BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… …../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ XUÂN HƯƠNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI

Ở TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… …../…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ XUÂN HƯƠNG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI

Ở TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu

và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, do tôi thực hiện dưới

sự hướng dẫn của các giảng viên.Vì vậy tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về

công trình nghiên cứu của mình./.

Học viên

Trần Thị Xuân Hương

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc

đến PGS.TS. Huỳnh Văn Thới, người đã chỉ bảo và hướng dẫn tôi tận tình

trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.

Xin cám ơn Ban giám hiệu, Ban đào tạo sau đại học, các thầy, cô thuộc

khoa Nhà nước và Pháp luật - Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo mọi điều

kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện Luận văn.

Xin chân thành cảm ơn tập thể Lãnh đạo Phòng Việc làm - An toàn lao

động thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi, nơi tôi

đang công tác, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và

thực hiện Luận văn./.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2017

Học viên

Trần Thị Xuân Hương

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................... 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................. 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................ 9 7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 9 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM ..................................................................................................... 10 1.1. Tổng quan về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và pháp luật quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................... 10 1.1.1. Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam .................... 10 1.1.2. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam 16

1.2. Khái quát về thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ........................................................................................ 21 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ..................................................................................... 21 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam .............................................................................. 23 1.2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ........................................................... 26

1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................................................................................................ 33 1.3.1. Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước ngoài làm việc tại Việt Nam .................................................................... 33 1.3.2. Thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho người nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam ..................................................... 35 1.3.3 Thực hiện quy định về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động, việc sử dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ..................................................................................... 35 1.3.4. Thực hiện quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ......... 40

1.3.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, xử lý vi phạm liên quan tới người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ................................................ 41 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................... 48 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI............................ 49 2.1. Tình hình lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................................. 49 2.2 Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi ....................................................................................... 50 2.2.1. Các phương diện đánh giá ............................................................ 50 2.2.2. Đánh giá chung ............................................................................. 69 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................... 75 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI ................................................................................... 76 3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi .......................................................................................... 76 3.2. Các giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng .................................... 76 3.2.1 Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam ................................................................ 77 3.2.2 Nhóm giải pháp cho các cơ quan quản lý ...................................... 82 3.2.3 Các giải pháp đối với người sử dụng lao động và người lao động 87 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung đầy đủ

LĐNN Lao động nước ngoài

HĐLĐ Hợp đồng lao động

QLNN Quản lý nhà nước

FDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Hiệp định

FTA Thương mại tự do

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

TPP Hiệp định định đối tác xuyên Thái Bình Dương

NNN Người nước ngoài

EPC Tổng thầu Hợp đồng, thiết kế, cung ứng

LĐ-TB&XH Lao động - Thương binh và Xã hội

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tình hình số lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2014 - 2016 ...................................................................................................... 52

Bảng 2.2. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo giới tính giai đoạn 2014 – 2016 ..................................................................................... 53

Bảng 2.3. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo độ tuổi giai đoạn 2014 – 2016 (Đơn vị: người) ........................................................... 54

Bảng 2.4. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo quốc tịch giai đoạn 2014 - 2016 ............................................................................... 55

Bảng 2.5. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo hình thức lao động giai đoạn 2014 - 2016 ............................................................... 57

Bảng 2.6. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo trình độ chuyên môn giai đoạn 2014 - 2016 ................................................................. 57

Bảng 2.7 Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi được cấp và cấp lại giấy phép lao động giai đoạn 2014 - 2016 .......................................... 61

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển kinh tế thế giới, Việt

Nam đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức thế giới như WTO, ASEAN

với mục tiêu chung là xây dựng cộng đồng chính trị - kinh tế - xã hội chung vì

vậy việc dần phải loại bỏ rào cản, tiến tới mở cửa thị thường lao động là xu

hướng không thể tránh khỏi. Đồng thời cũng cần khẳng định, nhu cầu phải sử

dụng những lao động nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng đặc

biệt là nhu cầu của nền kinh tế - xã hội nước ta.

Hội nhập đem lại nhiều cơ hội việc làm, đặc biệt là việc làm theo hướng

công nghiệp với hàm lượng vốn, tri thức cao; các rào cản pháp lý về di

chuyển pháp nhân, thể nhân được nới lỏng, các quan hệ kinh tế, đối ngoại, lao

động…được thiết lập tạo điều kiện cho lao động Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài. Thị trường lao động Việt Nam cũng trở lên linh hoạt và đa dạng hơn,

dòng lao động nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đông hơn, thị trường lao

động Việt Nam cũng sẵn sàng đón nhận lực lượng lao động từ các nước khác

trên thế giới. Trong thời gian qua, lao động nước ngoài tại Việt Nam đã và

đang có những đóng góp đáng ghi nhận đối với nền kinh tế xã hội, đặc biệt ở

các lĩnh vực, ngành nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao mà hiện tại lao

động trong nước, lao động địa phương chưa thể đáp ứng được. Vấn đề quản lý

lao động nước ngoài, đặc biệt trong những năm gần đây đã được Đảng, Nhà

nước cũng như chính quyền địa phương đặc biệt coi trọng nhằm thực hiện

đúng cam kết trên diễn đàn chung thế giới, đồng thời đảm bảo sự phát triển

lành mạnh, cạnh tranh, bình đẳng và bảo vệ lao động trong nước.

Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được từ nguồn lao động

nước ngoài thì việc quản lý đối với lực lượng lao động này là một bài toán vô

cùng phức tạp đối với các cơ quan quản lý lao động, các ngành chức năng về

1

trật tự và an toàn xã hội và những ảnh hưởng từ lực lượng này đến cuộc sống

của nhân dân. Đặc biệt, vấn đề nổi cộm là tình hình sử dụng bất hợp pháp lao

động nước ngoài (LĐNN) trong các doanh nghiệp tại Việt Nam. Hiện tượng

này có xu hướng gia tăng và điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường

lao động Việt Nam, đến đời sống của người lao động Việt Nam, mà còn là

vấn đề thách thức đối với Nhà nước Việt Nam trong vấn đề về thực thi pháp

luật, vừa đảm bảo chủ trương, chính cách, cơ chế và kỹ năng vận hành, điều

hành có tính quản lý nhà nước thống nhất; vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của LĐNN tại Việt Nam trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.

Thực hiện chủ trương, chính sách mở cửa hội nhập, mở rộng các mối

quan hệ hợp tác với nước ngoài nhằm phục vụ cho nhu cầu xây dựng, phát

triển đất nước và tuyên truyền chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,

Tỉnh Quảng Ngãi đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các cá nhân, tổ chức

nước ngoài triển khai hoạt động đầu tư, hợp tác kinh doanh… tại địa phương.

Toàn tỉnh hiện có 39 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 4.123

triệu USD; Lũy kế đến 30/6/2016 hiện có 5.822 doanh nghiệp được thành lập

trong đó có 4.064 doanh nghiệp đang hoạt động ; Khu kinh tế Dung Quất,

Khu đô thị và dịch vụ VSIP, các Khu công nghiệp của tỉnh, hiện nay sử dụng

trên 45 nghìn lao động địa phương trong đó có gần 50 doanh nghiệp, nhà thầu

có sử dụng lao động người nước ngoài với tổng số gần 400 lao động [40, tr.1-

2]. Để quản lý chắc tình hình lao động nước ngoài làm việc tại địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi, không có lao động nước ngoài vào làm việc mà không có giấy

phép lao động, thế nhưng do ý thức và nhận thức của con người nói chung

các cơ quan, doanh nghiệp, nhà thầu nói riêng qua mặt cơ quan quản lý chức

năng để đưa người lao động nước ngoài vào làm việc trái phép làm cho người

lao động trong tỉnh bị thất nghiệp, tình hình xã hội trở nên xấu đi.

Để khắc phục tình trạng này, vấn đề giáo dục ý thức quản lý chặt chẽ

2

người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Nhà nước ta đã ban hành

nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh công tác quản lý người lao

động nước ngoài. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam qui

định tại Điều 48 Hiến pháp năm 2013 “ Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam

phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài

sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam”; Bộ Luật lao

động năm 2012 là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất hiện nay và Nghị định

số 11/2016/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Chính phủ quy định chi

tiết một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại

Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01 tháng 4 năm 2016.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác quản lý nhà nước về lao động

người nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi. Thời gian qua, các cơ quan

chức năng có liên quan của tỉnh Quảng Ngãi đã kiểm tra tình hình tuyển dụng

và sử dụng lao động người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Kết quả, phát hiện những bất cập như lao động nước ngoài vào làm việc bằng

visa du lịch, lao động làm việc trên 03 tháng mà không có giấy phép lao động,

không báo cáo tình hình lao động người nước ngoài đang làm việc cho cơ

quan quản lý lao động tại địa phương.

Từ những lý do trên, là người trực tiếp thực thi nhiệm vụ về công tác này

nhận thấy có một số vấn đề cần tìm hiểu thêm để hướng đến giải quyết một

cách hợp pháp, hợp lý. Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Thực hiện

pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi” làm luận

văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong những năm qua, vấn đề quản lý người lao động nước ngoài đã

được các nhà làm công tác quản lý và những công việc liên quan đến lĩnh vực

này đặt vấn đề nghiên cứu, đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp

3

khuyến nghị. Một số nghiên cứu như:

- Tác giả Phạm Mạnh Hùng với bài viết "Lao động nước ngoài tại Việt

Nam - Góc nhìn khác" (Báo Điện tử, Đài Tiếng nói Việt Nam – VOV.VN,

ngày 16/8/2011) đã đề cập đến hiện tượng người nước ngoài vào làm việc tại

Việt Nam một cách khách quan, tránh tạo ra những tâm lý cực đoan trong xã

hội thực trạng lao động nước ngoài tại Việt Nam, những bất cập trong công

tác quản lý và đề xuất chính sách với người lao động tại Việt Nam, lao động

Việt Nam ra nước ngoài.

- Tác giả Sally Baber và Max Tunon, Văn phòng Khu vực Châu Á - Thái

Bình Dương, Tổ chức Lao động Quốc tế với bài viết "Hội nhập ASEAN tác

động đến lao động di cư Việt Nam như thế nào?" (tại trang web: www.ilo.org

ngày 27/12/2013) đã đề cập đến vấn đề di cư lao động và cơ hội khi Việt Nam

gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, vai trò của Tổ chức lao động quốc tế

trong việc cam kết với Chính phủ, Tổ chức sử dụng lao động và bảo vệ người

lao động di cư.

- Tác giả Lê Quốc Lý, Lê Văn Cương (Tạp chí kinh tế và dự báo số 24

(440), tháng 12/2008) "Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề việc làm ở Việt

Nam" đã đề cập đến những thuận lợi, thách thức đối với các doanh nghiệp

Việt Nam về vấn đề việc làm, cạnh tranh thị trường lao động...Từ đó đề xuất 9

giải pháp liên quan đến sử dụng, quản lý lao động di cư vào Việt Nam và xuất

khẩu lao động của Việt Nam.

- Đề tài KX.02.01/11-15 "Vấn đề lao động người nước ngoài tại Việt

Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế", do TS. Nguyễn Thị Lan Hương, chủ

nhiệm đã nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng dòng lao động

nước ngoài vào Việt Nam, các yếu tố tác động và ảnh hưởng...Đồng thời chỉ

ra những vấn đề đặt ra về lao động nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay và trong thời gian tới đối với việc thực hiện pháp luật đối với lao

4

động nước ngoài làm việc ở Việt Nam.

Ngoài ra, còn một số bài báo và nghiên cứu khác cũng đề cập đến tình

hình lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam như: "Tăng cường quản lý

lao động người nước ngoài" của tác giả Vũ Yến đăng ngày 21/4/2015 trên

Báo Quảng Ngãi; "Những điểm mới về lao động nước ngoài tại Việt Nam"

của tác giả Trần Quang Minh đăng trên Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày

09/3/2016; "Một số vấn đề về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt

Nam cần được sửa đổi" của Tiến sĩ Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về

các vấn đề xã hội đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội ngày 30/6/2016;

"Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam" của ThS

Phạm Thị Hương Giang đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật ngày

28/01/2017.

Những công trình nghiên cứu nêu trên đã tiếp cận một số khía cạnh của

công tác quản lý lao động nước ngoài. Đây là nguồn tư liệu tham khảo hữu

hiệu, là cơ sở kế thừa cho những nghiên cứu tiếp theo.Tuy nhiên đến nay chưa

có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện về phương diện lý luận, thực

tiễn tình hình thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc tại

tỉnh Quảng Ngãi. Vì vậy, đề tài: “Thực hiện pháp luật về quản lý lao động

nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách

toàn diện, về thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về lao động người nước

ngoài làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về quản lý lao động người nước ngoài,

thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, các yếu tố tác

động đến thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam và từ thực

trạng thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Quảng Ngãi, luận

5

văn đưa ra một số giải pháp xây dựng quy tắc xử sự nhằm khắc phục và hạn

chế thực trạng trên; góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng

pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà nước về người nước ngoài vào làm việc

ở tỉnh Quảng Ngãi thời gian tới.

Từ những bất cập trong việc thực hiện pháp luật đối với người lao động

nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi như: các mối quan hệ cung - cầu lao

động trong tuyển dụng, cấp phép lao động, công tác an ninh, trật tự xã hội,

quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của LĐNN… Qua thực tế làm việc trực

tiếp với các thành phần LĐNN và những vấn đề phát sinh cần giải quyết để

vừa đáp ứng quyền lợi cho lao động nước ngoài tại tỉnh, vừa đảm bảo việc

thực thi pháp luật của Nhà nước Việt Nam, phù hợp với xu hướng hội nhập và

luật pháp quốc tế. Trên cơ sở đó, học viên đề xuất một số giải pháp xây dựng

quy tắc xử sự nhằm khắc phục và hạn chế thực trạng trên; góp phần nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà

nước về người nước ngoài vào làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn thực hiện những nhiệm vụ

cơ bản sau:

- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý lao động người nước

ngoài, thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam, các yếu

tố tác động đến thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt Nam...

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về sử dụng lao động

nước ngoài, thực tiễn áp dụng.

- Ngoài ra, luận văn còn nêu lên những điểm hạn chế trong các quy định

pháp luật hiện hành về sử dụng lao động người nước ngoài, để chỉ ra được

thực tế việc thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc ở tỉnh

Quảng Ngãi trong thời gian từ năm 2014 đến nay; nhằm đưa ra những giải

6

pháp mang tính khuyến nghị, hy vọng được góp một phần nhỏ trong quá trình

hoàn thiện một số cơ chế thực thi pháp luật về lĩnh vực này cũng như việc áp

dụng có hiệu quả trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Hoạt động thực hiện pháp luật về quản lý lao động người nước ngoài tại

tỉnh Quảng Ngãi.

Những vấn đề lý luận về quản lý lao động người nước ngoài.

Pháp luật điều chỉnh về quản lý lao động người nước ngoài.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật

liên quan đến quản lý lao động nước ngoài được thực hiện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi.

Trong khuôn khổ của luận văn, không đi sâu vào phân tích từng loại lao

động mà chỉ đề cập đến những quy định chung.

- Phạm vi không gian: Tỉnh Quảng Ngãi.

- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; các

quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về

quản lý lao động người nước ngoài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp nhiều

phương pháp trong đó tập trung vào một số phương pháp sau:

- Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để

7

có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá công tác thực hiện pháp luật đối

với lao động nước ngoài nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, làm cơ sở

để đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật đối với vấn đề quản lý nhà

nước về người nước ngoài vào làm việc ở tỉnh Quảng Ngãi thời gian tới.

- Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh

giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Quảng

Ngãi để từ đó chỉ ra được những mặt mạnh, mặt yếu trong thực hiện pháp luật

làm cơ sở cho những đề xuất, giải pháp ở Chương 3.

- Phương pháp phỏng vấn: được tác giả thực hiện với một số lãnh đạo

tỉnh Quảng Ngãi nhằm thu thập thêm thông tin về thực trạng công tác thực

hiện pháp luật quản lý lao động người nước ngoài trên địa bàn tỉnh, cũng như

phương hướng quản lý lao động người nước ngoài trong thời gian tới.

- Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu thu

thập được từ kết quả nghiên cứu sơ cấp.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, phỏng

vấn...để thu thập thêm những thông tin phục vụ cho quá trình phân tích, đánh

giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý người lao động nước ngoài tại

Quảng Ngãi.

Đây là phương pháp khoa học vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận

văn để đánh giá khách quan các quy định của pháp luật về quản lý lao động

nước ngoài. Đồng thời, tác giả coi trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu

cụ thể, như:

- Phương pháp thu thập số liệu: từ các cơ quan quản lý và sử dụng lao

động, cơ quan quản lý hành chính, lãnh thổ, các cơ quan thẩm quyền có trách

nhiệm trong phối hợp xử lý các vấn đề liên quan đến LĐNN.

- Phương pháp tổng kết thực tiễn: phân tích các báo cáo, chuyên đề, hồ

8

sơ nghiệp vụ, … để rút ra những kết luận khoa học;

- Phương pháp chuyên gia: tham vấn, trao đổi, phỏng vấn cán bộ có kinh

nghiệm trong lĩnh vực quản lý của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội,

ngành Công an để làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về thực hiện pháp

luật đối với lao động nước ngoài và sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ

pháp luật về quản lý lao động nước ngoài giữa pháp luật Việt Nam và pháp

luật quốc tế.

- Phương pháp thống kê: nghiên cứu báo cáo của các đơn vị về thực tiễn

quản lý nhà nước đối với người lao động nước ngoài làm việc ở tỉnh Quảng

Ngãi; trên cơ sở đó thống kê trên các mặt phục vụ nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích trong công

tác quản lý lao động người nước ngoài, trên cơ sở này vận dụng ban hành quy

chế phối hợp giữa các sở, ban ngành có liên quan trong việc quản lý lao động

người nước ngoài.

Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc tổ chức, triển khai công tác quản lý

nhà nước về thực hiện pháp luật đối với lao động là người nước ngoài làm

việc ở tỉnh Quảng Ngãi trong tình hình hiện nay.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, giải thích từ ngữ viết tắt và danh

mục tài liệu tham khảo; cấu trúc của luận văn gồm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về quản lý

lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi.

9

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC TẠI VIỆT NAM

1.1. Tổng quan về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam và

pháp luật quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

1.1.1. Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

1.1.1.1. Khái niệm quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Thuật ngữ “quản lý” thường được hiểu theo những cách khác nhau tuỳ

theo góc độ khoa học khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên

cứu. Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và

khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học bàn về quản lý dưới góc độ riêng

của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động của đời

sống xã hội.

Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao

động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn

đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động

cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của

toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ

quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một

dàn nhạc phải có nhạc trưởng”.[35]

Theo Mác quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái

thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận khái niệm

quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.

Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:

quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt

động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục

đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.

10

Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động của

xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp cận

này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.

Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ

thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác

động theo cách nào còn tuỳ thuộc vào các góc độ khoa học khác nhau, các

lĩnh vực khác nhau cũng như cách tiếp cận của người nghiên cứu.

Quản lý nhà nước về lao động nước ngoài là việc nhà nước xác định mục

tiêu và bằng pháp quyền, được thể hiện thành văn bản nhằm tác động có tổ

chức lên các quan hệ và hoạt động của lao động nước ngoài nhằm khai thác

và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lao động này phục vụ các mục tiêu phát

triển kinh tế -xã hội của đất nước.

Về bản chất, quản lý lao động nước ngoài có nguồn gốc từ quản lý, quản

lý lao động. Trong đó, khái niệm quản lý có ngoại viên rộng nhất còn quản lý

lao động nước ngoài lại là khái niệm có ngoại viên hẹp hơn cả. Nếu quản lý là

sự tổ chức, điều khiển hoạt động chung, quản lý lao động là quản lý tất cả lực

lượng lao động trong xã hội, quản lý tư liệu lao động thì quản lý lao động

nước ngoài là sự quản lý riêng một số lượng người lao động - những người

nước ngoài đi làm việc, tạo ra thu nhập và tạm trú có thời hạn ở Việt Nam.

Như vậy, từ quản lý, quản lý lao động đến quản lý lao động nước ngoài đối

tượng quản lý đã được thu hẹp dần vào một phạm vi nhất định.

Dưới góc độ pháp lý, quản lý lao động nước ngoài không đơn thuần là

một hiện tượng kinh tế - xã hội nữa, mà đã được thể chế thành một chế định

pháp luật độc lập, bao gồm một hệ thống các quy định được thể hiện trong

nhiều văn bản pháp luật, từ Bộ Luật lao động đến các Nghị định, Thông tư và

các Hiệp định hợp tác lao động giữa nước ta với các nước đối tác.

Nhà nước có vai trò là người tạo khung pháp lý và môi trường bình đẳng

11

cho các chủ thể tham gia thị trường lao động hợp tác và phát huy tốt năng lực

của mình, đồng thời Nhà nước còn trực tiếp đóng vai trò tổ chức để thị trường

lao động phát triển. Quản lý nhà nước về lao động có thể khái quát thành các

nội dung cơ bản, bao gồm: Xây dựng chiến lược mục tiêu quản lý nhà nước

về lao động nước ngoài; Ban hành hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao

động nước ngoài phù hợp với các quy định của quốc tế; Tổ chức thực hiện

chiến lược mục tiêu, pháp luật, chính sách quản lý lao động nước ngoài; Kiểm

tra, giám sát thực hiện chính sách Nhà nước đối với lao động nước ngoài.

Đối tượng của quản lý nhà nước về lao động nước ngoài là toàn bộ các

chủ thể: nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức có người lao động nước ngoài

làm việc và cá nhân người lao động nước người, cùng với các quan hệ giữa

các chủ thể đó.

1.1.1.2. Đặc điểm quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Lao động nước ngoài là công dân nước ngoài, không có quốc tịch Việt

Nam, đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định để được phép làm việc tại

Việt Nam cho tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.

Thứ nhất, quản lý lao động nước ngoài là một quá trình gắn bó chặt chẽ

với việc bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu sắc. Có quan điểm cho

rằng, về cơ bản, quyền con người trong lao động là những quyền con người

liên quan đến điều kiện lao động và điều kiện sử dụng lao động, bao gồm việc

làm, tiền lương, an toàn lao động, hoạt động công đoàn, an sinh xã hội nói

chung và bảo hiểm nói riêng [37]. Nếu hiểu mối quan hệ giữa người sử dụng

lao động và người lao động bao gồm các nội dung liên quan tới điều kiện lao

động và điều kiện sử dụng lao động, thì quản lý lao động nước ngoài làm việc

tại nước sở tại là quá trình tác động của chủ thể quản lý lên các điều kiện lao

động và sử dụng lao động liên quan tới vấn đề người lao động mà những

người này không phải là công dân của nước sở tại. Như vậy quản lý lao động

12

nước ngoài không thể không liên quan tới mối quan hệ quốc tế và việc bảo vệ

quyền con người. Hiện tại, Việt Nam đặt vấn đề lao động di trú có tầm quan

trọng lớn trong chính sách kinh tế và chính sách ngoại giao. Tại diễn đàn

ASEAN năm 2008, Việt Nam đã khuyến nghị, với tư cách là một cộng đồng

cùng trách nhiệm và chia sẻ, cần hành động một cách cụ thể và trọn vẹn để

người dân các nước thành viên mà muốn tìm việc làm ở nước ngoài có thể

được hưởng lợi từ một thỏa thuận mới của khu vực mà qua đó các quyền của

họ với tư cách là những người lao động di trú sẽ được bảo vệ. Thực tế, Việt

Nam đã gửi khoảng nửa triệu người lao động đi làm việc ở khoảng 40 quốc

gia và vùng lãnh thổ, nên đòi hỏi có cơ chế pháp lý quốc tế để bảo vệ. Sự đòi

hỏi này được hiểu ở chiều ngược lại là Việt Nam suy tính tới quan hệ quốc tế

và cam kết thi hành các cơ chế bảo vệ quyền của những người lao động di trú.

Đây là đặc điểm quan trọng không chỉ liên quan tới thiết kế chính sách, thiết

lập cơ chế quản lý, xây dựng pháp luật về quản lý lao động nước ngoài, mà

còn liên quan tới các tác nghiệp quản lý cụ thể.[25,tr.3]

Thứ hai, quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là một quá

trình liên quan tới nhiều ngành, tất cả các địa phương và nhiều quan hệ lao

động. Để bảo đảm cho một người lao động nước ngoài vào làm việc tại một

nước, có nhiều vấn đề quản lý sau phải được đặt ra như: Nhập cảnh, xuất

cảnh, cư trú, cấp phép lao động, điều kiện lao động và sử dụng lao động, việc

làm, giáo dục, y tế, công đoàn, bảo hiểm xã hội, an ninh, trật tự… Người lao

động nước ngoài có thể làm việc, cư trú, đi lại nghỉ ngơi ở tất cả các địa

phương và họ có thể tham dự vào nhiều quan hệ lao động khác nhau không kể

lao động giản đơn hay lao động đòi hỏi trình độ cao…Vì vậy, chủ thể quản lý

lao động nước ngoài làm việc tại nước sở tại bao gồm nhiều cơ quan trong bộ

máy nhà nước và tất cả các chính quyền địa phương, nhiều tổ chức cung cấp

hàng hóa công cộng khác như các tổ chức chính trị - xã hội... Các phương

13

thức quản lý cũng khác nhau tùy theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của

từng cơ quan, đơn vị, tổ chức.[25,tr.2-3]

Thứ ba, quản lý LĐNN tại Việt Nam là một quá trình thực hiện liên quan

tới nhiều yếu tố thực thi pháp luật. Lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt

Nam luôn biến động, xuất nhập cảnh liên tục, tạm trú tại nhiều nơi khác nhau;

đối tượng LĐNN tham gia thuộc nhiều thành phần, khác nhau về tính chất

công việc, môi trường làm việc, loại hình lao động, trình độ năng lực, kỹ năng

nghề nghiệp . . . nên khó kiểm soát, nhất là đối với những dự án lớn, nhiều gói

thầu, nhiều nhà thầu và triển khai tại nhiều địa điểm. . . Các tổ chức, doanh

nghiệp (kể cả doanh nghiệp nước ngoài) và người lao động nước ngoài phải

tuân theo những điều kiện rất nghiêm ngặt và các thủ tục chặt chẽ. Trách

nhiệm của các ngành như Công an, Tư pháp, Công thương, Lao động –

Thương binh và Xã hội. v.v.. cũng được quy định rất rõ ràng.

Thứ tư, quản lý LĐNN tại Việt Nam là một quá trình giải quyết các

quyền lợi hài hòa, đảm bảo các lợi ích hợp pháp giữa doanh nghiệp, nhà thầu,

tổ chức kinh tế,… có người nước ngoài và LĐNN cùng với nhà chức trách

của nước sở tại trên cơ sở đảm bảo về an toàn lao động, an ninh chính trị, trật

tự xã hội, điều kiện sinh hoạt và môi trường sống, kể cả chính sách an sinh xã

hội đang thực thi tại những vùng được thụ hưởng.

Thứ năm, quản lý LĐNN tại Việt Nam còn là một quá trình ứng phó, tiếp

kiến và tiếp giao văn hóa, có ảnh hưởng và tác động làm thay đổi một số quan

niệm về đời sống văn hóa tinh thần, vui chơi giải trí và cải thiện kinh tế của

một bộ phận dân cư nơi có lao động nước ngoài sinh sống và làm việc. Mối

quan hệ tương tác này có những điều mà pháp luật nước sở tại cần điều chỉnh

để phù hợp trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nhằm đảm bảo đáp ứng nhu

cầu của LĐNN tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

14

1.1.1.3. Mục tiêu quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Thực hiện chức năng Nhà nước trong xây dựng, phát triển kinh tế và bảo

vệ tổ quốc đối với tiến trình hội nhập toàn cầu hóa. Đảm bảo thực hiện các

quy tắc xử sự theo thông lệ ngoại giao, hợp tác cùng phát triển về các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, văn hóa và các lĩnh vực đời sống xã hội khác . . . khi Nhà

nước Việt Nam tham gia cam kết, phê chuẩn trên cơ sở pháp luật Việt Nam.

Phải đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý.

Phát triển kinh tế có thể dẫn tới sự thiếu hụt lao động trong một số lĩnh

vực có thể do sự mở rộng sản xuất, kinh doanh đòi hỏi thêm lao động, do sự

thu hút lao động vào một số lĩnh vực nhất định mà bỏ trống những lĩnh vực

khác, hoặc do lực lượng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất,

kinh doanh. Chẳng hạn Việt Nam vào thời kỳ đầu đổi mới với mong muốn

thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thu hút công nghệ tiến tiến của nước ngoài,

nhưng lực lượng lao động trong các lĩnh vực công nghệ cao rất mỏng, nhu cầu

sử dụng lao động nước ngoài phát sinh trong khi đó lại tìm cách đưa nhiều lao

động chưa có trình độ cao ra nước ngoài làm việc. Kinh nghiệm Hàn Quốc

cho thấy, cho đến tháng 8/2014 có khoảng 1,7 triệu người nước ngoài lao

động tại Hàn Quốc [43]. Rõ ràng, nền kinh tế nước này có nhu cầu cần thêm

sức lao động trong những ngành nghề nhất định. Từ đó, phát sinh đòi hỏi

quản lý lao động nước ngoài như thế nào để bảo đảm cung cấp sức lao động

hợp lý cho nhu cầu sử dụng lao động để phát triển kinh tế. Với mục tiêu này

các chính sách và pháp luật cụ thể liên quan được xây dựng.

Gắn việc sử dụng lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động

với lợi ích chung của toàn xã hội. Khi người lao động nước ngoài vào làm

việc tại nước sở tại không đơn giản là họ chỉ có mối quan hệ hợp đồng với

người sử dụng lao động cụ thể mà họ và gia đình của họ sinh sống tại nước sở

tại. Có nhiều mối quan hệ khác phát sinh từ đó có liên quan tới lợi ích của

15

toàn xã hội. Tuy nhiên mục tiêu chủ yếu của họ là việc làm tại một nơi cụ thể

của một người sử dụng lao động cụ thể. Do đó việc gắn kết giữa việc sử dụng

lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của

toàn xã hội là một mục tiêu phải được đặt ra cho hoạt động quản lý lao động

nước ngoài. Mục tiêu này góp phần thiết kế các chính sách và ban hành các

quy tắc pháp luật phù hợp, đồng thời bảo đảm cho sự thi hành các chính sách

và pháp luật liên quan bởi hơn ai hết người sử dụng lao động gần gũi nhất với

người lao động nước ngoài.[25,tr.4]

1.1.2. Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm vệc tại

Việt Nam

Quản lý lao động nước ngoài tại quốc gia sở tại là một phức hợp các mối

quan hệ qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý bởi xuất phát từ

không chỉ nhu cầu của chủ thể quản lý, mà còn từ các nguyên tắc mà chủ thể

quản lý dù không muốn cũng phải tuân thủ vì tính chất của đối tượng quản lý

là những con người có các quyền tự nhiên mà với các quyền đó chủ thể quản

lý không thể vượt qua (quyền con người). Có thể định nghĩa như sau: Pháp

luật quản lý lao động nước ngoài là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước

ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc

Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý là những người nước ngoài nhập

cư vào nước sở tại để làm ăn, sinh sống nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử

dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động

nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã

hội.

Phân tích các nội dung chủ yếu của mô hình quản lý lao động nước

ngoài nêu trên có thể thấy các quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với

các tư nhân là người lao động nước ngoài và người sử dụng lao động nước

16

ngoài. Trong hoạt động quản lý còn cho thấy sự tác động có tính chất định

hướng và hỗ trợ cho mối quan hệ hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao

động và người lao động nước ngoài. Vì vậy các quy tắc pháp luật quản lý lao

động nước ngoài có cả các quy tắc của luật công và các quy tắc của luật tư.

Là một lĩnh vực pháp luật phức hợp như vậy bởi đối tượng điều chỉnh có

nhiều đặc điểm khác biệt, nên phương pháp điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật

này là tổng thể các phương pháp điều chỉnh của cả luật công và luật tư. Điều

đó có nghĩa là: đối với các mối quan hệ tư, phương pháp điều chỉnh chủ yếu

là phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt; còn đối với các mối quan hệ

công, phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh - phục

tùng. Tuy nhiên các quan hệ tư trong lĩnh vực này không thuần túy được điều

chỉnh bởi phương pháp tự do thỏa thuận và tự định đoạt mà lý do chủ yếu là

pháp luật dành sự ưu tiên hơn cho việc kiểm soát lao động nước ngoài. Chẳng

hạn đối với lao động trong nước, người sử dụng lao động có tự do hơn trong

việc giao kết hợp đồng lao động với người lao động; thế nhưng đối với lao

động nước ngoài, người sử dụng lao động bị hạn chế trong việc lựa chọn

người lao động để giao kết hợp đồng lao động. Bản thân người nước ngoài

không có phép lao động khó có thể có được hợp đồng lao động đàng hoàng.

Trong lĩnh vực lao động khi nói tới “quản lý lao động” người ta hiểu đó là

“những hoạt động hành chính quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chính sách

quốc gia về lao động” (Công ước số 150 của ILO, Điều 1, khoản a). Vì vậy dù

có các quy tắc của luật tư trong lĩnh vực pháp luật quản lý lao động nước

ngoài thì phương pháp điều chỉnh của quy tắc đó không thuần khiết là phương

pháp tự do thỏa thuận, tự định đoạt.[25,tr.20-21]

1.1.2.2. Đặc điểm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại

Việt Nam

Thứ nhất, pháp luật về quản lý lao động nước ngoài bị ảnh hưởng khá

17

nhiều và cơ bản bởi các điều ước quốc tế, đồng thời bị ảnh hưởng bởi các

chính sách về lao động của quốc gia. Đối tượng quản lý phức tạp với nhiều

loại khác nhau, đòi hỏi qui chế pháp lý khác nhau và chúng đều được chú ý

bởi pháp luật quốc tế. Do đó nguồn pháp luật quản lý lao động nước ngoài

khá phong phú, có thể bao gồm: (1) Văn bản qui phạm pháp luật như Hiến

pháp, điều ước quốc tế, đạo luật và các văn bản lập pháp ủy quyền; (2) tiền lệ

pháp cả trên bình diện quốc tế và quốc gia; (3) tập quán pháp (cả quốc tế và

cả quốc gia); (4) học thuyết pháp lý; và (5) lẽ công bằng. Các nguồn này là

nơi chứa đựng các qui tắc hay tiêu chuẩn xử sự đối với lao động nước ngoài

nói chung và quản lý lao động nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên là một lĩnh

vực pháp luật dành cho việc quản lý mà luôn luôn gắn chặt với chính sách

trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội, nên các qui tắc hay tiêu chuẩn

chứa đựng trong đó phải được giải thích theo những nguyên tắc phù hợp với

các mục tiêu cụ thể. [24,tr.6]

Thứ hai, pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

phải được xây dựng trên nguyên tắc cơ bản là: bảo đảm an ninh chính trị và trật

tự, an toàn xã hội, bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao

động trong nước, hướng tới các mối quan hệ quốc tế và bảo vệ quyền con người.

Thứ ba, pháp luật quản lý lao động người nước ngoài thể hiện sự tôn

trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài tại Việt

Nam, sự tôn trọng này thể hiện nội dung của pháp luật phải xác định rõ ràng,

chặt chẽ trong các điều luật, trong một văn bản pháp luật và toàn bộ hệ thống

văn bản trong lĩnh vực lao động người nước ngoài. Nếu các quy phạm pháp

luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác thì sẽ tạo ra những kẽ hở

cho sự chuyên quyền, lạm dụng, những hành vi vi phạm pháp luật như tham

nhũng, lãng phí, phá hoại… Như vậy nội dung của pháp luật phải được biểu

hiện bằng ngôn ngữ pháp luật rõ ràng, chính xác dưới hình thức nhất định của

18

pháp luật.

Thứ tư, pháp luật quản lý lao động nước ngoài bảo vệ việc làm cho

người lao động Việt Nam - đây là đặc điểm về pháp luật quan trọng bởi không

phải mọi ngành nghề, mọi công việc đều cần đến lao động nước ngoài. Nếu

không có những thể chế về pháp luật sẽ dẫn đến sử dụng lao động không hợp

lý ở Việt Nam ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển kinh tế.

1.1.2.3. Vai trò của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc

tại Việt Nam

Xét mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước từ học thuyết nhà nước

pháp quyền, có thể thấy pháp luật quản lý lao động nước ngoài có vai trò to

lớn trước hết là thiết lập nên các nguyên tắc quản lý và mô hình quản lý đối

với lao động nước ngoài bởi nhà nước pháp quyền có một hạt nhân lý luận

quan trọng là nhà nước bị ràng buộc bởi pháp luật hay nhà nước chỉ là một

cấu trúc pháp lý. Điều đó có nghĩa là nhà nước và các đạo luật được sinh ra từ

luật gốc (Hiến pháp). Do đó từ nhu cầu quản lý đối với lao động nước ngoài,

người ta xây dựng các đạo luật xác định các nguyên tắc và mô hình quản lý

lao động nước ngoài. Bản thân các nguyên tắc và các mô hình quản lý này

cũng chịu sự chi phối của các điều ước quốc tế, chẳng hạn như trên đã nói các

điều ước đó bao gồm: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm

1948; Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước về các

quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Công ước quốc tế về việc bảo vệ

quyền của tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990…

Cụ thể, Công ước số 150 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thể hiện rõ sự

chi phối của các quy tắc pháp luật tới vấn đề quản lý lao động. Điều 1, khoản

b của Công ước này nhận định: “Thuật ngữ “hệ thống quản lý lao động” bao

gồm mọi cơ quan hành chính quản lý nhà nước có trách nhiệm và/hoặc có

hoạt động quản lý lao động, dù đó là cơ quan ở bộ hoặc các thể chế công

19

cộng, kể cả cơ cấu nửa nhà nước và các cơ quan hành chính khu vực hay địa

phương, hoặc mọi hình thức hành chính phi tập trung khác, cũng như mọi

cấu trúc thể chế được thiết lập nhằm phối hợp các hoạt động của những cơ

quan đó và nhằm thực hiện việc tham khảo ý kiến và sự tham gia của người

sử dụng lao động, người lao động và các tổ chức của họ”. Với quan niệm như

vậy, Công ước này còn ấn định nghĩa vụ cho các quốc thành viên như sau:

“Mọi quốc gia thành viên phê chuẩn Công ước này, theo pháp luật hoặc tập

quán quốc gia, có thể ủy nhiệm hoặc giao phó một vài hoạt động quản lý lao

động cho các tổ chức phi chính phủ, nhất là các tổ chức của người sử dụng lao

động và của người lao động, hoặc khi thích đáng, cho các đại diện của người

sử dụng lao động và của người lao động” (Điều 2). Tóm lại vai trò trước hết

của pháp luật là thiết lập nên các nguyên tắc và mô hình hay hệ thống quản lý

lao động nước ngoài.

Xét mối quan hệ giữa chính sách và trách nhiệm quản lý nhà nước với

pháp luật từ giác độ vai trò sử dụng pháp luật của nhà chức trách cụ thể thì có

thể thấy pháp luật là một công cụ hay phương thức quản lý quan trọng nhất

của chính quyền. Điều đó có nghĩa là từ nhu cầu quản lý lao động nước ngoài,

nhà nước thiết kế chính sách, và thực thi chính sách, cũng như nhiệm vụ quản

lý nhà nước của mình thông qua các quy tắc pháp luật được ban hành phù hợp

với chính sách và các nhiệm vụ quản lý đó. Ở nghĩa này TS. Lưu Bình

Nhưỡng nhấn mạnh tới ban hành các quy định pháp luật về quản lý lao động

nước ngoài như một “phương diện hoạt động chủ yếu” của các cơ quan nhà

nước. Tuy nhiên có thể hiểu Quốc hội hay Nghị viện không phải là cơ quan

quản lý nhà nước, có nghĩa là khi nói tới cơ quan quản lý nhà nước là nói tới

các cơ quan trong bộ máy hành pháp. [24,tr.29]

Vì vậy các quy định pháp luật được các cơ quan quản lý nhà nước ban

hành đều là các văn bản dưới luật hay văn bản lập pháp ủy quyền, tức là việc

20

ban hành các văn bản này với tính cách là một công cụ quản lý nhà nước phải

được luật cho phép. Do đó nói một cách chính xác, các quy tắc pháp luật do

các cơ quan quản lý nhà nước ban hành là công cụ quan trọng của việc quản

lý nhà nước nói chung và của việc quản lý lao động nước ngoài nói

riêng.[24,tr.31]

1.2. Khái quát về thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam

Thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài là quá trình làm cho pháp

luật quản lý lao động nước ngoài được đi vào cuộc sống bằng hành vi hợp pháp

của các chủ thể tham gia trong quá trình quản lý lao động nước ngoài.

LĐNN làm việc tại nước ta thuộc nhiều nhóm thành phần, nhiều quốc

gia, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và loại hình lao động khác

nhau nên đòi hỏi quy chế pháp lý khác nhau và được điều chỉnh bởi quy định

của luật pháp mà quốc gia sở tại tham gia ký kết với quốc gia có lao động

đang làm việc, hoặc trên cơ sở chung của luật pháp quốc tế mà nhóm các

quốc gia cùng tham gia ký kết tuân thủ và áp dụng quy tắc ứng xử phù hợp.

Vì vậy, quản lý lao động nước ngoài phải được thực hiện và áp dụng nhiều

văn bản đa dạng, phức tạp có thể bao gồm văn bản quy phạm pháp luật như

Hiến pháp, điều ước quốc tế, đạo luật và các văn bản lập pháp ủy quyền; Tiền

lệ pháp lý cả trên bình diện quốc tế và quốc gia; Tập quán pháp lý (cả quốc tế

và cả quốc gia); Học thuyết pháp lý; Lẽ công bằng.

Thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt

Nam được thể hiện dưới các hình thức thực hiện như sau:

Tuân thủ pháp luật: các chủ thể tham gia quan hệ do pháp luật về quản lý

lao động nước ngoài điều chỉnh phải kiềm chế không tiến hành những hoạt

21

động mà pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà nước sở tại đã tham gia ký kết

có quy định cấm, yêu cầu này đòi hỏi các chủ thể thực hiện nghĩa vụ một cách

thụ động, thực hiện các quy phạm pháp luật dưới dạng không hành động.

Thi hành pháp luật: các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý

của mình bằng hành động tích cực.

Sử dụng pháp luật: trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ

thể của mình (thực hiện các hành vi mà pháp luật cho phép) thực hiện các

quyền của mình trong khuôn khổ pháp luật và điều ước quốc tế cho phép tại

nước sở tại.

Áp dụng pháp luật: thông qua đó nhà nước thực hiện chức năng quản lý

qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người được giao thực hiện

những quy định của pháp luật, căn cứ vào những quy định của pháp luật để

tạo ra các quy định làm phát sinh thay đổi đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ

pháp luật.

22

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam

1.2.2.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền con người

Tôn trọng quyền con người. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền của

tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990 xác định

phạm vi điều chỉnh của Công ước trên căn bản đặc tính “phổ biến” của quyền

con người như sau: “Công ước này được áp dụng, trừ khi được qui định khác

sau đó, đối với mọi người lao động di trú và các thành viên gia đình họ,

không có bất kỳ sự phân biệt nào như giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ,

tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn

gốc xã hội hoặc dân tộc, quốc tịch, độ tuổi, địa vị kinh tế, tài sản, tình trạng

hôn nhân, thành phần xuất thân và các địa vị khác” (Điều 1). Để khẳng định

cụ thể hơn nữa về quyền con người mà người lao động di trú phải được hưởng

do đặc tính “cơ bản” và đặc tính “phổ biến” của quyền con người, Công ước

này qui định: “Theo các văn kiện quốc tế về quyền con người, các quốc gia

thành viên Công ước này cam kết tôn trọng và bảo đảm cho người lao động di

trú và các thành viên gia đình họ trong lãnh thổ hoặc thuộc quyền tài phán của

mình được hưởng các quyền theo Công ước mà không có bất kỳ sự phân biệt

nào về giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc tín ngưỡng, quan

điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc xã hội hoặc dân tộc, quốc

tịch, độ tuổi, thành phần kinh tế, tài sản, tình trạng hôn nhân, thành phần xuất

thân và địa vị khác” (Điều 7).

Quyền con người hiện nay được xem là trung tâm của đời sống chính trị

hiện đại. Bởi thế Hiến pháp 2013 của Việt Nam dành toàn bộ Chương 2 để

tuyên bố quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Như trên

đã phân tích, đặc điểm số một của quản lý lao động nước ngoài là quá trình

gắn với bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu sắc. Vì vậy tôn trọng

23

quyền con người là nguyên tắc số một của quản lý lao động nước ngoài.

[24,tr.7]

1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội

Hiện trạng trên thế giới người di cư ồ ạt sang châu Âu từ Bắc Phi và

Trung Đông cho thấy nguyên tắc quản lý này có tầm quan trọng đặc biệt. Các

phần tử Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) và các phần tử Hồi giáo cực đoan

khác có thể trà trộn trong dòng người di cư gây mất an ninh chính trị tại các

nước đến. Bên cạnh đó những người nhập cư không còn gì để mất có thể gây

nên tình trạng mất trật tự xã hội khó kiểm soát. Dịch bệnh và các tệ nạn xã hội

khác có thể gia tăng. Do đó việc bảo đảm an toàn cho cộng đồng từ tác hại

xấu của dịch bệnh và tệ nạn cũng là việc không thể bỏ qua trong quản lý lao

động nước ngoài.[24,tr.8]

Lao động nước ngoài bên cạnh những ảnh hưởng hữu ích cho sự phát

triển kinh tế, xã hội, đôi khi gây rắc rối cho các vấn đề an ninh chính trị và

trật tự, an toàn xã hội. Một lực lượng lớn người lao động đến từ quốc gia thù

địch không bao giờ gây sự dễ chịu cho quốc gia sở tại. Thế giới đã chứng kiến

việc có nước sử dụng quân bài ngoại kiều ở nhiều nước khác. Do đó bảo đảm

an ninh chính trị là một vấn đề không thể bỏ qua trong hoạt động quản lý lao

động nước ngoài.

Sự khác biệt về văn hóa, lối sống, cung cách làm ăn, và sự thiếu thốn về

cơ sở vật chất, cũng như sự khác biệt về tâm lý, ngôn ngữ …khiến người lao

động nước ngoài hành xử có thể không phù hợp với các qui tắc về trật tự, an

toàn xã hội của nước sở tại. Có nhiều trường hợp người nước ngoài không

thực hiện đúng các qui định pháp luật về xuất nhập cảnh, pháp luật về cư trú;

đã sinh sống tại các công viên, nơi công cộng, tụ tập buôn bán trái phép trên

vỉa hè, lòng đường…gây mất an ninh trật tự và văn minh đô thị. Nghiêm

trọng hơn, có trường hợp người nước ngoài thực hiện hành vi vi phạm pháp

24

luật hình sự; tuy các cơ quan chức năng đã có biện pháp xử lý, bước đầu có

hiệu quả nhất định, nhưng tình hình vẫn còn diễn biến phức tạp. Điều này cho

thấy sự thiếu quyết đoán và thiếu phương thức quản lý có hiệu quả khó có thể

bảo đảm cho trật tự, an toàn xã hội tại nơi có nhiều lao động nước ngoài sinh

sống. Vì vậy bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là một nguyên tắc không thể

thiếu trong quản lý lao động nước ngoài.

1.2.2.3. Nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho

người lao động Việt Nam

Số lượng lao động nước ngoài gia tăng khiến việc làm cho lao động trong

nước có thể sụt giảm. Như vậy đất nước có thể vướng phải những vấn đề xã

hội. Không ai có thể phủ nhận được rằng sự gia tăng số lượng lao động nước

ngoài làm cho người sử dụng lao động có cơ hội lựa chọn người lao động phù

hợp và thúc đẩy cạnh tranh. Nhu cầu sử dụng lao động có trình độ chuyên môn

bậc cao có thể được đáp ứng và hiệu quả kinh tế có thể được cải thiện.

Ở một số nước lao động nước ngoài bù đắp cho những thiếu hụt về lao

động do dân số già hoặc do lao động trong nước không đủ cho một lĩnh vực

cụ thể nào đó. Tuy nhiên áp lực của các vấn đề xã hội cũng cần phải được giải

quyết. Vì vậy nguyên tắc này là một nguyên tắc không thể bỏ qua trong quản

lý lao động nước ngoài. Nó giúp cho người quản lý luôn luôn chủ động trong

việc bảo đảm hiệu quả kinh tế, đồng thời bảo vệ việc làm cho người lao động

Việt Nam.[24,tr.8]

1.2.2.4. Nguyên tắc tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người

lao động nước ngoài

Là hệ quả tất yếu của nguyên tắc tôn trọng quyền con người, nguyên tắc

này đòi hỏi không thể vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao

động nhập cư. Không phân biệt đối xử giữa người lao động nước ngoài và

người lao động trong nước là vấn đề mà đã được Công ước số 97 và Công

25

ước số 143 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) qui định. Điều đó có nghĩa là

quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài phải được tôn trọng

như quyền và lợi ích hợp pháp của lao động trong nước. [24,tr.8]

1.2.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về quản lý lao động

nước ngoài làm việc tại Việt Nam

1.2.3.1. Yếu tố kinh tế

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt nam trở thành

thành viên của WTO, hiện nay cùng ASEAN xây dựng một cộng đồng chính

trị - kinh tế - xã hội chung thì việc dần dần phải loại bỏ các rào cản, tiến tới

mở rộng thị trường lao động là xu hướng không thể tránh khỏi. Vì thế, chúng

ta không nên có thái độ cực đoan khi nhìn nhận hiện tượng người lao động

nước ngoài. Nếu nước ta có 83.585 lao động nước ngoài đang làm việc (tính

đến 31/12/2015) thì hàng năm cũng có bằng ấy người Việt sang nước ngoài

làm việc theo thỏa thuận của Chính phủ với các quốc gia. Vì vậy, phải khẳng

định rằng, nhu cầu sử dụng LĐNN có trình độ chuyên môn cao hoặc có kỹ

năng đặc biệt (ví dụ như các cầu thủ bóng đá) là nhu cầu tự thân của nền kinh

tế - xã hội nước ta, hiện nay các tổ chức có yếu tố quốc tế như ngân hành, du

lịch, khoa học công nghệ... tại Việt Nam phần lớn vẫn do những người nước

ngoài đảm nhận. Như vậy, chính sách đối với người nước ngoài làm việc tại

Việt Nam cần đặt trong chiến lược tổng thể phát triển nguồn lực quốc gia.

Một mặt, cần có cơ chế khuyến khích, chào đón những nhân sự có đẳng cấp

quốc tế gia nhập thị trường lao động Việt Nam. Mặt khác, cần hình thành

"một bộ lọc tốt để những lao động phổ thông chất lượng thấp không thể thẩm

thấu vào thị trường nội địa". Điều quan trọng hơn nhiều là chúng ta phải tìm

cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Làm sao để người lao

động Việt Nam không chỉ đứng vững ở thị trường nhân lực trong nước mà

còn có thể đứng vững cả trên thị trường nhân lực quốc tế.[9]

26

* Hội nhập kinh tế và vấn đề lao động di cư đến Việt Nam

Khi là thành viên của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường lao động,

do đó, người lao động nước ngoài tự do vào Việt Nam là việc. Người lao

động nước ngoài vào Việt Nam làm việc vừa có tác động thúc đẩy phát triển,

vừa có tác động tiêu cực. Cụ thể:

Tác động tích cực:

Một là, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng

suất lao động xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Là nước đang

phát triển, Việt Nam đứng trước thực tế là thiếu nhân lực có trình độ cao trong

một số ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là nhóm kỹ thuật viên trong một số

ngành kinh tế kỹ thuật, và quản trị viên cao cấp ở cấp độ doanh nghiệp cũng

như cấp ngành thiếu hụt nghiêm trọng. Việt Nam trở thành thành viên chính

thức của WTO tạo điều kiện cho lao động nước nước ngoài đến Việt Nam làm

việc đã góp phần bù đắp thiếu hụt nói trên. Mặt khác, với nguồn nhân lực chất

lượng cao góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và do đó thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế với mức độ cao.

Hai là, tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư nước

ngoài vào Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với việc đưa vốn và

công nghệ cao vào Việt Nam, họ có nhu cầu sử dụng lao động với trình độ

tương ứng. Là thành viên WTO, nguồn nhân lực trình độ cao từ nước ngoài

được tự do đến làm việc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước

ngoài trong việc tuyển dụng lao động trình độ cao. Đây cũng chính là việc

tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy

kinh tế tăng trưởng.

Ba là, tạo môi trường cạnh tranh giữa lao động Việt Nam với lao động

nước ngoài. Trong điều kiện thị trường lao động mới hình thành và phát triển,

lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc sẽ tạo ra nguồn cung lao động

27

cho thị trường. Chính điều này đã thúc đẩy lao động cạnh tranh trên thị trường

góp phần nâng cao chất lượng lao động. Thông qua cạnh tranh, người lao

động phải tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp và ngoại ngữ. Kết

quả là làm cho chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao.

Bốn là, góp phần đào tạo nhân lực tại chỗ theo tương tác thẩm thấu. Khi

người lao động nước ngoài làm việc cùng với lao động Việt Nam, thông qua

tiếp xúc hàng ngày, người lao động Việt Nam có thể học tập trực tiếp về

ngoại ngữ, phong cách, kỹ thuật, kỹ xảo nhằm tự hoàn thiện và nâng cao trình

độ của mình.

Tác động tiêu cực:

Một là, làm giảm thu nhập trung bình trong tổng thu nhập quốc gia.

Người lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc họ có thu nhập và được

chuyển về nước phần thu nhập còn lại. Chính điều này làm giảm thu nhập

trung bình trong tổng thu nhập quốc gia.

Hai là, du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai không phù hợp với thuần

phong, mỹ tục của người Việt, làm sai lệch các chuẩn mực đạo đức, văn hoá

truyền thống. Người lao động nước ngoài vào Việt Nam làm việc, họ mang

theo văn hoá của dân tộc và đất nước họ. Cùng với những yếu tố văn minh,

hiện đại; đồng thời họ cũng mang theo lối sống, văn hoá độc hại không phù

hợp với thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam.

Như vậy, di chuyển lao động quốc tế ở Việt Nam vừa có tác động tích

cực vừa có tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Với vai trò

của mình, Nhà nước cần phải đưa ra các công cụ pháp lý, các chính sách cụ

thể nhằm tận dụng tối đa tác động tích cực, hạn chế tối thiểu tác động ngoài

mong muốn.[31]

1.2.3.2. Yếu tố chính trị - hành chính

- Đảm bảo an ninh, chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc

28

Có thể nói, đây là mục tiêu hàng đầu của công tác quản lý nhà nước về

an ninh, trật tự đối với người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay,

bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều đặt vấn đề an ninh, chủ quyền, lợi

ích quốc gia lên trên hết. Thời gian qua, hoạt động của người nước ngoài tại

Việt Nam bên cạnh những mặt tích cực cũng xuất hiện nhiều phức tạp liên

quan đến an ninh, trật tự. Chúng ta thấy, vấn đề nhà đầu tư nước ngoài vào

nước ta hoạt động lừa đảo, lợi dụng “chuyển giá” để trốn thuế, thâu tóm các

liên doanh Việt Nam đã gây thiệt hại rất lớn về kinh tế Việt Nam; hay vấn đề

người Trung Quốc đủ các loại thành phần phức tạp hoạt động tại các dư án,

nhiều dự án do Trung Quốc, Đài Loan đầu tư đã lập thành những “đặc khu”

gây không ít vấn đề nhức nhối về an ninh, trật tự đặc biệt là tại các địa bàn

chiến lược về an ninh, quốc phòng. Tất cả các hoạt động đó đều tác động trực

tiếp đến an ninh, chủ quyền đất nước, lợi ích quốc gia dân tộc cả trước mắt

cũng như lâu dài. Thông qua công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối

với người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam sẽ góp phần ngăn chặn, loại bỏ

được những tác động tiêu cực đó.

* Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài tại Việt Nam

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài là một công tác có vai trò tiền đề, là yếu tố tác động trực tiếp đến nhận

thức, hành động của cơ quan quản lý lao động nước ngoài, cơ quan sử dụng

lao động nước ngoài và bản thân người lao động nước ngoài tại Việt Nam.

Trong thời gian qua công tác này đã được triển khai đến các cơ quan có

chức năng quản lý lao động nước ngoài, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng lao

động nước ngoài và bản thân người lao động tại Việt Nam bằng nhiều hình

thức như: tổ chức tập huấn, tuyên truyền, giải thích pháp luật tại các cơ quan

có chức năng trợ giúp......Tuy nhiên kết quả đạt được chưa cao, sự khác biệt

29

về ngôn ngữ là rào cản rất lớn trong việc thực hiện công tác tuyên truyền phổ

biến pháp luật cho lao động nước ngoài tại Việt Nam.

* Công tác phối hợp chỉ đạo thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài

tại Việt Nam

Như đã nêu trên, đặc điểm của pháp luật về lao động nước ngoài tại Việt

Nam liên quan tới nhiều ngành, tất cả các địa phương và nhiều quan hệ lao

động. Để bảo đảm cho một người lao động nước ngoài vào làm việc tại một

nước nên công tác phối hợp chỉ đạo giữa các ngành, các địa phương trong

thực hiện pháp luật về lao động nước ngoài được đặt lên hàng đầu, sự phối

hợp tốt giữa các ngành, các địa phương sẽ tạo hiệu lực nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật về lao động nước ngoài, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tránh

chồng chép, đùng đẩy trách nhiệm giữa các ngành, các địa phương trong các

lĩnh vực có liên quan.

* Nhận thức về quyền và nghĩa vụ của người lao động nước ngoài về

chính sách, pháp luật của Việt Nam

Đối với lao động là người nước ngoài việc nhận thức về quyền và nghĩa

vụ của bản thân khi tham gia lao động tại nước sở tại là một yêu cầu quan

trọng không chỉ giúp họ hiểu về quyền, nghĩa vụ theo pháp luật quy định để

tuân thủ thực hiện mà còn hiểu được những quyền cơ bản để bảo vệ chính

mình trong quá trình lao động liên quan đến sức khỏe, tính mạng, bảo

hiểm...Tuy nhiên trong thực tiễn, đối với người nước ngoài làm việc cho các

hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam (người sử

dụng lao động nước ngoài) thì thông thường, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ

được xác định theo pháp luật của quốc gia mà doanh nghiệp đó hoạt động,

nếu hai bên không có thỏa thuận luật áp dụng trong hợp đồng lao động. Đây

là những người đã ký hợp đồng lao động với doanh nghiệp ở nước ngoài, theo

luật nước ngoài. Sau đó, họ chỉ đến Việt Nam làm việc theo hình thức di

30

chuyển nội bộ trong doanh nghiệp. Do đó, các quy định của Bộ luật Lao động

Việt Nam, về nguyên tắc, sẽ không được áp dụng cho những đối tượng lao

động này. Đồng thời, trong một số lĩnh vực khác liên quan như bảo hiểm xã

hội, công đoàn…thì họ đương nhiên có quyền tham gia bảo hiểm ở nước

ngoài và là thành viên của công đoàn ở quốc gia mà doanh nghiệp nước ngoài

đó hoạt động, mặc dù họ đang lao động trên lãnh thổ Việt Nam.

Ngược lại, đối với người nước ngoài làm việc cho người sử dụng lao

động Việt Nam thì địa vị pháp lý của họ trong lĩnh vực lao động sẽ được điều

chỉnh bởi Bộ luật Lao động Việt Nam và các quy định khác của pháp luật

Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Nói cách khác, trong trường

hợp này, các quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam như thời giờ làm việc,

thời giờ nghỉ ngơi, an toàn lao động và vệ sinh lao động, kỷ luật lao động,

trách nhiệm vật chất…của Bộ luật Lao động Việt Nam đều sẽ được áp dụng

cho người nước ngoài theo chế độ đối xử quốc gia. Tuy nhiên, đối với các quy

định liên quan đến công đoàn và bảo hiểm xã hội thì chế độ đối xử quốc gia

nêu trên chưa được áp dụng.

* Nhận thức của lãnh đạo và hoạt động của cơ quan xúc tiến tại địa phương

Tư tưởng nhận thức và thái độ của lãnh đạo địa phương cũng là yếu tố

tác động mạnh đến thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài vào địa

phương đó. Nếu lãnh đạo nhận thức được vai trò của lao động nước ngoài thì

sẽ quan tâm, chỉ đạo, có những ưu tiên, tạo môi trường thuận lợi, chủ động

trong việc tìm đối tác đầu tư nước ngoài phù hợp để thu hút được lao động

nước ngoài vào làm việc, đóng góp cho sự phát triển của địa phương. Đồng

thời, thực hiện đúng các quy định và trình tự mang tính pháp lý về quản lý lao

động nước ngoài tại địa phương.

31

1.2.3.3. Yếu tố pháp lý

Lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam phải có đủ

các điều kiện sau đây:

- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

- Có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu cầu

công việc;

- Không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự

theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài;

- Có giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam

cấp, trừ các trường hợp theo quy định tại Điều 172 của Bộ Luật lao động.[14]

- Lao động là công dân nước ngoài vào Việt Nam phải tuân theo pháp

luật lao động Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy

định khác và được pháp luật Việt Nam bảo vệ.

1.2.3.4. Yếu tố truyền thống lịch sử, giao lưu, tiếp biến văn hóa, xã hội

Bên cạnh các phương tiện điều chỉnh quan hệ xã hội mang tính quy

phạm như pháp luật, đạo đức, tập quán, luật tục; luật lệ tôn giáo… hành vi và

các mối quan hệ của con người còn chịu sự điều chỉnh của các phương tiện

điều chỉnh không mang tính quy phạm. Đó là các phương tiện như lương tâm,

chính trị, văn hoá, nghệ thuật, thẩm mỹ, tư tưởng, khoa học; công nghệ, thông

tin trên các phương tiện thông tin đại chúng; tính cách, khí hậu, thời tiết...

chúng có vai trò đặc biệt to lớn trong việc điều chỉnh ý thức, hành vi của con

người. Mặc dù văn học nghệ thuật không được thể hiện thành “điều”,

“khoản”, không có cái gọi là “chế tài”, song trên thực tế lại có vai trò rất to

lớn, có thể dẫn dắt con người theo nhiều cách xử sự, hướng thiện, hướng ác

hay trung lập; cùng chiều hoặc ngược chiều với luật pháp và đạo đức xã hội.

Đặc điểm của pháp luật về lao động nước ngoài ở Việt Nam là một quá

trình gắn bó chặt chẽ với việc bảo vệ quyền con người và có tính quốc tế sâu

32

sắc. Mỗi một quốc gia có truyền thống lịch sử, văn hóa khác nhau, khi đến

Việt Nam họ mang theo những truyền thống lịch sử tốt đẹp, những nét đẹp

văn hóa truyền thống phù hợp với nước ta đáng để người Việt Nam học tập,

tiếp thu và tôn trọng.

1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc

tại Việt Nam

1.3.1. Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước

ngoài làm việc tại Việt Nam

Bộ Luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định rõ đối

tượng, tiêu chuẩn và điều kiện người nước ngoài làm việc tại Việt Nam cụ thể

như sau:

* Về đối tượng:

Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam là công dân nước

ngoài vào làm việc tại Việt Nam theo các hình thức sau: Thực hiện hợp đồng

lao động; di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp; thực hiện các hợp đồng hoặc

thỏa thuận về kinh tế, thương mại tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học

kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, dạy nghề và y tế; nhà cung cấp dịch vụ

theo hợp đồng; chào bán dịch vụ; làm việc cho tổ chức phi chính phủ nước

ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam được phép hoạt động theo quy định của

pháp luật Việt Nam; tình nguyện viên; người chịu trách nhiệm thành lập hiện

diện thương mại; nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia, lao động kỹ

thuật; tham gia thực hiện các gói thầu, dự án tại Việt Nam.

Người sử dụng lao động nước ngoài bao gồm: doanh nghiệp hoạt động

theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hoặc theo điều ước quốc tế mà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nhà thầu (nhà thầu chính,

nhà thầu phụ) nước ngoài hoặc trong nước tham dự thầu, thực hiện hợp đồng;

Văn phòng đại diện, chi nhánh của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức được cơ

33

quan có thẩm quyền cấp phép thành lập; Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Tổ chức phi chính phủ nước ngoài, tổ chức

quốc tế tại Việt Nam; Tổ chức sự nghiệp được thành lập theo quy định của

pháp luật; Văn phòng của dự án nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế tại Việt

Nam; Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng hợp

tác kinh doanh hoặc của nhà thầu nước ngoài được đăng ký hoạt động theo

quy định của pháp luật; Các tổ chức hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy

định của pháp luật; Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động

theo Luật Hợp tác xã; Hội, hiệp hội doanh nghiệp được thành lập theo quy

định của pháp luật; Hộ kinh doanh, cá nhân được phép hoạt động kinh doanh

theo quy định của pháp luật.

* Về tiêu chuẩn:

Một là, về nhân thân: phải có đủ các điều kiện sau: có năng lực hành vi

dân sự đầy đủ; có trình độ chuyên môn, tay nghề và sức khỏe phù hợp với yêu

cầu công việc; không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm

hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài; có

giấy phép lao động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp,

trừ trường hợp pháp luật qui định không thuộc diện cấp phép lao động.

Hai là, lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam phải tuân

theo pháp luật lao động Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên có quy định khác hoặc được pháp luật Việt Nam bảo vệ.

* Về điều kiện tuyển dụng:

Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu trong nước chỉ được

tuyển lao động là công dân nước ngoài vào làm công việc quản lý, giám đốc

điều hành, chuyên gia và lao động kỹ thuật mà lao động Việt Nam chưa đáp

ứng được theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh.

34

Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhà thầu nước ngoài trước khi

tuyển dụng lao động là công dân nước ngoài vào làm việc trên lãnh thổ Việt

Nam phải giải trình nhu cầu sử dụng lao động và được sự chấp thuận bằng

văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

1.3.2. Thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho người

nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số

40/2016/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn thi hành một số điều

của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành

một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt

Nam. Theo đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện theo thẩm

quyền đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn người sử

lao động (trừ nhà thầu) trước ít nhất 30 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng

người lao động nước ngoài phải gửi báo cáo giải trình về nhu cầu sử dụng đến

Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Trường hợp có thay đổi nhu cầu sử dụng người lao

động nước ngoài thì người sử dụng lao động gửi báo cáo giải trình thay đổi

trước ít nhất 30 ngày kể từ ngày dự kiến sử dụng người lao động nước ngoài.

Cơ quan chấp thuận (UBND cấp tỉnh) thông báo việc chấp thuận sử dụng

người lao động nước ngoài tới người sử dụng lao động trong thời hạn 15 ngày

kể từ ngày nhận được báo cáo.

1.3.3 Thực hiện quy định về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao

động, việc sử dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại

Việt Nam

Người lao động là công dân nước ngoài phải xuất trình giấy phép lao

động khi làm các thủ tục liên quan đến xuất cảnh, nhập cảnh và xuất trình

theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công dân nước ngoài vào

làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động sẽ bị trục xuất khỏi lãnh

35

thổ Việt Nam theo quy định của Chính phủ. Người sử dụng lao động là công

dân nước ngoài mà không có giấy phép lao động làm việc thì bị xử lý theo

quy định của pháp luật.

Pháp luật cũng quy định một số trường hợp công dân nước ngoài làm

việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động gồm:

Là thành viên góp vốn hoặc là chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu

hạn; Là thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần; Là Trưởng văn

phòng đại diện, dự án của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt

Nam; Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch

vụ ; Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý những sự cố, tình

huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ

ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các

chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được; Là luật sư

nước ngoài đã được cấp giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy

định của Luật luật sư; Theo quy định của Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Là học sinh, sinh viên học tập tại Việt

Nam làm việc tại Việt Nam nhưng người sử dụng lao động phải báo trước 07

ngày với cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.

Di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ

trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới,

bao gồm: kinh doanh, thông tin, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường,

tài chính, y tế, du lịch, văn hóa giải trí và vận tải.

Tình nguyện viên có xác nhận của cơ quan đại diện ngoại giao nước

ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Thân nhân thành viên cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam làm việc

sau khi được Bộ Ngoại giao cấp phép, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.

36

* Trình tự thủ tục cấp giấy phép lao động: .

Điều kiện cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài thì người nước

ngoài đó phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật,

có sức khỏe phù hợp với yêu cầu công việc. Là nhà quản lý, giám đốc điều

hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật. Không phải là người phạm tội hoặc

bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và

pháp luật nước ngoài và phải được chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền về việc sử dụng người lao động nước ngoài. [14,tr2-3]

Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động bao gồm: Văn bản đề nghị cấp

giấy phép lao động của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ Lao

động - Thương binh và Xã hội; Giấy chứng nhận sức khỏe hoặc giấy khám

sức khỏe do cơ quan, tổ chức y tế có thẩm quyền của nước ngoài hoặc của

Việt Nam cấp có giá trị trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày ký kết luận sức

khỏe đến ngày nộp hồ sơ; Phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người

lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự của nước ngoài cấp. Trường hợp người lao động nước ngoài đã

cư trú tại Việt Nam thì chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp do Việt Nam cấp có giá

trị không quá 06 tháng, kể từ ngày cấp đến ngày nộp hồ sơ; Văn bản chứng

minh là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật;

02 ảnh mầu (kích thước 4cm x 6cm, phông nền trắng, mặt nhìn thẳng, đầu để

trần, không đeo kính màu), ảnh chụp không quá 06 tháng tính đến ngày nộp

hồ sơ; Bản sao có chứng thực hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu

hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế còn giá trị theo quy định của pháp luật;

Các giấy tờ liên quan đến người lao động nước ngoài; Hợp pháp hóa lãnh sự,

chứng thực các giấy tờ.

37

Pháp luật quy định thời hạn của giấy phép lao động được cấp cho người

lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam không quá 02 năm theo quy

định.

Trình tự cấp giấy phép được pháp luật quy định rất cụ thể như sau:

Trước ít nhất 15 ngày làm việc, kể từ ngày người lao động nước ngoài dự kiến

bắt đầu làm việc cho người sử dụng lao động thì người sử dụng lao động đó

phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động cho Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc. Trong thời

hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao

động, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy phép lao động cho

người lao động nước ngoài theo mẫu do Bộ Lao động - Thương binh và Xã

hội quy định. Trường hợp không cấp giấy phép lao động thì có văn bản trả lời

và nêu rõ lý do. Đối với người lao động nước ngoài thực hiện hợp đồng lao

động, sau khi người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động thì

người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài phải ký kết hợp đồng

lao động bằng văn bản theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam trước

ngày dự kiến làm việc cho người sử dụng lao động. Trong thời hạn 05 ngày

làm việc, kể từ ngày ký kết hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải

gửi bản sao hợp đồng lao động đã ký kết tới Sở Lao động - Thương binh và

Xã hội đã cấp giấy phép lao động đó.

* Trình tự thủ tục cấp lại giấy phép:

Cấp lại giấy phép lao động được thực hiện khi: bị mất, hỏng, thay đổi nội

dung ghi trên giấy phép lao động (họ, tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số

hộ chiếu, địa điểm làm việc); giấy phép lao động hết hạn, yêu cầu giấy phép

phải còn thời hạn ít nhất 5 ngày, nhưng không quá 45 ngày trước ngày giấy

phép lao động đã được cấp hết hạn.

38

Hồ sơ đề nghị cấp lại giấy phép lao động: Văn bản đề nghị cấp lại giấy

phép lao động của người sử dụng lao động theo quy định của Bộ Lao động -

Thương binh và Xã hội; 02 ảnh mầu (kích thước 4cm x 6cm, phông nền trắng,

mặt nhìn thẳng, đầu để trần, không đeo kính màu), ảnh chụp không quá 06

tháng tính đến ngày nộp hồ sơ; Giấy phép lao động đã được cấp, Trường hợp

giấy phép lao động bị mất thì phải có xác nhận của cơ quan Công an cấp xã

của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo quy định của

pháp luật, Trường hợp thay đổi nội dung ghi trên giấy phép lao thì phải có các

giấy tờ chứng minh.

Trình tự cấp lại giấy phép lao động: Trường hợp cấp lại giấy phép lao

động trước ít nhất 05 ngày nhưng không quá 45 ngày trước ngày giấy phép

lao động hết hạn, người sử dụng lao động phải nộp hồ sơ đề nghị cấp lại giấy

phép lao động cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép

lao động đó. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề

nghị cấp lại giấy phép lao động, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp lại

giấy phép lao động. Trường hợp không cấp lại giấy phép lao động thì có văn

bản trả lời và nêu rõ lý do.

Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại:

Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại trong trường hợp bị mất,

bị hỏng hoặc thay đổi nội dung ghi trong giấy phép lao động thì thời hạn bằng

thời hạn của giấy phép lao động đã được cấp trừ đi thời gian người lao động

nước ngoài đã làm việc tính đến thời điểm đề nghị cấp lại giấy phép lao động.

Thời hạn của giấy phép lao động được cấp lại khi còn thời hạn ít nhất 5

ngày nhưng không quá 45 ngày theo thời hạn của một trong các trường hợp

quy định như đã nêu trên nhưng không quá 02 năm.

Các trường hợp phải thu hồi giấy phép lao động:

39

Giấy phép lao động hết thời hạn.; Chấm dứt hợp đồng lao động; Nội

dung của hợp đồng lao động không đúng với nội dung của giấy phép lao động

đã được cấp; Hợp đồng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, tài chính, ngân

hàng, bảo hiểm, khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế hết thời

hạn hoặc chấm dứt.

Trình tự thủ tục thu hồi: đối với trường hợp giấy phép lao động hết hiệu

lực theo quy định của pháp luật như đã nêu trên thì người sử dụng lao động

thu hồi giấy phép lao động của người lao động nước ngoài để nộp lại Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động đó; đối với trường

hợp giấy phép lao động bị thu hồi do vi phạm quy định của pháp luật thì Giám

đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cấp giấy phép lao động ra quyết

định thu hồi và thông báo cho người sử dụng lao động để thu hồi giấy phép

lao động của người lao động nước ngoài và nộp lại Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản xác nhận đã

thu hồi giấy phép lao động gửi người sử dụng lao động.

Người nước ngoài đã có giấy phép lao động tại Việt Nam phải tuân thủ

các quy định về sử dụng và quản lý như sau: Người nước ngoài có trách

nhiệm giữ giấy phép lao động đã được cấp khi giấy phép đang còn hiệu lực;

Người nước ngoài phải xuất trình giấy phép lao động khi làm các thủ tục liên

quan đến lĩnh vực xuất nhập cảnh và xuất trình theo yêu cầu của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền.

1.3.4. Thực hiện quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà

nước trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Chủ tịch UBND tỉnh có văn bản chấp thuận cho người sử dụng lao động

về việc sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc. Sở

Lao động – TB&XH có trách nhiệm hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ cấp

giấy phép lao động cho người nước ngoài. Đồng thời, UBND tỉnh chỉ đạo,

40

đôn đốc, thanh tra và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về

người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Sở Tư pháp có trách nhiệm cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước

ngoài nếu đã định cư ở Việt Nam trên 6 tháng.

Công an tỉnh hướng dẫn việc cấp thị thực cho người nước ngoài liên

quan đến việc cấp, cấp lại giấy phép lao động; xác nhận không thuộc diện cấp

giấy phép lao động. Định kỳ hàng quý cung cấp thông tin về người lao động

nước ngoài được cấp thị thực vào làm việc cho cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp cho Sở Lao động-Thương binh và Xã hội.

Sở Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn về lệ phí cấp, cấp lại giấy phép

lao động. [14,tr15]

1.3.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, xử lý vi phạm liên quan tới

người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Hằng quý, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với cơ quan

Công an và các cơ quan có liên quan kiểm tra tình hình thực hiện các quy

định của pháp luật Việt Nam đối với người lao động nước ngoài làm việc tại

các gói thầu do nhà thầu trúng thầu trên địa bàn thực hiện.

Bên cạnh đó, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực người

lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam: Điều 22 Nghị định số

95/2013/NĐ- CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động

Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định xử phạt vi phạm

hành chính đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam vi phạm pháp luật

với các hình thức: Trục xuất, phạt tiền và một số hình thức xử phạt bổ sung:

Đình chỉ hoạt động của doanh nghiệp từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành

vi vi phạm của người sử dụng lao động nước ngoài không có giấy phép.

41

1.4. Kinh nghiệm thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài

tại một số địa phương và bài học đối với tỉnh Quảng Ngãi

1.4.1.Kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài tại một số địa

phương

1.4.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Trà Vinh

Trà Vinh là vùng lãnh thổ ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long, miền

Nam Việt Nam. Đặc khu hành chính là thành phố Trà Vinh, nằm trên Quốc lộ

53, cách Thành phố Hồ Chí Minh gần 200 km và cách thành phố Cần

Thơ 100 km.

Năm 2015, tăng trưởng GDP từ 13,5%. Trong đó, giá trị nông

nghiệp tăng 2%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 9%, công nghiệp tăng

15%, xây dựng tăng 27,3% và dịch vụ tăng 20%.

Thu nhập bình quân đầu người đạt 19,325 triệu đồng, tương đương

920 USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, tăng 15,4% so với

năm 2011. Thu ngân sách 827 tỷ đồng, tăng 27,2% so năm 2014. Tổng chi

ngân sách 4.169 tỷ đồng. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội 8.700 tỷ đồng.

Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới

cho 22.000 lao động, trong đó có 200 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ

lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 35%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo

3%, trong đồng bào dân tộc Khmer 4%.

Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài

trên địa bàn như:

Thời gian qua, cơ quan chức năng của địa phương đã kiểm tra và phát

hiện có sai phạm trong việc sử dụng lao động nước ngoài tại các doanh

nghiệp và ở công trường xây dựng nhà máy nhiệt điện Duyên Hải, nhưng

chưa xử phạt trường hợp nào, nên tính răn đe không cao. Trong khi các tỉnh

khác áp dụng các biện pháp xử phạt doanh nghiệp và nhà thầu vi phạm trong

42

việc sử dụng lao động người nước ngoài như: xử phạt nhà thầu nước ngoài tại

dự án Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 10 triệu đồng, dự án tổ hợp khai thác

bauxite Tây Nguyên 45 triệu đồng, vụ phạt 13 doanh nghiệp sử dụng lao động

nước ngoài trái phép tại 4 tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Tây Ninh, Đồng Nai

với tổng cộng 95,5 triệu đồng. Bên cạnh đó, cũng đã có những hình thức như

yêu cầu xuất cảnh với những trường hợp nhập cảnh trái phép, hoặc sử dụng

hộ chiếu công vụ sai mục đích.

Thời gian tới nên siết chặt quản lý lao động người nước ngoài tại Việt

Nam nói chung và tại tỉnh Trà Vinh nói riêng, với các giải pháp như sau:

- Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức của chủ sử dụng

lao động, yêu cầu các đơn vị, bộ phận quản lý lao động hướng dẫn cụ thể hơn

nữa việc tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài cho các doanh nghiệp,

nhà thầu hoạt động trên địa bàn tỉnh.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và cương quyết xử lý nghiêm

túc khi phát hiện doanh nghiệp, nhà thầu vi phạm trong việc sử dụng lao động

người nước ngoài, để đảm bảo công tác quản lý lao động người nước ngoài

chặt chẽ và hiệu quả hơn .

- Trong công tác thực hiện Quản lý lao động người nước ngoài tăng

cường phối hợp, thường xuyên trao đổi thông tin liên quan đến quản lý xuất,

nhập cảnh, cấp và gia hạn thị thực, đăng ký tạm trú và cấp giấy phép lao

động; phối hợp tổ chức các hoạt động trong việc quản lý người nước ngoài,

giải quyết và xử lý đối với các trường hợp không thực hiện đúng quy định của

pháp luật.

- Các Sở, ban ngành có liên quan thực hiện nghiêm túc nội dung Công

văn số 3178/LĐTBXH-VL ngày 23/9/2011 của Bộ Lao động Thương Binh và

Xã hội về việc tăng cường công tác quản lý người nước ngoài làm việc tại

Việt Nam.

43

1.4.1.2. Kinh nghiệm của tỉnh Nghệ An

Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung

Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà

Nội 291 km về phía nam. Hiện nay ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung

phát triển ở 3 khu vực là Vinh - Cửa Lò gắn với Khu kinh tế Đông Nam, Khu

vực Hoàng Mai và khu vực Phủ Quỳ. Phấn đấu phát triển nhiều ngành công

nghiệp có thế mạnh như các ngành chế biến thực phẩm - đồ uống, chế biến

thuỷ hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ

nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy...Trong

bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm

2015, tỉnh Nghệ An xếp ở vị trí thứ 28/63 tỉnh thành. GDP 2015đạt gần 8%

Thu nhập bình quân đầu người 2015 đạt 29 triệu đồng/ người /năm. Với sự

tăng trưởng ngày càng mạnh, Nghệ An ngày càng thu hút các nhà đầu tư và

lao động nước ngoài vào kinh doanh và lao động tại tỉnh.

Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài

Nhìn chung, người nước ngoài đến Nghệ An đều chấp hành tốt chủ

trên địa bàn như:

trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam và các quy định của địa phương.

Tuy nhiên, vẫn còn một số cá nhân, tổ chức nước ngoài, nhất là thành viên

các tổ chức phi chính phủ (NGO), nhân viên các cơ quan đại diện ngoại

giao... đến Nghệ An hoạt động không đúng chương trình, như: thay đổi thành

phần, chương trình làm việc không thông báo trước; đi sâu tìm hiểu các vấn

đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội; tuyên truyền những chính sách, đời

sống, các giá trị theo kiểu các nước phương Tây, ủng hộ vật chất cho các đối

tượng cực đoan, chống đối trên địa bàn; một số trường hợp vi phạm quy chế

xuất nhập cảnh hoặc có các hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam.

44

Trong lúc công tác quản lý nhà nước về người nước ngoài vẫn còn một

số tồn tại, hạn chế, như: một số sở, ban, ngành chưa thực sự quan tâm đến

công tác quản lý người nước ngoài; công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành

liên quan còn thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời; công tác quản lý người nước

ngoài, nhất là tại các vùng đặc thù còn gặp nhiều khó khăn...; để kịp thời chấn

chỉnh những tồn tại nêu trên và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước

về xuất cảnh, nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài trên địa bàn, UBND

tỉnh yêu cầu.

Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam thuộc đồng bằng sông

1.4.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh

Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Bắc Ninh tiếp giáp với

vùng trung du Bắc bộ tại tỉnh Bắc Giang. Thành phố Bắc Ninh nằm cách

trung tâm Hà Nội 30 km về phía đông bắc, phía tây và tây nam giáp thủ đô Hà

Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải

Dương, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Năm 2015, tổng thu NSNN trên địa

bàn đạt 15.050 tỷ đồng, bằng 107,5% dự toán, bằng 118,7% so với năm 2014.

Trong đó, thu nội địa ước đạt 10.035 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập

khẩu đạt 4.540 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện là

13.394 tỷ đồng, bằng 146% so với dự toán; trong đó chi đầu tư phát triển ước

thực hiện trên 3.784 tỷ đồng. Việc đầu tư từ vốn ngân sách tỉnh đã góp phần

lớn trong việc xây mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống giao thông, hỗ trợ đầu tư

xây dựng hạ tầng nông thôn và các dự án trọng điểm.

Với sự tăng trưởng ngày càng mạnh, Bắc Ninh ngày càng thu hút các nhà

đầu tư và lao động nước ngoài vào kinh doanh và lao động tại tỉnh.

Những năm gần đây, số lượng lao động là người nước ngoài vào Bắc

Ninh làm việc tăng nhanh cùng sự phát triển của các khu, cụm công nghiệp.

Tuy nhiên, việc quản lý cư trú đối với số lao động này như thế nào để vừa bảo

45

đảm hiệu suất doanh nghiệp vừa ổn định an ninh xã hội là vấn đề thực sự bức

thiết, đòi hỏi các cấp, ngành chức năng, doanh nghiệp, chính quyền các địa

phương phải có sự phối hợp chặt chẽ.

Hiện toàn tỉnh có khoảng 300 doanh nghiệp sử dụng lao động là người

nước ngoài (chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với gần

5.000 lao động là người nước ngoài đang làm việc trong các khu công nghiệp.

Ngoài ra còn có 75 doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp đăng ký sử dụng gần

300 lao động là người nước ngoài với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội,

đơn vị quản lý Nhà nước về lao động là người nước ngoài. Con số này biến

động theo từng tháng, từng năm nên việc quản lý không hề đơn giản.

Tỉnh đã có nhiều bài học kinh nghiệm trong quản lý lao động nước ngoài

trên địa bàn như:

Vẫn tồn tại một số hành vi vi phạm cần có biện pháp ngăn chặn, xử lý

kịp thời. Các hành vi vi phạm chủ yếu ở một số doanh nghiệp sử dụng lao

động là người Trung Quốc. Các doanh nghiệp này thường đưa lao động vào

làm việc trái quy định của pháp luật, chỉ khi bị kiểm tra, phát hiện mới tiến

hành làm các thủ tục. Nhiều doanh nghiệp và người lao động còn tìm cách

“lách luật” để không phải làm giấy phép lao động bởi theo quy định của Luật

thì lao động làm việc dưới 3 tháng không phải cấp giấy phép lao động. Vì

vậy, các doanh nghiệp thường cho lao động làm việc dưới 3 tháng rồi về

nước, sau đó lại tiếp tục tuyển dụng lại, nên rất khó quản lý.

46

1.4.2. Bài học đối với tỉnh Quảng Ngãi

Qua phân tích và đánh giá kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài

tại một số địa phương như Trà Vinh và Nghệ An, có thể rút ra một số bài

học về quản lý lao động nước ngoài đối với tỉnh Quảng Ngãi như sau:

- Xây dựng hệ thống quản lý lao động nước ngoài cần dựa trên sự

nghiên cứu kỹ lưỡng, từ đó đưa ra những văn bản pháp lý phù hợp với đặc

điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của địa phương.

- Phân tích cụ thể đối với từng nhóm đối tượng trên địa bàn dựa trên

đánh giá chính xác đóng góp cũng như ảnh hưởng của đối tượng đó, để từ đó

có những giải pháp thực thi chính sách quản lý người lao động nước ngoài

trên địa bàn tỉnh.

- Chủ động phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thực hiện quản

lý lao động nước ngoài.

47

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong chương 1 của luận văn đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về

thực hiện pháp luật đối với lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam,

những quy định cụ thể của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt

Nam theo pháp luật Việt Nam, các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về

quản lý lao động nước ngoài... Từ những lý luận và căn cứ pháp lý trên là

luận cứ khoa học để phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về

quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương 2 cũng như đề

xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3.

48

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG

NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Tình hình lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh

Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở duyên hải Nam Trung Bộ, có diện tích tự nhiên

5.131,5km2, bằng 1,7% diện tích tự nhiên cả nước, bao gồm 14 huyện, thành

phố, trong đó có 1 thành phố, 6 huyện đồng bằng ven biển, 6 huyện miền núi

và 1 huyện đảo. Là tỉnh có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, số thời gian nắng

và mưa trong năm dài, hàng năm thường xuyên chịu các thiên tai bão lụt.

Mặc dù trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn, nền kinh

tế cả nước và của tỉnh vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức bất lợi, thế

nhưng trong những năm qua kinh tế-xã hội của Quảng Ngãi có nhiều khởi sắc

đáng kể. Trên lĩnh vực kinh tế, đến năm 2016, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh

(GRDP) ước đạt 21.710 tỷ đồng, tăng 4,4 so với cùng kỳ và đạt 49,4% kế

hoạch năm. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2016 trên địa bàn đạt 8.989 tỷ

đồng, đạt 40,4% so dự toán năm 35.000 tỷ đồng. GDP bình quân đầu người

tăng từ 1.728 USD năm 2012 lên 2.040 USD năm 2016.[41] Việc thu hút đầu

tư nước ngoài (FDI) vào tỉnh đạt kết quả tích cực; nổi bật là sự kiện khởi công

dự án Khu Công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ VSIP Quảng Ngãi, mở ra triển

vọng mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

Những đặc điểm, tiềm năng, lợi thế của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, văn

hoá, xã hội đã tác động vừa gián tiếp, vừa trực tiếp đến tình hình lao động

nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài của tỉnh Quảng Ngãi.

Trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh

Quảng Ngãi có sự thay đổi lớn qua các năm cũng như qua các quý trong

năm. Sự thay đổi này là do nhu cầu vị trí công việc cần phải có lao động

49

nước ngoài đảm nhận của các đơn vị, tổ chức có vốn đầu tư FDI. Tính đến

tháng 12/2016, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 382 lao động và 40 tổ chức,

đơn vị được cấp phép, số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi tập trung

làm việc tại Khu kinh tế Dung Quất và Khu công nghiệp VSIP Quảng Ngãi.

2.2 Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Các phương diện đánh giá

2.2.1.1 Thực hiện quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người

nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Căn cứ Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ

quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam;

Công văn số 5233/LĐTBXH-VL ngày 29/12/2016 của Bộ Lao động –

Thương binh và Xã hội về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài

làm việc tại Việt Nam. Theo đó, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Công văn

số 321/UBND-KGVX ngày 18/01/2017 yêu cầu các sở, ban, ngành liên quan,

các tổ chức, doanh nghiệp, các nhà thầu trên địa bàn tỉnh có sử dụng lao động

là người nước ngoài triển khai thực hiện các nội dung sau:

Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tuyên truyền, phổ

biến và hướng dẫn các quy định của pháp luật về người nước ngoài làm việc

tại Việt Nam được quy định tại Bộ luật Lao động, Nghị định số 11/2016/NĐ-

CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ. Tổ chức giới thiệu, cung ứng lao động

Việt Nam cho nhà thầu nước ngoài theo đề nghị của nhà thầu nước ngoài trên

địa bàn. Trường hợp không giới thiệu hoặc cung ứng được lao động Việt Nam

cho nhà thầu nước ngoài thì báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh xem xét, quyết định

cho phép nhà thầu nước ngoài được tuyển người nước ngoài vào các vị trí

công việc không tuyển được lao động Việt Nam.

Thực hiện công tác tuyên truyền thực hiện pháp luật về quản lý và sử

50

dụng lao động nước ngoài tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi thực hiện thông qua sao gửi

và hướng dẫn đến các tổ chức, đơn vị trên địa bàn tỉnh các văn bản quy định

của Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương về công tác tuyển dụng, quản lý

người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Đồng thời ban hành các văn bản chỉ

đạo các tổ chức, đơn vị thực hiện nghiêm túc công tác tuyển dụng, quản lý,

cấp giấy phép lao động, báo cáo định kỳ và đột xuất về việc sử dụng người

nước ngoài làm việc tại tổ chức, đơn vị.

Bên cạnh đó, hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh

Quảng Ngãi đều mở lớp tập huấn cho cán bộ quản lý và chủ doanh nghiệp có

sử dụng LĐNN trên địa bàn tỉnh về công tác sử dụng lao động nước ngoài

nhằm đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp cũng như người lao động nước

ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh.

Qua theo dõi, hầu hết các đơn vị, doanh nghiệp có sử dụng lao động

người nước ngoài tại Quảng Ngãi đều được UBND tỉnh, Ban Quản lý khu

kinh tế Dung Quất, Ban Quản lý các khu công nghiệp, Sở Kế hoạch và đầu tư

cấp giấy chứng nhận và hoạt động bình thường và thực hiện tương đối đầy đủ

các quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý người nước ngoài, được

UBND tỉnh chấp thuận việc sử dụng lao động trước khi tiến hành làm thủ tục

xin cấp giấy phép lao động. Theo số liệu thống kê từ năm 2014-2016 thể hiện:

51

Bảng 2.1. Tình hình số lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi

giai đoạn 2014 - 2016

(Đơn vị: người)

Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Số tổ chức, đơn vị có lao động

nước ngoài trên địa bàn tỉnh 35 38 40

Quảng Ngãi

Tổng số lao động nước ngoài 328 344 385

Số lao động được cấp giấy phép 320 314 375

Số lao động được miễn cấp giấy 8 30 10 phép lao động

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)

Qua số liệu bảng 2.1 có thể thấy, số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng

Ngãi nói chung và số lao động nước ngoài được cấp giấy phép nói riêng trên

địa bàn tỉnh có xu hướng tăng do các doanh nghiệp FDI được thành lập từ khi

Khu Công nghiệp VSIP Quảng Ngãi được hình thành năm 2014. Số lượng lao

động người nước ngoài có tăng nhưng không nhiều vì những doanh nghiệp tại

Khu kinh tế Dung quất có xu hướng sử dụng lao động trí thức Việt Nam. Điều

này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam đang có những bước tiến lớn về chất

lượng đào tạo, cũng như trình độ khoa học công nghệ đang trên đà phát triển

cùng với thế giới.

52

Xét về cơ cấu giới tính:

Bảng 2.2. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo giới

tính giai đoạn 2014 – 2016

Đơn vị: người

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Giới

tính Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ %

Tổng 328 100 344 100 385 100

Nam 290 88,4 320 93 350 90,9

Nữ 38 11,6 24 7 35 9,1

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)

Qua số liệu bảng 2.2 có thể thấy, trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao

động nước ngoài trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu là nam giới, chiếm tới

từ 88,4% đến 93% tổng số lao động nước ngoài tại Tỉnh. Sở dĩ có kết quả trên

là do tính chất công việc của lao động nước ngoài sang Việt Nam đa phần là

ngành nghề kỹ thuật các công việc có khối lượng làm việc lớn như: Xây

dựng, cơ khí, công nghiệp nặng…tỷ lệ lao động nước ngoài là nữ giới tại

Quảng Ngãi thấp chiếm từ 7%-11,6% chủ yếu tập trung làm việc tại các trung

tâm dạy ngoại ngữ.

53

Về cơ cấu độ tuổi:

Bảng 2.3. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo độ

tuổi giai đoạn 2014 – 2016 (Đơn vị: người)

Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Độ tuổi Số lượng Số lượng Số lượng % % %

Từ 18 - 30 tuổi 78 23,78 80 23,25 95 24,67

Từ 31 - 50 tuổi 199 60,67 212 61,62 253 65,71

Từ 51 trở lên 51 15,54 52 15,11 37 9,61

Tổng 328 100 344 100 385 100

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi)

Theo số liệu bảng 2.3 cho thấy, trong giai đoạn 2014 - 2016, số lao động

nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi chủ yếu ở độ tuổi từ 31 - 50 tuổi

chiếm trên 60%. Đây là độ tuổi lý tưởng bởi ở độ tuổi này con người thường

đầy đủ sức khỏe, đã có kinh nghiệm thực tế trong công việc, mang lại hiệu

quả lớn nhất.

Phần lớn lao động nước ngoài sang làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi đa số là

lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, là nam giới họ làm việc tại các

doanh nghiệp FDI, dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, đây là những ngành

nghề nặng nhọc về xây dựng, cơ khí, lọc hóa dầu… đáp ứng được nhu cầu sử

dụng lao động của các doanh nghiệp đầu tư tại tỉnh Quảng Ngãi.

54

Về quốc tịch:

Trong giai đoạn 2014 - 2016, lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi đa dạng quốc tịch (20 quốc tịch), quốc tịch chủ yếu là Hàn Quốc,

Ấn Độ và Trung Quốc. Lực lượng lao động này thường là các chuyên gia, kỹ

sư, thạc sĩ, tiến sĩ trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp nặng làm việc tại

các khu công nghiệp của tỉnh. Đối với người lao động nước ngoài ở các quốc

gia phát triển như Anh, Mỹ, Nhật, Rumani… còn khá ít. Đây là một trong

những hạn chế đối với công tác thu hút và quản lý lao động nước ngoài tại

tỉnh Quảng Ngãi.

Bảng 2.4. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo quốc tịch giai đoạn 2014 - 2016

Đơn vị: người

Quốc tịch Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Tổng 328 344 385

Hàn Quốc 185 170 142

Philippines 12 15 23

Thái Lan 3 5 10

Trung Quốc 65 68 87

Đài Loan 10 12 28

CH Séc 2 2 3

Anh 2 3 3

Mỹ 3 3 5

Úc 2 3 3

55

Quốc tịch Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Nam Phi 1 1 4

Nhật 3 4 4

Đức 6 7 7

Hà Lan 2 2 2

Nga 0 1 1

Ukraine 0 2 2

Canada 0 1 2

New Zealand 3 3 3

Nigieria 1 1 1

Rumani 1 1 1

Áo 1 1 1

Croatian 1 1 1

Ấn Độ 25 28 52

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).

Về hình thức lao động:

Hình thức lao động nước ngoài làm việc tại tại tỉnh Quảng Ngãi chủ

yếu theo HĐLĐ, theo hợp đồng kinh tế, di chuyển nội bộ doanh nghiệp và

một số hình thức khác. Trong giai đoạn 2014 - 2016, hình thức lao động theo

di chuyển nội bộ doanh nghiệp chiếm khoảng 30%, thực hiện hợp đồng kinh

tế 10%.

56

Bảng 2.5. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo hình

thức lao động giai đoạn 2014 - 2016

(Đơn vị: người)

Hình thức lao động Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

Tổng 328 344 385

Theo HĐLĐ 150 163 186

Theo hợp đồng kinh tế, thương mại 103 106 110

Di chuyển nội bộ 70 70 75

Khác 5 5 14

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).

Về trình độ chuyên môn:

Bảng 2.6. Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi theo

trình độ chuyên môn giai đoạn 2014 - 2016

(Đơn vị: người )

Trình độ chuyên môn Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016

328 344 385 Tổng

Có bằng, chuyên môn kỹ thuật 245 268 298

Có kinh nghiệm trên 5 năm 73 72 82

10 4 5 Khác

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh qua 3

năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).

57

Nhìn chung, trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động nước ngoài đang

làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi có trình độ chuyên môn cao, đây chính là lực

lượng góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cũng như phát triển khoa học, công

nghệ của tỉnh theo hướng hiện đại hóa.

Hạn chế:

Hạn chế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật::

Đối với quy định về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện người nước ngoài

làm việc tại Việt Nam chưa đảm bảo theo quy định như: Về tuyển dụng lao

động Việt Nam đối với nhà thầu trước khi tuyển lao động người nước ngoài,

mặc dù quy trình thủ tục có thông báo tuyển dụng nhưng chỉ là hình thức dẫn

đến cơ quan quản lý lao động tại địa phương không kiểm soát được.

Nhiều dự án kinh tế lớn có vốn đầu tư nước ngoài, chịu nhiều áp lực về

tiến độ, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài với số lượng lớn. Tuy nhiên

quy định của pháp luật yêu cầu phải thẩm định từng vị trí công việc mà doanh

nghiệp thật sự có nhu cầu và không tuyển được lao động Việt Nam, điều đó

gây mất thời gian trong quá trình thực hiện thủ tục cấp phép lao động.

Theo quy định, người lao động nước ngoài được cấp giấy phép lao động

trước rồi mới được nhập cảnh vào làm việc. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp

đã nhập cảnh vào làm việc tại doanh nghiệp rồi mới thực hiện thủ tục cấp giấy

phép lao động. Trong trường hợp này các doanh nghiệp đã lợi dụng kẻ hở

trong quy định của pháp luật, thực hiện việc bảo lãnh cho người lao động

nước ngoài dưới hình thức làm việc ngắn hạn dưới 3 tháng. Chính vì điều này

đã ảnh hưởng đến công tác quản lý của địa phương, tiềm ẩn nhiều nguy cơ

gây mất an ninh- ổn định chính trị tại tỉnh. Nhưng pháp luật chưa quy định

chế tài trong xử lý vi phạm của doanh nghiệp.

Không ít nhà thầu, đặc biệt là nhà thầu Trung Quốc lấy lý do đảm bảo

58

tiến độ, chất lượng kỹ thuật và hiệu quả của việc thi công các dự án do nhà

thầu nước ngoài trúng thầu không quan tâm đúng mức tới việc tuyển lao động

Việt Nam thay thế vị trí công việc dự kiến tuyển lao động nước ngoài.

Một số đơn vị chưa quan tâm đến kế hoạch đào tạo người lao động tại

Tỉnh để chuẩn bị thay thế cho công việc mà người nước ngoài đang đảm

nhận; chưa báo cáo danh sách và hồ sơ kịp thời theo quy định tại khoản 6,

Điều 9, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ đối với

lao động người nước ngoài làm việc thời hạn dưới 3 tháng cho Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi, như: Công ty TNHH Xindadong

Textiles Việt Nam, Công ty TNHH King Riches (Việt Nam) Footwear, Công

ty TNHH MTV Dịch vụ công trình Việt Hưng (Khu công nghiệp VSIP Quảng

Ngãi và Khu kinh tế Dung Quất ).

Các đơn vị thực hiện các loại hợp đồng về kinh tế, thương mại thuộc đối

tượng áp dụng tại điểm c, khoản 1, điều 1, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP

ngày 05/9/2013 của Chính phủ, phía đối tác nước ngoài có sử dụng lao động

người nước ngoài làm việc tại các đơn vị, tổ chức trên địa bàn tỉnh đã có hợp

đồng kinh tế, nhưng không kèm theo hợp đồng ký kết với đối tác nước ngoài

về việc thỏa thuận người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam theo quy định

tại khoản 1, điều 6, Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính

phủ, như: Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Công ty Cổ phần Dịch vụ dầu khí

PTSC Quảng Ngãi.

Công tác khai báo, đăng ký người nước ngoài tạm trú tại một số địa

phương, cơ sở không báo cáo kịp thời cho Công an cấp trên, dẫn đến việc

quản lý, theo dõi công tác tạm trú của người nước ngoài làm việc trên địa bàn

tỉnh chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ như Công ty Hải sản Nghi Bông.

59

2.2.1.2. Về thực hiện quy định về hồ sơ, thủ tục pháp lý đảm bảo cho

người nước ngoài khi làm việc tại Việt Nam

Mặt đạt được:

Người sử dụng thực hiện đầy đủ các nội dung về hồ sơ cấp giấy phép lao

động cho LĐNN theo quy định tại Điều 6 và Điều 8 của Thông tư số

40/2016/TT-BLĐTBXH nên việc đảm bảo về hồ sơ pháp lý và thủ tục cho

LĐNN làm việc tại Việt Nam gặp nhiều thuận lợi. Hầu hết các doanh nghiệp,

nhà thầu đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có sử dụng lao động

người nước ngoài đều thực hiện tốt các quy định như: đảm bảo về mặt thời

gian, đảm bảo về hồ sơ cấp phép, đều có ý kiến chấp thuận đồng ý cho phép

sử dụng lao động nước ngoài của UBND tỉnh, sau khi các doanh nghiệp nhận

giấy phép lao động và tiến hành ký kết hợp đồng lao động với người lao động

nước ngoài thì nộp bản sao hợp đồng lao động cho Sở Lao động – TB&XH

tỉnh để quản lý, khi kết thúc hợp đồng hoặc nghỉ việc theo quy định thì đều

tiến hành trả lại giấy phép lao động cho Sở.

Mặt hạn chế:

Trong thực tế quản lý, người sử dụng lao động ít quan tâm đến việc thực

hiện thủ tục trả lại giấy phép lao động hoặc gửi bản sao hợp đồng cho Sở. Khi

được kiểm tra nhắc nhở thì mới tiến hành thực hiện.

Nhiều chủ sử dụng lao động thỏa thuận với nhau trong việc chuyển

nhượng lao động nước ngoài làm việc trong thời gian ngắn vì mục đích kinh

doanh phổ biến ở các Trung tâm ngoại ngữ, gây khó khăn trong công tác

quản lý.

Trình tự, thủ tục thực hiện đề nghị cấp giấy phép lao động còn rườm rà

trong khi nhu cầu thực tế của từng doanh nghiệp khác nhau, tùy thuộc vào

tính chất công việc và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Việc ban hành

60

văn bản chấp thuận của UBND tỉnh đôi lúc còn chậm so với quy định.

Về thủ tục pháp lý, hồ sơ đảm bảo cho người nước ngoài khi làm việc tại

Việt Nam áp dụng cho từng đối tượng LĐNN khi làm việc tại Việt Nam được

quy định tại Điều 2 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP. Theo đó, LĐNN vào

Việt Nam làm việc với hình thức nào thì phải chứng minh các văn bản liên

quan đến hình thức đó được quy định tại Khoản 7 Điều 10 Nghị định số

11/2016/NĐ-CP nên người sử dụng LĐNN chưa cập nhật kịp thời.

2.2.1.3. Về cấp giấy phép lao động, cấp lại giấy phép lao động, việc sử

dụng giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Ngày 23/02/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết

định số 269/QĐ-UBND về việc công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm

quyền giải quyết của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi.

Theo đó, thủ tục cấp, cấp lại giấy phép lao động cho LĐNN được thực hiện

tại các địa chỉ sau: dichvucong.soldtbxh.quangngai.gov.vn;

dichvucong.quangngai.gov; dvc.vieclamvietnam.gov.vn.

Bảng 2.7 Thống kê số lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi được cấp

và cấp lại giấy phép lao động giai đoạn 2014 - 2016

Năm Cấp giấy phép lao Cấp lại Giấy phép lao Tổng động động

2014 180 140 320

2015 195 119 314

2016 198 177 375

(Nguồn: Báo cáo tình hình người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh

qua 3 năm từ 2014-2016 của Sở Lao động-TB&XH tỉnh Quảng Ngãi).

61

Mặt đạt được:

Trong giai đoạn 2014-2016 không có hồ sơ cấp giấy phép lao động trễ

hẹn, hầu hết các kết quả giải quyết thủ tục hành chính về cấp giấy phép lao

động được trả kết quả sớm hơn so với ngày quy định nhưng hồ sơ vẫn đảm

bảo theo quy định tại Điều 11, 12,15,16 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP.

Mặt hạn chế:

Theo quy định tại Khoản 9 Điều 10 của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP thì

các loại giấy tờ, các văn bản chứng minh kèm theo hồ sơ cấp giấy phép lao

động phải được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch công chứng trừ các trường hợp

được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế hoặc nguyên tắc có đi

có lại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp thực hiện

thủ tục công chứng các loại giấy tờ tại các cơ quan khác còn chậm nhận kết

quả nên dẫn đến tốn nhiều thời gian cho doanh nghiệp trong khâu hoàn thiện

hồ sơ cấp giấy phép lao động.

- Việc sử dụng giấy phép lao động cho NNN làm việc tại Việt Nam:

Pháp luật quy định việc quản lý, sử dụng giấy phép lao động được giao cho

người nước ngoài dẫn đến rất nhiều trường hợp lao động nước ngoài nghĩ việc

không có lý do và sử dụng giấy phép lao động đã được cấp đến các tỉnh khác

để làm việc ảnh hưởng đến công tác quản lý của địa phương và nhu cầu sử

dụng lao động của người sử dụng lao động.

2.2.1.4. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và người sử

dụng lao động trong việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước

Mặt đạt được:

Với quan điểm hỗ trợ hết mình cho doanh nghiệp, khi thực hiện nhiệm

62

vụ cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài, thời gian qua, Sở Lao động

– TB và XH đã thực hiện công khai, minh bạch, niêm yết quy định cụ thể.

Đồng thời, Sở đã áp dụng phần mềm cấp giấy phép trên mạng để các doanh

nghiệp nộp qua mạng nhằm hạn chế thấp nhất việc trục lợi trung gian, tránh

việc gây khó khăn, nhũng nhiễu cho doanh. Hơn nữa, tạo cơ hội cho lao động

nước ngoài vào tỉnh làm việc, nhất là đội ngũ chuyên gia, kỹ sư có trình độ cao.

Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh,

thời gian qua, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh đã thực hiện nhiều

giải pháp trong công tác quản lý lưu trú lao động nước ngoài, qua đó góp

phần đảm bảo an ninh trật tự, phục vụ nhiệm vụ phát triển KT-XH trên địa

bàn tỉnh.

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng quy chế phối hợp cụ thể

với các Ban Quản lý các Khu công nghiệp, Công an tỉnh nhằm siết chặt công

tác quản lý, cấp phép cho lao động nước ngoài, bảo đảm sự thống nhất, tránh

chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý

nhà nước với đối tượng lao động đặc biệt này.

Sở cùng các cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền, phổ biến

chính sách pháp luật tới các doanh nghiệp; tăng cường thanh, kiểm tra về tình

hình sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI); yêu cầu phải thường xuyên báo cáo tình hình sử dụng lao động

là người nước ngoài theo định kỳ. Nếu doanh nghiệp hoặc người nước ngoài

nào cố tình không báo cáo sẽ có chế tài xử lý nghiêm.

Thủ tục cấp phép cho lao động là người nước ngoài đến làm việc tại tỉnh

cũng được đổi mới theo hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn. Sở Lao động- TB và

XH có trách thẩm định nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trong

khu công nghiệp và ngoài khu công nghiệp trình UBND tỉnh chấp thuận, đồng

63

thời tiến hành các thủ tục cấp phép. Thời gian cấp mới giấy phép giảm từ 07

ngày xuống còn 03 ngày và cấp lại giảm từ 3 ngày xuống còn 01 ngày. Nhờ

đó, những năm gần đây công tác quản lý lao động nước ngoài có sự chuyển

biến tích cực, đi vào nề nếp, ổn định.

Thời gian Chủ tịch UBND tỉnh có văn bản chấp thuận cho người sử dụng

lao động về việc sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công

việc đã được thẩm định tương đối đúng quy định.

Mặt hạn chế:

Công tác quản lý lao động nước ngoài hiện vẫn phải đối mặt với nhiều

khó khăn. Trên thực tế vẫn tồn tại tình trạng lao động là người nước ngoài lợi

dụng kẽ hở pháp luật làm việc “chui”, không đăng ký, cấp phép theo quy

định. Số lao động này không dễ để quản lý bởi hiện chưa có một cơ quan nào

có thể thống kê hay báo cáo đầy đủ số lượng lao động nước ngoài làm việc cụ

thể. Những số liệu thống kê có được cũng từ các tổ chức nhà thầu, doanh

nghiệp đưa ra, còn các cơ quan chức năng chưa thể kiểm tra, rà soát hết được.

Một số huyện trên địa bàn tỉnh chưa chủ động, tích cực và quyết liệt

trong việc rà soát, phát hiện lao động nước ngoài làm việc bất hợp pháp trên

địa bàn, chưa thực hiện các biện pháp xử lý kiên quyết đối với lực lượng lao

động này.

Công tác phối hợp, trao đổi thông tin trong quản lý lao động nước ngoài

giữa các cơ quan chuyên môn ở địa phương còn thiếu chặt chẽ, chưa kịp thời

và đồng bộ. Còn nhiều đầu mối, nhiều cơ quan cùng quản lý nên thông tin

không tập trung, thống nhất. Nhiều đdoanh nghiệp, nhà thầu chưa thực hiện

nghiêm túc báo cáo tình hình tuyển và sử dụng lao động nước ngoài định kỳ

theo quy định.

64

Đối với người sử dụng lao động:

Mặt đạt được:

Các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động nước ngoài chủ động báo

cáo tình hình sử dụng lao động theo định kỳ; nâng cao ý thức, tự giác chấp

hành việc đăng ký sử dụng lao động, gia hạn theo đúng quy định của pháp

luật...

Doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài, người nước ngoài làm việc,

cư trú trên địa bàn tỉnh đã cơ bản nghiêm túc chấp hành khai báo, đăng ký cư

trú đúng quy định. Đặc biệt, nhiều năm trở lại đây, không xảy ra tình trạng

người nước ngoài gây rối, làm mất an ninh trật tự, vi phạm pháp luật trên địa

bàn tỉnh.

Mặt hạn chế:

Đã có trường hợp doanh nghiệp còn chậm trễ hoặc chưa chú trọng trong

việc làm thủ tục cấp giấy phép lao động cho lao động là người nước ngoài

làm việc tại đơn vị mình. Một số doanh nghiệp lợi dụng quy định về nhập

cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, quy định lao động

nước ngoài làm việc dưới 3 tháng không phải xin cấp giấy phép lao động để

“lách luật”, đưa lao động vào làm việc dưới 3 tháng và luân phiên thay lao

động khiến công tác quản lý gặp khó khăn. Có trường hợp lao động nước

ngoài vào tỉnh với danh nghĩa khách du lịch, thăm người thân nhưng thực chất

ở lại để dạy ngoại ngữ và làm các công việc khác.

Do ý thức chấp hành pháp luật của các nhà thầu, do yếu tố địa lý có

chung đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc nên vẫn còn tình trạng

lao động Trung Quốc vào địa bàn tỉnh để làm chui.

Lao động nước ngoài gia tăng là do yêu cầu thực hiện một số dự án cần

65

thêm lao động nước ngoài và các dự án do nhà thầu nước ngoài trúng thầu

đều đưa nhiều lao động vào Việt Nam làm việc.

2.2.1.5. Thực hiện quy định về việc thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm liên

quan tới người nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách quản lý LĐNN tại tỉnh

Quảng Ngãi được các cấp chính quyền phối hợp thực hiện nhằm nắm vững

tình hình; nhận xét, đánh giá việc chấp hành các Luật, các Nghị quyết, chỉ thị,

các quy định, quyết định của Chính phủ và tỉnh tại các doanh nghiệp có sử

dụng LĐNN trên địa bàn tỉnh. Qua công tác kiểm tra, giám sát thực tế, các

cấp chính quyền tỉnh có giải pháp kịp thời nhằm chấn chỉnh sử dụng LĐNN

trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính

sách quản lý LĐNN được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đặc biệt quan

tâm thực hiện, đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước đối với LĐNN đề ra.

Trong giai đoạn 2014 - 2016, hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và

Xã hội tỉnh Quảng Ngãi đều ban hành Quyết định thành lập 01 Đoàn kiểm tra

công tác tuyển dụng, quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh và

trong năm 2016, Sở đã ban hành Quyết địnht thành lập 01 Đoàn thanh tra do

Thanh tra Sở chủ trì phối hợp với các phòng chuyên môn trong đó có phòng

Việc làm – An toàn lao động tiến hành thanh tra công tác quản lý đối tượng là

người lao động nước ngoài tại 10 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Qua kết quả

thanh tra, kiểm tra nhận thấy hồ sơ pháp lý, giấy phép kinh doanh, giấy phép

hoạt động của các tổ chức, đơn vị đầy đủ và đảm bảo theo quy định của

pháp luật. Công tác quản lý hồ sơ lao động là người nước ngoài được các đơn

vị, tổ chức thực hiện khá chặt chẽ và khoa học.

Các đơn vị, doanh nghiệp, nhà thầu thực hiện tương đối đầy đủ các qui

định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài

66

tại Việt Nam (Luật Xuất nhập cảnh) về bảo lãnh người nước ngoài (NNN)

nhập cảnh, hướng dẫn NNN hoạt động đúng mục đích nhập cảnh, khai báo

tạm trú cho NNN...

Ngoài ra còn phát hiện một số sai phạm trong việc sử dụng lao động

nước ngoài trên địa bàn tỉnh như sau:

Các đơn vị, doanh nghiệp chưa báo cáo định kỳ về tình hình tuyển dụng

và sử dụng lao động người nước ngoài theo qui định cho Sở Lao động-

Thương binh và Xã hội, cụ thể: Công ty TNHH MTV TM và DV Thái Minh,

Công ty TNHH MTV DV Công trình Việt Hưng, Công ty TNHH FOCECA

Việt Nam, Công ty Cổ phần Song Phong, Công ty CP Phát triển Giáo dục Bảo

Linh, Công ty TNHH Đào tạo IEC, Công ty TNHH Hải Sản Nghi Bông.

Lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và

hướng dẫn cho 10 doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các quy định về xuất

nhập cảnh. Vẫn còn một số doanh nghiệp chưa quan tâm trong việc nắm bắt

đầy đủ các quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp và NNN trong quá trình

mời, bảo lãnh NNN nhập cảnh, lưu trú và làm việc, báo cáo khi có sự thay đổi

hồ sơ pháp nhân; quy định về khai báo tạm trú cho NNN; cũng như việc

thông báo thông tin các đoàn, cá nhân người nước ngoài đến làm việc tại

doanh nghiệp theo Quyết định số 22/2013/QĐ-UBND ngày 10/05/2013 của

UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động

đối ngoại trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đáng chú ý, trong quá trình kiểm tra

tại Công ty TNHH Hải sản Nghi Bông, lực lượng quản lý xuất nhập cảnh đã

phát hiện và lập biên bản, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với

một nhân viên quốc tịch Trung Quốc với hình thức xử phạt: 2.000.000 đ vì đã

có hành vi “Người nước ngoài không khai báo tạm trú theo quy định từ 15

ngày trở xuống mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép” [36]

67

Số lao động là người nước ngoài làm việc thời hạn trên 3 tháng tại các tổ

chức, đơn vị chưa được cấp giấy phép lao động theo quy định tại Nghị định số

102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ còn nhiều.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, Đoàn kiểm tra đã lập biên

bản nhắc nhở và yêu cầu các đơn vị kịp thời khắc phục và thực hiện đúng theo

quy định của pháp luật hiện hành trong thời gian 01 tháng (tính từ ngày được

kiểm tra). Riêng đối với những lao động người nước ngoài làm việc với thời

gian trên 3 tháng Đoàn kiểm tra đã yêu cầu các đơn vị, tổ chức sau 01 tháng

(tính từ ngày được kiểm tra) phải hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ đề nghị cơ quan

chức năng cấp giấy phép theo quy định tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP

ngày 05/9/2013 của Chính phủ. Nếu đơn vị, tổ chức nào không thực hiện hoặc

thực hiện không đảm bảo theo quy định thì liên ngành Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội và Công an tỉnh Quảng Ngãi sẽ xử lý hoặc đề nghị xử lý theo

thẩm quyền và quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, Đoàn kiểm tra đề nghị các đơn vị bổ sung các loại giấy tờ,

thủ tục còn thiếu, đặc biệt giấy xác nhận không phạm tội do cơ quan có thẩm

quyền nước ngoài cấp gửi về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để bổ

sung vào hồ sơ người LĐNN.

Việc triển khai thực hiện các quy định về thanh tra, kiểm tra người lao

động nước ngoài làm việc tại địa phương với tần suất nêu trên là quá ít so với

số lao động nước ngoài đang làm việc tại địa phương hiện nay. Kết quả các

cuộc kiểm tra và thanh tra cho thấy chưa chú trọng đến chất lượng các cuộc

thanh tra chuyên ngành, kết luận thanh tra còn sơ sài và thiếu chính xác. Việc

thực hiện pháp luật lao động của các chủ sử dụng lao động người nước ngoài

chưa nghiêm, còn trốn tránh vì vậy nhiều vi phạm chưa được phát hiện kịp

thời. Lực lượng thực hiện chức năng thanh tra và kiểm tra còn quá ít, trình độ

68

chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu, thời gian tiến hành thanh

tra, kiểm tra tại doanh nghiệp quá ít chỉ 1 ngày/ 01 doanh nghiệp nên ảnh

hưởng rất nhiều đến kết quả thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này. Mặt khác,

công tác phối hợp của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất đồng bộ.

2.2.2. Đánh giá chung

2.2.2.1. Kết quả đạt được

Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng

Ngãi nói riêng là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật,

đặc biệt là pháp luật lao động. Số lượng người nước ngoài đến Quảng Ngãi

làm việc tăng dần qua các năm và theo nhiều hình thức khác nhau (Theo Báo

cáo về tình hình sử dụng lao động nước ngoài qua các năm của Sở Lao động -

Thương binh và Xã hội Quảng Ngãi). Các quy định pháp luật về lao động

nước ngoài làm việc tại Quảng Ngãi phải đảm bảo được những yêu cầu:

Một là, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức trong tuyển và sử

dụng lao động nước ngoài. Nhu cầu sử dụng đối tượng này là một tất yếu vì

vậy các quy định về việc sử dụng lao động nước ngoài không được là rào cản.

Hai là, tạo thuận lợi cho người lao động nước ngoài, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp và khuyến khích những điều kiện có lợi hơn cho họ nhưng cũng

không ảnh hưởng đến an ninh việc làm trong nước. Các biện pháp xử lý vi

phạm cần mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn phải đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa.

Ba là, tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong việc quản lý lao

động nước ngoài. Cần bổ sung trách nhiệm và cụ thể hóa nhiệm vụ của những

cơ quan chức năng, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan này,

kiểm soát chặt chẽ các vi phạm.

Bốn là, phù hợp với pháp luật các nước, thông lệ quốc tế và đặc biệt,

với những cam kết của Việt Nam tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là

69

thành viên. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam phải có những thay đổi trong

quy định pháp luật để không trái với cam kết đã ký.

Năm là, tình hình thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm

việc tại tỉnh Quảng Ngãi, qua các đợt kiểm tra, nhận thấy: Các doanh nghiệp

đã nhận thức, hiểu rõ các quy định pháp luật của Nhà nước về quản lý và

tuyển dụng lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tổ chức quản lý

và sử dụng lao động đảm bảo đúng quy trình, thủ tục theo quy định pháp luật.

2.2.2.2 Mặt hạn chế

Một là, hạn chế trong quy định của pháp luật:

Quy định về trình tự, thủ tục phải tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí

công việc dự kiến tuyển người lao động nước ngoài trước khi tuyển lao động

nước ngoài, trong khi pháp luật về đấu thầu quy định các điều kiện để nhà

thầu tham gia dự thầu phải có năng lực và kinh nghiệm đã từng thực hiện các

dự án tương tự về kỹ thuật và quy mô, thực tế nhà thầu đã có sẵn đội ngũ lao

động kỹ thuật, chuyên môn lành nghề và kinh nghiệm để thực hiện dự án

trúng thầu; Quy định về điều kiện là chuyên gia và lao động kỹ thuật quá chặt

chẽ chưa phù hợp với thông lệ, gây khó khăn cho nhà thầu nước ngoài trong

việc tuyển và sử dụng lao động;

Về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động còn quy định một số giấy tờ

mà người lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu trong thời gian rất

ngắn (từ 1 đến 3 tháng, tối đa 6 tháng) khó thực hiện như phiếu lý lịch tư

pháp, hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ, bằng cấp chứng chỉ; Quy định cho

phép được chuyển đổi mục đích nhập cảnh nên xảy ra tình trạng người nước

ngoài xin thị thực du lịch vào Việt Nam lao động gây khó khăn trong công tác

theo dõi, kiểm tra, quản lý;

70

Về chế tài xử phạt hành chính trong vi phạm pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài chưa đủ mức răn đe và buộc người sử dụng lao động và

người lao động phải thực hiện; các biện pháp cưỡng chế chưa kiên quyết;

chưa có nhiều biện pháp xử lý triệt để đối với các doanh nghiệp, nhà thầu hay

cá nhân lao động nước ngoài cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam; Những quy

định về điều kiện cấp giấy phép lao động mặt tích cực là bảo vệ việc làm cho

lao động Việt Nam, tuy nhiên trong xu thế hội nhập có thể gây ảnh hưởng tiêu

cực đến môi trường đầu tư và hạn chế sức cạnh tranh của lao động Việt Nam

với lao động nước ngoài;

Chưa có quy định riêng về lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu

nước ngoài, quy định thời hạn của hợp đồng lao động chưa phù hợp với thời

hạn của giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài.

Theo quy định mới thì lao động nước ngoài sang Việt Nam làm việc phải

có đủ 2 điều kiện là vừa phải có bằng đại học, vừa phải có kinh nghiệm, đảm

nhận các vị trí công việc như: Chuyên gia, giám đốc điều hành, nhà quản lý

và lao động kỹ thuật. Trong khi, lĩnh vực giầy da, dệt sợi, túi xách có nhiều

chuyên gia nước ngoài đã có kinh nghiệm làm việc 15-20 năm, nhưng trình

độ chỉ ở mức giấy chứng nhận kinh nghiệm. Vì thế, áp dụng quy định này rất

khó cho các doanh nghiệp. Thực tế có nhiều ngành nghề trên địa bàn tỉnh có

các chuyên gia nước ngoài sang làm việc rất giỏi nhưng về thủ tục chưa đáp

ứng được vì lao động làm việc ở lĩnh vực ngành nghề thủ công, truyền thống

vì những lao động này không thể có bằng cấp.

Công tác quản lý của các cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý lao động

nước ngoài chưa phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhiều đơn vị cùng quản lý nên

thông tin không tập trung thống nhất.

Việc xử lý vi phạm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc không có

71

giấy phép chưa được xử lý triệt để vì sợ ảnh hưởng đến công tác thu hút đầu tư

của tỉnh.

Hai là, thực hiện các nội dung pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi

Một số đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến công tác này, chưa báo cáo

định kỳ, đột xuất danh sách lao động người nước ngoài đến công tác, làm việc

dưới ba tháng cho cơ quan quản lý lao động tại địa phương.

Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của một số nhà thầu và người lao

động nước ngoài trong việc tuyển, sử dụng và thực hiện cấp giấy phép lao

động; xuất nhập cảnh và cư trú còn hạn chế.

Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập của pháp luật quản lý lao

động nước ngoài

Như trên đã nghiên cứu, pháp luật quản lý lao động nước ngoài không

chỉ bao gồm tổng thể các nguyên tắc, qui tắc được chứa đựng trong các

nguồn pháp luật khác nhau, mà còn bao gồm cả việc thi hành và tổ chức thi

hành bởi các nguyên tắc, qui tắc chỉ có thể được xem là pháp luật nếu chúng

được đem ra thi hành. Nói cách khác thi hành là một vế quan trọng để minh

chứng cho việc các nguyên tắc và qui tắc được xã hội chấp nhận để điều tiết

các ứng xử. Vì vậy khi nói tới nguyên nhân của các bất cập của pháp luật

quản lý lao động nước ngoài, cần nói tới nguyên nhân của các bất cập về xây

dựng các nguyên tắc, qui tắc xử sự, đồng thời nói tới nguyên nhân của các bất

cập trong việc thi hành và tổ chức thi hành các nguyên tắc và qui tắc đã được

tạo dựng.

72

Về các nguyên nhân của các bất cập về xây dựng pháp luật quản lý lao

động nước ngoài

Nguyên nhân thứ nhất, cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ các

nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài, trong khi các nguyên

tắc chung của luật lao động không thể áp dụng vừa khớp đối với các quan hệ

quản lý lao động nước ngoài bởi mục tiêu sử dụng lao động trong nước và

mục tiêu sử dụng lao động nước ngoài không đồng nhất với nhau, đôi khi trái

ngược nhau. Biểu hiện của các bất cập này là Bộ luật Lao động 2012 và các

văn bản hướng dẫn thi hành không nêu ra các nguyên tắc của lĩnh vực pháp

luật này. Do đó rất ít các qui định nói về hành vi quản lý phải hướng tới bảo

vệ quyền con người. Chưa lường hết điều kiện thực tế và việc hội nhập quốc

tế. Chậm được sửa đổi, bổ sung, hướng dần chưa kỹ.

Nguyên nhân thứ hai, những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao

động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao.

Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động với cơ quan công an bị nhường

thẩm quyền cho thông tư liên bộ.

Nguyên nhân thứ ba, thiếu coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt

động hỗ trợ quản lý. Hầu hết các chế tài được xác định bởi các văn bản pháp

luật hiện hành về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam chỉ xác

định chế tài hành chính. Đây cũng là hệ quả không hay của việc giao việc

soạn thảo luật cho cơ quản quản lý chuyên ngành. Do đó lợi ích cục bộ trong

việc xây dựng vai trò và vị trí quan trọng của chuyên ngành lấn át.

Về các nguyên nhân của các bất cập về thi hành pháp luật quản lý lao

động nước ngoài

Việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nước ngoài ở

địa phương chưa nghiêm, theo dõi và quản lý lao động nước ngoài chưa được

73

thực hiện thường xuyên, kịp thời và thiếu sự phối hợp, hỗ trợ giữa Sở Lao

động – TB&XH, Công an tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư..., Một số huyện ở địa

phương thực hiện chế độ báo cáo không đầy đủ, không đúng quy định, kiểm

tra, thanh tra và xử lý các vi phạm còn rất hạn chế, chưa có nhiều đề xuất với

Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan

có liên quan để có những giải pháp quản lý lao động nước ngoài.

Người sử dụng lao động nước ngoài chưa thực hiện đúng pháp luật,

không làm thủ tục đề nghị cấp, cấp lại giấy phép lao động kịp thời cho lao

động nước ngoài, không báo cáo đầy đủ, kịp thời việc sử dụng lao động nước

ngoài theo quy định.

Người lao động nước ngoài chưa nghiên cứu đầy đủ các quy định của

pháp luật lao động Việt Nam do người sử dụng lao động cung cấp; chưa

chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để làm các thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao

động [14].

Như vậy các nguyên nhân này được nêu ra khá đầy đủ kể cả về phía

người quản lý và người bị quản lý (người sử dụng lao động và người lao động

nước ngoài).

74

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã đề cập đến thực trạng thực

hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi, tình hình

lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài qua đó đánh giá thực

trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài... thống kê về số

lượng lao động, cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, hình thức lao động của

LĐNN, vị trí việc làm và giới tính, trình độ chuyên môn của LĐNN theo

quy định trong công tác thực hiện pháp luật đối với lao động người nước

ngoài trên địa bàn tỉnh.

Những vấn đề lý luận được đề cập trong chương 2 là luận cứ khoa học

giúp tác giả luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản

lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 cũng như đề xuất

phương hướng, mục tiêu, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý

lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 của luận văn.

75

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI

3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở

tỉnh Quảng Ngãi

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về lao động - xã hội theo tiêu chuẩn khu

vực và quốc tế, trong đó có các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động

quốc tế (ILO). Đến năm 2020, phê chuẩn các công ước cơ bản còn lại và một

số công ước khác của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2030, đảm

bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết quốc tế về lao động - xã hội. Xây dựng

pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp ứng nhu cầu

sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động

nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã

hội.

Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu,

tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu; tăng cơ hội việc làm có

chất lượng cho người lao động nhằm từng bước thay thế nhưng vị trí công

việc mà lao động người nước ngoài đang đảm nhận. Tăng số lượng các nghề

đào tạo được các nước công nhận về văn bằng, chứng chỉ phù hợp với yêu cầu

chung.

Thứ ba, giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội

nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Có những trường hợp các nhà thầu

phụ của nước ngoài chưa được cấp giấy phép thầu nhưng vẫn hoạt động như

bình thường. Đặc biệt, có những trường hợp chủ đầu tư khoán trắng cho nhà

thầu chính; nhà thầu chính thuê nhà thầu phụ và mọi hoạt động liên quan đến

tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài do nhà thầu phụ tự quyết định,

76

chính quyền địa phương không có ý kiến, dẫn đến tình trạng các nhà thầu phụ

này sử dụng bao nhiêu lao động nước ngoài thì chủ đầu tư và nhà thầu chính

cũng không biết. Đây là sự buông lỏng trong quản lý của địa phương và chủ

đầu tư. Việc thiếu kết hợp trong công tác xuất nhập cảnh cũng là một trong

những kẻ hở cần phải khắc phục. Tuy nhiên nếu quá thổi phồng khuynh

hướng xiết chặt quản lý mà không thấy được tiến trình hội nhập quốc tế và

nghĩa vụ bắt buộc bảo vệ quyền con người của quốc gia thì đó cũng bị xem là

khiếm khuyết, không phù hợp với thời đại và qui luật khách quan. Vì vậy

định hướng này đặt ra để kết hợp cả hai khuynh hướng, dù có phần trái

ngược, nhưng đều không thể bỏ qua. Việc xa rời sự kết hợp này khó có thể có

được các qui định pháp luật quản lý lao động nước ngoài thích hợp. Hơn nữa

định hướng mà có sự kết hợp cả hai khuynh hướng này giúp cho chúng ta có

cái nhìn tổng thể bao quát để từ đó có được các chính sách tổng thể và có

được các qui định pháp luật đầy đủ và hệ thống liên quan tới quản lý lao động

nước ngoài nói riêng và người nước ngoài nói chung ở Việt Nam.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động nước

ngoài tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng

3.2.1 Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao

động nước ngoài tại Việt Nam

Một là, xây dựng một bộ nguyên tắc cho pháp luật quản lý lao động

nước ngoài tại Việt Nam và tách vấn đề xuất khẩu và nhập khẩu lao động để

điều tiết riêng biệt.

Như trên đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến các bất cập của các văn

bản pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý lao động nước ngoài tại Việt

Nam. Nguyên nhân thứ nhất là cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ

các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài. Thực tế Bộ luật

Lao động tại Chương XI, Mục 3 chưa có qui định nào về các nguyên tắc của

77

pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam mà lĩnh vực pháp luật

này được qui định cùng với vấn đề đưa người lao động Việt Nam đi làm việc

ở nước ngoài. Hai vấn đề lao động này xuất phát từ hai nhu cầu khác nhau

của đất nước, chẳng hạn trong giai đoạn hiện nay việc xuất khẩu lao động đối

với Việt Nam cần khuyến khích và thực hiện được càng nhiều càng tốt, trong

khi đó cần có sự kiểm soát chặt chẽ cả về số lượng đối với lao động nước

ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Do đó các nguyên tắc của Bộ luật Lao động

2012 qui định tại Điều 168 không thể là nguyên tắc chung cho hai loại lao

động này. Vì vậy cần tách bạch hai loại lao động này để điều tiết riêng. Các

nguyên tắc của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài hay lao động di trú

tại nước sở tại phải được qui định đầy đủ. Các nguyên tắc đó bao gồm: Tôn

trọng quyền con người; Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội;

Bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động bản xứ; Tôn

trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Các

nguyên tắc này đã được nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn này và là sợi

chỉ đỏ xuyên suốt các qui định của pháp luật quản lý lao động nước ngoài và

là chuẩn mực cho việc đánh giá mô hình quản lý và hành vi quản lý.

Hai là, qui định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn những mối liên hệ giữa các

chủ thể quản lý lao động nước ngoài tại Bộ luật Lao động.

Hiện nay Bộ luật Lao động 2012 đã dành quá nhiều vấn đề cho các văn

bản dưới luật qui định nhất là vấn đề quản lý lao động nước ngoài làm việc

tại Việt Nam. Tuy nhiên các văn bản dưới luật chưa thể hiện được đầy đủ mối

liên hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý lao động nước ngoài, đồng thời

giá trị pháp lý của các qui định này thấp. Do vậy cần có qui định cụ thể về

mối liên hệ này ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Tư tưởng cục bộ

trong quản lý nhà nước ở ta vẫn còn nhiều do đó sự chủ trì phối hợp để xây

dựng Thông tư trở nên kém hiệu quả và các qui định của Thông tư dễ bị thay

78

đổi. Sự bất cập của pháp luật quản lý lao động nước ngoài là những mối liên

hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm

văn bản có giá trị pháp lý cao. Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động

với cơ quan công an bị nhường thẩm quyền cho thông tư liên bộ. Vì vậy giải

pháp này là giải pháp cần thiết để khắc phục bất cập nói trên.

Ba là, coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý lao

động nước ngoài ở Việt Nam.

Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp giữ vai trò tối quan trọng vì sự

phán quyết của tư pháp luôn nhân danh những gì ở vị trí cao nhất trong một

nền tài phán, do đó được cưỡng chế rất mạnh để thi hành. Vì vậy Bộ luật Lao

động không thể không đề cập tới vai trò của tư pháp. Việc đề cập này có thể

gián tiếp thông qua ấn định các chế tài dân sự, thương mại, hình sự đối với

các vi phạm, nhưng cũng có thể qui định trực tiếp thẩm quyền của tòa án đối

với các vi phạm như vậy. Tòa án đồng thời là nơi bảo vệ chắc chắn nhất cho

quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Việc

nhường nhiều vấn đề kể cả chế tài cho văn bản dưới luật như hiện nay trong

lĩnh vực pháp luật quản lý lao động nước ngoài là không phù hợp vì văn bản

dưới luật không có thẩm quyền qui định về tư pháp.

Bốn là, thống nhất trong kỹ thuật lập pháp.

Các văn bản dưới luật hiện có khuynh hướng xa rời luật bằng lập pháp.

Hệ quả là quyền lợi của người lao động không chắc chắn và có thể bị vi phạm

bởi cơ quan quản lý. Vì vậy đây là một giải pháp không thể bỏ qua trong khi

hoàn thiện pháp luật.

Năm là, bổ sung và sử dụng chế tài đặc thù.

Việc sử dụng chế tài trục xuất rất hữu ích trong việc quản lý có hiệu

quả đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Do đó pháp luật nên

qui định: “Người nước ngoài phải chấm dứt lao động không được phép tại

79

Việt Nam ngay khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người

nước ngoài có thể bị trục xuất trong trường hợp không thực hiện yêu cầu nói

trên hoặc sau khi thực hiện yêu cầu lại tái vi phạm”. Chế tài này dùng để xử

lý các vi phạm kèm theo các chế tài áp dụng cho người sử dụng lao động

nước ngoài không được phép hoặc để xử lý đối với người lao động tự tiến

hành các công việc kiếm tiền trong lãnh thổ Việt Nam mà không được phép.

Các hợp đồng lao động ký với người lao động nước ngoài không được

phép phải bị tuyên vô hiệu tuyệt đối. Pháp luật nên buộc bên sử dụng lao

động phải bồi thường cho người lao động nước ngoài không được phép các

chi phí bỏ sức lao động, chi phí ăn ở và đi lại ở Việt Nam và trở về nước của

họ. Chế tài này phù hợp với mô hình quản lý lao động nước ngoài đặt trọng

tâm vào quản lý doanh nghiệp hay người sử dụng lao động. Hậu quả pháp lý

của hợp đồng lao động vô hiệu tuyệt đối trong trường hợp này có tác dụng

cảnh báo và ngăn cản hữu hiệu việc sử dụng lao động nước ngoài trái phép.

Sự cân nhắc lợi ích liên quan tới việc sử dụng lao động nước ngoài có thể

khiến doanh nghiệp hay người sử dụng lao động lựa chọn việc tuân thủ pháp

luật.

Thứ sáu, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành

về quản lý lao động người nước ngoài tại Việt Nam nói chung và địa phương

Quảng Ngãi nói riêng:

Hiện nay, còn một số vướng mắc trong các quy định của pháp luật dẫn

đến tình trạng khó thực hiện pháp luật. Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy

định, người sử dụng lao động nếu muốn tuyển dụng lao động là người nước

ngoài thì tuyển dụng lao động Việt Nam vào các vị trí công việc mà doanh

nghiệp, nhà thầu có nhu cầu tuyển, trường hợp không tuyển được thì mới

sử dụng lao động người nước ngoài. Điều này khó thực hiện và chưa thực

tế bởi quy trình tiêu chuẩn, việc chọn lựa lao động phù hợp cho từng công

80

việc là quyền quyết định của người sử dụng lao động. Quy định này vừa

mang tính hình thức, vừa không chứng minh được việc tuyển LĐNN là do

không có lao động Việt Nam thay thế theo quy định của pháp luật Việt

Nam.

Một số quy định của pháp luật còn thiếu thực tế. Chẳng hạn như quy

định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc

mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về

mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh

nghiệp. Đối với trường hợp di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, điều động

đến làm việc tại Việt Nam, một trong những điều kiện cần phải có là phải có

văn bản chứng minh thời gian làm việc tại công ty mẹ 24 tháng hoặc văn bản

xác nhận đóng bảo hiểm, thuế thu nhập tại nước sở tại, trình tự thủ tục này

doanh nghiệp thực hiện mất rất nhiều thời gian.

Thời hạn tối đa quy định thời gian làm việc của người nước ngoài tại địa

phương theo đề nghị của chủ sử dụng lao động nhưng không quá 2 năm, hết

thời gian nêu trên nếu doanh nghiệp có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì phải có

báo cáo giải trình cho UBND tỉnh chấp thuận sử dụng lại lao động nước

ngoài. Việc này gây khó khăn đối với doanh nghiệp hoạt động trong một số

lĩnh vực ngành nghề truyền thống đòi hỏi lao động phải có tay nghề lâu năm

và làm việc lâu dài tại doanh nghiệp.

Những doanh nghiệp chỉ có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong

thời gian dưới 6 tháng để thực hiện các dự án bảo dưỡng kỹ thuật về lĩnh vực

lọc hóa dầu, dịch vụ dầu kí, khí hóa lỏng tại Khu kinh tế Dung Quất. Mặc dù,

thời gian sử dụng lao động nước ngoài ngắn nhưng cũng phải thực hiện đầy

đủ các quy định của pháp luật về cấp phép lao động. Điều này làm cho nhiều

doanh nghiệp chọn hình thức lách luật thực hiện bảo lãnh người lao động vào

làm việc dưới 3 tháng sau đó xuất cảnh sang các nước lân cận như Lào,

81

Campuchia...thời gian xuất cảnh chỉ 1-2 ngày, sau đó tiếp tục thực hiện thủ

tục bảo lãnh dưới 3 tháng để thực hiện hoàn tất công việc tại địa phương. Đây

là kẻ hở của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời để việc quản lý lao

động là người nước ngoài tại địa phương được chặt chẽ.

Đối với những trường hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại địa

phương với các vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao

động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn

không quá 90 ngày trong 01 năm; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng

để thực hiện chào bán dịch vụ; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để

xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh

hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên

gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử

lý được. Pháp luật không quy định trách nhiệm của Sở Lao động – TB&XH

tỉnh phải xác nhận những trường hợp trên không thuộc diện cấp giấy phép lao

động. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu sử dụng những đối tượng thuộc diện lao

động này tại khu kinh tế Dung Quất (Nhà máy lọc dầu Dung Quất) là rất lớn

từ 300-500 lao động, cơ quan xuất nhập cảnh yêu cầu doanh nghiệp liên hệ

với Sở Lao động – TB&XH tại đại phương để được xác nhận tình hình sử

dụng lao động. Đây là sự bất cập trong công tác phối hợp giữa các cơ quan có

liên quan trong việc quản lý lao động là người nước ngoài, pháp luật cần có

hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

3.2.2 Nhóm giải pháp cho các cơ quan quản lý

Thứ nhất, Nâng cao năng lực thể chế, khả năng tổ chức thực hiện, thúc

đẩy hoạt động quản lý LĐNN một cách có hiệu quả tại địa phương.

Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý LĐNN là làm cho những cơ chế,

thể chế, những phương thức quản lý trong nội bộ bộ máy nhà nước khoa học,

hợp lý hơn; những khả năng hành chính và kỹ thuật chuyên môn của cán bộ

82

công chức cao hơn; những quy tắc, sự kiềm chế và kiểm soát để đảm bảo cho

cán bộ công chức có khả năng linh hoạt để hoạt động tốt hơn vì tập thể, tránh

những hành động độc đoán chuyên quyền, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền

và những tiêu cực khác.

Người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị quản lý lao động nước ngoài tại

địa phương, các khâu của quá trình cấp giấy phép lao động đối với LĐNN

trên địa bàn tỉnh phải là người am hiểu sâu sắc về chuyên môn, khá về ngoại

ngữ; có tầm nhìn dài hạn, có phương pháp và phong cách lãnh đạo, điều hành

khoa học; có sự đồng cảm sâu sắc với những người lao động nước ngoài làm

việc tại địa phương cụ thể:

Đối với UBND tỉnh:

Xem xét và chấp thuận cho doanh nghiệp, tổ chức được sử dụng lao

động người nước ngoài đảm nhận những vị trí công việc mà lao động trong

nước chưa đáp ứng được.

Thường xuyên chỉ đạo triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến pháp

luật về quản lý lao động nước ngoài. Kiên quyết xử lý vi phạm những trường

hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại tỉnh bằng thị thực du lịch không vì

môi trường đầu tư mà bỏ qua nhưng quy định của pháp luật.

Xây dựng kế hoạch trung và dài hạn nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực, chỉ đạo các cơ quan có chức năng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho

nhu cầu về lao động ở địa phương, đặc biệt là nhu cầu của các nhà thầu nước

ngoài nhằm thay thế bằng sử dụng lao động trong nước

Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư:

Trong quá trình thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh cần nắm bắt nhu cầu dự kiến sử dụng lao

động trong nước và lao động nước ngoài, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn

FDI.

83

Thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp với Sở Lao động - Thương

binh và Xã hội để nắm bắt tình hình số lượng lao động người nước ngoài là

chủ doanh nghiệp.

Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên

quan để nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho người sử dụng lao động,

đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài trúng các gói thầu lớn tại

Quảng Ngãi đây là một khâu quan trọng trong tổ chức thực hiện pháp luật

nhằm hạn chế những vi phạm của các đơn vị sử dụng LĐNN là do thiếu

nhận thức về các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan và sự thiếu ý

thức pháp luật trong việc chấp hành những quy định này.

Tổ chức thẩm định chặt chẽ các vị trí công việc mà doanh nghiệp, tổ

chức không tuyển được lao động trong nước nhưng do nhu cầu sản xuất kinh

doanh nên phải sử dụng lao động nước ngoài.

Thực hiện cấp, cấp lại giấy phép lao động đối với những hồ sơ đề nghị

cấp phép đảm bảo theo quy định.

Khuyến khích, vận động doanh nghiệp, nhà thầu đăng ký cấp giấy phép

lao động qua mạng điện tử.

Đối với Công an tỉnh:

Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh,

Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh thường xuyên phối hợp với Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tập huấn cho các doanh nghiệp,

nhà thầu có sử dụng lao động người nước ngoài. Để người nước ngoài hiểu và

chấp hành tốt pháp luật Việt Nam khi làm đến làm việc, cư trú tại tỉnh, công

tác tuyên truyền, hướng dẫn cần phải được tăng cường triển khai. Đặc biệt,

Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt

Nam số 47/2014/QH2013 ban hành ngày 16/6/2014 có hiệu lực thi hành từ

84

ngày 1/1/2015 thay thế toàn bộ Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của

người nước ngoài tại Việt Nam số 24/1999/PL-UBTVQH10 có nhiều điểm

mới rất cần người lao động nước ngoài nắm rõ để thực hiện, chấp hành đúng

khi làm việc, lưu trú trên địa bàn tỉnh.

Để công tác quản lý người lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh ngày

càng đi vào nề nếp, các cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn

nữa, trong đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật,

hướng dẫn người lao động nước ngoài, cơ quan, doanh nghiệp, thực hiện

đúng luật; tăng cường công tác thanh, kiểm tra, nghiêm túc xử lý những

trường hợp vi phạm trên cơ sở đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, đồng

thời đảm bảo an toàn về an ninh, trật tự xã hội tại địa phương.

Thứ hai: tiến hành tổng rà soát và dự toán nhu cầu sử dụng lao động

nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung.

Việc xây dựng hoạch định, quyết định chính sách và chiến lược phát

triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới làm trên căn bản nắm chắc nhu cầu

thật của nền kinh tế đối với sử dụng lao động nước ngoài trong hiện tại và

tương lai, và trên cơ sở các kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài làm

việc tại địa phương Quảng Ngãi. Các kinh nghiệm này chỉ có được nếu như

chúng ta tiến hành một cuộc tổng rà soát và phân tích kỹ lưỡng việc đáp ứng

nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, hiệu quả của việc sử dụng và hiệu quả

của công tác quản lý theo các mô hình quản lý cụ thể. Trên cơ sở của dự báo

và định hướng phát triển kinh tế, xã hội cùng với các yếu tố khác, chúng ta dự

báo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong từng giai đoạn.

Thứ ba, hạn chế đúng mức việc sử dụng lao động nước ngoài ở một số

địa bàn nhạy cảm như đảo Lý Sơn...

Ở khu vực biên giới, hải đảo, khu vực rừng đầu nguồn, khu vực quan

trọng đối với an ninh, quốc phòng hay những nơi thường xảy ra xung đột về

85

tôn giáo, sắc tộc cần có những hạn chế đúng mức đối với việc sử dụng lao

động nước ngoài. Việc hạn chế này có thể với các cách thức khác nhau, tuy

nhiên vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc quản lý lao động nước ngoài đã

nghiên cứu ở các chương trên.

Thư tư, phát huy vai trò tư vấn pháp luật và tuyên truyền pháp luật lao

động tại địa phương cho người lao động nước ngoài

Nguyên nhân dẫn đến không tuân thủ pháp luật của nhiều người lao

động nước ngoài là thiếu thông tin và hiểu biết về pháp luật. Vì vậy bên cạnh

hoạt động tuyên truyền đến từng người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam,

cần thiết đẩy mạnh hoạt động tư vấn pháp luật của các công ty luật và các

trung tâm trợ giúp pháp lý.

Thứ năm, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người

lao động và người sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh.

Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người lao động và người sử

dụng lao động nước ngoài là một hoạt động rất quan trọng trong việc nhận

được các thông tin phản hồi về việc thi hành các chính sách và các qui định

pháp luật. Phương thức thanh tra, kiểm tra hiện cần tiến hành là phối hợp

thành lập các tổ công tác liên ngành để kiểm tra, thanh tra và chấn chỉnh

những vi phạm khi sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại địa phương.

Ngoài ra cần tăng cường thanh, kiểm tra theo chuyên đề, như chuyên đề

tuyển chọn lao động, chuyên đề về đăng ký, khai báo và xin giấy phép lao

động, chuyên đề sử dụng lao động… Những trường hợp không đủ điều kiện

làm việc thì buộc xuất cảnh hoặc trục xuất theo qui định, kịp thời giải quyết

tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động sử dụng lao động nước

ngoài.

Thứ sáu, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng trực tuyến đồng bộ hóa

dữ liệu.

86

Hệ thống ứng dụng trực tuyến được đưa vào sử dụng tạo điều kiện thuận

lợi cho người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước. Đây là những

điều mà ngành lao động xã hội tại địa phương rất nỗ lực để thực hiện. Việc

trao đổi thông tin cho nhau thường xuyên sẽ giúp các cơ quan quản lý lao

động nước ngoài tại địa phương đạt hiệu quả hơn và có thể kiểm soát tối đa

các trường hợp làm việc "chui" thông qua visa du lịch. Hiện nay, thủ tục cấp

giấy phép lao động qua mạng điện tử đang được Quảng Ngãi triển khai qua

cổng thông tin điện tử: dvc.vieclamvietnam.gov.vn.

3.2.3 Các giải pháp đối với người sử dụng lao động và người lao động

Các giải pháp đối với người lao động

Đối với người LĐNN, chúng ta là cơ quan quản lý nhà nước cần bảo vệ

người LĐNN (trong quan hệ LĐNN) ngăn chặn mọi sự xâm hại có thể xảy ra

đối với họ khi tham gia quan hệ LĐNN. Với ý nghĩa đó, “bảo vệ người

LĐNN” có nghĩa rộng hơn và bao trùm “bảo đảm các quyền cho người

LĐNN”. Đây là đặc trưng của pháp luật LĐNN của bất kỳ quốc gia nào có cơ

chế thị trường. Bởi lẽ, người LĐNN luôn ở thế yếu hơn so với người sử dụng

LĐNN. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt của hoạt động quản lý LĐNN trong

các doanh nghiệp ở nước ta.

Các giải pháp đối với người sử dụng lao động

Người sử dụng LĐNN (ở đây là doanh nghiệp) là chủ thể bỏ vốn, đầu tư

kinh doanh và thu hút LĐNN, giải quyết việc làm cho lao động tại địa

phương. Do đó, Nhà nước cũng cần bảo đảm các quyền tuyển chọn, sử dụng

LĐNN. Nếu như người LĐNN có quyền lựa chọn việc làm thì người sử dụng

LĐNN cũng có quyền tuyển chọn LĐNN, quyền tăng giảm LĐNN theo nhu

cầu sản xuất, kinh doanh và theo quy định pháp luật. Vì vậy, cùng với việc

bảo đảm hài hòa lợi ích người LĐNN - người sử dụng LĐNN thì bảo vệ

quyền của người sử dụng LĐNN cũng là một trong những nguyên tắc của

87

quản lý LĐNN trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh

rằng, người sử dụng lao động phải ưu tiên sử dụng lao động trong nước ,

trường hợp không tuyển được lao động trong nước ở vị trí công việc có nguy

cơ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh thi mới tuyển dụng LĐNN.

Thực hiện đúng chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động nước ngoài

để tạo điều kiện cho việc quản lý tốt người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh.

88

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Những yêu cầu đặt ra và cơ sở của việc củng cố hoàn thiện pháp luật về

quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi; phương hướng hoàn thiện,

giải pháp thực hiện pháp luật về quản lý lao động ở tỉnh Quảng Ngãi từ đó

hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định của luật pháp liên quan đến

người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và về lâu dài cần nghiên cứu, xây

dựng, ban hành luật về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, trong đó có

quy định về quyền, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động,

các cơ quan liên quan tới các hình thức đi làm việc của người LĐNN và

người sử dụng lao động nước ngoài. Trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nâng

cao hiệu quả công tác quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi cho

những năm tiếp theo. Chương 3 đã đề cập tới những nội dung chính như:

Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thực hiện đúng chế độ báo cáo tình

hình sử dụng lao động nước ngoài, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng

trực tuyến đồng bộ hóa dữ liệu.

89

KẾT LUẬN

Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu

hóa. Hội nhập giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp tác cùng

có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức.

Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di chuyển lao

động là điều không tránh khỏi. Vấn đề sử dụng lao động nước ngoài ở các

nước trên thế giới xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của mỗi nước để

phát triển kinh tế - xã hội. Sử dụng lao động nói chung và sử dụng lao động

nước ngoài làm việc tại các cơ sở kinh tế ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề

quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát

triển của mỗi quốc gia và đặc biệt là ở nước ta.

Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam sẽ làm tăng thêm số lượng

cũng như làm phong phú thêm lực lượng lao động, đồng thời tăng tính cạnh

tranh trên thị trường lao động. Tuy vậy, việc di chuyển của người nước ngoài

vào vào Việt Nam sẽ làm cho số lượng và cơ cấu lao động thay đổi. Chính vì

vậy, thu thập thông tin, nắm được cung - cầu và sự biến động cung - cầu lao

động nói chung và lao động nước ngoài nói riêng làm cơ sở để quyết định

chính sách đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hoàn thiện các

văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng lao động nước ngoài tại Việt

Nam, đồng thời xây dựng chế độ thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, tổ

chức có sử dụng lao động nước ngoài, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp

luật lao động. Đây là việc làm thường xuyên và liên tục nhằm uốn nắn những

sai lệch, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt

nội dung quản lý nhà nước đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật đối với

lao động nước ngoài, tác giả phân tích thực trạng quản lý lao động nước ngoài

90

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Kết hợp định hướng và mục tiêu nâng cao hiệu

quả quản lý lao động nước ngoài trên địa bàn, tác giả đã đề xuất các giải pháp

cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối với lao động nước

ngoài trên địa bàn Quảng Ngãi trong thời gian tới.

Những giải pháp nêu trên nếu được các cấp chính quyền tỉnh Quảng

Ngãi áp dụng trên địa bàn sẽ mang lại lợi ích đối với thực hiện pháp luật về

công tác quản lý LĐNN trên địa bàn nhằm thực hiện hiệu quả nghị định

11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 về Quy định chi tiết và thi hành một số điều

của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Vì vậy lĩnh vực pháp luật này phải dựa vào mô hình quản lý lao động

nước ngoài và bảo đảm các nguyên tắc: tôn trọng quyền con người; bảo đảm

an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo

vệ việc làm cho người lao động trong nước; tôn trọng các quyền và lợi ích

hợp pháp của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam về

lĩnh vực này có nhiều bất cập do các nguyên nhân như: nhà làm luật chưa xác

định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài;

những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được

cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao; thiếu coi trọng vai trò của tư

pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý.

Do đó, việc củng cố hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần có định hướng

như xây dựng pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp

ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng

lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn

xã hội, và giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội nhập

quốc tế và bảo vệ quyền con người. Đi cùng với định hướng này cần có các giải

pháp liên quan tới kinh tế, xã hội và giải pháp pháp lý.

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí Thư (2010), Chỉ thị số 40-CT-TW ngày 20/01/2010 về tăng

cường công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam.

2. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2008), Thông tư số 08/2008/TT-

BLĐTBXH ngày 10/6/2008 hướng dẫn một số điều của Nghị định số

34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển

dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2009) Thông tư số 13/2009/TT-

BLĐTBXH ngày 06/5/2009 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý

nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và

khu công nghệ cao.

4. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2011), Thông tư số 31/2011/TT-

BLĐTBXH ngày 03/11/2011 hướng dẫn một số điều của Nghị định

số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của Chính phủ sửa đổi bổ sung

một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của

Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm

việc tại Việt Nam.

5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư số 03/2014/TT-

BLĐTBXH ngày 20/01/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của

Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam.

6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư số 40/2016/TT-

BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn thi hành một số điều của

Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy

định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam.

7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Văn bản số 1581/UBND-

VX ngày 09/8/2012 của về tăng cường quản lý lao động nước

ngoài.

8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Công văn số

5233/LĐTBXH-VL ngày 29/12/2016

9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Đề tài cơ sở : Tình hình

quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

10. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt

Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.

11. Chính phủ (2008), Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy

định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt

Nam.

12. Chính phủ (2011) Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi

bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày

25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người

nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

13. Chính phủ (2013), Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy

định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam.

14. Chính phủ (2016), Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 quy

định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam.

15. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động.

16. Chính phủ (2015), Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa

đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày

22/8/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực lao động.

17. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.

18. Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.

19. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú

và thành viên gia đình họ năm 1990.

20. Công ước số 97 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

21. Công ước số 143 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

22. Công ước số 150 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

23. Phan Huy Đường (2011), Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài

ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ.

24. Phạm Thị Hương Giang (2015), Hoàn thiện Pháp luật về quản lý lao

động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội.

25. Phạm Thị Hương Giang (2016), Pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

(www.tcdcpl.moj.gov.vn)

26. Nguyễn Thị Thu Hương và Nguyễn Thị Bích Thủy (2012), Chuyên đề

Lao động nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và những vấn đề đặt

ra.

27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Bảo vệ người lao động di

trú, Nxb. Lao động, Hà Nội.

28. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền của người lao

động di trú (Công ước của Liên hiệp quốc và những văn kiện quan

tọng của ASEAN), Sách tham khảo, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2-

2010.

29. Bùi Sỹ Lợi (2016), “Một số định hướng sửa đổi, bổ sung Pháp luật lao

động…”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 529 ngày 16-30/6/2016

(Tr. 5)

30. Lưu Bình Nhưỡng (2009), “Một số vấn đề pháp lý về người nước ngoài

đến làm việc tại Việt Nam” (tr. 1 – 10), Tạp chí Luật học, Số

9/2009.

31. Lê Hồng Huyên (VNH3.TB5.791), “Tác động của di chuyển lao động

quốc tế đối vứi sự phát triển kinh tế xã hội - Việt Nam trong hội

nhập kinh tế quốc tế”, www.hids.hochiminhcity.gov.vn.

32. Lê Phương (2015), “Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam:

Hài hòa giữa yêu cầu và lợi ích”, Báo Lao động, thứ Bảy ngày

12/09/ 2015.

33. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

nước cộng hòa XHCN Việt Nam.

34. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ Luật

lao động.

35. C.Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, trang 23

36. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và một số Sở, ngành liên quan

(2015), Các báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra tình hình lao động

nước ngoài làm việc trên địa bàn tình Quảng Ngãi của Đoàn kiểm

tra liên ngành qua các năm 2013, 2014, 2015.

37. Lê Thị Hoài Thu (2013), “Bảo đảm quyền của người lao động di trú

trong pháp luật lao động Việt Nam” (tr. 201 – 224), Bảo đảm quyền

con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

38. Phạm Công Trứ (2013), “Quyền của người lao động trong các văn kiện

pháp lý quốc tế: Một bộ phận cấu thành hệ thống các quyền con

người” (tr. 11 – 22), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao

động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

39. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948.

40. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Văn bản số 2920/UBND-VX ngày

25/04/2014 của về tăng cường quản lý lao động nước ngoài Chính

phủ Việt Nam.

41. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Công văn số 321/UBND-KGVX ngày

18/01/2017 của về tăng cường công tác quản lý lao động nước

ngoài làm việc tại Việt Nam.

42. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch

phát triển kinh tế xã hội số 133/BC-UBND ngày 26/7/2016.

43. Viện Nhà nước và Pháp luật (2017), Pháp luật về quản lý lao động nước

ngoài ở Việt Nam của tác giả Phạm Thị Hương Giang

Tiếng Anh

44. ASEAN (2014), Asean Conference on Globalization and Labor

Administration: Cross-Border Labor Mobility, Social Security and

Regional Integration, Manila, Philippines, November 19-21,2014.