BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ NGỌC THỊNH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
HÀ NỘI/TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 201…
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ NGỌC THỊNH
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƢƠNG THANH CƢỜNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018 HÀ NỘI - Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là: Lê Thị Ngọc Thịnh
Học viên cao học ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của Học
viện Hành chính Quốc gia.
Thực hiện Quyết định số 1165/QĐ-HCQG ngày 10/4/2018 của Giám
đốc Học viện Hành chính Quốc gia về việc giao đề tài và cử người hướng dẫn
khoa học cho học viên cao học, tôi được giao đề tài luận văn thạc sĩ “Tổ chức
thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi”.
Đến nay, luận văn đã hoàn thành, tôi xin cam đoan luận văn là công
trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả được
trình bày trong luận văn là trung thực và không trùng lắp với các công trình
có liên quan đã được công bố.
Xin cam đoan./.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng 9 năm 2018
Học viên
Lê Thị Ngọc Thịnh
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám
đốc, các thầy, các cô Học viện Hành chính Quốc gia đã tạo điều kiện học
tập, nhiệt tình giảng dạy, trao dồi kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu tại Học viện để giúp Tôi hoàn thiện luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình, những người bạn, đồng nghiệp đã động viên,
giúp đỡ, khích lệ tôi trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn thầy giáo PGS. TS. Lương Thanh Cường, Phó
Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia người đã dành nhiều thời gian,
tâm huyết trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn.
Xin chân thành cảm ơn./.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng 9 năm 2018
Học viên
Lê Thị Ngọc Thịnh
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các t viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM ...................................................... 7
1.1. An toàn thực phẩm và pháp luật an toàn thực phẩm .............................. 7
1.1.1. An toàn thực phẩm .......................................................................... 7
1.1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm .......................................................... 9
1.2. Khái niệm, chủ thể, nội dung tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm ............................................................................................................ 13
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm .......... 13
1.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm .............. 17
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm ........... 18
1.2.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm .... 33
1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm ... 37
1.3.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm .............................................................. 37
1.3.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm ................................................................................................ 39
1.3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm ........................................................................... 40
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 42
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN
TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH
QUẢNG NGÃI............................................................................................... 44
2.1. Phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm .. 44
2.1.1. Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm của chính quyền tỉnh Quảng Ngãi và huyện
Nghĩa Hành ........................................................................................... 444
2.1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ................................................... 466
2.1.3. Vận dụng pháp luật an toàn thực phẩm trong thực tế trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ..................................................... 49
2.1.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ................................. 57
2.2. Thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm .................................................................................................... 60
2.2.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ....... 60
2.2.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ............................ 63
2.2.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi........ 64
2.3. Nhận xét về tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi .......................................................... 67
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân ..................................... 67
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân .................................................... 71
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 77
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI....................................................... 78
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ...................................... 78
3.1.1. Bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức về an
toàn thực phẩm ........................................................................................ 78
3.1.2. Bảo đảm bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm trong tổ
chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm .......................................... 80
3.1.3. Thu hút sự tham gia của người dân vào tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm ........................................................................... 82
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên
địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ............................................. 83
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm ........................ 83
3.2.2. Nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực
phẩm ........................................................................................................ 93
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức
trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ...................................... 97
3.2.4. Thanh tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, công
khai mọi hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm .................. 100
3.3.5. Nâng cao vai trò của người dân trong tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm ................................................................................. 102
3.3.6. Đảm bảo nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm ................................................................................. 103
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 108
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATTP : An toàn thực phẩm
ATVSTP : An toàn vệ sinh thực phẩm
ATTP-DD : An toàn thực phẩm – Dinh dưỡng
BLHS : Bộ luật hình sự
GMP : Thực hành sản xuất tốt
(Good Manufacturing Practice)
GLB : Thực hành tốt phòng thí nghiệm
(Good Laboratory Practice)
HACCP : Phân tích mối nguy hiểm và kiểm soát
(Hazard Analysis and Critical tới hạn
Control Points)
HĐND : Hội đồng Nhân dân
ISO/IEC 17025 : Yêu cầu chung về năng lực của phòng
(General Requirements for the competence thử nghiệm và hiệu chuẩn
of testing and calibration laboratories)
KT&HT : Kinh tế và Hạ tầng
UBND : Ủy ban nhân dân
LABO (Laboratory) : Phòng thí nghiệm
: Ngộ độc thực phẩm NĐTP
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NN&PTNT
: Trung tâm Y tế TTYT
: Văn hóa - Xã hội VH-XH
WHO (World Health Organization) : Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tình hình kiểm tra ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017 ................................................................... 59
Biểu đồ 2.2. Tình hình xử phạt vi phạm ATTP tra ATTP trên địa bàn huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017 ..................................... 60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An toàn thực phẩm là vấn đề nóng diễn ra hàng ngày, hàng giờ vì nó
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Theo báo cáo thường niên
của tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm trên thế giới có khoảng 40 triệu vụ
ngộ độc xảy ra, riêng khu vực châu Á – Thái Bình Dương chiếm tới 50%.
Nguy hiểm hơn, toàn thế giới có tới 50% ca tử vong có liên quan đến vấn đề
an toàn thực phẩm. Tại Việt Nam, theo Cục an toàn thực phẩm, trong năm
2016, cả nước ghi nhận 129 vụ ngộ độc thực phẩm với hơn người mắc, trong
đó có 12 trường hợp tử vong. Số liệu này so với năm 2015 cho thấy, tuy số
người mắc giảm nhưng tình hình vẫn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát.
Song, những số liệu thống kê nêu trên mới chỉ là sự ghi nhận số vụ ngộ độc
lớn mà ngành y tế biết đến và thực hiện chữa trị, còn với những vụ ngộ độc
nhỏ nhưng người bệnh tự chữa trị hoặc ngộ độc lớn nhưng không khai báo thì
chưa được thống kê. [61]
Số liệu thống kê trên cũng d ng lại ở ngộ độc cấp tính nghĩa là sau khi
ăn phải thực phẩm bẩn bị ngộ độc ngay. Tuy nhiên, còn có những trường hợp
độc tố ngấm dần dần vào cơ thể con người không thể thải loại hoặc thải loại
không hết. Những độc tố tích tụ trong cơ thể mỗi ngày một ít, tăng dần theo
thời gian và phát tác thành các bệnh hiểm nghèo như: ung thư, thần kinh, suy
gan, thận… cũng chưa được thống kê. Các nhà nghiên cứu khoa học của
WHO cũng dự đoán rằng đến năm 2020 số ca mắc ung thư ở Việt Nam sẽ xấp
xỉ 200.000 và trở thành nước có tỷ lệ ung thư cao nhất thế giới. Có thể nói,
chưa bao giờ vấn đề vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm lại đáng báo động
như hiện nay. Thực phẩm bẩn, thực phẩm nhiễm hóa chất vẫn tiếp tục tràn
vào nhà hàng, quán nhậu và mâm cơm mỗi gia đình.
1
Trong những năm qua, việc tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm luôn được người đứng đầu các cấp, ngành của tỉnh Quảng Ngãi, cũng
như huyện Nghĩa Hành nói riêng, đặc biệt quan tâm với mục tiêu đấu tranh
phòng, chống tội phạm về an toàn thực phẩm nhằm bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của nhân dân. Muốn thực hiện được mục đích trên thì hiệu quả của tổ
chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm của cơ quan hành pháp là vô cùng
quan trọng.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức thực hiện
pháp luật an toàn thực phẩm cũng góp phần rất quan trọng, nhất là dưới góc
độ nghiên cứu t thực tiễn của địa phương có tình hình an toàn thực phẩm
trong những năm gần đây rất đáng lưu ý như huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng
Ngãi.
T những nguyên nhân trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng, việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa
bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi” có ý nói nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, đặc biệt là trước yêu cầu ở nước ta hiện nay nói chung, ở huyện
Nghĩa Hành nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tuy có tầm quan trọng đặc biệt như vậy nhưng vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này mới chỉ được chú trọng
nghiên cứu trong một vài năm trở lại đây và kết quả nghiên cứu cũng còn rất
khiêm tốn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu có liên quan như:
“Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm trong Luật Hình
sự Vệt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sỹ của tác giả
Hoàng Trí Ngọc năm 2009, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
2
“Pháp luật về Kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm trong hoat động
thương mại ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Công Hiển, năm
2010, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
“Công cụ phân tích, dự báo xu hướng ngộ độc thực phẩm; Khảo sát quy
trình tổ chức quản lý thông tin và biểu thị bản đồ liên quan đến giám sát ngộ
độc thực phẩm trong VSATTP”, năm 2012, Đề tài nghiên cứu của GS.TS Vũ
Đức Thi, Viện Công nghệ Thông tin - Viện hàn lâm khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
“Một số vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm”, năm 2012, Bài báo của TS.
Lưu Hoài Chuẩn, Hội khoa học kinh tế y tế Việt Nam.
“Thi hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở cấp Phường trên
địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Mai Vân, năm
2013, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
“Thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà
Nội”, Luận văn thạc sỹ của tác giả Lê Thị Linh, năm 2016, Khoa Luật- Đại
học Quốc gia Hà Nội
“Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Quận 8,
thành phố Hồ Chí Minh”, năm 2017, Luận văn thạc sỹ Quản lý công của tác
giả Nguyễn Văn Anh, Học viện Hành chính Quốc gia.
“Pháp luật về an toàn thực phẩm t thực tiễn thành phố Buôn Mê Thuột
tỉnh Đắk Lắk”, năm 2017, Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Minh,
Học viện Hành chính Quốc gia...
Có thể thấy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề an toàn thực phẩm. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu sâu về vấn đề
tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi - một vấn đề hết sức nóng và luôn cần thiết, liên quan
mật thiết đến hiệu quả của việc thực hiện an toàn thực phẩm. Bởi muốn thực
3
hiện tốt công tác an toàn thực phẩm thì ngoài ý thức tự giác của mỗi công dân
nhà nước cần phải có chế tài nghiêm khắc được thể hiện qua các văn bản quy
phạm pháp luật buộc mỗi công dân phải tuân thủ chấp hành. Chỉ có như vậy
thì công tác an toàn thực phẩm mới có thể có những bước tiến mới, quản lý an
toàn thực phẩm mới có thể kiểm soát được t khâu sản xuất đến tiêu dùng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đưa ra các giải pháp để bảo
đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành,
tỉnh Quảng Ngãi.
Để đạt mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về
an toàn thực phẩm.
- Khảo sát, thống kê, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm, những ưu điểm, khuyết điểm và
nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế của pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành giai đoạn
2013 – 6/2018.
- Đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật
ATTP ở huyện Nghĩa Hành.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về ATTP và tổ
chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm theo quy định của Luật An
toàn thực phẩm năm 2010 và các văn bản hướng dẫn, triển khai thực hiện của
các ngành chức năng đối với công tác bảo đảm an toàn thực phẩm.
- Phạm vi nghiên cứu:
4
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật và tổ
chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi.
+ Về thời gian: 05 năm (t năm 2013 đến hết tháng 6/2018).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về an toàn thực phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp định tính,
phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa nghiên cứu lý luận
và tổng kết thực tiễn. Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu được
thu thập, tổng hợp t nhiều nguồn tư liệu khác nhau như các công trình
nghiên cứu, sách, báo, tạp chí, báo cáo tổng kết, văn bản pháp luật, ... cụ thể:
Chương 1: Sử dụng phương pháp luận để làm rõ một số vấn đề có liên quan
đến tổ chức thực hiện pháp luật ATTP.
Chương 2: Sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh,
tổng kết thực tiễn để xem xét tìm ra những hạn chế, nguyên nhân t đó giải quyết
các vấn đề, rút ra bài học cụ thể trong tổ chức thực hiện pháp luật ATTP trên địa
bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận và thực tiễn để
đề ra phương hướng, giải pháp thực hiện để thời gian tới tổ chức thực hiện pháp luật
ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi có hiệu quả hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần làm sáng tỏ, bổ sung lý luận về tổ chức
thực hiện pháp luật ATTP.
- Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu được thực hiện nhằm góp phần cung
cấp thông tin cho các nhà khoa học, các cán bộ địa phương về thực trạng tổ
5
chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm; những giải pháp nâng cao chất
lượng tổ chức thực hiện pháp luật ATTP tại huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng
Ngãi.
Đồng thời, nghiên cứu này còn giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng
về vấn đề nâng cao chất lượng, an toàn thực phẩm. Ngoài ra, đề tài còn là
nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học ngành luật, cũng
như những người quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
6
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. An toàn thực phẩm và pháp luật an toàn thực phẩm
1.1.1. An toàn thực phẩm
Thực phẩm là nguồn cung cấp năng lượng, cung cấp các chất dinh
dưỡng cần thiết để con người sống và phát triển. Tuy nhiên, vì những lợi
nhuận nên các nhà sản xuất và kinh doanh thực phẩm vẫn sử dụng những
biện pháp bảo quản, kích thích tăng trưởng không hợp lý làm thực phẩm
trở nên không an toàn. Vì thế thực phẩm là tác nhân chính dẫn đến ngộ
độc thực phẩm và các căn bệnh đặc biệt nguy hiểm t tiêu chảy cấp đến
ung thư. Việt Nam cũng là một trong những nước có số lượng người mắc
bệnh ung thư nhiều nhất thế giới và nguyên nhân chính là thực phẩm ăn
hàng ngày của con người.
Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc
đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm,
thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm [42]. Mỗi loại thực phẩm đều có
quy định riêng về ngưỡng an toàn và khi thực phẩm chứa những yếu tố nguy
cơ đối với sức khỏe con người thì gọi là thực phẩm không an toàn. Sử
dụng các loại thực phẩm không an toàn, người tiêu dùng đã phải trả giá
quá đắt bằng chính sức khoẻ, thậm chí cả tính mạng của mình do bị ngộ
độc thực phẩm và mầm mống gây ra căn bệnh ung thư quái ác đang ngày
một tích tụ và chờ bộc phát. Nhưng có không ít người tiêu dùng không
quan tâm đến vấn đề ATTP khi mua các thực phẩm thiết yếu tiêu dùng
hàng ngày (như rau, cá, thịt….).
Các hóa chất độc hại như thuốc bảo vệ thực vật (thuốc tr sâu, tr bệnh
và thuốc tr cỏ dại…), thuốc kích thích tăng trưởng, kim loại nặng, các vi
7
sinh vật gây bệnh có trong các loại rau quả hoặc các chất kháng sinh, chất
tăng trọng có trong thịt, cá sẽ tích lũy dần trong các mô mỡ, tủy sống…của
con người, là tiền đề để phát sinh các loại bệnh tật như ung thư, loãng xương,
suy giảm trí nhớ và thoái hóa xương khớp.
Khi bị nhiễm khuẩn, nhiễm độc thì thực phẩm lại là nguồn truyền bệnh
nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng con người
và sự phát triển của xã hội. Ngộ độc thực phẩm và các bệnh do thực phẩm gây
ra không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống của mỗi
người, mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng chi phí cho công tác
chăm sóc sức khoẻ.
Theo Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm số 12/2003/PLUBTVQH11
ngày 26/7/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, VSATTP được hiểu là các
điều kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm không gây hại cho sức
khỏe, tính mạng của con người [56]. VSATTP hiểu theo nghĩa hẹp là một
môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực
phẩm bằng những phương pháp phòng ng a, phòng chống bệnh tật do thực
phẩm gây ra. Hiểu theo nghĩa rộng, VSATTP là tất cả điều kiện, biện pháp
cần thiết t khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng
như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại
cho sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng.
Tuy nhiên để phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế sau khi Việt Nam
chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào 01/01/2007, khái
niệm này đã được đơn giản hóa, ngắn gọn và phù hợp hơn, được thể hiện
trong Luật An toàn thực phẩm năm 2010 có hiệu lực thi hành t ngày
01/7/2011, theo đó ATTP là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến
sức khỏe, tính mạng con người. T đây, có thể hiểu theo nghĩa hẹp đó là việc
xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp
8
phòng ng a, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. ATTP cũng bao gồm
các quy trình, quy định áp dụng trong t ng khâu chế biến cần được thực hiện
để tránh các nguy cơ sức khỏe có tiềm năng nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa
rộng, đảm bảo ATTP là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc
đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người
tiêu dùng.
Như vậy an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần thiết t
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng
nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe,
tính mạng người tiêu dùng. Vì vậy, an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự
tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông
nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
1.1.2. Pháp luật an toàn thực phẩm
Đảm bảo ATTP luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm vì
xuất phát t tầm quan trọng của nó; đảm bảo ATTP trước hết là chăm lo sức
khỏe của nhân dân, phát triển kinh tế, an sinh xã hội và phục vụ cho tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chỉ
đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm không ng ng hoàn thiện pháp luật về
ATTP, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP. Nhiều văn
bản quy phạm pháp luật về ATTP đã được ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong lĩnh vực ATTP. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, công tác
bảo đảm ATTP vẫn là vấn đề thách thức to lớn ở nước ta. Các giải pháp giải
quyết vấn đề này đang được đặt ra rất cấp bách, nhất là việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật về ATTP. Do vậy cần thiết phải có các quy tắc xử sự
có tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, tạo lập
trật tự, ổn định xã hội.
9
Pháp luật an toàn thực phẩm là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Pháp luật về
ATTP ở Việt Nam, là một bộ phận trong hệ thống pháp luật hiện hành của
nước ta, bao gồm các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc th a
nhận, tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện bảo đảm an
toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập khẩu, xuất
khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm thực phẩm;
phân tích nguy cơ đối với ATTP; phòng ng a, ngăn chặn và khắc phục sự cố
về ATTP; thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP; trách nhiệm quản lý
nhà nước về ATTP [42]. Như vậy, pháp luật an toàn thực phẩm là toàn bộ các
văn bản luật và dưới luật, các Thông tư, Nghị định có liên quan điều chỉnh
những vấn đề xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Luật An toàn thực phẩm đã được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010,
có hiệu lực ngày 01/7/2011 là một sự kiện quan trọng thể hiện được quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác
bảo đảm ATTP trong tình hình mới, góp phần tích cực vào việc thực hiện
thành công sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Luật
gồm 11 chương và 72 điều, gồm các nội dung cơ bản sau: quy định quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong đảm bảo thực phẩm; điều kiện đảm bảo
an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, xuất khẩu thực
phẩm; quảng cáo, ghi nhãn, kiểm nghiệm, phân tích nguy cơ đối với thực
phẩm; thông tin, giáo dục, truyền thông và trách nhiệm quản lý về an toàn
thực phẩm [42]. Theo pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm thì thực phẩm do
nhiều bộ, ngành quản lý do đó gặp rất nhiều khó khăn, bất cập trong triển khai
thực hiện [56]. Nhưng Luật ATTP quy định có 03 bộ có trách nhiệm quản lý
10
chính gồm Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Công
thương. Luật quy định rất rõ và cụ thể trách nhiệm của t ng ngành và trách
nhiệm quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân các cấp [40].
Sau khi Luật An toàn thực phẩm có hiệu lực thi hành, Đảng, Nhà nước,
Chính phủ, các bộ, ngành, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo,
hướng dẫn, làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai thực hiện Luật, như:
- Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược Quốc gia an toàn thực
phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 (Quyết định 20/QĐ-TTg ngày
04/01/2012); phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia vệ sinh an toàn thực
phẩm giai đoạn 2012-2015 (Quyết định 1228/QĐ-TTg ngày 07/9/2012); Chỉ
thị 34/CT-TTg ngày 11/12/2014 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo đảm
an toàn thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm trong tình hình mới.
- Chính phủ ban hành Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25/4/2012 về
quy định chi tiết một số điều của Luật an toàn thực phẩm; Nghị định
178/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP (thay thế
Nghị định 91/2012/ NĐ-CP của chính phủ); Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày
15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương
mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng
- Bộ Y tế ban hành 46 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó đáng chú
ý là: Thông tư 15/2012/TT-BYT ngày 12/9/2012, quy định về điều kiện chung
bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
Thông tư 26/2012/TT-BYT ngày 30/11/2012, quy định cấp giấy chứng nhận
cơ sở đủ điều kiện ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức
năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng, phụ gia thực phẩm, chất hỗ
trợ chế biến thực phẩm, nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai; dụng
cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế;
11
Thông tư 30/2012/TT-BYT ngày 05/12/2012 quy định về điều kiện an toàn
thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thức ăn
đường phố. Trong đó có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của Bộ Y tế về chất
lượng nước ăn uống, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia của Bộ Y tế về chất lượng
nước sinh hoạt; Thông tư số 47/2014/TT-BYT ngày 11/12/2014 hướng dẫn
quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống…
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành 18 văn bản quy
phạm pháp luật, gồm Thông tư số 14/2011/TT-BNNPTNT quy định việc
kiểm tra, đánh giá cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản phẩm
nông lâm thủy sản; Thông tư số 45/2014/TT-BNNPTNT, Thông tư số
51/2014/TT-BNNPTNT….
- Bộ Công thương ban hành 03 văn bản quy phạm pháp luật cùng các
chỉ thị, nghị quyết về việc thi hành pháp luật ATTP.
- Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương
ban hành Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày
09/4/2014 hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm.
Cùng với các văn bản theo hệ thống pháp luật về an toàn thực phẩm,
nhiều luật, pháp lệnh mới hoặc sửa đổi bổ sung có liên quan tới công tác quản
lý ATTP như: Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005; Luật dược
số 105/2016/QH13 ngày 06/4/2016; Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật số
68/2006/QH11 ngày 29/6/2006; Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa số
05/2007/QH12 ngày 21/11/2007; Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 ngày
21/6/2012.
Hệ thống các văn bản trên đã tạo hành lang pháp lý để kiểm soát chất
lượng ATTP, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ATTP và yêu cầu hội
nhập quốc tế.
12
Tuy nhiên, An toàn thực phẩm là một lĩnh vực mới ở nước ta, vì thế hệ
thống luật pháp cũng mới được hình thành và vẫn đang trong giai đoạn xây
dựng tích cực nên trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn,
vướng mắc; chưa đồng bộ, còn thiếu, chồng chéo và chưa phù hợp với thực
tiễn. Phân công trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước vẫn đang
trong giai đoạn điều chỉnh; thiếu nhiều quy định chi tiết, cụ thể, hoặc chưa
phù hợp với nhiều loại hình hoạt động, kinh doanh, khó khăn khi triển khai;
thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn cho sản phẩm thực phẩm, nhiều tiêu chuẩn quy
chuẩn chưa phù hợp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
1.2. Khái niệm, chủ thể, nội dung tổ chức thực hiện pháp luật an toàn
thực phẩm
1.2.1. Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Trước hết, trong khoa học pháp lý thì “thực hiện pháp luật” là giai đoạn
quan trọng không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật, là giai đoạn thứ
hai trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, tiếp sau giai đoạn xây dựng pháp luật.
Thực hiện pháp luật là giai đoạn quan trọng, không thể thiếu, vì pháp luật sẽ
chỉ là những quy định trên giấy nếu nó không được thực hiện trong thực tế
cuộc sống. Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của
mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện
cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm minh
trong cuộc sống. Nói cách khác, có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ
cũng mới chỉ là có được một yếu tố cần của nhà nước pháp quyền, nhưng
chưa đủ. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, đòi hỏi
pháp luật phải được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và công bằng
theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật [23].
Hiện nay, có nhiều nghiên cứu đưa ra các định nghĩa về “Thực hiện
pháp luật”. Có quan điểm cho rằng, thực hiện pháp luật “là quá trình hoạt
13
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực
trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật” [26, tr.270]. Hoặc thực hiện pháp luật “là một quá trình hoạt động
có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở
thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [21,
tr.463]. Hay thực hiện pháp luật “là hoạt động, là quá trình làm cho những
quy tắc của pháp luật thành những hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật” [26, tr.344]. Quan điểm khác thì cho rằng thực hiện pháp luật “là hiện
tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành
hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [22, tr.369].
T các dấu hiệu trên đây, có thể định nghĩa thực hiện pháp luật như
sau: Thực hiện pháp luật là hành vi (hoạt động) hợp pháp của các chủ thể
pháp luật, được hình thành trong quá trình hiện thực hóa các quy định của
pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống vì hạnh phúc của con người.
Để làm rõ nội dung của khái niệm “tổ chức thực hiện pháp luật”, trước
hết, cần giải thích về ngữ nghĩa và cách vận dụng thuật ngữ “tổ chức” và
nhóm t “thực hiện pháp luật”, hai bộ phận ngôn ngữ chính được sử dụng để
thể hiện khái niệm này.
Một tổ chức (organization) được định nghĩa là hai hay nhiều người làm
việc, phối hợp với nhau để đạt kết quả chung, chẳng hạn một công ty may
mặc, trạm xăng, cửa hàng bách hoá, hay siêu thị,… Trong khi đó, tổ chức
(organize) là một quá trình đề ra những sự liên hệ chính thức giữa những con
người và tài nguyên để đi đến mục tiêu. Chức năng tổ chức là sự phối hợp các
nỗ lực qua việc thiết lập một cơ cấu về cách thực hiện công việc trong tương
quan với quyền hạn. Nói một cách khác, chức năng tổ chức là tiến trình sắp
xếp các công việc tương đồng thành t ng nhóm, để giao phó cho t ng khâu
nhân sự có khả năng thi hành, đồng thời phân quyền cho t ng khâu nhân sự
14
tùy theo công việc được giao phó. Qua cách định nghĩa trên, chúng ta thấy
những cụm t quan trọng trong chức năng tổ chức là “sắp xếp công việc”,
“khâu nhân sự” và “phân quyền”.
Đối chiếu vào lĩnh vực pháp luật và thực tiễn của đời sống pháp luật,
xét trên mọi khía cạnh đều cho thấy, các ý nghĩa được hàm chứa trong thuật
ngữ “tổ chức thực hiện pháp luật” là quá trình tổ chức các hoạt động để đưa
pháp luật vào cuộc sống và hiện thực hoá các quy định của pháp luật. Với ý
nghĩa nêu trên cho thấy: Tổ chức thực hiện pháp luật là việc lên kế hoạch, sắp
xếp các hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các chủ thể
là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong việc thực hiện các
hoạt động đó, đồng thời, sử dụng toàn bộ những yếu tố, phương tiện, công cụ
và những điều kiện cần thiết được xác lập, tổ chức và sử dụng trong quá trình
đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm chỉnh, thống nhất và hiệu quả trong thực tế.
Dưới góc độ thực tiễn, để đưa một đạo luật vào cuộc sống, các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thường sử dụng thuật ngữ “tổ chức thi hành pháp
luật”. Đồng thời, trong các văn bản mang tính chỉ đạo hành chính thường sử
dụng thuật ngữ “triển khai thi hành Luật...”. Nội hàm của thuật ngữ “tổ chức
thi hành pháp luật” thường được hiểu bao gồm các yếu tố sau đây: (1) Xác
định rõ các công việc cần thực hiện; (2) xác định rõ trách nhiệm của các cơ
quan có liên quan khi thực hiện các công việc đó và (3) trách nhiệm báo cáo,
phản ánh về kết quả và những khó khăn, vướng mắc gặp phải thi thực hiện
các công việc được giao.
Đối với các công việc cần thực hiện, những công việc sau đây thường
được tập trung thực hiện:
15
Thứ nhất, nhóm công việc liên quan đến nhận thức pháp luật (thường là
nhóm công việc về tuyên truyền, phổ biến Luật đến người dân và phổ biến,
quán triệt Luật tới cán bộ, công chức được Luật giao nhiệm vụ thực hiện);
Thứ hai, nhóm công việc liên quan đến tăng cường năng lực đội ngũ
cán bộ, công chức được giao Luật giao thực hiện nhiệm vụ (thường là hoạt
động tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về lĩnh vực mà Luật đó điều
chỉnh...);
Thứ ba, nhóm công việc về xây dựng và hoàn thiện thể chế - cụ thể là
xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật;
Thứ tư, nhóm công việc về phân công trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện tổ chức thi hành Luật trong nội bộ t ng Bộ, ngành, địa phương;
Thứ năm, nhóm công việc liên quan đến bố trí kinh phí tổ chức thi
hành Luật;
Thứ sáu, nhóm công việc liên quan đến sắp xếp, tổ chức bộ máy, nhân
sự thực hiện nhiệm vụ được Luật giao;
Thứ bảy, nhóm công việc liên quan đến phân công trách nhiệm phối
hợp giữa các cơ quan có liên quan để tổ chức thi hành Luật.
Như vậy, có thể thấy, giữa thực tiễn và lý luận thì “tổ chức thực hiện
pháp luật” (dưới góc độ lý luận) và “tổ chức thi hành pháp luật” (dưới góc độ
thực tiễn) có nội hàm tương đương nhau.
Tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm là việc lên kế hoạch,
sắp xếp các hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các chủ
thể là các cơ quan nhà nước, trong việc thực hiện các hoạt động đó, đồng
thời, sử dụng toàn bộ những yếu tố, phương tiện, công cụ và những điều kiện
cần thiết được xác lập, tổ chức và sử dụng trong quá trình đưa pháp luật an
toàn thực phẩm vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật an toàn thực phẩm
được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và hiệu quả trong thực tế.
16
1.2.2. Chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật là
các yếu tố cấu thành cơ bản để duy trì sự tồn tại của đời sống pháp luật; đồng
thời, thể hiện sống động sự phân công quyền lực nhà nước theo các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền. Các yếu tố này cùng
tồn tại, tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Công tác
tổ chức thực hiện pháp luật trong cuộc sống chủ yếu thuộc về trách nhiệm và
là chức năng của cơ quan hành pháp. Đó chính là quá trình hướng dẫn, chuẩn
bị các nguồn lực (con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất thực hiện t ng
văn bản pháp luật) bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay t khi tổ chức học tập,
quán triệt, vận dụng để mọi hành vi ứng xử của các chủ thể đều phù hợp với
quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả của việc tổ
chức thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động lập
pháp - ban hành luật và giám sát thực hiện luật của Quốc hội, của hoạt động
tư pháp trong bảo vệ pháp luật và sử dụng cưỡng chế nhà nước.
Cơ quan hành pháp theo nghĩa rộng được hiểu là Chính phủ và chính
quyền địa phương các cấp. Chính quyền địa phương các cấp bao gồm Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn.
Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước (Bộ, cơ
quan ngang bộ) hoặc trong phạm vi địa phương (các cơ quan chuyên môn
của Ủy ban nhân dân) hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng chế, việc thi
hành pháp luật, đặc biệt là áp dụng pháp luật, được thực hiện bởi thủ
trưởng cơ quan hoặc người được ủy quyền hợp pháp với các nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể.
Như vậy, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm là cơ
quan hành pháp bao gồm Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa
17
phương các cấp, đồng thời bởi các cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan
hành chính nhà nước.
1.2.3. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Khi đặt ra những quy phạm pháp luật, nhà nước ta mong muốn sử dụng
chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng lợi ích của nhân dân lao
động và sự tiến bộ xã hội. Mục đích đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật trong đời sống thực tế.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP tiếp cận dưới góc độ thực
tiễn triển khai thực hiện gồm các hình thức: ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ
đạo triển khai thực hiện, tổ chức bộ máy, con người thực hiện, xây dựng các
biện pháp triển khai thực hiện như: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về ATTP, phối hợp tổ chức thực hiện, công tác thanh tra, kiểm tra, thực hiện
các biện pháp hành chính, cưỡng chế…để đảm bảo thực hiện có hiệu quả
pháp luật về ATTP trong đời sống xã hội.
1.2.3.1. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ của các tổ
chức, cá nhân trong an toàn thực phẩm
Trong bối cảnh hiện nay khi mà ý thức pháp luật, đạo đức nghề nghiệp
của tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm, tổ chức, cá nhân kinh doanh thực
phẩm và người tiêu dùng thực phẩm còn thấp. Họ bất chấp tất cả để thu về lợi
nhuận thì càng cần đến nỗ lực và sự hoạt động hết mình của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong lĩnh vực an toàn thực phẩm.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của
mình cần áp dụng nhanh chóng và triệt để các quy định, chế tài pháp luật an
toàn thực phẩm vào việc quản lý và xử lý những hành vi sai phạm, vi phạm
pháp luật an toàn thực phẩm. Có như vậy mới tạo ra sức mạnh cưỡng chế đối
với những chủ thể pháp luật có liên quan khi mà họ chưa tự ý thức, tự giác
chấp hành pháp luật.
18
- Tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về quyền của tổ chức, cá
nhân sản xuất thực phẩm trong ATTP
Thứ nhất, quyết định và công bố các tiêu chuẩn sản phẩm do mình sản
xuất, cung cấp
Theo quy định, thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn, phụ gia thực
phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, vật liệu bao gói, dụng cụ tiếp xúc trực
tiếp với thực phẩm đã có quy chuẩn phải được công bố hợp quy, sản phẩm
chưa có quy chuẩn kỹ thuật phải được công bố phù hợp quy định ATTP trước
khi đưa ra lưu thông trên thị trường.
Hiện nay, Bộ Y tế đã ban hành hai Thông tư số 19/2012/TT-BYT ngày
09/11/2012 hướng dẫn việc công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an
toàn thực phẩm và Thông tư số 11/2013/TT-BYT ngày 08/4/2013 hướng
dẫn chỉ định tổ chức chứng nhận hợp quy đối với thực phẩm đã qua chế biến
bao gói sẵn; phụ gia thực phẩm; chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; vật liệu bao
gói, dụng cụ tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm để tạo hành lang pháp lý cho
hoạt động chứng nhận hợp quy, công bố hợp quy và công bố phù hợp quy
định an toàn thực phẩm.
03 nhóm sản phẩm bao gồm: nhóm thực phẩm bảo vệ sức khỏe, sản
phẩm dinh dưỡng cho trẻ tới 36 tháng tuổi, phụ gia thực phẩm hỗn hợp có
công dụng mới và những sản phẩm dành cho chế độ ăn đặc biệt như thực
phẩm ăn qua xông cho người bệnh theo chỉ dẫn của bác sĩ, phải đăng ký bản
công bố sản phẩm với cơ quan quản lý. Các sản phẩm còn lại do các doanh
nghiệp tự công bố. Trong đó có các chỉ tiêu an toàn về kim loại nặng, tồn dư
hóa chất bảo vệ thực vật, các vi sinh vật gây bệnh, nấm men, nấm mốc… các
doanh nghiệp cũng tự công theo mức giới hạn cho phép mà Bộ Y tế đã quy
định. Đồng thời, doanh nghiệp phải gửi một bản tới cơ quan quản lý, sau đó
được phép sản xuất. Các cơ quan quản lý sẽ căn cứ vào bản công bố này để
19
tăng cường hậu kiểm, nếu lấy mẫu kiểm nghiệm mà không đúng như mẫu
doanh nghiệp tự công bố thì sẽ xử lý rất nghiêm.
Thứ hai, quyết định áp dụng các biện pháp kiểm soát nội bộ để bảo
đảm an toàn thực phẩm: Áp dụng các chương trình quản lý chất lượng trong
sản xuất kinh doanh thực phẩm như GMP, HACCP, ISO 22000, ...
Thứ ba, yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm hợp tác trong
việc thu hồi và xử lý thực phẩm không bảo đảm an toàn: Việc thu hồi thực
phẩm không bảo đảm an toàn được quy định tại Điều 55 Luật An toàn thực
phẩm 2010. Nếu sản phẩm thực phẩm không bảo đảm an toàn, thì trong quá
trình thu hồi thì tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm yêu cầu tổ chức, cá nhân
kinh doanh thực phẩm phối hợp trả lại các sản phẩm trong lô thực phẩm
không đảm bảo an toàn.
Thứ tư, lựa chọn tổ chức đánh giá sự phù hợp, cơ sở kiểm nghiệm đã
được chỉ định để chứng nhận hợp quy:
Tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm thực hiện đánh giá hợp quy theo
một trong hai phương thức sau: Thông qua tổ chức chứng nhận hợp quy do
Bộ Y tế chỉ định hoặc tự đánh giá hợp quy theo nội dung đánh giá hợp quy
được quy định và thực hiện kiểm nghiệm sản phẩm tại phòng kiểm nghiệm
được chỉ định hoặc phòng kiểm nghiệm độc lập được công nhận hoặc phòng
kiểm nghiệm được th a nhận.
08 tổ chức chứng nhận hợp quy đã được Cục ATTP, Bộ Y tế chỉ định.
Tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm có quyền lựa chọn một trong tám cơ sở
để chức đánh giá sự phù hợp, kiểm nghiệm để chứng nhận hợp quy.[63]
20
TT Tên đơn vị Địa chỉ
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo Số 02 Ngô Quyền, Quận Sơn Trà, 1 lường chất lượng 2 Đà Nẵng
Trung tâm Chứng nhận phù hợp Số 8 Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu 2 Quacert Giấy, Hà Nội
Công ty cổ phần chứng nhận Số 79 Quang Trung, Quận Hải 3 Globalcert Châu, TP. Đà Nẵng
Trung tâm giám định và chứng nhận 28 An Xuân, quận Thanh Khê, 4 hợp chuẩn hợp quy Vietcert thành phố Đà Nẵng
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo 49 Pasteur, Phường Nguyễn Thái 5 lường chất lượng 3 Bình, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh 65 Phạm Thận Duật, Cầu Giấy, 6 thực phẩm Quốc Gia Hà Nội
Viện An toàn thực phẩm – Công ty cổ Tầng 4, tòa nhà 130 Nguyễn Đức 7 phần chứng nhận Vinacert Cảnh, Hà Nội
Căn hộ 111a, nhà A1, tập thể
Viện Nghiên cứu Phát triển Tiêu chuẩn Công ty Bưu chính viễn thông, 8 Chất lượng phường Quan Hoa, quận Cầu
Giấy, Hà Nội
Thứ năm, sử dụng dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và các dấu hiệu khác
cho sản phẩm theo quy định của pháp luật. Dấu chứng nhận sản phẩm hợp
quy được trình bày trực tiếp trên sản phẩm, hàng hoá hoặc trên bao bì hoặc
nhãn gắn trên sản phẩm, hàng hoá ở vị trí dễ thấy, dễ đọc, đồng thời có thể
được in trong tài liệu kỹ thuật kèm theo để tuyên truyền, quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng và trên các tài liệu giới thiệu, tài liệu giao
dịch thương mại.
21
Thứ sáu, tổ chức, cá nhân sản xuất thực phẩm có quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện theo quy định pháp luật.
Thứ bảy, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về quyền của người tiêu
dùng trong ATTP
Quyền được an toàn nói riêng, quyền của người tiêu dùng nói chung có
nội hàm rộng, mang tính mở, nhưng cụ thể, với yêu cầu ngày càng đa dạng và
cao hơn, nổi bật là quyền được ăn sạch, uống sạch, chữa bệnh, học hành, đi lại
và tiếp cận, tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ trong cuộc sống thường ngày an
toàn, thuận lợi, với chất lượng cao và giá cả phù hợp; cũng như được tiếp
nhận nhanh và xử lý thỏa đáng những khiếu nại về chất lượng hàng hóa và
dịch vụ…
Trong bối cảnh hiện nay, quyền được an toàn của người tiêu dùng
tùy thuộc ngày càng chặt chẽ vào sự củng cố nhận thức, sự hoàn thiện luật
pháp và sự chung tay hành động mạnh mẽ hơn nữa t phía các cơ quan
quản lý nhà nước, tổ chức xã hội, cũng như cộng đồng người tiêu dùng và
doanh nghiệp. Một mặt, cần khuyến khích doanh nghiệp tăng cường công
nghệ sản xuất xanh và đạo đức kinh doanh; quy chuẩn và minh bạch hóa
các chỉ tiêu chất lượng; phát triển các dịch vụ hậu mãi thân thiện, tiện lợi,
chất lượng cao...Mặt khác, cần tăng cường năng lực thể chế bảo vệ quyền
người tiêu dùng t trung ương đến địa phương; điều chỉnh và cụ thể hóa
các chính sách, cơ chế hoạt động, quy trình tiếp nhận, xử lý tranh chấp
giữa người tiêu dùng và người cung cấp hàng hóa; luật hóa các tiêu chuẩn
chất lượng và các “hàng rào kỹ thuật” quốc gia; đề cao sự minh bạch
nguồn gốc và chất lượng sản phẩm.
An toàn thực phẩm là một rủi ro đến t rất nhiều công đoạn, t sản
xuất, vận chuyển, chế biến, lưu thông thậm chí trong quá trình tiêu dùng mà
22
chúng ta thường sử dụng hình ảnh t trang trại đến bàn ăn. Chúng ta cứ nghĩ
đến khâu sản xuất vật nuôi, cây trồng ở những nơi bị ô nhiễm môi trường thì
chắc chắn nó sẽ bị ảnh hưởng. Thứ hai là thức ăn nữa, đã khảo sát, phát hiện
những hóa chất độc hại như sabutamol mà người ta đưa vào thức ăn để chăn
nuôi lợn để làm tăng thịt lợn nạc rồi bán giá cao hơn. Những tồn dư hóa chất
ở trong thịt con lợn như vậy sẽ chuyển sang người sử dụng gây những bệnh
tật, tổn hại cho sức khỏe. Tiếp đó trong quá trình chế biến người ta đưa chất
phụ gia, những chất hỗ trợ chế biến, phẩm màu, rồi những thứ có thể nói rất
độc hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. Ngoài ra chúng ta thấy khâu an
toàn nó đến t nhiều khâu khác nhau.
Không chỉ xâm hại đến quyền lợi của người tiêu dùng thực phẩm,
những hành vi sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa giả mạo, hàng hóa
kém chất lượng, không đảm bảo ATTP, bán hàng gian dối, cung ứng dịch vụ
kém chất lượng... như đã nêu ở trên còn xâm phạm đến trật tự quản lý nền
kinh tế, xâm phạm an toàn công cộng của một xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế thì việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thực
phẩm là nhiệm vụ không chỉ giới hạn trong phạm vi của một địa phương, một
quốc gia hay một vùng lãnh thổ mà còn mang tính toàn cầu.
Vấn đề then chốt là làm thế nào quản lý được chất lượng an toàn thực
phẩm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, bảo đảm an toàn
cho người tiêu dùng, đóng góp được phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước. Vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống
xã hội Việt Nam hiện nay đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi sự chung tay
của cả hệ thống chính trị.
Để tổ chức thực hiện quyền của người tiêu dùng, nhà nước sử dụng
nhiều biện pháp:
23
+ Nhà sản xuất phải cung cấp thông tin trung thực về an toàn thực
phẩm, hướng dẫn sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, lựa chọn, sử dụng
thực phẩm phù hợp; được cung cấp thông tin về nguy cơ gây mất an toàn,
cách phòng ng a khi nhận được thông tin cảnh báo đối với thực phẩm bằng
cách ghi trên nhãn sản phẩm thực phẩm, thông tin này đã được công bố phù
hợp quy chuẩn hoặc phù hợp quy định ATTP trong hồ sơ công bố, đồng thời
phải phù hợp với quy định về ghi nhãn thực phẩm theo quy định.
+ Đặt ra nhiều loại chế tài như chế tài hành chính (phạt tiền, tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm...), chế tài dân sự (buộc công khai xin lỗi, bồi
thường thiệt hại, khắc phục hậu quả...) và cả loại chế tài nghiêm khắc nhất là
chế tài hình sự (tùy theo tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị áp
dụng loại, mức hình phạt cụ thể, cao nhất là tử hình).
Nhưng hiện nay, tình trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng
đang có xu hướng mở rộng về phạm vi, gia tăng về số lượng và nghiêm
trọng về tính chất, mức độ. Những thông tin chúng ta liên tục đọc được,
nghe được, xem được t các phương tiện thông tin đại chúng là ở nơi này,
nơi kia, cơ quan chức năng v a phát hiện những vụ sản xuất, buôn bán
hàng giả với số lượng và quy mô lớn, trong đó có cả những hàng giả là
thực phẩm, những vụ ngộ độc thực phẩm đông người, những vụ thực
phẩm kém chất lượng, bị nhiễm bẩn, thực phẩm có chất cấm, chất gây
nguy hại cho sức khỏe... Qua đó cho thấy hệ thống chế tài được đặt ra để
xử lý hành vi xâm phạm quyền của người tiêu dùng thực phẩm hiện nay
chưa thực sự hiệu quả, trong đó có chế tài hình sự chưa đủ sức trấn áp
riêng cũng như răn đe chung, dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng thực phẩm diễn biến phức tạp, gia tăng về quy mô và tính
chất, hậu quả xảy ra cũng ngày một nghiêm trọng hơn.
24
Quyền của người tiêu dùng thực phẩm là rất lớn. Vai trò của các cơ
quan nhà nước bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thực phẩm vì thế cũng
rất quan trọng. “Cuộc chiến” chống hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, hàng kém
chất lượng vẫn đang diễn biến phức tạp và đòi hỏi phải tiến hành liên tục,
quyết liệt. Đó là vì quyền của người tiêu dùng thực phẩm.
* Về nghĩa vụ
- Tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân sản xuất thực phẩm trong ATTP
Các cơ sở sản xuất thực phẩm phải tuân thủ các yêu cầu về địa điểm
môi trường; thiết kế bố trí nhà xưởng; kết cấu nhà xưởng; hệ thống thông gió;
hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước; hơi nước và khí nén; hệ thống
xử lý chất thải, rác thải; nhà vệ sinh, khu vực thay đồ bảo hộ lao động;
nguyên liệu thực phẩm và bao bì thực phẩm; trang thiết bị, dụng cụ (phương
tiện rửa và khử trùng tay; thiết bị, dụng cụ sản xuất thực phẩm; thiết bị dụng
cụ giám sát, đo lường, v.v…).
Thiết lập quy trình tự kiểm tra trong quá trình sản xuất thực phẩm:
nhằm kiểm soát tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm trong
quá trình chế biến thực phẩm t thiết kế, xây lắp nhà xưởng, thiết bị, dụng
cụ chế biến, điều kiện phục vụ cho công việc chuẩn bị chế biến đến quá
trình chế biến, bao gói, bảo quản và con người thực hiện các thao tác chế
biến thực phẩm.
Yêu cầu về nhà, xưởng và phương tiện chế biến: Yêu cầu này đỏi
hỏi khi xây dựng cơ sở chế biến thực phẩm cần phải xem xét đến vị trí sao
cho phù hợp với một cơ sở chế biến thực phẩm phải sạch sẽ thoáng mát,
không gây ô nhiễm môi trường, không đặt ở những nơi có môi trường
không lành mạnh .
25
Quy định về các yêu cầu kiểm soát vệ sinh nhà xưởng như: Xử lý nước
thải, sản phẩm phụ, bảo quản hoá chất gây hiểm, kiểm soát sinh vật gây hại và
đồ dùng các nhân
Kiểm soát quá trình chế biến: Kiểm tra tất cả mọi hoạt động phải thực
hiện theo nguyên tắc vệ sinh cơ bản, phải có các biện pháp kiểm soát chất
lượng sao cho các điểm kiểm soát quan trọng được kiểm soát trong suốt quá
trình chế biến. Thực hiện các biện pháp đề phòng sản phẩm bị nhiễm bẩn, thử
các chỉ tiêu vi sinh hoá học, tạp chất ở khâu cần thiết để xác định nguy cơ gây
nhiễm. Các sản phẩm bị nhiễm bẩn hay biến chất phải bị loại bỏ hoặc được xử
lý để giảm bớt độc chất.
Yêu cầu về con người: Đối với cơ sở chế biến thực phẩm thì yêu cầu
đối với con người khi tuyển vào làm việc là hết sức quan trọng. Nhất thiết
phải kiểm tra sức khỏe (về thể lực, trí lực và bệnh tật) của tất cả mọi
người, đặc biệt với những công nhân tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm để
tránh lây bệnh truyền nhiễm. Phải đưa ra những quy định trong việc khám
sức khoẻ cho cán bộ công nhân viện như khám định kỳ để đảm bảo chỉ có
những người có đủ tiêu chuẩn sức khoẻ mới được tiếp tục làm việc trong
cơ sở sản xuất thực phẩm. Phải thường xuyên giáo dục cho các cán bộ
công nhân viên trong cơ sở mình biết giữ gìn sức khoẻ và vệ sinh các nhân
để đảm bảo các yêu cầu đã đề ra.
Kiểm soát khâu bảo quản và phân phối: Đưa ra các yêu cầu về việc vận
chuyến và bảo quản sao cho thành phẩm phải đảm bảo để tránh nhiễm bẩn
thực phẩm bởi các tác nhân vật lý, hoá học, vi sinh. . . và không làm phân huỷ
thực phẩm.
Đối với người trực tiếp sản xuất thực phẩm: Chủ cơ sở và người trực
tiếp sản xuất thực phẩm phải được tập huấn và được cấp Giấy xác nhận tập
huấn kiến thức an toàn thực phẩm theo quy định; phải được cấp Giấy xác
26
nhận đủ sức khoẻ theo quy định của Bộ Y tế… Người trực tiếp sản xuất thực
phẩm phải mặc trang phục bảo hộ riêng, đội mũ, đi găng tay chuyên dùng,
đeo khẩu trang.
Về bảo quản thực phẩm trong sản xuất: Kho thực phẩm phải bảo đảm
chắc chắn, an toàn, thông thoáng, dễ vệ sinh và phòng chống được côn trùng,
động vật gây hại xâm nhập và cư trú. Khu vực chứa đựng, kho bảo quản thực
phẩm phải có đầy đủ biển tên; nội quy, quy trình, chế độ vệ sinh; đối với
nguyên liệu, thành phẩm thực phẩm có yêu cầu bảo quản đặc biệt phải có sổ
sách theo dõi nhiệt độ, độ ẩm và các điều kiện khác. Nguyên liệu thực phẩm,
phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, chất bảo quản thực phẩm
và sản phẩm thực phẩm phải được chứa đựng, bảo quản theo các quy định về
bảo quản sản phẩm của nhà sản xuất và yêu cầu của loại thực phẩm về nhiệt
độ, độ ẩm, ánh sáng và các yếu tố ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm. Nước đá
dùng trong bảo quản thực phẩm phải được sản xuất t nguồn nước sạch theo
Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia (QCVN) về nước sạch số 02:2009/BYT.
Các cơ sở kinh doanh thực phẩm phải tuân thủ 15 yêu cầu về nhà
xưởng, 4 yêu cầu đối với trang thiết bị. Chủ cơ sở và người trực tiếp kinh
doanh thực phẩm phải được tập huấn và được cấp Giấy xác nhận tập huấn
kiến thức an toàn thực phẩm theo quy định, phải được khám sức khoẻ được
cấp Giấy xác nhận đủ sức khoẻ theo quy định của Bộ Y tế.
Việc khám sức khoẻ do các cơ sở y tế t cấp quận, huyện và tương
đương trở lên thực hiện.
Các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực có trách nhiệm ban hành quy định cụ
thể về điều kiện an toàn thực phẩm cho cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm
thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
Các cơ sở sản xuất thực phẩm phải tuân thủ quy định của Chính phủ về
tăng cường vi chất dinh dưỡng mà thiếu hụt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng
27
đồng. 04 vi chất dinh dưỡng bắt buộc tăng cường vào thực phẩm bao gồm:
Iốt; sắt; kẽm; vitamin A. Vi chất dinh dưỡng khuyến khích tăng cường vào
thực phẩm phải thuộc Danh mục vi chất dinh dưỡng được phép bổ sung vào
thực phẩm theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. Hàm lượng vi chất dinh
dưỡng theo quy định trên được tăng cường vào thực phẩm phải đạt yêu cầu về
chất lượng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.
Các cơ sở sản xuất thực phẩm thông tin đầy đủ, chính xác về sản phẩm
trên nhãn, bao bì, trong tài liệu kèm theo thực phẩm theo quy định của pháp
luật về nhãn hàng hóa
- Tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân kinh doanh thực phẩm trong ATTP
Kinh doanh thực phẩm là loại hình kinh doanh có điều kiện và là đối
tượng chính cần được quản lý nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm, phòng ng a
ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm cho người tiêu dùng và
cả cộng đồng. Để người tiêu dùng luôn đặt niềm tin tưởng vào tổ chức, cá
nhân kinh doanh thực phẩm sẽ cung cấp cho họ những thức ăn ngon miệng,
hấp dẫn và an toàn, tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm có các nghĩa vụ
sau đây: Tuân thủ các điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực phẩm trong quá
trình kinh doanh và chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm do mình kinh
doanh; Kiểm tra nguồn gốc, xuất xứ thực phẩm, nhãn thực phẩm và các tài
liệu liên quan đến an toàn thực phẩm; lưu giữ hồ sơ về thực phẩm; thực hiện
quy định về truy xuất nguồn gốc thực phẩm không bảo đảm an toàn; Thông
tin trung thực về an toàn thực phẩm; thông báo cho người tiêu dùng điều kiện
bảo đảm an toàn khi vận chuyển, lưu giữ, bảo quản và sử dụng thực phẩm;
Kịp thời cung cấp thông tin về nguy cơ gây mất an toàn của thực phẩm và
cách phòng ng a cho người tiêu dùng khi nhận được thông tin cảnh báo của
tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu; Kịp thời ng ng kinh doanh, thông tin
28
cho tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu và người tiêu dùng khi phát hiện
thực phẩm không bảo đảm an toàn; Báo cáo ngay với cơ quan có thẩm quyền
và khắc phục ngay hậu quả khi phát hiện ngộ độc thực phẩm hoặc bệnh
truyền qua thực phẩm do mình kinh doanh gây ra; Hợp tác với tổ chức, cá
nhân sản xuất, nhập khẩu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc điều
tra ngộ độc thực phẩm để khắc phục hậu quả, thu hồi hoặc xử lý thực phẩm
không bảo đảm an toàn; Tuân thủ quy định của pháp luật, quyết định về thanh
tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Chi trả chi phí lấy mẫu và
kiểm nghiệm; Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi thực phẩm
mất an toàn do mình kinh doanh gây ra.
- Tổ chức thực hiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ người tiêu dùng
thực phẩm trong ATTP
Tuân thủ đầy đủ các quy định, hướng dẫn về an toàn thực phẩm của
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh trong vận chuyển, lưu giữ, bảo quản
và sử dụng thực phẩm; Kịp thời cung cấp thông tin khi phát hiện nguy cơ
gây mất an toàn thực phẩm, khai báo ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua
thực phẩm với Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh thực phẩm; Tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường
trong quá trình sử dụng thực phẩm.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về điều kiện bảo đảm an toàn
đối với thực phẩm và trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm
Để quản lý đối với sản phẩm, dù là sản phẩm ở dạng nào cũng phải bảo
đảm các điều kiện chung nhất mà sản phẩm phải đáp ứng nhằm bảo đảm an
toàn cho sản phẩm. Ngoài các điều kiện chung, đối với các nhóm thực phẩm
cụ thể, đặc thù như: thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến; thực
phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng; thực phẩm chức năng; thực phẩm biến
29
đổi gen; thực phẩm đã qua chiếu xạ; phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến;
bao gói, chứa đựng thực phẩm cần phải bảo đảm thêm một số điều kiện riêng
khác nữa.
Hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm cũng có những điều kiện
chung, ngoài ra còn có thêm những điều kiện riêng đối với t ng sản phẩm
và t ng quá trình như: sản xuất, kinh doanh thực phẩm tươi sống, điều kiện
trong sơ chế, chế biến, kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến, điều kiện
trong kinh doanh dịch vụ ăn uống. Bên cạnh đó, do thức ăn đường phố là
một loại hình kinh doanh đặc biệt và hiện là đối tượng gây ngộ độc thực
phẩm cao nhất.
1.2.3.3. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về kiểm nghiệm thực phẩm,
phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm phòng ngừa, ngăn chặn và khắc
phục sự cố về an toàn thực phẩm
Trước yêu cầu t thực tiễn công tác kiểm nghiệm và sự khác biệt
giữa t ngữ kiểm nghiệm được sử dụng trong Luật An toàn thực phẩm và
các thuật ngữ được sử dụng trong Luật Chất lượng, sản phẩm hàng hóa,
Chương VIII, Luật ATTP năm 2010, đưa các quy định về yêu cầu đối với
cơ sở kiểm nghiệm, kiểm nghiệm phục vụ giải quyết tranh chấp về ATTP
và chi phí lấy mẫu và kiểm nghiệm thực phẩm. Theo tinh thần của Luật
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, chỉ những cơ sở kiểm nghiệm được chỉ
định mới được tham gia kiểm nghiệm phục vụ quản lý nhà nước.
Để quản lý tốt về an toàn thực phẩm trong thời kỳ mới và đáp ứng được
yêu cầu hội nhập quốc tế, cần phải tiến hành các hoạt động phân tích nguy cơ
đối với an toàn thực phẩm bao gồm: đánh giá nguy cơ, quản lý nguy cơ và
truyền thông về nguy cơ.
Luật ATTP năm 2010 quy định về các biện pháp phòng ng a, ngăn
chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm, trách nhiệm của các tổ chức,
30
cá nhân trong việc thực hiện việc phòng ng a, ngăn chặn sự cố về an toàn
thực phẩm.
Truy xuất nguồn gốc thực phẩm, thu hồi và xử lý đối với thực phẩm
không bảo đảm an toàn là những hoạt động mà tất các các tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm thực hiện khi có yêu cầu và khi tự phát hiện sự cố. Quy định rõ
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm và trách
nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc truy xuất nguồn gốc,
thu hồi và xử lý đối với thực phẩm không an toàn.
Bằng việc quy định cụ thể điều kiện bảo đảm an toàn đối với thực
phẩm, luật an toàn thực phẩm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành có vai
trò không thể thay thế được trong việc đảm bảo thực hiện các quy định về tiêu
chuẩn, quy chuẩn an toàn thực phẩm. Cụ thể, Điều 10 Luật ATTP năm 2010
quy định điều kiện chung về bảo đảm an toàn đối với thực phẩm như sau:
“1. Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn
vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y,
kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể
gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
2. Tùy t ng loại thực phẩm, ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, thực
phẩm còn phải đáp ứng một hoặc một số quy định sau đây:
a) Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong sản
xuất, kinh doanh thực phẩm;
b) Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm;
c) Quy định về bảo quản thực phẩm."
Nhằm đánh giá được mức độ bảo đảm an toàn cho thực phẩm trước khi
đến tay người tiêu dùng, pháp luật về an toàn thực phẩm đã đặt ra những tiêu
chuẩn nhất định cho thực phẩm và cả quá trình chế biến, phân phối thực phẩm
31
an toàn. Những tiêu chuẩn này thường do Bộ Y tế ban hành và được gọi là các
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia ATTP. Ví dụ:
- Nước uống, nước sinh hoạt (ví dụ: Thông tư số 04/2009/TT-BYT
ngày 16/6/2009 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng
nước ăn uống).
- Sữa và các sản phẩm t sữa (ví dụ: Thông tư số 41/2010/TT-BYT
ngày 18/11/2010 Ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với các sản phẩm
sữa lên men)...
Nhờ đặt ra những quy chuẩn này, việc đánh giá mức độ an toàn của
thực phẩm trở nên thuận tiện hơn rất nhiều. Cũng t đó có thể công nhận danh
hiệu cho những sản phẩm thực phẩm đạt chuẩn để chúng tạo dựng được niềm
tin với người tiêu dùng; đẩy lùi những thực phẩm không rõ nguồn gốc, kém
an toàn và có thể gây nguy hại đến sức khoẻ con người.
1.2.3.4. Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quản lý nhà nước về an toàn
thực phẩm
Để giải quyết chồng chéo và giảm bớt gánh nặng cho các Bộ trong
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Luật ATTP năm 2010 quy định phân
công trách nhiệm quản lý nhà nước theo nguyên tắc t A đến Z theo các nhóm
thực phẩm/ngành hàng cho 3 Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Công thương. Đồng thời quy định cụ thể hơn trách nhiệm quản lý nhà nước
về ATTP cho UBND các cấp. Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, Bộ Y tế có trách nhiệm thanh
tra, kiểm tra tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm
khi cần thiết.
Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm chủ yếu bao gồm những nội
dung như sau: Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, chính sách, quy
hoạch, kế hoạch về an toàn thực phẩm. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn
32
bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Xây dựng hệ thống các tiêu
chuẩn về an toàn thực phẩm, xây dựng và thực hiện các kế hoạch về phòng
ng a ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây qua đường thực phẩm. Xây dựng và
quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thực nghiệm thực phẩm. Cấp giấy chứng nhận
đủ điều kiện an toàn thực phẩm cho các cho các cơ sở sản xuất kinh doanh
thực phẩm. Đào tạo bồi dưỡng kiến thức về an toàn thực phẩm, tổ chức tuyên
truyền, giáo dục các đối tượng trong xã hội về vấn đề an toàn thực phẩm. Tiến
hành thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm.
1.2.4. Các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
1.2.4.1. Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm
Đây là quá trình các cơ quan nhà nước, tuỳ theo thẩm quyền của mình
ban hành các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm nhằm làm rõ nội dung các quy định pháp luật và cách thức thực hiện
trong thực tiễn. Các văn bản quy định chi tiết không chỉ là công cụ để hiện
thực hóa việc đưa pháp luật vào đời sống mà còn là cơ sở để cơ quan Nhà
nước tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà
nước về ATTP được nhân dân giao phó. Chất lượng của hệ thống văn bản
pháp luật ATTP có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý của Nhà nước. Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều kiện thực tế ở Việt Nam, với
những văn bản Luật mang tính chất khung. Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành Luật thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan Nhà nước
khác nhau, trong đó có Chính phủ, các Bộ, ngành và đặc biệt phải kể đến
chính quyền địa phương.
Giai đoạn 2013-2017 đánh dấu sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ đối
với công tác bảo đảm ATTP. Nhiều văn bản mang tính chiến lược đã được
33
ban hành để chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ các giải
pháp bảo đảm ATTP.
Đối với công tác ATTP tại địa phương, Chính phủ nhiệm kỳ mới đã
ban hành Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 13 tháng 5 năm 2016 về việc tăng cường
trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và chỉ đạo quyết liệt việc
kiện toàn Ban Chỉ đạo liên ngành về VSATTP các cấp với Chủ tịch UBND
làm trưởng ban nhằm nhấn mạnh vai trò và quy định trách nhiệm của người
đứng đầu địa phương nếu không kiểm soát được an toàn thực phẩm. Nhờ đó,
công tác ATTP ở địa phương đã chuyển biến rõ rệt.
Nhận thấy việc thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm là hết sức
cần thiết trong giai đoạn này, Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số
38/2015/QĐ-TTg thí điểm triển khai thanh tra chuyên ngành an toàn thực
phẩm tại quận, huyện, thị xã và phường, xã, thị trấn của thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh bước đầu đã thành công và sẽ mở rộng trong thời
gian tới.
Các bộ trong phạm vi quyền hạn của mình đã trình Chính phủ hoặc ban
hành các văn bản chỉ đạo tầm chiến lược như Chiến lược quốc gia an toàn
thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030. Trên cơ sở chiến lược, các
bộ đã xây dựng và ban hành các đề án như: Đề án đẩy mạnh hoạt động truyền
thông về ATTP giai đoạn đến 2015, Đề án nâng cao năng lực thanh tra
chuyên ngành ATTP, Đề án đào tạo nguồn nhân lực bảo đảm ATTP, Đề án
quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2030…
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định để quy định: Chi tiết
điều, khoản, điểm được giao trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên. Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP
ở địa phương.
34
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã ban hành quyết định đôn đốc chỉ
đạo tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn.
1.2.4.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm
Phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, là
cầu nối giữa hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật. Về mặt lý luận, hiệu
quả hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật là kết quả cụ thể đạt được trong
quá trình phổ biến giáo dục pháp luật tác động vào các đối tượng nhằm đạt
được các mục đích và yêu cầu đặt ra. Mục đích phổ biến giáo dục pháp luật là
nâng cao nhận thức, ý thức và hành động chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân.
Nội dung phổ biến giáo dục pháp luật là những quy định pháp luật
cần được truyền đạt đến đối tượng cần phổ biến, ở ba cấp độ: Nội dung
pháp luật cơ bản cho mọi công dân, nội dung pháp luật chuyên ngành cho
t ng đối tượng và nội dung pháp luật chuyên sâu cho những người làm
công tác tư pháp.
Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm là việc các cơ quan nhà
nước (mà phần lớn là cơ quan hành chính nhà nước) tiến hành các hoạt động
nhằm đảm bảo quyền tiếp cận các thông tin pháp luật về an toàn thực phẩm
một cách dễ dàng, thuận lợi nhất, như đăng thông tin trên các trang thông tin
điện tử; trang bị tủ sách pháp luật,… giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt
pháp luật kịp thời, tạo lập niềm tin vào pháp luật an toàn thực phẩm của mỗi
người và cả cộng đồng. Đó chính là phương thức hỗ trợ tích cực để nâng cao
hiểu biết pháp luật an toàn thực phẩm cho nhân dân. Đây là hoạt động rất
quan trọng quyết định hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Việc nâng cao kiến thức và thực hành về ATTP cho các đối tượng được
các Bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh với nhiều hình thức đa dang, phong
35
phú. Các hoạt động tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện thông tin đại
chúng được đã được triển khai đồng bộ, bài bản, đặc biệt tập trung vào dịp
Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì an toàn thực phẩm và Tết Trung thu
theo hướng dẫn của Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về VSATTP nhằm
nâng cao vai trò của UBND các cấp, vai trò quản lý của các cơ quan chức
năng, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn
uống, trách nhiệm của cộng đồng trong công tác bảo đảm ATTP.
Tháng hành động về ATTP được duy trì và tổ chức hàng năm đã báo
động và thức tỉnh cho toàn xã hội về những nguy cơ ATTP và nhờ đó đã huy
động toàn xã hội tham gia vào các chiến dịch tuyên truyền và thanh, kiểm tra
ATTP t trung ương đến địa phương.
Để nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác ATTP t Trung ương
đến cơ sở, các bộ ngành thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo chứng chỉ, các
lớp tập huấn về ATTP. Cùng với đó, việc nâng cao nhận thức cho người tiêu
dùng và toàn xã hội nói chung qua các hình thức như nói chuyện, hội thảo, tọa
đàm, phát thanh, truyền hình, báo chí, các cuộc thi, các sản phẩm truyền
thông như tờ gấp, poster, các băng đĩa hình… cũng được chú ý phát triển.
Bên cạnh đó, trên trang điện tử Bộ Y tế (Cục An toàn thực phẩm) đã
đăng tải 3.605 tin, bài có nội dung phản ánh thông tin, bài tuyên truyền phổ
biến kiến thức đến người dân trong vấn đề đảm bảo ATTP; đăng tải kịp thời
các thông tin chỉ đạo địa phương trong quản lý ATTP, phòng ng a ngộ độc
thực phẩm. Ngoài ra Fanpage và Facebook của Cục cũng đăng tải thường
xuyên các tin tức, sự kiện liên quan đến hoạt động quản lý ATTP.
1.2.4.3. Vận dụng pháp luật an toàn thực phẩm trong thực tế
Đây là quá trình các cơ quan Nhà nước, tuỳ theo thẩm quyền của mình
thực hiện các hoạt động nhằm làm rõ nội dung các quy định pháp luật và cách
thức thực hiện trong thực tiễn. Các văn bản quy định chi tiết không chỉ là
36
công cụ để hiện thực hóa việc đưa pháp luật vào đời sống mà còn là cơ sở để
cơ quan Nhà nước tổ chức các hoạt động nhằm thực hiện chức năng, nhiệm
vụ đại diện và quản lý an toàn thực phẩm được nhân dân giao phó. Chất lượng
của hệ thống văn bản pháp luật an toàn thực phẩm có ảnh hưởng lớn đến công
tác đại diện, quản lý của Nhà nước cũng như những hoạt động có liên quan
đến loại tài sản đặc biệt này. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
điều kiện thực tế ở Việt Nam, với những văn bản Luật mang tính chất khung.
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật thuộc thẩm
quyền của nhiều cơ quan Nhà nước khác nhau, trong đó có Chính phủ, các
Bộ, ngành và đặc biệt phải kể đến chính quyền địa phương.
1.2.4.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an toàn thực phẩm
Công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật an toàn thực phẩm
là một việc không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động thực hiện pháp luật
được triển khai tốt trên thực tế. Đa số các chủ thể hiện nay chưa có ý thức tự
chấp hành các quy định của pháp luật do đó cần có chế tài nghiêm minh để
tạo ra tính răn đe đối với các chủ thể của quan hệ pháp luật an toàn thực
phẩm. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp phát hiện kịp thời các sai phạm và
xử lý nghiêm minh tạo sức mạnh răn đe đối với các chủ thể khác của quan hệ
pháp luật an toàn thực phẩm.
1.3. Các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
1.3.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm
Tổ chức thực hiện pháp luật ATTP có phạm vi rộng, mang tính đặc thù,
đòi hỏi phải có một bộ máy chuyên sâu mang tính chuyên nghiệp làm công
tác này. Bộ máy và cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý, chặt chẽ sẽ là tiền
đề cho sự thành công của việc triển khai thực hiện nhiệm vụ. Do vậy, hiệu
quả của tổ chức thực hiện pháp luật ATTP phụ thuộc rất lớn vào cách thức tổ
37
chức bộ máy tại Chính phủ, chính quyền đô thị và cơ quan chuyên môn các
cấp. Đó chính là sự sắp xếp, bố trí phòng ban và nhân sự của phòng ban đó
đảm bảo môi trường làm việc thật sự nghiêm túc, có tính chuyên nghiệp cao,
nhưng phải mang tính sáng tạo, năng lực tổ chức thực hiện công việc cao. Bên
cạnh đó, yếu tố con người là yếu tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác
tổ chức thực hiện pháp luật ATTP. Các nguồn lực khác dù tốt bao nhiêu,
nhưng nếu không chú trọng, quan tâm đầu tư cho con người thì kết quả triển
khai công tác này sẽ bị ảnh hưởng. Do vậy, việc xây dựng bộ máy tổ chức
làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật ATTP đủ về số lượng, đảm bảo chất
lượng và tính chuyên nghiệp trong thực thi nhiệm vụ thì mới đáp ứng yêu cầu
đặt ra, thu được kết quả cao nhất. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật ATTP
đòi hỏi những người làm công tác này phải có trình độ về ngành luật, kinh
nghiệm, am hiểu sâu về lĩnh vực thi hành pháp luật.
Thiết nghĩ, nếu tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm không khoa học sẽ tác động tiêu
cực dẫn đến hoạt động quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm không đạt
hiệu quả. Cần có sự chủ động của các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm và sự vào cuộc một cách đồng bộ của
các cấp, các ngành. Trong đó, cần nâng cao chất lượng tham mưu cho UBND
ban hành văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực an toàn thực phẩm trên địa
bàn, bảo đảm văn bản ban hành được kiểm tra, theo dõi đầy đủ và phát huy
tính hiệu lực của văn bản; tham mưu cho UBND ban hành quy chế phối hợp
trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm nhằm tránh được sự chồng chéo
trong hoạt động; đẩy mạnh sự phối hợp liên ngành trong công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thực thi các quy định về an toàn thực phẩm, kịp thời
phát hiện, xử lý, ngăn chặn các hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm. Tăng
cường tổ chức thanh tra công vụ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với
38
những cán bộ, công chức nhũng nhiễu, tiêu cực trong thực thi nhiệm vụ, góp
phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của người dân và nâng cao công tác quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm.
1.3.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm
Đây là yếu tố hàng đầu tác động đến và quyết định hiệu quả của công
tác tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Muốn công tác này thực
hiện tốt trong thực tế thì phải có nguồn tài chính, trang thiết bị, phương tiện,
cơ sở vật chất,... đầy đủ hỗ trợ cho mọi công đoạn quản lý. T khâu ban hành
các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện pháp luật về ATTP, hoạt
động thanh tra, kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm hay xử lý các vi phạm.
Nếu không có nguồn tài chính, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ
thuật công nghệ,... đầy đủ hỗ trợ để thực hiện thì không một hoạt động nào có
thể vận hành tốt được.
- Yếu tố kỹ thuật công nghệ: Trong bối cảnh hiện nay khi mà các mặt
hàng tiêu dùng ngày càng trở nên đa dạng và phong phú, tràn ngập khắp thị
trường với các chiêu trò làm hàng giả, mẫu mã đẹp, bắt mắt không thua kém
gì hàng thật. Nếu không có yếu tố kỹ thuật, công nghệ, không có máy móc
trang thiết bị hiện đại để kiểm nghiệm, đo đạc thì khó có thể phát hiện ra được
các hành vi sai phạm hoặc làm hàng giả, hàng không đảm bảo chất lượng
hoặc thực phẩm tồn dư hóa chất.
- Yếu tố tài chính, kinh phí thực hiện: Muốn công tác này thực hiện tốt
trong thực tế thì phải có nguồn kinh phí thực hiện, phải có tài chính và cơ sở
vật chất đầy đủ hỗ trợ cho mọi công đoạn quản lý. T khâu ban hành pháp
luật đến triển khai pháp luật an toàn thực phẩm vào đời sống, hay hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm hay xử lý các vi phạm. Nếu
không có nguồn kinh phí để thực hiện thì không một hoạt động nào có thể vận
39
hành tốt được. Theo đó, tài chính được đảm bảo t ngân sách Nhà nước các
cấp và có thể t các nguồn ngoài ngân sách như nguồn hỗ trợ, tài trợ của các
tổ chức, cá nhân. Kinh phí được ngân sách bố trí hàng năm nhiều hay ít (đủ
hay thiếu) sẽ ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện pháp luật ATTP.
1.3.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm
Sự tồn tại dai dẳng của văn hóa pháp luật do các chế độ cũ để lại có ảnh
hưởng nhất định tới việc tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Một
số người có quan niệm sai lầm cho rằng pháp luật chỉ chủ yếu là công cụ
tr ng phạt, do thiếu hiểu biết họ có tâm lý sợ hãi pháp luật. Tâm lý lo sợ đó
khiến cho hành vi của con người thiếu ổn định do đó khó có thể dẫn đến hành
vi xử sự tích cực trước pháp luật và đối với pháp luật.
Tình trạng thờ ơ đối với pháp luật hoặc coi thường pháp luật an toàn
thực phẩm ở một số người tác động tiêu cực đến việc tổ chức thực hiện pháp
luật của những người khác. Vẫn còn tồn tại tình trạng không tuân thủ pháp
luật, thờ ơ coi thường pháp luật, điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến việc
thực hiện pháp luật mà còn có tác động không nhỏ tới xã hội cộng đồng.
Ý thức, niềm tin đối với pháp luật an toàn thực phẩm của mỗi công dân có
ảnh hưởng quan trọng tới việc tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm.
Bởi lẽ nếu thiếu sự tin tưởng vào pháp luật, không có niềm tin vững chắc vào
tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật… thì việc tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm cũng không thể tốt và chặt chẽ được.
Chủ thể của quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm là cơ quan nhà nước
hoặc cá nhân có thẩm quyền, là người sản xuất kinh doanh thực phẩm và
người tiêu dùng. Một quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm sẽ ra sao là do ý
thức và hành động của các chủ thể của quan hệ pháp luật đó xác lập nên. Nếu
các chủ thể có hiểu biết pháp luật sâu rộng, ý thức chấp hành pháp luật tốt, thì
40
quan hệ pháp luật đó sẽ ít xảy ra xung đột tranh chấp và ngược lại. Đồng thời
trong quá trình sản xuất, kinh doanh buôn bán thực phẩm, người sản xuất và
kinh doanh có đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tuân thủ và chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật an toàn thực phẩm thì người tiêu dùng mới có cơ hội sử dụng
sản phẩm thực phẩm sạch và an toàn. Tuy nhiên thực tế những năm qua và
nhất là gần đây cho thấy, ý thức pháp luật, đạo đức của người sản xuất và
kinh doanh mua bán thực phẩm còn rất kém. Họ bất chấp tất cả, sự răn đe của
pháp luật, các chế tài, sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng,
thể chất của thế hệ tương lai. Vì lợi nhuận họ có thể “đầu độc” nhân loại,
khuất mắt bỏ qua mọi ranh giới an toàn chỉ để thu về lợi nhuận kinh tế cho
chính mình.
41
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, những vấn đề lý luận của pháp luật về an toàn thực
phẩm, luận văn đã tập trung làm rõ:
- Một số khái niệm cơ bản của pháp luật về an toàn thực phẩm như: khái
niệm an toàn thực phẩm, pháp luật về an toàn thực phẩm, thực hiện pháp luật
về an toàn thực phẩm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm.
- Những nội dung cơ bản của pháp luật về an toàn thực phẩm; phân tích
một số điểm mới trong Luật an toàn thực phẩm so với Pháp lệnh vệ sinh an
toàn thực phẩm trước đây.
- Luận văn cũng đã tập trung phân tích nội dung tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm, gồm: Tổ chức thực hiện quy định pháp luật về quyền,
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong an toàn thực phẩm; về điều kiện bảo
đảm an toàn đối với thực phẩm và trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; về
kiểm nghiệm thực phẩm, phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm phòng
ng a, ngăn chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm; Thực hiện quy
định pháp luật về quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Phân tích các giai đoạn tổ chức thực hiện pháp luật ATTP: Phổ biến,
giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm; Xây dựng, ban hành văn bản hướng
dẫn tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm; Vận dụng pháp luật an
toàn thực phẩm trong thực tế; Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an
toàn thực phẩm
Phân tích các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP: Tổ
chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm; Nguồn lực vật chất; Sự tham gia của các bên liên quan.
- Xuất phát t vai trò quan trọng của pháp luật về an toàn thực phẩm, tác
giả đã tập trung phân tích, làm rõ sự cần thiết của pháp luật về an toàn thực
42
phẩm cũng như vai trò của pháp luật về an toàn thực phẩm trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay.
Với những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về an toàn thực phẩm và
thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm được trình bày ở chương 1, là cơ sở
cho việc phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật luật về an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi ở chương 2.
43
Chương 2:
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT AN TOÀN
THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HÀNH,
TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
2.1.1. Xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm của chính quyền tỉnh Quảng Ngãi và huyện Nghĩa Hành
Tuyến tỉnh
- Hàng năm, UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Kế hoạch đảm bảo
ATTP trên địa bàn; Kế hoạch thanh, kiểm tra kiểm tra các dịp cao điểm trong
năm: Tết Nguyên đán, Tháng hành động, Tết trung thu; Kiện toàn Ban chỉ đạo
liên ngành về ATTP; Kế hoạch triển khai tháng hành động ATTP
- Trên cơ sở Luật ATTP và các văn bản hướng dẫn của cấp ban hành:
+ Quyết định 43/2015/QĐ-UBND ngày 24/8/2015 phân công nhiệm vụ
quản lý nhà nước an toàn thực phẩm Quảng Ngãi. Phân công trách nhiệm của
các Sở Y tế, Sở Công Thương, Sở NN&PTNT và trách nhiệm của UBND cấp
huyện, xã trong công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
+ Quyết định 376/QĐ-UBND ngày 25/11/2015 về việc phân cấp quản
lý nhà nước về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm theo quy định tại Thông tư số 58/2014/TT-BCT ngày 22/12/2014 của
Bộ Công Thương trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
+ Quyết định 1449/QĐ-UBND ngày 11/08/2016 Ban hành Kế hoạch
hành động Năm cao điểm vệ sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Tuyến huyện
44
Trên cơ sở phân định thẩm quyền của UBND tỉnh, UBND huyện đã cụ
thể hóa.
- Hàng năm, UBND huyện ban hành Kế hoạch đảm bảo ATTP trên địa
bàn; Kế hoạch thanh, kiểm tra kiểm tra các đợt cao điểm trong năm: Tết
Nguyên đán, Tháng hành động, Tết trung thu; Kiện toàn Ban chỉ đạo liên
ngành về ATTP; Kế hoạch triển khai tháng hành động ATTP.
- UBND huyện ban hành Quyết định 03/2016/QĐ-UBND ngày
10/6/2016 ban hành Quy định phân công nhiệm vụ quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành. Đã cụ thể hóa việc thực hiện
quản lý nhà nước về ATTP cho các phòng chuyên môn thuộc UBND huyện
cụ thể như sau:
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành NN&PTNT quản lý: Giao Phòng
NN&PTNT có trách nhiệm phối hợp với Sở NN&PTNT tỉnh và các đơn vị
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ATTP thuộc Sở NN&PTNT tỉnh,
quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, vật tư nông nghiệp và thực phẩm
nông lâm thủy sản đóng trên địa bàn huyện.
Phòng NN&PTNT đang triển khai thực hiện Công văn số 669/UBND
ngày 16/6/2016 của UBND huyện về việc rà soát, thống kê các loại hình cơ
sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ theo Thông tư số 51/TTBNNPTNT ngày
27/12/2014 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; tổ chức tập huấn,
hướng dẫn điều kiện đảm bảo ATTP đối với t ng loại hình cơ sở sản xuất ban
đầu nhỏ lẻ, thực hiện ký cam kết với t ng cơ sở. Triển khai ký cam kết sản
xuất thực phẩm an toàn và tổ chức kiểm tra việc thực hiện nội dung đã cam
kết của các cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ trong năm 2017.
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành y tế quản lý: Ngày 15/7/2015
UBND huyện ban hành Công văn số 597/UBND giao Phòng Y tế quản lý các
cơ sở kinh doanh ăn uống, bếp ăn tập thể có quy mô suất ăn nhỏ, v a t 50-
45
200 suất ăn/lần phục vụ; ký cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm đối với các
bếp ăn tập thể tại các trường học có suất ăn phục vụ dưới 200 suất/lần phục vụ
và xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm cho chủ cơ sở, người trực tiếp chế
biến và kinh doanh thực phẩm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống.
+ Đối với lĩnh vực ATTP do ngành công thương quản lý: do các văn
bản phân cấp, hướng dẫn triển khai thực hiện của Trung ương chậm ban hành
nên một số lĩnh vực đến cuối năm 2016, đầu năm 2017 UBND tỉnh mới phân
cấp về cho UBND cấp huyện.
- UBND huyện ban hành Công văn số 1240/UBND ngày
15/12/2017 về giao công chức Văn hóa – Xã hội thực hiện nhiệm vụ quản
lý nhà nước ở cấp xã
2.1.2. Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Sau khi Luật ATTP được ban hành, Phòng Y tế phối hợp với phòng Tư
pháp tham mưu cho UBND huyện Nghĩa Hành tổ chức hội nghị phổ biến,
quán triệt các nội dung cơ bản của Luật ATTP đến: Thủ trưởng các cơ quan,
ban, ngành, mặt trận, đoàn thể huyện; Thành viên Hội đồng phối hợp công tác
phổ biến giáo dục pháp luật huyện; Báo cáo viên pháp luật huyện; Chủ tịch
(hoặc Phó Chủ tịch) HĐND, UBND, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam 12
xã, thị trấn; Trưởng (hoặc Phó) các đoàn thể: Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ
nữ, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên; chủ tịch Công đoàn cơ sở, Công chức Tư
pháp - Hộ tịch của 12 xã, thị trấn; Trưởng Thôn, tổ dân phố của 12 xã, thị
trấn; đồng thời in phát đề cương tuyên truyền Luật ATTP, đẩy mạnh các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Luật ATTP đến các tầng lớp nhân dân
trên địa bàn.
Xác định vai trò quan trọng của công tác đảm bảo ATTP, hằng năm
huyện Nghĩa Hành đều tổ chức triển khai phổ biến các văn bản quy phạm
46
pháp luật trong lĩnh vực an toàn thực phẩm tới các ban, ngành, đoàn thể của
huyện, xã, thị trấn, các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên
địa bàn huyện, đồng thời tổ chức các đợt tuyên truyền cao điểm truyền thông
về an toàn thực phẩm vào các dịp Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì an
toàn thực phẩm, Tết trung thu và các lễ hội được tổ chức trên địa bàn. Tăng
cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm hướng dẫn
nhân dân lựa chọn và sử dụng thực phẩm đảm bảo chất lượng ATTP, góp
phần bảo vệ sức khỏe, quyền lợi người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu phát triển
và hội nhập trong thời kỳ mới.
Công tác truyền thông về ATTP đã được quan tâm thường xuyên, đa
dạng hóa hình thức tuyên truyền như qua Đài truyền thanh huyện, hệ thống
phát thanh của các xã, thị trấn, treo băng rôn, phát tờ rơi, áp phích, đĩa hình,
đĩa tiếng; nói chuyện chuyên đề về ATTP, Hội nghị, hội thảo, họp ban chỉ
đạo, họp các đoàn thể và cộng đồng dân cư,...chú trọng tuyên truyền có trọng
tâm, trọng điểm trên các phương tiện thông tin đại chúng về Luật An toàn
thực phẩm và các văn bản hướng dẫn thực hiện, các kiến thức về ATTP đối
với các nhóm đối tượng.
Bên cạnh đó, các phòng, ban, ngành, đoàn thể huyện đều lồng ghép nội
dung tuyên truyền thực hiện các quy định của pháp luật về ATTP cho cán bộ,
đoàn viên, hội viên trong các hoạt động chuyên môn nhằm phòng ng a ngộ
độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; tổ chức tập huấn kiến thức cho
cán bộ làm công tác ATTP t huyện đến xã, thị trấn, các chủ cơ sở và người
sản xuất, kinh doanh, chế biến thực phẩm, cộng đồng... Đặc biệt, đã phát huy
vai trò của người tiêu dùng trong việc giám sát chất lượng thực phẩm, cung
cấp thông tin về thực phẩm không đảm bảo ATTP để góp phần phát hiện,
ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về ATTP, ảnh hưởng đến sức
47
khỏe của nhân dân trên địa bàn; triển khai thực hiện mô hình “Xây dựng gia
đình 5 không, 3 sạch”, “3 không”. Ngoài ra, các cấp Hội Phụ nữ đã xây dựng
các mô hình “Trồng rau sạch”, “Bếp ăn sạch”, “Phụ nữ hãy nói không với sử
dụng túi ni lông”…và các mô hình điểm về nuôi trồng, sản xuất thực phẩm an
toàn, hạn chế sử dụng hóa chất trong trồng trọt, chăn nuôi.
T năm 2013 đến năm 6/2018, huyện đã tổ chức nhiều chiến dịch
truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, cụ thể: hằng năm tổ
chức lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm với hơn 5.000 lượt
người tham dự; tổ chức phát thanh trên Đài truyền thanh huyện và Đài phát
thanh xã, thị trấn với 5.525 lần tin bài, 32 phóng sự, 102 bài viết về công tác
đảm bảo ATTP.[49][50][51][52][53][54]
Công tác tuyên truyền bằng hình ảnh trực quan được triển khai sâu
rộng, tổ chức treo 370 băng rôn trong Tháng hành động vì ATTP, chuyển phát
tài liệu hỏi đáp về Luật an toàn phẩm, Chiến lược quốc gia về an toàn thực
phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030, hướng dẫn đảm bảo an toàn
thực phẩm đối với các cơ sở dịch vụ ăn uống; cấp, phát 4.378 tờ áp phích,
8.785 tờ rơi, 170 băng đĩa tuyên truyền về ATTP.[49][50][51][52][53][54]
Cùng với chiến dịch truyền thông trên các phương tiện thông tin đại
chúng, công tác tập huấn, nói chuyện, truyền thông trực tiếp về các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo ATTP cũng được đẩy mạnh. T năm
2013 – 6/2018, huyện đã thực hiện 502 buổi nói chuyện, 58 hội thảo, hội nghị
với hơn 50.000 người tham gia. [49][50][51][52][53][54]
Qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ATTP đã t ng
bước nâng cao nhận thức của người dân về ATTP, về tầm quan trọng của
công tác bảo đảm ATTP, giúp cho người tiêu dùng hiểu biết về quyền lợi của
mình và tác hại của việc sử dụng thực phẩm không an toàn. Tuy nhiên công
48
tác này vẫn chưa được thực hiện thường xuyên, chỉ tập trung vào những tháng
cao điểm trong năm; nội dung tuyên truyền chưa phong phú; trách nhiệm của
một số địa phương, cơ quan, đơn vị trong tuyên truyền còn hạn chế nên nhận
thức của người dân về ATTP vẫn chưa cao.
2.1.3. Vận dụng pháp luật an toàn thực phẩm trong thực tế trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Huyện Nghĩa Hành triển khai đầy đủ các hoạt động ATTP theo phân
cấp quản lý, bao gồm: Thẩm định, cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện
ATTP, Giấy xác nhận kiến thức về ATTP; Tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành
về ATTP; triển khai kiểm tra chuyên đề về dịch vụ ăn uống, bếp ăn tập thể...;
thực hiện xử lý hành chính (phạt tiền hoặc phạt cảnh cáo) đối với các cơ sở
thực phẩm có vi phạm; thực hiện các biện pháp phạt bổ sung và khắc phục
hậu quả như: tiêu hủy thực phẩm, đình chỉ lưu thông thực phẩm, khắc phục
nhãn thực phẩm không đúng quy định...; lấy mẫu thực phẩm gửi labo kiểm
nghiệm chất lượng; thực hiện test kiểm tra nhanh thực phẩm. Công tác giám
sát phòng chống ngộ độc thực phẩm trên địa bàn huyện cũng được triển khai
thường xuyên, gồm các hoạt động: Tổ chức kiểm tra định kỳ về điều kiện
ATTP tại các cơ sở kinh doanh ăn uống và bếp ăn tập thể; Lấy mẫu ngẫu
nhiên đối với thức ăn chín để phát hiện các mối nguy về ATTP; Kiểm tra,
giám sát ATTP tại các cơ sở kinh doanh ăn uống nhằm mục đích phục vụ Lễ
hội, hội nghị, hội thao…; Tổ chức điều tra tại thực địa khi có vụ ngộ độc thực
phẩm xảy ra. Kết quả trên các lĩnh vực cụ thể như sau:
- Công tác quản lý an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, vận
chuyển, bảo quản thực phẩm tươi sống:
+ Trong sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản rau, củ, quả tươi
và sơ chế:
49
Thực trạng trên địa bàn huyện chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ,
cơ sơ sản xuất rau, củ, quả tươi số lượng cơ sở nhiều nhưng sản lượng trồng
ít, chủ yếu là cung cấp cho tiểu thương ở các chợ nhỏ trên địa bàn.
Việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện về ATTP là của Chi cục
quản lý chất lượng nông lâm thủy sản tỉnh, nên phòng NN&PTNT chỉ cấp
cam kết đảm bảo ATTP cho các cơ sở nhỏ lẻ trên địa bàn huyện.
Ngoài một số cơ sở sản xuất rau, củ, quả theo quy trình ViệtGap đã
được kiểm tra chất lượng nguồn nước, điều kiện đất canh tác, công tác sơ chế,
chế biến, vận chuyển đến nơi tiêu thụ tương đối đảm bảo quy trình kỹ thuật;
công tác quản lý ATTP tại các cơ sở này tương đối thuận lợi, được cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất, sơ chế rau an toàn,
được kiểm tra, giám sát thường xuyên. Những cơ sở khác, thật sự chưa có
điều kiện để kiểm tra chất lượng đất, nước và sản phẩm thường xuyên do
nguồn lực còn thiếu.
Tuy nhiên hàng năm, phòng NN&PTNT phối hợp với các cơ quan chức
năng của Sở NN&PTNT được giao nhiệm vụ đã tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra quy trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại các vùng sản xuất sơ
chế rau trên địa bàn huyện. Hầu hết các hộ dân tại các vùng sản xuất rau đều
được tấp huấn kỹ thuật phòng tr dịch hại tổng hợp, sản xuất rau theo quy
trình ViệtGap nên việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học trên rau rất hạn
chế, chủ yếu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học.
+ Trong chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển, bày bán, kiểm dịch động vật,
kiểm tra vệ sinh thú y đối với động vật và sản phẩm động vật:
Tỉnh Quảng Ngãi đã phê duyệt Đề án quy hoạch cơ sở giết mổ động vật
tập trung và đã xây dựng cơ sở giết mổ động vật tập trung được đầu tư về cơ
sở vật chất, trang thiết bị và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng nên việc
đảm bảo ATTP, vệ sinh thú y và bảo vệ môi trường khá tốt nhưng các cơ sở
50
giết mổ không vào khu tập trung này mà vẫn giữ phương thức giết mổ cũ làm
cho công tác quản lý gặp nhiều khó khăn.
Trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, qua các cuộc thanh, kiểm tra việc sử
gia cầm: kiểm tra nguồn nước, hóa chất, thuốc thú y, kiểm soát dịch bệnh, vệ
sinh thú y, an toàn sinh học bảo đảm vệ sinh môi trường khu vực chăn nuôi,
giết mổ, kinh doanh sản phẩm gia súc, gia cầm chưa phát hiện sự cố lớn xảy
ra, nhìn chung tương đối đảm bảo các quy định của pháp luật. Hầu hết các
trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm trên địa bàn trong quá trình kiểm tra
không phát hiện sử dụng chất tăng trọng.
Phần lớn các cơ sở giết mổ trên địa bàn huyện là cơ sở nhỏ lẻ tự phát,
không đăng ký kinh doanh, có điều kiện cơ sở vật chất không đảm bảo điều
kiện về vệ sinh thú y, ATTP, không có hệ thống thu gom, xử lý chất thải và
nước thải gây ô nhiễm. Việc vận chuyển gia súc, gia cầm và sản phẩm gia
súc, gia cầm bằng các phương tiện phương tiện thô sơ, thịt tiếp xúc trực tiếp
với môi trường bên ngoài, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm, mất vệ sinh ATTP.
Một số được vận chuyển bằng xe ô tô có thùng kín nhưng không bảo quản
lạnh. Các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm nhỏ lẻ chủ yếu hoạt động vào lúc
rạng sáng nên việc kiểm soát còn rất nhiều khó khăn.
Hiện nay có khoảng 14/23 chợ đã quy hoạch khu vực bán thịt gia súc,
gia cầm trong chợ (chiếm 60,9%); 09 chợ chưa triển khai quy hoạch khu vực
riêng, thịt gia súc gia cầm thường được bán tươi ngoài chợ, sản phẩm được
bày bán trên mặt bàn gỗ hoặc bàn ốp đá không có bảo quản trong điều kiện
lạnh.
- Quản lý ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm:
Trên địa bàn huyện hiện có 750 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm,
trong đó cấp huyện quản lý 150 cơ sở (dịch vụ ăn uống 60 cơ sở, sản xuất,
kinh doanh 90 cơ sở), trong đó phòng Y tế quản lý: 74 cơ sở; phòng KT&HT
51
quản lý: 50 cơ sở, phòng NN&PTNT quản lý: 26 cơ sở. Cấp xã quản lý 600
cơ sở (dịch vụ ăn uống 356 sơ sở, sản xuất, kinh doanh 244 cơ sở). [54]
* Việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện ATTP cho các cơ sở chế
biến, kinh doanh thực phẩm được thực hiện theo hướng dẫn và quy định
của t ng ngành.
Trong giai đoạn 2013 - 6/2018, số cơ sở đã được cấp Giấy chứng nhận
cơ sở đủ điều kiện ATTP 102 cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm trong
tổng số 150 cơ sở thuộc đối tượng thuộc huyện quản lý đạt tỷ lệ
68%.[49][50][51][52][53][54]
- Phòng Y tế đã tổ chức thẩm định các điều kiện đảm bảo ATTP và cấp
60/74 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP đạt tỷ lệ 81%. Đối với cơ sở
thuộc diện không phải cấp Giấy chứng nhận,có 294/356 cơ sở ký bản cam kết
chấp hành các điều kiện về ATTP đạt tỷ lệ 82,6%. Tổ chức 08 lớp tập huấn và
tổ chức thi, xác nhận kiến thức ATTP cho hơn 700 người, trong đó tổ chức 02
lớp tập huấn và xác nhận kiến thức ATTP cho những người trực tiếp kinh
doanh thức ăn đường phố. [49][50][51][52][53][54]
Qua đó đã làm thay đổi bộ mặt ATTP tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ
ăn uống; chủ cơ sở thực phẩm đã quan tâm hơn tới vấn đề an toàn thực phẩm,
điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, dụng cụ tại cơ sở được đầu tư, nâng
cấp, trang bị đảm bảo so với yêu cầu; nguồn gốc thực phẩm được các chủ cơ
sở chú trọng như đã quan tâm đến hợp đồng mua bán thực phẩm với các nơi
cung cấp thực phẩm uy tín, có chất lượng, lựa chọn thực phẩm an toàn về mặt
cảm quang để sử dụng, thực phẩm đóng chai, bao gói sẵn có nhãn mác phù
hợp và còn hạn sử dụng.
- Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện tổ chức 04 lớp tập huấn và tổ chức
thi, xác nhận kiến thức ATTP cho hơn 370 người, chưa tổ chức thẩm định các
52
điều kiện đảm bảo ATTP và cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP vì
nhân lực phòng chưa có chuyên môn ATTP. [49][50][51][52][53][54]
- Phòng NN&PTNT tổ chức kiểm tra thực tế và chốt danh sách cũng
như ký cam kết đảm bảo ATTP đối với cơ sở quản lý, không được phân cấp
để cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP. [49][50][51][52][53][54]
Việc quản lý các sản phẩm t rau, thịt, thủy sản, lương thực, sản xuất,
kinh doanh bia, rượu, nước giải khát, bánh, kẹo, kinh doanh thực phẩm tại các
chợ… do phòng NN&PTNT, Phòng Kinh tế và Hạ tầng quản lý; tuy nhiên do
chậm phân cấp cho tuyến huyện nên trong thời gian dài lĩnh vực này bỏ
ngõ, chỉ được các đoàn liên ngành của huyện tổ chức kiểm tra vào các
đợt cao điểm như dịp tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP và dịp
Tết Trung thu.
* Việc quản lý an toàn thực phẩm đối với các cơ sở thuộc diện không
phải cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm.
Đối với các cơ sở thuộc diện không phải cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ
điều kiện ATTP, các bộ đã có văn bản hướng dẫn để quản lý các đối tượng
này, theo đó chủ cơ sở phải cam kết bảo đảm ATTP với cơ quan quản lý có
thẩm quyền.
Đến nay đã có 472 cơ sở ký cam kết sản xuất, kinh doanh thực phẩm an
toàn. [49][50][51][52][53][54]
Theo cách quản lý này, nguy cơ không bảo đảm ATTP, NĐTP đối với
các cơ sở, đặc biệt là thức ăn đường phố là dễ xảy ra do không có hướng dẫn
cơ sở, tổ chức đánh giá, chứng nhận việc tuân thủ đầy đủ các quy định về điều
kiện ATTP (biện pháp tiền kiểm), trong khi biện pháp hậu kiểm chưa thực sự
có hiệu quả (do thiếu nguồn lực, nhận thức trách nhiệm và đầu tư của cơ sở
còn hạn chế trong việc tuân thủ các quy định về bảo đảm ATTP).
53
Việc quản lý các cơ sở thức ăn đường phố chưa được chú trọng, phần
lớn các vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn đều phát sinh t đây. Đối với
người kinh doanh, vì mưu sinh, vì lợi nhuận nên họ bất chấp nhập về những
loại thực phẩm kém chất lượng, ôi thiu, quá đát nhất là các xe đẩy hàng rong
bán trước cổng trường hay những loại thịt, rau, quả được nuôi lớn bằng chất
kích thích tăng trưởng, chất tạo nạc. Họ tiếp tục vào vai những người phù
thủy hóa phép để tất cả trở nên trắng sáng, xanh tươi và ngon ngọt bằng
những loại hóa chất rẻ tiền. Dụng cụ chứa thức ăn thì không đạt tiêu chuẩn,
thức ăn phần lớn không được che đậy, hay che đậy sơ sài, người bán hàng đều
dùng tay bàn tay trần bốc thức ăn rồi đếm tiền. Các địa điểm bày bán thức ăn
phần lớn được đặt ngay trên mặt đất, gần với cống rãnh, hố ga, nhà vệ sinh
công cộng, bệnh viện,… Quán ăn vỉa hè mọc lên kéo theo nhiều nguy cơ tiềm
ẩn, dịch tiêu chảy cấp, dịch tả, ngộ độc thực phẩm luôn chực chờ để bộc phát
bất cứ lúc nào. Nhiệm vụ này được giao cho chính quyền các xã, thị trấn tuy
nhiên do quản lý số lượng lớn cơ sở thức ăn đường phố, trong khi cán bộ phụ
trách chỉ có 01 người lại không có chuyên môn, nghiệp vụ, không có thiết bị
kiểm nghiệm, nên việc quản lý và xử lý các vấn đề đặt ra rất hạn chế, gần như
là bỏ ngỏ.
- Đối với các cơ sở chế biến, kinh doanh cơ sở dịch vụ ăn uống
Phòng Y tế có trách nhiệm quản lý trực tiếp đối với các cơ sở chế biến,
kinh doanh cơ sở dịch vụ ăn uống trên địa bàn.
Theo hướng dẫn của Thông tư 47/2014/TT-BYT ngày 11/12/2014 của
Bộ Y tế hướng dẫn quản lý ATTP đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống,
phòng Y tế cập nhật thông tin về số lượng các cơ sở tại địa phương để phục
vụ quản lý; thanh, kiểm tra ATTP; hướng dẫn xây dựng mô hình điểm bảo
đảm ATTP, phòng chống ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn ở các trường học,
cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại cộng đồng dân cư có nguy cơ cao
54
NĐTP; tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, hội thảo để nâng cao
nhận thức bảo đảm ATTP cho các đối tượng liên quan.
Trong giai đoạn 2013-6/2018, ngành y tế đã cấp 50 giấy chứng nhận cơ sở
đủ điều kiện ATTP trong tổng số 62 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống thuộc đối
tượng phải cấp giấy, chiếm 80%. Đối với cơ sở thuộc diện không phải cấp Giấy
chứng nhận, đã có 294/356 cơ sở thực hiện ký cam kết bảo đảm an toàn thực
phẩm với UBND cấp xã chiếm tỷ lệ 82,6%. [49][50][51][52][53][54]
- Đối với các chợ, các siêu thị
Trên địa bàn huyện đến hết tháng 6 năm 2018 có 23 chợ. Tại các chợ
kinh doanh thực phẩm còn những hạn chế như: Kiểm soát được nguồn hàng
t nơi sản xuất, đặc biệt đối với các mặt hàng thực phẩm tươi sống; Đa số các
chợ cơ sở hạ tầng còn yếu kém hay bị xuống cấp không đáp ứng điều kiện bảo
đảm an toàn thực phẩm về hạ tầng…
Siêu thị kinh doanh trong lĩnh vực thực phẩm đều đã được cấp Giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Hàng hóa thực phẩm được
kinh doanh tại siêu thị hầu hết đều có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được công
bố hợp quy hoặc chứng nhận bảo đảm an toàn thực phẩm của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền.
Việc kiểm tra chất lượng và ATTP nguồn hàng vào chợ đối với mặt
hàng thịt heo và thịt gia cầm do cơ quan thú y, còn lại các mặt hàng khác chưa
thực hiện kiểm tra được. Hầu hết cán bộ kiểm tra chuyên ngành được trang bị
các thiết bị kiểm tra nhanh (các kit, test,..) rất ít về số lượng test nên việc kiểm
tra chất lượng, ATTP tại các chợ còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ kiểm tra
chuyên ngành hạn chế về số lượng và chuyên môn chuyên ngành nên việc
kiểm soát kinh doanh thực phẩm tại các chợ còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Việc kiểm soát các nguy cơ gây mất ATTP
55
Công tác giám sát, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm thực phẩm đã được các
ngành tỉnh và huyện thiết lập, triển khai hàng năm để phục vụ cho công tác
quản lý ATTP.
Hoạt động tiếp nhận thông tin ô nhiễm thực phẩm đã được thường
xuyên cập nhật t các nguồn thông tin của Chính phủ, các Bộ về tỉnh và thông
tin t UBND tỉnh, Sở về huyện và nguồn t các hoạt động giám sát chủ động
thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, hậu kiểm và kế hoạch giám sát
chủ động hàng năm.
T các thông tin cảnh báo, giám sát mối nguy đã thực hiện cảnh báo
cho cộng đồng, góp phần quản lý nguy cơ như vụ sữa nhiễm melamin và
nhiều cảnh báo, xử lý có hiệu quả vấn đề thực phẩm qua biên giới có chứa
chất độc hại, sản xuất, kinh doanh trong nước vi phạm quy định ATTP.
Thông qua hoạt động kiểm nghiệm mẫu giám sát mối nguy gây ô
nhiễm thực phẩm hàng ngày và thanh tra, kiểm tra, Trung tâm Y tế huyện đều
có báo cáo đánh giá nguy cơ, trực tiếp xử lý và kiến nghị xử lý đối với các sản
phẩm thực phẩm và cơ sở thực phẩm gây mất an toàn. Tuy nhiên hoạt động
này chưa triển khai rộng và thường xuyên do kinh phí hạn hẹp. Ngoài ra,
giám sát nguy cơ dựa phần lớn vào test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm
thường không có giá trị trong việc xử lý vi phạm hành chính.
- Tình hình ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực phẩm, việc
khắc phục các sự cố về ATTP
Giai đoạn 2013 - 6/2018, toàn tỉnh Quảng Ngãi xảy ra 13 vụ ngộ độc
thực phẩm, trung bình 02 vụ/năm, làm 243 người mắc, 137 người nhập viện
điều trị và 0 người tử vong. Nguyên nhân do vi sinh vật có 13 vụ. Trong giai
đoạn này, địa bàn huyện Nghĩa Hành không xảy ra vụ độc thực
phẩm.[49][50][51][52][53][54]
56
100% vụ ngộ độc thực phẩm đều được tổ chức điều tra, xử lý theo quy
định của Bộ Y tế.
2.1.4. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật an toàn thực phẩm trên
địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Công tác thanh tra, kiểm tra tiếp tục được đẩy mạnh và triển khai đồng
bộ t tuyến tỉnh đến huyện, xã với chế tài xử phạt mạnh góp phần làm cho thị
trường thực phẩm an toàn hơn.
Công tác thanh, kiểm tra về ATTP hàng năm được thực hiện theo Kế
hoạch của Ban Chỉ đạo liên ngành tỉnh về ATTP. Xác định công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về ATTP là một trong những biện pháp
hữu hiệu nhất trong đảm bảo ATTP, do đó hàng năm UBND huyện đều ban
hành kế hoạch quản lý nhà nước về ATTP và kế hoạch, quyết định thành lập
các đoàn kiểm tra liên ngành kiểm tra bảo đảm ATTP vào các đợt cao điểm
Tết Nguyên đán, Tháng hành động vì ATTP, Tết Trung thu, các lễ hội, sự
kiện quan trọng diễn ra trên địa bàn.
Công tác kiểm tra về ATTP được thực hiện bằng hình thức thành lập
Đoàn kiểm tra liên ngành vào các đợt cao điểm về ATTP trong năm. Quá
trình kiểm tra có xử phạt cơ sở vi phạm bằng hình thức phạt chính (phạt tiền
hoặc phạt cảnh cáo), thực hiện các biện pháp phạt bổ sung và khắc phục hậu
quả như: tiêu hủy thực phẩm, đình chỉ lưu thông thực phẩm, khắc phục nhãn
thực phẩm không đúng quy định..; trong quá trình kiểm tra có thực hiện test
kiểm tra nhanh thực phẩm.
T năm 2013- 6/2018, huyện Nghĩa Hành đã tiến hành tổ chức được
255 đoàn thanh tra, kiểm tra, trong đó có 135 đoàn liên ngành, 149 đoàn
chuyên ngành. Tổ chức thanh tra, kiểm tra tại 4.720 lượt cơ sở sản xuất, kinh
doanh, chế biến thực phẩm, thực hiện gần 1.000 lượt test nhanh đối với thực
57
phẩm và lấy mẫu xét nghiệm. Qua thanh, kiểm tra, số cơ sở đạt 3.357 chiếm
tỷ lệ 71, 1%, số cơ sở vi phạm 1.155 chiếm tỷ lệ 24,5%. Trong 1.363 cơ sở vi
phạm thì nhắc nhở 810 cơ sở, cảnh cáo 140 cơ sở và xử phạt hành chính 137
cơ sở (chiếm tỷ lệ 10%) với tổng số tiền phạt 151.500.000 đồng; buộc tiêu
hủy hơn 1.824 kg hàng hóa, bánh kẹo không rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng.
[49][50][51][52][53][54]
Kết quả công tác thanh, kiểm tra hàng năm được thể hiện qua biểu đồ
sau:
Biểu đồ 1.2. Tình hình kiểm tra ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017
Qua thanh tra, kiểm tra, các đoàn liên ngành của huyện phần lớn là
nhắc nhở, hướng dẫn công tác bảo đảm VSATTP, các trường hợp vi phạm
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng thì tiến hành cảnh cáo và phạt hành chính, có
trường hợp đình chỉ hoạt động. Kết quả xử lý vi phạm pháp luật về ATTP giai
đoạn 2013-2017 trên địa bàn huyện được thể hiện qua biểu đồ sau:
58
Biểu đồ 2.2. Tình hình xử lý vi phạm ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành,
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2013-2017
Trong 1.363 cơ sở vi phạm thì nhắc nhở 810 cơ sở, cảnh cáo 140 cơ sở
và xử phạt hành chính 137 cơ sở (chiếm tỷ lệ 10%) với tổng số tiền phạt
151.500.000 đồng
Về xử lý vi phạm, trong số 1.363 cơ sở vi phạm, mới chỉ có 137 cơ sở
bị xử lý, chiếm 10%. Việc áp dụng các chế tài xử phạt đã được đẩy mạnh qua
các năm, cụ thể: tỉ lệ cơ sở bị phạt tiền (trước đây chỉ là cảnh cáo) tăng t
3,8% năm 2013 lên 24% trong 6 tháng đầu năm 2018; số tiền phạt trung bình
1 cơ sở tăng t 300.000 đồng (2013) lên 4 triệu đồng (2018). Kết quả xử phạt
này đã thể hiện tính răn đe cao đối với các cơ sở cố tình vi phạm các quy định
về ATTP.[49] [50][51][52][53][54]
Cùng với việc xử phạt hành chính, các đoàn liên ngành của huyện và xã
đã kiên quyết xử lý tiêu hủy đối với sản phẩm không đảm bảo ATTP đồng
thời lập Biên bản đình chỉ hoạt động các cơ sở không đủ điều kiện về ATTP.
Hầu hết các trường hợp vi phạm đã được thông báo công khai, kịp thời
trên các phương tiện thông tin đại chúng theo đúng quy định. Các nội dung vi
phạm chủ yếu được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra chủ yếu là vi
59
phạm về điều kiện vệ sinh cơ sở, vi phạm về trang thiết bị, dụng cụ, vi phạm
về con người, vi phạm về việc ghi nhãn, quảng cáo thực phẩm, thực phẩm
không đảm bảo chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ...
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, các đoàn đã tiến hành lấy mẫu kiểm
nghiệm. Kết quả kiểm nghiệm đã góp phần tích cực giúp huyện đưa ra các biện
pháp quản lý phù hợp đồng thời cảnh báo mối nguy và triển khai việc thanh tra
dựa trên nguy cơ đạt hiệu quả. Tuy nhiên, việc lấy mẫu kiểm nghiệm phục vụ
công tác thanh tra, kiểm tra vẫn còn một số tồn tại, bất cập khi kiểm tra test nhanh,
không có giá trị xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi công tác lấy mẫu gửi
labo kiểm nghiệm khi nghi ngờ sản phẩm thực phẩm không an toàn còn rất
hạn chế do không có nguồn kinh phí chi trả mẫu xét nghiệm.
Hoạt động thanh, kiểm tra chuyên đề về ATTP đối với dịch vụ ăn uống,
bếp ăn tập thể và thức ăn đường phố triển khai hạn chế do thiếu kinh phí tổ
chức Đoàn kiểm tra.
* Về xử lý hình sự: trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũng như huyện
Nghĩa Hành chưa xử lý hình sự về ATTP giai đoạn 2013-2017.
2.2. Thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm
2.2.1. Tổ chức bộ máy, nhân lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Hệ thống tổ chức quản lý ATTP tỉnh Quảng Ngãi bước đầu đã được
hình thành t tỉnh đến huyện, xã. Ngành Y tế có Chi cục ATVSTP, các Trung
tâm Y tế, các khoa ATTP, Phòng Y tế tuyến huyện; Ngành Nông nghiệp có
Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, phòng NN&PTNT
tuyến huyện; Ngành Công Thương có phòng Kỹ thuật an toàn- Môi trường,
Chi cục Quản lý thị trường trực thuộc Sở Công Thương, phòng Kinh tế và Hạ
tầng huyện.
60
UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về ATTP trong phạm vi địa
phương. Ban Chỉ đạo liên ngành về ATTP các cấp (được thành lập t tuyến
tỉnh tới tuyến xã và đang được kiện toàn theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ với Chủ tịch UBND là trưởng ban) có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp hoạt
động liên ngành tại địa phương.
- Tuyến huyện: UBND huyện Nghĩa Hành chịu trách nhiệm trước
UBND tỉnh Quảng Ngãi về ATTP trên phạm vi địa bàn huyện. Tham mưu
giúp UBND huyện Nghĩa Hành có các cơ quan chuyên môn: Phòng Y tế;
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Phòng Kinh tế và Hạ tầng.
+ Đối với Phòng Y tế huyện: Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ATTP: được phân bổ 02 biên chế, gồm 01 phó trưởng phòng, 01 kế toán. Phó
trưởng phòng hiện công tác chuyên môn quản lý nhà nước về ATTP.
Về trình độ chuyên môn: 01 điều dưỡng (đại học), 01 kế toán.
Hàng năm, Phòng Y tế tham mưu cho UBND huyện triển khai đầy đủ
các nhiệm vụ về ATTP, bao gồm: Kiện toàn Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP,
tổ chức họp Ban chỉ đạo; tổ chức hội nghị về ATTP; tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ về ATTP cho tuyến xã; tập huấn kiến thức hoặc phổ biến văn bản
mới về ATTP cho các cơ sở thực phẩm; triển khai công tác tuyên truyền về
ATTP; triển khai hoạt động kiểm tra về ATTP tại các cơ sở thực phẩm; triển
khai hoạt động giám sát ATTP phòng chống ngộ độc thực phẩm; báo cáo
thống kê đầy đủ và kịp thời; triển khai hoạt động cấp Giấy chứng nhận cơ sở
đủ điều kiện ATTP; hoạt động kiểm tra, cấp giấy xác nhận kiến thức về
ATTP; ký cam kết bảo đảm ATTP; triển khai hoạt động kiểm tra công tác
quản lý nhà nước về ATTP tại tuyến xã.
Ngoài ra, còn có Trung tâm Y tế dự phòng huyện được thành lập tháng
10/2007, đến cuối năm 2017 sáp nhập với Bệnh viện Đa khoa huyện thành
Trung tâm Y tế huyện Nghĩa Hành với tổng số cán bộ, nhân viên 125 người,
61
trong đó có khoa An toàn thực phẩm - Dinh dưỡng có 3 viên chức, thực hiện
nhiệm vụ chuyên trách về ATTP.
Khoa ATTP-DD tham mưu Trung tâm Y tế cụ thể hóa các chỉ đạo của
Sở Y tế, Chi cục ATVSTP tỉnh về ATTP xuống Trạm Y tế 12 xã, thị trấn;
tham mưu thành lập Đoàn kiểm tra chuyên ngành ATTP và trực tiếp tham gia
công tác kiểm tra ATTP 12 xã, thị trấn trên địa bàn huyện; thực hiện báo cáo
định kỳ hàng tháng, quý, năm trực tiếp cho Chi cục ATVSTP tỉnh.
+ Đối với phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện: Với tổng số 06 cán bộ,
nhân viên (biên chế 06/06), gồm 01 Trưởng phòng và 01 Phó trưởng phòng,
phân công 01 phó trưởng phòng và 01 chuyên viên phụ trách công tác bảo
đảm ATTP; chủ yếu tham gia phối hợp cùng các Đoàn kiểm tra liên ngành
huyện và chuyên ngành của Sở Công Thương tỉnh Quảng Ngãi.
+ Đối với phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện: Với tổng
số 06 cán bộ, nhân viên, trong đó có 05 biên chế và 01 hợp đồng, gồm 01
trưởng phòng và 01 phó trưởng phòng, phân công 01 phó trưởng phòng và 01
chuyên viên phụ trách công tác bảo đảm ATTP; chủ yếu tham gia phối hợp
cùng các Đoàn kiểm tra liên ngành huyện và chuyên ngành của Sở
NN&PTNT tỉnh Quảng Ngãi và Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và
Thủy sản thuộc Sở NN&PTNT kiểm tra quản lý ATTP trong sản xuất, kinh
doanh, vận chuyển, bảo quản thực phẩm tươi sống, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh vật tư nông nghiệp và sản xuất kinh doanh nông lâm thủy sản trên địa
bàn huyện.
- Tuyến xã: Huyện Nghĩa Hành gồm 11 xã và 01 thị trấn. UBND xã, thị
trấn chịu trách nhiệm trước UBND huyện về ATTP trên phạm vi địa bàn, giao
cho Công chức Văn hóa - Xã hội quản lý ATTP trên địa bàn theo Công văn số
1240/UBND của UBND huyện.
62
Tại tuyến xã, chỉ riêng ngành y tế mới có hệ thống quản lý nhà nước về
ATTP, trong đó 12 UBND xã, thị trấn (quản lý nhà nước) và 12 trạm y tế
(thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ). Số lượng nhân lực làm công tác ATTP tại
Trạm y tế xã là 01 người/xã, nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm. Bố trí công chức
Văn hóa – Xã hội phụ trách theo dõi công tác an toàn thực phẩm trên địa bàn
xã, 12/12 xã, thị trấn đều có Ban chỉ đạo về an toàn thực phẩm do Chủ tịch
UBND xã, thị trấn làm Trưởng ban.
2.2.2. Nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Những năm trở lại đây, tỉnh Quảng Ngãi cũng như huyện Nghĩa Hành
đã quan tâm đầu tư ngân sách cho công tác quản lý và công tác tuyên truyền
về ATTP.
Giai đoạn 2013 - 2017: Ngân sách trung ương 3.450.000.000 đồng
(kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia VSATTP cấp cho tỉnh Quảng Ngãi);
ngân sách địa phương 980 triệu đồng (phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra
ATTP). Ngoài ra, còn có nguồn thu t phí quản lý ATTP, xử lý vi phạm hành
chính được trích để lại phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý ATTP là 1,28 tỷ
đồng [49].
Hằng năm, UBND huyện Nghĩa Hành bố trí kinh phí cho hoạt động bảo
đảm ATTP khoản 50 triệu đồng/năm, chủ yếu cho hoạt động thanh tra, kiểm
tra liên ngành và lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm (15/4
đến 15/5 hàng năm). Tuy nhiên, thực tế nguồn kinh phí dành cho hoạt động
trong lĩnh vực này chưa đáp ứng nhu cầu đặt ra. Ngoài ra, nguồn kinh phí
được cấp t Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm lấy t nguồn Chương trình
mục tiêu Quốc gia, trung bình khoản 80 triệu đồng/ năm chủ yếu cho hoạt
động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, pano, ap phích tuyên truyền về ATTP.
63
Nguồn thu t : Cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện về ATTP, xác
nhận tập huấn kiến thức về ATTP và xử phạt vi phạm hành chính được trích
lại để hỗ trợ để lại phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý ATTP là: 30 triệu
đồng/ năm.
Các ngành cùng quản lý nhà nước về ATTP bao gồm: Phòng Y tế,
Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
huyện, Trung tâm Y tế huyện đã cơ bản được bố trí trụ sở làm việc, đầy đủ
trang thiết bị, điều kiện làm việc để triển khai nhiệm vụ. Thiết bị văn phòng
(máy vi tính) được trang bị còn hạn chế, phương tiện đi lại (ô tô) chưa được
trang bị đầy đủ, chưa có ô tô nên cũng gặp nhiều khó khăn trong triển khai
nhiệm vụ. Việc đầu tư điều kiện như vậy không tương xứng với khối lượng
công việc được giao, gây khó khăn cho các đơn vị hoạt động.
Huyện Nghĩa Hành hiện chưa có cơ sở kiểm nghiệm an toàn thực
phẩm. Khoa xét nghiệm của Trung tâm Y tế chủ yếu phục vụ cho xét nghiệm
y tế; khi tiến hành kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa
bàn, các đoàn chủ yếu thực hiện các test kiểm nghiệm nhanh thực phẩm và
lấy mẫu gửi đi kiểm nghiệm. Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi có 02 cơ sở kiểm
nghiệm là Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh (thuộc Sở Y tế) và Trung tâm Kỹ
thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng (thuộc Sở Khoa học và Công nghệ); với
nhu cầu đánh giá, chứng nhận sự phù hợp quy chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
ATTP như hiện nay, thì cả 02 cơ sở kiểm nghiệm này không thể đáp ứng
được nhu cầu thực tế của địa phương.
2.2.3. Sự tham gia của các bên liên quan trong tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm trên huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Một số người có quan niệm sai lầm cho rằng pháp luật chỉ chủ yếu là
công cụ tr ng phạt, nên họ có tâm lý sợ hãi pháp luật. Tâm lý lo sợ đó khiến
cho hành vi của con người thiếu ổn định do đó khó có thể dẫn đến hành vi xử
64
sự tích cực trước pháp luật. Tình trạng thờ ơ đối với pháp luật hoặc coi
thường pháp luật an toàn thực phẩm ở một số người tác động tiêu cực đến
việc thực hiện pháp luật của những người khác.
Chủ thể của quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm là cơ quan nhà nước
hoặc cá nhân có thẩm quyền, là người sản xuất kinh doanh thực phẩm và
người tiêu dùng. Một quan hệ pháp luật an toàn thực phẩm sẽ ra sao là do ý
thức và hành động của các chủ thể của quan hệ pháp luật đó xác lập nên. Nếu
các chủ thể có hiểu biết pháp luật sâu rộng, ý thức chấp hành pháp luật tốt, thì
quan hệ pháp luật đó sẽ ít xảy ra xung đột tranh chấp và ngược lại. Đồng thời
trong quá trình sản xuất, kinh doanh buôn bán thực phẩm, người sản xuất và
kinh doanh có đạo đức nghề nghiệp, có ý thức tuân thủ và chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật an toàn thực phẩm thì người tiêu dùng mới có cơ hội sử dụng
sản phẩm thực phẩm sạch và an toàn. Tuy nhiên thực tế những năm qua và
nhất là gần đây cho thấy, ý thức pháp luật, đạo đức của người sản xuất và
kinh doanh mua bán thực phẩm còn rất kém. Họ bất chấp tất cả, sự răn đe của
pháp luật, các chế tài, sức khỏe thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng,
thể chất của thế hệ tương lai. Vì lợi nhuận họ có thể “đầu độc” nhân loại,
khuất mắt bỏ qua mọi ranh giới an toàn chỉ để thu về lợi nhuận kinh tế cho
chính mình.
Để phối hợp, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các hoạt động
bảo đảm ATTP trên địa bàn, UBND huyện đã ban hành quy chế phối hợp
liên ngành giữa các phòng, ban huyện với Ủy ban nhân dân các xã, thị
trấn và các đơn vị liên quan trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện.
Thực hiện Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 15/4/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về việc “tăng cường công tác bảo đảm chất lượng, vệ sinh an toàn thực
phẩm”, huyện đã thành lập Ban chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm (còn
65
gọi là Ban chỉ đạo) phân công Phó chủ tịch UBND huyện phụ trách văn
xã làm Trưởng ban, Trưởng phòng Y tế làm Phó Trưởng ban thường trực,
thành viên ban chỉ đạo là đại diện lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể
huyện. Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP có trách nhiệm xây dựng kế
hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, nhà nước về ATTP, sơ kết, tổng kết các kế hoạch dài hạn cũng như
ngắn hạn về ATTP tại địa phương.
Phòng Y tế hiện đã tham mưu cho UBND huyện quyết định kiện toàn
lại Ban chỉ đạo liên ngành ATTP theo tinh thần Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày
09/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ theo đó Chủ tịch UBND huyện trực tiếp
làm nhiệm vụ Trưởng ban chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm; chủ động tổ
chức lực lượng, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo đảm an toàn thực
phẩm trên địa bàn [43].
Công tác phối hợp liên ngành trong thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về ATTP được tổ chức chặt chẽ,
thường xuyên giữa các phòng, ban, mặt trận, đoàn thể huyện. Việc phối hợp
trong công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm đối với các
cơ quan trên địa bàn phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Tổ chức thanh tra, kiểm tra liên ngành an toàn thực phẩm thì Phòng Y
tế chủ trì, tham mưu cho Ủy ban nhân dân hoặc Ban chỉ đạo an toàn thực
phẩm của huyện xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện sau khi kế hoạch
được phê duyệt.
- Khi có đề nghị của cơ quan chủ trì về việc thanh tra, kiểm tra, cơ quan
phối hợp có trách nhiệm cử cán bộ để tham gia thanh tra, kiểm tra.
- Kết thúc đợt thanh tra, kiểm tra liên ngành, định kỳ 6 tháng, hàng năm
phòng NN&PTNT, KT&HT, các phòng, ban, Mặt trận, đoàn thể được giao
tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra có trách nhiệm gửi báo cáo kết quả thanh
66
tra, kiểm tra an toàn thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý
hoặc phạm vi được giao thanh tra, kiểm tra về phòng Y tế để tổng hợp,
báo cáo Ban Chỉ đạo liên ngành về an toàn thực phẩm của huyện và Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện để báo cáo Ban Chỉ đạo liên ngành của tỉnh
về an toàn thực phẩm.
- Việc phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí thực hiện theo quy
định của pháp luật về phát ngôn và cung cấp thông tin.
Công tác phối hợp liên ngành còn được triển khai có hiệu quả trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP. Trong những năm qua, các đoàn
kiểm tra liên ngành của huyện cơ bản đã phát huy được hiệu lực, hiệu quả
trong phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm về ATTP trên địa bàn, qua đó
kịp thời cảnh báo đến cộng đồng những nguy cơ mất ATTP để nhân dân
biết và phòng tránh.
Ngoài việc phối hợp, hoạt động giữa các ngành, cơ quan, đơn vị cũng
như các hội, đoàn thể cũng được triển khai thường xuyên, hiệu quả, nhịp
nhàng thông qua các hoạt động chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, tuyên truyền. Đặc
biệt các nội dung tuyên truyền về ATTP lồng ghép vào các buổi tập huấn, nói
chuyện chuyên đề gắn với phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu
dân cư, xây dựng nông thôn mới.
2.3. Nhận xét về tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa
bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Có thể nói, t năm 2013 đến 6/2018, tổ chức thực hiện pháp luật
ATTP ở huyện Nghĩa Hành đã được triển khai, thực hiện khá đồng bộ và
đạt được những ưu điểm, thành tựu quan trọng, góp phần đẩy mạnh phát
triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. Những ưu điểm, thành tựu trong tổ
67
chức thực hiện pháp luật ATTP ở huyện Nghĩa Hành thể hiện chủ yếu ở các
mặt sau:
Thứ nhất, xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện
pháp luật ATTP.
Các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm ngày càng tiến bộ,
bao quát và đầy đủ hơn, đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng như huyện Nghĩa Hành đã kịp thời ban hành
đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện pháp luật về
ATTP; kịp thời tổ chức quán triệt, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về ATTP
đến đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ATTP, các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh thực phẩm, nâng cao nhận thức, kiến thức về ATTP cho quần
chúng nhân dân.
Thứ hai, hệ thống tổ chức quản lý ATTP
Hệ thống tổ chức quản lý ATTP bước đầu đã được hình thành t tỉnh
đến huyện, xã, thị trấn (trong ngành y tế có Chi cục ATVSTP, Phòng Y tế,
Khoa ATTP – Trung tâm Y tế; trong ngành nông nghiệp có Chi cục Quản lý
chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản, PhòngNN&PTNT; trong ngành công
thương có Phòng chuyên ngành thuộc Sở, Chi cục Quản lý thị trường) tạo
thành lực lượng rộng khắp trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
ATTP. Hệ thống kiểm nghiệm bước đầu đã phần nào đáp ứng được hoạt động
kiểm nghiệm phục vụ công tác quản lý.
Hệ thống tổ chức quản lý ATTP của huyện Nghĩa Hành:Phòng Y tế,
phòng Kinh tế và Hạ tầng và phòng NN&PTNT đã thực hiện tốt chức năng
tham mưu cho UBND huyện ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, các chủ
trương, kế hoạch, giải pháp, biện pháp cụ thể để thực hiện có hiệu quả pháp
luật về ATTP cũng như thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo ATTP, góp phần
68
quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và
phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra
Hoạt động thanh tra, kiểm tra về ATTP diễn ra thường xuyên thông qua
các đợt cao điểm về ATTP hàng năm với chế tài xử phạt mạnh góp phần làm
cho thị trường thực phẩm an toàn hơn. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà
nước về ATTP còn thực hiện hoạt động thanh tra đột xuất về ATTP nhằm kịp
thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các hành vi vi phạm về chất lượng, ATTP,
những cơ sở vi phạm ATTP đều công bố rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng để người dân được biết. Đặc biệt năm 2016, chính quyền các
cấp trên địa bàn huyện Nghĩa Hành đã vào cuộc quyết liệt, thể hiện rõ vai trò,
trách nhiệm của người đứng đầu.
Việc bảo đảm ATTP phục vụ các sự kiện văn hóa, chính trị tại địa
phương được triển khai có hiệu quả.
Thứ tư, công tác truyền thông giúp nâng cao nhận thức, thực hành về
ATTP của các nhóm đối tượng.
Theo kết quả điều tra kiến thức hàng năm, cùng bộ câu hỏi, cùng đối
tượng, kết quả năm sau cao hơn năm trước. Công tác truyền thông về ATTP
được triển khai thường xuyên, huy động nhiều nguồn lực tham gia, kịp thời
phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về ATTP và hướng dẫn điều kiện
bảo đảm ATTP trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm
qua đó nhận thức của nhà quản lý, người sản xuất kinh doanh thực phẩm và
người tiêu dùng đã có sự chuyển biến tích cực, tình trạng ATTP đã được cải
thiện đáng kể, số vụ ngộ độc thực phẩm đông người đã được kiểm soát và hạn
chế ở mức thấp nhất (nhiều năm qua trên địa bàn huyện không xảy ra vụ việc
ngộ độc thực phẩm lớn), chưa có vụ việc nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về ATTP, đem lại niềm tin cho người tiêu dùng.
69
Thứ năm, thị trường thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành cũng
được quan tâm nhiều hơn
Nhiều vùng nguyên liệu an toàn như vùng rau sạch, chăn nuôi an
toàn... đã được xây dựng như mô hình rau sạch xã Hành Dũng, nấm sạch
xã Hành Thuận,...
Thứ sáu, công tác phối hợp liên ngành đã có nhiều cố gắng
Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP đã được thành lập và kiện toàn thường
xuyên ở cả 02 cấp (huyện, xã, thị trấn). Công tác phối hợp liên ngành đã có
nhiều cố gắng: 12/12 xã, thị trấn đã thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành về
ATTP, đồng thời thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 của Thủ
tướng Chính phủ, đến nay 12/12 xã, thị trấn có Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã
trực tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo liên ngành về ATTP.
Riêng Ban Chỉ đạo liên ngành huyện về ATTP do Chủ tịch UBND
huyện làm Trưởng ban và 2 đồng chí là Trưởng phòng: Y tế, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn làm Phó Trưởng ban. Đồng thời, giúp việc cho Ban Chỉ
đạo liên ngành huyện về ATTP còn có Tổ Công tác, định kỳ 3 tháng họp 1
lần, ngoài ra còn tổ chức rất nhiều cuộc họp đột xuất để giải quyết các sự
cố về ATTP. Nhờ vậy, nhiều vụ việc về ATTP như sự cố mổ bò chết
nhúng hóa chất phù phép thành thịt bò tươi, sử dụng hóa chất phù phép
cho đậu nành cháy thành cà phê thượng hạng ... đã được giải quyết nhanh
chóng. Ban chỉ đạo kịp thời chỉ đạo triển khai thực hiện tốt công tác
ATTP trên địa bàn huyện, kết quả các chỉ tiêu đề ra hàng năm và trong
giai đoạn đều đạt theo kế hoạch.
Thứ bảy, cấp phép các thủ tục hành chính về ATTP đã được thực
hiện theo đúng quy trình giải quyết thủ tục hành chính gọn nhẹ, nhanh
chóng, nhờ đó người dân dễ dàng tiếp cận trong quá trình sản xuất, kinh
doanh thực phẩm.
70
* Nguyên nhân ưu điểm: Công tác đảm bảo ATTP đã nhận được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của Huyện ủy, HĐND,
UBND huyện, sự phối hợp chặt chẽ của các phòng, ban chuyên môn, Mặt trận
tổ quốc, các tổ chức đoàn thể của huyện và cấp ủy, chính quyền các xã, thị
trấn đặc biệt là vai trò tham mưu của phòng Y tế, phòng KT&HT, phòng
NN&PTNT.
Vấn đề ATTP là vấn đề nóng, nhạy cảm do đó thu hút được sự quan
tâm của các cơ quan truyền thông t trung ương đến địa phương tham gia
cũng như sự hưởng ứng, ủng hộ của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với
các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về ATTP.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế:
Thứ nhất, việc ban hành văn bản chỉ đạo điều hành còn chậm vì tâm lý
chờ văn bản triển khai thực hiện của Bộ, ngành Trung ương, của tỉnh Quảng
Ngãi. Đặc biệt lĩnh vực của ngành Công Thương và NN&PTNT quản lý bị bỏ
trống trong một thời gian dài, gây nguy cơ mất an toàn cho người tiêu dùng.
Thứ hai, công tác quản lý ATTP trên địa bàn huyện hầu hết được giao
cho ngành Y tế đảm trách trong điều kiện nguồn kinh phí t Trung ương cấp
xuống bị cắt giảm theo t ng năm; nhưng theo Đề án vị trí việc làm được
UBND tỉnh thông qua thì phòng Y tế huyện Nghĩa Hành không có biên chế
cho lĩnh vực ATTP nên một Phó Trưởng phòng Y tế phụ trách lĩnh vực ATTP
và nhiều lĩnh vực khác. Phòng KT&HT, NN&PTNT giao cho 01 chuyên viên
phụ trách ATTP trong khi không có chuyên môn, nghiệp vụ về ATTP. Lực
lượng cán bộ quản lý nhà nước về ATTP còn thiếu về số lượng và hạn chế về
chuyên môn, đặc biệt các cán bộ tuyến xã, thị trấn không có chuyên môn sâu
về ATTP dẫn đến việc hiểu và áp dụng văn bản không đúng.
71
Công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về ATTP trên địa
bàn huyện còn hạn chế dẫn đến nhiều vụ việc các cơ quan xử lý khác nhau và
không có sự phối hợp trao đổi thông tin ảnh hưởng đến cơ sở thực phẩm.
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra
- Công tác thanh tra, kiểm tra tuy được tổ chức đều khắp trên địa bàn
huyện nhưng tần xuất kiểm tra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm
còn thấp. Mặt khác việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về ATTP chỉ
có thể thực hiện theo t ng thời điểm nhất định nên dẫn đến tình trạng nhiều
chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh tìm mọi cách đối phó với lực lượng chức
năng. Mặc dù tổ chức thanh, kiểm tra nhiều nhưng tỷ lệ xử lý thấp, việc xử lý
vi phạm còn nương nhẹ, chưa đủ sức răn đe, phòng ng a, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, vẫn còn có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa các ngành có liên
quan. Chế tài xử phạt còn nhiều bất cập, chưa công khai và xử lý nghiêm các
vụ việc vi phạm cũng như chưa tạo được động lực khuyến khích các cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn.
- Việc tổ chức thanh tra liên ngành về lĩnh vực ATTP giữa tuyến tỉnh
và tuyến huyện chưa đồng bộ, còn chồng chéo nên xảy ra trường hợp có đơn
vị không được kiểm tra, có đơn vị trong một thời gian ngắn bị nhiều đoàn liên
ngành của tỉnh, của huyện kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh của đơn vị.
- Việc kiểm tra chuyên ngành chỉ có ngành y tế là đủ khả năng thành
lập Đoàn kiểm tra vì lực lượng đông đảo, có chuyên môn về ATTP cũng như
kinh nghiệm làm công tác quản lý ATTP. Phòng KT&HT, NN&PTNT chỉ
phối hợp liên ngành, chưa có Đoàn kiểm tra chuyên ngành riêng nên 02 lĩnh
vực trên gần như bỏ trống.
- Lực lượng thanh tra, kiểm tra ATTP còn mỏng, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ còn hạn chế nên việc hiểu và áp dụng pháp luật về ATTP hạn chế;
72
chưa có phòng kiểm nghiệm đạt chuẩn quốc gia, cơ sở vật chất, trang thiết bị
tác nghiệp còn thiếu nên chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý ATTP.
Thứ tư, công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục về ATTP chưa
thường xuyên, kết quả còn hạn chế. Tỷ lệ người sản xuất, kinh doanh dịch vụ,
người tiêu dùng nhận thức đúng về ATTP tuy có tiến bộ nhưng ở mức trung
bình; trách nhiệm của người sản xuất quy mô nhỏ lẻ đối với sức khỏe cộng
đồng chưa cao.
Thứ năm, tỷ lệ cơ sở chế biến, giết mổ gia súc, gia cầm trên địa bàn
được kiểm soát còn ở mức rất thấp. Chất lượng ATTP của một số sản phẩm
thực phẩm chế biến thủ công, quy mô nhỏ tuy có được cải thiện nhưng vẫn là
một khâu yếu. Việc quản lý ATTP ở cấp xã, thị trấn lại gặp nhiều khó khăn,
không có cán bộ chuyên trách làm công tác ATTP (có công văn phân công
Công chức VH-XH phụ trách công tác ATTP t cuối năm 2017), trong khi đó
các hoạt động về ATTP lại diễn ra chủ yếu ở tuyến cơ sở. Bên cạnh đó, hầu
hết cán bộ xã, thị trấn không có trình độ chuyên môn, thiếu dụng cụ phân tích,
kiểm nghiệm.
Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của UBND
cấp huyện, xã tuy đã có chuyển biến song việc triển khai còn thụ động, mới
tập trung giải quyết được một số vấn đề bức xúc, chưa chủ động quản lý được
nguy cơ ô nhiễm theo chuỗi cung cấp thực phẩm theo một chiến lược dài hạn.
Phương thức quản lý thực phẩm còn nhiều bất cập.
Chính quyền chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý theo chuỗi
cung cấp thực phẩm “t trang trại đến bàn ăn”; việc quy hoạch vùng sản xuất
thực phẩm an toàn chưa gắn với thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu,
xuất xứ địa lý của sản phẩm nên thực phẩm an toàn chưa tạo được niềm tin
cho người tiêu dùng, giá thành cao khó cạnh tranh với thực phẩm thông
73
thường, vì vậy chưa tạo động lực cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm an toàn đầu tư, nâng cao chất lượng, số lượng thực phẩm.
Thứ bảy, tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm được cấp giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và tỷ lệ hàng hóa được cấp chứng nhận
tiêu chuẩn sản phẩm ở mức rất thấp. Vì khi thanh tra, kiểm tra thì Đoàn kiểm
tra hay chọn mức khung nhẹ để áp cho cơ sở vi phạm nên dẫn đến tình trạng
chay ì trong việc làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP và
cấp chứng nhận tiêu chuẩn sản phẩm.
Thứ tám, hiện nay huyện chưa có phòng thí nghiệm để tiến hành các
xét nghiệm xác định độ an toàn của thực phẩm mà chỉ sử dụng các test nhanh.
Kết quả test nhanh không đủ điều kiện để làm cơ sở xử phạt vi phạm. Trong
khi chuyên môn về xét nghiệm, ngành Y tế huyện đã có, tuy nhiên không
được đầu tư phòng xét nghiệm để xác định các chỉ tiêu hóa học, vi sinh, vật lý
để làm cơ sở xác định mức độ ATTP.
Thứ chín, một số cấp uỷ, chính quyền xã, thị trấn cán bộ, đảng viên
chưa nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác đảm bảo ATTP,
chưa xem công tác đảm bảo ATTP là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của
địa phương, đơn vị do đó chưa tạo được sự đồng thuận, huy động được sức
mạnh của hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo đảm ATTP.
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
- Nguyên nhân chủ quan
+ Văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực ATTP còn chồng chéo, chưa
cụ thể cho t ng đối tượng quản lý, chưa quy định biện pháp khắc phục cụ thể
khi bị xử phạt hành chính.
+ Sự phối hợp giữa các phòng NN&PTNT, KT&HT, Y tế trong quản lý
nhà nước về ATTP trên địa bàn huyện chưa đồng bộ, chưa thật sự chặt chẽ.
74
+ Năng lực quản lý, điều hành của UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện còn hạn chế, chưa kịp thời triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn của các ngành chức năng về quản lý ATTP.
+ Nhận thức trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương về tầm quan trọng của công tác quản lý ATTP chưa đầy đủ nên sự chỉ
đạo thiếu quyết liệt, triển khai thực hiện pháp luật về ATTP chưa đồng bộ.
+ Phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ kiểm tra nhà nước về
chất lượng ATTP còn thiếu và lạc hậu, không có phòng kiểm nghiệm đáp ứng
nhu cầu kiểm nghiệm phát sinh; trình độ cán bộ chuyên môn trên địa bàn
huyện chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay.
+ Rau, quả, thịt, thủy sản là thực phẩm tươi sống nên phần lớn chưa có
nhãn, mác, dấu hiệu nhận diện và thông tin về nguồn gốc xuất xứ. Do vậy khi
phát hiện mẫu vi phạm đã gặp rất nhiều khó khăn trong truy xuất, xác định
nguyên nhân và xử lý vi phạm. Đây cũng là bất cập khiến người tiêu dùng
chưa thể nhận biết được đâu là sản phẩm an toàn, sản phẩm có nguồn gốc
xuất xứ t nơi đã được chứng nhận đủ điều kiện ATTP.
+ Ý thức chấp hành pháp luật về quản lý chất lượng ATTP và trách
nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn huyện đối với
cộng đồng còn chưa cao, tình hình sử dụng chất cấm, lạm dụng hóa chất,
kháng sinh, thuốc thú y, chất cải tạo xử lý môi trường, chất bảo quản, nhuộm
màu trong sơ chế, chế biến, sau thu hoạch nông sản, việc sử dụng phụ gia
thực phẩm trong chế biến thực phẩm ngày càng phức tạp, khó quản lý. Một
mặt là do người sản xuất, kinh doanh chạy theo lợi nhuận trước mắt, coi
thường tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng; mặt khác do việc xử lý vi phạm
còn nương nhẹ, thiếu kiên quyết.
75
- Nguyên nhân khách quan
+ Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn
huyện đều nhỏ lẻ, kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, do đó việc đầu tư cơ
sở vật chất nhằm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện sản xuất, kinh
doanh thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế trong thực tế là không khả thi.
Việc kiểm soát đến t ng hộ gia đình, cơ sở nhỏ lẻ là hầu như không khả thi,
mô hình tập trung dễ kiểm soát hơn.
+ Trong nhân dân còn tồn tại nhiều tập quán sử dụng thực phẩm không
bảo đảm như: Ăn tiết canh, ăn gỏi cá, thói quen chế biến, sử dụng thực phẩm
tại hộ gia đình không đảm bảo... Những hành vi này không thể dùng biện
pháp hành chính để thay đổi thói quen mà phải vận động, tuyên truyền, phải
cần có thời gian.
+ Tình trạng ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm
trọng ngoài tác động ô nhiễm trực tiếp đến thực phẩm còn là nguyên nhân dẫn
đến phát sinh dịch bệnh, là nguyên nhân dẫn đến lạm dụng thuốc thú y, thuốc
bảo vệ thực vật, hóa chất... Trong khi các hóa chất, phụ gia bị cấm trong chăn
nuôi, trồng trọt, chế biến, bảo quản thực phẩm không khó mua ngoài thị
trường đã tạo cơ hội và thúc đẩy cho người dân vi phạm.
+ Do ngân sách còn khó khăn, việc đầu tư trang thiết bị, máy móc phục
vụ công tác thanh tra, kiểm tra chất lượng các sản phẩm còn hạn chế.
76
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực
phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, luận văn đã tập trung
phân tích, làm rõ:
Phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện tập trung 04 nội dung chính: thứ nhất, phổ biến, giáo dục
pháp luật về ATTP; thứ hai, việc ban hành các văn bản hướng dẫn tổ chức
thực hiện pháp luật về ATTP; thứ ba là vận dụng pháp luật ATTP; thứ tư là
kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật ATTP.
Phân tích thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật
ATTP trên địa bàn huyện gồm 03 nội dung chính: thứ nhất, tổ chức bộ máy,
nhân lực thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về ATTP; thứ hai,
nguồn lực vật chất; thứ ba, sự tham gia của các bên liên quan.
T việc phân tích thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật ATTP và Phân
tích thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP trên
địa bàn huyện Nghĩa Hành, luận văn đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế,
khuyết điểm và nguyên nhân của tổ chức thực hiện pháp luật ATTP, trong đó
tập trung phân tích, làm rõ 05 nhóm hạn chế chính, tìm ra nguyên nhân chủ
quan, khách quan của những hạn chế, khuyết điểm trên.
Việc phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật ATTP và
Phân tích thực trạng các điều kiện bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành là cơ sở cho việc xây dựng những quan điểm
đảm bảo an toàn thực phẩm trong giai đoạn hiện nay và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật ATTP t thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
ở chương 3.
77
Chương 3:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
3.1.1. Bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức về an
toàn thực phẩm
Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luât nói chung và tổ chức thực
hiện pháp luật an toàn thực phẩm nói riêng muốn đảm bảo thực hiện hiệu quả
công tác này thì pháp luật an toàn thực phẩm phải đảm bảo được lợi ích của
mỗi chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật này.
Chủ thể pháp luật sẽ hưởng ứng và thực hiện tốt các quy định của pháp
luật khi biết rằng tuân thủ và chấp hành pháp luật là cách tốt nhất để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của họ. Vì vậy trong quá trình ban hành pháp luật
an toàn thực phẩm đến công tác quản lý và triển khai thực hiện nhà nước luôn
phải đảm bảo và cân bằng lợi ích của các chủ thể tham gia. Đó là lợi ích của
người sản xuất, kinh doanh, mua bán và người tiêu dùng.
Ví dụ: một quy phạm pháp luật điều chỉnh về kinh doanh thức ăn
đường phố, trong quy phạm đó nhà nước v a phải đảm bảo được quyền lợi
của người kinh doanh, đó là cho phép họ được quyền kinh doanh nhưng trong
khuôn khổ pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về an toàn thực
phẩm, đảm bảo sự an toàn đối với sức khỏe của người tiêu dùng đồng thời
chấp hành các nghĩa vụ với nhà nước (đóng thuế). Nếu như người bán hàng
không làm tốt các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nghĩa là tự họ đã vi
phạm pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể
pháp luật khác trong quan hệ này. Trong tình huống đó, chủ thể nhà nước
78
thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền áp dụng chế tài để xử lý
theo quy định của pháp luật, hoặc chủ thể người tiêu dùng có quyền khiếu nại,
tố cáo và yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo vệ quyền
và lợi ích của họ, yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có).
Quan điểm của huyện Nghĩa Hành về bảo đảm quyền, lợi ích chính
đáng của các cá nhân, tổ chức về an toàn thực phẩm:
- Khuyến khích cơ quan quản lý nhà nước về ATTP trực tiếp xuống cơ
sở tham vấn xây dựng cơ sở khi mới thành lập để đảm bảo mô hình cơ sở
chuẩn các điều kiện về cơ sở vật chất, địa điểm môi trường, điều kiện trang
thiết bị dụng cụ,.... theo chuẩn quy định để cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ
điều kiện về ATTP trước khi đi vào hoạt động.
Ví dụ: Bếp ăn các trường Mầm non trước khi xây mới thì Phòng Y tế và
Khoa ATTP- Trung tâm Y tế huyện xuống trực tiếp để hướng dẫn xây dựng
Bếp một chiều.
- Rà soát, đề xuất cơ chế, chính sách cho người dân và doanh nghiệp
liên kết chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, tìm đầu ra cho các sản phẩm nông
nghiệp sạch.
- Chính sách đầu tư hạ tầng và hỗ trợ phát triển các mô hình chuỗi giá
trị thực phẩm theo hướng sản xuất quy mô lớn gắn với thị trường tiêu thụ
trong nước cũng như xuất khẩu, t đó nhân rộng ra khắp cả nước.
- Cho phép tạm ứng và thanh toán t kinh phí xử phạt vi phạm hành
chính để xử lý vi phạm (tiêu hủy thực phẩm không an toàn, thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc thú y, chế phẩm xử lý, cải tạo môi trường giả, kém chất lượng,
không an toàn...).
- Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn đối với hỗ trợ đầu tư cơ sở giết mổ để phù hợp hơn
với nhu cầu tiêu dùng của huyện.
79
3.1.2. Bảo đảm bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm trong tổ
chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
Bản chất của pháp luật là pháp luật luôn mang tính giai cấp, bảo vệ lợi
ích giai cấp. Tuy nhiên bên cạnh đó pháp luật còn mang tính xã hội, tính xã
hội thể hiện mặt nhân văn của pháp luật. Nói đến tính xã hội của pháp luật là
nói đến tính công bằng, bình đẳng trong quá trình làm luật cũng như đưa luật
vào triển khai trong đời sống. Công bằng và bình đẳng ở đây được hiểu là sự
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mỗi chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật. Chấp hành và tuân thủ pháp luật là cách tốt nhất để các chủ thể đạt
được sự công bằng và bình đẳng đó. Bởi vốn dĩ một quy phạm pháp luật
muốn có chỗ đứng và phát huy được hiệu quả điều chỉnh của mình thì bản
thân nó phải cân bằng lợi ích giữa các nhóm chủ thể trong xã hội.
Mỗi chủ thể chấp hành pháp luật nghĩa là chủ thể đó đã góp phần tôn
trọng pháp luật, tôn trong quyền và lợi ích chính đáng của bản thân mình cũng
như các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật. Và như vậy tính công bằng,
bình đẳng của pháp luật được đảm bảo thực hiện. Một quy phạm pháp luật
hay rộng hơn là một văn bản pháp luật an toàn thực phẩm nếu không đảm bảo
được tính công bằng, bình đẳng không đảm bảo được quy định về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên, nếu một bên chủ thể phải có quá nhiều nghĩa vụ mà
không có quyền hoặc ngược lại thì văn bản pháp luật đó không khách
quan vì không đảm bảo tính công bằng. Và đương nhiên khi đưa vào áp
dụng sẽ dẫn đến xung đột lợi ích của các chủ thể của quan hệ pháp luật và
tính điều chỉnh của văn bản pháp luật không được phát huy, văn bản đó sẽ
sớm bị hủy bỏ, không được tiếp nhận vì mục đích đảm bảo ổn định trật tự
xã hội không đạt được.
Công khai trong tổ chức thực hiện pháp luật nguyên tắc cốt yếu và
đương nhiên. Trong quá trình triển khai pháp luật vào cuộc sống thì pháp luật
80
phải được phổ biến rộng rãi đến mọi người dân để dân biết luật và hiểu
luật t đó có ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Công khai ở đây
được thể hiện t khâu ban hành luật (lấy ý kiến đóng góp về các dự thảo
luật) cho đến thông qua và công bố luật đều được thực hiện theo quy trình
pháp luật đã quy định về bỏ phiếu thông qua luật, thời gian công bố, thời
gian có hiệu lực, phương thức tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
đưa luật đến với dân. Nếu như một nhà nước ban hành văn bản pháp luật
mà không đảm bảo được nguyên tắc công khai luật thì văn bản luật sẽ bị
bãi bỏ vì vi phạm về hình thức ban hành.
Hệ thống pháp luật an toàn thực phẩm của nước ta hiện nay đảm
bảo được tính công khai trong quá trình ban hành và thực hiện. Quốc hội
thông qua các kỳ họp và làm việc cũng thường xuyên đưa các dự thảo luật
về an toàn thực phẩm cùng những văn bản pháp luật có liên quan lấy ý
kiến đóng góp của toàn thể nhân dân, của các chuyên gia trong và ngoài
nước để có thể xây dựng được những văn bản luật mang tính ổn định cao,
kế th a truyền thống văn hóa dân tộc cũng như cập nhật xu hướng pháp
luật chung của thế giới.
Tuy nhiên, nhiều hoạt động còn chưa sát thực tế, mang tính hình thức,
chẳng hạn như đăng tải toàn văn dự án, dự thảo văn bản đồ sộ, nhiều thuật
ngữ chuyên ngành để lấy ý kiến người dân; cơ quan soạn thảo chưa công khai
việc tiếp thu, phản hồi ý kiến góp ý… Để khắc phục những tồn tại, hạn chế
nêu trên, góp phần tăng cường hơn nữa tính minh bạch trong quy trình xây
dựng văn bản.
Quan điểm của huyện Nghĩa Hành:
Hàng năm, UBND huyện ban hành các văn bản như Kế hoạch: Đảm
bảo ATTP; Kiểm tra ATTP; Thẩm định cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều
kiện ATTP; Tập huấn và xác nhận kiến thức về ATTP; Quyết định thành lập
81
Đoàn kiểm tra,... đều công khai trên wedsite của UBND huyện.
Các văn bản chuyên ngành về ATTP cũng như thủ tục hành chính cấp
Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP đều được công khai niêm yết
trước cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp giấy. Huyện Nghĩa Hành đảm bảo
tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức về an toàn thực phẩm thực hiện pháp luật
về ATTP, có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động
tìm hiểu, học tập pháp luật.
Trong công tác thanh, kiểm tra ATTP tiến hành như trình tự thủ tục
theo quy định, đối với các cơ sở vi phạm thì tiến hành nhắc nhở, xử phạt vi
phạm hành chính tùy vào mức độ vi phạm, luôn luôn minh bạch trong thanh,
kiểm tra ATTP. Các cơ sở thực phẩm tiến bộ thì được biểu dương thông qua
các bài, điểm tin ATTP. Đối với các sản phẩm thực phẩm không rõ nguồn gốc
xuất xứ thì tiêu hủy theo quy định thể hiện được tinh thần trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong thực thi công vụ đối với sức khỏe của nhân dân, đối với
công tác quản lý nhà nước.
Đảm bảo cho huyện Nghĩa Hành không có vụ ngộ độc thực phẩm tập
thể nào xảy ra trên địa bàn huyện và công tác quản lý về ATTP đi vào nề nếp.
3.1.3. Thu hút sự tham gia của người dân vào tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm
Đấu tranh với các hành vi, sai phạm trong ATTP còn nhiều gian nan,
kéo dài. Bởi các đối tượng sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn ngày càng
tinh vi, khó phát hiện. Trong khi đó, người dân chưa mặn mà với việc phòng
chống vi phạm ATTP, bởi cho rằng đó là việc của cơ quan chức năng và sợ
gặp rắc rối. Thực tế nhiều người đã phó thác niềm tin cho người bán hàng.
Công tác thanh tra, kiểm tra ATTP hàng năm hầu như không thể nào
kiếm tra tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và có thể các cơ sở
này không muốn đăng ký việc sản xuất, kinh doanh này với cơ quan nhà
82
nước. Những tiềm ẩn t nguy cơ không kiểm soát được các cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm rất cao.
Trong khi chờ các cơ quan chức năng xử lý vấn đề ATTP, để tự bảo vệ
mình, mỗi người tiêu dùng hãy bằng cách tẩy chay hàng kém chất lượng, thực
phẩm không rõ nguồn gốc; đồng thời tố giác những địa chỉ sản xuất, tàng trữ,
kinh doanh hàng giả, hàng lậu; tăng giá không hợp lý, góp phần làm trong
sạch nguồn thực phẩm.
Người dân chính là tai mắt của cơ quan nhà nước, là người giám sát tốt
nhất để phát hiện việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn.
3.2. Giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm
Hoàn thiện pháp luật an toàn thực phẩm là giải pháp v a là yêu cầu cấp
bách hiện nay, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật, đánh giá đúng hiệu
quả tác động của tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm đảm bảo phát
huy vai trò quản lý nhà nước. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với định hướng
của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm
Luật ATTP ra đời năm 2010 đến tháng 7/2011 có hiệu lực và cuối năm
2012 mới có Nghị định hướng dẫn thi hành, các văn bản dưới Luật của các Bộ
chậm ban hành, chưa hoàn toàn đồng bộ và hài hòa, sự chậm trễ kéo dài đến
2-3 năm. Đến khi thực hiện thì chồng chéo giữa các văn bản với nhau, không
có tính khả thi và không có sự liên kết chặt chẽ, tạo nhiều “lỗ hổng” khiến
không thể kiểm soát chặt chẽ các quy định về ATTP và việc ban hành Nghị
định 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật ATTP có hiệu lực ngày 02/02/2018 thay thế cho
Nghị định 38/2012/NĐ-CP. Những bất cập cụ thể như sau:
83
- Một số ngành hàng đang có sự đan xen và không phân định rõ ngành
nào chịu trách nhiệm quản lý về ngành hàng đó.
Tại Khoản 5, Điều 36, Nghị định 15/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy
định: Bảo đảm nguyên tắc một cửa, một sản phẩm, một cơ sở sản xuất, kinh
doanh chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Điều
37, 38, 39 của Nghị định này quy định trách nhiệm quản lý của t ng Bộ lại
phân định theo nhóm sản phẩm. Nếu cơ sở sản xuất nhiều nhóm sản phẩm,
trong đó có sản phẩm thuộc quản lý của cả 3 Bộ theo quy định tại Thông tư
liên tịch số 13. Điều này gây khó khăn cho công tác quản lý, phân định trách
nhiệm quản lý giữa các cơ quan và gây khó khăn cho cơ sở khi thực hiện quy
định của pháp luật về ATTP.
Khi triển khai về huyện Nghĩa Hành thì phòng chuyên môn nào sẽ quản
lý dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Chẳng hạn, việc quản lý chất lượng
bún đang được cả phòng: Y tế, NN&PTNT, KT&HT chịu trách nhiệm như:
nguyên liệu là bột gạo ướt để làm bún thuộc trách nhiệm của phòng
NN&PTNT; sản phẩm tinh bột thuộc phòng KT&HT. Như vậy, cùng một sản
phẩm, hai ngành (Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương) kiểm
tra đã là chồng chéo nhưng còn bất cập ở chỗ sản phẩm bún trên thị trường có
chứa chất Tinopal gây ngộ độc cho người tiêu dùng (Tinopal - một loại hóa
chất tẩy trắng dùng trong công nghiệp nhưng lại được dùng để tẩy trắng bún)
lại liên quan tới ngành Y tế. Hàng loạt các sản phẩm khác cũng gặp tình trạng
tương tự như ô mai, mứt là sản phẩm t hoa quả sẽ do ngành Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quản lý hay là bánh, mứt, kẹo do ngành Công thương
quản lý, ...Ngoài ra, ngành Y tế chỉ quản lý thực phẩm khi đã đến tay người
tiêu dùng. Khi kiểm tra nếu trong trường hợp không bảo đảm chất lượng vệ
sinh thì ngành Y tế chỉ thu được mẫu thực phẩm. Còn toàn bộ thực phẩm
84
nhiễm bẩn đã bán ngoài thị trường thì không thể tịch thu được do không thuộc
quản lý của ngành Y tế.
Sự chồng chéo giữa các cơ quan quản lý ATTP đang là một thực tế tồn
tại t lâu nhưng việc giải quyết vẫn chưa dứt điểm, đã gây không ít khó khăn
cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, cùng một chủ thể kinh doanh 03 nhãn hàng
thuộc trách nhiệm quản lý về ATTP của cả ba ngành Công thương, Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Y tế thì một năm sẽ phải lần lượt chịu sự
thanh, kiểm tra của cả 3 cơ quan trên. Trong việc cấp giấy phép ATTP, đối
với các siêu thị, nguyên tắc là ngành Công Thương quản lý (theo quy định của
Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT phân cấp cho Bộ
Công thương chịu trách nhiệm cấp giấy phép ATTP cho siêu thị), nhưng vì
kinh doanh nhiều mặt hàng thực phẩm, nên việc xin giấy phép phải qua đủ cả
03 cơ quan: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương. Hoặc
một vướng mắc khác phát sinh trong khâu cấp giấy phép ATTP cho siêu thị là
trong trường hợp có cửa hàng ăn uống trong siêu thị thì sẽ do ai cấp: Công
thương hay chính quyền địa phương hay cả 02 cơ quan nói trên vì chính
quyền địa phương được phân công chịu trách nhiệm đối với các cửa hàng ăn
uống.
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thực phẩm
muốn xin phép quảng cáo thì phải xin được 02 con dấu xác nhận, một của
ngành y tế xác nhận nội dung quảng cáo và một con dấu của ngành Văn hóa,
Thể thao và Du lịch xác nhận mẫu mã, hình thức quảng cáo, thậm chí phải xin
cấp phép cả t phía ngành Công Thương xác nhận sản phẩm được phép lưu
thông trên thị trường. Chỉ với một nội dung nhưng doanh nghiệp mất rất nhiều
thời gian, công sức để thực hiện, ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ bán hàng
và hiệu quả kinh doanh….
85
- Mặc dù quy định nhiều giấy phép “con” để quản lý ATTP nhưng trên
thực tế việc quản lý nhà nước về ATTP “vẫn lỏng”. Trái ngược với thực tế
một mặt hàng phải chịu nhiều cơ quan nhà nước cùng quản lý nhưng trên thực
tế có mặt hàng chưa được cơ quan quản lý nhà nước nào phụ trách. Chẳng
hạn, trong thời gian qua có thông tin thương lái Trung Quốc thu mua đỉa
gây dư luận không tốt trong xã hội. Tuy nhiên, vấn đề này nên quy định
trách nhiệm quản lý cho bộ nào thì vẫn chưa thực sự rõ ràng. Không ít ý
kiến của các nhà quản lý trao đổi tại các cuộc tọa đàm trong khuôn khổ
các đợt điều tra khảo sát cho rằng “càng nhiều bộ, nhiều ngành quản lý
ATTP thì càng rối rắm”.
Ngoài ra, còn một bất cập nữa trong việc phân công quản lý nhà nước
về an toàn thực phẩm, đó là đang có nhiều đầu mối chịu trách nhiệm (Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 04 đơn vị đầu mối, Bộ Y tế có 01 đơn
vị đầu mối và Bộ Công thương có 02 đơn vị đầu mối, trong số này có rất
nhiều cơ quan có hệ thống ngành dọc đến cấp xã, phường, biên chế rất cồng
kềnh, thêm vào đó là các cơ quan Thanh tra của các Bộ này), tuy nhiên, mỗi
khi có sự cố liên quan đến an toàn thực phẩm xảy ra thì không cơ quan quản
lý nhà nước nào chịu trách nhiệm (cả hành chính và vật chất).
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật ATTP
- Hoàn thiện Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực
phẩm
Ngày 14/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2013/NĐ-CP
quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, có hiệu lực t
ngày 31/12/2013 (thay thế Nghị định số 91/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012),
nghị định này quy định mức xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền trong
nhiều lĩnh vực quy định quá thấp, nên không bảo đảm được tính răn đe và
phòng ng a chung, dẫn đến tình trạng tuy không phổ biến nhưng nhiều tổ
86
chức, công ty, doanh nghiệp hiện đang tồn tại tâm lý chung là chấp nhận nộp
phạt vi phạm hành chính vẫn có lợi hơn so với phải chấp hành đúng quy định
của pháp luật về lĩnh vực đó.
+ Theo đó tại Điều 10 Nghị định 178 có quy định hành vi vi phạm về
tiêu chuẩn sức khỏe trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm, phụ gia thực
phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng
thực phẩm; cụ thể, tại khoản 2 Điều này có quy định như sau: “Xử phạt đối
với hành vi không thực hiện khám sức khỏe định kỳ cho đối tượng thuộc diện
phải khám sức khỏe định kỳ theo một trong các mức sau đây:
a) Phạt tiền t 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với vi phạm dưới
10 người;
b) Phạt tiền t 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với vi phạm t 10
người đến dưới 20 người;
c) Phạt tiền t 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với vi phạm t 20
người đến dưới 100 người;
d)Phạt tiền t 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm t
100 người đến dưới 500 người;
đ) Phạt tiền t 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm t
500 người trở lên.”.
Với quy định trên, thực tế cho thấy có mấy bất cập sau: Khám sức khỏe
định kỳ tổng quát là điều cần thiết trong cuộc sống vì có thể giúp phòng ng a
và phát hiện bệnh sớm, ngoài ra còn giúp đánh giá được tình trạng sức khỏe
hiện tại tránh những lo lắng không cần thiết, nhưng mức xử phạt trung bình
quy định tại điểm a là 750.000 đồng, điểm b là 1.500.000 đồng, với mức như
vậy là quá thấp so với chi phí tổ chức khám sức khỏe cho số lượng 09 người
quy định tại điểm a, điểm b là 19 người, nên doanh nghiệp sẵn sàng chấp
nhận nộp phạt, bởi chi phí cho 01 ca khám sức khỏe định kỳ tổng quát cho cả
87
nam hoặc nữ tại cơ sở y tế có thẩm quyền khoảng 550.000 đồng/ca. Với phép
tính đơn giản có thế thấy, Công ty A có tổng số 18 công nhân thuộc diện phải
khám sức khỏe theo định kỳ, nếu phải đưa số công nhân này đi khám sức
khỏe định kỳ theo quy định, Công ty phải mất số tiền 8.250.000 đồng, chưa
bao gồm các chi phí khác, trong khi đó nếu bị phát hiện vi phạm quy định về
không khám sức khỏe định kỳ thì chỉ bị phạt số tiền khoảng 1.500.000 đồng.
+ Vi phạm quy định về số lượng người không được khám sức khỏe định
kỳ như tại điểm c, điểm d và điểm đ có sự chênh lệch quá xa về số lượng, ví
dụ: t 20 người đến dưới 100 người (điểm c); t 100 người đến dưới 500
người (điểm d); t 500 người trở lên (điểm đ) và mức chênh lệch số tiền xử
phạt trong khung cũng có độ cách biệt khá lớn, cụ thể mức xử phạt tại điểm c
3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; điểm d t 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng và điểm đ t 10.000.000 đồng trở lên. Vậy với công ty,
doanh nghiệp có lượng 1.500 công nhân mà vi phạm hành chính quy định về
khám sức khỏe thì mức xử phạt trung bình là bao nhiêu, vì không quy định
giới hạn tối đa của khung xử phạt đó, nên rất dễ phát sinh tiêu cực trong xử
phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp này, trong khi đó theo quy định
tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 178/2013/NĐ-CP: “Mức phạt tiền tối đa đối với
mỗi hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm là 100.000.000 đồng
đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức…”. Nên với quy định xử
phạt như trên có thể xem là hạn chế cần xem xét sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với tình hình đấu tranh ngăn chặn với loại hành vi vi phạm hành chính về
ATTP hiện nay.
+ Nghị định chưa quy định các biện pháp khắc phục cụ thể khi bị xử
phạt hành chính. Ví dụ như trường hợp vi phạm không thực hiện khám sức
khỏe định kỳ theo quy định như đã phân tích ở trên, sau khi áp dụng hình thức
phạt tiền, Nghị định không quy định các trường hợp chưa khám sức khỏe định
88
kỳ phải tiến hành khám bổ sung theo quy định, dẫn đến việc xử lý các hành vi
vi phạm đảm bảo tính giáo dục, răn đe, phòng ng a.
Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định 178/2013/NĐ-CP của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm theo hướng
tăng mức phạt tiền, bảo đảm có tính răn đe hơn và quy định các biện pháp
khắc phục cụ thể khi bị xử phạt hành chính.
- Hoàn thiện pháp luật hình sự hiện hành
Vấn đề ATTP là vấn đề quan trọng, được toàn xã hội quan tâm vì nó
không những ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của cả cộng đồng mà còn
trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của công dân.
BLHS năm 2015 có nhiều điểm tiến bộ hơn đó là đã hình sự hóa trách
nhiệm pháp nhân tại Điều 2 (cơ sở chịu trách nhiệm hình sự), Điều 8 (khái
niệm tội phạm), Điều 33 (các hình phạt đối với pháp nhân) và chương XI
(Những quy định đối với pháp nhân phạm tội). Trong đó, liên quan trực tiếp
đến vi phạm an toàn thực phẩm, pháp nhân có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự tại Điều 193 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực
phẩm) và Điều 317 (Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm).
Điều 317 BLHS năm 2015 quy định liệt kê cụ thể, chi tiết các hành vi khách
quan của cấu thành tội phạm tại các điểm a, b, c, d khoản 1 điều này. Điều
317 BLHS năm 2015 là tội có “cấu thành hình thức” với các hành vi sử dụng
chất cấm, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, nghĩa là
chỉ cần có một trong các hành vi khách quan như sử dụng chất cấm trong sản
xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm; sử dụng hóa chất, kháng sinh,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích nông sản... không rõ
nguốn gốc, xuất xứ, sử dụng với dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản
phẩm, hoặc nằm ngoài danh mục được phép sử dụng... là đã đủ căn cứ xử lý
hình sự mà không cần thiết phải có hậu quả xảy ra. Đồng thời là tội có “cấu
89
thành vật chất” đối với hành vi chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà
biết rõ là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn
thực phẩm... gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể t 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này t 31% đến 60% hoặc thu
lợi bất chính t 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, nghĩa là phải có hậu
quả xảy ra thì mới đủ căn cứ xử lý hình sự.
So với Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 317 BLHS năm 2015
quy định chi tiết hơn nội dung các điều, khoản, đồng thời tăng nặng mức phạt
tù tối đa t mười lăm năm lên hai mươi năm và tăng mức phạt tiền tối đa t
15 triệu đồng lên 2 tỷ đồng. Riêng với pháp nhân, nếu vi phạm quy định tại
Điều 317 có thể bị phạt tối đa 7 tỷ đồng hoặc bị cấm kinh doanh trong một số
lĩnh vực nhất định; bị cấm huy động vốn, bị đình chỉ hoạt động có thời hạn
hoặc bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Tuy nhiên, xét về tính khả thi của Điều
317 thì vẫn còn không ít ý kiến băn khoăn bởi khó có thể giám định chính xác
tỷ lệ tổn thương cơ thể do việc sử dụng nguồn thực phẩm không đảm bảo an
toàn vệ sinh để áp khung hình phạt, do hậu quả khó có thể bộc phát ra ngay để
giám định chính xác tỷ lệ tổn thương cơ thể. Vì vậy đối với tội danh này đề
nghị không căn cứ vào tỷ lệ tổn thương cơ thể để áp dụng khu hình phạt mà
nên căn cứ vào hàm lượng sử dụng chất cấm trong lương thực, thực phẩm
quá mức quy định bao nhiêu lần để định mức xử phạt tương ứng chứ không
căn cứ vào tỷ lệ tổn thương cơ thể do sử dụng lương thực, thực phẩm không
an toàn. Đồng thời đề nghị bổ sung riêng một điều về tội sản xuất, buôn bán,
sử dụng vượt mức cho phép các chất cấm, chất độc hại trong trồng trọt, chăn
nuôi, bảo quản, chế biến thực phẩm và khung hình phạt này phải tương ứng
như khung hình phạt về tội sản xuất và buôn bán hàng giả về lương thực, thực
phẩm quy định tại Điều 193.
90
Ngoài hai điều (193 và 317) quy định trực tiếp về hành vi vi phạm an
toàn thực phẩm, BLHS năm 2015 cũng đề cập đến tội sản xuất, buôn bán
hàng cấm và tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm - tương tự như Bộ luật Hình
sự 1999, trong đó hàng cấm ở đây bao hàm cả các chất cấm, chất độc hại đang
được sử dụng rộng rãi trong thức ăn chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản, chế biến
thực phẩm. Tuy nhiên, quy định BLHS 2015 chưa đảm bảo tính khả thi và răn
đe trong thực tế.
Cụ thể, nội dung các Điều 153, 154, 155 của Bộ luật hiện hành không
có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là số lượng hàng cấm lớn, rất lớn, đặc
biệt lớn để định khung xử phạt nên không áp dụng được. Trong khi đó, Điều
190 (Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm) và Điều 191 (Tội vận chuyển, tàng trữ
hàng cấm) của BLHS 2015 lại chủ yếu căn cứ vào giá trị hàng phạm pháp
hoặc khả năng thu lợi của chủ hàng để định tội. Theo quy định tại hai điều
luật này, hàng phạm pháp có giá trị t 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng
hoặc chủ hàng thu lợi/có khả năng thu lợi bất chính t 50 triệu đồng đến trên
500 triệu đồng thì mới bị xem xét xử lý hình sự. Quy định như vậy rõ ràng
không phù hợp với thực tế bởi mặt hàng cấm được sử dụng trong chăn nuôi,
trồng trọt, chế biến lương thực, thực phẩm đa phần đều có giá trị vô cùng nhỏ
(vì chủ yếu là sản phẩm trôi nổi, không rõ nguồn gốc, xuất xứ), do đó khó có
thể khởi tố vụ việc và xử lý triệt để hành vi vi phạm loại này. Mặt khác, khả
năng thu lợi bất chính trong việc sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm là chất cấm sử dụng trong lương thực, thực phẩm - đối với mỗi một
sự vụ cụ thể - cũng không lớn tới con số vài chục đến vài trăm triệu đồng mỗi
lần vi phạm, vì vậy cần xem lại tính khả thi của các điều luật trên.
Cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng Bộ Luật Hình
sự đối với các tội phạm về ATTP. Hướng dẫn thực hiện chế định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong Bộ Luật Hình sự, đối với những trường hợp vi
91
phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi thực tế hiện nay có rất nhiều
doanh nghiệp vi phạm pháp luật hình sự về ATTP.
Thứ ba, hoàn thiện các nội dung khác của pháp luật về ATTP
- Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia theo hướng phải phù
hợp với trình độ phát triển, trình độ dân trí, phù hợp với hiện trạng nền kinh
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý Nhà nước về ATTP và đảm bảo phát
triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Cần có các quy định khuyến khích
áp dụng các tiêu chuẩn ATTP của các nước trên thế giới vào Việt Nam cũng
như áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế hiện đại.
Cần tiếp tục xây dựng, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
ATTP… phù hợp với các yêu cầu của Luật ATTP năm 2010, đồng thời định
kỳ rà soát lại hệ thống quy chuẩn ATTP đã ban hành để có những sửa đổi, bổ
sung phù hợp; nghiên cứu, xem xét, bãi bỏ các quy chuẩn không phù hợp.
- Ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân, cộng
đồng tham gia quản lý ATTP.
Trong công tác quản lý ATTP, cộng đồng dân cư có vai trò hết sức
quan trọng đây là lực lượng trực tiếp giám sát. Pháp luật cần có các nội dung
điều chỉnh về vấn đề này như quy định về xây dựng và phát triển lực lượng
tình nguyện viên bảo đảm ATTP; tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các
đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo đảm ATTP
của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân; các chế tài kiểm soát đối với việc cản
trở cộng đồng tham gia hoạt động quản lý ATTP.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách huy động các nguồn vốn cho hoạt
động ATTP, bao gồm nguồn vốn: ngân sách Nhà nước, xã hội, ODA và các
nguồn khác như kinh phí t cấp phép sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
92
3.2.2. Nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm
Xuất phát t thực tế khách quan trong thời gian qua ở huyện Nghĩa
Hành, mặc dù nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật
về ATTP tuy đã được đổi mới, đa dạng, nhưng chưa đồng đều và hiệu quả
chưa cao. Do đó, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong triển khai các nội
dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP trong
thời gian tới ở huyện Nghĩa Hành là rất cần thiết.
Thứ nhất, đổi mới nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP
Đây được coi là một trong những biện pháp trung tâm trong những biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật về ATTP trên địa bàn huyện
Nghĩa Hành.Trước tiên, chúng ta phải xác định rõ nội dung pháp luật cần
tuyên truyền và các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về ATTP phù
hợp với mỗi đối tượng gắn với nhiệm vụ chính trị và yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương trong t ng thời điểm. Xây dựng tài liệu phục vụ
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP, đồng thời tiến hành phổ
biến các quy định pháp luật, đẩy mạnh trợ giúp pháp lý mang tính thiết thực.
Đẩy mạnh công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, vận động
chấp hành pháp luật, cung cấp các tài liệu, văn bản pháp luật.
Quá trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến ATTP sẽ chú ý đến các
quy định của pháp luật có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Muốn pháp luật an toàn
thực phẩm được cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm biết đến và chấp hành
nghiêm chỉnh thì trước tiên họ phải biết đến quy định đó. Sau đó họ phải thấy
được đó là quy định hợp lý, bảo vệ được quyền lợi của họ, đồng thời tạo được
sức mạnh răn đe.
Hiện nay, trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP ở
huyện Nghĩa Hành, hạn chế lớn nhất là còn nặng về lý thuyết, nội dung đơn
93
điệu, chủ yếu cung cấp những quy định chung chung của pháp luật nên
người nghe dễ nhàm chán. Việc chuẩn bị nội dung của báo cáo viên còn
tùy tiện, nhiều lúc chưa đi vào trọng tâm, chưa gắn với thực tế các đối
tượng. Do vậy, cần đổi mới nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP
theo hướng không chỉ đáp ứng nhu cầu kiến thức cơ bản về pháp luật, mà
còn phải thiết thực, đáp ứng yêu cầu thực tiễn để một mặt nâng cao trình độ
nhận thức cho các đối tượng, mặt khác giúp họ có khả năng vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn.
Đối với huyện Nghĩa Hành, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có
điều kiện và trình độ khác nhau. Vì vậy, nội dung phổ biến, giáo dục pháp
luật về ATTP dễ hiểu. Đồng thời, phải khảo sát nắm bắt nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trong Huyện.
Thứ hai, đổi mới về hình thức tổ chức
Trước hết, tăng cường hình thức phổ biến, tuyên truyền miệng. Đây
là hình thức phổ biến, giáo dục rất hiệu quả, nó không chỉ truyền đạt thông
tin mà còn truyền cảm xúc, thái độ, tình cảm sang người nghe, làm cho
người nghe đón nhận thông tin bằng cả lý trí và tình cảm của mình. Bởi
vậy, cần đa dạng hóa hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật,
không chỉ thông qua buổi tập huấn mà bằng những cách thức như tọa đàm,
buổi nói chuyện, hoạt cảnh tình huống, các phương tiện thông tin đại chúng
như Đài phát thanh, Đài truyền thanh 12 xã, thị trấn..., xây dựng trang web
riêng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về ATTP để cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm có thể cập nhật thông tin, trao đổi, bàn luận và tìm
hướng giải quyết cho những vấn đề về đảm bảo ATTP.
Phát huy tối đa hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng trong
việc nâng cao nhận thức về ATTP. Tổ chức biên soạn hệ thống chương trình
phát thanh, truyền hình để chuyển tải đầy đủ nội dung về trách nhiệm bảo
94
đảm ATTP của cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; phổ cập và nâng cao
hiểu biết về ATTP, cung cấp thông tin về ATTP; cổ động, nêu gương điển
hình trong hoạt động bảo đảm ATTP.
Thứ ba, nâng cao nhận thức thông qua tập huấn kiến thức về ATTP cho
chủ và nhân viên các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; qua các buổi
triển khai văn bản pháp luật, đưa thông tin đến với nhân dân, người tiêu dùng.
Phát triển các hình thức dịch vụ pháp lý bao gồm cả thu phí và miễn
phí, bảo đảm sự cân đối, hài hoà giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu
hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Mở rộng và phát
triển các thành phần cung ứng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí để phục vụ
cho mọi tầng lớp nhân dân; đồng thời, xã hội hoá các dịch vụ pháp lý mà xã
hội có thể tự tổ chức, đi đôi với tăng cường công tác quản lý Nhà nước, bảo
đảm bảo cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm có nhu cầu đều nhận được
dịch vụ có chất lượng. Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm, công khai hoá các
hành vi vi phạm trong việc tổ chức thực thi pháp luật, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, thiết thực trong việc tuân thủ pháp luật các cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm.
Thứ tư, thông qua các hoạt động của các Hội đoàn thể, tố chức của
đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội người cao tuổi,… để phổ biến
các chính sách pháp luật mới, tác dụng của việc chấp hành nghiêm chỉnh quy
định của pháp luật an toàn thực phẩm đối với sức khỏe của toàn dân nói
chung và sức khỏe, sự an toàn của người tiêu dùng nói riêng.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan của Nhà nước với nhau;
giữa cơ quan của Nhà nước với các tổ chức đoàn thể xã hội và quy chế phối
hợp giữa các tổ chức đoàn thể xã hội với nhau trong việc thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình được pháp luật dự liệu. Đồng thời, thực hiện các giải pháp để tổ chức
95
thực hiện các văn bản pháp luật đã được ban hành cũng như thực hiện việc tư
vấn, phổ biến, giáo dục pháp luật đến với mọi công dân cũng như các thành
viên, hội viên của tổ chức mình.
Thứ năm, thông qua cơ chế xử lý và khuyến khích khen thưởng
Xây dựng và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong công tác
đảm bảo ATTP, nhân rộng các hình thức thu hút đông đảo nhân dân tham gia
đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật ngay tại khu dân cư. Xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật
đều phải bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật không kể người vi phạm là
ai, ở cương vị nào. Thực hiện tốt công tác khen thưởng đối với cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm thực hiện tốt việc chấp hành pháp luật ATTP.
Phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn thực phẩm cần tiến hành thường
xuyên, liên tục, tác động dần qua t ng ngày t ng tháng để người dân thuộc và
hiểu luật, ý thức rõ được mối nguy hại lớn t những nguồn thực phẩm, hàng
hóa không đảm bảo. ATTP có tầm quan trọng sống còn đối với sức khỏe,
hạnh phúc của t ng người dân, giống nòi dân tộc và sự phát triển đất nước ta,
trở thành thách thức an ninh phi truyền thống. Bảo đảm ATTP là một nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, v a cấp bách, v a lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp, trước hết là của
người đứng đầu; là chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm ở các cấp [2].
Việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác đảm bảo an
toàn thực phẩm nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thái độ và hành vi, ý
thức, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối với sức khỏe
cộng đồng. Do đó cấp ủy đảng, chính quyền các cấp ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, đưa công tác bảo đảm
ATTP vào nội dung thảo luận ở các kỳ đại hội và các văn kiện, nghị quyết,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; là một nội dung sinh
96
hoạt thường kỳ của chi bộ nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của mỗi cán
bộ, đảng viên trong công tác bảo đảm ATTP nói chung và bảo vệ bữa ăn của
t ng gia đình nói riêng. Qua đó các ngành, các cấp ủy đảng, chính quyền nâng
cao trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện đối với công tác chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong đó có công tác bảo đảm ATTP.
3.2.3. Nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức trong
quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm không phải là vấn đề chuyên môn sức khỏe thuần
túy, mà liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, an sinh, an toàn xã hội,
hợp tác quốc tế, an ninh quốc gia... do đó công tác quản lý an toàn thực phẩm
phải là công tác liên ngành và gắn liền với chính sách phát triển kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của nhà nước. Công tác này phải được
đầu tư nguồn lực (nhân lực, vật lực) tương xứng với yêu cầu thực tiễn. Phải
coi công tác đầu tư cho an toàn thực phẩm là đầu tư cho phát triển, an toàn và
an sinh xã hội. Cần nâng cao trách nhiệm, đạo đức công vụ của cán bộ, công
chức trong quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Muốn việc thực hiện pháp luật được nghiêm minh, không bỏ sót sai
phạm thì ngoài hệ thống pháp luật cần sửa đổi thì vấn đề ưu tiên hàng đầu là
phải nâng cao trách nhiệm, đạo đức và năng lực của cán bộ, công chức, người
rèn luyện, trau dồi và nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, đề cao nhiệm
tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Cán bộ, công chức phải luôn
vụ, công vụ trong thực hiện đường lối chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước. Trình độ chuyên môn và năng lực công tác ngày càng
phải được đào tạo, bồi dưỡng, t ng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công
tác quản lý nhà nước về ATTP. Đào tạo nguồn cán bộ, công chức với chất
lượng chuẩn, tuyển chọn phải hết sức cẩn trọng, khách quan và công bằng.
Phải có chính sách để thu hút nhân tài, tạo môi trường và mọi điều kiện để họ
97
phát triển, cụ thể: các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở phải chú trọng đúng
mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, không ng ng tạo điều kiện để cán bộ, công chức trau dồi kiến thức, kỹ
năng nghiệp vụ quản lý nhà nước; Bồi dưỡng tính chuyên nghiệp của đội ngũ
cán bộ, công chức trong xử lý, giải quyết công việc và đặc biệt là trong công
tác tổ chức thực hiện pháp luật ATTP.
Với thực trạng của huyện Nghĩa Hành hiện nay thì nhân lực đúng
chuyên môn ATTP mới có 01 viên chức tốt nghiệp Cao đẳng Công nghệ thực
phẩm – Thuộc Trung tâm Y tế huyện. Còn lại các cơ quan chủ chốt trong
quản lý ATTP không có chuyên môn ATTP, tuyển dụng theo cơ chế cũ nên
tốt nghiệp chuyên ngành không phù hợp. Cần tuyển dụng mới chuyên trách
ATTP phải tốt nghiệp đúng chuyên ngành thì mới đủ năng lực, trình độ
chuyên môn để điều hành và quản lý tốt lĩnh vực ATTP. Cần tăng cường biên
chế cho đội ngũ chuyên trách ATTP của tuyến xã, thị trấn.
Ở địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người tiếp
xúc gần nhất đối với người dân, do đó cần phải tuyển chọn những người đáp
ứng đủ các tiêu chuẩn trình độ đào tạo theo quy định. Tỉnh Quảng Ngãi đã
thay đổi phương thức thi tuyển đầu vào của công chức cấp xã là thi tại tuyến
tỉnh chứ không thi tại tuyến huyện như trước, phương thức thi tuyển chuyên
nghiệp hơn, giúp cho việc tuyển công chức cấp xã chất lượng hơn. Trong thời
gian tới, tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục áp dụng chính sách thu hút nhân tài về phục
vụ cho các cơ quan hành chính nhà nước, tiếp tục đổi mới công tác tuyển
chọn cán bộ, công chức. Chú trọng tăng cường công tác nâng cao năng lực
của đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao,
tận tụy phục vụ nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm.
98
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác tổ chức thực hiện pháp luật ATTP, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
(1) Cần quan tâm bố trí cán bộ, công chức phù hợp, đảm bảo số lượng
và chất lượng cho ngành Y tế, Công Thương, NN&PTNT (vì đây là cơ quan
chuyên môn giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước về ATTP).
(2) Nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới công
tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ, công chức của cấp ủy Đảng và cơ quan quản lý
các cấp, thay đổi tư duy duy tình, đánh giá theo năng lực và bổ nhiệm theo
khả năng đảm nhiệm vị trí công tác. Cán bộ, công chức đi học phải nêu cao
tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc học tập, nâng cao trình độ, xác định
học tập để nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn, hướng tới việc thực hiện
tốt hơn nhiệm vụ, công việc được giao.
(3) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cụ thể hóa chủ
trương chính sách của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, trong đó chú trọng đến chính sách đãi
ngộ, hỗ trợ các đối tượng được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nhất là các đối tượng
ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có nhiều khó khăn.
(4) Thực hiện cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức làm cơ sở cho xác
định vị trí việc làm đã được UBND tỉnh phê duyệt và đào tạo theo vị trí việc
làm. Xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, khả thi, thiết thực; đào
tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng, có trọng tâm trọng điểm, không phân đều các
chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng.
(5) Hàng năm, địa phương có kế hoạch cử cán bộ, công chức làm công
tác ATTP đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Đồng thời thông qua
các hội nghị chuyên đề, các lớp tập huấn, thông qua công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật để nâng cao năng lực chuyên môn; đặc biệt là qua thực
99
tiễn giải quyết các vụ việc cụ thể để rút kinh nghiệm. Chú trọng rèn luyện
phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
(6) Xây dựng, kiện toàn các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở các bộ, ngành
và địa phương. Tăng cường việc xây dựng đội ngũ báo cáo viên đủ về số
lượng, có kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật ATTP. Việc đầu tư cho đội
ngũ báo cáo viên pháp luật là rất quan trọng, bởi hoạt động chủ yếu của đội
ngũ này là mang pháp luật đến gần với cán bộ, công chức, người dân thông
qua việc chuyển tải nội dung mới, những nội dung pháp luật cần thiết phục vụ
cuộc sống.
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức
thực hiện pháp luật ATTP phải kiên quyết xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi
phạm pháp luật ATTP để t đó kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương. Yếu tố quan trọng trong hiệu quả của việc tổ chức thực hiện
pháp luật đó là yếu tố con người, việc các cá nhân, tổ chức không thực hiện
tốt trách nhiệm của của mình dẫn đến hiệu quả của công tác không cao, hạn
chế, chính vì thế cần phải có các biện pháp và hình thức kịp thời xử lý, ngăn
chặn để xóa bỏ những tồn tại, hạn chế, gây kìm hãm công tác tổ chức thực
hiện pháp luật.
3.2.4. Thanh tra, kiểm tra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, công
khai mọi hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
Trong bối cảnh như hiện nay khi mà ý thức chấp hành pháp luật của
người sản xuất, kinh doanh thực phẩm còn thấp, bất chấp tất cả để đạt được
lợi nhuận cao nhất. Thì không thể không có sự siết chặt quản lý t các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đặc biệt thông qua công tác thanh, kiểm tra các
cơ sở, các hộ sản xuất và kinh doanh thực phẩm, hàng tiêu dùng.
Nhưng thực tế hiện nay công tác này hiệu quả hoạt động này tại huyện
Nghĩa Hành còn rất thấp do chỉ làm mang tính chất hình thức, giơ cao đánh
100
khẽ, hoặc làm theo phong trào, theo dịp lễ hội hè. Khi các tháng cao điểm qua
đi thì lại xuất hiện đánh trống bỏ dùi. Do đó lại xuất hiện sai phạm, thâm chí
tái phạm nhiều lần. Vì thế về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền quản lý ATTP tại huyện Nghĩa Hành phải làm tốt công việc của
mình.
Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra ATTP trên địa bàn
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
(1) Sự chỉ đạo quyết liệt của người đứng đầu là Chủ tịch UBND các cấp
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong công tác thanh, kiểm tra; quán triệt đến
toàn thể cán bộ, công chức, viên chức tham gia Đoàn thanh, kiểm tra thực
hiện đúng trách nhiệm, công khai, minh bạch trong quá trình thanh, kiểm tra.
(2) Việc thanh tra, kiểm tra cần thực hiện đột xuất, thường xuyên,
không nằm trong kế hoạch được xây dựng trước nhằm phát hiện kịp thời, xử
lý nghiêm những hành vi vi phạm về đảm bảo an toàn thực phẩm, công khai
trên phương tiện thông tin đại chúng, tránh nể nang, tạo sức mạnh răn đe
trong dư luận.
(3) Tăng cường các hoạt động kiểm tra chuyên ngành và liên ngành
trong công tác đảm bảo ATTP.
(4) Thí điểm thành lập Ban Quản lý An toàn thực phẩm tỉnh Quảng
Ngãi là cơ quan thuộc UBND tỉnh (Như mô hình của tỉnh Bắc Ninh, hoạt
động rất hiệu quả); Ban Quản lý An toàn thực phẩm tỉnh thực hiện chức năng
giúp UBND tỉnh tổ chức thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, thẩm
quyền của thanh tra chuyên ngành về an toàn thực phẩm.
Triển khai đồng bộ thanh tra chuyên ngành ATTP t tỉnh đến tuyến
huyện. Mở rộng mô hình thí điểm thanh tra chuyên ngành ATTP ở tuyến
huyện, xã, thị trấn tại huyện Nghĩa Hành.
101
(5) Thường xuyên kiểm tra bằng test nhanh đối với các nhóm hàng thực
phẩm để cảnh báo kịp thời các nguy cơ cho các hộ kinh doanh và người tiêu
dùng. Kiểm nghiệm thường xuyên đối với thực phẩm có nguy cơ cao, để kịp
thời phát hiện các vi phạm về ATTP, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
(6) Cần thành lập bộ máy của ngành Công Thương, NN&PTNT chuyên
trách về ATTP tại các xã để công tác thanh, kiểm tra đạt hiệu quả.
(7) Khi phát hiện vi phạm phải xử lý theo đúng quy định của pháp luật;
không nương nhẹ; tuyệt đối không để thực phẩm không bảo đảm ATTP được
phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra lưu thông trên thị trường.
Các khâu nêu trên đều được thực hiện nghiêm chỉnh và tích cực thì chắc
chắn vấn đề an toàn thực phẩm sẽ không còn là vấn đề khiến cả xã hội phải nhức
nhối như hiện nay nữa.
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức, có hệ thống bằng pháp luật,
nhằm điều chỉnh có hiệu lực, hiệu quả các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà
nước. Trong quá trình tác động, điều chỉnh pháp luật, phải thường xuyên tiến
hành công tác kiểm tra, giám sát loại tr những hành vi không hợp pháp ra khỏi
đời sống nhà nước. Có thể thấy công tác kiểm tra là một khâu nằm trong quá
trình quản lý nhà nước, thiếu khâu này sẽ kém hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy cần
tăng cường công tác thanh, kiểm tra, phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh,
công khai mọi hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm
3.3.5. Nâng cao vai trò của ngƣời dân trong tổ chức thực hiện pháp luật
an toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm - trách nhiệm không của riêng ai. Phát huy vai trò
của nhân dân trong việc đấu tranh, phát hiện, tố giác các hành vi vi phạm các
quy định về bảo đảm ATTP. Tổ chức thực hiện pháp luật ATTP là làm sao
đảm bảo cho công dân được thực hiện trọn vẹn quyền của mình, được làm tất
102
cả những gì pháp luật không cấm để t đó bảo vệ được bản thân, gia đình, tổ
chức, cá nhân khác, và nói rộng hơn là trật tự an toàn xã hội.
Để nâng cao vai trò của người dân trong tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi cần thực
hiện tốt một số nội dung sau:
(1) Nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật ATTP bằng cách
tuyên truyền, giáo dục pháp luật ATTP hướng đến mục tiêu hình thành cho
mọi người ý thức pháp luật. Mỗi người dân và cộng đồng xã hội cần lên án
mạnh mẽ với các hành vi vi phạm đạo đức trong sản xuất, kinh doanh, chế
biến không đảm bảo ATTP. Sự vào cuộc quyết liệt của cả cộng đồng để người
dân được sử dụng thực phẩm sạch; để bảo vệ sức khỏe của bản thân, của
người thân, gia đình, cộng đồng.
(2) Có cơ chế phù hợp (như đường dây nóng) để tiếp nhận phản ánh
của nhân dân, báo chí về vi phạm ATTP và xử lý nghiêm, kịp thời.
(3) Có hình thức tôn vinh, khen thưởng đối với cá nhân phát hiện và
cung cấp thông tin về sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn.
3.3.6. Đảm bảo nguồn lực vật chất phục vụ tổ chức thực hiện pháp luật an
toàn thực phẩm
Để quản lý mọi mặt hoạt động trong điều kiện phát triển hiện nay, Nhà
nước phải luôn tăng cường các nguồn lực vật chất vả nhân sự, trong đó nguồn
lực vật chất tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Chú trọng việc bố trí
đảm bảo kinh phí thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật, tính toán
mức chi hợp lý, toàn diện cho các hoạt động. Việc đầu tư trang thiết bị kỹ
thuật và phương tiện hiện đại để hỗ trợ các quá trình quản lý của Nhà nước
hiện đã trở thành nguyên lý phát triển. Nếu các điều kiện vật chất kỹ thuật đáp
ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác tổ chức thực hiện pháp
luật an toàn thực phẩm luôn được tăng cường.
103
Nguồn lực vật chất là điều kiện vật chất không thể thiếu cho hoạt động
tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm. Do đó trong quá trình thực
hiện phải luôn luôn đáp ứng đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, nguồn tài
chính. Trong Bản chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020
và tầm nhìn 2030 cũng đã đưa ra các nhóm giải pháp cho việc thực hiện an
toàn thực phẩm cho quốc gia. Một trong số đó là giải pháp về tăng cường đầu
tư kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ. Có đáp ứng được điều kiện
về cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ và nguồn tài chính thì công tác thực
hiện pháp luật an toàn thực phẩm mới có thể triển khai hiệu quả trên thực tế,
bắt kịp với xu hướng kiểm soát an toàn thực phẩm trên thế giới.
Tỉnh Quảng Ngãi cần sớm có phương án đảm bảo kinh phí cho công
tác quản lý ATTP t tuyến tỉnh đến tuyến huyện, xã, theo hướng cho phép các
ngành, các địa phương chủ động sử dụng toàn bộ số tiền phạt vi phạm ATTP
và có kinh phí tăng cường t ngân sách nhà nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu
công tác này, đặc biệt là kinh phí cho kiểm nghiệm, xử lý, tiêu hủy thực phẩm
không an toàn.
Kiện toàn Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Chi cục Quản lý chất
lượng Nông Lâm sản và Thủy sản tại tuyến tỉnh về nhân lực, trang thiết bị, cơ
sở vật chất đủ khả năng đảm nhận quản lý ATTP.
Đầu tư hạ tầng, trang thiết bị cho các Labo tuyến tỉnh và xây dựng
Labo tuyến huyện đóng vai trò là Labo kiểm chứng về ATTP. Đầu tư kinh phí
nâng cấp một số phòng thí nghiệm để đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, nâng
cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có. Nâng cao tỷ lệ số phòng
kiểm nghiệm đạt chuẩn ISO 17025 và GLP. Tăng khả năng kiểm nghiệm các
chỉ tiêu.
Nếu có thể thực hiện tốt những giải pháp trên thì chắc chắn trong tương
lai không xa chúng ta sẽ được sử dụng những thực phẩm sạch và an toàn.
104
Tiểu kết chƣơng 3
Trong chương 3, quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp
luật ATTP trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn đã tập
trung làm rõ 02 nội dung chính:
- Phân tích 03 quan điểm bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật ATTP
trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
- T thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP, luận văn đã đi sâu
nghiên cứu, đề xuất:
Nhóm giải pháp đảm bảo tổ chức thực hiện pháp an toàn thực phẩm hoàn
thiện pháp luật về ATTP, trong đó trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện pháp luật
an toàn thực phẩm; nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao
trách nhiệm đạo đức công vụ của cán bộ, công chức trong quản lý nhà nước
về ATTP; thanh tra, kiểm tra phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, công
khai; đảm bảo nguồn lực vật chất.
105
KẾT LUẬN
Qua những phân tích và nghiên cứu trên có thể thấy vấn đề an toàn thực
phẩm là vấn đề của mọi thời đại và trong thời điểm hiện nay nó đang là một
vấn nạn nóng hơn bao giờ hết. Khi mà, nguồn thực phẩm làm ra ngày càng
nhiều và vô cùng phong phú về chủng loại, chất lượng, giá thành, thành phần.
Tuy nhiên sự gia tăng về số lượng, chủng loại lại không đi cùng sự đảm bảo về
chất lượng, ngồn gốc, thành phần. Kéo theo đó là mặt trái của cơ chế thị
trường, sự hấp dẫn chết người của các loại hóa chất, phụ gia giúp tăng trưởng
số lượng thực phẩm và làm mới về chất lượng bề ngoài, sức hút của lợi nhuận
kinh tế đã đẩy người tiêu dùng nói chung rơi vào tình trạng vô cùng hoang
mang, lo lắng.
Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP thì trước
hết và trên hết phải hoàn thiện pháp luật về ATTP, hạn chế những tồn tại, yếu
kém, những bất cập, hạn chế trong thực hiện pháp luật về ATTP. Mặt khác
phải tăng cường huy động đầy đủ, tối đa các nguồn lực, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực sẽ là giải pháp cốt lõi để bảo đảm ATTP có hiệu quả và bền vững.
Các bộ, ngành, địa phương, đoàn thể xã hội căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ
của mình có trách nhiệm trực tiếp trong việc chủ động, triển khai đồng bộ,
quyết liệt các giải pháp để huy động đầy đủ và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực để kiểm soát ATTP.
Bảo đảm ATTP thực sự là một cuộc chiến lâu dài, gian khó của cả xã
hội và gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Để duy trì phát huy
hiệu quả và sự bền vững trong công tác bảo đảm ATTP, trong thời gian tới
cần tiếp tục triển khai các giải pháp đồng bộ, quyết liệt, triệt để hơn nữa các
quy định của pháp luật về ATTP với sự tham gia đầy đủ của nhà sản xuất,
kinh doanh thực phẩm - nhà khoa học - nhà quản lý và người tiêu dùng. Trong
đó, điểm mấu chốt nhất đó là sự đồng thuận, quyết liệt, triệt để của các cơ
106
quan quản lý, các ngành, các cấp trong việc triển khai toàn diện các biện pháp
phòng chống ngộ độc thực phẩm theo chức năng, nhiệm vụ.
Huyện Nghĩa Hành là đồng bằng nhưng đời sống kinh tế còn khó khăn,
do đó công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về ATTP chưa sâu rộng, chưa
làm thay đổi được các hành vi theo pháp luật về ATTP; đội ngũ cán bộ, công
chức của huyện còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, phần lớn chưa qua
đào tạo, bồi dưỡng về quản lý ATTP do đó việc hiểu và áp dụng pháp luật về
ATTP còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị trên địa bàn còn diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định... do đó ít nhiều ảnh hưởng đến
thực hiện pháp luật về ATTP.
T việc phân tích những vấn đề lý luận của pháp luật về an toàn thực
phẩm, những nội dung chủ yếu của pháp luật về ATTP; phân tích, đánh giá
thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm trên địa bàn; luận
văn đã đánh giá những hạn chế, yếu kém của pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật về ATTP, phân tích, làm rõ nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để
t đó xây dựng các quan điểm bảo đảm ATTP trong giai đoạn hiện nay của
nước ta đồng thời đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP cũng
như những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật về ATTP t thực tiễn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi trong thời
gian tới.
Do điều kiện công tác bận rộn và khả năng nghiên cứu của tác giả còn
hạn chế, luận văn này không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định.
Tác giả luận văn rất mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến chân thành
của các nhà khoa học và các thầy, cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn./.
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư (2011), Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong
tình hình mới.
2. Ban Bí thư (2017), Kết luận số 11-KL/TW ngày 19/01/2017 về việc
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 08-CT/TW ngày 21/10/2011 của Ban Bí
thư tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực
phẩm trong tình hình mới.
3. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 46 -NQ/TW ngày 25/02/2005 về
tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong tình hình mới.
4. Bộ chính trị (2009), Kết luận số 43-KL/TW ngày 01/4/2009 về 3 năm
thực hiện Nghị quyết số 46- NQ/TW ngày 25/02/2005 của Bộ Chính trị
về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân trong tình hình mới.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2011), Thông tư số
14/2011/TT-BNNPTNT ngày 29/3/2011 quy định việc kiểm tra, đánh
giá cơ sở sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp và sản phẩm nông
lâm thủy sản.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014), Thông tư số
45/TTBNNPTNT ngày 03/12/2014 quy định việc kiểm tra cơ sở sản
xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và kiểm tra, chứng nhận cơ sở sản
xuất kinh doanh nông lâm thủy sản đủ điều kiện an toàn thực phẩm.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2014), Thông tư số
51/TTBNNPTNT ngày 27/12/2014 quy định điều kiện bảo đảm an
108
toàn thực phẩm và phương thức quản lý các cơ sở sản xuất ban đầu
nhỏ lẻ.
8. Bộ Y tế (2012), Thông tư 15/TT-BYT ngày 12/9/2012 quy định về điều
kiện chung bảo đảm an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất, kinh
doanh thực phẩm.
9. Bộ Y Tế (2012), Thông tư 26/2012/TT - BYT ngày 30/11/2012 quy
định cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng, thực phẩm
tăng cường vi chất dinh dưỡng, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế
biến thực phẩm, nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai; dụng
cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của
Bộ Y tế.
10. Bộ Y tế (2012), Thông tư 30/2012/TT-BYT ngày 05/12/2012 quy định
về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn
uống, kinh doanh thức ăn đường phố.
11. Bộ Y tế (2014), Thông tư số 47/2014/TT-BYT ngày 11/12/2014
hướng dẫn quản lý an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch
vụ ăn uống.
12. Bộ Y tế - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Bộ Công thương
(2014), Thông tư liên tịch 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT
hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm.
13. Chính phủ (2004), Nghị định 163/2004/NĐ-CP ngày 07/9/2004 quy
định chi tiết một số điều của Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm
14. Chính phủ (2008), Nghị định số 79/2008/NĐ-CP ngày 18/7/2008 quy
định các cơ quan giúp Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.
109
15. Chính phủ (2012), Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04/01/2012 phê
duyệt Chiến lược Quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011-2020 và
tầm nhìn 2030.
16. Chính phủ (2012), Quyết định 1228/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 về phê
duyệt chương trình mục tiêu quốc gia vệ sinh an toàn thực phẩm giai
đoạn 2012-2015.
17. Chính phủ (2013), Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm.
18. Chính phủ (2013), Nghị định 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản
xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng.
19. Chính phủ (2014), Nghị định số 12/VBHN-BNNPTNT ngày
25/02/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Thú
y.
20. Chính phủ (2018), Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 về
việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực
phẩm.
21. Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp
luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
22. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2003), Giáo trình Lịch sử Nhà
nước
23. Đỗ Mười (1995), Thư gửi cán bộ, công chức ngành Tư pháp nhân kỷ
niệm 65 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp Việt Nam, Hà Nội.
24. Nguyễn Công Khẩn (2009), Đảm bảo an toàn thực phẩm ở Việt Nam:
thách thức và triển vọng. Hội nghị Khoa học Toàn quốc Hội Y tế Công
cộng Việt Nam lần thứ V.
110
25. Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật (1997), Trường Đại học
Luật Hà Nội, Tr449. Nhà xuất bản Công an Nhân dân.
26. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước và pháp
luật (2004), Tài liệu học tập, nghiên cứu lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Tập 1, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội.
27. Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
28. Trần Việt Nga - Phó Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế
(2017), “Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm: Thực trạng và giải
pháp”. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 02 + 03.
29. Phòng NN&PTNT huyện Nghĩa Hành (2017), Báo cáo số liệu việc
thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực
ngành nông nghiệp giai đoạn 2012-2017.
30. Phòng Y tế huyện Nghĩa Hành (2013), Báo cáo kết quả hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2013 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2014.
31. Phòng Y tế huyện Nghĩa Hành (2014), Báo cáo kết quả hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2014 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2015 .
32. Phòng Y tế huyện Nghĩa Hành (2015), Báo cáo kết quả hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2015 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2016.
33. Phòng Y tế huyện Nghĩa Hành (2016), Báo cáo kết quả hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2016 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2017.
111
34. Phòng Y tế huyện Nghĩa Hành (2017), Báo cáo kết quả hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2017 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2018.
35. Quốc hội (1985) Bộ Luật Hình sự 1985
36. Quốc hội (1999) Bộ Luật Hình sự 1999
37. Quốc hội (2009) Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự 1999
38. Quốc hội (2005), Luật Dược số 34/2005/QH11.
39. Quốc hội (2005), Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005.
40. Quốc hội (2006), Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật số
68/2006/QH11.
41. Quốc hội (2008), Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa số
05/2007/QH12.
42. Quốc hội (2010), Luật An toàn thực phẩm.
43. Quốc hội (2013), Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13.
44. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 30/2005/CT-TTg về việc
“Tăng cường công tác quản lý giết mổ gia súc, gia cầm bảo đảm vệ
sinh an toàn thực phẩm”.
45. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 20/QĐ-TTg ngày 04
tháng 01 năm 2012 về Phê duyệt chiến lược quốc gia an toàn thực
phẩm giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030.
46. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1228/QĐ-TTg ngày
07/9/2012 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Vệ sinh an
toàn thực phẩm giai đoạn 2012 - 2015.
47. Thủ tướng chính phủ (2014), Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 11/12/2014
về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo đảm an toàn thực phẩm và
phòng chống ngộ độc thực phẩm trong tình hình mới.
112
48. Thủ tướng chính phủ (2016), Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 về
việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
49. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2013), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm năm 2013, phương hướng hoạt động
năm 2014.
50. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2014), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm năm 2014, phương hướng hoạt động
năm 2015.
51. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2015), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm năm 2015, phương hướng hoạt động
năm 2016.
52. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2016), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm năm 2016, phương hướng hoạt động
năm 2017.
53. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2017), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm năm 2017, phương hướng hoạt động
năm 2018.
54. Ủy ban nhân dân huyện Nghĩa Hành (2018), Báo cáo công tác quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm 6 tháng đầu năm 2018, phương hướng
hoạt động 6 tháng cuối năm 2018.
55. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Bảo vệ thực vật
số 36/2001/PL-UBNTVQH10".
56. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI (2003), Pháp lệnh vệ sinh an
toàn thực phẩm số 12/2003/PL-UBTVQH11 ngày 26/7/2003
57. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thú y số 18/2004.
58. http://www.baohaiquan.vn
59. http://donga.edu.vn
113
60. http://enternews.vn
61. http://quochoi.org/an-toan-thuc-pham-va-nhung-tac-dong-den-kinh-te-
viet-nam.html
62. http://vietnamnet.vn
63. http://www.vfa.gov.vn
114
PHỤ LỤC
Hình 1. UBND huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi
Hình 2. Đoàn kiểm tra liên ngành huyện kiểm tra tại của hàng tạp hóa
115
Hình 3. Đoàn kiểm tra liên ngành huyện kiểm tra
tại Bếp ăn tập thể - trường mầm non
Hình 4. Lễ phát động tháng hành động vì ATTP
116
Hình 5. Tập huấn kiến thức ATTP cho các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn huyện
Hình 6. Tập huấn nâng cao công tác đảm bảo ATTP cho
cán bộ tuyến xã, huyện, tỉnh Quảng Ngãi
117