ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số
: 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Trí Trung
HÀ NỘI – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Minh Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCC : Hợp đồng hợp tác kinh doanh
BHXH : Bảo hiểm xã hội
BHYT : Bảo hiểm y tế
BVĐK : Bệnh viện đa khoa
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
KCB : Khám bệnh, chữa bệnh
TTNDN : Thuế thu nhập doanh nghiệp
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN ............................................. 7 1.1. Khái quát về bệnh viện tư nhân .......................................................... 7 1.1.1. Khái niệm bệnh viện tư nhân ............................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm của bệnh viện tư nhân ....................................................... 9 1.1.3. Vai trò của bệnh viện tư nhân ......................................................... 14 1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ............. 16 1.2.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ..... 16 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ... 17 1.2.3. Nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ...... 17 1.3. Pháp luật về bệnh viện tư nhân ở một số nước trên thế giới .......... 21 Chương II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......... 28 2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân .. 28 2.1.1. Quy định về chủ đầu tư bệnh viện tư nhân ..................................... 28 2.1.2. Quy định về góp vốn ....................................................................... 30 2.1.3. Quy định về thành lập bệnh viện tư nhân ....................................... 33 2.1.4. Quy định về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư nhân ................. 47 2.1.5. Quy định về tổ chức lại ................................................................... 59 2.1.6. Quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán doanh nghiệp đối với bệnh viện tư nhân ...................................................................................... 61 2.1.7. Quy định pháp luật về hỗ trợ tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư 67 2.1.8. Quy định về cạnh tranh trong hoạt động bệnh viện tư nhân ......... 69 2.1.9. Các quy định về kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với bệnh viện tư nhân ............................................................................................... 73 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ........................................................................................................ 76 2.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ...................................................................... 83 Chương III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN ............ 88 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật ..................................................... 88 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ......................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau hơn 20 năm thực hiện nghị quyết số 90/CP của Chính phủ ban hành
ngày 21/08/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo
dục, y tế văn hóa đã có lượng vốn hàng nghìn tỷ đồng được đầu tư vào hệ thống
y tế tư nói chung và bệnh viện tư nhân nói riêng. Hiện các bệnh viện tư nhân vẫn
không ngừng phát triển và lớn mạnh về mọi mặt, góp phần đa dạng hóa các dịch
vụ khám, chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho người dân. Các bệnh viện được tập
trung đầu tư cả về nhân lực và vật lực, được trang bị thiết bị y tế hiện đại, góp
phần giảm tải tình trạng quá tải ở các bệnh viện công.
Sự ra đời của khối bệnh viện tư nhân nằm trong chủ trương xã hội hóa
y tế của Chính phủ. Nghị quyết 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã khuyến khích
hợp tác công-tư, đầu tư tư nhân trong lĩnh vực y tế. Đầu tư tư nhân được
khuyến khích trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành y tế, từ sản xuất,
cung ứng thuốc, trang thiết bị đến đào tạo, tư vấn sức khỏe, khám chữa
bệnh… Trong số đó lĩnh vực y tế được tư nhân đầu tư nhiều vẫn là đầu tư
phát triển cơ sở khám, chữa bệnh.
Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 9 năm thi hành Luật KCB cho biết các cơ
sở y tế tư nhân có bước phát triển lớn, đóng vai trò quan trọng trong cung ứng
dịch vụ y tế cho người dân. Số bệnh viện và số giường bệnh ngoài công lập
tăng nhanh: Năm 2005 có 43 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh, thành phố với
3.324 giường bệnh, nay đã tăng lên 250 bệnh viện với 15.475 giường bệnh
(đạt 1,7 giường/vạn dân, chiếm 15% số bệnh viện và 5,6% số giường bệnh
trong toàn quốc), có khoảng gần 40.000 nhà thuốc, 35.000 phòng khám đa
khoa, chuyên khoa, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ
1
nội trú cho người dân. Một số bệnh viện 100% vốn nước ngoài có trang thiết
bị hiện đại đã được đưa vào hoạt động.
Y tế tư nhân phát triển nhanh cả về quy mô và số lượng qua các năm.
Năm 2018, 2019 tiếp tục thu hút sự tham gia của khu vực y tế tư nhân, một số
bệnh viện tư nhân có quy mô được thành lập mới. Điển hình là các bệnh viện
như: Bệnh viện Nhi Đức Tâm, Đăk Lăk (50 giường bệnh), Bệnh viện Mắt Cao
Nguyên tại Gia Lai (100 giường bệnh), Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Hải
Phòng (180 giường bệnh), Bệnh viện Phương Châu Sa Đéc (50 giường bệnh),
Bệnh viện Đa khoa Medlatec với một loạt cơ sở mới tại Hà Nội…
Bệnh viện tư nhân đã đạt được nhiều thành công nhất định trong hoạt
động khám, chữa bệnh ngày càng khẳng định vai trò trong hệ thống y tế Việt
Nam. Tuy nhiên một số bệnh viện tư vẫn còn xảy ra nhiều vi phạm trong quá
trình hoạt động cũng như gặp phải nhiều vướng mắc, khó khăn. Vi phạm phổ
biến của bệnh viện tư hiện nay là hoạt động không đúng với nội dung giấy
phép được cấp, không công khai tên người hành nghề, bằng cấp, chứng chỉ,
kinh nghiệm làm việc; không niêm yết công khai giá các dịch vụ; sử dụng lao
động không có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn tương ứng; hoạt
động không đúng địa điểm ghi trong giấy phép. Cá biệt có những cơ sở sử
dụng “chui” lao động là người nước ngoài, không qua sự quản lý của các cơ
quan chức năng về y tế và lao động. Việc tuân thủ quy trình khám chữa bệnh
ở nhiều cơ sở còn bị xem nhẹ, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Những bất
cập của bệnh viện tư nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ khám
chữa bệnh và gây khó khăn cho công tác quản lý của Nhà nước. Nguyên nhân
của những bất cập trên là do cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến hoạt
động của bệnh viện tư nhân chưa hoàn thiện. Hiện chưa có hành lang pháp lý
cụ thể cho bệnh viện tư. Các quy định pháp luật liên quan đến bệnh viện tư
được quy định trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế, Luật
2
Đầu tư, Luật Doanh nghiệp…và các văn bản dưới luật. Điều này có thể gây
khó khăn, lúng túng cho bệnh viện tư khi thực hiện các quy định của pháp luật
vì các quy định còn chưa thống nhất, đồng bộ, hoặc một số quy định còn chưa
phù hợp với thực tiễn. Do vậy việc nghiên cứu pháp luật bệnh viện tư nhân là
cần thiết, vừa là cơ sở để hoàn thiện pháp luật vừa tạo động lực thúc đẩy bệnh
viện tư nhân phát triển.
Bởi những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về tổ chức và
hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam” để hiểu rõ về quy trình thủ tục
điều kiện, hoạt động của bệnh viện tư và đề xuất những giải pháp phù hợp
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bệnh viện tư nhân là một hình thức cơ sở khám, chữa bệnh trong y tế tư
nhân. Có thể nói y tế tư nhân đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà
khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu y tế tư nhân có thể kể đến như:
+ Thực trạng chấp hành một số quy định của pháp lệnh hành nghề y
dược tư nhân năm 2003 tại các quận của thành phố Hà Nội” (556+567),
tr.90-92; “Thực trạng một số vi phạm quy định của pháp lệnh hành nghề y
dược tư nhân năm 2003 tại các quận của thành phố Hà Nội”(569+570),
tr.49-51 trên tạp chí Y học thực hành của tác giả Trần Quang Trung;
+ Đánh giá hiệu quả một số giải pháp tăng cường công tác quản lý
hành nghề y tư nhân tại thành phố Đà Nẵng(2007-2009) trên tạp chí Y học
thực hành (75), tr.70-73 của các tác giả Trần Quang Trung, Lê Ngọc Trọng,
Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Huỳnh (2011);
+ “Một số kết quả đat được của y tế tư nhân tại thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng (2007-2008) (741), tr (117-119) trên tạp chí Y học
thực hành của các tác giả Trần Quang Trung, Lê Ngọc Trọng, Nguyễn Văn
Hưng (2010);
3
+ Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Quang Trung về “Nghiên cứu thực
trạng hoạt động của các cơ sở hành nghề y tế tư nhân tại Hà Nội, Đà Nẵng,
thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp can thiệp (2007-2009)”.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về hoạt động
chuyên môn của các cơ sở y tế tư nhân. Một số công trình nghiên cứu y tế tư
nhân dưới góc độ pháp luật có thể kể đến:
+ Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công “Hoàn thiện thể chế quản
lý nhà nước trong lĩnh vực y tế” của tác giả Nguyễn Hoàng Phúc (2000);
+ Luận án Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia,
Hà Nội “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện
nay” của tác giả Nguyễn Huy Quang (2010).
Có thể thấy các công trình nghiên cứu mới chỉ quan tâm về chuyên
môn y tế và quản lý nhà nước trong y tế tư nhân. Chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về pháp luật
bệnh viện tư nhân, từ đó đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường
kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện cho hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả
hoạt động của bệnh viện tư nhân.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ, đánh giá
tính phù hợp của các chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh
viện tư nhân, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện tư.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tổng quát, luận văn cần làm rõ những vấn đề lý luận về
đặc điểm của bệnh viện tư, pháp luật tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư.
Nghiên cứu về điều kiện, trình tự thủ tục cấp giấy phép hoạt động và thực trạng
4
hoạt động của bệnh viện tư hiện nay. Đồng thời chỉ ra mặt hạn chế trong quy
trình, thủ tục đó, ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng của bệnh viện tư. Từ
những hạn chế đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bệnh viện tư.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Có thể nói nghiên cứu pháp luật về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư
là đề tài khá mới mẻ chưa có nhiều tác giả nghiên cứu sâu. Phần lớn những
vấn đề được quan tâm là xây dựng y tế tư nhân, so sánh giữa y tế tư và y tế
công... Việc nghiên cứu về điều kiện hoạt động không những đưa ra giải pháp
tăng cường công tác quản lý mà còn hoàn thiện hệ thống y tế tư nhân, để hệ
thống tư nhân phát triển bền vững, hạn chế những mặt tồn tại, những rủi ro
đáng tiếc trong việc khám chữa bệnh cho người dân. Đề tài này cũng góp
phần làm rõ lý luận trong việc nghiên cứu, điều chỉnh trình tự, thủ tục hoạt
động của bệnh viện tư, những khó khăn trong phát triển bệnh viện tư.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những pháp luật về tổ chức và hoạt
động của bệnh viện tư ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp
luật Việt Nam, bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật khám bệnh,
chữa bệnh, Luật bảo hiểm y tế và các văn bản dưới luật, các nghị quyết của
Đảng, chủ trương, chính sách pháp luật… về hoạt động của bệnh viện tư và
thực trạng hoạt động của bệnh viện tư ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm
2010 đến nay.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những nội dung sau: Cơ sở lý luận của pháp luật
về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân; Thực trạng pháp luật về tổ
chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân Việt Nam hiện nay; Định hướng
5
hoàn thiện và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của bệnh viện tư nhân.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Phần lý luận chung về pháp luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện
tư sử dụng các phương pháp nghiên cứ bao gồm: phương pháp diễn dịch,
phân tích, tổng hợp.
Phần thực trạng thực thi pháp luật trong hoạt động của bệnh viện tư sử
dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp diễn dịch, thống kê,
so sánh, phân tích.
Phần giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động
của bệnh viện tư sử dụng phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp
phân tích, tổng kết, diễn dịch.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
bệnh viện tư nhân
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện
tư nhân
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về
tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân
6
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN
1.1.Khái quát về bệnh viện tư nhân
1.1.1.Khái niệm bệnh viện tư nhân
Trong những năm gần đây, hệ thống y tế Việt Nam ngày càng hiện đại,
các dịch vụ y tế ngày càng phát triển và đem lại hiệu quả cao. Người dân có
thêm nhiều cơ hội tiếp cận các thông tin y tế, được bảo vệ, chăm sóc nâng cao
sức khỏe một cách khá toàn diện. Hệ thống y tế Việt Nam được tổ chức theo
tổ chức hành chính bao gồm y tế tuyến trung ương, y tế tuyến địa phương, y
tế cơ sở hoặc theo lĩnh vực hoạt động như khám chữa bệnh, điều dưỡng, y tế
dự phòng, y tế công cộng, giám định, kiểm nghiệm, dược, thiết bị y tế hoặc tổ
chức dựa theo tính chất chủ sở hữu bao gồm y tế Nhà nước và y tế tư nhân. Y
tế tư nhân ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong hoạt động khám
chữa bệnh. Khi y tế tư nhân phát triển thì các cơ sở y tế tư nhân đặc biệt là
bệnh viện tư nhân cũng phát triển theo, cả về số lượng, quy mô và chất lượng
dịch vụ thu hút ngày càng nhiều người dân có nhu cầu khám chữa, bệnh. Theo
khoản 2, điều 2 của Pháp lệnh 07/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội về hành nghề y dược tư nhân:
Các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân bao gồm:
a) Cơ sở y, dược tư nhân;
b) Cơ sở y, dược dân lập;
c) Cơ sở y, dược có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong đó cơ sở y, dược tư nhân là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình, doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh và quản lý, điều hành. Cơ sở y, dược dân lập là cơ
sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà
nước do tổ chức, cá nhân đóng góp và tự quản lý, điều hành. [24]
7
Là một bộ phận không thể tách rời của một tổ chức xã hội y tế, bệnh
viện là một cơ sở khám và điều trị bệnh được nhà nước công nhận, có chức
năng chăm sóc sức khỏe toàn diện cho nhân dân. Bệnh viện không chỉ có khả
năng và phương tiện chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật, có điều kiện
thuận lợi cho việc điều trị ngoại trú, nội trú mà còn là trung tâm đào tạo cán
bộ y tế và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, bệnh viện còn có chức năng chỉ đạo
tuyến, hệ thống các bệnh viện được tổ chức theo tuyến kỹ thuật, tuyến trên có
trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật cho tuyến dưới; chức năng phòng bệnh, song
song với khám, chữa bệnh, phòng bệnh là nhiệm vụ quan trọng của bệnh viện;
chức năng hợp tác quốc tế, bệnh viện thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định
của Nhà nước; chức năng quản lý kinh tế, thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của Nhà nước về thu, chi ngân sách của bệnh viện từng bước tổ chức
thực hiện việc hạch toán chi phí về khám bệnh, chữa bệnh trong bệnh viện.
Bệnh viện thường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, dựa vào
chức năng chuyên môn để phân loại thành bệnh viện đa khoa có thể xét
nghiệm, chữa trị hầu hết các loại bệnh, bệnh viện chuyên khoa dựa trên nhu cầu
điều trị đặc biệt hoặc phân loại bệnh viện theo tuyến hoặc dựa vào tính chất sở
hữu và hệ thống quản lý có thể phân loại thành bệnh viện công lập (do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật) và
bệnh viện tư nhân (do cá nhân tổ chức không phải nhà nước đăng ký thành lập,
sở hữu và điều hành). “Bệnh viện tư là một trong các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước cùng tham gia cung cấp các dịch vụ y tế, tham gia vào lực lượng xã
hội để bổ khuyết cho khu vực y tế công” [12, tr.26], phục vụ cho các đối tượng
có nhu cầu khám, chữa bệnh trong xã hội. Nhiệm vụ của bệnh viện tư nhân
được quy định cụ thể trong khoản 1 điều 7 Quyết định 217-BYT/QĐ:
- Khám bệnh, kê đơn, chữa bệnh và làm các thủ thuật theo quy định của
các cơ quan y tế có thẩm quyền và Hội đồng chuyên môn xét duyệt tiêu chuẩn
8
hành nghề y tế tư nhân cùng cấp tuỳ theo năng lực cán bộ và các điều kiện về
cơ sở vật chất, kỹ thuật khác.
- Phải tiếp nhận và giải quyết mọi trường hợp cấp cứu hoặc sơ cứu rồi
chuyển ngay bệnh nhân đến các cơ sở y tế Nhà nước gần nhất.
Như vậy, bệnh viện tư nhân là cơ sở y tế do các cá nhân, tổ chức góp
vốn thành lập, thực hiện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, thực hiện đồng
thời các mục tiêu kinh doanh và phát triển sự nghiệp y tế.
1.1.2. Đặc điểm của bệnh viện tư nhân
Là một tổ chức do các nhân, tổ chức đầu tư kinh doanh, thực hiện chức
năng cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân, bệnh viện tư nhân vừa có
những đặc điểm của doanh nghiệp vừa có đặc điểm của một đơn vị sự nghiệp.
Bệnh viện tư nhân là hình thức doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
khám, chữa bệnh, là cơ sở kinh doanh có điều kiện. Bệnh viện tư nhân hội tụ
đầy đủ các điều kiện của một thương nhân bao gồm: “Thực hiện các hành vi
thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình;
Tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành vi thương
mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ” [5]. Bệnh viện tư nhân là tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp, cung cấp dịch vụ thương mại là dịch vụ y tế
nhằm mục đích sinh lợi. Bệnh viện tư tham gia vào các hoạt động kinh doanh
với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập, có khả năng bằng hành vi của mình,
nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm
đối với các hành vi đó. Các hoạt động kinh doanh của bệnh viện tư nhân được
tiến hành thường xuyên, liên tục, và nguồn thu nhập chính là từ hoạt động
kinh doanh đó. Để có thể đi vào hoạt động, bệnh viện tư phải đáp ứng các thủ
tục hành chính như được cấp giấy phép đăng kí kinh doanh theo quy định của
Luật doanh nghiệp và các giấy phép khác liên quan đến hoạt động chuyên
môn. Ngoài ra doanh nghiệp thành lập bệnh viện còn phải đáp ứng các yêu
9
cầu về nguồn lực con người, tài chính, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, quy
trình kỹ thuật, địa điểm kinh doanh v.v... theo quy định của pháp luật và duy
trì những yêu cầu đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Bệnh viện tư
nhân là cơ sở kinh doanh có điều kiện do kinh doanh trong lĩnh vực khám
chữa bệnh là ngành nghề có điều kiện theo quy định tại Luật Đầu tư.
Bệnh viện tư là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xã hội đặc biệt. Dịch vụ
là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa
tồn tại chủ yếu dưới hình thái vô hình, không dẫn đến việc chuyển quyền sở
hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người.
Dịch vụ xã hội là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân
nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề
cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế
- xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính
chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao
gồm các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa -
thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác [22]. Trong đó dịch
vụ y tế chủ yếu do Nhà nước cung cấp, nhưng khu vực tư nhân cũng đã nhanh
chóng tham gia cung cấp dịch vụ này, đặc biệt là khối bệnh viện tư nhân.
Bệnh viện tư nhân cung cấp dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội đặc biệt bởi:
Dịch vụ y tế cũng tham gia vào tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh
tế, tạo cơ hội việc làm và tạo khả năng phát triển dịch vụ khác. Bên cạnh mục
tiêu vì lợi nhuận, dịch vụ y tế còn bị điều tiết bởi yếu tố đạo đức, nhân văn, do
dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội tác động trực đến con người, gắn với trách
nhiệm cao trước sức khỏe con người và tính mạng người bệnh. Chất lượng
dịch vụ y tế không chỉ đơn thuần đánh giá bằng giá cả trên thị trường như các
dịch vụ khác mà còn dựa trên sự hài lòng của người bệnh, kết quả công tác
khám chữa bệnh, ứng xử, tác phong chăm sóc bệnh nhân của đội ngũ y bác
10
sĩ…Dịch vụ y tế khác với các dịch vụ kinh tế hay xã hội khác vì liên quan đặc
biệt đến các quyền con người như quyền được sống, quyền được bảo vệ sức
khỏe. Tất cả mọi người trong xã hội không phân biệt lứa tuổi, giàu nghèo đều
được hưởng một mức chăm sóc y tế tối thiểu như nhau. Do liên quan chặt chẽ
đến yếu tố nhân đạo, nên dịch vụ y tế không bị nguyên tắc thị trường chi phối
hoàn toàn. Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật để điều tiết và kiểm soát các
doanh nghiệp bệnh viện trong việc cung ứng dịch vụ y tế theo yêu cầu của
nhà nước, quy định, kiểm soát quy trình hoạt động của bệnh viện để đảm bảo
quyền lợi cho người bệnh. Bệnh viện tư nhân do tư nhân thành lập dưới sự
cho phép, ủy quyền của Nhà nước trong việc trực tiếp cung ứng dịch vụ y tế
cho xã hội, được sự trợ giúp từ Nhà nước bằng các chính sách miễn, giảm
thuế, các chính sách ưu đãi trong quá trình thành lập và hoạt động.
Trong cung ứng dịch vụ, việc xác định đối tượng phục vụ là rất quan
trọng. Xác định được đối tượng phục vụ, doanh nghiệp sẽ đáp ứng đúng, kịp
thời, nhu cầu của khách hàng, đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp. Bệnh
viện tư là doanh nghiệp cung cấp hàng hóa là dịch vụ y tế phục vụ đối tượng
khách hàng đặc biệt là người bệnh. Khách hàng ở đây là người bệnh, trên thực
tế thường có ít thông tin về bệnh tật và chỉ định điều trị, do vậy hầu như người
bệnh phải hoàn toàn dựa vào các quyết định của bệnh viện trong việc lựa chọn
dịch vụ y tế, không thể tùy ý lựa chọn dịch vụ mà phải theo sự hướng dẫn của
các y bác sĩ có chuyên môn. Cụ thể, khi người dân có nhu cầu khám chữa
bệnh, việc điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do thầy
thuốc quyết định. Như vậy, người ta chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị và ở một
chừng mực nào đó, người chữa chứ không chủ động lựa chọn được phương
pháp điều trị cho mình. Mặt khác, do dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với
tính mạng con người nên mặc dù không có tiền nhưng người bệnh vẫn cần
được khám, chữa bệnh (mua dịch vụ). Điểm này khiến đối tượng khách hàng
11
này trở nên đặc biệt, khác với các đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ khác
không phải là sức khỏe, người mua có thể có nhiều giải pháp lựa chọn, thậm
chí tạm thời không mua nếu chưa có khả năng tài chính [10]. Hơn nữa, sử
dụng dịch vụ này, giữa khách hàng là người bệnh và bên cung cấp dịch vụ là
bệnh viện không có sự thỏa thuận giá cả, giá dịch vụ là do cơ sở bệnh viện tư
quyết định. Người bệnh là người có tổn thương về thể chất và tinh thần, luôn
lo lắng cho thể trạng sức khỏe và tình hình bệnh tật của mình và họ thường
chỉ tìm đến dịch vụ y tế khi không thể tự phục hồi tại nhà, do vậy họ mong
muốn được sử dụng dịch vụ tốt nhất trong điều kiện có thể để hồi phục sức
khỏe nhanh nhất. Đối tượng phục vụ của các bệnh viện tư thường là những
người có điều kiện, có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế chất lượng tốt, trang thiết
bị hiện đại, quy trình khám chữa bệnh nhanh chóng, chính xác. Hiện nay các
bệnh viện tư cũng tiến tới đa dạng hóa các đối tượng phục vụ bằng việc đăng
kí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, vì cung cấp dịch vụ y tế là cung cấp dịch
vụ xã hội liên quan đến an sinh xã hội, đảm bảo quyền cơ bản của con người
là quyền được sống, được chăm sóc sức khỏe.
Bệnh viện tư nhân là doanh nghiệp vì sự nghiệp Nhà nước, vì cộng
đồng hay còn gọi là đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Đơn vị sự nghiệp ngoài
công lập là những tổ chức sự nghiệp không nằm trong khu vực nhà nước,
được thành lập bởi các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cá nhân hoặc
liên doanh giữa các tổ chức với nước ngoài, có tư cách pháp nhân, cung cấp
các dịch vụ công, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Bệnh viện tư nhân là
đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được khuyến khích xây dựng, thành lập theo
chủ trương xã hội hóa y tế của Chính phủ. Trong điều kiện nguồn lực còn hạn
chế, Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã có chủ trương xã hội hóa nhằm huy
động các nguồn lực của xã hội, không những của Nhà nước mà còn của cá
nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội, của các cấp ủy đảng, chính quyền địa
12
phương cũng như các ban ngành đoàn thể và các tổ chức xã hội phục vụ cho
công tác chăm sóc sức khỏe. Nội dung chính là xã hội hóa công tác chăm sóc
sức khỏe, không phải là giảm đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước mà huy
động các nguồn trên. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của mỗi
người dân, cộng động cũng như các cơ quan liên quan. Chủ trương xã hội hóa
thực hiện theo quan điểm của Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 nêu
rõ: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong
việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng
bệnh, KCB.” [16]
Xã hội hóa sẽ đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ chăm sóc
sức khỏe (Nhà nước, tập thể, dân lập, tư nhân) cho phép nhiều lực lượng có
hiểu biết và kinh nghiệm nghề nghiệp tham gia các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe dưới sự quản lý của Nhà nước nhằm cung ứng dịch vụ ngày càng thuận
tiện cho người dân và giảm bớt sức ép về ngân sách cho Nhà nước. Khuyến
khích các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước thành lập các cơ sở khám
chữa bệnh tư như bệnh viện tư nhân. Hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành
trung ương khóa XVII đã ban hành Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10
năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới. Trong đó nêu rõ quan điểm “Đầu tư cho bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước
ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả
các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân; tổ chức
cung cấp dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời khuyến khích
hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu” [2].
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 (sửa
đổi bổ sung năm 2014) Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi
13
trường. Các chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế, khuyến khích phát triển
y tế tư bao gồm cả bệnh viện tư nhân, bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài,
phục vụ không chỉ nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân trong nước mà
còn có thể thu hút các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nước ngoài. Xã
hội hóa y tế sẽ tạo điều kiện và cơ chế cho các nhà đầu tư rót vốn vào lĩnh vực
y tế, xây dựng mới, cải tạo bệnh viện.
Bệnh viện tư nhân ra đời bắt nguồn từ nhu cầu của xã hội, là xu thế tất
yếu của xã hội nhằm phục vụ cộng đồng trong công tác chăm sóc sức khỏe.
Hơn nữa xây dựng và thành lập bệnh viện tư nhân cũng xuất phát từ sự quan
tâm và thực sự mong muốn hoạt động vì cộng đồng của chủ đầu tư vì để bệnh
viện tư nhân đi vào hoạt động cần tổng vốn đầu tư rất lớn, trang thiết bị máy
móc phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh có thể lên đến nhiều tỷ đồng trong
khi thu lợi từ hoạt động kinh doanh này phải diễn ra trong một thời gian dài nên
đối với nhiều chủ đầu tư đây không phải là lĩnh vực đầu tư hấp dẫn. Bệnh viện
tư nhân phải tuân thủ các yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình hoạt
động để hướng tới sản phẩm đặc thù là sức khỏe người bệnh. Thực hiện chủ
trương xã hội hóa y tế bằng việc khuyến khích thành lập bệnh viện tư không
những đáp ứng cho nhu cầu xã hội mà còn thể hiện vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước trong công tác chăm sóc sức toàn dân, trong sự nghiệp y tế.
Từ những đặc điểm trên có thể nói bệnh viện tư là một chủ thể doanh
nghiệp đặc biệt do bản chất có sự pha trộn giữa một đơn vị kinh doanh và một
đơn vị sự nghiệp. Vậy nên pháp luật điều chỉnh hoạt động bệnh viện tư cũng
cần có những đặc điểm đặc thù để đảm bảo cho bệnh viện tư có thể đồng thời
đáp ứng được cả hai nhiệm vụ, nhiệm vụ của doanh nghiệp và nhiệm vụ của
đơn vị sự nghiệp vì cộng đồng.
1.1.3. Vai trò của bệnh viện tư nhân
Sự ra đời và phát triển của bệnh viện tư nhân cả về quy mô và chất lượng
14
là xu thế tất yếu phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân. Người dân
được tiếp cận với các dịch vụ y tế đa dạng theo nhu cầu và yêu cầu, được phục
vụ tận tình, chu đáo và tiết kiệm thời gian. Thu hút được nhiều người bệnh đến
với mình cũng đồng nghĩa bệnh viện tư nhân đang chia sẻ gánh nặng quá tải
với bệnh viên công nói riêng và khối y tế công lập nói chung trong việc cung
cấp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ khám chữa bệnh. Trong khi bệnh viện công
luôn đối mặt với tình trạng quá tải mỗi ngày, các bác sĩ, nhân viên tại bệnh viện
công gần như phải làm việc trong trạng thái căng thẳng, mệt mỏi nên khó có
thể đáp ứng toàn bộ được sự hài lòng của bệnh nhân thì bệnh viện tư có thể coi
là một giải pháp giảm thiểu sự quá tải cho bệnh viện công.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các bệnh viện tư đã tạo
ra sự cạnh tranh và những hiệu ứng tích cực đối với các cơ sở y tế công lập.
“Nhiều đơn vị y tế công lập thời gian qua đã phải nhanh chóng đổi mới lề lối, tác
phong phục vụ, đầu tư trang thiết bị hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng
khám, điều trị để cạnh tranh” [20].Có thể nói sự phát triển của các bệnh viện tư
nói riêng và hệ thống cơ sở y tế tư nhân nói chung đã kích thích thay đổi của hệ
thống bệnh viện công theo hướng tích cực, giúp bệnh viện công thoát ra khỏi
cách làm việc lâu năm trong cơ chế được bao cấp nguồn kinh phí hoạt động.
Việc đầu tư từ nhân lực đến vật lực của bệnh viện tư nhân còn góp phần
hạn chế tình trạng “chảy máu ngoại tệ” do người dân ra nước ngoài khám,
chữa bệnh. Hiện nay rất nhiều người dân Việt Nam có điều kiện, một phần vì
tâm lý hướng ngoại, một phần vì mong muốn ở nước ngoài được khám chữa
bệnh trong môi trường không quá tải, cơ sở vật chất hiện đại, thái độ phục vụ
tận tình và tôn trọng bệnh nhân mà lựa chọn các nền y tế khác trong khu vực
như Singapore, Malaysia…Theo ước tính của Bộ Y tế Việt Nam, trong năm
2018 có khoảng 60.000 lượt bệnh nhân trong nước ra nước ngoài điều trị làm
“chảy máu” nguồn ngoại tệ khoảng 2 tỷ USD. Với chất lượng dịch vụ y tế
15
chất lượng cao, đáp ứng từ thái độ chăm sóc, phong cách phục vụ, đặc biệt là
trình độ chuyên môn, khả năng điều trị bệnh lý phức tạp, ứng dụng kỹ thuật y
tế cao của hệ thống bệnh viện ngoài công lập có thể làm giảm con số 2 tỷ
USD. Bệnh nhân được giảm rất nhiều chi phí cũng như bệnh viện có nguồn
thu tái đầu tư, ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ hơn. Hơn nữa nếu có
các phòng bệnh chất lượng cao thì số người nước ngoài hiện đang sinh sống
và làm việc ở Việt Nam sẽ không phải trở về nước để chữa bệnh và chúng ta
có thêm nguồn thu để dựng xây đất nước.
1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân
1.2.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân
Pháp luật ra đời khi xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định và
trở nên phức tạp, đặc biệt là khi trong xã hội có sự phân hóa các giai cấp có
lợi ích đối lập nhau, khi phong tục, tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo không
còn đủ khả năng duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị. Nhà nước đã ban hành ra pháp luật để tổ chức và quản lý xã hội vừa
để bảo vệ lợi ích của xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Thông thường pháp luật được hiểu khái quát như sau: “Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí
của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội vì sự tồn tại và phát
triển của cả xã hội, đồng thời vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị” [21].
Bệnh viện tư nhân là loại hình doanh nghiệp đặc biệt với những đặc
điểm của một doanh nghiệp và một đơn vị sự nghiệp vì cộng đồng vậy nên để
loại hình doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả cần có khung cơ sở pháp lý
rõ ràng, minh bạch, công khai. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh
viện tư nhân có thể hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
quan hệ phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của bệnh
viện tư nhân. Các quy định trong pháp luật về bệnh viện tư phải tạo ra được
16
các cơ hội để doanh nghiệp bệnh viện tích cực, chủ động phát triển. Ngoài ra
pháp luật về bệnh viện tư phải đạt được sự thống nhất, đồng bộ, có sự điều
chỉnh phù hợp, kịp thời để giúp các doanh nghiệp bệnh viện không lúng túng
trong quá trình hoạt động, đảm bảo công bằng với khối bệnh viện công vốn đã
có thương hiệu lâu đời và được nhiều ưu đãi từ Nhà nước.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân
Căn cứ vào đặc điểm của bệnh viện tư có thể thấy pháp luật về tổ chức
và hoạt động của bệnh viện tư cũng mang những đặc điểm đặc thù như sau:
Là một loại hình doanh nghiệp nên pháp luật về bệnh viện tư nhân cũng
mang tính chất doanh nghiệp. Bệnh viện tư nhân chịu sự điều chỉnh của Luật
doanh nghiệp trong quá trình hoạt động như thành lập, tổ chức, tổ chức lại,
mua bán, chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp.
Bệnh viện tư nhân tham gia vào hoạt động kinh tế bằng việc cung cấp
dịch vụ y tế để đạt được lợi nhuận. Song y tế là lĩnh vực đặc thù liên quan đến
sức khỏe, tính mạng con người nên bên cạnh yếu tố lợi nhuận, hoạt động của
bệnh viện tư còn là hoạt động chuyên môn cao vì cộng đồng, phục vụ cộng
đồng, xã hội, là hoạt động đảm bảo an sinh xã hội, mang tính trách nhiệm cao.
Do vậy pháp luật về bệnh viện tư cũng mang tính chất phục vụ, phúc lợi xã
hội. Hoạt động của bệnh viện tư chịu sự điều chỉnh của Luật khám bệnh, chữa
bệnh, Luật Bảo hiểm y tế.
1.2.3. Nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân
Từ những đặc điểm pháp luật trên, có thể thấy các quy định về tổ chức
và hoạt động của bệnh viện tư bao gồm những nội dung chính sau: Các quy
định về điều kiện thành lập, tổ chức hoạt động cũng như tổ chức lại, quy định
về mua bán, chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp, các quy định về điều
kiện hành nghề.
Đối tượng tham gia vào quan hệ pháp luật tổ chức và hoạt động của bệnh
17
viện tư là các chủ đầu tư có điều kiện, có số vốn nhất định để xây dựng, thành
lập bệnh viện. Họ nhận thấy y tế là lĩnh vực tiềm năng và có nhu cầu về phục
vụ cộng đồng. Do vậy các quy định về chủ thể pháp luật bệnh viện tư cần cụ
thể và có những điều kiện nhất định đối với chủ đầu tư để thành lập bệnh viện.
Chủ đầu tư phải có một tiêu chuẩn tối thiểu về năng lực, về pháp lý, về tài
chính được xác định theo pháp luật để thực hiện một hợp đồng giao ước trong
thời hạn hiệu lực. Trên thực tế, chủ đầu tư phải có đầy đủ khả năng về mọi
trách nhiệm pháp lý đối với hợp đồng mà mình đã ký kết như khả năng về tài
chính, về thanh toán cho dự án, tư cách pháp lý về quyền sử dụng đất, cũng như
bảo hiểm, thanh toán lãi vay… và cung cấp các thông tin cơ bản có liên quan
đến dự án khi có yêu cầu. Chủ đầu tư phải có khả năng và quyền hạn trong việc
đưa ra các quyết định ràng buộc giữa các bên trong quá trình ký kết và thực
hiện hợp đồng theo pháp luật quy định đối với các tổ chức tư vấn cũng như các
nhà thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị cho công trình, dự án.
Trình tự, thủ tục thành lập bệnh viện tư là các quy định của pháp luật
về hồ sơ, thủ tục và cơ quan có thẩm quyền tiến hành đăng ký thành lập bệnh
viện tư. Thành lập bệnh viện tư bao gồm các quy định cho phép thành lập và
hoạt động bệnh viện. Thủ tục thành lập bệnh viện tư là thủ tục pháp lý được
thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tùy thuộc vào mức độ cải
cách hành chính và chủ trương của Nhà nước, nhu cầu của xã hội mà thủ tục
này đơn giản hay phức tạp. Việc đăng ký hoạt động của bệnh viện tư là bắt
buộc để xác định tư cách pháp lý của bệnh viện.
Về hồ sơ đề nghị thành lập bệnh viện tư đó là những giấy tờ, văn bản,
tài liệu để chứng minh cho chủ thể có điều kiện thành lập bệnh viện. Có thể
khái quát một cách chung nhất hồ sơ đề nghị thành lập bệnh viện bao gồm: hồ
sơ xin quy hoạch, hồ sơ đề nghị cấp giấy phép hoạt động, đề án thành lập
18
bệnh viện, điều lệ tổ chức và hoạt động bệnh viện, các giấy tờ chuyên môn
như chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh…
Về trình tự thành lập và cơ quan có thẩm quyền đăng ký thành lập: Chủ
đầu tư muốn thành lập bệnh viện phải nộp hồ sơ đề nghị thành lập bệnh viện
tại cơ quan có thẩm quyền. Trong một khoảng thời gian nhất định do luật định
cơ quan có thẩm quyền xem xét, nếu đủ điều kiện thì cấp giấy phép hoạt động
cho bệnh viện.
Về tổ chức hoạt động: các hoạt động góp vốn, chuyển nhượng, mua bán
sáp nhập doanh nghiệp cũng cần được quy định cụ thể. Pháp luật cần có những
quy định hỗ trợ trong hoạt động và phát triển bệnh viện. Bệnh viện tư có thể
được thành lập theo hình thức bệnh viện đa khoa hoặc bệnh viện chuyên khoa.
Đối với bệnh viện đa khoa, các hoạt động chuyên môn bao gồm:
- Khám chữa bệnh đa khoa và điều trị ngoại trú: Khám chẩn đoán điều
trị các bệnh thông thường về nội, ngoại, nhi, sản phụ khoa, và các chuyên
khoa mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt, da liễu… Sơ cấp cứu: bệnh nhân sơ
cứu và cấp cứu đa khoa.
- Về ngoại khoa: Điều trị phẫu thuật bệnh nhân với các bệnh lý: viêm
ruột thừa, thủng dạ dày, chấn thương bụng (vỡ gan, vỡ lách, vỡ bàng quang,
thủng ruột…), gãy xương, trật khớp, thoát vị bẹn, ung thư dạ dày, ung thư đại
tràng, sỏi túi mật, sỏi đường mật, sỏi thận, u thận, u tuyến tiền liệt, dò hậu
môn, trĩ…Phẫu thuật nội soi: sỏi túi mật, sỏi đường mật, u xơ tuyến tiền liệt,
viêm ruột thừa, thủng dạ dày…
- Về nội – nhi: Điều trị nội trú các bệnh lý thường gặp về nội khoa và
nhi khoa, kể cả cấp cứu như: bệnh lý hô hấp, tim mạch, tiêu hóa, tiết niệu,
huyết học, nội tiết, cơ xương khớp, thần kinh, lão khoa…
- Về sản phụ khoa: Điều trị nhiều bệnh như: u xơ tử cung, u nang
buồng trứng, u xơ tuyến vú, sinh thường, sinh mổ (phẫu thuật Cesarien), chửa
19
ngoài tử cung vỡ, sa sinh dục, sửa tầng sinh môn…
- Về tai mũi họng: Chẩn đoán điều trị các bệnh lý thông thường như:
cắt amidale, chỉnh vẹo vách ngăn, nạo xoang , cắt polype, nâng xương chính
mũi, bóc u các loại, dẫn lưu apxe, thông vòi nhĩ, đốt cuốn mũi, điều trị viêm
tai giữa, viêm tai xương chũm, dò luân nhĩ….
- Về răng hàm mặt: trám răng, nhổ răng, chữa tủy, cạo vôi răng, chỉnh
khớp cắn, chỉnh răng lệch, tẩy trắng răng, làm răng giả, hàm giả, mổ nạo tủy
nha chu, mổ khe hở môi, khe hở vòm miệng, chấn thương hàm mặt, u vùng
hàm mặt…
-Về mắt: Chẩn đoán và điều trị các bệnh lý về mắt có hiệu quả cao: tật
khúc xạ (cận thị, viễn thị, loạn thị…), điều trị đục thủy tinh thể (cườm mắt),
glaucoma (thiên đầu thống)…
Ngoài ra bệnh viện tư còn có thể có các dịch vụ khám kiểm tra sức
khỏe các cơ quan doanh nghiệp, dịch vụ khám bệnh tại nhà và dịch vụ khám,
chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế.
Hoạt động của bệnh viện tư nhân là hoạt động được đăng ký với cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra bệnh viện tư còn có những
hoạt động khác để duy trì sự phát triển và phù hợp với yêu cầu nhà nước như
hợp tác quốc tế, hợp tác với các cơ sở khám chữa bệnh khác, ứng phó với
dịch bệnh, thiên tai, thảm họa…
Trong việc thành lập và tổ chức hoạt động của bệnh viện tư nhân các
quy định phải chặt chẽ, rõ ràng, thống nhất, là cơ sở pháp lý cụ thể cho các
doanh nghiệp đầu tư bệnh viện thực hiện, dễ dàng tiếp cận thị trường trong
lĩnh vực y tế. Tránh tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định, các
văn bản pháp luật hay tình trạng lạc hậu không phù hợp với tình hình thực tại,
không theo kịp với xu thế phát triển của xã hội và của nền kinh tế nói chung.
20
Pháp luật về bệnh viện tư bên cạnh việc đảm bảo theo đúng tinh thần
Hiến pháp, theo chủ trương xã hội hóa của Chính phủ còn phải đảm bảo tạo ra
cơ chế thông thoáng thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, hỗ trợ, đảm
bảo quyền và lợi ích của các nhà đầu tư vì đầu tư xây dựng và thành lập và
duy trì hoạt động của bệnh viện cần nguồn vốn rất lớn song việc thu lại lợi
nhuận còn phải cân đối với các yếu tố xã hội. Hoạt động khám chữa bệnh là
hoạt động mang tính chuyên môn cao, vì lợi ích chung xã hội vì cộng đồng
nên pháp luật về bệnh viện tư cần đảm bảo quyền và lợi ích của người bệnh
trong hoạt động khám chữa bệnh, khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại bệnh viện
tư, tránh tình trạng tận thu, trục lợi trên người bệnh. Pháp luật về bệnh viện tư
còn thể hiện vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước trong công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân.
1.3. Pháp luật về bệnh viện tư nhân ở một số nước trên thế giới
Mỹ luôn là quốc gia được biết đến với chất lượng y tế hàng đầu thế
giới. Đất nước này tập trung những biện pháp y học tân tiến, những chuyên
gia chuyên môn cao và những dịch vụ chăm sóc tốt nhất. Hầu hết các bệnh
viện ở Mỹ đều thuộc quyền sở hữu của tư nhân. Mỹ không có hệ thống chăm
sóc sức khỏe toàn dân do nhà nước điều hành. Thay vào đó là hệ thống bệnh
viện tư có tiêu chuẩn chất lượng cao. Việc sử dụng bệnh viện tư nhân mang
lại những lợi ích như: thời gian chờ đợi ngắn, sự cạnh tranh đổi mới liên tục
giữa các cơ sở. Tuy nhiên giá dịch vụ khám chữa bệnh ở Mỹ rất cao sẽ là trở
ngại đối với những người không có bảo hiểm y tế tư nhân, không có khả năng
chi trả. Hiện nay, nước Mỹ trở thành quốc gia có chi phí y tế đắt đỏ nhất thế
giới (với chi phí y tế bình quân đầu người trên 7000 USD/năm) với 45 triệu
người Mỹ (15% dân số) rất khó khăn trong tiếp cận dịch vụ y tế do không có
bảo hiểm y tế. [8]
Hàn Quốc có một hệ thống y tế hiện đại và minh bạch ở tất cả các cấp
21
từ trung ương tới các địa phương, vùng, quận… Ở Hàn Quốc, không khó tìm
bệnh viện tư nhân vì nó có ở hầu hết mọi nơi. Hệ thống chăm sóc sức khỏe
của Hàn Quốc do khu vực tư nhân chi phối. Khoảng 90% bác sĩ và tuyệt đại
đa số giường bệnh thuộc sở hữu tư nhân. Chính phủ có một vai trò hạn chế
như một nhà cung cấp các dịch vụ y tế và có một chính sách tự do để điều
chỉnh khu vực tư nhân. Nguồn tài chính cho y tế dựa trên sự kết hợp giữa các
nguồn công và tư. Các bệnh viện đa khoa (trên 100 giường bệnh) được tách
thành hai loại là bệnh viện công lập và bệnh viện tư nhân. Tỷ lệ bệnh viện
công và bệnh viện tư ở Hàn Quốc lần lượt là khoảng 10% và 90% (Bộ Y tế và
Phúc lợi Hàn Quốc, 2004). Khám ở bệnh viện tư nhân có ưu điểm là thủ tục
đơn giản và nhận được kiểm tra y tế trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên,
phần lớn các bệnh viện tư nhân ở Hàn Quốc chỉ thích hợp khám và điều trị
các bệnh đơn giản, trong trường hợp bệnh nghiêm trọng và cần những chẩn
đoán phức tạp hơn thì nên đến bệnh viện đa khoa. [28]
Các bệnh viện ở Canada hầu hết hoạt động dưới hình thức tư nhân
(cộng đồng) không vì lợi nhuận. Bệnh viện được điều hành bởi Ban quản lý
cộng đồng hoặc là do tổ chức tình nguyện cộng đồng. Về bản chất, các bệnh
viện này không hoàn toàn là tư nhân bởi nhà nước vẫn giám sát thông qua
việc đưa ra các quy định và cung cấp ngân sách cơ bản cho hoạt động bệnh và
giám sát chi tiêu ngân sách của bệnh viện. Chính quyền địa phương có quyền
áp đặt các dịch vụ do bệnh viện cung cấp và thậm chí đóng cửa bệnh viện.
Ngân sách này được quyết định dựa vào nhiều yếu tố và chính quyền có
quyền tăng hoặc giảm ngân sách. Tại Canada số bác sĩ làm việc cho các cơ sở
tư nhân chiếm 57.8%, họ được trả lương theo dịch vụ cung cấp và theo hợp
đồng với các tổ chức y tế. Mức giá dịch vụ y tế do chính quyền địa phương
quyết định. Chính quyền địa phương sẽ thực hiện việc đàm phán với Hiệp hội
22
bác sĩ của địa phương mình để đưa ra mức giá chung thống nhất cho dịch vụ y
tế của địa phương. [12, tr.57]
Các bệnh viện ở Pháp có thể là bệnh viện công, tư nhân phi lợi nhuận
hoặc vì lợi nhuận. Nhưng trong mọi trường hợp, bệnh nhân được tự do lựa
chọn bệnh viện của mình và ít nhiều sẽ được bảo hiểm xã hội như nhau. Các
bệnh viện tư nhân vì lợi nhuận chiếm 40% tổng số bệnh viện ở Pháp nhưng
20% tổng số giường bệnh nội trú. Họ có xu hướng chuyên sâu vào một số lĩnh
vực nhất định như phẫu thuật tự chọn, bao gồm 2/3 hoạt động. Lĩnh vực này
đầu tư vào các quy trình phẫu thuật tương đối nhỏ, chẳng hạn như thực hiện
3/4 các quy trình phẫu thuật đục thủy tinh thể, nhưng hơn 60% trường hợp
nhập viện vì rối loạn hệ tiêu hóa. Các bệnh viện tư nhân vì lợi nhuận có một
hệ thống thanh toán với các thành phần khác nhau: biểu giá hàng ngày và một
khoản thanh toán riêng dựa trên các quy trình chẩn đoán và điều trị. Ngoài ra,
các bác sĩ làm việc trong các bệnh viện tư nhân vì lợi nhuận được trả lương
trên cơ sở dịch vụ không giống như những người làm việc trong các bệnh
viện công và phi lợi nhuận. Các bệnh viện tư nhân vì lợi nhuận đã được thanh
toán hoàn toàn bằng cách sử dụng hệ thống dựa trên ca bệnh mới kể từ ngày 1
tháng 3 năm 2005.[26]
Một xu hướng quan trọng trong quỹ đạo hiện tại và tương lai của
ngành y tế Trung Quốc là quá trình tư nhân hóa các bệnh viện y tế ngày càng
tăng. Sự phát triển này được thúc đẩy bởi cả mong muốn của người tiêu dùng
về trải nghiệm lấy bệnh nhân làm trung tâm hơn và các sáng kiến của chính
phủ nhằm phân bổ gánh nặng chăm sóc từ các bệnh viện công.
Trong thập kỷ qua, số lượng giường bệnh tư nhân đã tăng gần theo
cấp số nhân, trong khi tăng trưởng bệnh viện công tương đối trì trệ. Tăng
trưởng kép hàng năm cho giường bệnh tư nhân là 31%, so với 6% cho bệnh
viện công. Ngoài ra, số lượng bệnh viện tư nhân ở Trung Quốc đã tăng gấp
23
đôi lên tổng số 16.900 bệnh viện chỉ trong sáu năm, từ 2011-2017, và hiện
chiếm 57,2% số bệnh viện Trung Quốc.
Tuy nhiên, dù có sự tăng trưởng về số lượng cơ sở vật chất nhưng các
bệnh viện tư nhân tạo ra doanh thu thấp hơn đáng kể so với bệnh viện công.
Năm 2016, bệnh viện tư nhân chiếm phần lớn số bệnh viện nhưng tạo ra chưa
đến 10% tổng doanh thu. Lý do cho sự khác biệt này chủ yếu nằm ở khối
lượng bệnh nhân thấp hơn. Các bệnh viện tư có xu hướng là các bệnh viện
chuyên khoa và nhỏ hơn, trong khi các bệnh viện công thường có nhiều
giường bệnh, nhân viên và năng lực chăm sóc tốt hơn.
Vì các bệnh viện tư nhân có chi phí tự trả cao hơn cho bệnh nhân, nên
bệnh viện tư thường phục vụ cho những công dân có bảo hiểm tư nhân, bao
gồm cả người nước ngoài nước ngoài, khách du lịch y tế và các cá nhân giàu
có Trung Quốc. Các bệnh viện này thu hút bệnh nhân hơn nữa bằng cách
cung cấp dịch vụ chăm sóc theo định hướng với thời gian khám bệnh lâu hơn
và tăng cường chú trọng vào chăm sóc dự phòng. Khu vực tư nhân được coi
là một giải pháp giúp giải quyết những bất ổn ngày càng tăng về cách hệ
thống chăm sóc sức khỏe Trung Quốc có thể hỗ trợ dân số già đang già đi
nhanh chóng và sự gia tăng các bệnh mãn tính. Theo đó, chính sách công đã
khuyến khích tăng trưởng thị trường chăm sóc sức khỏe tư nhân. Năm 2009,
chính phủ cho phép các bác sĩ hành nghề tại nhiều cơ sở để giúp họ đồng thời
làm việc tại các bệnh viện tư và công. Ngoài ra, chính phủ đã hạ thấp các rào
cản đối với đầu tư tư nhân vào lĩnh vực y tế. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ
13, chính phủ cho phép tối đa 100% sở hữu nước ngoài tại các bệnh viện tư
nhân, vốn trước đây yêu cầu quyền sở hữu tối thiểu là 30% của người Trung
Quốc. Ngoài ra, trong năm 2014, các nhà đầu tư tư nhân được phép mua lại
và quản lý các bệnh viện công hiện có.
Một vấn đề chính khác là giới hạn thanh toán của các chương trình bảo
24
hiểm y tế xã hội. Một số bệnh viện tư nhân được miễn trừ để điều trị hoàn lại
bằng bảo hiểm công. Tuy nhiên, có rất ít trường hợp đặc biệt này (37 ở Bắc
Kinh, 43 ở Thượng Hải, 40 ở Hàng Châu, 17 ở Cáp Nhĩ Tân), so với tổng số
bệnh viện của Trung Quốc (hơn 29.000). Vì các chương trình bảo hiểm y tế
công cộng bao phủ 97% dân số Trung Quốc, nên hầu hết công dân hàng ngày
đều không mấy quan tâmdịch vụ chăm sóc sức khỏe tư nhân.
Những bệnh nhân thiếu thu nhập khả dụng đáng kể tin rằng các bệnh
viện tư nhân tồn tại vượt quá khả năng của họ. Vì bảo hiểm y tế công đã chi
trả phần lớn chi phí y tế của họ, nên họ không thấy bất kỳ động lực cấp bách
nào để theo đuổi các lựa chọn tư nhân.
Vì bệnh viện tư nhân mới phát triển nên họ vẫn phải đối mặt với sự
kỳ thị từ khi bệnh viện tư nhân ít phổ biến hơn và có nhiều liên quan đến
chăm sóc y tế tham nhũng hoặc bất hợp pháp. Sự kỳ thị này thường phổ biến
ở những bệnh nhân cao tuổi hơn là những người trẻ tuổi.
Sự phát triển nhanh chóng của các bệnh viện tư nhân gần đây là vô
cùng hứa hẹn. Để thành công bền vững, các bệnh viện tư nhân sẽ cần củng cố
lòng tin của công chúng, thu hút các bác sĩ có kinh nghiệm, giải quyết các rào
cản đối với các bác sĩ thực hành tại nhiều cơ sở và làm cho các lựa chọn tư
nhân hợp lý hơn cho công chúng. Cuối cùng, các bệnh viện tư nhân phải tiếp
tục cung cấp giá trị cho bệnh nhân của họ bằng cách cung cấp dịch vụ chăm
sóc phòng ngừa, trải nghiệm lấy bệnh nhân làm trung tâm và tiếp cận với các
loại thuốc và công nghệ hiện đại. [27]
Phần lớn hệ thống y tế các nước trên thế giới đều bao gồm khối bệnh
viện tư nhân và khối bệnh viện công lập, vừa hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động
vừa đa dạng hóa dịch vụ khám chữa bệnh, tạo thêm nhiều sự lựa chọn cho
người dân. Tuy nhiên trong một hệ thống y tế hầu hết các bệnh viện thuộc sở
hữu tư nhân như Mỹ sẽ dẫn tới tình trạng phúc lợi xã hội không được đảm
25
bảo, người dân không được thực hiện các quyền được chăm sóc sức khỏe do
chi phí y tế vượt quá khả năng chi trả. Do vậy pháp luật bệnh viện tư nhân ở
Việt Nam cần thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước nhất là trong việc điều
tiết giá dịch vụ khám, chữa bệnh để hoạt động của bệnh viện tư nhân đảm bảo
cả hai mục tiêu kinh doanh và phục vụ cộng đồng trong công tác chăm sóc
sức khỏe. Bên cạnh đó có thể thấy pháp luật bệnh viện tư nhân của các nước
đều có cơ chế hỗ trợ bệnh viện tư nhân phát triển vậy nên quy định, chính
sách ưu đãi, hỗ trợ trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư
nhân ở Việt Nam là rất cần thiết. Quy định pháp luật hỗ trợ để hạn chế rào cản
đầu tư vào y tế tư nhân, để bệnh viện tư nhân cạnh tranh công bằng và hợp tác
cùng phát triển với khối bệnh viện công lập vốn có nhiều lợi thế và sự tự tin
tưởng của người dân.
Bệnh viện tư nhân ở các nước luôn chiếm tỉ trọng đáng kể và có vai trò
quan trọng trong hệ thống y tế. Căn cứ vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam và
từ cơ sở pháp luật bệnh viện tư nhân của một số nước trên thế giới có thể rút
ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về
tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân.
26
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Trong thời đại hiện nay, việc phát triển bệnh viện tư nhân là xu thế tất
yếu của xã hội do nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân ngày càng cao và
mong muốn được sử dụng dịch vụ khám, chữa bệnh tốt nhất. Từ việc nghiên
cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò của bệnh viện tư nhân có thể thấy bệnh viện
tư nhân mang những đặc điểm của một chủ thể kinh doanh và một đơn vị sự
nghiệp vì cộng đồng. Do vậy pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện
tư nhân cũng mang những đặc điểm riêng biệt.
Những vấn đề pháp luật về bệnh viện tư nhân bao gồm: khái niệm, đặc
điểm, tổ chức, hoạt động cũng như tổ chức lại bệnh viện tư nhân. Pháp luật là
cơ sở nền tảng của hoạt động bệnh viện tư nhân. Nghiên cứu pháp luật bệnh
viện tư nhân, hướng tới hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật chất lượng
cao, đồng bộ, thống nhất sẽ hỗ trợ cho bệnh viện tư nhân hoạt động hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu của xã hội trong lĩnh vực y tế.
27
Chương II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện
tư nhân
2.1.1. Quy định về chủ đầu tư bệnh viện tư nhân
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bệnh viện tư nhân là một cơ sở y
tế do cá nhân, tổ chức góp vốn thành lập và làm chủ sở hữu. Các quy định về
chủ đầu tư của bệnh viện tư nhân được xác định tương ứng với đầu tư tạo lập
doanh nghiệp. Theo đó, cá nhân, tổ chức muốn thành lập bệnh viện phải thuộc
đối tượng được quyền thành lập doanh nghiệp. Tất cả tổ chức, cá nhân đều có
quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam trừ các trường hợp theo
quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014, bao gồm:
- Các cán bộ, lãnh đạo trong cơ quan nhà nước và các đơn vị thuộc
quân đội :
+ Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản Nhà nước
để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
+ Cán bộ, công chức, viên chức. Viên chức được góp vốn nhưng không
tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên
cứu khoa học tư [15] ;
+ Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức
quốc phòng thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp
thuộc Công an nhân dân Việt Nam ;
+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước ;
- Chủ thể không được thành lập theo quy định của Luật phá sản
2014: Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản mà cố
28
ý vi phạm quy định liên quan có thể bị cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp
trong thời hạn 03 năm [18];
- Chủ thể không được thành lập theo quy định của Luật phòng, chống
tham nhũng: Người có chức vụ, quyền hạn không được thành lập, tham gia
quản lý, điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh [19].
- Chủ thể khác:
+ Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
+ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù,
quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt
buộc; đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ, làm công việc
nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án;
Có thể thành lập bệnh viện theo các hình thức doanh nghiệp như công
ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Pháp luật không quy định về
việc thành lập bệnh viện theo hình thức doanh nghiệp nào. Nhưng trên thực tế
bệnh viện tư nhân chủ yếu được thành lập dưới dạng công ty TNHH và công
ty Cổ phần. Đối với công ty hợp danh là công ty đối nhân, hoạt động dựa trên
sự tin cậy của các thành viên về nhân thân, sự góp vốn chỉ là thứ yếu thường
không được lựa chọn để thành lập bệnh viện tư nhân do bệnh viện tư nhân cần
nguồn vốn lớn, cần sự đầu tư nhiều của các chủ đầu tư. Bệnh viện tư nhân
không được thành lập dưới dạng doanh nghiệp tư nhân do doanh nghiệp tư
nhân không có tư cách pháp nhân.
Đối với chủ đầu tư là người nước ngoài, theo quy định tại Biểu cam kết
thương mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO số WT/ACC/48/Add.2, ngày
27/10/2006, và Hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương mà
Việt Nam tham gia (FTAs) đối với dịch vụ y tế và xã hội thì: Dịch vụ bệnh
29
viện (CPC 9311): Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp dịch vụ
thông qua thành lập bệnh viện 100% vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh với
đối tác Việt Nam hoặc thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh.Vốn đầu tư tối
thiểu cho một bệnh viện là 20 triệu đô la Mỹ. Hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ (AFS) cũng không hạn chế điều kiện đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
bệnh viện. Pháp luật Việt Nam không quy định điều kiện về phạm vi đầu tư,
hình thức đầu tư, vốn đầu tư với đối tác đầu tư nước ngoài.
Các quy định trên dựa trên tinh thần của Hiến pháp 2013 “Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không
cấm" [16]. Theo đó mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập bệnh viện tư
nhân nếu có đủ tư cách pháp lý và không thuộc vào đối tượng pháp luật cấm.
Việc quy định như vậy thể hiện pháp luật Việt Nam hết sức tạo điều kiện đối
với các chủ thể có nhu cầu thành lập bệnh viện tư. Các cá nhân, tổ chức trong
nước hoặc nước ngoài khi tham gia vào thị trường kinh doanh của Việt Nam
đều được quyền và bình đẳng trước pháp luật.
2.1.2. Quy định về góp vốn
Xây dựng, thành lập và duy trì hoạt động của bệnh viện tư nhân cần
nguồn vốn rất lớn do phải chuẩn bị về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc
hiện đại theo quy định của pháp luật và nhu cầu của xã hội, đảm bảo cho việc
chẩn đoán, điều trị nhanh chóng, chính xác đem lại hiệu quả cao. Việc góp
vốn vào bệnh viện tư có thể căn cứ vào các quy định pháp luật về góp vốn vào
doanh nghiệp của Luật doanh nghiệp 2014.
Khoản 13 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về góp vốn như
sau: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp
vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ
của doanh nghiệp đã được thành lập”. Việc góp vốn là sự cam kết mức trách
nhiệm vật chất của các thành viên doanh nghiệp với khách hàng, đối tác.
30
Đồng thời, đây là vốn đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp và cũng là cơ
sở để phân chia lợi nhuận và xử lý rủi ro trong kinh doanh đối với các thành
viên góp vốn. Tài sản góp vốn được quy định tại Điều 35 Luật doanh
nghiệp 2014. Theo đó tài sản góp vốn có thể là có thể là Đồng Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở
hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được
bằng Đồng Việt Nam. Chỉ các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối
với các quyền này mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn. Đối với
tài sản là quyền sử dụng đất, người góp vốn phải là người có quyền sở hữu và
sử dụng đất hợp pháp được pháp luật công nhận. Trước khi góp vốn vào công
ty phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, sử dụng đất tại cơ quan có thẩm
quyền, không phải chịu lệ phí trước bạ cho doanh nghiệp.
Về thời hạn góp vốn, chủ sở hữu, thành viên phải góp đủ, đúng loại tài
sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90
ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với
công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên. Đối
với doanh nghiệp là công ty cổ phần các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ
phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp
đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn. Thời hạn
góp vốn điều lệ khi mới thành lập doanh nghiệp được quy định tại các khoản
2 điều 74, khoản 2 điều 48 và khoản 1 điều 112 của Luật doanh nghiệp 2014.
Theo quy định tại Điều 32 Luật Doanh nghiệp 2014 thì khi doanh nghiệp tăng
vốn điều lệ cần nộp ngay và đủ số tiền vốn tăng sau đó mới thực hiện thủ
tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp với Sở Kế họach và Đầu tư. Thời hạn thay
đổi nội dung đăng ký kinh doanh không quá 10 ngày kể từ ngày có thay đổi.
31
Về trình tự, thủ tục góp vốn:
Trình tự, thủ tục góp vốn gồm các bước định giá tài sản góp vốn, lập hồ
sơ góp vốn và giao nhận tài sản góp vốn. Định giá tài sản góp vốn được quy
định tại điều 37 Luật doanh nghiệp 2014. Tất cả các thành viên sáng lập có
quyền tự định giá, định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc theo một tổ chức
định giá chuyên nghiệp định giá. Không bắt buộc phải có xác nhận của cơ
quan nhà nước hoặc công chứng. Tài sản góp vốn không phải là Đồng Việt
Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng
lập hoặc tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành
Đồng Việt Nam. Khi có thành viên mới góp vốn, người định giá phải là Hội
đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị. Nếu định giá cao hơn so với mức giá
thực tế tại thời điểm góp vốn, người góp vốn và người định giá phải góp đủ số
vốn như đã được định giá. Nếu gây thiệt hại cho người khác thì phải liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường.
Soạn thảo hồ sơ góp vốn, lập bản cam kết góp vốn: là sự thỏa thuận
giữa các bên về nội dung liên quan đến tài sản góp vốn, giá trị tài sản góp
vốn, thời hạn góp vốn, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia, đăng ký thay
đổi vốn điều lệ của công ty với phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch đầu
tư nếu góp thêm vốn điều lệ vào công ty đã thành lập.
Giao nhận tài sản góp vốn: Việc này phải được thực hiện trong thời hạn
cam kết trong bản cam kết hoặc theo quy định của pháp luật với từng loại
hình doanh nghiệp. Về việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn được pháp
luật quy định cụ thể tại Điều 36 Luật doanh nghiệp 2014. Đối với tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu thì thủ tục giao và nhận tài sản có thể thực hiện trước
hoặc sau khi làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên, doanh nghiệp chỉ
trở thành chủ sở hữu khi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Sau khi
hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu thì tài sản thuộc về doanh nghiệp.
32
Cá nhân, tổ chức góp vốn làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc
quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bao gồm
các bước: ký hợp đồng góp vốn bằng tài sản phải đăng ký quyền sở hữu có
công chứng, chứng thực; bàn giao tài sản trên thực tế, thực địa; Nộp hồ sơ
sang tên trước bạ; Khai thuế, và đóng các khoản phí, lệ phí liên quan; nhận
Giấy đăng ký phương tiện hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đứng tên Công ty. Việc chuyển
quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ.
Đối với tài sản không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu thì việc
giao và nhận tài sản được coi là hoàn thành khi doanh nghiệp nhận được tài
sản đó với tình trạng, số lượng đúng như những gì mà người góp vốn đã cam
kết góp trong hợp đồng. Góp vốn đối với các tài sản không đăng ký quyền sở
hữu thì phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận
bằng biên bản giao nhận. Nội dung biên bản phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở
chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số thẻ căn cước công dân, giấy
CMND, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định
thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản
góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong
vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại
diện theo ủy quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của
công ty.
Hiện nay quy định của pháp luật không yêu cầu mức vốn tối thiểu để
thành lập bệnh viện tư. Vậy nên có thể đăng ký mức vốn tương đối, phù hợp
với tình hình thực tế để thuận tiện cho việc kinh doanh.
* Điều kiện thành lập bệnh viện tư nhân
2.1.3. Quy định về thành lập bệnh viện tư nhân
Việc thành lập bệnh viện tư nhân chưa có quy định cụ thể mà chủ yếu
33
tuân theo các quy định thành lập cơ sở khám chữa bệnh trong Luật KCB 2009
và các Nghị định liên quan. Bệnh viện tư nhân để thành lập phải đáp ứng các
điều kiện quy định tại điều 42 Luật KCB 2009:
“1. Có quyết định thành lập của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Nhà nước thành lập hoặc giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo quy định của pháp luật
đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác.
2. Có giấy phép hoạt động do Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng hoặc Giám đốc Sở Y tế cấp.”
Như vậy chủ đầu tư của bệnh viện tư nhân phải có giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư nếu bệnh viện đó có vốn đầu tư
nước ngoài. Giấy phép hoạt động của bệnh viện tư nhân được cấp theo quy
định tại khoản 1 điều 43 Luật KCB 2009 và điều 23 Nghị định 109/2016/NĐ-
CP Quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy
phép hoạt động đối với cơ sở khám, chữa bệnh, phải đáp ứng các yêu cầu sau,
cụ thể:
Về quy mô bệnh viện:
- Đối với bệnh viện đa khoa phải có ít nhất 30 giường bệnh trở lên;
- Đối với bệnh viện chuyên khoa, bệnh viện y học cổ truyền phải có ít
nhất 20 giường bệnh; riêng đối với bệnh viện chuyên khoa mắt sử dụng kỹ
thuật cao phải có ít nhất 10 giường bệnh.
Về cơ sở vật chất:
- Bệnh viện phải được thiết kế, xây dựng theo Tiêu chuẩn xây dựng
Việt Nam số 365: 2007. Riêng đối với các khoa cấp cứu, khoa điều trị tích
cực và chống độc, khoa phẫu thuật, khoa chẩn đoán hình ảnh, khoa xét
nghiệm thì việc thiết kế, xây dựng phải thực hiện đúng các quy định tại các
34
Quyết định số 32, 33, 34/2005/QĐ – BYT ngày 31 tháng 10 năm 2005 và số
35/2005/QĐ – BYT ngày 15 tháng 11 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Y tế;
- Bảo đảm các điều kiện về an toàn bức xạ, quản lý chất thải y tế,
phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật;
- Bảo đảm có đủ điện, nước và các điều kiện khác để phục vụ chăm sóc
người bệnh.
Về trang thiết bị y tế, bệnh viện tư nhân phải có:
- Đủ thiết bị, dụng cụ y tế phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn
mà bệnh viện đăng ký;
- Đủ phương tiện vận chuyển cấp cứu trong và ngoài bệnh viện. Trường
hợp không có phương tiện cấp cứu ngoài bệnh viện, bệnh viện phải có hợp
đồng với cơ sở có phương tiện cấp cứu ngoài bệnh viện.
Về cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức bệnh viện bao gồm: Ban giám đốc, các phòng chức
năng, các khoa.
Các phòng chức năng bao gồm:
Phòng Kế hoạch tổng hợp
Phòng Y tá (điều dưỡng)
Phòng Chỉ đạo tuyến
Phòng Vật tư – thiết bị y tế
Phòng Hành chính quản trị
Phòng Tổ chức cán bộ
Phòng Tài chính kế toán.
Các khoa theo phạm vi đăng ký hoạt động của bệnh viện.
Về nhân sự của bệnh viện:
Số lượng người hành nghề làm việc toàn thời gian (cơ hữu) trong từng
khoa phải đạt tỷ lệ ít nhất là 50% trên tổng số người hành nghề trong khoa.
35
Ngoài ra, người chịu trách nhiệm chuyên môn chính của bệnh viện,
trưởng các khoa phải đáp ứng điều kiện phù hợp với chuyên khoa đó.
Về phạm vi hoạt động chuyên môn: Bệnh viện tư nhân được thực hiện
các kỹ thuật chuyên môn theo danh mục được Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Giám
đốc Sở Y tế tỉnh phê duyệt.
Giấy phép hoạt động của bệnh viện được cấp một lần bao gồm các nội
dung tên, hình thức tổ chức, địa điểm hoạt động; phạm vi hoạt động chuyên
môn, thời gian làm việc hàng ngày. Trường hợp bệnh viện cần thay đổi quy
mô, phạm vi hoạt động chuyên môn, thay đổi hình thức, tổ chức, chia tách, hợp
nhất, sáp nhập, thay đổi địa điểm hoặc giấy cấp phép bị mất hoặc hư hỏng, thu
hồi cần làm các thủ tục theo quy định tại điều 44 Luật KCB.
Có thể nói điều kiện hoạt động bệnh viện tư nhân tương tự như thành lập
bệnh viện nói chung. Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, cá nhân, tổ chức
cần đảm bảo các yếu tố về chuyên môn kĩ thuật theo quy định của pháp luật
* Trình tự, thủ tục thành lập bệnh viện tư nhân
Vì hoạt động trong lĩnh vực y tế, vì mục đích công cộng nên trước khi
tiến hành thành lập bệnh viện, cá nhân, tổ chức thành lập cần xin quy hoạch.
Xin quy hoạch để biết để biết được với nhu cầu xây dựng và thành lập bệnh
viện có phù hợp với quy hoạch chung của địa phương hay không, đảm bảo
các vấn đề về, mặt bằng, diện tích, môi trường… Hồ sơ xin quy hoạch thành
lập bệnh viện căn cứ theo điều 38 Nghị định 37/2010/NĐ-CP về lập, thẩm
định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị:
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép quy hoạch bao gồm:
1. Đơn đề nghị cấp giấy phép quy hoạch.
2. Sơ đồ vị trí địa điểm đề nghị cấp giấy phép quy hoạch.
3. Dự kiến phạm vi, ranh giới khu đất, chỉ tiêu sử dụng đất quy hoạch.
4. Dự kiến nội dung đầu tư, quy mô dự án và tổng mức đầu tư.
36
5. Báo cáo về pháp nhân và năng lực tài chính để triển khai dự án.
Trình tự và thời hạn cấp giấy phép quy hoạch được quy định tại điều 37
của Nghị định này. Cụ thể chủ đầu tư nộp hồ sơ xin quy hoạch về Ủy ban
nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương của địa điểm xin quy hoạch.
Căn cứ vào đề xuất của chủ đầu tư, UBND tỉnh/ thành phố giao sở quy hoạch
phối hợp với các sở, ban ngành liên quan xem xét và thẩm định hồ sơ. Trên
cơ sở đó quyết định việc cấp hay không cấp quy hoạch cho tổ chức đề nghị.
Hết thời hạn xử lý hồ sơ (không quá 45 ngày làm việc), cơ quan có thẩm
quyền trả kết quả cho tổ chức đề nghị.
Sau khi có văn bản trả lời cho phép quy hoạch thành lập bệnh viện, đơn
vị chuẩn bị hồ sơ và nộp tới Bộ y tế để xin giấy phép hoạt động. Hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép của bệnh viện tư nhân bao gồm:
- Đơn đề nghị cấp phép hoạt động (theo mẫu);
- Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng
nhận đầu tư đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có vốn đầu tư nước ngoài
(bản sao chứng thực);
-Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của người chịu trách nhiệm chuyên
môn kỹ thuật, người phụ trách bộ phận chuyên môn (bản sao chứng thực);
- Danh sách ghi rõ họ tên, số chứng chỉ, phạm vi hoạt động chuyên
môn của từng người hành nghề của bệnh viện;
- Bản kê khai cơ sở vật chất, thiết bị y tế, bản mô tả mô hình tổ chức
bệnh viện;
- Hồ sơ nhân sự của những người làm việc tại bệnh viện gồm:
CMND/CCCD, sổ hộ khẩu, các văn bằng, chứng chỉ (trường hợp pháp luật có
yêu cầu), sơ yếu lý lịch và hợp đồng lao động ;
- Tài liệu chứng minh đáp ứng điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị y tế,
tổ chức nhân sự
37
- Điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án hoạt động ban đầu.
Nội dung hồ sơ, mẫu các văn bản đề nghị được quy định tại điều 46
Luật KCB 2009 và giải thích cụ hơn trong khoản 1, điều 43 Nghị định
109/2016/NĐ-CP. Một trong những tài liệu quan trọng trong bộ hồ sơ thành
lập bệnh viện chính là Điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án hoạt động ban
đầu hay cách gọi thông thường là đề án thành lập. Đây là văn bản thể hiện
tinh thần chung nhất về mục tiêu, phương hướng cũng như phương thức hoạt
động của bệnh viện, là căn cứ để cơ quan cấp phép nhận định ý nghĩa, tầm
quan trọng cũng như tính khả thi của bệnh viện khi thành lập trên thực tế.
Đề án thành lập bệnh viện đa khoa tư nhân cần đảm bảo thể hiện các
nội dung:
+ Nhận định về sự cần thiết của việc xây dựng bệnh viện nói chung và tại
địa điểm cơ sở dự kiến thành lập nói riêng trong bối cảnh hiện tại và tương lai;
+ Căn cứ xây dựng đề án bao gồm căn cứ pháp lý, căn cứ thực tiễn và
căn cứ dự báo.
+ Quy mô, cơ cấu của bệnh viện: địa điểm, diện tích xây dựng bệnh;
nguồn vốn, cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị phục vụ; về tổ chức, bố trí
các khoa trong bệnh viện; nhân sự bệnh viện; phạm vi hoạt động chuyên môn
của bệnh viện. Ngoài ra phải đáp ứng các yêu cầu chung như yêu cầu đảm bảo
an toàn bức xạ, an toàn phòng cháy chữa cháy, yêu cầu về bảo vệ môi trường,
xử lý nước thải, chất thải y tế, yêu cầu về tuân thủ quy định an toàn lao động.
+ Dự kiến về tính khả thi của đề án.
Hồ sơ được lập thành 01 bộ và nộp trực tiếp hoặc qua đường bưu điện
đến Bộ Y tế. Đối với trường hợp nộp hồ sơ qua đường bưu điện thì cần lưu lại
biên lai chuyển phát để phục vụ cho quá trình thực hiện thủ tục về sau và ghi
rõ ràng, đầy đủ các thông tin. Bộ Y tế xem xét, thẩm định hồ sơ, sau khi kiểm
tra hồ sơ đã đầy đủ và hợp lệ về mặt giấy tờ pháp lý, Bộ Y tế thành lập đoàn
38
thẩm định và tiến hành thẩm tra tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để cấp giấy
phép hoạt động. Trường hợp không cấp giấy phép Bộ Y tế có văn bản trả lời
nêu lý do và hướng dẫn hoàn thiện. Người làm thủ tục đến nhận kết quả như
trên phiếu hẹn. Thời gian thực hiện cấp giấy phép: 90 ngày kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì không quá 10 ngày làm việc, kể
từ ngày ghi trên Phiếu tiếp nhận hồ sơ, Bộ Y tế có văn bản thông báo cho cơ
sở xin cấp giấy phép hoàn thiện lại hồ sơ theo quy định. Thời gian giải quyết
thủ tục sẽ tính từ ngày nhận đủ hồ sơ bổ sung. Về phí, lệ phí xin cấp giấy
phép được quy định: Phí thẩm định cấp giấy phép hoạt động cho Bệnh viện:
10.500.000 đồng và lệ phí cấp giấy phép hoạt động: 350.000 đồng.
Sau khi cấp giấy phép hoạt động, cơ quan đã cấp giấy phép hoạt động
phải thực hiện các thủ tục sau đây:
- Bộ Y tế gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Y tế
nơi bệnh viện đã được cấp giấy phép hoạt động đặt trụ sở trong thời gian 30
ngày, kể từ ngày cấp, cấp lại, điều chỉnh giấy phép hoạt động;
- Sở Y tế gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện) và phòng y tế cấp huyện nơi bệnh viện
đã được cấp giấy phép hoạt động đặt trụ sở trong thời gian 30 ngày, kể từ
ngày cấp, cấp lại, điều chỉnh giấy phép hoạt động;
- Bộ Y tế đăng tải thông tin cơ sở bệnh viện được cấp, giấy phép hoạt
động thuộc thẩm quyền lên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế. Sở Y tế đăng
tải thông tin cơ sở bệnh viện được cấp giấy phép hoạt động thuộc thẩm quyền
lên Trang thông tin điện tử của Sở Y tế.
Trình tự thủ tục thành lập bệnh viện tư nhân căn cứ vào điều 47 Luật
khám bệnh, chữa bệnh 2009 và điều 43 Nghị định 109/2016/NĐ-CP.Ngoài ra
trình tự, thủ tục cấp lại, điều chỉnh giấy phép hoạt động cũng được quy định
cụ thể trong Nghị định này. Tuy chưa có những quy định riêng nhưng Luật
39
KCB và Nghị định 109/2016/NĐ-CP là cơ sở pháp lý cụ thể, phù hợp cho
viêc thành lập tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư nhân.
Ngoài ra, do nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng gia
tăng, những người có nhu cầu ra nước ngoài điều trị bệnh trở nên phổ biến.
Vậy nên sẽ thuận lợi hơn rất nhiều nếu nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp mở
bệnh viện đa khoa tại Việt Nam. Chủ trương xã hội hóa y tế, Việt Nam đã có
nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, việc thành lập bệnh viện có vốn đầu tư
nước ngoài hiện nay không còn nhiều khó khăn. Để thành lập bệnh viện có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư phải tìm địa điểm để thuê phù
hợp với quy hoạch tổng thể của tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Nhà
đầu tư có thể liên hệ với sở tài nguyên và môi trường của tỉnh, thành phố để
được giới thiệu. Sau khi đã có chấp thuận chủ trương về việc cho thuê đất, địa
điểm để xây dựng bệnh viện, nhà đầu tư sẽ tiến hành thủ tục thành lập công ty
100% vốn nước ngoài để vận hành và xây dựng bệnh viện. Cụ thể nhà đầu tư
cần xin giấy chứng nhận đăng kí đầu tư, giấy chứng nhận đăng kí doanh
nghiệp và giấy phép hoạt động khám, chữa bệnh đối với bệnh viện. Căn cứ
theo khoản 1, điều 33, Luật đầu tư 2014, nhà đầu tư chuẩn bị hồ sơ thực hiện
thủ tục đăng kí đầu tư tại Sở kế hoạch và đầu tư như sau:
-Văn bản đề nghị thực hiện dự án đầu tư;
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với
nhà đầu tư là cá nhân; bản sao Giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương
đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức;
- Đề xuất dự án đầu tư bao gồm các nội dung: nhà đầu tư thực hiện dự
án, mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư, vốn đầu tư và phương án huy động vốn,
địa điểm, thời hạn, tiến độ đầu tư, nhu cầu về lao động, đề xuất hưởng ưu đãi
đầu tư, đánh giá tác động, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án;
40
- Bản sao một trong các tài liệu sau: báo cáo tài chính 02 năm gần nhất
của nhà đầu tư; cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ; cam kết hỗ trợ tài
chính của tổ chức tài chính; bảo lãnh về năng lực tài chính của nhà đầu tư; tài
liệu thuyết minh năng lực tài chính của nhà đầu tư;
- Đề xuất nhu cầu sử dụng đất; trường hợp dự án không đề nghị Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì nộp
bản sao thỏa thuận thuê địa điểm hoặc tài liệu khác xác nhận nhà đầu tư có
quyền sử dụng địa điểm để thực hiện dự án đầu tư.
Thời hạn và thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư được quy định tại điều
37 và điều 38 của Luật này. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ
sơ, Sở Kế hoạch Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, trường hợp từ
chối phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư và nêu rõ lý do.
Sau khi có giấy phép đầu tư, nhà đầu tư tiến hành xin giấy phép đăng kí
doanh nghiệp và con dấu. Doanh nghiệp tự quyết định loại dấu, hình thức và
số lượng con dấu của mình. Luật Doanh nghiệp 2020 được Quốc hội thông
qua vào kì họp thứ 9 ngày 17/06/2020 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2021 đã bãi bỏ thủ tục thông báo mẫu dấu, đồng thời quy định doanh
nghiệp có thể sử dụng dấu "số" thay cho dấu "truyền thống”. Đồng thời, luật
mới cũng thiết lập cơ chế đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử
với bộ hồ sơ điện tử mà không phải nộp thêm bộ hồ sơ giấy như hiện nay. Hồ
sơ trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp thực hiện
tương tự doanh nghiệp vốn Việt Nam theo Luật doanh nghiệp 2014. Hồ sơ
cần chuẩn bị gồm:
- Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp;
- Điều lệ công ty;
- Danh sách thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc danh sách cổ
đông của công ty cổ phần;
41
- Bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực:
+ Giấy CMND, còn hiệu lực hoặc Hộ chiếu còn hiệu lực đối với cá nhân;
+ Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với tổ chức và kèm theo
giấy tờ chứng thực cá nhân, văn bản uỷ quyền của người đại diện theo uỷ
quyền của tổ chức ;
+ Quyết định góp vốn đối với thành viên công ty, cổ đông công ty là tổ chức.
Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho nhà đầu tư trong thời hạn 03 –
05 ngày làm việc.
Trường hợp từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Sở Kế
hoạch và đầu tư phải có văn bản thông báo và nêu rõ lý do cho nhà đầu tư.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, nhà đầu tư
phải thực hiện thủ tục công bố nội dung đăng ký kinh doanh trên Cổng thông
tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày công
khai. Hoàn tất việc thành lập công ty, lấy được giấy chứng nhận đầu tư và
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty sẽ tiến hành ký kết hợp đồng
thuê đất/thuê địa điểm, xây dựng bệnh viện theo thiết kế đã được phê duyệt.
Việc xin cấp giấy phép hoạt động khám, chữa bệnh đối với bệnh viện có vốn
đầu tư nước ngoài cũng được tiến hành theo quy định của Luật KCB và Nghị
định 109/2016/NĐ-CP.
Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư theo hình thức liên doanh hoặc
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh bên cạnh hình
thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu
tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều
37 của Luật này. Nội dung của hợp đồng BBC được quy định tại Điều 29 của
Luật này, cụ thể:
42
“Hợp đồng BCC gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp
đồng; địa chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án;
b) Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh;
c) Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu
tư kinh doanh giữa các bên;
d) Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng;
e) Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng;
g) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
2. Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp
đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh
để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
3. Các bên tham gia hợp đồng BCC có quyền thỏa thuận những nội
dung khác không trái với quy định của pháp luật.”
Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân người nước ngoài, doanh nghiệp, tổ
chức nước ngoài góp vốn, mua cổ phần tại công ty 100% vốn Việt Nam. Việc
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp dẫn đến nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ
từ 51% vốn điều lệ trở lên của công ty Việt Nam. Để nhà đầu tư nước ngoài
cùng góp vốn với người Việt Nam thì cần thành lập công ty 100% vốn Việt
Nam để có giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và con dấu, 100% vốn phải
là của người hoặc tổ chức Việt Nam. Sau đó làm thủ tục để cổ đông nước
ngoài mua hoặc góp thêm vốn vào công ty Việt Nam. Đối với công ty cổ
phần, nhà đầu tư thực hiện đầu tư thông qua thông qua việc mua cổ phần của
công ty hoặc cổ đông được phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm
của công ty. Đối với Công ty TNHH thì thông qua việc mua phần vốn góp của
các thành viên công ty để trở thành thành viên của công ty.
43
Hồ sơ đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp gồm:
-Văn bản đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp gồm những nội
dung: thông tin về tổ chức kinh kế mà nhà đầu tư nước ngoài dự kiến góp
vốn, mua cổ phần, phần vốn góp; tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước
ngoài sau khi góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế
- Bản sao chứng minh nhân dân, thẻ căn cước hoặc hộ chiếu đối với
nhà đầu tư là cá nhân; bản sao giấy chứng nhận thành lập hoặc tài liệu tương
đương khác xác nhận tư cách pháp lý đối với nhà đầu tư là tổ chức.
Thủ tục đăng ký góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp:
- Nhà đầu tư nộp hồ sơ quy định tại Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi tổ chức
kinh tế đặt trụ sở chính
- Trường hợp việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài đáp ứng điều kiện, Sở Kế hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn
bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ để nhà đầu tư thực hiện
thủ tục thay đổi cổ đông, thành viên theo quy định của pháp luật. Trường hợp
không đáp ứng điều kiện, Sở Kế hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn bản cho
nhà đầu tư và nêu rõ lý do.
Nếu như hồ sơ hợp lệ, được cấp văn bản đủ điều kiện góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp, tiếp tục thực hiện thủ tục chuyển nhượng vốn từ cá nhân, tổ
chức Việt Nam sang cho cá nhân/ tổ chức nước ngoài. Chuẩn bị hồ sơ bao gồm:
- Biên bản họp, quyết định (đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên,
công ty cổ phần), Quyết định của chủ sở hữu (đối với công ty TNHH 1 thành
viên) về việc chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp cho người
nước ngoài
- Hợp đồng chuyển nhượng + biên bản thanh lý hợp đồng chuyển nhượng
- Hộ chiếu công chứng (cá nhân), đăng ký kinh doanh hợp pháp hóa
lãnh sự (đổi với tổ chức)
44
- Văn bản ủy quyền thực hiện thủ tục (trong trường hợp người đại diện
không trực tiếp thực hiện thủ tục)
- Chứng minh thư công chứng (người được ủy quyền, trong trường hợp
người đại diện không trực tiếp thực hiện thủ tục)
- Văn bản đủ điều kiện góp vốn/ mua cổ phần, phần vốn góp (bản gốc)
Thủ tục: Nộp hồ sơ qua mạng: Doanh nghiệp tiến hành scan các văn
bản giấy tờ trên và nôp qua trang dangkykinhdoanh.gov.vn.
Thời gian: Sau 3 ngày làm việc, phòng đăng ký kinh doanh sẽ trả kết
quả xử lý hồ sơ, nếu hồ sơ ra thông báo bổ sung, doanh nghiệp sửa hồ sơ và
nộp lại từ đầu. Trong trường hợp hồ sơ hợp lệ, doanh nghiệp nộp hồ sơ bản
cứng trực tiếp tại Sở kế hoạch đầu tư và lấy giấy phép đăng ký doanh nghiệp
trong ngày.
Thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn mua cổ phần căn cứ theo khoản
1, điều 23 Luật đầu tư và điều 46 Nghị định 118/2015/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư. Với cách thức này,
nhà đầu tư sẽ không cần chứng minh số vốn góp, có nghĩa là không cần xác
nhận số dư trong tài khoản ngân hàng có đủ số vốn đầu tư. Nhà đầu tư cũng
không cần thực hiện xin giấy phép đầu tư, giảm thiểu thủ tục khi có sự thay
đổi các nội dung đăng ký doanh nghiệp với cơ quan nhà nước. Cụ thể:
Thủ tục thay đổi đơn giản: Khi doanh nghiệp chỉ có Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp chỉ phải thực hiện khi có sự thay đổi tên công ty, địa
chỉ công ty, thông tin chủ sở hữu,…thực hiện thủ tục giống như doanh nghiệp
Việt Nam;
Không phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo tình hình thực hiện dự án, báo
cáo giám sát đầu tư…;
Không phải thực hiện các thủ tục cập nhật thông tin đầu tư trên hệ
thống quản lý về đầu tư.
45
Các yếu tố quan trọng khiến Việt Nam có thể thu hút đầu tư nước ngoài
vào ngành y tế nói chung và việc thành lập bệnh viện nói riêng là do dân số,
tăng trưởng kinh tế, lối sống thay đổi, mô hình chăm sóc sức khỏe và nhu cầu
bảo hiểm y tế đặc biệt là hành lang pháp lý liên quan đến đầu tư. Nhìn chung
các quy định của Luật đầu tư 2014, Luật doanh nghiệp 2014 phù hợp với Hiến
pháp 2013 và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, vừa tạo điều kiện
tốt nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài vừa là cơ sở vững chắc cho Nhà nước
quản lý hiệu quả hoạt động đầu tư. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
Chính phủ và các bộ, ngành ban hành để quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
luật nhằm giảm thiểu các khó khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư nước
ngoài khi tiếp cận thị trường Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động đầu tư nhất là
đầu tư trong lĩnh vực y tế, lĩnh vực thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (vốn FDI) chưa cao, vẫn còn là một trong những hoạt động còn mới
trong nền kinh tế của Viêt Nam và trong bối cảnh nước ta đang mở cửa về
kinh tế, đẩy nhanh tiến độ hội nhập toàn cầu thì các quy định về đầu tư cũng
cần thường xuyên phải thay đổi cho phù hợp, tránh tình trạng các quy định
chồng chéo, mâu thuẫn hay lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế. Vì thế
ngày 17/06/2020 Quốc hội đã thông qua Luật đầu tư (sửa đổi) và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2021. Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong đó có cả các doanh nghiệp có vốn
FDI. Luật điều chỉnh trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài phải đăng kí góp
vốn, mua cổ phần, mua phần góp vốn của doanh nghiệp. Bổ sung quy định về
nguyên tắc, điều kiện áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư để bảo đảm hiệu quả,
chất lượng của việc thực hiện chính sách này (như: áp dụng ưu đãi có thời
hạn, theo kết quả thực hiện dự án; nhà đầu tư phải bảo đảm đáp ứng điều kiện
ưu đãi trong thời gian được hưởng ưu đãi theo quy định của pháp luật). Đặc
46
biệt, Luật Đầu tư (sửa đổi) bổ sung quy định cho phép Thủ tướng Chính phủ
áp dụng ưu đãi đặc biệt để tạo cơ chế, chính sách đủ sức hấp dẫn, kịp thời thu
hút dòng vốn FDI đang dịch chuyển nhanh chóng trong bối cảnh hiện nay.
Cho phép áp dụng ưu đãi tối đa thêm 50% so với mức cao nhất theo quy định
của Luật hiện hành. Thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực y tế sẽ tạo được
sức bật trong phát triển cơ sở hạ tầng, trang thiết bị giúp giảm tải, chăm sóc
sức khỏe nhân dân được tốt.
2.1.4. Quy định về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư nhân
* Về tổ chức của bệnh viện tư nhân
Tổ chức của bệnh viện tư nhân căn cứ theo mẫu điều lệ bệnh viện tư
nhân tại phụ lục XI Nghị định 109/2016/NĐ-CP. Theo điều lệ, cơ cấu tổ chức
bệnh viện tư nhân bao gồm: hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên đối
với bệnh viện; Giám đốc, các Phó Giám đốc bệnh viện; các Hội đồng trong
bệnh viện; các phòng chức năng; các khoa, bộ phận chuyên môn.
Hội đồng thành viên là cơ quan quyền lực cao nhất trong bệnh viện
thành lập theo mô hình công ty TNHH và công ty hợp danh. Hội đồng thành
viên là cơ quan mang tính tập thể, thực hiện chức năng thông qua cuộc họp và
quyết định trên cơ sở biểu quyết của các thành viên tại cuộc họp hội đồng
thành viên.
Bệnh viện tư thành lập theo hình thức công ty cổ phần sẽ có hội đồng
quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý bệnh viện, thực hiện chức năng
quản lý thay cho đại hội đồng cổ đông khi đại hội đồng cổ đông không họp.
Hội đồng quản trị thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc
thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có từ 3 đến 11 thành
viên, nhiệm kỳ không quá 5 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ
không hạn chế.
47
Hội đồng thành viên hay hội đồng quản trị có quyền quyết định chiến
lược và kế hoạch phát triển hàng năm của doanh nghiệp; quyết định về vốn,
về dự án đầu tư phát triển doanh nghiệp; quyết định về cơ cấu tổ chức, tổ
chức lại; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch
Hội đồng quản trị; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, ký và chấm
dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, và người quản lý khác
quy định tại Điều lệ công ty. Hội đồng thành viên hay hội đồng quản trị có
các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp đối với từng
loại hình doanh nghiệp cụ thể (Phụ lục).
Nhiệm vụ quyền hạn của giám đốc, phó giám đốc, trưởng khoa căn cứ
vào Quyết định 1895/1997/QĐ-BYT về việc ban hành quy chế bệnh viện.
Trong đó, giám đốc chịu trách nhiệm trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động
của bệnh viện, Phó giám đốc là người giúp giám đốc về từng mặt công tác do
giám đốc phân công và chịu trách nhiệm trước giám đốc về những quyết định
của mình. Phó giám đốc được quyền thay giám đốc giải quyết những công việc
theo giấy uỷ quyền của giám đốc và phải báo cáo lại những công việc đã giải
quyết với giám đốc. Vì là doanh nghiệp nên trong ban giám đốc bệnh viện tư
nhân sẽ có giám đốc điều hành, giám đốc tài chính, giám đốc hoặc phó giám
đốc y khoa. Hội đồng thành viên, hội đồng quản trị hay các giám đốc tài chính,
điều hành là điểm khác biệt so với tổ chức bệnh viện công lập. Cơ cấu tổ chức
này sẽ đảm bảo đồng thời hiệu quả hoạt động kinh doanh và hoạt động chuyên
môn của bệnh viện tư. Tổ chức bệnh viện không đơn thuần như một doanh
nghiệp, mà là tổ chức chuyên sâu về chuyên môn, trưởng khoa chịu toàn bộ
trách nhiệm pháp lý về những hoạt động chuyên môn do vậy cách quản lý kinh
doanh cũng khác với doanh nghiệp thông thường.
Nhân sự bệnh viện được quy định tại khoản 5 điều 23 Nghị định
109/2016/NĐ-CP. Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của bệnh
48
viện phải đáp ứng các điều kiện sau: Là bác sỹ có chứng chỉ hành nghề phù
hợp với ít nhất một trong các chuyên khoa mà bệnh viện đăng ký hoạt động;
Có thời gian khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 54 tháng, việc phân công, bổ
nhiệm người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện phải được
thể hiện bằng văn bản. Trưởng khoa lâm sàng phải đáp ứng các điều kiện sau:
Là bác sỹ có chứng chỉ hành nghề phù hợp với chuyên khoa đó; có thời gian
khám bệnh, chữa bệnh tại chuyên khoa đó ít nhất là 54 tháng, việc phân công,
bổ nhiệm trưởng khoa phải được thể hiện bằng văn bản. Trưởng các khoa cận
lâm sàng, khoa chẩn đoán hình ảnh, khoa X-quang phải có chứng chỉ hành
nghề chuyên môn, có thời gian hành nghề chuyên khoa ít nhất 36 tháng và
phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể về điều kiện theo quy định tại Nghị định
109/2016/NĐ-CP. Trưởng khoa khác không thuộc đối tượng cấp chứng chỉ
hành nghề phải đáp ứng các điều kiện sau: Tốt nghiệp đại học và có thời gian
làm việc tại chuyên khoa đó ít nhất là 36 tháng kể từ ngày được cấp bằng tốt
nghiệp đại học đến ngày được phân công, bổ nhiệm làm trưởng khoa. Việc
phân công, bổ nhiệm trưởng khoa phải được thể hiện bằng văn bản. Trưởng
khoa dược phải đáp ứng các quy định tại Khoản 1 Điều 7 Thông tư
số 22/2011/TT-BYT ngày 10 tháng 6 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy
định tổ chức và hoạt động của khoa Dược bệnh viện. Các trưởng khoa là
người hành nghề cơ hữu tại bệnh viện.
Chứng chỉ hành nghề KCB là văn bằng của cơ quan nhà nước cấp
cho cá nhân trong nước và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, có đủ chuyên
môn và kinh nghiệm để hoạt động trong lĩnh vực KCB. Bác sỹ, y sỹ, điều
dưỡng viên, kỹ thuật viên, hộ sinh viên làm việc tại bệnh viện tư nhân phải có
chứng chỉ hành nghề và phải đáp ứng các yêu cầu quy định tại điều 18 Luật
KCB 2009 để được cấp chứng chỉ hành nghề: có văn bằng chuyên môn liên
quan đến y tế, được cấp hoặc công nhận tại Việt Nam; có văn bản xác nhận
49
quá trình thực hành; Có giấy chứng nhận đủ sức khỏe để hành nghề KCB;
không thuộc các trường hợp bị cấm hành nghề, bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, bị kỷ luật, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc cấp chứng chỉ
hành nghề đối với người nước ngoài hành nghề ngoài việc có đủ điều kiện
quy định tại điều 18 Luật KCB, phải đáp ứng yêu cầu về sử dụng ngôn ngữ
trong KCB quy định tại điều 23 Luật KCB, có lí lịch tư pháp được cơ quan có
thẩm quyền của nước sở tại xác nhận và có giấy phép lao động được cấp theo
quy định của pháp luật Việt Nam về lao động.
Hồ sơ đề nghị cấp lần đầu chứng chỉ hành nghề đối với người Việt
Nam, người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại điều 5, điều 6 Nghị
định 109/2016/NĐ-CP đáp ứng các yêu cầu về điều kiện cấp chứng chỉ hành
nghề tại Luật KCB. Việc điều chỉnh, cấp lại chứng chỉ cũng thực hiện theo
quy định của Nghị định này. Trình tự, thủ tục cấp, cấp lại chứng chỉ hành
nghề căn cứ vào điều 10 Nghị định 109/2016/NĐ-CP như sau:
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại chứng chỉ hành nghề, Bộ
Y tế hoặc Sở Y tế cấp cho người đề nghị phiếu tiếp nhận hồ sơ theo mẫu quy
định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định này. Trường hợp nộp hồ sơ
trực tiếp tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ, nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định thì cơ
quan tiếp nhận hồ sơ gửi ngay cho người đề nghị cấp, cấp lại chứng chỉ hành
nghề phiếu tiếp nhận hồ sơ. Trường hợp hồ sơ gửi theo đường bưu điện thì
trong thời hạn 02 ngày, tính từ thời điểm nhận được hồ sơ (tính theo dấu bưu
điện đến), cơ quan tiếp nhận hồ sơ gửi Phiếu tiếp nhận cho người đề nghị cấp,
cấp lại chứng chỉ hành nghề. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày ghi trên
Phiếu tiếp nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ phải tiến hành thẩm định hồ sơ
và có biên bản thẩm định. Trường hợp hồ sơ hợp lệ, thì trong thời hạn 10
ngày làm việc, kể từ ngày có biên bản thẩm định, cơ quan tiếp nhận hồ sơ cấp,
cấp lại chứng chỉ hành nghề. Trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì trong thời hạn
50
5 ngày làm việc, kể từ ngày ghi trên phiếu tiếp nhận hồ sơ, cơ quan phải có
văn bản thông báo cho người đề nghị cấp chứng chỉ hành nghề để hoàn chỉnh
hồ sơ. Trường hợp cơ quan tiếp nhận hồ sơ đã có yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ
sơ mà trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cơ quan tiếp nhận hồ sơ có văn bản
yêu cầu nhưng người đề nghị cấp, cấp lại chứng chỉ hành nghề không bổ
sung, sửa đổi hồ sơ thì phải thực hiện lại từ đầu hồ sơ, thủ tục đề nghị cấp,
cấp lại chứng chỉ hành nghề.
Các quy định về cấp chứng chỉ hành nghề KCB hiện nay nhìn chung đã
đầy đủ, cụ thể và phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Tuy nhiên
Luật khám bệnh, chữa bệnh không quy định thời hạn giá trị của chứng chỉ
hành nghề. Việc không xác định thời hạn không tạo ra cơ chế để giúp cơ quan
quản lý nhà nước theo dõi, giám sát việc quản lý chất lượng người hành nghề
khi chuẩn hóa các điều kiện chuyên môn, cập nhật kiến thức y khoa liên tục
và quá trình hành nghề của người hành nghề. Bên cạnh đó, chứng chỉ hành
nghề KCB không xác định thời hạn không phù hợp với pháp luật cũng như
thông lệ quốc tế, gây khó khăn cho việc hội nhập của y tế Việt Nam với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
* Về hoạt động của bệnh viện tư nhân
Trên cơ sở Danh mục kỹ thuật ban hành kèm theo Thông tư
43/2013/TT-BYT, bệnh viện tư nhân căn cứ vào các điều kiện sau đây để xây
dựng Danh mục kỹ thuật thực hiện tại cơ sở mình trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xem xét, phê duyệt:
- Phạm vi hoạt động chuyên môn, hình thức tổ chức, quy mô hoạt động
của bệnh viện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Điều kiện thực tế về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực và trình độ
chuyên môn của bệnh viện. [3]
Phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong chứng chỉ hành nghề
51
của người đứng đầu bệnh viện và những người chịu trách nhiệm về chuyên
môn đối với từng chuyên khoa của bệnh viện và giấy phép hoạt động của
bệnh viện.
Đối với bác sĩ đa khoa: Được phép thực hiện khám bệnh, chữa bệnh các
bệnh thông thường, các kỹ thuật chuyên môn thuộc tuyến 4 và một số kỹ thuật
chuyên môn thuộc tuyến 3 theo quy định của Thông tư 43/2013/TT – BYT.
Đối với các bác sĩ chuyên khoa: Bác sỹ được cấp chứng chỉ hành nghề
có phạm vi hoạt động chuyên môn thuộc chuyên khoa nào thì được phép thực
hiện toàn bộ các dịch vụ chuyên môn kỹ thuật của chuyên ngành đó theo danh
mục chuyên khoa, chuyên ngành quy định tại Thông tư 43/2013/TT-BYT.
Bác sỹ chuyên khoa này có thể được thực hiện 1 số kỹ thuật của chuyên
ngành khác thì kỹ thuật đó phải được ghi hoặc bổ sung phạm vi hoạt động
chuyên môn trong chứng chỉ hành nghề hoặc danh mục kỹ thuật kèm theo
chứng chỉ hành nghề. Người hành nghề là bác sĩ khám bệnh, chữa bệnh bằng
dinh dưỡng, tiết chế được phép thực hiện các kỹ thuật chuyên môn trong lĩnh
vực dinh dưỡng, tiết chế. Người làm việc tại khoa hoặc đơn vị kiểm soát
nhiễm khuẩn đồng thời trực tiếp khám bệnh, chữa bệnh thì phạm vi hoạt động
chuyên môn trong chứng chỉ hành nghề ghi khám bệnh, chữa bệnh chuyên
khoa đó.
Đối với bác sĩ y học dự phòng: Phát hiện và xử trí các bệnh thông
thường theo danh mục kèm theo Thông tư 43 và xử trí ban đầu một số trường
hợp cấp cứu tại cộng đồng.
Đối với y sỹ: Được phép tham gia sơ cứu ban đầu, khám bệnh, chữa bệnh
thông thường theo quy định tại Thông tư liên tịch 10/2015/TTLT-BYT-BNV.
Đối với điều dưỡng viên và hộ sinh viên: Thực hiện theo quy định
tại Thông tư 26/2015/TTLTBYT-BNV.
Đối với kỹ thuật viên: Phạm vi hoạt động chuyên môn nào thì được
52
thực hiện các kỹ thuật y học của kỹ thuật viên chuyên ngành đó theo quy định
tại Thông tư liên tịch 26/2015/TTLTBYT-BNV.
Bệnh viện tư nhân hoạt động trong phạm vi hoạt động chuyên môn có
quyền và trách nhiệm được quy định tại điều 52 và 53 Luật khám bệnh, chữa
bệnh 2009. Bệnh viện được thực hiện các hoạt động khám, chữa bệnh theo
quy định của Luật này; được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu trong quá
trình khám bệnh, chữa bệnh mà tiên lượng bệnh vượt quá khả năng hoặc trái
phạm vi hoạt động chuyên môn được ghi trong giấy phép hoạt động nhưng
phải giới thiệu người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác để giải
quyết, phải thực hiện việc sơ cứu, cấp cứu, theo dõi, chăm sóc, điều trị cho
người bệnh cho đến khi người bệnh được chuyển đi cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh khác. Bệnh viện được thu các khoản chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo
quy định của pháp luật và được hưởng chế độ ưu đãi khi thực hiện các hoạt
động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
Bệnh viện tư nhân có trách nhiệm tổ chức việc cấp cứu, khám bệnh,
chữa bệnh kịp thời cho người bệnh; thực hiện quy định về chuyên môn kỹ
thuật và các quy định khác của pháp luật có liên quan; công khai thời gian
làm việc, niêm yết giá dịch vụ và thu theo đúng giá đã niêm yết; báo cáo cơ
quan cấp giấy phép hoạt động trong trường hợp thay đổi người chịu trách
nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người
hành nghề là người nước ngoài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế; bảo
đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề
theo quy định của Luật khám, chữa bệnh; bảo đảm các điều kiện cần thiết để
người hành nghề thực hiện khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi hoạt động
chuyên môn được phép; chấp hành quyết định huy động của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong trường hợp xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh
nguy hiểm; trường hợp dừng hoạt động, bệnh viện có trách nhiệm chuyển
53
người bệnh, hồ sơ bệnh án đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phù hợp và quyết
toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh với người bệnh.
Trong hoạt động KCB, KCB BHYTđược triển khai ngày càng nhiều tại
các bệnh viện tư nhân. Theo khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm y tế 2008 sửa đổi,
bổ sung 2014: Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng đối
với các đối tượng theo quy định của Luật này để chăm sóc sức khỏe, không vì
mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện. Bảo hiểm y tế (bảo hiểm
sức khỏe) là loại hình bảo hiểm thuộc lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Theo đó, người mua bảo hiểm y tế sẽ được chi trả một phần hoặc toàn bộ chi
phí thăm khám, điều trị, phục hồi sức khỏe,… nếu không may xảy ra tai nạn,
ốm đau. BHYT của nhà nước cơ cấu và tổ chức nhằm phục vụ, bảo vệ nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. BHYT do nhà nước cung cấp không
nhằm mục đích lợi nhuận mà là một chính sách xã hội. Vì thế, người dân sẽ
có trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm theo quy định của luật bảo
hiểm mà nhà nước ban hành. Hiện bảo hiểm y tế có 2 hình thức tham gia là
bảo hiểm y tế bắt buộc và bảo hiểm y tế tự nguyện.
Theo Nghị định 146/2018/NĐ-CP, quy định chi tiết về nhóm 06 đối
tượng tham gia BHY bắt buộc bao gồm:
- Nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng;
- Nhóm do cơ quan bảo hiểm xã hội đóng;
- Nhóm do ngân sách Nhà nước đóng;
- Nhóm được ngân sách Nhà nước hỗ trợ mức đóng;
- Nhóm tham gia Bảo hiểm y tế theo hộ gia đình;
- Nhóm do người sử dụng lao động đóng.
Theo quy định mới nhất tại Nghị định 146/2018/NĐ-CP, đối tượng
tham gia của bảo hiểm y tế tự nguyện là những người không thuộc 6 nhóm
tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
54
Nếu như trước đây những người có thẻ bảo hiểm y tế chỉ được khám
chữa bệnh ở bệnh viện công lập thì nay họ có thêm cơ hội khám chữa bệnh ở
các cơ sở y tế tư. Các bệnh viện tư tham gia BHYT ngày càng đông, do nhu
cầu bệnh nhân BHYT muốn được khám, chữa bệnh tại bệnh viện tư ngày
càng tăng. Quy định chung về KCB BHYT tại các cơ sở KCB tư nhân cũng
như tại các cơ sở y tế công lập đều phải tuân thủ theo đúng Luật BHYT, Luật
KCB và các văn bản hướng dẫn hiện hành. Điều kiện để ký hợp đồng KCB
BHYT đối với cơ sở y tế tư nhân gồm: Có đủ điều kiện để ký hợp đồng KCB
theo quy định của pháp luật về KCB và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp
giấy phép hoạt động KCB; có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy
phép đầu tư theo quy định của pháp luật; đảm bảo việc cung ứng thuốc, hóa
chất, vật tư y tế phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn của cơ sở KCB.
Ngoài ra, cần có quyết định tuyến chuyên môn kỹ thuật, quyết định phê duyệt
danh mục kỹ thuật của cấp có thẩm quyền để làm cơ sở thanh quyết toán KCB
BHYT. Điều kiện, nội dung hồ sơ đăng kí KCB BHYT được quy định tại điều
16, điều 17 Nghị định 146/2018/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn biện
pháp thi hành một số điều của luật BHYT. Khoản 3, điều 7 Thông tư liên tịch
41/2014/TTLT-BYT-BTC Hướng dẫn thực hiện BHYT quy định thu tục
KCB BHYT.
Người dân được đăng ký nơi KCB BHYT ban đầu tại các bệnh viện tư
nhân có đăng ký KCB ban đầu và đã ký hợp đồng KCB BHYT với cơ quan
BHXH, và được hưởng quyền lợi theo đúng quy định của Luật BHYT. Người
dân khi đi KCB BHYT đúng tuyến tại các bệnh viện tư nhân sẽ được quỹ
BHYT thanh toán chi phí KCB trong phạm vi được hưởng với mức hưởng tùy
theo từng đối tượngtham gia BHYT (100%, 95%, 80%) theo quy định tại
khoản 15, Điều 1 Luật bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung năm 2014. Nếu đi KCB
BHYT trái tuyến tại các bệnh viện tư nhân sẽ được quỹ BHYT thanh toán chi
55
phí KCB trong phạm vi được hưởng theo tỷ lệ: tại bệnh viện tuyến trung ương
là 40% chi phí điều trị nội trú; tại bệnh viện tuyến tỉnh là 60% chi phí điều trị
nội trú; tại bệnh viện tuyến huyện là 100% chi phí KCB căn cứ vào khoản 15,
điều 1 Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Tháng 11-2017, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã có văn bản về việc ký
hợp đồng và thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT năm 2018, trong đó
nêu rõ: Cơ sở y tế tư nhân phải có thêm quyết định phân tuyến chuyên môn
kỹ thuật của cấp có thẩm quyền và biên bản thống nhất áp dụng mức giá theo
hạng bệnh viện công lập tương đương. Đáp ứng yêu cầu của Bảo hiểm xã hội
Việt Nam đảm bảo thực hiện chi trả khám chữa bệnh BHYT cho các cơ sở y
tế tư nhân theo đúng quy định, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 6062/QĐ-
BYT về Ban hành tiêu chí phân tuyến chuyên môn kỹ thuật và xếp hạng
tương đương đối với các cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân. Trong năm 2018 Bộ
Y tế đã duyệt chủ trương thành lập mới 16 bệnh viện tư nhân, tổ chức xét
phân tuyến và phân hạng tương đương cho 219 bệnh viện tư nhân.
Giá KCB BHYT tại bệnh viện tư nhân căn cứ theo quy đinh tại Thông
tư liên tịch số 39/2018/TT-BYT Quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và
hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một
số trường hợp (sửa đổi bổ sung ngày 05/07/2019). Tuy nhiên có một số vướng
mắc trong việc thực hiện và thanh toán chi phí KCB BHYT. Việc thanh toán
chi phí dịch vụ phẫu thuật, thủ thuật sử dụng phương pháp gây tê, gây mê đã
được quy định tại Luật KCB 2009, Luật giá 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật BHYT ngày 13/6/2014; Nghị định 146/2018/NĐ-CP ngày
17/10/2018 của Chính phủ. Bộ Y tế cũng đã có Công văn số 6439/BYT-KH-
TC ngày 31/10/2019 đề nghị BHXH Việt Nam chỉ đạo cơ quan BHXH các
cấp tiếp tục thực hiện việc thanh toán chi phí KCB BHYT cho các cơ sở KCB
56
theo đúng mức giá đã quy định tại Thông tư số 39/2018/TT-BYT và Thông tư
số 13/2019/TT-BYT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
39/2018/TT-BYT.
Tuy nhiên, BHXH Việt Nam không thống nhất theo đề nghị của Bộ Y
tế mà cho rằng, hai phương pháp vô cảm gây tê, gây mê khác nhau về kỹ
thuật và chi phí thực hiện, chính vì vậy trong Thông tư số 39/2018/TT-BYT
có những phẫu thuật, thủ thuật được quy định mức giá riêng khi áp dụng
phương pháp vô cảm gây mê hoặc gây tê. Do đó, việc Bộ Y tế yêu cầu cơ
quan BHXH và người dân thanh toán chi phí của các loại phẫu thuật, thủ
thuật sử dụng phương pháp vô cảm gây tê bằng mức giá của phẫu thuật, thủ
thuật có kết cấu thuốc gây mê là không hợp lý. Để đảm bảo tiến độ quyết toán
chi phí KCB BHYT của năm 2019 theo đúng quy định của Luật BHYT và các
văn bản hướng dẫn thi hành, ngày 14/4/2020, BHXH Việt Nam đã có Công
văn số 1163/BHXH-CSYT về việc hướng dẫn thanh toán tạm thời đối với
phẫu thuật sử dụng phương pháp vô cảm gây tê chưa được quy định giá. Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, một số nội dung hướng dẫn tại
Công văn số 1163/BHXH-CSYT không không phù hợp và nếu có thực hiện
sẽ tiếp tục gây khó khăn, vướng mắc cho cơ sở y tế, cụ thể:
Tại mục 2 Công văn số 1163/BHXH-CSYT yêu cầu: “Đối với các phẫu
thuật trong cơ cấu giá có kết cấu chi phí các thuốc, hóa chất, vật tư y tế sử dụng
trong gây mê: thanh toán bằng mức giá quy định tại Thông tư số 39/2018/TT-
BYT hoặc Thông tư số 13/2019/TT-BYT trừ đi (-) toàn bộ chi phí thuốc được
kết cấu trong cơ cấu giá (Phụ lục số 03 kèm theo). BHXH các tỉnh phối hợp với
cơ sở KCB xác định và thanh toán phần chi phí các thuốc dùng trong phẫu
thuật theo thực tế sử dụng. Trường hợp chưa xác định được phần chi phí thuốc
theo thực tế sử dụng thì tổng hợp vào quyết toán năm 2020”.
Với nội dung như vậy thì toàn bộ 311 phẫu thuật thuộc Phụ lục số 3 sẽ
57
được trừ bớt một khoản tiền tương ứng với số thuốc cơ cấu trong gói giá và
được liệt kê trong Phụ lục số 3. Tuy nhiên việc rà soát sau đó rất phức tạp bởi
thực tế hàng ngày có rất nhiều các phẫu thuật thực hiện, các phẫu thuật đều sử
dụng thuốc mê. Việc tách riêng số thuốc mê sử dụng cho 311 phẫu thuật trong
Phụ lục số 3 là rất bất cập. Do vậy, việc thanh toán chi phí thuốc theo thực tế
sử dụng cho 311 phẫu thuật này cũng sẽ rất khó thực hiện. Trường hợp chưa
xác định được thì cũng không thể tổng hợp vào quyết toán năm 2020.
Bên cạnh đó, trong thực tế lâm sàng, việc quyết định phương pháp vô
cảm nào phụ thuộc cụ thể vào tình hình bệnh nhân, trình độ nguồn nhân lực
và trang thiết bị y tế. Ngoài ra, có nhiều trường hợp phải thực hiện cùng lúc cả
hai phương pháp vô cảm, hoặc trong hướng dẫn chuyên môn chỉ cần gây tê
nhưng thực tế phải sử dụng phương pháp gây mê cho các bệnh kèm theo.
Việc quy định cứng nhắc chỉ được vô cảm và sau đó thanh toán cố định theo
một phương pháp vô cảm có thể sẽ làm gia tăng nguy cơ xuất hiện tai biến y
khoa, hạn chế việc áp dụng những phương pháp kỹ thuật hiện đại vừa rút
ngắn thời gian điều trị, thời gian phục hồi nhanh vừa giúp tiết kiệm chi phí
cho cơ sở khám, chữa bệnh.[25]
Bộ Y tế và BHXH đã ban hành nhiều văn bản nhằm giải quyết những
vấn đề về thanh toán chi phí KCB BHYT cụ thể: Công văn 3385/BYT-KH-
TC ngày 17/06/2019 về việc thanh toán chi phí KCB BHYT theo giá dịch vụ
y tế; Công văn số 6403/BYT-KCB ngày 30/10/2019 hướng dẫn giải quyết
một số vướng mắc trong thực hiện và thanh toán chi phí KCB BHYT; Công
văn 7691/BYT-BH ngày 31/12/2019 về việc hướng dẫn xác định tổng mức
thanh toán chi phí KCB BHYT năm 2019 của Bộ Y tế vàCông văn số
285/BHXH-CSYT ngày 25/01/2019 hướng dẫn thực hiện Thông tư số
39/2018/TT-BYT; Công văn số 4295/BHXH-CSYT ngày 15/11/2019 về việc
giải quyết khó khăn vướng mắc thực hiện chính sách BHYT của BHXH. Tuy
58
nhiên hiện nay việc thanh toán chi phí KCB BHYT cho các bệnh viện tư còn
chậm trễ, một số nội dung thanh toán chưa được BHXH giải quyết do chưa có
sự thống nhất trong thi hành chính sách pháp luật về BHYT giữa Bộ Y tế và
BHXH. “Sự thiếu thống nhất giữa hai cơ quan này dễ dẫn đến việc nhân viên
y tế phải cân nhắc lựa chọn dịch vụ kỹ thuật, ảnh hưởng đến quá trình điều trị
và tính mạng của bệnh nhân. Bên cạnh đó, việc tạm ngưng thanh toán dịch vụ
kéo dài cũng dẫn đến việc bệnh viện thiếu hụt kinh phí hoạt động, đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, các cơ sở y tế đã, đang chịu tác động và gặp vô vàn
khó khăn do dịch bệnh Covid-19 gây ra” [25].
Ngoài ra, hiện nay nhiều người dân tham gia bảo hiểm sức khỏe tự
nguyện do các công ty bảo hiểm kí hợp đồng với bệnh viện tư nhân. Người
dân sẽ được sử dụng dịch vụ y tế chất lượng cao, được công ty bảo hiểm
thanh toán viện phí lớn khi điều trị tại bệnh viện tư nhân đã kí hợp đồng.
Hoạt động khám, chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân được thực hiện theo
các quy định chung đối với bệnh viện trong Luật KCB, Luật BHYT và các
văn bản có liên quan. Luật KCB, Luật BHYT và các văn bản dưới luật là cơ
sở pháp lý quan trọng cho hoạt động chuyên môn của bệnh viện tuy nhiên vẫn
còn những khó khăn trong việc thực hiện các quy định pháp luật.
2.1.5. Quy định về tổ chức lại
Tổ chức lại là hoạt động tái cấu trúc lại doanh nghiệp bao gồm chia,
tách, hợp nhất, sáp nhập hoặc chuyển đổi doanh nghiệp sao cho phù hợp hơn
với mục tiêu doanh nghiệp hướng tới, xuất phát từ các nguyên nhân như chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp bị thay đổi, nhu cầu quản trị của công ty
thay đổi, các chủ sở hữu công ty phát sinh mâu thuẫn hoặc không thể tiếp tục
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, số thành viên công ty không còn đủ
giới hạn tối thiểu... Có thể xem như tổ chức lại là việc làm cần thiết để thúc
đẩy doanh nghiệp đi lên sau một quá trình hoạt động. Các biện pháp tổ chức
59
lại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư, tạo cơ hội cho chủ đầu tư
thay đổi hình thức kinh doanh phù hợp với với xu thế phát triển của kinh tế,
xã hội. Đối với bệnh viện tư nhân, hiện chưa có văn bản nào hướng dẫn quy
định cụ thể về việc tổ chức lại. Do vậy có thể căn cứ vào Luật doanh nghiệp
2014 để tiến hành tổ chức lại cho bệnh viện tư. Tổ chức lại doanh nghiệp
được quy định cụ thể từ 192 đến điều 199 trong Luật doanh nghiệp 2014.
Chia doanh nghiệp được quy định tại điều 192 Luật doanh nghiệp. Việc
chia doanh nghiệp là giảm quy mô nhưng làm tăng số lượng doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể chia các cổ đông, thành
viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới trong một
trong các trường hợp sau đây:
a) Một phần phần vốn góp, cổ phần của các thành viên, cổ đông cùng
với tài sản tương ứng với giá trị phần vốn góp, cổ phần được chia sang cho
các công ty mới theo tỷ lệ sở hữu trong công ty bị chia và tương ứng giá trị tài
sản được chuyển cho công ty mới;
b) Toàn bộ phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ
đông cùng với tài sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp họ được
chuyển sang cho các công ty mới;
Tách doanh nghiệp được quy định tại điều 193 của Luật này. Công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách bằng cách chuyển một phần
tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty hiện có (sau đây gọi là công ty bị tách)
để thành lập một hoặc một số công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
mới (sau đây gọi là công ty được tách) mà không chấm dứt tồn tại của công ty
bị tách.
Hợp nhất doanh nghiệp được quy định tại điều 194. Đối tượng áp dụng
là công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Hai hoặc một số công
ty (công ty bị hợp nhất) có thể hợp nhất thành một công ty mới (công ty bị
60
hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang công ty hợp nhất.
Sáp nhập doanh nghiệp được quy định tại điều 195. Một hoặc một số
công ty (công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (công ty
nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công
ty bị sáp nhập.
Hệ quả pháp lý: Doanh nghiệp bị chia, hợp nhất hoặc chuyển đổi sẽ
chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm các doanh nghiệp mới được đăng ký kinh
doanh. Trong khi đó, việc tách một doanh nghiệp không làm chấm dứt hoạt
động của công ty bị tách. Các công ty sau khi tổ chức lại chịu trách nhiệm về
các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản
khác theo quy định của pháp luật.
Tổ chức lại bằng hình thức chuyển đổi loại hình doanh nghiệp được
quy định từ điều 196 đến điều 199. Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty được
chuyển đổi chấm dứt sự tồn tại; công ty chuyển đổi kế thừa toàn bộ quyền và
nghĩa vụ của công ty được chuyển đổi.
2.1.6. Quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán doanh nghiệp đối
với bệnh viện tư nhân
Việc chuyển nhượng vốn của bệnh viện tư nhân có thể căn cứ theo quy
định về chuyển nhượng vốn của Luật doanh nghiệp tùy theo hình thức doanh
nghiệp thành lập bệnh viện.
Đối với bệnh viện được thành lập theo hình thức công ty TNHH một
thành viên chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn
bộ phấn vốn góp của mình căn cứ điểm h, khoản 1 Điều 75 Luật doanh
nghiệp và Quyết định tăng vốn điều lệ, chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ
vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác theo quy định tại điểm c,
61
khoản 2 Điều 75. Căn cứ vào khoản 5, điều 76 nghĩa vụ chủ sở hữu công ty
chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn
điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ
vốn điều lệ đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì chủ sở hữu và cá
nhân, tổ chức có liên quan phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
Đối với bệnh viện tư nhân được thành lập theo hình thức công ty
TNHH hai thành viên trở lên. Căn cứ khoản 2 Điều 51 Luật Doanh nghiệp
2014 quy định đối với loại hình công ty này, thành viên không được rút vốn
đã góp ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp quy định tại các
Điều 52 (Mua lại phần vốn góp), Điều 53 (Chuyển nhượng phần vốn góp),
Điều 54 (Xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt) và Điều
68 (Thay đổi vốn điều lệ) của Luật. Thành viên của công ty TNHH hai thành
viên trở lên có thể rút vốn bằng cách yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp
của mình hoặc chuyển nhượng phần vốn góp đó cho người khác theo quy
định tại điều 52 (Mua lại phần góp vốn), 53 Luật Doanh nghiệp 2014.
Điều 53 quy định về việc Chuyển nhượng phần vốn góp như sau:
- Trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 52, khoản 5 và khoản 6
Điều 54 (Xử lý phần vốn góp trong một số trường hợp đặc biệt) của Luật này,
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền
chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người
khác theo quy định sau đây:
+ Phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ
tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện;
+ Chỉ được chuyển nhượng với cùng điều kiện chào bán đối với các
thành viên còn lại quy định tại điểm a khoản này cho người không phải là
62
thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua
hết trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán.
Thành viên chuyển nhượng vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với công
ty tương ứng với phần vốn góp có liên quan cho đến khi thông tin về người
mua quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 49 của Luật này được ghi
đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên. Thành viên còn lại trong công ty có quyền
ưu tiên mua lại phần vốn góp của tương ứng với tỷ lệ góp vốn của họ trong
công ty, thời hạn là trong vòng 30 ngày kể từ ngày phần vốn chuyển nhượng
được chào bán. Quyền ưu tiên được chuyển nhượng phần vốn góp mang ý
nghĩa quan trọng trong việc tổ chức, quản lý doanh nghiệp. Việc quy định
quyền ưu tiên như vậy nhằm hạn chế việc tiếp nhận thêm thành viên mới vào
công ty, một thành viên chỉ có quyền chuyển nhượng cho một người khác
không phải là thành viên công ty trong trường hợp các thành viên công ty từ
chối quyền ưu tiên mua. Bên cạnh đó, quyền ưu tiên chuyển nhượng không áp
dụng trong các trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 53 Luật doanh nghiệp 2014.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn tặng cho phần vốn góp, quyền ưu
tiên chuyển nhượng của các thành viên khác không được áp dụng trong
trường hợp người được tặng cho là vợ, chồng, cha, mẹ, con hay người có
quan hệ họ hàng đến hàng thừa kế thứ ba. Người được tặng cho sẽ đương
nhiên là thành viên mới của công ty. Các trường hợp tặng cho khác thì người
được tặng cho chỉ trở thành thành viên công ty khi có sự chấp thuận của Hội
đồng thành viên. Quyền ưu tiên cũng không được áp dụng trong trường hợp
trả nợ bằng vốn góp. Thành viên có thể trả nợ bằng phần vốn góp của mình,
và người nhận trả nợ có thể trở thành thành viên công ty nếu được chấp thuận
bởi hội đồng thành viên. Trường hợp người nhận trả nợ không muốn trở thành
thành viên công ty hay không được hội đồng thành viên chấp thuận, người
được trả nợ có thể chuyển nhượng phần vốn góp của nhưng phải ưu tiên
63
chuyển nhượng cho các thành viên khác trước khi chào bán cho bên thứ ba.
Trường hợp công ty không mua lại phần vốn góp thì thành viên đó có quyền
tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình mà không phụ thuộc vào quyền
ưu tiên được chuyển nhượng của thành viên khác. Bên cạnh các quy định của
Luật doanh nghiệp 2014, điều lệ của công ty hoặc thỏa thuận thành viên có
thể quy định chi tiết về các điều kiện và hạn chế chuyển nhượng khác ngoài
quyền ưu tiên.
Đối với bệnh viện thành lập theo hình thức công ty cổ phần việc
chuyển nhượng cổ phần căn cứ vào điều 126 Luật doanh nghiệp. Chuyển
nhượng cổ phần là việc cổ đông góp vốn trong công ty cổ phần chuyển
nhượng lại phần góp vốn, vốn góp của mình cho một cổ đông khác trừ một số
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và Điều lệ công ty có quy định hạn
chế chuyển nhượng cổ phần. Nhìn chung, cổ phần được tự do chuyển nhượng,
không bị giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng cũng như giới hạn
về số lượng cổ phần được chuyển nhượng.
Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên
không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua
cổ phần đó cho người khác. Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã
đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương
ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số
cổ phần chưa thanh toán cho người khác theo quy định tại khoản 3 Điều 112.
Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ
phần đó cho người khác theo quy định tại khoản 3, Điều 116. Quy định như
vậy vì cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn
so với cổ phần phổ thông mà quyền của cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu
quyết bao gồm quyền biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội
đồng cổ đông. Hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết chính là
64
nhằm nâng cao trách nhiệm đối với công ty của cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết và không làm xáo trộn vị trí quản lý của công ty.
Đối với cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày doanh
nghiệp được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác; chỉ được
chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông
sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Nếu cổ đông sáng
lập còn lại không đồng ý việc chuyển nhượng cổ phần cho người ngoài thì cổ
đông dự định chuyển nhượng có quyền yêu cầu các cổ đông còn lại hoặc công
ty mua lại số cổ phần dự định chuyển nhượng đó.Cổ đông nhận chuyển
nhượng cổ phần từ cổ đông sáng lập của công ty không được coi là cổ đông
sáng lập. Việc hạn chế chuyển nhượng theo pháp luật áp dụng với đối tượng
là cổ đông sáng lập trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng kí doanh nghiệp. Quyền tự do chuyển nhượng bị thu hẹp về
đối tượng nhận chuyển nhượng là các cổ đông sáng lập khác, nếu đối tượng
nhận chuyển nhượng không phải là cổ đông sáng lập, thì chỉ được chuyển
nhượng cổ phần phổ thông khi được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.
Quy định như vậy nhằm mục đích ổn định tổ chức của công ty trong 03 năm
đầu – khi công ty mới thành lập, bên cạnh đó cũng nhằm buộc cổ đông sáng
lập phải chịu trách nhiệm với công ty khi công ty vừa được thành lập và đang
trong giai đoạn phát triển. Sau 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng kí doanh nghiệp thì mọi hạn chế đối với cổ đông sáng lập
được bãi bỏ. Việc hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần của cổ đông sáng
lập một phần cũng nhằm để bảo vệ lợi ích cho người mua cổ phần là người
không tham gia thành lập công ty cổ phần, không biết được thực trạng công ty
khi mới thành lập.
Phương thức chuyển nhượng cổ phần được quy định tại khoản 2 điều
65
126 bao gồm hai phương thức là thông qua hợp đồng chuyển nhượng, hoặc là
thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Chuyển nhượng cổ phần
theo hợp đồng chuyển nhượng cần đảm bảo tuân theo các quy định của pháp
luật về hồ sơ chuyển nhượng và thủ tục chuyển nhượng. Với việc chuyển
nhượng bằng tặng cho thì phải dùng hợp đồng tặng cho, hoặc chuyển nhượng
cổ phần khi cổ đông chết thì lại cần những hợp đồng cá biệt khác.Việc chuyển
nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán được quy định trong
pháp luật về chứng khoán. Chuyển nhượng cổ phần trên thị trường chứng
khoán được biểu hiện bằng việc mua bán cổ phiếu. Giao dịch này dựa trên
nguyên tắc thỏa thuận tự do giữa bên mua và bên bán, tuy nhiên việc mua bán
diễn ra trên thị trường chứng khoán. Người mua cổ phần cần tìm hiểu kĩ về
công ty mình mua cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến cổ phần mình
định mua, các quyền và nghĩa vụ để tránh rủi ro.
Hệ quả pháp lý sau khi chuyển nhượng cổ phần: Cổ đông sau khi đã
chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình cho người khác hoặc chết sẽ không
còn là cổ đông của công ty, tức là không còn tên trong Sổ đăng kí cổ đông.
Vốn điều lệ của công ty không có sự thay đổi bởi số lượng cổ phần được bảo
toàn, không tăng lên hay giảm đi mà chỉ chuyển từ đối tượng sở hữu này sang
đối tượng sở hữu khác.
Về mua bán doanh nghiệp
Khoản 4 điều 29 Luật cạnh tranh quy định: “Mua lại doanh nghiệp là
việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ hoặc một phần vốn
góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối doanh nghiệp
hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Khi một công ty mua lại
hoặc thôn tính một công ty khác và đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì
thương vụ đó được gọi là mua bán. Về pháp lý, công ty bị mua lại không còn
tồn tại, còn công ty tiến hành mua lại sẽ ‘tiếp quản” toàn bộ hoạt động kinh
66
doanh của công ty kia. Đối với các loại hình doanh nghiệp như công ty TNHH,
công ty cổ phần thì không có quy định về việc được bán lại doanh nghiệp mà là
quy định về việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc chuyển nhượng một phần vốn
hoặc cổ phần sang cho người khác, hoặc thủ tục hợp nhất, sáp nhập, chia tách
doanh nghiệp. Hiện nay đầu tư vào bệnh viện tư nhân được thể hiện qua các
thương vụ mua bán, sáp nhập (M&A). Nhiều thương vụ diễn ra gần đây như
tập đoàn y khoa Hoàn Mỹ (gồm 15 bệnh viện tư nhân và 11 phòng khám) hoàn
tất việc mua lại Bệnh viện quốc tế Hạnh Phúc; nha khoa Mỹ sáp nhập vào Sun
Medical Center; tập đoàn Fortis Healthcare mua lại 65% cổ phần của Hoàn Mỹ
với giá 64 triệu USD và sau hai năm chính thức nhượng lại 65% cổ phần của
công ty cổ phần y khoa Fortis Hoàn Mỹ cho Richard Chandler, tập đoàn đầu tư
New Zealand có trụ sở tại Singapore. “Hoạt động M&A được quan tâm kể từ
khi Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời và trở nên sôi động hơn trong những
năm gần đây với sự phát triển nhanh về cả số lượng và quy mô” [13] đặc biệt là
M&A bệnh viện.
2.1.7. Quy định pháp luật về hỗ trợ tổ chức và hoạt động của bệnh
viện tư
Căn cứ vào đặc điểm của bệnh viện tư nhân là chủ thể kinh doanh đặc
biệt thực hiện những chức năng xã hội nhất định, phục vụ cho các đối tượng
trong xã hội vậy nên bệnh viện tư cần có các quy định pháp luật hỗ trợ trong
quá trình hoạt động. Bệnh viện tư nhân nằm trong danh mục lĩnh vực ưu đãi
đầu tư của Chính phủ vậy nên bệnh viện tư được hưởng những ưu đãi về thuế.
Hiện nay nước ta đã có chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế dành cho doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, theo Luật TTNDN, Luật đầu tư. Pháp
luật quy định hoạt động trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh, doanh nghiệp
sẽ được áp dụng mức thuế suất TTNDN thấp hơn mức thuế suất thông thường
có thời hạn hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án đầu tư; miễn, giảm thuế
67
thu nhập doanh nghiệp căn cứ khoản 1, điều 15 và điểm k, khoản 1, điều 16
Luật đầu tư 2014. Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế là lĩnh vực xã
hội hóa được áp dụng mức TTNDN 10% trong suốt thời gian hoạt động quy
định tại khoản 2 điều 13 Luật TTNDN. Doanh nghiệp mới thành lập còn được
miễn thuế tối đa 4 năm thay vì 2 năm như các doanh nghiệp khác và giảm
50% thuế trong 5 năm hoặc 9 năm tiếp theo tùy theo địa bàn có điều kiện kinh
tế xã hội khó khăn quy định tại điều 16 Nghị định 218/2013/NĐ-CP. Các dự
án đầu tư, mở rộng, xây mới bệnh viện cũng được ưu đãi hơn về mức vốn
vay, tối đa tới 70% tổng vốn của dự án. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
về đất đai và đầu tư xây dựng bệnh viện cũng được Chính phủ quy định khá
cụ thể. Nghị định về khuyến khích các cơ sở cung ứng ngoài công lập đang
được áp dụng đã dành ưu đãi về lệ phí trước bạ nhà, đất cho các bệnh viện tư
nhân. Theo Điều 9 Nghị định 140/2016/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị
định 20/2019/NĐ-CP) được hướng dẫn bởi Điều 5 Thông tư 301/2016/TT-
BTC (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 20/2019/TT-BTC) bệnh viện tư nhân là
đối tượng miễn lệ phí trước bạ “ Nhà, đất của cơ sở ngoài công lập đăng ký
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà phục vụ cho các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục - đào tạo; y tế; văn hóa; thể dục thể thao; khoa học và công
nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em theo quy
định của pháp luật”. Tuy nhiên một số chính sách khuyến khích đầu tư y tế tư
nhân theo chủ trương xã hội hóa những năm gần đây không còn được quan
tâm. Đặc biệt, đầu tư bệnh viện tư nhân không còn nằm trong danh mục các
lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo Nghị định 118/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đầu
tư. Các ưu đãi về mặt bằng, tiền sử dụng đất không còn được thực hiện theo
Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách xã hội hóa.
Có thể thấy Chính phủ đã có sự quan tâm nhất định đối với bệnh viện
tư nhân bằng các chính sách, nghị định về ưu đãi đầu tư, ưu đãi thuế nhằm
68
khuyến khích sự phát triển của khối bệnh viện ngoài công lập trong sự nghiệp
y tế nói chung. Các chính sách này không những thể hiện sự đúng đắn trong
chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện vai trò của Nhà
nước trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên cần có sự quan tâm
hơn của Nhà nước trong việc đầu tư bệnh viện tư nhân bằng các quy định hỗ
trợ cho hoạt động của bệnh viện.
2.1.8. Quy định về cạnh tranh trong hoạt động bệnh viện tư nhân
Hưởng ứng tích cực chính sách xã hội hóa y tế của chính phủ, nhiều
doanh nhân và doanh nghiệp đã bỏ vốn hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng bệnh
viện tư nhân. Đến nay, các bệnh viện tư nhân đã không ngừng phát triển và
lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp vào nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Bệnh viện tư không những góp phần làm giảm sự quá tải tại các bệnh viện
công mà còn kích thích bệnh viện công thay đổi, cải tổ lại lề lối làm việc.
Tuy nhiên cũng đã xuất hiện những bất bình đẳng giữa hai khối bệnh
viện công tư. Bệnh viện tư nhân được hình thành theo chủ trương xã hội hóa y
tế trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà
Nước, phải tự lực đầu tư từ cơ sở vật chất, trả lương cho người lao động và tự
xây dựng thương hiệu. Nếu xét trong môi trường kinh doanh thì sự phát triển
của bệnh viện tư còn gặp khá nhiều khó khăn so với các bệnh viện công vốn
có thương hiệu từ lâu đời, được nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất. Từ vốn
đầu tư, tiền thuê đất, giá viện phí cho đến cơ hội kí hợp đồng KCB BHYT tất
cả mặt thuận lợi đều nghiêng về phía bệnh viện công. “Bệnh viện công được
vay ưu đãi vốn ODA với lãi suất thấp, được Nhà nước đứng ra bảo lãnh, còn
bệnh viện tư không được, phải vay vốn thương mại với lãi suất cao hơn nhiều,
điều kiện vay cũng khó hơn”[7]. Việc đầu tư của các doanh nghiệp vào bệnh
viện tư tại một số địa phương chưa được khuyến khích, chưa có cơ chế ưu
đãi. Trong hoạt động, nếu như tai biến y khoa xảy ra tại các bệnh viện công,
69
bệnh viện được cơ quan quản lý chỉ đạo thành lập hội đồng thẩm định, được
ngành Y tế đứng sau hỗ trợ, còn bệnh viện tư phải tự giải quyết... Các chính
sách về KCB BHYT, thanh quyết toán BHYT cũng chưa được thực hiện rộng
rãi tại các BV ngoài công lập. Cá biệt có những nơi phân bổ BHYT chưa hợp
lý, chưa căn cứ vào điều kiện và năng lực của cơ sở KCB để phân bổ đăng ký
KCB BHYT ban đầu cho các bệnh viện, số lượng thẻ chưa thể hiện sự bình
đẳng giữa bệnh viện công và bệnh viện tư nhân. Bệnh viện công cùng hạng
tương đương với BV tư nhân nhưng số lượng thẻ BHYT được phân hàng năm
lớn gấp 3-4 lần. Bệnh viện tư nhân phân tuyến chuyên môn kỹ thuật tương
đương hạng II xếp tuyến tỉnh nên không được thông tuyến KCB BHYT
nhưng bệnh viện nhà nước tuyến huyện được xếp hạng II thì được. Hiện nay
thông tuyến bảo hiểm y tế được áp dụng đối với các bệnh viện tuyến huyện, là
việc người bệnh đi khám, chữa bệnh tại bất cứ bệnh viện tuyến huyện nào trên
cùng địa bàn tỉnh đều được hưởng quyền lợi như nhau, như mức hưởng khám
chữa bệnh đúng tuyến theo cơ sở đăng kí KCB BHYT ban đầu tại bệnh viện
tuyến huyện theo Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung 2014. Từ 01/01/2021,
sẽ áp dụng thông tuyến tỉnh, mức hưởng bằng mức như khi đi đúng tuyến đối
với chi phí điều trị nội trú ở tất cả bệnh viện tuyến tỉnh trên toàn quốc theo
quy định tại khoản 15 điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
BHYT. Như vậy quy định mới được thi hành có thể sẽ tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho hoạt động của bệnh viện tư nhân thay cho tình trạng xin xuống hạng
của một số bệnh viện tư hiện nay để được thông tuyến KCB BHYT.
Ngoài ra còn nhiều vấn đề chưa có sự công bằng giữa hai khối bệnh
viện công và tư trong hoạt động nghề nghiệp như về đào tạo và chính sách
của ngành y tế đối với các cơ sở khám chữa bệnh: Có những chương trình đào
tạo lại, nhiều chương trình đào tạo có kinh phí của nhà nước, nhưng chỉ có
bệnh viện công lập mới được tham gia, còn các bệnh viện tư nhân không được
70
quan tâm. Về sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ. Thực tế nhiều tổ chức
phi chính phủ muốn hỗ trợ cơ sở vật chất cho các bệnh viện tư nhân, nhưng
cơ chế để bệnh viện tư nhân được nhận hỗ trợ thì hầu như không có, mà chỉ
có đầu tư cho các cơ sở của nhà nước. Bên cạnh đó ngành y tế có chủ trương
phối hợp mô hình hợp tác công tư theo Nghị quyết 93/2014 của Chính phủ về
một số cơ chế, chính sách phát triển y tế. Tuy nhiên, chủ trương này gây ra
nhiều bất cập. Đó là sự mất công bằng trong đầu tư, không rõ ràng giữa công
và tư [1].
Nguyên nhân dẫn tới sự bất bình đẳng trên là do các bệnh viện tư nhân
luôn bị đánh giá, nhìn nhận trong tương quan so sánh với cơ sở KCB nhà nước
như chữa bệnh tư nhân thiếu kinh nghiệm quản trị, thiếu nhân lực trình độ cao
nên không thu hút được bệnh nhân, không sử dụng hết công suất giường bệnh,
một số bệnh viện phá sản, gây lãng phí đầu tư… Có quan điểm cho rằng bệnh
viện tư là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh nên mục tiêu lợi nhuận
đặt lên hàng đầu còn bệnh viện công thì phục vụ cộng đồng, vì nhiệm vụ chính
trị. Quan điểm so sánh này chưa thực sự thỏa đáng vì bệnh viện tư cũng thực
hiện chức năng xã hội như bệnh viện công, lấy người bệnh và sự hài lòng của
người bệnh là mục tiêu phát triển. Trong khi cũng có những dịch vụ như mổ
dịch vụ, khám dịch vụ chứ không phải là hoàn toàn miễn phí hay người bệnh
được BHYT chi trả 100% khi khám, chữa bệnh ở viện công. Do vậy để bệnh
viện tư nhân hoạt động hiệu quả, thể hiện hết vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
mình cần có những chính sách, quy định phù hợp, tạo môi trường bình đẳng
giữa hai khối bệnh viện công tư, tháo gỡ những rào cản chính sách không còn
phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của xã hội.
Bên cạnh việc hướng tới một môi trường kinh doanh bình đẳng cho
bệnh viện tư, Chính phủ cũng hướng tới chủ trương đẩy mạnh nâng cao hợp
tác công tư thể hiện trong Nghị quyết 20/NQ-TW và Nghị quyết 93/NQ-CP.
71
Khối bệnh viện công lập hay tư nhân cũng là những bộ phận của hệ thống cơ
sở y tế cùng thực hiện chức năng, nhiệm vụ là chăm sóc, đảm bảo sức khỏe
cho nhân dân. Khối bệnh viện công lập đã có từ thương hiệu từ lâu đời nhưng
thường xuyên trong tình trạng quá tải. Trong khi đó khối bệnh viện tư nhân ra
đời muộn, kinh nghiệm còn non trẻ mặc dù đang dần dần khẳng định vai trò
của mình trong sự nghiệp y tế tuy nhiên không ít bệnh viện tư được đầu tư với
nguồn vốn lớn, trang thiết bị y tế hiện đại lại sử dụng không hết công suất
giường bệnh gây ra tình trạng lãng phí cả về nhân lực và vật lực. Để giảm tải
cho bệnh viện công lập và tăng năng lực cho bệnh viện tư nhân, việc tăng
cường hợp tác giữa công và tư là hết sức cần thiết. Hơn nữa trước những vấn
đề phi truyền thống đang xảy ra rất nhiều hiện nay như dịch bệnh, thiên tai,
thảm họa… phối hợp công tư càng quan trọng hơn cả. Trong tình hình dịch
bệnh covid-19 đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, phòng chống dịch
bệnh không phải là trách nhiệm riêng của hệ thống bệnh viện công hay tư mà
cần có sự phối hợp góp sức của cả hai khối bệnh viện này. Sự kết hợp giữa
điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, đội ngũ bác sĩ trẻ nhiệt huyết của
bệnh viện tư và các bác sỹ đầu ngành của bệnh viện công sẽ là giải pháp tối
ưu khắc phục những hậu quả của dịch bệnh.
Trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có những quy
định cụ thể về liên thông trong tổ chức hoạt động của khối bệnh viện tư nhân
với khối bệnh viện công lập. Các bệnh viện công và tư chủ yếu liên kết bằng
hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC. Ngoài ra sự phối hợp công tư còn thể hiện
qua việc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công được cử công chức, viên chức (gọi
tắt là người lao động) làm việc tại bệnh viện tư theo chủ trương của Chính
phủ quy định tại khoản 2 điều 1 Nghị quyết 93/NQ-CP. Việc tạo ra cơ sở
pháp lý cho việc liên thông giữa hai khối bệnh viện là vô cùng cần thiết bởi
72
liên thông không những là chia sẻ trách nhiệm, hỗ trợ nhau trong công tác
hoạt động, mà còn là mang lại lợi ích tốt nhất cho người bệnh.
2.1.9. Các quy định về kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với
bệnh viện tư nhân
Để đảm bảo chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, hạn chế các tai biến,
sai sót chuyên môn, sự cố y khoa bên cạnh việc bệnh viện tư nhân thực hiện
theo đúng các quy định pháp luật, Nhà nước cũng cần tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động của bệnh viện tư nhân. Kiểm tra là
một biện pháp để tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trong công tác khám
bệnh, chữa bệnh. Có hai hình thức kiểm tra là kiểm tra tại các khoa, phòng
hoặc toàn bệnh viện và kiểm tra từ bên ngoài, kiểm tra của cấp trên do Bộ Y
tế hoặc Sở Y tế trực tiếp hoặc uỷ nhiệm các đoàn đến kiểm tra bệnh viện.
Việc kiểm tra căn cứ Thông tư 19/2013/TT-BYT hướng dẫn thực hiện quản lý
chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện,Quyết định 6858/QĐ-
BYT về việc ban hành bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam và quyết
định ban hành nội dung kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện và khảo sát
hài lòng người bệnh, nhân viên y tế hàng năm của Bộ Y tế như Quyết định
3936/QĐ-BYT năm 2019, Quyết định 6328/QĐ-BYT năm 2018, Đối với hình
thức tự kiểm tra, Giám đốc bệnh viện ra Quyết định thành lập các đoàn kiểm
tra của bệnh viện để kiểm tra từng vụ, việc hoặc việc thực hiện nội quy, quy
định và các hoạt động trong bệnh viện. Đoàn kiểm tra bao gồm những cá nhân
có đủ phẩm chất, đủ năng lực và nhiệt tình trong công tác kiểm tra, giám sát,
nâng cao chất lượng chuyên môn trong bệnh viện.
Đối với hình thức kiểm tra từ bên ngoài, Sở Y tế hoặc Bộ Y tế thành lập
đoàn kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện thông qua kiểm tra thực tế và báo
cáo kết quả tự kiểm tra của bệnh viện. Thành viên tham gia Đoàn kiểm tra,
đánh giá chất lượng bệnh viện của Sở Y tế bao gồm lãnh đạo Sở Y tế, lãnh đạo
73
và chuyên viên các phòng chức năng của Sở Y tế, chuyên gia quản lý bệnh viện
– quản lý chất lượng của các bệnh viện hạng I, được Bộ Y tế cấp mã “Đánh giá
viên”. Thành viên tham gia Đoàn kiểm tra của Bộ Y tế gồm lãnh đạo Cục Quản
lý Khám, chữa bệnh hoặc lãnh đạo Vụ, Cục, đơn vị được Bộ trưởng Bộ Y tế
phân công, chuyên viên các Vụ, Cục của Bộ Y tế, quan sát viên là thành viên
của các cơ quan, ban ngành, tổ chức khác (Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các hội,
tổ chức dân sự, quốc tế, cơ quan truyền thông). Thành viên đoàn kiểm tra đăng
ký đầy đủ mã đánh giá viên theo quy định của Cục quản lý khám, chữa bệnh.
Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra về hoạt động chuyên môn, hoạt động
tài chính, cơ cấu tổ chức, danh mục dịch vụ và bảng giá kĩ thuật, danh sách
người hành nghề, đăng kí hành nghề, thôi hành nghề... Bên cạnh đó có thể
kiểm tra công tác phòng chống dịch trong thời điểm dịch covid-19 bùng phát
như hiện nay. Hoạt động kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện chuyên môn,
thực trạng chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh của
bệnh viện. Ngoài ra việc kiểm tra còn là căn cứ xét thi đua, khen thưởng, căn
cứ xếp loại chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh.
Bên cạnh công tác kiểm tra, pháp luật cũng có những quy định cụ thể
về thanh tra y tế mà bệnh viện tư nhân chịu sự điều chỉnh. Pháp luật đã ban
hành nghị định 122/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra y tế.
Theo đó, thanh tra y tế là thanh tra việc thực hiện các chính sách pháp luật
như chính sách pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh, chính sách pháp luật về
BHYT, thực hiện chính sách pháp luật trong xã hội hóa công tác y tế. Thanh
tra chuyên ngành về khám, chữa bệnh là thanh tra việc thực hiện các quy định
của pháp luật về lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh; thanh tra việc thực hiện quy
chế, quy trình, hướng dẫn về chuyên môn, kỹ thuật và quy tắc quản lý chuyên
ngành lĩnh vực khám, chữa bệnh; thanh tra việc cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động đối với bệnh viện; thanh tra việc thực hiện quy định về thông tin, quảng
74
cáo khám bệnh, chữa bệnh; thanh tra việc thực hiện quy định về quản lý chất
lượng xét nghiệm; quy định về dinh dưỡng, tiết chế người bệnh; thanh tra việc
thực hiện quy định về ứng dụng bức xạ ion hóa trong khám, chữa bệnh. Đội
ngũ thanh tra cần đáp ứng những yêu cầu về chuyên môn, trình độ, kinh
nghiệm, tính khách quan để hoạt động thanh tra diễn ra hiệu quả. Thanh tra
bệnh viện tư nhân còn căn cứ vào Quyết định 40/2007/QĐ-BYT về việc ban
hành quy trình và danh mục thanh tra hành nghề y tư nhân. Theo Nghị định
này cơ quan thanh tra sẽ tiến hành thanh tra về giấy phép đăng ký kinh doanh
(đối với doanh nghiệp trong nước), danh sách Hội đồng quản trị, giấy phép
đầu tư (đối với doanh nghiệp nước ngoài); điều lệ tổ chức và hoạt động của
bệnh viện; chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh của Giám đốc bệnh viện;
giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề y tư nhân; hợp đồng lao động theo
quy định của pháp luật về lao động; phạm vi hoạt động chuyên môn; giấy
chứng nhận về phòng cháy chữa cháy; giấy phép sử dụng thiết bị X quang y
tế; hồ sơ hệ thống xử lý rác thải bệnh viện (rác thải lỏng và rắn); giấy tờ khác
liên quan (Biên bản thẩm định cơ sở, …)
Việc thanh tra, kiểm tra giám sát là để phát hiện những sai sót trong quá
trình hoạt động, thực thi pháp luật của bệnh viện tư và có những biện pháp xử
lý kịp thời. Sau quá trình thanh tra, kiểm tra, khi phát hiện các vi phạm pháp
luật về y tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xử phạt theo đúng quy
định của pháp luật, xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm để đảm bảo tính
công bằng, nghiêm minh của pháp luật, hiệu quả hoạt động khám, chữa bệnh
và thể hiện vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế.
Việc xử lý vi phạm hành chính căn cứ vào Nghị định 176/2013/NĐ-CP
quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế. Nghị định này đã quy định
khá chi tiết, cụ thể về các trường hợp vi phạm, hình thức xử phạt và mức độ
xử phạt. Tuy nhiên còn một số vướng mắc tồn tại của Nghị định này gây khó
75
khăn, lúng túng cho cơ quan thi hành. Tại khoản 5, Điều 4 của Nghị định nêu
rõ mức phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt tiền đối
với cá nhân. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền
đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Tuy nhiên lại chưa
quy định rõ cách xác định tổ chức và cá nhân trong xử phạt. Một số biện pháp
khắc phục hậu quả chưa sâu sát với thực tế triển khai hoặc chưa có quy định
cụ thể về cách thức, quy trình cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan có liên
quan trong thực hiện. Như biện pháp buộc hoàn trả số tiền thu chênh lệch đối
với các hành vi thu giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh cao hơn giá đã niêm
yết, hoàn trả số tiền thu được trong các hành vi bán thuốc đã được bảo hiểm y
tế chi trả, thuốc nhập khẩu phi mậu dịch, thuốc không đạt tiêu chuẩn chất
lượng hoặc thuốc đã hết hạn sử dụng. Nghị định quy định trường hợp không
hoàn trả được cho đối tượng thì nộp vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện
nay việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan như Sở Y tế, Kho bạc Nhà
nước,… để thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả này còn chưa rõ
ràng. Nghị định này đã đưa ra các mức nộp phạt đối với các hành vi vi phạm
hành chính về khám, chữa bệnh từ 200 nghìn đồng đến 80 triệu đồng ở mục 2,
từ Ðiều 28 đến Ðiều 36. Nhưng trên thực tế, con số này còn thấp so với lợi
nhuận thu về nên dù bị xử phạt một số bệnh viện vẫn tiếp tục tái phạm.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh
viện tư nhân
Sau hơn 10 năm thi hành luật KCB 2009, hệ thống bệnh viện tư nhân
phát triển nhanh chóng, nhiều tập đoàn và doanh nghiệp lớn đã có kế hoạch
đầu tư mới bệnh viện có quy mô lớn, tại một số tỉnh thành đã có bệnh viện
quốc tế do tư nhân đầu tư. Ước tính vào năm 2011, nước ta chỉ có hơn 100
bệnh viện tư nhân và bán công với gần 6000 giường bệnh thì tới tháng
12/2019, đã có tới hơn 248 bệnh viện tư nhân. Luật KCB 2009 đã tạo hành
76
lang pháp lý cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện tư nhân, đáp
ứng yêu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện pháp luật, một số bệnh
viện tư nhân đã gặp phải khó khăn, vướng mắc cũng như để xảy ra sai phạm.
Thực hiện Quyết định số 216/QĐ-TTrB ngày 22/11/2019 của Chánh
Thanh tra Bộ Y tế, từ ngày 04/12/2019 đến ngày 12/02/2020, đoàn thanh tra
đã tiến hành thanh tra tại 11 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân trên địa bàn
TP.HCM. Kết quả thanh tra cho thấy, các cơ sở được thanh tra đều vi phạm
quy định về KCB. Tại thời điểm thanh tra, Bệnh viện đa khoa Triều An (bệnh
viện tư nhân) có lập danh sách đăng ký người hành nghề KCB. Tuy nhiên,
chưa đúng theo mẫu quy định tại Phụ lục IV của Nghị định số 109/2016/NĐ-
CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ. Bệnh viện cũng chưa công khai bảng giá
dịch vụ KCB bảo hiểm y tế. Bệnh án không lưu Phiếu chỉ định cận lâm sàng
(xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh), chỉ lưu kết quả cận lâm sàng; một số bác
sỹ, điều dưỡng chỉ ký tên mà ko ghi rõ họ tên. Một số bệnh án ngoại trú được
kiểm tra cho thấy, mục diễn biến chỉ ghi cấp toa, mục y lệnh bác sỹ điều trị
chỉ ký và đóng dấu tên, không ghi chép triệu chứng và diễn biến bệnh.Sổ ghi
biên bản hội chẩn của Bệnh viện đa khoa Triều An được làm theo mẫu của Bộ
Y tế. Tuy nhiên, việc ghi chép trong sổ còn sơ sài, không đầy đủ, như: Không
ghi ngày, tháng hội chẩn; không ghi đầy đủ họ tên bác sỹ tham gia hội chẩn;
không đầy đủ chữ ký của bác sỹ tham gia hội chẩn. Tại thời điểm thanh tra,
Bệnh viện có trang thông tin điện tử trên mạng Internet là
http://www.trieuanhospital.vn để quảng cáo dịch vụ KCB, nhưng chưa có
Giấy phép quảng cáo.Tương tự, bệnh viện đa khoa Hồng Đức III cũng được
Thanh tra Bộ Y tế đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế tại. Việc ghi chép nội dung
trong bệnh án còn chưa đầy đủ cột mục, chữ viết xấu, viết ngoáy, viết tắt,
nhiều nội dung không đọc được, bác sỹ, điều dưỡng chỉ ký tên mà ko ghi rõ
77
họ tên hoặc sử dụng dấu chữ ký. Việc ghi chép trong sổ ghi Biên bản hội chẩn
còn sơ sài, không đầy đủ, như: Không ghi ngày, tháng hội chẩn; không ghi
đầy đủ họ tên bác sỹ tham gia hội chẩn; không đầy đủ chữ ký của bác sỹ tham
gia hội chẩn. Bệnh viện quảng cáo dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trên mạng
Internet khi chưa có Giấy phép quảng cáo. Tại Bệnh viện đa khoa Mắt Sài
Gòn, bên cạnh việc không đảm bảo về cơ sở vật chất trong quá trình hoạt
động và biển hiệu thực hiện không đúng theo quy định, thì bệnh án ghi chép
chưa đầy đủ các cột mục, như: Tờ điều trị không ghi nhận xét triệu chứng khi
người bệnh ra viện, mẫu Phiếu xét nghiệm không đúng theo quy định. Tất cả
các bệnh án người bệnh điều trị nội trú không có tờ kết quả chụp phim
Xquang tim phổi. Còn có Bệnh án được kiểm tra dùng bút xóa tẩy, xóa nội
dung trong bệnh án. [14]
Tại Hà Nội, thanh tra Bộ Y tế đã phát hiện những sai phạm trongviệc
chấp hành quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện Đa
khoa Bảo Sơn. Bệnh viện Đa khoa Bảo Sơn thuộc công ty TNHH Bệnh viên
đa khoa Bảo Sơn, được BYT cấp phép hoạt động từ tháng 12/2017 nhưng vẫn
chưa có Giấy chứng nhận thẩm duyệt và Giấy chứng nhận đủ điều kiện về
PCCC theo mô hình bệnh viện. Giấy chứng nhận thẩm duyệt PCCC năm
2013, Sở Cảnh sát PCCC TP.Hà Nội cấp cho Phòng khám đa khoa Bảo Sơn
chứ không phải mô hình bệnh viện hiện tại. Hồ sơ theo dõi và quản lý về
PCCC chưa thay đổi phù hợp với người đứng đầu.
Về hồ sơ quản lý nhân lực, tại thời điểm thanh tra, Bảo Sơn có 157 nhân
viên, trong đó có 107 nhân viên làm công tác chuyên môn các vị trí bác sỹ,
điều dưỡng, hộ sinh... Tuy nhiên có 17 người không có chứng chỉ hành nghề
gồm 6 điều dưỡng, 4 kỹ thuật viên, 2 nữ hộ sinh và 2 dược sỹ.Tại kết quả kiểm
tra thực tế 14 hồ sơ nhân lực thuộc Bảo Sơn cho thấy, 1 hồ sơ bác sỹ, 2 hồ sơ
kỹ thuật viên được ký hợp đồng trước lúc có chứng chỉ hành nghề. Hồ sơ 1 nữ
78
hộ sinh, 2 kỹ thuật viên chưa có chứng chỉ hành nghề, Bảo Sơn đã ký hợp đồng
thực hành nhưng chưa rõ là thực hành, còn hợp đồng lao động các điều khoản
được thể hiện vị trí làm việc theo văn bằng chuyên môn, vi phạm Nghị định
109/2016/NĐ-CP.Thanh tra Bộ Y tế còn ghi nhận một số tồn tại khác tại
BVĐK Bảo Sơn về bệnh án chữ viết xấu, tấy xóa, nhiều nội dung không đọc
được. Một số bệnh án không thực hiện đánh số theo dõi thuốc hướng dẫn theo
quy định, bác sỹ chỉ ký không ghi rõ họ tên. Phiếu ghi kết quả xét nghiệm cận
lâm sàng dán trong bệnh án không có chữ ký của khoa xét nghiệm, nội soi hoặc
có nhưng sử dụng photocopy là sai quy định. Bệnh cạnh đó, hồ sơ cũng không
có chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng dán trong bệnh án. [6]
Có trường hợp bệnh viện tư nhân xây dựng khi chưa được cơ quan có
thẩm quyền cấp phép như bệnh viện đa khoa An Sinh ở Hà Nội. dự án Bệnh
viện đa khoa tư nhân An Sinh của Công ty TNHH Bệnh viện đa khoa tư nhân
An Sinh - Phúc Trường Minh là một trong những bệnh viện tư nhân hàng đầu
về quy mô xây dựng với 500 giường bệnh. Bệnh viện có tổng mức đầu tư hàng
nghìn tỷ đồng xây dựng trên tổng diện tích đất 2,5 ha tại địa bàn phường Phú
Đô, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội. Mặc dù chưa có giấy phép xây dựng
nhưng vẫn tổ chức thi công. Ngày 26/9/2019, UBND quận Nam Từ Liêm tiếp
tục có văn bản về việc đôn đốc xử lý vi phạm trật tự xây dựng của Công ty
TNHH BVĐK tư nhân An Sinh - Phúc Trường Minh. Trong đó, Quận Nam Từ
Liêm yêu cầu Công ty TNHH BVĐK tư nhân An Sinh - Phúc Trường Minh
dừng mọi hoạt động thi công xây dựng công trình, khẩn trương thực hiện khắc
phục hậu quả theo Quyết định xử phạt hành chính số 2853/QĐ-XPHC ngày
5/8/2019 của UBND quận Nam Từ Liêm. Đồng thời UBND quận Nam Từ
Liêm yêu cầu UBND phường Phú Đô phối hợp với Đội quản lý trật tự xây
dựng đô thị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đình chỉ có hiệu lực hoạt động
xây dựng công trình tại dự án BVĐK tư nhận An Sinh. Mặc dù UBND quận
79
Nam Từ Liêm đã yêu cầu dừng mọi hoạt động thi công công trình tại dự án
BVĐK tư nhân An Sinh nhưng chủ đầu tư vẫn tiếp tục cho công nhân thi công.
Hiện tại dự án BV cơ bản đã hoàn thiện xong phần móng thô ban đầu. Như
vậy, có thể thấy rằng, các cơ quan chức năng của quận Nam Từ Liêm đã phát
hiện hành vi xây dựng không phép tại công trình BV tư nhân An Sinh từ cuối
tháng 7/2019 nhưng đến nay chưa có biện pháp xử lý quyết liệt, hiệu quả. [9]
Một số bệnh viện gặp vướng mắc trong công tác KCB BHYT như bệnh
viện Đa khoa Cửa Đông. Trong công tác khám, chữa bệnh bảo hiểm xã hội
(KCB BHYT) đã có nhiều thay đổi theo Luật BHYT, các văn bản hướng dẫn
của liên bộ, Bộ Y tế, BHXH Việt Nam chưa kịp thời, chưa cụ thể, khi cơ sở
KCB có vướng mắc trong thanh toán chi phí KCB BHYT về giá một số dịch
vụ kỹ thuật. Trong giai đoạn 2016-2018, Bệnh viện ký kết hợp đồng KCB
BHYT với cơ quan BHXH, phương thức thanh toán theo giá dịch vụ. Các
dịch vụ kỹ thuật được bệnh viện thanh toán cho người bệnh theo đúng giá quy
định tại Thông tư số 37 của Bộ Y tế, nhưng cơ quan BHXH vẫn chưa thanh
toán cho bệnh viện như: phẫu thuật, thủ thuật thực hiện bằng phương pháp vô
cảm gây tê tại chỗ, gây tê tủy sống.Việc chưa thanh toán các chi phí nêu trên
là không đúng các quy định hiện hành, cho nên gây nhiều khó khăn cho các
cơ sở KCB trong việc đảm bảo kinh phí để hoạt động.[11]
Nhiều cơ sở không tổ chức lựa chọn nhà thầu mà mua thuốc theo quy
định của Luật Đấu thầu nhưng việc lựa chọn cũng không hợp lý, không thông
báo và phối hợp với cơ quan BHXH trong quá trình mua sắm. Việc lựa chọn
sử dụng thuốc còn chưa phù hợp [23]. Một số bệnh viện tư chưa thu hút được
người bệnh.“Ước tính chỉ khoảng 1/3 bệnh viện tư hoạt động có lợi nhuận,
1/3 tiếp tục cầm chừng, 1/3 đang gặp khó khăn.Đa số công suất giường bệnh
của bệnh viện tư chỉ đạt dưới 50%. Để có lãi trong việc mở bệnh viện tư, cần
thời gian 5-7 năm để có lãi, sớm nhất là 5 năm mới đủ khấu hao”[7]. Nhiều
80
bệnh viện tư nhân đã phải đóng cửa sớm vì lãi không ổn định.Theo Hiệp hội
bệnh viện tư nhân nhiều chủ doanh nghiệp đầu tư bệnh viện còn mới mẻ,
thiếu kinh nghiệm, công tác điều hành có những cái chưa sát thực tế. Khó
khăn chính là thiếu vốn đầu tư, chưa có thương hiệu, ở vị trí không thuận tiện,
giá khám chữa bệnh còn cao do phải tự chủ. “Về tài chính, chỉ những bệnh
viện từ 100 giường trở lên mới được hỗ trợ lãi suất vay. Trong khi phần lớn
bệnh viện tư do các nhà đầu tư nhỏ, lẻ, vốn ít nên số giường bệnh thường dưới
100 giường.Nhà đầu tư bệnh viện tư phải bỏ vốn đầu tư thiết bị y tế khá cao,
trong khi phải tính hiệu suất thu hồi vốn và khấu hao nhanh (thường 5 năm).
Tất cả chi phí đầu tư này đều tính vào bệnh nhân, đây là yếu tố bất lợi vì
không phải ai cũng có khả năng trả chi phí cao”[7]. Đối với các bệnh viện tư,
khi đầu tư một thiết bị nào đó, bệnh viện phải tính toán kinh phí, cân nhắc
mua loại máy nào phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của việc khám chữa bệnh
ở đơn vị mình, sử dụng hết công suất của máy móc. Tuy nhiên, để tính khấu
hao máy móc bắt buộc tính vào chi phí giá của bệnh nhân. Do vậy, giá KCB
của bệnh nhân sẽ tăng lên, đây là khó khăn, hạn chế đối với các bệnh viện tư
hiện nay. Nếu xảy ra tình trạng nợ lương, nợ BHXH sẽ làm mất uy tín của
bệnh viện.
Ngoài ra, quy định không được xây bệnh viện trong nội ô TP.HCM
khiến các bệnh viện tư phải ra quận ven, ngoại thành, trong khi bệnh nhân đến
bệnh viện tư là người có yêu cầu cao, có khả năng chi trả nhưng ngại đi xa.
Về khám chữa bệnh cho người nghèo, theo Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, chỉ quy định hỗ trợ chi phí đi lại, ăn khi bệnh nhân
nghèo điều trị nội trú tại các bệnh viện công. Điều này khiến nhiều người
thuộc diện hộ nghèo không muốn đăng ký điều trị nội trú tại bệnh viện tư. Họ
chỉ đến xét nghiệm, khám thông thường khi việc điều trị nội trú không được
hỗ trợ. Về nhân lực, một số bệnh viện tư phát triển và có đủ nguồn lực để đưa
81
bác sĩ đi học ở nước ngoài, mời đoàn chuyên gia nước ngoài về đào tạo cho
bác sĩ tại Việt Nam, nhưng con số này còn nhỏ.[7]
Nguyên nhân các bệnh viện tư nhân gặp nhiều khó khăn, trong đó đa
phần đều bắt nguồn từ cơ chế, chính sách của nhà nước, chưa có hành lang
pháp lý cụ thể cho bệnh viện tư nhân. Những cơ chế không rõ ràng này đã vô
tình tạo ra những rào cản, hạn chế sự phát triển của bệnh viện tư nhân.
Về mặt đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng: Các bệnh viện tư nhân (đặc biệt
là bệnh viện tư nhân ở miền Bắc) không được hỗ trợ về tiền thuê đất hay các
khoản thuế, phí khác theo giá ưu đãi. Bệnh viện tư nhân ở khu vực thành phố
Hồ Chí Minh được hưởng nhiều ưu đãi hơn trong vấn đề này. Việc lựa chọn
vị trí xây dựng bệnh viện tư nhân cũng rất quan trọng vì liên quan đến thị
trường và thói quen của người khám chữa bệnh. Bệnh viện tự lo quỹ đất trong
khi quỹ đất trong nội thành lại hạn hẹp. Xây dựng và thành lập bệnh viện tư
nhân cần tổng mức đầu tư lớn hơn nữa cơ chế đầu tư, ưu đãi đầu tư cho lĩnh
vực y tế ở các tỉnh, thành phố là khác nhau nên đầu tư bệnh viện tư nhân tập
trung chủ yếu ở các đô thị lớn.
Về chính sách bảo hiểm: Nhà nước chưa tạo điều kiện hỗ trợ cho các đối
tượng Bảo hiểm xã hội được chi trả khi đến khám, chữa bệnh và điều trị tại hệ
thống bệnh viện tư nhân. Điều này dẫn đến rất nhiều bệnh nhân có Bảo hiểm xã
hội muốn được điều trị tại bệnh viện tư nhân nhưng vì không được hoặc được
thanh toán một phần bảo hiểm rất nhỏ khiến chi phí điều trị lên quá cao gây bất
lợi cho chính bệnh nhân. Bệnh viện mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác
hỗ trợ, tuy nhiên họ vẫn phải cân đối bài toán thu chi cho hợp lý.
Về vấn đề nhân sự: Nhiều bệnh viện tư thiếu nguồn nhân lực. Ngành Y
là ngành đặc thù liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người nên thời gian đào
tạo nhân lực dài. Bên cạnh đó, mặc dù có chế độ đãi ngộ rất tốt, mức lương
các bệnh viện tư chi trả gấp nhiều lần số tiền lương được hưởng từ các bệnh
82
viện công nhưng các bác sĩ trẻ mới ra trường, những người có trình độ chuyên
môn khác không “mặn mà” với y tế tư nhân. Nhiều người coi bệnh viện tư
nhân là một nơi công tác tạm thời, không ổn định và gắn bó.
Bệnh viện tư nhân rất cần sự phối hợp chuyên môn của các bác sĩ có
tay nghề, bác sĩ giỏi có chuyên môn sâu hiện đang làm việc tại bệnh viện
công để thực hiện những ca mổ khó, những phạm vi chuyên môn bệnh viện tư
chưa đảm nhiệm được. Tuy nhiên cơ chế phối hợp này đang gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc đặc biệt trong thủ tục hành chính.
Bên cạnh cơ chế chính sách, hành lang pháp lý hiện nay còn nhiều rào
cản, chưa thực sự rõ ràng, thông thoáng cho hệ thống bệnh viện tư nhân phát
triển thì vấn đề khó khăn nữa mà các bệnh viện tư nhân đang gặp phải chính
là tâm lý của bệnh nhân. Bệnh nhân chưa thực sự đặt niềm tin vào hệ thống y
tế tư nhân, bên cạnh việc có một số bệnh viện vì bài toán kinh tế, có sự cạnh
tranh không lành mạnh nên đã đánh mất niềm tin từ phía bệnh nhân thì vấn đề
truyền thông cũng đang tác động tiêu cực đến hệ thống bệnh viện tư nhân.
2.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra đối với pháp luật về tổ chức và
hoạt động của bệnh viện tư nhân
Cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư nhân hiện nay
còn có một số vấn đề như sau:
Hiện chưa có quy định cụ thể về loại hình doanh nghiệp thành lập bệnh
viện tư nhân. Các quy định về chủ đầu tư tuy đã tạo điều kiện mở cho việc
thành lập bệnh viện nhưng việc quy định chưa chi tiết có thể gây lúng túng
cho chủ đầu tư trong lựa chọn loại hình doanh nghiệp phù hợp. Xác định được
loại hình doanh nghiệp phù hợp sẽ xác định được phương hướng tổ chức hoạt
động đảm bảo hiệu quả và duy trì hoạt động lâu dài.
Thủ tục thành lập bệnh viện tư nhân phải thực hiện nhiều bước như xin
quy hoạch, xin cấp giấy phép hoạt động, xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
83
đối với nhà đầu tư nước ngoài, xin giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tuy
đảm bảo cho việc thành lập bệnh viện diễn ra đúng quy trình nhưng chưa phù
hợp với đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính. Do vậy cũng cần có những
chỉnh sửa phù hợp trong thủ tục, hướng tới sự đơn giản, thuận tiện để thu hút
các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó thể thấy việc đầu tư, góp vốn, chuyển nhượng vốn, sáp
nhập, mua bán doanh nghiệp đối với bệnh viện tư đang được quy định như
thông thường, không có gì khác biệt. Việc thực hiện quy định ấy nghĩa là viện
tư đang được coi là những chủ thể kinh doanh thông thường, xếp hàng cùng
với các doanh nghiệp khác trong một môi trường chung. Tuy nhiên vì mang
những đặc điểm riêng biệt nên những quy định này chưa thực sự phù hợp đối
với viện tư, tạo ra nhiều khó khăn đối với hoạt động của viện tư như thiếu vốn
đầu tư, chưa thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư.
Các quy định về hoạt động M&A đang được quy định tại nhiều luật và
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư
hơn nữa mới chỉ quy định chung chung, chưa có hệ thống chi tiết nên chưa hỗ
trợ thuận lợi cho cả quỹ đầu tư cũng như bên nhận vốn. Điều này vừa làm cho
các chủ thể tham gia hoạt động M&A gặp khó khăn trong việc thực hiện, vừa
làm cho các cơ quan quản lý nhà nước khó kiểm soát các hoạt động M&A.
Hiện chưa có khái niệm mua bán doanh nghiệp, khái niệm M&A, trường hợp
mua bán cổ phần thì tham gia quản trị điều hành như thế nào... không có quy
định mà hoàn toàn qua thỏa thuận, tự nguyện. Chưa có các quy định chi tiết về
thủ tục, nguyên tắc, phương pháp định giá. Các doanh nghiệp định giá quá cao
khi bán ảnh hưởng lớn đến sự thành công của các thương vụ M&A do hai bên
khó thống nhất được giá. Trong mua bán doanh nghiệp, có thể mua đến 90% cổ
phần nhưng luật lại quy định cổ đông sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít
nhất sáu tháng thì mới có các quyền đề cử người vào hội đồng quản trị, ban
84
kiểm soát, yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông [17]. Quy định như vậy có ý
nghĩa giúp doanh nghiệp phát triển ổn định, tránh bị xáo trộn trong hợp tác
song ít nhiều đã hạn chế quyền của cổ đông trong quản trị.
Trong hoạt động chuyên môn của bệnh viện tư nhân, các quy định pháp
luật còn chưa thống nhất. Bộ Y tế và BHXH Việt Nam chưa thống nhất được
quy định về thanh toán chi phí dịch vụ phẫu thuật, thủ thuật sử dụng phương
pháp gây tê, gây mê. Hơn nữa việc ban hành liên tục các văn bản pháp luật
như Thông tư 39/2018/TT-BYT Quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và
hướng dẫn áp dụng, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
trong một số trường hợp ban hành ngày 30/11/2018 thay thế cho Thông tư
15/2018/TT-BYT ban hành ngày 30/05/2018, Thông tư 13/2019/TT-BYT sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39/2018/TT-BYT ban hành ngày
05/07/2019 mặc dù thể hiện sự điều chỉnh, cập nhật kịp thời của pháp luật
theo thực tiễn nhưng có thể khiến các bệnh viện tư nhân khó tiếp cận, nắm bắt
và thực hiện các quy định pháp luật.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân còn chưa cụ
thể, tản mạn. Bệnh viện tư nhân là chủ thể kinh doanh đặc biệt nhưng chịu sự
điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật Xây dựng như các chủ
thể kinh doanh thông thường. Các quy định vễ hỗ trợ, cạnh tranh đối với bệnh
viện tư nhân còn ít, chưa theo kịp với tình hình thực tại. Do vậy cần có các
giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để bệnh viện tư nhân phát huy được
năng lực, làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng của mình.
Nguyên nhân dẫn tới những vấn đề đặt ra đối với pháp luật về tổ chức
và hoạt động của bệnh viện tư nhân là do:
Một là: Do bệnh viện tư nhân ra đời muộn nên pháp luật về bệnh viện
tư nhân hình thành muộn, chưa đầy đủ, chưa có đủ thời gian tổng kết thực tiễn
85
thi hành pháp luật.
Hai là: Nhận thức của cơ quan nhà nước, của người dân, của doanh
nghiệp về vị trí, vai trò của bệnh viện tư nhân chưa đầy đủ, toàn diện, chưa có
cái nhìn khách quan đối với bệnh viện tư nhân, còn coi bệnh viện tư nhân chỉ
là một đơn vị làm kinh tế, do đó chưa có sự quan tâm sâu sắc về bệnh viện tư
nhân và pháp luật bệnh viện tư nhân.
Ba là: Bệnh viện tư nhân chịu sự điều chỉnh của nhiều luật, các văn bản
dưới luật do đó không có sự thống nhất, đồng bộ giữa các quy định pháp luật.
Hơn nữa các quy định chỉ coi bệnh viện tư nhân như một chủ thể kinh doanh
thông thường nên gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của bệnh viện tư.
86
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Từ các quy định đã phân tích ở trên, có thể thấy pháp luật đã có những
quy định cụ thể về điều kiện thành lập, tổ chức bệnh viện tư nhân. Tuy nhiên,
nhìn chung pháp luật về bệnh viện tư nhân còn chưa có sự đồng bộ, các quy
định còn rải rác, tản mạn ở các luật như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật
khám bệnh, chữa bệnh, Luật BHYT. Do vậy việc thực hiện các quy định pháp
luật của bệnh viện tư cũng ít nhiều gặp khó khăn, vướng mắc. Từ thực tiễn thi
hành pháp luật có còn sai phạm, các bệnh viện tư nhân còn lúng túng trong quá
trình hoạt động vậy nên cần có sự điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật
đối với bệnh viện tư. Cũng dễ dàng nhận thấy Nhà nước cần có sự quan tâm
hơn bằng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với chủ thể kinh doanh đặc biệt này.
Dù còn gặp khó khăn trong hoạt động nhưng bệnh viện tư nhân đã phát
triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng, hỗ trợ, nỗ lực giảm quá tải cho
bệnh viện công, cùng bệnh viện công thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức
khỏe cộng đồng.
87
Chương III
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật
Với sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, bệnh viện tư không
những đã chia sẻ gánh nặng quá tải với bệnh viện công mà còn làm đa dạng
dịch vụ KCB, tạo thêm nhiều sự lựa chọn cho người bệnh. Tuy nhiên các
bệnh viện tư còn gặp khá nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt
động cũng như thu hút đầu tư. Vậy nên hoàn thiện pháp luật đối với bệnh viện
tư nhân là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân phải
đảm bảo tính thống nhất với pháp luật y tế nói chung. Pháp luật bệnh viện tư
nhân phải đồng bộ với luật KCB, luật BHYT, xác định những nội dung hành
lang pháp lý cần thiết phải ban hành, nhưng chưa có trong luật hiện tại. Pháp
luật bệnh viện tư nhân cần tuân theo chủ trương chính sách của Nhà nước về xã
hội hóa y tế, đảm bảo định hướng phát triển y tế, y đức nghề nghiệp.
Hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo sự công bằng trong xã hội, công
bằng giữa khu vực y tế tư nhân và y tế công lập, đảm bảo mọi doanh nghiệp
đều bình đẳng trước pháp luật. Pháp luật bệnh viện tư nhân phải tạo ra môi
trường kinh doanh bình đẳng, là động lực thúc đẩy sự phát triển của bệnh viện
tư. Đồng thời thể hiện sự nghiêm minh, tránh tình trạng trục lợi trên người
bệnh, thu lợi bất chính trong hoạt động, ảnh hưởng đến lợi ích của người dân,
của Nhà nước.
Hoàn thiện pháp luật về bệnh viện tư nhân xây dựng trên cơ sở tổ chức,
bộ máy hoạt động, phương thức hoạt động, đội ngũ cán bộ trong tình hình
phát triển của đất nước, đảm bảo tính hội nhập quốc tế, đảm bảo mục tiêu
nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao hiệu quả chăm sóc sức nhân dân.
88
Pháp luật bệnh viện tư nhân phải tạo ra được cơ chế thu hút các nhà đầu
tư trong và ngoài nước, tạo được sự quan tâm và rót vốn của các nhà đầu tư,
xây dựng bệnh viện thông qua hình thức đầu tư trực tiếp hoặc góp vốn, M&A.
Y tế là lĩnh vực giàu tiềm năng đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư bệnh viện
cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh tuy nhiên cũng tồn tại nhiều rủi ro do hoạt
động trong lĩnh vực này không thể chỉ kể mỗi yếu tố lợi nhuận mà còn phải
quan tâm đến vấn đề đạo đức, tính mạng con người. Hơn nữa đầu tư trong
lĩnh vực này cần đến nguồn nhân lực, vật lực rất lớn do vậy nếu thu hút được
đầu tư sẽ kiến tạo một môi trường y tế văn minh, hiện đại, tiên tiến hướng đến
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng ngày một tốt hơn. Các quy định của pháp
luật về thủ tục đầu tư cần thể hiện tối ưu hóa đầu tư, tối đa hóa hiệu quả và
phân bố rủi ro hợp lý để các nhà đầu tư yên tâm rót vốn xây dựng bệnh viện,
để bệnh viện tư nhân trở thành điểm thu hút đầu tư y tế hấp dẫn. Bên cạnh đó,
pháp luật bệnh viện tư nhân cũng phải theo tinh thần, chủ trương cải cách thủ
tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục trong quá trình thành lập và hoạt
động bệnh viện.
Cuối cùng hoàn thiện pháp luật phải thể hiện vai trò quản lý của Nhà
nước. Vai trò quản lý nhà nước thể hiện trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm
tra, giám sát hoạt động bệnh viện tư nhân. Pháp luật bệnh viện tư vừa đảm bảo
yêu cầu việc thành lập và hoạt động bệnh viện tư diễn ra dễ dàng, thuận tiện,
hạn chế rào cản cho chủ đầu tư, tạo điều kiện tối đa cho sự phát triển bệnh viện
vừa đảm bảo sự chặt chẽ trong công tác quản lý của Nhà nước.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Để tạo điều kiện cho các bệnh viện tư phát triển về năng lực chuyên
môn cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu KCB của người dân cũng như tạo ra một
môi trường thuận lợi thu hút các nguồn đầu tư vào bệnh viện tư nhân và cụ
thể hóa chính sách ưu đãi về đào tạo nhân lực, thuế, đất đai, cơ chế tài chính
89
của Nhà nước cần hoàn thiện các quy định pháp liên quan đến bệnh viện tư
theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng.
Thứ nhất hoàn thiện pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của bệnh viện tư nhân trên cơ sở xây dựng một khung pháp luật thống nhất,
đầy đủ, đồng bộ. Hiện chưa có pháp luật bệnh viện tư, hoạt động của bệnh
viện tư được thi hành theo các quy định tại Luật KCB, Luật BHYT đối với
các cơ sở y tế ngoài công lập, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Doanh
nghiệp, và các văn bản dưới luật. Do vậy cần có cơ sở pháp lý cụ thể để hạn
chế tình trạng các văn bản hướng dẫn quy định chồng chéo gây khó khăn cho
việc thực hiện của bệnh viện tư nhân.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật KCB để nâng cao hiệu quả dịch
vụ KCB và tạo sự cạnh tranh công bằng giữa khối y tế tư nhân và khối y tế
công. Luật KCB 2009 đã đi vào thi hành hơn 10 năm, là văn bản pháp lý cao
nhất quy định các tiêu chuẩn, điều kiện, quyền và nghĩa vụ cũng như các vấn
đề liên quan đến người hành nghề y, các cơ sở KCB, người bệnh và công tác
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực y tế. Luật KCB quy định về điều kiện
hoạt động của các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập, do vậy cần có các
quy định cụ thể về hoạt động bệnh viện tư nhân liên quan đến chính sách
BHYT, chuyển tuyến BHYT, thông tuyến BHYT đối với bệnh viện tư nhân
phân tuyến tỉnh, điều chỉnh quy định về thời hạn cấp chứng chỉ hành nghề,
điều chỉnh cấp giấy phép hoạt động cơ sở khám chữa bệnh đối với bệnh viện
tư nhân theo hướng cắt giảm thủ tục.
Kiến nghị sửa đổi thông tư 39/2018/TT-BYT, sửa đổi quy định, về
thanh toán chi phí dịch vụ phẫu thuật, thủ thuật sử dụng phương pháp gây tê,
gây mê, đảm bảo thống nhất giữa Bộ Y tế và BHXH. Bổ sung quy định giải
quyết những khó khăn, vướng mắc của các bệnh viện tư trong hoạt động KCB
BHYT. Nghiên cứu kĩ tình hình thực tiễn hoạt động KCB của các bệnh viện
90
tư nhân trước khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế sự thay
đổi liên tục các quy định pháp luật trong thời gian ngắn để các bệnh viện tư
nhân nắm bắt kịp thời và thực hiện đúng pháp luật. Phải có quy định pháp luật
trong trường hợp treo, tạm thời không thanh toán hoặc xuất toán chi phí dịch
vụ KCB BHYT cho bệnh viện tư nhân thể hiện sự thống nhất hướng dẫn giữa
Bộ Y tế và BHXH Việt Nam.
Bổ sung quy định về chủ đầu tư, bệnh viện tư nhân được phép thành
lập theo loại hình doanh nghiệp nào để phù hợp với tính chất hoạt động và
môi trường kinh doanh hiện nay, là cơ sở để các nhà đầu tư nghiên cứu trước
khi thành lập bệnh viện. Nên quy định cụ thể loại hình tổ chức doanh nghiệp
thành lập bệnh viện bao gồm công ty cổ phần, công ty TNHH.
Sửa đổi các quy định về trình tự thành lập bệnh viện tư nhân, hướng tới
cắt giảm giấy phép con nhằm thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo
hướng đơn giản, thuận tiện, tiết kiệm thời gian chi phí cho doanh nghiệp.
Bổ sung các quy định về mua bán doanh nghiệp, nguyên tắc, phương
pháp định giá doanh nghiệp trong mua bán, quy định cụ thể hơn về quyền và
nghĩa vụ các bên trong và sau khi mua bán để hạn chế rủi ro, tranh chấp phát
sinh khi thực hiện M&A. Cũng cần có những quy định kiểm soát hoạt động
M&A, giám sát, sàng lọc vốn qua M&A. Việc kiểm soát hoạt động M&A
bệnh viện, đặc biệt là các thương vụ có yếu tố nước ngoài không những cần
phải đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật cạnh tranh, đầu tư, chứng
khoán,… mà còn phải tính đến việc cân bằng lợi ích của doanh nghiệp, nhà
đầu tư và đặc biệt lợi ích cộng đồng và vấn đề an ninh kinh tế, an ninh
quốc gia.
Cũng cần có các quy định cụ thể đối với bệnh viện tư nhân trong việc
góp vốn, chuyển nhượng vốn, tổ chức lại vì những đặc điểm riêng biệt của
bệnh viện tư nhân khiến cho bệnh viện tư khác với các chủ thể kinh doanh
91
thông thường. Việc quy định cụ thể sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt
động kinh doanh của bệnh viện tư.
Bổ sung các quy định, chính sách ưu đãi hỗ trợ bệnh viện tư nhân về
tiền thuê đất, nhân lực, đào tạo, kiến nghị đưa đầu tư bệnh viện tư nhân vào
danh mục ưu đãi đầu tư vì bệnh viện tư nhân là chủ thể kinh doanh đặc biệt,
hoạt động vì mục đích cộng đồng bên cạnh mục đích vì lợi nhuận. Hơn nữa
các quy định hỗ trợ sẽ tạo điều kiện cho bệnh viện tư hoạt động, cạnh tranh
bình đẳng với bệnh viện công.
Quy định cụ thể về cơ chế phối hợp chuyên môn giữa các bác sĩ tại
bệnh viện công và bệnh viện tư, các quy định về liên thông trong hoạt động
để tăng hiệu quả hoạt động khám, chữa bệnh cũng như phát huy tối đa nguồn
lực về con người của hai khối bệnh viện công - tư.
Thứ hai cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp
luật của các bệnh viện tư. Công tác kiểm tra chung về việc thi hành pháp luật
về khám bệnh, chữa bệnh hoặc kiểm tra theo chuyên đề nhằm nắm bắt tình
hình triển khai các văn bản pháp luật đồng thời nắm bắt kịp thời các khó khăn
vướng mắc các đơn vị gặp phải trong quá trình triển khai thi hành pháp luật từ
đó có những đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành văn bản mới
cho phù hợp. Công tác thanh tra kiểm nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng
bộ, khả thi của các quy định pháp luật phù hợp điều kiện thực tiễn tại Việt
Nam và tính hội nhập quốc tế.
Thứ ba hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y
tế đối với bệnh viện tư nhân. Trong quá trình kiểm tra các bệnh viện tư nhân,
các cơ quan chức năng phát hiện nhiều sai phạm nhưng chưa xử lý triệt để
được sai phạm, xử phạt còn chưa thể hiện rõ tính răn đe. Do vậy cần pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế cũng cần có những điều chỉnh về
mức độ xử lí vi phạm, cũng như tránh trường hợp khung xử phạt vi phạm
92
hành chính vượt quá thẩm quyền xử phạt của cơ quan chức năng để đảm bảo
hiệu quả trong công tác quản lý, tuân thủ các quy định pháp luật và hoạt động
khám chữa bệnh của bệnh viện tư.
Thứ tư đổi mới, nâng cao nhận thức về vai trò của bệnh viện tư nhân
trong hệ thống y tế Việt Nam và tăng cường quản lý nhà nước đối với bệnh
viện tư hiện nay. Cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của
bệnh viện tư nhân trong hoạt động y tế để từ đó xác lập những quy phạm pháp
luật phù hợp để điều chỉnh. Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật liên
quan đến y tế tư, tăng cường vai trò của hội và các hội thành viên trong giám
sát, phát huy vai trò của người bệnh trong hoạt động giám sát. Nghiên cứu
hoàn chỉnh những quy định cụ thể để quản lý y tế tư nhân, tập trung vào 5 loại
sau: Quy định về đăng ký, cấp phép hoạt động cho cơ sở hành nghề; Các quy
định về tự kiểm soát thực hành chuyên môn; Quy định về kiểm định cho cơ sở
KCB; Quy định về công bố thông tin; Quy định kiểm soát tài chính thông qua
hệ thống chi trả; Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, xây
dựng hệ thống quản lý điện tử.
Thứ năm tiếp thu ý kiến, đóng góp sửa đổi bổ sung, các quy định pháp
luật của các doanh nghiệp bệnh viện gặp phải khó khăn trong quá trình hoạt
động. Tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo giữa cơ quan chức năng và
các hiệp hội y tế tư nhân để tháo gỡ vướng mắc khi thực hiện các quy định
pháp luật trong lĩnh vực y tế.
Thứ sáu học hỏi mô hình bệnh viện tư cũng như công tác quản lý của
các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để áp dụng phù hợp với điều
kiện thực tiễn tại Việt Nam.
93
TIỂU KẾT CHƯƠNG III
Trước xu thế phát triển của xã hội và tình hình thực tiễn thi hành pháp
luật của bệnh viện tư nhân, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và
hoạt động của bệnh viện tư nhân là cần thiết. Trong định hướng hoàn thiện
pháp luật cần đáp ứng các yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, đồng bộ
với hệ thống pháp luật y tế, kiến tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng,
một môi trường y tế văn minh. Pháp luật về bệnh viện tư nhân được điều
chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật KCB, Luật BHYT và các
văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên hiện nay pháp luật về bệnh
viện tư nhân còn nhiều bất cập, chưa thống nhất, đồng bộ, các quy định còn
đặt bệnh viện tư nhân như một chủ thể kinh doanh thông thường, quy định đối
với bệnh viện tư nhân như một bệnh viện thông thường mà chưa có hệ thống
pháp luật riêng đối với chủ thể đặc biệt này. Do vậy pháp luật cần có những
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tiễn. Để hoàn thiện
pháp luật về bệnh viện tư nhân trước hết phải nghiên cứu lại các quy định đối
với bệnh viện tư nhân, nhận ra những mặt được và chưa được trong các quy
định pháp luật trên cơ sở đó đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
94
KẾT LUẬN
Trong nhiều năm qua, từ việc thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế,
hàng loạt bệnh viện tư ra đời trên khắp địa bàn cả nước đem lại nhiều lựa
chọn dịch vụ y tế cho người dân. Bệnh viện tư nhân ra đời đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh chất lượng cao của người dân và đóng vai trò quan trọng
trong trong việc giảm tải sức ép đối với bệnh viện công lập.
Sự hình thành bệnh viện tư nhân cũng là hình thành một chủ thể đặc biệt
có những đặc điểm pha trộn giữa một đơn vị làm kinh tế và một đơn vị hoạt
động vì cộng đồng. Để bệnh viện tư nhân hoạt động hiệu quả, phát triển cả về số
lượng và chất lượng, hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của mình cần có những
quy định pháp cụ thể, rõ ràng, hỗ trợ, ưu đãi đối với chủ thể đặc biệt này.
Vì bệnh viện tư nhân là chủ thể đặc biệt nên pháp luật về bệnh viện
cũng mang những đặc điểm đặc biệt, vừa mang tính chất của một doanh
nghiệp, vừa mang tính chất phúc lợi xã hội. Cho đến nay các quy định về
pháp luật bệnh viện tư nhân cơ bản đã tạo ra hành lang pháp lý cụ thể cho
hoạt động của bệnh viện. Bên cạnh đó, bước đầu đã tạo được động lực phát
triển và tăng cường trách nhiệm của bệnh viện tư nhân trước pháp luật. Tuy
nhiên do bệnh viện tư nhân hình thành muộn nên pháp luật bệnh viện tư nhân
vẫn còn những mặt thiếu sót, hạn chế. Qua nghiên cứu, phân tích các quy định
pháp luật, nghiên cứu tình hình thực tiễn thi hành pháp luật của bệnh viện tư,
công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước, có thể chỉ ra những quy
định pháp luật cần có sự điều chỉnh. Căn cứ vào đó để đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật bệnh viện tư nhân.
Từ việc nghiên cứu pháp luật về tổ chức bệnh viện tư nhân nhận thấy
Nhà nước cần có sự quan tâm hơn đối với chủ thể đặc biệt này, cần nhiều chính
sách, quy định, hỗ trợ trong quá trình thành lập, hoạt động, cần có cái nhìn
khách quan, đúng đắn, đầy đủ về vai trò của bệnh viện tư nhân trong hệ thống y
tế và cần có sự công bằng hơn trong hoạt động so với bệnh viện công lập.
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phương Anh (2017), Kiến tạo môi trường để y tế tư nhân phát triển,
trang web: https://nhandan.com.vn/tin-tuc-y-te/kien-tao-moi-truong-de-y-te-
tu-nhan-phat-trien-310802 (truy cập ngày 20/03/2020).
2. Ban chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 20-NQ/TW về
tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (2013), Thông tư số 43/2013/TT-BYT quy định chi tiết về
phân tuyến chuyến môn kĩ thuật đối với hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2015), Thông tư số 40/2015/TT-BYT quy định đăng ký
khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh,
chữa bệnh bảo hiểm y tế, Hà Nội.
5. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật thương mại phần chung
và thương nhân, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.72.
6. Xuân Diệp (2020), Thanh tra Bộ Y tế chỉ ra hàng loạt sai phạm của
Bệnh viện Bảo Sơn 2, trang web: https://kienthuc.net.vn/xa-hoi/thanh-tra-bo-
y-te-chi-ra-hang-loat-sai-pham-cua-benh-vien-bao-son-2-1369489.html (truy
cập ngày 25/06/2020).
7. Lê Thanh Hà và cộng sự (2016),2/3 số bệnh viện tư sống thoi thóp,
trang web: https://tuoitre.vn/2-3-so-benh-vien-tu-song-thoi-thop-1066654.htm
(truy cập ngày 25/06/2020).
8. Quỳnh Hoa (2014), Y tế tư nhân và kinh nghiệm xã hội hóa y tế ở
Việt Nam, trang web: https://infonet.vietnamnet.vn/chuyen-de/y-te-tu-nhan-va-
kinh-nghiem-xa-hoi-hoa-y-te-o-viet-nam-249983.html(truy cập ngày 15/3/2019).
96
9. Hồng Khanh (2019), Bệnh viện 5 sao 2.000 tỷ đồng xây 'chui' giữa
Thủ đô, trang web https://vietnamnet.vn/vn/bat-dong-san/du-an/benh-vien-an-
sinh-5-sao-2000-ty-dong-xay-khong-phep-o-ha-noi-580028.html (truy cập
ngày 25/06/2020).
10. Lê Quang Cường (2019), Cơ chế thị trường trong chăm sóc sức
khỏe và chính sách y tế, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 09(385), Hà Nội.
11. Thanh Lê (2019), Vướng mắc về cơ chế, chính sách trong công tác
khám, chữa bệnh ở bệnh viện tư trang web: https://baonghean.vn/vuong-mac-
ve-co-che-chinh-sach-trong-cong-tac-kham-chua-benh-o-benh-vien-tu-
250070.html (truy cập ngày 25/06/2020).
12. Nguyễn Ngọc Long (2018), Quản lý nhà nước và pháp luật đối với
các cơ sở khám, chữa bệnh tư từ thực tiễn thành phố Hà Nội, LATS Luật học:
9 38 01 02, Học viện khoa học xã hội.
13. Nguyễn Thị Việt Nga (2019), Triển vọng hoạt động mua bán và sáp
nhập doanh nghiệp tại Việt Nam, trang web: http://tapchitaichinh.vn/tai-
chinh-kinh-doanh/trien-vong-hoat-dong-mua-ban-va-sap-nhap-doanh-nghiep-
tai-viet-nam-301760.html (truy cập ngày 15/04/2020).
14. Minh Nguyệt (2020),Thanh tra Bộ Y tế chỉ ra sai phạm tại 11 cơ sở
khám, chữa bệnh tư nhân tại TP.HCM, trang web:
http://thanhtravietnam.vn/tin-trong-nganh/thanh-tra-bo-y-te-chi-ra-sai-pham-
tai-11-co-so-kham-chua-benh-tu-nhan-tai-tp-hcm-191019 (truy cập ngày
25/06/2020).
15. Quốc hội (2010), Luật viên chức, Hà Nội.
16. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
17. Quốc hội (2014), Luật đầu tư, Hà Nội.
18. Quốc hội (2014), Luật phá sản, Hà Nội.
19. Quốc hội (2018), Luật phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
97
20. Sơn Lâm và cộng sự (2020), Kích thích bệnh viện công thay đổi,
trang web:https://tuoitre.vn/kich-thich-benh-vien-cong-thay-doi-
20200517075921578.htm, truy cập ngày 20/06/2020.
21. Tổng cục xây dựng lực lượng CAND (2011), Giáo trình Lý luận
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, Tr.218.
22. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử (2014), Tổng quan dịch vụ xã
hội, Hà Nội.
23. Xuân Trường (2017), Khám chữa bệnh ở các bệnh viện tư nhân:
nhiều bất cập cần tháo gỡ, trang web https://laodong.vn/suc-khoe/kham-chua-
benh-o-cac-bv-tu-nhan-nhieu-bat-cap-can-thao-go-511915.ldo (truy cập ngày
20/03/2020).
24. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh số 07/2003/PL-
UBTVQH11 về hành nghề y dược tư nhân, Hà Nội.
25. Văn phòng Hiệp hội bệnh viện tư nhân Việt Nam, Sự không thống
nhất trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHYT giữa Bộ Y tế và
BHXH Việt Nam, trang web http://hiephoibenhvientu.com.vn/su-khong-thong-
nhat-trong-thuc-hien-chinh-sach-phap-luat-ve-bhyt-giua-bo-y-te-va-bhxh-
viet-nam/(truy cập ngày 30/06/2020).
Tiếng Anh
26. Chassaniol Jean-Luc Chassaniol, Philippe El Sair, Michel Hédouin
(2008), The French Healthcare and Hospital System, France.
27. Lee Caroline Lee (2018), Chinese Healthcare Trends: Rising
Hospital Privatization, China.
28. Lee Haejong Lee, Hewon Lee, Keon-Hyung Lee, Thomas T.H Wan
(2008), Comparing efficiency between public and private hospitals in South
Korea, South Korea, p.4.
98
PHỤ LỤC
Tổng Giám Đốc
Giám đốc chi nhánh
Phó giám đốc chuyên môn
Giám đốc bệnh viện
Giám đốc tài chính
Khối chuyên môn
Khối hành chính
Khoa Khám bệnh
Kế hoạch Tổng hợp
Tài chính kế toán
HCNS - VTTB
Phòng Điều dưỡng KSNK
Ban QLCL
TT&CSKH
IT
Đội bảo vệ
Khoa Phụ sản Nhi khoa
Làm sạch
Khoa Ngoại - GMHS
CSKH
Marketing
CSKH
Bảo trì
Buồng phòng
Khoa Nội - Da liễu
Khoa Cận lâm sàng
Khoa Dược
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ tổ chức BVQT Phương Châu Sa Đéc
Hội đồng quản trị
Ban Tổng giám đốc
Tổ thư ký
Ban Giám đốc y khoa
Giám đốc điều hành
Giám đốc tài chính
Lễ tân - CSKH
Kế hoạch tổng hợp
Kế toán tổng hợp
Lâm sàng
Phòng Điều dưỡng
Cận lâm sàng
Khoa Khám bệnh
Xét nghiệm
Marketing
Quản lý chất lượng
Kế toán thu chi
Phòng khám
Chẩn đoán HA
Vật tư - TBYT
Kế toán kho
Kỹ thuật
Phòng cấp cứu
Phòng giải phẫu bệnh
Thu ngân
Bảo vệ
Phòng KHHGĐ
Nhà giặt
Phòng soi CTC
Nhà hàng – Bếp
Khoa sanh
Khoa PT GMHS
Khoa sơ sinh
Khoa sản
Khoa phụ
Khoa hậu sản – hậu phẫu
Dinh dưỡng – tiết chế
Khoa dược
Sơ đồ 2.2. Sơ đồ tổ chức Bệnh viện Phụ sản quốc tế Sài Gòn