BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ XUÂN HƯƠNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ XUÂN HƯƠNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI
Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, do tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của các giảng viên.Vì vậy tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về
công trình nghiên cứu của mình./.
Học viên
Trần Thị Xuân Hương
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến PGS.TS. Huỳnh Văn Thới, người đã chỉ bảo và hướng dẫn tôi tận tình
trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Xin cám ơn Ban giám hiệu, Ban đào tạo sau đại học, các thầy, cô thuộc
khoa Nhà nước và Pháp luật - Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tập thể Lãnh đạo Phòng Việc làm - An toàn lao
động thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi, nơi tôi
đang công tác, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
thực hiện Luận văn./.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2017
Học viên
Trần Thị Xuân Hương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................ 9 7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 9 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM ..................................................................................................... 10 1.1. Tổng quan về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và pháp luật quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................... 10 1.1.1. Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam .................... 10 1.1.2. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam 16
1.2. Khái quát về thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ........................................................................................ 21 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ..................................................................................... 21 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam .............................................................................. 23 1.2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ........................................................... 26
1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................................................................................................ 33 1.3.1. Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước ngoài làm việc tại Việt Nam .................................................................... 33 1.3.2. Thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho người nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam ..................................................... 35 1.3.3 Thực hiện quy định về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động, việc sử dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ..................................................................................... 35 1.3.4. Thực hiện quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ......... 40
1.3.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, xử lý vi phạm liên quan tới người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................................................ 41 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 48 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI............................ 49 2.1. Tình hình lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................................. 49 2.2 Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi ....................................................................................... 50 2.2.1. Các phương diện đánh giá ............................................................ 50 2.2.2. Đánh giá chung ............................................................................. 69 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 75 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................................... 76 3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi .......................................................................................... 76 3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng .................................... 76 3.2.1 Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam ................................................................ 77 3.2.2 Nhóm giải pháp cho các cơ quan quản lý ...................................... 82 3.2.3 Các giải pháp đối với người sử dụng lao động và người lao động 87 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ
LĐNN Lao động nước ngoài
HĐLĐ Hợp đồng lao động
QLNN Quản lý nhà nước
FDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Hiệp định
FTA Thương mại tự do
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
TPP Hiệp định định đối tác xuyên Thái Bình Dương
NNN Người nước ngoài
EPC Tổng thầu Hợp đồng, thiết kế, cung ứng
LĐ-TB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình số lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2014 - 2016 ...................................................................................................... 52
Bảng 2.2. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo giới tính giai đoạn 2014 – 2016 ..................................................................................... 53
Bảng 2.3. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo độ tuổi giai đoạn 2014 – 2016 (Đơn vị: người) ........................................................... 54
Bảng 2.4. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo quốc tịch giai đoạn 2014 - 2016 ............................................................................... 55
Bảng 2.5. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo hình thức lao động giai đoạn 2014 - 2016 ............................................................... 57
Bảng 2.6. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo trình độ chuyên môn giai đoạn 2014 - 2016 ................................................................. 57
Bảng 2.7 Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi được cấp và cấp lại giấy phép lao động giai đoạn 2014 - 2016 .......................................... 61
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển kinh tế thế giới, Việt
Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức thế giới như WTO, ASEAN
với mục tiêu chung là xây dựng cộng đồng chính trị - kinh tế - xã hội chung vì
vậy việc dần phải loại bỏ rào cản, tiến tới mở cửa thị thường lao động là xu
hướng không thể tránh khỏi. Đồng thời cũng cần khẳng định, nhu cầu phải sử
dụng những lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng đặc
biệt là nhu cầu của nền kinh tế - xã hội nước ta.
Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng
công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về di
chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao
động…được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài. Thị trường lao động Việt Nam cũng trở lên linh hoạt và đa dạng hơn,
dòng lao động nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đông hơn, thị trường lao
động Việt Nam cũng sẵn sàng đón nhận lực lượng lao động từ các nước khác
trên thế giới. Trong thời gian qua, lao động nước ngoài tại Việt Nam đã và
đang có những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền kinh tế xã hội, đặc biệt ở
các lĩnh vực, ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao mà hiện tại lao
động trong nước, lao động địa phương chưa thể đáp ứng được. Vấn đề quản lý
lao động nước ngoài, đặc biệt trong những năm gần đây đã được Đảng, Nhà
nước cũng như chính quyền địa phương đặc biệt coi trọng nhằm thực hiện
đúng cam kết trên diễn đàn chung thế giới, đồng thời đảm bảo sự phát triển
lành mạnh, cạnh tranh, bình đẳng và bảo vệ lao động trong nước.
Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được từ nguồn lao động
nước ngoài thì việc quản lý đối với lực lượng lao động này là một bài toán vô
cùng phức tạp đối với các cơ quan quản lý lao động, các ngành chức năng về
1
trật tự và an toàn xã hội và những ảnh hưởng từ lực lượng này đến cuộc sống
của nhân dân. Đặc biệt, vấn đề nổi cộm là tình hình sử dụng bất hợp pháp lao
động nước ngoài (LĐNN) trong các doanh nghiệp tại Việt Nam. Hiện tượng
này có xu hướng gia tăng và điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường
lao động Việt Nam, đến đời sống của người lao động Việt Nam, mà còn là
vấn đề thách thức đối với Nhà nước Việt Nam trong vấn đề về thực thi pháp
luật, vừa đảm bảo chủ trương, chính cách, cơ chế và kỹ năng vận hành, điều
hành có tính quản lý nhà nước thống nhất; vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của LĐNN tại Việt Nam trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.
Thực hiện chủ trương, chính sách mở cửa hội nhập, mở rộng các mối
quan hệ hợp tác với nước ngoài nhằm phục vụ cho nhu cầu xây dựng, phát
triển đất nước và tuyên truyền chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,
Tỉnh Quảng Ngãi đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các cá nhân, tổ chức
nước ngoài triển khai hoạt động đầu tư, hợp tác kinh doanh… tại địa phương.
Toàn tỉnh hiện có 39 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 4.123
triệu USD; Lũy kế đến 30/6/2016 hiện có 5.822 doanh nghiệp được thành lập
trong đó có 4.064 doanh nghiệp đang hoạt động ; Khu kinh tế Dung Quất,
Khu đô thị và dịch vụ VSIP, các Khu công nghiệp của tỉnh, hiện nay sử dụng
trên 45 nghìn lao động địa phương trong đó có gần 50 doanh nghiệp, nhà thầu
có sử dụng lao động người nước ngoài với tổng số gần 400 lao động [40, tr.1-
2]. Để quản lý chắc tình hình lao động nước ngoài làm việc tại địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, không có lao động nước ngoài vào làm việc mà không có giấy
phép lao động, thế nhưng do ý thức và nhận thức của con người nói chung
các cơ quan, doanh nghiệp, nhà thầu nói riêng qua mặt cơ quan quản lý chức
năng để đưa người lao động nước ngoài vào làm việc trái phép làm cho người
lao động trong tỉnh bị thất nghiệp, tình hình xã hội trở nên xấu đi.
Để khắc phục tình trạng này, vấn đề giáo dục ý thức quản lý chặt chẽ
2
người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh công tác quản lý người lao
động nước ngoài. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam qui
định tại Điều 48 Hiến pháp năm 2013 “ Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam
phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài
sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam”; Bộ Luật lao
động năm 2012 là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất hiện nay và Nghị định
số 11/2016/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01 tháng 4 năm 2016.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về lao động
người nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi. Thời gian qua, các cơ quan
chức năng có liên quan của tỉnh Quảng Ngãi đã kiểm tra tình hình tuyển dụng
và sử dụng lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Kết quả, phát hiện những bất cập như lao động nước ngoài vào làm việc bằng
visa du lịch, lao động làm việc trên 03 tháng mà không có giấy phép lao động,
không báo cáo tình hình lao động người nước ngoài đang làm việc cho cơ
quan quản lý lao động tại địa phương.
Từ những lý do trên, là người trực tiếp thực thi nhiệm vụ về công tác này
nhận thấy có một số vấn đề cần tìm hiểu thêm để hướng đến giải quyết một
cách hợp pháp, hợp lý. Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực hiện
pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi” làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề quản lý người lao động nước ngoài đã
được các nhà làm công tác quản lý và những công việc liên quan đến lĩnh vực
này đặt vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp
3
khuyến nghị. Một số nghiên cứu như:
- Tác giả Phạm Mạnh Hùng với bài viết "Lao động nước ngoài tại Việt
Nam - Góc nhìn khác" (Báo Điện tử, Đài Tiếng nói Việt Nam – VOV.VN,
ngày 16/8/2011) đã đề cập đến hiện tượng người nước ngoài vào làm việc tại
Việt Nam một cách khách quan, tránh tạo ra những tâm lý cực đoan trong xã
hội thực trạng lao động nước ngoài tại Việt Nam, những bất cập trong công
tác quản lý và đề xuất chính sách với người lao động tại Việt Nam, lao động
Việt Nam ra nước ngoài.
- Tác giả Sally Baber và Max Tunon, Văn phòng Khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, Tổ chức Lao động Quốc tế với bài viết "Hội nhập ASEAN tác
động đến lao động di cư Việt Nam như thế nào?" (tại trang web: www.ilo.org
ngày 27/12/2013) đã đề cập đến vấn đề di cư lao động và cơ hội khi Việt Nam
gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, vai trò của Tổ chức lao động quốc tế
trong việc cam kết với Chính phủ, Tổ chức sử dụng lao động và bảo vệ người
lao động di cư.
- Tác giả Lê Quốc Lý, Lê Văn Cương (Tạp chí kinh tế và dự báo số 24
(440), tháng 12/2008) "Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề việc làm ở Việt
Nam" đã đề cập đến những thuận lợi, thách thức đối với các doanh nghiệp
Việt Nam về vấn đề việc làm, cạnh tranh thị trường lao động...Từ đó đề xuất 9
giải pháp liên quan đến sử dụng, quản lý lao động di cư vào Việt Nam và xuất
khẩu lao động của Việt Nam.
- Đề tài KX.02.01/11-15 "Vấn đề lao động người nước ngoài tại Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế", do TS. Nguyễn Thị Lan Hương, chủ
nhiệm đã nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng dòng lao động
nước ngoài vào Việt Nam, các yếu tố tác động và ảnh hưởng...Đồng thời chỉ
ra những vấn đề đặt ra về lao động nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay và trong thời gian tới đối với việc thực hiện pháp luật đối với lao
4
động nước ngoài làm việc ở Việt Nam.
Ngoài ra, còn một số bài báo và nghiên cứu khác cũng đề cập đến tình
hình lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam như: "Tăng cường quản lý
lao động người nước ngoài" của tác giả Vũ Yến đăng ngày 21/4/2015 trên
Báo Quảng Ngãi; "Những điểm mới về lao động nước ngoài tại Việt Nam"
của tác giả Trần Quang Minh đăng trên Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày
09/3/2016; "Một số vấn đề về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam cần được sửa đổi" của Tiến sĩ Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
các vấn đề xã hội đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội ngày 30/6/2016;
"Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam" của ThS
Phạm Thị Hương Giang đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ngày
28/01/2017.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận một số khía cạnh của
công tác quản lý lao động nước ngoài. Đây là nguồn tư liệu tham khảo hữu
hiệu, là cơ sở kế thừa cho những nghiên cứu tiếp theo.Tuy nhiên đến nay chưa
có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện về phương diện lý luận, thực
tiễn tình hình thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc tại
tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, đề tài: “Thực hiện pháp luật về quản lý lao động
nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách
toàn diện, về thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về lao động người nước
ngoài làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý lao động người nước ngoài,
thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, các yếu tố tác
động đến thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam và từ thực
trạng thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Quảng Ngãi, luận
5
văn đưa ra một số giải pháp xây dựng quy tắc xử sự nhằm khắc phục và hạn
chế thực trạng trên; góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng
pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà nước về người nước ngoài vào làm việc
ở tỉnh Quảng Ngãi thời gian tới.
Từ những bất cập trong việc thực hiện pháp luật đối với người lao động
nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi như: các mối quan hệ cung - cầu lao
động trong tuyển dụng, cấp phép lao động, công tác an ninh, trật tự xã hội,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của LĐNN… Qua thực tế làm việc trực
tiếp với các thành phần LĐNN và những vấn đề phát sinh cần giải quyết để
vừa đáp ứng quyền lợi cho lao động nước ngoài tại tỉnh, vừa đảm bảo việc
thực thi pháp luật của Nhà nước Việt Nam, phù hợp với xu hướng hội nhập và
luật pháp quốc tế. Trên cơ sở đó, học viên đề xuất một số giải pháp xây dựng
quy tắc xử sự nhằm khắc phục và hạn chế thực trạng trên; góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà
nước về người nước ngoài vào làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý lao động người nước
ngoài, thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, các yếu
tố tác động đến thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam...
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về sử dụng lao động
nước ngoài, thực tiễn áp dụng.
- Ngoài ra, luận văn còn nêu lên những điểm hạn chế trong các quy định
pháp luật hiện hành về sử dụng lao động người nước ngoài, để chỉ ra được
thực tế việc thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc ở tỉnh
Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2014 đến nay; nhằm đưa ra những giải
6
pháp mang tính khuyến nghị, hy vọng được góp một phần nhỏ trong quá trình
hoàn thiện một số cơ chế thực thi pháp luật về lĩnh vực này cũng như việc áp
dụng có hiệu quả trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động thực hiện pháp luật về quản lý lao động người nước ngoài tại
tỉnh Quảng Ngãi.
Những vấn đề lý luận về quản lý lao động người nước ngoài.
Pháp luật điều chỉnh về quản lý lao động người nước ngoài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật
liên quan đến quản lý lao động nước ngoài được thực hiện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
Trong khuôn khổ của luận văn, không đi sâu vào phân tích từng loại lao
động mà chỉ đề cập đến những quy định chung.
- Phạm vi không gian: Tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; các
quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
quản lý lao động người nước ngoài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp trong đó tập trung vào một số phương pháp sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để
7
có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá công tác thực hiện pháp luật đối
với lao động nước ngoài nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, làm cơ sở
để đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà
nước về người nước ngoài vào làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi thời gian tới.
- Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Quảng
Ngãi để từ đó chỉ ra được những mặt mạnh, mặt yếu trong thực hiện pháp luật
làm cơ sở cho những đề xuất, giải pháp ở Chương 3.
- Phương pháp phỏng vấn: được tác giả thực hiện với một số lãnh đạo
tỉnh Quảng Ngãi nhằm thu thập thêm thông tin về thực trạng công tác thực
hiện pháp luật quản lý lao động người nước ngoài trên địa bàn tỉnh, cũng như
phương hướng quản lý lao động người nước ngoài trong thời gian tới.
- Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu
thập được từ kết quả nghiên cứu sơ cấp.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phỏng
vấn...để thu thập thêm những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý người lao động nước ngoài tại
Quảng Ngãi.
Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận
văn để đánh giá khách quan các quy định của pháp luật về quản lý lao động
nước ngoài. Đồng thời, tác giả coi trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể, như:
- Phương pháp thu thập số liệu: từ các cơ quan quản lý và sử dụng lao
động, cơ quan quản lý hành chính, lãnh thổ, các cơ quan thẩm quyền có trách
nhiệm trong phối hợp xử lý các vấn đề liên quan đến LĐNN.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: phân tích các báo cáo, chuyên đề, hồ
8
sơ nghiệp vụ, … để rút ra những kết luận khoa học;
- Phương pháp chuyên gia: tham vấn, trao đổi, phỏng vấn cán bộ có kinh
nghiệm trong lĩnh vực quản lý của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội,
ngành Công an để làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về thực hiện pháp
luật đối với lao động nước ngoài và sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ
pháp luật về quản lý lao động nước ngoài giữa pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế.
- Phương pháp thống kê: nghiên cứu báo cáo của các đơn vị về thực tiễn
quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài làm việc ở tỉnh Quảng
Ngãi; trên cơ sở đó thống kê trên các mặt phục vụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong công
tác quản lý lao động người nước ngoài, trên cơ sở này vận dụng ban hành quy
chế phối hợp giữa các sở, ban ngành có liên quan trong việc quản lý lao động
người nước ngoài.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc tổ chức, triển khai công tác quản lý
nhà nước về thực hiện pháp luật đối với lao động là người nước ngoài làm
việc ở tỉnh Quảng Ngãi trong tình hình hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, giải thích từ ngữ viết tắt và danh
mục tài liệu tham khảo; cấu trúc của luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về quản lý
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý lao
động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và
pháp luật quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
1.1.1. Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
1.1.1.1. Khái niệm quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ
theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên
cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học bàn về quản lý dưới góc độ riêng
của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời
sống xã hội.
Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn
đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ
quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một
dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.[35]
Theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái
thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm
quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục
đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.
10
Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của
xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận
này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các
lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.
Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài là việc nhà nước xác định mục
tiêu và bằng pháp quyền, được thể hiện thành văn bản nhằm tác động có tổ
chức lên các quan hệ và hoạt động của lao động nước ngoài nhằm khai thác
và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lao động này phục vụ các mục tiêu phát
triển kinh tế -xã hội của đất nước.
Về bản chất, quản lý lao động nước ngoài có nguồn gốc từ quản lý, quản
lý lao động. Trong đó, khái niệm quản lý có ngoại viên rộng nhất còn quản lý
lao động nước ngoài lại là khái niệm có ngoại viên hẹp hơn cả. Nếu quản lý là
sự tổ chức, điều khiển hoạt động chung, quản lý lao động là quản lý tất cả lực
lượng lao động trong xã hội, quản lý tư liệu lao động thì quản lý lao động
nước ngoài là sự quản lý riêng một số lượng người lao động - những người
nước ngoài đi làm việc, tạo ra thu nhập và tạm trú có thời hạn ở Việt Nam.
Như vậy, từ quản lý, quản lý lao động đến quản lý lao động nước ngoài đối
tượng quản lý đã được thu hẹp dần vào một phạm vi nhất định.
Dưới góc độ pháp lý, quản lý lao động nước ngoài không đơn thuần là
một hiện tượng kinh tế - xã hội nữa, mà đã được thể chế thành một chế định
pháp luật độc lập, bao gồm một hệ thống các quy định được thể hiện trong
nhiều văn bản pháp luật, từ Bộ Luật lao động đến các Nghị định, Thông tư và
các Hiệp định hợp tác lao động giữa nước ta với các nước đối tác.
Nhà nước có vai trò là người tạo khung pháp lý và môi trường bình đẳng
11
cho các chủ thể tham gia thị trường lao động hợp tác và phát huy tốt năng lực
của mình, đồng thời Nhà nước còn trực tiếp đóng vai trò tổ chức để thị trường
lao động phát triển. Quản lý nhà nước về lao động có thể khái quát thành các
nội dung cơ bản, bao gồm: Xây dựng chiến lược mục tiêu quản lý nhà nước
về lao động nước ngoài; Ban hành hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao
động nước ngoài phù hợp với các quy định của quốc tế; Tổ chức thực hiện
chiến lược mục tiêu, pháp luật, chính sách quản lý lao động nước ngoài; Kiểm
tra, giám sát thực hiện chính sách Nhà nước đối với lao động nước ngoài.
Đối tượng của quản lý nhà nước về lao động nước ngoài là toàn bộ các
chủ thể: nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức có người lao động nước ngoài
làm việc và cá nhân người lao động nước người, cùng với các quan hệ giữa
các chủ thể đó.
1.1.1.2. Đặc điểm quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Lao động nước ngoài là công dân nước ngoài, không có quốc tịch Việt
Nam, đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định để được phép làm việc tại
Việt Nam cho tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
Thứ nhất, quản lý lao động nước ngoài là một quá trình gắn bó chặt chẽ
với việc bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu sắc. Có quan điểm cho
rằng, về cơ bản, quyền con người trong lao động là những quyền con người
liên quan đến điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động, bao gồm việc
làm, tiền lương, an toàn lao động, hoạt động công đoàn, an sinh xã hội nói
chung và bảo hiểm nói riêng [37]. Nếu hiểu mối quan hệ giữa người sử dụng
lao động và người lao động bao gồm các nội dung liên quan tới điều kiện lao
động và điều kiện sử dụng lao động, thì quản lý lao động nước ngoài làm việc
tại nước sở tại là quá trình tác động của chủ thể quản lý lên các điều kiện lao
động và sử dụng lao động liên quan tới vấn đề người lao động mà những
người này không phải là công dân của nước sở tại. Như vậy quản lý lao động
12
nước ngoài không thể không liên quan tới mối quan hệ quốc tế và việc bảo vệ
quyền con người. Hiện tại, Việt Nam đặt vấn đề lao động di trú có tầm quan
trọng lớn trong chính sách kinh tế và chính sách ngoại giao. Tại diễn đàn
ASEAN năm 2008, Việt Nam đã khuyến nghị, với tư cách là một cộng đồng
cùng trách nhiệm và chia sẻ, cần hành động một cách cụ thể và trọn vẹn để
người dân các nước thành viên mà muốn tìm việc làm ở nước ngoài có thể
được hưởng lợi từ một thỏa thuận mới của khu vực mà qua đó các quyền của
họ với tư cách là những người lao động di trú sẽ được bảo vệ. Thực tế, Việt
Nam đã gửi khoảng nửa triệu người lao động đi làm việc ở khoảng 40 quốc
gia và vùng lãnh thổ, nên đòi hỏi có cơ chế pháp lý quốc tế để bảo vệ. Sự đòi
hỏi này được hiểu ở chiều ngược lại là Việt Nam suy tính tới quan hệ quốc tế
và cam kết thi hành các cơ chế bảo vệ quyền của những người lao động di trú.
Đây là đặc điểm quan trọng không chỉ liên quan tới thiết kế chính sách, thiết
lập cơ chế quản lý, xây dựng pháp luật về quản lý lao động nước ngoài, mà
còn liên quan tới các tác nghiệp quản lý cụ thể.[25,tr.3]
Thứ hai, quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là một quá
trình liên quan tới nhiều ngành, tất cả các địa phương và nhiều quan hệ lao
động. Để bảo đảm cho một người lao động nước ngoài vào làm việc tại một
nước, có nhiều vấn đề quản lý sau phải được đặt ra như: Nhập cảnh, xuất
cảnh, cư trú, cấp phép lao động, điều kiện lao động và sử dụng lao động, việc
làm, giáo dục, y tế, công đoàn, bảo hiểm xã hội, an ninh, trật tự… Người lao
động nước ngoài có thể làm việc, cư trú, đi lại nghỉ ngơi ở tất cả các địa
phương và họ có thể tham dự vào nhiều quan hệ lao động khác nhau không kể
lao động giản đơn hay lao động đòi hỏi trình độ cao…Vì vậy, chủ thể quản lý
lao động nước ngoài làm việc tại nước sở tại bao gồm nhiều cơ quan trong bộ
máy nhà nước và tất cả các chính quyền địa phương, nhiều tổ chức cung cấp
hàng hóa công cộng khác như các tổ chức chính trị - xã hội... Các phương
13
thức quản lý cũng khác nhau tùy theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của
từng cơ quan, đơn vị, tổ chức.[25,tr.2-3]
Thứ ba, quản lý LĐNN tại Việt Nam là một quá trình thực hiện liên quan
tới nhiều yếu tố thực thi pháp luật. Lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt
Nam luôn biến động, xuất nhập cảnh liên tục, tạm trú tại nhiều nơi khác nhau;
đối tượng LĐNN tham gia thuộc nhiều thành phần, khác nhau về tính chất
công việc, môi trường làm việc, loại hình lao động, trình độ năng lực, kỹ năng
nghề nghiệp . . . nên khó kiểm soát, nhất là đối với những dự án lớn, nhiều gói
thầu, nhiều nhà thầu và triển khai tại nhiều địa điểm. . . Các tổ chức, doanh
nghiệp (kể cả doanh nghiệp nước ngoài) và người lao động nước ngoài phải
tuân theo những điều kiện rất nghiêm ngặt và các thủ tục chặt chẽ. Trách
nhiệm của các ngành như Công an, Tư pháp, Công thương, Lao động –
Thương binh và Xã hội. v.v.. cũng được quy định rất rõ ràng.
Thứ tư, quản lý LĐNN tại Việt Nam là một quá trình giải quyết các
quyền lợi hài hòa, đảm bảo các lợi ích hợp pháp giữa doanh nghiệp, nhà thầu,
tổ chức kinh tế,… có người nước ngoài và LĐNN cùng với nhà chức trách
của nước sở tại trên cơ sở đảm bảo về an toàn lao động, an ninh chính trị, trật
tự xã hội, điều kiện sinh hoạt và môi trường sống, kể cả chính sách an sinh xã
hội đang thực thi tại những vùng được thụ hưởng.
Thứ năm, quản lý LĐNN tại Việt Nam còn là một quá trình ứng phó, tiếp
kiến và tiếp giao văn hóa, có ảnh hưởng và tác động làm thay đổi một số quan
niệm về đời sống văn hóa tinh thần, vui chơi giải trí và cải thiện kinh tế của
một bộ phận dân cư nơi có lao động nước ngoài sinh sống và làm việc. Mối
quan hệ tương tác này có những điều mà pháp luật nước sở tại cần điều chỉnh
để phù hợp trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nhằm đảm bảo đáp ứng nhu
cầu của LĐNN tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
14
1.1.1.3. Mục tiêu quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Thực hiện chức năng Nhà nước trong xây dựng, phát triển kinh tế và bảo
vệ tổ quốc đối với tiến trình hội nhập toàn cầu hóa. Đảm bảo thực hiện các
quy tắc xử sự theo thông lệ ngoại giao, hợp tác cùng phát triển về các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa và các lĩnh vực đời sống xã hội khác . . . khi Nhà
nước Việt Nam tham gia cam kết, phê chuẩn trên cơ sở pháp luật Việt Nam.
Phải đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý.
Phát triển kinh tế có thể dẫn tới sự thiếu hụt lao động trong một số lĩnh
vực có thể do sự mở rộng sản xuất, kinh doanh đòi hỏi thêm lao động, do sự
thu hút lao động vào một số lĩnh vực nhất định mà bỏ trống những lĩnh vực
khác, hoặc do lực lượng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất,
kinh doanh. Chẳng hạn Việt Nam vào thời kỳ đầu đổi mới với mong muốn
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thu hút công nghệ tiến tiến của nước ngoài,
nhưng lực lượng lao động trong các lĩnh vực công nghệ cao rất mỏng, nhu cầu
sử dụng lao động nước ngoài phát sinh trong khi đó lại tìm cách đưa nhiều lao
động chưa có trình độ cao ra nước ngoài làm việc. Kinh nghiệm Hàn Quốc
cho thấy, cho đến tháng 8/2014 có khoảng 1,7 triệu người nước ngoài lao
động tại Hàn Quốc [43]. Rõ ràng, nền kinh tế nước này có nhu cầu cần thêm
sức lao động trong những ngành nghề nhất định. Từ đó, phát sinh đòi hỏi
quản lý lao động nước ngoài như thế nào để bảo đảm cung cấp sức lao động
hợp lý cho nhu cầu sử dụng lao động để phát triển kinh tế. Với mục tiêu này
các chính sách và pháp luật cụ thể liên quan được xây dựng.
Gắn việc sử dụng lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động
với lợi ích chung của toàn xã hội. Khi người lao động nước ngoài vào làm
việc tại nước sở tại không đơn giản là họ chỉ có mối quan hệ hợp đồng với
người sử dụng lao động cụ thể mà họ và gia đình của họ sinh sống tại nước sở
tại. Có nhiều mối quan hệ khác phát sinh từ đó có liên quan tới lợi ích của
15
toàn xã hội. Tuy nhiên mục tiêu chủ yếu của họ là việc làm tại một nơi cụ thể
của một người sử dụng lao động cụ thể. Do đó việc gắn kết giữa việc sử dụng
lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của
toàn xã hội là một mục tiêu phải được đặt ra cho hoạt động quản lý lao động
nước ngoài. Mục tiêu này góp phần thiết kế các chính sách và ban hành các
quy tắc pháp luật phù hợp, đồng thời bảo đảm cho sự thi hành các chính sách
và pháp luật liên quan bởi hơn ai hết người sử dụng lao động gần gũi nhất với
người lao động nước ngoài.[25,tr.4]
1.1.2. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm vệc tại
Việt Nam
Quản lý lao động nước ngoài tại quốc gia sở tại là một phức hợp các mối
quan hệ qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý bởi xuất phát từ
không chỉ nhu cầu của chủ thể quản lý, mà còn từ các nguyên tắc mà chủ thể
quản lý dù không muốn cũng phải tuân thủ vì tính chất của đối tượng quản lý
là những con người có các quyền tự nhiên mà với các quyền đó chủ thể quản
lý không thể vượt qua (quyền con người). Có thể định nghĩa như sau: Pháp
luật quản lý lao động nước ngoài là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc
Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý là những người nước ngoài nhập
cư vào nước sở tại để làm ăn, sinh sống nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử
dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động
nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã
hội.
Phân tích các nội dung chủ yếu của mô hình quản lý lao động nước
ngoài nêu trên có thể thấy các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với
các tư nhân là người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước
16
ngoài. Trong hoạt động quản lý còn cho thấy sự tác động có tính chất định
hướng và hỗ trợ cho mối quan hệ hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao
động và người lao động nước ngoài. Vì vậy các quy tắc pháp luật quản lý lao
động nước ngoài có cả các quy tắc của luật công và các quy tắc của luật tư.
Là một lĩnh vực pháp luật phức hợp như vậy bởi đối tượng điều chỉnh có
nhiều đặc điểm khác biệt, nên phương pháp điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật
này là tổng thể các phương pháp điều chỉnh của cả luật công và luật tư. Điều
đó có nghĩa là: đối với các mối quan hệ tư, phương pháp điều chỉnh chủ yếu
là phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt; còn đối với các mối quan hệ
công, phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh - phục
tùng. Tuy nhiên các quan hệ tư trong lĩnh vực này không thuần túy được điều
chỉnh bởi phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt mà lý do chủ yếu là
pháp luật dành sự ưu tiên hơn cho việc kiểm soát lao động nước ngoài. Chẳng
hạn đối với lao động trong nước, người sử dụng lao động có tự do hơn trong
việc giao kết hợp đồng lao động với người lao động; thế nhưng đối với lao
động nước ngoài, người sử dụng lao động bị hạn chế trong việc lựa chọn
người lao động để giao kết hợp đồng lao động. Bản thân người nước ngoài
không có phép lao động khó có thể có được hợp đồng lao động đàng hoàng.
Trong lĩnh vực lao động khi nói tới “quản lý lao động” người ta hiểu đó là
“những hoạt động hành chính quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chính sách
quốc gia về lao động” (Công ước số 150 của ILO, Điều 1, khoản a). Vì vậy dù
có các quy tắc của luật tư trong lĩnh vực pháp luật quản lý lao động nước
ngoài thì phương pháp điều chỉnh của quy tắc đó không thuần khiết là phương
pháp tự do thỏa thuận, tự định đoạt.[25,tr.20-21]
1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về quản lý lao động nước ngoài bị ảnh hưởng khá
17
nhiều và cơ bản bởi các điều ước quốc tế, đồng thời bị ảnh hưởng bởi các
chính sách về lao động của quốc gia. Đối tượng quản lý phức tạp với nhiều
loại khác nhau, đòi hỏi qui chế pháp lý khác nhau và chúng đều được chú ý
bởi pháp luật quốc tế. Do đó nguồn pháp luật quản lý lao động nước ngoài
khá phong phú, có thể bao gồm: (1) Văn bản qui phạm pháp luật như Hiến
pháp, điều ước quốc tế, đạo luật và các văn bản lập pháp ủy quyền; (2) tiền lệ
pháp cả trên bình diện quốc tế và quốc gia; (3) tập quán pháp (cả quốc tế và
cả quốc gia); (4) học thuyết pháp lý; và (5) lẽ công bằng. Các nguồn này là
nơi chứa đựng các qui tắc hay tiêu chuẩn xử sự đối với lao động nước ngoài
nói chung và quản lý lao động nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên là một lĩnh
vực pháp luật dành cho việc quản lý mà luôn luôn gắn chặt với chính sách
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội, nên các qui tắc hay tiêu chuẩn
chứa đựng trong đó phải được giải thích theo những nguyên tắc phù hợp với
các mục tiêu cụ thể. [24,tr.6]
Thứ hai, pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
phải được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản là: bảo đảm an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội, bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao
động trong nước, hướng tới các mối quan hệ quốc tế và bảo vệ quyền con người.
Thứ ba, pháp luật quản lý lao động người nước ngoài thể hiện sự tôn
trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài tại Việt
Nam, sự tôn trọng này thể hiện nội dung của pháp luật phải xác định rõ ràng,
chặt chẽ trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống
văn bản trong lĩnh vực lao động người nước ngoài. Nếu các quy phạm pháp
luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác thì sẽ tạo ra những kẽ hở
cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi vi phạm pháp luật như tham
nhũng, lãng phí, phá hoại… Như vậy nội dung của pháp luật phải được biểu
hiện bằng ngôn ngữ pháp luật rõ ràng, chính xác dưới hình thức nhất định của
18
pháp luật.
Thứ tư, pháp luật quản lý lao động nước ngoài bảo vệ việc làm cho
người lao động Việt Nam - đây là đặc điểm về pháp luật quan trọng bởi không
phải mọi ngành nghề, mọi công việc đều cần đến lao động nước ngoài. Nếu
không có những thể chế về pháp luật sẽ dẫn đến sử dụng lao động không hợp
lý ở Việt Nam ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Vai trò của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc
tại Việt Nam
Xét mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước từ học thuyết nhà nước
pháp quyền, có thể thấy pháp luật quản lý lao động nước ngoài có vai trò to
lớn trước hết là thiết lập nên các nguyên tắc quản lý và mô hình quản lý đối
với lao động nước ngoài bởi nhà nước pháp quyền có một hạt nhân lý luận
quan trọng là nhà nước bị ràng buộc bởi pháp luật hay nhà nước chỉ là một
cấu trúc pháp lý. Điều đó có nghĩa là nhà nước và các đạo luật được sinh ra từ
luật gốc (Hiến pháp). Do đó từ nhu cầu quản lý đối với lao động nước ngoài,
người ta xây dựng các đạo luật xác định các nguyên tắc và mô hình quản lý
lao động nước ngoài. Bản thân các nguyên tắc và các mô hình quản lý này
cũng chịu sự chi phối của các điều ước quốc tế, chẳng hạn như trên đã nói các
điều ước đó bao gồm: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948; Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Công ước quốc tế về việc bảo vệ
quyền của tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990…
Cụ thể, Công ước số 150 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thể hiện rõ sự
chi phối của các quy tắc pháp luật tới vấn đề quản lý lao động. Điều 1, khoản
b của Công ước này nhận định: “Thuật ngữ “hệ thống quản lý lao động” bao
gồm mọi cơ quan hành chính quản lý nhà nước có trách nhiệm và/hoặc có
hoạt động quản lý lao động, dù đó là cơ quan ở bộ hoặc các thể chế công
19
cộng, kể cả cơ cấu nửa nhà nước và các cơ quan hành chính khu vực hay địa
phương, hoặc mọi hình thức hành chính phi tập trung khác, cũng như mọi
cấu trúc thể chế được thiết lập nhằm phối hợp các hoạt động của những cơ
quan đó và nhằm thực hiện việc tham khảo ý kiến và sự tham gia của người
sử dụng lao động, người lao động và các tổ chức của họ”. Với quan niệm như
vậy, Công ước này còn ấn định nghĩa vụ cho các quốc thành viên như sau:
“Mọi quốc gia thành viên phê chuẩn Công ước này, theo pháp luật hoặc tập
quán quốc gia, có thể ủy nhiệm hoặc giao phó một vài hoạt động quản lý lao
động cho các tổ chức phi chính phủ, nhất là các tổ chức của người sử dụng lao
động và của người lao động, hoặc khi thích đáng, cho các đại diện của người
sử dụng lao động và của người lao động” (Điều 2). Tóm lại vai trò trước hết
của pháp luật là thiết lập nên các nguyên tắc và mô hình hay hệ thống quản lý
lao động nước ngoài.
Xét mối quan hệ giữa chính sách và trách nhiệm quản lý nhà nước với
pháp luật từ giác độ vai trò sử dụng pháp luật của nhà chức trách cụ thể thì có
thể thấy pháp luật là một công cụ hay phương thức quản lý quan trọng nhất
của chính quyền. Điều đó có nghĩa là từ nhu cầu quản lý lao động nước ngoài,
nhà nước thiết kế chính sách, và thực thi chính sách, cũng như nhiệm vụ quản
lý nhà nước của mình thông qua các quy tắc pháp luật được ban hành phù hợp
với chính sách và các nhiệm vụ quản lý đó. Ở nghĩa này TS. Lưu Bình
Nhưỡng nhấn mạnh tới ban hành các quy định pháp luật về quản lý lao động
nước ngoài như một “phương diện hoạt động chủ yếu” của các cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên có thể hiểu Quốc hội hay Nghị viện không phải là cơ quan
quản lý nhà nước, có nghĩa là khi nói tới cơ quan quản lý nhà nước là nói tới
các cơ quan trong bộ máy hành pháp. [24,tr.29]
Vì vậy các quy định pháp luật được các cơ quan quản lý nhà nước ban
hành đều là các văn bản dưới luật hay văn bản lập pháp ủy quyền, tức là việc
20
ban hành các văn bản này với tính cách là một công cụ quản lý nhà nước phải
được luật cho phép. Do đó nói một cách chính xác, các quy tắc pháp luật do
các cơ quan quản lý nhà nước ban hành là công cụ quan trọng của việc quản
lý nhà nước nói chung và của việc quản lý lao động nước ngoài nói
riêng.[24,tr.31]
1.2. Khái quát về thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm
việc tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm
việc tại Việt Nam
Thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài là quá trình làm cho pháp
luật quản lý lao động nước ngoài được đi vào cuộc sống bằng hành vi hợp pháp
của các chủ thể tham gia trong quá trình quản lý lao động nước ngoài.
LĐNN làm việc tại nước ta thuộc nhiều nhóm thành phần, nhiều quốc
gia, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và loại hình lao động khác
nhau nên đòi hỏi quy chế pháp lý khác nhau và được điều chỉnh bởi quy định
của luật pháp mà quốc gia sở tại tham gia ký kết với quốc gia có lao động
đang làm việc, hoặc trên cơ sở chung của luật pháp quốc tế mà nhóm các
quốc gia cùng tham gia ký kết tuân thủ và áp dụng quy tắc ứng xử phù hợp.
Vì vậy, quản lý lao động nước ngoài phải được thực hiện và áp dụng nhiều
văn bản đa dạng, phức tạp có thể bao gồm văn bản quy phạm pháp luật như
Hiến pháp, điều ước quốc tế, đạo luật và các văn bản lập pháp ủy quyền; Tiền
lệ pháp lý cả trên bình diện quốc tế và quốc gia; Tập quán pháp lý (cả quốc tế
và cả quốc gia); Học thuyết pháp lý; Lẽ công bằng.
Thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam được thể hiện dưới các hình thức thực hiện như sau:
Tuân thủ pháp luật: các chủ thể tham gia quan hệ do pháp luật về quản lý
lao động nước ngoài điều chỉnh phải kiềm chế không tiến hành những hoạt
21
động mà pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà nước sở tại đã tham gia ký kết
có quy định cấm, yêu cầu này đòi hỏi các chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách
thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành động.
Thi hành pháp luật: các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực.
Sử dụng pháp luật: trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ
thể của mình (thực hiện các hành vi mà pháp luật cho phép) thực hiện các
quyền của mình trong khuôn khổ pháp luật và điều ước quốc tế cho phép tại
nước sở tại.
Áp dụng pháp luật: thông qua đó nhà nước thực hiện chức năng quản lý
qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người được giao thực hiện
những quy định của pháp luật, căn cứ vào những quy định của pháp luật để
tạo ra các quy định làm phát sinh thay đổi đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ
pháp luật.
22
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm
việc tại Việt Nam
1.2.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền con người
Tôn trọng quyền con người. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền của
tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990 xác định
phạm vi điều chỉnh của Công ước trên căn bản đặc tính “phổ biến” của quyền
con người như sau: “Công ước này được áp dụng, trừ khi được qui định khác
sau đó, đối với mọi người lao động di trú và các thành viên gia đình họ,
không có bất kỳ sự phân biệt nào như giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ,
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn
gốc xã hội hoặc dân tộc, quốc tịch, độ tuổi, địa vị kinh tế, tài sản, tình trạng
hôn nhân, thành phần xuất thân và các địa vị khác” (Điều 1). Để khẳng định
cụ thể hơn nữa về quyền con người mà người lao động di trú phải được hưởng
do đặc tính “cơ bản” và đặc tính “phổ biến” của quyền con người, Công ước
này qui định: “Theo các văn kiện quốc tế về quyền con người, các quốc gia
thành viên Công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người lao động di
trú và các thành viên gia đình họ trong lãnh thổ hoặc thuộc quyền tài phán của
mình được hưởng các quyền theo Công ước mà không có bất kỳ sự phân biệt
nào về giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan
điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hoặc dân tộc, quốc
tịch, độ tuổi, thành phần kinh tế, tài sản, tình trạng hôn nhân, thành phần xuất
thân và địa vị khác” (Điều 7).
Quyền con người hiện nay được xem là trung tâm của đời sống chính trị
hiện đại. Bởi thế Hiến pháp 2013 của Việt Nam dành toàn bộ Chương 2 để
tuyên bố quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Như trên
đã phân tích, đặc điểm số một của quản lý lao động nước ngoài là quá trình
gắn với bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu sắc. Vì vậy tôn trọng
23
quyền con người là nguyên tắc số một của quản lý lao động nước ngoài.
[24,tr.7]
1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội
Hiện trạng trên thế giới người di cư ồ ạt sang châu Âu từ Bắc Phi và
Trung Đông cho thấy nguyên tắc quản lý này có tầm quan trọng đặc biệt. Các
phần tử Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) và các phần tử Hồi giáo cực đoan
khác có thể trà trộn trong dòng người di cư gây mất an ninh chính trị tại các
nước đến. Bên cạnh đó những người nhập cư không còn gì để mất có thể gây
nên tình trạng mất trật tự xã hội khó kiểm soát. Dịch bệnh và các tệ nạn xã hội
khác có thể gia tăng. Do đó việc bảo đảm an toàn cho cộng đồng từ tác hại
xấu của dịch bệnh và tệ nạn cũng là việc không thể bỏ qua trong quản lý lao
động nước ngoài.[24,tr.8]
Lao động nước ngoài bên cạnh những ảnh hưởng hữu ích cho sự phát
triển kinh tế, xã hội, đôi khi gây rắc rối cho các vấn đề an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội. Một lực lượng lớn người lao động đến từ quốc gia thù
địch không bao giờ gây sự dễ chịu cho quốc gia sở tại. Thế giới đã chứng kiến
việc có nước sử dụng quân bài ngoại kiều ở nhiều nước khác. Do đó bảo đảm
an ninh chính trị là một vấn đề không thể bỏ qua trong hoạt động quản lý lao
động nước ngoài.
Sự khác biệt về văn hóa, lối sống, cung cách làm ăn, và sự thiếu thốn về
cơ sở vật chất, cũng như sự khác biệt về tâm lý, ngôn ngữ …khiến người lao
động nước ngoài hành xử có thể không phù hợp với các qui tắc về trật tự, an
toàn xã hội của nước sở tại. Có nhiều trường hợp người nước ngoài không
thực hiện đúng các qui định pháp luật về xuất nhập cảnh, pháp luật về cư trú;
đã sinh sống tại các công viên, nơi công cộng, tụ tập buôn bán trái phép trên
vỉa hè, lòng đường…gây mất an ninh trật tự và văn minh đô thị. Nghiêm
trọng hơn, có trường hợp người nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm pháp
24
luật hình sự; tuy các cơ quan chức năng đã có biện pháp xử lý, bước đầu có
hiệu quả nhất định, nhưng tình hình vẫn còn diễn biến phức tạp. Điều này cho
thấy sự thiếu quyết đoán và thiếu phương thức quản lý có hiệu quả khó có thể
bảo đảm cho trật tự, an toàn xã hội tại nơi có nhiều lao động nước ngoài sinh
sống. Vì vậy bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là một nguyên tắc không thể
thiếu trong quản lý lao động nước ngoài.
1.2.2.3. Nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho
người lao động Việt Nam
Số lượng lao động nước ngoài gia tăng khiến việc làm cho lao động trong
nước có thể sụt giảm. Như vậy đất nước có thể vướng phải những vấn đề xã
hội. Không ai có thể phủ nhận được rằng sự gia tăng số lượng lao động nước
ngoài làm cho người sử dụng lao động có cơ hội lựa chọn người lao động phù
hợp và thúc đẩy cạnh tranh. Nhu cầu sử dụng lao động có trình độ chuyên môn
bậc cao có thể được đáp ứng và hiệu quả kinh tế có thể được cải thiện.
Ở một số nước lao động nước ngoài bù đắp cho những thiếu hụt về lao
động do dân số già hoặc do lao động trong nước không đủ cho một lĩnh vực
cụ thể nào đó. Tuy nhiên áp lực của các vấn đề xã hội cũng cần phải được giải
quyết. Vì vậy nguyên tắc này là một nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản
lý lao động nước ngoài. Nó giúp cho người quản lý luôn luôn chủ động trong
việc bảo đảm hiệu quả kinh tế, đồng thời bảo vệ việc làm cho người lao động
Việt Nam.[24,tr.8]
1.2.2.4. Nguyên tắc tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động nước ngoài
Là hệ quả tất yếu của nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc
này đòi hỏi không thể vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động nhập cư. Không phân biệt đối xử giữa người lao động nước ngoài và
người lao động trong nước là vấn đề mà đã được Công ước số 97 và Công
25
ước số 143 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) qui định. Điều đó có nghĩa là
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài phải được tôn trọng
như quyền và lợi ích hợp pháp của lao động trong nước. [24,tr.8]
1.2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quản lý lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam
1.2.3.1. Yếu tố kinh tế
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt nam trở thành
thành viên của WTO, hiện nay cùng ASEAN xây dựng một cộng đồng chính
trị - kinh tế - xã hội chung thì việc dần dần phải loại bỏ các rào cản, tiến tới
mở rộng thị trường lao động là xu hướng không thể tránh khỏi. Vì thế, chúng
ta không nên có thái độ cực đoan khi nhìn nhận hiện tượng người lao động
nước ngoài. Nếu nước ta có 83.585 lao động nước ngoài đang làm việc (tính
đến 31/12/2015) thì hàng năm cũng có bằng ấy người Việt sang nước ngoài
làm việc theo thỏa thuận của Chính phủ với các quốc gia. Vì vậy, phải khẳng
định rằng, nhu cầu sử dụng LĐNN có trình độ chuyên môn cao hoặc có kỹ
năng đặc biệt (ví dụ như các cầu thủ bóng đá) là nhu cầu tự thân của nền kinh
tế - xã hội nước ta, hiện nay các tổ chức có yếu tố quốc tế như ngân hành, du
lịch, khoa học công nghệ... tại Việt Nam phần lớn vẫn do những người nước
ngoài đảm nhận. Như vậy, chính sách đối với người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam cần đặt trong chiến lược tổng thể phát triển nguồn lực quốc gia.
Một mặt, cần có cơ chế khuyến khích, chào đón những nhân sự có đẳng cấp
quốc tế gia nhập thị trường lao động Việt Nam. Mặt khác, cần hình thành
"một bộ lọc tốt để những lao động phổ thông chất lượng thấp không thể thẩm
thấu vào thị trường nội địa". Điều quan trọng hơn nhiều là chúng ta phải tìm
cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Làm sao để người lao
động Việt Nam không chỉ đứng vững ở thị trường nhân lực trong nước mà
còn có thể đứng vững cả trên thị trường nhân lực quốc tế.[9]
26
* Hội nhập kinh tế và vấn đề lao động di cư đến Việt Nam
Khi là thành viên của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường lao động,
do đó, người lao động nước ngoài tự do vào Việt Nam là việc. Người lao
động nước ngoài vào Việt Nam làm việc vừa có tác động thúc đẩy phát triển,
vừa có tác động tiêu cực. Cụ thể:
Tác động tích cực:
Một là, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng
suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Là nước đang
phát triển, Việt Nam đứng trước thực tế là thiếu nhân lực có trình độ cao trong
một số ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là nhóm kỹ thuật viên trong một số
ngành kinh tế kỹ thuật, và quản trị viên cao cấp ở cấp độ doanh nghiệp cũng
như cấp ngành thiếu hụt nghiêm trọng. Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của WTO tạo điều kiện cho lao động nước nước ngoài đến Việt Nam làm
việc đã góp phần bù đắp thiếu hụt nói trên. Mặt khác, với nguồn nhân lực chất
lượng cao góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và do đó thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế với mức độ cao.
Hai là, tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với việc đưa vốn và
công nghệ cao vào Việt Nam, họ có nhu cầu sử dụng lao động với trình độ
tương ứng. Là thành viên WTO, nguồn nhân lực trình độ cao từ nước ngoài
được tự do đến làm việc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước
ngoài trong việc tuyển dụng lao động trình độ cao. Đây cũng chính là việc
tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng.
Ba là, tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động
nước ngoài. Trong điều kiện thị trường lao động mới hình thành và phát triển,
lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc sẽ tạo ra nguồn cung lao động
27
cho thị trường. Chính điều này đã thúc đẩy lao động cạnh tranh trên thị trường
góp phần nâng cao chất lượng lao động. Thông qua cạnh tranh, người lao
động phải tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ. Kết
quả là làm cho chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao.
Bốn là, góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu. Khi
người lao động nước ngoài làm việc cùng với lao động Việt Nam, thông qua
tiếp xúc hàng ngày, người lao động Việt Nam có thể học tập trực tiếp về
ngoại ngữ, phong cách, kỹ thuật, kỹ xảo nhằm tự hoàn thiện và nâng cao trình
độ của mình.
Tác động tiêu cực:
Một là, làm giảm thu nhập trung bình trong tổng thu nhập quốc gia.
Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập và được
chuyển về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu nhập
trung bình trong tổng thu nhập quốc gia.
Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần
phong, mỹ tục của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá
truyền thống. Người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang
theo văn hoá của dân tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh,
hiện đại; đồng thời họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù
hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, di chuyển lao động quốc tế ở Việt Nam vừa có tác động tích
cực vừa có tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò
của mình, Nhà nước cần phải đưa ra các công cụ pháp lý, các chính sách cụ
thể nhằm tận dụng tối đa tác động tích cực, hạn chế tối thiểu tác động ngoài
mong muốn.[31]
1.2.3.2. Yếu tố chính trị - hành chính
- Đảm bảo an ninh, chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc
28
Có thể nói, đây là mục tiêu hàng đầu của công tác quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đối với người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay,
bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt vấn đề an ninh, chủ quyền, lợi
ích quốc gia lên trên hết. Thời gian qua, hoạt động của người nước ngoài tại
Việt Nam bên cạnh những mặt tích cực cũng xuất hiện nhiều phức tạp liên
quan đến an ninh, trật tự. Chúng ta thấy, vấn đề nhà đầu tư nước ngoài vào
nước ta hoạt động lừa đảo, lợi dụng “chuyển giá” để trốn thuế, thâu tóm các
liên doanh Việt Nam đã gây thiệt hại rất lớn về kinh tế Việt Nam; hay vấn đề
người Trung Quốc đủ các loại thành phần phức tạp hoạt động tại các dư án,
nhiều dự án do Trung Quốc, Đài Loan đầu tư đã lập thành những “đặc khu”
gây không ít vấn đề nhức nhối về an ninh, trật tự đặc biệt là tại các địa bàn
chiến lược về an ninh, quốc phòng. Tất cả các hoạt động đó đều tác động trực
tiếp đến an ninh, chủ quyền đất nước, lợi ích quốc gia dân tộc cả trước mắt
cũng như lâu dài. Thông qua công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối
với người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ góp phần ngăn chặn, loại bỏ
được những tác động tiêu cực đó.
* Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài tại Việt Nam
Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài là một công tác có vai trò tiền đề, là yếu tố tác động trực tiếp đến nhận
thức, hành động của cơ quan quản lý lao động nước ngoài, cơ quan sử dụng
lao động nước ngoài và bản thân người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
Trong thời gian qua công tác này đã được triển khai đến các cơ quan có
chức năng quản lý lao động nước ngoài, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao
động nước ngoài và bản thân người lao động tại Việt Nam bằng nhiều hình
thức như: tổ chức tập huấn, tuyên truyền, giải thích pháp luật tại các cơ quan
có chức năng trợ giúp......Tuy nhiên kết quả đạt được chưa cao, sự khác biệt
29
về ngôn ngữ là rào cản rất lớn trong việc thực hiện công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật cho lao động nước ngoài tại Việt Nam.
* Công tác phối hợp chỉ đạo thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài
tại Việt Nam
Như đã nêu trên, đặc điểm của pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt
Nam liên quan tới nhiều ngành, tất cả các địa phương và nhiều quan hệ lao
động. Để bảo đảm cho một người lao động nước ngoài vào làm việc tại một
nước nên công tác phối hợp chỉ đạo giữa các ngành, các địa phương trong
thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài được đặt lên hàng đầu, sự phối
hợp tốt giữa các ngành, các địa phương sẽ tạo hiệu lực nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về lao động nước ngoài, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tránh
chồng chép, đùng đẩy trách nhiệm giữa các ngành, các địa phương trong các
lĩnh vực có liên quan.
* Nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người lao động nước ngoài về
chính sách, pháp luật của Việt Nam
Đối với lao động là người nước ngoài việc nhận thức về quyền và nghĩa
vụ của bản thân khi tham gia lao động tại nước sở tại là một yêu cầu quan
trọng không chỉ giúp họ hiểu về quyền, nghĩa vụ theo pháp luật quy định để
tuân thủ thực hiện mà còn hiểu được những quyền cơ bản để bảo vệ chính
mình trong quá trình lao động liên quan đến sức khỏe, tính mạng, bảo
hiểm...Tuy nhiên trong thực tiễn, đối với người nước ngoài làm việc cho các
hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam (người sử
dụng lao động nước ngoài) thì thông thường, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ
được xác định theo pháp luật của quốc gia mà doanh nghiệp đó hoạt động,
nếu hai bên không có thỏa thuận luật áp dụng trong hợp đồng lao động. Đây
là những người đã ký hợp đồng lao động với doanh nghiệp ở nước ngoài, theo
luật nước ngoài. Sau đó, họ chỉ đến Việt Nam làm việc theo hình thức di
30
chuyển nội bộ trong doanh nghiệp. Do đó, các quy định của Bộ luật Lao động
Việt Nam, về nguyên tắc, sẽ không được áp dụng cho những đối tượng lao
động này. Đồng thời, trong một số lĩnh vực khác liên quan như bảo hiểm xã
hội, công đoàn…thì họ đương nhiên có quyền tham gia bảo hiểm ở nước
ngoài và là thành viên của công đoàn ở quốc gia mà doanh nghiệp nước ngoài
đó hoạt động, mặc dù họ đang lao động trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngược lại, đối với người nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao
động Việt Nam thì địa vị pháp lý của họ trong lĩnh vực lao động sẽ được điều
chỉnh bởi Bộ luật Lao động Việt Nam và các quy định khác của pháp luật
Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Nói cách khác, trong trường
hợp này, các quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam như thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động và vệ sinh lao động, kỷ luật lao động,
trách nhiệm vật chất…của Bộ luật Lao động Việt Nam đều sẽ được áp dụng
cho người nước ngoài theo chế độ đối xử quốc gia. Tuy nhiên, đối với các quy
định liên quan đến công đoàn và bảo hiểm xã hội thì chế độ đối xử quốc gia
nêu trên chưa được áp dụng.
* Nhận thức của lãnh đạo và hoạt động của cơ quan xúc tiến tại địa phương
Tư tưởng nhận thức và thái độ của lãnh đạo địa phương cũng là yếu tố
tác động mạnh đến thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài vào địa
phương đó. Nếu lãnh đạo nhận thức được vai trò của lao động nước ngoài thì
sẽ quan tâm, chỉ đạo, có những ưu tiên, tạo môi trường thuận lợi, chủ động
trong việc tìm đối tác đầu tư nước ngoài phù hợp để thu hút được lao động
nước ngoài vào làm việc, đóng góp cho sự phát triển của địa phương. Đồng
thời, thực hiện đúng các quy định và trình tự mang tính pháp lý về quản lý lao
động nước ngoài tại địa phương.
31
1.2.3.3. Yếu tố pháp lý
Lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam phải có đủ
các điều kiện sau đây:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu
công việc;
- Không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài;
- Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam
cấp, trừ các trường hợp theo quy định tại Điều 172 của Bộ Luật lao động.[14]
- Lao động là công dân nước ngoài vào Việt Nam phải tuân theo pháp
luật lao động Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy
định khác và được pháp luật Việt Nam bảo vệ.
1.2.3.4. Yếu tố truyền thống lịch sử, giao lưu, tiếp biến văn hóa, xã hội
Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính quy
phạm như pháp luật, đạo đức, tập quán, luật tục; luật lệ tôn giáo… hành vi và
các mối quan hệ của con người còn chịu sự điều chỉnh của các phương tiện
điều chỉnh không mang tính quy phạm. Đó là các phương tiện như lương tâm,
chính trị, văn hoá, nghệ thuật, thẩm mỹ, tư tưởng, khoa học; công nghệ, thông
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; tính cách, khí hậu, thời tiết...
chúng có vai trò đặc biệt to lớn trong việc điều chỉnh ý thức, hành vi của con
người. Mặc dù văn học nghệ thuật không được thể hiện thành “điều”,
“khoản”, không có cái gọi là “chế tài”, song trên thực tế lại có vai trò rất to
lớn, có thể dẫn dắt con người theo nhiều cách xử sự, hướng thiện, hướng ác
hay trung lập; cùng chiều hoặc ngược chiều với luật pháp và đạo đức xã hội.
Đặc điểm của pháp luật về lao động nước ngoài ở Việt Nam là một quá
trình gắn bó chặt chẽ với việc bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu
32
sắc. Mỗi một quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hóa khác nhau, khi đến
Việt Nam họ mang theo những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những nét đẹp
văn hóa truyền thống phù hợp với nước ta đáng để người Việt Nam học tập,
tiếp thu và tôn trọng.
1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc
tại Việt Nam
1.3.1. Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước
ngoài làm việc tại Việt Nam
Bộ Luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định rõ đối
tượng, tiêu chuẩn và điều kiện người nước ngoài làm việc tại Việt Nam cụ thể
như sau:
* Về đối tượng:
Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là công dân nước
ngoài vào làm việc tại Việt Nam theo các hình thức sau: Thực hiện hợp đồng
lao động; di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp; thực hiện các hợp đồng hoặc
thỏa thuận về kinh tế, thương mại tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học
kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, dạy nghề và y tế; nhà cung cấp dịch vụ
theo hợp đồng; chào bán dịch vụ; làm việc cho tổ chức phi chính phủ nước
ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam được phép hoạt động theo quy định của
pháp luật Việt Nam; tình nguyện viên; người chịu trách nhiệm thành lập hiện
diện thương mại; nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động kỹ
thuật; tham gia thực hiện các gói thầu, dự án tại Việt Nam.
Người sử dụng lao động nước ngoài bao gồm: doanh nghiệp hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hoặc theo điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nhà thầu (nhà thầu chính,
nhà thầu phụ) nước ngoài hoặc trong nước tham dự thầu, thực hiện hợp đồng;
Văn phòng đại diện, chi nhánh của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức được cơ
33
quan có thẩm quyền cấp phép thành lập; Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức
quốc tế tại Việt Nam; Tổ chức sự nghiệp được thành lập theo quy định của
pháp luật; Văn phòng của dự án nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam; Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng hợp
tác kinh doanh hoặc của nhà thầu nước ngoài được đăng ký hoạt động theo
quy định của pháp luật; Các tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy
định của pháp luật; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động
theo Luật Hợp tác xã; Hội, hiệp hội doanh nghiệp được thành lập theo quy
định của pháp luật; Hộ kinh doanh, cá nhân được phép hoạt động kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
* Về tiêu chuẩn:
Một là, về nhân thân: phải có đủ các điều kiện sau: có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ; có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu
cầu công việc; không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; có
giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp,
trừ trường hợp pháp luật qui định không thuộc diện cấp phép lao động.
Hai là, lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải tuân
theo pháp luật lao động Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên có quy định khác hoặc được pháp luật Việt Nam bảo vệ.
* Về điều kiện tuyển dụng:
Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu trong nước chỉ được
tuyển lao động là công dân nước ngoài vào làm công việc quản lý, giám đốc
điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp
ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
34
Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu nước ngoài trước khi
tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài vào làm việc trên lãnh thổ Việt
Nam phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động và được sự chấp thuận bằng
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.3.2. Thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho người
nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số
40/2016/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam. Theo đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện theo thẩm
quyền đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn người sử
lao động (trừ nhà thầu) trước ít nhất 30 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng
người lao động nước ngoài phải gửi báo cáo giải trình về nhu cầu sử dụng đến
Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trường hợp có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao
động nước ngoài thì người sử dụng lao động gửi báo cáo giải trình thay đổi
trước ít nhất 30 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng người lao động nước ngoài.
Cơ quan chấp thuận (UBND cấp tỉnh) thông báo việc chấp thuận sử dụng
người lao động nước ngoài tới người sử dụng lao động trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được báo cáo.
1.3.3 Thực hiện quy định về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao
động, việc sử dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam
Người lao động là công dân nước ngoài phải xuất trình giấy phép lao
động khi làm các thủ tục liên quan đến xuất cảnh, nhập cảnh và xuất trình
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công dân nước ngoài vào
làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động sẽ bị trục xuất khỏi lãnh
35
thổ Việt Nam theo quy định của Chính phủ. Người sử dụng lao động là công
dân nước ngoài mà không có giấy phép lao động làm việc thì bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
Pháp luật cũng quy định một số trường hợp công dân nước ngoài làm
việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động gồm:
Là thành viên góp vốn hoặc là chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu
hạn; Là thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần; Là Trưởng văn
phòng đại diện, dự án của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt
Nam; Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch
vụ ; Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý những sự cố, tình
huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ
ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các
chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được; Là luật sư
nước ngoài đã được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy
định của Luật luật sư; Theo quy định của Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Là học sinh, sinh viên học tập tại Việt
Nam làm việc tại Việt Nam nhưng người sử dụng lao động phải báo trước 07
ngày với cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
Di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ
trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới,
bao gồm: kinh doanh, thông tin, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường,
tài chính, y tế, du lịch, văn hóa giải trí và vận tải.
Tình nguyện viên có xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao nước
ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Thân nhân thành viên cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam làm việc
sau khi được Bộ Ngoại giao cấp phép, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
36
* Trình tự thủ tục cấp giấy phép lao động: .
Điều kiện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài thì người nước
ngoài đó phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật,
có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc. Là nhà quản lý, giám đốc điều
hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật. Không phải là người phạm tội hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và
pháp luật nước ngoài và phải được chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về việc sử dụng người lao động nước ngoài. [14,tr2-3]
Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động bao gồm: Văn bản đề nghị cấp
giấy phép lao động của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội; Giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám
sức khỏe do cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài hoặc của
Việt Nam cấp có giá trị trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày ký kết luận sức
khỏe đến ngày nộp hồ sơ; Phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người
lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự của nước ngoài cấp. Trường hợp người lao động nước ngoài đã
cư trú tại Việt Nam thì chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp do Việt Nam cấp có giá
trị không quá 06 tháng, kể từ ngày cấp đến ngày nộp hồ sơ; Văn bản chứng
minh là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật;
02 ảnh mầu (kích thước 4cm x 6cm, phông nền trắng, mặt nhìn thẳng, đầu để
trần, không đeo kính màu), ảnh chụp không quá 06 tháng tính đến ngày nộp
hồ sơ; Bản sao có chứng thực hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu
hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế còn giá trị theo quy định của pháp luật;
Các giấy tờ liên quan đến người lao động nước ngoài; Hợp pháp hóa lãnh sự,
chứng thực các giấy tờ.
37
Pháp luật quy định thời hạn của giấy phép lao động được cấp cho người
lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam không quá 02 năm theo quy
định.
Trình tự cấp giấy phép được pháp luật quy định rất cụ thể như sau:
Trước ít nhất 15 ngày làm việc, kể từ ngày người lao động nước ngoài dự kiến
bắt đầu làm việc cho người sử dụng lao động thì người sử dụng lao động đó
phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc. Trong thời
hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao
động, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép lao động cho
người lao động nước ngoài theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội quy định. Trường hợp không cấp giấy phép lao động thì có văn bản trả lời
và nêu rõ lý do. Đối với người lao động nước ngoài thực hiện hợp đồng lao
động, sau khi người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động thì
người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài phải ký kết hợp đồng
lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam trước
ngày dự kiến làm việc cho người sử dụng lao động. Trong thời hạn 05 ngày
làm việc, kể từ ngày ký kết hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải
gửi bản sao hợp đồng lao động đã ký kết tới Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội đã cấp giấy phép lao động đó.
* Trình tự thủ tục cấp lại giấy phép:
Cấp lại giấy phép lao động được thực hiện khi: bị mất, hỏng, thay đổi nội
dung ghi trên giấy phép lao động (họ, tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số
hộ chiếu, địa điểm làm việc); giấy phép lao động hết hạn, yêu cầu giấy phép
phải còn thời hạn ít nhất 5 ngày, nhưng không quá 45 ngày trước ngày giấy
phép lao động đã được cấp hết hạn.
38
Hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động: Văn bản đề nghị cấp lại giấy
phép lao động của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội; 02 ảnh mầu (kích thước 4cm x 6cm, phông nền trắng,
mặt nhìn thẳng, đầu để trần, không đeo kính màu), ảnh chụp không quá 06
tháng tính đến ngày nộp hồ sơ; Giấy phép lao động đã được cấp, Trường hợp
giấy phép lao động bị mất thì phải có xác nhận của cơ quan Công an cấp xã
của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của
pháp luật, Trường hợp thay đổi nội dung ghi trên giấy phép lao thì phải có các
giấy tờ chứng minh.
Trình tự cấp lại giấy phép lao động: Trường hợp cấp lại giấy phép lao
động trước ít nhất 05 ngày nhưng không quá 45 ngày trước ngày giấy phép
lao động hết hạn, người sử dụng lao động phải nộp hồ sơ đề nghị cấp lại giấy
phép lao động cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép
lao động đó. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề
nghị cấp lại giấy phép lao động, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp lại
giấy phép lao động. Trường hợp không cấp lại giấy phép lao động thì có văn
bản trả lời và nêu rõ lý do.
Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại:
Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại trong trường hợp bị mất,
bị hỏng hoặc thay đổi nội dung ghi trong giấy phép lao động thì thời hạn bằng
thời hạn của giấy phép lao động đã được cấp trừ đi thời gian người lao động
nước ngoài đã làm việc tính đến thời điểm đề nghị cấp lại giấy phép lao động.
Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại khi còn thời hạn ít nhất 5
ngày nhưng không quá 45 ngày theo thời hạn của một trong các trường hợp
quy định như đã nêu trên nhưng không quá 02 năm.
Các trường hợp phải thu hồi giấy phép lao động:
39
Giấy phép lao động hết thời hạn.; Chấm dứt hợp đồng lao động; Nội
dung của hợp đồng lao động không đúng với nội dung của giấy phép lao động
đã được cấp; Hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế hết thời
hạn hoặc chấm dứt.
Trình tự thủ tục thu hồi: đối với trường hợp giấy phép lao động hết hiệu
lực theo quy định của pháp luật như đã nêu trên thì người sử dụng lao động
thu hồi giấy phép lao động của người lao động nước ngoài để nộp lại Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động đó; đối với trường
hợp giấy phép lao động bị thu hồi do vi phạm quy định của pháp luật thì Giám
đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động ra quyết
định thu hồi và thông báo cho người sử dụng lao động để thu hồi giấy phép
lao động của người lao động nước ngoài và nộp lại Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản xác nhận đã
thu hồi giấy phép lao động gửi người sử dụng lao động.
Người nước ngoài đã có giấy phép lao động tại Việt Nam phải tuân thủ
các quy định về sử dụng và quản lý như sau: Người nước ngoài có trách
nhiệm giữ giấy phép lao động đã được cấp khi giấy phép đang còn hiệu lực;
Người nước ngoài phải xuất trình giấy phép lao động khi làm các thủ tục liên
quan đến lĩnh vực xuất nhập cảnh và xuất trình theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
1.3.4. Thực hiện quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Chủ tịch UBND tỉnh có văn bản chấp thuận cho người sử dụng lao động
về việc sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc. Sở
Lao động – TB&XH có trách nhiệm hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ cấp
giấy phép lao động cho người nước ngoài. Đồng thời, UBND tỉnh chỉ đạo,
40
đôn đốc, thanh tra và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về
người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Sở Tư pháp có trách nhiệm cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước
ngoài nếu đã định cư ở Việt Nam trên 6 tháng.
Công an tỉnh hướng dẫn việc cấp thị thực cho người nước ngoài liên
quan đến việc cấp, cấp lại giấy phép lao động; xác nhận không thuộc diện cấp
giấy phép lao động. Định kỳ hàng quý cung cấp thông tin về người lao động
nước ngoài được cấp thị thực vào làm việc cho cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội.
Sở Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn về lệ phí cấp, cấp lại giấy phép
lao động. [14,tr15]
1.3.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, xử lý vi phạm liên quan tới
người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Hằng quý, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với cơ quan
Công an và các cơ quan có liên quan kiểm tra tình hình thực hiện các quy
định của pháp luật Việt Nam đối với người lao động nước ngoài làm việc tại
các gói thầu do nhà thầu trúng thầu trên địa bàn thực hiện.
Bên cạnh đó, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực người
lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam: Điều 22 Nghị định số
95/2013/NĐ- CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định xử phạt vi phạm
hành chính đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam vi phạm pháp luật
với các hình thức: Trục xuất, phạt tiền và một số hình thức xử phạt bổ sung:
Đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành
vi vi phạm của người sử dụng lao động nước ngoài không có giấy phép.
41
1.4. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài
tại một số địa phương và bài học đối với tỉnh Quảng Ngãi
1.4.1.Kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài tại một số địa
phương
1.4.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh là vùng lãnh thổ ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long, miền
Nam Việt Nam. Đặc khu hành chính là thành phố Trà Vinh, nằm trên Quốc lộ
53, cách Thành phố Hồ Chí Minh gần 200 km và cách thành phố Cần
Thơ 100 km.
Năm 2015, tăng trưởng GDP từ 13,5%. Trong đó, giá trị nông
nghiệp tăng 2%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 9%, công nghiệp tăng
15%, xây dựng tăng 27,3% và dịch vụ tăng 20%.
Thu nhập bình quân đầu người đạt 19,325 triệu đồng, tương đương
920 USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, tăng 15,4% so với
năm 2011. Thu ngân sách 827 tỷ đồng, tăng 27,2% so năm 2014. Tổng chi
ngân sách 4.169 tỷ đồng. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội 8.700 tỷ đồng.
Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới
cho 22.000 lao động, trong đó có 200 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ
lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 35%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo
3%, trong đồng bào dân tộc Khmer 4%.
Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài
trên địa bàn như:
Thời gian qua, cơ quan chức năng của địa phương đã kiểm tra và phát
hiện có sai phạm trong việc sử dụng lao động nước ngoài tại các doanh
nghiệp và ở công trường xây dựng nhà máy nhiệt điện Duyên Hải, nhưng
chưa xử phạt trường hợp nào, nên tính răn đe không cao. Trong khi các tỉnh
khác áp dụng các biện pháp xử phạt doanh nghiệp và nhà thầu vi phạm trong
42
việc sử dụng lao động người nước ngoài như: xử phạt nhà thầu nước ngoài tại
dự án Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 10 triệu đồng, dự án tổ hợp khai thác
bauxite Tây Nguyên 45 triệu đồng, vụ phạt 13 doanh nghiệp sử dụng lao động
nước ngoài trái phép tại 4 tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Tây Ninh, Đồng Nai
với tổng cộng 95,5 triệu đồng. Bên cạnh đó, cũng đã có những hình thức như
yêu cầu xuất cảnh với những trường hợp nhập cảnh trái phép, hoặc sử dụng
hộ chiếu công vụ sai mục đích.
Thời gian tới nên siết chặt quản lý lao động người nước ngoài tại Việt
Nam nói chung và tại tỉnh Trà Vinh nói riêng, với các giải pháp như sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức của chủ sử dụng
lao động, yêu cầu các đơn vị, bộ phận quản lý lao động hướng dẫn cụ thể hơn
nữa việc tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài cho các doanh nghiệp,
nhà thầu hoạt động trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và cương quyết xử lý nghiêm
túc khi phát hiện doanh nghiệp, nhà thầu vi phạm trong việc sử dụng lao động
người nước ngoài, để đảm bảo công tác quản lý lao động người nước ngoài
chặt chẽ và hiệu quả hơn .
- Trong công tác thực hiện Quản lý lao động người nước ngoài tăng
cường phối hợp, thường xuyên trao đổi thông tin liên quan đến quản lý xuất,
nhập cảnh, cấp và gia hạn thị thực, đăng ký tạm trú và cấp giấy phép lao
động; phối hợp tổ chức các hoạt động trong việc quản lý người nước ngoài,
giải quyết và xử lý đối với các trường hợp không thực hiện đúng quy định của
pháp luật.
- Các Sở, ban ngành có liên quan thực hiện nghiêm túc nội dung Công
văn số 3178/LĐTBXH-VL ngày 23/9/2011 của Bộ Lao động Thương Binh và
Xã hội về việc tăng cường công tác quản lý người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam.
43
1.4.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung
Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà
Nội 291 km về phía nam. Hiện nay ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung
phát triển ở 3 khu vực là Vinh - Cửa Lò gắn với Khu kinh tế Đông Nam, Khu
vực Hoàng Mai và khu vực Phủ Quỳ. Phấn đấu phát triển nhiều ngành công
nghiệp có thế mạnh như các ngành chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến
thuỷ hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ
nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy...Trong
bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm
2015, tỉnh Nghệ An xếp ở vị trí thứ 28/63 tỉnh thành. GDP 2015đạt gần 8%
Thu nhập bình quân đầu người 2015 đạt 29 triệu đồng/ người /năm. Với sự
tăng trưởng ngày càng mạnh, Nghệ An ngày càng thu hút các nhà đầu tư và
lao động nước ngoài vào kinh doanh và lao động tại tỉnh.
Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài
Nhìn chung, người nước ngoài đến Nghệ An đều chấp hành tốt chủ
trên địa bàn như:
trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam và các quy định của địa phương.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cá nhân, tổ chức nước ngoài, nhất là thành viên
các tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân viên các cơ quan đại diện ngoại
giao... đến Nghệ An hoạt động không đúng chương trình, như: thay đổi thành
phần, chương trình làm việc không thông báo trước; đi sâu tìm hiểu các vấn
đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội; tuyên truyền những chính sách, đời
sống, các giá trị theo kiểu các nước phương Tây, ủng hộ vật chất cho các đối
tượng cực đoan, chống đối trên địa bàn; một số trường hợp vi phạm quy chế
xuất nhập cảnh hoặc có các hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam.
44
Trong lúc công tác quản lý nhà nước về người nước ngoài vẫn còn một
số tồn tại, hạn chế, như: một số sở, ban, ngành chưa thực sự quan tâm đến
công tác quản lý người nước ngoài; công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành
liên quan còn thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời; công tác quản lý người nước
ngoài, nhất là tại các vùng đặc thù còn gặp nhiều khó khăn...; để kịp thời chấn
chỉnh những tồn tại nêu trên và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài trên địa bàn, UBND
tỉnh yêu cầu.
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam thuộc đồng bằng sông
1.4.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh
Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh tiếp giáp với
vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Thành phố Bắc Ninh nằm cách
trung tâm Hà Nội 30 km về phía đông bắc, phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà
Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải
Dương, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Năm 2015, tổng thu NSNN trên địa
bàn đạt 15.050 tỷ đồng, bằng 107,5% dự toán, bằng 118,7% so với năm 2014.
Trong đó, thu nội địa ước đạt 10.035 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu đạt 4.540 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện là
13.394 tỷ đồng, bằng 146% so với dự toán; trong đó chi đầu tư phát triển ước
thực hiện trên 3.784 tỷ đồng. Việc đầu tư từ vốn ngân sách tỉnh đã góp phần
lớn trong việc xây mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông, hỗ trợ đầu tư
xây dựng hạ tầng nông thôn và các dự án trọng điểm.
Với sự tăng trưởng ngày càng mạnh, Bắc Ninh ngày càng thu hút các nhà
đầu tư và lao động nước ngoài vào kinh doanh và lao động tại tỉnh.
Những năm gần đây, số lượng lao động là người nước ngoài vào Bắc
Ninh làm việc tăng nhanh cùng sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp.
Tuy nhiên, việc quản lý cư trú đối với số lao động này như thế nào để vừa bảo
45
đảm hiệu suất doanh nghiệp vừa ổn định an ninh xã hội là vấn đề thực sự bức
thiết, đòi hỏi các cấp, ngành chức năng, doanh nghiệp, chính quyền các địa
phương phải có sự phối hợp chặt chẽ.
Hiện toàn tỉnh có khoảng 300 doanh nghiệp sử dụng lao động là người
nước ngoài (chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với gần
5.000 lao động là người nước ngoài đang làm việc trong các khu công nghiệp.
Ngoài ra còn có 75 doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp đăng ký sử dụng gần
300 lao động là người nước ngoài với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội,
đơn vị quản lý Nhà nước về lao động là người nước ngoài. Con số này biến
động theo từng tháng, từng năm nên việc quản lý không hề đơn giản.
Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài
trên địa bàn như:
Vẫn tồn tại một số hành vi vi phạm cần có biện pháp ngăn chặn, xử lý
kịp thời. Các hành vi vi phạm chủ yếu ở một số doanh nghiệp sử dụng lao
động là người Trung Quốc. Các doanh nghiệp này thường đưa lao động vào
làm việc trái quy định của pháp luật, chỉ khi bị kiểm tra, phát hiện mới tiến
hành làm các thủ tục. Nhiều doanh nghiệp và người lao động còn tìm cách
“lách luật” để không phải làm giấy phép lao động bởi theo quy định của Luật
thì lao động làm việc dưới 3 tháng không phải cấp giấy phép lao động. Vì
vậy, các doanh nghiệp thường cho lao động làm việc dưới 3 tháng rồi về
nước, sau đó lại tiếp tục tuyển dụng lại, nên rất khó quản lý.
46
1.4.2. Bài học đối với tỉnh Quảng Ngãi
Qua phân tích và đánh giá kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài
tại một số địa phương như Trà Vinh và Nghệ An, có thể rút ra một số bài
học về quản lý lao động nước ngoài đối với tỉnh Quảng Ngãi như sau:
- Xây dựng hệ thống quản lý lao động nước ngoài cần dựa trên sự
nghiên cứu kỹ lưỡng, từ đó đưa ra những văn bản pháp lý phù hợp với đặc
điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của địa phương.
- Phân tích cụ thể đối với từng nhóm đối tượng trên địa bàn dựa trên
đánh giá chính xác đóng góp cũng như ảnh hưởng của đối tượng đó, để từ đó
có những giải pháp thực thi chính sách quản lý người lao động nước ngoài
trên địa bàn tỉnh.
- Chủ động phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện quản
lý lao động nước ngoài.
47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong chương 1 của luận văn đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật đối với lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam,
những quy định cụ thể của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt
Nam theo pháp luật Việt Nam, các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về
quản lý lao động nước ngoài... Từ những lý luận và căn cứ pháp lý trên là
luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về
quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương 2 cũng như đề
xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý lao
động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3.
48
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG
NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Tình hình lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh
Quảng Ngãi
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên
5.131,5km2, bằng 1,7% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 14 huyện, thành
phố, trong đó có 1 thành phố, 6 huyện đồng bằng ven biển, 6 huyện miền núi
và 1 huyện đảo. Là tỉnh có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, số thời gian nắng
và mưa trong năm dài, hàng năm thường xuyên chịu các thiên tai bão lụt.
Mặc dù trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn, nền kinh
tế cả nước và của tỉnh vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức bất lợi, thế
nhưng trong những năm qua kinh tế-xã hội của Quảng Ngãi có nhiều khởi sắc
đáng kể. Trên lĩnh vực kinh tế, đến năm 2016, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh
(GRDP) ước đạt 21.710 tỷ đồng, tăng 4,4 so với cùng kỳ và đạt 49,4% kế
hoạch năm. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2016 trên địa bàn đạt 8.989 tỷ
đồng, đạt 40,4% so dự toán năm 35.000 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người
tăng từ 1.728 USD năm 2012 lên 2.040 USD năm 2016.[41] Việc thu hút đầu
tư nước ngoài (FDI) vào tỉnh đạt kết quả tích cực; nổi bật là sự kiện khởi công
dự án Khu Công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ VSIP Quảng Ngãi, mở ra triển
vọng mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.
Những đặc điểm, tiềm năng, lợi thế của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, văn
hoá, xã hội đã tác động vừa gián tiếp, vừa trực tiếp đến tình hình lao động
nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài của tỉnh Quảng Ngãi.
Trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh
Quảng Ngãi có sự thay đổi lớn qua các năm cũng như qua các quý trong
năm. Sự thay đổi này là do nhu cầu vị trí công việc cần phải có lao động
49
nước ngoài đảm nhận của các đơn vị, tổ chức có vốn đầu tư FDI. Tính đến
tháng 12/2016, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 382 lao động và 40 tổ chức,
đơn vị được cấp phép, số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung
làm việc tại Khu kinh tế Dung Quất và Khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi.
2.2 Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Các phương diện đánh giá
2.2.1.1 Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Căn cứ Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ
quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam;
Công văn số 5233/LĐTBXH-VL ngày 29/12/2016 của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài
làm việc tại Việt Nam. Theo đó, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Công văn
số 321/UBND-KGVX ngày 18/01/2017 yêu cầu các sở, ban, ngành liên quan,
các tổ chức, doanh nghiệp, các nhà thầu trên địa bàn tỉnh có sử dụng lao động
là người nước ngoài triển khai thực hiện các nội dung sau:
Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tuyên truyền, phổ
biến và hướng dẫn các quy định của pháp luật về người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam được quy định tại Bộ luật Lao động, Nghị định số 11/2016/NĐ-
CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ. Tổ chức giới thiệu, cung ứng lao động
Việt Nam cho nhà thầu nước ngoài theo đề nghị của nhà thầu nước ngoài trên
địa bàn. Trường hợp không giới thiệu hoặc cung ứng được lao động Việt Nam
cho nhà thầu nước ngoài thì báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh xem xét, quyết định
cho phép nhà thầu nước ngoài được tuyển người nước ngoài vào các vị trí
công việc không tuyển được lao động Việt Nam.
Thực hiện công tác tuyên truyền thực hiện pháp luật về quản lý và sử
50
dụng lao động nước ngoài tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi thực hiện thông qua sao gửi
và hướng dẫn đến các tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh các văn bản quy định
của Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương về công tác tuyển dụng, quản lý
người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ
đạo các tổ chức, đơn vị thực hiện nghiêm túc công tác tuyển dụng, quản lý,
cấp giấy phép lao động, báo cáo định kỳ và đột xuất về việc sử dụng người
nước ngoài làm việc tại tổ chức, đơn vị.
Bên cạnh đó, hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh
Quảng Ngãi đều mở lớp tập huấn cho cán bộ quản lý và chủ doanh nghiệp có
sử dụng LĐNN trên địa bàn tỉnh về công tác sử dụng lao động nước ngoài
nhằm đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp cũng như người lao động nước
ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh.
Qua theo dõi, hầu hết các đơn vị, doanh nghiệp có sử dụng lao động
người nước ngoài tại Quảng Ngãi đều được UBND tỉnh, Ban Quản lý khu
kinh tế Dung Quất, Ban Quản lý các khu công nghiệp, Sở Kế hoạch và đầu tư
cấp giấy chứng nhận và hoạt động bình thường và thực hiện tương đối đầy đủ
các quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý người nước ngoài, được
UBND tỉnh chấp thuận việc sử dụng lao động trước khi tiến hành làm thủ tục
xin cấp giấy phép lao động. Theo số liệu thống kê từ năm 2014-2016 thể hiện:
51
Bảng 2.1. Tình hình số lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2014 - 2016
(Đơn vị: người)
Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Số tổ chức, đơn vị có lao động
nước ngoài trên địa bàn tỉnh 35 38 40
Quảng Ngãi
Tổng số lao động nước ngoài 328 344 385
Số lao động được cấp giấy phép 320 314 375
Số lao động được miễn cấp giấy 8 30 10 phép lao động
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)
Qua số liệu bảng 2.1 có thể thấy, số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng
Ngãi nói chung và số lao động nước ngoài được cấp giấy phép nói riêng trên
địa bàn tỉnh có xu hướng tăng do các doanh nghiệp FDI được thành lập từ khi
Khu Công nghiệp VSIP Quảng Ngãi được hình thành năm 2014. Số lượng lao
động người nước ngoài có tăng nhưng không nhiều vì những doanh nghiệp tại
Khu kinh tế Dung quất có xu hướng sử dụng lao động trí thức Việt Nam. Điều
này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam đang có những bước tiến lớn về chất
lượng đào tạo, cũng như trình độ khoa học công nghệ đang trên đà phát triển
cùng với thế giới.
52
Xét về cơ cấu giới tính:
Bảng 2.2. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo giới
tính giai đoạn 2014 – 2016
Đơn vị: người
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Giới
tính Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ %
Tổng 328 100 344 100 385 100
Nam 290 88,4 320 93 350 90,9
Nữ 38 11,6 24 7 35 9,1
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)
Qua số liệu bảng 2.2 có thể thấy, trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao
động nước ngoài trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu là nam giới, chiếm tới
từ 88,4% đến 93% tổng số lao động nước ngoài tại Tỉnh. Sở dĩ có kết quả trên
là do tính chất công việc của lao động nước ngoài sang Việt Nam đa phần là
ngành nghề kỹ thuật các công việc có khối lượng làm việc lớn như: Xây
dựng, cơ khí, công nghiệp nặng…tỷ lệ lao động nước ngoài là nữ giới tại
Quảng Ngãi thấp chiếm từ 7%-11,6% chủ yếu tập trung làm việc tại các trung
tâm dạy ngoại ngữ.
53
Về cơ cấu độ tuổi:
Bảng 2.3. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo độ
tuổi giai đoạn 2014 – 2016 (Đơn vị: người)
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Độ tuổi Số lượng Số lượng Số lượng % % %
Từ 18 - 30 tuổi 78 23,78 80 23,25 95 24,67
Từ 31 - 50 tuổi 199 60,67 212 61,62 253 65,71
Từ 51 trở lên 51 15,54 52 15,11 37 9,61
Tổng 328 100 344 100 385 100
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)
Theo số liệu bảng 2.3 cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao động
nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu ở độ tuổi từ 31 - 50 tuổi
chiếm trên 60%. Đây là độ tuổi lý tưởng bởi ở độ tuổi này con người thường
đầy đủ sức khỏe, đã có kinh nghiệm thực tế trong công việc, mang lại hiệu
quả lớn nhất.
Phần lớn lao động nước ngoài sang làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi đa số là
lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, là nam giới họ làm việc tại các
doanh nghiệp FDI, dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, đây là những ngành
nghề nặng nhọc về xây dựng, cơ khí, lọc hóa dầu… đáp ứng được nhu cầu sử
dụng lao động của các doanh nghiệp đầu tư tại tỉnh Quảng Ngãi.
54
Về quốc tịch:
Trong giai đoạn 2014 - 2016, lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đa dạng quốc tịch (20 quốc tịch), quốc tịch chủ yếu là Hàn Quốc,
Ấn Độ và Trung Quốc. Lực lượng lao động này thường là các chuyên gia, kỹ
sư, thạc sĩ, tiến sĩ trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp nặng làm việc tại
các khu công nghiệp của tỉnh. Đối với người lao động nước ngoài ở các quốc
gia phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Rumani… còn khá ít. Đây là một trong
những hạn chế đối với công tác thu hút và quản lý lao động nước ngoài tại
tỉnh Quảng Ngãi.
Bảng 2.4. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo quốc tịch giai đoạn 2014 - 2016
Đơn vị: người
Quốc tịch Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Tổng 328 344 385
Hàn Quốc 185 170 142
Philippines 12 15 23
Thái Lan 3 5 10
Trung Quốc 65 68 87
Đài Loan 10 12 28
CH Séc 2 2 3
Anh 2 3 3
Mỹ 3 3 5
Úc 2 3 3
55
Quốc tịch Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Nam Phi 1 1 4
Nhật 3 4 4
Đức 6 7 7
Hà Lan 2 2 2
Nga 0 1 1
Ukraine 0 2 2
Canada 0 1 2
New Zealand 3 3 3
Nigieria 1 1 1
Rumani 1 1 1
Áo 1 1 1
Croatian 1 1 1
Ấn Độ 25 28 52
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).
Về hình thức lao động:
Hình thức lao động nước ngoài làm việc tại tại tỉnh Quảng Ngãi chủ
yếu theo HĐLĐ, theo hợp đồng kinh tế, di chuyển nội bộ doanh nghiệp và
một số hình thức khác. Trong giai đoạn 2014 - 2016, hình thức lao động theo
di chuyển nội bộ doanh nghiệp chiếm khoảng 30%, thực hiện hợp đồng kinh
tế 10%.
56
Bảng 2.5. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo hình
thức lao động giai đoạn 2014 - 2016
(Đơn vị: người)
Hình thức lao động Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Tổng 328 344 385
Theo HĐLĐ 150 163 186
Theo hợp đồng kinh tế, thương mại 103 106 110
Di chuyển nội bộ 70 70 75
Khác 5 5 14
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).
Về trình độ chuyên môn:
Bảng 2.6. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo
trình độ chuyên môn giai đoạn 2014 - 2016
(Đơn vị: người )
Trình độ chuyên môn Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
328 344 385 Tổng
Có bằng, chuyên môn kỹ thuật 245 268 298
Có kinh nghiệm trên 5 năm 73 72 82
10 4 5 Khác
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3
năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).
57
Nhìn chung, trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động nước ngoài đang
làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi có trình độ chuyên môn cao, đây chính là lực
lượng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cũng như phát triển khoa học, công
nghệ của tỉnh theo hướng hiện đại hóa.
Hạn chế:
Hạn chế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật::
Đối với quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước ngoài
làm việc tại Việt Nam chưa đảm bảo theo quy định như: Về tuyển dụng lao
động Việt Nam đối với nhà thầu trước khi tuyển lao động người nước ngoài,
mặc dù quy trình thủ tục có thông báo tuyển dụng nhưng chỉ là hình thức dẫn
đến cơ quan quản lý lao động tại địa phương không kiểm soát được.
Nhiều dự án kinh tế lớn có vốn đầu tư nước ngoài, chịu nhiều áp lực về
tiến độ, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài với số lượng lớn. Tuy nhiên
quy định của pháp luật yêu cầu phải thẩm định từng vị trí công việc mà doanh
nghiệp thật sự có nhu cầu và không tuyển được lao động Việt Nam, điều đó
gây mất thời gian trong quá trình thực hiện thủ tục cấp phép lao động.
Theo quy định, người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động
trước rồi mới được nhập cảnh vào làm việc. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp
đã nhập cảnh vào làm việc tại doanh nghiệp rồi mới thực hiện thủ tục cấp giấy
phép lao động. Trong trường hợp này các doanh nghiệp đã lợi dụng kẻ hở
trong quy định của pháp luật, thực hiện việc bảo lãnh cho người lao động
nước ngoài dưới hình thức làm việc ngắn hạn dưới 3 tháng. Chính vì điều này
đã ảnh hưởng đến công tác quản lý của địa phương, tiềm ẩn nhiều nguy cơ
gây mất an ninh- ổn định chính trị tại tỉnh. Nhưng pháp luật chưa quy định
chế tài trong xử lý vi phạm của doanh nghiệp.
Không ít nhà thầu, đặc biệt là nhà thầu Trung Quốc lấy lý do đảm bảo
58
tiến độ, chất lượng kỹ thuật và hiệu quả của việc thi công các dự án do nhà
thầu nước ngoài trúng thầu không quan tâm đúng mức tới việc tuyển lao động
Việt Nam thay thế vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài.
Một số đơn vị chưa quan tâm đến kế hoạch đào tạo người lao động tại
Tỉnh để chuẩn bị thay thế cho công việc mà người nước ngoài đang đảm
nhận; chưa báo cáo danh sách và hồ sơ kịp thời theo quy định tại khoản 6,
Điều 9, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ đối với
lao động người nước ngoài làm việc thời hạn dưới 3 tháng cho Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi, như: Công ty TNHH Xindadong
Textiles Việt Nam, Công ty TNHH King Riches (Việt Nam) Footwear, Công
ty TNHH MTV Dịch vụ công trình Việt Hưng (Khu công nghiệp VSIP Quảng
Ngãi và Khu kinh tế Dung Quất ).
Các đơn vị thực hiện các loại hợp đồng về kinh tế, thương mại thuộc đối
tượng áp dụng tại điểm c, khoản 1, điều 1, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP
ngày 05/9/2013 của Chính phủ, phía đối tác nước ngoài có sử dụng lao động
người nước ngoài làm việc tại các đơn vị, tổ chức trên địa bàn tỉnh đã có hợp
đồng kinh tế, nhưng không kèm theo hợp đồng ký kết với đối tác nước ngoài
về việc thỏa thuận người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam theo quy định
tại khoản 1, điều 6, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính
phủ, như: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Công ty Cổ phần Dịch vụ dầu khí
PTSC Quảng Ngãi.
Công tác khai báo, đăng ký người nước ngoài tạm trú tại một số địa
phương, cơ sở không báo cáo kịp thời cho Công an cấp trên, dẫn đến việc
quản lý, theo dõi công tác tạm trú của người nước ngoài làm việc trên địa bàn
tỉnh chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ như Công ty Hải sản Nghi Bông.
59
2.2.1.2. Về thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho
người nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam
Mặt đạt được:
Người sử dụng thực hiện đầy đủ các nội dung về hồ sơ cấp giấy phép lao
động cho LĐNN theo quy định tại Điều 6 và Điều 8 của Thông tư số
40/2016/TT-BLĐTBXH nên việc đảm bảo về hồ sơ pháp lý và thủ tục cho
LĐNN làm việc tại Việt Nam gặp nhiều thuận lợi. Hầu hết các doanh nghiệp,
nhà thầu đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có sử dụng lao động
người nước ngoài đều thực hiện tốt các quy định như: đảm bảo về mặt thời
gian, đảm bảo về hồ sơ cấp phép, đều có ý kiến chấp thuận đồng ý cho phép
sử dụng lao động nước ngoài của UBND tỉnh, sau khi các doanh nghiệp nhận
giấy phép lao động và tiến hành ký kết hợp đồng lao động với người lao động
nước ngoài thì nộp bản sao hợp đồng lao động cho Sở Lao động – TB&XH
tỉnh để quản lý, khi kết thúc hợp đồng hoặc nghỉ việc theo quy định thì đều
tiến hành trả lại giấy phép lao động cho Sở.
Mặt hạn chế:
Trong thực tế quản lý, người sử dụng lao động ít quan tâm đến việc thực
hiện thủ tục trả lại giấy phép lao động hoặc gửi bản sao hợp đồng cho Sở. Khi
được kiểm tra nhắc nhở thì mới tiến hành thực hiện.
Nhiều chủ sử dụng lao động thỏa thuận với nhau trong việc chuyển
nhượng lao động nước ngoài làm việc trong thời gian ngắn vì mục đích kinh
doanh phổ biến ở các Trung tâm ngoại ngữ, gây khó khăn trong công tác
quản lý.
Trình tự, thủ tục thực hiện đề nghị cấp giấy phép lao động còn rườm rà
trong khi nhu cầu thực tế của từng doanh nghiệp khác nhau, tùy thuộc vào
tính chất công việc và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Việc ban hành
60
văn bản chấp thuận của UBND tỉnh đôi lúc còn chậm so với quy định.
Về thủ tục pháp lý, hồ sơ đảm bảo cho người nước ngoài khi làm việc tại
Việt Nam áp dụng cho từng đối tượng LĐNN khi làm việc tại Việt Nam được
quy định tại Điều 2 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP. Theo đó, LĐNN vào
Việt Nam làm việc với hình thức nào thì phải chứng minh các văn bản liên
quan đến hình thức đó được quy định tại Khoản 7 Điều 10 Nghị định số
11/2016/NĐ-CP nên người sử dụng LĐNN chưa cập nhật kịp thời.
2.2.1.3. Về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động, việc sử
dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Ngày 23/02/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết
định số 269/QĐ-UBND về việc công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi.
Theo đó, thủ tục cấp, cấp lại giấy phép lao động cho LĐNN được thực hiện
tại các địa chỉ sau: dichvucong.soldtbxh.quangngai.gov.vn;
dichvucong.quangngai.gov; dvc.vieclamvietnam.gov.vn.
Bảng 2.7 Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi được cấp
và cấp lại giấy phép lao động giai đoạn 2014 - 2016
Năm Cấp giấy phép lao Cấp lại Giấy phép lao Tổng động động
2014 180 140 320
2015 195 119 314
2016 198 177 375
(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh
qua 3 năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).
61
Mặt đạt được:
Trong giai đoạn 2014-2016 không có hồ sơ cấp giấy phép lao động trễ
hẹn, hầu hết các kết quả giải quyết thủ tục hành chính về cấp giấy phép lao
động được trả kết quả sớm hơn so với ngày quy định nhưng hồ sơ vẫn đảm
bảo theo quy định tại Điều 11, 12,15,16 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP.
Mặt hạn chế:
Theo quy định tại Khoản 9 Điều 10 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP thì
các loại giấy tờ, các văn bản chứng minh kèm theo hồ sơ cấp giấy phép lao
động phải được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch công chứng trừ các trường hợp
được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi
có lại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp thực hiện
thủ tục công chứng các loại giấy tờ tại các cơ quan khác còn chậm nhận kết
quả nên dẫn đến tốn nhiều thời gian cho doanh nghiệp trong khâu hoàn thiện
hồ sơ cấp giấy phép lao động.
- Việc sử dụng giấy phép lao động cho NNN làm việc tại Việt Nam:
Pháp luật quy định việc quản lý, sử dụng giấy phép lao động được giao cho
người nước ngoài dẫn đến rất nhiều trường hợp lao động nước ngoài nghĩ việc
không có lý do và sử dụng giấy phép lao động đã được cấp đến các tỉnh khác
để làm việc ảnh hưởng đến công tác quản lý của địa phương và nhu cầu sử
dụng lao động của người sử dụng lao động.
2.2.1.4. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và người sử
dụng lao động trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước
Mặt đạt được:
Với quan điểm hỗ trợ hết mình cho doanh nghiệp, khi thực hiện nhiệm
62
vụ cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài, thời gian qua, Sở Lao động
– TB và XH đã thực hiện công khai, minh bạch, niêm yết quy định cụ thể.
Đồng thời, Sở đã áp dụng phần mềm cấp giấy phép trên mạng để các doanh
nghiệp nộp qua mạng nhằm hạn chế thấp nhất việc trục lợi trung gian, tránh
việc gây khó khăn, nhũng nhiễu cho doanh. Hơn nữa, tạo cơ hội cho lao động
nước ngoài vào tỉnh làm việc, nhất là đội ngũ chuyên gia, kỹ sư có trình độ cao.
Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh,
thời gian qua, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh đã thực hiện nhiều
giải pháp trong công tác quản lý lưu trú lao động nước ngoài, qua đó góp
phần đảm bảo an ninh trật tự, phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH trên địa
bàn tỉnh.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng quy chế phối hợp cụ thể
với các Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Công an tỉnh nhằm siết chặt công
tác quản lý, cấp phép cho lao động nước ngoài, bảo đảm sự thống nhất, tránh
chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý
nhà nước với đối tượng lao động đặc biệt này.
Sở cùng các cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền, phổ biến
chính sách pháp luật tới các doanh nghiệp; tăng cường thanh, kiểm tra về tình
hình sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI); yêu cầu phải thường xuyên báo cáo tình hình sử dụng lao động
là người nước ngoài theo định kỳ. Nếu doanh nghiệp hoặc người nước ngoài
nào cố tình không báo cáo sẽ có chế tài xử lý nghiêm.
Thủ tục cấp phép cho lao động là người nước ngoài đến làm việc tại tỉnh
cũng được đổi mới theo hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn. Sở Lao động- TB và
XH có trách thẩm định nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong
khu công nghiệp và ngoài khu công nghiệp trình UBND tỉnh chấp thuận, đồng
63
thời tiến hành các thủ tục cấp phép. Thời gian cấp mới giấy phép giảm từ 07
ngày xuống còn 03 ngày và cấp lại giảm từ 3 ngày xuống còn 01 ngày. Nhờ
đó, những năm gần đây công tác quản lý lao động nước ngoài có sự chuyển
biến tích cực, đi vào nề nếp, ổn định.
Thời gian Chủ tịch UBND tỉnh có văn bản chấp thuận cho người sử dụng
lao động về việc sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công
việc đã được thẩm định tương đối đúng quy định.
Mặt hạn chế:
Công tác quản lý lao động nước ngoài hiện vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn. Trên thực tế vẫn tồn tại tình trạng lao động là người nước ngoài lợi
dụng kẽ hở pháp luật làm việc “chui”, không đăng ký, cấp phép theo quy
định. Số lao động này không dễ để quản lý bởi hiện chưa có một cơ quan nào
có thể thống kê hay báo cáo đầy đủ số lượng lao động nước ngoài làm việc cụ
thể. Những số liệu thống kê có được cũng từ các tổ chức nhà thầu, doanh
nghiệp đưa ra, còn các cơ quan chức năng chưa thể kiểm tra, rà soát hết được.
Một số huyện trên địa bàn tỉnh chưa chủ động, tích cực và quyết liệt
trong việc rà soát, phát hiện lao động nước ngoài làm việc bất hợp pháp trên
địa bàn, chưa thực hiện các biện pháp xử lý kiên quyết đối với lực lượng lao
động này.
Công tác phối hợp, trao đổi thông tin trong quản lý lao động nước ngoài
giữa các cơ quan chuyên môn ở địa phương còn thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời
và đồng bộ. Còn nhiều đầu mối, nhiều cơ quan cùng quản lý nên thông tin
không tập trung, thống nhất. Nhiều đdoanh nghiệp, nhà thầu chưa thực hiện
nghiêm túc báo cáo tình hình tuyển và sử dụng lao động nước ngoài định kỳ
theo quy định.
64
Đối với người sử dụng lao động:
Mặt đạt được:
Các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động nước ngoài chủ động báo
cáo tình hình sử dụng lao động theo định kỳ; nâng cao ý thức, tự giác chấp
hành việc đăng ký sử dụng lao động, gia hạn theo đúng quy định của pháp
luật...
Doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài, người nước ngoài làm việc,
cư trú trên địa bàn tỉnh đã cơ bản nghiêm túc chấp hành khai báo, đăng ký cư
trú đúng quy định. Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây, không xảy ra tình trạng
người nước ngoài gây rối, làm mất an ninh trật tự, vi phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh.
Mặt hạn chế:
Đã có trường hợp doanh nghiệp còn chậm trễ hoặc chưa chú trọng trong
việc làm thủ tục cấp giấy phép lao động cho lao động là người nước ngoài
làm việc tại đơn vị mình. Một số doanh nghiệp lợi dụng quy định về nhập
cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, quy định lao động
nước ngoài làm việc dưới 3 tháng không phải xin cấp giấy phép lao động để
“lách luật”, đưa lao động vào làm việc dưới 3 tháng và luân phiên thay lao
động khiến công tác quản lý gặp khó khăn. Có trường hợp lao động nước
ngoài vào tỉnh với danh nghĩa khách du lịch, thăm người thân nhưng thực chất
ở lại để dạy ngoại ngữ và làm các công việc khác.
Do ý thức chấp hành pháp luật của các nhà thầu, do yếu tố địa lý có
chung đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc nên vẫn còn tình trạng
lao động Trung Quốc vào địa bàn tỉnh để làm chui.
Lao động nước ngoài gia tăng là do yêu cầu thực hiện một số dự án cần
65
thêm lao động nước ngoài và các dự án do nhà thầu nước ngoài trúng thầu
đều đưa nhiều lao động vào Việt Nam làm việc.
2.2.1.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm liên
quan tới người nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách quản lý LĐNN tại tỉnh
Quảng Ngãi được các cấp chính quyền phối hợp thực hiện nhằm nắm vững
tình hình; nhận xét, đánh giá việc chấp hành các Luật, các Nghị quyết, chỉ thị,
các quy định, quyết định của Chính phủ và tỉnh tại các doanh nghiệp có sử
dụng LĐNN trên địa bàn tỉnh. Qua công tác kiểm tra, giám sát thực tế, các
cấp chính quyền tỉnh có giải pháp kịp thời nhằm chấn chỉnh sử dụng LĐNN
trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính
sách quản lý LĐNN được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đặc biệt quan
tâm thực hiện, đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước đối với LĐNN đề ra.
Trong giai đoạn 2014 - 2016, hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội tỉnh Quảng Ngãi đều ban hành Quyết định thành lập 01 Đoàn kiểm tra
công tác tuyển dụng, quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh và
trong năm 2016, Sở đã ban hành Quyết địnht thành lập 01 Đoàn thanh tra do
Thanh tra Sở chủ trì phối hợp với các phòng chuyên môn trong đó có phòng
Việc làm – An toàn lao động tiến hành thanh tra công tác quản lý đối tượng là
người lao động nước ngoài tại 10 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Qua kết quả
thanh tra, kiểm tra nhận thấy hồ sơ pháp lý, giấy phép kinh doanh, giấy phép
hoạt động của các tổ chức, đơn vị đầy đủ và đảm bảo theo quy định của
pháp luật. Công tác quản lý hồ sơ lao động là người nước ngoài được các đơn
vị, tổ chức thực hiện khá chặt chẽ và khoa học.
Các đơn vị, doanh nghiệp, nhà thầu thực hiện tương đối đầy đủ các qui
định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài
66
tại Việt Nam (Luật Xuất nhập cảnh) về bảo lãnh người nước ngoài (NNN)
nhập cảnh, hướng dẫn NNN hoạt động đúng mục đích nhập cảnh, khai báo
tạm trú cho NNN...
Ngoài ra còn phát hiện một số sai phạm trong việc sử dụng lao động
nước ngoài trên địa bàn tỉnh như sau:
Các đơn vị, doanh nghiệp chưa báo cáo định kỳ về tình hình tuyển dụng
và sử dụng lao động người nước ngoài theo qui định cho Sở Lao động-
Thương binh và Xã hội, cụ thể: Công ty TNHH MTV TM và DV Thái Minh,
Công ty TNHH MTV DV Công trình Việt Hưng, Công ty TNHH FOCECA
Việt Nam, Công ty Cổ phần Song Phong, Công ty CP Phát triển Giáo dục Bảo
Linh, Công ty TNHH Đào tạo IEC, Công ty TNHH Hải Sản Nghi Bông.
Lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và
hướng dẫn cho 10 doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các quy định về xuất
nhập cảnh. Vẫn còn một số doanh nghiệp chưa quan tâm trong việc nắm bắt
đầy đủ các quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp và NNN trong quá trình
mời, bảo lãnh NNN nhập cảnh, lưu trú và làm việc, báo cáo khi có sự thay đổi
hồ sơ pháp nhân; quy định về khai báo tạm trú cho NNN; cũng như việc
thông báo thông tin các đoàn, cá nhân người nước ngoài đến làm việc tại
doanh nghiệp theo Quyết định số 22/2013/QĐ-UBND ngày 10/05/2013 của
UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động
đối ngoại trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đáng chú ý, trong quá trình kiểm tra
tại Công ty TNHH Hải sản Nghi Bông, lực lượng quản lý xuất nhập cảnh đã
phát hiện và lập biên bản, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
một nhân viên quốc tịch Trung Quốc với hình thức xử phạt: 2.000.000 đ vì đã
có hành vi “Người nước ngoài không khai báo tạm trú theo quy định từ 15
ngày trở xuống mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép” [36]
67
Số lao động là người nước ngoài làm việc thời hạn trên 3 tháng tại các tổ
chức, đơn vị chưa được cấp giấy phép lao động theo quy định tại Nghị định số
102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ còn nhiều.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, Đoàn kiểm tra đã lập biên
bản nhắc nhở và yêu cầu các đơn vị kịp thời khắc phục và thực hiện đúng theo
quy định của pháp luật hiện hành trong thời gian 01 tháng (tính từ ngày được
kiểm tra). Riêng đối với những lao động người nước ngoài làm việc với thời
gian trên 3 tháng Đoàn kiểm tra đã yêu cầu các đơn vị, tổ chức sau 01 tháng
(tính từ ngày được kiểm tra) phải hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ đề nghị cơ quan
chức năng cấp giấy phép theo quy định tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP
ngày 05/9/2013 của Chính phủ. Nếu đơn vị, tổ chức nào không thực hiện hoặc
thực hiện không đảm bảo theo quy định thì liên ngành Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội và Công an tỉnh Quảng Ngãi sẽ xử lý hoặc đề nghị xử lý theo
thẩm quyền và quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Đoàn kiểm tra đề nghị các đơn vị bổ sung các loại giấy tờ,
thủ tục còn thiếu, đặc biệt giấy xác nhận không phạm tội do cơ quan có thẩm
quyền nước ngoài cấp gửi về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để bổ
sung vào hồ sơ người LĐNN.
Việc triển khai thực hiện các quy định về thanh tra, kiểm tra người lao
động nước ngoài làm việc tại địa phương với tần suất nêu trên là quá ít so với
số lao động nước ngoài đang làm việc tại địa phương hiện nay. Kết quả các
cuộc kiểm tra và thanh tra cho thấy chưa chú trọng đến chất lượng các cuộc
thanh tra chuyên ngành, kết luận thanh tra còn sơ sài và thiếu chính xác. Việc
thực hiện pháp luật lao động của các chủ sử dụng lao động người nước ngoài
chưa nghiêm, còn trốn tránh vì vậy nhiều vi phạm chưa được phát hiện kịp
thời. Lực lượng thực hiện chức năng thanh tra và kiểm tra còn quá ít, trình độ
68
chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu, thời gian tiến hành thanh
tra, kiểm tra tại doanh nghiệp quá ít chỉ 1 ngày/ 01 doanh nghiệp nên ảnh
hưởng rất nhiều đến kết quả thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này. Mặt khác,
công tác phối hợp của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất đồng bộ.
2.2.2. Đánh giá chung
2.2.2.1. Kết quả đạt được
Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật,
đặc biệt là pháp luật lao động. Số lượng người nước ngoài đến Quảng Ngãi
làm việc tăng dần qua các năm và theo nhiều hình thức khác nhau (Theo Báo
cáo về tình hình sử dụng lao động nước ngoài qua các năm của Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội Quảng Ngãi). Các quy định pháp luật về lao động
nước ngoài làm việc tại Quảng Ngãi phải đảm bảo được những yêu cầu:
Một là, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức trong tuyển và sử
dụng lao động nước ngoài. Nhu cầu sử dụng đối tượng này là một tất yếu vì
vậy các quy định về việc sử dụng lao động nước ngoài không được là rào cản.
Hai là, tạo thuận lợi cho người lao động nước ngoài, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp và khuyến khích những điều kiện có lợi hơn cho họ nhưng cũng
không ảnh hưởng đến an ninh việc làm trong nước. Các biện pháp xử lý vi
phạm cần mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn phải đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa.
Ba là, tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong việc quản lý lao
động nước ngoài. Cần bổ sung trách nhiệm và cụ thể hóa nhiệm vụ của những
cơ quan chức năng, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan này,
kiểm soát chặt chẽ các vi phạm.
Bốn là, phù hợp với pháp luật các nước, thông lệ quốc tế và đặc biệt,
với những cam kết của Việt Nam tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là
69
thành viên. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam phải có những thay đổi trong
quy định pháp luật để không trái với cam kết đã ký.
Năm là, tình hình thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm
việc tại tỉnh Quảng Ngãi, qua các đợt kiểm tra, nhận thấy: Các doanh nghiệp
đã nhận thức, hiểu rõ các quy định pháp luật của Nhà nước về quản lý và
tuyển dụng lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tổ chức quản lý
và sử dụng lao động đảm bảo đúng quy trình, thủ tục theo quy định pháp luật.
2.2.2.2 Mặt hạn chế
Một là, hạn chế trong quy định của pháp luật:
Quy định về trình tự, thủ tục phải tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí
công việc dự kiến tuyển người lao động nước ngoài trước khi tuyển lao động
nước ngoài, trong khi pháp luật về đấu thầu quy định các điều kiện để nhà
thầu tham gia dự thầu phải có năng lực và kinh nghiệm đã từng thực hiện các
dự án tương tự về kỹ thuật và quy mô, thực tế nhà thầu đã có sẵn đội ngũ lao
động kỹ thuật, chuyên môn lành nghề và kinh nghiệm để thực hiện dự án
trúng thầu; Quy định về điều kiện là chuyên gia và lao động kỹ thuật quá chặt
chẽ chưa phù hợp với thông lệ, gây khó khăn cho nhà thầu nước ngoài trong
việc tuyển và sử dụng lao động;
Về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động còn quy định một số giấy tờ
mà người lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu trong thời gian rất
ngắn (từ 1 đến 3 tháng, tối đa 6 tháng) khó thực hiện như phiếu lý lịch tư
pháp, hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ, bằng cấp chứng chỉ; Quy định cho
phép được chuyển đổi mục đích nhập cảnh nên xảy ra tình trạng người nước
ngoài xin thị thực du lịch vào Việt Nam lao động gây khó khăn trong công tác
theo dõi, kiểm tra, quản lý;
70
Về chế tài xử phạt hành chính trong vi phạm pháp luật về quản lý lao
động nước ngoài chưa đủ mức răn đe và buộc người sử dụng lao động và
người lao động phải thực hiện; các biện pháp cưỡng chế chưa kiên quyết;
chưa có nhiều biện pháp xử lý triệt để đối với các doanh nghiệp, nhà thầu hay
cá nhân lao động nước ngoài cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam; Những quy
định về điều kiện cấp giấy phép lao động mặt tích cực là bảo vệ việc làm cho
lao động Việt Nam, tuy nhiên trong xu thế hội nhập có thể gây ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường đầu tư và hạn chế sức cạnh tranh của lao động Việt Nam
với lao động nước ngoài;
Chưa có quy định riêng về lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu
nước ngoài, quy định thời hạn của hợp đồng lao động chưa phù hợp với thời
hạn của giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài.
Theo quy định mới thì lao động nước ngoài sang Việt Nam làm việc phải
có đủ 2 điều kiện là vừa phải có bằng đại học, vừa phải có kinh nghiệm, đảm
nhận các vị trí công việc như: Chuyên gia, giám đốc điều hành, nhà quản lý
và lao động kỹ thuật. Trong khi, lĩnh vực giầy da, dệt sợi, túi xách có nhiều
chuyên gia nước ngoài đã có kinh nghiệm làm việc 15-20 năm, nhưng trình
độ chỉ ở mức giấy chứng nhận kinh nghiệm. Vì thế, áp dụng quy định này rất
khó cho các doanh nghiệp. Thực tế có nhiều ngành nghề trên địa bàn tỉnh có
các chuyên gia nước ngoài sang làm việc rất giỏi nhưng về thủ tục chưa đáp
ứng được vì lao động làm việc ở lĩnh vực ngành nghề thủ công, truyền thống
vì những lao động này không thể có bằng cấp.
Công tác quản lý của các cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý lao động
nước ngoài chưa phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhiều đơn vị cùng quản lý nên
thông tin không tập trung thống nhất.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc không có
71
giấy phép chưa được xử lý triệt để vì sợ ảnh hưởng đến công tác thu hút đầu tư
của tỉnh.
Hai là, thực hiện các nội dung pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi
Một số đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến công tác này, chưa báo cáo
định kỳ, đột xuất danh sách lao động người nước ngoài đến công tác, làm việc
dưới ba tháng cho cơ quan quản lý lao động tại địa phương.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của một số nhà thầu và người lao
động nước ngoài trong việc tuyển, sử dụng và thực hiện cấp giấy phép lao
động; xuất nhập cảnh và cư trú còn hạn chế.
Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập của pháp luật quản lý lao
động nước ngoài
Như trên đã nghiên cứu, pháp luật quản lý lao động nước ngoài không
chỉ bao gồm tổng thể các nguyên tắc, qui tắc được chứa đựng trong các
nguồn pháp luật khác nhau, mà còn bao gồm cả việc thi hành và tổ chức thi
hành bởi các nguyên tắc, qui tắc chỉ có thể được xem là pháp luật nếu chúng
được đem ra thi hành. Nói cách khác thi hành là một vế quan trọng để minh
chứng cho việc các nguyên tắc và qui tắc được xã hội chấp nhận để điều tiết
các ứng xử. Vì vậy khi nói tới nguyên nhân của các bất cập của pháp luật
quản lý lao động nước ngoài, cần nói tới nguyên nhân của các bất cập về xây
dựng các nguyên tắc, qui tắc xử sự, đồng thời nói tới nguyên nhân của các bất
cập trong việc thi hành và tổ chức thi hành các nguyên tắc và qui tắc đã được
tạo dựng.
72
Về các nguyên nhân của các bất cập về xây dựng pháp luật quản lý lao
động nước ngoài
Nguyên nhân thứ nhất, cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ các
nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài, trong khi các nguyên
tắc chung của luật lao động không thể áp dụng vừa khớp đối với các quan hệ
quản lý lao động nước ngoài bởi mục tiêu sử dụng lao động trong nước và
mục tiêu sử dụng lao động nước ngoài không đồng nhất với nhau, đôi khi trái
ngược nhau. Biểu hiện của các bất cập này là Bộ luật Lao động 2012 và các
văn bản hướng dẫn thi hành không nêu ra các nguyên tắc của lĩnh vực pháp
luật này. Do đó rất ít các qui định nói về hành vi quản lý phải hướng tới bảo
vệ quyền con người. Chưa lường hết điều kiện thực tế và việc hội nhập quốc
tế. Chậm được sửa đổi, bổ sung, hướng dần chưa kỹ.
Nguyên nhân thứ hai, những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao
động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao.
Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động với cơ quan công an bị nhường
thẩm quyền cho thông tư liên bộ.
Nguyên nhân thứ ba, thiếu coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt
động hỗ trợ quản lý. Hầu hết các chế tài được xác định bởi các văn bản pháp
luật hiện hành về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam chỉ xác
định chế tài hành chính. Đây cũng là hệ quả không hay của việc giao việc
soạn thảo luật cho cơ quản quản lý chuyên ngành. Do đó lợi ích cục bộ trong
việc xây dựng vai trò và vị trí quan trọng của chuyên ngành lấn át.
Về các nguyên nhân của các bất cập về thi hành pháp luật quản lý lao
động nước ngoài
Việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nước ngoài ở
địa phương chưa nghiêm, theo dõi và quản lý lao động nước ngoài chưa được
73
thực hiện thường xuyên, kịp thời và thiếu sự phối hợp, hỗ trợ giữa Sở Lao
động – TB&XH, Công an tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư..., Một số huyện ở địa
phương thực hiện chế độ báo cáo không đầy đủ, không đúng quy định, kiểm
tra, thanh tra và xử lý các vi phạm còn rất hạn chế, chưa có nhiều đề xuất với
Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan
có liên quan để có những giải pháp quản lý lao động nước ngoài.
Người sử dụng lao động nước ngoài chưa thực hiện đúng pháp luật,
không làm thủ tục đề nghị cấp, cấp lại giấy phép lao động kịp thời cho lao
động nước ngoài, không báo cáo đầy đủ, kịp thời việc sử dụng lao động nước
ngoài theo quy định.
Người lao động nước ngoài chưa nghiên cứu đầy đủ các quy định của
pháp luật lao động Việt Nam do người sử dụng lao động cung cấp; chưa
chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để làm các thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao
động [14].
Như vậy các nguyên nhân này được nêu ra khá đầy đủ kể cả về phía
người quản lý và người bị quản lý (người sử dụng lao động và người lao động
nước ngoài).
74
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã đề cập đến thực trạng thực
hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi, tình hình
lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài qua đó đánh giá thực
trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài... thống kê về số
lượng lao động, cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, hình thức lao động của
LĐNN, vị trí việc làm và giới tính, trình độ chuyên môn của LĐNN theo
quy định trong công tác thực hiện pháp luật đối với lao động người nước
ngoài trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề lý luận được đề cập trong chương 2 là luận cứ khoa học
giúp tác giả luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản
lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 cũng như đề xuất
phương hướng, mục tiêu, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý
lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 của luận văn.
75
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở
tỉnh Quảng Ngãi
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về lao động - xã hội theo tiêu chuẩn khu
vực và quốc tế, trong đó có các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO). Đến năm 2020, phê chuẩn các công ước cơ bản còn lại và một
số công ước khác của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2030, đảm
bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết quốc tế về lao động - xã hội. Xây dựng
pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp ứng nhu cầu
sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động
nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã
hội.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu,
tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu; tăng cơ hội việc làm có
chất lượng cho người lao động nhằm từng bước thay thế nhưng vị trí công
việc mà lao động người nước ngoài đang đảm nhận. Tăng số lượng các nghề
đào tạo được các nước công nhận về văn bằng, chứng chỉ phù hợp với yêu cầu
chung.
Thứ ba, giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội
nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Có những trường hợp các nhà thầu
phụ của nước ngoài chưa được cấp giấy phép thầu nhưng vẫn hoạt động như
bình thường. Đặc biệt, có những trường hợp chủ đầu tư khoán trắng cho nhà
thầu chính; nhà thầu chính thuê nhà thầu phụ và mọi hoạt động liên quan đến
tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài do nhà thầu phụ tự quyết định,
76
chính quyền địa phương không có ý kiến, dẫn đến tình trạng các nhà thầu phụ
này sử dụng bao nhiêu lao động nước ngoài thì chủ đầu tư và nhà thầu chính
cũng không biết. Đây là sự buông lỏng trong quản lý của địa phương và chủ
đầu tư. Việc thiếu kết hợp trong công tác xuất nhập cảnh cũng là một trong
những kẻ hở cần phải khắc phục. Tuy nhiên nếu quá thổi phồng khuynh
hướng xiết chặt quản lý mà không thấy được tiến trình hội nhập quốc tế và
nghĩa vụ bắt buộc bảo vệ quyền con người của quốc gia thì đó cũng bị xem là
khiếm khuyết, không phù hợp với thời đại và qui luật khách quan. Vì vậy
định hướng này đặt ra để kết hợp cả hai khuynh hướng, dù có phần trái
ngược, nhưng đều không thể bỏ qua. Việc xa rời sự kết hợp này khó có thể có
được các qui định pháp luật quản lý lao động nước ngoài thích hợp. Hơn nữa
định hướng mà có sự kết hợp cả hai khuynh hướng này giúp cho chúng ta có
cái nhìn tổng thể bao quát để từ đó có được các chính sách tổng thể và có
được các qui định pháp luật đầy đủ và hệ thống liên quan tới quản lý lao động
nước ngoài nói riêng và người nước ngoài nói chung ở Việt Nam.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động nước
ngoài tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng
3.2.1 Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao
động nước ngoài tại Việt Nam
Một là, xây dựng một bộ nguyên tắc cho pháp luật quản lý lao động
nước ngoài tại Việt Nam và tách vấn đề xuất khẩu và nhập khẩu lao động để
điều tiết riêng biệt.
Như trên đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến các bất cập của các văn
bản pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý lao động nước ngoài tại Việt
Nam. Nguyên nhân thứ nhất là cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ
các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài. Thực tế Bộ luật
Lao động tại Chương XI, Mục 3 chưa có qui định nào về các nguyên tắc của
77
pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam mà lĩnh vực pháp luật
này được qui định cùng với vấn đề đưa người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài. Hai vấn đề lao động này xuất phát từ hai nhu cầu khác nhau
của đất nước, chẳng hạn trong giai đoạn hiện nay việc xuất khẩu lao động đối
với Việt Nam cần khuyến khích và thực hiện được càng nhiều càng tốt, trong
khi đó cần có sự kiểm soát chặt chẽ cả về số lượng đối với lao động nước
ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Do đó các nguyên tắc của Bộ luật Lao động
2012 qui định tại Điều 168 không thể là nguyên tắc chung cho hai loại lao
động này. Vì vậy cần tách bạch hai loại lao động này để điều tiết riêng. Các
nguyên tắc của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài hay lao động di trú
tại nước sở tại phải được qui định đầy đủ. Các nguyên tắc đó bao gồm: Tôn
trọng quyền con người; Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội;
Bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động bản xứ; Tôn
trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Các
nguyên tắc này đã được nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn này và là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt các qui định của pháp luật quản lý lao động nước ngoài và
là chuẩn mực cho việc đánh giá mô hình quản lý và hành vi quản lý.
Hai là, qui định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn những mối liên hệ giữa các
chủ thể quản lý lao động nước ngoài tại Bộ luật Lao động.
Hiện nay Bộ luật Lao động 2012 đã dành quá nhiều vấn đề cho các văn
bản dưới luật qui định nhất là vấn đề quản lý lao động nước ngoài làm việc
tại Việt Nam. Tuy nhiên các văn bản dưới luật chưa thể hiện được đầy đủ mối
liên hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý lao động nước ngoài, đồng thời
giá trị pháp lý của các qui định này thấp. Do vậy cần có qui định cụ thể về
mối liên hệ này ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Tư tưởng cục bộ
trong quản lý nhà nước ở ta vẫn còn nhiều do đó sự chủ trì phối hợp để xây
dựng Thông tư trở nên kém hiệu quả và các qui định của Thông tư dễ bị thay
78
đổi. Sự bất cập của pháp luật quản lý lao động nước ngoài là những mối liên
hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm
văn bản có giá trị pháp lý cao. Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động
với cơ quan công an bị nhường thẩm quyền cho thông tư liên bộ. Vì vậy giải
pháp này là giải pháp cần thiết để khắc phục bất cập nói trên.
Ba là, coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý lao
động nước ngoài ở Việt Nam.
Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp giữ vai trò tối quan trọng vì sự
phán quyết của tư pháp luôn nhân danh những gì ở vị trí cao nhất trong một
nền tài phán, do đó được cưỡng chế rất mạnh để thi hành. Vì vậy Bộ luật Lao
động không thể không đề cập tới vai trò của tư pháp. Việc đề cập này có thể
gián tiếp thông qua ấn định các chế tài dân sự, thương mại, hình sự đối với
các vi phạm, nhưng cũng có thể qui định trực tiếp thẩm quyền của tòa án đối
với các vi phạm như vậy. Tòa án đồng thời là nơi bảo vệ chắc chắn nhất cho
quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Việc
nhường nhiều vấn đề kể cả chế tài cho văn bản dưới luật như hiện nay trong
lĩnh vực pháp luật quản lý lao động nước ngoài là không phù hợp vì văn bản
dưới luật không có thẩm quyền qui định về tư pháp.
Bốn là, thống nhất trong kỹ thuật lập pháp.
Các văn bản dưới luật hiện có khuynh hướng xa rời luật bằng lập pháp.
Hệ quả là quyền lợi của người lao động không chắc chắn và có thể bị vi phạm
bởi cơ quan quản lý. Vì vậy đây là một giải pháp không thể bỏ qua trong khi
hoàn thiện pháp luật.
Năm là, bổ sung và sử dụng chế tài đặc thù.
Việc sử dụng chế tài trục xuất rất hữu ích trong việc quản lý có hiệu
quả đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Do đó pháp luật nên
qui định: “Người nước ngoài phải chấm dứt lao động không được phép tại
79
Việt Nam ngay khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người
nước ngoài có thể bị trục xuất trong trường hợp không thực hiện yêu cầu nói
trên hoặc sau khi thực hiện yêu cầu lại tái vi phạm”. Chế tài này dùng để xử
lý các vi phạm kèm theo các chế tài áp dụng cho người sử dụng lao động
nước ngoài không được phép hoặc để xử lý đối với người lao động tự tiến
hành các công việc kiếm tiền trong lãnh thổ Việt Nam mà không được phép.
Các hợp đồng lao động ký với người lao động nước ngoài không được
phép phải bị tuyên vô hiệu tuyệt đối. Pháp luật nên buộc bên sử dụng lao
động phải bồi thường cho người lao động nước ngoài không được phép các
chi phí bỏ sức lao động, chi phí ăn ở và đi lại ở Việt Nam và trở về nước của
họ. Chế tài này phù hợp với mô hình quản lý lao động nước ngoài đặt trọng
tâm vào quản lý doanh nghiệp hay người sử dụng lao động. Hậu quả pháp lý
của hợp đồng lao động vô hiệu tuyệt đối trong trường hợp này có tác dụng
cảnh báo và ngăn cản hữu hiệu việc sử dụng lao động nước ngoài trái phép.
Sự cân nhắc lợi ích liên quan tới việc sử dụng lao động nước ngoài có thể
khiến doanh nghiệp hay người sử dụng lao động lựa chọn việc tuân thủ pháp
luật.
Thứ sáu, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành
về quản lý lao động người nước ngoài tại Việt Nam nói chung và địa phương
Quảng Ngãi nói riêng:
Hiện nay, còn một số vướng mắc trong các quy định của pháp luật dẫn
đến tình trạng khó thực hiện pháp luật. Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy
định, người sử dụng lao động nếu muốn tuyển dụng lao động là người nước
ngoài thì tuyển dụng lao động Việt Nam vào các vị trí công việc mà doanh
nghiệp, nhà thầu có nhu cầu tuyển, trường hợp không tuyển được thì mới
sử dụng lao động người nước ngoài. Điều này khó thực hiện và chưa thực
tế bởi quy trình tiêu chuẩn, việc chọn lựa lao động phù hợp cho từng công
80
việc là quyền quyết định của người sử dụng lao động. Quy định này vừa
mang tính hình thức, vừa không chứng minh được việc tuyển LĐNN là do
không có lao động Việt Nam thay thế theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
Một số quy định của pháp luật còn thiếu thực tế. Chẳng hạn như quy
định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc
mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về
mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh
nghiệp. Đối với trường hợp di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, điều động
đến làm việc tại Việt Nam, một trong những điều kiện cần phải có là phải có
văn bản chứng minh thời gian làm việc tại công ty mẹ 24 tháng hoặc văn bản
xác nhận đóng bảo hiểm, thuế thu nhập tại nước sở tại, trình tự thủ tục này
doanh nghiệp thực hiện mất rất nhiều thời gian.
Thời hạn tối đa quy định thời gian làm việc của người nước ngoài tại địa
phương theo đề nghị của chủ sử dụng lao động nhưng không quá 2 năm, hết
thời gian nêu trên nếu doanh nghiệp có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì phải có
báo cáo giải trình cho UBND tỉnh chấp thuận sử dụng lại lao động nước
ngoài. Việc này gây khó khăn đối với doanh nghiệp hoạt động trong một số
lĩnh vực ngành nghề truyền thống đòi hỏi lao động phải có tay nghề lâu năm
và làm việc lâu dài tại doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp chỉ có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong
thời gian dưới 6 tháng để thực hiện các dự án bảo dưỡng kỹ thuật về lĩnh vực
lọc hóa dầu, dịch vụ dầu kí, khí hóa lỏng tại Khu kinh tế Dung Quất. Mặc dù,
thời gian sử dụng lao động nước ngoài ngắn nhưng cũng phải thực hiện đầy
đủ các quy định của pháp luật về cấp phép lao động. Điều này làm cho nhiều
doanh nghiệp chọn hình thức lách luật thực hiện bảo lãnh người lao động vào
làm việc dưới 3 tháng sau đó xuất cảnh sang các nước lân cận như Lào,
81
Campuchia...thời gian xuất cảnh chỉ 1-2 ngày, sau đó tiếp tục thực hiện thủ
tục bảo lãnh dưới 3 tháng để thực hiện hoàn tất công việc tại địa phương. Đây
là kẻ hở của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời để việc quản lý lao
động là người nước ngoài tại địa phương được chặt chẽ.
Đối với những trường hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại địa
phương với các vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao
động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn
không quá 90 ngày trong 01 năm; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng
để thực hiện chào bán dịch vụ; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để
xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh
hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên
gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử
lý được. Pháp luật không quy định trách nhiệm của Sở Lao động – TB&XH
tỉnh phải xác nhận những trường hợp trên không thuộc diện cấp giấy phép lao
động. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu sử dụng những đối tượng thuộc diện lao
động này tại khu kinh tế Dung Quất (Nhà máy lọc dầu Dung Quất) là rất lớn
từ 300-500 lao động, cơ quan xuất nhập cảnh yêu cầu doanh nghiệp liên hệ
với Sở Lao động – TB&XH tại đại phương để được xác nhận tình hình sử
dụng lao động. Đây là sự bất cập trong công tác phối hợp giữa các cơ quan có
liên quan trong việc quản lý lao động là người nước ngoài, pháp luật cần có
hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
3.2.2 Nhóm giải pháp cho các cơ quan quản lý
Thứ nhất, Nâng cao năng lực thể chế, khả năng tổ chức thực hiện, thúc
đẩy hoạt động quản lý LĐNN một cách có hiệu quả tại địa phương.
Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý LĐNN là làm cho những cơ chế,
thể chế, những phương thức quản lý trong nội bộ bộ máy nhà nước khoa học,
hợp lý hơn; những khả năng hành chính và kỹ thuật chuyên môn của cán bộ
82
công chức cao hơn; những quy tắc, sự kiềm chế và kiểm soát để đảm bảo cho
cán bộ công chức có khả năng linh hoạt để hoạt động tốt hơn vì tập thể, tránh
những hành động độc đoán chuyên quyền, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền
và những tiêu cực khác.
Người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị quản lý lao động nước ngoài tại
địa phương, các khâu của quá trình cấp giấy phép lao động đối với LĐNN
trên địa bàn tỉnh phải là người am hiểu sâu sắc về chuyên môn, khá về ngoại
ngữ; có tầm nhìn dài hạn, có phương pháp và phong cách lãnh đạo, điều hành
khoa học; có sự đồng cảm sâu sắc với những người lao động nước ngoài làm
việc tại địa phương cụ thể:
Đối với UBND tỉnh:
Xem xét và chấp thuận cho doanh nghiệp, tổ chức được sử dụng lao
động người nước ngoài đảm nhận những vị trí công việc mà lao động trong
nước chưa đáp ứng được.
Thường xuyên chỉ đạo triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về quản lý lao động nước ngoài. Kiên quyết xử lý vi phạm những trường
hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại tỉnh bằng thị thực du lịch không vì
môi trường đầu tư mà bỏ qua nhưng quy định của pháp luật.
Xây dựng kế hoạch trung và dài hạn nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, chỉ đạo các cơ quan có chức năng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho
nhu cầu về lao động ở địa phương, đặc biệt là nhu cầu của các nhà thầu nước
ngoài nhằm thay thế bằng sử dụng lao động trong nước
Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư:
Trong quá trình thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cần nắm bắt nhu cầu dự kiến sử dụng lao
động trong nước và lao động nước ngoài, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn
FDI.
83
Thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp với Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội để nắm bắt tình hình số lượng lao động người nước ngoài là
chủ doanh nghiệp.
Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên
quan để nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho người sử dụng lao động,
đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài trúng các gói thầu lớn tại
Quảng Ngãi đây là một khâu quan trọng trong tổ chức thực hiện pháp luật
nhằm hạn chế những vi phạm của các đơn vị sử dụng LĐNN là do thiếu
nhận thức về các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan và sự thiếu ý
thức pháp luật trong việc chấp hành những quy định này.
Tổ chức thẩm định chặt chẽ các vị trí công việc mà doanh nghiệp, tổ
chức không tuyển được lao động trong nước nhưng do nhu cầu sản xuất kinh
doanh nên phải sử dụng lao động nước ngoài.
Thực hiện cấp, cấp lại giấy phép lao động đối với những hồ sơ đề nghị
cấp phép đảm bảo theo quy định.
Khuyến khích, vận động doanh nghiệp, nhà thầu đăng ký cấp giấy phép
lao động qua mạng điện tử.
Đối với Công an tỉnh:
Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh,
Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh thường xuyên phối hợp với Sở
Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tập huấn cho các doanh nghiệp,
nhà thầu có sử dụng lao động người nước ngoài. Để người nước ngoài hiểu và
chấp hành tốt pháp luật Việt Nam khi làm đến làm việc, cư trú tại tỉnh, công
tác tuyên truyền, hướng dẫn cần phải được tăng cường triển khai. Đặc biệt,
Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam số 47/2014/QH2013 ban hành ngày 16/6/2014 có hiệu lực thi hành từ
84
ngày 1/1/2015 thay thế toàn bộ Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam số 24/1999/PL-UBTVQH10 có nhiều điểm
mới rất cần người lao động nước ngoài nắm rõ để thực hiện, chấp hành đúng
khi làm việc, lưu trú trên địa bàn tỉnh.
Để công tác quản lý người lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh ngày
càng đi vào nề nếp, các cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn
nữa, trong đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
hướng dẫn người lao động nước ngoài, cơ quan, doanh nghiệp, thực hiện
đúng luật; tăng cường công tác thanh, kiểm tra, nghiêm túc xử lý những
trường hợp vi phạm trên cơ sở đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, đồng
thời đảm bảo an toàn về an ninh, trật tự xã hội tại địa phương.
Thứ hai: tiến hành tổng rà soát và dự toán nhu cầu sử dụng lao động
nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.
Việc xây dựng hoạch định, quyết định chính sách và chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới làm trên căn bản nắm chắc nhu cầu
thật của nền kinh tế đối với sử dụng lao động nước ngoài trong hiện tại và
tương lai, và trên cơ sở các kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài làm
việc tại địa phương Quảng Ngãi. Các kinh nghiệm này chỉ có được nếu như
chúng ta tiến hành một cuộc tổng rà soát và phân tích kỹ lưỡng việc đáp ứng
nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, hiệu quả của việc sử dụng và hiệu quả
của công tác quản lý theo các mô hình quản lý cụ thể. Trên cơ sở của dự báo
và định hướng phát triển kinh tế, xã hội cùng với các yếu tố khác, chúng ta dự
báo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong từng giai đoạn.
Thứ ba, hạn chế đúng mức việc sử dụng lao động nước ngoài ở một số
địa bàn nhạy cảm như đảo Lý Sơn...
Ở khu vực biên giới, hải đảo, khu vực rừng đầu nguồn, khu vực quan
trọng đối với an ninh, quốc phòng hay những nơi thường xảy ra xung đột về
85
tôn giáo, sắc tộc cần có những hạn chế đúng mức đối với việc sử dụng lao
động nước ngoài. Việc hạn chế này có thể với các cách thức khác nhau, tuy
nhiên vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc quản lý lao động nước ngoài đã
nghiên cứu ở các chương trên.
Thư tư, phát huy vai trò tư vấn pháp luật và tuyên truyền pháp luật lao
động tại địa phương cho người lao động nước ngoài
Nguyên nhân dẫn đến không tuân thủ pháp luật của nhiều người lao
động nước ngoài là thiếu thông tin và hiểu biết về pháp luật. Vì vậy bên cạnh
hoạt động tuyên truyền đến từng người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam,
cần thiết đẩy mạnh hoạt động tư vấn pháp luật của các công ty luật và các
trung tâm trợ giúp pháp lý.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người
lao động và người sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người lao động và người sử
dụng lao động nước ngoài là một hoạt động rất quan trọng trong việc nhận
được các thông tin phản hồi về việc thi hành các chính sách và các qui định
pháp luật. Phương thức thanh tra, kiểm tra hiện cần tiến hành là phối hợp
thành lập các tổ công tác liên ngành để kiểm tra, thanh tra và chấn chỉnh
những vi phạm khi sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại địa phương.
Ngoài ra cần tăng cường thanh, kiểm tra theo chuyên đề, như chuyên đề
tuyển chọn lao động, chuyên đề về đăng ký, khai báo và xin giấy phép lao
động, chuyên đề sử dụng lao động… Những trường hợp không đủ điều kiện
làm việc thì buộc xuất cảnh hoặc trục xuất theo qui định, kịp thời giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động sử dụng lao động nước
ngoài.
Thứ sáu, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng trực tuyến đồng bộ hóa
dữ liệu.
86
Hệ thống ứng dụng trực tuyến được đưa vào sử dụng tạo điều kiện thuận
lợi cho người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước. Đây là những
điều mà ngành lao động xã hội tại địa phương rất nỗ lực để thực hiện. Việc
trao đổi thông tin cho nhau thường xuyên sẽ giúp các cơ quan quản lý lao
động nước ngoài tại địa phương đạt hiệu quả hơn và có thể kiểm soát tối đa
các trường hợp làm việc "chui" thông qua visa du lịch. Hiện nay, thủ tục cấp
giấy phép lao động qua mạng điện tử đang được Quảng Ngãi triển khai qua
cổng thông tin điện tử: dvc.vieclamvietnam.gov.vn.
3.2.3 Các giải pháp đối với người sử dụng lao động và người lao động
Các giải pháp đối với người lao động
Đối với người LĐNN, chúng ta là cơ quan quản lý nhà nước cần bảo vệ
người LĐNN (trong quan hệ LĐNN) ngăn chặn mọi sự xâm hại có thể xảy ra
đối với họ khi tham gia quan hệ LĐNN. Với ý nghĩa đó, “bảo vệ người
LĐNN” có nghĩa rộng hơn và bao trùm “bảo đảm các quyền cho người
LĐNN”. Đây là đặc trưng của pháp luật LĐNN của bất kỳ quốc gia nào có cơ
chế thị trường. Bởi lẽ, người LĐNN luôn ở thế yếu hơn so với người sử dụng
LĐNN. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt của hoạt động quản lý LĐNN trong
các doanh nghiệp ở nước ta.
Các giải pháp đối với người sử dụng lao động
Người sử dụng LĐNN (ở đây là doanh nghiệp) là chủ thể bỏ vốn, đầu tư
kinh doanh và thu hút LĐNN, giải quyết việc làm cho lao động tại địa
phương. Do đó, Nhà nước cũng cần bảo đảm các quyền tuyển chọn, sử dụng
LĐNN. Nếu như người LĐNN có quyền lựa chọn việc làm thì người sử dụng
LĐNN cũng có quyền tuyển chọn LĐNN, quyền tăng giảm LĐNN theo nhu
cầu sản xuất, kinh doanh và theo quy định pháp luật. Vì vậy, cùng với việc
bảo đảm hài hòa lợi ích người LĐNN - người sử dụng LĐNN thì bảo vệ
quyền của người sử dụng LĐNN cũng là một trong những nguyên tắc của
87
quản lý LĐNN trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh
rằng, người sử dụng lao động phải ưu tiên sử dụng lao động trong nước ,
trường hợp không tuyển được lao động trong nước ở vị trí công việc có nguy
cơ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh thi mới tuyển dụng LĐNN.
Thực hiện đúng chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động nước ngoài
để tạo điều kiện cho việc quản lý tốt người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh.
88
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Những yêu cầu đặt ra và cơ sở của việc củng cố hoàn thiện pháp luật về
quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi; phương hướng hoàn thiện,
giải pháp thực hiện pháp luật về quản lý lao động ở tỉnh Quảng Ngãi từ đó
hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định của luật pháp liên quan đến
người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và về lâu dài cần nghiên cứu, xây
dựng, ban hành luật về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, trong đó có
quy định về quyền, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động,
các cơ quan liên quan tới các hình thức đi làm việc của người LĐNN và
người sử dụng lao động nước ngoài. Trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi cho
những năm tiếp theo. Chương 3 đã đề cập tới những nội dung chính như:
Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thực hiện đúng chế độ báo cáo tình
hình sử dụng lao động nước ngoài, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng
trực tuyến đồng bộ hóa dữ liệu.
89
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu
hóa. Hội nhập giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp tác cùng
có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức.
Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di chuyển lao
động là điều không tránh khỏi. Vấn đề sử dụng lao động nước ngoài ở các
nước trên thế giới xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của mỗi nước để
phát triển kinh tế - xã hội. Sử dụng lao động nói chung và sử dụng lao động
nước ngoài làm việc tại các cơ sở kinh tế ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề
quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát
triển của mỗi quốc gia và đặc biệt là ở nước ta.
Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam sẽ làm tăng thêm số lượng
cũng như làm phong phú thêm lực lượng lao động, đồng thời tăng tính cạnh
tranh trên thị trường lao động. Tuy vậy, việc di chuyển của người nước ngoài
vào vào Việt Nam sẽ làm cho số lượng và cơ cấu lao động thay đổi. Chính vì
vậy, thu thập thông tin, nắm được cung - cầu và sự biến động cung - cầu lao
động nói chung và lao động nước ngoài nói riêng làm cơ sở để quyết định
chính sách đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng lao động nước ngoài tại Việt
Nam, đồng thời xây dựng chế độ thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, tổ
chức có sử dụng lao động nước ngoài, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật lao động. Đây là việc làm thường xuyên và liên tục nhằm uốn nắn những
sai lệch, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt
nội dung quản lý nhà nước đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật đối với
lao động nước ngoài, tác giả phân tích thực trạng quản lý lao động nước ngoài
90
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Kết hợp định hướng và mục tiêu nâng cao hiệu
quả quản lý lao động nước ngoài trên địa bàn, tác giả đã đề xuất các giải pháp
cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối với lao động nước
ngoài trên địa bàn Quảng Ngãi trong thời gian tới.
Những giải pháp nêu trên nếu được các cấp chính quyền tỉnh Quảng
Ngãi áp dụng trên địa bàn sẽ mang lại lợi ích đối với thực hiện pháp luật về
công tác quản lý LĐNN trên địa bàn nhằm thực hiện hiệu quả nghị định
11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 về Quy định chi tiết và thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Vì vậy lĩnh vực pháp luật này phải dựa vào mô hình quản lý lao động
nước ngoài và bảo đảm các nguyên tắc: tôn trọng quyền con người; bảo đảm
an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo
vệ việc làm cho người lao động trong nước; tôn trọng các quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam về
lĩnh vực này có nhiều bất cập do các nguyên nhân như: nhà làm luật chưa xác
định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài;
những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được
cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao; thiếu coi trọng vai trò của tư
pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý.
Do đó, việc củng cố hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần có định hướng
như xây dựng pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp
ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng
lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn
xã hội, và giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội nhập
quốc tế và bảo vệ quyền con người. Đi cùng với định hướng này cần có các giải
pháp liên quan tới kinh tế, xã hội và giải pháp pháp lý.
91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí Thư (2010), Chỉ thị số 40-CT-TW ngày 20/01/2010 về tăng
cường công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam.
2. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2008), Thông tư số 08/2008/TT-
BLĐTBXH ngày 10/6/2008 hướng dẫn một số điều của Nghị định số
34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển
dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2009) Thông tư số 13/2009/TT-
BLĐTBXH ngày 06/5/2009 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu công nghệ cao.
4. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2011), Thông tư số 31/2011/TT-
BLĐTBXH ngày 03/11/2011 hướng dẫn một số điều của Nghị định
số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của Chính phủ sửa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của
Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm
việc tại Việt Nam.
5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư số 03/2014/TT-
BLĐTBXH ngày 20/01/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam.
6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư số 40/2016/TT-
BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam.
7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Văn bản số 1581/UBND-
VX ngày 09/8/2012 của về tăng cường quản lý lao động nước
ngoài.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Công văn số
5233/LĐTBXH-VL ngày 29/12/2016
9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Đề tài cơ sở : Tình hình
quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam
10. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt
Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
11. Chính phủ (2008), Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy
định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam.
12. Chính phủ (2011) Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi
bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày
25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
13. Chính phủ (2013), Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy
định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam.
14. Chính phủ (2016), Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 quy
định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam.
15. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động.
16. Chính phủ (2015), Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa
đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày
22/8/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực lao động.
17. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
18. Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
19. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú
và thành viên gia đình họ năm 1990.
20. Công ước số 97 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
21. Công ước số 143 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).
22. Công ước số 150 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).
23. Phan Huy Đường (2011), Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài
ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.
24. Phạm Thị Hương Giang (2015), Hoàn thiện Pháp luật về quản lý lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
25. Phạm Thị Hương Giang (2016), Pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
(www.tcdcpl.moj.gov.vn)
26. Nguyễn Thị Thu Hương và Nguyễn Thị Bích Thủy (2012), Chuyên đề
Lao động nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và những vấn đề đặt
ra.
27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Bảo vệ người lao động di
trú, Nxb. Lao động, Hà Nội.
28. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền của người lao
động di trú (Công ước của Liên hiệp quốc và những văn kiện quan
tọng của ASEAN), Sách tham khảo, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2-
2010.
29. Bùi Sỹ Lợi (2016), “Một số định hướng sửa đổi, bổ sung Pháp luật lao
động…”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 529 ngày 16-30/6/2016
(Tr. 5)
30. Lưu Bình Nhưỡng (2009), “Một số vấn đề pháp lý về người nước ngoài
đến làm việc tại Việt Nam” (tr. 1 – 10), Tạp chí Luật học, Số
9/2009.
31. Lê Hồng Huyên (VNH3.TB5.791), “Tác động của di chuyển lao động
quốc tế đối vứi sự phát triển kinh tế xã hội - Việt Nam trong hội
nhập kinh tế quốc tế”, www.hids.hochiminhcity.gov.vn.
32. Lê Phương (2015), “Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam:
Hài hòa giữa yêu cầu và lợi ích”, Báo Lao động, thứ Bảy ngày
12/09/ 2015.
33. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
nước cộng hòa XHCN Việt Nam.
34. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ Luật
lao động.
35. C.Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, trang 23
36. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và một số Sở, ngành liên quan
(2015), Các báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra tình hình lao động
nước ngoài làm việc trên địa bàn tình Quảng Ngãi của Đoàn kiểm
tra liên ngành qua các năm 2013, 2014, 2015.
37. Lê Thị Hoài Thu (2013), “Bảo đảm quyền của người lao động di trú
trong pháp luật lao động Việt Nam” (tr. 201 – 224), Bảo đảm quyền
con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
38. Phạm Công Trứ (2013), “Quyền của người lao động trong các văn kiện
pháp lý quốc tế: Một bộ phận cấu thành hệ thống các quyền con
người” (tr. 11 – 22), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao
động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.
40. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Văn bản số 2920/UBND-VX ngày
25/04/2014 của về tăng cường quản lý lao động nước ngoài Chính
phủ Việt Nam.
41. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Công văn số 321/UBND-KGVX ngày
18/01/2017 của về tăng cường công tác quản lý lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam.
42. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội số 133/BC-UBND ngày 26/7/2016.
43. Viện Nhà nước và Pháp luật (2017), Pháp luật về quản lý lao động nước
ngoài ở Việt Nam của tác giả Phạm Thị Hương Giang
Tiếng Anh
44. ASEAN (2014), Asean Conference on Globalization and Labor
Administration: Cross-Border Labor Mobility, Social Security and
Regional Integration, Manila, Philippines, November 19-21,2014.