VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG NGUYÊN VŨ

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY

TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG NGUYÊN VŨ

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY

TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm

Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS NGUYỄN THANH DƯƠNG

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn

gốc trích dẫn rõ ràng.

Tác giả luận văn

Trần Hoàng Nguyên Vũ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ................................................................................................ 8

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ....................................... 8

1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................................................. 12

1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ..................................... 20

Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN ................................................... 30

2.1. Khái quát tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ................................................................. 30

2.2. Thực trạng các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận .................. 36

2.3. Thực trạng những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ................................................................................................................ 45

Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN ....................... 57

3.1. Dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đặc điểm nhân thân của người phạm tội và các yếu tố tác động đến việc hình thành đặc điểm tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ..... 57

3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía cạnh nhân thân người phạm tội .......................................................................................................... 63

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng

HSST : Hình sự sơ thẩm

TAND : Tòa án nhân dân

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Thống kê so sánh tình hình các tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018.

Bảng 2.2. Cơ cấu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của

người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 2.3. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở số dân của

các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 2.4. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở diện tích của

các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 2.5. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở kết hợp yếu

tố dân cư và diện tích của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 2.6. Số liệu xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo địa điểm phạm tội.

Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo thời gian gây án.

Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo thiệt hại do tội phạm

gây ra.

Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo công cụ thực hiện

tội phạm của người phạm tội.

Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo phương thức thực

hiện tội phạm.

Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo hình phạt sơ thẩm.

Bảng 2.13. Một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ

năm 2014 đến năm 2018.

Bảng 2.14. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận.

Bảng 2.15. Đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận.

Bảng 2.16. Đặc điểm về động cơ, mục đích của người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ninh Thuận là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ, phía bắc giáp tỉnh

Khánh Hòa, phía nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía

đông giáp biển Đông. Diện tích tự nhiên: 3.355,34 km2, có 07 đơn vị hành chính

gồm 01 thành phố và 06 huyện. Phan Rang - Tháp Chàm là thành phố thuộc tỉnh,

cách thành phố Hồ Chí Minh 350km, cách sân bay quốc tế Cam Ranh 60km, cách

thành phố Nha Trang 105km và cách thành phố Đà Lạt 110km, thuận tiện cho việc

giao lưu phát triển kinh tế - xã hội.

Mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020

là: Xây dựng Ninh Thuận trở thành điểm đến của Việt Nam trong tương lai; phát

triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững theo mô hình kinh tế “xanh, sạch”; chuyển

dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ gắn với việc giải quyết các

vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; bảo đảm quốc phòng an ninh, giữ

vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Trong những năm qua, tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ

bản ổn định, góp phần không nhỏ trong việc tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã

hội của địa phương. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận vẫn diễn ra với chiều hướng phức tạp, nghiêm trọng về tính chất

phạm tội. Nhiều vụ án chỉ xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt hàng

ngày nhưng các đối tượng vẫn sẵn sàng sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy

hiểm để gây thương tích cho người khác. Trong 5 năm qua (từ năm 2014 đến năm

2018), trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát và Tòa án) đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử 1792 vụ án hình sự

với 2931 bị cáo. Trong đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác có 392 vụ (chiếm tỷ lệ 21,9% trong tổng số tội phạm trên địa bàn

1

toàn tỉnh) với 560 bị cáo (chiếm 19,1%). Trung bình hàng năm, có 78 vụ, 112 bị cáo

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được

đưa ra xét xử. Có thể thấy tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số các tội phạm hình sự. Thực trạng

trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: sự thiếu quan tâm,

chăm sóc của gia đình; tâm lý coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe

của người khác; nhu cầu thích hưởng thụ, lười lao động, thích sử dụng bạo lực để giải

quyết mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống... của một bộ phận Nhân dân; công tác quản lý

kinh tế, quản lý xã hội, quản lý con người của các cơ quan chức năng có lúc, có nơi bị

buông lỏng...

Để công tác phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đạt hiệu quả cao nhất,

thì một trong những vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng đó là phải nghiên

cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác. Vì nghiên cứu kỹ vấn đề này có vai trò quan trọng

trong cơ chế hành vi phạm tội, lý giải được các nguyên nhân làm phát sinh tội

phạm, các yếu tố tác động hình thành nhân thân người phạm tội, trên cơ sở đó

giúp cho việc đề ra các giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận đạt hiệu quả,

khoa học và có tính thực thi cao. Xuất phát từ lý do trên, tác giả quyết định

chọn đề tài “Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận” làm đề tài luận văn Thạc

sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thời gian gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu được thực hiện có

liên quan đến nhân thân người phạm tội đã công bố, tiêu biểu như:

- Nguyễn Thị Hợi (2018), Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Bình Tân, thành

phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

2

- Nguyễn Văn Khương (2018), Nhân thân người phạm tội giết người trên địa

bàn tỉnh Bình Phước”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Đặng Mạnh Đoan Trang (2018), Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 8, thành phố

Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

- Nguyễn Thị Cẩm Nhung (2018), Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội,

Hà Nội.

- Trần Thị Liên (2018), Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn quận

Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

- Nguyễn Văn Tùng (2018), Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên

địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội.

Ngoài ra còn có các bài viết được đăng trên các tạp chí như Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Tòa án… có nội dung liên quan đến

nhân thân người phạm tội trong tội phạm học.

Các công trình nghiên cứu nêu trên nhìn chung đã làm rõ những vấn đề lý luận

cơ bản về nhân thân người phạm tội, vai trò của việc nghiên cứu nhân thân người phạm

tội trong việc quyết định hình phạt, trong thực tiễn quyết định loại trừ, hoặc miễn

trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu

về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Do đó, đề tài “Nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận” mà tác giả đã chọn làm luận văn không trùng với bất kỳ công

trình khoa học nào đã được công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người

3

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên

địa bàn tỉnh Ninh Thuận, làm rõ những nguyên nhân tạo ra các đặc điểm nhân

thân tiêu cực của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Từ đó đề ra hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất: Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Thứ hai: Phân tích làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; các yếu tố tác động đến

nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ năm 2014 đến năm 2018.

Thứ ba: Dự báo và đề ra các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận từ góc độ nhân thân người phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về lý luận và thực tiễn của

nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung: Đề tài nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc độ tội

phạm học và phòng ngừa tội phạm.

- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.

4

Để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, tác giả dựa trên

các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận

giai đoạn 2014 - 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận phép duy vật biện

chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường

lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng,

chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của

tội phạm học, như:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả sưu tầm, hệ thống các văn bản

pháp lý, các tài liệu, công trình nghiên cứu liên quan đến nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trên cơ sở đó

phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Phương pháp thống kê hình sự: Qua việc thu thập các tài liệu, số liệu liên

quan đến vấn đề nghiên cứu, tác giả xây dựng các bảng theo các tiêu chí và

điền, sắp xếp các số liệu một cách khoa học phục vụ việc phân tích, so sánh, tổng

hợp rút ra từ các nhận xét, đánh giá, các vấn đề có tính quy luật nhân thân người

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên

địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Thông qua nghiên cứu các hồ

sơ, tài liệu, số liệu tác giả phân tích, so sánh, tổng hợp tìm các quy luật, các hạn

chế, khó khăn... đưa ra các dự báo để làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa

tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

5

trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tác giả phân tích một số vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó đưa ra những

đánh giá chính xác và giải pháp phòng ngừa thiết thực đối với tình hình tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.

- Phương pháp chuyên gia: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả trực tiếp gặp

gỡ, trao đổi với các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, các cán bộ công tác ở

cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các huyện, thành phố thuộc tỉnh Ninh Thuận để

lấy ý kiến, nhận xét về tình hình hoạt động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Sử dụng để nghiên cứu tổng kết đánh

giá những kết quả, tài liệu thu thập được từ thực tiễn hoạt động phòng ngừa

tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về

nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những biện pháp phòng ngừa được đề cập trong đề tài có thể được sử

dụng trong thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận nói riêng trong thời gian tới. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận

văn cũng có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong học tập nghiên cứu

tội phạm học và các vấn đề liên quan.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

6

của luận văn có kết cấu gồm ba chương. Cụ thể như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Chương 2. Thực trạng nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Chương 3. Dự báo và giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía cạnh

nhân thân.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI

CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE

CỦA NGƯỜI KHÁC

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác

Thuật ngữ “nhân thân người phạm tội” là tập hợp từ bao gồm nhân thân (của

một con người) và người phạm tội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu nhân thân người

phạm tội thì trước tiên phải nghiên cứu về nhân thân của con người.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: con người là sản phẩm của tự nhiên và xã

hội. Con người được tự nhiên sinh ra cho nên trước tiên mang đặc tính của sinh vật.

Cái sinh vật trong con người quy định hình thành những hiện tượng và quá trình

tâm lý của con người. Bất kỳ ai cũng có nhu cầu như ăn, mặc, ở, sinh hoạt, văn hóa,

tình cảm, hiểu biết… nhưng con người không phải là động vật thuần túy mà là động

vật có tính chất xã hội. Mỗi một thời đại khác nhau sản sinh ra những mẫu người

không giống nhau, song dù ở thời đại nào thì bản chất của con người luôn luôn là

tổng hòa những mối quan hệ xã hội [9, tr.101].

Người phạm tội được hiểu là người thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã

hội, có lỗi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm [22, tr.149]. Tội phạm bao giờ

cũng được thực hiện bởi một con người cụ thể. Đặc trưng của người phạm tội là

thực hiện hành vi mang tính nguy hiểm cho xã hội. Do đó, khi đề cập đến nhân thân

của người phạm tội là nói đến đặc điểm và dấu hiệu cá nhân của con người thực

hiện tội phạm. Nếu như nhân thân của một con người là những đặc điểm, dấu hiệu

thể hiện bản chất con người tham gia các mối quan hệ xã hội thì nhân thân người

phạm tội cũng chứa đựng những đặc điểm, dấu hiệu chung của một con người.

Nhưng nhân thân người phạm tội khác với nhân thân một con người ở chỗ, nhân

8

thân người phạm tội không chỉ mang dấu hiệu chủ thể của một tội phạm mà còn

chứa đựng những phẩm chất tiêu cực. Những phẩm chất tiêu cực này được thể hiện

trong một hệ thống những đặc điểm và dấu hiệu: đạo đức, tâm lý, quan điểm, sự

kích động, mục đích, động cơ, niềm tin, hy vọng, lý trí, xúc cảm… Chính những

phẩm chất tiêu cực này là tiền đề cho việc thực hiện tội phạm.

Một số quan điểm về nhân thân người phạm tội, cụ thể như sau:

- Theo GS. TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là người có

lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định là tội

phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong

sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm

tội của người đó”.

- Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp

những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng

phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội”.

- Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: “Nhân thân người phạm tội trong Luật

hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý

nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ”.

Trên cơ sở khái niệm về nhân thân người phạm tội của một số nhà khoa học,

có thể đưa ra khái niệm chung như sau: nhân thân người phạm tội là tổng hợp

những đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của người phạm tội, các đặc điểm này

kết hợp với các điều kiện hoàn cảnh khách quan bên ngoài dẫn con người đó đến

việc thực hiện hành vi phạm tội [22, tr.150].

Trên cơ sở khái niệm chung về nhân thân người phạm tội, có thể đưa ra khái

niệm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác như sau:

Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là tổng hợp những đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội của

người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Những đặc điểm này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài

9

dẫn con người đó đến việc thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 chương XIV

của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Một là, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm.

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là hệ thống các

hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự

ra đời của tình hình tội phạm như là hậu quả của mình.

Các yếu tố thuộc mặt chủ quan của người phạm tội không phải có sẵn, không

phải là bản tính vốn có của bản thân con người ngay từ khi mới sinh ra mà được

hình thành chính trong môi trường sống mà con người phải trải qua trong quá trình

trưởng thành. Quá trình hình thành những đặc điểm cá nhân tiêu cực ở người phạm

tội là do các nhân tố thuộc về môi trường sống (tiêu cực) và chính từ bản thân người

phạm tội với đặc điểm sinh học, tâm lý, xã hội… riêng biệt. Tuy nhiên, một người

chứa đựng những đặc điểm cá nhân tiêu cực sẽ thực hiện tội phạm nếu họ gặp

những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đóng vai trò là “chất xúc tác” cho việc thực

hiện tội phạm. Vì thế, khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ giúp ta nhận thấy

rõ hơn những điều kiện, hoàn cảnh tiêu cực từ môi trường sống tác động như thế

nào đến sự hình thành đạo đức, nhân cách của con người.

Hai là, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa lớn trong việc định tội, định

khung và quyết định hình phạt một cách chính xác, thuyết phục.

Nhân thân người phạm tội tuy không phải là yếu tố cấu thành tội

phạm nhưng nó lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định khung hình phạt,

là một trong những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các cơ quan

10

điều tra, truy tố, xét xử muốn tìm ra đúng người, xét xử đúng tội thì đòi hỏi phải

nghiên cứu đầy đủ về nhân thân của người phạm tội.

Nghiên cứu nhân thân người phạm tội còn giúp đánh giá được tính chất, mức

độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp. Cùng một hành vi

nhưng ở người này là biểu hiện ngẫu nhiên đột xuất, ở người khác là hành vi có tính

toán, có ý thức sâu sắc biểu hiện bản chất của người pham tội. Hành vi và con người

luôn có quan hệ với nhau cho nên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm

tội cũng phụ thuộc vào tính chất của con người.

Tại Khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã quy

định nhân thân người phạm tội là một trong các yếu tố mà Tòa án phải cân nhắc khi

quyết định hình phạt. Mặt khác, Bộ luật hình sự cũng có quy định coi nhiều tình tiết

thuộc về nhân thân của người phạm tội là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự.

Ba là, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa quan trọng trong công tác dự

báo, phòng ngừa tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác nói riêng.

Dự báo tình hình tội phạm về thực chất là phán đoán khả năng của tình hình

tội phạm trong tương lai. Nó chính là cơ sở của việc xây dựng các chương trình và

kế hoạch phòng ngừa tội phạm trong phạm vi cả nước hay từng khu vực địa lý nhất

định; là cơ sở hình thành nhiệm vụ, phương hướng phòng ngừa tội phạm cụ thể. Khi

nghiên cứu vấn đề nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác sẽ giúp làm rõ các yếu tố nhân thân đặc trưng, mang

tính chất quyết định, ảnh hưởng đến việc phạm tội của các đối tượng; làm rõ nguyên

nhân dẫn đến việc hình thành các yếu tố nhân thân này, kết hợp với xu hướng phát

triển kinh tế, xã hội của địa bàn, từ đó đưa ra dự báo về tình hình loại tội phạm

trong thời gian tới. Trên cơ sở dự báo đó, đề xuất các biện pháp phòng ngừa đối với

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có độ chính

xác cao và kịp thời, khắc phục hoặc hạn chế những điều kiện có thể dẫn đến việc

11

phát sinh các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác.

Bốn là, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các

biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội một cách hiệu quả, ngăn ngừa hành vi tái

phạm.

Tư tưởng nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta thể

hiện đường lối xử lý đối với các tội phạm được xác định trên cơ sở coi trọng cả mục

đích trừng trị và giáo dục, phòng ngừa tội phạm, trong đó mục đích giáo dục người

phạm tội, đề cao tính “hướng thiện” luôn được đặt lên hàng đầu. Để đảm bảo

nguyên tắc này thì việc nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung,

nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc lựa chọn các hình thức,

phương pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội phù hợp và mang lại hiệu

quả cao nhất nhằm giảm bớt hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân xấu, là yếu tố

quan trọng làm phát sinh tội phạm. Việc giáo dục cải tạo tốt cũng giúp quá trình tái

hòa nhập cộng đồng của người phạm tội trở nên dễ dàng hơn, trở nên có ích cho xã

hội và cho chính bản thân người phạm tội.

1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Trong tội phạm học, các đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung cũng

như các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác của người khác nói riêng thường được chia thành: các

đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu; các đặc điểm về đạo đức - tâm lý và đặc điểm

pháp lý hình sự. Các nhóm đặc điểm này có mối quan hệ biện chứng với nhau, có sự

tác động qua lại, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân thân của người phạm tội.

1.2.1. Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu

Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu của nhân thân người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao gồm: độ tuổi,

12

giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi cư trú… của người

phạm tội. Việc làm sáng tỏ những đặc điểm đó cho phép chúng ta biết được một số

mối liên hệ và sự phụ thuộc của chúng có ý nghĩa đối với việc phòng ngừa, biết

được tình huống và hoàn cảnh ảnh hưởng đến sự hình thành định hướng giá trị

không đúng đắn của người phạm tội.

1.2.1.1. Đặc điểm về độ tuổi

Nghiên cứu về đặc điểm độ tuổi của người phạm tội cho chúng ta biết về

“mức độ tích cực phạm tội” và các đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những

người thuộc những lứa tuổi khác nhau, về đặc điểm của thành phần lứa tuổi của

những nhóm người tội phạm khác nhau. Điều đó cũng rất cần thiết cho việc kế

hoạch hóa và tác động phòng ngừa tình hình tội phạm [30, tr.133].

Độ tuổi trong nhân thân người phạm tội là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng

đến quá trình hình thành hành vi của người phạm tội vì độ tuổi thể hiện một phần về

nhận thức xã hội, kiến thức pháp luật, lí trí, ý chí và sở thích, nhu cầu của con người,

ở mỗi độ tuổi khác nhau thì khả năng nhận thức về thế giới quan, quy định của pháp

luật là khác nhau, ý chí và lí trí cũng khác nhau. Việc nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi

trong nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác sẽ giúp chúng ta xác định được lứa tuổi nào phạm tội nhiều nhất,

lứa tuổi nào phạm tội ít nhất để từ đó đưa ra biện pháp phòng ngừa cho phù hợp.

Mỗi lứa tuổi có ảnh hưởng nhất định đến tính chất, mức độ, loại tội phạm

được thực hiện. Trong nghiên cứu tội phạm học, có nhiều cách chia độ tuổi, tuy

nhiên cách phổ biến nhất là chia độ tuổi của người phạm tội thành 04 nhóm như

sau: nhóm dưới 18 tuổi; nhóm từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi; nhóm từ 30 đến d ư ớ i

45 tuổi và nhóm trên 45 tuổi.

1.2.1.2. Đặc điểm về giới tính

Khi nghiên cứu giới tính người phạm tội, tội phạm học tập trung làm rõ tỷ

trọng và mối tương quan giữa những người phạm tội thuộc giới tính khác nhau

trong tổng số chung. Qua đó sẽ thấy được yếu tố giới tính có ảnh hưởng như thế nào

13

đến việc thực hiện tội phạm cũng như việc áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo

và phòng ngừa tội phạm.

Nghiên cứu số liệu về cơ cấu giới tính của người phạm tội cho thấy rằng nam

giới chiếm số lượng tuyệt đối lớn trong tổng số những người phạm tội. Đối với tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đa số người

phạm tội là nam giới, nữ giới có thực hiện tội phạm nhưng ít. Nam giới có một số

đặc điểm tâm sinh lý là tính khí nóng nảy, dễ bị kích động, thiếu sự kiềm chế, có

sức khỏe và hung hãn, liều lĩnh hơn so với nữ giới. Đối với nữ giới, do cấu trúc tâm

sinh lý của nữ giới thường thích hợp với những công việc có tính chất nhẹ nhàng,

do đó khả năng thực hiện tội phạm của nữ giới là rất hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay

tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có

người phạm tội là nữ giới đang có chiều hướng gia tăng, trong các vụ cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có nữ giới tham gia thì

hầu hết các mâu thuẫn phát sinh từ mâu thuẫn tình ái, làm ăn… đây là vấn đề cần

chú ý trong thời gian tới để có biện pháp phòng ngừa phù hợp.

1.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn

Trình độ học vấn ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, đến hành vi ứng xử của

con người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng.

Tội phạm học nghiên cứu làm rõ tỷ trọng, mối tương quan giữa những người phạm

tội có trình độ học vấn khác nhau trong tổng số người phạm tội, qua đó làm rõ ảnh

hưởng của học vấn đến việc thực hiện tội phạm, vai trò của nó trong giáo dục, cải

tạo người phạm tội.

Hầu hết các nghiên cứu về nhân thân người phạm tội đều cho kết quả là

những người phạm tội là những người có trình độ học vấn thấp. Chính việc thất học

về văn hóa dẫn đến sự non kém về nhận thức các vấn đề xã hội, pháp luật cho nên

những người này thường thiếu khả năng kiểm soát hành vi của mình, không biết

phương pháp để xử lý, giải quyết mâu thuẫn cho phù hợp. Từ đó dẫn đến có những

hành vi vi phạm pháp luật. Căn cứ vào trình độ học vấn, người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể được chia thành

14

05 nhóm: người không biết chữ hoặc có trình độ tiểu học; người có trình độ trung

học cơ sở; người có trình độ trung học phổ thông; người có trình độ trung cấp, cao

đẳng và người có trình độ đại học trở lên.

1.2.1.4. Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp

Đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp cũng có mối quan hệ mật thiết với

việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Qua nghiên cứu địa vị xã hội và

nghề nghiệp sẽ cho biết được nhóm người làm việc ở những ngành, lĩnh vực nào

trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ thực hiện [28, tr.145].

Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người thực hiện tội

phạm cho chúng ta biết được ở những điều kiện và nhóm xã hội nào, ở những lĩnh

vực nào của hoạt động sống, loại tội phạm này hay tội phạm khác được thực hiện;

biết được những nhân tố phạm tội đặc trưng cho những nhóm người phạm tội khác

nhau, những ngành khác nhau của nền kinh tế. Thực tiễn nghiên cứu tội phạm học

trong thời gian qua cho thấy: phần lớn người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là những người không có nghề nghiệp

hoặc nghề nghiệp không ổn định.

Dựa vào đặc điểm địa vị xã hội, có thể chia người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thành các nhóm: công nhân,

nông dân, cán bộ, công chức… Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp, có thể chia thành 03

nhóm: người không nghề nghiệp; người có nghề nghiệp nhưng không ổn định và

người có nghề nghiệp ổn định.

1.2.1.5. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi mỗi người sinh ra và lớn lên, nơi hình

thành nhân cách để phát triển thành người. Đây là môi trường có ảnh hưởng rất

quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Do vậy, hoàn

cảnh gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành các đặc điểm nhân cách của

con người nói chung và của người phạm tội nói riêng.

Tội phạm học nghiên cứu làm rõ hoàn cảnh gia đình mà người phạm tội đã

sống, đang sống và những ảnh hưởng, tác động của yếu tố gia đình đến quá trình

15

thực hiện tội phạm cũng như vai trò của gia đình đối với quá trình giáo dục, cải tạo

người phạm tội. Nhân tố gia đình đóng vai trò quan trọng trong phòng ngừa, giáo

dục, cải tạo người phạm tội. Chính yếu tố gia đình trong đa số trường hợp đã kích

thích tính tích cực của mỗi thành viên, đồng thời gia đình giữ vai trò kiểm soát,

giám sát hành vi của những thành viên trong gia đình, hạn chế đến mức tối đa các

hiện tượng tiêu cực phát sinh trong mỗi con người.

Nghiên cứu hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội là nghiên

cứu ở các khía cạnh: quan hệ gia đình, đạo đức - lối sống, hoàn cảnh kinh tế gia

đình có ảnh hưởng, tác động đến người phạm tội như thế nào… Kết quả nghiên cứu

cho thấy, những người sống trong gia đình hạnh phúc, hòa thuận thì tỷ lệ phạm tội

của họ ít hơn những gia đình bị khiếm khuyết (cha mẹ ly hôn, mồ côi cha hoặc mẹ),

gia đình có thành viên thường xuyên vi phạm pháp luật… Dựa vào đặc điểm quan

hệ gia đình, người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác có thể chia thành 04 nhóm: người chưa kết hôn; người đã kết hôn; gia

đình có cơ cấu hoàn thiện và gia đình bị khiếm khuyết.

1.2.1.6. Đặc điểm về nơi cư trú

Nơi cư trú của người phạm tội là nơi mà người đó thường xuyên sinh sống,

đó có thể là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Xét về khía cạnh tội phạm học, nơi cư

trú là môi trường của sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân con người, nó

thể hiện quá trình xã hội hóa của cá nhân, xác định vai trò, vị trí của mỗi cá nhân

trong môi trường lớn. Vì vậy, yếu tố này có thể ảnh hưởng đến một số đặc điểm

thuộc tâm lý cá nhân như yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen, nét tính cách đặc

trưng của địa bàn cư trú. Điều này rất có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng

ngừa tội phạm.

Nơi cư trú có những tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành các

đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Dựa vào nơi

cư trú, có thể chia người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

16

khỏe của người khác thành 03 nhóm: người không có nơi cư trú (sống lang thang),

người có nơi cư trú không ổn định và người có nơi cư trú ổn định.

1.2.2. Các đặc điểm về đạo đức - tâm lý

Những đặc điểm đạo đức - tâm lý đóng vai trò quan trọng trong sự hình

thành động cơ và trong sự lựa chọn phương án hành vi phạm tội trong những tình

huống nhất định [30, tr.136]. Những đặc điểm đạo đức - tâm lý của nhân thân người

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao

gồm quan điểm về đạo đức, về giá trị xã hội và các đặc điểm tâm lý như nhu cầu, sở

thích, thói quen, nguyện vọng... Quá trình hình thành nhân thân người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn chịu ảnh hưởng

của những yếu tố mang tính đạo đức, tâm lý.

1.2.2.1. Đặc điểm đạo đức

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò

quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu là hệ thống các quy

tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình

cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Đạo đức có các chức năng giáo

dục, điều chỉnh hành vi và nhận thức của con người. Tuy nhiên, trong quá trình sinh

sống không phải ai cũng hình thành những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc và

chuẩn mực đạo đức giống nhau, dẫn đến phương thức điều chỉnh hành vi của mỗi cá

nhân sẽ khác nhau. Có những cá nhân tự nguyện, tự giác điều chỉnh hành vi của

mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội. Nhưng ngược lại cũng có

những cá nhân thực hiện những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức, trái với quy

định của pháp luật. Những người thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường là những người có lối sống

ích kỷ, chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân mình, do đó khi gặp những mâu thuẫn, họ

thường tìm cách để dành phần lợi về bản thân, bất chấp đó là hành vi có thể gây tổn

hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác...

1.2.2.2. Đặc điểm về tâm lý

17

Cùng với đặc điểm về đạo đức, các đặc điểm về tâm lý của người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho chúng ta

thấy rõ hơn vì sao trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định, con người lại thực hiện

hành vi phạm tội. Những đặc điểm tâm lý cá nhân của người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thể hiện ở các góc độ:

đặc điểm tâm lý cá nhân, đặc điểm tâm lý xã hội, đặc điểm tâm lý pháp luật của

người phạm tội. Những đặc điểm tâm lý cá nhân ở người phạm tội thể hiện ở nhu

cầu, hứng thú, sở thích, thói quen, niềm đam mê, ước vọng, xúc cảm, tình cảm, kiểu

khí chất… Những đặc điểm này đều tồn tại ở bất kỳ người nào trong xã hội. Tuy

nhiên, ở những người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác thường có những nhu cầu, sở thích tiêu cực, thói hư tật xấu, đặc biệt

là biện pháp để thỏa mãn nhu cầu thường là trái pháp luật…

1.2.3. Đặc điểm pháp lý hình sự

Đây là nhóm đặc điểm đặc trưng trong nhân thân người phạm tội nói chung và

nhân thân người người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác nói riêng. Nhóm đặc điểm này là một trong những dấu hiệu thể hiện tính

chất nguy hiểm của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và thái độ, ý thức

pháp luật của người phạm tội, có ý nghĩa trong việc định tội, định khung và quyết định

hình phạt.

- Động cơ và mục đích:

Động cơ phạm tội là trạng thái tâm lý bên trong thúc đẩy hoạt động, làm tăng

thêm tính tích cực ở chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội là

cái mà người phạm tội nhằm đạt được bằng hành vi phạm tội. Việc lựa chọn mục

đích là do động cơ quyết định, động cơ hướng thái độ của chủ thể vào những mục

đích nhất định. Như vậy, mục đích của hành vi phạm tội thường không do điều kiện

khách quan mà do chủ thể định ra và được nhận thức như là yếu tố cần thiết và có

khả năng thực hiện trong điều kiện nhất định. Động cơ phạm tội thường xuất phát từ

những nhu cầu có tính nhỏ nhen, hẹp hòi hoặc đố kị, thực dụng, suy thoái…

18

Khi nghiên cứu động cơ, mục đích phạm tội của người thực hiện hành vi

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không

những giúp chúng ta làm rõ nguyên nhân vì sao mà họ thực hiện tội phạm, mà còn

giúp cho việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội được chính xác hơn.

- Hình thức phạm tội:

Ở đây chúng ta nghiên cứu về hình thức phạm tội của người thực hiện hành

vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đó

là tội phạm có thể do một người riêng lẻ gây ra và cũng có thể do hai hoặc nhiều

người cùng gây ra. Nếu tội phạm chỉ do một cá nhân thực hiện mà không có sự giúp

sức của bất kỳ người nào khác thì đó là tội phạm riêng lẻ. Nếu có hai người trở lên

cố ý cùng thực hiện một tội phạm thì đó là đồng phạm. Nếu tội phạm được thực

hiện là đồng phạm thì đó là đồng phạm đơn giản hay đồng phạm phức tạp? Đồng

phạm có thông mưu trước hay không có thông mưu trước? Nếu là đồng phạm thì

vai trò của mỗi người trong khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như thế nào để từ đó xác định tính

chất, mức độ tham gia của họ trong vụ án, xác định hình phạt chính xác với mức độ

tham gia của mỗi người.

- Người phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: Chúng ta nghiên

cứu xem người thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác phạm tội lần đầu hay tái phạm, tái phạm nguy hiểm?

Bời vì việc xác định tình tiết này có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét trách

nhiệm hình sự, quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

- Đặc điểm về tiền án, tiền sự: Khi nghiên cứu đặc điểm nhân thân người

phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề tiền

án, tiền sự của người thực hiện hành vi phạm tội. Tiền án, tiền sự là cụm từ mà

không ai muốn nó xuất hiện trên nhân thân của mình, bởi nó như một vết tích ảnh

hưởng đến lý lịch của bản thân, cũng như là một yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc

19

bị truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự của một người trong vụ việc

hình sự. Tiền án, tiền sự của người thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện rõ

trong lý lịch bị can, trích lục tiền án, tiền sự của người phạm tội.

- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Chúng ta

nghiên cứu hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác được thực hiện với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội như thế

nào? Đây là yếu tố để đánh giá đầy đủ, chính xác về hành vi phạm tội.

Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi nghĩa là xem xét hành vi ấy đã

xâm hại hoặc đe dọa xâm hại quan hệ xã hội nào, khách thể nào, có tính chất, tầm

quan trọng ra sao? Người thực hiện hành vi phạm tội có mang tính chất chuyên

nghiệp, côn đồ hay không?

Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nghĩa là hành vi ấy gây thiệt hại

hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nào, làm chết một người hay nhiều người, gây

thương tích cho nạn nhân đến mức độ nào?…

Tóm lại, đặc điểm của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bao gồm 03 nhóm đặc điểm cơ bản là: các

đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu, về đạo đức - tâm lý và đặc điểm pháp lý hình

sự. Mỗi nhóm đặc điểm thể hiện khía cạnh khác nhau của nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Các đặc điểm

này không tách rời nhau mà luôn gắn liền với từng cá nhân con người, chúng có

mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành nhân cách tiêu cực của cá nhân

người phạm tội.

1.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Tội phạm học đã chứng minh: để một người nảy sinh ý định phạm tội, sau đó

thực hiện tội phạm trên thực tế thì trước đó bản thân người này đã có những đặc điểm

(phẩm chất) cá nhân tiêu cực. Quá trình hình thành những đặc điểm cá nhân tiêu cực ở

người phạm tội là do các nhân tố thuộc về môi trường sống và chính từ bản thân người

phạm tội. Tuy nhiên, một người chứa đựng những đặc điểm cá nhân tiêu cực sẽ thực

20

hiện tội phạm nếu họ gặp những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đóng vai trò là

“chất xúc tác” cho việc thực hiện tội phạm. Do vậy, việc nghiên cứu và làm rõ các

yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng

trong việc xác định các nguy cơ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác để từ đó đề ra các biện pháp phòng ngừa cho phù hợp.

1.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc về môi trường sống

Sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân bắt đầu từ khi cá nhân đó

được sinh ra và trải qua hàng loạt các giai đoạn khác nhau dưới sự tác động của các

yếu tố bên ngoài môi trường sống. Nguyên nhân từ môi trường sống là những

nguyên nhân khách quan từ bên ngoài xã hội, xung quanh cuộc sống của cá nhân

đó, ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân. Các tiểu môi

trường mà cá nhân đang sống và giao tiếp thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến sự hình

thành nhân cách của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, đó là môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.

1.3.1.1. Môi trường gia đình

Con người, bất cứ ai cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Nhân

cách con người bắt đầu hình thành từ lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi

trưởng thành vẫn chưa dừng lại. Để đứa trẻ trở thành một người có nhân cách tốt thì

việc giáo dục đóng vai trò chủ đạo. Giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà

phải bằng những hành động cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có

tác động trực tiếp đến việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Nếu các thành

viên trong gia đình không gương mẫu, thường xuyên vi phạm các chuẩn mực đạo

đức, vi phạm pháp luật; gia đình sinh sống không hòa thuận, hạnh phúc; cha mẹ

không quan tâm hoặc quá nuông chiều con cái… thì sẽ góp phần hình thành nên

nhân cách lệch lạc của con cái ngay từ thời thơ ấu. Từ đó, nhiều đứa trẻ sẽ trở nên

bất mãn, thậm chí thù ghét cha mẹ, thường bỏ nhà đi bụi, tụ tập với bạn bè xấu và

dễ dẫn đến con đường phạm tội khi bị kẻ xấu rủ rê, lôi kéo.

Các yếu tố tiêu cực trong môi trường gia đình bao gồm:

21

Thứ nhất, thành viên trong gia đình không gương mẫu, vi phạm chuẩn mực

đạo đức, vi phạm pháp luật.

Một môi trường gia đình lành mạnh sẽ có lợi cho sự phát triển của con cái và

hình thành ở trẻ những hành vi cũng như nhân cách mà xã hội yêu cầu. Và ngược

lại, nếu sinh sống trong môi trường gia đình có cha mẹ thường xuyên vi phạm pháp

luật, vi phạm đạo đức, thường xuyên bất mãn với xã hội thì các thành viên trong gia

đình sẽ hình thành nhân cách xấu, có lối sống, cách cư xử đi ngược lại với những

chuẩn mực của xã hội.

Thứ hai, gia đình quá nuông chiều con cái: Ngày nay, trong điều kiện nền

kinh tế ngày càng phát triển, nhiều gia đình có điều kiện về kinh tế thường có xu

hướng nuông chiều con cái quá mức. Nhiều đứa trẻ được cha mẹ cho tiền ngay từ khi

còn nhỏ nên sớm có thói quen giải quyết mọi chuyện bằng tiền. Chính vì nhiễm lối

sống dùng tiền để quản lý người khác nên nhiều trẻ khi còn nhỏ đã hình thành tính ích

kỷ, lười biếng, ỷ lại và vô trách nhiệm, luôn đòi hỏi được hưởng thụ, được phục vụ,

đáp ứng mọi yêu sách của mình. Khi nhu cầu, đòi hỏi của mình không được đáp ứng

kịp thời thì những người này dễ nảy sinh mâu thuẫn, nảy sinh tâm lý tiêu cực, coi

thường đạo đức, coi thường pháp luật dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ ba, gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái: Cha mẹ do

bận công tác và làm ăn, hầu như họ ít có điều kiện để chăm sóc và giáo dục con cái.

Nhiều bậc phụ huynh chỉ cung cấp tiền nhưng lại không quan tâm đến việc học tập,

đời sống tinh thần, giao tiếp xã hội của con và việc giáo dục đạo đức thì gần như phó

mặc cho nhà trường, dẫn đến tình trạng nhiều em không được trang bị những kỹ năng

sống tối thiểu. Trong khi đó, xung quanh các em có rất nhiều những cám dỗ không

lành mạnh, có rất nhiều bạn bè xấu sẵn sàng lôi kéo các em vi phạm pháp luật.

Thứ tư, gia đình khuyết thiếu (trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ;

hoặc cha mẹ ly thân, ly hôn…): Đối với những đứa trẻ, sống trong một gia đình như

vậy luôn có những áp lực tâm lý tiêu cực, gây cho trẻ tâm trạng luôn cảm thấy thiếu

thốn tình cảm, cô đơn, tự ti, chán nản, tổn thương. Nếu trẻ có đủ bản lĩnh thì vẫn có

thể vượt qua, nhưng phần lớn trẻ bị tổn thương về tâm lý, không có sự dạy bảo, giúp

22

đỡ của người lớn, từ đó dẫn đến việc mất phương hướng khi hành động, dễ bị tác

động, rủ rê, lôi kéo vào việc vi phạm pháp luật.

Thứ năm, gia đình không hạnh phúc: Đó là những gia đình do quan hệ của

cha, mẹ mâu thuẫn, sống không hòa thuận, không hạnh phúc; cha, mẹ, vợ chồng

thường xuyên cãi vã, mắng chửi hoặc thậm chí xảy ra xô xát, bạo lực. Sinh sống

trong môi trường gia đình như thế, trẻ em phải nghe, phải chứng kiến, thậm chí còn

là người chịu đòn, dần dần các em sẽ có tâm lý coi thường cha mẹ, không tôn trọng

cha mẹ, người lớn trong gia đình, có tâm lý bi quan, chán nản, trong lòng luôn

mong muốn tìm cách để trả thù và cho rằng bạo lực chính là một cách để giải quyết

mâu thuẫn. Đó là những tâm lý rất dễ dẫn đến những hành vi không kiểm soát,

không làm chủ được bản thân và dễ đi vào con đường phạm tội.

1.3.1.2. Môi trường giáo dục

Con người không thể phát triển một cách toàn diện cả về thể chất và tinh

thần nếu chỉ ở trong phạm vi gia đình, dù rằng đó là gia đình hạnh phúc, bền vững.

Nhà trường không chỉ trang bị cho học sinh các kiến thức của nhân loại đã tích lũy

thông qua các môn học mà cùng với nó, một nhiệm vụ quan trọng khác của nhà

trường là giáo dục, bồi dưỡng nhân cách cho học sinh. Do vậy, nhà trường có vị trí

quan trọng trong việc hình thành phẩm chất cá nhân của con người. Trong trường,

không chỉ trang bị cho các công dân tương lai những kiến thức tự nhiên, xã hội mà

có cả ý thức đối với xã hội, bao gồm hệ thống những quan điểm, nhân sinh quan,

phương pháp nhìn nhận, đánh giá sự vật, ý thức tập thể, giúp đỡ nhau, tính vươn lên

hướng tới những biểu hiện tích cực, phù hợp với đạo đức xã hội…

Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố tích cực của môi trường giáo dục ở nhà trường

thì nó cũng có những yếu tố tiêu cực, những yếu kém, hạn chế. Những bất cập, hạn

chế mà môi trường giáo dục có tác động tiêu cực đến việc hình thành đặc điểm nhân

thân người phạm tội đó là:

Thứ nhất, việc tổ chức quản lý học sinh ở một số trường chưa tốt: Để quản lý

tốt học sinh, trước hết các thầy cô giáo phụ trách lớp không chỉ nắm quân số học sinh

trên lớp, quản lý các em trong thời gian học tập ở trường mà còn phải phối hợp chặt

23

chẽ với phụ huynh học sinh để thấu hiểu hoàn cảnh gia đình, các đặc điểm tâm lý của

từng em, đặc biệt là học lực và năng khiếu để có phương pháp giảng dạy và uốn nắn

kịp thời những biểu hiện sai trái, khắc phục những hạn chế của học sinh. Ngược lại,

nếu buông lỏng quản lý học sinh trong nhà trường sẽ dẫn đến việc các hiện tượng tiêu

cực bên ngoài xâm nhập vào học đường; các em có học lực yếu kém, các em có hoàn

cảnh gia đình khó khăn sẽ không nhận được sự giúp đỡ của thầy cô giáo, bạn bè, nhà

trường kịp thời, từ đó dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội.

Thứ hai, sự nêu gương của các thầy cô giáo trong nhà trường: Hiệu nay, còn

một số ít thầy cô giáo chưa nêu gương tốt cho học sinh, chưa quản lý sâu sát học

sinh. Còn có hiện tượng một số thầy cô giáo sống buông thả, vi phạm đạo đức, chưa

nhận thức đúng đắn về tấm gương của người thầy cho nên đã ảnh hưởng xấu đến

học sinh, làm cho học sinh có tâm lý mất niềm tin yêu, kính trọng thầy cô. Từ đó

chán nản, bế tắc trong suy nghĩ khi thấy sự mâu thuẫn giữa những điều tốt đẹp được

dạy trên lớp với nhân cách của thầy cô giáo.

Thứ ba, việc giáo dục đạo đức, pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật cho học sinh chưa được chú trọng: Nhiều trường chỉ chú trọng thành tích, do

vậy đã xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, bồi dưỡng những phẩm chất, nhân cách cho

học sinh. Công tác tuyên truyền giáo dục đạo đức, giáo dục ý thức chấp hành pháp

luật còn hạn chế. Do chương trình đào tạo còn nhiều điểm chưa hợp lý, việc giảng

dạy và học tập các môn học chính chiếm rất nhiều thời gian. Do vậy những buổi

tuyên truyền pháp luật, giáo dục đạo đức trở nên hình thức, hiệu quả tuyên truyền

không cao. Vì thế nhiều em học sinh có quan niệm sai trái về đạo đức, thiếu hiểu

biết pháp luật, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến học sinh vi phạm

pháp luật.

Thứ tư, sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình, nhà trường với các

tổ chức xã hội khác chưa được chặt chẽ, thường xuyên, còn mang tính hình thức: Sự

phối hợp quản lý, giáo dục học sinh giữa nhà trường và gia đình ở địa phương tại một

số cơ sở giáo dục chưa tốt. Nhiều học sinh lấy lý do gia đình nên nghỉ học, hoặc giả

24

mạo đơn xin phép của phụ huynh để bỏ học đi chơi. Hay có những em vi phạm kỷ

luật, thậm chí nghỉ học nhiều ngày mà gia đình vẫn không biết.

1.3.1.3. Môi trường bạn bè

Mối quan hệ bạn bè tốt đẹp đóng một vai trò quan trọng và tích cực trong mọi

quan hệ xã hội. Những người bạn tốt sẽ là chỗ dựa tinh thần lẫn vật chất cho chúng ta

trong cuộc sống, kể cả những lúc sa sút khó khăn. Một tình bạn thật sự thường bắt

đầu từ những điểm tương đồng nhất định nào đó, vì thế mà những người bạn tốt luôn

biết cách chia sẻ và nâng đỡ lẫn nhau trong những tình huống xấu. Nhìn từ một góc

độ khác, bạn bè giống như nguồn kiến thức phong phú, đa dạng để ta học tập. Tục

ngữ có câu: “Học thầy không tày học bạn”. Điều này vẫn chính xác trong bối cảnh xã

hội ngày nay khi mà ai cũng cần có sự phát triển hơn, chúng ta nhận một công việc

mới, có nhiều môi trường làm việc khác nhau và chính các bạn đồng nghiệp trước

bao giờ cũng là những người dạy cho ta nhiều điều nhất. Nếu một người thường

xuyên tiếp xúc với những người bạn hay ăn chơi, thích hưởng thụ, lười học tập… thì

sẽ dễ lây nhiễm những thói hư tật xấu từ người bạn. Đến một lúc, khi không có tiền

để thỏa mãn nhu cầu của bản thân hoặc vì tâm lý “sĩ diện”, thích thể hiện trước mặt

bạn bè, con người đó sẽ dễ rơi vào tình trạng vi phạm pháp luật.

1.3.1.4. Môi trường nơi cá nhân làm việc hoặc cư trú

Nếu sống trong môi trường tập thể hoặc nơi cư trú lành mạnh, an toàn, mọi

người biết quan tâm, giúp dỡ lẫn nhau, không có tệ nạn xã hội và tội phạm, mọi

người biết chí thú làm ăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật thì có thể nói đây là

môi trường thuận lợi, có tác động tích cực đến việc hình thành nhân cách đúng đắn

của cá nhân và hạn chế sự phát triển nhân cách lệch lạc của cá nhân. Ngược lại, nếu

sống trong môi trường có chứa đựng nhiều nhân tố tiêu cực như có những người

suốt ngày chỉ đam mê cờ bạc, rượu chè, gây rối, đánh nhau… thì đây thực sự là môi

trường xấu, tiềm ẩn nguy cơ lôi kéo, tác động đến những người thiếu bản lĩnh,

không vững vàng, dễ sa ngã trước cái xấu, hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội,

từ đó có thể ảnh hưởng, dẫn đến việc hình thành và phát triển nhân cách lệch lạc của

cá nhân.

25

1.3.1.5. Môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô

Môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô cũng có vai trò quan trọng trong việc tác

động hình thành và phát triển nhận thức, lối sống, quan điểm của cá nhân. Có thể

liệt kê một số nhân tố như: tác động từ sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, vấn đề

thất nghiệp, đói nghèo, bất bình đẳng trong xã hội…; tác động của chính sách, pháp

luật: nhân tố không thuận lợi từ chính sách, pháp luật được coi là nguyên nhân phát

sinh tội phạm có thể là quy định của chính sách, pháp luật còn sơ hở, chưa chặt chẽ

hoặc không công bằng, thiếu thỏa đáng…; hoạt động của các cơ quan quản lý trong

các lĩnh vực chưa đồng bộ, thiếu kiên quyết trong việc xử lý vi phạm. Sự phối hợp

giữa các cơ quan chức năng trong xử lý vi phạm, tội phạm còn chưa thực sự hiệu

quả. Ngoài ra còn có các nhân tố khác như tác động từ phong tục, tập quán lạc hậu,

tác động từ trào lưu văn hóa ngoại lai không lành mạnh…

1.3.1.6. Môi trường văn hóa, đạo đức

Môi trường văn hóa có ảnh hưởng đến sự hình thành quan điểm giá trị và

quan niệm phân phối xã hội một cách hợp lý, nhân văn, phù hợp với các tầng lớp

khác nhau trong xã hội nhằm bảo đảm sự ổn định. Tuy nhiên hiện nay, sự xuống

cấp, thậm chí suy thoái về văn hóa, đạo đức đang trở thành hiện tượng đáng báo

động. Đã xuất hiện thái độ thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau, bất hạnh của người khác...

Những điều này đã trở thành đặc điểm tâm lý xã hội phổ biến. Một khi đạo đức bị

băng hoại, lòng tương thân tương ái, lòng dũng cảm chết dần, con người ta trở nên

thờ ơ, vô cảm trước đồng loại thì hiển nhiên tội ác sẽ lên ngôi. Ngoài ra, tội phạm

còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tác động của ý thức đạo đức, ý thức đạo đức là sự

thể hiện những nguyên tắc, những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá các

hành vi ứng xử giữa con người với con người, con người với xã hội. Việc lên án

mạnh mẽ các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức sẽ góp phần làm hạn chế sự gia

tăng tội phạm. Ngược lại, tội phạm sẽ gia tăng khi chuẩn mực đạo đức bị thay đổi,

các hành vi vi phạm chuẩn mực không bị dư luận xã hội lên án mạnh mẽ.

1.3.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

26

Nhân thân của một con người không tự nhiên sinh ra mà được hình thành,

phát triển thông qua một quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan

thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về ý thức của con người.

Trong quá trình tương tác đó, cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống (chứa

đựng yếu tố thuận lợi và yếu tố không thuận lợi) nhưng tiếp thu và chịu sự tác động

đó như thế nào là do từng cá nhân; yếu tố thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân

tốt, yếu tố không thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân xấu. Chính những đặc

điểm nhân thân xấu này kết hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và sự thiếu bản lĩnh

trước mọi cám dỗ tiêu cực trong xã hội dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.

Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác là: sai lệch về sở thích; sai lệch về nhu cầu và

cách thức thỏa mãn nhu cầu; những hạn chế thuộc về ý thức pháp luật cá nhân…

1.3.2.1. Sai lệch về sở thích

Nếu con người có những sở thích lành mạnh thì hình thành ở người đó nhân

cách đúng đắn. Ngược lại, con người có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ hình

thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như sống ích kỷ, hưởng thụ, sống buông thả,

coi thường chuẩn mực đạo đức… Những người có sở thích lành mạnh như tập luyện

thể dục thể thao, đọc báo, xem phim, kết hợp với các yếu tố tích cực khác sẽ hình

thành nhân cách đúng đắn và có quá trình phát triển nhân cách toàn diện. Ngược lại,

những người có sở thích không lành mạnh, tiêu cực như nhậu nhẹt thường xuyên, tụ

tập bạn bè chơi games, xem phim bạo lực… thì dần dần sẽ hình thành nên lối sống

thực dụng, buông thả, coi thường các giá trị đạo đức. Khi gặp những hoàn cảnh tiêu

cực, họ dễ bị kích thích, mất kiểm soát, không kiềm chế được hành vi của bản thân,

dễ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.

1.3.2.2. Sai lệch về nhu cầu và cách thức để thỏa mãn nhu cầu

Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người, là những đòi hỏi, mong

muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển.

Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi

người có những nhu cầu khác nhau, từ đó dẫn đến phương thức đáp ứng nhu cầu

27

cũng khác nhau. Nhu cầu cơ bản của con người đó là nhu cầu sống, nhu cầu về tiền

bạc, nhu cầu danh vọng, nhu cầu cống hiến… Nhu cầu đúng đắn, lành mạnh thì thúc

đẩy con người có những hành động đúng, tích cực. Ngược lại, nếu con người có nhu

cầu lệch lạc thì sẽ chi phối tâm lý, hướng con người đến nhận thức, hành động tiêu

cực, thậm chí cả thực hiện hành vi phạm tội.

1.3.2.3. Những hạn chế thuộc về ý thức pháp luật cá nhân

Ý thức pháp luật cá nhân phản ánh những tư tưởng, quan điểm, tâm lý, tình

cảm, thái độ của họ về pháp luật và đối với pháp luật. Ý thức đó được hình thành

và phát triển do sự tác động của các yếu tố xã hội (điều kiện kinh tế, chính trị, văn

hóa, giáo dục...) và của các điều kiện, hoàn cảnh riêng của từng người (môi trường

sống, công việc được giao, sức khỏe, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, hiểu

biết xã hội...).

Mỗi con người có khả năng nhận thức và hiểu biết pháp luật khác nhau, có

người hiểu biết pháp luật, nắm các quy định của pháp luật rất kỹ, nhưng lại có

người nắm các quy định của pháp luật rất sơ sài hoặc không có hiểu biết gì về pháp

luật, thậm chí là hiểu sai các quy định của pháp luật. Trong thực tế, người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường hiểu biết

pháp luật rất ít, rất mơ hồ; có thái độ thờ ơ đối với pháp luật và coi thường các cơ

quan bảo vệ pháp luật.

28

Kết luận chương 1

Trong phạm vi chương 1, tác giả đã khái quát những vấn đề lý luận về nhân

thân người phạm tội và ý nghĩa của việc nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đó tác giả đã

phân tích cụ thể các đặc điểm của nhân thân người phạm tội như các đặc điểm về

mặt xã hội - nhân khẩu, đạo đức - tâm lý và pháp lý hình sự. Trên cơ sở đó, tác giả

đã đi sâu phân tích và làm rõ những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân

người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

gồm những yếu tố khách quan và những yếu tố chủ quan.

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, kết luận ở chương 1 sẽ là cơ sở để tìm hiểu

và làm rõ về các đặc điểm nhân thân và nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân

thân tiêu cực của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận được trình bày ở chương 2 của

luận văn.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG

TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN

2.1. Khái quát tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

2.1.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận giai đoạn

2014 - 2018

Thực trạng của tình hình tội phạm là số lượng các tội phạm đã được thực

hiện và những người thực hiện các tội phạm đó ở một địa bàn nhất định và trong

một khoảng thời gian nhất định [30, tr.62]. Như vậy, thực trạng của tình hình tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận là số lượng các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác đã xảy ra và số người đã phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm

2018, nó được biểu hiện thông qua: số lượng vụ cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác và số người bị Tòa án xét xử, tuyên bản án về

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Trong thời gian 05 năm (từ năm 2014 đến 2018), trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận đã xét xử tổng cộng 1792 vụ án hình sự với 2931 bị cáo, bình quân mỗi năm

xét xử 358 vụ với hơn 586 bị cáo. Trong đó số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác được Tòa án nhân dân các cấp đưa ra xét xử

sơ thẩm là 392 vụ, với 560 bị cáo, chiếm 21,9% s ố v ụ á n và 1 9 , 1 % số bị cáo.

Năm xảy ra nhiều vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác nhất là năm 2018 (89 vụ, 121 bị cáo) và năm ít nhất là năm

2014 (66 vụ, 96 bị cáo). Như vậy, hàng năm trung bình trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận xảy ra 78 vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

30

người khác với 112 bị cáo bị xét xử. Thông qua số liệu trên cho thấy, tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là một trong những loại

tội rất phổ biến, có tỷ trọng cao trong tổng số tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận (Xem bảng 2.1 - phần phụ lục).

Qua phân tích ở trên cho thấy, số vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến năm 2018 có chiều

hướng tăng mạnh (năm 2014 xảy ra 66 vụ, đến năm 2018 xảy ra 89 vụ, tăng

34,8%). Điều đó cho thấy tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận diễn biến rất phức tạp.

Phân tích số liệu từ bảng 2.2 - phần phụ lục cho thấy, trong số các tội thuộc

nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người quy

định tại chương XIV Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chiếm 77,6% số vụ

án và 63,6% số bị cáo. Như vậy, trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, đây là loại tội

chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của con người.

Những số liệu trên là những vụ án đã được phát hiện và xử lý. Trên thực tế

thì vẫn còn một số vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chưa được phát hiện và xử lý, đây chính là phần

ẩn của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác.

2.1.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm là sự vận động và sự thay đổi

của thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm trong một khoảng thời gian nhất

định (01 năm, 03 năm, 05 năm, 10 năm...) [30, tr. 63]. Diễn biến của tình hình tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận là sự vận động và sự thay đổi của mức độ và cơ cấu của tình hình tội cố

31

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.

Qua hai bảng số liệu (bảng 2.1 và bảng 2.2 phần phụ lục) cho thấy diễn biến

số vụ án, số bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác có xu hướng tăng mạnh cả về số vụ án lẫn số bị cáo trong thời gian từ

năm 2014 đến năm 2018. Trong năm 2014 số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác là 66 vụ/96 bị cáo, đến năm 2018 là 89 vụ/121

bị cáo (tăng 23 vụ, tăng 25 bị cáo).

Bằng phương pháp so sánh định gốc tính theo năm, nếu lấy năm 2014 làm

mốc và số vụ án phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác được xét xử trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận là 100%, thì từ năm 2014 đến

năm 2018 số vụ án và số bị cáo đều có xu hướng tăng, cụ thể: năm 2015 tăng

21,2% số vụ, tăng 23% số bị cáo; năm 2016 tăng 12,1% số vụ, tăng 12,5% số bị

cáo; năm 2017 tăng 25,8% số vụ, tăng 21,9% số bị cáo; năm 2018 tăng 34,8% số

vụ, tăng 26% số bị cáo (xem bảng 2.6 – phần phụ lục). Nếu so sánh tỉ lệ tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tổng số vụ án

xảy ra trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn 2014 - 2018 thì tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chiếm tỷ lệ 21,9% số

vụ án và 19,1% số bị cáo. Nếu so sánh tỉ lệ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm khác trong nhóm tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận thì chiếm tỷ lệ rất cao 77,6% số vụ án và 63,6% số bị cáo. Đây là một diễn

biến đáng báo động về tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn hiện nay.

2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội

phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trong khoảng thời gian nhất định

và ở một lãnh thổ (địa bàn) nhất định [30, tr.64]. Nghiên cứu về cơ cấu của tình

32

hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa

bàn tỉnh Ninh Thuận, có thể nghiên cứu theo các loại cơ cấu cơ bản sau:

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo địa giới hành chính của tỉnh Ninh Thuận

Theo bảng số liệu 2.3 thì huyện Ninh Sơn là địa bàn có mức độ phổ biến của

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cao nhất, cứ

164,22 người dân thì có 01 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác, huyện Thuận Bắc là địa bàn có mức độ phổ biến của

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thấp nhất,

2.236,05 người dân thì có 01 bị cáo (xem bảng 2.3 - phần phụ lục).

Phân tích số liệu từ bảng 2.4 cho thấy, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm là

địa bàn có mật độ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác xảy ra cao nhất, cứ 1km2 thì có 2,77 người phạm tội, huyện Bác Ái (0,03

người/1km2) là địa bàn có mật độ tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác xảy ra thấp nhất (xem bảng 2.4 - phần phụ lục).

Qua phân tích bảng 2.3 và bảng 2.4 đã tổng hợp nên bảng 2.5. Nghiên cứu

bảng 2.5 cho thấy, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm là địa bàn có mức độ nguy

hiểm cao nhất và huyện Thuận Bắc là địa bàn có mức độ nguy hiểm thấp nhất (xem

bảng 2.5 - phần phụ lục).

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo địa điểm, thời gian gây án.

Địa điểm gây án trong các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác xảy ra ở tất cả các xã, phường, thị trấn thuộc các huyện, thành

phố của tỉnh Ninh Thuận. Qua khảo sát cho thấy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác thường diễn ra ở nơi công cộng như quán

nhậu, quán cà phê, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke. Trong tổng số 392 vụ

án thì có đến 236 vụ xảy ra ở những nơi công cộng, chiếm tỷ lệ 60,2%; có 131 vụ

xảy ra tại nơi ở của nạn nhân hoặc của đối tượng phạm tội, chiếm tỷ lệ 33,4%; còn

33

lại 25 vụ các đối tượng gây án ở những nơi khác, chiếm tỷ lệ 6,4% (xem bảng 2.7 -

phần phụ lục).

Qua nghiên cứu, khảo sát, thống kê từ 392 bản án hình sự sơ thẩm về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận cho thấy, tội phạm xảy ra trong tất cả các khoảng thời gian trong ngày.

Tuy nhiên, thời điểm tội phạm xảy ra nhiều nhất là khoảng thời gian ban ngày, từ

12h đến 18h (217 vụ, chiếm tỷ lệ 55,3%). Đây là khoảng thời gian lao động, sản

xuất của người dân, quá trình lao động, sản xuất, dễ xảy ra những mâu thuẫn trong

cuộc sống, dẫn đến sự thiếm kiềm chế, không kiểm soát được hành vi của bản thân,

dẫn đến có những hành vi gây gỗ với nhau và thực hiện hành vi phạm tội. Tiếp đến

là khoảng thời gian từ 18h đến 24h (144 vụ, chiếm tỷ lệ 36,7%) và khoảng thời gian

từ 0h đến 12h có tỷ lệ phạm tội ít nhất (31 vụ, chiếm tỷ lệ 7,9%) (xem bảng 2.8 -

phần phụ lục).

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo thiệt hại do tội phạm gây ra

Từ kết quả khảo sát 392 bản án hình sự sơ thẩm về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho thấy: có 497 người bị thiệt hại,

trong đó có 486 người bị thiệt về sức khỏe, chiếm tỷ lệ 97,8%; có 11 người bị thiệt

hại về tính mạng, chiếm tỷ lệ 2,2% (xem bảng 2.9 - phần phụ lục). Như vậy, có thể

thấy rằng, thiệt hại do tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác diễn ra trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chủ yếu là gây ra thương tật

cho nạn nhân, số nạn nhân bị thiệt mạng do hành vi phạm tội gây ra chiếm số ít.

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo công cụ thực hiện tội phạm của người phạm tội

Khảo sát 392 bản án hình sự sơ thẩm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, có 158 vụ các

đối tượng dùng hung khí thô sơ (chiếm tỷ lệ 40,3%), 225 vụ các đối tượng sử dụng

hung khí nguy hiểm để thực hiện hành vi phạm tội (chiếm tỷ lệ 57,4%), còn lại 09

34

vụ đối tượng sử dụng các công cụ khác để thực hiện tội phạm (chiếm tỷ lệ 2,3%)

(xem bảng 2.10 - phần phụ lục).

Có thể thấy ở địa bàn tỉnh Ninh Thuận, các đối tượng thực hiện hành vi phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chủ yếu sử

dụng hung khí nguy hiểm và hung khí thô sơ để thực hiện hành vi phạm tội. Đó là

vấn đề đặt ra cho các cơ quan chức năng trong việc tuyên truyền người dân chấp hành

các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và

vấn đề sử dụng các loại công cụ dùng để lao động nhưng có độ sát thương cao mà

người dân hay sử dụng như dao, rựa, mác… Khi có mâu thuẫn xảy ra, những vật

dụng thường ngày dùng để sản xuất, lao động lại chính là hung khí để gây án.

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo phương thức thực hiện phạm tội

Trên cơ sở nghiên cứu 392 bản án hình sự sơ thẩm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho kết

quả như sau: có 137 vụ án có đồng phạm, chiếm tỷ lệ 34,9%; còn lại 255 vụ đối

tượng phạm tội đơn lẻ, chiếm tỷ lệ 65,1%. Kết quả này cho thấy, việc thực hiện hành

vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên

địa bàn tỉnh Ninh Thuận chủ yếu phạm tội đơn lẻ, có thể do những mâu thuẫn bột

phát trong cuộc sống, trong lao động, sản xuất mà từ đó thực hiện hành vi phạm tội,

chứ không có sự câu kết thành băng, nhóm từ trước.

- Cơ cấu tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo hình phạt đã áp dụng

Nghiên cứu 392 bản án hình sự sơ thẩm với 560 bị cáo phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cho thấy: số bị cáo bị phạt

tù có thời hạn dưới 3 năm có 397 bị cáo, chiếm 70,9%; phạt tù có thời hạn từ 3 năm

đến dưới 7 năm có 132 bị cáo, chiếm 32,6%; phạt tù có thời hạn từ 7 năm đến dưới

15 năm có 13 bị cáo, chiếm 2,3%; phạt tù có thời hạn từ 15 năm trở lên có 07 bị cáo,

chiếm 1,3%; hình phạt khác có 11 bị cáo, chiếm 2% (xem bảng 2.12 - phần phụ lục).

35

Như vậy, có thể thấy, số bị cáo có hình phạt tù dưới 03 năm chiếm tỷ lệ cao nhất

70,9%, còn tỷ lệ thấp nhất là hình phạt tù từ 15 năm trở lên có tỷ lệ thấp nhất là 1,3%.

2.2. Thực trạng các đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Qua nghiên cứu trong 392 vụ án với 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ năm

2014 - 2018 cho thấy đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận như sau:

2.2.1. Thực trạng các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu

2.2.1.1. Về giới tính

Qua thống kê từ 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác từ năm 2014 đến năm 2018 cho thấy: có 473 đối

tượng là nam giới, chiếm 8 4 , 5 %; chỉ có 87 đối tượng là nữ giới, chiếm 1 5 , 5 %

(xem bảng 2.13 - phần phụ lục). So sánh về tỷ lệ phạm tội thì nam giới chiếm tỷ lệ

cao hơn nhiều (84,5%) so với nữ giới (15,5%). Sở dĩ nam giới phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhiều hơn nữ giới chủ

yếu xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của nam giới. Họ thường nóng tính, khả năng

kiên nhẫn không cao, đặc biệt nam giới hay sa đà vào các thói quen xấu như thích

xem phim bạo lực, thường xuyên sử dụng rượu, bia, các chất kích thích nên làm

cho họ dễ bị kích động, thiếu sự kiềm chế. Thêm vào đó, nam giới thường thích thể

hiện sức mạnh của mình hoặc thích dùng vũ lực để khuất phục người khác nên

thường có xu hướng giải quyết các mâu thuẫn bằng bạo lực.

Từ những phân tích khái quát trên, có thể thấy đặc điểm giới tính của nam

giới là một trong những yếu tố cần xem xét khi nghiên cứu nhân thân người phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận. Cần xác định nam giới là nhóm đối tượng mà công tác giáo dục,

phòng ngừa của các cơ quan chức năng phải tập trung hướng tới. Cần phải đặt đặc

điểm giới tính đó trong một tổng thể các yếu tố như các điều kiện giáo dục, với các

36

đặc điểm về chuẩn mực hành vi và hoạt động sống, với tính chất của các quan hệ

lao động, gia đình, lối sống và những mối quan hệ khác so với nữ giới.

Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cũng cần có giải pháp để hạn chế tỉ lệ nữ

giới phạm tội. Bởi tuy chỉ chiếm 15,5% số bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng hậu quả của hành vi phạm tội

do phụ nữ gây ra không những ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội nói chung mà nó đã và đang làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục,

hình ảnh tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay.

2.2.1.2. Về độ tuổi

Trên cơ sở kết quả khảo sát 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho thấy, độ tuổi dưới 18 tuổi có 109 bị

cáo, chiếm tỷ lệ 19,5%; từ 18 tuổi đến 30 tuổi có 305 bị cáo, chiếm tỷ lệ 54,5%;

từ 31 đến 45 tuổi có 117 bị cáo, chiếm 20,9%; trên 45 tuổi có 29 bị cáo, chiếm tỷ

lệ 5,2% (xem bảng 2.13 - phần phụ lục).

Qua khảo sát trên cho thấy, số bị cáo từ 18 đến 30 tuổi có tỷ lệ phạm tội cao

nhất (54,5%). Đây là độ tuổi mà con người bắt đầu phải tự lập, bươn chải trong

cuộc sống, quá trình đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Hơn nữa đây là độ tuổi mà con

người có sức khỏe dồi dào nhất nhưng lại chưa thật sự chín chắn trong suy nghĩ và

hành động, nên dễ bị kích động, tác động, lôi kéo vào con đường phạm tội bởi

những tác động tiêu cực của môi trường sống. Số người trên 45 tuổi phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chiếm tỷ lệ thấp

nhất, bởi những người ở độ tuổi này đã có suy nghĩ chín chắn hơn, khả năng biết tự

kiểm soát bản thân và kiềm chế hành vi cao hơn, tính tình điềm đạm hơn, do đó khi

gặp phải các tình huống tiêu cực, họ thường tìm cách suy nghĩ và có hướng lựa

chọn nhiều cách giải quyết khác nhau chứ không phải suy nghĩ đến cách thức giải

quyết bằng bạo lực trước tiên. Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác ở độ tuổi dưới 18 tuổi cũng chiếm một tỷ lệ

tương đối, nguyên nhân bởi những người ở độ tuổi này thường thiếu suy nghĩ, tính

tình hay bốc đồng, thiếu kinh nghiệm, kỹ năng trong cuộc sống, dưới tác động của

37

các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, các em bắt đầu tụ tập, đua đòi, ăn chơi, bắt

chước người lớn và thích thể hiện bản thân, có xu hướng muốn thoát khỏi sự quản

lý của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong khi đó những hiểu biết về pháp luật

của các em còn hạn chế, vì vậy, độ tuổi này dễ phạm tội và rất dễ bị kích động, lôi

kéo.

Từ phân tích trên có thể thấy rằng, đa phần các bị cáo thực hiện hành vi

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có độ

tuổi dưới 30. Điều này phù hợp với xu hướng “trẻ hóa” tội phạm trên toàn quốc hiện

nay. Ở độ tuổi này đang phát triển về tâm sinh lý và nhân cách, còn non nớt về nhận

thức nên dễ bị tác động từ môi trường sống. Do đó, khi không được gia đình, nhà

trường quan tâm giáo dục, dạy dỗ sẽ dẫn tới dễ bị lôi kéo, lợi dụng để phạm tội. Và

hậu quả, tồn tại trong xã hội hiện nay là một bộ phận giới trẻ có tư tưởng coi thường

pháp luật, coi thường mạng sống của người khác và của chính mình. Họ sẵn sàng

làm mọi việc để có thể thỏa mãn các nhu cầu của bản thân, bất chấp nhu cầu đó có

chính đáng hay không, việc làm của mình có phạm pháp hay không. Do đó, để

phòng ngừa tội phạm ở độ tuổi này cần phải đề ra các giải pháp để phát huy vai trò

của gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn thể xã hội. Phải kịp thời nắm bắt được

tâm lý của con em mình, giúp cho các em vượt qua những cú sốc về tâm lý và tình

cảm, không nên quá nuông chiều về vật chất cũng như tinh thần; đồng thời cần đẩy

mạnh tuyên truyên giáo dục, nâng cao nhận thức pháp luật trong nhà trường, xã hội,

đặc biệt đối với giới trẻ.

2.2.1.3. Về trình độ học vấn

Qua phân tích trình độ học vấn của 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cho thấy: số bị cáo không biết chữ là

97/560 bị cáo, chiếm 17,3%; số bị cáo có trình độ tiểu học là 134/560 bị cáo, chiếm

23,9%; số bị cáo có trình độ trung học cơ sở là 233/560 bị cáo, chiếm 41,6%; số bị

cáo có trình độ trung học phổ thông là 93/560 bị cáo, chiếm 16,6%; số bị cáo có

trình độ cao đẳng, đại học là 3/560 bị cáo, chiếm 0,5% (xem bảng 2.13 - phần phụ

lục). Như vậy có thể thấy rằng, số bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

38

hại cho sức khỏe của người khác có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống chiếm tỷ lệ

cao (82,9%), bị cáo có trình độ từ trung học phổ thông trở lên chiếm tỷ lệ thấp

(17,1%). Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm về nhận thức xã hội của đối

tượng. Chính vì trình độ văn hóa thấp nên sự hiểu biết về pháp luật, về xã hội kém,

vì thế việc giải quyết các mâu thuẫn xảy ra trên thực tế không được dứt điểm, dễ

dẫn đến bế tắc, do đó họ thực hiện hành vi phạm tội để giải quyết mâu thuẫn. Chính

điều này cũng lý giải vì sao tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác thường xảy ra ở vùng mà đời sống dân cư còn lạc hậu, có những

trường hợp sau khi thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác vẫn không

biết mình đã phạm tội.

Từ phân tích nêu trên, để phòng ngừa có hiệu quả tội phạm nói chung, tội

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng,

các cơ quan chức năng cần có giải pháp để quản lý, giáo dục học sinh, tránh tình

trạng học sinh bỏ học; bên cạnh đó cần tăng cường biện pháp giáo dục cá biệt phù

hợp từng loại đối tượng, từng lứa tuổi, chú ý tới giáo dục nhân cách, đạo đức gắn

với giáo dục ý thức chấp hành pháp luật đối với những em không có điều kiện học

tập, hoặc không muốn học.

2.2.1.4. Về nghề nghiệp

Qua nghiên cứu 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác cho thấy: số bị cáo không có nghề nghiệp là 321/560

bị cáo (chiếm 57,3%), số bị cáo có nghề nghiệp nhưng không ổn định, thu nhập

thấp là 146/560 bị cáo (chiếm 26,1%) và số bị cáo có nghề nghiệp ổn định là

93/560 bị cáo (chiếm 16,6%) (xem bảng 2.13 - phần phụ lục). Có thể thấy, số đối

tượng phạm tội có nghề nghiệp ổn định chiếm tỷ lệ thấp nhất, tiếp đến là số đối

tượng có nghề nghiệp nhưng không ổn định và có thu nhập thấp; số đối tượng

phạm tội không có nghề nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp

với đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận, trong bối cảnh tình hình kinh tế

của địa phương còn khó khăn, số doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh ít từ

đó dẫn đến công tác giải quyết việc làm cho người lao động tại địa phương gặp một

39

số khó khăn nhất định, tạo áp lực lớn đến các vấn đề xã hội. Các đối tượng không

có việc làm, việc làm không ổn định, thu nhập thấp thường có tâm lý chán nản,

thiếu ý chí phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Hơn nữa một số đối tượng lại có lối

sống thực dụng, hưởng thụ, chạy theo lợi ích vật chất; sự tác động tiêu cực của ấn

phẩm đồi trụy, trò chơi trực tuyến trên mạng Internet (game online) đối với thanh,

thiếu niên… nên dễ bị ảnh hưởng, kích động, lôi kéo vào con đường phạm tội.

Như vậy đặc điểm về nghề nghiệp của những người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận cho thấy thái độ tiêu cực hoặc thiếu trách nhiệm của người phạm tội đối với

việc thực hiện nghĩa vụ công dân, trong đó có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ tôn trọng

trật tự an toàn xã hội, tôn trọng quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của công

dân... Những điều này cần được cân nhắc khi xây dựng các biện pháp phòng ngừa

tình hình tội phạm về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Trong đó, vấn đề giải quyết việc làm là một

trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đảm bảo an sinh xã hội, ổn định tình

hình an ninh trật tự, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

2.2.1.5. Hoàn cảnh gia đình

Gia đình bao giờ cũng là môi trường ảnh hưởng đầu tiên và xuyên suốt quá

trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người. Qua khảo sát 560 bị

cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho thấy, có 78 bị cáo sống trong gia đình khuyết

thiếu, chiếm tỷ lệ 13,9%; 109 bị cáo sống trong gia đình có người thân thường

xuyên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội, chiếm tỷ lệ 19,5%; có 203 bị cáo sống

trong gia đình mà các thành viên trong gia đình không quan tâm, chăm sóc đến

nhau, chiếm tỷ lệ 36,3%; 101 bị cáo sống trong gia đình không hạnh phúc,

thường xuyên đánh, chửi nhau, chiếm tỷ lệ 18%; có 69 bị cáo sống trong gia

đình cha mẹ giáo dục không đúng cách, chiếm tỷ lệ 12,3% (xem bảng 2.14 -

phần phụ lục).

40

Như vậy có thể thấy rằng, số bị cáo sống trong gia đình không quan tâm,

chăm sóc, giáo dục con cái; có người thân thường xuyên vi phạm pháp luật hoặc

phạm tội chiếm tỷ lệ cao. Bế tắc trong nuôi dạy con cái vì ít có thời gian quan tâm,

chia sẻ, sự đổ vỡ trong các cuộc hôn nhân… đang là những vấn đề báo động trước

sự sa sút về đạo đức của giới trẻ. Do đó khi đề ra các giải pháp phòng ngừa tình

hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

các cơ quan chức năng cần có giải pháp để khắc phục những hạn chế tiêu cực từ

phía gia đình.

2.2.2. Thực trạng các đặc điểm về đạo đức - tâm lý

Thực tiễn cho thấy, những người không phạm tội là những người có thái độ,

quan điểm sống tích cực, và ngược lại, những người dễ sa ngã, vướng vào con

đường phạm tội là những người có tâm lý bi quan, chán nản, có quan điểm sống tiêu

cực, không biết cách khắc phục khó khăn, vượt lên chính mình, khi gặp những biến

cố trong cuộc sống họ không tìm cách để giải quyết theo chiều hướng tích cực mà

thường có quan điểm sống sai lệch, sống tiêu cực, dễ bị sa ngã vào các tệ nạn (ma

túy, game online, cờ bạc…). Qua trao đổi, lấy ý kiến của 85 điều tra viên công tác

tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an 07 huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận và 10 thẩm phán của TAND tỉnh Ninh Thuận đều cho kết quả chung: Những

người phạm tội thường do bột phát không làm chủ được bản thân, nóng giận không

kiềm chế, bị lệch lạc về nhân cách, thiếu hiểu biết, hiếu thắng, uy hiếp mọi người

nên dù mâu thuẫn nhỏ xảy ra cũng xuất hiện tranh chấp xô xát. Phần lớn các vụ cố ý

gây thương tích xảy ra trên địa bàn trong thời gian qua nguyên nhân là do có sử

dụng rượu, bia và chất kích thích khác dẫn tới việc không làm chủ bản thân, tinh

thần, ý chí nằm ngoài tầm kiểm soát, không tỉnh táo, dễ bị kích động dẫn đến việc

phạm tội.

Nghiên cứu 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho thấy, có 229 bị cáo

thường xuyên sử dụng rượu, bia chiếm tỷ lệ 40,9%; có 99 bị cáo nghiện phim bạo

lực, chiếm tỷ lệ 17,7%; 119 bị cáo nghiện games online, các trò chơi bạo lực,

41

chiếm tỷ lệ 21,3%; 113 bị cáo thường xuyên tụ tập, chơi bời, quậy phá, chiếm tỷ

lệ 20,2% (xem bảng 2.15 - phần phụ lục).

Như vậy, có thể thấy rằng, số bị cáo phạm tội do thói quen sử dụng rượu,

bia chiếm tỷ lệ cao nhất. Những người này sau khi sử dụng rượu, bia và chất kích

thích khác đã dẫn tới việc không làm chủ bản thân, tinh thần, ý chí nằm ngoài tầm

kiểm soát, không tỉnh táo, dễ bị kích động dẫn đến việc phạm tội. Tiếp đến là số bị

cáo phạm tội do nghiện games online có nội dung đánh đấm, kiếm hiệp đã tác động

mạnh đến tư tưởng bạo lực và mâu thuẫn xảy ra đều giải quyết bằng bạo lực.

2.2.3. Thực trạng về đặc điểm pháp lý hình sự

2.2.3.1. Động cơ, mục đích

Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua và trao

đổi với các điều tra viên trực tiếp thụ lý các vụ án cho thấy: Người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường vì nhiều

động cơ và mục đích khác nhau như vì muốn giải quyết những mâu thuẫn xảy ra

trong cuộc sống, vì muốn “sĩ diện” giúp đỡ bạn bè, giải quyết mâu thuẫn nhóm, vì

ảnh hưởng của phim ảnh có hành vi kích động bạo lực, vì muốn trả thù người bị hại,

vì ghen tuông hay cảm thấy bất công… Trên cơ sở nghiên cứu động cơ, mục đích

của 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác cho thấy động cơ, mục đích giải quyết mâu thuẫn cá nhân chiếm tỷ lệ

cao nhất 365/560 bị cáo, chiếm 65,2%, giải quyết mâu thuẫn nhóm có 132/560 bị

cáo, chiếm tỷ lệ 23,6% và vì động cơ, mục đích khác có 63/560 bị cáo, chiếm tỷ lệ

11,3% (xem bảng 2.16 - phần phụ lục). Điển hình như vụ án: giữa gia đình anh

Đặng Vĩnh Kim Linh và gia đình ông Lê Văn Anh có mâu thuẫn về việc tranh chấp

đất đai. Khoảng 14 giờ ngày 16/4/2018, ông Anh cùng với hai người em của mình

là Lê Văn Tài và Lê Văn Ninh đang cuốc đất tại thửa đất ở thôn Phước An 1, Phước

Vinh, Ninh Phước để trồng trọt thì ông Linh đến ngăn không cho làm, dẫn đến hai

bên xô xát đánh nhau. Ninh rượt đuổi anh Linh bỏ chạy và dùng cây cuốc đánh một

nhát làm phần lưỡi cuốc trúng vào lưng anh Linh. Lúc này anh Nguyễn Hữu Long

42

là em vợ anh Linh nghe tin anh Linh bị đánh nên anh Nguyễn Hữu Long chạy đến

thửa đất trên gặp Ninh thì hai bên tiếp tục xô xát đánh nhau. Khi anh Nguyễn Hữu

Long đang đứng đối diện với Ninh thì bị Ninh dùng cây cuốc giơ lên cao đánh

nhiều cái, phần lưỡi cuốc trúng vào đầu và vai anh Nguyễn Hữu Long gây thương

tích, anh Nguyễn Hữu Long được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa

tỉnh Ninh Thuận, sau đó chuyển vào Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện chỉnh hình,

phục hồi chức năng thành phố Hồ Chí Minh điều trị đến ngày 22/4/2018 thì ra viện.

Tỷ lệ sức khỏe bị giảm do thương tích gây nên hiện tại là 15% (trích bản án hình sự

sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ninh

Phước, tỉnh Ninh Thuận). Qua vụ án có thể thấy rằng, chỉ vì mâu thuẫn trong cuộc

sống hàng ngày giữa hàng xóm với nhau nhưng hai gia đình đã không có phương

pháp đúng để giải quyết được mâu thuẫn, họ thể hiện sự ích kỷ, sĩ diện, từ đó dễ xảy

ra xung đột, đâm chém có tính chất côn đồ để giải quyết mâu thuẫn dẫn đến việc

phạm tội.

2.2.3.2. Hình thức phạm tội

Trong tổng số 392 bản án với 560 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tác giả đã nghiên cứu thì số vụ án có

đồng phạm là 137/392 vụ án, chiếm 34,9%, còn 255/392 vụ phạm tội đơn lẻ, chiếm

65,1% (xem bảng 2.11 - phần phụ lục). Như vậy, hình thức phạm tội của các bị cáo

thường là phạm tội đơn lẻ. Do người phạm tội thường bột phát, thiếu suy nghĩ nên

có hành vi phạm tội chứ ít khi có sự chuẩn bị trước. Tuy số vụ án mà các bị cáo

thực hiện dưới hình thức đồng phạm ít hơn so với tội phạm thực hiện đơn lẻ nhưng

xét về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lại cao hơn. Các vụ phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới hình thức đồng

phạm thường thực hiện với nhiều người cùng tham gia, đều là những người bạn

chơi chung và quen biết nhau, thậm chí là người cùng chung trong một nhà. Trong

137 vụ án có đồng phạm thì chỉ có 14/137 vụ án (chiếm 10,21%) là đồng phạm có

tổ chức, có sự phân công vai trò, chuẩn bị kế hoạch để thực hiện hành vi phạm tội,

và giữa các bị cáo có sự câu kết chặt chẽ với nhau. Còn lại 123/137 vụ án (chiếm

43

89,78%) là đồng phạm mang tính giản đơn, nghĩa là sự cấu kết giữa các đối tượng

khi thực hiện hành vi phạm tội không chặt chẽ, chỉ là rủ rê, lôi kéo nhau để thực

hiện hành vi phạm tội chứ không có kế hoạch gây án và tẩu thoát, che giấu, trốn

tránh sự trừng phạt của pháp luật.

2.2.3.3. Tính chất hành vi phạm tội

Qua nghiên cứu 392 vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho thấy, đa số các vụ án xảy ra

trong thời gian qua hậu quả xảy ra không lớn. Các đối tượng phạm tội phần lớn

không nằm trong diện quản lý nghiệp vụ của lực lượng Công an, chủ yếu phạm tội

lần đầu, có 475/560 bị cáo, chiếm 84,8%. Số đối tượng thuộc các băng, ổ nhóm tội

phạm hoạt động manh động, đâm thuê, chém mướn, đòi nợ thuê hoặc khi nảy sinh

mâu thuẫn chúng sẵn sàng sử dụng vũ khí, hung khí mang theo để gây án có 85/560

bị cáo, chiếm 15,2%. Tuy số lượng ít nhưng các vụ án, vụ việc xảy ra đã tác động

tiêu cực, gây ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, gây hoang

mang, lo lắng, bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân.

Trong tổng số 392 vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác, đã gây ra thiệt hại cho 497 người. Trong đó thiệt hại về sức khỏe là

496 người, chiếm tỷ lệ 97,8%; có 11 người chết, chiếm tỷ lệ 2,2% (xem bảng 2.9 -

phần phụ lục). Hậu quả do tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác gây ra đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thuần phong mỹ

tục, tình làng, nghĩa xóm, gây tâm lý lo lắng, bất an trong dư luận xã hội và cuộc

sống bình yên của Nhân dân. Cá biệt, thời gian gần đây, qua trao đổi với các cán bộ

điều tra của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh được biết, đã xuất hiện một số vụ

án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do các đối

tượng trong các băng, ổ nhóm “cho vay lãi nặng” ở ngoài tỉnh đến gây ra bằng hung

khí nguy hiểm với mục đích trả thù, tranh dành địa bàn làm ăn, đòi nợ thuê... đã hủy

hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng, làm mất ổn định tình hình an ninh trật tự trên

địa bàn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường xã hội, phục vụ phát triển kinh tế

của địa phương.

44

2.3. Thực trạng những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân

người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

2.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc về môi trường sống

2.3.1.1. Môi trường gia đình

Qua nghiên cứu, khảo sát trên tổng số các vụ án và số bị cáo phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, có thể thấy các yếu

tố tác động đến sự hình thành đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội xuất

phát từ môi trường gia đình, cụ thể như sau:

- Gia đình có khiếm khuyết

Qua khảo sát cho thấy có 78 bị cáo sống trong gia đình khuyết thiếu, chiếm

tỷ lệ 13,9% (xem bảng 2.14 - phần phụ lục). Khi sống trong một gia đình khuyết

thiếu (cha mẹ ly hôn, ly thân; mồ côi cha hoặc mẹ…), người đầu tiên và bị ảnh

hưởng nặng nề nhất đó chính là những đứa con. Trẻ sẽ luôn cảm thấy mình trong

trạng thái cô đơn và không muốn chia sẻ với ai. Khi không biết chia sẻ với ai chúng

có thể tìm đến những chất kích thích để lấp đầy cảm giác trống rỗng. Với tâm lý

như thế, các em dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đường phạm tội, trong đó có việc thực

hiện các hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác.

- Gia đình có người thân vi phạm pháp luật hoặc phạm tội

Được sinh sống trong một gia đình có văn hoá, hoà thuận, đầm ấm và hạnh

phúc sẽ có ảnh hưởng một cách tích cực đến định hướng giá trị nhân cách của các

em. Các em sẽ có định hướng giá trị nhân cách đúng đắn theo sự định hướng của bố

mẹ và phát triển nhân cách của mình đúng với mong muốn của xã hội. Còn đối với

những gia đình mà bố mẹ hoặc ông bà, anh chị có những hành vi lệch chuẩn,

thường xuyên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội thì định hướng giá trị nhân cách của

các em cũng thiên về sự phát triển lệch lạc. Thực tế cho thấy có 109 bị cáo sống

trong gia đình có người thân thường xuyên vi phạm pháp luật hoặc phạm tội,

chiếm tỷ lệ 19,5% (xem bảng 2.14 phần phụ lục). Điển hình như vụ án: Vào

45

khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 30/4/2016, sau khi nghe con trai là Nguyễn Thanh Trí

kể lại sự việc xảy ra xô xát với một số nhân viên giữ xe tại bãi giữ xe khu du lịch

Suối Thương thuộc địa phận xã Lâm Sơn, huyện Ninh Sơn thì ông Nguyễn Thanh

Bình (cha của Trí, đối tượng vừa chấp hành án phạt tù về tội trộm cắp tài sản) đã

nảy sinh ý định vào khu vực khu du lịch để đánh lại những người gây thương tích

cho con mình. Lúc này, ông Bình điều khiển xe mô tô chở Trí đi vào khu vực khu

du lịch Suối Thương. Khi đi, ông Bình đem theo 01 rựa, còn Trí mang theo 01 con

dao Thái Lan. Tại bãi giữ xe ở khu vực Suối Thương, sau khi Trí chỉ mặt những

người đã xảy ra xô xát với mình, ông Bình lấy rựa chém anh Nguyễn Đình Vinh,

nhân viên bảo vệ một nhát ở vai trái, thấy vậy Trí rút dao Thái Lan ở trong túi quần

ra nhằm mục đích đâm tiếp vào người anh Vinh. Lúc này, anh Mai Hữu Lượng,

nhân viên bảo vệ nhìn thấy Trí đưa dao định đâm anh Vinh thì chạy vào can ngăn

nên bị Nguyễn Thanh Trí đâm 01 cái trúng vào phần mềm đuôi mắt trái và 01 cái

trúng vào mu mô bàn tay trái gây thương tích. Tại bản kết luận giám định pháp y

thương tích số: 36/2016/TgT ngày 26/7/2016 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh

Ninh Thuận kết luận thương tích của anh Nguyễn Đình Vinh do Nguyễn Thanh

Bình gây ra với tỉ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 16%; thương tích

của anh Mai Hữu Lượng do Nguyễn Thanh Trí gây ra với tỉ lệ tổn thương cơ thể do

thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 13% (trích bản án hình sự sơ thẩm

số 57/2016/HSST ngày 26/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh

Thuận). Như vậy có thể thấy rằng, gia đình của Nguyễn Thanh Trí đã bị “hỏng từ

gốc”, tức chính cha mẹ của họ đã phạm tội. Chính từ việc người cha đã từng có tiền

án tiền sự, lại có xu hướng giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực nên đã cùng con trai

đi thực hiện hành vi phạm tội và Nguyễn Thanh Trí lựa chọn các lối sống tiêu cực

như một sự tiếp nối tự nhiên “truyền thống” gia đình.

- Gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục con cái

Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay,

chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng khá bất ổn ở không ít gia đình, đó là việc

thiếu vắng sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của các bậc cha mẹ đối với con cái. Sự

46

thiếu quan tâm của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cả

về mối liên hệ tình cảm cha mẹ - con cái hoặc tăng thêm nguy cơ đối với các hành

vi lệch chuẩn trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các gia đình không được cha

mẹ quan tâm đã bỏ học, đi lang thang bụi đời, để cuối cùng rơi vào vòng xoáy của

các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Qua khảo sát cho thấy có 203 bị cáo sống

trong gia đình mà các thành viên trong gia đình không quan tâm, chăm sóc đến

nhau, chiếm tỷ lệ 36,3%.

- Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên cãi, chửi, đánh nhau

Có thể nói, hạnh phúc gia đình luôn là khát khao lớn nhất của con người từ

xưa đến nay. Trong cuộc sống, hạnh phúc không phải chỉ là sự hiện hữu của danh

vọng, của cải hay sự thành đạt mà quan trọng hơn, hạnh phúc còn là được yêu và

sống trong tình yêu thương. Tuy nhiên không phải gia đình nào cũng được hòa

thuận, hạnh phúc. Mâu thuẫn, xung đột gia đình mà đỉnh điểm là bạo lực gia đình

nghiêm trọng, trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với người vợ và

bạo lực của cha mẹ đối với con cái. Qua khảo sát cho thấy có 101 bị cáo sống trong

gia đình không hạnh phúc, thường xuyên đánh, chửi nhau, chiếm tỷ lệ 18%

(xem bảng 2.14 - phần phụ lục). Điển hình như vụ án: chị Lương Nhã Trúc và

Nguyễn Ngọc có quan hệ tình cảm từ năm 2012. Sau đó, Nguyễn Ngọc tham gia

nghĩa vụ quân sự, chị Lương Nhã Trúc lập gia đình với người khác. Đến khoảng

tháng 6/2017, chị Lương Nhã Trúc và Nguyễn Ngọc quay lại với nhau, chị Lương

Nhã Trúc cùng con riêng của mình đến ở chung nhà với Nguyễn Ngọc tại khu phố

5, phường Đạo Long, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Tuy nhiên, trong thời

gian chung sống, chị Trúc và Ngọc thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Sáng

ngày 03/10/2017, do tức giận về những mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống vợ chồng,

Nguyễn Ngọc điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 85B1 - 628.91 đi một mình đến

nhà mẹ ruột Trúc với mục đích tìm đánh chị Trúc. Khi nhìn thấy Nguyễn Ngọc

bước vào nhà, chị Trúc chạy vào nhà vệ sinh trốn. Nguyễn Ngọc liền đi tới, kéo chị

Trúc ra khỏi nhà vệ sinh rồi dùng tay phải đấm vào mặt của chị Trúc làm chị Trúc

ngã xuống. Lúc này, Nguyễn Ngọc tiếp tục lấy ghế nhựa loại có tựa lưng có sẵn ở

47

trong nhà đánh một cái từ trên xuống trúng mặt chị Trúc gây thương tích 13% (trích

bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST ngày 16/01/2018 của Tòa án nhân dân

thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận). Như vậy có thể thấy rằng,

nguyên nhân sâu xa dẫn đến bạo lực gia đình, chồng đánh vợ gây thương tích là do

thiếu kiến thức, kỹ năng xử lý tình huống về hôn nhân và gia đình. Vợ chồng đã

không kiểm soát được cảm xúc khi mâu thuẫn, xung đột, bạo lực kéo dài, triền miên

từ năm này sang năm khác giữa hai vợ chồng.

- Gia đình có phương pháp giáo dục chưa đúng

Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng

và tính cách của mỗi con người. Để trẻ trở thành một người có nhân cách tốt thì việc

giáo dục đóng vai trò chủ đạo. Hiện nay, có nhiều gia đình cha mẹ quá nuông chiều,

thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái, thói quen đòi gì được nấy sẽ khiến trẻ hình thành

tính ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỷ, lười nhác, không ý thức về trách nhiệm, quen được

phục vụ, hưởng thụ. Đến một lúc nào đó, khi gia đình không thỏa mãn được hoặc

không có điều kiện phục vụ thì con cái trở nên bất mãn, thậm chí thù ghét bố mẹ,

chúng thường bỏ nhà đi bụi, tụ tập với bạn bè xấu, sa chân vào con đường vi phạm

pháp luật. Trái ngược với những gia đình quá nuông chiều con cái, có những gia

đình có phương pháp giáo dục quá hà khắc, chọn cách “giáo dục bằng đòn roi”,

nhưng điều này khiến không khí trong gia đình trở nên căng thẳng, nảy sinh mâu

thuẫn, thậm chí dẫn đến những điều không mong muốn. Qua nghiên cứu cho thấy

có 69 bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác sống trong gia đình cha mẹ giáo dục không đúng cách, chiếm tỷ lệ

12,3% (xem bảng 2.14 - phần phụ lục).

2.3.1.2. Môi trường giáo dục

Cùng với môi trường gia đình thì môi trường giáo dục đóng một vị trí quan

trọng trong việc hình thành những phẩm chất cá nhân của mỗi thành viên trong xã

hội. Nhà trường không chỉ đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao kiến thức

tự nhiên và xã hội mà còn trau dồi hệ thống các quan điểm, nhân sinh quan, phương

pháp nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng; qua đó còn tạo ra ý thức tập thể, tinh

48

thần vươn lên hướng tới những biểu hiện tích cực. Tuy nhiên hiện nay, sự quản lý

và phối hợp giữa gia đình và nhà trường chưa được gắn kết chặt chẽ. Hiện tượng

trên có nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía, phụ huynh học sinh và giáo viên.

Trước hết, bản thân phụ huynh cần chủ động trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về

những biểu hiện bất thường của con cái, để cùng nhau đưa ra phương hướng giải

quyết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ phụ huynh thực hiện sự chủ động này còn ít.

Thứ hai, nhiều giáo viên thường chỉ dừng ở mức thông báo kết quả học tập, kết quả

rèn luyện đạo đức của học sinh, vì thế khi giáo viên mời phụ huynh tới trường để

trao đổi tức là khi học sinh đã mắc lỗi. Như vậy, sự phối hợp với phụ huynh học

sinh là giải quyết hậu quả, chứ ít mang tính chất dự phòng. Bên cạnh đó, chất lượng

giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống. Nội

dung chương trình giáo dục đạo đức hiện nay nặng tính lý thuyết, thiếu kỹ năng

sống. Những bài học ý nghĩa, gần gũi với đời sống không được chú trọng mà thay

bằng những bài học quá trừu tượng. Do đó chưa có tác dụng bồi đắp lòng nhân ái,

tính trung thực, lòng tự trọng, nếp nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có

kỷ luật cho các em học sinh.

2.3.1.3. Môi trường bạn bè

Trong xã hội, ngoài mối quan hệ với gia đình, nhà trường thì con người cần

phải thiết lập mối quan hệ với bạn bè xung quanh, bởi con người không thể sống

một mình mà cần có sự giao lưu, kết bạn với các thành viên khác. Hiện nay, với sự

phát triển của internet và các trang mạng xã hội, việc người phạm tội giao lưu kết

bạn không chỉ dừng ở chỗ tiếp xúc với bạn bè xấu hàng ngày trong cuộc sống mà

còn cả những bạn bè trong thế giới ảo.

Chính vì thế, gia đình, thầy cô giáo cần phải thực sự là những người bạn thân

thiết, hiểu rõ và chia sẻ mọi khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống cũng như trong

các mối quan hệ bạn bè phức tạp của các thành viên khác thì mới giúp họ tránh khỏi

những tác động xấu từ bạn bè, cần phát huy được lợi thế của nhóm bạn thân, bạn tốt

trong việc hình thành nhân cách con người. Điển hình như vụ án: Khoảng 20 giờ

ngày 23/01/2017, nhóm bạn trong xóm là Lại Hà Vinh, Đỗ Hoàng Minh, Phan Văn

49

Xuân, Đoàn Hằng Nam, Phạm Cẩm Tú và Phạm Văn Khoa cùng nhậu tại nhà Khoa

ở khu phố Khánh Sơn, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải. Đến khoảng 23 giờ

cùng ngày thì nghỉ nhậu và đi về, Vinh cùng Tú đi một xe, Minh và Nam đi một xe,

Xuân đi một xe. Khi đi cách nhà Khoa khoảng 400 mét thì cả nhóm dừng xe lại cho

Minh đi tiểu, lúc này gặp xe mô tô của Nguyễn Văn Hải chở Nguyễn Văn Mạnh đi

ngược chiều, chiếu đèn xe vào mặt Minh nên có xảy ra cự cãi nhau. Vinh thấy Hải

bước xuống xe cãi nhau với Minh nên Vinh chạy đến can ngăn thì bị Hải đánh trúng

vào người, do đau nên Vinh chạy lại xe lấy cây dao hai lưỡi bằng Inox (loại dao gọt

trái cây) có sẵn trên xe chạy lại đâm sau lưng và phía trước người Hải nhiều nhát

gây thương tích 14%. Như vậy có thể thấy rằng: Xuất phát từ việc Minh và Hải cự

cãi dẫn đến đánh nhau, Vinh đến can ngăn thì bị Hải đánh trúng vào người. Lúc

này, Vinh có thể nhờ người khác đến can ngăn tiếp hoặc trình báo với chính quyền

địa phương, nhưng chỉ vì nóng tính, vì muốn đánh người đã xúc phạm bạn mình nên

Vinh đã có hành động thiếu suy nghĩ, đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người anh

Hải để thỏa mãn sự nóng giận nhất thời. Hành vi của bị cáo không chỉ gây thương

tích cho anh Hải, mà còn thể hiện sự xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến

an ninh trật tự xã hội.

2.3.1.4. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế, xã hội vĩ mô

Môi trường xã hội có tác động không nhỏ trong việc hình thành và phát triển

nhân cách của người phạm tội. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế, xã hội vĩ

mô có thể kể ra là:

Một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về trách

nhiệm trong phòng chống tội phạm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, chưa

coi công tác này là nhiệm vụ của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cơ quan mà vẫn còn tư

tưởng khoán trắng cho lực lượng chức năng, để cho đến khi tội phạm xảy ra rồi mới

chuyển cho các cơ quan tư pháp xử lý; các giải pháp phòng ngừa xã hội, biện pháp

kinh tế, giáo dục chưa được phối hợp chặt chẽ nên việc giải quyết các nguyên nhân,

điều kiện phát sinh phạm tội còn hạn chế; công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa, cải

tạo người phạm tội, người vi phạm pháp luật tại gia đình và cộng đồng dân cư hiệu

50

quả còn thấp; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc tạo công ăn việc làm,

ổn định cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng hiệu quả chưa cao, trong đó vai trò

của tổ chức đoàn thanh niên chưa thật sự phát huy hiệu quả, thiếu sự phối hợp với

lực lượng Công an trên địa bàn để điều tra, nắm bắt tình hình, phân loại đối tượng

thanh niên để kết hợp với gia đình có biện pháp động viên, giáo dục, quản lý phù

hợp.

Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các lực lượng chức năng

vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót nhất định, như: Công tác vận động quần

chúng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự chưa thường xuyên, liên tục; nội dung, hình

thức chưa được chú trọng, đổi mới nên chưa thực sự phát huy được sức mạnh tổng

hợp của cả hệ thống chính trị và tinh thần tự giác của quần chúng nhân dân trong

công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Các biện pháp phòng ngừa xã hội hiệu quả còn

thấp, nhất là trong việc nắm và giải quyết các mâu thuẫn xã hội...

Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu

quả giáo dục chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu tăng cường hiệu lực pháp luật

trong đời sống xã hội. Trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ

người dân còn hạn chế. Niềm tin của Nhân dân đối với pháp luật chưa thực sự rõ

nét. Nhiều người dân có biểu hiện hoặc là coi thường pháp luật, hoặc là chưa thực

sự tin tưởng vào sự công bằng, vào lẽ phải, vào sự công minh của pháp luật. Việc

thực hiện pháp luật của Nhân dân chưa đầy đủ, chưa nghiêm minh và triệt để. Hành

vi vi phạm pháp luật còn phổ biến.

Công tác quản lý cư trú còn nhiều hạn chế. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật về cư trú chưa thường xuyên, một bộ phận người dân chưa nhận thức

đầy đủ, chưa chấp hành nghiêm túc các quy định của Luật Cư trú và các văn bản

hướng dẫn thi hành; Công tác phối hợp trao đổi thông tin về nhân, hộ khẩu tại Công

an các địa phương chưa được chặt chẽ, đồng bộ; Công tác nắm bắt tình hình biến

động nhân, hộ khẩu và việc bổ sung, củng cố, bảo quản, khai thác, sử dụng hồ sơ,

tài liệu hộ khẩu ở một số đơn vị chưa thường xuyên, kịp thời, đã ảnh hưởng đến

chất lượng công tác thu nhận thông tin dân cư.

51

Công tác quản lý, giáo dục đối tượng tại xã, phường, thị trấn còn tồn tại

nhiều hạn chế như việc thực hiện biện pháp quản lý, giáo dục ở một số nơi vẫn còn

mang tính hình thức, hiệu quả công tác chưa đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Số

đối tượng trong thời gian áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn tiếp

tục có hành vi vi phạm bị xử lý chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Lực lượng Công an cơ sở

chưa thực hiện tốt một số mặt công tác nghiệp vụ phục vụ công tác quản lý, giáo

dục đối tượng.

2.3.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội

Bên cạnh những yếu tố khách quan thuộc về môi trường sống như đã trình

bày ở phần trên, cũng cần phải phân tích làm rõ những yếu tố chủ quan của người

phạm tội, đó là những yếu tố tiêu cực như sai lệch về sở thích, sai lệch về nhu cầu

và cách thức thỏa mãn nhu cầu, những hạn chế thuộc về ý thức pháp luật cá nhân,

hạn chế trong năng lực trí tuệ.

2.3.2.1. Sự coi thường các giá trị về đạo đức, pháp luật

Hiện nay với sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, sự xâm nhập các

thói hư tật xấu đã dẫn đến mối quan hệ giữa người với người lỏng lẻo, vô cảm.

Nhiều người hiện nay ra đường không biết kiểm soát, làm chủ hành vi, quản lý cảm

xúc mà thay vào đó là sự ngông cuồng, hiếu chiến, sẵn sàng dùng hung khí với

người khác. Chỉ cần một va chạm nhẹ là “động thủ”, là dùng bạo lực, là sẵn sàng đe

dọa, chiếm đoạt tính mạng của người khác. Họ coi thường các giá trị truyền thống

tốt đẹp của dân tộc, coi thường các quy định của pháp luật. Điển hình như vụ án:

Khoảng 7 giờ, ngày 07/7/2015, tại quán cà phê Điểm hẹn ở khu phố 5, thị trấn Tân

Sơn, huyện Ninh Sơn, trong lúc uống cà phê thì giữa anh Nguyễn Bá Tiến và anh

Nguyễn Khắc Tâm xảy ra mâu thuẫn, Tâm đã dùng tay tát vào mặt và đạp vào

người làm anh Tiến đang ngồi trên ghế bị ngã xuống nền đất. Sau khi được can

ngăn nên cả hai đi về nhà. Trên đường về, từ phía sau anh Tâm dùng tay đánh nhẹ

vào đầu Tiến. Lúc đó Tiến tức anh Tâm nên nói: “Tao chém chết mày bây giờ”,

Tâm nói lại “Có giỏi vào nhà tao mà chém”. Sau đó, Tiến đi xe máy về nhà lấy 01

cây kiếm, đi bộ đến nhà anh Tâm. Khi đến sân nhà anh Tâm, thì ông Hải (bố của

52

Tâm) ra căn ngăn. Tiến cầm kiếm trên tay, lách người qua người ông Hải, chém một

nhát vào người anh Tâm, anh Tâm giơ tay phải lên đỡ nên trúng vào cổ tay phải,

gây tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích tại thời điểm giám định là 24% (trích bản

án hình sự sơ thẩm số 23/2016/HSST ngày 25/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện

Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận). Như vậy có thể thấy rằng, chỉ vì một mâu thuẫn cá

nhân nhỏ trong sinh hoạt, không được giải quyết dứt điểm giữa bị hại và đối tượng

phạm tội. Họ bí bách trong cách giải quyết mâu thuẫn, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, sự

hiếu thắng giữa những thanh niên... họ sẵn sàng dùng vũ lực để phạm tội, gây

thương tích cho đối phương.

2.3.2.2. Sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức

Thời gian vừa qua, lối sống buông thả, ích kỷ, thiếu lý tưởng... ở một bộ

phận người dân, đặc biệt là giới trẻ dường như không còn là hiện tượng cá biệt. Đây

là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự gia tăng tội phạm. Tình trạng các

đối tượng nam, nữ còn trẻ ngang nhiên có những hành động thiếu văn hóa tại địa

điểm công cộng như rạp chiếu phim, xe buýt, công viên... Sự lệch chuẩn, xuống

cấp, suy thoái về đạo đức đã khiến một bộ phận giới trẻ có hành xử kém văn hóa,

phản cảm, gây bức xúc trong cộng đồng. Họ không biết tôn trọng người khác,

không ý thức được các quy tắc ứng xử trong cộng đồng, có những thanh niên dù ý

thức rõ nhưng vì thích chơi trội, muốn thể hiện “đẳng cấp” nên đã bất chấp tất cả,

sẵn sàng lựa chọn cách hành xử tùy tiện, phản văn hóa miễn là đạt được mục đích.

Điển hình như vụ án: Vào ngày 20/8/2017, Đinh Quốc Toàn điều khiển xe gắn máy

ngang qua tiệm cắt tóc của anh Châu Anh Vũ thì có hành vi nẹt pô xe, gây mất trật

tự nên một số người dân có lên tiếng nhắc nhở (không rõ ai) nhưng Toàn nghĩ là

anh Vũ nói mình. Do đó, khoảng 15 giờ, ngày 21/8/2017 sau khi nhậu cùng bạn thì

Toàn về nhà trọ lấy 01 con dao nhọn dài khoảng 15cm, lưỡi bằng kim loại màu

trắng, cán bằng gỗ màu vàng, bỏ vào túi quần bên trái và điều khiển xe mô tô hiệu

Wave (không rõ biển số, do mượn của người khác từ trước) đi đến tiệm cắt tóc của

anh Vũ tại khu phố 5, phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Khi

đến tiệm cắt tóc, thấy anh Vũ và chị Nguyễn Thị Phương đang ngồi trong tiệm,

53

Toàn đi vào trong hỏi ai là chủ tiệm, anh Vũ trả lời là chủ tiệm thì Toàn chửi rồi

xông tới dùng tay không đánh vào người anh Vũ nhưng không trúng, anh Vũ xô

Toàn ra và đóng cửa tiệm lại. Toàn tiếp tục dùng tay rút dao từ trong túi quần ra,

cầm dao bằng tay phải, đẩy cửa xông vào thì anh Vũ cầm cây đèn bằng kim loại

(hay dùng để soi lấy ráy tai cho khách) cản lại và đánh 01 cái trúng vào mặt Toàn

gây trầy xước rồi anh Vũ bỏ chạy ra ngoài thì bị vướng chân vào bậc thềm cửa tiệm

và ngã xuống đất. Toàn liền xông tới đâm anh Vũ 06 nhát trúng vào phần ngực và

mông gây thương tích 14% (trích bản án hình sự sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày

13/01/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh

Thuận).

2.3.2.3 Hạn chế trong nhận thức pháp luật của cá nhân

Khi đời sống người dân ngày càng được nâng cao thì trình độ nhận thức nói

chung và nhận thức về pháp luật nói riêng cũng được nâng lên. Tuy nhiên, trình độ

nhận thức pháp luật cá nhân của một bộ phận không nhỏ người dân, nhất là ở vùng

nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế. Từ đó dẫn đến việc một số người

dân hành xử chưa theo đúng quy định của pháp luật. Điển hình như vụ án: Khoảng

09 giờ ngày 27/01/2018, tại khu vực cổng số 01 chợ Phan Rang thuộc khu phố 5,

phường Kinh Dinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xảy ra vụ xô xát đánh nhau

giữa anh Huỳnh Minh Hồng và ông Võ Văn Tân. Thấy vậy, bà Hứa Thị Xuân (mẹ

ruột của anh Hồng) và Ngô Thị Biên (họ hàng của ông Tân) đi ra can ngăn thì xảy

ra mâu thuẫn, sẵn có ca nước trà nóng đang cầm trên tay nên Ngô Thị Biên tạt vào

người bà Xuân. Hậu quả làm bà Xuân bị bỏng ở vùng tay trái, cổ, vai trái nên phải

đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận. Tại Bản kết luận giám định

pháp y về thương tích số: 33/TgT ngày 10/4/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Ninh

Thuận kết luận: Sức khỏe bà Xuân bị suy giảm do thương tích gây là 13% (trích

bản án hình sự sơ thẩm số 49/2018/HSST ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân

thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận). Như vậy, chỉ vì do sự nóng

giận của bản thân khi giải quyết mâu thuẫn cá nhân, thiếu hiểu biết quy định của

pháp luật, mà bà Biên đã có hành vi vi phạm pháp luật.

54

2.3.2.4. Tâm lý thích sử dụng bạo lực

Ngày nay, với việc tiếp xúc quá sớm với mạng internet, các trang mạng xã

hội, những game bạo lực khiến “người trẻ” hình thành nên tính cách mang hơi

hướng bạo lực, hoặc từ nguyên nhân ảnh hưởng của những gia đình không hòa

thuận, cha mẹ thường xuyên cãi vã, đánh đập khiến “người trẻ” cảm thấy việc sử

dụng bạo lực để giải quyết vấn đề là một việc quá đỗi bình thường. Điển hình như:

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 25/2017/HSST ngày 30/11/2017 của Tòa án nhân dân

huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Rờ, sinh năm

1990, nơi cư trú: Thôn K1, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận 15 (mười

lăm) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 13/5/2017, sau khi nhậu, Nguyễn Văn Rờ đến bãi dương lấy

một bao màu đỏ bên trong có 03 cây mã tấu tự chế rồi rủ Trần Văn, Nguyễn Thành

Quy về quán Karaoke 79 ở thôn K2, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn do bà Trương Thị

Ngọc Linh (mẹ của Rờ) làm chủ để nhậu tiếp. Trên đường về, Quy và Văn hỏi Rờ

mang theo mã tấu đến quán làm gì thì Rờ nói “Dạo này quán Karaoke lộn xộn, có

nhiều khách đến quán hát kiếm cớ quậy phá không trả tiền nên đem mã tấu về quán

nếu có trường hợp như vậy thì chém”. Rờ để ba cây mã tấu trong bao màu đỏ dưới

gầm giường của phòng ngủ bà Linh rồi cùng Văn, Quy ngồi nhậu bên hông quán.

Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, Rờ, Văn và Quy không nhậu nữa, ngồi ở ghế

Salon gần phòng VIP2 thì thấy Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Văn Út, Nguyễn Công

Hạnh, Lê Tấn Cảnh, Lê Tấn Toàn từ phòng Karaoke số 1 ra tính tiền. Thấy nhóm

Toàn tính tiền lâu, khó ưa nên Rờ vào phòng lấy mã tấu mà Rờ đã cất giấu trước đó

để chém nhóm Toàn. Rờ vào phòng ngủ bà Linh lấy 01 cây mã tấu chạy ra trước,

chém vào người anh Út, Út tránh được nên Rờ quay sang chém Toàn một nhát,

Toàn đưa tay lên đỡ thì bị chém trúng bàn tay. Tại bản giám định pháp y về thương

tích số 70/TgT ngày 06/6/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Ninh Thuận đối với anh

Nguyễn Văn Toàn, kết luận: Sức khỏe anh Toàn bị suy giảm do thương tích gây nên

là 16%.

55

Kết luận chương 2

Ở chương 2 của luận văn, tác giả đã tập trung phân tích làm rõ các đặc điểm

của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn 2014 - 2018, cũng như

những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đó là những yếu tố tiêu cực

thuộc về môi trường xã hội, môi trường gia đình, nhà trường… đã tác động một

cách trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, nhân thân người phạm tội.

Những đặc điểm đã phân tích như trên sẽ làm cơ sở để tác giả đi sâu vào việc

nghiên cứu, đưa ra những dự báo, tìm ra những giải pháp phòng ngừa tình hình tội

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa

bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía cạnh nhân thân người phạm tội trong thời gian tới sẽ

được trình bày tại chương 3 của luận văn.

56

Chương 3

DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH NINH THUẬN TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN

3.1. Dự báo tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, đặc điểm nhân thân của người phạm tội và các yếu tố tác

động đến việc hình thành đặc điểm tiêu cực của người phạm tội trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận

Dự báo tình hình tội phạm là sự phán đoán về thực trạng, diễn biến, tính chất

của tình hình tội phạm có thể xảy ra trong tương lai, về các nguyên nhân và điều

kiện, về các khả năng phòng, chống nó trong từng giai đoạn nhất định và việc đánh

giá về chất và lượng của những thay đổi trong tình hình tội phạm, các nguyên nhân

và điều kiện của nó [30, tr.171].

Như vậy có thể hiểu rằng, dự báo tình hình tội phạm là sự phán đoán, mô tả

nhận định về tình hình tội phạm trong một phạm vi không gian nhất định, trong

những khoảng thời gian nhất định về thực trạng, về cơ cấu, động thái, về tính chất

của tình trạng phạm tội cũng như những nguyên nhân, điều kiện chi phối, ảnh

hưởng đến tình hình tội phạm. Từ những dự báo này, giúp cho cơ quan chức năng

có phương hướng đề ra kế hoạch phòng ngừa và đấu tranh cho phù hợp.

Dự báo tình hình tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong công

tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Thông qua dự báo, giúp cho các cơ quan chức

năng nắm rõ các thông tin về mức độ, diễn biến, cơ cấu của tình hình tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận, để từ đó xây dựng nên các chính sách phòng ngừa tội phạm cho phù

hợp.

3.1.1. Cơ sở khoa học của dự báo

57

Trong thời gian tới, tình hình chính trị, kinh tế thế giới, khu vực tiếp tục diễn

biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định khó lường. Dự báo trong thời

gian tới, các loại tội phạm và tệ nạn xã hội trên địa bàn cả nước nói chung và tỉnh

Ninh Thuận nói riêng sẽ gia tăng và diễn biến phức tạp hơn.

Ở tỉnh Ninh Thuận, ngày 22/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

Quyết định số 1222/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh

tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận đến năm 2020. Trong đó đã xác định: Xây dựng Ninh

Thuận trở thành điểm đến của Việt Nam trong tương lai; phát triển theo mô hình

“tăng trưởng kinh tế gia tốc” dựa trên 4 giải pháp trụ cột là nâng cao năng lực cạnh

tranh, cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng, phát triển thương hiệu và tăng cường năng

lực, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy các cơ quan hành chính Nhà nước của

tỉnh. Thực hiện tầm nhìn chiến lược này, thời gian qua, dưới sự chỉ đạo, điều hành

của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh bằng những chương trình, công tác trọng tâm,

nhiệm vụ đột phá; sự quyết tâm, nỗ lực, vượt khó của các cấp, các ngành, địa

phương, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh

tiếp tục duy trì ổn định và có chuyển biến tích cực toàn diện. Nhiều chỉ tiêu phát

triển kinh tế đạt và vượt kế hoạch đề ra; nhiều công trình trọng điểm về phát triển

đô thị, hạ tầng giao thông, thủy lợi đang được triển khai; làn sóng đầu tư mới vào

các nhóm ngành trụ cột về năng lượng tái tạo, kinh tế biển, du lịch… đã góp phần

tạo nên nhiều gam màu sáng trong bức tranh kinh tế tỉnh nhà, tạo đà tiếp tục tăng

trưởng cho những năm tiếp theo.

Cùng với sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, tình hình an ninh trật tự trên

địa bàn tỉnh Ninh Thuận tiếp tục diễn biến phức tạp, trong đó tội phạm cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ có chiều hướng gia

tăng, số vụ án xảy ra do mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân, trong gia đình, trong

quan hệ xã hội, tranh chấp dân sự... vẫn sẽ ở mức cao. Xu hướng các đối tượng

trong băng, ổ nhóm tội phạm hình sự gây án nhiều hơn, có tổ chức, phân công vai

trò của từng đối tượng chặt chẽ hơn trong hoạt động phạm tội, hoạt động can dự vào

các lĩnh vực kinh tế, núp bóng doanh nghiệp, chúng sẵn sàng gây án để trả thù nhau,

58

thanh toán lẫn nhau, tạo thanh thế, cạnh tranh địa bàn làm ăn, bảo kê ... Các đối

tượng sử dụng ma túy, rượu bia gây án ngày càng nhiều, gây hậu quả nghiêm trọng

cho xã hội. Cùng với đó là sẽ xuất hiện các đối tượng thuê gây thương tích, gây

thương tích thuê với phương thức tinh vi, xảo quyệt; khi gây án xong, các đối tượng

xóa dấu vết, dựng hiện trường giả, tiêu hủy vật chứng để che dấu hành vi phạm

tội, nhằm đánh lạc hướng, đối phó với cơ quan điều tra, thậm chí còn có hành vi đe

dọa, khống chế, mua chuộc người bị hại, nhân chứng từ chối khai báo, từ chối giám

định, rút yêu cầu đề nghị xử lý khai báo gian dối và không hợp tác cung cấp thông

tin, tài liệu cho cơ quan điều tra... Tính chất, mức độ, phương thức, thủ đoạn hoạt

động của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác sẽ ngày càng côn đồ, hung hãn, manh động và tinh vi hơn; hậu quả, thiệt hại

để lại cho xã hội ngày càng nặng nề, to lớn. Khi thực hiện tội phạm, các đối tượng

sẽ sử dụng vũ khí nóng, vũ khí, hung khí nguy hiểm có thể gây chết người ngay

hoặc gây thương tích, cố tật nặng cho nhiều người khác như: Bom, mìn tự chế, súng

quân dụng, súng tự chế, thuốc độc, dao, kiếm, mã tấu…

Công tác quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận vẫn còn nhiều sơ

hở. Sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền cơ sở trong công tác phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác nói riêng chưa quyết liệt nên chưa huy động được sức

mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và quần chúng Nhân dân vào cuộc tham

gia tích cực. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật chưa mang lại hiệu

quả thiết thực như mong muốn. Nhiều văn bản pháp luật ban hành đã có hiệu lực

nhưng chưa được triển khai kịp thời, chưa có hướng dẫn cụ thể nên chưa tác động

mạnh mẽ đến ý thức chấp hành pháp luật của đông đảo quần chúng Nhân dân. Ý

thức xã hội, ý thức pháp luật của quần chúng Nhân dân còn nhiều hạn chế. Trong

khi đó sự ảnh hưởng của phim ảnh bạo lực, mạng Internet đã tác động đến xu hướng

bạo lực trong giới trẻ ngày càng rõ nét. Chế tài xử lý hành chính, hình sự đối với

những hành vi vi phạm về trật tự an toàn xã hội chưa nghiêm minh, còn nhiều hạn

chế bất cập, chưa phù hợp, còn mang nặng tính giáo dục, đạo đức, phê bình, cảnh

59

cáo mà thiếu sự trừng trị nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe, cưỡng chế, nhất là đối

với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Vai trò

của các tổ chức hòa giải ở địa bàn cơ sở hoạt động còn hạn chế, cầm chừng, hiệu

quả chưa cao, nhất là trong việc phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ

quần chúng Nhân dân chưa kịp thời, không triệt để dẫn đến mâu thuẫn âm ỉ, kéo dài

và bùng phát thành xung đột lớn. Tình trạng lạm dụng, sử dụng chất kích thích còn

phổ biến, nhất là lạm dụng rượu bia, sử dụng ma túy tổng hợp dạng “đá” đã và đang

tác động xấu đến một bộ phận Nhân dân, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên, học

sinh, sinh viên…

Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật đã tích cực quan tâm chỉ đạo phòng

ngừa, đấu tranh nhưng tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh vẫn đang diễn ra rất

phức tạp với tính chất mức độ ngày càng nguy hiểm và hậu quả thiệt hại ngày càng

nghiêm trọng. Các lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống tội phạm chưa

làm tốt công tác nắm tình hình để phát hiện kịp thời các đối tượng có nguy cơ phạm

tội để từ đó tham mưu và đề ra các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh xử

lý; chưa phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương để

có biện pháp răn đe, giáo dục thích hợp đối với số đối tượng có biểu hiện hoạt động

phạm tội; chưa giải quyết kịp thời, hóa giải các mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân

ngay từ khi mới nảy sinh, từ những mâu thuẫn nhỏ. Kết quả xử lý các đối tượng

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn

hạn chế, nhiều đối tượng gây ra các vụ án, hậu quả rất nghiêm trọng mang tính

chất côn đồ, hung hãn, hoạt động chuyên nghiệp nhưng chưa bị xử lý hoặc xử lý

chưa nghiêm, không đủ sức răn đe, phòng ngừa tội phạm.

3.1.2. Nội dung của dự báo

3.1.2.1. Về mức độ, diễn biến cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Trong những năm tới, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác sẽ luôn vận động và có xu hướng gia tăng, diễn

60

biến phức tạp hơn. Tỉ lệ tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác vẫn sẽ ở mức cao trong cơ cấu tội phạm chung. Tính chất, mức

độ, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác ngày càng côn đồ, hung hãn, manh động và

tinh vi hơn; hậu quả, thiệt hại để lại cho xã hội ngày càng nặng nề, to lớn.

3.1.2.2. Về đặc điểm của nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

- Các đặc điểm xã hội - nhân khẩu:

Về độ tuổi: Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác sẽ tiếp tục thuộc nhóm tuổi từ 18 đến 30 tuổi; tuy nhiên cũng

cần lưu ý đến nhóm tuổi dưới 18 tuổi.

Về giới tính: Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh sẽ tập trung chủ yếu ở đối tượng nam giới.

Tuy nhiên cũng cần có sự quan tâm, lưu ý đến các đối tượng là nữ giới.

Về trình độ học vấn: Người phạm tội trong thời gian tới sẽ chủ yếu thuộc đối

tượng có trình độ học vấn thấp, hầu hết có trình độ từ cấp 2 trở xuống, số đối tượng

có trình độ từ cấp 3 đến Trung cấp, Cao đẳng, Đại học chiếm tỷ lệ ít hơn.

Về nghề nghiệp: Trong thời gian tới người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chủ yếu là các đối tượng không nghề

nghiệp, lao động tự do.

Về hoàn cảnh gia đình: Người phạm tội thường là các đối tượng thiếu sự

quan tâm, giáo dục của gia đình hoặc sinh sống trong gia đình có thành viên vi

phạm pháp luật.

Về nơi cư trú: Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác vẫn chủ yếu là các đối tượng có hộ khẩu thường trú tại địa

phương. Số đối tượng ngoài tỉnh đến địa bàn Ninh Thuận phạm tội sẽ có nhưng

chiếm tỷ lệ rất ít.

- Các đặc điểm đạo đức, tâm lý: Người phạm tội đa số vẫn là những người có

đặc điểm tâm lý tiêu cực, thích giải quyết mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn trong cuộc

61

sống bằng bạo lực; hoặc là những người do thiếu kiềm chế sau khi sử dụng các chất

kích thích như rượu, bia…. Do đó cần quan tâm chú ý đến các vụ án cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra do mâu thuẫn cá

nhân bột phát nhất thời (mâu thuẫn trong sinh hoạt, cuộc sống, tham gia giao thông,

sinh nhật, đám cưới, tiệc liên hoan...), bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến những

mâu thuẫn thù tức từ các băng, ổ nhóm tội phạm hoạt động trên địa bàn trả thù lẫn

nhau, gây thương tích để tranh dành địa bàn kinh doanh, làm ăn…

- Các đặc điểm pháp lý hình sự: Người phạm tội đa số vẫn là người phạm tội

lần đầu, phạm tội đơn lẻ, tỷ lệ các vụ án có tính chất đồng phạm ít. Các đối tượng

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phần

lớn không nằm trong diện quản lý nghiệp vụ của lực lượng Công an.

3.1.2.3. Về các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Hiện nay Ninh Thuận vẫn còn là tỉnh khó khăn chung so với cả nước, kết cấu

hạ tầng còn yếu kém và thiếu đồng bộ, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu

phát triển của tỉnh. Quá trình phát triển về kinh tế - xã hội đã đem lại không ít thách

thức và tiêu cực, như sự phân hoá giàu nghèo, sự đụng độ giữa văn hoá bản địa và

văn hoá ngoại nhập, sự gia tăng của các loại tệ nạn xã hội... Một khi tế bào gia đình

đã bị các tệ nạn xã hội xâm nhập vào thì tất yếu sẽ dẫn đến chuyện vợ chồng lục

đục, kinh tế gia đình trở nên khó khăn. Từ đó, những mâu thuẫn, xích mích giữa vợ

với chồng trong gia đình sẽ nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt; đỉnh điểm của

những hành vi này là tình trạng bạo hành, dẫn đến tình trạng ly hôn, gia đình khiếm

khuyết… Bên cạnh đó, việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, thu hồi đất làm dự án phát

triển kinh tế - xã hội đã gây ra tình trạng khiếu nại, tranh chấp, tố cáo liên quan đến

đất đai nhiều, phức tạp và kéo dài tiềm ẩn những bức xúc và bất ổn trong xã hội.

Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến khiếu nại, tố cáo kéo dài, gay gắt của người dân

và làm mất niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật, cơ quan nhà nước, từ đó

có thể dẫn đến các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác để giải quyết mâu thuẫn.

62

Tóm lại, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới vẫn có những

diễn biến phức tạp, số vụ án xảy ra hàng năm sẽ không giảm, làm ảnh hưởng xấu

đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Tuy nhiên trong từng thời điểm, ở từng

địa bàn cụ thể sẽ có những diễn biến khác nhau. Nắm được điều này để các cơ quan

chức năng chủ động đề ra các hoạt động phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đạt hiệu quả hơn.

3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía

cạnh nhân thân người phạm tội

Để phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, chúng ta cần tập trung vào việc hạn

chế rồi tiến dần đến thủ tiêu những hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân và

điều kiện của tội phạm. Để phòng ngừa tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong thời gian

tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:

3.2.1. Tăng cường khai thác các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu; đạo

đức, tâm lý và đặc điểm về pháp lý hình sự của nhân thân người phạm tội

Trên cơ sở kết quả phân tích ở chương 2, có thể thấy rằng những yếu tố về

mặt xã hội - nhân khẩu; đạo đức, tâm lý và đặc điểm về pháp lý hình sự của người

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ảnh

hưởng hết sức sâu sắc đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân của người phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do đó, để

phòng ngừa có hiệu quả tội phạm này, chúng ta cần phải tăng cường khai thác các

đặc điểm nhân thân, cụ thể như sau:

Thứ nhất, đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu:

Cần chú ý đến các đối tượng là nam giới vì đây là đối tượng chiếm tỷ lệ cao

trong tỷ lệ người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác; cần có nhiều giải pháp, việc làm cụ thể để giải quyết các vấn đề như

thất nghiệp, thiếu việc làm, giải quyết các ảnh hưởng đối với lao động không có tay

63

nghề mà số đông là nam giới. Bên cạnh đó cũng cần chú ý đến đối tượng phạm tội

là nữ giới, trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án có bị can, bị cáo là phụ

nữ, cần thiết phải có người tiến hành tố tụng là nữ giới để có cái nhìn khách quan, từ

đó có thể chia sẻ, đánh giá đúng bản chất vụ việc để rồi có biện pháp xử lý phù hợp,

thể hiện được tính giáo dục, phòng ngừa là chính, nhất là đối với các trường hợp vì

hoàn cảnh mà dẫn đến phạm tội.

Cần quan tâm đến những người trong độ tuổi dưới 18 và những người từ 18

đến 30 tuổi, những người không có nghề nghiệp ổn định, người có trình độ học vấn

thấp, người sống trong gia đình không hạnh phúc, khiếm khuyết... Cần tuyên truyền

pháp luật sâu rộng đến người chưa thành niên, thanh niên, đặc biệt là tầng lớp học

sinh, sinh viên để qua đó nhằm nâng cao sự nhận thức, hiểu biết của người dân đối

với pháp luật. Mỗi gia đình phải nêu cao trách nhiệm đối với con cái để tránh tình

trạng hụt hẫng, buông lõng, thiếu sự quản lý, giáo dục, chăm sóc của cha mẹ dẫn

đến con cái mất phương hướng, lang thang và phạm tội. Nhà nước tăng cường quản

lý chặt chẽ các lĩnh vực nhạy cảm như văn hóa, công nghệ thông tin (Internet)... Có

chính sách ưu tiên dạy nghề, tạo công ăn việc làm cho những người chưa thành niên

lang thang, không gia đình để khi bước vào đời họ có một nghề tự nuôi sống bản

thân. Nhà nước cần đầu tư thêm nhiều khu vui chơi cho cộng đồng trong đó có

người chưa thành niên như công viên, các câu lạc bộ…

Thứ hai, đặc điểm về đạo đức - tâm lý:

Qua nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận cho thấy, nguyên nhân của các vụ án

chủ yếu là do các đối tượng trước khi gây án thường sử dụng chất kích thích như

rượu bia và có cả ma tuý, dẫn đến tính bộc phát, manh động, liều lĩnh của tội phạm

ngày càng cao. Vì thế, cần có biện pháp tuyên truyền các giá trị truyền thống tốt đẹp

của dân tộc, nhân rộng, làm lan tỏa mạnh mẽ những tấm gương biết sống vì cộng

đồng, tinh thần sẵn sàng yêu thương giúp đỡ lẫn nhau; tuyên truyền tác hại của việc

sử dụng các chất kích thích, ma tuý, rượu, bia ... để Nhân dân lên án, cảnh giác, tự

mình có ý thức phòng ngừa. Loại trừ các tệ nạn xã hội, những ảnh hưởng tiêu cực từ

64

lối sống tự do, kiểm soát tốt, sàng lọc để ngăn chặn ngay từ đầu sự du nhập các loại

sách báo, phim ảnh, đồ chơi mang tính bạo lực, tuyên truyền cho lối sống buông thả

có thể phá hoại những giá trị đạo đức truyền thống, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá

trình giáo dục nhân cách sống cho nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên.

Thứ ba, đặc điểm về pháp lý hình sự:

Kết quả nghiên cứu ở chương 2 cho thấy, động cơ, mục đích của các vụ án cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chủ yếu là do mâu

thuẫn trong đời sống sinh hoạt, đối tượng phạm tội đa số là người phạm tội lần đầu.

Vì vậy trong thời gian tới, các ban, ngành, đoàn thể cần phải phối hợp chặt chẽ với

lực lượng Công an trong việc xây dựng các mô hình tổ tự quản phòng, chống tội

phạm, xây dựng gia đình văn hóa, các tổ hòa giải của các cơ quan, xí nghiệp, tổ chức

xã hội, mặt trận đoàn thể... kịp thời giải quyết những mâu thuẫn nhỏ trong nội bộ

Nhân dân, không để từ mâu thuẫn nhỏ trở thành những mâu thuẫn lớn phát sinh tội

phạm. Tuyên truyền ý thức tôn trọng pháp luật, tự giải quyết triệt để các mâu thuẫn,

tranh chấp trong nội bộ ngay từ cơ sở, lấy đạo đức, văn hóa ứng xử lịch thiệp và tính

mạng con người làm trọng; kiên quyết không giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực. Lực

lượng Công an cơ sở cần chủ động nắm tình hình, thông qua các biện pháp nghiệp vụ,

phối hợp với cơ quan Toà án, Trung tâm hoà giải, tổ hoà giải... để phối hợp với các

ban ngành, đoàn thể ở địa phương tổ chức ngay việc hoà giải, không để mâu thuẫn

kéo dài, phát sinh thành tội phạm, đồng thời có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn

không để tội phạm xảy ra…

Tóm lại, việc nghiên cứu, khai thác đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhằm làm sáng tỏ

nguyên nhân thực hiện hành vi phạm tội thông qua sự tác động để hình thành phẩm

chất tâm lý tiêu cực; áp dụng các biện pháp cải tạo, giáo dục phù hợp đối với người

phạm tội để phòng ngừa tái phạm. Qua việc nghiên cứu này sẽ rút ra được những

nguyên nhân tiêu cực cơ bản, nhằm thiết lập các biện pháp tối ưu trong hoạt động

phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

65

3.2.2. Hạn chế tác động tiêu cực từ môi trường gia đình

Cần tập trung giải quyết các vấn đề liên quan đến tội phạm phát sinh từ yếu

tố gia đình:

Đối với tác động từ gia đình không hoàn thiện: Cần đẩy mạnh các hoạt động

truyền thông về xây dựng gia đình, đặc biệt, chú trọng đến truyền thông, giáo dục

đời sống gia đình nhằm cung cấp cho các thành viên trong gia đình những kiến

thức, kinh nghiệm, giúp cho các thành viên trong gia đình xây dựng mối quan hệ

tương hỗ, thân thiện, gần gũi hơn. Bên cạnh đó, các cặp vợ chồng cần nhận thức vai

trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong xây dựng gia đình, biết yêu thương, lắng nghe

và chia sẻ, biết tôn trọng, nhường nhịn nhau. Khi có mâu thuẫn, xung đột xảy ra cần

bình tĩnh, khéo léo giải quyết các vấn đề.

Đối với tác động từ yếu tố gia đình không hòa thuận, thường xuyên cãi vã,

đánh nhau:

Cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền Luật Phòng chống

bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới, tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng

và nhà nước về an sinh xã hội thông qua tivi, đài, báo, tạp chí, các tờ rơi, tờ gấp, loa

truyền thanh...

Việc tuyên truyền giáo dục cần phải được kết hợp với truyền thống văn hóa,

phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Cần đẩy mạnh thực hiện phong trào xây

dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh; đưa tiêu chí không có bạo lực gia đình,

không lạm dụng rượu bia, không có tệ nạn cờ bạc, ma tuý để xét công nhận gia đình

văn hóa.

Đối với tác động từ yếu tố gia đình có người vi phạm pháp luật: Chính

quyền các cấp phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao kiến thức về tầm

quan trọng của công tác tái hòa nhập cộng đồng đến mọi tầng lớp Nhân dân bằng

nhiều hình thức và nội dung phù hợp để mọi người xóa bỏ thái độ định kiến, kỳ thị

đối với người chấp hành xong án phạt tù, tạo điều kiện giúp đỡ họ ổn định cuộc

sống, góp phần phòng chống tái phạm tội và vi phạm pháp luật. Nhân rộng các mô

hình, điển hình tiên tiến trong công tác quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành

66

xong án phạt tù tái hòa nhập đồng; Khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất

kinh doanh tiếp nhận những người chấp hành xong hình phạt tù vào làm việc trong

các doanh nghiệp, tạo việc làm, hỗ trợ vốn để họ ổn định cuộc sống, sớm hòa nhập

với cộng đồng. Bên cạnh đó, trong mỗi gia đình, những người làm bố, mẹ phải

gương mẫu về đạo đức, lối sống, cách hành xử phải có chuẩn mực, đúng với đường

lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; cần có thời gian hợp lý để chăm sóc, giáo

dục con em mình, phải là chỗ dựa tinh thần cho con em mình và phải thường xuyên

kết hợp chặt chẽ với nhà trường, đoàn thể, chính quyền, cơ quan pháp luật để kịp

thời uốn nắn, giáo dục khi có hành vi vi phạm pháp luật do con em mình gây ra.

Đối với tác động từ yếu tố gia đình có phương pháp giáo dục con chưa đúng

cách: Trước hết, mỗi gia đình phải quan tâm giáo dục đạo đức cho con em mình

ngay từ đầu. Bởi lẽ mọi sự lệch chuẩn về đạo đức đều tiềm ẩn nguy cơ phạm tội sau

này. Giáo dục đạo đức cho các em chính là việc giáo dục những giá trị đạo đức

truyền thống, giáo dục lối sống, giáo dục cách đối nhân xử thế, giáo dục cách sống

tốt đẹp, đúng chuẩn mực. Khi các em đã biết cách sống phù hợp với các chuẩn mực

đạo đức và phong cách sống của xã hội thì sẽ hạn chế được nguy cơ phạm tội. Điều

này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải là những người sống có đạo đức, chuẩn mực,

hiểu biết pháp luật. Không nên áp đặt ý chí chủ quan của mình cho các em, tránh

việc đối xử thô bạo, tàn nhẫn, hà khắc đối với các em. Những cấm đoán thái quá,

những sự đối xử thô bạo đối với các em nếu không được giải tỏa kịp thời sẽ là

những nguyên nhân sinh ra những hành vi phạm tội sau này. Cha mẹ cần biết phát

huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm của con, cần biểu dương những việc tốt của

con trên cơ sở đó khắc phục mặt chưa tốt.

3.2.3. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục

Nhà trường cần chú trọng đổi mới phương pháp giáo dục, chương trình giáo

dục cho phù hợp hơn. Bên cạnh giáo dục chính khóa, cần tăng cường phối hợp tổ

chức đa dạng, phong phú, sáng tạo các hoạt động giáo dục ngoại khóa, ngoài giờ lên

lớp, trải nghiệm sáng tạo, để tạo sân chơi lành mạnh và trí tuệ để thu hút học sinh,

giúp các em có cơ hội và môi trường phát triển những phẩm chất và năng lực bản

67

thân. Chú ý giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp học sinh có thái độ và hành vi tích

cực, có khả năng nhìn nhận vấn đề, giải quyết tình huống theo hướng tích cực, biết

thích nghi với từng hoàn cảnh cụ thể; hình thành lối sống lành mạnh, có đạo đức, có

văn hóa, giao tiếp hiệu quả với mọi đối tượng. Việc giáo dục kỹ năng sống không

chỉ thực hiện trong nhà trường, qua các môn học chính khóa, mà còn phải được thực

hiện kết hợp với nhiều cách khác như: trong sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và

xã hội; bằng nhiều hoạt động trải nghiệm đa dạng, phong phú như: hoạt động văn

hóa, nghệ thuật, hoạt động xã hội, hoạt động ngoại khóa, hoạt động tham quan, dã

ngoại; qua các hoạt động Đoàn, Đội chứng tỏ hiệu quả trong thời gian qua như:

Chương trình “Học làm người có ích”, Chương trình “Một ngày để sống - Sống có

niềm tin”, Chương trình “Một ngày để sống - Sống biết tiết kiệm”…

Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa nhà trường và gia đình học sinh. Nhà

trường cần thiết lập và duy trì mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên giữa nhà trường,

thông qua giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh bằng các

hình thức như gặp gỡ trực tiếp, gọi điện thoại, các buổi họp phụ huynh học sinh…

để thông báo kịp thời cho gia đình về tình hình học tập, rèn luyện và những vấn đề

liên quan đến học sinh cần sự phối hợp của gia đình. Gia đình phải thường xuyên

chủ động nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con em mình, đồng thời cung cấp

thông tin về tình hình học tập ở nhà, diễn biến tâm lý, tình cảm của con em cho nhà

trường… Gia đình cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho con em tham gia các hoạt

động sinh hoạt tập thể. Phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể trong

nhà trường (tổ chức Đoàn, Đội, Hội), của đội ngũ giáo viên; thường xuyên giữ mối

liên lạc với gia đình học sinh, nhất là những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học

sinh cá biệt. Định hướng học sinh nâng cao nhận thức về văn hóa ứng xử trên môi

trường mạng xã hội, yêu cầu các em tham gia các trang mạng xã hội bảo đảm quyền

tự do cá nhân trong giới hạn cho phép, song không được vi phạm các quy định của

pháp luật và quy tắc ứng xử học đường.

Nhà trường cần quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan sư

phạm; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để học sinh rèn đức, luyện tài, đấu

68

tranh chống lại những cái xấu, cái độc hại xâm nhập từ bên ngoài. Chủ động kiến

nghị với chính quyền địa phương trong việc quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa,

các hàng quán xung quanh trường, ngăn chặn văn hóa phẩm độc hại và các tệ nạn

xã hội xâm nhập vào nhà trường, ngăn chặn bạo lực học đường.

3.2.4. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường bạn bè

Gia đình cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng tâm lý, ý chí và phẩm chất

của các em, nhất là người chưa thành niên, dạy con làm những việc lành mạnh,

tham gia các hoạt động tập thể, không cho chúng tụ tập với bạn bè xấu. Muốn như

thế, đòi hỏi các bậc phụ huynh phải biết đặt mình vào vị trí của con, dành thời gian

chơi với con… Làm bạn với con là con đường ngắn nhất và thuận lợi nhất giúp cha

mẹ nuôi dạy con dễ dàng hơn. Con cái có thể dễ dàng chia sẻ những khó khăn và

thắc mắc của chúng và đồng thời vẫn giữ được sự uy nghiêm của cha mẹ để khuyên

răn khi con phạm sai lầm. Cha mẹ nên cố gắng tạo điều kiện cho con tham gia các

hoạt động ngoại khóa bên ngoài như tham quan, vẽ tranh, trồng cây, làm từ thiện…

Những hoạt động này không chỉ tách trẻ khỏi thế giới của mạng xã hội, của game

online… mà còn giúp các em trở nên năng động, trang bị kỹ năng xã hội, làm quen

nhiều bạn bè, giao tiếp tốt, khỏe mạnh hơn.

Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ như hiện nay, việc các

em có thể “làm bạn” với bất kỳ ai trên các trang mạng xã hội cũng là vấn đề mà các

bậc phụ huynh cần quan tâm. Với số lượng người sử dụng ngày càng tăng và trở

thành phương tiện kết nối con người mang tính toàn cầu đã mang lại nhiều mặt tích

cực nhưng cũng không ít phần tiêu cực, đáng lo ngại. Do đó, các bậc phụ huynh hãy

dạy cho con mình chỉ kết bạn với những người mình thực sự biết và tin tưởng.

Không xem những thông tin vô bổ, độc hại và hãy hết sức tỉnh táo, thận trọng khi

tiếp xúc với những người bạn quen biết trên mạng xã hội.

3.2.5. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường kinh tế, xã hội

Thứ nhất, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế

Thời gian đến tỉnh cần tập trung xúc tiến mời gọi các trường đại học, các

trung tâm đào tạo có uy tín, có kinh nghiệm để đầu tư thành lập cơ sở đào tạo tại

69

tỉnh Ninh Thuận đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhằm xây dựng Ninh Thuận thành trung

tâm đào tạo nguồn lao động cho vùng Nam Trung Bộ trên một số lĩnh vực tỉnh có

lợi thế. Có chính sách thu hút các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có dự án

đầu tư quy mô lớn mở các trường đào tạo hoặc liên kết mở các lớp đào tạo để đáp

ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn

tới. Tăng kinh phí đầu tư từ ngân sách tỉnh để đầu tư các cơ sở đào tạo đáp ứng yêu

cầu đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp và các ngành công nghiệp sử dụng

nhiều lao động địa phương ở trình độ thấp, lao động phổ thông. Có chính sách hỗ

trợ tạo điều kiện thuận lợi cho lao động được học nghề nhất là dạy nghề cho nông

dân, khuyến khích các tổ chức cá nhân tham gia dạy nghề, tạo điều kiện thuận lợi

cho lao động sau khi đào tạo tìm kiếm được việc làm. Có chính sách sử dụng và thu

hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ người lao động được đào tạo lại, học

nghề mới, tự tìm kiếm việc làm, đồng thời đẩy nhanh tốc độ đào tạo nguồn nhân lực

tại chỗ phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thứ hai, thực hiện các biện pháp để đảm bảo tốt chính sách an sinh xã hội

Là một địa phương còn nhiều khó khăn ở khu vực Nam Trung Bộ, thời gian

tới, tỉnh Ninh Thuận phải triển khai nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, giúp

các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn có điều kiện

phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập. Cần tập trung đầu tư hạ

tầng thiết yếu về điện, đường, trường, trạm, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường theo

tiêu chí xây dựng nông thôn mới; tích cực nghiên cứu, thực hiện chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, mang lại hiệu quả kinh tế cao...

Tiếp tục nhân rộng, phát triển các mô hình giảm nghèo hiệu quả, gắn công tác giảm

nghèo bền vững với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn

mới nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo. Các địa phương vận động người nghèo chủ động

vươn lên, không trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm hạn chế

số hộ tái nghèo và khuyến khích thoát nghèo bền vững. Tạo điều kiện cho hộ nghèo

được vay vốn ưu đãi; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; tạo điều kiện thuận lợi

70

cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, điện,

nước sinh hoạt, vệ sinh, dịch vụ thông tin…

Chính quyền địa phương phải có chính sách để tạo cho người dân, đặc biệt là

những người trẻ có công ăn, việc làm. Chú trọng thực hiện công tác dạy nghề, công

tác giải quyết việc làm cho người lao động; đề xuất triển khai xúc tiến tổ chức các

Hội nghị tư vấn việc làm, xuất khẩu lao động tại các huyện, thành phố nhằm tiếp tục

triển khai tinh thần chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Chỉ thị 04/CT-TU ngày

23/11/2015 về chỉ đạo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết

việc làm, xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 2020; với mục tiêu

đào tạo nghề phải gắn với giải quyết việc làm, ổn định đời sống người lao động và

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, giới thiệu việc

làm bằng nhiều hình thức tư vấn: trực tiếp, qua điện thoại, trực tuyến qua internet...

để cung cấp cho người lao động những thông tin cần thiết, cập nhật về ngành nghề

đào tạo, nhu cầu sử dụng, tuyển dụng lao động trong và ngoài tỉnh, mở ra cho người

lao động thêm nhiều cơ hội giải quyết việc làm…

Thứ ba, tăng cường công tác quản lý Nhà nước

Tăng cường các biện pháp quản lý cư trú nhằm kịp thời phát hiện các đối

tượng truy nã, trốn thi hành án, đối tượng có nguy cơ cao gây ra các vụ án cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; đối tượng phạm tội

trong các vụ án hình sự để ngăn chặn, bắt xử lý.

Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, phát hiện, ngăn chặn, thu giữ, tiêu hủy, loại bỏ

kịp thời các loại sách báo, đồ chơi, tranh ảnh, băng đĩa hình, game có tính bạo lực,

độc hại, gây ra tác động xấu làm ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách, đặc

biệt là lứa tuổi thanh, thiếu niên.

Quản lý chặt chẽ các cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự như:

Cơ sở lưu trú, dịch vụ cầm đồ, quán Bar, vũ trường, dịch vụ Internet, cơ sở kinh

doanh, sử dụng vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và các cơ sở rèn, hàn, sản xuất vũ khí

thô sơ (dao, kiếm, mác...), không để tội phạm lợi dụng hoạt động phạm tội. Đồng

thời có hình thức, chế tài xử lý nghiêm đối với những cơ sở vi phạm điều kiện về an

71

ninh trật tự trong sản xuất, kinh doanh. Thường xuyên mở các đợt cao điểm thu hồi

vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trong Nhân dân, trọng tâm là vũ khí trong tay đối

tượng hình sự, trong băng nhóm tội phạm, thanh thiếu niên hư, càn quấy.

Tăng cường công tác quản lý trật tự an toàn nơi công cộng, sớm phát hiện và

xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật góp phần phòng ngừa, ngăn

chặn tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Xã hội hóa công tác phòng, chống tội phạm, trọng tâm là khuyến khích các

tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân lắp đặt hệ thống camera giám sát an ninh ở địa

bàn dân cư, cơ quan, doanh nghiệp và gia đình nhằm phục vụ công tác phòng ngừa,

phát hiện xử lý vi phạm và tội phạm.

3.2.6. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường văn hóa

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường công tác giáo dục

chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân chú

trọng công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc

trên địa bàn tỉnh, làm nền tảng trong công tác xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5

(khóa VIII) và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ hai, tỉnh Ninh Thuận có kho tàng di sản văn hóa phong phú, đặc sắc với

sự góp mặt của nhiều loại hình văn hóa của hơn 35 dân tộc sinh sống trên địa bàn.

Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, vùng

miền đã có những tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa của các các dân tộc về

các mặt: ngôn ngữ, phong tục tập quán, nhà ở, trang phục dân tộc, nghệ thuật truyền

thống, ẩm thực, lễ hội, các làng nghề... dẫn đến một số yếu tố văn hóa phải thay đổi

để thích nghi với hoàn cảnh mới. Một số yếu tố văn hóa đang đứng trước nguy cơ

mai một, thất truyền. Do đó, trong những năm tiếp theo, tỉnh cần tập trung triển

khai đồng bộ các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn,

phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, tạo điều kiện để

72

bà con phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, mở rộng giao lưu, học hỏi, đồng

thời phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp. Qua đó, góp phần nâng cao đời

sống kinh tế, đời sống văn hóa, tạo thành các sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, thu

hút khách tham quan đến Ninh Thuận. Đồng thời tạo sự gắn kết cộng đồng các dân

tộc, xem đây là vấn đề cốt lõi trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tuyệt đối

không để xảy ra mâu thuẫn dân tộc.

Thứ ba, chính quyền các cấp cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống thiết

chế văn hóa thể thao cơ sở như nhà văn hóa - khu thể thao ở các thôn, khu phố;

trung tâm văn hóa - thể thao ở xã, phường, thị trấn, huyện, thành phố, tỉnh; hệ thống

cơ sở văn hóa, thể thao phục vụ thanh niên, thiếu niên và nhi đồng như nhà thiếu

nhi hoặc trung tâm hoạt động thanh, thiếu nhi... Xây dựng được hệ thống thiết chế

văn hóa sẽ đáp ứng nhu cầu sáng tạo, học tập, trao đổi, hưởng thụ, gìn giữ văn hóa,

luyện tập thể dục thể thao của các tầng lớp Nhân dân. Đồng thời, hệ thống thiết chế

văn hóa giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức các hoạt động tuyên truyền nhiệm vụ

chính trị, xã hội ở địa phương; là cơ sở vật chất, công cụ trực tiếp và đắc lực của cấp

ủy, chính quyền trong lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị…

Thứ tư, chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho thanh, thiếu nhi để giúp thanh,

thiếu nhi ứng phó với những thách thức của cuộc sống. Các ngành, các cấp, đặc biệt

là các nhà trường và tổ chức đoàn thể cần chú trọng đến công tác giáo dục, hướng

dẫn các kỹ năng cho thanh, thiếu nhi. Tiếp tục tổ chức các chương trình “Học kỳ

Quân đội” và “Học làm chiến sỹ Công an” để giúp các em trưởng thành hơn với

tính kỷ luật của lực lượng vũ trang, có tác phong nề nếp của người quân nhân, hiểu

được giá trị sự gian khổ, vất vả để trân quý cuộc sống; cung cấp những kỹ năng

mềm cần thiết cho các em…

3.2.7. Tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của

các cơ quan bảo vệ pháp luật

Các cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương, đặc biệt là lực lượng Công an

tiếp tục tham mưu cho cấp ủy, chính quyền triển khai thực hiện có hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây

73

tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Trọng tâm là tham mưu triển khai

thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình

hình mới; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới;

Kết luận số 05-KL/TW ngày 15/7/2016 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực

hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chương trình

quốc gia phòng, chống tội phạm đến năm 2020...

Lực lượng Công an cơ sở cần tăng cường phối hợp với các ban ngành, đoàn

thể ở địa phương đổi mới về nội dung, cải tiến về hình thức, phương pháp tuyên

truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân về phòng, chống

tội phạm. Đẩy mạnh công tác xây dựng mô hình, các câu lạc bộ, nhân điển hình tiên

tiến trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Chú trọng phát triển và

nâng cao chất lượng các mô hình quần chúng tự quản, tự phòng về an ninh trật tự

ngay từ gia đình, cộng đồng dân cư; thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh

nghiệm, nhân rộng mô hình có hiệu quả cao, nghiên cứu xây dựng những mô hình

mới phù hợp với tình hình đặc điểm từng địa bàn.

Lực lượng Công an phải nâng cao hiệu quả biện pháp quản lý hành chính nhà

nước về an ninh trật tự, chủ động làm tốt công tác quản lý cư trú; tổ chức kiểm tra,

thu hồi vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; quản lý chặt chẽ các ngành nghề đầu tư

kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, không để tội phạm lợi dụng hoạt động.

Tăng cường lực lượng tuần tra kiểm soát, khép kín địa bàn để chủ động phòng

ngừa, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý tội phạm.

Xây dựng, triển khai các kế hoạch, chuyên đề đấu tranh với các loại tội

phạm; thường xuyên rà soát các địa bàn trọng điểm, lĩnh vực mà tội phạm lợi dụng

hoạt động để tập trung lực lượng chuyển hóa địa bàn. Mở các đợt cao điểm tấn công

trấn áp tội phạm trên phạm vi toàn tỉnh, trọng tâm ở các tuyến, địa bàn trọng điểm.

Tập trung lực lượng điều tra khám phá nhanh các vụ án cố ý gây thương tích hoặc

74

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn. Nâng cao chất lượng

công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan

người vô tội; đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời những vụ án

dư luận xã hội quan tâm.

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ đối tượng có

nguy cơ phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư. Với vai trò lực lượng nòng cốt,

lực lượng Công an cơ sở cần làm tốt công tác nắm tình hình, hỗ trợ thành viên của

các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể tiếp cận đối tượng được giao quản lý, giám

sát. Cần thành lập các câu lạc bộ giúp đỡ người lầm lỗi tại cơ sở, đây là nơi để giáo

dục, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của họ, sớm phát hiện những biểu hiện nghi vấn,

bất thường để kịp thời có biện pháp phòng ngừa đối tượng tái phạm tội.

Thực hiện công tác đào tạo đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật có phẩm chất

đạo đức trong sạch, bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn cao, đáp

ứng đòi hỏi thực tiễn công tác điều tra trong tình hình mới và đáp ứng được tiêu

chuẩn của chức danh tư pháp đã được xác định trong Nghị quyết 49/NQ-TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; trong đó

chú trọng về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị vững vàng để bảo

vệ công lý, bảo vệ lẽ phải, đủ sức “đứng vững” trước những thủ đoạn mua chuộc,

dụ dỗ, đe doạ về vật chất và tinh thần của tội phạm.

3.2.8. Tăng cường tuyên truyền để khắc phục các thói quen và sở thích xấu

Một trong những nguyên nhân của tình hình tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở tỉnh Ninh Thuận thời gian qua là do

người dân thường hành xử , giải quyết các mâu thuẫn theo thói quen của mình. Nhiều

khi về mặt nhận thức, dù biết thế là sai, không hợp lý, nhưng do thói quen, người ta

vẫn cứ hành động, xử thế không đúng quy định của pháp luật. Những giá trị tốt - xấu,

đúng - sai, thật - giả... trong xã hội thường bị lẫn lộn, khó phân biệt là do những thói

quen và truyền thống lạc hậu chi phối, gây nên sự biến đổi và phá vỡ các chuẩn mực

đạo đức, thẩm mỹ xã hội, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đặc biệt là lẽ

75

sống, lý tưởng sống mỗi cá nhân. Do đó, để hạn chế, khắc phục các thói quen và sở

thích xấu của người phạm tội, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng thái độ tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho người dân. Bởi

lẽ hành vi làm theo pháp luật của con người là kết quả của một quá trình nhận thức

pháp luật. Trong quá trình nhận thức có nhiều yếu tố tác động (chủ quan và khách

quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Do đó trong quá

trình giáo dục ý thức pháp luật phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp và tiến

hành thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lí của

pháp luật là vì lợi ích chung của xã hội.

Thứ hai, phải xây dựng những tấm gương về đạo đức, lối sống. Các bậc cha

mẹ làm gương cho con cái; thầy, cô giáo phải làm gương đối với học sinh; thế hệ

trước phải làm kiểu mẫu cho thế hệ sau, cấp trên làm gương cho cấp dưới; những

người lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu trước cán bộ, nhân viên; cán bộ, đảng viên

gương mẫu trước quần chúng...

Thứ ba, tập trung và chú trọng đổi mới về nội dung tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật. Nội dung tuyên truyền phải phù hợp với trình độ nhận thức, hiểu

biết pháp luật và nhu cầu tìm hiểu pháp luật của người dân, phù hợp với lứa tuổi,

từng đối tượng đặc thù với tình hình thực tiễn của địa phương.

Thứ tư, đổi mới hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Hình

thức tuyên truyền phải được tổ chức phong phú, phù hợp với đặc điểm của từng địa

bàn như: tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh cố định, lưu động; tuyên truyền

miệng trực tiếp tại các buổi họp thôn, khu phố; cấp phát tờ rơi, tờ gấp, băng rôn

khẩu hiệu; tổ chức chiếu phim lưu động kết hợp tuyên truyền; tổ chức “Ngày Pháp

luật” tại cơ quan, đơn vị, địa phương; nói chuyện pháp luật, trợ giúp pháp lý (chú

trọng phát huy vai trò của câu lạc bộ pháp luật, trợ giúp pháp lý của các xã,

phường). Phải chú trọng giáo dục và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong

đoàn viên thanh niên, tuyên truyền thông qua các buổi sinh hoạt chi đoàn, các diễn

đàn, toạ đàm, tuyên truyền lưu động, qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

của Đoàn. Tổ chức đoàn phải xây dựng các mô hình, tổ chức hội nghị, hội thảo, tổ

76

chức các sân chơi pháp luật, các chương trình giao lưu văn hoá, văn nghệ... thu hút

được đông đảo sự tham gia của đoàn viên thanh niên và người dân.

Kết luận chương 3

Từ kết quả nghiên cứu được ở chương 2, dựa trên các dự báo, phân tích về

những yếu tố tiêu cực tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của

người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận, tác giả đã đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế

những tác động tiêu cực từ các môi trường để nhằm loại bỏ các nguyên nhân hình

thành đặc điểm nhân thân xấu, đồng thời tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để hình

thành các đặc điểm nhân thân tốt. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả của công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở tỉnh Ninh Thuận nói riêng trong thời

gian tới.

77

KẾT LUẬN

Có thể thấy rằng tình hình tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận trong thời gian vừa qua diễn biến hết sức phức tạp, gây ãnh hưởng đến tình

hình an ninh trật tự của địa phương. Hoạt động của tội phạm ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội,

nó không những gây ra những tổn thất về sức khỏe, tính mạng của người dân mà

còn gây tác hại về mặt tinh thần rất lớn trong Nhân dân.

Thời gian qua, để đảm bảo tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh, các cấp,

các ngành và các cơ quan bảo vệ pháp luật ở địa phương đã ban hành nhiều văn

bản, tổ chức thực hiện nhiều giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội

phạm tội phạm ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói

riêng. Đã huy động lực lượng, tiến hành các biện pháp đấu tranh mang tính chất xã

hội nhằm từng bước xóa bỏ những yếu tố tiêu cực có thể trở thành nguyên nhân của

tội phạm ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và trên

thực tế đã thu được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên, tình hình tội phạm cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn vẫn diễn ra

hết sức phức tạp, với tính chất ngày càng nghiêm trọng, phương thức thủ đoạn ngày

càng tinh vi, nguy hiểm. Trong khi việc nghiên cứu hoạt động phòng ngừa đối với

tội phạm này để đề ra các giải pháp cụ thể phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm còn

chưa nhiều.

Để dự báo và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong

thời gian tới đạt hiệu quả cao, cũng như để việc thực hiện có hiệu quả, mang tính

thiết thực thì chúng ta cần chú trọng đến khía cạnh nhân thân của người phạm tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bởi vì, nhân thân

người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, những dấu hiệu quan trọng thể hiện rõ

nhất bản chất xã hội của con người thực hiện hành vi phạm tội. Nghiên cứu nhân

78

thân người phạm tội là nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

thuộc yếu tố về chủ thể người thực hiện hành vi phạm tội, làm rõ các yếu tố liên

quan tới việc hình thành và thúc đẩy các phẩm chất tiêu cực của con người, khiến

họ có hành động đi ngược lại với các chuẩn mực, các lợi ích xã hội. Nhân thân

người phạm tội có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong luận văn, tác

giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như khái niệm, ý nghĩa,

đặc điểm nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trên cơ sở

lý luận, tác giả đã tập trung đi sâu nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn 2014 - 2018. Từ đó, tác giả đưa ra các dự báo tình

hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và giải

pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận từ khía cạnh nhân thân người phạm tội trong thời

gian tới.

Luận văn là công trình nghiên cứu của tác giả dựa trên những cơ sở lý luận

và kiến thức thực tiễn về nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây cũng là công trình nghiên cứu đầu tiên về

nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận và là công trình nghiên cứu đầu tiên của

tác giả. Chính vì vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình hoàn thành

luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong

nhận được những ý kiến đóng góp chân tình, thẳng thắn của quý thầy, cô giáo… để

Luận văn được hoàn thiện hơn.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

2. Bộ Chính trị, Kết luận số 92/KL-TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực hiện

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 .

3. Bộ Công an (2017), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật Hình sự năm 2015,

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

4. Nguyễn Xuân Bá (2017), Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

5. Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề tội phạm học

Việt Nam, Nxb Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

6. Chính phủ (1998), Nghị quyết số 09/CP ngày 31/7/1998 về tăng cường công

tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

7. Mai Thị Thu Dung (2018), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội.

8. Khổng Văn Hà, Đỗ Tá Hảo và Phạm Ngọc Cường (2009), Phòng ngừa tội

phạm do người chưa thành niên gây ra của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an

tỉnh Bắc Ninh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Trần Minh Hưởng (2011), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội

phạm, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Phương Ngọc (2018), Nhân thân người phạm tội cướp tài sản

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội.

11. Nguyễn Quốc Nhật, Hoàng Thị Bích Ngọc và Bùi Văn Thịnh (2006), Tâm lý

xã hội và hoạt động phòng ngừa tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

12. Nguyễn Trung Phong (2018), Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

13. Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội xâm

phạm sở hữu, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

14. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. TAND tỉnh Ninh Thuận (2014 - 2018), Các bản án hình sự sơ thẩm về vụ án

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018.

16. Phạm Văn Tỉnh (2013), Một số vấn đề Tội phạm học Việt Nam, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

17. Bùi Văn Thịnh (2006), Phòng ngừa tội phạm có sử dụng bạo lực những vấn

đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

18. Trường Đại học An ninh nhân dân (2017), Tập bài giảng Tội phạm học.

19. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân (1998), Giáo trình tổ chức hoạt động

phòng ngừa, phát hiện và điều tra tội phạm cụ thể.

20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

23. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Tội phạm

học, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam.

24. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng

Hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam -

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

26. Võ Khánh Vinh (2002), Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lý luận -

thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

27. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

28. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Huế.

29. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội.

31. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự phần các tội phạm, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Bảng 2.1. Thống kê so sánh tình hình các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn

tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2014 - 2018

Tỷ lệ (%) giữa tội cố ý

Tình hình tội cố ý gây

gây thương tích hoặc thương tích hoặc gây

Tình hình tội phạm

gây tổn hại cho sức

nói chung

tổn hại cho sức khỏe

Năm

khỏe của người khác của người khác

/tội phạm chung

Số vụ án

Số bị cáo

Số vụ án

Số bị cáo

Số vụ án

Số bị cáo

(1)

(2)

(4)

(3)

(3/1)

(4/2)

322

419

96

66

20,5

22,9

2014

334

567

118

80

24,0

20,8

2015

351

546

108

74

21,1

19,8

2016

381

649

117

83

21,8

18,0

2017

404

750

121

89

22,0

16,1

2018

1792

2931

560

392

21,9

19,1

Tổng

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.2. Cơ cấu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Nhóm tội xâm phạm Tội cố ý gây thương tích Tỷ lệ tính mạng, sức khỏe, hoặc gây tổn hại cho sức (%) Năm danh dự, nhân phẩm khỏe của người khác

Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo

66

96

2014 91 173 72,5 55,5

80

118

2015 106 146 75,5 80,8

74

108

2016 101 206 73,3 52,4

83

117

2017 103 158 80,6 74,1

89

121

2018 104 198 85,6 61,1

560

Tổng 505 881 392 77,6 63,6

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.3. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở số dân

của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Số thứ tự theo Số dân Tổng số Số dân/ STT Địa danh mức độ nguy (người) bị cáo 01 bị cáo hiểm

1 Ninh Phước 149443 91 1642,23 5

2 Thuận Nam 70295 40 1757,38 6

3 Ninh Hải 111885 104 1075,82 3

4 46957 Thuận Bắc 21 2236,05 7

5 93610 Ninh Sơn 57 164,22 1

6 30683 Bác Ái 27 1136,41 4

Phan Rang - 7 197617 220 898,26 2 Tháp Chàm

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.4. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở diện

tích của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Số thứ tự theo Diện tích Tổng số Số bị cáo/ STT Địa danh mức độ nguy (km2) bị cáo 01 km2 hiểm

1 Ninh Phước 341,95 91 0,27 3

2 Thuận Nam 564,57 40 0,07 5

3 Ninh Hải 253,83 104 0,41 2

4 Thuận Bắc 318,23 21 0,06 6

5 Ninh Sơn 775,28 57 0,08 4

6 27 Bác Ái 1027,45 0,03 7

Phan Rang - 7 79,40 220 2,77 1 Tháp Chàm

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.5. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác từ năm 2014 - 2018 được tính toán trên cơ sở kết hợp

yếu tố dân cư và diện tích của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận

Thứ bậc đã xác định Hệ số Cường độ STT Địa danh theo số dân và diện tích tiêu cực nguy hiểm

5 + 3 1 Ninh Phước 8 3

6 + 5 2 Thuận Nam 11 4

3 + 2 3 Ninh Hải 5 2

7 + 6 4 Thuận Bắc 13 5

1 + 4 5 Ninh Sơn 5 2

4 + 7 6 Bác Ái 11 4

Phan Rang - 2 + 1 7 3 1 Tháp Chàm

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.6. Số liệu xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận

Số vụ án Số bị cáo Năm

66

96

100% 2014 100%

121,2% 2015 123%

80

118

(+21,2%) (+23%)

112,1% 2016 112,5

74

108

(+12,1%) (+12,5%)

125,8% 2017 121,9%

83

117

(+25,8%) (+21,9%)

134,8% 2018 126%

89

121

(+34,8%) (+26%)

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo địa điểm phạm tội

Gây án nơi Nhà nạn nhân hay Nơi khác Tổng số công cộng nhà đối tượng vụ án Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ

392 236 60,2 131 33,4 25 6,4

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo thời gian gây án

Từ 0h đến 12h Từ 12h đến 18h Từ 18h đến 24h Tổng số

vụ án

Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ Số vụ Tỷ lệ

392 31 7,9 217 55,3 144 36,7

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo thiệt hại do tội

phạm gây ra

Mức độ thiệt hại Số vụ án Số người bị thiệt hại Sức khỏe Tính mạng

392 497 486 11

97,8 2,2 Tỷ lệ (%)

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo công cụ thực hiện

tội phạm của người phạm tội

Công cụ thực hiện tội Tổng số vụ án Số vụ phạm tội Tỷ lệ (%) phạm

Hung khí nguy hiểm 225 57,4

392 Hung khí thô sơ 158 40,3

Công cụ khác 9 2,3

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo phương thức thực

hiện tội phạm

Hình thức Số vụ Tổng số vụ án Tỷ lệ (%) phạm tội phạm tội

Đồng phạm 137 34,9 392 Đơn lẻ (không đồng phạm) 255 65,1

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận theo hình phạt sơ thẩm

Tổng số bị cáo Hình phạt Số bị cáo Tỷ lệ (%)

Dưới 3 năm 397 70,9

Từ 3 năm đến 7 năm 132 23,6

560 Từ 7 năm đến 15 năm 13 2,3

Trên 15 năm 07 1,3

Hình phạt khác 11 2,0

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.13. Một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận từ năm 2014 đến năm 2018

Nam 473 84,5% Giới tính Nữ 87 15,5%

Dưới 18 tuổi 109 19,5%

Từ 18 đến 30 tuổi 305 54,5% Độ tuổi Từ 31 đến 45 tuổi 117 20,9%

Trên 45 tuổi 29 5,2%

Không biết chữ 97 17,3%

Tiểu học 134 23,9%

Trung học cơ sở 233 41,6% Trình độ học vấn

Trung học phổ thông 93 16,6%

Cao đẳng, Đại học 03 0,5%

Có nghề nghiệp 93 16,6% ổn định

Không có 321 57,3% Nghề nghiệp nghề nghiệp

Có nghề nghiệp 146 26,1% nhưng không ổn định

335 59,8% Kinh Dân tộc 225 40,2% Khác

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.14. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình của người phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh

Ninh Thuận

Tổng số Tỷlệ Hoàn cảnh gia đình Số bị cáo bị cáo (%)

Gia đình khuyết thiếu 78 13,9

Gia đình có người thân vi phạm pháp 109 19,5 luật

Không quan tâm, chăm sóc, giáo dục 203 36,3 560 con cái

Không hạnh phúc, thường xuyên đánh, 101 18,0 chửi nhau

Phương pháp giáo dục không đúng 69 12,3 cách

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.15. Đặc điểm về sở thích, thói quen của người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận

Số Thường xuyên Thích xem Nghiện Tụ tập, chơi bời,

bị cáo uống rượu, bia phim bạo lực games quậy phá

560 229 99 119 113

40,9 17,7 21,3 20,2 Tỷ lệ (%)

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)

Bảng 2.16. Đặc điểm về động cơ, mục đích của người phạm tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Ninh

Thuận

Giải quyết mâu thuẫn Giải quyết mâu Động cơ, Số bị cáo cá nhân thuẫn nhóm mục đích khác

560 365 132 63

65,2 23,6 11,3 Tỷ lệ (%)

(Nguồn: số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận)