhiệm phối hợp với Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về LLTP. Bộ
32
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao và các bộ, cơ quan ngang bộ trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư
pháp thực hiện quản lý nhà nước về LLTP.
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về LLTP:
- Trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về lý lịch tư pháp;
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý
lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp; đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác lý lịch tư pháp;
- Quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm lý lịch tư pháp
quốc gia;
- Bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Trung tâm lý lịch
tư pháp quốc gia;
- Chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp;
- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các
khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp;
- Ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý
lịch tư pháp;
- Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở
dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp;
- Thực hiện hợp tác quốc tế về lĩnh vực lý lịch tư pháp;
- Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động quản lý lý lịch tư
pháp.
UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại địa
phương, có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
33
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lý
lịch tư pháp; tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật về lý lịch tư pháp;
- Bảo đảm về biên chế, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho hoạt
động quản lý lý lịch tư pháp tại địa phương;
- Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết theo thẩm quyền các
khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện pháp luật về lý lịch tư pháp;
- Triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng cơ sở
dữ liệu và quản lý lý lịch tư pháp theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp;
- Định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Tư pháp về hoạt động quản lý lý lịch
tư pháp tại địa phương
Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện
chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác LLTP
tại địa phương
1.2.3.2. Đối tượng quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp
Đối tượng quản lý LLTP bao gồm:
Công dân Việt Nam bị kết án bằng bản án hình sự đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án Việt Nam, Toà án nước ngoài mà trích lục bản án hoặc trích
lục án tích của người bị kết án được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
cung cấp theo điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự
hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Người nước ngoài bị Toà án Việt Nam kết án bằng bản án hình sự đã
có hiệu lực pháp luật.
Công dân Việt Nam, người nước ngoài bị Toà án Việt Nam cấm đảm
nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong quyết định
tuyên bố phá sản đã có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, tất cả công dân Việt Nam đang cư trú, sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam hay cư trú, sinh sống tại nước ngoài đều là đối tượng quản lý
34
LLTP. Điều này đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước ta, quyền con
người, quyền công dân, đảm bảo sự công bằng, quản lý đầy đủ tình trạng nhân
thân của mọi người dân. Ngoài ra, người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam và bị Tòa án Việt Nam kết án bằng bản án cũng chịu sự quản lý
LLTP nhằm đảm bảo trật tự xã hội, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho cơ
quan nhà nước quản lý xã hội.
1.2.3.3. Công tác xây dựng, triển khai trong quản lý nhà nước về lý lịch
tư pháp
Hệ thống Luật LLTP và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành Luật LLTP đã được ban hành khá đầy đủ như Luật LLTP; Nghị định số
111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP; Thông tư số 244/2016/TT-BTC
ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý
và sử dụng phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Thông tư số 06/2013/TT-
BTP ngày 06/02/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc xây dựng,
quản lý, sử dụng và khai thác CSDL LLTP; Thông tư số 13/2011/TT-BTP
ngày 27/6/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và hướng dẫn sử
dụng biểu mẫu và mẫu sổ LLTP; Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày
11/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2011/TT-BTP;
Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP
ngày 10/5/2012 của hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi,
cung cấp thông tin LLTP.
Sau khi Luật LLTP được thông qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các
Bộ, ngành có liên quan tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế
hoạch triển khai thi hành Luật LLTP. Sau đó, các Bộ, ngành có liên quan và
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã ban hành văn bản
để triển khai thi hành Luật LLTP tại các Bộ, ngành, địa phương.
35
Để triển khai có hiệu quả Luật LLTP và kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật
LLTP, Bộ Tư pháp đã có nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định về
LLTP. Tổ chức tuyên truyền dưới nhiều hình thức; kiện toàn bộ máy, nhân sự
công tác trong lĩnh vực LLTP.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ
pháp
1.3.1. Yếu tố khách quan
1.3.1.1. Chính trị, pháp lý
Việc bảo đảm thực hiện pháp luật về LLTP phụ thuộc vào nhiều điều
kiện khác nhau, bao gồm cả những điều kiện chủ quan và điều kiện khách
quan có liên quan đến quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và môi trường
tác động của nó. Để pháp luật về LLTP trở thành công cụ điều chỉnh có hiệu
quả, thì những điều kiện bảo đảm gồm: điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội
và những điều kiện về pháp lý phải bảo đảm tính chất đồng bộ và minh bạch.
Qua thực tiễn thi hành Luật LLTP và theo quy định của pháp luật hiện hành,
có thể thấy những yếu tố thuộc về phương diện lập pháp là các điều kiện bảo
đảm thực hiện pháp luật về LLTP, cần tiến hành rà soát, kiểm tra và góp ý
xây dựng, sửa đổi các quy định về LLTP cho phù hợp hơn với điều kiện hiện
nay.
Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là định hướng có tính
chiến lược đối với sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Trong
quan hệ với pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng giữ vai trò chủ đạo,
quyết định đến nội dung của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, để cụ thể hóa
đường lối đổi mới của Đảng, nhiều đạo luật được ban hành, trong đó Luật
LLTP được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009
36
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Sau hơn 08 năm thi hành, Luật
LLTP đã thực sự đi vào cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước,
bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính
chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Trong bối cảnh chính trị, pháp lý như hiện nay, pháp luật về LLTP được
sự quan tâm đáng kể, có những định hướng cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện pháp luật về LLTP dễ dàng hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước trong tình hình hội nhập, toàn cầu hóa.
1.3.1.2. Kinh tế, xã hội
Kinh tế, xã hội là một trong những yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc thực hiện pháp luật về LLTP. Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta tăng trưởng khá nhanh; sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh, góp
phần đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm thực hiện quyền công dân, góp
phần vào công cuộc hội nhập quốc tế. Trước những thực tế đó, những văn bản
quy định về LLTP và việc thực hiện pháp luật về LLTP sẽ ngày càng phát
triển để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Hiện nay, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhận thức của xã hội
ngày càng được nâng lên. Đồng thời, sự phát triển của nền kinh tế thị trường
làm cho các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, do đó sự cần thiết của Phiếu
LLTP ngày càng được khẳng định.
Thông qua thực hiện pháp luật về LLTP, nhận thức của xã hội về ý
nghĩa, giá trị của LLTP ngày càng được nâng cao, qua đó pháp luật về LLTP
trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân tư pháp khi tham gia vào
37
các quan hệ xã hội. Từ đó cho thấy, kinh tế - xã hội có tác động đến thực hiện
pháp luật về LLTP và ngược lại, pháp luật về LLTP có ý nghĩa, vai trò quan
trọng trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Những đặc điểm về kinh tế - xã hội chủ yếu nêu trên vừa là lợi thế, là
động lực phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, thách thức
cho công tác quản lý nhà nước, thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực LLTP.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
1.3.2.1. Phẩm chất, trình độ năng lực của cán bộ, công chức
Năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác LLTP là
yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP. Hoạt động
áp dụng pháp luật về LLTP của cơ quan, cán bộ, công chức và người được
Nhà nước giao quyền nếu được chú trọng và thực hiện tốt, sẽ mang lại hiệu
quả tích cực, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống.
Nhận thức, năng lực áp dụng pháp luật LLTP hiện nay của cơ quan,
người có thẩm quyền được nâng lên, chất lượng được bảo đảm, hạn chế đến
mức thấp nhất các sai sót, các hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện pháp
luật LLTP. Quá trình áp dụng bảo đảm tính chính xác, khách quan, công
bằng. Các cơ quan, người có thẩm quyền đã tích cực triển khai hoạt động áp
dụng pháp luật khi cá nhân, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ. Do vậy, pháp
luật về LLTP đã được bảo đảm thực hiện tương đối tốt.
Tuy nhiên, nếu mức độ áp dụng pháp luật về LLTP của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chưa đúng chính sách, pháp luật hoặc chậm thực
hiện. Năng lực của cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật
về LLTP hạn chế; việc phân công, bố trí cán bộ chủ quan, chưa căn cứ vào
38
trình độ, năng lực, chuyên môn được đào tạo…thì việc thực hiện pháp luật về
LLTP sẽ mang lại hiệu quả không cao, chất lượng thực hiện pháp luật kém.
Do vậy, cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ Đảng, sự
phối hợp chặt chẽ của chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong việc thực
hiện pháp luật về LLTP, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ
quan từ Trung ương đến địa phương đối với LLTP cần ngày một nâng cao để
đáp ứng nhu cầu xã hội như hiện nay.
1.3.2.2. Trình độ nhận thức của người dân
Để hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP ở nước ta được diễn ra tốt,
quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức được đảm bảo thì một yếu tố
ảnh hưởng không thể thiếu là yếu tố về mặt nhận thức của người dân.
Khi người dân nhận thức được được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm
và tầm quan trọng của bản thân trong việc thực hiện pháp luật về LLTP, thì
chất lượng sử dụng pháp luật về LLTP được nâng cao, người dân sẽ nắm rõ
quy trình thủ tục, những hồ sơ cần nộp khi yêu cầu cấp phiếu LLTP, có thể
tiết kiệm được thời gian, chi phí đi lại cũng như dễ dàng hơn cho cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức trong việc tiếp nhận hồ sơ.
Nếu người dân chưa nhận thức đúng đắn về quyền lợi và nghĩa vụ của
mình, họ có thể sẽ không quan tâm nhiều đến LLTP và khi tham gia vào các
quan hệ xã hội, họ sẽ bị thiệt thòi trong việc chứng minh tình trạng nhân thân.
Từ việc không nắm rõ các quy định về pháp luật LLTP cũng làm cho việc áp
dụng pháp luật của cơ quan nhà nước khó khăn hơn, chất lượng thực hiện
pháp luật LLTP bị giảm sút.
Do vậy, cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật, nâng cao nhận thức của người dân. Đồng thời, bản thân mỗi cá
nhân cũng cần tự mình tìm hiểu, nắm bắt kỹ hơn các quy định của pháp luật
39
để bảo vệ quyền lợi của mình, để chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP
được bảo đảm.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và pháp lý về thực
hiện pháp luật LLTP. Các khái niệm đã được đưa ra và làm rõ như thực hiện
pháp luật về LLTP là tổng thể các hoạt động có mục đích của các chủ thể
nhằm hiện thực hóa pháp luật về LLTP thành các hành vi thực tế, hợp pháp
của các chủ thể qua các hoạt động cụ thể vì mục tiêu bảo vệ tốt hơn quyền
con người, quyền công dân; đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật
Việt Nam. Từ đó, phân tích nội dung của thực hiện pháp luật về LLTP bao
gồm xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp phiếu
LLTP và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về LLTP. Trên cơ
sở lý luận ở chương 1, thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư
pháp tỉnh Bình Dương và phương hướng giải pháp bảo đảm thực hiện sẽ được
đề xuất trong chương 3.
40
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP
CỦA SỞ TƢ PHÁP TỈNH BÌNH DƢƠNG
2.1. Khái quát chung về Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng
2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Bình Dương; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của
UBND tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.
Cùng với quá trình phát triển chung của ngành Tư pháp, Sở Tư pháp
tỉnh Bình Dương đã trải qua 37 năm xây dựng và phát triển, đạt được nhiều
kết quả trong nhiệm vụ của ngành cũng như của địa phương ở nhiều giai đoạn
khác nhau.
Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp Bình Dương được quy định cụ thể
trong Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND ngày 23/3/2015 của UBND tỉnh
Bình Dương ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.
Về lãnh đạo Sở gồm có Giám đốc Sở và không quá ba Phó Giám đốc
(hiện nay Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có hai Phó Giám đốc). Giám đốc Sở
là người đứng đầu Sở Tư pháp, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch
UBND tỉnh và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Sở, việc chỉ đạo
chuyên môn, nghiệp vụ đối với Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức Tư
pháp - Hộ tịch cấp xã trên địa bàn và việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác được giao. Phó Giám đốc Sở là người giúp Giám đốc Sở phụ
trách, chỉ đạo một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở và
41
trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ được phân công. Khi Giám đốc Sở
vắng mặt, một Phó Giám đốc được Giám đốc Sở ủy nhiệm điều hành các hoạt
động của Sở.
Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có 7 phòng chuyên môn nghiệp vụ, tổ
chức tham mưu, tổng hợp bao gồm:
- Văn phòng Sở;
- Thanh tra Sở;
- Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật;
- Phòng Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp
luật;
- Phòng Phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Phòng Hành chính tư pháp;
- Phòng Bổ trợ tư pháp.
và 4 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở gồm:
- Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước;
- Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản;
- Phòng Công chứng số 1, số 2.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở hoạt động theo quy định của pháp
luật và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, chịu sự quản lý về tổ chức bộ máy, chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ chuyên môn của Giám đốc Sở Tư pháp.
Về tình hình nhân sự, biên chế hành chính được giao cho Sở Tư pháp
hiện nay khá hạn chế, các Phòng chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tư pháp chỉ
bố trí được từ 2-3 biên chế/Phòng. Hiện nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
được phân bổ 28 biên chế, trong đó, Phòng Hành chính tư pháp có 2 biên chế.
Thực trạng này dẫn đến những hạn chế, bất cập nhất định trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành và thực hiện pháp luật của Sở Tư pháp trong nhiệm vụ
chung, cũng như nhiệm vụ LLTP.
42
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản
Thực hiện Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND ngày 23/3/2015 của
UBND tỉnh Bình Dương ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương:
Sở Tư pháp có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà
nước về: công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật;
kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; pháp chế; phổ biến, giáo dục
pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý
lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật;
công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại;
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác
tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Tương ứng với chức năng như trên là những nhiệm vụ và quyền hạn
của Sở Tư pháp được quy định cụ thể tại Điều 3 Quyết định 08/2015/QĐ-
UBND, quy định như sau:
- Trình UBND tỉnh: Dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác
thuộc phạm vi thẩm quyền ban hành của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân tỉnh trong lĩnh vực tư pháp.
- Trình Chủ tịch UBND tỉnh: Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập,
chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc Sở Tư pháp theo quy định của
pháp luật. Dự thảo quyết định, chỉ thị cá biệt thuộc thẩm quyền ban hành của
Chủ tịch UBND tỉnh về công tác tư pháp ở địa phương.
- Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, đề án, dự án trong lĩnh vực tư pháp đã được cấp có thẩm
quyền quyết định, phê duyệt.
- Các nhiệm vụ cơ bản về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; theo
dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; Tổ chức
43
thực hiện việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân và UBND tỉnh theo quy định của pháp luật; đôn đốc, hướng
dẫn, tổng hợp kết quả rà soát, hệ thống hóa chung của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh và của UBND cấp huyện; phổ biến, giáo dục pháp luật
và hòa giải ở cơ sở; hộ tịch, quốc tịch, chứng thực và nuôi con nuôi; lý lịch tư
pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư và tư vấn pháp luật; công
chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; công tác trọng tài thương mại;
đăng ký giao dịch bảo đảm; công tác pháp chế; quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Giúp UBND tỉnh hướng dẫn việc xây dựng hương ước, quy ước của
khu tổ dân phố, khu phố, ấp và một số hình thức khác (gọi chung là tổ dân
phố) phù hợp với quy định của pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ về xây dựng
xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo quy định; về thi hành án dân sự,
hành chính theo quy định của pháp luật và quy chế phối hợp công tác giữa cơ
quan tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Bộ Tư pháp ban
hành.
- Tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND tỉnh thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tư
pháp, pháp luật đối với Phòng Tư pháp cấp huyện, công chức Tư pháp - Hộ
tịch cấp xã, các tổ chức và cá nhân khác có liên quan theo quy định của pháp
luật.
- Kiểm tra, thanh tra đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi
hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật hoặc theo sự phân
cấp, ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh.
44
- Thực hiện hợp tác quốc tế về pháp luật và công tác tư pháp theo quy
định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Chủ tịch UBND
tỉnh.
- Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công
tác của Văn phòng, các phòng chuyên môn nghiệp vụ và đơn vị sự nghiệp
công lập thuộc Sở Tư pháp; quản lý tổ chức bộ máy, biên chế công chức, cơ
cấu ngạch công chức, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề
nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập; thực
hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng,
khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động
thuộc phạm vi quản lý của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật và theo sự
phân công hoặc ủy quyền của UBND tỉnh.
Trong đó, Phòng Hành chính tư pháp được giao nhiệm vụ về công tác
LLTP:
- Xây dựng, quản lý, khai thác, bảo vệ và sử dụng cơ sở dữ liệu LLTP
tại địa phương theo quy định của pháp luật;
- Tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP do Tòa án, cơ quan Thi hành án dân
sự, các cơ quan, tổ chức có liên quan và TTLLTPQG cung cấp;
cung cấp LLTP, thông tin bổ sung cho TTLLTPQG; cung cấp thông tin LLTP
cho Sở Tư pháp khác;
- Lập LLTP, cập nhật thông tin LLTP bổ sung theo quy định;
- Cấp phiếu LLTP theo thẩm quyền.
Với tình hình cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản
của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương có những ảnh hưởng, tác động không nhỏ
đến việc thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương. Từ
đó có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp phù hợp hơn để phát huy
những ưu điểm và khắc phục những hạn chế hiện nay.
45
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp của Sở Tƣ
pháp tỉnh Bình Dƣơng
2.2.1. Hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu
lý lịch tư pháp
2.2.1.1. Về mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan
Để công tác phối hợp được chặt chẽ, thường xuyên với Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cơ quan Công an, cơ quan có
liên quan trong quân đội, cơ quan Thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức
khác có liên quan trong cung cấp, tra cứu, xác minh, rà soát thông tin LLTP,
bảo đảm thông tin LLTP được cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy
định của Luật, Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan đã tham mưu UBND
tỉnh ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong tra cứu, xác minh, trao đổi,
cung cấp thông tin LLTP (Quyết định số 1118/QĐ-UBND ngày 16/5/2014
ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác tra cứu, xác minh, trao
đổi, cung cấp và rà soát thông tin lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình
Dương).
Đồng thời, để công tác phối hợp được đảm bảo hơn, ngày 15/5/2015,
Sở Tư pháp cũng đã ban hành Công văn số 556/STP-HCTP về việc tăng
cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác cơ sở dữ liệu LLTP để gửi các
cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án dân sự. Xây dựng hệ thống
đầu mối thực hiện công tác lý lịch tư pháp tại 22 cơ quan cung cấp thông tin
lý lịch tư pháp trên toàn tỉnh (Cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Công an
và Viện kiểm sát); Phối hợp với các cơ quan cung cấp thông tin LLTP tiến
hành rà soát việc cung cấp, trao đổi thông tin định kỳ theo quy định.
Ngoài ra, Sở Tư pháp còn phối hợp với các cơ quan có liên quan tổ
chức các hình thức phối hợp như: trao đổi ý kiến bằng văn bản; tổ chức cuộc
46
họp liên ngành (họp định kỳ 02 lần/năm hoặc họp đột xuất); liên hệ trực tiếp,
qua điện thoại, qua thư điện tử giữa các cán bộ đầu mối tại các cơ quan Tòa
án, Viện kiểm sát, thi hành án.
Để các cơ quan Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát tỉnh, Thi hành án
tỉnh kịp thời cung cấp các thông tin LLTP cho Sở Tư pháp theo đúng loại
thông tin, thời hạn cung cấp thông tin, Sở Tư pháp đã cung cấp các nội dung
pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, chức năng của từng ngành trong việc phối
hợp cung cấp thông tin và ban hành Kế hoạch tổng rà soát thông tin lý lịch tư
pháp với các cơ quan có liên quan. Ngoài ra, Sở Tư pháp cũng có công văn đề
nghị UBND cấp huyện khi ban hành Quyết định cho phép thay đổi, cải chính
hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và UBND cấp xã khi cấp giấy chứng tử
thực hiện việc gửi bản chính hoặc bản sao quyết định, giấy chứng tử đó cho
TTLLTPQG, Sở Tư pháp theo đúng thời hạn quy định.
Số lượng thông tin của các cơ quan đã cung cấp Sở Tư pháp để xây
dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP tính đến thời điểm 30/6/2018 là
hơn 100.000 thông tin [36].
2.2.1.2. Về công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
Xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của công tác LLTP nên ngay sau khi Luật LLTP có hiệu lực thi hành, Sở Tư
pháp tỉnh Bình Dương đã chủ động, phối hợp với các cơ quan có liên quan
như Tòa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Thi hành án dân sự
tỉnh và Công an tỉnh trình UBND tỉnh quy chế phối hợp liên ngành trong việc
trao đổi, rà soát, cung cấp thông tin LLTP phục vụ việc xây dựng cơ sở dữ
liệu LLTP. Theo đó, các ngành đều cử cán bộ đầu mối tra cứu, xác minh,
cung cấp thông tin LLTP. Tuy nhiên, đội ngũ này đều là kiêm nhiệm và
thường xuyên luân chuyển nên cũng ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng tra
cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo quy định.
47
Việc xử lý số lượng thông tin LLTP tại Sở Tư pháp trước khi thực hiện
Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ Tư pháp về việc tăng cường
xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP:
- Từ ngày 01/7/2010 đến 09/3/2015, số lượng thông tin chưa tiếp nhận
là 1.042 thông tin. Số lượng thông tin chưa lập LLTP, cập nhật bổ sung là
30.648 thông tin.
- Số lượng thông tin LLTP đã xử lý tính từ 01/7/2010 đến ngày
09/3/2015 là 43.086 thông tin, số lượng thông tin còn tồn đọng là 7.710 thông
tin.
Công tác tiếp nhận, xử lý thông tin LLTP tại Sở Tư pháp từ ngày
10/3/2015 đến 30/6/2018:
- Số lượng thông tin Sở Tư pháp nhận được: 59.560 thông tin;
- Số lượng thông tin tiếp nhận, kiểm tra, phân loại: 59.560 thông tin;
- Số lượng thông tin lập LLTP, cập nhật bổ sung: 14.026 hồ sơ;
- Số lượng thông tin LLTP chưa tiếp nhận: 0 thông tin;
- Số lượng thông tin LLTP đã vào Sổ tiếp nhận, chưa lập LLTP, chưa
xử lý, cập nhật bổ sung thông tin LLTP: 12.760 thông tin.
(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 01 )[36].
Việc rà soát thông tin LLTP được Sở Tư pháp thực hiện định kỳ hằng
quý theo quy định của pháp luật LLTP và nhận được sự phối hợp, phản hồi
của các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án để Sở Tư pháp kịp thời cập nhật
thông tin LLTP vào cơ sở dữ liệu LLTP.
Sở Tư pháp luôn thực hiện thường xuyên việc kiểm tra, kiểm soát công
tác xử lý, cập nhật thông tin, bảo đảm tính chính xác, đầy đủ của dữ liệu nhằm
nâng cao chất lượng của Cơ sở dữ liệu LLTP.
48
Về công tác lưu trữ thông tin LLTP: Tất cả các thông tin lý lịch tư pháp
tại Sở Tư pháp đều được lưu trữ điện tử và bằng văn bản giấy tại kho lưu trữ
của Sở.
2.2.1.3. Về đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp
Thực hiện Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ Tư pháp về
việc tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP,
lãnh đạo Sở Tư pháp đã quan tâm tổ chức triển khai, quán triệt nội dung Chỉ
thị tới toàn thể công chức, viên chức trong đơn vị, tạo sự thống nhất trong
nhận thức và triển khai thực hiện. Việc quán triệt lồng ghép trong cuộc họp
giao ban, Ngày pháp luật.
Thực hiện Luật Lý lịch tư pháp, Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày
28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án xây dựng Trung tâm lý lịch tư
pháp quốc gia và kiện toàn bộ máy tổ chức để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu
LLTP, UBND tỉnh đã có công văn chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện
Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, theo đó, UBND tỉnh giao
Sở Nội vụ xem xét, tham mưu UBND tỉnh bố trí đủ biên chế làm công tác
LLTP tại Sở Tư pháp. Tuy nhiên, đến nay, biên chế làm công tác LLTP vẫn
chưa được bổ sung theo quy định.
Hiện tại, do số lượng công chức Phòng Hành chính tư pháp quá ít (02
biên chế) so với khối lượng công việc, nên Sở Tư pháp đã điều động, biệt
phái viên chức từ đơn vị sự nghiệp để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, sử dụng
và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP nhưng những cán bộ này còn mới, chưa qua
đào tạo, bồi dưỡng mà chỉ tham dự tập huấn nghiệp vụ về LLTP. Hiện tại, số
lượng người làm công tác lý lịch tư pháp: 03 người. Hàng năm, Sở Tư pháp
đều cử cán bộ làm công tác LLTP tham gia các lớp tập huấn do Trung tâm lý
lịch tư pháp quốc gia – Bộ Tư pháp tổ chức. Các ngành như Tòa án, Viện
49
kiểm sát, Thi hành án, Công an đều có hướng dẫn, chỉ đạo trong ngành việc
thực hiện các quy định về pháp luật LLTP.
2.2.2. Hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp
2.2.1.1. Về các phương thức cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Hiện nay, Bình Dương đã triển khai các phương thức như: trực tiếp;
bưu chính và trực tuyến:
Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, đáp ứng
tốt hơn yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức, tháng 3/2014,
được sự chấp thuận của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã ký kết với bưu điện tỉnh
về dịch vụ chuyển trả kết quả cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính.
Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015, thì Bình Dương là
một trong 06 tỉnh áp dụng thí điểm phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ
bưu chính. Do đó, để kịp thời triển khai thực hiện Đề án, Sở Tư pháp đã tham
mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về
triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính trên địa
bàn tỉnh Bình Dương.
Mặc dù Bình Dương không nằm trong các địa phương thực hiện việc
thí điểm cấp Phiếu LLTP trực tuyến nhưng thực hiện Nghị quyết số
36a/2015/NQ-CP về Chính phủ điện tử và nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách
hành chính trong lĩnh vực LLTP, rút ngắn thời gian cấp Phiếu LLTP, góp
phần tiết kiệm được thời gian đi lại, chi phí cho tổ chức và công dân có yêu
cầu và được sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh
ban hành Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về triển khai thực
hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến trên địa bàn tỉnh Bình
Dương. Tiếp đó, để thực hiện Kế hoạch trên và giúp người dân có thêm sự lựa
chọn khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP, ngày 17/6/2016, Sở Tư pháp ký kết thỏa
50
thuận hợp tác với Tổng công ty Bưu chính Viettel về việc đăng ký cấp Phiếu
LLTP trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính.
Kết quả triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu
chính và cấp Phiếu LLTP trực tuyến:
- Số lượng hồ sơ cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính là 15.960 hồ
sơ (năm 2014 là 1.970/2.723 trường hợp, chiếm 53,42%; năm 2015 là
3.465/5.089 trường hợp, chiếm 68,1%; năm 2016 là 3.538/4.678 chiếm
75.63%; năm 2017 là 2.858, đạt tỉ lệ 64,8%; năm 2018 là 4.129/5.846, đạt tỉ lệ
70,62%) [50, 51, 52].
- Số lượng hồ sơ cấp Phiếu LLTP trực tuyến là (năm 2017: 126 trường
hợp, năm 2018: 361 trường hợp) [51, 52].
Ngoài ra, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số
352/QĐ-UBND ngày 05/02/2018 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế
phối hợp thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: cấp chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch
tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đây cũng là một trong những phương
thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu LLTP. Kết quả
đạt được là trong năm 2018, số lượng hồ sơ liên thông thủ tục hành chính là
34 trường hợp. [39]
(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 02 ).
2.2.1.2. Về phối hợp với các cơ quan trong tra cứu, xác minh thông tin
để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Để đẩy nhanh tiến độ cấp Phiếu LLTP, hạn chế tỷ lệ trễ hẹn cấp Phiếu
LLTP, từ ngày 09/2/2015 đến nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã phối hợp
với TTLLTPQG thực hiện ứng dụng giải pháp “Kiềng ba chân” trong việc
xác minh thông tin LLTP đối với trường hợp người nước ngoài, người cư trú
tại nhiều địa phương khác nhau.
51
Đối với Công an tỉnh, Sở Tư pháp trực tiếp cử chuyên viên luân chuyển
hồ sơ (gửi và nhận kết quả) để đáp ứng tốt yêu cầu cấp Phiếu LLTP của người
dân.
Các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án thì tùy từng cơ
quan có thẩm quyền mà Sở Tư pháp thực hiện ngay việc xác minh khi cần
thiết và nhanh chóng gửi và nhận hồ sơ qua trực tiếp hoặc qua bưu điện, qua
email để đảm bảo thời gian xác minh và cấp Phiếu LLTP kịp thời theo quy
định.
Số lượng công văn xác minh thông tin án tích của Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương gửi đến các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án
dân sự, UBND cấp xã và một số cơ quan có liên quan ngày càng tăng.
2.2.1.3. Về tình hình cấp phiếu LLTP
Với yêu cầu của xã hội hiện nay, nhu cầu yêu cầu cấp Phiếu LLTP của
cá nhân, tổ chức ngày càng tăng nhanh. Dẫn đến áp lực ngày càng lớn cho đội
ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác cấp Phiếu LLTP, cũng như cán bộ
đầu mối thực hiện cung cấp thông tin LLTP phục vụ công tác cấp phiếu
LLTP. Do đó, tình trạng trễ hẹn cấp Phiếu LLTP vần còn tồn tại.
Trước thực tế đó, Sở Tư pháp đã thực hiện áp dụng giải pháp “Kiềng ba
chân” nhằm giải quyết tình trạng chậm trả lời tra cứu, xác minh thông tin
LLTP. Kể từ khi bắt đầu áp dụng giải pháp tin học hóa việc tra cứu thông tin
theo giải pháp “Kiềng ba chân” và chủ động tra cứu tại cơ sở dữ liệu tại Sở
Tư pháp, tỉ lệ trễ hẹn tại Sở Tư pháp đã giảm mạnh và bảo đảm hầu hết các
trường hợp cấp Phiếu đúng và sớm hơn thời hạn Luật định.
- Tổng số yêu cầu cấp phiếu LLTP từ ngày 01/01/2011 đến ngày
31/12/2018 là 34.228 trường hợp. Trong đó:
+ Số lượng hồ sơ trả trước hẹn là 28.731 trường hợp (chiếm tỉ lệ
83,94%)
52
+ Số lượng hồ sơ đúng hẹn là 516 trường hợp (chiếm tỉ lệ 1,51%)
+ Số lượng hồ sơ trễ hẹn là 4.981 trường hợp (chiếm tỉ lệ 14,55%)
- Tỉ lệ theo loại Phiếu LLTP số 1 và Phiếu LLTP số 2 đã cấp là:
+ Số lượng Phiếu LLTP số 2 là 8.233 trường hợp (chiếm tỉ lệ 24,18%)
+ Số lượng Phiếu LLTP số 1 là 25.812 trường hợp (chiếm tỉ lệ 75,82%)
(Cụ thể chi tiết kèm theo Phụ lục số 03 ) [37,38, 39, 49].
Tỉ lệ cấp Phiếu LLTP số 2 tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương rất cao. Cụ
tỉ lệ Phiếu LLTP số 1
tỉ lệ Phiếu LLTP số 2
83%
73.20%
65%
63.93%
36.07%
35%
26.80%
17%
Bình Dương
cả nước
Hồ Chí Minh
Lào Cai
thể trong năm 2017:
- Tỉnh Bình Dương cấp 4.040 Phiếu LLTP số 1, 2.279 Phiếu LLTP số 2
(Theo Báo cáo số 276/BC-UBND ngày 05/12/2017 của UBND tỉnh Bình
Dương về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017)
- Thành phố Hồ Chí Minh cấp 45.108 Phiếu LLTP số 1, 24.289 Phiếu
LLTP số 2 (Theo Báo cáo số 19260/BC-STP-VP ngày 28/11/2017 của Sở Tư
pháp Thành phố Hồ Chí Minh về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017)
- Tỉnh Lào Cai cấp 857 Phiếu LLTP số 1, 176 Phiếu LLTP số 2 (Theo
Báo cáo số 80/BC-STP ngày 11/01/2018 của Sở Tư pháp tỉnh Lào Cai về việc
tổng kết công tác tư pháp năm 2017)
53
- Cả nước cấp 331.501 Phiếu LLTP số 1, 121.335 Phiếu LLTP số 2
(Theo Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 của Bộ Tư pháp về việc tổng
kết công tác tư pháp năm 2017)
2.2.3. Hoạt động quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp
2.2.3.1. Về triển khai quy định trong quản lý lý lịch tư pháp
Để việc triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi
hành có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại địa
phương và phục vụ cho việc cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu,
ngày 18/5/2011, Tỉnh ủy Bình Dương đã có Công văn số 308-CV/TU về việc
triển khai Luật LLTP, tiếp đó ngày 17/10/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban
hành Công văn số 3061/UBND-NC chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện
Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
2.2.3.2. Về đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí và
việc ứng dụng công nghệ thông tin
Việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động quản lý
LLTP được tỉnh quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng kinh phí mua sắm
trang thiết bị, phương tiện làm việc, kinh phí cho hoạt động xây dựng, quản lý
cơ sở dữ liệu LLTP của tỉnh. Đến nay, Sở Tư pháp được trang bị đầy đủ thiết
bị, máy vi tính, đường truyền, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng,
quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP. Hiện tại, Phòng Hành
chính tư pháp được bố trí 2 máy scan, 1 máy phục vụ công tác gửi xác minh
thông tin LLTP, 1 máy phục vụ công tác trao đổi, cung cấp thông tin LLTP
đến TTLLTPQG và các Sở Tư pháp khác.
Tất cả các hồ sơ LLTP đều được lưu trữ điện tử và lưu trữ bằng giấy.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có kho lưu trữ riêng dành cho công tác LLTP,
54
mà còn dùng chung kho lưu trữ với cơ quan. Tủ lưu trữ hồ sơ cũng chưa được
trang bị đẩy đủ, chỉ đáp ứng được 1/3 số lượng hồ sơ LLTP.
Sở Tư pháp hiện vẫn đang sử dụng Phần mềm quản lý LLTP phiên bản
dùng chung của Bộ Tư pháp, đa phần sử dụng hết các các tính năng của phần
mềm trong việc xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác và cấp Phiếu LLTP.
Từ ngày 01/3/2013 đến ngày 30/6/2018, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương
đã cung cấp, trao đổi thông tin dưới dạng điện tử được khoảng 7.450 thông tin
đến TTLLTPQG [53].
Để thuận tiện trong việc nhận và gửi thông tin LLTP, Sở Tư pháp cũng
đề xuất Sở Thông tin và truyền thông cung cấp email công vụ riêng cho
phòng Hành chính tư pháp.
Việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa Sở Tư pháp với Trung tâm LLTP
quốc gia, các Sở Tư pháp khác: Kể từ Quý II/2018, Sở Tư pháp đã triển khai
việc cung cấp thông tin qua thư điện tử với các Sở Tư pháp trên cả nước.
2.2.3.3. Về công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò
của công tác LLTP
Theo chỉ đạo của UBND tỉnh việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật LLTP đã được đưa vào Kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hàng năm
của tỉnh, làm cơ sở định hướng tuyên truyền ở các ngành, địa phương. Theo
đó, Sở Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Báo,
Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến sâu
rộng nội dung của Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành đến các cấp,
các ngành, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đặc
biệt là các ngành có liên quan và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp và liên
quan đến công tác LLTP, trong đó tập trung tuyên truyền, phổ biến các nội
dung cơ bản của pháp luật LLTP. Biên soạn, phát hành 3600 tờ gấp.
55
Để người dân biết về các phương thức cấp Phiếu LLTP theo kế hoạch
1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý
lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính; Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày
12/5/2016 về triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp
trực tuyến, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ngành, địa phương trên địa bàn thực
hiện tuyên truyền về các phương thức cấp Phiếu LLTP cho cán bộ công chức,
viên chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý và nhân dân trên địa bàn tỉnh. Đối
với phương thức này, Sở Tư pháp còn cung cấp thông tin về thủ tục, thành
phần hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho các đơn vị bưu chính để niêm yết
công khai tại các điểm bưu cục, điểm phục vụ bưu chính; ban hành văn bản
thông báo về việc đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến kết hợp với dịch vụ
nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính gửi UBND cấp huyện; các Sở, ban
ngành và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở văn bản chỉ đạo của tỉnh, các Sở, ngành, UBND cấp huyện,
UBND cấp xã thực hiện việc tuyên truyền Luật LLTP. Việc tuyên truyền
được thực hiện lồng ghép thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú,
phù hợp với từng đối tượng như: đối với học sinh, sinh viên thì bằng hình
thức nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt dưới cờ, thi hái hoa dân chủ…; đối với
người lao động thì tổ chức thi tìm hiểu pháp luật, đối với nhân dân thì tuyên
truyền thông qua buổi họp khu phố, cấp phát tài liệu, tuyên truyền trên hệ
thống loa phát thanh.
Tại các đơn vị bưu chính: cũng thực hiện tuyên truyền phương thức
trên qua các hình thức như: trên website của Bưu điện tỉnh, Website Tổng
Công ty Bưu điện Việt Nam; gửi nội dung truyền thông đến Công đoàn các
khu công nghiệp, phát tờ rơi tại các bưu cục…; công ty Bưu chính Viettel -
Chi nhánh Bình Dương thực hiện tuyên truyền qua các hình thức như: trên
website của công ty, đến các doanh nghiệp, qua tờ rơi…
56
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Kết quả đạt được
Sau 8 năm triển khai Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành chi
tiết, công tác LLTP tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã đạt được những kết
quả tích cực như:
- Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về LLTP được thực hiện
khá tốt, nhiều cá nhân, tổ chức biết rõ hơn về LLTP.
Sở Tư pháp đã triển khai tuyền truyền dưới nhiều hình thức khác nhau,
biên soạn tờ gấp, các tài liệu tuyền truyền; đưa nội dung phổ biến về LLTP
lên cổng thông tin điện tử của Sở, của tỉnh, trên các Đài phát thanh, đài truyền
hình; thực hiện niêm yết công khai thủ tục;… Việc tuyên truyền được thực
hiện lồng ghép thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú, phù hợp với
từng đối tượng như: đối với học sinh, sinh viên thì bằng hình thức nói chuyện
chuyên đề, sinh hoạt dưới cờ, thi hái hoa dân chủ…; đối với người lao động
thì tổ chức thi tìm hiểu pháp luật,...
- Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc tra
cứu, xác minh và cung cấp thông tin LLTP cho Sở Tư pháp từng bước được
nâng cao;
Các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát, UBND cấp
xã… phối hợp với Sở Tư pháp cung cấp, tra cứu, xác minh, rà soát thông tin
LLTP hiện nay khá đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Có nhiều cải cách trong công tác phối hợp, đã thực hiện việc trao đổi, cung
cấp thông tin LLTP bằng nhiều phương thức khác nhau, trực tiếp, qua đường
bưu chính hay qua thư điện tử, mang lại nhiều hiệu quả như thời hạn giải
quyết hồ sơ cấp phiếu LLTP được rút ngắn, việc cung cấp thông tin LLTP
được kịp thời,…
57
- Đội ngũ công chức, viên chức, người lao động của Sở Tư pháp nhận
thức rõ vai trò và trách nhiệm của Sở Tư pháp trong việc xây dựng Cơ sở dữ
liệu LLTP.
Mặc dù khối lượng công việc trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử
dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và cấp phiếu LLTP ngày càng lớn, tuy
nhiên cán bộ công chức làm công tác LLTP vẫn đảm bảo thực hiện, hoàn
thành tốt được công việc. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại Sở Tư pháp
được chú trọng, nâng cao trách nhiệm của từng cá nhân.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về LLTP được xây dựng và
triển khai tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện pháp
luật về LLTP đi vào cuộc sống.
Các văn bản triển khai, hướng dẫn thi hành đã được Sở Tư pháp tham
mưu UBND tỉnh ban hành khá đầy đủ, chi tiết. Đồng thời, Sở Tư pháp cũng
đã có các văn bản thông báo, hướng dẫn, triển khai đến địa phương, các Sở,
ban, ngành, các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trên địa bàn toàn tỉnh. Nhờ
vào đó, việc thực hiện pháp luật về LLTP của các cơ quan, nhà nước, tổ chức
cũng như của các cá nhân được dễ dàng, thuận lợi hơn.
- Tổ chức, bộ máy, nhân lực làm công tác LLTP đang từng bước được
kiện toàn.
Để đáp ứng yêu cầu công việc, Sở Tư pháp đã chủ động điều chuyển
nhân sự từ đơn vị sự nghiệp hỗ trợ công tác LLTP. Hiện nay, Sở Tư pháp tiếp
tục kiện toàn tổ chức, bộ máy; tăng cường xây dựng lề lối làm việc chuyên
nghiệp, hiện đại; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ công chức làm công tác LLTP.
- Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP được chú trọng thực hiện.
Cơ sở dữ liệu LLTP được xây dựng dưới 2 hình thức là giấy và điện tử.
Xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của
58
quản lý LLTP. Vì vậy, trong thời gian qua, Sở Tư pháp đã phối hợp với các
cơ quan có liên quan thực hiện tốt việc trao đổi, cung cấp, tiếp nhận thông tin
LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP được đầy đủ, chính xác.
- Công tác cấp Phiếu LLTP đã cơ bản đáp ứng yêu cầu của người dân
và thể hiện vai trò quan trọng của Phiếu LLTP trong quản lý nhà nước, quản
lý xã hội. Trong 08 năm thực hiện Luật LLTP (2011-2018), Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương đã cấp được 34.045 Phiếu LLTP. Ngoài ra, để tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp cũng đã triển khai nhiều phương
thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp như: Trực tiếp; bưu chính,
trực tuyến; đăng ký nộp hồ sơ lý lịch tư pháp trực tuyến kết hợp với nhận và
trả kết quả qua bưu điện; Trả kết quả qua hình thức: Trực tiếp, bưu chính.
- Đồng thời, Bình Dương là tỉnh đầu tiên trên cả nước thực hiện liên
thông các thủ tục hành chính: Cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh; Cấp chứng chỉ hành nghề dược; Cấp phiếu Lý lịch tư pháp trên địa bàn
tỉnh Bình Dương.
Với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp Phiếu lý lịch tư
pháp cho tổ chức và công dân, việc triển khai phương thức liên thông các thủ
tục hành chính: cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng
chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch tư pháp là một trong những phương
thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp Phiếu LLTP, giúp cá
nhân có thêm lựa chọn phù hợp khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP và tiết kiệm
được thời gian, chi phí đi lại khi liên hệ với Sở Tư pháp và Sở Y tế thực hiện
một số thủ tục hành chính.
2.3.2. Hạn chế
Thứ nhất, trong công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có
liên quan.
59
Trong thời gian qua, Sở Tư pháp nhận được sự quan tâm, phối hợp
tương đối tốt của các cơ quan Tòa án, cơ quan thi hành án, Viện kiểm sát,
UBND cấp xã…trong công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án
tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp theo quy định tại Thông tư liên tịch số
04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012. Tuy
nhiên, công tác xác minh còn gặp khá nhiều khó khăn, vẫn còn tình trạng
chậm trả lời kết quả trong tra cứu thông tin LLTP để cấp phiếu LLTP, dẫn
đến tình trạng kết quả phiếu LLTP bị trễ so với ngày hẹn trả cho người dân.
Thông tin LLTP cung cấp đến Sở Tư pháp còn chưa đầy đủ, kịp thời, vẫn còn
những sai sót trong việc cung cấp thông tin, nên việc xây dựng cơ sở dữ liệu
tại Sở Tư pháp còn thiếu sót, chưa đầy đủ.
Việc cung cấp thông tin LLTP về án tích có trước ngày 01/7/2010 chưa
được các cơ quan liên quan kịp thời cung cấp, vẫn còn tình trạng văn bản đề
nghị cung cấp thông tin về án tích của Sở không nhận được phản hồi.
Thứ hai, trong phân bổ trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí
và nhân sự phục vụ công tác LLTP.
Thực hiện Luật LLTP, Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010
của Thủ tướng Chính phủ về Đề án xây dựng TTLLTPQG và kiện toàn bộ
máy tổ chức để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP, UBND tỉnh đã có công
văn chỉ đạo việc phối hợp triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật, theo đó, UBND tỉnh giao Sở Nội vụ xem xét, tham
mưu UBND tỉnh bố trí đủ biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp. Tuy
nhiên, đến nay, biên chế làm công tác LLTP vẫn chưa được bổ sung theo quy
định.
Theo nội dung kiện toàn cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác lý
lịch tư pháp theo Kế hoạch triển khai Chiến lược thì trong giai đoạn 2014 –
2015 tăng cường thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy kiện toàn tổ chức, đội
60
ngũ cán bộ làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp, bảo đảm từ năm 2014-2015 bố
trí đủ biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp theo Quyết định số
2369/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, nghiên cứu đề xuất bổ
sung biên chế làm công tác LLTP tại Sở Tư pháp, bảo đảm phù hợp với tình
hình thực tế”. Tuy nhiên, nội dung này chưa được thực hiện trong giai đoạn
2014 – 2015. Vì vậy, Sở Tư pháp phải thực hiện việc biệt phái viên chức từ
đơn vị sự nghiệp trong Sở để làm công tác LLTP.
Hiện tại, Phòng Hành chính tư pháp có 5 người: 2 biên chế và 3 hợp
đồng được điều động, biệt phái từ đơn vị sự nghiệp, trong đó, vừa tham mưu
thực hiện quản lý nhà nước về đăng ký quản lý hộ tịch, lý lịch tư pháp, quốc
tịch, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước, số lượng cán bộ đã qua đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp còn ít nên lượng
thông tin LLTP còn tồn đọng khá nhiều, một lượng lớn hồ sơ chưa được lập,
bổ sung đầy đủ.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm cho công tác LLTP, đặc biệt là hệ
thống Kho lưu trữ hồ sơ bằng giấy tại Sở Tư pháp chưa đáp ứng được yêu
cầu. Tại các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, kinh phí để phục vụ
cho hoạt động cung cấp thông tin LLTP để xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP đều
được lấy từ kinh phí hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị. Kinh
phí được trích lại Sở Tư pháp để phục vụ công tác xây dựng, quản lý, sử dụng
và khai thác Cơ sở dữ liệu LLTP còn chưa cao, nên việc đầu tư cơ sở vật chất,
nhân lực còn hạn chế.
Thứ ba, hoạt động cấp phiếu LLTP.
Pháp luật LLTP quy định thời hạn giải quyết hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu
LLTP là không quá 10 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường
hợp người được cấp Phiếu LLTP là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi
hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, người nước ngoài, trường hợp phải tra
61
cứu, xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích thì thời hạn không
quá 15 ngày. Qua thời gian thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn
thi hành, nhận thấy, đối với công dân cư trú tại một nơi thì thời hạn giải quyết
(10 ngày) là phù hợp. Tuy nhiên, đối với những hồ sơ phải xác minh tình
trạng đương nhiên được xóa án tích thì thời hạn 15 ngày là không đảm bảo,
vì:
Thông thường, đối với những hồ sơ phức tạp: Sau khi Sở Tư pháp thực
hiện các công việc như tiếp nhận, thụ lý hồ sơ; tra cứu tại cơ sở dữ liệu của
Sở; hoàn thiện hồ sơ yêu cầu tra cứu, xác minh gửi cơ quan công an hoặc
TTLLTPQG. Sau khi có kết quả tra cứu nhưng chưa xác định rõ được nội
dung bản án, tình trạng án tích của đương sự thì Sở Tư pháp phải thực hiện
việc xác minh tại Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án, UBND cấp xã hoặc cơ
quan, tổ chức có liên quan. Thực tế việc xác minh mất nhiều thời gian hoặc
một số cơ quan có liên quan cũng không còn lưu giữ sổ sách, hồ sơ để thực
hiện việc xác minh, dẫn đến việc thời hạn xác minh phải kéo dài, ảnh hưởng
đến thời gian cấp Phiếu LLTP. Đặc biệt, có trường hợp, Sở Tư pháp phải gọi
điện thoại, gửi công văn nhiều lần nhưng không nhận được sự phản hồi. Do
đó, đối với các trường hợp phải xác minh về điều kiện đương nhiên xóa án
tích của người yêu cầu đều quá thời gian luật định.
Về phương thức cấp Phiếu LLTP trong Quyết định số 19/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ vẫn còn chưa thực sự tạo thuận lợi cho người có yêu
cầu: Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg, cho phép người dân lựa chọn hình thức
cấp Phiếu LLTP qua bưu chính hoặc đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến vẫn
phải đến cơ quan cấp Phiếu hoặc cơ quan có thẩm quyền để chứng thực giấy
tờ theo quy định (giấy tờ tùy thân, giấy tờ chứng minh về nơi cư trú, Tờ khai -
nếu là Phiếu LLTP số 2). Việc quy định như vậy, chưa tạo ra sự thuận tiện tối
62
đa cho người có yêu cầu và chưa đáp ứng hiệu quả cao trong cải cách thủ tục
hành chính.
Thứ tư, quy định về quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và quản lý nhà nước về
LLTP dần xuất hiện những hạn chế.
Theo quy định của Luật LLTP, hiện nay có 2 cấp quản lý LLTP là
TTLLTPQG và Sở Tư pháp. Mô hình quản lý này rất khả thi khi mới có hiệu
lực, tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các cơ quan trong việc cung cấp, tiếp
nhận thông tin LLTP. Do các cơ quan ở địa phương với nhau nên dễ trao đổi
thông tin, khối lượng thông tin cũng tương đối, nên dễ dàng trong việc cung
cấp và tiếp nhận thông tin LLTP.
Tuy nhiên, dần theo sự phát triển của xã hội, lượng thông tin LLTP
ngày càng tăng, khối lượng thông tin Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan
trao đổi, cung cấp và tiếp nhận rất lớn. Đồng thời, việc trao đổi thông tin
LLTP giữa Trung ương và địa phương ngày càng nhiều, tốn rất nhiều kinh
phí, qua nhiều khâu, nhiều đầu mối nên khó đảm bảo về tính chính xác, đồng
bộ dữ liệu, bảo mật thông tin.
Việc thực hiện xây dựng mô hình quản lý cơ sở dữ liệu LLTP hai cấp
như hiện nay dẫn tới việc tra cứu thông tin qua nhiều trung gian, dẫn đến sự
chậm trễ trong cấp phiếu LLTP, thông tin LLTP không đảm bảo tính chính
xác, tính bảo mật, ảnh hưởng lớn trong việc thực hiện pháp luật LLTP.
Thứ năm, pháp luật về LLTP so với các quy định về LLTP của các luật
có liên quan chưa thống nhất, đồng bộ.
Luật LLTP được ban hành năm 2009, sau 8 năm thi hành, hiện nay tình
hình đất nước đã có nhiều chuyển biến lớn về chính trị, kinh tế - xã hội, Hiến
pháp năm 2013 được ban hành và có những nội dung tư tưởng mới về việc
ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà Luật LLTP chưa kịp
cập nhật.
63
BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực và quy
định rất nhiều điểm mới như trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại,
các quy định tính đến yếu tố lỗi của người bị kết án để xem xét án tích. Trong
khi đó, Luật LLTP chỉ giới hạn LLTP của cá nhân cũng như không xét đến
yếu tố lỗi của người bị kết án, dẫn đến Luật LLTP không còn phù hợp với
những quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Thứ sáu, tình trạng sử dụng phiếu LLTP số 2 đang bị lạm dụng.
Tình trạng sử dụng Phiếu LLTP số 2 không đúng mục đích ngày càng
gia tăng. Thực tế giải quyết yêu cầu cấp Phiếu LLTP cho thấy, cá nhân yêu
cầu cấp Phiếu LLTP số 2 không xuất phát từ yêu cầu muốn biết về nội dung
LLTP của mình như quy định của Luật LLTP mà chủ yếu là để hoàn thiện hồ
sơ để làm một số thủ tục như: Xin việc làm, kết hôn, xuất khẩu lao động ….
theo yêu cầu của cơ quan đại diện ngoại giao một số nước như: Hoa Kỳ,
Canada, Pháp, Trung Quốc (Đài Loan), Úc; Một số trường hợp để bổ túc hồ
sơ xin việc làm theo yêu cầu của cơ quan, doanh nghiệp trong nước như chạy
xe công nghệ, hàng không…, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; một số
trường hợp để bổ túc hồ sơ xin giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật
tự theo quy định của Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính
phủ quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư,
kinh doanh có điều kiện.
Khi Phiếu LLTP số 2 được cấp và sử dụng công khai có thể dẫn đến hệ
lụy cho cá nhân khi tái hòa nhập cộng đồng, hạn chế cơ hội tìm kiếm việc
làm, cơ hội được nhập cảnh, du học, định cư ở nước ngoài đối với người đã
từng bị kết án (mặc dù người đó đã được xóa án tích) làm hạn chế ý nghĩa
nhân đạo của chế định xóa án tích, xâm phạm bí mật đời tư của công dân.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
64
Trong công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan
thông tin lý lịch tư pháp còn chậm, chưa được đầy đủ do một số thông tin
LLTP đã quá lâu; một số Tòa án, Viện kiểm sát, Thi hành án không còn lưu
trữ được thông tin án tích của người đề nghị cấp Phiếu LLTP hoặc hồ sơ bị
mất mát, hư hỏng. Mặt khác, sự phối hợp trong việc tra cứu, xác minh, trao
đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại một số địa phương còn chưa nhịp
nhàng do số lượng cán bộ thực hiện công tác LLTP tại Sở Tư pháp và các cơ
quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Thi hành án,...còn ít và đều là kiêm nhiệm. Do
đó, đối với trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích
thì việc trả kết quả Phiếu LLTP thường bị trễ hơn so với ngày hẹn trả kết quả.
Hầu hết các thông tin LLTP (thông tin LLTP trước ngày 01/7/2010) do các cơ
quan này gửi cho Sở Tư pháp đều quá thời hạn luật định. Do đó, Sở Tư pháp
không thể cập nhật, bổ sung LLTP được đầy đủ và đúng thời gian quy định.
Chưa có chế tài trong trường hợp các cơ quan không cung cấp kịp thời,
đúng thời hạn các thông tin lý lịch tư pháp khi Sở Tư pháp có công văn đề
nghị xác minh về các điều kiện xóa án tích. Vì vậy, dẫn đến việc trả kết quả
đều trễ thời hạn so với quy định. Ngoài ra. quy định về thời hạn giải quyết hồ
sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn.
Nhiều cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin LLTP chưa được đầu
tư kinh phí, trang thiết bị, nhân lực cho công tác này, chưa có giải pháp công
nghệ thông tin đồng bộ trong việc kết nối, chia sẻ thông tin.
Lượng thông tin LLTP ngày càng tăng, khối lượng thông tin Sở Tư
pháp và các cơ quan có liên quan trao đổi, cung cấp và tiếp nhận rất lớn nên
mô hình 2 cấp không còn phù hợp do phải qua nhiều cơ quan khác nhau.
Đồng thời, với tình hình phát triển hiện nay, dữ liệu dân cư quốc gia đang dần
hoàn thiện nên mô hình hiện tại sẽ gây khó khăn cho người dân.
65
Do Luật LLTP được ban hành khá lâu, đất nước đã có nhiều chuyển
biến lớn nên những quy định về LLTP hiện nay sẽ không còn phù hợp nữa
với các đạo luật mới được ban hành.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Do một số cơ quan có liên quan tâm chưa đúng mức về vị trí, vai trò
của công tác LLTP nói chung, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP nói
riêng.
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả những người làm
công tác tư pháp, cán bộ lãnh đạo còn chưa đầy đủ và đúng mức về vai trò, ý
nghĩa của LLTP, cán bộ đã được tham gia đào tạo về nghiệp vụ LLTP lại điều
chuyển sang làm công việc khác theo chính sách luân chuyển cán bộ.
Bản thân các cá nhân chưa ý thức được tầm quan trọng của thông tin
nhân thân, quyền của bản thân nên họ vẫn yêu cầu cấp phiếu LLTP số 2 và
nộp cho các cơ quan. Hoặc các cơ quan, tổ chức yêu cầu cá nhân phải bổ sung
phiếu LLTP số 2 và các cá nhân đó bắt buộc phải nộp nhằm đảm bảo nhu cầu
cá nhân. Hiện nay, cũng chưa có quy định cụ thể về việc các cơ quan, tổ chức
không được yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu LLTP số 2.
Tiểu kết chƣơng 2
Chương 2 đã giới thiệu tổng quan về Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương và
đi sâu phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương. Chương đã đánh giá được những kết quả mà Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương đã đạt được như công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về
LLTP được thực hiện khá tốt; công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên
quan trong việc tra cứu, xác minh và cung cấp thông tin LLTP cho Sở Tư
pháp từng bước được nâng cao; đội ngũ công chức, viên chức, người lao động
66
của Sở Tư pháp nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của Sở Tư pháp trong
việc xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP, Sở Tư pháp cũng đã triển khai nhiều
phương thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP khác nhau tạo rất nhiều điều
kiện thuận lợi cho người dân. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thi
hành pháp luật về LLTP vẫn còn một số hạn chế về công tác phối hợp giữa
các cơ quan có liên quan,… Những đánh giá về thực trạng là căn cứ thực tiễn
để tác giả đề xuất các phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về LLTP tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
67
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ LÝ LỊCH TƢ PHÁP TẠI SỞ TƢ PHÁP
TỈNH BÌNH DƢƠNG
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp
Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, việc thực hiện pháp luật về LLTP ở nước ta cần được
phát triển theo hướng:
Thứ nhất, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước; phù hợp với Hiến pháp, phù hợp và thống
nhất với các văn bản pháp luật hiện hành; hội nhập quốc tế, bảo đảm tính
tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cải cách
hành chính của hệ thống pháp luật về LLTP với các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan, đáp ứng yêu cầu thực thi Hiến pháp năm 2013, yêu cầu của
thực tiễn.
Thứ hai, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện
pháp luật về LLTP, xây dựng cơ chế cập nhật, chia sẻ, khai thác, sử dụng
thông tin về công dân giữa các cơ sở dữ liệu (Cơ sở dữ liệu LLTP, Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu hộ
tịch). Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật nâng cao hiệu quả,
giải quyết cơ bản vấn đề nguồn nhân lực và chất lượng thông tin LLTP.
Thứ ba, kiện toàn tổ chức bộ máy và biên chế cho cơ quan quản lý
LLTP từ Trung ương đến địa phương theo hướng chuyên môn hóa, đáp ứng
68
yêu cầu nhiệm vụ; nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức
làm công tác LLTP, đảm bảo tính chuyên nghiệp.
Thứ tư, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 về bảo
đảm quyền bí mật đời tư cá nhân, phát huy vai trò là công cụ pháp lý quan
trọng hỗ trợ cho hoạt động tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền,
lợi ích hợp pháp của người dân, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công
dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; khắc phục tình trạng lạm dụng trong
việc yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 02; bảo đảm thực hiện chế định về đương
nhiên xóa án tích theo quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công
tác LLTP theo yêu cầu của Luật LLTP; việc cấp Phiếu LLTP chủ yếu do các
Sở Tư pháp thực hiện; đẩy mạnh việc xây dựng, quản lý, khai thác Cơ sở dữ
liệu LLTP theo hướng xây dựng Cơ sở dữ liệu LLTP tập trung, thống nhất.
Thứ sáu, tiếp tục cải cách thủ tục cấp Phiếu LLTP, đa dạng hóa phương
thức cấp Phiếu LLTP, đáp ứng tốt nhất yêu cầu cấp Phiếu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; giảm bớt gánh nặng, chi phí của người dân, chi phí xã hội trong
thực hiện thủ tục cấp Phiếu LLTP; không cổ súy, tiến tới thu hẹp dần phạm vi
các lĩnh vực yêu cầu phải có Phiếu LLTP trong thủ tục hành chính...
Thứ bảy, tiếp tục đẩy mạnh công tác tổ chức thi hành Luật LLTP; thực
hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn 2030
được ban hành kèm theo Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của
Thủ tướng Chính phủ. Từ đó, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện pháp
luật về LLTP có hiệu quả trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai
thác cơ sở dữ liệu LLTP và hoạt động cấp Phiếu LLTP.
69
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lý lịch tƣ pháp
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Bãi bỏ quy định về loại Phiếu lý lịch tư pháp số 2
Phiếu LLTP số 2 là phiếu thể hiện rõ tình trạng nhân thân của một cá
nhân; tuy nhiên, trong thực tế khi công dân khi tới giao dịch tại các cơ quan,
tổ chức, trong đó có các cơ quan, tổ chức nước ngoài, thì hầu hết các cơ quan,
tổ chức đều yêu cầu công dân phải xuất trình phiếu LLTP số 2. Do đó, bí mật
đời tư của cá nhân không được đảm bảo, xâm phạm đến quyền con người,
quyền công dân của họ. Việc tồn tại loại Phiếu LLTP số 2 như quy định hiện
hành là phức tạp, không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế [15].
Để giải quyết tình trạng lạm dụng Phiếu LLTP số 2 hiện nay, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp và bí mật đời tư của cá nhân, không làm ảnh hưởng
tới ý nghĩa nhân đạo của chế định xóa án tích, đồng thời, để hỗ trợ hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng và đáp ứng yêu cầu
cung cấp thông tin LLTP của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội theo quy định của pháp luật có liên quan, quy định chặt hơn
nữa đối với Phiếu LLTP số 2. Có thể chỉ cấp Phiếu LLTP đối với người dân
có nhu cầu xem tình trạng án tích của mình và các tổ chức không được yêu
cầu người dân nộp phiếu LLTP số 2. Hoặc có thể bỏ luôn Phiếu LLTP số 2,
bổ sung quy định riêng về cung cấp thông tin LLTP theo yêu cầu cơ quan tiến
hành tố tụng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
với nội dung tương tự như nội dung của Phiếu LLTP số 2 hiện nay để giải
quyết vụ việc trong hoạt động tố tụng.
3.2.1.2. Mở rộng quy định về thẩm quyền, thủ tục cấp Phiếu Lý lịch tư
pháp
70
Về hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP: theo quy định của Luật LLTP, thì
khi yêu cầu cấp Phiếu LLTP, người yêu cầu phải nộp: (1) Tờ khai yêu cầu cấp
Phiếu LLTP; (2) Một trong số các loại giấy tờ sau của người yêu cầu cấp
Phiếu LLTP: chứng minh nhân dân; hộ chiếu (3) Sổ hộ khẩu; giấy xác nhận
thường trú; giấy xác nhận tạm trú.
Hiện nay, với nhu cầu di chuyển nơi sống thực tế của các cá nhân, cũng
như pháp luật hiện hành cho phép mọi cá nhân có quyền cư trú, đi lại, được
học tập, lao động ở nhiều địa phương khác nhau, xét thấy, cần mở rộng thẩm
quyền cấp Phiếu LLTP cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP để tạo thuận
lợi nhất cho người dân và cơ quan, tổ chức. Khi các cá nhân có nhu cầu xin
cấp Phiếu LLTP thì phải tạo điều kiện cho họ có quyền lựa chọn bất cứ cơ
quan có thẩm quyền cấp Phiếu nào hoặc thông qua mạng Internet, thông qua
Bưu điện để xin cấp Phiếu LLTP mà không phải phụ thuộc vào địa giới hành
chính. Từ đó, về thành phần hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP sẽ được giảm đi
các giấy tờ chứng minh nơi cư trú, thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hơn,
đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Để bảo đảm phù hợp với thực tiễn cũng như những văn bản pháp luật
khác có liên quan về người dưới 14 tuổi, người không quốc tịch… đề xuất sửa
đổi về hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP đối với những đối tượng này theo
hướng người dưới 14 tuổi không cần Phiếu LLTP để chứng minh nhân thân tư
pháp, bổ sung quy định về cấp phiếu LLTP cho người không quốc tịch. Ngoài
ra, để tiết kiệm chi phí và giảm bớt khó khăn cho người nước ngoài đã từng
cư trú tại Việt Nam, việc quy định về thủ tục yêu cầu cấp Phiếu LLTP người
nước ngoài có thêm sự lựa chọn trong việc sử dụng các loại giấy tờ xác định
thời gian cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với thực tiễn và
quy định của pháp luật.
71
Để tạo thuận lợi hơn cho cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng
quản lý của ngành, cơ quan, đơn vị, đề xuất mở rộng quy định về quyền các
cơ quan nhà nước trong yêu cầu cấp Phiếu LLTP của cá nhân để phục vụ các
yêu cầu quản lý nhà nước của ngành, cơ quan, đơn vị.
Luật LLTP cần bổ sung quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc
yêu cầu xác nhận LLTP là pháp nhân thương mại để bảo đảm thống nhất,
đồng bộ với pháp luật khác có liên quan.
3.2.1.3. Bổ sung quy định về thời hạn của Phiếu lý lịch tư pháp
Mặc dù pháp luật về LLTP không quy định về thời hạn sử dụng Phiếu
LLTP nhưng một số văn bản chuyên nghành khác có quy định về thời hạn sử
dụng Phiếu tùy theo tính chất, lĩnh vực quản lý.
Ví dụ như trong lĩnh vực Nuôi con nuôi quy định về thời hạn có giá trị
sử dụng của giấy tờ, trong đó quy định Phiếu LLTP của người nhận con nuôi
trong nước có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày
nộp hồ sơ tại UBND cấp xã. Phiếu LLTP của người nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi ở nước ngoài có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 12
tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi. Phiếu LLTP của người đứng
đầu tổ chức con nuôi nước ngoài có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 06
tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại Cục Con nuôi. Lãnh sự quán Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ quy định hồ sơ xin thị thực nhập cảnh của người từ 16 tuổi trở
lên cần phải nộp Phiếu LLTP có giá trị được cấp trong vòng một năm. Tại
Luật Quốc tịch năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định trong thành
phần hồ sơ xin nhập, thôi và trở lại quốc tịch Việt Nam phải có Phiếu LLTP
được cấp không quá 90 ngày tính đến ngày nộp hồ sơ. Ngoài ra, theo Luật
Công chứng 2014 quy định trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên
phải có Phiếu LLTP, Luật Luật sư quy định trong hồ sơ đề nghị cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư phải có Phiếu LLTP, tuy nhiên cả hai văn bản Luật này
72
cũng không có quy định về thời hạn sử dụng Phiếu LLTP. Ngoài ra, trong
tuyển dụng công chức hiện nay, nhiều cơ quan chỉ quy định thành phần hồ sơ
phải có Phiếu LLTP mà cũng không nêu rõ là Phiếu LLTP được cấp từ thời
điểm nào.
Do đó, xuất hiện tình trạng một số cơ quan từ chối việc tiếp nhận Phiếu
LLTP do quá thời hạn sử dụng phiếu LLTP. Như vậy, thời hạn sử dụng Phiếu
LLTP hiện nay không được quy định rõ ràng, thống nhất.
Để bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật cũng như bảo
đảm tính chính xác về tình trạng án tích của đương sự, cần bổ sung quy định
về thời hạn sử dụng Phiếu LLTP cho phù hợp với quy trình tố tụng của Bộ
luật Tố tụng hình sự, tránh tình trạng từ chối Phiếu LLTP do quá thời hạn như
hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân.
3.2.1.4. Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp
Pháp luật LLTP quy định thời hạn cấp Phiếu LLTP không quá 10 ngày,
kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ. Trường hợp người được cấp Phiếu
LLTP là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều nơi hoặc có thời gian cư trú ở
nước ngoài, người nước ngoài, trường hợp phải xác minh về điều kiện đương
nhiên được xóa án tích thì thời hạn không quá 15 ngày. Trường hợp khẩn cấp
theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng thì thời hạn không quá 24 giờ,
kể từ thời điểm nhận được yêu cầu.
Qua thực tế giải quyết hồ sơ cấp Phiếu LLTP và để tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho người dân, giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính, tác giả
nhận thấy có thể rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cấp Phiếu LLTP như
sau:
- Rút ngắn thời hạn cấp Phiếu từ 10 ngày xuống còn 7 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp người được cấp Phiếu LLTP chỉ
cư trú tại một nơi duy nhất.
73
- Rút ngắn thời hạn cấp Phiếu từ 15 ngày xuống còn 10 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp người được cấp Phiếu LLTP
đã cư trú ở nhiều nơi.
Tuy thời hạn giải quyết thủ tục hành chính rút ngắn sẽ tạo áp lực công
việc khá lớn cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện cấp Phiếu LLTP, nhưng
giải pháp này đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, giúp các cá nhân
dễ dàng hơn trong việc thực hiện thủ tục cấp Phiếu LLTP.
Ngoài ra, cũng cần bổ sung quy định thời hạn cấp Phiếu LLTP không
quá 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ trong trường hợp phải xác
minh thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích ở nhiều cơ quan
khác nhau, Thời gian qua, hầu hết hồ sơ trễ hẹn tại Sở Tư pháp đều do Sở
phải xác minh đầy đủ tình trạng án tích của họ tại các cơ quan có liên quan, để
thực hiện xác nhận đối với người đủ điều kiện đương nhiên xóa án tích. Trung
bình mỗi vụ việc, Sở Tư pháp cần phải xác minh tình trạng án tích tại 4 cơ
quan có liên quan (tối đa 8-9 cơ quan, tối thiểu 2-3 cơ quan), đòi hỏi thời hạn
cấp Phiếu LLTP đối với những trường hợp này cần dài hơn so với trường hợp
thông thường để giảm bớt áp lực cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện pháp
luật về LLTP.
3.2.1.5. Cần có chế tài phù hợp, quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan trong việc phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
Theo quy định của Luật LLTP, Giám đốc TTLLTPQG, Giám đốc Sở
Tư pháp hoặc người được ủy quyền ký Phiếu LLTP và chịu trách nhiệm về
nội dung của Phiếu LLTP. Trong khi đó, để ghi được nội dung của Phiếu
LLTP thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP phải căn cứ vào kết quả tra
cứu, xác minh thông tin tại các cơ quan như cơ quan công an, cơ quan tòa án
và thông tin tại cơ sở dữ liệu LLTP (thông tin này do các cơ quan Tòa án,
công an, thi hành án dân sự,…cung cấp). Do vậy, dẫn đến tình trạng nội dung
74
của Phiếu LLTP được cấp có thể không chính xác do các cơ quan phối hợp tra
cứu, xác minh cung cấp thông tin sai hoặc cung cấp chậm, nhưng lại chưa có
chế tài cụ thể đối với các cơ quan phối hợp.
Hiện nay, Luật LLTP và các văn bản pháp luật có liên quan chưa có
văn bản nào quy định về chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ, công chức là
công tác LLTP. Do đó, việc quy định rõ các cơ chế đảm bảo kiểm soát, quy
định rõ trách nhiệm, các chế tài cụ thể là rất cần thiết [18].
Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh việc quy định về nhiệm vụ của
các cơ quan trong việc phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, thực hiện tốt việc
cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, tra cứu, xác minh thông tin LLTP kịp thời,
đúng quy định để phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP tại Sở Tư
pháp và cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; đáp ứng yêu cầu
chung về cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của công dân, ta cần đưa ra các quy định cụ thể về nội dung phối hợp, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin về LLTP khi có
yêu cầu và các chế tài cụ thể đối với trường hợp không phối hợp hay phối hợp
không tốt trong công tác LLTP.
Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và các cơ quan phối hợp cần chỉ
đạo bộ phận đầu mối cung cấp, tiếp nhận, tra cứu xác minh thông tin của đơn
vị nâng cao ý thức trách nhiệm, cung cấp thông tin LLTP đầy đủ, chính xác,
kịp thời; hạn chế việc thông tin phải chuyển đi, chuyển lại để bổ sung, đính
chính. Chủ động hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành
Luật LLTP và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Thi hành án hình sự,… bảo đảm thực hiện thống nhất, có hiệu
quả hoạt động xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trên địa bàn tỉnh, để
phục vụ việc cấp Phiếu LLTP, giải quyết tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu
75
LLTP theo quy định của Luật LLTP nhằm đáp ứng tốt yêu cầu cấp Phiếu
LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật lý lịch tư
pháp tại địa phương
Để thay đổi nhận thức của xã hội, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của người dân là một việc làm lâu dài, thường xuyên. Do vậy, việc tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được cho là rất quan trọng, giúp các cá
nhân, tổ chức có nhận thức đúng đắn về LLTP.
Hiện nay, mặc dù Sở Tư pháp đã triển khai tuyền truyền dưới nhiều
hình thức khác nhau, biên soạn tờ gấp, các tài liệu tuyền truyền; đưa nội dung
phổ biến về LLTP lên cổng thông tin điện tử của Sở, của tỉnh, trên các Đài
phát thanh, đài truyền hình; Việc tuyên truyền được thực hiện lồng ghép
thông qua các hình thức tuyên truyền, phong phú, phù hợp với từng đối
tượng. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức tiếp cận
được pháp luật về LLTP, về các phương thức yêu cầu cấp Phiếu LLTP, Sở Tư
pháp cần thực hiện tuyên truyền tốt hơn nữa về các phương thức cấp Phiếu
đến mọi tầng lớp nhân dân, cơ quan, tổ chức để người dân có nhiều sự lựa
chọn khi có yêu cầu cấp Phiếu LLTP.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về LLTP
nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về ý nghĩa chính trị,
pháp lý của công tác LLTP đối với việc bảo đảm và phát huy hơn nữa quyền
công dân, quyền con người của mình; làm rõ vị trí, vai trò của LLTP trong đời
sống xã hội, trong quản lý nhà nước và trong hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự
bằng nhiều hình thức mới hơn nữa tổ chức các hội thi, tuyên truyền bằng tiểu
phẩm…
76
Ngoài ra, để việc thực hiện pháp luật về LLTP được đảm bảo, thiết
nghĩ, ta cũng cần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng đến cán bộ, công chức, đặc
biệt là đội ngũ trực tiếp làm công tác LLTP dưới hình thức hội nghị tập huấn,
hội nghị giao ban, phát hành cẩm nang nghiệp vụ, sách hỏi đáp pháp
luật,…Các cơ quan tiếp tục thực hiện quán triệt, triển khai Luật LLTP, chỉ rõ
nhiệm vụ nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ công chức, trách nhiệm của
các cơ quan trong công tác LLTP.
3.2.2.2. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đầu tư cơ sở vật
chất xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
Để nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về LLTP đáp ứng yêu cầu
của người dân, đồng thời giải quyết những hạn chế, khó khăn về nguồn nhân
lực,…thì triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng, quản lý, sử
dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP là một trong những giải pháp rất quan
trọng.
Mặc dù về cơ bản, hiện nay Sở Tư pháp đã được trang bị tương đối đầy
đủ cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện pháp
luật về LLTP. Tuy nhiên, nhu cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, cấp Phiếu
LLTP của cá nhân, cơ quan, tổ chức ngày càng tăng cao, đòi hỏi cần phải tiếp
tục tăng cường hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện
làm việc và kỹ thuật cho Sở Tư pháp trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP,
cấp Phiếu LLTP theo quy định. Giải pháp kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác tra cứu, xác minh thông tin phục vụ việc đăng ký cấp Phiếu
LLTP giữa Sở Tư pháp và các cơ quan: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án và thi
hành án trên phạm vi tỉnh, toàn quốc cũng cần được chú trọng.
Theo đó, Sở Tư pháp cần tập trung nguồn lực để triển khai, áp dụng
mạnh mẽ các ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp công nghệ khác
tiến tới điện tử hóa để thực hiện pháp luật về LLTP, đặc biệt là trong hoạt
77
động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu
LLTP. Triển khai ứng dụng rộng rãi chữ ký số để nâng cao chất lượng, hiệu
quả giải quyết công việc giữa Sở Tư pháp và các cơ quan phối hợp.
Cần phối hợp với TTLLTPQG để ứng dụng giải pháp cung cấp, truyền
tải thông tin LLTP bằng dữ liệu điện tử, tiến tới không sử dụng việc cung cấp
thông tin LLTP bằng văn bản giấy; Nâng cấp hoàn chỉnh Phần mềm quản lý
LLTP dùng chung và phần mềm đăng ký Phiếu LLTP trực tuyến đáp ứng yêu
cầu xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP [16, 21]. Đồng thời, cần
phối hợp với các cơ quan có liên quan trên địa bàn tỉnh từng bước triển khai
xây dựng, ứng dụng CNTT kết nối, chuyển dữ liệu LLTP điện tử giữa Sở Tư
pháp và các đơn vị phối hợp cung cấp thông tin trên địa bàn tỉnh nhằm tiết
kiệm kinh phí, hạn chế tối đa sai sót trong việc trao đổi, cung cấp thông tin
LLTP bằng giấy. Ngoài ra, còn giúp cán bộ làm công tác LLTP của Sở Tư
pháp giảm được thời gian, chi phí trong việc phải di chuyển giữa cơ quan Sở
Tư pháp và Công an tỉnh để chuyển hồ sơ và nhận kết quả tra cứu, xác minh
thông tin LLTP.
Bên cạnh đó, để đảm bảo công tác LLTP được thực hiện một cách kịp
thời, có hiệu quả thì cần cấp kinh phí hợp lý, đảm bảo nhân lực, vật lực thực
hiện. Đồng thời, cần trang bị cơ sở vật chất cần thiết như máy tính, máy scan,
kho lưu trữ riêng…tại Sở Tư pháp và các cơ quan phối hợp khác nhằm tạo
thuận lợi trong việc trao đổi cung cấp thông tin được kịp thời, nhanh chóng.
3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại,
kiến nghị của người dân
Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về LLTP, các đơn vị có liên
quan cần tăng cường phối hợp với Sở Tư pháp đẩy mạnh công tác thanh tra,
kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra liên ngành để nắm bắt tình hình thi hành Luật
LLTP và các văn bản pháp luật có liên quan quy định chi tiết, hướng dẫn thi
78
hành Luật tại đơn vị mình nhằm kịp thời chỉnh sửa các sai sót, tránh diễn biến
phức tạp; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật trong hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP; giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật LLTP; phát huy nhân tố tích cực;
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thực hiện pháp luật về LLTP;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, công
chức, viên chức trong triển khai thi hành Luật LLTP, kịp thời phát hiện những
bất cập trong hoạt động LLTP và có giải pháp để khắc phục.
Ngay sau khi Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 của Ủy
ban nhân dân tỉnh về triển khai thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp
qua dịch vụ bưu chính và Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về
triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến trên
địa bàn tỉnh Bình Dương, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời ban hành Quyết
định công bố, công khai thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp và chỉ đạo Sở Tư
pháp niêm yết công khai, tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của công dân
về thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Sở Tư pháp cần kịp thời xử lý các phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ
chức về các quy định hành chính có liên quan đến LLTP nhằm phát hiện các
sai sót, khó khăn, vướng mắc; chấn chỉnh, khắc phục kịp thời các sai sót xử lý
các hành vi gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức khi thực hiện thủ tục hành
chính, bảo đảm chất lượng, hiệu quả ngày càng cao của công tác LLTP nhằm
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
3.2.2.4. Tiếp tục triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính
cấp Phiếu lý lịch tư pháp với các thủ tục có liên quan
Hiện nay, Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương là một trong những tỉnh đi đầu
trong việc triển khai phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết
79
quả cấp Phiếu LLTP, đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số
352/QĐ-UBND ngày 05/02/2018 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế
phối hợp thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: cấp chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh; cấp chứng chỉ hành nghề dược; cấp Phiếu lý lịch
tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả
cao và được công nhận.
Để tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho người dân, Sở Tư pháp cùng các cơ quan có liên quan cần tiếp tục đề xuất
triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính mới.
Theo pháp luật hiện hành, có rất nhiều thủ tục hành chính yêu cầu trong
thành phần hồ sơ có Phiếu LLTP như thủ tục hành nghề luật sư, công chứng,
bán đấu giá, giám định tư pháp, giấy phép an ninh trật tự, giấy phép lao
động,…Do đó, dựa theo tình hình thực tế, ta có thể phối hợp với cơ quan công
an triển khai phương thức mới trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả cấp
Phiếu LLTP, thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Cấp giấy phép an
ninh trật tự, cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Hoặc
phối hợp với Sở Lao động thương binh và xã hội triển khai phương thức mới,
thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Cấp giấy phép lao động, cấp
Phiếu lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương,…
3.2.2.5. Triển khai thêm các phương thức nộp hồ sơ làm thủ tục cấp
Phiếu lý lịch tư pháp
Để tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người dân, Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương đã triển khai nhiều phương thức nộp hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu LLTP
như: Trực tiếp; bưu chính, trực tuyến; đăng ký nộp hồ sơ LLTP trực tuyến kết
hợp với nhận và trả kết quả qua bưu điện; Trả kết quả qua hình thức: Trực
tiếp, bưu chính. Cụ thể:
80
Theo Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015, Bình Dương là một
trong 06 tỉnh áp dụng thí điểm phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu
chính. Căn cứ Quyết định trên, ngày 23/6/2015 UBND tỉnh Bình Dương đã
ban hành Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai thực
hiện thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính trên địa bàn tỉnh Bình
Dương.
Thực hiện Nghị quyết số 36a/2015/NQ-CP về Chính phủ điện tử, căn
cứ vào tình hình, điều kiện thực tế tại địa phương và nhằm tiếp tục đẩy mạnh
cải cách hành chính trong lĩnh vực LLTP, giúp người yêu cầu cấp Phiếu
LLTP có nhiều lựa chọn về các phương thức cấp Phiếu LLTP, ngày
12/5/2016, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày
12/5/2016 về triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp
trực tuyến trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Thực hiện Kế hoạch số 1997/KH-UBND ngày 23/6/2015 về triển khai
thực hiện thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính trên địa
bàn tỉnh Bình Dương, ngày 28/7/2015, Sở Tư pháp và Bưu điện tỉnh Bình
Dương ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ nhận chuyển phát hồ sơ, kết quả
hành chính công qua dịch vụ bưu chính.
Tiếp đó, thực hiện Kế hoạch số 1417/KH-UBND ngày 12/5/2016 về
triển khai thực hiện thí điểm đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến trên
địa bàn tỉnh Bình Dương, ngày 17/6/2016, Sở Tư pháp ký kết thỏa thuận hợp
tác với Tổng công ty Bưu chính Viettel về việc “đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư
pháp trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ và trả kết quả qua bưu chính”.
Đồng thời, để tiếp tục góp phần thực hiện cải cách thủ tục hành chính, giúp cá
nhân, tổ chức có thêm lựa chọn phù hợp khi yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư
pháp, ngày 28/02/2017, Sở Tư pháp tiếp tục ký kết với Bưu điện tỉnh Bình
Dương về triển khai dịch vụ đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp trực tuyến kết
81
hợp với dịch vụ nhận hồ sơ, trả kết quả qua bưu chính. Đây là đơn vị thứ 02
mà Sở Tư pháp ký kết về triển khai dịch vụ đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp
trực tuyến kết hợp với dịch vụ nhận hồ sơ, trả kết quả qua bưu chính.
Như vậy từ năm 2015 – 2016, trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã triển
khai các phương thức cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính (được
giao thí điểm) và đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư pháp qua trực tuyến (chủ động
phối hợp với Bộ Tư pháp để triển khai thực hiện).
Tuy nhiên, với những phương thức nộp hồ sơ trên, người dân đều phải
có mặt tại cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu LLTP hoặc cơ quan có thẩm
quyền chứng thực các giấy tờ. Trong thời gian tới, Sở Tư pháp cần tiếp tục
triển khai phương thức cấp Phiếu LLTP mới, thuận tiện cho người dân
hơn[11]. Ở phương thức mới này, người dân không phải đến cơ quan, tổ chức
nào mà có thể ở bất cứ nơi đâu, quốc gia, vùng lãnh thổ nào cũng có thể truy
cập mạng và yêu cầu cấp Phiếu LLTP.
3.2.2.6. Củng cố công tác phối hợp giữa Sở Tư pháp và các cơ quan
khác có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp
Một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến công tác
LLTP, đó chính là cơ chế phối hợp. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương đã chủ
động, phối hợp với các cơ quan có liên quan như Tòa án nhân dân tỉnh, Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh, Thi hành án dân sự tỉnh và Công an tỉnh trình UBND
tỉnh quy chế phối hợp liên ngành trong việc trao đổi, rà soát, cung cấp thông
tin lý lịch tư pháp phục vụ việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Quyết
định số 1118/QĐ-UBND ngày 16/5/2014 ban hành Quy chế phối hợp liên
ngành trong công tác tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp và rà soát thông
tin lý lịch tư pháp trên địa bàn tỉnh Bình Dương). Mặc dù việc phối hợp giữa
Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp thông tin LLTP
khá tốt, mang lại nhiều hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn
82
chế, bất cập, làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác LLTP trong
thời gian vừa qua.
Để triển khai thực hiện Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật có hiệu quả, Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan cần tiếp tục phối
hợp tốt hơn nữa nhất là trong hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác
cơ sở dữ liệu LLTP và cấp Phiếu LLTP cho cá nhân, cơ quan, tổ chức [22].
Theo đó, các bên cần quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế
phối hợp đã được các bên thống nhất, ký ban hành. Chủ động hướng dẫn, tháo
gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật LLTP và các quy định có liên
quan. Chỉ đạo bộ phận đầu mối cung cấp, tiếp nhận, tra cứu xác minh thông
tin của đơn vị nâng cao ý thức trách nhiệm, cung cấp thông tin LLTP đầy đủ,
chính xác, kịp thời; hạn chế việc thông tin phải chuyển đi, chuyển lại để bổ
sung, đính chính. Bảo đảm thực hiện thống nhất, có hiệu quả hoạt động xây
dựng, quản lý cơ sở dữ liệu LLTP trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác
hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và tập huấn nghiệp vụ LLTP không chỉ
cho cán bộ làm công tác LLTP mà cho cả cán bộ làm nhiệm vụ phối hợp tra
cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin tại các cơ quan có liên quan trên
địa bàn tỉnh.
83
Tiểu kết chƣơng 3
Dựa trên cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về LLTP và những đánh
giá về thực trạng thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2010-2018, tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải
pháp như: Bãi bỏ quy định về loại Phiếu LLTP số 2; Mở rộng quy định về
thẩm quyền, thủ tục cấp Phiếu LLTP; Bổ sung quy định về thời hạn của Phiếu
LLTP; Cần có chế tài phù hợp, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong
việc phối hợp cung cấp thông tin lý lịch tư pháp; Tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin, đầu tư cơ sở vật chất xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp;
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, kiến nghị của
người dân; Tiếp tục triển khai các hình thức liên thông thủ tục hành chính cấp
Phiếu LLTP với các thủ tục có liên quan; Triển khai thêm các phương thức
nộp hồ sơ làm thủ tục cấp Phiếu LLTP…
Từ những đề xuất các giải pháp chung tới các giải pháp cụ thể về đảm
bảo thực hiện pháp luật về LLTP sẽ hỗ trợ cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu
nói chung và Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương nói riêng nâng cao hiệu quả trong
hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác cơ sở dữ liệu LLTP và hoạt
động cấp Phiếu LLTP.
84
KẾT LUẬN
Lý lịch tư pháp đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng góp phần bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong việc chứng minh nhân thân
tư pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Do vậy, trước yêu cầu
của thực tiễn phát triển đất nước, với chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, đảm bảo thực hiện quyền công dân, tăng cường tiến trình hội
nhập khu vực và quốc tế, việc thực hiện pháp luật về LLTP vẫn còn những hạn
chế không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hoàn thiện pháp
luật về LLTP và đảm bảo thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương là một yêu cầu tất yếu, mang tính khách quan. Thực hiện pháp
luật về LLTP là một hoạt động có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực, do vậy cần phải được quan tâm đúng mức và cần phải có các
giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về LLTP.
Mặc dù, việc thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương đã được chính quyền địa phương quán triệt, chỉ đạo, phối hợp triển
khai thực hiện nghiêm túc, mang lại một số hiệu quả nhất định, góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động của ngành tư pháp theo hướng hiện đại hơn,
minh bạch hơn, thuận lợi hơn cho người dân. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những
hạn chế mà việc thực hiện pháp luật về LLTP gặp phải như công tác phối hợp
giữa Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan còn gặp nhiều khó khăn, chưa
thật sự nhịp nhàng; việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích cho các
cá nhân để họ tái hòa nhập cộng đồng còn khó khăn; công tác xây dựng, quản
lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu LLTP còn hạn chế, chưa khai thác hiệu
quả; tình trạng lạm dụng phiếu LLTP số 2 xảy ra làm đời tư cá nhân bị xâm
phạm; tình trạng cơ sở vật chất phục vụ công tác LLTP còn hạn chế; các văn
85
bản quy phạm pháp luật về LLTP chưa thống nhất, dần xuất hiện những bất
cập, hạn chế,...
Qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện pháp
luật LLTP kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đưa ra
các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về LLTP của Sở Tư pháp
tỉnh Bình Dương. Công tác thực hiện pháp luật về LLTP sẽ được cải thiện
hơn, từ đó tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho người dân khi thực hiện các
hoạt động liên quan đến LLTP.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Hùng Anh (2017), Bàn về việc hoàn thiện pháp luật lý lịch tư
pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số
chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.
2. Bộ Tài chính (2016), Thông tư số 244/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016
quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí cung cấp thông tin
lý lịch tư pháp.
3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2015), Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015
về việc tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác CSDL LLTP.
4. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 06/2013/TT-BTP ngày
06/02/2013 hướng dẫn việc xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác CSDL
LLTP.
5. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 13/2011/TT-BTP ngày
27/6/2011 về việc ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và mẫu sổ LLTP.
6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 16/2013/TT-BTP ngày
11/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2011/TT-BTP.
7. Bộ Tư pháp, Bộ Công an (1999), Thông tư liên tịch số
07/1999/TTLT/BTP-BCA ngày 08/02/1999 quy định cấp Phiếu LLTP.
8. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ công an, Bộ quốc phòng (2012), Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của hướng dẫn trình tự, thủ
tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP.
9. Chính phủ (2010), Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP, Hà Nội.
10. Đỗ Văn Chỉnh (2010), Luật Lý lịch tư pháp với công tác Tòa án, Tạp
chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 6.
87
11. Phạm Quang Đại (2017), Dịch vụ hành chính công trực tuyến phục
vụ người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.
12. Phương Văn Đông (2011), Lý lịch tư pháp từ một góc nhìn, Tạp chí
Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 2.
13. Trần Văn Đức (2017), Quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp tại tỉnh
Nam Định, Luận văn thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia,
Hồ Chí Minh.
14. Hoàng Giai Giai (2017), Một số thành tựu trong thi hành pháp luật
về lý lịch tư pháp thời gian quan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp,
số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.
15. Nguyễn Thị Thu Hằng (2014), Xung quanh vấn đề cấp Phiếu Lý lịch
tư pháp số 2, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch
tư pháp.
16. Trần Thị Thu Hằng (2012), Tiếp nhận, xử lý và cung cấp thông tin
Lý lịch tư pháp, thực tiễn và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.
17. Nguyễn Quốc Hoàng (2017), Hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực
hiện pháp luật lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số
chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.
18. Vũ Đức Hùng (2017), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số
chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư pháp.
19. Hoàng Quốc Hùng (2017), Lý lịch tư pháp và pháp luật về lý lịch tư
pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về
lý lịch tư pháp.
88
20. Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (2011), Một số vấn đề về hoạt động
đào tạo nghiệp vụ công tác Lý lịch tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật,
Học viện Tư pháp, số 2.
21. Đỗ Thị Thúy Lan (2012), Xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư
pháp theo yêu cầu của Luật Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ
Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.
22. Đỗ Thị Thúy Lan (2014), Thực tiễn công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu
Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4.
23. Đỗ Thị Thúy Lan (2014), Lý lịch tư pháp và vấn đề bảo đảm quyền
con người, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Bảo đảm
quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp.
24. Đỗ Thị Thúy Lan (2017), Lý lịch tư pháp và vấn đề xóa án tích, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về lý lịch tư
pháp.
25. Nguyễn Huy Mạ (2014), Vai trò của cơ quan Công an trong tra cứu,
xác minh thông tin để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Lý lịch tư pháp.
26. Nguyễn Minh Phương (2008), Pháp luật về Lý lịch tư pháp của một
số nước trên thế giới, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, số 10.
27. Nguyễn Thị Minh Phương (2014), Thực tiễn công tác phối hợp tra
cứu, xác minh để cấp Phiếu Lý lịch tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ
Tư pháp, số chuyên đề 4.
28. Hoàng Thị Kim Quế (Chủ biên), (2007), Giáo trình Lý luận chung về
Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Hưng Quốc (2017), Pháp luật về lý lịch tư pháp ở Việt Nam
qua các thời kỳ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề
Pháp luật về lý lịch tư pháp.
89
30. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự.
31. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự.
32. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.
33. Quốc hội (2009), Luật Lý lịch tư pháp.
34. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự.
35. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự.
36. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 102/BC-STP ngày
28/8/2018 về việc sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày
09/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tăng cường xây dựng, quản lý,
sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
37. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo thống kê năm 2016.
38. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo thống kê năm 2017.
39. Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương (2019), Báo cáo thống kê năm 2018.
40. Đặng Thanh Sơn (2011), Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trung
tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và những vấn đề đặt ra tại thời điểm mới thành
lập, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số 2.
41. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày
28/12/2010 phê duyệt Đề án “Xây dựng Trung tâm LLTP quốc gia và kiện
toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý CSDL LLTP”.
42. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày
19/02/2013 phê duyệt Chiến lược phát triển LLTP đến năm 2020, tầm nhìn
2030.
43. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày
08/01/2015 phê duyệt Đề án thí điểm cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính,
đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến.
90
44. Đào Thị Minh Thủy (2014), Công tác cung cấp thông tin Lý lịch tư
pháp của Tòa án, thực trạng và một số kiến nghị, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 4.
45. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội (1998), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
46. Hoàng Quốc Tuấn (2017), Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật lý lịch tư
pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Pháp luật về
lý lịch tư pháp.
47. UBND tỉnh Bình Dương (2014), Quyết định số 1118/QĐ-UBND
ngày 16/5/2014 ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong công tác tra
cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp và rà soát thông tin lý lịch tư pháp trên địa
bàn tỉnh Bình Dương.
48. UBND tỉnh Bình Dương (2015), Quyết định số 08/2015/QĐ-UBND
ngày 23/3/2015 của ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương.
49. UBND tỉnh Bình Dương (2016), Báo cáo số 18/BC-UBND ngày
18/2/2016 về việc tổng kết 5 năm thi hành Luật LLTP và 4 năm thi hành Nghị
định số 111/NĐ-CP trên địa bàn Bình Dương.
50. UBND tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo số 21/BC-UBND ngày
03/3/2017 về việc Sơ kết 02 năm triển khai thực hiện thực hiện Quyết định số
19/QĐ-TTg ngày 08/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ “Đề án thí điểm cấp
Phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, đăng ký cấp Phiếu lý lịch tư
pháp trực tuyến”.
51. UBND tỉnh Bình Dương (2017), Báo cáo số 276/BC-UBND ngày
05/12/2017 về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2017 và nhiệm vụ, giải
pháp công tác năm 2018.
91
52. UBND tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 285/BC-UBND ngày
26/11/2018 về việc tổng kết công tác tư pháp năm 2018 và phương hướng,
nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019.
53. UBND tỉnh Bình Dương (2018), Báo cáo số 291/BC-UBND ngày
04/12/2018 về việc Sơ kết 5 năm thực hiện “Chiến lược phát triển lý lịch tư
pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2030” (ban hành kèm theo Quyết định số
338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng chính phủ) trên địa bàn tỉnh
Bình Dương.
54. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách
Khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội
92
PHỤ LỤC 1
Số lƣợng thông tin lý lịch tƣ pháp (LLTP) nhận đƣợc
Số lƣợng thông tin LLTP chia theo khâu xử lý
Giai
đoạn
Chia theo cơ quan cung cấp
Tiếp nhận, kiểm tra, phân loại
Lập LLTP, cập nhật bổ sung
Tòa án các cấp
Chia ra
Chia ra
Đã tiếp nhận, kiểm tra,
Tổng
Thông
phân loại
Tòa án
Đã lập LLTP
Đã cập nhật TTLLTP bổ sung
số
Chƣa
tin về
Viện
quân
(3) +
lập
Cơ
Trung
cấm
Kiểm
Cơ
sự
Tổng
(4) +
LLTP,
Cung
quan
tâm Lý
Tổng
đảm
Đã
Chưa
sát
quan
Trung
số
Chưa
Đã
(5) +
cập
cấp
Thi
lịch tư
số
nhiệm
Chưa
lưu
lưu
Đã
Chuyển
nhân
Công
ương
(17) +
Thông
kiểm
lưu
(6) +
nhật
cho
hành
pháp
(11) +
chức
lưu hồ
Đã gửi
vào
vào
gửi
Tổng
lập
dân
an cấp
và các
(21) +
tin về
tra,
Tổng
hồ sơ
Tổng
(7) +
TTLL
TTLLT
án dân
quốc
(15)
vụ,
sơ
cho
hồ sơ
hồ sơ
cho
số
LLTP,
cấp
huyện
cơ
(25)
án tích
phân
số
LLT
số
(8) +
TPBS
PQG
sự
gia
thành
LLTP
Trung
LLT
LLT
Trun
(12) +
Thông tin
tỉnh
quan
loại
(18)
P
(22)
(9)
và các
lập,
tâm
bằng
P
P
g
(14)
LLTP bổ
khác
+
bằng
+
Sở Tư
quản lý
LLTP
văn
bằng
bằng
tâm
sung
(19)
văn
(23)
pháp
DN,
QG
bản
văn
văn
LLT
bản
khác
HTX
giấy
bản
bản
PQG
giấy
giấy
giấy
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
(14)
(15)
(16)
(17)
(18)
(19)
(20)
(21)
(22)
(23)
(24)
(25)
Trước
khi có
40303
25164
4
0
144
12881
937
2173
41303
40261
32389
7872
1042
32389
1525
1525
0
1525
216
216
0
216
30648
chỉ thị
02/CT-
BTP
Sau khi
có chỉ
59560
30830
27
0
515
21386
2316
4486
59560
59560
26786
32774
0
26786
9822
9822
0
9822
4204
4204
0
4204
12760
thị02/C
T-BTP
(Theo Báo cáo số 102/BC-UBND ngày 28/8/2018 của UBND tỉnh Bình Dương)
90
PHỤ LỤC 2
Số lƣợng hồ sơ cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bƣu chính và trực tuyến
Số lƣợng Hồ sơ cấp Phiếu LLTP Hồ sơ cấp Phiếu LLTP
Năm qua dịch vụ bƣu chính qua trực tuyến
2014 1.970
2015 3.465
2016 3.538
2017 126 2.858
2018 361 4.129
(Theo Báo cáo số 21/BC-UBND ngày 3/3/2017 của UBND tỉnh Bình Dương;
Báo cáo tổng kết công tác tư pháp năm 2017, năm 2018 của Sở Tư pháp tỉnh
Bình Dương)
91
PHỤ LỤC 3
Số lƣợng Phiếu LLTP đã cấp của Sở Tƣ pháp tỉnh Bình Dƣơng
Loại phiếu Phiếu số 1 Phiếu số 2 Tổng cộng
(Phiếu) Năm
2.155 2.155 01/10/2010-
30/9/2011
1.767 1.767 01/10/2011-
30/9/2012
2.373 639 3.012 2013
3.054 778 3.832 2014
4.010 947 4.957 2015
3.412 1.175 4.587 2016
4.040 2.279 6.319 2017
5.001 2.415 7.416 2018
(Theo Báo cáo thống kê năm 2016, 2017, 2018 của Sở Tư pháp tỉnh Bình
Dương; Báo cáo số 18/BC-UBND ngày 18/2/2016 của UBND tỉnh Bình Dương)
92