BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ THÚY NGA
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VIÊN CHỨC
TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
TRỰC THUỘC CÁC BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ THÚY NGA
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VIÊN CHỨC
TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
TRỰC THUỘC CÁC BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN VĂN HÙNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu và số liệu đƣợc nêu trong Luận văn là trung thực, rõ ràng
và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số
liệu, bài viết có liên quan đến Luận văn đều đƣợc tác giả ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả Luận văn
Vũ Thị Thúy Nga
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài Luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Phan Văn Hùng - Vụ trƣởng Vụ Chính quyền địa
phƣơng, Bộ Nội vụ - ngƣời hƣớng dẫn khoa học đã trực tiếp đã tận tâm dành
thời gian và công sức hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn.
Tôi xin kính gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh đạo Học viện Hành
chính Quốc gia, Ban Quản lý đào tạo sau đại học, Khoa Nhà nƣớc - Pháp luật
là Lý luận cơ sở và các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi trong quá trình
học tập tại trƣờng; Lãnh đạo và các cô, chú, anh, chị đồng nghiệp đang công
tác tại Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình thu thập tài liệu và nghiên cứu đề tài.
Luận văn đƣợc hoàn thành dựa trên sự tham khảo, học tập kinh nghiệm
từ các kết quả nghiên cứu, các bài viết liên quan đăng trên các tạp chí,
webside uy tín của nhiều tác giả đang công tác tại các bộ, ngành và các trƣờng
đại học. Tuy có nhiều cố gắng, nhƣng nội dung Luận văn này không tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên gia,
đồng nghiệp, những ngƣời quan tâm đến đề tài tiếp tục có những ý kiến đóng
góp, giúp đỡ để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
LÝ VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRỰC
THUỘC BỘ .................................................................................................... 7
1.1. Đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc bộ .................................................................................................... 7
1.1.1. Đơn vị sự nghiệp công lập .................................................................... 7
1.1.2. Viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập ...................... .………….. 9
1.1.3. Quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập ........................... 14
1.2. Pháp luật về quản lý về viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc bộ ......................................................................................................... 15
1.2.1. Vai trò pháp luật về quản lý viên chức………………………………15
1.2.2. Nội dung pháp luật về quản lý viên chức……………………………18
1.2.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý viên chức…..19
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập ............................................................................................ 21
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 27
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
LẬP TRỰC THUỘC CÁC BỘ HIỆN NAY. ............................................... 28
2.1. Chất lƣợng đội ngũ viên chức ................................................................ 28
2.2. Các quy định hiện hành của pháp luật quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc các bộ ................................................................ 30
2.3. Thực trạng các quy định pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc các bộ ................................................................. 31
2.4. Thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ.. .............................................. 34
2.5. Đánh giá pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc các bộ ..................................................................................... 62
2.5.1. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân ....................................................... 62
2.5.2. Hạn chế và nguyên nhân ..................................................................... 64
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 67
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT QUẢN LÝ VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG
LẬP TRỰC THUỘC CÁC BỘ HIỆN NAY ................................................ 68
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị
sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ ............................................................ 68
3.2. Giải pháp hoàn thiện trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các
bộ .................................................................................................................. 70
3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quản lý viên
chức... ............................................................................................................ 70
3.2.2. Tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả pháp luật về quản lý viên
chức. .............................................................................................................. 81
3.2.3. Các giải pháp khác .............................................................................. 83
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 86
KẾT LUẬN ................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 88
PHỤ LỤC 1 ................................................................................................... 94
PHỤ LỤC 2 ................................................................................................... 95
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong những năm gần đây, do xu hƣớng xã hội hóa dịch vụ công diễn
ra mạnh mẽ, một số nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công đã đƣợc khu vực tƣ
nhân, các tổ chức dân sự, phi chính phủ, hiệp hội… cung ứng, thậm chí là
quản lý và cung ứng, Nhà nƣớc chỉ giữ lại vai trò ban hành khung quy định
và bảo đảm chất lƣợng cho ngƣời dân. Do đó, có chế quản lý đối với đội ngũ
viên chức - những ngƣời trực tiếp làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công
lập - đơn vị cung ứng dịch vụ công cần có sự thay đổi theo hƣởng mở rộng
và linh hoạt hơn để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Ở nƣớc ta, việc xây dựng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đƣợc xác định là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành
chính. Luật Viên chức năm 2010 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý để hoàn thiện
cơ chế quản lý đội ngũ viên chức - những ngƣời hoạt động nghề nghiệp phục
vụ quản lý nhà nƣớc và xã hội; đánh dấu một bƣớc tiến mới, góp phần cải
cách hiệu quả hoạt động khu vực công theo hƣớng hiện đại, năng động và
xây dựng đội ngũ viên chức đủ phẩm chất, trình độ và năng lực đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của ngƣời dân và xã hội đối với dịch vụ công. Tuy nhiên,
cũng đang còn nhiều hạn chế, bất hợp lý trong việc đáp ứng nhu cầu, lợi ích
ngày càng đa dạng của ngƣời dân và xã hội về cả số lƣợng và chất lƣợng.
Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó,
nguyên nhân quan trọng và tác động trực tiếp chính là sự chƣa hợp lý về cơ
chế quản lý đội ngũ viên chức - nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực sự
nghiệp công.
Cụ thể đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ hiện
nay, trong quá trình tổ chức hoạt động cũng gặp không ít khó khăn, vƣớng
mắc, đặc biệt là các quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý và giao chỉ tiêu biên chế viên chức, xác định vị trí việc làm và cơ cấu viên
chức; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp…Bên cạnh nguyên nhân khách
quan là do các văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đội
1
ngũ viên chức chƣa đƣợc đánh giá, tổng kết để sửa đổi, bổ sung những điểm
không còn phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, còn do nguyên nhân
chủ quan là các bộ chƣa chủ động ban hành đầy đủ các văn bản hƣớng dẫn
liên quan đến quản lý đội ngũ viên chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhƣ:
quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; chƣa phê duyệt
mô tả công việc để xác định chức danh, tiêu chuẩn, yêu cầu đối với từng vị
trí cần tuyển dụng cũng nhƣ hệ thống ngân hàng đề thi phục vụ cho việc
tuyển dụng ;việc đánh giá viên chức còn mang tính nội bộ, khép kín, thiếu
sự đánh giá độc lập; quản lý viên chức, tinh giản biên chế sự nghiệp chƣa
đƣợc các bộ quan tâm thực hiện nghiêm túc…
Từ các vấn đề đã phân tích ở trên, tác giả chọn và nghiên cứu đề tài:
“Pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc các bộ ở Việt Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan và cần thiết cả về
lý luận, và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý viên chức không còn là một vấn đề mới, nhất là sau khi Luật
Viên chức năm 2010 ra đời. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiếp cận vấn
đề này ở các khía cạnh khác nhau nhƣ các bài viết đăng trên các báo, tạp chí,
các đề tài nghiên cứu cấp bộ, các luận văn Thạc sỹ…; trong đó, có thể kể
đến một số công trình:
- Vũ Khoan - Nguyên Uỷ viên Trung ƣơng Đảng, Nguyên Phó Thủ
tƣớng Chính phủ (2009): “Một số suy nghĩ về việc xây dựng Luật Viên
chức”, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 7.
- GS.TS. Phạm Hồng Thái (2009) về “Sự điều chỉnh của pháp luật về
viên chức”, Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc, số 1.
- TS. Trần Anh Tuấn (2011) “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên
chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 8.
- TS. Trần Anh Tuấn chủ biên (2012) “Pháp luật về công vụ, công
chức của Việt Nam và một số nƣớc trên thế giới”.
2
- TS. Trần Anh Tuấn (2012) “Tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong khu vực sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc, số 6.
- Ths. Lê Minh Hƣơng (2012) “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng
và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của Chính phủ. Tạp chí
Tổ chức Nhà nƣớc, số 5.
- Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), “Quản lý nhà nƣớc đối với viên chức
y tế ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học
viện Hành chính Quốc gia.
- Lƣơng Thị Phƣơng Chi (2013), “Thể chế quản lý viên chức - Từ thực
tiễn tỉnh Hƣng Yên”, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện
Hành chính Quốc gia.
- Vũ Hoàng Quỳnh (2016), “Quản lý nhà nƣớc đối với viên chức
ngành y tế - từ thực tiễn Bệnh viện Phổi Trung ƣơng”, Luận văn thạc sỹ Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia.
- TS. Trần Văn Ngợi (2017), “Báo cáo tổng hợp kết quả Dự án: Điều
tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ viên chức
khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nƣớc ta”, Viện Khoa học tổ chức Nhà nƣớc.
- ThS Trần Lƣu Trung (2017), “Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đội
ngũ viên chức hoạt động trong các lĩnh vực công của một số nƣớc trên thế
giới ”, Đề tài khoa học cấp Bộ.
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng hoạt động các đơn vị sự nghiệp công lập và
hệ thống pháp luật về quản lý đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp
công lập đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nƣớc.
Tuy vậy, chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt các
quy định pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc các bộ. Nhằm giảm bớt số đầu mối và nâng cao năng lực, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Chính phủ, hiện nay các bộ đƣợc tổ chức theo hƣớng
bộ đa ngành, đa lĩnh vực; vì vậy, khối lƣợng công việc lớn và chức năng,
3
nhiệm vụ của các bộ tƣơng đối phức tạp, dẫn đến tình trạng, các bộ chƣa
thực hiện tốt vai trò quản lý sự nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực quản lý.
Việc triển khai có hiệu quả Luật Viên chức và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành chƣa đƣợc đầy đủ, đồng bộ. Do đó, nhiều vấn đề về thể chế quản lý
viên chức nhƣ: tuyển dụng, sử dụng, quản lý biên chế viên chức, thực hiện
chính sách tinh giản biên chế đối với viên chức... còn nhiều hạn chế. Với
mong muốn nghiên cứu riêng về đội ngũ viên chức trong đơn vị sự nghiệp
trực thuộc các bộ, luận văn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về đội ngũ viên chức
trong đơn vị sự nghiệp trực thuộc các bộ ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích: Trên cơ sở các nghị quyết, kết luận, thông báo của Trung
ƣơng Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc về đội ngũ viên chức để đánh giá các quy
định của pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý viên chức;
đồng thời đƣa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc các bộ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm đặc điểm, vai trò của đội
ngũ viên chức và nội dung pháp luật về quản lý viên chức trong các đơn vị
sự nghiệp công lập.
+ Phân tích, đánh giá về thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện
các quy định của pháp luật về quản lý viên chức tại các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc các bộ; từ đó, đánh giá và đƣa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật
về quản lý viên chức tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc các bộ hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp
luật về quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó tập
trung vào nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, tuyển dụng,
sử dụng viên chức.
- Phạm vi nghiên cứu:
4
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về các vấn đề:
tuyển dụng, sử dụng, quản lý biên chế sự nghiệp, tinh giản biên chế trong
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc 16 bộ (không bao gồm Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an và 04 cơ quan ngang bộ), cụ thể: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tƣ
pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính, Bộ Công Thƣơng, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và
Môi trƣờng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã
hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục
và Đào tạo, Bộ Y tế và trong thời gian từ năm 2011 khi Luật Viên chức 2010
có hiệu lực và cơ cấu Chính phủ khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021 đi vào hoạt
động cho đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn căn cứ vào phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin và
tƣ tƣởng Hồ chí Minh, quá trình nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử; phƣơng pháp thống kê, nghiên cứu so sánh,
phân tích, quy nạp, diễn dịch và phƣơng pháp thực chứng để phân tích làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Dƣới góc độ là ngƣời làm trong cơ quan quản lý nhà nƣớc về viên chức,
tác giả mong muốn Đề tài nêu ra đƣợc thực trạng còn tồn tại của pháp luật
và thực hiện pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Từ đó, đƣa ra các phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản
lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ, giúp cho
việc thực hiện pháp luật về quản lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp
công lập đạt đƣợc hiệu lực, hiệu quả cao.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, tiểu kết và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về quản lý viên chức
trong đơn vị sự nghiệp công lập
5
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về
quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ hiện nay
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản
lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp trực thuộc các bộ hiện nay.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
TRỰC THUỘC BỘ
1.1. Đơn vị sự nghiệp công lập và viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc bộ
1.1.1. Đơn vị sự nghiệp công lập
- Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập:
Đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc xác định là bộ phận cấu thành bộ máy
cơ quan nhà nƣớc và chịu sự quản lý nhà nƣớc cả về tổ chức cũng nhƣ hoạt
động. Trƣớc đây, chƣa có sự phân biệt cơ chế quản lý giữa đơn vị sự nghiệp
công lập với các cơ quan hành chính nhà nƣớc, giữa ngƣời làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp công lập với cơ quan hành chính nhà nƣớc. Vì vậy,
khái niệm về đơn vị sự nghiệp công lập vẫn chƣa đƣợc ghi nhận trong văn
bản pháp luật cho đến khi Quốc hội thông qua Luật Viên chức năm 2010.
Đây cũng là lần đầu tiên khái niệm này đƣợc ghi nhận trong văn bản pháp
luật, cụ thể tại Khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức quy định: “Đơn vị sự nghiệp
công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tƣ
cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nƣớc” [50].
Từ khái niệm trên, đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc nhận diện thông qua
các yếu tố: (1) Đƣợc thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nƣớc, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội theo trình tự, thủ tục pháp luật quy
định; (2) Là bộ phận cấu thành trong tổ chức bộ máy của cơ quan nhà nƣớc,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (3) Có tƣ cách pháp nhân; (4)
Cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nƣớc; (5) Viên chức là lực
lƣợng lao động chủ yếu, bảo đảm cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của đơn vị sự nghiệp công lập [5].
- Vị trí của đơn vị sự nghiệp công lập:
7
Đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và là bộ
phận cấu thành trong cơ cấu tổ chức của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội nhƣng không mang quyền lực nhà nƣớc, không có
chức năng quản lý nhà nƣớc nhƣ: Xây dựng thể chế, thanh tra, xử lý vi phạm
hành chính…Các đơn vị sự nghiệp công lập bình đẳng với các tổ chức, cá
nhân ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ công cho xã hội.
- Vai trò của đơn vị sự nghiệp công lập:
Nhà nƣớc thiết lập hệ thống đơn vị sự nghiệp để đảm nhận nhiệm vụ
cung cấp các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực, trong đó, các đơn vị sự
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học và công
nghệ, văn hóa, thể thao chiếm số lƣợng lớn. Hệ thống tổ chức các đơn vị sự
nghiệp công lập đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ quản lý nhà
nƣớc đã phát huy đƣợc vai trò giúp các cơ quan nhà nƣớc thực hiện tốt chức
năng quản lý nhà nƣớc. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập làm nhiệm vụ
cung ứng dịch vụ công cơ bản, thiết yếu đã đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời
dân và xã hội.
Hệ thống mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ chủ
yếu phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về ngành, lĩnh vực của các bộ chủ
quản và chiếm số lƣợng tƣơng đối lớn (891 đơn vị sự nghiệp, chiếm 1.54%,
cả nƣớc có 51.170 đơn vị sự nghiệp công lập) [11] (Phụ lục 1). Các đơn vị
sự nghiệp công lập này một phần tham gia vào quản lý nhà nƣớc nhƣ các
viện nghiên cứu, học viện..., số còn lại là cung cấp các dịch vụ công thiết
yếu, cơ bản trên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao...cho
ngƣời dân, xã hội. Việc thành lập cũng nhƣ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các đơn vị sự nghiêp công lập này đƣợc quy
định tại Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của từng bộ hoặc trong quyết định của Thủ tƣớng Chính
phủ về danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ. Các đơn
8
vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ bao gồm: các đơn vị nghiên cứu chiến
lƣợc, chính sách về ngành, lĩnh vực; báo, tạp chí; trung tâm thông tin; trƣờng
hoặc trung tâm đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức, viên chức; học viện...
1.1.2. Viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.2.1. Khái niệm viên chức
Từ trƣớc đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm viên
chức. Theo Từ điển Tiếng Việt, viên chức là một từ Hán - Việt, theo nguyên
nghĩa của từ này, thì viên là ngƣời giữ một chức vụ, chức là các việc về phần
mình, viên chức là ngƣời giữ một chức nghiệp nhất định, thƣờng là trong bộ
máy chính quyền. Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì viên chức là
“ngƣời làm việc ở công thự, ở học hiệu hoặc ở các cơ quan công thƣơng” [44].
Theo TS. Trần Anh Tuấn thì thuật ngữ “công chức”, “viên chức”
thƣờng đƣợc hiểu một cách khái quát là những ngƣời đƣợc Nhà nƣớc tuyển
dụng, nhận một công vụ hoặc một nhiệm vụ nhất định, do Nhà nƣớc trả
lƣơng và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục vụ Nhà nƣớc theo
các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phạm vi rộng hẹp khi xác định đối
tƣợng là công chức hoặc là viên chức nhà nƣớc lại là khác nhau tuỳ từng
quốc gia. Sự khác nhau này phụ thuộc vào thể chế chính trị, cách thức tổ
chức bộ máy nhà nƣớc, và chịu ảnh hƣởng của lịch sử, văn hóa dân tộc
mỗi quốc gia [56].
Tại Hoa Kỳ, viên chức bao gồm: Viên chức làm toàn thời gian và
viên chức làm việc bán thời gian và đƣợc gọi chung là “nhân viên Chính
phủ” [tr27, 53].
Tại Anh, Ca-na-đa, I-ta-li-a, Phần Lan quan niệm, ngƣời làm việc
trong các lĩnh vực sự nghiệp công đơn thuần là ngƣời thực hành một nghề
nghiệp với chuyên môn cao và đáng đƣợc tôn trọng vì mang lại lợi ích chung
cho cộng đồng. Do đó, ngƣời lao động hợp đồng, thời hạn hợp đồng do
thỏa thuận giữa bên tuyển dụng và ngƣời lao động. Theo xu hƣớng này,
ngƣời làm việc trong các lĩnh vực công thƣờng đƣợc coi là các chuyên gia
(chuyên gia y tế, chuyên gia giáo dục…) và các tổ chức, đơn vị cung ứng
9
dịch vụ công, nơi tuyển dụng các chuyên gia này thƣờng có vị thế đối tác
với Chính phủ hơn là phục tùng mệnh lệnh với Chính phủ [tr29, 53].
Ở Việt Nam, sau chế độ quan lại của nhà nƣớc phong kiến, cách hiểu
về khái niệm viên chức có sự thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Một thời
gian dài, chúng ta quan niệm khái niệm “cán bộ, công nhân, viên chức nhà
nƣớc” đƣợc dùng để chỉ tất cả những ngƣời làm việc trong các cơ quan
hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, các nông, lâm, trƣờng quốc doanh.
Khái niệm về viên chức dần đƣợc hình thành và bƣớc đầu có sự phân
biệt với các đối tƣợng khác kể từ khi Pháp lệnh cán bộ công chức 1998 (sửa
đổi, bổ sung năm 2003). Tuy nhiên, sự phân định vẫn chƣa làm rõ đƣợc
thuật ngữ “công chức”, “viên chức” nên những vấn đề liên quan đến cơ chế
quản lý, tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dƣỡng, tiền lƣơng, chính sách
đãi ngộ… phù hợp với tính chất hoạt động đối với từng đối tƣợng chƣa đƣợc
giải quyết triệt để.
Khái niệm viên chức chỉ thực sự đƣợc làm rõ và quy định chi tiết
trong Luật Viên chức đƣợc Quốc hội khóa XII thông qua ngày 15/11/2010
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 (bên cạnh khái niệm “công chức”
đƣợc quy định tại Luật Cán bộ, công chức năm 2008), cụ thể: “Viên chức là
công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị
sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [50].
1.1.2.2. Đặc điểm, vị trí, vai trò của viên chức
- Đặc điểm viên chức
Từ định nghĩa trên, có thể nhận biết viên chức qua các đặc điểm nhƣ:
Viên chức là công dân Việt Nam, có nghề nghiệp, đƣợc tuyển dụng theo chế
độ hợp đồng làm việc và đƣợc bổ nhiệm vào một chức danh nghề nghiệp theo
vị trí việc làm tại đơn vị sự nghiệp công lập, hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà
nƣớc hoặc từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp theo quy định của pháp luật.
10
Tính chuyên môn nghề nghiệp là đặc trƣng của viên chức. Hoạt động
của họ nhằm cung cấp các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho ngƣời dân và xã hội
nhƣ giáo dục, đào tạo, y tế, an sinh xã hội, hoạt động khoa học, văn hoá, nghệ
thuật, thể dục, thể thao. Những hoạt động này không nhân danh quyền lực
chính trị hoặc quyền lực công, không phải là các hoạt động quản lý nhà nƣớc
mà chỉ thuần tuý mang tính nghề nghiệp gắn với nghiệp vụ, chuyên môn.
- Vị trí, vai trò của viên chức
Đội ngũ viên chức là yếu tố cấu thành nên tổ chức và hoạt động của
đơn vị sự nghiệp công lập có hiệu quả. Nhờ đội ngũ viên chức mà các đơn vị
sự nghiệp mới phát huy đƣợc vai trò phục vụ dịch vụ công trên mọi mặt của đời
sống kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội. Quan trọng hơn, đội ngũ viên chức
giữ vai trò quan trọng trong việc trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ công, góp
phần vào sự phát triển và tăng trƣởng mọi mặt trong đời sống xã hội.
Trên thực tế, ngƣời dân và xã hội cảm thụ tính ƣu việt của Nhà nƣớc
chính là thông qua những gì họ đƣợc thụ hƣởng từ dịch vụ công mang lại. Ở
nƣớc ta, cùng với những thành tựu đạt đƣợc từ quá trình đổi mới toàn diện
đất nƣớc, hệ thống dịch vụ công cũng từng bƣớc đƣợc cải thiện. Đội ngũ
viên chức với đông đảo các nhà khoa học, nghiên cứu, chuyên gia, kỹ sƣ tâm
huyết…đóng vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển hoạt động, nâng
cao năng suất, chất lƣợng hàng hóa dịch vụ công của Nhà nƣớc, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của ngƣời dân và xã hội, nhất là hệ thống dịch vụ công
trong lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa…cả về loại hình, số lƣợng
và chất lƣợng; cải thiện năng lực cạnh tranh của dịch vụ công với các đơn vị
ngoài công lập, doanh nghiệp tƣ nhân… và nền kinh tế thế giới, tạo sự công
bằng, ổn định và phát triển xã hội một cách bền vững.
Hiện nay, các mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức
đƣợc quy định tại các Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch do các bộ chủ quản phối
hợp với Bộ Nội vụ ban hành và nó đƣợc phân loại theo từng lĩnh vực hoạt
động nghề nghiệp với các cấp độ từ cao xuống thấp nhƣ: Viên chức giữ chức
danh nghề nghiệp hạng I, hạng II, hạng III, hạng IV. Ví dụ, trong lĩnh vực
11
giáo dục (mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học đƣợc
quy định tại Thông tƣ liên tịch số 21/2015/TTLT-BGDĐT-BNV) có: Giáo
viên tiểu học hạng II (Mã số: V.07.03.07); Giáo viên tiểu học hạng III (Mã
số: V.07.03.08); Giáo viên tiểu học hạng IV (Mã số: V.07.03.09).
1.1.2.3. Quá trình hình thành đội ngũ viên chức
Quá trình hình thành đội ngũ viên chức trong đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc các bộ gắn liền với quá trình hình thành đội ngũ viên chức của
cả hệ thống chính trị Việt Nam. Một thời kỳ dài từ khi dựng nƣớc, đấu tranh
giành độc lập và thống nhất đất nƣớc, dù trong điều kiện thực hiện cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp hay trong quá trình chuyển sang cơ chế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thể chế quản lý đội ngũ công chức, viên
chức đƣợc áp dụng chung, chƣa tính đến tính chất, đặc điểm đặc thù lao
động của công chức, viên chức. Năm 1998, Nhà nƣớc ban hành Pháp lệnh
cán bộ, công chức, theo đó những ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp
công lập cũng nằm trong nội hàm “cán bộ, công chức” và chịu sự điều chỉnh
của Pháp lệnh cũng nhƣ các văn bản hƣớng dẫn thực hiện. Sau thời gian
thực hiện từ năm 1998 đến năm 2003, thực hiện chủ trƣơng của Đảng về tiếp
tục xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, đẩy mạnh
phân cấp quản lý cán bộ, công chức, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính
nhà nƣớc, năm 2003, Nhà nƣớc đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh cán bộ, công chức. Trong đó, có một nội dung rất quan trọng, đó là việc
phân định cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan hành chính của
Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội với cán bộ, công chức làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Do đó, từ năm 2003, Chính phủ quy
định cán bộ, công chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc
gọi chung là viên chức. Đây có thể coi là cơ sở pháp lý quan trọng để bƣớc
đầu đổi mới cơ chế quản lý đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp,
đáp ứng yêu cầu cải cách khu vực sự nghiệp công.
12
Tuy nhiên, Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 và các lần Pháp
lệnh đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003 và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành vẫn chƣa phân định triệt để khái niệm đội ngũ cán bộ, công chức. Cụm
từ “cán bộ, công chức” đƣợc dùng chung cho những ngƣời đƣợc bầu cử,
đƣợc tuyển dụng làm việc trong các cơ quan của Đảng, của Nhà nƣớc và tổ
chức chính trị - xã hội và những ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp
công lập; vì vậy, các quy định về quyền, nghĩa vụ, tuyển dụng, bổ nhiệm,
điều động, bồi dƣỡng, đánh giá, chính sách tiền lƣơng đều đƣợc áp dụng
chung cho cả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong khu vực hành
chính cũng nhƣ trong khu vực sự nghiệp. Điều này đã gây cản trở cho việc
phát triển cũng nhƣ quản lý đội ngũ viên chức.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010 ra đời
hoàn thành đƣợc nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và đầu tiên đã giải quyết
thành công, đó là làm rõ đƣợc những tiêu chí xác định ai là cán bộ, ai là công
chức, ai là viên chức. Đây là căn cứ pháp lý thể hiện tính đặc thù trong hoạt
động công vụ của cán bộ khác với hoạt động công vụ của công chức; hoạt
động nghề nghiệp của viên chức liên quan đến các nội dung nhƣ: quyền và
nghĩa vụ, bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi
dƣỡng; điều động, luân chuyển; đánh giá;... Đội ngũ viên chức đƣợc hình
thành và đƣợc tác bạch với đội ngũ cán bộ, công chức, và chịu sự điều chỉnh
của Luật Viên chức. Đây là bƣớc tiến mới của Nhà nƣớc ta trong quá trình
xây dựng hệ thống pháp luật về quản lý đội ngũ làm việc trong khu vực công.
Hiện nay, với xu hƣớng vận hành tổ chức bộ máy các bộ quản lý nhà
nƣớc đa ngành, đa lĩnh nên các bộ quản lý các đơn vị trực thuộc tƣơng đối
lớn với đội ngũ viên chức đông đảo với 185.225 ngƣời với trình độ, năng lực
chuyên môn khác nhau; làm việc tại các trƣờng; trung tâm đào tạo, bồi
dƣỡng; học viện, báo, tạp chí; trung tâm thông tin; và là ngƣời tham gia vào
quá trình quản lý nhà nƣớc (đối với viên chức làm việc tại các viện nghiên
cứu) và tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng dịch vụ công thuộc ngành,
lĩnh vực quản lý của cơ quan nhà nƣớc cấp trên quản lý. Có thể thấy đội ngũ
13
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ đã tham gia vào
tất cả các hoạt động cung ứng dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực quản lý
nhà nƣớc của các bộ chủ quản với mạng lƣới, quy mô, số lƣợng và chất
lƣợng ngày càng cao; góp phần to lớn vào mục tiêu của Nhà nƣớc nhƣ: giảm
nghèo bền vững, phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cƣờng bình đẳng giới, nâng
cao sức khỏe nhân dân, bảo đảm bền vững môi trƣờng, tiến tới công bằng xã
hội đẩy nhanh, mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc…
1.1.3. Quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý
- Khái niệm quản lý:
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát
sinh khi cần có sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn
ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp.
Do đó, quản lý chính là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và
định hƣớng của chủ thể quản lý lên một đối tƣợng quản lý để điều chỉnh các
quá trình xã hội và hành vi của con ngƣời, nhằm duy trì tính ổn định và phát
triển của đối tƣợng quản lý theo những mục tiêu đã định [tr19, 47a].
- Đặc điểm quản lý: Quản lý bao gồm các yếu tố sau:
Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có
thể là một cá nhân hoặc tổ chức.
Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ
thể quản lý, đó là hành vi của con ngƣời và các quá trình xã hội.
Đối tƣợng quản lý: tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy
theo từng loại đối tƣợng khác nhau mà ngƣời ta chia thành các dạng quản lý
khác nhau.
Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất
định do chủ thể quản lý định trƣớc. Quản lý là một hoạt động phức tạp và nó
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố đó là: con ngƣời; hệ thống
và tƣ tƣởng chính trị; tổ chức; thông tin; văn hóa...
14
1.1.3.2. Nội dung quản lý viên chức
Quản lý viên chức là việc cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nƣớc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực hiên văn bản quy phạm
pháp luật; thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo; khen thƣởng…đối
với đội ngũ viên chức. Cụ thể, theo quy định tại Điều 44 Nghị định số
29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý viên chức, nội dung quản lý viên chức bao gồm: (1) Xây dựng kế
hoạch, quy hoạch viên chức; (2) Quy định tiêu chuẩn, chức danh nghề
nghiệp viên chức; xác định vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh
nghề nghiệp và số lƣợng viên chức làm việc tƣơng ứng; (3) Tổ chức thực
hiện việc tuyển dụng, ký hợp đồng làm việc, bố trí, phân công nhiệm vụ, biệt
phái, kiểm tra và đánh giá viên chức; (4) Tổ chức thực hiện thay đổi chức
danh nghề nghiệp; (5) Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dƣỡng đối với
viên chức; (6) Tổ chức thực hiện chế độ tiền lƣơng và các chế độ, cá nhân
đãi ngộ đối với viên chức; (7) Tổ chức thực hiện việc khen thƣởng, kỷ luật
đối với viên chức; (8) Giải quyết thôi việc và nghỉ hƣu đối với viên chức; (9)
Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê và quản lý hồ sơ viên chức; (10) Thanh
tra, kiểm tra việc thi hành quy định của pháp luật về viên chức; (11) Giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với viên chức.
1.2. Pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc bộ
1.2.1. Vai trò của pháp luật về quản lý viên chức
Pháp luật là công cụ quản lý nhà nƣớc và điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Vai trò điều chỉnh đó trƣớc hết và chủ yếu thể hiện ở các quy phạm pháp
luật. Quy phạm pháp luật về quản lý viên chức đƣợc thể chế hóa trên các quan
điểm, đƣờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc nhằm điều chỉnh
các quan hệ về quản lý, sử dụng, tuyển dụng viên chức phát sinh trong quá
trình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cũng nhƣ các quy
phạm pháp luật khác, quy phạm pháp luật về quản lý viên chức có tính bắt buộc
chung do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành và tần số áp dụng lặp đi
15
lặp lại nhiều lần trong cuộc sống cho đến khi quy phạm đó đƣợc sửa đổi, bổ
sung hoặc huỷ bỏ. Cụ thể, vai trò của pháp luật về quản lý viên chức chính là:
1.2.1.1. Công cụ thể chế hóa đƣờng lối, quan điểm, chính sách của
Đảng về quản lý viên chức
Sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
cũng nhƣ đối với hoạt động quản lý cán bộ, công chức, viên chức đƣợc thể
hiện bằng các chỉ thị, nghị quyết, kết luận. Một số Nghị quyết của Đảng
trong thời gian gần đây nhƣ: Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2018 của
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của mộ máy nhà nƣớc; Nghị
quyết số 27/NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ƣơng khóa XII về cải cách chính sách tiền lƣơng đối với cán bộ, công
chức, viên chức, lực lƣợng vũ trang và ngƣời lao động trong doanh nghiệp;
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lƣợc đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ; Kết luận số 34-KL/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị về
thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ƣcmg khoá XII Một số vấn đề về tiếp
tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả…
Trên cơ sở chỉ thị, nghị quyết, kết luận, đƣờng lối, chính sách của Đảng
đƣợc thể chế hóa thành pháp luật nói chung và pháp luật về quản lý viên
chức nói riêng - phƣơng tiện quản lý của Nhà nƣớc, mang tính bắt buộc mọi
tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo.
Ở mỗi một thời kỳ phát triển đất nƣớc, quan điểm chỉ đạo của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nƣớc về mọi mặt trong đời sống xã hội (trong
đó hệ thống pháp luật về quản lý đội ngũ viên chức) đều có sự điều chỉnh,
bổ sung cho phù hợp để đáp ứng với yêu cầu phát triển của đất nƣớc cũng
nhƣ phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, hoàn
16
thiện hệ thống pháp luật về quản lý viên chức, cần phải nắm vững, bảo đảm
thực hiện đúng theo chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc.
1.2.1.2. Công cụ quan trọng nhất để thực hiện quản lý viên chức
Pháp luật công cụ hữu hiệu, chủ yếu và quan trọng nhất đối với quản lý
viên chức, bởi vì, pháp luật có tính cƣỡng chế, bắt buộc bảo đảm quyền bình
đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân. Với những đặc điểm riêng của mình, chỉ có
pháp luật mới có khả năng triển khai những chủ trƣơng, chính sách của Nhà
nƣớc một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên phạm vi rộng. Mặt
khác, với tƣ cách là chủ thể quản lý, Nhà nƣớc sử dụng pháp luật để phát
huy quyền lực và quyền kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nƣớc và công
dân trong việc tổ chức, thực hiện pháp luật về quản lý viên chức, các hoạt
động quản lý viên chức vi phạm pháp luật sẽ bị Nhà nƣớc ngăn chặn và xử
lý. Quan trọng hơn nữa đó là chỉ có pháp luật mới tạo đƣợc hành lang pháp
lý cho các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện quản lý viên chức. Vì
vậy, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về quản lý
viên chức là cần thiết, nó sẽ là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện chức
năng quản lý viên chức.
1.2.1.3. Góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ công chức, viên chức
Quá trình nỗ lực cải cách hành chính ở Việt Nam với mục tiêu chung
là: Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, một Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, một đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có đủ năng lực và phẩm chất hoàn thành nhiệm vụ đƣợc
giao.Với mục tiêu đã đề ra thì việc trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức đƣợc Đảng, Nhà nƣớc ta quan tâm hàng đầu. Việc xây dựng
cơ chế, chế tài đủ mạnh, tính khả thi cao nhằm tinh giản, loại bỏ số lƣợng
không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng đƣợc yêu cầu công
việc, có lối sống buông thả, tha hóa, biến chất là giải pháp quan trọng nhằm
hạn chế tệ nạn tham ô, tham nhũng, tiêu cực đang là một trong những vấn
nạn gây nhức nhối, bức xúc cho ngƣời dân và xã hội.
17
Hệ thống các quy phạm pháp luật cần phải có sự điều chỉnh phù hợp
với thực tiễn diễn ra trong quá trình tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ,
công chức, viên chức theo hƣớng lựa chọn đƣợc những ngƣời có đủ phẩm
chất, năng lực vào những vị trí thích hợp. Cùng với đó là đẩy mạnh lộ trình
thực hiện cải cách chế độ, chính sách tiền lƣơng nhằm tạo động lực để đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức yên tâm cống hiến, phát huy đƣợc sở
trƣờng, năng lực của bản thân trong môi trƣờng làm việc trong sạch, minh
bạch, hiệu quả.
1.2.2. Nội dung pháp luật về quản lý viên chức
Quản lý viên chức là một trong những loại hình hoạt động quản lý
nhà nƣớc nên việc phát sinh các quan hệ xã hội là tất yếu; vì vậy, nội
dung pháp luật về quản lý viên chức phải thể hiện sự điều chỉnh đầy đủ,
toàn diện đối với các quan hệ phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt
động quản lý viên chức. Chúng ta có thể phân chia chúng thành ba nhóm
quan hệ chủ yếu là: nhóm quan hệ mang tính chất nội dung; nhóm quan hệ
mang tính chất tổ chức và quản lý; nhóm quan hệ mang tính chất trình tự,
thủ tục. Các nhóm quan hệ này có sự chi phối lẫn nhau và tạo nên trật tự
pháp luật về quản lý viên chức.
- Nhóm quan hệ mang tính chất nội dung: Nó phản ánh việc thi hành
và chấp hành các quy định pháp luật về quản lý viên chức nhƣ: Quyết
định chỉ tiêu tuyển dụng viên chức hàng năm; Quyết định ban hành kế
hoạch đào tạo, bồi dƣỡng viên chức, Quyết định thanh tra, kiểm tra hoạt
động quản lý viên chức. Các quy định, quyết định đó là căn cứ để xác
định thẩm quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quản lý viên chức cũng nhƣ
quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị và những viên chức có liên
quan phải có trách nhiệm thi hành, chấp hành.
- Nhóm quan hệ mang tính tổ chức và quản lý: Đây là nhóm các quan
hệ phát sinh trong quá trình hình thành tổ chức, hoạt động và cơ chế quản
lý các cơ quan quản lý viên chức. Các quan hệ này liên quan đến việc
hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của
18
cơ quan quản lý viên chức. Đây là nhóm quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy,
tăng cƣờng nâng cao hoạt động tổ chức và quản lý viên chức, xây dựng cơ
chế quản lý viên chức phù hợp với từng ngành, lĩnh vực.
- Nhóm quan hệ mang tính chất trình tự, thủ tục quản lý viên chức:
Đặc trƣng cơ bản của quản lý viên chức là đƣợc tiến hành theo trình tự,
thủ tục chặt chẽ mang tính hành chính, chịu sự điều chỉnh của pháp luật
về quản lý viên chức và một số các quy định của pháp luật liên quan.
Chính vì vậy, trình tự, thủ tục quản lý viên chức làm xuất hiện hàng loạt
các mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá trình quản lý viên chức cũng
nhƣ những quan hệ phát sinh trong việc ra quyết định tuyển dụng, điều
động, bổ nhiệm, luân chuyển…hay mối quan hệ phát sinh trong việc ra
quyết định thanh tra, kiểm tra hoạt động quản lý viên chức; các mối quan
hệ phát sinh liên quan đến thủ tục khiếu nại tố cáo, đơn thƣ của các chủ
thể trong quá trình quản lý viên chức [tr28, 47].
1.2.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý viên chức
Pháp luật nói chung và pháp luật quản lý viên chức không ngừng vận
động, phát triển phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Với những giai đoạn lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội, quan hệ giai cấp mà Nhà nƣớc ban hành hệ thống pháp luật phù hợp
nhƣng theo quy luật, chúng sẽ phát triển, hoàn thiện, hiệu quả và tiến bộ. Do
đó, các yếu tố pháp luật không bao giờ thoát ly khỏi môi trƣờng chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định trong đó có
pháp luật quản lý viên chức. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện pháp luật về quản
lý viên chức cần có những điều kiện nhất định, đó là điều kiện đảm bảo về
chính trị - tƣ tƣởng; điều kiện về pháp lý; điều kiện về kinh tế - xã hội - văn
hóa. Cụ thể:
1.2.3.1. Điều kiện bảo đảm về chính trị - tƣ tƣởng
Trên cơ sở chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng về đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức, Nhà nƣớc đề ra chính sách xây dựng hệ thống pháp luật liên
quan để quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiệu quả, phù hợp với
19
tình hình phát triển của đất nƣớc. Vì vậy, với tƣ cách là chủ thể của pháp
luật, ý thức và lập trƣờng tƣ tƣởng chính trị của đội ngũ viên chức có vai trò
to lớn, ảnh hƣởng đến việc xây dựng, hoàn thiện cũng nhƣ bảo đảm thực
hiện pháp luật về quản lý viên chức đƣợc hiệu lực, hiệu quả.
1.2.3.2. Điều kiện bảo đảm về pháp lý
Để bảo đảm tính pháp lý, các quy định pháp luật liên quan đến đội
ngũ viên chức về nguyên tắc, đối tƣợng, nội dung, trình tự, thủ tục phải bảo
đảm tính toàn diện, thống nhất, khả thi với hệ thống pháp luật nói chung, kỹ
thuật lập pháp hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển chính trị, kinh tế - xã
hội, văn hóa của đất nƣớc ở mỗi giai đoạn lịch sử. Sự hoàn thiện của cơ chế
thực hiện pháp luật về viên chức cũng là điều kiện bảo đảm cho việc thực
hiện có hiệu quả quản lý viên chức. Các chủ thể thực hiện pháp luật (đội ngũ
viên chức, cơ quan, tổ chức) trong phạm vi, trách nhiệm của mình tự giác
chuyển tải những yêu cầu của quy phạm pháp luật thành những hành vi trên thực
tế. Cùng với đó, các cá nhân, ngƣời có thẩm quyền, các cơ quan áp dụng pháp
luật với ý thức pháp luật cao áp dụng pháp luật chính xác, xử lý nghiêm minh đối
với các hành vi vi phạm pháp luật sẽ tạo ra một trật tự pháp luật và pháp chế
trong xã hội, góp phần thực hiện pháp luật về viên chức có hiệu quả [44a].
1.2.3.3. Điều kiện bảo đảm về kinh tế - xã hội, văn hóa
Là yếu tố của cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế của đất nƣớc có vai trò
to lớn trong việc thực thi pháp luật về quản lý viên chức - một yếu tố thuộc
kiến trúc thƣợng tầng. Các cơ quan, đơn vị cần đƣợc tạo điều kiện về trụ sở
làm việc, phƣơng tiện, kinh phí, lƣơng và các chế độ chính sách cho đội ngũ
viên chức để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, nếu
nền kinh tế yếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn nhất định sẽ ảnh
hƣởng đến việc thực thi và mức độ thực hiện các quy định của pháp luật về
viên chức [44a].
Trong xã hội ngoài pháp luật còn có những công cụ khác nhƣ đạo đức,
phong tục tập quán, tín ngƣỡng tôn giáo..., những công cụ này cùng với pháp
luật luôn có tác động rất lớn lên các quan hệ xã hội. Sự tác động của các quy
20
phạm pháp luật khác nhau lên các mối quan hệ xã hội luôn không đơn giản,
chúng có liên quan, ảnh hƣởng qua lại lẫn nhau. Pháp luật chỉ có thể phát
huy đƣợc vai trò, tác dụng của mình một cách tốt nhất khi có sự tác động
cùng chiều, phù hợp với những công cụ điều chỉnh khác.
Do vậy, pháp luật về quản lý viên chức đòi hỏi phải phù hợp với
phong tục, tập quán, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với các
giá trị đạo đức, văn hoá của nhân dân các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nƣớc. Sự phù hợp của pháp luật về quản lý viên chức với đạo đức, văn hóa
dân tộc, với thuần phong mỹ tục của đất nƣớc, với các công cụ điều chỉnh
quan hệ xã hội khác cũng là một trong những yếu tố phản ánh chất lƣợng của
nó, là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về quản lý viên chức
đƣợc nghiêm minh trên cơ sở tự giác của mọi tầng lớp trong xã hội [tr35, 47].
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập
1.3.1. Xu hƣớng đổi mới tổ chức, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập
Quá trình đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập bắt nguồn từ việc thực
hiện thí điểm chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp công lập có thu
theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ, tiếp theo
đó là Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và hiện nay là thực hiện theo Nghị
định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự
chủ của đơn vị sự nghiệp công lập [45a].
Trong những năm qua, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập không ngừng đƣợc đổi mới. Bên cạnh tự chủ về tài chính, đơn vị sự
nghiệp còn đƣợc tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế; góp phần nâng cao tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị sự
nghiệp công lập; nhờ đó làm tăng nguồn thu sự nghiệp và tăng thu nhập cho
21
công chức, viên chức; tính công khai, minh bạch và dân chủ trong các quyết
định và hoạt động tại các đơn vị sự nghiệp công lập cũng đƣợc tăng cƣờng.
Việc đổi mới tổ chức, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập là xu hƣớng
tất yếu của nền kinh tế thị trƣờng khi mà Việt Nam từng bƣớc gia nhập các
hiệp hội kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trong phát biểu khai mạc
Hội nghị Trung ƣơng 6 (khóa XII) khi đề cập đến nội dung về tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập, Tổng Bí thƣ Nguyễn Phú Trọng đã nhận
định: Đổi mới tổ chức, nâng cao chất lƣợng dịch vụ và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp
phát triển đất nƣớc nhanh và bền vững theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, thể
hiện tính ƣu việt của chế độ ta.
Tại Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống các
đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Nội vụ trình Hội nghị Ban chấp hành Trung
ƣơng khóa 6 năm 2017 đã đƣa ra một số xu hƣớng đổi mới tổ chức và hoạt động
của đơn vị sự nghiệp nhƣ: Đẩy mạnh chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập
sang mô hình tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tƣ, chi thƣờng xuyên, thực hiện
quản lý, kế toán theo mô hình doanh nghiệp; chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp
công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần (trừ các trƣờng học, bệnh viện và
các đơn vị sự nghiệp công lập đảm nhận dịch vụ công không có nguồn thu
nhập); đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hóa, trƣớc hết là các cơ sở
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở y tế, tổ chức khoa học và công
nghệ ở những địa bàn có khả năng xã hội hóa cao...[11, tr.11].
Việc đổi mới quản lý tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập cũng sẽ tác
động rất lớn đến hệ thống các quy phạm pháp luật liên quan đến đội ngũ
viên chức - đối tƣợng bị quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập, nhƣ: đổi mới
cơ chế xác định và giao biên chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập do ngân
sách nhà nƣớc bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thƣờng xuyên; đẩy mạnh
thí điểm việc thi tuyển và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự
22
nghiệp công lập; thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn trong đơn
vị sự nghiệp công lập đối với những trƣờng hợp tuyển dụng mới; không thực
hiện chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị sự
nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị và quản lý nhà nƣớc) [11, tr.9]
1.3.2. Năng lực quản lý của Nhà nƣớc đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Năng lực quản lý của Nhà nƣớc ảnh hƣởng rất lớn đến công tác quản lý
viên chức. Năng lực quản lý thể hiện ở việc hoạch định chính sách, kế hoạch
thực hiện chính sách đó có phù hợp với tình hình thực tiễn đối với từng
ngành, lĩnh vực.
Thời gian qua tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
tƣơng đối ổn định. Các bộ chủ quản đã làm tốt vai trò quản lý nhà nƣớc với
các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc quyền quản lý. Với trách nhiệm quản lý
nhà nƣớc, các bộ đã tích cực triển khai đổi mới đồng bộ cả về tổ chức và
hoạt động, đẩy mạnh tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, góp
phần mở rộng mạng lƣới, tăng quy mô, số lƣợng và nâng cao chất lƣợng các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, văn hoá, thể
thao, khí tƣợng, thủy văn..., với đông đảo đội ngũ trí thức, các nhà khoa học,
các nhà giáo dục và các nhà văn hoá, phát huy vai trò chủ đạo, vị trí then
chốt trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và thực hiện chính sách an sinh
xã hội, đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình điều hành, quản lý của Nhà nƣớc về tổ chức
bộ máy và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn tồn tại một số hạn
chế, cụ thể:
Thứ nhất, các bộ quản lý ngành, lĩnh vực trực tiếp quản lý nhiều đơn
vị sự nghiệp công lập1. Cơ chế cơ quan chủ quản là các bộ không cho phép
tách bạch rõ giữa chức năng quản lý nhà nƣớc với chức năng chủ quản đơn
vị sự nghiệp công lập. Đây là một bất cập chung đã đƣợc nêu trong nhiều
nghị quyết nhƣng đến nay chƣa có hƣớng giải quyết; ảnh hƣởng đến chức
1 Bộ Y tế: 83 đơn vị; Bộ Khoa học và Công nghệ: 67 đơn vị; Bộ Giáo dục và Đào tạo: 55 đơn vị…[11].
năng quản lý nhà nƣớc của các bộ, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
23
nƣớc của các bộ chƣa cao, chƣa tập trung đƣợc nhiều cho việc xây dựng cơ
chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Thứ hai, việc quy hoạch mạng lƣới đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc còn chậm, chƣa khoa học, hợp lý, mang tính chất sáp nhập, giảm đầu mối theo hình thức “nguyên trạng”2, chƣa tinh giản đƣợc bộ máy và số lƣợng
ngƣời làm việc. Nhiều đơn vị sự nghiệp công lập có quy mô nhỏ, trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động chƣa đƣợc quy hoạch, dẫn đến bộ
máy các đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả3. Bên cạnh đó, bản thân các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa chủ động,
tích cực trong việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy bên trong của đơn vị.
Thứ ba, quá trình thúc đẩy thực hiện tự chủ tài chính của các đơn vị sự
nghiệp công lập chƣa có sự quan tâm của bộ chủ quản, còn chậm, không
đồng đều; bởi vì không có chế tài, áp lực ràng buộc các đơn vị sự nghiệp
công lập phải tiến hành tự chủ về tài chính để tăng sức cạnh tranh với các
đơn vị sự nghiệp ngoài công lập và các doanh nghiệp tƣ nhân.
Thứ tư, việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập chƣa đi kèm với cơ chế thanh tra, kiểm tra nên dễ dẫn xu
hƣớng “độc đoán, chuyên quyền” của ngƣời đứng đầu các đơn vị sự nghiệp
công lập; vì vậy, một số sai phạm đã xảy ra trong việc tuyển dụng, sử dụng
viên chức tại một số đơn vị sự nghiệp.
Nguyên nhân dẫn đến một số hạn chế, tồn tại về quản lý của Nhà nƣớc
đối với đơn vị sự nghiệp công lập, cụ thể:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy của các bộ chƣa ổn định, có sự thay đổi
theo cơ cấu Chính phủ qua các nhiệm kỳ. Việc sắp xếp lại các bộ thành các
bộ đa ngành chƣa đi liền với việc điều chỉnh chức năng, cắt giảm nhiệm vụ
của các bộ. Các bộ đa ngành đƣợc hình thành trên cơ sở hợp nhất các bộ đơn
2 Năm 2017, Học viện Hành chính Quốc gia tiếp nhận nguyên trạng 45 công chức, viên chức, 02 hợp đồng 68 và 20 hợp đồng chuyên môn nghiệp vụ của Trƣờng Đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ,công chức (số liệu tham khảo tại Đề án quy hoạch mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc, trực thuộc Bộ Nội vụ đến năm 2020, định hƣớng đến năm 2030, năm 2017).
3 15/16 bộ có trƣờng đại học; 06/16 bộ có bệnh viện; 100% các bộ đều có các viện nghiên cứu, cơ quan báo chí, trƣờng đạo tạo,
bồi dƣỡng cán bộ, công chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý [11].
ngành có khối lƣợng công việc quá lớn, quá phức tạp; bên cạnh các công việc
24
thuộc chức năng quản lý nhà nƣớc, các bộ vẫn đang đảm đƣơng nhiều nhiệm
vụ trong đó có quản lý hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, số lƣợng đơn vị trực
thuộc các bộ tƣơng đối lớn, cồng kềnh, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Thứ hai, việc quy hoạch, sắp xếp mạng lƣới đơn vị sự nghiệp công lập
còn chậm trễ; thiếu quyết tâm của bộ chủ quản và ngƣời đứng đầu đơn vị sự
nghiệp trong việc sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc chuyển đổi hoạt động các
đơn vị sự nghiệp công lập .
Thứ ba, ngƣời đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa chủ động đổi
mới, chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự cân đối chi phí hoạt động
thƣờng xuyên, chƣa thay đổi tƣ duy phụ thuộc vào ngân sách nhà nƣớc, dựa vào
các bộ chủ quản để dễ triển khai các hoạt động, thiếu sự nhạy bén với cơ chế thị
trƣờng nên hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa thực sự hiệu quả.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp công lập
trong việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật chƣa đƣợc
thƣờng xuyên, chặt chẽ; chƣa có chính sách khuyến khích các đơn vị sự
nghiệp chuyển đổi hoạt động theo cơ chế tự chủ và chƣa có chế tài xử lý đối
với đơn vị sự nghiệp công lập chậm chuyển đổi thực hiện theo cơ chế tự chủ.
Quá trình tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập vận
hành tốt sẽ làm cơ sở giúp đội ngũ viên chức phát huy đƣợc năng lực, sở
trƣờng, góp phần nâng cao chất lƣợng dịch vụ công phục vụ cho ngƣời dân
và xã hội. Để thực hiện đƣợc điều đó, Nhà nƣớc cần ban hành và hoàn thiện
hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, có nhƣ vậy việc quản lý của Nhà nƣớc đối với các đơn vị
sự nghiệp mới có hiệu lực, hiệu quả.
1.3.3. Mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập
Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện tự chủ, tự chịu trách
nhiệm đƣợc thực hiện hầu hết tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Việc mở rộng
trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp công lập trong tổ
chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính đã
phát huy mọi khả năng của đơn vị, góp phần nâng cao số lƣợng và chất
25
lƣợng dịch vụ công; tạo điều kiện cho ngƣời dân có thêm nhiều cơ hội lựa
chọn, tiếp cận các dịch vụ công với chất lƣợng ngày càng cao, góp phần cải
thiện từng bƣớc thu nhập của ngƣời lao động tại các đơn vị sự nghiệp.
Theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy
định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thì việc tự chủ về tài chính
của các đơn vị đƣợc quy định tƣơng ứng với từng loại hình đơn vị sự nghiệp,
trên nguyên tắc các đơn vị tự đảm bảo kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức
độ tự chủ càng cao. Quy định này nhằm khuyến khích các đơn vị tăng thu,
giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nƣớc, trong đó có bao cấp tiền lƣơng tăng
thêm, để dần chuyển sang các loại hình đơn vị tự đảm bảo chi thƣờng xuyên,
đơn vị tự đảm bảo chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ. Hiện nay, cả nƣớc có 57.171
đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện giao cơ chế tự chủ về tài chính theo các mức độ khác nhau (trong đó, có 865 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ 4,
đạt 1,53%) [11].
Nâng cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là một chủ trƣơng
đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực hiện tốt chính sách này, sẽ có tác
động rất lớn đến việc tạo động lực, thúc đẩy sự phát triển của việc cung cấp sản
phẩm dịch vụ công, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của dân cƣ; hơn nữa nó sẽ tác
động tích cực đến đời sống của đội ngũ viên chức nhƣ: thu nhập tăng thêm, các
khoản chi phúc lợi, lễ tết đƣợc nâng cao.
Để chính sách pháp luật liên quan đến đội ngũ viên chức đƣợc đồng bộ
với mức độ tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thì pháp luật về quản lý viên
chức cũng đƣợc điều chỉnh phù hợp theo nguyên tắc các đơn vị sự nghiệp tự
chủ kinh phí hoạt động càng nhiều thì mức độ tự chủ càng cao cả về tuyển
4 Tự bảo đảm chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ: 06 đơn vị, chiếm tỷ lệ 0,69%; tự bảo đảm chi thƣờng xuyên: 186 đơn vị, chiếm tỷ lệ 21,50%; tự bảo đảm một phần chi thƣờng xuyên: 527 đơn vị, chiếm tỷ lệ 60.92%; ngân sách nhà nƣớc bảo đảm toàn bộ kinh phí
hoạt động: 146 đơn vị, chiếm tỷ lệ 16.89% [11, Phụ lục 9.1].
dụng, sử dụng, tổ chức thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức…
26
Tiểu kết Chƣơng 1
Pháp luật về quản lý viên chức là hành lang pháp lý quan trọng trong việc
quản lý và nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức, bảo đảm cho đơn vị sự
nghiệp công lập hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Việc xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về quản lý viên chức ở nƣớc ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính, cải cách chế độ công vụ, công chức là một tất yếu khách quan.
Nội dung của pháp luật về quản lý viên chức tập trung điều chỉnh mối
quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nƣớc về viên chức với cơ quan, tổ chức, đơn
vị; mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền quản lý viên chức
với nhau, về công tác quản lý biên chế viên chức, vấn đề tuyển dụng, sử dụng
viên chức hiện nay tại các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay.
Chƣơng 1 luận văn đã đƣa ra những vấn đề cơ bản, chung nhất về cơ sở
lý luận của pháp luật về đơn vị sự nghiệp công lập, về viên chức và khái
niệm pháp luật về quản lý viên chức, các yếu tố tác động đến pháp luật về
quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Từ kết quả nghiên cứu ở
Chƣơng 1, có thể thấy rằng, yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quản lý viên
chức là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu
của Chƣơng 1 sẽ là cơ sở để tác giả phân tích thực trạng pháp luật về quản lý
viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ ở Việt Nam
hiện nay đƣợc trình bày tại Chƣơng 2.
27
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRỰC THUỘC CÁC BỘ HIỆN NAY
2.1. Chất lƣợng đội ngũ viên chức
Theo nguồn số liệu tại Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ
chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập năm 2017 của Bộ Nội vụ:
- Về số lƣợng viên chức: Tính đến nay số lƣợng viên chức trong các đơn
vị sự nghiệp trực thuộc bộ là 185.225 ngƣời (Phụ lục1). Trong đó: Số ngƣời
làm việc đƣợc cấp có thẩm quyền giao: 124.029 ngƣời; số ngƣời làm việc
đơn vị tự quyết định: 51.925 ngƣời; hợp đồng lao động theo Nghị định số
68/2000/NĐ-CP: 9.271 ngƣời.
-Về cơ cấu, chất lƣợng đội ngũ viên chức: Nữ: 100.188 ngƣời, chiếm
tỷ lệ 54,09%; đảng viên:79.980 ngƣời, chiếm tỷ lệ 43,18%; ngƣời dân tộc
thiểu số: 3.779 ngƣời, chiếm tỷ lệ 2,04%; tôn giáo: 3.316 ngƣời, chiếm tỷ lệ
1,79%. Chia cụ thể nhƣ sau:
+ Theo trình độ chuyên môn: Tiến sĩ: 13.484 ngƣời, chiếm tỷ lệ
7,28%; thạc sĩ: 49.492 ngƣời, chiếm tỷ lệ 26,72%; đại học: 50.899 ngƣời,
chiếm tỷ lệ 27,48%; cao đẳng: 5.094 ngƣời, chiếm tỷ lệ 2,75%; trung cấp:
17.170 ngƣời, chiếm tỷ lệ 9,27%; sơ cấp: 49.085 ngƣời, chiếm tỷ lệ 26,50%.
+ Theo trình độ lý luận chính trị: Cử nhân: 1.389 ngƣời, chiếm tỷ lệ
0,75%; cao cấp: 6.445 ngƣời, chiếm tỷ lệ 3,48%; trung cấp: 35.767 ngƣời,
chiếm tỷ lệ 19,31%; sơ cấp: 62.754 ngƣời, chiếm tỷ lệ 33,88%;
+ Theo trình độ tin học: Trung cấp trở lên: 15.892 ngƣời, chiếm tỷ lệ
8,58%; chứng chỉ: 130.343 ngƣời, chiếm tỷ lệ 70,37%;
+ Theo trình độ ngoại ngữ: Tiếng Anh: Đại học trở lên: 18.115 ngƣời,
chiếm tỷ lệ 9,78%; chứng chỉ: 128.083 ngƣời, chiếm tỷ lệ 69,15%; ngoại ngữ
khác: Đại học trở lên: 3.112 ngƣời (chiếm tỷ lệ 1,68%); chứng chỉ: 10.465 ngƣời
(chiếm tỷ lệ 5,65%).
28
+ Theo độ tuổi: Từ dƣới 30 tuổi trở xuống: 34.656 ngƣời, chiếm tỷ lệ
18,71%; từ 31 tuổi đến 40 tuổi: 87.593 ngƣời, chiếm tỷ lệ 47,29%; từ 41 tuổi
đến 50 tuổi: 41.268 ngƣời, chiếm tỷ lệ 22,28%; từ 51 tuổi đến 60 tuổi:
22.875 ngƣời, chiếm tỷ lệ 12,35%. Trong đó: Nữ từ 51-55: 7.650 ngƣời,
chiếm tỷ lệ 4,13%; nam từ 56-60: 9.539 ngƣời, chiếm tỷ lệ 5,15%.
Chất lƣợng viên chức đã có những chuyển biến tích cực nhất định,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, cũng nhƣ tin học,
ngoại ngữ đã đƣợc nâng cao để đáp ứng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
và yêu cầu nhiệm vụ. Về cơ bản, đội ngũ viên chức tại các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc bộ có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành nghiêm đƣờng
lối chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc; có tinh thần
trách nhiệm cao, có ý thức tu dƣỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp tốt; công
tác xây dựng, kiện toàn đội ngũ viên chức đã đƣợc các bộ quan tâm chú trọng
và có những đổi mới tích cực theo hƣớng trẻ hoá, chuẩn hóa trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, góp phần xây dựng đội ngũ viên chức chuyên nghiệp có đủ
phẩm chất, trình độ và năng lực, đáp ứng nhu cầu phục vụ ngƣời dân và xã
hội, nâng cao chất lƣợng dịch vụ công đủ sức cạnh tranh với các tổ chức, đơn
vị ngoài công lập và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng và nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên
chức thì hiện nay công tác cán bộ đối với đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc bộ vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể:
Một là, tình trạng “đông nhƣng chƣa mạnh” của đội ngũ viên chức là
do năng lực, trình độ chuyên môn nghề nghiệp chƣa đồng đều, số viên chức
làm việc không đúng với chuyên ngành đƣợc đào tạo còn cao; việc đào tạo,
bồi dƣỡng cho đội ngũ viên chức chƣa đƣợc các đơn vị sự nghiệp quan tâm
đúng mức, dẫn đến trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ chƣa thực sự
đáp ứng đƣợc yêu cầu của thực tiễn.
Hai là, cơ cấu đội ngũ viên chức chƣa hợp lý, tỷ lệ đội ngũ viên chức
làm công tác phục vụ chiếm tỷ lệ cao. Do vậy, đội ngũ viên chức vừa thừa lại
vừa thiếu, thừa ngƣời làm công tác phục vụ, thiếu ngƣời làm chuyên môn,
29
nghiệp vụ; dẫn đến chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công
lập chƣa cao, chất lƣợng dịch vụ công chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời
dân và xã hội.
Ba là, tác phong công tác, nề nếp làm việc của đội ngũ viên chức
chuyển biến chậm, thiếu sáng tạo, nên chƣa có những giải pháp tốt, mang tính
đột phá trong thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, ý thức trách nhiệm với công việc
không cao, làm việc theo kiểu cầm chừng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên.
2.2. Các quy định hiện hành của pháp luật về viên chức
Hiện nay, hệ thống pháp luật về quản lý viên chức ở nƣớc ta tƣơng đối
hoàn thiện. Nó đƣợc thể hiện trong Hiến pháp, trong các văn bản Luật nhƣ:
Luật Viên chức, Luật tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật tổ chức chính
quyền địa phƣơng năm 2015 và các văn bản dƣới luật nhƣ: Nghị định, thông
tƣ, các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành…Cụ thể:
- Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh
giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
- Kết luận số 86-KL/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về chính
sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa
học trẻ.
- Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý viên chức.
- Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 06/4/2012 Quy định về xử lý kỷ
luật viên chức và trách nhiệm bồi thƣờng, hoàn trả của viên chức.
- Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 quy định về vị trí việc
làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 Quy định về thành
lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.
- Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về
đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức.
- Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP
30
- Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức, viên chức.
- Nghị định số 72/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phrur quy
định mức lƣơng cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lƣợng vũ
trang.
.......
Thông tƣ của Bộ Nội vụ:
- Thông tƣ số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 quy định về chức danh
nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức.
- Thông tƣ số 14/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 hƣớng dẫn thực
hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/ 5/2012 của Chính phủ quy định
về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Thông tƣ số 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 hƣớng dẫn về tuyển
dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dƣỡng đối với
viên chức.
- Thông tƣ số 16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012 ban hành Quy chế
thi tuyển, xét tuyển viên chức; Quy chế thi thăng hạng chức danh nghề
nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh
nghề nghiệp đối với viên chức.
2.3. Thực trạng các quy định pháp luật về quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ
Sau khi Luật Viên chức đƣợc Quốc hội khóa XII thông qua và có hiệu
lực thi hành, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ phối hợp với các bộ quản lý
chuyên ngành cụ thể hóa và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành Luật viên chức phù hợp với ngành, lĩnh
vực quản lý, bảo đảm tính khả thi, góp phần quan trọng hoàn thiện hệ thống
thể chế hóa chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nƣớc; đáp ứng yêu cầu của công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức, nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức theo đúng tinh thần và các quy
định của Luật.
31
Trên cơ sở hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về viên chức, các bộ
đã triển khai thực hiện đồng bộ đến từng đơn vị sự nghiệp công lập, đội ngũ
công chức,viên chức thuộc thẩm quyền quản lý. Theo số liệu của Bộ Nội vụ
tại Báo cáo tổng kết thi hành Luật Viên chức (2012-2018) đến nay có 131
văn bản liên quan đến công tác xây dựng và quản lý đội ngũ viên chức của
Đảng, Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính
phủ, Bộ, ngành Trung ƣơng; cụ thể trong từng lĩnh vực nhƣ: Tổ chức bộ
máy, biên chế: 07; tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức: 10; chức danh
nghề nghiệp: 32; thăng hạng viên chức: 11; Đào tạo, bồi dƣỡng: 07; đánh giá
viên chức: 03; chế độ, chính sách đối với viên chức: 49; chuyển đổi vị trí
công tác: 03; xử lý kỷ luật: 04 [13. Phần Phụ lục danh mục văn bản của
Đảng và văn bản quy phạm pháp luật về viên chức].
Hiện nay, tuyển dụng và bổ nhiệm viên chức đƣợc các bộ bảo đảm
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục đƣợc quy định tại Luật Viên chức và
các văn bản hƣớng dẫn thi hành và phân cấp thẩm quyền tuyển dụng cho các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc quyền quản lý theo mức độ tự chủ của đơn
vị. Do đó, việc tuyển dụng đã từng bƣớc căn cứ vào nhu cầu công việc và vị
trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lƣơng của đơn vị
sự nghiệp công lập; bảo đảm tính công khai, minh bạch, công bằng, khách
quan.... Đối với việc bổ nhiệm viên chức thực hiện theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Viên chức đƣợc bổ nhiệm đều thuộc diện quy hoạch, đƣợc tín
nhiệm cao, có kinh nghiệm công tác, am hiểu và có khả năng đảm đƣơng
công việc đƣợc giao. Việc quản lý số lƣợng ngƣời làm việc, xác định vị trí
việc làm, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, thăng hạng chức danh nghề nghiệp
viên chức, công tác đánh giá, phân loại viên chức, công tác đào tạo, bồi
dƣỡng đội ngũ viên chức đƣợc các bộ chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc thực hiện theo đúng các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản
chuyên ngành, lĩnh vực. Các bộ cũng đã thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra
việc thực hiện nhiệm vụ tại các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc quyền quản
lý. Qua đó, đã kịp thời khắc phục, chấn chỉnh những tồn tại, thiếu sót trong
32
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp; đồng thời làm rõ trách nhiệm cá nhân có
liên quan và có biện pháp xử lý theo thẩm quyền; góp phần vào việc xây
dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao
Có thể thấy kể từ sau khi Luật Viên chức và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành đƣợc ban hành, các bộ đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc
hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý đội ngũ viên chức, góp phần nâng cao
chất lƣợng đội ngũ viên chức và chất lƣợng cung ứng dịch vụ công bảo đảm
mọi tầng lớp nhân dân đều đƣợc tiếp cận, sử dụng dịch vụ sự nghiệp công
một cách công bằng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nƣớc trong
thời kỳ mời - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Trong thời gian qua, các bộ chủ quản đã rất tích cực triển khai thi hành
Luật Viên chức để hƣớng dẫn thực thi tại các đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc thẩm quyền quản lý, song trên thực tế vẫn gặp một số khó khăn,
vƣớng mắc, bất cập sau:
Một là, việc xây dựng danh mục vị trí việc tại các đơn vị sự nghiệp
công lập còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tính chất, đặc điểm của
từng vị trí việc làm nên các đơn vị sự nghiệp trực thuộc bộ chƣa đƣợc phê
duyệt bản mô tả công việc để xác định chức danh, tiêu chuẩn, yêu cầu đối
với từng vị trí cần tuyển dụng. Chƣa có căn cứ để xác định số lƣợng ngƣời
làm việc cần thiết để hoàn thành khối lƣợng công việc đƣợc giao hàng năm.
Vì vậy, việc tuyển dụng vẫn mang tính chất lấy cho đủ số lƣợng ngƣời làm
việc đƣợc giao. Các bộ quản lý ngành chƣa thống nhất về tiêu chuẩn, trình
độ đối với cùng một hạng viên chức dẫn tới các đơn vị sự nghiệp gặp lúng
túng trong quá trình triển khai thực hiện.
Hai là, việc đánh giá, phân loại viên chức chƣa phản ánh đƣợc sát thực
về phẩm chất, năng lực của viên chức do các tiêu chí còn chung chung, áp
dụng cho nhiều đối tƣợng, nhóm ngƣời, chƣa phản ánh đúng thực chất chất
lƣợng hiệu quả công việc. Kết quả đánh giá chƣa gắn với kết quả, sản phẩm
cụ thể, còn mang tính hình thức, nặng về thành tích, nể nang, cảm tính, chƣa
xây dựng đƣợc cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những viên chức yếu kém,
33
không đủ sức khỏe đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc, ảnh hƣởng đến hiệu
quả, chất lƣợng công việc chung của đơn vị.
Ba là, chính sách thu hút, đãi ngộ đối với viên chức gặp nhiều khó khăn
về cơ chế và tiền lƣơng, còn tình trạng cào bằng, bình quân nên khó thu hút
đƣợc ngƣời tài vào làm việc trong khu vực sự nghiệp công...
Việc triển khai thi hành Luật Viên chức vào thực tiễn tại các đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc các bộ còn gặp một số khó khăn, hạn chế nêu trên là do: Có
nhiều vấn đề mới, phức tạp liên quan đến việc đổi mới về cơ chế quản lý
viên chức; có những vấn đề lần đầu tiên đƣợc triển khai thực hiện ở nƣớc ta
nhƣ: mô tả, xác định vị trí việc làm, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp
hoặc có những vấn đề liên quan đến các quy định của pháp luật chuyên
ngành khác đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện (Luật Giáo dục, Luật
Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Khám bệnh, chữa
bệnh...) dẫn đến việc một số bộ nhƣ: Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo chậm
triển khai một số quy định của Luật Viên chức liên quan đến xác định vị trí
việc làm, mã ngạch, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, xét thăng hạng chức
danh nghề nghiệp của viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.
Bên cạnh đó, các bộ thiếu sự phối hợp với Bộ Nội vụ, chƣa phát huy
đƣợc tinh thần trách nhiệm trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý; vì vậy việc lập kế hoạch xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thi hành Luật Viên chức tại một số
bộ còn chậm, không đúng tiến độ đề ra. Do đó làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng
thể chế quản lý đội ngũ viên chức thuộc ngành, lĩnh vực các bộ quản lý.
2.4. Thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quản lý viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ hiện nay
2.4.1. Về tuyển dụng viên chức
Trƣớc năm 1986, tuyển dụng công chức, viên chức vào làm việc trong
các cơ quan nhà nƣớc nói chung đƣợc thực hiện thông qua xét tuyển. Việc
xét tuyển chủ yếu dựa vào lý lịch, quá trình công tác cũng nhƣ giải quyết chế
độ chính sách, hợp lý hóa gia đình... chƣa có những quy định xác định các
34
tiêu chuẩn cụ thể, rõ ràng nên việc tuyển dụng còn thiếu khoa học, chất
lƣợng công chức, viên chức chƣa cao.
Năm 1993, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế và cải cách hành
chính nhà nƣớc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25-CP ngày 25/3/1993
quy định tạm thời chế độ tiền lƣơng mới của công chức, viên chức hành
chính, sự nghiệp và lực lƣợng vũ trang; theo đó, cùng với cải cách chính
sách tiền lƣơng thì tuyển dụng, nâng ngạch công chức đƣợc chuyển từ xét
tuyển sang thi tuyển.
Giai đoạn từ năm 1998 đến trƣớc năm 2003, thực hiện Pháp lệnh Cán
bộ, công chức, cơ chế tuyển dụng viên chức đƣợc thực hiện theo chế độ
tuyển dụng suốt đời. Sự thăng tiến của viên chức đƣợc thực hiện thông qua
bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc thông qua kỳ thi nâng ngạch.
Từ năm 2003 đến trƣớc khi Luật Viên chức ra đời, tuyển dụng viên chức
đƣợc thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển, thực hiện chế độ hợp đồng làm
việc, tuy nhiên vẫn dựa trên chỉ tiêu biên chế và chức danh ngạch viên chức.
Khi Luật Viên chức năm 2010 ra đời, việc tuyển dụng viên chức đƣợc hiện
theo tinh thần đổi mới, đó là “phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc
làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp
công lập” và thực hiện theo các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Viên chức
nhƣ: Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012; Thông tƣ số
15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 hƣớng dẫn về tuyển dụng, ký hợp đồng
làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dƣỡng đối với viên chức (sau đây
viết tắt là Thông tƣ số 15/2012/TT-BNV); Thông tƣ số 16/2012/TT-BNV
ngày 28/12/2012 ban hành Quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức, Quy chế
thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi
tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, thẩm quyền
tuyển dụng tiếp tục đƣợc đổi mới theo hƣớng có quy định phân cấp, đề cao
trách nhiệm của ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong công tác
tuyển dụng. Cụ thể:
35
- Về thẩm quyền tuyển dụng: Ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công
lập đƣợc giao quyền tự chủ thực hiện việc tuyển dụng viên chức vào đơn vị
sự nghiệp đƣợc giao quản lý; đối với đơn vị sự nghiệp chƣa đƣợc giao quyền
tự chủ thì cơ quan, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm ngƣời đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập tổ chức thực hiện hoặc phân cấp tổ chức thực
hiện việc tuyển dụng viên chức.
- Về nội dung, hình thức tuyển dụng: Ngƣời đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập đƣợc giao quyền tự chủ quyết định hình thức và nội dung
thi tuyển phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng; trƣờng hợp
đơn vị chƣa đƣợc giao quyền tự chủ thì ngƣời đứng đầu đơn vị có thể đƣợc
ủy quyền quyết định hình thức tuyển dụng. Việc tuyển dụng đƣợc thực hiện
thông qua hình thức thi tuyển hoặc xét tuyển.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc bộ thực hiện việc tuyển dụng chủ yếu
thông qua hình thức thi tuyển; các quy trình thủ tục liên quan đến quá trình
tuyển dụng đƣợc công khai hóa ở từng đơn vị tuyển dụng, tạo điều kiện cho
ngƣời có nhu cầu thi tuyển tiếp cận thông tin phù hợp với trình độ, năng lực
thi vào đúng ngành, nghề đào tạo, đúng vị trí việc làm cần tuyển; bƣớc đầu
đã khuyến khích đƣợc những ngƣời trẻ, sinh viên giỏi vào làm việc trong
khu vực nhà nƣớc, đảm bảo minh bạch, công bằng cho mọi đối tƣợng tham
gia dự tuyển. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tuyển dụng đã đƣợc triển khai tại một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc một số bộ5
nhằm hạn chế tiêu cực, nâng cao chất lƣợng trong tuyển dụng.
Căn cứ vào kết quả tuyển dụng, ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập ký kết hợp đồng làm việc với ngƣời trúng tuyển vào viên chức
(Khoản 2 Điều 24 Luật Viên chức). Các nội dung liên quan đến hợp đồng
làm việc của viên chức đƣợc quy định tại Mục 2 Chƣơng III Luật Viên chức;
theo đó, đối với viên chức đƣợc tuyển dụng sẽ ký hợp đồng xác định thời
5 Bộ Nội vụ; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tài chính...
hạn (từ 12 tháng đến 36 tháng), sau khi kết thúc hợp đồng xác định thời hạn
36
thì viên chức đƣợc ký hợp đồng không xác định thời hạn (thực hiện tƣơng tự
nhƣ quy định về hợp đồng lao động theo quy định của Bộ Luật Lao động).
Giai đoạn hiện nay, thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày
17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; Quyết định số 2218/QĐ-TTg ngày 10/12/2015 của
Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 39-NQ/TW; Nghị quyết số 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 của Chính
phủ về phiên họp Chính phủ thƣờng kỳ tháng 9 năm 2016, việc tuyển dụng
viên chức tăng thêm so với tổng số viên chức đƣợc cấp có thẩm quyền giao
tại đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ (đối với đơn vị sự nghiệp
công lập chƣa đƣợc giao tự chủ) chỉ đƣợc thực hiện khi đơn vị sự nghiệp
công lập đƣợc đƣợc thành lập mới, hay bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ
hoặc thay đổi phƣơng thức dạy học nhất là trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo,
tăng các cơ sở khám chữa bệnh, tăng quy mô giƣờng bệnh trong lĩnh vực y
tế... nên việc tuyển dụng viên chức không đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, vì
vậy, nhiều đơn vị sự nghiệp công lập còn sử dụng lao động hợp đồng trong
thời gian dài, ảnh hƣởng đến công tác quản lý viên chức.
Trên cơ sở thực hiện Nghị định số 29/2012/NĐ-CP và Thông tƣ số
15/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ, các bộ chủ quản đã phân cấp và trao
quyền tự chủ nhân sự cho các đơn vị sự nghiệp công lập trên cơ sở theo
nguyên tắc gắn thẩm quyền tuyển dụng với thẩm quyền sử dụng theo mức
độ tự chủ để áp dụng việc tuyển dụng phù hợp với hoạt động của đơn vị,
bƣớc đầu kết hợp giữa chỉ tiêu biên chế và nhu cầu công việc, vị trí việc làm,
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, có chính sách phù hợp để thu hút viên
chức có trình độ về làm việc; góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập.
Việc thực hiện phân cấp và trao quyền tự chủ nhân sự cho các đơn vị
sự nghiệp công lập trên cơ sở thực hiện chế độ hợp đồng làm việc đối với
viên chức đã làm tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy và
hoạt động, chủ động trong việc sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý, chất
37
lƣợng để hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao cũng nhƣ đề cao trách nhiệm và
thẩm quyền của ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới cơ chế
tuyển dụng viên chức đã góp phần phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của
đội ngũ viên chức; tạo động lực vật chất và tinh thần, thực hiện chế độ thù
lao, đãi ngộ theo mức độ cống hiến và các chính sách khuyến khích khác đối
với viên chức đã tạo điều kiện cho các bộ tổ chức tuyển dụng bổ sung, nâng
cao chất lƣợng đội ngũ viên chức cho các đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc thông qua hình thức xét tuyển, thi tuyển đảm bảo năng lực chuyên
môn, phẩm chất đạo đức đáp ứng đƣợc với tiêu chuẩn chức danh cần tuyển
dụng; do đó bƣớc đầu đã nâng cao trình độ nghiên cứu, chuyên môn của đội
ngũ viên chức. Việc kiểm tra, thanh tra về chất lƣợng thi tuyển viên chức
đƣợc thực hiện tƣơng đối tốt và kịp thời, bảo đảm chất lƣợng viên chức đáp
ứng đƣợc cơ bản nhu cầu thực tiễn của xã hội đặt ra.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện việc tuyển dụng viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ còn gặp một số khó
khăn, hạn chế sau:
Thứ nhất, việc thực hiện ký hợp đồng làm việc sau khi trúng tuyển đối
với viên chức đƣợc quy định tƣơng tự nhƣ Bộ Luật Lao động đã không thể
hiện rõ đƣợc tính đặc thù của đội ngũ viên chức với tƣ cách là những ngƣời
hoạt động nghề nghiệp phục vụ quản lý nhà nƣớc và xã hội; theo đó, cần
phải thƣờng xuyên đánh giá về năng lực, trình độ, chất lƣợng, hiệu quả công
việc để làm căn cứ có tiếp tục ký kết hợp đồng làm việc nữa hay không. Vì
trên thực tế việc ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn cũng nảy
sinh tâm lý khó bị chấm dứt hợp đồng, không tạo động lực phấn đấu trong
công việc.
Thứ hai, việc xây dựng và thực hiện Đề án vị trí việc làm còn gặp
nhiều khó khăn, vƣớng mắc và tính khả thi không cao.
Theo Điều 12 Nghị định số 41/2012/NĐ-CP quy định các bộ và các
cơ quan quản lý viên chức phải xây dựng, ban hành văn bản hƣớng dẫn cụ
thể về vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong
38
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành, lĩnh vực đƣợc giao quản lý. Nghị
định này đã có hiệu lực 6 năm (có hiệu lực từ ngày 25/6/2012), nhƣng đến
nay một số bộ quản lý ngành, lĩnh vực vẫn chƣa ban hành đƣợc danh mục vị
trí việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp, tiêu chuẩn, yêu cầu đối với từng
vị trí cần tuyển dụng; nếu có xây dựng Đề án vị trí việc làm thì các bộ chủ
yếu là căn cứ vào biên chế hiện có để mô tả, hợp thức hóa các công việc
đang thực hiện và căn cứ vào khối lƣợng công việc để đề xuất bảo toàn số
lƣợng biên chế hiện có, chứ chƣa hoàn toàn xuất phát từ chức năng, nhiệm
vụ để lựa chọn viên chức nên việc tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự
nghiệp công lập chƣa sát với yêu cầu thực tiễn, còn mang tính chất lấy cho
đủ số lƣợng ngƣời làm việc đƣợc giao. Vì vậy, công tác tuyển dụng tại các
đơn vị sự nghiệp công lập chƣa thống nhất, chƣa căn cứ vào vị trí việc làm,
nhu cầu công việc và chức danh nghề nghiệp của viên chức; cho nên, nhiều
đơn vị sự nghiệp công lập có xu hƣớng chỉ thiên về việc tuyển dụng những
ngƣời tốt nghiệp đại học trở lên, hạn chế hoặc không tuyển dụng những
ngƣời tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu
thợ”. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng viên chức trong đơn vị sự nghiệp công
lập trực thuộc các bộ vẫn dựa trên nền chế độ chức nghiệp, quan tâm chủ
yếu đến các yếu tố đầu vào (trình độ, bằng cấp, bậc, thâm niên...) chƣa chú ý
đến kết quả đầu ra, hiệu quả công việc. (số lƣợng viên chức có trình độ đại
học chiếm tỷ lệ cao hơn số lƣợng viên chức có trình độ cao đẳng và trung
cấp khá lớn:50.899 ngƣời, chiếm tỷ lệ 27,48%; cao đẳng: 5.094 ngƣời,
chiếm tỷ lệ 2,75%; trung cấp: 17.170 ngƣời, chiếm tỷ lệ 9,27%;) [11].
Thứ ba, cách thức và hình thức tuyển dụng hiện nay khó đánh giá đƣợc
năng lực thực chất của viên chức. Kiến thức thi còn nghiêng về lý thuyết,
chƣa có phần thi đánh giá kỹ năng chuyên biệt cho từng vị trí; các bộ chƣa
xây dựng các đề thi chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành khác nhau phù hợp
với yêu cầu vị trí dự tuyển. Tình trạng một số đơn vị sử dụng đề thi chung còn
tồn tại ở một số đơn vị.
39
- Thứ tư, việc phân cấp cho các bộ và các đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện tuyển dụng viên chức nhƣng chƣa gắn với công tác kiểm tra, giám
sát một cách thƣờng xuyên, chặt chẽ; vì vậy, vẫn có tình trạng tuyển dụng
dựa trên mối quan hệ quen biết, thông tin tuyển dụng chƣa đƣợc công khai,
chỉ tiêu tuyển dụng ít, lấy tiêu chuẩn dựa vào số viên chức đang làm hợp
đồng chuyên môn, nghiệp vụ mà đơn vị đã ký trƣớc đó nên các ứng viên
khác ngoài đơn vị khó đủ điều kiện để dự thi; một số tiêu cực trong thi tuyển
vẫn nhƣ còn tồn tại: lộ đề thi, chạy điểm... gây bức xúc trong dƣ luận xã hội.
Điều này đã làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng, năng lực chuyên môn của đội
ngũ viên chức.
Những hạn chế trên đây xuất phát từ nguyên nhân là Luật Viên chức
đề cập đến một số vấn đề mới, phức tạp lần đầu tiên đƣợc tổ chức triển khai
thực hiện trong công tác tuyển dụng nhƣ: tuyển dụng theo vị trí việc tƣơng
ứng với chức danh nghề nghiệp, tổ chức thi tuyển theo nguyên tắc cạnh
tranh…. Việc quy định này đƣợc đặt trong bối cảnh, điều kiện chúng ta chƣa
xây dựng và hoàn thiện đƣợc vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp viên
chức, hệ thống thang, bảng lƣơng tƣơng ứng với từng vị trí việc làm, nên quá
trình thực hiện việc tuyển dụng các đơn vị còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng.
Cùng với đó là các bộ chủ quản chƣa quan tâm đến việc triển khai thực hiện
những nội dung mới trong Luật Viên chức nhƣ: xây dựng vị trí việc làm, xây
cơ chế quản lý tài chính (chẳng hạn cơ chế khoán chi theo chỉ tiêu biên chế)
…. Điều này dẫn tới các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc khó triển khai
Luật Viên chức đi vào thực tiễn.
2.4.2. Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức
Theo Luật Viên chức: “Chức danh nghề nghiệp là tên gọi thể hiện
trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức trong từng lĩnh
vực nghề nghiệp” [50]. Thăng hạng chức danh nghề nghiệp chính là việc xét
hoặc thi để bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp cao hơn.
Luật Viên chức năm 2010 ra đời đã thay thế việc sử dụng “ngạch”
trƣớc đây bằng “chức danh nghề nghiệp” nhằm thể hiện đầy đủ tính chất,
40
đặc điểm của hoạt động nghề nghiệp của viên chức và để phân biệt với
“ngạch” áp dụng đối với ngƣời đƣợc tuyển vào công chức. Theo đó, việc
phân hạng chức danh nghề nghiệp của viên chức đƣợc chia theo từng cấp độ
từ cao xuống thấp, gồm 4 cấp độ: hạng I, hạng II, hạng III, hạng IV (tƣơng
đƣơng với 04 ngạch công chức: chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính,
chuyên viên, cán sự). Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn chức danh sẽ do
các bộ quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành, lĩnh vực chủ
trì, phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng và ban hành để phù hợp với tính chất
của ngành, lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp của viên chức.
Theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP có 11 bộ
đƣợc giao thẩm quyền quản lý chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành6 [17]. Các bộ quản lý chuyên ngành có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Nội vụ quy định cụ thể tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp; điều kiện
thi hoặc xét thay đổi chức danh nghề nghiệp của viên chức.
Việc thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức
đã đƣợc phân cấp, đổi mới theo hƣớng đề cao trách nhiệm của ngƣời đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xét cử viên chức dự thi hoặc xét
thăng hạng chức danh nghề nghiệp; đổi mới về nội dung, hình thức thi hoặc
xét cho phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của từng lĩnh
vực sự nghiệp. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các bộ quản lý chức danh
nghề nghiệp viên chức tổ chức thi hoặc xét, công nhận kết quả thăng hạng
chức danh nghề nghiệp viên chức từ hạng II lên hạng I; các bộ quản lý
ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức thi hoặc xét, công
nhận kết quả thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức từ hạng III lên
hạng II; trƣờng hợp tổ chức thi hoặc xét, công nhận kết quả thăng hạng chức
danh nghề nghiệp viên chức từ hạng IV lên hạng III các bộ quản lý ngành,
lĩnh vực có thể chủ trì hoặc ủy quyền tổ chức cho các đơn vị sự nghiệp công
6 11 Bộ: Nội vụ; Tƣ pháp; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Xây dựng; Khoa học và Công nghệ; Tài nguyên và Môi trƣờng;
Giáo dục và Đào tạo; Y tế; Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thông tin và Truyền thông [17].
lập thuộc phạm vi quản lý.
41
Trên cơ sở quy định tại Khoản 3 Điều 47 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP
và Thông tƣ số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 quy định về chức danh
nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, các bộ quản
lý ngành đã và đang tích cực nghiên cứu, xây dựng để ban hành Thông tƣ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành7.
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp đối với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong
những tiền đề để xây dựng, quản lý và phát triển đội ngũ viên chức, đồng
thời là cơ sở khoa học cho việc xác định biên chế về số lƣợng, cơ cấu hạng
cũng nhƣ trình độ chuyên môn làm cơ sở cho việc tuyển dụng, bố trí sử
dụng, đề bạt, đánh giá và đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ chuyên môn
của viên chức. Đây cũng là cơ sở cho việc xác định vị trí việc làm, giúp đơn
vị sự nghiệp công lập rà soát lại tổ chức bộ máy, đội ngũ viên chức và xác
định từng vị trí trong tổ chức gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
đơn vị, tránh đƣợc tình trạng định sẵn nhân sự rồi mới tạo ra công việc và
tránh sự chồng chéo khi phân công, giao việc, khắc phục tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu nhân lực. Ngoài ra, việc xây dựng tiêu chuẩn, chức danh cũng giúp
cho viên chức của mỗi ngành hiểu rõ các yêu cầu, tiêu chuẩn của chức danh,
từ đó xác định rõ kế hoạch đào tạo và phát triển để trang bị cho bản thân các
kỹ năng cần thiết theo yêu cầu vị trí việc làm đang đảm nhiệm [53].
Tuy nhiên, đến nay việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với viên chức cho phù hợp với yêu cầu
Luật Viên chức và các văn bản hƣớng dẫn thi hành chƣa đƣợc các bộ triển
khai đồng bộ, kịp thời, một số bộ quản lý ngành vẫn đang trong quá trình
xây dựng các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; xây dựng điều
kiện thi hoặc xét thay đổi chức danh nghề nghiệp của viên chức. Vì vậy, việc
tổ chức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp tại các đơn vị sự
7 Đến nay, các bộ quản lý chuyên ngành đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành đƣợc 32 Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch quy định mã
số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau [13].
nghiệp công lập trực thuộc các bộ trong thời gian này chƣa đƣợc thực hiện
42
thƣờng xuyên. Đây là một hạn chế làm ảnh hƣởng rất lớn đến quyền lợi của
viên chức, vì thăng hạng chức danh nghề nghiệp là căn cứ để viên chức có
cơ hội đƣợc thăng tiến về chuyên môn nghề nghiệp, cải thiện thu nhập...
Bên cạnh đó, chúng ta chƣa quy định nhiệm vụ, thẩm quyền trách
nhiệm của viên chức theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp
nên việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp hiện nay chủ yếu vẫn giải quyết
chế độ về lƣơng cho viên chức, chƣa làm thay đổi về nghĩa vụ, trách nhiệm
thực hiện nhiệm vụ của viên chức; còn tình trạng tiêu cực trong quá trình xét
tuyển thăng hạng chức danh nghề nghiệp...gây dƣ luận chƣa tốt trong xã hội,
giảm lòng tin của ngƣời dân đối với Nhà nƣớc.
2.4.3. Về đánh giá, phân loại viên chức
Đánh giá là một nội dung hết sức quan trọng của công tác quản lý viên
chức. Nội dung đánh giá đƣợc thực hiện vào tháng cuối cùng của năm công
tác, các bộ đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tiến hành đánh giá viên chức.
Công tác này đến nay đã đi vào nề nếp và trở thành một hoạt động quản lý
không thể thiếu trong các đơn vị. Qua đánh giá, đơn vị quản lý và sử dụng có
thể thấy đƣợc năng lực, trình độ, kết quả công tác, phẩm chất đạo đức của viên
chức để từ đó có thể bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dƣỡng và thực hiện
các chính sách đối với viên chức theo vị trí việc làm. Các nội dung đánh giá
viên chức đƣợc quy định tại Khoản 1, 2 Điều 41 Luật Viên chức và Nghị
định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá, phân
loại cán bộ, công chức, viên chức (sau đây viết tắt là Nghị định số
56/2015/NĐ-CP); Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP; trong
đó, căn cứ đánh giá viên chức theo 04 nội dung sau: Kết quả thực hiện công
việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm việc đã ký kết; việc thực hiện quy
định về đạo đức nghề nghiệp; tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân
dân, tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và thực hiện quy tắc ứng xử của viên
chức; việc thực hiện các nghĩa vụ khác của viên chức. Đối với viên chức
quản lý, là ngƣời đứng đầu, ngƣời lãnh đạo, quản lý, điều hành đơn vị sự
43
nghiệp, ngoài các nội dung đánh giá nhƣ mọi viên chức khác còn có thêm các
nội dung đánh giá liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhƣ:
năng lực lãnh đạo, quản lý, điê u hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ; kê t
quả hoạt động của đơn vị; với tiêu chí phân loại đánh giá viên chức ở 04
mức độ: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành
nhiệm vụ, không hoàn thành nhiệm vụ).
Trên cơ sở thực hiện Nghị định số 56/2016/NĐ-CP và Nghị định số
88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 việc đánh giá, phân loại viên chức đã bƣớc
đầu căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ đƣợc
giao. Trách nhiệm của ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp trong việc đánh giá,
phân loại viên chức đã đƣợc đề cao. Họ có quyền chi tiết hóa các nội dung
đánh giá cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của đơn vị mình quản lý, bảo
đảm đánh giá sát, đúng mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cá nhân do
mình phụ trách. Do đó, ngƣời đứng đầu có quyền quyết định và chịu trách
nhiệm về kết quả đánh giá và phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
viên chức thuộc quyền quản lý, các ý kiến góp ý của tập thể, cấp ủy, công
đoàn chỉ mang tính chất tham khảo. Số lƣợng viên chức tại các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc bộ hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ xuất sắc, tốt tƣơng đối cao8. Việc thực hiện nghiêm túc các quy định về đánh giá, phân loại viên
chức đã phần nào giúp cho việc quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, thuyên
chuyển, tinh giản viên chức tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc bộ đƣợc phát
huy và nâng cao chất lƣợng viên chức và hiệu quả hoạt động của đơn vị.
Tuy nhiên, trên thực tế tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các
bộ việc đánh giá, phân loại viên chức còn tồn tại một số hạn chế nhƣ: Tỷ lệ
không hoàn thành nhiệm vụ (0,6%) của viên chức chƣa tƣơng xứng với chất
8 Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (7,6%); hoàn thành tốt nhiệm vụ (83,2%); hoàn thành nhiệm vụ (8,6%); không hoàn thành
nhiệm vụ (0,6%) (Báo cáo của Bộ Nội vụ về chất lƣợng cán bộ, công chức, viên chức năm 2017).
9 Theo báo cáo của Bộ Y tế tại Hội thảo công bố kết quả khảo sát thí điểm chỉ số hài lòng ngƣời bệnh (tháng 3/2018) có gần 80% bệnh nhân hài lòng với chất lƣợng khám, chữa bệnh và thái độ phục vụ của đội ngũ y, bác sỹ. Tuy nhiên, ngày 2/5/2018, Bộ Nội vụ
công bố điểm số cải cách hành chính năm 2017 của các bộ, cơ quan ngang bộ, thì kết quả cải cách hành chính của Bộ Y tế từ 79,69%
lƣợng và hiệu quả công việc và sự hài lòng của ngƣời dân đối với dịch vụ công nhất là trong lĩnh vực y tế9, giáo dục đào tạo. Luật Viên chức đã quy
44
định viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức độ không
hoàn thành nhiệm vụ thì đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc đơn phƣơng
chấm dứt hợp đồng làm việc; tuy nhiên, trên thực tế rất hiếm có trƣờng
hợp viên chức bị chấm dứt hợp đồng vì lý do này. Có thể chỉ ra một số
nguyên nhân dẫn đến công tác đánh giá viên chức chƣa hiệu quả nhƣ sau:
Thứ nhất, văn hóa “duy tình” chú trọng tình nghĩa, đạo lý là đặc
điểm chung của ngƣời Việt Nam. Tâm lý coi trọng tình cảm và hành vi
ứng xử thiên về tình cảm đƣợc ngƣời Việt chúng ta thể hiện trong tất cả
các mối quan hệ từ thiên nhiên, xã hội, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
nên khó có thể nhận xét tiêu cực về đồng nghiệp của mình. Điều này ảnh
hƣởng rất lớn đến trách nhiệm của các chủ thể tham gia đánh giá. Tâm lý
ngại nói thẳng, nói thật nên khó tránh khỏi "dĩ hòa vi quý" do đó việc đánh
giá, phân loại viên chức bị “cào bằng”.
Thứ hai, chúng ta chƣa xây dựng đƣợc các tiêu chí đánh giá chất
lƣợng viên chức theo kết quả đầu ra của việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc
giao (hay vị trí việc làm). Ngoài các nội dung đánh giá, phân loại viên
chức đƣợc quy định tại Khoản 1, 2 Điều 41 Luật Viên chức và Nghị định
số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2018 của Chính phủ còn mang tính chung
chung thì nội dung đánh giá kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo
hợp đồng làm việc đã ký kết - đây là vấn đề cốt lõi và quan trọng để đánh giá
năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của viên chức lại rất ít hoặc không
đƣợc đƣa vào nội dung đánh giá và nó chƣa đƣợc định lƣợng, đo lƣờng cụ
thể trên cơ sở vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Vì vậy,
cách thức đánh giá viên chức còn chủ quan, cảm tính, chủ yếu tập trung vào
nội dung chính trị tƣ tƣởng, các mối quan hệ đồng nghiệp mà ít căn cứ vào
kết quả công việc cụ thể. Viên chức tự đánh giá, phân loại; sau đó, tập thể
tiến hành họp nhận xét, cho ý kiến; cuối cùng ngƣời đứng đầu đơn vị sự
năm 2016 giảm xuống còn 72,40%, giảm 7,29% (xếp thứ 18/19 cơ quan, đơn vị đƣợc đánh giá).
nghiệp công lập kết luận và quyết định xếp loại viên chức. Nhiều viên chức
45
dù không hoàn thành tốt nhiệm vụ nhƣng có mối quan hệ cá nhân tốt vì cả
nể nên vẫn đƣợc đánh giá tốt.
Thứ ba, chƣa phát huy đƣợc trách nhiệm của ngƣời đứng đầu trong việc
đánh giá viên chức. Nhiều ngƣời đứng đầu không dám thẳng thắn đánh giá viên
chức dƣới quyền yếu kém, sợ bị mất lòng, quá đề cao nguyên tắc dân chủ.
Thứ tư, kết quả đánh giá viên chức chƣa thực sự đƣợc sử dụng làm
căn cứ cơ bản cho việc áp dụng chế độ, chính sách liên quan nhƣ đào tạo,
bồi dƣỡng, quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển và cơ chế kỷ luật viên chức;
chủ yếu mới chỉ để lƣu hồ sơ lý lịch của viên chức và làm căn cứ xác định
các danh hiệu thi đua, nâng lƣơng trƣớc thời hạn. Điều này có thể khiến cho
các chủ thể đánh giá và đối tƣợng đƣợc đánh giá không coi trọng thực chất
kết quả đánh giá. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới việc sử dụng kết quả đánh giá
viên chức, thực sự gắn kết quả đánh giá, phân loại viên chức với cơ chế trả
lƣơng, thƣởng, thăng tiến của viên chức... nhằm tạo động lực làm việc cho
viên chức, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, phấn đấu về chuyên môn nghiệp
vụ của viên chức mang lại hiệu quả cao trong công việc.
2.4.4. Về tiền lƣơng, chế độ đãi ngộ
Chế độ tiền lƣơng là bộ phận đặc biệt quan trọng, quan hệ chặt
chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã
hội, liên quan trực tiếp đến kinh tế vĩ mô, thị trƣờng lao động và
đời sống ngƣời hƣởng lƣơng.và đãi ngộ là loại chính sách quan trọng
trong quản lý viên chức. Đó là điều kiện, yếu tố đảm bảo cho ngƣời viên
chức làm việc, khuyến khích họ trong hoạt động sự nghiệp, đảm bảo cho
viên chức yên tâm công tác. Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, chính
sách tiền lƣơng và các chính sách đãi ngộ còn phải thực hiện chức năng giữ
chân viên chức gắn bó với khu vực sự nghiệp công, thu hút nhân tài vào
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nƣớc - và phải cạnh tranh
đƣợc với khu vực tƣ. Chính sách tiền lƣơng rất phức tạp, đòi hỏi phải đáp
ứng đƣợc nhiều yêu cầu của một mục tiêu chung là quản lý và xây dựng
đƣợc đội ngũ viên chức vững mạnh về mọi mặt.
46
Chế độ tiền lƣơng của đội ngũ viên chức hiện nay đƣợc thực hiện
theo Nghị định số 203/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy
định mức lƣơng tối thiểu và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004
của Chính phủ quy định về chế độ tiền lƣơng đối với cán bộ, công chức, viên
chức và lực lƣợng vũ trang. Luật Viên chức ra đời cũng quy định về chế độ
tiền lƣơng của viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập; theo
đó, lƣơng sẽ đƣợc trả tƣơng xứng với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp,
chức vụ quản lý và gắn kết với kết quả thực hiện nhiệm vụ theo cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập.
Tính đến năm 2017, mức lƣơng tối thiểu chung (mức lƣơng cơ sở) đã
trải qua 14 lần điều chỉnh, từ 120 ngàn đồng/tháng (năm 1993) lên 1.300
ngàn đồng/tháng (năm 2017). Việc cải cách chế độ tiền lƣơng qua các năm
đã đánh dấu bƣớc chuyển quan trọng từ hệ thống tiền lƣơng của nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang hệ thống tiền lƣơng của
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa; chế độ nâng bậc
lƣơng thƣờng xuyên đƣợc thực hiện trên cơ sở kết quả hoàn thành nhiệm vụ
của viên chức và thời gian giữ chức danh. Thời gian giữ bậc là 3 năm đối
với viên chức thuộc các chức danh từ loại Ao đến loại A3, 2 năm đối với
viên chức thuộc các chức danh loại B, loại C. Riêng chức danh chuyên
gia, thời gian giữ bậc là 5 năm. Viên chức lập thành tích xuất sắc trong
thực thi nhiệm vụ thì đƣợc xét nâng bậc lƣơng trƣớc thời hạn tối đa là 12
tháng so với thời gian quy định nâng bậc lƣơng theo thâm niên. Chế độ tiền
lƣơng mới này quy định cho phép các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc
khoán biên chế và kinh phí quản lý sự nghiệp nếu tiết kiệm kinh phí sự
nghiệp đƣợc quyền quyết định hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lƣơng so
với mức lƣơng tối thiểu chung và tăng thêm mức trích lập các quỹ khen
thƣởng, quỹ phúc lợi để tăng thêm thu nhập cho viên chức.
Cũng theo quy định hiện hành, đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc quyền
quyết định số lƣợng viên chức, số lƣợng lao động theo hợp đồng. Trao quyền
cho ngƣời đứng đầu trong việc quyết định tuyển dụng gắn với sử dụng, với
47
nhu cầu nhân lực của đơn vị. Trên cơ sở đó, thực hiện cơ chế trả lƣơng theo
hiệu quả công việc, gắn với cam kết trong hợp đồng làm việc; đi đôi với đẩy
mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ
công gắn với nhu cầu xã hội. Chính phủ cũng khuyến khích đẩy mạnh xã hội
hóa dịch vụ công để rà soát và hoàn thiện các cơ chế, chính sách tài chính
khuyến khích cung cấp dịch vụ công. Các cơ chế, chính sách tài chính ƣu đãi
đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ công đã tạo động lực thúc đẩy khu vực tƣ
tham gia cung cấp dịch vụ công. Trên cơ sở đó, tăng nguồn thu để trả lƣơng
cho khu vực sự nghiệp và giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc.
Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính theo mức độ tự chủ của đơn vị đã nâng
cao ý thức trách nhiệm của đơn vị trong việc phấn đấu tăng thu, tiết kiệm
chi để tăng nguồn thu nhập tăng thêm (từ chế độ tự chủ tài chính) góp phần nâng cao, cải thiện đời sống của viên chức10, nâng cao chất lƣợng cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công.
Tuy nhiên, hệ thống thang lƣơng bảng lƣơng hiện nay chƣa phù hợp
với thực tế, xây dựng theo những nguyên tắc từ những năm 1960 theo mô
hình của Liên Xô cũ. Nguyên tắc thiết kế thang lƣơng, bảng lƣơng từ năm
1985 đến nay cũng không có gì thay đổi. Do vậy, hệ thống thang lƣơng,
bảng lƣơng không linh hoạt, mềm dẻo và không phù hợp với cơ chế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và chƣa thực sự phù hợp với đối tƣợng
là viên chức, bởi vì:
Thứ nhâ t, hoạt động nghề nghiệp của viên chức là một loại hình lao
động đặc thù và giá trị của nó không thể định lƣợng hết đƣợc, nhƣng cơ chế
trả lƣơng, tiền lƣơng và các chế độ chính sách đãi ngộ đối với viên chức
hiện nay không có gì ƣu đãi, thậm chí thua thiệt so với các ngành khác
10 Theo báo cáo của Bộ Y tế tại Công văn số 7850/BYT-KH-TC ngày 01/11/2016: Thu nhập tăng thêm (so với chế độ lƣơng theo quy định của Nhà nƣớc) có 4/83 đơn vị có thu nhập tăng thêm cao hơn 2 lần; 24/83 đơn vị có thu nhập tăng thêm từ 1-2 lần… Ngƣời
có thu nhập tăng thêm cao nhất là 39.600.000 đồng/tháng, thấp nhất là 57.000 đồng/tháng.
(không có phụ cấp ƣu đãi nghề nghiệp, không có phụ cấp thâm niên...).
48
Theo quy định hiện nay thì công chức trong khối quản lý hành chính
đƣợc hƣởng chế độ phụ cấp công vụ 25%, tuy nhiên công chức là ngƣời đứng
đầu và cấp phó của ngƣời đứng các đơn vị sự nghiệp công lập vừa phải
nghiên cứu khoa học, vừa phải tham gia công tác quản lý lại không đƣợc
hƣởng chế độ đãi ngộ này.
Thứ hai, việc ban hành và tổ chức thực hiện chế độ, chính sách đãi
ngộ đối với viên chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; những nhà khoa học tài
năng, có nhiều cống hiến đóng góp vì sự nghiệp chung của đất nƣớc hiện
nay vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Chƣa tạo đƣợc cơ chế thoả đáng để
thu hút đƣợc đội ngũ trí thức, nhà khoa học trẻ tài năng ở trong nƣớc và
ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài có điều kiện đƣợc đóng góp hết khả năng,
năng lực, chuyên tâm vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, thu nhập của viên chức hiện nay về cơ bản vẫn còn chƣa đáp
ứng cuộc sống ở mức trung bình của xã hội, những ràng buộc về chính sách
tiền lƣơng theo ngạch bậc, căn cứ vào thâm niên công tác đƣợc áp dụng
nhƣ đội ngũ công chức trong các cơ quan hành chính khiến các đơn vị sự
nghiệp công lập gặp không ít khó khăn trong thu hút và giữ chân các viên
chức có năng lực; chƣa tạo đƣợc động lực mạnh về vật chất và tinh thần cho
viên chức có trình độ, chuyên môn sâu yên tâm công tác.
Thứ tư, với nhiều ngành, lĩnh vực dịch vụ công nên việc tổ chức,
phân công lao động khác nhau, yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ
của viên chức hết sức đa dạng, phong phú, nhƣng hệ số lƣơng, thang bảng
lƣơng đƣợc áp dụng chung đối với toàn khu vực sự nghiệp công là không hợp
lý; vì vậy, chƣa tạo điều kiện chủ động của các đơn vị sự nghiệp công lập;
việc chƣa xây dựng đƣợc khung vị trí việc làm và các chức danh tiêu chuẩn
nên chế độ lƣơng, thƣởng đƣợc cào bằng; thi nâng ngạch cũng chỉ để nâng
lƣơng, còn trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, công việc làm hàng ngày không
có gì thay đổi.
Hiện nay, mức tiền lƣơng tối thiểu và các chế độ kèm theo mới chỉ
bảo đảm bù trƣợt giá, chƣa tƣơng xứng với sự đầu tƣ “chất xám” của đội
49
ngũ viên chức nhất là các nhà khoa học trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y
tế; mặt khác lại có biểu hiện của sự sử dụng nguồn lao động có trình độ một
cách lãng phí, chƣa đúng chuyên môn, nghiệp vụ, bình quân chủ nghĩa (cào
bằng), nên không khuyến khích sự cống hiến của đội ngũ viên chức, xảy ra
tình trạng một số viên chức sử dụng thời gian làm việc, khai thác trang thiết
bị cơ quan... để làm việc riêng kiếm thêm thu nhập. Vì vậy, viên chức chƣa
yên tâm, tận tâm, mất đi động lực gắn với trách nhiệm và hiệu quả công
việc, không thu hút đƣợc ngƣời trẻ, ngƣời có tài năng vào làm trong khu
vực dịch vụ công làm cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
chƣa đạt đƣợc kết quả nhƣ mong muốn. Tổng số viên chức của 16 bộ là
185.225 ngƣời thì có tới 80.518 ngƣời chiếm 42,6% sống chủ yếu dựa vào
lƣơng hoặc chƣa có nhà ở ổn định; vì vậy, đời sống viên chức còn gặp
nhiều khó khăn.
Các hạn chế, bất cập của chính sách tiền lƣơng đã đƣợc Hội nghị lần
thứ bảy Ban chấp hành Trung ƣơng khóa XII nêu trong Nghị quyết số 27-
NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lƣơng đối với cán bộ,
công chức, viên chức, lực lƣợng vũ trang và ngƣời lao động trong doanh
nghiệp: “Chính sách tiền lƣơng trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ
thống bảng lƣơng chƣa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ
lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm đƣợc cuộc sống,
chƣa phát huy đƣợc nhân tài, chƣa tạo đƣợc động lực để nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả làm việc của ngƣời lao động. Quy định mức lƣơng cơ sở
nhân với hệ số không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lƣơng. Có quá nhiều
loại phụ cấp, nhiều khoản thu nhập ngoài lƣơng do nhiều cơ quan, nhiều cấp
quyết định bằng các văn bản quy định khác nhau làm phát sinh những bất
hợp lý, không thể hiện rõ thứ bậc hành chính trong hoạt động công vụ. Chƣa
phát huy đƣợc quyền, trách nhiệm ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị trong
việc đánh giá và trả lƣơng, thƣởng, gắn với năng suất lao động, chất lƣợng,
hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức, ngƣời lao động” [4].
“Những hạn chế, yếu kém trên đây có nguyên nhân khách quan là do
50
đối tƣợng hƣởng lƣơng và trợ cấp từ ngân sách tăng nhanh, trong khi khả
năng của nền kinh tế không đáp ứng kịp, nguồn lực của ngân sách nhà nƣớc
còn hạn chế. Nguyên nhân chủ quan là do chậm cụ thể hoá quan điểm chi
tiền lƣơng là chi cho đầu tƣ phát triển, góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ
cán bộ, công chức và minh bạch hoá các quan hệ xã hội; chƣa tìm đƣợc giải
pháp đột phá trong việc tạo nguồn bảo đảm cho cải cách tiền lƣơng. Chƣa
quản lý tốt các nguồn thu nhập ngoài lƣơng; chƣa thực sự gắn cải cách tiền
lƣơng với cải cách hành chính, tinh giản bộ máy, tái cấu trúc nền tài chính
công, tái cấu trúc đơn vị sự nghiệp công và doanh nghiệp nhà nƣớc” [4].
2.4.5. Về quản lý biên chế sự nghiệp
Ở Việt Nam, trƣớc kia quan niệm biên chế là những ngƣời làm việc
trong các cơ quan nhà nƣớc nói chung (bao gồm cả cơ quan quản lý nhà
nƣớc, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nƣớc). Đến Luật Cán bộ, công
chức; Luật Viên chức và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã tách biên chế
cán bộ, công chức và số lƣợng ngƣời làm việc trong đơn vị sự nghiệp công
lập (biên chế sự nghiệp). Việc quản lý về biên chế đƣợc tách thành hai loại
văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt đã tạo điều kiện cho hoạt động quản lý
nhà nƣớc về biên chế có hiệu quả hơn. Theo Luật Cán bộ, công chức và Nghị
định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ về quản lý biên chế
công chức; Nghị định số 110/2015/NĐ-CP ngày 29/10/2015 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 21/2010/NĐ-CP không còn
khái niệm biên chế hành chính, thay vào đó là biên chế công chức. Đến Luật
Viên chức và Nghị định số 41/2012/NĐ-CP của Chính phủ cũng không còn
khái niệm biên chế sự nghiệp, mà thay vào đó là số lƣợng ngƣời làm việc trong
đơn vị sự nghiệp công lập. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả sử dụng cụm
từ “biên chế sự nghiệp” song song với cụm từ “số lƣợng ngƣời làm việc”.
Quản lý biên chế là hoạt động của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về biên chế, dựa trên cơ
sở pháp luật để hƣớng dẫn, tổ chức thực hiện quản lý biên chế nhƣ: quyết
định biên chế, phân bổ sử dụng biên chế, lập kế hoạch biên chế hàng
51
năm...đồng thời thực hiện kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực biên chế.
Biên chế sự nghiệp là số lƣợng ngƣời làm việc đƣợc tuyển dụng theo
vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng
làm việc, hƣởng lƣơng từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
Trong đơn vị sự nghiệp công lập gồm có: công chức, viên chức và
hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP.
Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập
đƣợc quy định trong Luật Cán bộ, công chức; Nghị định số 06/2010/NĐ-CP
ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những ngƣời là công chức và
Thông tƣ số 08/2011/TT-BNV ngày 02/06/2011 của Bộ Nội vụ hƣớng dẫn
một số điều của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010; theo đó,
ngƣời đứng đầu, cấp phó của ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc
ngân sách nhà nƣớc cấp kinh phí hoạt động thuộc các bộ đƣợc gọi là công
chức. Hiện nay, theo số liệu của Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ tổng số
công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập là 2.096 ngƣời, số biên chế công
chức này nằm trong tổng biên chế sự nghiệp đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền
giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập (không nằm trong số công chức hàng
năm đƣợc Chính phủ, Bộ Nội vụ giao cho các bộ, ngành, địa phƣơng).
Viên chức là ngƣời đƣợc tuyển dụng trong chỉ tiêu biên chế đã đƣợc
cơ quan có thẩm quyền giao cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
Hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP là ngƣời lao
động thực hiện một số công việc mang tính chất phục vụ nhƣ: lái xe, vệ sinh,
bảo vệ... và một số công việc khác. Số hợp đồng này đƣợc hƣởng lƣơng trong
ngân sách nhà nƣớc, các nguồn thu của đơn vị sự nghiệp công lập. Tổng số hợp
đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP và hợp đồng lao động khác của các đơn
vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ là 9.271 ngƣời chiếm 10,02% số hợp
đồng lao động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị trên cả nƣớc [11].
52
Giai đoạn 2003 -2012, thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân năm 2003, Nghị định số 71/2003/NĐ-CP ngày 19/6/2003
của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà
nƣớc; Thông tƣ số 89/2003/TT-BNV ngày 24/12/2003 hƣớng dẫn thực hiện
về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nƣớc và Nghị định
số 112/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ quy định cơ chế quản lý
biên chế đối với đơn vị sự nghiệp, số lƣợng ngƣời làm việc trong đơn vị sự
nghiệp công lập, đã phân cấp triệt để thẩm quyền quyết định chỉ tiêu biên
chế sự nghiệp đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc cho bộ trƣởng bộ chủ
quản nên số biên chế sự nghiệp thời kỳ này có xu hƣớng tăng nhanh. Biên
chế sự nghiệp cả nƣớc tăng 726.351 ngƣời (năm 2003: 1.269.337 ngƣời; đến
năm 2011: 1.995.668 ngƣời). Biên chế sự nghiệp của các bộ tăng từ 9.827
ngƣời lên 185.225 ngƣời [11].
Giai đoạn này việc trao thẩm quyền quyết định biên chế sự nghiệp cho
bộ trƣởng, thủ trƣởng đơn vị sự nghiệp chƣa gắn với cơ chế kiểm tra, giám
sát kiểm soát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nƣớc về biên
chế. Vì vậy, các đơn vị sự nghiệp công lập tự ý tuyển dụng, ký hợp đồng làm
việc ồ ạt, không theo nhu cầu thực tiễn của đơn vị; đồng thời việc thành lập
mới, nâng cấp các trƣờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề; các bệnh viện, viện nghiên cứu và các đơn vị sự nghiệp khác tƣơng
đối lớn nhƣng không vấp phải sự cản trở nào của các cơ quan quản lý nhà
nƣớc có thẩm quyền, vì vậy đây là nguyên nhân chính khiến cho biên chế sự
nghiệp giai đoạn này tăng nhanh.
Từ năm 2012 đến nay, thực hiện theo quy định của Luật Viên chức,
Luật tổ chức chính quyền địa phƣơng năm 2015, Nghị định số 41/2012/NĐ-
CP, Nghị định 16/2015/NĐ-CP quản lý biên chế sự nghiệp đã có sự kiểm
soát, quản lý chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nƣớc về biên
chế theo hƣớng giao đúng, giao đủ giúp cho các đơn vị sự nghiệp hoàn thành
tốt nhiệm vụ đƣợc giao. Việc tăng số lƣợng ngƣời làm việc chỉ tập trung cho
các tổ chức đƣợc thành lập mới, bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ hoặc thay
53
đổi phƣơng thức dạy học nhất là trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tăng các cơ
sở khám chữa bệnh, tăng quy mô giƣờng bệnh trong lĩnh vực y tế... Thẩm
quyền quyết định biên chế sự nghiệp đƣợc thực hiện theo mức độ tự chủ của
đơn vị sự nghiệp công lập nên số biên chế sự nghiệp cơ bản ổn định, có tăng
nhƣng số lƣợng không nhiều: 138.036 ngƣời (năm 2012: 2.075.291 ngƣời,
năm 2017: 2.213.327 ngƣời). Đối với các bộ tăng 12.851 ngƣời (năm 2012:
176.805 ngƣời, năm 2017: 185.225 ngƣời). Số biên chế sự nghiệp tăng chủ
yếu là tăng về số ngƣời làm việc theo hợp đồng 68/2000/NĐ-CP và hợp đồng
khác (cả nƣớc: năm 2012 là 68.802 ngƣời đến năm 2017 là 94.699 ngƣời, tăng
29.742 ngƣời); đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ tăng
4.151 ngƣời (năm 2012: 5.120 ngƣời, đến năm 2017 là 9.271 ngƣời) [11].
Tuy nhiên, trên thực tế việc quản lý biên chế sự nghiệp tại các đơn vị
sự nghiệp công lập trực thuộc bộ gặp không ít khó khăn, lúng túng, cụ thể:
Thứ nhất, các bộ không xây dựng kế hoạch biên chế sự nghiệp thuộc
ngành, lĩnh vực quản lý gửi về cơ quan có thẩm quyền thẩm định mà hầu hết
các bộ tự ý giao biên chế sự nghiệp cho các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
ngành, lĩnh vực mình quản lý theo xu hƣớng giao biên chế cao hơn so với nhu cầu thực tế11.
Thứ hai, tình trạng “hợp đồng chờ tuyển” còn diễn ra tại nhiều đơn vị
sự nghiệp công lập. Nhiều đơn vị còn chỉ tiêu biên chế sự nghiệp nhƣng
không tổ chức thi mà ký hợp đồng làm việc theo Hợp đồng 68/2000/NĐ-CP
và các loại hợp đồng khác ngoài quy định (hợp đồng chuyên môn, nghiệp
vụ, hợp đồng thời vụ) để chờ đủ điều kiện thi tuyển; vì vậy, tại đơn vị sự
nghiệp công lập có trƣờng hợp ngƣời làm 7-8 năm hợp đồng thi trƣợt nhƣng
đơn vị vẫn ký hợp đồng, dẫn đến tình trạng là các đơn vị sự nghiệp công lập
thiếu về biên chế có trình chuyên môn, nghiệp vụ nhƣng thừa biên chế (số
ngƣời) phục vụ, làm ảnh hƣởng đến quỹ lƣơng và hoạt động của đơn vị. 11 Đến nay, Bộ Nội vụ đã ký Quyết định giao số lƣợng ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thƣờng xuyên và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nƣớc bảo đảm chi thƣờng xuyên năm cho 12 Bộ: Kế hoạch và Đầu tƣ; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Tài nguyên và Môi trƣờng; Giao thông vận tải; Tƣ pháp; Thông tin và truyền thông; Y tế; Công Thƣơng, Lao động, Thƣơng binh và Xã hội, Tài chính. (Nguồn số liệu của Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ).
54
Thứ ba, hiện nay chƣa có văn bản quy phạm pháp luật về quản lý viên
chức nên xác định, định biên biên chế để bảo đảm biên chế đúng, biên chế
đủ là rất khó khăn. Vì vậy, cơ chế “xin - cho” vẫn tồn tại trong quản lý biên
chế. Một số đơn vị không có nhu cầu thực sự bổ sung biên chế nhƣng vẫn đề
nghị hoặc gây sức ép với cấp có thẩm quyền bổ sung biên chế, vì mỗi một
biên chế đƣợc bổ sung sẽ đƣợc cấp thêm hạn mức kinh phí hàng năm, gây
lãng phí nguồn tài chính từ ngân sách nhà nƣớc.
Thứ tư, việc báo cáo, giải trình về biên chế sự nghiệp của đơn vị sự
nghiệp công lập tăng chƣa đƣợc các bộ thực hiện nghiêm túc. Thực tế kiểm
tra tại một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ về quản lý biên
chế sự nghiệp cho thấy, nhiều đơn vị sự nghiệp công lập chƣa thực hiện hết
số biên chế đƣợc giao, nhƣng vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Qua đó cho thấy,
việc xây dựng kế hoạch và thẩm định giao biên chế sự nghiệp của các bộ
chƣa thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và chƣa thực sự gắn với chức
năng, nhiệm vụ, phạm vi quản lý, đối tƣợng phục vụ… của các đơn vị sự
nghiệp công lập. Tình trạng thực hiện vƣợt chỉ tiêu biên chế sự nghiệp đƣợc
giao; hợp đồng ngoài chỉ tiêu biên chế vẫn còn diễn ra tại các đơn vị sự
nghiệp công lập nhƣng chƣa có chế tài kiểm tra, giám sát, xử lý để kịp thời
chấn chỉnh và xử lý. Trên thực tế từ trƣớc đến nay chƣa có trƣờng hợp cơ
quan, đơn vị nào bị xử lý vi phạm pháp luật về quản lý biên chế nói chung và
biên chế sự nghiệp nói riêng.
Thứ năm, việc quy định công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
trong đơn vị sự nghiệp công lập tại Khoản 2 Điều 4 và Điểm c Khoản 32
Luật Cán bộ, công chức và Điểm c Khoản 1 Điều 58 Luật Viên chức; Nghị
định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những
ngƣời là công chức chƣa phù hợp với đặc thù công việc của đơn vị sự nghiệp
công lập, do đơn vị sự nghiệp công lập không thực hiện chức năng quản lý
nhà nƣớc, không thực hiện hoạt động công vụ (trừ một số đơn vị phục vụ
nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nƣớc) nên công chức trong bộ
máy lãnh đạo quản lý đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay không đƣợc hƣởng
55
phụ cấp công vụ và không đƣợc tính trong tổng số biên chế công chức của cả
nƣớc, nhƣng phải thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm nhƣ đối với công
chức sẽ là rào cản, giảm tính linh hoạt, chủ động cho ngƣời đứng đầu, cấp
phó của ngƣời đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ. Mặt khác, công chức
trong bộ máy lãnh đạo quản lý đơn vị sự nghiệp công lập đã đƣợc bổ nhiệm
chức danh nghề nghiệp và thực hiện hoạt động nghề nghiệp thì không muốn
chuyển sang giữ ngạch công chức; từ đó, dẫn đến vƣớng mắc, không thống
nhất trong việc thực hiện chế độ, chính sách và áp dụng cơ chế quản lý đối
với đối tƣợng này, làm giảm đi tính tự chủ năng động nhạy bén trong hoạt
động của đơn vị sự nghiệp công lập.
2.4.6. Về tinh giản biên chế sự nghiệp
Tinh giản biên chế nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ công chức, viên
chức, thu hút ngƣời có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức
của Đảng, nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội; đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhân dân và sự phát triển của đất nƣớc trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế, góp phần nâng
cao năng lực hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, cải cách chính sách
tiền lƣơng - đó là mục tiêu luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đề cao hƣớng tới.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) - Đại hội đổi mới toàn
diện đất nƣớc đến nay, để thực hiện các chủ trƣơng của Đảng, Chính phủ đã
04 lần ban hành chính sách tinh giản biên chế, bao gồm:
- Quyết định số 111-HĐBT ngày 12/04/1991 của Hội đồng Bộ trƣởng
(nay là Chính phủ) về một số chính sách trong việc sắp xếp biên chế.
- Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về
việc tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
- Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP.
- Nghị định số 132/2007/NĐ-CP ngày 08/8/2007 của Chính phủ về
chính sách tinh giản biên chế.
56
- Nghị định 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về
chính sách tinh giản biên chế.
- Thông tƣ liên tịch số 14/2015/TTLT-BNV-BTC ngày 14/4/2015 của
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hƣớng dẫn một số điều của Nghị định số
108/2014/NĐ-CP.
Mục tiêu thực hiện chính sách tinh giản biên chế nhằm sắp xếp tổ chức
bộ máy gọn nhẹ, tinh giản đội ngũ cán bộ, công chức và nâng cao chất lƣợng
của hoạt động công vụ. Việc thực hiện tinh giản biên chế cũng đã tạo điều
kiện cho việc sắp xếp tổ chức bộ máy đạt hiệu quả và góp phần nâng cao
đƣợc chất lƣợng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; trẻ hóa đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức.
Giai đoạn thực hiện Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000
của Chính phủ và Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP ngày 28/7/2003 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 16/2000/NQ-CP, cả nƣớc đã
thực hiện tinh giản biên chế là: 50.378 ngƣời; trong đó: Hƣởng chính sách về
hƣu trƣớc tuổi: 62.490 ngƣời (chiếm 90,21%); hƣởng chính sách thôi việc
ngay: 6.676 ngƣời (chiếm 9,64%); hƣởng chính sách thôi việc sau khi đi
học: 24 ngƣời (chiếm 0,04%); hƣởng chính sách chuyển sang các tổ chức
không hƣởng lƣơng thƣờng xuyên từ ngân sách nhà nƣớc: 79 ngƣời (chiếm
0,11%) (Nguồn số liệu tại Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ).
Giai đoạn này, bƣớc đầu góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, việc thực hiện tinh giản biên chế chƣa
thực sự giảm đƣợc biên chế; tình trạng thực hiện tinh giản bao nhiêu thì lại
tuyển vào bấy nhiêu, số lƣợng biên chế của từng cơ quan, đơn vị vẫn đƣợc
giữ nguyên, chƣa khắc phục đƣợc việc tinh giản ngƣời chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu của vị trí việc làm trong cơ quan, đơn vị, tình trạng “vừa thừa, vừa
thiếu” biên chế còn tồn tại. Việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế giai
đoạn này chƣa thực sự đạt đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn.
Thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ về Chƣơng trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2011-2020 "Tiếp tục ban
57
hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức danh, tiêu chuẩn của
từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan, tổ
chức, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phƣơng làm cơ sở cho tinh giản tổ
chức và tinh giản biên chế", ngày 20/11/2014, Chính phủ ban hành Nghị
định số 108/2014/NĐ-CP về chính sách tinh giản biên chế (sau đây viết tắt
là Nghị định số 108/2014/NĐ-CP). Khác với những lần tinh giản biên chế
trƣớc đây chỉ đơn thuần là giảm cơ học, lần này mục tiêu là nâng cao chất
lƣợng cán bộ, công chức, viên chức bảo đảm tính chuyên nghiệp của hoạt
động công vụ và hiệu quả hoạt động của sự nghiệp công; phấn đấu đến năm
2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lƣợng, cơ cấu hợp lý, đủ
trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nƣớc; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính
chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào
tạo, bồi dƣỡng phù hợp, có hiệu quả trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức
hợp lý gắn với vị trí việc làm. Trên cơ sở danh mục vị trí việc làm, cơ cấu
công chức, viên chức hợp lý để xác định biên chế phù hợp, bảo đảm mục
tiêu nâng cao chất lƣợng đội ngũ công chức, viên chức trong hoạt động công
vụ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nƣớc và hội nhập.
Hiện nay, tinh giản biên chế đƣợc thực hiện theo tinh thần của Nghị
quyết 39-NQ/TW, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP; Thông tƣ liên tịch số
01/2015/TTLT-BNV-BTC ngày 14/4/2015; Quyết định số 2218/QĐ-TTg
ngày 10/12/2015 của Chính phủ về kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 39-NQ/TW.
Kết quả tinh giản biên chế của cả nƣớc theo Nghị định số
108/2014/NĐ-CP từ năm 2015 đến nay là: 34.663 ngƣời, trong đó: Hƣởng
chính sách về hƣu trƣớc tuổi: 30.181 ngƣời (chiếm 87,07%); hƣởng chính
sách thôi việc ngay: 4.419 ngƣời (chiếm 12,75%); hƣởng chính sách thôi
58
việc sau khi đi học: 28 ngƣời (chiếm 0,08%); hƣởng chính sách chuyển sang
các tổ chức không hƣởng lƣơng thƣờng xuyên từ ngân sách nhà nƣớc: 35
ngƣời (chiếm 0,10%). (Nguồn số liệu tại Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ)
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ thực hiện tinh
giản biên chế là 4.232 ngƣời; trong đó: Hƣởng chính sách về hƣu trƣớc tuổi:
3.739 ngƣời (chiếm 88,34%); hƣởng chính sách thôi việc ngay: 483 ngƣời
(chiếm 11,42%); hƣởng chính sách thôi việc sau khi đi học: 07 ngƣời (chiếm
0,17%); hƣởng chính sách chuyển sang các tổ chức không hƣởng lƣơng
thƣờng xuyên từ ngân sách nhà nƣớc: 03 ngƣời (chiếm 0,07 %) (Nguồn số
liệu tại Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ)
Qua 4 lần sắp xếp tổ chức, tinh giản biên chế đã bƣớc đầu đã góp phần
nâng cao chất lƣợng và trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giải
quyết chính sách, đƣa ra khỏi bộ máy những ngƣời không đáp ứng tiêu
chuẩn, điều kiện về chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe, phẩm chất, đạo đức;
bên cạnh đó tuyển chọn đƣợc những ngƣời có chuyên môn đƣợc đào tạo ở
trình độ cao hơn phù hợp với yêu cầu và vị trí công việc, có sức khoẻ tốt
hơn; từng bƣớc xây dựng cơ cấu, số lƣợng cán bộ, công chức, viên chức theo
chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ trong mỗi cơ quan, đơn vị; từ đó có chính
sách phù hợp để thực hiện việc tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, đánh
giá, phân loại trong quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức hàng
năm; việc tổ chức triển khai thực hiện một cách đồng bộ, công khai, dân chủ
cùng với những chính sách hỗ trợ hợp lý đã động viên và tạo điều kiện cho
những ngƣời trong diện tinh giản biên chế an tâm tƣ tƣởng, sau khi nghỉ việc
có thêm một khoản kinh phí để bảo đảm ổn định cuộc sống.
Bên cạnh các kết quả đã đạt đƣợc, việc thực hiện tinh giản biên chế tại
các đơn vị sự nghiệp công lập còn chƣa thực sự hiệu quả, chƣa giảm theo
mục tiêu, yêu cầu đề ra theo quy định của Đảng tại Nghị quyết số 39-
NQ/TW và Kết luận số 17-KL/TW ngày 11/9/2017 của Bộ Chính trị về tình
hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống
chính trị năm 2015-2016; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2017-
59
2021. Một số tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chính sách tinh giản biên
chế nhƣ sau:
Thứ nhất, các bộ chƣa thực hiện nghiêm việc xây dựng và phê duyệt
Đề án tinh giản biên chế đến năm 2021 và chƣa xây dựng kế hoạch tinh giản biên chế của ngành, lĩnh vực mình quản lý từ năm 2015-202112 và của từng
năm (theo quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP), dẫn
đến tình trạng đề xuất giải quyết chính sách tinh giản biên chế còn manh mún
chƣa khoa học, không theo định kỳ 2 lần/năm (theo quy định tại Khoản 2 Điều
14 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP). Các bộ mới chỉ tập trung vào tinh giản biên
chế mà chƣa chú trọng đến cơ cấu lại đội ngũ viên chức theo vị trí việc làm,
nên khó có thể sàng lọc đƣợc những ngƣời thuộc diện tinh giản biên chế.
Thứ hai, các bộ không thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, đánh giá tình
hình thực hiện tinh giản biên chế của đơn vị mình (theo quy định tại khoản 7
Điều 18 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP: Định kỳ vào ngày 31/12 hàng năm,
tổng hợp kết quả, đánh giá tình hình thực hiện tinh giản biên chế của bộ, ngành
mình và gửi Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tƣớng Chính
phủ; nên số liệu báo cáo tinh giản biên chế trong thời gian qua đƣợc tổng hợp
trên cơ sở kết quả thẩm tra đối tƣợng tinh giản biên chế của Bộ Nội vụ.
Thứ ba, chính sách tinh giản biên chế chƣa thực sự có sự thay đổi về
tƣ duy, nhận thức. Việc tinh giản biên chế chƣa giảm đƣợc những ngƣời cần
giảm; mới tạo điều kiện cho những ngƣời có nhu cầu xin ra khỏi bộ máy nhà
nƣớc để thực hiện nguyện vọng cá nhân. Vì thế, số lƣợng tinh giản biên chế
chủ yếu là những ngƣời về hƣu trƣớc tuổi (chiếm 87,07%).
Thực hiện tinh giản bao nhiêu biên chế lại tuyển dụng vào bấy nhiêu,
số lƣợng viên chức của các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc giữ nguyên,
trong khi nhà nƣớc lại mất thêm một khoản tiền để giải quyết các chính sách
tinh giản biên chế; chƣa khắc phục đƣợc tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”
12 Đến nay có 10/16 Bộ phê duyệt Đề án tinh giản biên chế đến năm 2021: Nội vụ, Tƣ pháp, Tài nguyên và Môi trƣờng; Thông tin và Truyền thông; Giao thông vận tải, Lao động, Thƣơng binh và Xã hội; Tài chính; Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tƣ; Y tế. (Nguồn
số liệu của Vụ Tổ chức - Biên chế, Bộ Nội vụ).
biên chế.
60
Thứ tư, việc chi trả chế độ, chính sách cho những ngƣời đƣợc tinh
giản biên chế còn chậm, chƣa kịp thời nhất là đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập tự chủ hoàn toàn cân đối thu chi.
Thứ năm, việc chỉ đạo, kiểm tra thực hiện chính sách tinh giản biên
chế tại các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa kịp thời, các chế tài khen thƣởng,
xử phạt về chính sách tinh giản biên chế chƣa đủ mạnh để khuyến khích, răn
đe các đơn vị về thực hiện chính sách tinh giản biên chế.
Nguyên nhân chính sách tinh giản biên chế chƣa thực sự đạt đƣợc
những mục tiêu đã đề ra là do:
Hạn chế về nhận thức : Nhận thức về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của
chính sách tinh giản biên chế của ngƣời đứng đầu các bộ, các đơn vị sự
nghiệp công lập chƣa thống nhất, đầy đủ, ngại va chạm, muốn giữ ổn định tổ
chức, biên chế của đơn vị mình, tránh phức tạp. Do đó, chƣa chấp hành
nghiêm quy định của pháp luật về tinh giản biên chế, chƣa có kế hoạch, biện
pháp tổ chức triển khai tích cực dẫn đến kết quả thực hiện tinh giản biên chế
tại các đơn vị sự nghiệp công lập còn thấp.
Hạn chế về cách thức tiến hành : Việc rà soát lại chức năng, nhiệm vụ,
sắp xếp, quy hoạch lại mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp công lập không đƣợc
chú trọng, các bộ chƣa xây dựng đƣợc đề án tinh giản biên chế, xác định vị
trí việc làm và chức danh nghề nghiệp nên chƣa có kế hoạch cụ thể về số
lƣợng những ngƣời trong diện phải tinh giản biên chế, những ngƣời cần đào
tạo, bồi dƣỡng, sắp xếp vị trí việc làm phù hợp trong cơ cấu tổ chức của đơn
vị. từ đó, dẫn đến việc thực hiện tinh giản biên chế hầu nhƣ chỉ giải quyết
thụ động, trên cơ sở nguyện vọng cá nhân.
Hạn chế về trách nhiệm của viên chức : Việc phân loại, đánh giá và
thực hiện các chế độ, chính sách đối với viên chức tại một số đơn vị sự
nghiệp công lập chƣa tuân thủ theo đúng quy định của Đảng và nhà nƣớc,
tình trạng còn nể nang, chiếu lệ, hình thức, né tránh trách nhiệm không đúng
thực chất năng lực của viên chức, dẫn đến chính sách tinh giản biên chế khó
khăn, vƣớng mắc khi đi vào thực tế. Trách nhiệm và thẩm quyền của ngƣời
61
đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa đƣợc đề cao và xử lý khi
không thực hiện đƣợc chính sách tinh giản biên chế.
Chính sách tinh giản biên chế động chạm đến lợi ích của mỗi cá nhân
cho nên ngƣời đứng đầu đơn vị phải thật sự quyết liệt, công tâm nhìn nhận
đúng khả năng làm việc của từng viên chức dƣới quyền để ra quyết định,bảo
đảm công khai, minh bạch. Cho đến nay, chƣa có một trƣờng hợp ngƣời
đứng đầu đơn vị chƣa thực hiện tinh giản biên chế bị kỷ luật hay việc đƣa
kết quả tổ chức triển khai thực hiện tinh giản biên chế đƣợc gắn với việc
đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của ngƣời đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị nhƣ Khoản 3 Điều 23 Nghị định số 108/2014/NĐ-CP
quy định.
2.5. Đánh giá pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc các bộ
2.5.1. Kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân.
Kể từ khi Luật Viên chức có hiệu lực thi hành, việc quản lý, sử dụng
đội ngũ viên chức đƣợc thực hiện thống nhất, đồng bộ giữa quản lý số lƣợng
ngƣời làm việc với tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; và cơ bản phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, đơn vị. Các bộ
với chức năng quản lý nhà nƣớc đa ngành, đa lĩnh vực và là cơ quan tham
mƣu chính cho Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để quản
lý các ngành, lĩnh vực nên việc thực thi pháp luật về quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ đƣợc đánh giá là tƣơng đối đồng
bộ, hiệu lực, hiệu quả cao. Cụ thể:
Thứ nhất, chất lƣợng đội ngũ, viên chức từng bƣớc đƣợc nâng lên, cơ
cấu hợp lý hơn.
Đội ngũ viên chức làm việc tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc các bộ
từng bƣớc đƣợc nâng lên về trình độ chuyên môn, chất lƣợng và hiệu quả
công tác. Công tác đào tạo, bồi dƣỡng công chức, viên chức đƣợc các bộ,
quan tâm thực hiện tốt theo kế hoạch hàng năm. Việc tổ chức các kỳ thi
tuyển, thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp đƣợc thực hiện
62
thƣờng xuyên hơn; qua đó số lƣợng viên chức hạng I, hạng II đã đƣợc tăng
lên. Công tác tổ chức cán bộ, tuyển dụng, bổ nhiệm, quy hoạch, đề bạt đội
ngũ viên chức đã phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đào tạo và
năng lực sở trƣờng công tác đƣợc quan tâm, chú trọng gắn với đổi mới cơ
cấu đội ngũ công chức, viên chức. Qua đó, tạo sự chuyển biến trong việc
cung cấp dịch vụ công cho ngƣời dân, doanh nghiệp, góp phần vào kết quả
chung phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp, danh mục vụ trí việc làm đang đƣợc các bộ tích cực chỉ
đạo các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc triển khai thực hiện để làm cơ
sở cho việc xác định số lƣợng ngƣời làm việc cần thiết đơn vị.
Thứ hai, việc quản lý đội ngũ viên chức đƣợc các bộ quan tâm chỉ đạo
và có nhiều đổi mới về các chính sách liên quan đến chế độ đãi ngộ, tiền
lƣơng, điều kiện làm việc, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, đào tạo,
đào tạo lại, bồi dƣỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, tiền lƣơng, tiền
thƣởng, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế cho viên
chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhằm trọng dụng, thu hút ngƣời có tài
năng, năng lực chuyên môn giỏi vào làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp công
thuộc các đơn vị sự nghiệp thuộc trực thuộc.
Thứ ba, việc quản lý biên chế viên chức, số lƣợng ngƣời làm việc
trong các đơn vị sự nghiệp công lập tiếp tục đƣợc đổi mới.
Việc phân cấp cho các bộ quản lý biên chế viên chức, số lƣợng ngƣời
làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc phân cấp theo quy định
của pháp luật đã tạo sự chủ động cho các bộ trong việc tổ chức thực hiện. Đặc
biệt, cùng với việc thực hiện chủ trƣơng chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập
có nguồn thu, đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ về biên chế, tài chính ở một số
bộ đã góp phần làm giảm số lƣợng biên chế, ngƣời làm việc hƣởng lƣơng từ
ngân sách nhà nƣớc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Từ năm 2016 đến nay
biên chế sự nghiệp tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ đƣợc quản
lý khoa học và chặt chẽ hơn. Các bộ tự cân đối, sắp xếp trong tổng số biên chế
63
đã đƣợc cấp có thẩm quyền giao để bố trí đối với các đơn vị thành lập mới
hoặc đƣợc bổ sung nhiệm vụ mới, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Để có đƣợc kết quả trên là do các bộ tích cực triển khai đồng bộ các quy
định của Luật Viên chức với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trình
Chính phủ ban hành và chủ động phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành các Thông
tƣ, Thông tƣ liên tịch liên quan đến đội ngũ viên chức thuộc ngành, lĩnh vực
mình quản lý, góp phần quan trọng nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức, dần
đáp ứng yêu cầu cung ứng dịch vụ công của Nhà nƣớc tạo sức cạnh tranh lành
mạnh với dịch vụ ngoài công lập, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và tạo niềm
tin vào dịch vụ sự nghiệp công của của ngƣời dân và doanh nghiệp.
2.5.2. Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế:
Thứ nhất, một số bộ triển khai chậm hoặc thực hiện chƣa nghiêm túc
các quy định pháp luật về quản lý viên chức, nhất là về xây dựng Đề án vị trí
việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức…
Thứ hai, cơ cấu công chức, viên chức chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Mặc dù việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng công chức, viên chức đã đƣợc
thực hiện trên cơ sở yêu cầu vị trí việc làm, nhƣng cơ cấu viên chức làm việc
tại nhiều bộ chƣa hợp lý. Viên chức hạng I, II còn chiếm tỷ lệ thấp. Chất
lƣợng nguồn nhân lực còn hạn chế; đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít.
Bên cạnh đó, một bộ phận đội ngũ công chức, viên chức vẫn còn tƣ tƣởng
làm việc theo kiểu bao cấp trƣớc đây, không có tính cạnh tranh, thiếu động
lực để làm việc, suy giảm đạo đức, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, làm
giảm sự hài lòng của ngƣời dân vào lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công (nhất là
lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo).
Thứ ba,việc thực hiện chính sách tinh giản biên chế chƣa đi vào thực
chất, không theo đúng quy định và chƣa đạt mục tiêu đề ra.
Chủ trƣơng tinh giản biên chế là chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà
nƣớc, đã đƣợc Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện thống nhất, đồng bộ
trên cả nƣớc, tạo cơ sở quan trọng cho việc xác định giao và quản lý biên
64
chế. Tất cả các bộ đã tổ chức triển khai quán triệt nội dung tinh giản biên chế
theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, Nghị định
số 113/2018/NĐ-CP và Quyết định số 2218/QĐ-TTg; đã tiến hành việc rà
soát, đánh giá, sắp xếp lại đội ngũ công chức, viên chức, ngƣời lao động
hiện có để xác định đƣợc số lƣợng ngƣời cần giữ lại làm việc lâu dài, ổn
định và những ngƣời không đáp ứng đƣợc yêu cầu cần tinh giản, tuy nhiên
mới chỉ đạt đƣợc những kết quả bƣớc đầu, chƣa thực chất và chƣa đạt mục
tiêu đề ra.
Thứ tư, việc xây dựng và thực hiện Đề án vị trí việc làm còn nhiều
khó khăn, vƣớng mắc và tính khả thi không cao.
Việc xây dựng và thực hiện Đề án vị trí việc làm là một trong những
cơ sở quan trọng để thực hiện tuyển dụng, bố trí, sắp xếp đúng ngƣời, đúng
việc, tránh “phình” bộ máy, tăng biên chế. Tuy nhiên, thực tế xây dựng vị trí
việc làm tại các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ còn chậm và gặp
nhiều vƣớng mắc, nhất là đơn vị sự nghiệp công lập chƣa tự chủ hoàn toàn
vẫn chƣa đƣợc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, khi xây dựng Đề
án vị trí việc làm ở các bộ chủ yếu là căn cứ vào biên chế hiện có để mô tả,
hợp thức hóa các công việc đang thực hiện và căn cứ vào khối lƣợng công
việc để đề xuất bảo toàn số lƣợng biên chế hiện có, chứ chƣa hoàn toàn xuất
phát từ chức năng, nhiệm vụ để lựa chọn đội ngũ viên chức phù hợp.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, tồn tại nêu trên.
Dƣới đây là một số nguyên nhân chính, cụ thể:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy của các bộ chƣa ổn định, có sự thay đổi theo
cơ cấu Chính phủ qua các nhiệm kỳ. Việc sắp xếp lại các bộ thành các bộ đa
ngành chƣa đi liền với việc điều chỉnh chức năng, cắt giảm nhiệm vụ của các
bộ. Các bộ đa ngành đƣợc hình thành trên cơ sở hợp nhất các bộ đơn ngành có
khối lƣợng công việc quá lớn, quá phức tạp; bên cạnh các công việc thuộc chức
năng quản lý nhà nƣớc, các bộ vẫn đang đảm đƣơng nhiều nhiệm vụ trong đó
có quản lý hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, các bộ chƣa có sự quan tâm đúng mức
đến số lƣợng đơn vị sự nghiệp trực thuộc cũng nhƣ đội ngũ viên chức.
65
Thứ hai, ngƣời đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa chủ động
đổi mới, chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự cân đối chi phí hoạt
động thƣờng xuyên, chƣa thay đổi tƣ duy phụ thuộc vào ngân sách nhà
nƣớc, dựa vào các bộ chủ quản để dễ triển khai các hoạt động, thiếu sự nhạy
bén với cơ chế thị trƣờng nên hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
chƣa thực sự hiệu quả dẫn đến việc thực hiện các quy định của pháp luật liên
quan đến đội ngũ viên chức còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp công lập
trong việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về tổ chức bộ
máy cũng nhƣ việc quản lý và sử dụng viên chức chƣa đƣợc các bộ chủ quản
thực hiện thƣờng xuyên, chặt chẽ; chƣa có chính sách khuyến khích các đơn
vị sự nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật về quản lý viên chức
và chƣa có chế tài xử lý đối với đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng và quản
lý viên chức sai quy định của pháp luật.
Để quản lý tốt số lƣợng đội ngũ viên chức đông đảo, các bộ chủ quản
cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý đơn vị sự nghiệp công lập trực
thuộc mình quản lý. Bộ máy tổ chức có vận hành tốt đƣợc thì đội ngũ con
ngƣời mới phát huy đƣợc năng lực, sở trƣờng, góp phần nâng cao chất lƣợng
dịch vụ công phục vụ cho ngƣời dân và xã hội. Việc hoàn thiện hệ thống
pháp lý về quản lý và sử dụng đội ngũ viên chức cần đƣợc các bộ chủ quản
phối hợp với các bộ liên quan sớm ban hành và tổ chức thực hiện, có nhƣ
vậy mới quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức.
66
Tiểu kết Chƣơng 2
Đất nƣớc ta đang trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quá trình phát triển, hội nhập
kinh tế thế giới; sự phát triển nhƣ vũ bão của khoa học, công nghệ với nhiều
thành tựu mới đƣợc ứng dụng vào các hoạt động kinh tế - xã hội... đang đặt ra
những yêu cầu mới cho công tác quản lý, sử dụng đội ngũ viên chức để đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lƣợng cung ứng dịch vụ công ở nƣớc ta hiện nay.
Trong thời gian qua, đặc biệt là sau khi Luật Viên chức năm 2010 đƣợc
Quốc hội ban hành - hành lang pháp lý quan trọng cho các cơ quan nhà nƣớc
thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về viên chức, nâng cao chất lƣợng đội
ngũ viên chức, tạo tính ổn định và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của các
đơn vị sự nghiệp công lập.
Bên cạnh đó, pháp luật quản lý về quản lý viên chức ở Việt Nam hiện
nay đã bộc lộ rõ những yếu kém, tồn tại, thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ,
thiếu cụ thể, thậm chí có quy định còn mâu thuẫn nhau, nên dẫn đến việc
quản lý viên chức còn gặp nhiều khó khăn. Tại Chƣơng 2 của Luận văn cũng
đã nêu ra thực trạng thực hiện các quy định pháp luật, những kết quả, hạn
chế và nguyên nhân đạt đƣợc, nguyên nhân tồn tại những hạn chế về quản lý
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ. Từ những
kết quả nghiên cứu ở Chƣơng 2 Luận văn sẽ là cơ sở để tác giả đƣa ra những
quan điểm, yêu cầu và những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản
lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ ở Việt Nam
hiện naymột cách hiệu quả và phù hợp.
67
Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VIÊN CHỨC TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRỰC THUỘC CÁC BỘ HIỆN NAY.
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức
trong đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật quản lý viên chức phải trên cơ sở quán
triệt sâu sắc đƣờng lối đổi mới của Đảng về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật trong thời kỳ mới.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ mới - thời kỳ
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN và hội nhập nền kinh tế quốc tế là yêu cầu cấp bách luôn
đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta quan tâm. Xuất phát từ những yêu cầu về tính
toàn diện về hệ thống pháp luật nhìn từ những yêu cầu của thời kỳ mới, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020,
định hƣớng đến năm 2020, trong đó đã đánh giá những bất cập của hệ thống
pháp luật nƣớc ta hiện nay là: “Hệ thống pháp luật nƣớc ta vẫn còn chƣa
đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế
xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chƣa đƣợc coi trọng đổi
mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lƣợng
các văn bản chƣa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ƣớc
quốc tế mà Việt Nam là thành viên chƣa đƣợc quan tâm đầy đủ. Hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế
bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”.
Nghị quyết số 48-NQ/TW đã đề ra mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp
luật nhƣ sau: "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trƣờng định hƣớng XHCN, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và
thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần
68
quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc
tế, xây dựng nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con ngƣời,
quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đƣa nƣớc ta trở thành nƣớc
công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020".
Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức trong các
đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ gắn với việc thực hiện các Nghị quyết
tại đại hội Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ, cũng nhƣ triển khai thực hiện
các Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6
khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị quyết
số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa XII về cải cách
chính sách tiền lƣơng đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lƣợng vũ
trang và ngƣời lao động trong doanh nghiệp; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lƣợc, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ và phù hợp với cơ chế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật quản lý viên chức phải đƣợc đặt trong
tổng thể hoàn thiện cả hệ thống pháp luật của Việt Nam
Pháp luật quản lý viên chức là một bộ phận của pháp luật về cán bộ,
công chức và viên chức, có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác động qua lại
với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc hoàn
thiện pháp luật quản lý nhà nƣớc về viên chức phải đặt trong tổng thể việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về cán bộ, công chức,
viên chức nói riêng. Vậy nên đòi hỏi pháp luật quản lý nhà nƣớc về viên
chức phải đồng bộ trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan đến vấn
đề viên chức nhƣ Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật tổ chức
69
Chính phủ, Luật Chính quyền địa phƣơng… ; phải đồng bộ với việc đổi mới
hệ thống chính trị từ Trung ƣơng đến cơ sở với sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị. Đổi mới quản lý viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập phải bảo
đảm đƣợc vai trò lãnh đạo Đảng, của mỗi cấp uỷ đảng và phát huy sự sáng
tạo, đổi mới của mỗi đảng viên. Đồng thời với xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về quản lý, sử dụng lý viên chức, bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện
giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nƣớc về biên chế phải đảm
bảo tính khả thi
Một trong những chức năng cơ bản của pháp luật là chức năng điều
chỉnh, pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội và hƣớng các quan hệ này
theo hƣớng có lợi. Nếu nhƣ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội không mang tính khả thi thì có nghĩa chức năng điều chỉnh của pháp
luật không phát huy đƣợc tác dụng, pháp luật lúc này chỉ còn là hình thức.
Vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý viên chức muốn đảm
bảo đƣợc tính khả thi phải tính đến cả các điều kiện về cơ chế tổ chức của
đội ngũ công chức, viên chức, nguồn lực tài chính và điều kiện vật chất
khác nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật và phải có những biện pháp vận
dụng, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của ngƣời đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập trong việc phân cấp, phân quyền trong thực hiện nhiệm vụ
(quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm), cùng với đó là mở rộng dân chủ, phát
huy trí tuệ tập thể và từng cá nhân viên chức, để từ đó tổ chức tốt công tác
thi hành, áp dụng pháp luật. Đồng thời phải tăng cƣờng công tác kiểm tra,
giám sát nhằm bảo đảm cho pháp luật quản lý nhà nƣớc về viên chức đƣợc
thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức trong
đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ
3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quản lý viên chức
Sau thời gian đƣợc triển khai thực hiện, một số quy định của Luật
Viên chức và văn bản hƣớng dẫn thi hành bộc lộ những hạn chế, bất cập,
70
chƣa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn dẫn đến những khó khăn, vƣớng
mắc, nhất là việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 6
khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập” đã đặt ra
nhiều yêu cầu mới đối với công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức cần đƣợc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời. Cụ thể:
- Về tuyển dụng
Tuyển dụng là quá trình lựa chọn ngƣời phù hợp với yêu cầu vị trí cần
tuyển dụng. Công tác tuyển dụng đƣợc thực hiện tốt sẽ giúp cho các đơn vị
bổ sung nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và giúp cho ngƣời đƣợc
tuyển dụng phát huy đƣợc năng lực, sở trƣờng . Hai yếu tố này kết hợp với
nhau sẽ làm cho bộ máy tổ chức của đơn vị đƣợc vận hành trơn tru, hiệu lực,
hiệu quả. Trong những năm gần đây, nhất là khi Luật Viên chức ra đời, việc
tuyển dụng tại các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc thực hiện theo hƣớng gắn
với mức độ tự chủ của đơn vị, nâng cao trách nhiệm của ngƣời đứng đầu và
đặc biệt là phải “căn cứ vào nhu cầu công việc, ví trí việc làm, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp và quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập”. Thực
tế, khi tổ chức tuyển dụng tại một số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ
còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Một số giải pháp dƣới đây phần nào sẽ
tháo gỡ đƣợc những khó khăn, hạn chế trong việc tuyển dụng tại các đơn vị
sự nghiệp công lập:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền tuyển dụng viên
chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập cho ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập; các bộ chủ quản chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc tuyển
dụng viên chức. Theo đó, phải xây dựng cơ chế kiểm soát bảo đảm vừa phát
huy tính dân chủ, vừa bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền của ngƣời đứng
đầu. Ngƣời đứng đầu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật về
quyết định tuyển dụng viên chức của đơn vị mình.
Thứ hai, thực hiện chế độ hợp đồng làm việc có thời hạn đối với
trƣờng hợp tuyển dụng mới. Theo đó, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 24
71
Luật Viên chức, Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày
12/4/2012 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức có
liên quan đến việc kỳ hợp đồng làm việc sau khi tuyển dụng đối với viên
chức cho phù hợp.
Thứ ba, xây dựng khung danh mục vị trí việc làm chung đối với đơn vị
sự nghiệp công lập thuộc cùng ngành, lĩnh vực quản lý, trình cơ quan có
thẩm quyền thẩm định, làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý
đội ngũ viên chức, bảo đảm phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vị
trí việc làm cần tuyển dụng.
Thứ tư, bổ sung các quy định đặc thù về tuyển dụng và xây dựng ngân
hàng đề thi gắn với yêu cầu vị trí việc làm phù hợp với ngành, lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý của bộ bên cạnh các điều kiện theo quy định chung.
Đối với những lĩnh vực đòi hỏi tài năng, năng khiếu thì không nhất thiết
phải có văn bằng, chứng chỉ.
Thứ năm, xây dựng tiêu chí, chính sách khuyến khích nhằm thu hút
nguồn nhân lực là ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc
ngoài tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp.
- Về thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức
Việc tổ chức thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp theo nguyên tắc
cạnh tranh là một vấn đề mới, đƣợc thực hiện trong điều kiện chúng ta chƣa
xây dựng và hoàn thiện đƣợc vị trí việc làm và cơ cấu chức danh nghề
nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nên quá trình thực hiện còn gặp
nhiều khó khăn, vƣớng mắc. Việc tổ chức thi cạnh tranh, phƣơng thức thi, ra
đề thi, đáp án chấm thi và việc tổ chức chấm thi cần đƣợc tiếp tục nghiên
cứu, đổi mới để bảo đảm đánh giá đúng, lựa chọn đƣợc ngƣời có năng lực,
trình độ và nâng cao chất lƣợng của kỳ thi. Dƣới đây là một số giải pháp
chính để việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp đƣợc thực hiện tốt hơn tại
các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ:
Thứ nhất, tiếp tục phân cấp cho ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập trong việc thi hoặc xét thăng hạng viên chức.
72
Thứ hai, rà soát hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của
ngành, lĩnh vực quản lý; nghiên cứu, khảo sát thực trạng đội ngũ viên chức
để đề xuất xây dựng Đề án tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức
chuyên ngành. Trong Đề án cần làm rõ các nội dung sau: Thực trạng đội ngũ
viên chức của ngành (số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu; hệ thống mã ngành
nghề; hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của ngành hiện có); trên
cơ sở đó, các bộ cần đƣa ra hệ thống chức danh nghề nghiệp cần bổ sung,
sửa đổi để phù hợp với Luật Viên chức; đề xuất việc chuyển từ ngạch viên
chức cũ sang chức danh nghề nghiệp viên chức mới.
Thứ ba, xây dựng hệ thống danh mục và tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp phải gắn với vị trí việc làm và xếp lƣơng tƣơng ứng với từng chức
danh nghề nghiệp.
Đây là nhiệm vụ mới, phức tạp và khó khăn, các bộ cần khoảng thời
gian nhất định để xây dựng hệ thống danh mục và tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp vì các bộ quản lý các ngành, lĩnh vực rộng lớn với số lƣợng
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập đông.
Việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp đối với
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những tiền đề để
xây dựng, quản lý và phát triển đội ngũ viên chức, đồng thời là cơ sở khoa học
cho việc xác định biên chế về số lƣợng, cơ cấu hạng cũng nhƣ trình độ chuyên
môn làm cơ sở cho việc tuyển dụng, trí sử dụng, thăng hạng, đề bạt, đánh giá và
đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ chuyên môn của viên chức, để nâng cao
chất lƣợng phục vụ ngƣời dân và xã hội trong các lĩnh vực sự nghiệp.
Thứ tư, quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn xét tuyển của từng chức danh
nghề nghiệp cũng nhƣ quy định trách nhiệm của viên chức theo các mức
hạng nghề nghiệp.
- Về đánh giá, phân loại viên chức
Đánh giá, phân loại viên chức hàng năm nhằm hƣớng đến mục tiêu là
sự công bằng, minh bạch, khách quan, khoa học trong việc nhìn nhận một cá
nhân viên chức trong một năm hoàn thành công việc ở mức độ nào; từ đó,
73
ngƣời đứng đầu đơn vị sẽ có phƣơng án lựa chọn đề bạt, đào tạo, bồi dƣỡng,
sử dụng viên chức đúng với sở trƣờng, năng lực; đồng thời hoạt động đánh
giá sẽ cung cấp thông tin phản hồi cho viên chức biết đƣợc năng lực, trình
độ thực hiện công việc hiện tại của mình đang ở mức độ nào để phấn đấu,
hoàn thiện mình giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao đƣợc tốt hơn.
Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác đánh giá, phân loại viên chức sẽ giúp
cho việc sàng lọc tinh giản biên chế, bộ máy đơn vị sự nghiệp đƣợc gọn nhẹ,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, việc đánh giá, phân loại viên chức
tại các đơn vị sự nghiệp chƣa thực sự đƣợc khách quan, khoa học, tình trạng
“dĩ hòa vi quý” làm cản trở tính sát thực của kết quả đánh giá viên chức; vì
vậy, rất khó khăn trong việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ viên
chức trong đơn vị sự nghiệp. Một số giải pháp dƣới đây nhằm hạn chế
những bất cập còn tồn tại trong quá trình đánh giá viên chức tại các đơn vị
sự nghiệp công lập:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá viên chức,
theo hƣớng làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của ngƣời đứng đầu đơn vị
trong công tác đánh giá theo nguyên tắc “ai giao nhiệm vụ, ngƣời đó đánh
giá” và phải chịu trách nhiệm về kết quả việc đánh giá, phân loại viên chức
thuộc quyền quản lý.
Thứ hai, đổi mới việc đánh giá viên chức gắn với kết quả và chất
lƣợng thực hiện nhiệm vụ đƣợc cấp có thẩm quyền giao. Viên chức bị đánh
giá không hoàn thành nhiệm vụ thì giải quyết cho chấm dứt hợp đồng làm
việc và thực hiện chế độ thôi việc.
Thứ ba, rà soát, xây dựng và ban hành hệ thống đánh giá viên chức
theo vị trí việc làm.
Đây là việc làm khó khăn, phức tạp, nếu không có sự quyết tâm của
ngƣời đứng đầu các bộ, ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thì khó có
thể thực hiện đƣợc. Tuy nhiên, nếu các bộ xây dựng và ban hành đƣợc hệ
thống đánh giá viên chức theo vị trí việc làm thuộc ngành, lĩnh vực quản lý
thì việc đánh giá viên chức hàng năm sẽ đánh giá đúng đƣợc năng lực, trình
74
độ chuyên môn của viên chức; tránh đƣợc tình trạng đánh giá, phân loại viên
chức còn hình thức, không đúng chất lƣợng viên chức nhƣ hiện nay.
Thứ tư, lấy đánh giá, phân loại viên chức hàng năm để làm căn cứ cho
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng viên chức.
- Về tiền lƣơng, chế độ đãi ngộ
Chính sách tiền lƣơng là vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội hệ trọng,
phức tạp, nhạy cảm, có tác động rất lớn không chỉ đến hệ thống chính sách,
chế độ tài chính quốc gia mà còn tác động không nhỏ đến các đối tƣợng thụ
hƣởng và cả xã hội nên đòi hỏi phải có sự đồng thuận, quyết tâm chính trị
cao và cần có thời gian phát huy hiệu quả. Vấn đề phức tạp, khó khăn nhất là
nguồn tài chính hàng năm để bảo đảm chi trả tiền lƣơng cho các đối tƣợng
làm việc trong lĩnh vực công (trong đó có viên chức trong đơn vị sự nghiệp
công lập) đều do ngân sách nhà nƣớc chi trả. Dƣới đây là một số giải pháp
chính về tiền lƣơng và chế độ đãi ngộ nhằm đảm bảo chế độ tiền lƣơng hợp
lý, đáp ứng đƣợc nhu cầu thiết yếu của đội ngũ viên chức, giúp đội ngũ viên
chức yên tâm công tác, phục vụ sự nghiệp công ngày càng phát triển:
Thứ nhất, trao quyền tự chủ đƣợc quyết định, thay đổi chế độ tiền
lƣơng cho các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành, lĩnh vực trên cơ sở
thống nhất với ý kiến của Bộ Nội vụ; Nhà nƣớc không cần thiết phải quy
định cụ thể, ban hành chế độ tiền lƣơng cho toàn bộ khu vực sự nghiệp công
lập nhƣ hiện nay, tạo sự chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc
chi trả lƣơng theo mức độ cung ứng dịch vụ công. Cụ thể:
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thƣờng xuyên,
đơn vị tự bảo đảm chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ đƣợc thực hiện cơ chế tự
chủ tiền lƣơng theo kết quả hoạt động nhƣ doanh nghiệp.
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi
thƣờng xuyên và đơn vị do ngân sách nhà nƣớc bảo đảm toàn bộ chi thƣờng
xuyên đƣợc áp dụng chế độ tiền lƣơng nhƣ công chức. Tiền lƣơng thực trả
gắn với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp viên chức do ngƣời đứng đầu
đơn vị sự nghiệp quyết định trên cơ sở nguồn thu (từ ngân sách nhà nƣớc
75
cấp và từ nguồn thu của đơn vị), năng suất lao động, chất lƣợng công việc và
hiệu quả công tác theo quy chế trả lƣơng của đơn vị không thấp hơn chế độ
do Nhà nƣớc quy định.
Thứ hai, xây dựng và ban hành văn bản quy định về chế độ đãi ngộ
đối với viên chức thuộc ngành, lĩnh vực đặc thù thuộc quyền quản lý.
Thứ ba, khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập tiết kiệm chi
thƣờng xuyên, xây dựng cơ chế linh hoạt cung ứng dịch vụ công phù hợp
với thực tiễn phát triển của xã hội nhằm tăng quỹ bổ sung thu nhập để chi trả
thu tăng thêm, từng bƣớc cải thiện nâng cao đời sống cho ngƣời lao động.
- Về quản lý biên chế sự nghiệp
Quản lý biên chế chính là quản lý số lƣợng con ngƣời cần có cho sự
vận hành hoạt động của một tổ chức. Nếu việc quản lý biên chế đƣợc thực
hiện chặt chẽ, khoa học, hợp lý sẽ giúp cho bộ máy tổ chức đƣợc vận hành
hiệu lực, hiệu quả, làm cho năng suất lao động đƣợc tăng lên, góp phần tinh
gọn bộ máy và tinh giản biên chế. Một số giải pháp dƣới đây sẽ giúp cho
việc quản lý biên chế sự nghiệp đƣợc chặt chẽ, khoa học:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
viên chức; trong đó, Chính phủ cần xây dựng và ban hành Nghị định hƣớng
dẫn quản lý biên chế sự nghiệp.
Việc quản lý biên chế sự nghiệp còn nhiều bất cập còn là do cho đến
nay chƣa có văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về quản lý biên chế
sự nghiệp. Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ,
trong đó có quy định về thẩm quyền quyết định biên chế viên chức. Nghị
định này chƣa bao quát hết những nội dung quản lý về biên chế viên chức,
nhƣ: Nguyên tắc, nội dung quản lý biên chế viên chức, căn cứ xác định biên
chế viên chức, trình tự, thủ tục, hồ sơ trình, phê duyệt kế hoạch biên chế viên
chức hàng năm, trách nhiệm quản lý nhà nƣớc biên chế về viên chức, dẫn
đến việc triển khai thực hiện còn lúng túng, không đƣợc thống nhất trong cả
nƣớc. Do vậy, cần phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng về
quản lý biên chế sự nghiệp.
76
Sau khi Chính phủ xây dựng và ban hành Nghị định quy định quản lý
nhà nƣớc về biên chế sự nghiệp, Bộ Nội vụ sẽ phối hợp với các bộ quản lý
ngành và lĩnh vực xây dựng và ban hành Thông tƣ hƣớng dẫn chi tiết quản
lý nhà nƣớc về biên chế sự nghiệp theo đúng quy định.
Thứ hai, không thực chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập
(trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nƣớc). Vì
vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung, bỏ một số điều liên quan đến công chức là
ngƣời đứng đầu, cấp phó của ngƣời đứng đầu trong đơn vị sự nghiệp tại
đƣợc quy định tại Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Nghị định số
06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định những ngƣời là
công chức, Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ về
quản lý biên chế công chức, Nghị định số 56/2015/NĐ-CP… và một số văn
bản liên quan khác.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày
17/11/2000 của Chính phủ về thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công
việc trong cơ quan hành chính nhà nƣớc, đơn vị sự nghiệp.
Tại Nghị định số 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 đã quy định cơ
quan, tổ chức, đơn vị ngoài hình thức ký hợp đồng lao động đối với cá nhân
còn có thể ký hợp đồng thuê khoán tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng
kinh tế và các loại hợp đồng khác theo quy định của pháp luật đối với cá
nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ. Tuy nhiên, do một số quy định của Nghị
định còn chƣa cụ thể và chƣa chặt chẽ về mặt pháp lý dẫn đến tình trạng các
đơn vị ký kết và sử dụng lao động hợp đồng (kể cả trong và ngoài chỉ tiêu
biên chế) tăng nhanh qua các năm. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định
68/2000/NĐ-CP cần quy định rõ về kinh phí thực hiện hợp đồng đối với các
loại hợp đồng nêu trên không đƣợc tính vào quỹ lƣơng của công chức, nhằm
tách biệt cơ chế quản lý, sử dụng hợp đồng, tránh đƣợc việc ký hợp đồng
lao động ồ ạt hiện nay tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Cụ thể, cần phân ra
2 loại hợp đồng: Hợp đồng trong quỹ lƣơng (tức là vẫn đƣợc hƣởng ngân
77
sách nhà nƣớc và ký hợp đồng); hợp đồng ngoài lƣơng (hợp đồng qua đề tài,
dự án, các hình thức phục vụ khác) để hạn chế sử dụng ngân sách nhà nƣớc,
Thứ tư, phối hợp với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nƣớc về biên
chế đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế theo hƣớng bảo đảm giao biên
chế đúng và biên chế đủ. Trong đó:
Biên chế đúng đƣợc xác định theo 2 tiêu chí:
Đúng theo vị trí việc làm, nhằm bảo đảm có vị trí việc làm thì có biên chế
tƣơng ứng, không để tình trạng bỏ trống vị trí việc làm mà thiếu biên chế để
thực hiện và ngƣợc lại có biên chế nhƣng lại không bố trí đƣợc vị trí việc làm.
Đúng theo chuyên môn, nghiệp vụ đƣợc đào tạo, để không bị lãng phí
quá trình đào tạo và để đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc đòi hỏi.
Biên chế đủ theo 2 tiêu chí:
Đủ số lƣợng biên chế tƣơng ứng với số lƣợng vị trí việc làm đã đƣợc
xác định theo chức năng, nhiệm vụ và quy trình xử lý chuyên môn, nghiệp
vụ theo quy định.
Trên cơ sở đó, các bộ quản lý viên chức chuyên ngành căn cứ vào tính
chất, đặc điểm, mức độ phức tạp, quy mô, phạm vi, đối tƣợng mà đơn vị sự
nghiệp công lập thực hiện nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công và các đặc thù
về phân loại, xếp hạng đơn vị sự nghiệp theo tiêu chí quy định; kết quả thực
hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công để giao biên chế sự
nghiệp phù hợp.
Thứ năm, chấm dứt việc ký hợp đồng và giao biên chế sự nghiệp vƣợt
quá số lƣợng đƣợc cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định; có kế hoạch
tổ chức thi tuyển ngay đối với các đơn vị còn chỉ tiêu biên chế để giải quyết
dứt điểm số viên chức và số ngƣời lao động hợp đồng đã ký của đơn vị (trừ
các đơn vị đã tự chủ tài chính).
Thứ sáu, thực hiện nghiêm trách nhiệm báo cáo hàng năm về số
lƣợng, chất lƣợng viên chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý về Bộ Nội vụ, để
tổng hợp, báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ theo quy định.
78
Thứ bảy, phân cấp về quản lý biên chế phải đi kèm theo mức độ tự chủ
về tài chính của đơn vị sự nghiệp, nhƣng phải có sự giám sát chặt chẽ của cơ
quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền,
Thứ tám, tiếp tục triển khai và hoàn thiện xác định vị trí việc làm để
làm căn cứ và cơ sở cho việc giao biên chế khoa học, phù hợp với chức danh
cần tuyển dụng. Theo đó, các đơn vị sẽ không chỉ tuyển dụng thuần túy sinh
viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng, mà sẽ tuyển dụng cả những ngƣời tốt
nghiệp trung học chuyên nghiệp, trung học nghề. Nhƣ thế, trong đội ngũ
viên chức không chỉ có “thầy” mà còn có cả “thợ”. Bên cạnh đó, việc đổi
mới quản lý biên chế theo vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh viên chức
là tiền đề để triển khai thực hiện việc khoán quỹ lƣơng và chi, đẩy mạnh cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Qua đó,
khuyến khích và tạo điều kiện để các đơn vị sự nghiệp công lập sắp xếp, sử
dụng, bố trí viên chức đúng với năng lực, sở trƣờng và cải tiến, đổi mới chế
độ, lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả, chất lƣợng công việc. Nếu các đơn vị
tiết kiệm đƣợc biên chế mà không sử dụng hết thì phần kinh phí cấp cho quỹ
lƣơng và chi sự nghiệp tiết kiệm sẽ đƣợc dùng để chi khen thƣởng cho viên
chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao thu nhập cho viên chức
của đơn vị.
Thứ chín, xây dựng chế tài, cơ chế giám sát trách nhiệm của ngƣời
đứng đầu trong việc quản lý, sử dụng biên chế.
- Về tinh giản biên chế sự nghiệp
Tinh giản biên chế là một trong những chủ trƣơng lớn của Đảng, Nhà
nƣớc trong những năm gần đây. Đây là vấn đề “nóng” luôn đƣợc đại biểu
Quốc hội và cử tri cả nƣớc đặc biệt quan tâm trong mỗi kỳ họp Quốc hội.
Qua 04 lần thực hiện chính sách tinh giản biên chế vẫn chƣa đạt đƣợc mục
tiêu đề ra, thậm chí biên chế không những không giảm mà ngày càng tăng,
làm mất niềm tin của ngƣời dân và xã hội vào khu vực công. Mục tiêu quan
trọng của việc tinh giản biên chế không phải là cắt giảm cơ học mà là nâng
cao năng lực, hiệu lực và chất lƣợng trong cung ứng dịch vụ công. Một số
79
giải pháp chính sau đây sẽ làm cho việc tinh giản biên chế sự nghiệp có hiệu
quả, góp phần nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức:
Thứ nhất, xây dựng Đề án quy hoạch mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp
công lập, nhằm giảm mạnh đầu mối, nâng cao hiệu quả hoạt động các đơn vị
sự nghiệp, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm
vụ, trong đó xác định chỉ tiêu giảm đầu mối đơn vị sự nghiệp công lập cho
từng năm theo nguyên tắc: Một đơn vị sự nghiệp công lập có thể cung ứng
nhiều dịch vụ sự nghiệp công cùng loại; cơ cấu lại hoặc giải thể các đơn vị
sự nghiệp công lập hoạt động không hiệu quả hoặc không đáp ứng đủ tiêu
chí, điều kiện thành lập; đẩy mạnh xã hội hóa, chuyển các đơn vị sự nghiệp
công lập có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các bệnh viện và trƣờng
học); trƣờng hợp cần thiết phải thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập, thì
đơn vị đó phải tự bảo đảm toàn bộ về tài chính (trừ trƣờng hợp phải thành
lập mới để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu). Đề án quy
hoạch mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp công lập đƣợc triển khai quyết liệt,
đồng bộ sẽ giải quyết đƣợc các vấn đề cơ bản nhƣ: giảm đƣợc biên chế, trụ
sở làm việc, kinh phí hoạt động...
Thứ hai, hoàn thiện Đề án tinh giản biên chế đến năm 2021 và xây
dựng Kế hoạch tinh giản biên chế hàng năm và giai đoạn 2017-2021. Xây
dựng chế tài, cơ chế giám sát trách nhiệm của ngƣời đứng đầu trong việc
quản lý, sử dụng biên chế.
Thứ ba, xây dựng cơ chế, chính sách, khuyến khích, khen thƣởng kịp
thời đối với các đơn vị thực hiện tốt việc tinh giản biên chế và chế tài xử lý,
kỷ luật đối với các đơn vị không thực hiện kế hoạch tinh giản biên chế.
Thứ tư, tiến hành phân loại viên chức theo vị trí việc làm và sắp xếp,
bố trí lại cơ cấu viên chức theo hƣớng vị trí chuyên môn, nghiệp vụ. Xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực, trình độ, bố trí, sử
dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ này. Rà soát, sắp xếp, cơ cấu lại và tinh giản
biên chế đối với các chức danh danh lái xe, bảo vệ, nhân viên phục vụ trong
các đơn vị sự nghiệp công lập.
80
Thứ năm, đổi mới công tác đánh giá viên chức, bảo đảm đánh giá
đúng, khách quan, trung thực về kết quả thực hiện nhiệm vụ của viên chức
khắc phục tình trạng cào bằng, nể nang trong đánh giá. Hiện nay, chúng ta
đang thiếu hệ thống đánh giá chất lƣợng hiệu quả viên chức một cách minh
bạch và tin cậy. Việc xây dựng hệ thống đánh giá chất lƣợng hiệu quả viên
chức cần phải có đội ngũ chuyên gia tƣ vấn ngoài công lập nhƣ doanh
nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ…để đảm bảo kết quả đánh giá khách
quan, minh bạch, công bằng, là công cụ tạo động lực để nâng cao hiệu quả
làm việc, đồng thời là công cụ sàng lọc, phân loại viên chức không đáp ứng
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Thứ sáu, tăng cƣờng trách nhiệm của ngƣời đứng đầu trong thực hiện
chính sách tinh giản biên chế. Ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập
phải thực sự công tâm, khách quan trong đánh giá viên chức vì mục tiêu
chung trong việc xây dựng đơn vị, bảo đảm hợp lý, hợp tình và thuyết phục,
không làm xáo trộn, mất đoàn kết nội bộ. Lấy kết quả thực hiện tinh giản
biên chế hàng năm là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp
loại hoàn thành nhiệm vụ đối với tập thể đơn vị và ngƣời đứng đầu đơn vị.
3.2.2. Tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả pháp luật quản lý viên chức
Việc tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả pháp luật về quản lý viên
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập sẽ làm hạn chế những tồn tại, nâng cao
chất lƣợng đội ngũ viên chức. Cụ thể:
Thứ nhất, đề cao vai trò, trách nhiệm của ngƣời đứng đầu trong việc
thực hiện pháp luật quản lý viên chức
Ngƣời đứng đầu có trách nhiệm triển khai các quy định của Luật Viên
chức và các văn bản hƣớng dẫn thi hành trong quá trình hoạt động của đơn
vị và quản lý viên chức thuộc thẩm quyền quản lý. Việc đề cao trách nhiệm
của ngƣời đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập chính là nhấn mạnh đến vai
trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý của họ trong đơn vị, cụ thể hóa công việc
họ đảm nhận, từ lập kế hoạch - kiểm tra - giám sát đến đánh giá chất lƣợng
công việc của nhân viên cấp dƣới. Do đó, việc thực hiện có hiệu lực, hiệu
81
quả pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập có thực
hiện đƣợc hay không phụ thuộc rất lớn vào vai trò quan trọng của ngƣời
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Vì vậy, ngƣời đứng đầu đơn vị sự
nghiệp công lập cần triển khai thực hiện pháp luật về viên chức một cách
toàn diện, minh bạch, khách quan và chịu trách nhiệm chính khi xảy ra các
vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện.
Thứ hai, các bộ cần tăng cƣờng kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp
luật quản lý viên chức tại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc.
Công tác kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm cho quá trình thực hiện các
quy định của pháp luật về quản lý viên chức tại các đơn vị sự nghiệp đƣợc
thực hiện theo đúng quy định nhằm hạn chế sai phạm và khắc phục kịp thời
những sai phạm trong quá trình thực hiện tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
Thời gian qua, công tác tăng cƣờng kiểm tra, giám sát việc hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp thuộc quyền quản lý chƣa đƣợc các bộ chủ quản quan tâm
đúng mức nên đã có một số sai phạm xảy ra tại các đơn vị sự nghiệp đƣợc
giao quyền tự chủ hoàn toàn về tuyển dụng viên chức, sử dụng tài chính…
dẫn đến kiện tụng, đơn thƣ kéo dài…Nếu việc kiểm tra, giám sát đƣợc thực
hiện định kỳ, công khai, minh bạch sẽ thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện tốt nhiệm vụ đƣợc giao, đội ngũ viên chức đƣợc làm việc trong môi
trƣờng lành mạnh, phát huy hết năng lực, sở trƣờng, cống hiến hết mình có cơ
quan, đơn vị, góp phần nâng cao chất lƣợng dịch vụ công.
Thứ ba, kịp thời tổng kết, rút kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp để
thực hiện các quy định pháp luật quản lý viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.
Việc tổng kết, rút kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp riêng phù hợp
với đơn vị từng ngành, lĩnh vực trong quá trình thực hiện các quy định pháp
luật quản lý viên chức hầu hết chƣa đƣợc các bộ quan tâm triển khai thực
hiện. Vì vậy, các đơn vị sự nghiệp công lập còn gặp nhiều lúng túng, khó
khăn trong quá trình thực hiện các quy định của luật liên quan đến: tuyển
dụng, luân chuyển, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức, dẫn tới
việc hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập chƣa thực sự hiệu quả.
82
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý viên chức
Số liệu viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay chƣa
đƣợc các bộ cập nhật thƣờng xuyên, dẫn đến số liệu viên chức tại các đơn vị
sự nghiệp công lập chƣa thực sự đúng với số viên chức có mặt. Thời gian
tới, các bộ chủ quản cần ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thống kê,
quản lý viên chức nhằm phục vụ cho việc quản lý chất lƣợng, số lƣợng viên
chức đƣợc chính xác, từ đó, các bộ lên phƣơng án đào tạo, bồi dƣỡng, tuyển
dụng viên chức phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
3.2.3. Các giải pháp khác
Để thực hiện tốt các quy định của pháp luật về quản lý viên chức, thì
việc tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập đóng vai trò vô
cùng quan trọng, ảnh hƣởng trực tiếp đến đội ngũ viên chức và chất lƣợng
dịch vụ công cung cấp cho toàn xã hội và ngƣời dân. Nó đƣợc xác định là bộ
phận cấu thành của bộ máy cơ quan nhà nƣớc và chịu sự quản lý nhà nƣớc
cả về tổ chức cũng nhƣ hoạt động. Với mô hình tổ chức bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực nên các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ có số
lƣợng đội ngũ viên chức tƣơng đối lớn, góp phần quan trọng vào vai trò
cung ứng dịch vụ công của Nhà nƣớc. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về quản lý, nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức - ngƣời
trực tiếp cung ứng dịch vụ công, thì việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ
máy nâng cao năng lực hoạt động hiệu quả của đơn vị sự nghiệp công lập
phù hợp với bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới hiện nay là hết sức quan
trọng và cần thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả đƣa ra một số giải pháp chính để
hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp
công lập trực thuộc các bộ, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của
đơn vị sự nghiệp công lập; trong đó, cần nghiên cứu để ban hành Luật quản
lý sự nghiệp công nhằm tạo hành lang pháp lý mạnh để quản lý đơn vị sự
nghiệp công, để từ đó có cơ sở từng bƣớc nâng cao chất lƣợng tổ chức, hoạt
động và cung ứng dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công lập.
83
Thứ hai, tổ chức, sắp xếp lại đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc theo hƣớng:
- Rà soát, phân loại theo tính chất hoạt động (gồm: đơn vị sự nghiệp
công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nƣớc; đơn vị sự
nghiệp công lập kinh tế; đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công thiết yếu,
cơ bản và đơn vị sự nghiệp công lập khác) để có cơ chế quản lý và định
hƣớng phát triển phù hợp.
- Sáp nhập các cơ sở đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức, viên chức
của các bộ về một đơn vị đào tạo cán bộ, công chức, viên chức nhằm hoạt
động có hiệu quả theo hƣớng tinh gọn tổ chức bộ máy, tạo sự thống nhất, liên
thông giữa các ngành, lĩnh vực, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả hoạt động
đào tạo cán bộ, công chức, viên chức cho hệ thống chính trị.
- Xây dựng phƣơng án sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trƣờng đại
học, cao đẳng hoạt động không hiệu quả, chuyển các trƣờng về cho địa
phƣơng quản lý, chuyển một số tổ chức khoa học - công nghệ trực thuộc nhƣ
viện khoa học, viện nghiên cứu về trực thuộc các trƣờng đại học, học viện để
thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo và hình thành đại học
nghiên cứu, giảm số đầu mối trực thuộc bộ.
- Xây dựng phƣơng án chuyển dần một số bệnh viện thuộc Bộ Y tế và
các bộ về địa phƣơng quản lý (trừ các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành,
bệnh viện đa khoa chuyên sâu tại Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Thành phố Hồ
Chí Minh là cơ sở thực hành của các trƣờng đại học).
- Xây dựng Đề án quy hoạch mạng lƣới các đơn vị sự nghiệp báo chí
nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, buông lỏng quản lý, hoạt động kém
hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế tài chính:
- Rà soát, quy hoạch mạng lƣới đơn vị sự nghiệp công lập thuộc
ngành, lĩnh vực quản lý; từ đó nghiên cứu phân nhóm các đơn vị sự nghiệp
công lập trong việc áp dụng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm phù hợp với
Luật Viên chức và ứng với các mức độ trao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm theo hƣớng:
84
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ hoàn toàn: Nhà nƣớc cấp
kinh phí thông qua hình thức đấu thầu hoặc đặt hàng với kinh phí kèm theo
hợp đồng cung cấp dịch vụ công giữa bộ chủ quản trực tiếp với đơn vị sự
nghiệp công lập, thay cho việc phân bổ kinh phí ngân sách nhà nƣớc bình
quân nhƣ hiện nay.
Đối với đơn vị chƣa tự chủ hoàn toàn: Nhà nƣớc cung cấp đủ kinh phí
cho hoạt động sự nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao (về cơ bản
theo đặt hàng của nhà nƣớc) và chi đầu tƣ phát triển (cơ sở vật chất) theo kế
hoạch phát triển của đơn vị đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt; chuyển đổi
cơ chế cấp ngân sách nhà nƣớc cho đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công
theo số lƣợng biên chế sang cấp theo số lƣợng, chất lƣợng và giá dịch vụ sự
nghiệp công; nghiên cứu thực hiện cơ chế khoán chi phí đối với đơn vị sự
nghiệp công lập; chi trả tiền lƣơng, thu nhập theo hƣớng gắn với số lƣợng,
chất lƣợng, mức độ hoàn thành công việc.
- Xây dựng Đề án xác định giai đoạn thực hiện cơ chế tự chủ đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc. Từ đó, có cơ chế khuyến khích các
đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ hoàn toàn và chuyển đổi sang đơn vị sự
nghiệp công lập ngoài công lập; có chế tài hoặc phƣơng án xử lý trách nhiệm
ngƣời đứng đầu trong việc thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị.
Thứ tư, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc của các bộ đối
với các đơn vị sự nghiệp
- Đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự
nghiệp công lập theo hƣớng phân định rõ việc quản lý nhà nƣớc với quản trị
đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Ban hành các tiêu chí, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải
thể các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng ngành, lĩnh vực.
- Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ và
chất lƣợng cung ứng dịch vụ công của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Không quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công; các bộ chỉ thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự
nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc.
85
Tiểu kết Chƣơng 3
Hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự nghiệp trực
thuộc các bộ nói riêng và trong các đơn vị sự nghiệp công lập trên cả nƣớc
nói chung là một yêu cầu cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu của xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền XHCN; yêu cầu Chƣơng trình cải cách tổng thể nên hành
chính giai đoạn 2011-2020; yêu cầu cải cách chế công vụ, công chức, viên
chức. Với đề tài luận văn “ Pháp luật về quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp trực thuộc các Bộ ở Việt Nam hiện nay”, luận văn đã đƣa ra đƣợc
những vấn đề cơ bản về pháp luật quản lý viên chức mà cụ thể là về về tuyển
dụng, sử dụng, quản lý biên chế sự nghiệp, tinh giản biên chế; đánh giá
những ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của pháp luật quản lý viên
chức; đồng thời đƣa ra những phƣơng hƣớng, giải pháp để hoàn thiện pháp
luật nhằm nâng cao việc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả pháp luật về quản lý
viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ hiện nay.
Những thành tựu của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật quản lý
viên chức nói riêng đã tạo ra tiền đề hết sức quan trọng trong việc xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện có hiệu quả
chƣơng trình cải cách tổng thể nền hành chính, cải cách chế độ công vụ,
công chức, viên chức. Tuy nhiên, ngoài việc hoàn thiện pháp luật quản lý
nhà nƣớc về viên chức thì việc triển khai thực hiện những chính sách pháp
luật đó cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị nhất là các bộ, các đơn vị
sự nghiệp công lập và đông đảo đội ngũ viên chức. Có nhƣ vậy thì vấn đề
hoàn thiện pháp luật về quản lý viên chức mới thực sự đạt hiệu quả đáp ứng
đƣợc yêu cầu thực tiễn đã đề ra.
86
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, việc đẩy mạnh xã hội hóa
dịch vụ công là xu hƣớng tất yếu của nền hành chính hiện đại. Để làm đƣợc
điều đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về viên chức - hành lang pháp lý
để nâng cao chất lƣợng đội ngũ viên chức là vấn đề then chốt quan trọng.
Thời gian qua, với sự ra đời của Luật Viên chức năm 2010 và các văn
bản hƣớng dẫn thi hành đã từng bƣớc hoàn thiện hệ thống pháp luật về viên
chức; đội ngũ viên chức không ngừng tăng lên, chất lƣợng viên chức ngày
càng đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng
các chính sách pháp luật về viên chức đi vào thực tế đã bộc lộ không ít hạn
chế, nhất là về các vấn đề đã đƣợc tác giả nêu trong Luận văn nhƣ: tuyển
dụng, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức, đánh giá, phân loại, tiền
lƣơng, chế độ đãi ngộ, quản lý, tinh giản chế sự nghiệp...Việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về viên chức là hết sức cần thiết; nếu hệ thống pháp luật bảo
đảm phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp của viên chức sẽ góp phần nâng cao
chất lƣợng viên chức cũng nhƣ tạo môi trƣờng làm việc năng động, chủ động
để viên chức có thể đem hết khả năng và tâm huyết của mình phục vụ cho
đơn vị sự nghiệp công lập, để từ đó nâng cao chất lƣợng dịch vụ công, đủ sức
cạnh tranh với môi trƣờng cung cấp dịch vụ ngoài công lập.
Toàn bộ nội dung của Luận văn, tác giả đã đƣa ra đƣợc phần nào các
kết quả đạt đƣợc và những hạn chế, tồn tại của hệ thống pháp luật về quản
lý viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc các bộ nói riêng; từ đó, tìm ra nguyên nhân của
những hạn chế, tồn tại nêu trên. Các phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật quản lý viên chức đƣợc tác giả đƣa ra nhằm khắc phục những hạn
chế về quản lý viên chức là những đóng góp thiết thực, phù hợp với yêu cầu
thực tế hiện nay tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Tác giả hi vọng rằng,
Luận văn có thể là một nguồn tƣ liệu tham khảo về nội dung, về số liệu cho
các anh, chị đồng môn, đồng nghiệp và các thầy, cô khi tham gia giảng dạy
đến lĩnh vực liên quan.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ƣơng (2015), Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày
17/4/2015 về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
2. Ban chấp hành Trung ƣơng (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày
25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu khóa XII một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
3. Ban chấp hành Trung ƣơng (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công lập.
4. Ban chấp hành Trung ƣơng (2018), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày
21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7 khóa XII về cải cách chính sách tiền lương
đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp.
5. Bùi Công Quang, Văn phòng Chính phủ, Pháp luật về tổ chức và hoạt
động đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
6. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 quy định
về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức.
7. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 14/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/ 5/2012 của
Chính phủ quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
8. Bộ Nội vụ (2012), Thông tư số 16/2012/TT-BNV ngày 28/12/2012
ban hành Quy chế thi tuyển, xét tuyển viên chức; Quy chế thi thăng hạng
chức danh nghề nghiệp đối với viên chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng
hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên chức.
9. Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về
cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016.
10. Bộ Nội vụ (2017), Báo cáo kết quả kiểm tra việc thực hiện Kết
luận số 63-KL/TW ngày 27/05/2013 Kết luận của Hội nghị lần thứ 7 Ban
88
chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về cải cách chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải
cách đến năm 2020; Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 Kết luận của
Ban chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn
thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và Nghị quyết số 39-
NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban chấp hành Trung ương về tinh giản biên
chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
11. Bộ Nội vụ (2017), Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính,
tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập.
12. Bộ Nội vụ (2018), Đề án chính sách tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
13. Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Viên chức.
13A. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 89/NQ-CP ngày 10/10/2016 về
phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2016.
14. Chính phủ (2018), Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24/01/2018 của
Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung
ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
15. Chính phủ (2018), Nghị quyết số 10/NQ-CP của Chính phủ ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-
NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch
số 07-KH/TW ngày 27 tháng 11 năm 2017 của Bộ Chính trị thực hiện Nghị
quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24 tháng 11 năm
2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
89
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức
bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.
17. Chính phủ (2012), Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
18. Chính phủ (2012), Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012
quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập.
19. Chính phủ (2012), Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012
Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.
20. Chính phủ (2015), Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế
tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập
21. Chính phủ (2017), Nghị định số 150/2016/NĐ-CP ngày
11/11/2016 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Văn phòng Chính phủ.
22. Chính phủ (2017), Nghị định số 83/2012/NĐ-CP ngày 09/10/2012
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra
Chính phủ.
23. Chính phủ (2017), Nghị định số 13/2017/NĐ-CP ngày 10/02/2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc.
24. Chính phủ (2017), Nghị định số 16/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
25. Chính phủ (2017), Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP.
26. Chính phủ (2017), Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương
27. Chính phủ (2017), Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ.
90
28. Chính phủ (2017), Nghị định số 79/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
29. Chính phủ (2017), Nghị định số 12/2017/NĐ-CP ngày 10/2/2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giao thông vận tải.
30. Chính phủ (2017), Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26/7/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính.
31. Chính phủ (2017), Nghị định số 17/2017/NĐ-CP ngày 17/2/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thông
tin và Truyền thông.
32. Chính phủ (2017), Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
33. Chính phủ (2017), Nghị định số 95/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa
học và Công nghệ.
34. Chính phủ (2017), Nghị định số 86/2017/NĐ-CP ngày 25/7/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
35. Chính phủ (2017), Nghị định số 15/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn.
36. Chính phủ (2017), Nghị định số 69/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo
dục và Đào tạo
37. Chính phủ (2017), Nghị định số 81/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng.
38. Chính phủ (2017), Nghị định số 14/2017/NĐ-CP ngày 17/02/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội.
91
39. Chính phủ (2017), Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư
pháp.
40. Chính phủ (2017), Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao.
41. Chính phủ (2017), Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế.
42. ThS Vũ Trọng Hách, Quá trình hình thành và phát triển của pháp
luật về viên chức ở Việt Nam, Khoa Nhà nƣớc và Pháp luật, Học viện Hành
chính Quốc gia.
43. PGS. TS Nguyễn Thị Hồng Hải, Một số vấn đề về đổi mới tuyển
dụng công chức ở Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc.
44. Lê Thị Thu Hằng (2014), Thể chế quản lý viên chức khoa học,
công nghệ nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
44a. PGS.TS. Trịnh Đức Hảo (2018), Các điều kiện bảo đảm thực
hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, trang Hocluat.vn.
45. Ths. Lê Minh Hƣơng (2012), Một số vấn đề về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của Chính phủ, Tạp
chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 5.
45a. TS. Nguyễn Viết Lợi (2017), Đổi mới toàn diện, tái cơ cấu các
đơn vị sự nghiệp công.
46. Vũ Khoan - Nguyên Uỷ viên Trung ƣơng Đảng, Nguyên Phó Thủ
tƣớng Chính phủ (2009), Một số suy nghĩ về việc xây dựng Luật Viên chức,
Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 7.
47. ThS. Đào Thị Hồng Minh (2014), Hoàn thiện pháp luật về quản lý
biên chế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
47a. Vũ Hoàng Quỳnh (2016), “Quản lý nhà nước đối với viên chức
ngành y tế - từ thực tiễn Bệnh viện Phổi Trung ương”.
92
48. Quốc hội (1998), Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998.
49. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
50. Quốc hội (2010), Luật Viên chức năm 2010.
51. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017
của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
52. GS.TS. Phạm Hồng Thái (2009), Sự điều chỉnh của pháp luật về
viên chức, Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc, số 1.
53. ThS Trần Thị Thơi, Một số quan điểm, giải pháp xây dựng tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức trong bối cảnh hiện nay, Tạp
chí Tổ chức Nhà nƣớc.
54. ThS. Trần Lƣu Trung (2016), Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý đội
ngũ viên chức hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ công của một số nước
trên thế giới, Đề tài khoa học cấp Bộ Nội vụ.
55. TS. Trần Anh Tuấn (2007), Hoàn thiện thể chế quản lý công chức
ở Việt Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sỹ
kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.
56. TS. Trần Anh Tuấn (2010), Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên
chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 5.
57. TS. Trần Anh Tuấn chủ biên (2012), Pháp luật về công vụ, công
chức của Việt Nam và một số nước trên thế giới.
58. TS. Trần Anh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong khu vực sự nghiệp công lập, Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc, số 6.
59. TS. Trần Anh Tuấn (2008), 10 năm thực hiện Pháp lệnh Cán bộ,
công chức và vấn đề đổi mới chế độ công chức, công vụ, Tạp chí Tổ chức
Nhà nƣớc Số 10.
60. Các trang điện tử: - https://www.moha.gov.vn/. - tapchitaichinh.vn. - tcnn.vn - http://tcdcpl.moj.gov.vn
93
Phụ lục 1. Số lƣợng đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ giai đoạn từ năm 2011 đến nay (Nguồn số liệu từ Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Nội vụ năm 2017 [11]).
Số
Tên cơ quan
TT
Số lƣợng đơn vị sự nghiệp công lập qua các năm (Thời điểm từ ngày 31/12/2011 - 31/12/2017) 2014
2015
2012
2013
2016
2017
2011
Tổng
869
870
879
918
897
891
891
36
36
37
37
35
35
36
93
93
93
93
96
96
93
01 Bộ Tài chính 02 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
77
75
76
81
83
83
75
17
19
22
22
22
22
19
03 Bộ Y tế 04 Bộ Tƣ pháp 05 Bộ Kế hoạch và Đầu
28
29
29
30
30
30
29
Lao
06
39
40
40
41
43
43
40
tƣ Bộ động, Thƣơng binh và Xã hội
37
37
49
50
49
49
37
15
15
15
16
15
15
15
25
25
25
25
26
26
25
tin và
07 Bộ Xây dựng 08 Bộ Ngoại giao 09 Bộ Nội vụ 10 Bộ Thông
36
37
36
35
35
35
36
Truyền thông 11 Bộ Khoa học và
59
59
59
60
61
61
59
Công nghệ
12 Bộ Giao thông vận
70
72
72
72
72
72
70
tải
65
65
65
66
68
68
63
120
120
122
123
123
123
123
13 Bộ Công thƣơng 14 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 15 Bộ Giáo dục và Đào
53
54
55
55
56
56
54
tạo
16 Bộ Tài nguyên và
77
77
77
77
77
77
77
Môi trƣờng
94
(Nguồn số liệu từ Đề án đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Nội vụ năm 2017 [11]).
Phụ lục 2. Số lƣợng ngƣời làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc các bộ, giai đoạn từ năm 2011 đến nay
Số lƣợng viên chức
Tên cơ quan
Số TT
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017 - nay
Tổng
72.374 176.805
185.225 185.225
179.83 2
181.37 0
177.30 8
01 Bộ Tài chính
2.465
2.640
2.823 2.921 2.904 2.943
2.943
7.592
7.487
7.507 7.496 7.485 7.483
7.483
02 Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch
03 Bộ Y tế
40.637 40.705 40.705 40.777 37.152 46.004 46.004
04 Bộ Tƣ pháp
1.087
1.184
1.182 1.206 1.211 1.224
1.224
05 Bộ Kế hoạch và
1.469
1.484
1.484 1.484 1.573 1.573
1.573
Đầu tƣ
06 Bộ Lao động -
3.194
3.230
3.256 3.245 3.298 3.385
3.385
Thƣơng binh và Xã hội
07 Bộ Xây dựng
5.495
5.550
5.675 6.803 6.854 6.920
6.920
08 Bộ Ngoại giao
1.460
1.460
1.460 1.622 1.622 1.622
1.622
09 Bộ Nội vụ
1.765
1.355
1.899 1.980 1.903 1.566
1.566
1.884
1.954
1.944 1.842 1.928 1.893
1.893
10 Bộ Thông tin và Truyền thông
3.526
3.526
3.541 3.570 3.672 3.762
3.762
11 Bộ Khoa học và Công nghệ
12 Bộ Giao thông vận
9.328
9.459
9.862 9.903 9.929 9.345
9.345
tải
13 Bộ Công thƣơng
16.909 18.188 18.585 17.636 16.694 16.160 16.160
19.217 19.217 19.406 20.564 20.564 20.558 20.558
14 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
15 Bộ Giáo dục và Đào
51.322 54.342 54.921 54.725 54.967 55.256 55.256
tạo
5.024
5.024
5.582 5.596 5.552 5.531
5.531
16 Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng
95