BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

.........../............ ....../......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM TRUNG KIÊN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA LUẬT SƯ

TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

ĐẮK LẮK – NĂM 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

.........../........... ...../.....

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM TRUNG KIÊN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA LUẬT SƯ

TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN TÍNH

ĐẮK LẮK – NĂM 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Đảm bảo quyền của luật sư trong phiên tòa dân

sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu của cá

nhân tôi. Các nội dung nghiên cứu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung

thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào.

Tôi xin chịu trách nhiệm nếu lời cam đoan trên không đúng sự thật.

Đắk Lắk, tháng 06 năm 2023

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Trung Kiên

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thiện Luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và

Luật Hành chính ngoài sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, em đã nhận được sự

quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của Quý Thầy/cô giảng viên trong suốt quá

trình học tập tại Trường Học viện hành chính Quốc Gia; bên cạnh đó là sự ủng hộ

của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian vừa qua.

Em xin trân trọng kính gửi lời cảm ơn chân thành đến Tiến sĩ Vũ Văn Tính

- Giảng viên Trường Học viện hành chính Quốc Gia là giáo viên hướng dẫn khoa

học đã luôn động viên, trao đổi thẳng thắn, góp ý chân thành, hỗ trợ, giúp đỡ tận

tình để em hoàn thành luận văn.

Một lần nữa, em trân trọng gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy/cô, gia đình, các

chuyên gia và bạn bè đã nhiệt tình hỗ trợ, giúp đỡ cho em trong thời gian học tập

và thực hiện đề tài nghiên cứu.

Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................ 7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA LUẬT SƯ

TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM ................................................................ 8

1.1. Khái quát chung về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ..... 8

1.2. Nội dung quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm ................. 264

1.3. Các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện quyền của Luật sư tại phiên tòa

dân sự sơ thẩm. ..................................................................................................... 32

Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 415

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA

LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ......................... Error! Bookmark not defined.6

2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ....... Error! Bookmark not

defined.6

2.2. Thẩm quyền giải quyết các vụ án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh

Đắk Lắk. ............................................................... Error! Bookmark not defined.

2.3. Thực trạng thực hiện quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại

TAND tỉnh Đắk Lắk ........................................... Error! Bookmark not defined.3

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 65

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM 66

3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của Luật sư tại

phiên tòa dân sự sơ thẩm ...................................................................................... 66

3.2. Giải pháp hoàn thiện bảo đảm quyền luật sư tại phiên tòa sơ thẩm ... 717

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 80

KẾT LUẬN .................................................................................................. 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt

BLDS Bộ luật dân sự

BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự

HĐXX Hội đồng xét xử

HĐTTDS Hoạt động tố tụng dân sự

TAND Tòa án nhân dân

VKSND Viện tòa án nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghề Luật sư (LS) ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề

nghiệp của LS nhằm mục đích góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền,

thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; góp phần phát triển kinh tế – xã hội,

vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tính

chuyên nghiệp và đạo đức nghề nghiệp là nền tảng cơ bản của nghề LS. LS phải

có bổn phận tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; nêu gương trong

việc tôn trọng, chấp hành pháp luật; tự giác tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng

xử nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề, trong lối sống và giao tiếp xã hội.

Chính vì vậy, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của LS, Nhà nước ta đã ban hành

nhiều văn bản liên quan đến quá trình hành nghề LS, có thể nói đến các văn

bản: Luật LS (2006), Luật LS (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Văn bản hợp nhất Luật

LS (2015), Nghị định số 4529/VBHN-BTP ngày 26/11/2018 quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật LS, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp

LS Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày

13/12/2019 của Hội đồng LS toàn quốc)... Những văn bản này đã tạo hành lang

pháp lý tương đối đầy đủ cho việc hành nghề LS ở Việt Nam, trong đó có việc bảo

đảm các quyền của LS khi tham gia các hoạt động tố tụng tại TAND.

Nhận thức rõ quyền của LS trong hoạt động tư pháp nói chung, trong các

hoạt động tố tụng tại TAND nói riêng, những năm qua tại TAND tỉnh Đắk Lắk,

quyền của LS luôn được TAND tỉnh đảm bảo các quyền theo đúng quy định của

pháp luật khi tham gia các hoạt động tố tụng với tư cách là người bào chữa cho

người bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự,

bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc

8

tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong

các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn trong quá trình

tham gia tố tụng các vụ án tại TAND tỉnh, các quyền của người LS khi tham gia

tố tụng tại TAND vẫn còn bộc lộ mốt số hạn chế. Trong quá trình xét xử, khi tham

gia tranh tụng thì LS thường bị Chủ tọa phiên tòa hay Hội thẩm nhân dân cắt ngang

lời trình bày; nội dung tranh tụng của LS thường không được ghi nhận trong bản

án. Ngoài ra, nhiều trường hợp, LS bị đương sự hoặc người nhà của đương sự có

quyền lợi đối lập trong vụ án chửi bới, xúc phạm, hành hung, đánh đập tại phiên

tòa,…nhưng không được các cơ quan bảo vệ pháp luật có thẩm quyền xử lý

nghiêm minh. Các quyền của LS thường xuyên bị cản trở hoạt động nghề nghiệp

làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng đến hoạt

động hành nghề LS, gây ra sự bất bình đẳng trong hoạt động tố tụng,... Bởi vậy,

trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, ngoài ghi nhận quyền tham gia tố tụng

thì việc xây dựng cơ chế đảm bảo thực hiện quyền của LS trong hoạt động tố tụng

là cần thiết,…Những hạn chế về bảo đảm quyền của LS trong các hoạt động tố

tụng tại TAND tỉnh Đắk Lắk do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác

nhau tác động. Do vậy, để bảo vệ quyền hành nghề của LS cũng như tăng cường

khả năng tiếp cận công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động

tư pháp, việc đảm bảo quyền của LS trong hoạt động tố tụng, trong đó có quyền

được pháp luật bảo đảm tại TAND là cần thiết và cấp bách.

Xuất phát từ những lý do trên, nên tác giả chọn nghiên cứu đề tài:“Đảm

bảo quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn tốt

9

nghiệp thạc sĩ Luật học, chuyện ngành Luật Hiến pháp và Luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài.

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đảm bảo quyền con người

trong TTHS, TTDS,...trong đó có việc đảm bảo quyền của LS trong việc tham gia

tố tụng tại các phiên tòa hình sự dân sự, đất đai, hôn nhân và gia đình,...Về cơ bản,

các công trình này có thể được chia thành các nhóm sau:

2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về pháp luật về Luật sư ở Việt

Nam, quyền của Luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung, có thể kể đến một

số công trình tiêu biểu như:

- Đỗ Hoàng Yến, Nguyễn Văn Bốn (2010), “LS và pháp luật về LS Việt

Nam”[28]. Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04/2010. Nội dung của đặc san đã

khẳng định sự ra đời của Liên đoàn LS Việt Nam là phù hợp với đòi hỏi khách

quan của tiến trình đổi mới đất nước, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Dù còn

nhiều khó khăn, thách thức nhưng trước những triển vọng to lớn của sự phát triển,

chắc chắn, Liên đoàn LS Việt Nam sẽ có những giải pháp phù hợp để tận dụng các

cơ hội, nâng cao vị thế, vai trò, góp phần vào sự phát triển có tính chất bước ngoặt

về tổ chức và hoạt động LS ở Việt Nam.

- Hoàng Thị Anh Thư (2014), Pháp luật về hành nghề LS ở Việt Nam, Luận

văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Nội dung của

luận văn là làm rõ được các quy chế về nghề LS và hành nghề LS, hệ thống được

các quy định pháp luật về hành nghề LS ở Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập

đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật [433].

- Trần Thị Ngọc (2015), Văn hóa pháp luật của LS ở Việt Nam, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Nội dung của đề

tài là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề văn hóa pháp luật của LS. Trên

cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, củng cố và phát huy các giá trị vật

10

chất, tinh thần của văn hóa pháp luật của LS ở nước ta [533].

- Luận án tiến sĩ (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về LS ở

Việt Nam hiện nay của tác giả Phan Trung Hoài [60]. Nội dung của luận án đề cập

đến các vấn đề cơ bản về lý luận, cơ sở lý luận của việc điều chỉnh pháp luật đối

với hoạt động LS. Thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về LS ở Việt Nam,

phương hướng hoàn thiện pháp luật về LS.

- Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Tuân trong cuốn sách, Pháp luật về LS

và Đạo đức nghề nghiệp LS,(2014)[577]. Nội dung cuốn sách này, tác giả đã đưa

ra một bức tranh toàn cảnh về nghề LS, pháp luật về LS ở Việt nam dưới góc độ

lý luận, đồng thời tác giả đã trình bày, phân tích chuyên sâu rất nhiều vấn đề, khía

cạnh liên quan đến LS, nghề LS, pháp luật về LS và các hình thức tổ chức hành

nghề LS ở Việt Nam

- Theo tác giả của đề tài “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tổ chức

hành nghề LS qua thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” thì nội dung trong đề tài mà

tác giả quan tâm bao gồm: nghiên cứu các vấn đề lý luận về tổ chức hành nghề

LS; pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề LS đến thực trạng

pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề LS từ thực tiễn thành

phố Hồ Chí Minh. Mặt khác, quá trình nghiên cứu tác giả đã phân tích và đưa ra

một số khái niệm về hành nghề LS; tổ chức hành nghề LS; đặc điểm, vai trò của

tổ chức hành nghề LS.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (2005) do Nguyễn Văn Thảo làm chủ

nhiệm đề tài, Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức

và hành nghề LS trong điều kiện mới ở Việt Nam, [598]. Đây được xem làm công

trình nghiên cứu lớn có liên quan đến tổ chức hành nghề LS. Đề tài nghiên cứu

cấp bộ này đã tiếp cận các hoạt động tư pháp của nghề LS (hình sự, dân sự, kinh

tế, hành chính, lao động…). Trong nội dung đề tài đã đưa ra quan điểm và các giải

11

pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành nghề LS, hoạt động của LS tại Việt Nam.

Tuy nhiên, do đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng bao gồm cả việc quản lý LS và

hoạt động của LS nên vấn đề liên quan đến tổ chức hành nghề LS (văn phòng LS,

công ty luật) chưa được nghiên cứu chuyên sâu.

- Theo các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa trong cuốn “Truyền

thống LS Việt Nam”(2014) và cuốn “Lịch sử nghề luật ở Việt Nam” (2015 thì,

các tác giả tiếp cận vấn đề với những quy tắc chung của nghề LS, những yếu tố

bền vững đã trải qua thử thách, qua thời gian lâu dài mà vẫn còn tồn tại đến ngày

nay, vẫn được các thế hệ hiện tại chấp nhận và tôn trọng [62].

2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của Luật sư

tại TAND, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:

- Trần Văn Công (2019), Tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam

từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh [18]. Luận án tiến sĩ luật nghiên cứu cơ sở lý

luận về tổ chức hành nghề LS, đặc điểm của tổ chức hành nghề LS so với các

doanh nghiệp thông thường, nội hàm pháp luật về tổ chức hành nghề LS; làm rõ

các khía cạnh lý luận xung quanh các vấn đề về tổ chức hành nghề LS, pháp luật

về tổ chức hành nghề LS; Nghiên cứu so sánh có phân tích và đánh giá thực trạng

pháp luật quy định về tổ chức hành nghề LS, qua đó có được các đánh giá chính

xác về thực tiễn TCHNLS theo pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó chỉ ra được

những ưu điểm và các hạn chế, bất cập cần khắc phục; Trên cơ sở các kết quả

nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án đề xuất các định hướng và đưa ra kiến

nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các thể chế tổ chức hành nghề LS theo pháp

luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

- Lê Minh Đức (2018), Thực hiện pháp luật về Quyền, nghĩa vụ của LS trong

hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn

đề lý luận về thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của LS trong HĐTTHS; từ

12

thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của LS trong

HĐTTHS. Luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp

luật về quyền, nghĩa vụ của LS trong HĐTTHS ở Việt Nam hiện nay [50].

- Nguyễn Văn Tuân (2021), Vai trò của LS trong hoạt động tư pháp theo tinh

thần Hiến pháp 2013. Bài viết khẳng định: Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các

nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bình đẳng, công bằng trong

hoạt động tư pháp, trong đó có quyền bào chữa được bảo đảm. Bài viết phân tích

các quy định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội và thực trạng

vai trò của người LS trong việc bào chữa cho người bị buộc tội. Từ đó kiến nghị

một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của LS trong hoạt động tư pháp theo tinh

thần Hiến pháp năm 2013 [578].

- Phạm Thị Hường (2013), Quyền của LS tại phiên tòa dân sự sơ thẩm,

Luận văn Thạc sĩ Luật học. Nội dung của Luận văn đã xây dựng khái niệm LS,

đặc điểm, ý nghĩa về sự tham gia tố tụng của LS trong Tố tụng dân sự (TTDS).

Đồng thời nghiên cứu lược sử các quy định của pháp luật về vai trò của LS trong

TTDS và điểm lại các quy định pháp luật về vai trò của LS ở một số nước đại diện

cho các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới. Phân tích cụ thể để làm rõ vai trò

của LS trong TTDS theo pháp luật hiện hành. Làm rõ thực trạng hoạt động của

LS, phân tích nguyên nhân để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa

vai trò của LS trong TTDS [60].

- Nguyễn Thị Thu Thảo (2019), Quyền của LS tại phiên tòa dân sự sơ thẩm,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại

học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung của luận văn đã thể hiện rõ vai trò của

LS trong quá trình tham gia hoạt động TTDS nói chung. Tuy nhiên do giới hạn

nghiên cứu là trong hoạt động TTDS nên về cơ bản chưa khái quát được vai trò

đó trong việc nghiên cứu trong hoạt động TTDS nên chưa bao quát và thể hiện rõ

13

vấn đề [555].

- Nguyễn Văn Tuấn (2021), Hoàn thiện cơ chế bảo đảm hoạt động tranh

tụng của LS tại phiên tòa. Tạp chí LS Việt Nam Số 9 – Tháng 9/2021. Bài viết

cho rằng đảo đảm tranh tụng trong hoạt động xét xử là nguyên tắc cốt yếu của tư

pháp được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tòa án phải

bảo đảm các quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bên trong tranh tụng, trong đó

bảo đảm các quyền của LS. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn một số vấn đề ít nhiều

có ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của LS tại các phiên tòa [58].

- Lê Cao - Trần Hậu (2022), [477] Hoàn thiện quy định của pháp luật để

đảm bảo quyền của LS khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự. Đảm bảo quyền

của LS khi tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi tất yếu trong

quá trình cải cách tư pháp, qua đó để đảm bảo các vụ án hình sự được xét xử một

cách khách quan, công bằng, tránh oan, sai nhằm đảm bảo quyền con người, bảo

đảm công lý được thực thi. Bài viết này góp phần chỉ ra một số quy định của pháp

luật cần được hoàn thiện để đảm bảo hoạt động bào chữa của LS được thực thi

trên thực tế, qua đó cũng góp phần thúc đẩy hoàn thiện quá trình cải cách tư pháp

trong lĩnh vực tư pháp hình sự ở Việt Nam hiện nay.

- Ngoài ra còn một số bài viết như: Vai trò của LS trong việc bảo đảm dân

chủ, khách quan trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, của tác giả; Nguyễn

Thị Kiều Trang; Hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của LS trong

tố tụng dân sự của Hoàng Thị Thu Huyền; Tổ chức hành nghề LS theo pháp luật

Việt Nam từ thực tiễn từ TP. Hồ Chí Minh của Trần Văn Công;"Bảo đảm quyền

và nghĩa vụ của “LS bào chữa” trong hoạt động tố tụng hình sự" của Lê Minh

Đức (2021),...

Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu đến nhiều góc độ

khác nhau và có những đóng góp nhất định vào lý luận và thực tiễn trong việc bảo

14

vệ quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND hiện nay. Các công trình đã

phân tích một cách hệ thống và tương đối toàn diện về pháp luật về LS, vấn đề bảo

vệ quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND. Tuy nhiên, đến nay, dưới góc

độ chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật hành chính, chưa có một công trình nào

nghiên cứu về "Đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk". Vì vậy, đây là đề

tài nghiên cứu không trùng lắp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần đảm

bảo quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về đảm bảo quyền của LS

tại TAND, đánh giá đúng thực trạng đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk

Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk

hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về đảm bảo quyền của Luật sư

tại TAND.

- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng về đảm bảo quyền quyền của LS

tại TAND tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cũng như nguyên nhân

của thực trạng này.

- Thứ ba, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục đảm bảo quyền

quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn đảm bảo

quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài

15

- Phạm vi về nội dung: Với mục đích nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề,

luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn thực hiện đảm

bảo quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện đảm bảo

quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk.

- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2018 đến năm 2022.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà ta về xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ

thể như: phương pháp hệ thống; phương pháp lôgic; phương pháp lịch sử; phương

pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, phương pháp kết hợp lý luận với

thực tiễn; phương pháp so sánh,....để giải quyết các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu

nội dung của luận văn. Các phương pháp được sử dụng nhằm làm rõ nội dung cơ bản

của luận văn, đảm bảo tính khoa học và lôgic giữa các vấn đề của đề tài trong các

chương.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về mặt lý luận

Đề tài luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của

LS trong hoạt động tố tụng tại TAND, góp phần làm rõ những thuật ngữ, khái

niệm có liên quan đảm bảo quyền của LS tại TAND, phân tích, làm rõ những quy

định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền của LS trong hoạt động tư pháp.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng đảm bảo quyền

16

của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk. Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong

việc đảm bảo quyền của LS; nhận diện việc vi phạm quyền của LS trong hoạt động

tư pháp tại TAND tỉnh Đắk Lắk, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của LS tại

TAND tỉnh Đắk Lắk.

Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành

cho cong tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn

còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực

tiễn đang công tác tại tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách

quan, có căn cứ và đúng pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về đảm bảo quyền LS của TAND tỉnh.

Chương 2: Thực trạng thực hiện đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh

Đắk Lắk.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh

Đắk Lắk.

17

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ

VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA ĐẢM BẢO QUYỀN

CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm đảm bảo quyền của luật sư tại tòa án nhân dân

* Khái niệm quyền của luật sư. Để LS thực hiện sứ mệnh nghề nghiệp, Hiến

pháp và pháp luật hiện hành trao cho LS các quyền trong hoạt động hành nghề

cũng như trong các hoạt động xã hội. Pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm của

cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan để bảo đảm quyền của LS thực

thi một cách đầy đủ, phù hợp tinh thần thượng tôn pháp luật; góp phần xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quyền của LS được thể hiện chủ yếu qua hai nhóm quy phạm gồm quy

phạm pháp luật và các quy định tự quản của Liên đoàn LS Việt Nam. Khoản 1

Luật LS quy định quyền cơ bản của LS gồm:

- Quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề LS theo quy định của

Luật này và quy định của pháp luật có liên quan;

- Quyền đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật;

- Quyền hành nghề LS, lựa chọn hình thức hành nghề LS và hình thức Tổ

chức hành nghề LS theo quy định của Luật này;

- Quyền hành nghề LS trên toàn lãnh thổ Việt Nam;

- Quyền hành nghề LS ở nước ngoài;

- Các quyền khác theo quy định của Luật này.

Khi một LS được công nhận theo quy định của pháp luật Việt Nam sẽ trở

thành thành viên của Đoàn LS nơi mình ra nhập và là thành viên của Liên đoàn

18

Luật sư Việt Nam. Khoản 1 Điều 29 Điều lệ Liên đoàn LS Việt Nam ban

hành kèm theo Quyết định số 856/QĐ-TTg ngày 19/7/2022 của Thủ tướng Chính

phủ quy định Luật sư có các quyền:

- Các quyền trong hoạt động hành nghề Luật sư theo quy định của pháp luật;

- Quyền được Liên đoàn LS Việt Nam, Đoàn LS hỗ trợ và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp trong hoạt động hành nghề;

- Quyền tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử, giới thiệu người ứng cử đại biểu

tham dự Đại hội đại biểu LS toàn quốc, Đại hội LS của Đoàn LS, tham gia các Cơ

quan của Liên đoàn LS Việt Nam, của Đoàn Luật sư; được Liên đoàn LS Việt

Nam, Đoàn LS giới thiệu ứng cử vào các cơ quan dân cử, cơ quan của các tổ chức

xã hội khác ở Trung ương và địa phương theo quy định của pháp luật, Điều lệ của

các tổ chức;

- Quyền tham gia các hoạt động của Liên đoàn LS Việt Nam, Đoàn LS;

- Đề xuất ý kiến về việc củng cố, phát triển tổ chức, hoạt động của Liên

đoàn, Đoàn LS;

- Quyền giám sát hoạt động của các cơ quan của Liên đoàn, Đoàn LS;

- Kiến nghị biện pháp khắc phục, kiến nghị xử lý vi phạm;

- Quyền khiếu nại đối với quyết định của các cơ quan của Liên đoàn, Đoàn

LS vi phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình;

- Quyền được Liên đoàn, Đoàn LS bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ;

- Các quyền khác theo quy định của Điều lệ này và Nội quy Đoàn LS.

Khi hành nghề, LS có các quyền của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự tương ứng với các công việc LS thực hiện cho khách

hàng. Các quyền này được quy định cụ thể trong pháp luật hình sự, pháp luật dân

sự, hành chính, khiếu nại, tố cáo,

19

* Đảm bảo quyền của luật sư tại tòa án nhân dân. Chế định LS đã được quy

định tương đối cụ thể trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. LS trong tố tụng

hình sự có vai trò tích cực trong việc bào chữa cho người bị buộc tội thông qua

việc thực hiện chức năng tố tụng hình sự của mình một cách đầy đủ. Sự tham gia

của LS là một trong những bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.

Tuy nhiên, do nhận thức chưa thật đầy đủ và do chưa có sự hướng dẫn cụ

thể, đồng bộ, thống nhất dẫn đến việc LS tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự

chưa hiệu quả. Một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự còn mang tính hình

thức hoặc khó thực hiện hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng

thiếu thống nhất. Cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng hình

sự theo hướng dân chủ hóa hoạt động tố tụng, phải xem việc tham gia của LS vào

quá trình tố tụng hình sự là sự giám sát tốt nhất đối với các hoạt động của cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự. Bên cạnh việc làm rõ chức năng buộc tội, chức năng xét

xử thì cần phải chú ý đến chức năng bào chữa, trong đó có vai trò của LS.

Sự tham gia của LS trong tố tụng hình sự không chỉ giúp người bị buộc tội

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định

sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh

chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm. Tuy nhiên,

vị trí, vai trò của LS chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm theo yêu

cầu của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, LS có thể tham gia tố tụng từ khi

khởi tố bị can, thậm chí còn sớm hơn là từ khi có quyết định tạm giữ. Nhưng trên

thực tế, tỉ lệ các vụ án LS được tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với

tổng số vụ án hình sự bị khởi tố, trong đó có cả những vụ án theo quy định của

pháp luật, sự tham gia của LS là bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố

tụng. Về vấn đề này có nhiều nguyên nhân, là do người bị buộc tội không biết

mình có quyền mời LS hoặc biết nhưng vì có khó khăn về tài chính nên không thể

20

thuê LS. Bên cạnh đó còn có một nguyên nhân là do cơ quan tiến hành tố tụng

chưa tạo điều kiện để LS thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số

người tiến hành tố tụng chưa ủng hộ việc LS được tham gia tố tụng. Trong một số

trường hợp, sự không ủng hộ này được thể hiện bằng cách khuyên người bị buộc

tội không nên mời LS mà tốt nhất là khai báo trung thực để được hưởng khoan

hồng. Đối với người bị buộc tội kém hiểu biết pháp luật, lại ở trong tình trạng tạm

giữ, tạm giam, do tâm lý bất ổn, lo lắng, vì vậy thường nghe theo lời khuyên nói

trên là điều thường có thể xảy ra.

Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc dân chủ trong

tố tụng hình sự, vì vậy, việc mở rộng sự tham gia của LS trong tố tụng hình sự,

cho phép LS tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ là cần thiết. Bảo đảm

quyền bào chữa của người bị buộc tội cần thực hiện theo hướng mở rộng quyền

của của người bị buộc tội và cho phép LS tham gia sớm hơn và trong mọi giai

đoạn của tố tụng hình sự, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan, người

tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của LS. Đã đến lúc

các cơ quan có thẩm quyền như TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an và

Bộ Tư pháp cần sớm xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn thống

nhất về mặt nhận thức vai trò của LS trong tố tụng hình sự, cũng như bảo đảm cho

LS thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đã được pháp luật quy định.

1.1.2. Đặc điểm đảm bảo quyền của luật sư tại Tòa án nhân dân

Đảm bảo quyền của của Luật sư trong hoạt động tố tụng là hành vi thực tế

hợp pháp nhằm hiện thực hóa các quy tắc xử sự giữa LS và các chủ thể khi giải

quyết vụ án hình sự, dân sự, pháp luật về quyền, nghĩa vụ LS trong tố tụng được

đặt ra để điều chỉnh hành vi của LS và chủ thể liên quan nên việc thực hiện pháp

luật phải thể hiện ở hành vi thực tế của LS và chủ thể liên quan. Hành vi về quyền

của LS trong phiên tòa hình sự và dân sự là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử

21

biểu hiện ra ngoài của LS trong một mối quan hệ TTHS và TTDS cụ thể. Hành vi

hợp pháp của LS tham gia trong TTHS, TTDS là những hành vi mang tính pháp

lý phù hợp với các quy định của pháp luật LS và pháp luật TTHS, TTDS, nghĩa là

hành vi làm đúng theo những gì mà pháp luật quy định. Vì vậy, LS thực hiện pháp

luật về quyền phải bằng hành vi hợp pháp, có thể là hành vi hành động hoặc không

hành động nhưng phải làm đúng, làm đủ, không trái với những quy định pháp luật

có liên quan.

Đảm bảo quyền của của Luật sư trong hoạt động tại TAND là đồng thời

thực hiện quyền, nghĩa vụ của LS và thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, có nghĩa, trong quan hệ TTDS, LS chịu

sự điều chỉnh của pháp luật về LS và pháp luật TTDS với tư cách là người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp. Quyền của LS trong phiên tòa dân sự sơ thẩm cũng

được bảo đảm thực hiện theo quy định pháp luật về LS và TTDS.

Đảm bảo quyền của của Luật sư trong hoạt động tại TAND phải theo trình

tự, thủ tục TTDS. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự được thực hiện theo

quy định pháp luật TTDS. LS tham gia TTDS thì phải thực hiện các hành vi hợp

pháp về quyền, nghĩa vụ của mình theo trình tự, thủ tục TTDS, nghĩa là trong bất

kỳ giai đoạn nào của TTDS, LS với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho đương sự cũng phải bảo đảm thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng của

giai đoạn đó.

Đảm bảo quyền của của Luật sư trong hoạt động tại TAND thể hiện ý chí

của nhà nước pháp quyền XHCN nhưng vẫn đề cao tính độc lập và tự chịu trách

nhiệm của LS Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam công nhận và bảo đảm

quyền của LS trong phiên tòa dân sự sơ thẩm, nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm

của chính LS và các chủ thể liên quan “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền

con người, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

22

hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu

tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Pháp luật về quyền của LS trong phiên tòa

dân sự sơ thẩm là công cụ để Nhà nước công nhận, bảo đảm và quản lý hoạt động

hành nghề của LS khi tham gia TTDS.

Đảm bảo quyền của của Luật sư trong hoạt động tại TAND thể hiện sự

phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với LS và các chủ thể khác trong

quá trình giải quyết vụ án dân sự Bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam là “Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”,

các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo

đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, các Nghị quyết của Đảng như

Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020 nêu rõ phải hoàn

thiện thể chế dân sự, thủ tục tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm

là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; hoàn thiện cơ chế đảm

bảo để LS thực hiện tốt việc tranh tụng tại tòa, đồng thời xác định rõ chế độ, trách

nhiệm đối với LS. Gần đây nhất là trong văn kiện Đại hội Đảng XII xác định phải

nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của LS.

Đảm bảo quyền của của Luật sư tại TAND phải theo đường lối, chủ trương

nêu trên của Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm của tất cả các chủ thể có liên quan

trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, đặt ra yêu cầu về sự phối hợp chặt

chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với LS và các chủ thể khác trong việc thực hiện

quyền của LS trong phiên tòa dân sự sơ thẩm.

1.1.3. Vai trò của đảm bảo quyền của luật sư tại Tòa án nhân dân

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ:

“Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng

23

dân chủ với LS, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”; “việc

phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của

người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền,

lợi ích hợp pháp để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết

phục và trong thời hạn pháp luật quy định”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm

tạo điều kiện để LS... tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Vấn đề đặt ra ở đây là cần

hiểu và nhận thức đúng về “tranh tụng”. Tranh tụng được hiểu là hình thức tố tụng,

thủ tục xét xử vụ án hay là một nguyên tắc trong tố tụng nói chung hay chỉ trong

phiên tòa xét xử hình sự nói riêng. Đây là những vấn đề đang còn có những quan

điểm, nhận thức khác nhau.

Trong những năm gần đây, thuật ngữ tranh tụng mới được nhắc đến trong

các tài liệu, sách báo pháp lý để phân biệt giữa LS chuyên tham gia bào chữa, biện

hộ trước tòa (barrister) và LS chuyên làm tư vấn pháp luật (solicitor); hoặc để phân

biệt giữa hình thức tố tụng tranh tụng (advesery system) ở các nước theo hệ thống

thông luật và hình thức tố tụng thẩm vấn, xét hỏi (inquisition system) ở các nước

theo hệ thống Luật dân sự. Ở các nước theo hệ thống thông luật, trong một phiên

tòa hình sự, vị Thẩm phán đóng vai trò như một vị trọng tài trong một “trận đấu”

giữa một bên là Công tố viên và bên kia là LS bào chữa. Trong tay Thẩm phán

không có hồ sơ vụ án mà nó nằm ở vị Công tố và LS Trong phiên tòa, vị Thẩm

phán hầu như không tham gia vào việc thẩm vấn, xét hỏi. Các LS, Công tố viên là

những người chủ yếu tham gia vào việc thẩm vấn, xét hỏi nhân chứng, nghiên cứu

chứng cứ và tranh luận với nhau. Nhiệm vụ của thẩm phán là duy trì trật tự phiên

tòa, điều khiển sự tranh luận giữa Công tố và LS. Như vậy, trong một phiên tòa

hình sự ở các nước theo hệ thống thông luật thì ba chức năng tố tụng là buộc tội,

bào chữa và xét xử được phân định rất rõ cho Công tố viên, LS và Tòa án.

24

Ở các nước theo hệ thống luật dân sự, các vị Thẩm phán xuất hiện trong

phiên tòa hình sự thường với những tập hồ sơ dầy cộm. Họ là những người nắm

tương đối rõ về vụ án, bởi vì họ được nghiên cứu trước. Trong phiên tòa họ là

người đóng vai trò quan trọng và tích cực trong việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo, nhân

chứng và nghiên cứu các chứng cứ. Thẩm phán ở các nước theo hệ thống thông

luật có vai trò thụ động bao nhiêu trong phiên tòa hình sự thì thẩm phán ở các nước

theo hệ thống luật dân sự lại có vai trò tích cực bấy nhiêu và đôi khi họ làm thay

cả phần việc của công tố viên. Các LS ở các nước theo hệ thống luật dân sự phải

làm việc rất ít, vai trò của họ rất lu mờ. Họ có rất ít điều kiện để tranh luận với

Công tố viên và chỉ được bày tỏ quan điểm của mình trong bài bào chữa chỉ khi

phiên tòa gần kết thúc.

Sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị thì vấn đề tranh tụng

đặc biệt được các nhà lý luận và những người làm công tác thực tiễn quan tâm.

Trên sách báo pháp lý đã đăng tải một số công trình nghiên cứu về vấn đề này.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có cách hiểu và nhận thức thống nhất về tranh tụng.

Tranh tụng là một thuật ngữ cũ được dùng. Tranh tụng có thể được hiểu là sự tranh

giành, kiện cáo nhau và sự tranh giành kiện cáo này cần có sự phân xử của người

thứ ba. Thuật ngữ tranh tụng đã được sử dụng và quy định trong BLTTHS năm

2015 và cụ thể là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Theo đó, Kiểm sát viên và

LS đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tranh luận dân chủ trước

tòa. Bản án được tòa án tuyên trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ, công khai tại

phiên tòa. Nội dung cơ bản của tranh tụng là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc

tội và bên bào chữa, phân định rõ ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong

phiên tòa xét xử vụ án hình sự.

Trên thực tế, nhiều vấn đề LS đưa ra nhưng chưa được đại diện VKS tranh

luận hoặc tranh luận chưa đầy đủ. Một số LS cho rằng, việc kiểm sát viên không

25

tranh luận từng vấn đề mà LS đưa ra hoặc nếu có thì nói là “tôi giữ nguyên quan

điểm như cáo trạng”. VKS giữ quyền công tố cần tranh luận từng vấn đề, trả lời

các câu hỏi mà LS đưa ra, có như vậy mới làm rõ được bị cáo có tội hoặc không

có tội, có tội thì ở mức độ nào.

Pháp luật tố tụng hình sự cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đại diện

VKS tại phiên tòa hỏi là chính và hội đồng xét xử cần đóng vai trò trọng tài, phân

xử sau khi đã nghe hai bên buộc tội và bào chữa tranh luận với nhau. Vậy cần phải

tăng liều lượng tranh luận của đại diện viện kiểm sát lên nhiều hơn nữa. Thông

qua tranh tụng tại phiên tòa, các vấn đề mới được cọ xát và được làm sáng tỏ. Hội

đồng xét xử đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển phiên tòa, có tác động để

quá trình tranh tụng đạt được kết quả cao. VKS cần làm đầy đủ trách nhiệm của

mình là truy tố và chứng minh tội của bị cáo. Tuy nhiên, muốn bảo đảm tranh tụng

dân chủ, công khai trong phiên tòa hình sự, cũng như nâng cao vai trò của LS trong

hoạt động tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị thì cần có bước đi thích hợp. Để thực hiện những

nhiệm vụ đã được đề ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp

đòi hỏi phải bổ sung, hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan tư

pháp và LS theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ các từng cơ quan, đồng

thời xác định rõ vai trò của LS trong hoạt động tư pháp.

1.2. NỘI DUNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN

Tư cách của LS tại TAND tham gia với các vai trò khác nhau, như: trong

tố tụng hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị cáo hoặc là người bảo

vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc trong tố tụng dân sự: tham gia tố

tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

26

của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về

tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành

chính; Các vụ việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương

mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.

1.2.1. Quy định của pháp luật về quyền của luật sư tại Tòa án nhân dân

1.2.1.1. Quy định về quyền của Luật sư trong tố tụng hình sự tại toà án

Mỗi vị trí, LS sẽ có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. LS trong pháp luật tố

tụng hình sự sẽ tham gia với vai trò là LS tranh tụng. Họ có thể là người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị buộc tội, bị hại, đương

sự của vụ án. Hoặc cũng có thể là người bào chữa cho người bị buộc tội, bị can,

bị cáo. Với mỗi vị trí, LS sẽ có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Cụ thể như sau:

* LS có thể là người bào chữa. Khi là người bào chữa, LS có các quyền sau

theo Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản

(điểm k khoản 1 Điều 73 BLTTHS);

- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến

việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra (điểm l khoản 1 Điều 73 BLTTHS);

- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa (điểm m khoản 1 Điều 73 BLTTHS).

Quyền này thể hiện nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26

BLTTHS) và được làm rõ hơn từ Điều 307 đến Điều 322 BLTTHS quy định liên

quan đến hoạt động tranh tụng của luật sư bào chữa;

- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng (điểm n khoản 1 Điều 73 BLTTHS);

- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi,

người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật này

(điểm o khoản 1 Điều 73 BLTTHS);

27

Ngoài ra, Luật sư bào chữa còn được bảo đảm sự bình đẳng với người thực

hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự. Quy định mới góp phần tạo sự bình đẳng

giữa bên công tố (kiểm sát viên) và Bên bào chữa (Luật sư bào chữa) thông qua

việc “Phòng xử án phải được bố trí thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự

bình đẳng giữa người thực hành quyền công tố và luật sư, người bào chữa khác”

(khoản 1 Điều 257 BLTTHS); được cụ thể hóa tại Điều 3, Điều 4 Thông tư số

01/2017/TT-TANDTC ngày 28/ 7/ 2017 của Tòa án nhân dân tối cao quy định về

phòng xử án.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người được

bị hại, đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Khi LS là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, họ

có các quyền:

a) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

b) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên

quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

c) Yêu cầu giám định, định giá tài sản;

d) Có mặt khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, đối

chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói của người mà mình bảo vệ; đọc, ghi chép,

sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của

bị hại và đương sự sau khi kết thúc điều tra;

đ) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; xem biên bản phiên tòa;

e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng;

g) Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám

định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

28

h) Kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền

lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ là người dưới 18 tuổi, người có nhược

điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Ngoài ra, LS bào chữa còn được bảo đảm sự bình đẳng với người thực hành

quyền công tố tại phiên tòa hình sự. Quy định mới góp phần tạo sự bình đẳng giữa

bên công tố (kiểm sát viên) và Bên bào chữa (LS bào chữa) thông qua việc “Phòng

xử án phải được bố trí thể hiện sự trang nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình đẳng giữa

người thực hành quyền công tố và LS, người bào chữa khác” (khoản 1 Điều 257

BLTTHS); được cụ thể hóa tại Điều 3, Điều 4 Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC

ngày 28/7/ 2017 của TAND tối cao quy định về phòng xử án.

1.2.1.2. Quy định về quyền của LS trong tố tụng dân sự tại toà án

Căn cứ vào Điều 76 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về quyền và

nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như sau:

- Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình

tố tụng dân sự.

- Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ

án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực

hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ

quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

- Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham

gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa

án xem xét.

- Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham

gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

- Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận

29

giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm

chuyển cho đương sự.

- Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và khoản

20 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

- Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.

* Tham gia phiên tòa sơ thẩm. Tại Phiên tòa sơ thẩm, ngoài phần mang tính

chất thủ tục như kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của đương sự, phổ biến nội quy

phiên tòa….Phần nội dung được bắt đầu bằng việc các đương sự trình bày các yêu

cầu của mình (Điều 248 BLTTDS năm 2015), theo đó khi các đương sự không tự

thỏa thuận được với nhau thì LS của nguyên đơn trình bày về yêu cầu khởi kiện

và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ. Tiếp theo,

LS của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu

cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị

đó. LS của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn;

yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ

để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Sau khi LS trình

bày xong, các đương sự đều có quyền phát biểu bổ sung. Trong trường hợp nguyên

đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có LS thì họ tự trình

bày về yêu cầu, đề nghị của mình và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề

nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.

Về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 260 BLTTDS năm 2015),

tương tự như phần trình bày yêu cầu trên, LS của các đương sự cũng là người đưa

ra các quan điểm tranh luận, đối đáp, trình bày các luận cứ, chứng cứ để chứng

minh cho các yêu cầu của thân chủ là có căn cứ và hợp pháp, đề nghị Hội đồng

30

xét xử chấp thuận các yêu cầu của thân chủ, bác bỏ yêu cầu của phía đối lập; các

đương sự cũng có quyền phát biểu bổ sung nếu thấy cần thiết.

Nội dung hỏi và tranh tụng của LS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc bảo

vệ có đem lại kết quả tốt hay không phụ thuộc nhiều vào việc hỏi và tranh luận

của LS tại phiên tòa. LS có quyền hỏi các đương sự và những người khác về các

vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho người được

bảo vệ. Theo quy định của BLTTDS năm 2015, nguyên tắc đảm bảo trong tranh

tụng là nguyên tắc được thể hiện xuyên suốt và chủ đạo, thay thế cho nguyên tắc

tranh luận trước đây theo BLTTDS năm 2004. Theo đó, tranh tụng tại phiên tòa

bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập

luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự,…Chủ tọa phiên tòa không

được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh

tụng trình bày hết ý kiến của mình.

* Tham gia phiên toà phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, nội dung và

phương thức tranh tụng được thực hiện theo quy định tại Điều 247 năm 2015.

Theo đó, trong trường hợp đương sự vẫn giữ kháng cáo thì LS của người kháng

cáo trình bày nội dung kháng cáo, căn cứ của việc kháng cáo, người kháng cáo có

quyền bổ sung ý kiến. Trường hợp tất cả đương sự đều kháng cáo thì việc trình

bày được thực hiện theo thứ tự LS của nguyên đơn kháng cáo và nguyên đơn; LS

của bị đơn kháng cáo và bị đơn; LS của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp đương sự không

có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến về

nội dung kháng cáo và đề nghị của mình. LS của các đương sự khác có liên quan

đến kháng cáo, kháng nghị trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị,

đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Về thủ tục hỏi và công bố tài liệu, chứng cứ,

xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như tại phiên tòa sơ

31

thẩm. Tuy nhiên, nhằm thể hiện đầy đủ nội dung nguyên tắc đảm bảo tranh tụng

trong xét xử thì BLTTDS năm 2015 đã bổ sung nhiều nội dung về thủ tục hỏi.

Trước đây, BLTTDS năm 2004 về thủ tục hỏi tại phiên tòa vẫn còn đề cao vai trò

của Hội đồng xét xử, can thiệp quá nhiều vào quá trình tranh tụng. Việc hỏi các

đương sự, người làm chứng về những vấn đề chưa rõ, còn mâu thuẫn lại không do

các đương sự, LS của đương sự hỏi trước mà quyền hỏi này lại thuộc về các thành

viên của Hội đồng xét xử. Hiện nay theo quy định tại Điều 249 BLTTDS năm

2015 thì thứ tự người hỏi đã có sự thay đổi; đương sự, LS của đương sự được hỏi

trước tiên. Đây là một quy định mới, tiến bộ của BLTTDS năm 2015 nhằm đề cao

vai trò chủ động, tích cực của đương sự, LS của đương sự đối với việc xác định

sự thật của vụ án. Về tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trước đây, Điều 273

BLTTDS năm 2004 quy định việc tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm được thực

hiện như phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, việc xét xử phúc thẩm là dựa trên kháng

cáo, kháng nghị nên những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị sẽ tranh

luận, đối đáp về kháng cáo, kháng nghị để chứng minh kháng cáo, kháng nghị là

có căn cứ và hợp pháp, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương

sự. Vì vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định LS của người kháng cáo là người mở

đầu tranh luận bằng việc trình bày các luận cứ, chứng cứ chứng minh cho các yêu

cầu kháng cáo; LS của các đương sự khác tranh luận, đối đáp. Tất cả các đương

sự đều có quyền bổ sung ý kiến. Nếu đương sự không có LS của mình thì tự mình

tranh luận.

1.2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong đảm bảo quyền của Luật sư tại

Tòa án nhân dân

Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho LS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm

theo quy định của BLTTHS và BLTTDS. Tòa án đảm bảo để LS, người bảo vệ

32

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng

cứ kể từ khi tòa án thụ lý vụ án dân sự; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm,

lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi

ích hợp pháp của đương sự hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác.

Theo quy định tại Điều 76 Bộ luật TTDS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong

quá trình tố tụng dân sự, thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho tòa án; nghiên

cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ

vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; tham gia

việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi

văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho tòa án xem xét; thay

mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

khác theo quy định của Bộ Luật này; giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền

thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà tòa án tống đạt hoặc thông

báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự; đưa ra câu hỏi với người khác về vấn

đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với tòa án những vấn đề cần hỏi người khác;

được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng; tranh luận tại phiên tòa, đưa ra

lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng.

Ngoài ra, Tòa án còn có trách nhiệm bảo đảm cho LS bào chữa còn được bảo

đảm sự bình đẳng với người thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự. Quy

định mới góp phần tạo sự bình đẳng giữa bên công tố (kiểm sát viên) và Bên bào

chữa (LS bào chữa) thông qua việc “Phòng xử án phải được bố trí thể hiện sự trang

nghiêm, an toàn, bảo đảm sự bình đẳng giữa người thực hành quyền công tố và

LS, người bào chữa khác” (khoản 1 Điều 257 BLTTHS); được cụ thể hóa tại Điều

33

3, Điều 4 Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của TAND tối cao

quy định về phòng xử án.

Đối với các vụ án dân sự, Tòa án còn có trách nhiệm đảm bảo cho LS các

quyền Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham

gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa

án xem xét theo quy định của BLTTDS, trong thực tế điều này đã được hiện thực

hóa tại quy định của khoản 3 Điều 76 BLTTDS. Trong các vụ án tranh chấp về

đất đai, kinh doanh thương mại, đa số các vụ án có thời gian xảy ra sự việc khá

lâu và phức tạp, đương sự thiếu hiểu biết về pháp luật nên việc mời LS tham gia

tư vấn pháp luật, bảo vệ quyền lợi là cần thiết. Nhiều vụ án tranh chấp đất đai với

sự tham gia của LS tư vấn pháp luật đã giảm bớt những tranh chấp kéo dài, giảm

khiếu nại vượt cấp. Các vụ án tranh chấp thừa kế khá phức tạp, nhiều vụ việc xác

định nguồn gốc tài sản chung từ đó xác định chia cho hàng thừa kế cần nhiều

chứng cứ và áp dụng pháp luật qua nhiều thời kỳ, sự tham gia của LS trong các vụ

án này có vai trò rất quan trọng. Số lượng LS tham gia các vụ án dân sự ngày càng

nhiều, người dân đã dần quen với việc mời LS tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của mình để vụ án được xét xử khách quan, đúng quy định pháp luật. Khi LS

tham gia vụ kiện dân sự sẽ dùng kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tư vấn, tranh

tụng để tư vấn, hướng dẫn khách hàng thực hiện bảo vệ quyền lợi theo quy định

của pháp luật. Ngoài ra trong giai đoạn này LS sẽ tư vấn để đương sự có thể đưa

ra được phương án hòa giải tốt nhất. Đối với vụ án tranh chấp đất đai, để hòa giải

được cần hiểu sâu, rõ vụ án và nguyện vọng các bên để đưa ra được phương án

mà hai bên có thể chấp nhận. Việc có LS tư vấn và giải thích những quy định của

pháp luật liên quan để đương sự hiểu và thực hiện đúng là cần thiết.

- Đảm bảo cho LS quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Hoạt động

hỏi, tranh luận của LS tại phiên tòa thể hiện kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ

34

chuyên môn của LS trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng.

Quyền này dựa trên nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 24

BLTTDS 2015) và được làm rõ hơn trong quy định về tham gia xét xử tại phiên

tòa theo quy định của BLTTDS năm 2015.

Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, trường hợp xét thấy cần thiết, LS có

thể đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,

người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật nhằm bảo đảm sự vô tư

của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, góp phần giải

quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, LS còn có thể đề nghị

tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định; triệu tập người tham gia tố tụng, cung

cấp tài liệu chứng cứ mới mà mình thu thập được. Khi có căn cứ xác định cơ quan,

người tiến hành tố tụng vi phạm hoạt tố tụng, LS được đề nghị họ thực hiện theo

đúng quy định pháp luật. Trường hợp cần có người tham gia tố tụng khác, người

có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan để làm sáng tỏ những vấn đề khúc mắc

của vụ án thì LS cũng được đề nghị người có thầm quyền triệu tập người tham gia

tố tụng, người tiến hành tố tụng đó. Tùy từng giai đoạn tố tụng và mức độ cần

thiết, LS có quyền đề nghị cơ quan tố tụng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,

tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây

thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc

thi hành án.

Để đảm bảo việc xét xử một cách công bằng thì trong phần thủ tục bắt đầu

phiên tòa trước khi kết thúc chủ tọa phiên tòa thường hỏi những người tham gia tố

tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng

chứng hay không, nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét và quyết định. Như

35

vậy, trong trường hợp cần phải triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp

thêm bằng chứng, LS có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, cung cấp

tài liệu chứng cứ mới để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của

mình và LS phải chủ động đề xuất với HĐXX để HĐXX xem xét và quyết định.

- Quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cho phép người tập sự hành nghề

LS được đi cùng LS hướng dẫn trong vụ án dân sự (khoản 3 Điều 14 LLS). Đây

là một quyền riêng có của LS và “LS tương lai”, với tư cách là người hướng dẫn

của người tập sự hành nghề LS nếu được sự đồng ý của khách hàng, cơ quan tiến

hành tố tụng thì người tập sự có quyền được đi cùng LS trong vụ viêc đó để học

hỏi các kinh nghiệm thực tế trong hành nghề LS, hỗ trợ, thực hiện các công việc

theo sự chỉ định của LS hướng dẫn.

36

1.2.3. Các biện pháp xử lý hành vi vi phạm quyền của luật sư

Quyền và nghĩa vụ của LS trong hoạt động tố tụng, đặc biệt là tố tụng hình

sự, dân sự,...được ghi nhận cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tiễn thực hiện các quyền

này thì LS thường xuyên bị cản trở hoạt động nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, ảnh hưởng đến hoạt động hành nghề LS,

gây ra sự bất bình đẳng trong hoạt động tố tụng,...Bởi vậy, trong giai đoạn cải cách

tư pháp hiện nay, ngoài ghi nhận quyền tham gia tố tụng thì việc xây dựng cơ chế

đảm bảo thực hiện quyền của LS trong hoạt động tố tụng là cần thiết.

Các văn bản pháp luật đã có nhiều đóng góp tích cực khẳng định tầm quan

trọng của LS trong xã hội đồng thời phần nào tạo được một hành lang pháp lý để

LS hành nghề. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật này còn thiếu cơ chế để đảm bảo

việc thực hiện quyền của LS trong hoạt động nghề nghiệp. Nhiều quy định của

pháp luật còn vướng mắc làm ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp của LS. Đặc

biệt, quy định pháp luật chưa có chế tài xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động

hành nghề của LS.

1.3. CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN

1.3.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật

Chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những cơ sở để bảo đảm

cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, chất

lượng pháp luật càng tốt thì việc bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm

quyền con người trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng được tốt hơn. Ngược

lại, nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện chúng

sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khi đó quyền của con người không được bảo đảm, có

thể bị xâm hại trực tiếp đến quyền của con người.

37

Có nhiều tiêu chí để xác định chất lượng của hệ thống pháp luật trong đó

có các tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, đồng bộ; tính thống nhất, tính phù hợp,

ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của hệ thống pháp luật.

Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất và có hiệu

quả phù hợp với thực tiễn trước tiên cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,

thống nhất và đồng bộ, đồng thời cũng cần có hệ thống các văn bản hướng dẫn áp

dụng pháp luật đầy đủ để làm nền tảng cho việc áp dụng pháp luật trong xét xử

các vụ án dân sự luôn được TAND tỉnh bảo đảm các quyền theo đúng quy định

của pháp luật khi tham gia các hoạt động tố tụng với tư cách là người bào chữa

cho người bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân

sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc

tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong

các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao

động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. Việc áp

dụng pháp luật là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh

của pháp luật đối với các mối quan hệ pháp luật phát sinh. Để các mỗi quan hệ xã

hội không vi phạm đạo đức xã hội, không vi phạm pháp luật thì phải có pháp luật

điều chỉnh.

1.3.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án tiến hành hoạt động tố tụng

Để việc áp dụng pháp luật trong quyền của LS tại tòa án được chính xác và

thống nhất đòi hỏi phải có đối ngủ cán bộ, thẩm phán có đủ năng lực trình độ và

cả kinh nghiệm. Đồng thời, hệ thống LS cần thiết phải được đào tạo bài bàn cũng

như thực hiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho quá trình áp dụng trong

thực tế.

38

Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án trong những năm gần đây đã được đào

tạo, tập huấn và hướng dẫn nghiệp vụ nên ngày càng có trình độ chuyên môn cao,

có thể giải quyết những vụ án có tính chất phức tạp nâng cao chất lượng giải quyết

vụ án đáp ứng tình hình cải cách tư pháp. Hiệu quả của hoạt động tư pháp thể hiện

chủ yếu ở hoạt động xét xử của tòa án. Trên thực tế, công tác xét xử vẫn còn xảy

ra tình trạng một số bản án phải cải sửa, hoặc tính thuyết phục chưa cao, gây xôn

xao dư luận. Nguyên nhân chính, ngoại trừ các yếu tố về tính công tâm, trách

nhiệm, trình độ chuyên môn của đội ngũ thẩm phán, phải kể đến vai trò tham gia

tố tụng của đội ngũ LS. Điều này được thể hiện, vẫn còn những lời bào chữa, tranh

tụng của LS chưa thuyết phục, chưa sắc sảo, chỉ mang tính thủ tục, hình thức.

Tòa án là cơ quan xét xử nhưng lại đang được pháp luật giao thực hiện một

số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử, ảnh hưởng đến yêu cầu bảo

đảm sự khách quan trong TTHS như: Bộ luật TTHS quy định cho Tòa án được xét

xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (Điều 196)

là không phù hợp vì Viện kiểm sát không truy tố thì Hội đồng xét xử không có căn

cứ để xét xử bị cáo, mặt khác ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào chữa của

bị cáo.

Thẩm quyền xét xử của Toà án trong một số trường hợp chưa được Bộ luật

điều chỉnh, Điều 171 Bộ luật TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án

theo lãnh thổ đối với bị cáo phạm tội ở nước ngoài, còn đối với trường hợp vụ án

có người bị hại là người nước ngoài, hoặc tài sản có liên quan đến người nước

ngoài hoặc có nhiều bị cáo là người nước ngoài thì chưa quy định. Điều luật cũng

chưa dự liệu Tòa án nào có thẩm quyền xét xử đối với trường hợp một bị can, bị

cáo nhưng thực hiện tội phạm ở nhiều địa phương khác nhau.

39

1.3.3. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động xét xử

Thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cùng với

việc nâng cao chất lượng đội ngũ, đổi mới tác phong công tác, ngành Toà án tỉnh

cũng chú trọng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động

chuyên môn.

Nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử, một trong những yêu cầu của

Nghị quyết là phải bảo đảm tính trang trọng, nghiêm minh của phiên xét xử và tạo

điều kiện thuận lợi cho nhân dân đến dự phiên toà. Muốn vậy, ngoài tác phong,

thái độ của các đối tượng tham gia tố tụng, điều kiện cơ sở vật chất mà chủ yếu là

hội trường xét xử đóng vai trò không nhỏ. Việc đầu tư kinh phí cải tạo trụ sở làm

việc với đầy đủ các phòng chức năng: Hội trường xét xử, phòng nghị án, phòng

lấy lời khai đương sự, phòng làm việc cho cán bộ, thẩm phán… Hội trường xét xử

nhìn chung đảm bảo về diện tích và được bài trí sắp xếp theo quy định: Khu vực

làm việc của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, LS và những người tham gia tố tụng

khác được bố trí riêng biệt, hợp lý; nhân dân đến dự phiên toà được bố trí ghế

ngồi…Trong điều kiện nguồn kinh phí của TAND Tối cao có hạn, ngành cũng rất

cần sự quan tâm đầu tư của chính quyền các địa phương để đồng bộ hoá trụ sở làm

việc của TAND theo quy chuẩn.

1.3.4. Cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp

Công tác phối hợp giữa các cơ quan Tư pháp được tiến hành thường xuyên,

chặt chẽ, kịp thời và nghiêm túc trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật. Sự phố hợp hoạt động giữa các cơ quan

tư pháp giúp đem lại những kết quả, ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất

lượng công tác tư pháp. Cụ thể, về các cơ quan có hoạt động tư pháp đã thường

xuyên phối hợp xây dựng và tham gia nhiều dự án luật, pháp lệnh, đặc biệt là các

dự án luật liên quan đến hoạt động của cơ quan tư pháp như Bộ luật hình sự, Luật

40

trách nhiệm bồi thường của nhà nước…Các dự án luật đều được xây dựng bảo

đảm tiến độ, chất lượng và sự thống nhất cao của các CQTHTT. Các cơ quan đã

chú trọng phối hợp trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật, qua đó tháo gỡ nhiều vướng mắc trong áp dụng pháp luật của các

CQTHTT, thi hành án địa phương, đảm bảo áp dụng đúng và thống nhất các quy

định của pháp luật trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Sự phố

hợp chặt chẽ hoạt động giữa các cơ quan tư pháp giúp hạn chế tối đa những trường

hợp bị oan sai, không bỏ lọt tội phạm và đảm bảo cho việc xử lý đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận văn đã khái quát cơ sở lý luận về đảm bảo quyền

của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND, trong đó nêu bật các khái niệm công cụ

về bảo đảm quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND; đặc điểm; vai trò;

nội dung quy định của pháp luật về đảm bảo quyền của LS trong hoạt động tố tụng

tại TAND,

Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về quyền con người và bảo

đảm quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND tỉnh Đắk Lắk; những tồn tại,

hạn chế bảo đảm quyền của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND tỉnh Đắk Lắk

cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó.

Những cơ sở lý luận tại Chương 1 sẽ làm tiền đề để phân tích, đánh giá

thực trạng thực trạng của LS trong hoạt động tố tụng tại TAND tỉnh Đắk Lắk tại

Chương 2.

41

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮKLẮK

2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỰC HIỆN QUYỀN CỦA LUẬT

SƯ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.1.1. Tổ chức thực hiện Luật Luật sư của Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk

Thứ nhất, về hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Luật LS sau khi

được Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/06/2006, có hiệu lực thi

hành từ ngày 01/01/2007. Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức nhiều đợt tuyên

truyền, phổ biến, quán triệt rộng rãi về nội dung của Luật LS, cùng với các văn

bản hướng dẫn thi hành Luật LS trong các cơ quan, tổ chức và nhân dân trên địa

bàn tỉnh Đắk Lắk. Công tác tổ chức triển khai thực hiện các quy định của Luật LS

và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận

thức của cơ quan, tổ chức và nhân dân về vai trò và hoạt động của LS. Đặc biệt là

doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài, họ đã xác định

được LS là bạn đồng hành của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư,

thương mại,…[48]. Cùng với việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật do các LS

thành viên của Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk thực hiện tại các cơ quan, đoàn thể, địa

phương, doanh nghiệp, trên các phương tiện thông tin đại chúng,…Đoàn LS đã

phát động trực tiếp tổ chức các hoạt động tuyên truyền về các quy định pháp luật

mới ban hành có phạm vi ảnh hưởng rộng đến đời sống xã hội. Bên cạnh đó, bản

tin LS và website của Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk, ngoài việc đưa các thông tin hoạt

động của Đoàn LS, hoạt động nghề nghiệp của LS, còn đăng tải những bài viết về

những vấn đề pháp luật được người dân quan tâm.

Thứ hai, về hoạt động tham gia tố tụng: Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk đã tập hợp,

42

phản ánh các ý kiến của LS về hoạt động tham gia tố tụng, kiến nghị điều chỉnh

các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng để tiếp tục tháo gỡ các rào cản, vướng

mắc đang hạn chế quyền hành nghề hợp pháp của LS trong tố tụng; tiếp tục làm

tốt công tác phân công bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, góp

phần nâng dần tỷ lệ số vụ án hình sự do tòa án xét xử tại Đoàn tỉnh Đắk Lắk có

LS tham gia.

Thứ ba, về hoạt động trợ giúp pháp lý: Cùng với các hoạt động trợ giúp

pháp lý do các LS của Đoàn thực hiện tại trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tại

các TCHNLS, Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk đã duy trì các hoạt động trợ giúp pháp lý

thường xuyên tại trụ sở của Đoàn. Hoạt động trợ giúp pháp lý còn được lồng ghép

trong các hoạt động phong trào của Đoàn như Chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh

tại các vùng sâu, vùng xa, kết hợp với các hoạt động từ thiện xã hội giúp đỡ đồng

bào có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng chính sách,v.v…

Thứ tư, về hoạt động đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật về cải cách

tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập kinh tế quốc tế: Đoàn đã tổ chức thành

công các buổi hội thảo, tọa đàm, góp ý bằng văn bản, tham gia ý kiến tại các cuộc

họp của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk để góp ý đối với các dự án luật và

văn bản dưới luật trong quá trình soạn thảo. Phản ánh, kiến nghị về những khó

khăn, vướng mắc thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của LS trong khuôn khổ hoạt

động giám sát chấp hành pháp luật của Đoàn Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng

Nhân dân tỉnh Đắk Lắk,…Mặc dù kinh nghiệm và kỹ năng của LS thành viên của

Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk hiện nay được phát triển chủ yếu qua thực tiễn hành nghề.

Đến nay, các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư trên địa bàn tỉnh đã có

những bước phát triển, đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư đã được

củng cố, kiện toàn, thành lập mới và đi vào hoạt động ổn định, chất lượng hoạt

động từng bước được nâng lên, góp phần tích cực trong việc bảo vệ quyền, lợi ích

43

hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh.

Trong năm 2022, các LS của Đoàn đã tham gia bào chữa 253 vụ án hình

sự, trong đó bào chữa chỉ định theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng ở

cả 3 giai đoạn (khởi tố điều tra, truy tố, xét xử) là 216 lượt vụ án; tham gia bảo vệ

17 vụ án dân sự và án hành chính; tư vấn pháp luật, dịch vụ pháp lý cho 1.027 vụ,

việc; trợ giúp pháp lý được 155 vụ, việc; nộp thuế hơn 238 triệu đồng (đạt 127%

so với năm 2021) [30]. Tặng 420 lá cờ Tổ quốc kết hợp phổ biến, tuyên truyền

pháp luật và tặng quà cho các gia đình ở buôn kết nghĩa (buôn Kon H’ring, xã Ea

H’đing, huyện Cư M’gar) với tổng giá trị khoảng 20 triệu đồng…Tuy nhiên, Đoàn

LS cũng có vai trò tích cực trong việc tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chung

(khóa học, hội thảo, tọa đàm,v.v…), nhờ thế mạnh tập hợp, kết nối được các nguồn

lực của các TCHNLS và các LS có kinh nghiệm, uy tín, kết hợp với các hoạt động

hợp tác quốc tế của Đoàn LS.

2.2.2. Tình hình thực hiện các quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân

tỉnh Đắk Lắk

Trong những năm gần đây, do sự tác động của nền kinh tế thị trường, quá

trình đô thị hóa mạnh mẽ nên nhu cầu sử dụng đất để ở, để sản xuất kinh doanh

ngày càng tăng cao, khi thị trường diễn ra sôi động, kéo theo đó là các dạng tranh

chấp về dân sự tại TAND tỉnh Đắk Lắk cũng tăng cao, chiếm tỷ lệ lớn có liên quan

khác. Mặc dù số lượng các vụ án tranh chấp dân sự nói tăng cao, có nhiều vụ hết

sức phức tạp, các đương sự khiếu nại, khiếu kiện nhiều về việc giải quyết của các

cơ quan có thẩm quyền nhưng TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều cố gắng,

nổ lực để giải quyết kịp thời và có hiệu quả, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của

các đương sự.

Theo số liệu thống kê của ngành TAND tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian Tòa

án hai cấp đã thụ lý, giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự và đạt tỷ lệ giải

44

quyết có giá trị thi hành án cao, cụ thể như sau: Trong giai đoạn từ năm 2018 đến

năm 2022, số vụ án có sự tham gia của người bào chữa trong tổng số các vụ án

dân sự mà TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm

là rất ít, chỉ chiếm tỷ lệ 9,35% (1.112/11.893) và các vụ án có người bào chữa chủ

yếu là các trường hợp bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (bào chữa chỉ định), số

vụ án có LS tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng chiếm tỷ lệ rất thấp

[77].

Giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2022, các LS của Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk đã

tham gia bào chữa trong 2.888 vụ án dân sự ở các giai đoạn tố tụng; trong đó, số

vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng là 501 vụ, chiếm tỷ lệ

17,35%; số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng

(bào chữa chỉ định) là 2.387 vụ, chiếm tỷ lệ 82,65% [30]. Với đặc thù của tỉnh

nằm ở khu vực Tây Nguyên, tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn; tỷ lệ

người dân tộc thiểu số cao (30%), thành phần dân tộc đa dạng (49 dân tộc) với

nhiều tập tục khác nhau, tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn lớn và tập trung

nhiều ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; trình độ

dân trí thấp, nhận thức pháp luật nói chung và nhận thức về quyền bảo vệ nói riêng

của người dân còn nhiều hạn chế.

Tranh chấp dân sự là dạng tranh chấp có giá trị lớn, các bên mâu thuẫn hết

sức gay gắt. Do đó, việc Tòa án quyết định chấp nhận cho phía nguyên đơn thì bị

đơn không đồng ý và kháng cáo, ngược lại Tòa án không chấp nhận cho nguyên

đơn thì nguyên đơn tiếp tục kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên giải quyết. Mặc

dù, Tòa án hai cấp của Tỉnh Đắk Lắk đã cố gắng giải quyết các vụ án đảm bảo

đúng pháp luật, bảo vệ quyền lợi của bên bị xâm phạm đảm bảo sự công bằng

trong xét xử nhưng bên bị thua kiện luôn thể hiện thái độ không bằng lòng với

quyết định của Tòa án nên tình trạng kháng cáo, khiếu nại, khiếu kiện vẫn diễn ra

45

thường xuyên và rất phức tạp dẫn đến các vụ án tranh chấp về dân sự thường phải

xét xử qua nhiều cấp làm ảnh hưởng đến tình hình chính trị tại địa phương, ảnh

hưởng đến thời gian, tiền bạc của các bên đương sự. Tuy nhiên, qua xét xử theo

thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hầu hết các vụ án có kháng cáo đều được y án,

một số vụ bị hủy, sửa do vi phạm tố tụng hoặc giải quyết hậu quả hợp đồng vô

hiệu không đúng.

Thực hiện chức năng Tòa án xét xử và việc tuân theo pháp luật trong quá trình

giải quyết các vụ án của Tòa án. Nhìn chung, việc giải quyết tranh chấp dân sự tại

TAND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua cơ bản tuân thủ các nguyên tắc và trình

tự thủ tục do pháp luật quy định, việc xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết

đảm bảo theo quy định về Tòa án theo lãnh thổ, theo vụ việc và theo sự lựa chọn

của đương sự, quyền nghĩa vụ của các bên được đảm bảo thực hiện theo đúng quy

định pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp cơ quan có thẩm

quyền giải quyết tranh chấp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng còn một số tồn tại cả

về mặt chủ quan và khách quan, như do một số thẩm phán còn yếu về năng lực và

kinh nghiệm nên không nắm được hết các quy định của pháp luật dẫn đến việc giải

quyết vụ án chưa chính xác, một số vụ án do pháp luật quy định thiếu cụ thể nên

việc áp dụng pháp luật chưa có sự thống nhất giữa các Tòa án nên tỷ lệ án bị sửa,

hủy vẫn xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng xét xử và quyền lợi của đương sự, một

số đương sự chưa chấp hành các nghĩa vụ của mình trong quá trình Tòa án giải

quyết vụ án do chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật về quyền và

nghĩa vụ của mình cũng như các quy định khác về tranh chấp và giải quyết tranh

chấp dân sự, sự thiếu hợp tác giữa các cơ quan có liên quan về việc Tòa án yêu

cầu cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc giải quyết tranh chấp nên cũng

gây khó khăn cho Thẩm phán giải quyết vụ án và cũng là nguyên nhân làm cho vụ

án bị kéo dài thời hạn giải quyết.

46

2.2. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA

ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.2.1 Thực trạng đảm bảo quyền của Luật sư trong hoạt động tố tụng

tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

2.2.1.1. Đảm bảo quyền bào chữa của Luật sư trong tố tụng hình sự tại

TAND tỉnh Đắk Lắk

Luật sư khi tham gia hoạt động TTHS thể hiện vai trò của mình thông qua tư

cách người bào chữa cho người bị buộc tội hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của bị hại, đương sự.

Trong thời gian qua, số lượng các VAHS có LS tham gia bào chữa cũng ngày

càng tăng. Trong 5 năm, (từ năm 2018 đến năm 2022). Tổng số vụ việc các tổ

chức hành nghề luật sư đã thực hiện bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo,

đương sự 1.683 vụ [30]. Đặc biệt, với sự tham gia của LS, kết quả giải quyết của

một số vụ án đã lật ngược lại hướng buộc tội ban đầu, giúp thân chủ từ người bị

coi là có tội thành người không có tội hoặc chuyển sang một tội danh khác, áp

dụng một hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát hoặc giảm nhẹ hình

phạt cho bị cáo. LS bào chữa tham gia phiên tòa sơ thẩm VAHS để bảo vệ cho bị

cáo. LS bào chữa thực hiện các hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm VAHS

với mục đích khẳng định tính thiếu căn cứ hoặc không hợp pháp trong nội dung

cáo trạng nhằm bác bỏ những cáo buộc của Viện kiểm sát, của người bị hại để

chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trách

nhiệm bồi thường của bị cáo.

Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về việc tham gia phiên tòa của LS bào chữa

thể hiện nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16). Hoạt động bào chữa

trong TTHS ngày càng được chú trọng theo tiến trình phát triển của chế độ dân 47

chủ. Đặc biệt, trong những năm gần đây, vai trò của LS bào chữa đã dần được

khẳng định trong thực tiễn bảo vệ quyền lợi của bị cáo trước Tòa. Kết quả sự nỗ

lực của LS bào chữa đã đóng góp không nhỏ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của người bị buộc tội, làm cho bản án do Tòa án tuyên ra được chính xác, khách

quan và dân chủ. Tuy nhiên, hoạt động của LS bào chữa tại phiên tòa cũng vẫn

còn nhiều hạn chế mà ít nhiều đã làm giảm đi hiệu quả của công tác và hoạt động

của LS trong việc bảo vệ pháp chế XHCN, các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân.

Thời gian qua, các LS tham gia tố tụng tại TAND tỉnh Đắk Lắk đã được

TAND tỉnh Đắk Lắk luôn đảm bảo các quyền của LS theo quy định của pháp luật,

cụ thể:

Thứ nhất, đảm bảo cho LS được cấp đăng ký, thông báo người bào chữa, tham

dự hỏi cung bị can, việc gặp và làm việc với bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ

án…Người THTT chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của LS khi tham gia tố tụng

để đảm bảo sự khách quan trong hoạt động tố tụng, chưa tạo điều kiện để LS tham

gia tố tụng. Còn có những quy định của các cơ quan THTT chưa phù hợp, chưa

đồng bộ với quy định của luật dẫn đến cách hiểu và vận dụng pháp luật của những

người THTT cũng rất khác nhau (nhiều lúc, nhiều nơi còn tùy tiện), còn nhiều

trường hợp bị can từ chối LS ngay từ khi làm thủ tục tham gia tố tụng trong giai

đoạn điều tra, dù rằng trước khi bị bắt họ tha thiết mời LS tham gia.

Thứ hai, không yêu cầu LS nộp phải nộp giấy giới thiệu của tổ chức hành

nghề LS hoặc những giấy tờ khác mà pháp luật không quy định, Đảm bảo cho LS

không cần cung cấp giấy yêu cầu LS của khách hàng phải có thị thực của chính

quyền địa phương. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 27 Luật LS năm 2006

(sửa đổi năm 2012), thì LS khi tham gia tố tụng chỉ cần xuất trình Thẻ LS và Giấy

yêu cầu LS của khách hàng.

48

Thứ ba, đảm bảo cho LS gặp gỡ và làm việc với bị cáo đang trước khi mở

phiên tòa HS. Theo Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam có hiệu lực từ 01/01/2018

quy định người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, tạm giam mà không kèm

theo bất kỳ một điều kiện gì.

Thứ tư, đảm bảo cho các LS quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu có trong

hồ sơ vụ án của LS cũng gặp không ít khó khăn. Lẽ thường, một khi đã là quyền

của LS thì sẽ là nghĩa vụ tương ứng của các cơ quan THTT (Viện Kiểm sát, Tòa

án). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lúc, nhiều nơi kiểm sát viên, thẩm phán gây khó khi

các LS thực hiện quyền đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu…

Thứ năm. Đảm bảo cho LS tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa.

Tranh luận tại phiên tòa làm một thủ tục không thể thiếu tại phiên xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự. Việc tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo

cho vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tòa được phân tích,

đánh giá chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất

với pháp luật. Việc tranh luận tại phiên tòa cũng là một phương tiện hữu hiệu để

người bào chữa hoặc bị cáo tiến hành phân tích lập luận, đưa ra lý lẽ hợp lý, sắc

bén, có sức thuyết phục để bảo vệ bị cáo một cách hiệu quả nhất.

Đối với LS, sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội thì người bào chưa sẽ

bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Đối với người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi

cho mình bảo vệ. Nếu không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và người có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan tự trình bày ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk đáp ứng đầy đủ, kịp thời 100% vụ án cần có LS chỉ

định với tinh thần trách nhiệm cao. Tuy hoạt động bào chữa của đội ngũ LS Đắk

Lắk trong giai đoạn XXST VAHS đã đạt được những kết quả nhất định, song bên

49

cạnh đó vẫn còn có những hạn chế nhất định như: (i) Số VAHS sơ thẩm có LS

tham gia bào chữa còn rất hạn chế; (ii) Chất lượng của đội ngũ LS còn thấp, nhiều

hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp... làm cho kết quả hoạt

động bào chữa của LS chưa cao; (iii) Vị trí, vai trò của LS trong xã hội và trong

tham gia tố tụng còn hạn chế, chưa thực sự được nhìn nhận đúng và đầy đủ. Những

hạn chế trong hoạt động tham gia bào chữa của LS nêu trên xuất phát từ nhiều

nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan

2.2.2.2. Đảm bảo quyền của Luật sư trong tố tụng dân sự tại TAND tỉnh

Đắk Lắk

Trong hoạt động TTDS, trong 5 năm qua (2018-2022), TAND tỉnh Đắk Lắk

đã đảm bảo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân

chủ, khách quan… Từ năm 2018 đến ngày 31/12/2022, số lượng người tham gia

tranh tụng các vụ dân sự và hôn nhân gia đình 282 vụ, kinh tế - thương mại 14 vụ,

hành chính 19 vụ, lao động 10 vụ); tư vấn pháp luật 2.627 trường hợp; đại diện

ngoài tố tụng: 22 trường hợp; tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí 283 vụ

việc….[30].

Việc phán quyết của Tòa án đều căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại

phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát

viên… nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những

bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật

quy định.

TAND tỉnh Đắk Lắk có trách nhiệm tạo điều kiện để LS tham gia vào quá

trình xét xử: nghiên cứu hồ sơ, tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Để thực hiện

nhiệm vụ nay, BLTTDS đã có nhiều quy định đề cao vai trò của đương sự trong

việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như các quy định bảo đảm cho

các bên đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như nguyên tắc cung

50

cấp chứng cứ vào chứng minh (Điều 9 BLTTDS), nguyên tắc bảo đảm quyền bảo

vệ của các đương sự (Điều 9 BLTTDS), các quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng

của đương sự (từ Điều 58 đến Điều 62 BLTTDS)…

Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, quán triệt các Thẩm

phán khi tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh

luận của đương sự để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, Luật sửa đổi, bổ sung

BLTTDS đã bổ sung Điều 23a để quy định vấn đề này thành: Nguyên tắc bảo đảm

quyền tranh luận trong tố tụng dân sự., trong đó có việc đảm bảo các quyền của

các LS khi tham gia vụ án dân sự.

Trong phần tranh luận tại TAND tỉnh, các vụ án dân sự có sự tham gia của

LS, LS của nguyên đơn sẽ được trình bày quan điểm của mình trước Hội đồng xét

xử. Trong phần tranh luận, khi trình bày quan điểm của mình, LS nhận định về các

tình tiết quan trọng của vụ việc, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ và khẳng

định giá trị chứng minh của các chứng cứ mà LS đã đánh giá. Luôn luôn dùng các

văn bản pháp luật làm căn cứ cho những nhận định và kết luận của mình. Trong

quá trình tranh luận, theo quy định của pháp luật người tham gia tranh luận chỉ có

quyền đáp lại ý kiến của người khác một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không

đồng ý. Khi đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý LS sẽ trình bày ngắn gọn và đi

thẳng vào vấn đề đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập luận của họ để phản bác

lại. Mục đích của LS trong việc tranh luận là để làm sáng tỏ những tình tiết cần

chứng minh của vụ việc trên cơ sở đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của

khách hàng. Trong trường hợp LS nhận thấy đã tranh luận về các vấn đề nhưng

vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết chính của vụ việc thì LS

sẽ đề nghị Hội đồng xét xử quay trở lại phần xét hỏi. Qua phần tranh luận ở phiên

tòa này, LS thể hiện được vai trò quan trọng của mình. Giai đoạn tranh luận tại

phiên toà, có một ý nghĩa gần như quyết định đối với LS. Trong giai đoạn này, LS

51

thể hiện hết tài thao lược của mình, bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình

để bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự mà mình bảo vệ.

Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu cho thấy cách các Thẩm phán thường làm hiện

nay là không đánh bút lục hồ sơ sớm và pháp luật cũng không có quy định cụ thể

về vấn đề này. Do vậy, LS không thể biết chứng cứ, tài liệu nào đã có trong hồ sơ

nhưng không được Thẩm phán đưa vào, nếu có biết thì cũng không có bằng chứng

vì không có bút lục để đối chiếu. Việc đánh bút lục trong hồ sơ thường chỉ được

tiến hành trước khi mở phiên tòa ít hôm, do vậy nhiều LS đã bị chính hồ sơ vụ án

“đánh lừa” vì không nắm được hết tài liệu, chứng cứ của vụ án nhất là tài liệu do

phía đương sự bên kia cung cấp. Từ trước đến nay, trong thực tiễn tố tụng tại Tòa

án cho thấy hiện tượng Thẩm phán chưa thực sự tạo điều kiện cho LS tham gia

vào các buổi lấy lời khai đương sự, tham gia vào các buổi hòa giải vẫn còn tồn tại.

Trong các phiên hòa giải việc LS có mặt chỉ để “quan sát”, không phát biểu

ý kiến, không nêu quan điểm cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất

bại trong hòa giải. Tính đến nay, thành tích hòa giải trong các vụ việc dân sự của

TAND tỉnh Đắk Lắk chưa đạt tiêu chí do TAND tối cao yêu cầu, một trong những

nguyên nhân là do sự đánh giá chưa đúng mức về vai trò của LS trong hòa giải.

Thái độ của một số LS tại phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự cũng là một thực

tiễn cần bàn đến. Mặc dù có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình nhưng

họ chỉ có thể cố gắng bảo vệ khi quyền và lợi ích đó là hợp pháp. Theo quy định

của pháp luật, LS cũng chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ,

đề xuất hướng áp dụng pháp luật nhưng nhiều LS lại không xác định được rõ quyền

và nghĩa vụ tố tụng của mình để có thái độ đúng mực. Có những LS lạm dụng tính

dân chủ tại phiên tòa nên có hành vi dân chủ quá trớn như “tranh nhau” đặt câu

hỏi, có thái độ “thiếu tôn trọng người khác”. Có LS thì bảo vệ thân chủ đến cùng

một cách lệch lạc, đặc biệt “có trường hợp tại phiên tòa, các LS tranh luận gay gắt

52

đến mức sừng sộ với nhau, tạo ra không khí căng thẳng, thiếu văn hóa pháp lý ở

công đường”. Đáng phê phán hơn, “có LS xui nguyên, giục bị, tự lăng xê, quảng

cáo, mượn danh quan tòa để moi tiền thân chủ”.

Trên thực tế tại Toà án hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã có trường hợp: LS Nguyễn H

thuộc Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk là một ví dụ. LS này vừa nhận bảo vệ quyền lợi cho

nguyên đơn Trần Văn L trú tại huyện Ea Súp, vừa nhận bảo vệ quyền lợi cho bị

đơn Trần Văn H trong vụ kiện hùn vốn giữa hai đương sự. LS H đã dụ dỗ, tiết lộ

thông tin bí mật của nguyên đơn cho bị đơn và ngược lại nhằm moi tiền từ các

đương sự. Đây là việc làm trái với nguyên tắc hành nghề LS là chỉ được bảo vệ

cho nhiều người nếu quyền và lợi ích của những người đó không đối lập nhau.

Hơn nữa, trong nhiều trường hợp LS chưa thể hiện được khả năng và trình độ

chuyên môn của mình. Trong khi đại đa số các LS tích cực sử dụng các biện pháp

do pháp luật quy định để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ thì không ít LS lại phát

biểu dông dài, đi lạc trọng tâm theo kiểu nói để an ủi, vui lòng thân chủ.

Như vậy, tranh tụng và bảo vệ quyền lợi cho đương sự trước Toà là một hoạt

động tất yếu của LS trong quá trình hành nghề. Tại phiên Tòa, sự tham gia của LS

nhằm đảm bảo các hoạt động tố tụng được diễn ra theo đúng các quy định của

pháp luật. Ở giai đoạn này, vai trò của LS không đối lập với cơ quan tố tụng bởi

vì thông qua hoạt động bảo vệ thân chủ, LS cùng một lúc phải hướng tới việc góp

phần bảo vệ pháp chế XHCN, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Bên cạnh

đó, LS phải hoàn thành sứ mệnh của mình trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của thân chủ trên cơ sở pháp luật. Đây cũng là mục tiêu hàng đầu của mỗi

LS khi tham gia tranh tụng.

Việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về cơ sở để bảo vệ

quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong thời gian qua vẫn

còn một số hạn chế như sau.

53

Trong thực tế, việc Tòa án xác định xác định sai tư cách tham gia tố tụng của

đương sự vẫn còn khá phổ biến. Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia

tố tụng thường không được bảo vệ do tư cách tham gia tố tụng được xác định

không chính xác. Quyền và nghĩa vụ của họ có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ

của đương sự cũng như quá trình xét xử, có thể dẫn đến việc hủy bản án và phải

xét xử lại từ đầu.

Quy trình đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo

quy định tại Điều 75 Bộ Luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 vẫn chưa được

hướng dẫn rõ ràng, cụ thể. Không phải lúc nào người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của nguyên đơn cũng có thể đăng ký vì thủ tục này còn thiếu quy định quy

định chính xác các tình huống từ chối đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự. Trong nhiều trường hợp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự chưa được cấp giấy chứng nhận hay làm thủ tục đăng ký theo

thời gian luật định, nhiều vụ việc, Thẩm phán chủ tọa không ý thức được giá trị

của những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp dẫn đến rất ít trường hợp được

Tòa án bảo đảm thời gian tiến hành thủ tục là ba ngày theo quy định của pháp

luật. Thay vào đó là tình trạng chậm làm thủ tục cho người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ

án.

Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS 2015, phạm vi khởi kiện của đương sự

được thể hiện trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập đối

với những thay đổi, bổ sung đơn khởi kiện của đương sự. Thẩm phán phải xác

định đúng, đầy đủ các yêu cầu của đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, thực tế vẫn

có một số vụ án khi xét xử sơ thẩm bị Tòa án cấp trên hủy bản án với lý do: (1)

Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của đương sự. (2) Hoặc

Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự.

54

2.2.2. Thực trạng đảm bảo quyền của Luật sư trong việc đưa ra câu hỏi

với người khác hoặc đề xuất Tòa án hỏi người khác tại Tòa án nhân dân tỉnh

Đắk Lắk

Phiên tòa “là nơi phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của một

nền công lý, biểu hiện tập trung của nền tư pháp” . Tại phiên tòa, phiên họp sơ

thẩm Tòa án giải quyết tất cả các vấn đề đặt ra đối với vụ việc. Theo qui định của

pháp luật tố tụng thì Tòa án phải xác định các tình tiết của vụ việc bằng cách trực

tiếp nghe lời trình bày của đương sự, người đại diện của đương sự, người đại diện

của tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, người giám định, người phiên dịch

và xem xét vật chứng. Do vậy, phiên tòa, phiên họp sơ thẩm là nơi tập trung các

hoạt động của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.

Hoạt động bảo vệ quyền lợi cho đương sự của LS ở Tòa án cấp sơ thẩm được thực

hiện thông qua các phiên tòa cụ thể như sau:

Thủ tục hỏi được quy định tại mục 3 Chương XIV của Bộ luật TTDS. Giai

đoạn xét hỏi tại phiên toà là giai đoạn “thẩm tra” công khai có sự tham gia của tất

cả những người tham gia tố tụng. Trong giai đoạn này, các chứng cứ được lần lượt

được công bố, phân tích, so sánh, nghiên cứu và tự thân nó bộc lộ giá trị chứng

minh. Trong phần xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, vai trò của LS cũng thể hiện rõ.

Với vai trò là người đại diện do đương sự ủy quyền, LS sẽ trả lời các câu hỏi của

Hội đồng xét xử một cách chi tiết, phù hợp nhất, LS sẽ biết cách khai thác những

gì có lợi nhất để bảo vệ quyền lợi của đương sự trước Tòa án. Còn với vai trò là

người bảo vệ quyền lợi của đương sự LS sẽ hướng dẫn đương sự khai phù hợp, có

lợi với những câu hỏi của Tòa. LS cần phải có mặt tại phiên toà, trong suốt thời

gian xét xử, trừ trường hợp đặc biệt. LS chú ý theo dõi quá trình Hội đồng xét xử

tiến hành thủ tục hỏi tại phiên toà, phiên họp. Khi đó LS có quyền được đặt các

câu hỏi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình bằng cách thông qua các

55

câu trả lời để khẳng định công khai những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong vụ

việc. Khi theo dõi thủ tục xét hỏi tại phiên toà, LS cũng cần phải ghi chép đầy đủ

lời trình bày của những người tham gia tố tụng khác. Qua các lời trình bày nếu

thấy có sự mâu thuẫn hoặc có những tình tiết mới mà trước đó chưa được thể hiện

trong hồ sơ nếu có lợi hoặc bất lợi cho thân chủ của mình hoặc cho bất kỳ một

người tham gia tố tụng nào thì LS sẽ lưu ý đến điểm mới đó để có cách phản bác

lại hoặc sử dụng chúng nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Việc ghi

chép phải bảo đảm nguyên tắc ngắn gọn, đầy đủ và làm nổi bật được những ý

chính. Đối với những tình tiết đặc biệt, cần phải ghi chép riêng biệt hoặc phải nhấn

mạnh để dễ lưu ý khi xem xét lại. Bản ghi chép này là tiền đề để LS đặt các câu

hỏi cho thân chủ của mình hoặc cho những người tham gia tố tụng khác để họ tự

mình khẳng định công khai trước Toà những vấn đề cần được làm rõ. Trong quá

trình ghi chép cũng cần lưu ý cả những câu hỏi và câu trả lời của Hội đồng xét xử

cũng như của những người tham gia tố tụng khác. Thông thường thông qua các

câu hỏi của Hội đồng xét xử, LS có thể sơ bộ nắm bắt được những quan điểm cơ

bản của Hội đồng xét xử. Thông qua đó LS có thể điều chỉnh bản luận cứ của mình

hướng vào việc làm sáng tỏ các quan điểm của Hội đồng xét xử mà LS đã dự đoán

theo hướng có lợi cho thân chủ của mình. Việc LS ghi chép các quá trình xét hỏi

tại phiên toà, phiên họp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc dùng chính những

quan điểm đó để làm cơ sở phản bác của mình trong trường hợp cần thiết. LS còn

bảo vệ quyền lợi của đương sự bằng cách đặt câu hỏi cho chính thân chủ của mình

hoặc những người tham gia tố tụng khác trả lời cho Toà án nhằm làm rõ những

tình tiết quan trọng. Kết hợp với việc đặt câu hỏi, LS còn biết đưa ra phiên tòa

những chứng để Hội đồng xét xử xem xét. Như vậy, qua phần xét hỏi tại phiên tòa

sơ thẩm, bằng các hành vi tố tụng mà pháp luật quy định, LS đã góp phần quan

56

trọng để Tòa án nhận biết nhanh chóng, chính xác về sự thật của vụ việc dân sự

cần giải quyết, từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Về việc tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 260 BLTTDS năm 2015),

tương tự như phần trình bày yêu cầu trên, LS của các đương sự cũng là người đưa

ra các quan điểm tranh luận, đối đáp, trình bày các luận cứ, chứng cứ để chứng

minh cho các yêu cầu của thân chủ là có căn cứ và hợp pháp, đề nghị Hội đồng

xét xử chấp thuận các yêu cầu của thân chủ, bác bỏ yêu cầu của phía đối lập; các

đương sự cũng có quyền phát biểu bổ sung nếu thấy cần thiết.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

2.3.1. Ưu điểm trong đảm bảo quyền của Luật sư tại TAND tỉnh Đắk

Lắk

Trong tố tụng hình sự, thực tiễn cho thấy, TAND tỉnh Đắk Lắk quan tâm tạo

điều kiện thuận lợi cho người bào chữa trong việc cấp giấy chứng nhận người bào

chữa; sao chụp hồ sơ vụ án; xem xét nghiêm túc các đề nghị của người bào chữa

và thực hiện tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định

pháp luật để làm rõ sự thật vụ án; tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến

vụ án do LS cung cấp, chuyển cho Viện Kiểm sát xem xét và có đánh giá về giá

trị của chứng cứ ngay tại phiên tòa. Trong quá trình xét hỏi, nhiều hội đồng xét xử

tôn trọng và bảo đảm quyền được hỏi của người bào chữa để làm rõ những tình

tiết liên quan đến việc bào chữa.

Trong quá trình kiểm tra, đánh giá chứng cứ, hội đồng xét xử tại TAND tỉnh

Đắk Lắk luôn đảm bảo quyền bình đẳng của LS, người bào chữa trong việc đưa ra

chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ

án, các vật chứng, tài liệu được đưa ra xem xét, đánh giá công khai tại phiên tòa.

57

Trong giai đoạn tranh luận, nhiều hội đồng xét xử đã phổ biến những điểm

quan trọng trong tranh luận tại phiên tòa theo Điều 322 BLTTHS và tạo điều kiện

cho người bào chữa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết

ý kiến của mình mà không hạn chế thời gian tranh luận; yêu cầu Kiểm sát viên

phải đưa ra chứng cứ tài liệu, lập luận từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa,

người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa để làm sáng tỏ tình tiết vụ án. Nhiều hội

đồng xét xử đã quan tâm đến việc phản ánh trung thực diễn biến tranh tụng thông

qua ghi nhận tại biên bản phiên tòa. Nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã căn

cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, bảo

đảm tính khách quan, công bằng, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền của bị cáo.

Bên cạnh đó, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm đã góp phần

tạo thuận lợi cho người bào chữa tham gia sâu và rộng trong các giai đoạn tố tụng

hình sự. Do đó, số lượng các vụ án hình sự có LS tham gia liên tục tăng qua các

năm. Điều này vừa khẳng định vai trò của người bào chữa là không thể thiếu trong

các phiên tòa hình sự, vừa là biểu hiện của nền tư pháp dân chủ, công bằng, minh

bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong tố tụng dân sự, mặc dù người khởi kiện là chủ thể “châm ngòi” cho

việc giải quyết vụ án của Tòa án hay nói cách khác quá trình tố tụng chỉ được vận

hành khi và chỉ khi có yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên trên thực tế, không phải

thông tin, tài liệu, chứng cứ nào họ cũng có điều kiện để biết. Chẳng hạn như tài

liệu chứng minh địa chỉ của bị đơn; tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền và lợi

ích hợp pháp bị xâm phạm đối với các giao dịch dân sự diễn ra không bằng văn

bản mà thông qua trao đổi, giao kết bằng hành vi, lời nói…Mặt khác, trong điều

kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên khả năng

tự bảo vệ, tự thu thập chứng cứ, tự chứng minh còn gặp nhiều khó khăn.

58

Do đó, mặc dù cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm và thực tế quyền

lợi của họ đang bị xâm phạm nhưng lại không thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức và

cá nhân khác cung cấp chứng cứ để làm cơ sở cho họ đòi lại quyền lợi hợp pháp

của mình. Điển hình là trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã mất rất nhiều

công sức, thời gian để yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài

liệu chứng cứ cung cấp, nhưng kết quả thường là: (i) Không nhận được bất cứ

phản hồi nào về việc cung cấp hay không cung cấp tài liệu, chứng cứ; (ii) Bị từ

chối với nhiều lý do hay thoái thác trách nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

mà không có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng; (iii) Cung cấp không đầy đủ, không chính

xác, không đúng thời hạn luật định. Những điều này gây bất lợi và ảnh hưởng

nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tác giả cho rằng,

nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ những “khoảng trống” trong quy định

của pháp luật dẫn đến chưa đảm bảo tính thực thi, cụ thể

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đảm bảo quyền của Luật sư

tại TAND tỉnh Đắk Lắk

2.3.2.1. Hạn chế

Pháp luật về TCHNLS hiện nay còn thiếu tính hệ thống. Vấn đề này được

thể hiện khá rõ qua các luật như: Luật LS hiện hành; Luật Doanh nghiệp năm 2014

và các văn bản pháp luật đang được sử dụng để điều chỉnh đến các TCHNLS ở

Việt Nam như: Nghị định 123; Thông tư số 17/2011/TT-BTP ngày 14/10/2011.

Và do vậy, tác giả có thể khẳng định rằng pháp luật về TCHNLS ở Việt Nam hiện

nay đang thiếu tính hệ thống, tính đồng bộ cần thiết. Thực trạng này chắc chắn sẽ

gây ra những khó khăn nhất định trong việc thực thi trên thực tế.

Các quy định của pháp luật về TCHNLS hiện hành còn tồn tại khá nhiều các

quy định chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Có thể thấy rất rõ nét ở những nội dung

59

liên quan ví dụ như: Tài khoản của VPLS; tư cách pháp nhân của công ty luật hợp

danh; cơ cấu tổ chức của VPLS/công ty luật và những quy định về các biện pháp

tổ chức lại TCHNLS,....v.v. Thực trạng đã gây ra những khó khăn rất lớn trong

công tác tổ chức và hoạt động của TCHNLS trên thực tế. Để các TCHNLS trong

cả nước nói chung và các TCHNLS tại Đắk Lắk nói riêng, có thể phát triển một

cách bền vững cả về số lượng cũng như chất lượng, thì rất cần phải khắc phục

những bất cập này .

Tòa án thường yêu cầu đích thân bị cáo phải có đơn yêu cầu nhờ luật sư mà

không chấp nhận việc người thân thích của những người nói trên nhờ luật sư. Theo

đó, trở ngại chính của việc này là để có ý kiến yêu cầu và chữ ký của bị cáo, LS

phải có giấy tờ thủ tục do Tòa án cấp thì mới vào Trại tạm giam được.

Về việc bảo vệ quyền hành nghề LS và bảo vệ LS. Trên thực tế, dù các quy

định của pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của LS, nhưng trong quá

trình hành nghề tiếng nói, vai trò của LS chưa thực sự có giá trị. Nhiều LS trong

quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi ro ngoài mong muốn, họ

thậm chí còn bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe. Những biểu hiện về sự coi thường

pháp luật, xâm hại đến quyền hành nghề của LS cả trong và ngoài phiên tòa đang

diễn ra ngày càng phổ biến. Thế nhưng, chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu

để đảm bảo rằng LS được hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được

bảo vệ khỏi sự xâm hại về sức khỏe và tính mạng.

Trong thực tiễn hoạt động xét xử vẫn tồn tại không ít những phiên tòa không

bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; thực hiện tranh tụng mang tính hình

thức; hạn chế, cản trở việc thực hiện quyền bình đẳng trong tranh tụng của người

bào chữa, người bị buộc tội, làm ảnh hưởng đến tính khách quan và đúng đắn trong

quá trình giải quyết vụ án, một số bất cập vẫn còn phổ biến như: trong một số vụ

án vẫn tồn tại hiện tượng cơ quan điều tra, Tòa án và Viện Kiểm sát hoặc Thẩm

60

phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên “họp nội bộ” để thống nhất quan điểm giải

quyết vụ án, định tội bị cáo trước khi xét xử. Đây là vi phạm đặc biệt nghiêm trọng

về tố tụng, không những phá vỡ nguyên tắc tranh tụng trong xét xử mà còn đi

ngược lại nguyên tắc xét xử độc lập, xét xử trực tiếp, nguyên tắc suy đoán vô tội

và các nguyên tắc tố tụng hình sự quan trọng khác.

BLTTHS không quy định về biện pháp áp dụng trách nhiệm đối với trường

hợp Kiểm sát viên không thực hiện nghĩa vụ đối đáp, tranh luận đến cùng tại phiên

tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Việc này dẫn đến trong một số phiên

tòa, Kiểm sát viên tranh luận hình thức, né tránh những vấn đề mà người bào chữa

nêu ra trái với quan điểm của Kiểm sát viên hoặc trả lời không đi thẳng vào trọng

tâm của vấn đề đang tranh luận hoặc không đưa quan điểm đối đáp bằng cách “bảo

lưu quan điểm luận tội”. Do đó, chất lượng và kết quả tranh tụng trong một chừng

mực bị hạn chế.

Trong một số phiên tòa, chủ tọa phiên tòa chưa điều hành tốt quá trình tranh

tụng tại phiên tòa; hạn chế quyền hỏi của người bào chữa; chưa thực sự chú ý đến

những tình tiết, chứng cứ mới của vụ án nên những vấn đề mâu thuẫn trong vụ án

chưa được làm sáng tỏ; cắt ngang hoặc hạn chế quyền tranh luận, đối đáp của

người bào chữa, làm cho người bào chữa không thể trình bày một cách toàn diện

các quan điểm bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án, làm mất quyền bình

đẳng trong tranh tụng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bào chữa và người bị

buộc tội.

Trong một số vụ án, hội đồng xét xử không coi trọng đúng mực kết quả tranh

tụng tại phiên tòa. Sau khi xét hỏi, tranh luận và đối đáp đã phát sinh các chứng

cứ mới nhưng bản án, quyết định của Tòa án chưa xem xét, đánh giá dẫn đến tiềm

ẩn phát sinh oan, sai trong tố tụng. Những tình tiết quan trọng và chứng cứ gỡ tội

mà người bào chữa đưa ra có trường hợp không được hội đồng xét xử quan tâm

61

xem xét, chấp nhận và chưa được đề cập trong bản án làm ảnh hưởng đến quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Một số bản án, quyết định của Tòa án

chưa xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

Quyền con người, quyền bào chữa được hiến định và được luật hóa trong

BLTTHS, trong Luật LS và các văn bản pháp luật có liên quan nhưng trên thực tế

vẫn còn nhiều người bị buộc tội không biết hoặc từ chối thực hiện quyền này vì

nhiều lý do nên số lượng LS bào chữa trong tố tụng hình sự còn thấp (gồm cả

trường hợp LS bào chữa theo chỉ định). Điều này ảnh hưởng đến quyền con người,

quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thực hiện hiệu quả trong xã hội.

Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ: nhận thức từ phía cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng, vẫn còn một số người có nhận định không đúng, không

khách quan về sự tham gia của LS bào chữa trong vụ án hình sự. Họ quan niệm

việc hiện diện của LS bào chữa là sự “cản trở”, “soi mói” các hoạt động tố tụng

của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dẫn đến thiếu thiện chí, ác cảm, thiếu

tôn trọng khi làm việc, tiếp xúc với LS bào chữa qua đó “tác động” đến người bị

buộc tội từ chối quyền bào chữa; do đặc thù của án hình sự mà người bị buộc tội

đa phần có hoàn cảnh éo le, khó khăn, … vì vậy một số LS không “mặn mà” với

vai trò LS bào chữa cho những khách hàng này.

Đối với các vụ án dân sự, vụ việc dân sự, TAND tỉnh Đắk Lắk chưa tạo điều

kiện cho LS tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, một hiện tượng nữa

vẫn còn tồn tại trong thực tiễn hiện nay là đương sự từ chối LS trong quá trình giải

quyết vụ việc tại Tòa án. Tuy nhiên, lý do các đương sự đưa ra để giải thích cho

lý do từ chối LS không phải là họ không cần tới sự trợ giúp của LS nữa, mà do

cán bộ Tòa án khuyên họ không nên mời LS hoặc ngăn cản, gây khó khăn về thủ

tục với lý do LS chỉ làm mọi việc rắc rối thêm. Thực tế đang tồn tại hiện tượng là:

62

Người tiến hành tố tụng thường nói với đương sự: “Không nên thuê LS” hoặc “tiền

thuê LS sẽ tốn nhiều tiền”…thậm chí có cả hiện tượng ép đương sự từ chối LS.

- Bên cạnh đó cũng còn một số cơ quan hữu quan chưa nhận thức đầy đủ về

vị trí, vai trò và nhiệm vụ của LS hay các TCHNLS. Đặc biệt, trong hoạt động

tham gia tố tụng vẫn còn một số quan niệm không đúng về tư cách chủ thể trong

hoạt động tư pháp của LS, thực tế cho thấy, các Cơ quan tiến hành tố tụng quan

niệm LS chỉ là “người tham gia tố tụng” và phạm vi hoạt động LS thuộc lĩnh vực

“bổ trợ tư pháp” nên vai trò của LS chỉ là người “trợ giúp pháp lý” mang tính bị

động, phụ thuộc hoàn toàn vào sự chấp thuận hay không chấp thuận của những

người tiến hành tố tụng, v.v…

2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tranh tụng tại phiên tòa chưa

đúng với tinh thần tranh tụng đó là yếu tố năng lực và đạo đức của LS (người bào

chữa nói chung). Bên cạnh những LS giỏi về chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt

thì vẫn còn một bộ phận vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thiếu kiến thức, kỹ năng

và kinh nghiệm đối đáp, tranh luận trực tiếp, dẫn đến sự tẻ nhạt và không đi vào

trọng tâm của vấn đề khi tham gia các phiên tòa. Hơn nữa, trong các phiên tòa mời

LS chỉ định thì nhiều trường hợp bào chữa mang tính hình thức nên chất lượng

tham gia tranh tụng thấp.

Vẫn còn một số các cơ quan, người tiến hành tố tụng và LS bào chữa do trình

độ, năng lực chuyên môn chưa tốt nên nhận thức chưa đầy đủ, toàn diện nội dung

quyền, nghĩa vụ của người bào chữa. Đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng, một số cán bộ, công chức không nắm rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

của mình, kiến thức chuyên môn không vững nên có lúc còn hiểu chưa đầy đủ,

không đúng nội dung quy phạm pháp luật liên quan đến quyền nghĩa vụ của người

bào chữa, dẫn đến áp dụng sai, vi phạm tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

63

Một bộ phận LS (đặc biệt là người mới hành nghề luật LS ) thì chưa cập nhật đầy

đủ quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là người bào chữa, bên cạnh đó, đạo

đức hành nghề LS cũng chưa được coi trọng.

Chưa có cơ chế thật hữu hiệu bảo đảm quyền người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự cho người thuộc diện được cử trợ giúp pháp lý.

Ngoài ra, về nhận thức của các cơ quan, ban ngành trong đó có cả một số

cơ quan tiến hành tố tụng về hoạt động người của bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho đương sự nói chung và về vị trí, vai trò của người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho đương sự trong quá trình tố tụng chưa đầy đủ, do đó chưa có sự

quan tâm, phối hợp đúng mức và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của quy định

pháp luật. Đồng thời, chế độ chính sách đối với người thực hiện bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng trong các vụ việc Dân sự còn hạn

chế, việc chi trả thù lao theo vụ việc còn thấp.

64

Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết

bảo đảm quyền của LS trong các hoạt động tại TAND tỉnh Đắk Lắk. Luận văn đã

tập trung phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về vấn đề này. Theo đó, chỉ

ra một số quy định của pháp luật không phù hợp với thực tiễn, làm rõ những quy

định mới tiến bộ của pháp luật về LS, đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh trong giai

đoạn hiện nay. Qua công tác thực tiễn TTHS, TTDS, giải quyết các vụ án về kinh

tế, đất đai tại TAND tỉnh Đắk Lắk, tác giả cũng chỉ ra những khó khăn, vướng

mắc, tồn tại từ nhận thức pháp luật của người dân, năng lực và kinh nghiệm của

cán bộ tòa án cũng như các quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế do quy định

chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, các văn bản pháp luật có liên quan quy định không

thống nhất dẫn đến việc giải quyết còn gặp khó khăn. Thông qua kết quả phân tích,

so sánh thực trạng các quy định của pháp luật về LS, đồng thời qua phần đánh giá

những vướng mắc, tồn tại từ pháp luật và từ thực tiễn để có căn cứ trong việc đề

xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng giải quyết tranh

chấp trong thời gian tới trong chương 3 của luận văn.

65

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA

LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY

3.1. QUAN ĐIỂM ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

3.1.1. Đảm bảo quyền của Luật sư tại tòa án nhân dân tỉnh nhằm đáp

ứng yêu cầu của cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với

nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Mục tiêu của cải

cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh có

phương thức tổ chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc

giữ gìn trật tự, kỷ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là

củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của tòa

án, đổi mới tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi

hành án và tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có tổ chức LS. Như vậy, đổi mới tổ

chức và hoạt động LS là một trong những nội dung của cải cách tư pháp và có mối

quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động LS phải

được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách bộ

máy nhà nước nói chung.

Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở

đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết

quả điều tra, truy tố và bào chữa, TAND đưa ra phán xét một người có tội hay

không có tội. Do vậy, một phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay

không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ

thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan tiến hành tố tụng,

66

mặt khác từ phía hoạt động tích cực của LS với vai trò là người bào chữa cho

người bị buộc tội và góp phần bảo vệ công lý. Hoạt động của LS là hoạt động bổ

trợ tư pháp và có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động

tư pháp.

Quyền bào chữa là một quyền đặc biệt, vì nó không phải là quyền của mỗi

người nói chung, mà chỉ là quyền của riêng người bị buộc tội. Ý nghĩa của quyền

bào chữa không chỉ để bảo vệ lợi ích của người bị buộc tội mà còn để nâng cao uy

tín của hoạt động xét xử. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được bảo đảm

trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Quyền bào chữa của người bị buộc tội

gắn liền với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong việc bảo

đảm cho quyền đó được thực hiện.

3.1.2. Đảm bảo quyền của Luật sư tại TAND tỉnh Đắk Lắk góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân trong tình hình mới

Nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của TAND tỉnh trong giai đoạn

hiện nay, đảm bảo quyền của LS tại TAND thì việc đầu tiên đó là lãnh đạo TAND

tỉnh cần triển khai kết hợp với giải pháp với các chủ trương, đường lối chủ trương

của Đảng và Nhà nước nói chung. Đặc biệt, Nghị quyết số 08/NQ – TW ngày

02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị; Hiến

pháp, Luật Tổ chức Tòa án; Nghị quyết 27 về tiếp tục xây dựng NNPQXHCN và

các văn bản qui phạm pháp luật liên quan để thực hiện tốt nhiệm vụ là cơ quan xét

xử và giải quyết các loại án, TAND tỉnh Đắk Lắk cần triển khai tại các cuộc hội

nghị cán bộ chủ chốt trong hệ thống hai cấp của Tòa án cấp tỉnh nói chung. Khẳng

định, phải làm rõ sự cần thiết nâng cao chất lượng công tác của TAND bảo đảm

quyền của LS trong giai đoạn tố tụng tại Tòa án; Từ đó, trên cơ sở chủ trương,

đường lối lãnh đạo TAND tỉnh Đắk Lắk thực hiện các kế hoạch cho phù hợp, cụ

thể, thiết thực đối với TAND hai cấp, phải coi việc nâng cao chất lượng XXST án

67

dân sự gắn liền với công tác bảo đảm quyền con người là một nội dung công tác

cụ thể để thực hiện chủ trương của Đảng trong việc đổi mới cải cách tư pháp nhằm

tạo một sự chuyển biến rõ rệt, có bước đột phá trong việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của ngành Tòa án trong giai đoạn hiện nay. Theo Nghị quyết 27 về tiếp

tục xây dựng NNPQXHCN thig việc xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử

là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng,

văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ

quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố tụng tư pháp rút

gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư

pháp. Đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế Nhân dân tham gia xét xử tại tòa án.

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện vụ án

dân sự trong trường hợp chủ thể các quyền dân sự là nhóm dễ bị tổn thương hoặc

trường hợp liên quan đến lợi ích công nhưng không có người đứng ra khởi kiện.

Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ

hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội

thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại

bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án điện

tử. Xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp;

mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định

một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Nghiên cứu làm

rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp tòa

án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử.

Hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư, bảo đảm để luật sư thực

hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề

nghiệp đối với luật sư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề

68

luật sư. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ

luật sư có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, am hiểu

pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò, trách

nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định pháp

luật [4].

Ngoài ra, thông qua việc kết hợp các phương pháp trên cơ sở quán triệt các

Nghị quyết quan trọng của Đảng là điều cần thiết. Việc kết hợp các giải pháp nhằm

thực hiện tốt trong lĩnh vực này thông qua việc thực hiện nghiêm túc các chủ

trương đường lối chính sách của Đảng, của Tỉnh ủy, Ban cán sự Đảng TAND tỉnh

là một trong những yếu tố có tính quyết định, do đó không được xem nhẹ. Thực tế

đã chứng minh, chúng ta rất chú trọng vấn đề này nên đã tạo được những chuyển

biến tích cực, tuy nhiên so với yêu cầu vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập. Vì vậy,

trong những năm tiếp theo, cần phải đầu tư công sức, trí tuệ, huy động các nguồn

lực để khắc phục hiệu quả tình trạng trên. Chương trình, kế hoạch hành động thực

hiện nghị quyết ở các cấp, đơn vị phải được cụ thể hóa bằng việc quán triệt, thực

hiện một cách cụ thể trong thực tế kết hợp các chỉ tiêu của đơn vị trong việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành nhằm mục đích là bảo đảm bảo đảm quyền

của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk trong những năm tiếp theo.

3.1.3. Đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Luật sư tại Tòa

án nhân dân tỉnh

Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng

(bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng

cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của

phía đối lập. “Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại

phiên tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên

69

và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của chủ

tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài"(1 Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư

pháp, Từ điển Luật học, 2006, tr.807 - 809.).

Bản chất của tranh tụng là quá trình xác minh, làm rõ công khai và tranh

luận giữa các bên dưới sự điều khiển của Tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá

chứng cứ nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở để Tòa

án giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, bảo đảm các quyền và

lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.

Vì vậy, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc quan

trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, là dấu hiệu đặc trưng của nền tư

pháp dân chủ, bình đẳng, công bằng và minh bạch.

Với tầm quan trọng đó, việc bảo đảm và nâng cao chất lượng tranh tụng

trong xét xử là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong hoạt động cải cách tư pháp thời

gian qua. Điều này được thể hiện rõ nét qua Nghị quyết 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp

thời gian tới, theo đó yêu cầu việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào

kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng

cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên

đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết

định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định; Nghị quyết

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược đẩy mạnh tư pháp đến

năm 2020 nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa

xét xử là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.

Để bảo đảm nguyên tắc này thì phải có mặt người bào chữa để trình bày ý

kiến, phục vụ quá trình xét hỏi và tranh luận trực tiếp tại phiên tòa nhằm làm sáng

tỏ nội dung vụ án. Đồng thời, Tòa án tạo điều kiện cho những người tiến hành tố

70

tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đầy đủ quyền,

nghĩa vụ của mình, các bên được tranh tụng một cách dân chủ, bình đẳng trước

Tòa án nhưng không chèn ép hoặc có những hành vi gây cản trở trong việc tranh

tụng. Mọi chứng cứ và vấn đề có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày

công khai, tranh luận đến cùng và làm rõ trực tiếp tại phiên tòa để tránh gây oan

sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm hoặc xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của

bị hại và người liên quan. Khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định, phải căn cứ vào

kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, từng bước

xóa bỏ thực trạng “án tại hồ sơ”. Các quy định này không những nhằm bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử mà còn bảo đảm nguyên tắc xét xử trực tiếp;

nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và nguyên

tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị hại.

3.2. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực

hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước

nhanh và bền vững

- Xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp

thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ

khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng

tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo gỡ kịp

thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo

động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nhất là: Hoàn thiện

pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; phát

71

huy dân chủ, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; thể chế kinh tế

thị trường định hướng XHCN, mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội;

phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực,

thu hút, trọng dụng nhân tài; văn hóa, thông tin, truyền thông, thể thao, y tế, an

sinh xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế

xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn; tư pháp, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,

an toàn xã hội; đối ngoại và hội nhập quốc tế.

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, bảo đảm chuyên

nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi, hiệu quả. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng

chính sách, phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới

luật. Phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực, vai trò, trách nhiệm của các chủ

thể, đặc biệt là Chính phủ trong quy trình lập pháp. Phát huy vai trò của Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, chuyên gia, nhà

khoa học tham gia xây dựng pháp luật. Hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội, giải

trình và tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Bảo đảm đồng bộ, kịp thời trong xây dựng chính sách, pháp luật giữa Quốc hội

với Chính phủ, giữa các bộ, giữa Trung ương và địa phương. Đa dạng hóa nguồn

pháp luật, đề cao và coi trọng đạo luật, đơn giản hóa, giảm tầng nấc, loại hình văn

bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Xác định đúng, rõ các cơ quan

có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất

sử dụng hình thức pháp lệnh để ban hành quy phạm pháp luật; luật hóa đến mức

tối đa những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của

Quốc hội. Tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp;

khắc phục tình trạng luật thiếu tính ổn định, chậm ban hành văn bản quy định chi

tiết, hướng dẫn thi hành. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý văn bản quy phạm

pháp luật trái pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là

72

trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, "lợi ích nhóm" trong công

tác xây dựng pháp luật.

- Tiếp tục đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng mạng

lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ

pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật. Đổi mới cơ chế thi

hành pháp luật, gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật,

bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời,

hiệu lực, hiệu quả. Xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, nhất là trách

nhiệm của người đứng đầu trong tổ chức thi hành pháp luật. Hoàn thiện các quy

định về giải thích pháp luật. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện

và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; tăng cường thi hành

pháp luật trong các lĩnh vực quan trọng liên quan đến lợi ích thiết yếu của người

dân; hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của

người dân, doanh nghiệp.

- Phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hóa phương thức, phương

tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Củng cố, kiện toàn tổ chức

pháp chế, tổ chức làm công tác pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh

chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp

luật. Phát triển khoa học pháp lý, nâng cao chất lượng các cơ sở nghiên cứu và đào

tạo pháp luật. Có cơ chế thích hợp bảo đảm và tăng cường nguồn lực đầu tư, đổi

mới cơ chế phân bổ, sử dụng hiệu quả kinh phí xây dựng và thi hành pháp luật.

3.2.2. Hoàn thiện thể chế về LS và hành nghề của Luật sư , bảo đảm để

LS thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và trách nhiệm tự quản của

tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với LS, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt

động hành nghề LS. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát

73

triển đội ngũ LS có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng,

am hiểu pháp luật, giỏi về kỹ năng hành nghề và ngoại ngữ, đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Củng cố hội luật gia các cấp, nâng cao vai trò,

trách nhiệm của thành viên hội luật gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng quy định

pháp luật. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn

trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa,

ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo

đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Thứ nhất, cần bổ sung quy định về xác định tư cách đương sự trong vụ án

dân sự.

Cần phải “xác định tư cách của đương sự” và “tiêu chuẩn đánh giá tư cách

đương sự”. Việc xác định tư cách của các đương sự có ý nghĩa quan trọng đối với

việc điều hành hiệu quả hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án. Do đó, việc đưa ra

cơ sở để Tòa án thực hiện tốt việc xác định tư cách đương sự có ý nghĩa quan trọng

đối với không chỉ Tòa án mà còn đối với các bên tranh chấp nhằm hiểu rõ hơn vị

trí và quyền của các bên, cũng như trách nhiệm của họ khi tham gia tố tụng. Cơ sở

xác định tư cách đương sự có thể được quy định như sau:

“Xác định đương sự là xác định chủ thể được cho là có quyền, lợi ích tranh

chấp, bị xâm phạm trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động. Tư cách của đương sự được xác định dựa trên các

quy định điều chỉnh quan hệ pháp luật nội dung” [3].

Thứ hai, hoàn thiện, sửa đổi quy định về thủ tục đăng ký tham gia tố tụng đối

với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Việc Tòa án gặp những khó khăn trong việc thực hiện thủ tục đăng ký tham

gia tố tụng cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đương sự, vẫn chưa có văn

74

bản hướng dẫn cụ thể. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm có hướng dẫn

cụ thể về cách thức thực hiện pháp luật về đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự, cũng như các giấy tờ cụ thể cung cấp khi tiến hành đăng

ký. Khi đăng ký tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của đương

sự, ví dụ, công dân Việt Nam có đủ điều kiện quy định tại điểm đ khoản 2 Điều

76 BLTTDS 2015 cần xuất trình giấy tờ yêu cầu của đương sự và giấy tờ tùy thân;

trong đó có Phiếu lý lịch tư pháp do Sở Tư pháp nơi công dân đăng ký thường trú

cấp để chứng minh mình có đủ điều kiện tham gia bảo vệ quyền và lợi ích cho

đương sự. Ngoài ra cũng cần phải quy định các trường hợp cụ thể mà Tòa án từ

chối đăng ký. Điều này giúp cho việc đăng ký về người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự được thực thi thống nhất, tránh tình trạng tùy tiện trong

việc áp dụng pháp luật từ các Tòa án.

Hơn nữa, Điều 75 BLTTDS 2015 nên được sửa đổi, bỏ thủ tục đăng ký người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thay bằng việc đương sự trực

tiếp đăng ký với Tòa án thông qua đơn yêu cầu khi người có yêu cầu (người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự) đồng ý.

Thứ ba, bổ sung quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của

đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

Với mục đích tạo điều kiện cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện cũng

như tạo hệ thống pháp luật để Tòa án áp dụng thống nhất trong việc hướng dẫn,

xử lý việc sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của họ trong giai đoạn chuẩn bị xét

xử, BLTTDS 2015 phải bổ sung quy định về đối tượng này theo hướng sau:

- Các bên liên quan có quyền tự do sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu

cầu phản tố và yêu cầu độc lập của mình mà không bị ràng buộc bởi phạm vi yêu

cầu khởi kiện đã được trình bày trong đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu phản tố của

bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thời

75

gian từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi trước phiên họp kiểm tra, tiếp cận, công

khai chứng cứ và hòa giải.

- Trong thời gian phiên họp kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa

giải, các bên đương sự có quyền sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản

tố, yêu cầu độc lập của mình nếu yêu cầu đó không vượt quá giới hạn của pháp

luật quy định về yêu cầu mà đương sự đã nộp cho Tòa án trong thời hạn kể từ thời

điểm Tòa án thụ lý vụ án đến phiên họp kiểm tra, tiếp cận, công khai chứng cứ và

hòa giải.

Thứ tư: Cần quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự và LS,

Tòa án không có nghĩa vụ phải thu thập chứng cứ mà chỉ hỗ trợ đương sự thu thập

chứng cứ khi xét thấy cần thiết. Việc quy định như vậy sẽ nâng cao được vai trò,

trách nhiệm của LS trong việc thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho thân chủ

của mình.

Để góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chế định quyền của LS, cần

được hoàn chỉnh thêm về những vấn đề cơ bản có tính khả thi sau đây:

Một là, các văn bản cần có quy định về thực hiện việc giám sát đối với việc

thực hiện quyền của LS trên thực tế. Việc giám sát được thực hiện trên nguyên tắc

đảm bảo các quy định của pháp luật về quyền của LS được quy định trong

BLTTDS 2015 khi đưa vào thực tiễn được thi hành một cách đầy đủ, đảm bảo tính

khách quan, công bằng xã hội ở Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền của dân, do dân và vì dân theo tinh thần của Hiến pháp và pháp luật.

Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có sự phối hợp, tạo điều kiện để LS có

thể thực hiện quyền trong tố tụng dân sự nói chung. Cụ thể đó là, Cơ quan có thẩm

quyền cần tạo điều kiện thuận lợi để LS tiếp cận các tài liêu, chứng cứ do các cơ

quan đó lưu giữ để họ có căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương

sự. Đối với một số trường hợp có dấu hiệu cản trở theo quy định của pháp luật khi

76

LS yêu cầu thì quy định rõ chế tài xử phạt hành vi cản trở đối với quá trình tham

gia của LS trên thực tế.

Hai là, đối với một số quy định khác thì cụ thể như sau: Đối với hoạt hoạt

động tranh tụng thì cần mở rộng và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản,

quan trọng trong tố tụng dân sự

Mục đích cuối cùng của BLTTDS là đảm bảo tính công bằng của pháp luật

và hơn hết là đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong quá trình giải quyết

vụ án dân sự. Chính vì vậy, trong hoạt động tranh tụng của LS công bằng cần phải

được nhìn nhận là một yếu tố đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng. Đây là tiền

đề cho việc xác định đúng đắn vai trò quyền của LS cũng như đảm bảo tốt hơn

quyền có LS của các đương sự.

Với cách tiếp cận đó, đảm bảo tranh tụng công bằng trong hoạt động TTDS

là vấn đề mang tính khách quan. Do đó, cần phải thay đổi quan điểm cho rằng hoạt

động tranh tụng là hoạt động chỉ diễn ra ở phiên tòa xét xử. Đồng thời, thể hiện rõ

quyền của LS trong hoạt động tố tụng dân sự. Bởi lẽ, thực chất, tại phiên tòa tranh

tụng là thời điểm mấu chốt để Tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng đối với y êu

cầu của nguyên đơn, phản tố của bị đơn v à ng ư ời c ó quy ền nghĩa vụ liên quan

có yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, nếu thiếu vắng sự đối tụng công bằng trong đó thể

hiện rõ ràng quyền của LS trong các giai đoạn tố tụng tiền xét xử (hoạt động hòa

giải, thụ lý vụ án) sẽ khó đảm bảo tính khách quan và công bằng của bản án. Do

đó, ghi nhận tranh tụng trong phiên tòa xét xử là một nguyên tắc tố tụng cơ bản sẽ

cân bằng lại vai trò của các bên trước Tòa án, khẳng định hơn nữa vai trò của LS

nói chung.

3.2.3. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền của LS

77

Nâng cao nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

về vị trí, vai trò của LS trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong giai

đoạn xét xử vụ án hình sự nói riêng. Cần thống nhất nhận thức rằng, sự tham gia

của LS tại phiên tòa là nhằm góp phần bảo đảm sự khách quan, công bằng, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; là một kênh giám sát xã

hội hữu hiệu đối với các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng ở khía cạnh tích

cực góp phần cho các hoạt động tố tụng hình sự ngày một hoàn thiện, đúng pháp

luật; góp phần nâng cao năng lực, trình độ của người tiến hành tố tụng.

Cơ quan THTT, người THTT là những chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt

động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng

cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án

trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo

đảm thực hiện quyền của LS góp phần quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án

khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao cho

họ thực hiện. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người tham gia tố tụng hiểu rõ

quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, đồng thời tạo

điều kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài

việc nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ

và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này.

Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiểu

biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý

thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân

và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện

và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Do đó, cần thiết

phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và các đương sự nói riêng khi

cho rằng, sự tham gia tố tụng của LS là không cần thiết và tốn kém. Nhận thức

78

không đúng về vai trò và vị trí của LS chính là rào cản lớn làm cho sự tham gia và

thực hiện quyền của LS trở nên khó khăn. Việc LS tham gia tố tụng để bảo vệ cho

các đương sự phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ, người đại diện

hợp pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc thay đổi nhận thức về vai trò của

LS là cách tốt nhất để trang bị cho đương sự những phương tiện, biện pháp giúp

họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền

tố tụng từ phía những người THTT, cơ quan THTT nhằm thực hiện quyền của

mình một cách tốt nhất.

Đối với LS, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hành

nghề là một việc làm cần thiết. LS phải nhận thức và nêu cao hơn nữa trách nhiệm

của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho các đương sự. LS phải thường

xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu

cầu thực tiễn thực hiện quyền của các đương sự trong vụ án dân sự có hiệu quả.

Quốc Hội cần chỉ đạo Chính phủ thống nhất và định hướng cho các cơ quan

hữu quan trong việc thực hiện các quy định về thực hiện quyền của LS đáp ứng

với yêu cầu của tình hình hiện nay. Thông qua các cơ quan có thẩm quyền, Chính

phủ yêu cầu các Cơ quan chức năng yêu cầu hướng dẫn thực hiện quyền của LS

trong luật TTDS. Nhằm bảo vệ quyền của LS trong quá trình giải quyết vụ án dân

sự trong thời gian trở lại đây.

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng thì việc tiến hành trình tự tố tụng tại

phiên tòa xét xử sơ thẩm và phúc thẩm phải được tiến hành trên tinh thần tôn trọng

nguyên tắc đảm bảo tính tranh tụng - một đặc tính của tố tụng tranh tụng toạ điều

kiện tốt nhất cho LS thực hiện quyền của mình. Bản án của Tòa án phải dựa trên

kết quả tranh tụng và tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật

TTDS. Điều này, một mặt sẽ giảm bớt gánh nặng của Tòa án trong việc nghiên

79

cứu hồ sơ vụ án, mặt khác, đề cao vai trò tranh tụng của các bên, đồng thời nâng

cao tính khách quan cho bản án.

3.2.4. Có chiến lược phát triển đội ngũ LS nhằm đáp ứng tốt nhu cầu

được trợ giúp pháp lý

Chiến lược phát triển nghề LS được Thủ tướng chính phủ ban hành theo

Quyết định số 1072/QĐ-TTg trong đó đề ra một số quan điểm, định hướng phát

triển lớn để phát triển đội ngũ LS đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững

vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp và nhu cầu của xã hội, thực hiện có hiệu quả Chiến lược cải cách

tư pháp. Đồng thời với việc phát triển số lượng và nâng cao chất lượng, Chiến

lược cũng đặt ra định hướng phát triển nghề LS theo hướng chuyên nghiệp hóa,

đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý ngày càng cao của cơ quan, tổ chức, công dân,

doanh nghiệp; nâng cao vị trí, vai trò của đội ngũ LS trong việc tham gia hoạch

định chính sách, xây dựng, giám sát thực thi pháp luật, thực hiện trách nhiệm xã

hội, góp phần bảo đảm thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp, bảo vệ công lý, xây dựng xã hội dân

chủ, công bằng, văn minh.

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự “tự do hóa” của nghề LS sau

khi Việt Nam gia nhập WTO, để nâng cao và đáp ứng yêu cầu hội nhập, Chiến

lược đã đề ra định hướng phát triển hoạt động hành nghề LS trở thành nghề chuyên

nghiệp, trong đó chú trọng phát triển tổ chức hành nghề LS hành nghề chuyên sâu

trong một số lĩnh vực, có khả năng cạnh tranh cao, từng bước chiếm lĩnh thị trường

dịch vụ pháp lý trong khu vực và trên thế giới.

Đào tạo đội ngũ LS: LS là lực lượng nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý

nói chung và tham gia bào chữa trong vụ án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, số LS

hiện nay trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu được tư vấn pháp 80

lý và bào chữa. Mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề LS đối với viên chức

nhà nước đang là giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại học. Giảng viên luật

tại các trường đại học là những người có nền tảng kiến thức pháp luật vững chắc

và phù hợp với nghề LS. Mở rộng hợp tác đào tạo kiến thức và kỹ năng hành nghề;

tăng cường hợp tác trao đổi với các tổ chức LS nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm;

nâng cao mức thù lao chi phí đối với LS chỉ định. Ngoài ra, phát triển trợ giúp

viên pháp lý: Mặc dù công tác đào tạo đội ngũ LS đã đáp ứng phần nào nhu cầu

của người dân về hỗ trợ pháp lý, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở những

tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, việc đồng bào dân tộc thiểu số và người nghèo

mời LS tham gia tố tụng là rất khó. Vì vậy, phát triển đội ngũ trợ giúp viên pháp

lý ở các địa phương sẽ là giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường hoạt động bào chữa.

Bên cạnh đó, hoàn thiện quy định về Bào chữa viên nhân dân, người đại diện

của các đương sự. Cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống

nhất về BCVND, người đại diện của các đương sự. Bên cạnh đó, ban hành quy

chế hoặc điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của BCVND theo hướng giao cho

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp

chịu trách nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.

Ba là về công tác phối hợp, Đảng Đoàn Liên đoàn LS Việt Nam và Ban Cán

sự Đảng TAND tối cao nghiên cứu, có ý kiến chỉ đạo xây dựng Quy chế phối hợp

giữa Liên đoàn LS Việt Nam với TAND tối cao liên quan việc bảo đảm quyền và

nghĩa vụ của LS khi tham gia tố tụng, hình thành cơ chế phối hợp và kiểm soát

giữa LS và Toà án các cấp trong hoạt động xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Qua những kết quả vừa phân tích trên, có thể khẳng định quyền của LS là một

chế định quan trọng của trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Với

81

mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, tránh ngăn chặn

những hành vi xâm phạm quyền của các đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự

khác, quyền của LS đóng vai trò trọng tâm không thể thiếu trong hoạt động tố tụng

dân sự ở nước ta. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, pháp

luật về quyền của LS ở nước ta còn rất nhiều tồn tại, thiếu sót như việc quy định

chưa chi tiết, chưa phù hợp, quá trình áp dụng chưa đạt được kết quả cao đã làm

cho thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền của LS còn thấp, vẫn còn xảy ra tình

trạng vi phạm pháp luật về quyền của LS. Vì vậy, thiết nghĩ các cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền cần phải xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy định về vấn

đề này chi tiết, hợp lý và có hiệu quả hơn, giúp cho các quy định về quyền của LS

thực sự được phát huy hết chức năng của nó xứng đáng với vị trí, vai trò và tầm

quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự ở nước ta hiện tại và trong tương lai.

3.2.5. Phát triển đội ngũ LS có trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề

nghiệp tốt

Nghề LS có nhiều đặc thù và được điều chỉnh bằng những quy định của

pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Ở các nước trên thế giới pháp luật đều

quy định quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của LS.

Việc quản lý nghề LS ở mỗi nước một khác và phụ thuộc vào tính truyền thống

của từng nước mà không theo một khuôn mẫu nhất định. Vấn đề tự quản đối với

nghề LS đến đâu là do quy định của từng nước. Tuy nhiên, nhà nước vẫn cần quản

lý những khâu quan trọng như ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề LS,

quy định chương trình đào tạo và công nhận LS, cho phép thành lập tổ chức xã

hội - nghề nghiệp của LS và các hình thức hành nghề LS… Tổ chức xã hội - nghề

nghiệp của LS chủ yếu giám sát LS về mặt đạo đức nghề nghiệp. Tổ chức xã hội

- nghề nghiệp của LS được xem như là “thanh kiếm” để xử lý những trường hợp

82

LS vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vừa là “lá chắn” bảo vệ cho LS tránh khỏi sự

can thiệp, áp lực từ phía người thứ ba khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp.

LS là một nghề dựa trên sự hiểu biết và áp dụng pháp luật liên quan đến

hoạt động của cơ quan nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

Chính vì vậy, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, tạo

điều kiện và khuyến khích LS trong hành nghề. Việc quản lý hành nghề LS không

hoàn toàn giao phó cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của LS mà cần có sự hỗ trợ,

giúp đỡ từ phía nhà nước. Nhà nước bảo đảm cho LS hành nghề đúng pháp luật,

người hành nghề LS phải hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và

những người có đủ tiêu chuẩn đều có quyền hành nghề LS. Thực tiễn ở Việt Nam

những năm qua cho thấy chưa có sự phân định rõ giữa quản lý nhà nước và tự

quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của LS.

Cùng với việc nâng cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của

LS, trong giai đoạn hiện nay, để khuyến khích phát triển nghề LS ở Việt Nam cần

đổi mới và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với hành nghề LS. Tổ chức

xã hội - nghề nghiệp của LS cần tập trung vào việc giám sát LS về mặt đạo đức

nghề nghiệp và giúp đỡ, bảo vệ LS trong khi hành nghề. Có như vậy mới tạo điều

kiện phát triển đội ngũ LS Việt Nam nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng và

phát huy vai trò của họ trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của

Nhà nước theo định hướng XHCN.

Để phát triển đội ngũ LS ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã XHCN thì không thể thiếu được vai trò

quản lý của Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động LS. Là cơ quan quản lý LS,

Bộ Tư pháp có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo điều

kiện thuận lợi cho nghề LS phát triển, đồng thời chú trọng hơn nữa đến việc đào

83

tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho LS và coi trọng các chuẩn mực đạo

đức nghề nghiệp, đề cao chữ đức, chữ tâm trong hoạt động nghề nghiệp LS.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của LS trong hoạt động tư pháp, ngoài việc

không ngừng hoàn thiện chế định LS, nhận thức đúng đắn về vai trò của LS và

trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của LS thì cần

phải xây dựng đội ngũ LS có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có phẩm chất

đạo đức tốt.

3.2.6. Nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tạo điều

kiện cho LS thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích cho các đương sự.

Trong thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng có đánh giá và nhận thức

về vai trò của LS chưa đúng. Họ cho rằng việc giải quyết vụ án dân sự đã qua các

khâu, từ khâu thụ lý đơn cho đến khi giải quyết vụ án rất chặt chẽ theo trình tự do

pháp luật quy định, được các cơ quan gồm: cán bộ, công chức đã được đào tạo cơ

bản, có trình độ cao xem xét cân nhắc kỹ càng lại được kiểm tra giám sát rất chặt

chẽ thì cần LS để làm gì. Mặt khác, cơ quan Tòa án người chức năng buộc tội còn

có nhiệm vụ làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ án dân sự. Vậy thì việc tham gia

của LS chỉ là hình thức và theo thủ tục mà thôi. Muốn được các cơ quan tiến hành

tố tụng quan tâm đến lời bào chữa của mình hoặc tạo điều kiện cho LS hoạt động

có hiệu quả thì cần có những biện pháp:

Các cơ quan tiến hành tố tụng phải tự hoàn thiện mình, nhận thức đúng về

vai trò của LS, khi LS tham gia TTDS, họ có quyền ngang bằng với các đương sự.

Đồng thời, cần quy định quyền của LS được yêu cầu cơ quan tiến hành tố

tụng chấm dứt những hành vi trái pháp luật tại phiên tòa cũng như trong các giai

đoạn tố tụng khác, nhằm bảo đảm quyền của các đương sự và quyền của LS. Có

như vậy thì mới tránh được những biểu hiện coi thường LS, đánh giá không đúng

vị trí của LS trong TTDS.

84

Hiện nay, với quy định hiện hành, trách nhiệm chứng minh vụ án thuộc về

đương sự và các cơ quan tiến hành có thẩm quyền tố tụng. Quy định này cho thấy

các cơ quan THTT sẽ đồng thời thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích của các đương

sự. Cần phải thống nhất quan điểm Tòa án cũng tham gia hoạt động chứng minh

bảo vệ công bằng pháp luật nhưng thông qua chức năng xét xử.

3.2.7. Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Thẩm phán

và cán bộ tòa án

Về điều kiện làm việc của Thẩm phán: Hiện nay nhiều địa phương Thẩm

phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Để đảm bảo

được hoạt động của Thẩm phán, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa cơ sở

vật chất cho ngành Tòa án. Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa các trụ sở làm việc

đã quá cũ, xuống cấp; đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm phán và các phương tiện

phục vụ cho hoạt động của Thẩm phán như máy vi tính, bàn làm việc... Ngoài ra,

cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được trang trí thể hiện tính trang nghiêm của

phiên tòa. Cần có các thiết bị phục vụ cho việc xét xử tại phiên tòa như loa, đài,

micrô, hệ thống ghi âm, ghi hình, truyền thanh và truyền hình cho đông đảo nhân

dân theo dõi.

Về tiền lương đối với Thẩm phán: Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công

chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa thực sự tương

xứng với tính chất công việc đặc thù của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương đối với

Thẩm phán còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước

đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống tham nhũng và cải cách

tư pháp; chưa có tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ, công chức Tòa án yên

tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ

nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức; chưa phải là bảo đảm hữu hiệu

để Tòa án thực hiện nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và

85

chỉ tuân theo pháp luật". Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ tiền lương, chính sách

đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành TAND cần được cải

tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành TAND tận tâm, tận

lực, yên tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao

hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

3.2.8. Tăng cường phối hợp phải trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức

và nhằm góp phần tạo sự chuyển biến trong bảo đảm quyền của của Luật sư

tại Tòa án nhân dân tỉnh

Ngoài ra, các Thẩm phán cần tăng cường phối hợp với các cán bộ có kinh

nghiệm trong hoạt động bảo đảm quyền của LS tại phiên tòa sơ thẩm nói chung

để tự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng của quá trình làm

việc. Tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của

đối tượng học tập pháp luật. Đối tượng khác nhau cần có hình thức học tập khác

nhau. Đối với cán bộ chủ chốt cần đề cao hình thức tự nghiên cứu, tăng cường trao

đổi, thảo luận và quán triệt những vấn đề có liên quan đến quan điểm, lý luận gắn

với thực tiễn mà các quy định của pháp luât chưa quy định cụ thể hoặc còn thiếu

sót; tiếp tục tổ chức hình thức hội nghị trực tuyến nhằm bảo đảm nâng cao chất

lượng thông tin, tạo sự đồng bộ, thống nhất từ trên xuống dưới, khắc phục được

tình trạng ở trên làm kỹ - ở dưới làm lướt, đồng thời tiết kiệm thời gian, kinh phí

và mở rộng đối tượng tham gia. Còn các đối tượng khác, tùy đặc điểm tình hình

cụ thể của đối tượng và địa bàn để chọn hình thức, phương pháp phù hợp, tạo điều

kiện thuận lợi nhất để các đối tượng tham gia được nhiều nhất (có thể lồng ghép

với các nội dung khác), thời gian ngắn gọn. Để nâng cao vai trò của LS trong hoạt

động tư pháp theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, chúng tôi kiến nghị một số giải

pháp sau đây:

86

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự có liên quan đến hoạt động

của LS, bảo đảm để LS thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được pháp luật

tố tụng hình sự quy định.

Thứ hai, bảo đảm sự tranh tụng dân chủ, công khai của LS tại phiên tòa, LS

là một bên tham gia tranh tụng. Bộ luật Tố tụng Hình sự cần ghi nhận đầy đủ

nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động xét

xử.

Thứ ba, nâng cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của LS

và tăng cường quản lý nhà nước đối với hành nghề LS nhằm đào tạo, phát triển

đội ngũ LS có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy

vai trò của họ trong hoạt động tư pháp.

Thứ tư, kiến nghị thay đổi trình tự xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa

phúc thẩm. Hiện nay, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm

được thực hiện theo trình tự chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó chủ tọa phiên tòa

sẽ quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi sau [65]. Trình tự này là không

hợp lý, bởi vụ án hình sự phát sinh là do có sự buộc tội của Viện kiểm sát, cáo

buộc của Viện kiểm sát là yếu tố làm khởi động vụ án hình sự, từ đó sẽ làm phát

sinh nhu cầu gỡ tội của bị cáo và vai trò độc lập xét xử của Tòa án. Kiểm sát viên

phải là chủ thể được đặt câu hỏi trước để chứng minh cho các cáo buộc của mình

là có căn cứ, sau đó người bào chữa được tìm kiếm thông tin bào chữa, gỡ tội cho

bị cáo thông qua các câu hỏi. Trong khi xét hỏi, Hội đồng xét xử chỉ nên giữ vai

trò xét xử khách quan, giữ nhiệm vụ điều hành phiên toà, kiểm soát quá trình tố

tụng mà không phải là người thẩm tra.Trách nhiệm của Hội đồng xét xử là xem

xét chứng cứ và tranh luận giữa các bên để đưa ra phán quyết.

87

Việc thay đổi trình tự xét hỏi như nêu trên còn thể hiện sự tôn trọng nguyên

tắc đảm bảo tính tranh tụng khi xét xử vụ án hình sự. Nguyên tắc tranh tụng được

Hiến pháp khẳng định cần đến sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể và nhờ đó các

chủ thể hình thành ra “hai bên” trong vụ án – bên buộc tội và bên bào chữa với lợi

ích tố tụng độc lập, khác nhau và đối lập nhau.[54] Do vậy, khi xét xử vụ án hình

sự cần phải đảm bảo bên buộc tội và bên bào chữa được tạo mọi điều kiện để bảo

vệ quan điểm, lợi ích của mình, thông qua việc được ưu tiên hỏi trước, được quyền

chủ động đặt câu hỏi để chứng minh cho các tình tiết vụ án theo lý lẽ của mình.

Đối với vấn đề đảm bảo tính tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng dân sự

2015[65] đã tiến bộ hơn khi quy định thứ tự hỏi được thực hiện theo đúng bản chất

vụ án dân sự xuất phát từ tranh chấp của các bên; theo đó nguyên đơn, người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hỏi trước; tiếp đến bị đơn, người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; sau đó là người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan; những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử, Kiểm

sát viên tham gia phiên tào hỏi sau cùng thể hiện đúng chức năng Hội đồng xét xử

điều hành phiên tòa và Kiểm sát viên thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng dân sự.

Thực tế khi hành nghề chúng tôi đã từng chứng kiến rất nhiều vụ án hình

sự Hội đồng xét xử đã thực hiện thay chức năng buộc tội của viện kiểm sát, đặt

nhiều câu hỏi mang dụng ý buộc tội, gán ghép trách nhiệm. Nhiều vụ án kiểm sát

viên không cần đặt thêm câu hỏi nào để chứng minh căn cứ buộc tội của mình.

Các LS, người bào chữa bị cắt câu hỏi, yêu cầu tạm dừng với lý do cho rằng Hội

đồng xét xử đã nhắc đến trước đó. Chúng tôi cho rằng mỗi một câu hỏi mang dụng

ý của người hỏi, cùng với nội dung nhưng cách đặt vấn đề khác nhau sẽ có thể có

các trả lời khác nhau, từ đó nhiều khía cạnh của vụ án mới có thể được đưa ra để

88

xem xét toàn diện. Vì vậy cần thiết ưu tiên quyền đặt hỏi trước với kiểm sát viên

(thực hiện chức năng buộc tội) và người bào chữa (thực hiện chức năng gỡ tội),

đảm bảo tính tranh tụng của vụ án, đảm bảo Hội đồng xét xử được tiếp cận đầy

đủ, toàn diện, khách quan với chứng cứ vụ án để có phán quyết đúng pháp luật và

thuyết phục.

Tiểu kết chương 3

Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cùng với sự phát triển của nền

kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, hoạt động bảo đảm

quyền của LS tại phiên tòa sơ thẩm sẽ luôn diễn ra và ngày càng trở thành thị

trường giao dịch sôi động. Trong chương 3, tác giả đã trình bày những nội dung

như sau:

Thứ nhất, tác giả đã trình bày những quan điểm liên quan đến vấn đề bảo

đảm quyền của bị LS trong hoạt động xét xử của TAND thể hiện sự nỗ lực của

Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đảm bảo quyền con người nói chung và

LS trong hoạt động xét xử nói riêng.

Thứ hai, trên cơ sở thực trạng luận văn đã đề xuất những giải pháp hoàn

thiện các quy định của pháp luật về vấn đề đảm bảo quyền của LS trong hoạt động

xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân nhân và gia đình, trong các vụ việc

khác tại TAND tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề ra những giải pháp bảo đảm quyền của

LS trong hoạt động xét xử trong hoạt động xét xử tại tòa án. Đây là những giải

pháp dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được đánh giá trong chương 2.

KẾT LUẬN

89

Luật sư và nghề LS đã tồn tại trên thế giới hàng trăm năm và cho đến nay

vẫn được xã hội ghi nhận là một trong những nghề cao quý. Có thể thấy ở nhiều

nước phát triển nghề LS là một nghề luôn được xã hội coi trọng tôn vinh và LS là

những người luôn được cộng đồng kinh nể bởi sự phục vụ cộng đồng xã hội bằng

cả kiến thức, trí tuệ và tấm lòng đạo đức nghề nghiệp. Với tôn chỉ luôn lấy lẽ phải,

công bằng công lý làm mục tiêu hoạt động lấy pháp luật, quy tắc đạo đức làm

thước đo hành vi và hoạt động nghề nghiệp, LS là những người không chỉ đơn

thuần cung cấp các kiến thức pháp lý mà còn phải thông qua những trải nghiệm

cuộc sống của bản thân để tư vấn, bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho khách hàng.

90

Pháp luật về LS và hành nghề LS đã có những bước phát triển và đóng góp

quan trọng tạo cơ chế hoạt động cho LS hành nghề tuy nhiên vẫn còn tồn tại những

bất cập gây khó khăn cho hoạt động của các LS khi hành nghề bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp cho đương sự. Quyền của LS là đối tượng nghiên cứu của nhiều

ngành khoa học như kinh tế, khoa học pháp lý...Những quy định về quyền của LS

trong BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành thể hiện nâng cao một bước vị

thế, vai trò, quyền và nghĩa vụ của LS với tư cách là chủ thể bình đẳng thực hiện

chức năng bào chữa trong tố tụng dân sự, với những nội dung sửa đổi, bổ sung

như: Mở rộng diện LS đối với trợ giúp viên pháp lý; mở rộng trường hợp bắt buộc

phải có LS; quy định cụ thể các thủ tục mời, cử, chỉ định LS, trình tự, thủ tục tham

gia tố tụng của LS cũng như trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo

đảm quyền của LS.

91

Trong những năm gần đây, LS và nghề LS ở Việt Nam đã nhận được nhiều

sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội bởi những đóng góp không

hề nhỏ cho sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội đất nước; cho hoạt động

tư pháp và sự nghiệp xây dựng bảo vệ Nhà nước pháp quyền nói riêng. Đây là

thành quả của một bề dày lịch sử vun đắp, tích lũy kinh nghiệm, là kết quả của

nhiều thế hệ các LS, và thật không đơn giản với bất kỳ một nghề nào đó mà được

xã hội thừa nhận như vậy, bởi lẽ bất kỳ một nghề nào cũng đều có mặt tích cực và

mặt tiêu cực của nó, không phải LS nào từ khi bắt đầu hành nghề và trong suốt

cuộc đời hoạt động nghề nghiệp của mình cũng có thể giữ được các gia trị, chuẩn

mực đạo đức của nghề nghiệp, phục vụ khách hàng phục vụ xã hội, được mọi

người ghi nhận sẽ có những LS vì lợi ích trước mắt mà không giữ được minh, vi

phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, vượt lên những mặt trái

của ngành nghề, những rủi ro, tai nạn nghề nghiệp, các LS nói chung cũng đã xây

dụng được những giá trị chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, góp phần vào việc xây

dựng bảo vệ Nhà nước pháp quyền thúc đẩy nền kinh tế – xã hội, góp phần giữ

gìn an ninh, trật tự an toàn và ổn định xã hội.

92

Thực tiễn đảm bảo quyền của LS trong tố tụng dân sự, hình sự trong thời gian

qua tại TAND tỉnh Đắk Lắk đã đạt được nhiều kết quả, điều đó đã góp phần hoàn

thiện hệ thống pháp luật về LS nói chung về bảo đảm quyền LS tại TAND nói

riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thì đảm bảo quyền của LS tại

TAND tỉnh Đắk Lắk còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Những khó khăn bất cập

đó đến từ chính hệ thống pháp luật của nước ta, từ chính nhận thức của cộng đồng

xã hội về vai trò của LS còn chưa thống nhất hay từ chính sự chủ quan, suy nghĩ

không coi trọng sự tham gia của Luật LS của các cơ quan tiến hành tố tụng những

chủ thể tiến hành tố tụng hoặc chính từ chất lượng của đội ngũ LS chưa đáp ứng

được yêu cầu của cải cách tư pháp, yêu cầu từ sự phát triển của các mối quan hệ

trong sự hội nhập về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.

Đề tài “Đảm bảo quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk" đã có cái nhìn một

cách toàn diện, sâu sắc hơn về đảm bảo quyền của LS tại TAND và tại TAND tỉnh

Đắk Lắk nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tác giả cũng mạnh dạn đề xuất

những phương hướng và giải pháp và đưa ra một số khuyến nghị nhằm hạn chế,

khắc phục những khó khăn bất cập, từng bước nâng cao và khẳng định đảm bảo

quyền của LS tại TAND tỉnh Đắk Lắk hiện nay.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hải An (2004), “Thực tiễn tranh tụng trong các phiên tòa dân sự và

một số vấn đề đặt ra”, Báo cáo tham luận tại hội thảo về tranh tụng trong

tố tụng dân sự, Hà Nội.

2. Chu Liên Anh (2011), Kỹ năng tư vấn pháp luật của luật sư, Luận án tiến

sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Hà

Nội.

5. Bộ Tư pháp (2007), Thông tư số 02/2007/TT-BTP, hướng dẫn một số quy

định của Luật LS và Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007, của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật LS, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 06/03/2012, Báo cáo tổng

kết 5 năm thi hành Luật LS, (tr. 1-7), Hà nội.

7. Bộ tư pháp (2012), Báo cáo tổng thuật pháp luật một số nước về LS, Bộ tư

pháp, Hà nội.

8. Bộ Tư pháp (2012), Quyết định số 2320/QĐ-BTP ngày 13/8/2012 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch tổng thể triển khai chiến

lược phát triển nghề LS đến năm 2020, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 02/2015/TT-BTP ngày 16/01/2015, Về việc

quy định một số mẫu giấy tờ về LS và hành nghề LS, Hà Nội.

10. Bộ tư pháp (2015), Quyết định số: 1573/QĐ-BTP, ngày 28/8/2015, về việc

phê duyệt Điều lệ Liên đoàn LS Việt Nam nhiệm kỳ 2014-2019, Hà Nội.

94

11. Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo số 01/ BC-BTP ngày 03/01/2017, Báo cáo tổng

kết công tác tư pháp năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp

năm 2018, Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp -Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển

Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội.

13. Bộ Tư pháp -Vụ bổ trợ tư pháp (2006), Sổ tay nghiệp vụ tư vấn pháp luật,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

14. Bộ Tư pháp -Vụ bổ trợ tư pháp (2011), Báo cáo về định hướng sửa đổi bổ

sung một số điều của Luật LS, (ngày 14/11/2011), Hà Nội.

15. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 17/2011/TT-BTP, hướng dẫn một số quy

định của Luật LS, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật LS, Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định của

Luật LS về tổ chức Xã hội-nghề nghiệp của LS, của Chính phủ quy định

chi tiết thi hành Luật LS, Hà Nội.

16. Bộ Tư pháp (2021) Thông tư số Số: 05/2021/TT-BTP, 24/6/2021. Hướng dẫn

một số điều và biện pháp thi hành luật luật sư, nghị định quy định chi

tiết một số điều và biện pháp thi hành luật luật sư.

17. Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề LS, Tạp chí khoa học pháp lý số 7/2008,

thành phố Hồ Chí Minh.

18. Trần Văn Công (2019), Tổ chức hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam

từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ luật, Học viện khoa

học xã hội.

19. Chính phủ (1998), Nghị định số 92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998, quy định

về hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức LS nước ngoài tại Việt Nam,

Hà Nội.

95

20. Chính phủ (2007), Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007, quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LS, Hà nội.

21. Chính phủ (2008), Nghị định số 131/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008, quy định

chi tiết thi hành Luật LS, Hà Nội.

22. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013, về xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,

hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp

tác xã, Hà nội.

23. Chính phủ (2013), Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013, quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật LS, Hà Nội.

24. Chính phủ (2007), Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý,

Hà Nội.

25. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.

26. Dương Đình Khuyến (2001), Vấn đề xã hội hóa hoạt động luật sư và tư vấn

pháp luật, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học luật Tp.HCM, TP.HCM.

27. Đỗ Ngọc Thịnh (2011), Những vấn đề chung trong quy tắc đaọ đức và ứng

xử nghề nghiêp̣ luâṭ sư, Tài liệu Khoá bồi dưỡng Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp LS Việt Nam, Trọng tài thương mại và kỹ năng tham gia

vụ án hình sự , Liên đoàn LS Viêṭ Nam , Hà Nôị.

28. Đỗ Hoàng Yến, Nguyễn Văn Bốn (2010), “LS và pháp luật về LS Việt Nam”,

Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04/2010.

29. Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk (2019) Quyết định số 29/QĐ.ĐLS về việc thành lập

Ban Bảo vệ quyền hành nghề LS. Đắk Lắk.

96

30. Đoàn LS tỉnh Đắk Lắk (2022) Báo cáo số 98/QĐ.ĐLS về tổng kết công tác

luật sư. Đắk Lắk.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Chỉ Thị 33-CT/TW, về tăng cường sự lãnh

đạo đối với tổ chức và hoạt động của LS, của Trung ương Đảng, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Thông báo số 03-TB/CCTP ngày

29/12/2011, về việc cần thiết phải đào tạo chung ba chức danh thẩm

phán, kiểm sát viên và LS, của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương,

Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Hà Nội.

38. Học viện Tư pháp (2011), Đạo đức nghề luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

39. Hội đồng Bộ trưởng (1989), Nghị định số 15/HĐBT ngày 21-2-1989, về việc

ban hành Quy chế đoàn LS, Hà Nội.

40. Hội đồng luật sư toàn quốc (2011), Qui chế đạo đức và ứng xử nghề nghiệp

luật sư Việt Nam, (Ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ

ngày 20-7-2011), Hà Nội.

97

41. Hoàng Thị Thu Huyền, Hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ

của LS trong tố tụng dân sự

42. Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong

tố tụng hình sự, luận án tiến sĩ luật, Đại học luật Hà nội, Hà Nội.

43. Hoàng Thị Anh Thư (2014), Pháp luật về hành nghề LS ở Việt Nam, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Chiến – Phó tổng thư ký liên đoàn LS Việt Nam, Phó Chủ nhiệm

ĐLSTP. Hà Nội (2012), Tham luận LS sau 05 năm thực hiện: Khó khăn

vướng mắc trong quá trình hành nghề.

45. Nguyễn Quang Lộc (2002), “LS dưới góc nhìn của Thẩm phán”, Tạp chí dân

chủ và pháp luật, số 02/2002.

46. Lê Hồng Hạnh (2002), “Đạo đức & kỹ năng của LS trong nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

47. Lê Cao - Trần Hậu (2022), Hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo

quyền của LS khi tham gia bào chữa trong vụ án hình sự.

https://lsvn.vn/hoan-thien-quy-dinh-cua-phap-luat-de-dam-bao-quyen-

cua-luat-su-khi-tham-gia-bao-chua-trong-vu-an-hinh-

su1647529651.html [Truy cập ngày 12/12/2022].

48. Lê Hồng Hạnh (2002), Đạo đức và kỹ năng của LS trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

49. Liên đoàn luật sư Việt Nam (2011), Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp

luật sư Việt Nam, Hà Nội

50. Lê Minh Đức (2021),"Bảo đảm quyền và nghĩa vụ của “LS bào chữa” trong

hoạt động tố tụng hình sự".

98

51. Lê Xuân Thân (2005), Nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp luật sư,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (3/156), Hà nội, (tr. 24-28).

52. Lê Đăng Tùng (2010), LS và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự

Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

53. Trần Thị Ngọc (2015), Văn hóa pháp luật của LS ở Việt Nam, Luận văn Thạc

sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Văn

Tuân (2006), “Hoàn thiện pháp luật về LS ở Việt Nam”, NXB Tư pháp,

Hà Nội.

54. Lê Nguyên Thanh (2015), Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong tố

tụng hình sự nhằm đảm bảo quyền bào chữa và đảm bảo tranh tụng, Tạp

chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 08, trang 17-23.

55. Nguyễn Thị Thu Thảo (2019), Quyền của LS tại phiên tòa dân sự sơ thẩm,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Kinh tế

- Luật, Trường Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.

56. Nguyễn Thị Kiều Trang; Vai trò của LS trong việc bảo đảm dân chủ, khách

quan trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.

57. Nguyễn Văn Tuân (2013), Bàn về khái niệm LS và thẩm quyền công nhận.

58. Nguyễn Văn Tuấn (2021), Hoàn thiện cơ chế bảo đảm hoạt động tranh tụng

của LS tại phiên tòa. Tạp chí LS Việt Nam Số 9 – Tháng 9/2021.

59. Nguyễn Văn Thảo (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện

pháp luật về tổ chức LS và hành nghề LS trong điều kiện mới ở Việt Nam,

Đề tài khoa học, Hà Nội.

60. Phạm Thị Hường (2013), Quyền của LS tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

99

61. Phan Trung Hoài (2006),“Hoàn thiện pháp luật về LS ở Việt Nam”, NXB

Tư pháp, Hà Nội.

62. Phan Đăng Thanh (2007), Người tập sự hành nghề LS: Tập bơi sao không

được… xuống nước? , Hà Nội.

63. Phạm Hòa Việt (2008), Lịch sử nghề LS ở Việt Nam, Hà Nội.

64. Quốc hội (2004,2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội.

65. Quốc hội (2004,2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội.

66. Quốc Hội (2001), Hiến pháp sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992, Hà Nội.

67. Quốc Hội (2013), Hiến pháp 2013, Hà Nội.

68. Quốc Hội (2006), Luật Luật sư, Hà Nội.

69. Quốc Hội (2012), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư , Hà

Nội.

70. Trương Anh Tú (2013), “Thăng trầm nghề LS ở Việt Nam”, Báo Dân trí

10/10/2013, Hà Nội.

71. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011

của Thủ tướng chính phủ Phê duyệt chiến lược phát triển nghề LS đến

năm 2020, Hà Nội.

72. Trường đào tạo các chức danh tư pháp (2011), Giáo trình “Kỹ năng hành nghề

LS”, Hà Nội.

73. Trương Anh Tú (2013), Thăng trầm nghề LS ở Việt Nam, Báo dân trí

10/10/2013, Hà Nội.

74. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

75. UBND tỉnh Đắk Lắk (2011) Đề án phát triển đội ngũ luật sư giai đoạn 2011

- 2020 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

100

76. UBND tỉnh Đắk Lắk, Quyết định số 127/QĐ-UBND ngày 14/01/2011 của

UBND tỉnh, Đề án phát triển đội ngũ luật sư giai đoạn 2011 - 2020 trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk

77. UBND tỉnh Đắk Lắk, Báo cáo số 889/QĐ-UBND ngày 22/12/2022, về

đánh giá phát triển đội ngũ luật sư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

101