ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

TRẦN THẢO NGUYÊN

TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I

CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

(Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Ninh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

TRẦN THẢO NGUYÊN

TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I

CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM

(Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Ninh) Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

TRẦN THẢO NGUYÊN

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu đồ

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG

TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC..... 8

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thƣơng tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong luật hình sự

Việt Nam .............................................................................................. 8

1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

người khác ............................................................................................ 8

1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe người khác trong luật hình sự Việt Nam ................ 11

1.2. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về tội cố ý gây

thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong pháp

luật hình sự ......................................................................................... 12

1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban

hành Bộ luật hình sự năm 1985 .......................................................... 12

1.2.2. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ............ 15

1.2.3. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ............ 17

1.3. Phân biệt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của ngƣời khác với các tội phạm có liên quan khác ............ 20

1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội giết người ...................................................... 20

1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh ................................................................................. 22

1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội chống người thi hành công vụ ....................... 23

Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 26

CHƢƠNG 2: TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN

HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC THEO QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ........................................ 27

2.1. Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời

khác theo quy định của BLHS 2015 ............................................... 27

2.1.1. Điểm mới của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) so với

BLHS 2015 về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác ........................................................................... 27

2.1.2. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe người khác .................................................................... 31

2.1.3. Hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe người khác ........................................................................... 38

2.2. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe ngƣời khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................... 42

2.2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

trong 05 năm từ năm 2014-2018 ........................................................ 42

2.2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt các vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại

TAND tỉnh Quảng Ninh ..................................................................... 44

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 62

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI CỐ

Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC .......................................................... 63

3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

BLHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của ngƣời khác ........................................................................ 63

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

BLHS về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của ngƣời khác ........................................................................ 66

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................................... 66

3.2.2. Các giải pháp về thực tiễn xét xử của tòa án về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............. 70

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật hình sự

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự

Tr: Trang

TAND: Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang Số hiệu Tên bảng, biểu đồ

Bảng 2.1

So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn từ năm 2014 – 2018 43

Bảng 2.2 Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 44

Bảng 2.3

Số liệu thụ lý và giải quyết các vụ án của TAND tỉnh Quảng Ninh theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 - 2018 45

Bảng 2.4

Số liệu số lượng án bị hủy, bị sửa của TAND tỉnh Quảng Ninh theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 – 2018 45

Biểu đồ 2.1 Biểu diễn vụ án hình sự và vụ án cố ý gây thương tích tại

TAND tỉnh Quảng Ninh trong 05 năm tằ 2014 - 2018 43

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền bất khả xâm phạm thân thể, tính mạng là những quyền nhân

thân, gắn liền với mỗi công dân, được ghi nhận là nguyên tắc hiến định tại

Hiến pháp 2013 khẳng định “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân

thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm, không bị tra

tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm

phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [28, Điều 20]. Thể

chế hóa các quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự là công cụ pháp lý sắc

bén, hữu hiệu trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần

quan trọng vào công cuộc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh

của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân;

qua các thời kỳ đều dành một chương riêng để quy định về nhóm tội xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tại BLHS

năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi là BLHS 2015), tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại

Điều 134, trong Chương XIV các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con người.

Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và

tăng cường lãnh đạo đối với các cơ quan tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng

chống các loại tội phạm nói chung và phòng chống tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với

sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở

rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì tình hình tội phạm nói chung và tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng có nhiều

1

diễn biến phức tạp, tính chất thủ đoạn ngày càng manh động và liều lĩnh, vì

vậy công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này luôn là vấn đề cần thiết

đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Trong công tác đấu

tranh phòng, chống các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người thì hoạt

động xét xử của Tòa án nhân dân đối với tội này là vô cùng quan trọng. Xét

xử án hình sự trong đó có xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của người khác để ra các bản án, các quyết định thể hiện tính

nghiêm minh và sự công bằng của pháp luật. Do vậy, tăng cường công tác áp

dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ

án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

nói riêng vừa là nhiệm vụ, trách nhiệm, vừa là đạo đức của cán bộ, công chức

trong hệ thống Tòa án, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của hoạt động xét xử.

Tỉnh Quảng Ninh không phải là địa bàn trọng điểm trên cả nước về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, nhưng

với đặc điểm là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng

điểm phía Bắc. Điều này, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế

trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên mặt trái của sự phát triển trên chính là tạo điều

kiện cho các loại tội phạm gia tăng, trong đó nổi cộm là tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Thực tiễn áp dụng pháp

luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác đã giúp phần quan trọng trong đấu

tranh phòng chống tội phạm. Tuy vậy, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác của Tòa án nhân dân trong tỉnh

Quảng Ninh vẫn còn có những sai sót nhất định, ảnh hưởng đến uy tín của hệ

thống Tòa án, tác động tiêu cực đến lòng tin của nhân dân vào công lý, ảnh

hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây

2

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nói riêng.

BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới được thông qua và có

hiệu lực từ ngày 01/01/2018, tuy nhiên qua nghiên cứu, nội dung quy định

của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã

phát sinh những điểm còn chưa rõ ràng, cần phải có văn bản hướng dẫn để

việc áp dụng trong thực tiễn được chính xác và thống nhất. Xuất phát từ

những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích theo

pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để làm để tài nghiên cứu

cho luận văn Thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thời gian qua, có nhiều công trình nghiên cứu về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới nhiều góc độ khác

nhau. Có thể kể đến như:

* Sách, giáo trình: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình

sự Việt Nam (tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2014; Khoa luật Đại học quốc gia

Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội phạm), Nxb. Đại học quốc gia

Hà Nội, 2007; Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Phần thứ

hai Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con

người, Nxb. Thông tin Truyền thông; Cao Thị Oanh (chủ biên), Giáo trình

luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010;

Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình

sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội tháng 6-2016; Trần Văn Biên và Đinh

Thế Hưng (chủ biên), Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017), Nxb. Thế giới, 2017; Trần Văn Luyện (chủ biên), Bình luận khoa

học bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017) - Phần tội phạm, nxb.

Công an nhân dân, 2017;

3

* Tạp chí: Nguyễn Ngọc Hoà, “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,

nhân phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa BLHS năm 1999 và BLHS

năm 1985”, Tạp chí luật học, số 1/2001; Đỗ Đức Hồng Hà, “Phân biệt tội

giết người với tội cố ý gây thương tích”, Tạp chí toà án nhân dân, số 3/2004,

tr. 7 – 11; Phạm Minh Tuyên, Một số ý kiến về tội Cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật

hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2018.

* Luận văn thạc sĩ: Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Đấu tranh phòng, chống

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa

bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà

Nội, năm 2002; Đặng Thị Hương Dung, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia

Hà Nội, năm 2015; Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại đến sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc

sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014; Lương Minh Phương, Áp

dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con

người của Toà án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2013.

Các công trình nghiên cứu nói trên mới dừng lại ở việc phân tích một

cách tổng quát về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo quy định của BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Bên

cạnh đó những vấn đề thực tiễn cùng những giải pháp kiến nghị dừng lại ở

mức độ khá chung chung và chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn

diện và có hệ thống về loại tội này đặc biệt trong giai đoạn BLHS 2015 (sửa

đổi, bổ sung 2017) mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và trên một địa bàn

4

nhất định là tỉnh Quảng Ninh.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là:

- Làm sáng tỏ Những vấn đề lý luận chung về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định của pháp luật hình sự

qua các giai đoạn lịch sử nhất định. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các tội phạm có liên quan khác.

- Phân tích nội dung, điểm mới quy định về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định của BLHS 2015 và

thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thông qua các

vụ án cụ thể.

- Đề xuất sự cần thiết ban hành văn bản hướng dẫn các quy định của

BLHS 2015 bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn xét xử tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác; các giải pháp nâng

cao chất lượng áp dụng các quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người

khách theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.

- Phạm vi nghiên cứu:

Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS 2015

và các văn bản pháp luật có liên quan khác.

Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian tại tỉnh

Quảng Ninh, cụ thể trong giai đoạn xét xử của TAND tỉnh Quảng Ninh.

Về thời gian: Số liệu nghiên cứu luận văn trong thời gian 05 năm từ

5

năm 2014-2018.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phương pháp luận triết học duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đường lối, chính

sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền.

Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, phát

triển nền kinh tế thị trường và thực tiễn áp dụng.

Bên cạnh đó, học viên còn sử dụng các phương pháp phân tích quy

phạm; tổng hợp, hệ thống, điều tra xã hội học, phương pháp lịch sử, so sánh,

phân tích, đánh giá để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố, học viên

tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn

làm rõ quy định về tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác một cách thống nhất và thực sự khoa học. Luận văn

được trình bày với những nội dung mới như sau:

- Là công trình nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác theo quy định tại BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) tại một địa bàn nhất định là tỉnh Quảng Ninh dưới hình thức luận

văn Thạc sĩ.

- Bổ sung vào cơ sở dữ liệu nghiên cứu về chế định tội phạm cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

- Làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về tội

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

góp phần giúp các cơ quan áp dụng pháp luật đặc biệt là Tòa án, Viện

Kiểm sát, Công an nhân dân có cái nhìn một cách tổng quát và toàn diện

6

loại tội phạm này.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:

Chương 1. Những vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe người khác

Chương 2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

người khác theo quy định của BLHS 2015 và thực tiễn xét xử trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh

Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các

quy định của BLHS về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

7

khỏe của người khác.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƢỜI KHÁC

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thƣơng tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe người khác

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ

luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính

trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã

hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác

của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này

phải bị xử lý hình sự [30].

Sức khỏe có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với mỗi con người, quyết

định trực tiếp đến sự tồn vong, chất lượng cuộc sống của họ. Có nhiều cách

hiểu khác nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường, sức khỏe được

hiểu là tình trạng không có bệnh tật hoặc không có thương tật. Quan điểm

khác lại cho rằng:

Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang

sống trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng

thái tâm lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng

8

chống lại bệnh tật [17, tr. 206, 207].

Còn theo giải thích của Từ điển Bách khoa Việt Nam:

Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm

thần mà không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật;

cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi của

môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có

hiệu quả [16, tr.835].

Hành vi xâm phạm sức khỏe con người là hành vi dùng tác động ngoại

lực hoặc bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây ra những tổn

thương ở các bộ phận trong cơ thể, gây bệnh tật, làm ảnh hưởng đến hoạt

động bình thường của người đó. Nó làm tổn hại đến khả năng suy nghĩ, học

tập, lao động, sáng tạo của nạn nhân. Trong các văn bản pháp luật hình sự từ

trước đến nay đều không đưa ra định nghĩa thế nào là tội cố ý gây thương

thích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong khoa học luật hình

sự, nội dung này đã được nhiều tác giả, các nhà nghiên cứu khoa học đưa ra

khái niệm khác nhau về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Có thể kể đến như:

Tác giả Đinh Văn Quế đưa ra khái niệm:

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc

tổn hại đến sức khoẻ [24, tr.76].

Tác giả Phạm Văn Beo đưa ra định nghĩa:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác là hành vi cố ý gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tỷ lệ tổn hại sức

khỏe cụ thể [37, tr.95].

Đây là những khái niệm, định nghĩa được đưa ra dựa trên khung hình

9

phạt cơ bản quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS 1999 với nội dung mang

tính tổng quát, chưa thể hiện được đầy đủ các bản chất pháp lý của tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Ngoài ra, các

định nghĩa nêu trên đều dựa trên các quy định của BLHS 1999 hiện nay đã hết

hiệu lực thi hành. Trong khi BLHS 2015 đã có hiệu lực thi hành từ

01/01/2018 với những sửa đổi, bổ sung về khái niệm Tội phạm và các dấu

hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác cần có sự nhận định khác. Do đó, cần đưa ra một khái niệm mới

phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành cũng như thể hiện đầy đủ bản

chất pháp lý của các tội phạm này. Việc đưa ra khái niệm về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần phải dựa trên

cơ sở khái niệm tội phạm nói chung và các dấu hiệu pháp lý nói riêng thể hiện

đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo quy định của BLHS Việt Nam nói riêng nhằm nhận diện, xác

định chính xác tội phạm. Trên cơ sở đó, đưa ra được cái nhìn tổng thể, đầy đủ

nhất về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Cũng giống như các loại tội phạm khác, tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mang đầy đủ bản chất pháp lý theo

quy định tại Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, nhưng đồng thời cũng có những

đặc điểm pháp lý riêng biệt quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS 2015. Như

vậy, có thể hiểu “tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác” là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể của

người khác làm cho người đó mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực vốn có

của họ được coi là tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự".

Đây là khái niệm chung cho tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác, tuy nhiên cần lưu ý, Điều 134 BLHS quy

định là 02 tội danh ghép bao gồm 02 tội độc lập là tội Cố ý gây thương tích

10

cho người khác hoặc tội Cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Do

đó, trong thực tiễn áp dụng cần chỉ ra rõ người phạm tội phạm tội cụ thể

nào. Việc phân biệt giữa tội cố ý gây thương tích cho người khác hay tội cố

ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dựa trên hậu quả gây ra cho

người khác là thương tích trên cơ thể, hay tổn hại, suy giảm chức năng của

bộ phận trên cơ thể.

1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe người khác trong luật hình sự Việt Nam

Kế thừa quy định từ Điều 104 BLHS 1999, BLHS 2015 vẫn tiếp tục

quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác là tội danh độc lập tại Điều 134 BLHS 2015. Việc quy định tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 134 thuộc

chương XIV của BLHS 2015 có những ý nghĩa sau đây:

Thứ nhất, Thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người một cách

toàn diện, triệt để. Cuộc sống con người có được khỏe mạnh, thành công hay

không phụ thuộc vào chính sức khỏe, do đó, sức khỏe của mỗi con người là

bất khả xâm phạm, không ai có quyền gây tổn hại, gây thương tích cho thân

thể của người khác trái pháp luật. Việc BLHS quy định tội danh về việc cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cần thiết

góp phần bảo vệ một cách triệt để quyền con người.

Thứ hai, là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần đấu tranh phòng, chống

các hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác. BLHS là văn bản pháp

lý duy nhất quy định hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây

ra hành vi đó cao nhất có thể lên tới tù chung thân. Việc Nhà nước quy định

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và

hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội xuất phát từ nhu cầu thực tiễn,

11

góp phần hiện thực hóa các quy phạm hiến pháp ghi nhận về quyền được bảo

vệ sức khỏe con người. Quy phạm pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tính chất bắt buộc

nghiêm cấm người ta không được thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng sự răn đe áp dụng hình phạt đối với

người phạm tội. Mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng là căn cứ

pháp lý giới hạn trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi

quyền hạn của mình khi phát hiện ra hành vi phạm tội về cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần nhanh chóng tiến hành các

hoạt động tố tụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này khi

đầy đủ điều kiện luật định.

Thứ ba, Thể hiện sự chú trọng của Nhà nước trong việc ban hành các

văn bản pháp luật nhằm bảo vệ tối đa quyền con người. Con người luôn giữ vị

trí trung tâm trong các hoạt động, nhân tố con người chiếm vị trí hàng đầu

trong tổng thể các nhân tố tác động đến sự phát triển đất nước cũng như sự

tồn vong của xã hội hội. Việc Nhà nước ghi nhận các quy phạm bảo vệ quyền

con người mà cụ thể là pháp luật hình sự quy định tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là cần thiết góp phần xây dựng

một quốc gia dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

1.2. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật về tội cố ý gây thƣơng

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời khác trong pháp luật hình sự

1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban

hành Bộ luật hình sự năm 1985

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công giải phóng miền Bắc, đất

nước ta phải đối mặt với nhiệm vụ lớn là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt

giặc ngoại xâm”. Trước tình hình đó, để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội

phạm, Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh trên các lĩnh vực để điều chỉnh

một số mối quan hệ xã hội, nhưng các văn bản pháp luật nói chung và các văn

12

bản pháp luật hình sự nói riêng không đủ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Ngày 19/01/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 442 quy

định về việc trừng trị một số tội phạm. Đây có thể coi là văn bản pháp luật

đầu tiên chính thức quy định về tội cố ý gây thương tích. Theo đó, tại khoản 3

của Thông tư quy định:

- Đánh bị thương: phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.

- Đánh bị thương có tổ chức hoặc gây thành cố tật hay chết người có

thể phạt đến 20 năm.

Cụm từ “cố ý gây thương tích” được ghi nhận trong Công văn số

452/HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội

phạm giết người. Nội dung công văn đã có sự đề cập, phân tích các tiêu chí để

phân biệt giữa tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác như sau:

Giữa giết người chưa đạt khi phương pháp giết người là gây thương

tích như bắn, chém, bóp cổ... với cố ý gây thương tích, mặt khách

quan rất giống nhau: cũng đều có những hành vi gây thương tích

cho người khác và không có hậu quả chết người. Nhưng mặt chủ

quan thì khác nhau và do đó, mức độ nguy hiểm cho xã hội thì rất

khác nhau: một bên can phạm mong muốn cho hành vi của mình

gây hậu quả làm chết người nhưng hậu quả đó không xảy ra ngoài ý

muốn của y; một bên can phạm chỉ muốn gây thương tích và cũng

không hề muốn có hậu quả chết người... Nếu xác định được rằng,

can phạm chú ý có những hành vi ít nguy hiểm, ít khả năng gây

chết người, thông thường nên định tội là cố ý gây thương tích [41].

Tại Sắc luật số 03/SL ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình

phạt của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam, tại Điều 5. Tội xâm phạm đến nhân thân và nhân phẩm của công

13

dân đã quy định:

Phạm tội cố ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.

Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm; Phạm tội cố ý

gây thương tích nặng thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường

hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm [15].

Thông tư số 03-BTP/TT ngày 20/4/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ

cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã cụ thể hóa quy định

trên như sau:

Cố ý gây thương tích là hành vi cố ý xâm phạm đến thân thể người

khác với ý định làm cho thân thể người đó bị tổn thương. Trong tội

cố ý gây thương tích, bị cáo chỉ có ý định làm cho người khác bị

thương, mà không hề có ý định cũng như không hề mong muốn làm

cho nạn nhân chết. Có trường hợp tuy bị cáo chỉ cố ý gây thương

tích, nghĩa là chỉ có ý định làm cho người khác bị thương, nhưng do

vết thương quá nặng nên đã làm cho nạn nhân chết. Trường hợp này

không coi là tội cố ý giết người mà vẫn coi là tội cố ý gây thương

tích, nhưng là trường hợp cần xử lý nặng [3].

Nội dung chủ yếu của Thông tư này ghi nhận:

- Đây được coi là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên ghi nhận đề cập

đến khái niệm cố ý gây thương tích cho sức khỏe của người khác.

Quy định tội cố ý gây thương tích với hai khung hình phạt khác nhau:

+ Khung 1: Phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm (Cấu thành cơ bản) được áp

dụng cho trường hợp chỉ gây thương tích mà không có tình tiết tăng nặng định

khung hình phạt.

+ Khung 2: Phạt tù đến 20 năm (Cấu thành định khung tăng nặng) được

áp dụng trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt [3].

Từ nội dung những văn bản pháp lý nêu trên, có thể thấy được tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được ghi nhận

14

trong giai đoạn này thể hiện các nôi dung sau:

Một là, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hình sự quy định tội

cố ý gây thương tích còn nhiều hạn chế, trật tự cũng như nội dung ban hành

văn bản không đúng thẩm quyền (Thông tư của Thủ tướng ban hành có những

nội dung đáng lẽ phải do Quốc hội qui định).

Thứ hai, quy định về tội cố ý gây thương tích trong Thông tư số 442-

TTg và Sắc luật số 03-SL còn đơn giản, chưa thể hiện sự phân hóa cao trách

nhiệm hình sự, về hình thức chỉ có hai khung hình phạt, các tình tiết định

khung tăng nặng hình phạt còn đơn giản, thiếu nhiều tình tiết như: dùng hung

khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người, có tính chất côn

đồ hoặc tái phạm nguy hiểm...[20].

1.2.2. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985

Kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt Nam

qua nhiều giai đoạn, ngày 27/6/1985 được coi là thời điểm đánh dấu chuyển

biến mang tính lịch sử trong quá trình lập pháp của nước ta. Tại kỳ họp thứ 9,

Quốc hội khóa VII, BLHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Trong đó, các tội xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người được quy định tại

Chương II, Điều 109. Quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác có nội dung như sau:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm

hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ

hai năm đến bảy năm:

a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của

người khác;

b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

15

nạn nhân;

c) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

d) Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ

của nhiều người.

3. Phạm tội gây cố tật nặng hoặc dẫn đến chết người thì bị phạt tù

từ năm năm đến hai mươi năm.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản

2 và ở khoản 3 Điều này do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam

giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

Tại BLHS 1985, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác được quy định tại Điều 109 với 04 khung hình phạt.

Trong điều luật này quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác ngoài trường hợp phạm tội thông thường, còn có

các trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng (gây thương tích hoặc gây

tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác, để cản trở người thi hành công vụ

hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân, có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy

hiểm) và các trường hợp định khung giảm nhẹ (do bị kích động mạnh vì

hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng). Việc đưa vào nhiều hành vi với

những tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau vào cùng một điều luật

cũng phần nào giúp cho việc áp dụng dễ hơn khi có sự đối chiếu, So sánh

các hành vi. Tuy nhiên, Điều 109 BLHS 1985 chỉ nêu tên tội danh mà không

mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm, các điểm khoản quy định

còn chung chung, trừu tượng gây khó khăn cho thực tế áp dụng pháp luật.

Để khắc phục những khó khăn kể trên, TAND tối cao đã ban hành nhiều văn

16

bản, hướng dẫn thi hành điều luật này, có thể kể đến như Nghị quyết số

04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS; Công văn số 03-

TATC ngày 22/10/1987 của TAND tối cao hướng dẫn thực hiện Điều 109

BLHS; Công văn số 311/HS ngày 04/4/1989 của TAND tối cao về việc xác

định tỷ lệ thương tật cả người bị thương tích; Nghị quyết số 01HĐTP/NQ

ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn bổ sung

việc áp dụng một số quy định của BLHS.

Để tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS 1985, ngày 28/12/1989,

Quốc hội đã thông qua Luật số 30-LCT/HĐNN8 sửa đổi, bổ sung một số điều

của BLHS 1985, trong đó có Điều 109. Theo đó, bổ sung thêm điểm d khoản

2 Điều 109 như sau: “Gây thương tích cho nhiều người hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của nhiều người". Đồng thời cũng đã bổ sung vào khoản 3 như sau:

"Phạm tội gây cố tật nặng, dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc

biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm".

Trong ba lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 1985 tiếp theo vào các

năm 1991, 1992, 1997, nội dung Điều 109 về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không có gì thay đổi, điều đó minh

chứng quy phạm pháp luật quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác mang tính định hướng cao, phù hợp với thực

tiễn. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 và các văn bản hướng dẫn là

những quy phạm định hướng tạo cơ sở, tiền để quan trọng trong xây dựng

Điều luật hoàn thiện sau này.

1.2.3. Giai đoạn hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

BLHS 1999 đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc phân hóa triệt để

TNHS và hình phạt, nêu cao tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự cũng

như có nhiều điểm mới trong kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta. So với

17

BLHS 1985 thì BLHS 1999 đã có nhiều thay đổi điều chỉnh đối với các tội

phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác nói riêng. Cụ thể, BLHS 1999 đã tách tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 109

BLHS 1985 thành 03 tội độc lập bao gồm: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh (Điều 105); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều

106). Việc tách biệt thành ba tội danh như trên đảm bảo tính chất phân hóa

TNHS xuất phát từ động cơ, mục đích khác nhau và giúp xác định chính xác

mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

từng hành vi.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

được quy định tại Điều 104 như sau:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%

nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho

nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều

người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc

người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo

18

của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến

30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm

từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm

đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người

hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy

định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị

phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc

biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi

năm hoặc tù chung thân.

Như vậy, so với khoản 1 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì trong

khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, đã quy định cụ thể ranh giới

giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự bằng cách lượng hóa tỉ lệ

phần trăm thương tật của nạn nhân. Đáng lưu ý, Bộ luật hình sự năm 1999 đã

luật hóa những quy định tại Công văn số 03/TATC ngày 22/10/1987 về các

trường hợp tuy tỉ lệ thương tật dưới 11% nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm

19

hình sự [20].

Ngày 19 tháng 06 năm 2009, BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung theo

Luật số 37/2009/QH12 tuy nhiên Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 không có gì thay đổi.

1.3. Phân biệt tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của ngƣời khác với các tội phạm có liên quan khác

1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với tội giết người

Phân biệt tội Giết người và Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong thực tiễn rất phức tạp. Dù đã có nhiều hướng

dẫn giải quyết hai tội phạm này như Nghị quyết số 01/NQ ngày 19/4/1989, số

04/NQ ngày 29/11/1996 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) và Công văn số

03/CV ngày 22/10/1987, số 140/CV ngày 11/12/1998 của Tòa án nhân dân tối

cao (TANDTC) nhưng vẫn chưa đáp ứng hết những yêu cầu cụ thể riêng biệt

để áp dụng thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

- Giống nhau: Tội giết người và tội cố ý gây thương tích trong trường

hợp dẫn đến chết người đều có những dấu hiệu giống nhau đó là hậu quả chết

người xảy ra và giữa hậu quả chết người và hành vi phạm tội có mối quan hệ

nhân quả với nhau.

- Khác nhau: Tội giết người được quy định tại Điều 123 BLHS 2015

(sửa đổi bổ sung 2017). Sự khác nhau cơ bản giữa tội “giết người” và tội “cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ” là ý thức

chủ quan của người phạm tội, được chứng minh bởi các yếu tố như các dấu

hiệu thuộc mặt khách quan: hành vi tấn công, vị trí tấn công trên cơ thể người

bị hại, nguyên nhân và thời gian chết của nạn nhân, vũ khí, hung khí tấn công

và cường độ tấn công; hậu quả, mức độ nghiêm trọng của thương tích và các

dấu hiệu thuộc mặt chủ quan: Lỗi, động cơ, mục đích phạm tội.

20

- Về yếu tố lỗi: Đối với tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm

tội giết người có lỗi cố ý với hành vi và cố ý với hậu quả chết người. Nghĩa

là, giữa hành vi phạm tội và hậu quả có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành

vi của người phạm tội là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả chết người

xảy ra. Biểu hiện ở các dạng: Trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính

mạng của người khác, người phạm tội thấy trước được hậu quả chết người tất

yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra (mục đích tước đoạt tính

mạng của nạn nhân); trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng

của người khác, người phạm tội chỉ nhận thức được hậu quả chết người có thể

xảy ra chứ không chắc chắn nhất định xảy ra nhưng họ mong muốn hậu quả

chết người xảy ra, trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm đến tính mạng của

người khác, người thực hiện hành vi nguy hiểm chỉ thấy trước được hậu quả

chết người “có thể xảy ra, tuy không mong muốn hậu quả chết người xảy ra

nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Hậu quả như thế nào người phạm

tội cũng chấp nhận. Trong trường hợp này, nếu hậu quả chết người xảy ra,

người phạm tội phải chịu trách nhiệm về tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp,

nếu hậu quả chết người không xảy ra, người phạm tội phải chịu trách nhiệm

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Ví dụ: Do mâu thuẫn cá nhân. A nảy sinh ý định giết B để trả thù. A đã

mang theo một con dao nhọn, đến tìm B, khi thấy B, A đã lao vào B và dùng

con dao nhọn đã mang theo đâm một nhát vào vùng ngực của B. Dẫn đến hậu

quả B chết. Trong trường hợp này, A phạm tội “giết người”.

Trong trường hợp cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người,

người thực hiện hành vi có lỗi cố ý với hành vi gây thương tích nhưng lại vô ý

với hậu quả chết người. Nghĩa là họ thấy trước được hành vi của mình là hành

vi nguy hiểm cho xã hội, “có thể gây ra hậu quả chết người nhưng tin rằng

hậu quả đó sẽ không xảy ra, hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy

21

trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải

thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Hậu quả chết người xảy ra là vì

những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

Ví dụ: Do bực tức việc A không nghe lời nên B đã dùng tay chân đánh

đấm, đá nhiều nhát vào vùng người của A. Một lúc sau, thấy A không cử

động, và liên tục kêu đau, xin B ngừng đánh nên B đã ngừng đánh A đồng

thời đỡ A vào giường nằm và xoa dầu cho A. Đến tối, do bị đau nên A không

ăn được gì, tưởng A giận dỗi nên B nấu cháo để sẵn cho A rồi đi ngủ. Đến

sáng ngày hôm sau, không thấy A dậy, B đã vào giường ngủ của A gọi A thì

phát hiện A đã chết. Trong trường hợp này, hành vi của B chỉ cấu thành tội cố

ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người.

- Về mục đích của hành vi phạm tội: Đối với tội giết người: Người thực

hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.

Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác: Người thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây thương tích hoặc

gây tổn hại đến sức khỏe của nạn nhân.

- Về mức độ, cường độ, vị trí tác động lên cơ thể nạn nhân của hành vi

tấn công.

Đối với tội giết người: Mức độ tấn công thường quyết liệt, nhanh và

liên tục với cường độ mạnh, hướng tới các vị trí trọng yếu trên cơ thể người

(vùng ngực, bụng, đầu...) có khả năng gây nên cái chết.

Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác: Mức độ tấn công ít quyết liệt hơn, cường độ tấn công nhẹ hơn, vị

trí tấn công thường vào những vị trí khó có khả năng gây nguy hiểm chết

người như vùng vai, tay, chân...

1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

22

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định tại Điều 135

BLHS 2015. Căn cứ để phân biệt hai loại tội danh này chính là tình tiết trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh. Với tình tiết phạm tội trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh, người phạm tội bị kích động mạnh do hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với mình hoặc người thân thích của

mình. Hành vi trái pháp luật của nạn nhân có thể là hành vi cụ thể, đã kết thúc

rồi nhưng sau này do dồn nén tâm lý dẫn đến trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh; hoặc là một chuỗi các hành vi khác nhau diễn ra trong một thời gian

dài có tính lặp đi lặp lại, liên tiếp tác động lên tinh thần của người phạm tội,

làm cho họ bị dồn nén về tâm lý, tinh thần bị kích động mạnh và dẫn đến

hành vi phạm tội vì mục đích trả thù.

Ví dụ: Do thường xuyên bị A (là bạn cùng lớp) đánh đập, bắt phải chui

qua háng, rồi bắt cởi quần trước chỗ đông người nên B đã mang sẵn một con

dao gọt hoa quả ở trong người đi theo. Một lần trên đường đi học về, A lại

tiếp tục đánh B và bắt Bphải cởi quần và chạy khắp phố nên B đã dùng dao

đâm A gây thương tích 35% cho A. Hành vi của B được coi là cố ý gây

thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (do hành vi trái pháp

luật diễn ra trong thời gian dài, có tính lặp đi lặp lại của B).

1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với tội chống người thi hành công vụ

BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chính thức có hiệu lực

từ ngày 01/01/2018, tuy nhiên trong thực tiễn việc phân biệt hai tội danh

“Cố ý gây thương tích” với tình tiết “Đối với người đang thi hành công vụ

hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.” Và tội “Chống người thi hành công

vụ” vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau và rất cần thiết có văn bản

hướng dẫn thi hành.

Quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về Điều 134

23

tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” với

tình tiết “Chống người thi hành công vụ” và Điều 330 tội “Chống người thi

hành công vụ”. Như sau:

Theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm

2017 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc

dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị

phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm:

…….

o. Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

nạn nhân.

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác thể hiện qua dấu vết để lại trên

cơ thể hoặc không thể hiện bằng dấu vết để lại trên cơ thể.

Mục đích của người phạm tội là gây thương tích cho người khác và

mong muốn hậu quả xảy ra và người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý.

Theo quy định Điều 330 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

Tội chống người thi hành công vụ:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn

khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc

ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không

giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Chống người thi hành công vụ, được hiểu là hành vi dùng vũ lực, đe

dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực

24

hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.

Cả hai tội phạm này có khách thể hoàn toàn khác nhau, đối với tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác khách thể là quyền

được pháp luật bảo vệ về sức khỏe của con người bị kẻ phạm tội xâm phạm.

còn khách thể của tội chống người thi hành công vụ là xâm phạm đến việc

thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó

xâm phạm đến hoạt động của nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực

thi hành nhiệm vụ công. Tuy nhiên cả hai tội phạm này có đặc điểm chung đó

là xâm phạm đến đối tượng là con người.

Trong thực tiễn phân biệt hai tội danh này còn tồn tại nhiều quan điểm

khác nhau không thống nhất về việc áp dụng điều luật đối với hành vi dùng

vũ lực chống người thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc tổn hại

sức khỏe cho người thi hành công vụ với tỷ lệ dưới 11% thì phạm tội “Cố ý

gây thương tích” với tình tiết “Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý

do công vụ của nạn nhân.” Hay phạm tội “Chống người thi hành công vụ”?.

Việc xác định hai tội phạm này chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên gặp

25

nhiều khó khăn.

Kết luận chƣơng 1

Việc nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống nội dung quy định của

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý

nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn áp dụng pháp

luật, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, xử lý tội phạm nói chung và

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói

riêng. Tại chương này, học viên đã nêu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn

đề lý luận cơ bản về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác. Khái niệm, ý nghĩa và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật

hình sự Việt Nam hiện hành quy định tại các giai đoạn lịch sử. Phân biệt tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một

26

số tội phạm có liên quan.

Chƣơng 2

TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC

KHỎE NGƢỜI KHÁC THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ

2015 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe ngƣời

khác theo quy định của BLHS 2015

2.1.1. Điểm mới của BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) so với

BLHS 2015 về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác

Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII biểu quyết

thông qua Bộ luật hình sự 2015. Tuy nhiên, ngày 27.6, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội (UBTVQH) đã tổ chức phiên họp bất thường để trao đổi các vấn đề

liên quan tới khắc phục sai sót trong Bộ luật này.Thực tế những nhà nghiên

cứu khoa học đã chỉ ra hơn một trăm lỗi trong đó có những lỗi nghiêm trọng

dẫn đến không thể thi hành được.

Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự thảo Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13. Như vậy,

đây là điều đặc biệt kỳ lạ và chưa từng có không chỉ trong lịch sử lập pháp

của Việt Nam mà trên toàn thế giới khi một đạo luật quan trọng như Bộ luật

hình sự vừa được thông qua, chưa có hiệu lực thi hành đã phải hoãn thi hành.

So sánh với quy định tại Điều 134 BLHS 2015 thì Điều 134 BLHS

2015 (sửa đổi bổ sung 2017) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản như sau:

Thứ nhất: Về bố cục của Điều luật: Trong BLHS năm 2015 Điều 134

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được

phân chia thành 07 khoản, nhưng trong BLHS sửa đổi năm 2017 bố cục điều

luật được phân chia thành 06 khoản, khoảng cách hình phạt tù áp dụng ở các

27

khoản tăng lên.

Thứ hai: Tại khoản mục a khoản 1 Điều 134 BLHS sửa đổi năm 2017

bổ sung thêm quy định “Dùng vũ khí, vật liệu nổ”, đồng thời thay khái niệm

“02 người trở lên” bằng khái niệm “nhiều người”.

Hiện nay nhiều vụ án cố ý gây thương tích xảy ra đối tượng sử dụng

nhiều loại axit hoặc hóa chất nguy hiểm khác nhưng pháp luật không quy định

nên không có cơ sở để xử lý, vì vậy mục b Điều 134 thay thế quy định “ Dùng

axit sunfuric (H2SO4)” bằng quy định “ Dùng axit nguy hiểm”, việc bổ sung

như vậy là hoàn toàn phù hợp.

Bỏ các tình tiết “c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; d) Phạm tội 02 lần trở

lên; đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên; n) Tái phạm nguy hiểm” trong

khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015.

Thứ ba: Tại khoản 2 mức hình phạt tù áp dụng thay đổi từ 02 năm đến

06 năm (BLHS năm 2015 là 02 năm đến 05 năm). Tại khoản 2 Điều 134

BLHS năm 2015 chỉ quy định “Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng

thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l,

m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”. Tuy nhiên

tại khoản 2 Điều 134 BLHS sửa đổi năm 2017 kết cấu điều luật được phân

chia thành 05 khoản, trong đó định lượng thiệt hại về sức khỏe được phân

chia trong các mục, cụ thể như sau:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm;

28

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong

các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này.

Thứ tư: Tại khoản 3 mức hình phạt tù áp dụng từ 05 năm đến 10 năm

(BLHS năm 2015 từ 04 năm đến 07 năm). Đồng thời phân chia thành 04

mục cụ thể:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường

hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong

các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ

điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Thứ năm: Tại khoản 4 mức hình phạt tù áp dụng 07 năm đến 14 năm

(BLHS năm 2015 là 07 năm đến 12 năm). Đồng thời phân chia thành các mục

cụ thể như sau:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ

lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

29

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ

điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

Thứ sáu: Tại khoản 5 mức hình phạt tù áp dụng từ 12 năm đến 20 năm

hoặc chung thân (BLHS năm 2015 là 10 năm đến 15 năm). Kết cấu được

phân chia thành các mục, cụ thể như sau:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng

thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến

điểm k khoản 1 Điều này.

Thứ bảy: Trong Điều 134 BLHS năm 2015 quy định hành vi chuẩn bị

phạm tội mang tính chất chung trong thực tiễn rất khó xử lý, tuy nhiên tại

khoản 6 của BLHS sửa đổi năm 2017 quy định cụ thể hành vi sau đây cũng

phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác như

sau: “ Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy

hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”. Có thể khẳng

định Bộ luật hình sự lần này đã sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe người khác trong hình sự,

giúp cho việc thực thi pháp luật được chính xác hơn trong việc bảo vệ tính

30

mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người [47].

2.1.2. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe người khác

2.1.2.1. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự

bảo vệ và bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể của tội phạm là

yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Không có khách thể bị xâm hại thì

không có tội phạm. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với

định tội danh, đối với việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội. Việc làm sáng tỏ khách thể của tội phạm giúp chúng ta

hiểu được tính chất của các quan hệ xã hội cụ thể, xác định được các đặc điểm

đặc trưng của từng tội phạm, là cơ sở cho việc định tội danh đúng hành vi

phạm tội [20].

Con người là chủ thể của đại đa số các mối quan hệ xã hội, do đó, mục

tiêu bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người luôn được đặt lên hàng đầu.

Khi sức khỏe của con người là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ bị

xâm phạm thì nó sẽ làm phá vỡ sự hình thái phát triển ổn định của các quan

hệ xã hội. Cũng vì ý nghĩa quan trọng nêu trên mà trong BLHS, ngay sau

nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đã quy định nhóm tội về

xâm phạm nhân thân; đây được coi là sự đánh giá tầm quan trọng cần thiết đối

với nhóm tội phạm này. Trong đó, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có quy

định hình phạt nghiêm khắc nhất là chung thân (tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng). Qua đó cho thấy quyền được bảo vệ về sức khỏe là tối thượng và là

thiêng liêng được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối. Đồng thời, thể hiện

thái độ của nhà nước với loại tội phạm này một cách kiên quyết, bất kỳ ai xâm

phạm quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của con người điều bị

31

nghiêm trị một cách nghiêm khắc.

Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Đối tượng

tác động của loại tội phạm này là con người và điều kiện đủ là con người đó

phải còn sống khi hành vi xâm phạm tới sức khỏe diễn ra. Việc xác định đúng

đối tượng tác động của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi tác động

vào đối tượng không phải con người, không phải người còn sống thì không

thể cấu thành hành vi phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác được. Ngoài ra, những trường hợp tự gây thương tích

cho chính bản thân mình thì cũng không thuộc đối tương tác động của tội

phạm theo quy định tại Điều 134 BLHS 2015. Người sống được hiểu là con

người, từ lúc đã ra khỏi bụng mẹ cho đến khi ngừng hơi thở cuối cùng. Vì

vậy, việc gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của bào thai không được coi là cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác và hành vi

xâm phạm sức khoẻ người mẹ mang thai không thể coi là hành vi phạm tội

đối với nhiều người [20].

2.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra bên

ngoài thế giới khách quan bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm

cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giũa hành vi và hậu quả, công cụ phương

tiện, phương pháp, thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm phạm tội.

Những dấu hiệu trong mặt khách quan thường được mô tả chi tiết trong

các điều khoản phần các tội phạm cụ thể. Một phần, vì các dấu hiệu trong mặt

khách quan biểu hiện ra bên ngoài dễ nhận biết hơn các yếu tố khác. Mặt

khác, giữa các tội phạm khác nhau chúng khác nhau chủ yếu ở các dấu hiệu

trong mặt khách quan.

32

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

cũng như bất cứ tội phạm khác khi được thực hiện đều được thể hiện ra thế

giới khách quan bên ngoài. Cụ thể:

- Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác.

Hành vi khách quan của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác, được biểu hiện thông qua hành động tác động

đến thân thể người khác một cách trái pháp luật không có trường hợp không

hành động phạm tội đối với loại tội phạm này. Hành vi khách quan của loại

tội phạm này xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người,

qua việc chủ thể của tội phạm làm một việc mà pháp luật cấm. Những hành vi

này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội như dao, kiếm,

gậy, súng, cung, nỏ, gạch, đá... hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội

như dùng tay, chân... hoặc có thể thông qua công cụ phạm tội là súc vật (chó,

trâu, bò.) để tác động đến cơ thể người khác.

- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi

và hậu quả.

Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan

hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Đối với tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, đây là loại tội phạm có

cấu thành vật chất, do đó, hậu quả thương tích là dấu hiệu bắt buộc phải có

của loại tội phạm này. Hậu quả của tội cố ý gây thương tích là tỷ lệ thương

tích (dựa trên giám định pháp y về thương tích), hậu quả của tội cố ý gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác là làm tổn hại đến các chức năng, bộ phận

trên cơ thể người (rối loạn hệ tuần hoàn, rối loạn hệ tiêu hóa, hạn chế hoặc

mất khả năng vận động...).

33

Hậu quả của cấu thành cơ bản tội phạm này đòi hỏi là thương tích hoặc

tổn thương khác cho sức khỏe ở mức độ có tỷ lệ thương tật là từ 11% trở lên

hoặc thương tật từ 1% đến 11% nhưng phải có một trong 10 tình tiết định

khung cơ bản.

Nếu tỷ lệ thương tật đến 30% và phải có yêu cầu khởi tố của người bị

hại thì cơ quan điều tra mới ra quyết định khởi tố vụ án (Điều 155 BLTTHS

2015). Như vậy ở trường hợp này, ngoài hậu quả đến 30% là dấu hiệu bắt

buộc thì còn có sự kiện yêu cầu khởi tố của người bị hại cũng là bắt buộc. Cụ

thể như sau: Nếu tỷ lệ thương tật từ 1% đến dưới 11% thì đó cũng là hậu quả

của tội phạm, nhưng phải thuộc một trong các trường hợp được quy định tại

khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 như:

- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả

năng gây nguy hại cho nhiều người;

- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,

ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi

dưỡng, chữa bệnh cho mình;

- Có tổ chức;

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án

phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở

giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc;

- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

34

do được thuê;

- Có tính chất côn đồ;

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

nạn nhân.

Như vậy, ở trường hợp này, thương tích từ 1% đến dưới 11% là hậu quả

bắt buộc và 10 tình tiết định khung cơ bản cũng là những tình tiết bắt buộc của

cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác được quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác có tỷ lệ thương tật dưới 11% và không thuộc các trường hợp nêu

trên là những trường hợp không cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hậu quả do hành vi cố ý gây thương tích gây ra có thể là: thương tật,

chết người, chết nhiều người hoặc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác

được coi là tình tiết định khung tăng nặng có hình phạt như sau:

+ Tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61% hoặc thương tật từ 11% đến 30%

nhưng thuộc một trong 10 tình tiết đã nêu ở trên, thì có khung hình phạt tù từ

hai năm đến sáu năm được qui định ở khoản 2 Điều 134 BLHS;

+ Tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc thương tật từ 31% đến 60%

nhưng thuộc một trong 10 tình tiết đã nêu ở trên hoặc dẫn đến chết người có

khung hình phạt tù từ năm năm đến mười năm được qui định ở khoản 3 Điều

134 BLHS;

+ Thương tật dẫn đến chết người hoặc Gây thương tích làm biến dạng

vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương

cơ thể của mỗi người 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc 10

35

tình tiết đã nêu trên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02

người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%

nhưng thuộc một trong 10 trường hợp đã nêu trên có khung hình phạt tù từ

bảy năm đến mười bốn năm, được qui định ở khoản 4 Điều 134 BLHS 2015.

+ Làm chết 02 người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở

lên nhưng thuộc một trong 10 trường hợp nêu trên thì bị phạt tù từ 12 năm

đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Ngoài ra, hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ cho người khác

còn là dấu hiệu để xác định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được qui

định ở Điều 52 BLHS, như: hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc

biệt nghiêm trọng. Không những thế, hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức

khoẻ cho người khác còn là dấu hiệu để xác định tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự được qui định ở Điều 51 BLHS, như: người phạm tội đã ngăn

chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm tội tự nguyện sửa chữa,

bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại

hoặc gây thiệt hại không lớn.

Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn hại

cho sức khoẻ của người khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Khi đã xác định có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

và có hậu quả của nó, thì đòi hỏi phải xác định hậu quả này phải do chính

hành vi đó gây ra.

Ngoài ba dấu hiệu bắt buộc nói trên còn có một số dấu hiệu khác thuộc

mặt khách quan tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng rất có ý nghĩa để

định tội danh (cấu thành cơ bản hay cấu thành tăng nặng), như: công cụ,

phương tiện, thủ đoạn...

2.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

36

Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người

phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Người thực hiện hành vi phạm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với lỗi cố

ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Người phạm tội nhận thức rõ hành vi

của mình chắc chắn hoặc có thể gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác, mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có

ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Hành vi của người phạm tội là kết quả

của sự tự lựa chọn của chính họ, họ tự ý thức và kiểm soát hành vi của mình,

trong khi họ có đủ điền kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện

xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Nội dung hoạt động tâm lý bên

trong của người phạm tội bao gồm: lỗi của người phạm tội, động cơ phạm tội,

mục đích phạm tội. Trong các dấu hiệu của mặt chủ quan thì lỗi là dấu hiệu

bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này, còn động cơ và mục đích

không phải là dấu hiệu bắt buộc.

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Lỗi đó có thể là lỗi cố ý trực tiếp

(Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra) hoặc là lỗi cố ý

gián tiếp (Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn

nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra). Xét về mặt lý trí, người có

hành vi phạm tội này dưới hình thức cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp đều

nhận thức được hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là nguy hiểm cho xã hội đồng thời cũng nhận thức được rằng hậu

quả nguy hại có thể xảy ra.

Trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác dẫn đến chết người hoặc chết nhiều người là những

trường hợp hỗn hợp lỗi đuợc quy định ở khoản 4 và 5 Điều 134 BLHS. Đây là

37

trường hợp, xét về mặt lý trí, người có hành vi phạm tội này dưới hình thức

lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp đều nhận thức được hành vi gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là nguy hiểm cho xã hội

đồng thời cũng nhận thức được rằng hậu quả nguy hại có thể xảy ra. Xét về

mặt ý chí, người có hành vi phạm tội này dưới hình thức hỗn hợp lỗi đã không

muốn hậu quả chết người xảy ra (vô ý đối với hậu quả chết người).

Mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của mọi cấu thành

tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Mặc dù, mục đích phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành nhưng nó

có ý nghĩa định khung tăng nặng.

Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên,

động cơ có thể làm tăng lên tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội, như: tính chất côn đồ là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được qui

định ở Điều 134 BLHS hoặc phạm tội vì động cơ đê hèn; có tính chất côn đồ

là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được qui định ở Điều 52 BLHS.

2.1.2.4. Chủ thể của tội phạm

Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, chủ thể của tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người từ

đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới

16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác theo khoản 4, 5 Điều 134 BLHS 2015.

2.1.3. Hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe người khác

Điều 134 BLHS quy định 5 khung hình phạt, bao gồm khung cơ bản và

38

khung tăng nặng. Hình phạt này được cụ thể như sau:

2.1.3.1. Khung cơ bản

Mức khung hình phạt được quy định là phạt cải tạo không giam giữ

đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người nào cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các

trường hợp sau đây:

- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có

khả năng gây nguy hại cho nhiều người:

- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm:

- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già

yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ:

- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi

dưỡng, chữa bệnh cho mình:

- Có tổ chức:

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn:

- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành

án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường

giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành

chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng

hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác do được thuê:

- Có tính chất côn đồ:

- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của

39

nạn nhân.

2.1.3.2. Khung tăng nặng thứ nhất có mức khung hình phạt tù từ 02

năm đến 06 năm

Người phạm tội bị áp dụng mức khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06

năm khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%:

- Phạm tội 02 lần trở lên:

- Tái phạm nguy hiểm:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này:

2.1.3.3. Khung tăng nặng thứ hai có mức khung hình phạt tù từ 05 năm

đến 10 năm

Mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được áp dụng khi Phạm tội

thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp

quy định tại điểm b khoản 4 Điều 134:

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

40

Điều 134 BLHS 2015;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ

điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015.

2.1.3.4. Khung tăng nặng thứ ba có mức khung hình phạt tù từ 07 năm

đến 14 năm

Mức hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm được áp dụng khi phạm tội

thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Làm chết người;

- Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà

tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc một trong các

trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều 134 BLHS 2015;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%

nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ

điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015.

2.1.3.5. Khung tăng nặng thứ tư có mức khung hình phạt tù từ 12 năm

đến 20 năm hoặc tù chung thân

Mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp

dụng khi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Làm chết 02 người trở lên;

41

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở

lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng

thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến

điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS 2015.

2.1.3.6. Chuẩn bị phạm tội

Đây là quy định mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999 khi giành

riêng một khoản quy định về chuẩn bị phạm tội đối với tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Cụ thể khoản 6 Điều 134

BLHS 2015 quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy

hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia

nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03

tháng đến 02 năm”.

2.2. Thực tiễn xét xử tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe ngƣời khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong

05 năm từ năm 2014-2018

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh các vụ án về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể

trong tổng số các vụ án hình sự và trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã

hội. Theo số liệu thống kê được từ Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ninh trong

05 năm giai đoạn từ 01/01/2014 đến 30/12/2018. TAND tỉnh Quảng Ninh đã

đưa ra xét xử tổng số 7.739 vụ án/10.587 bị cáo. Trong số đó các vụ về cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là 571 vụ án,

42

952 bị cáo. Cụ thể:

Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn từ năm 2014 – 2018

Tội phạm hình sự Tỷ lệ

Năm

Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác

Số vụ án Số bị cáo Số vụ án Số bị cáo

1385 1277 1599 1622 1856 7739 1988 1756 1991 2287 2565 10587 5,56% 6,34% 6,13% 8,75% 9,32% 7,38% 6,74% 9,62% 8,09% 9,93% 10,18% 8,99% Số vụ án 77 81 98 142 173 571 Số bị cáo 134 169 161 227 261 952 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ninh).

Biểu đồ 2.1. Biểu diễn vụ án hình sự và vụ án cố ý gây thương tích tại

TAND tỉnh Quảng Ninh trong 05 năm tằ 2014 - 2018

Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội

phạm về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

43

trong thời gian qua, có chiều hướng gia tăng.

* Về mức hình phạt

Bảng 2.2: Bảng biểu diễn mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Đơn vị tính: bị cáo

Năm

Cho hƣởng án treo Tù từ 03 năm trở xuống Tù chung thân

17 38 Tù từ 03 năm đến dƣới 07 năm 28 Tù từ 07 năm đến dƣới 15 năm 22 Tù từ 15 năm đến dƣới 20 năm 24 5 2014

22 52 29 44 14 8 2015

18 29 48 36 18 12 2016

27 51 67 44 29 9 2017

31 46 77 59 33 15 2018

49 115 216 249 205 118 Tổng

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ninh)

2.2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt các vụ án cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại TAND

tỉnh Quảng Ninh

2.2.2.1. Một số kết quả đạt được

Nhìn chung chất lượng xét xử các loại án trong những năm qua của

TAND tỉnh Quảng Ninh không ngừng được nâng lên cả về chất lượng bản án,

kỹ năng điều hành phiên tòa, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, các bản án đều

tuân thủ hình thức theo mẫu ban hành, 100% các bản án đủ điều kiện đều

được công bố công khai, đảm bảo tính minh bạch. Án hình sự xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật không xét xử oan người có tội, không bỏ lọt

tội phạm. Hầu hết các vụ án hình sự khi xét xử bảo đảm tác dụng trừng phạt,

giáo dục, răn đe, tuyên truyền phổ biến pháp luật góp phần ổn định tình hình

44

chính trị, trật tự an ninh, an toàn xã hội tại địa phương.

Cụ thể, trong giai đoạn từ 2014 – 2018 hoạt động xét xử vụ án hình sự

nói chung và xét xử các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác nói riêng được thể hiện như sau:

Về số lượng thụ lý và giải quyết các vụ án:

Bảng 2.3. Số liệu thụ lý và giải quyết các vụ án của TAND tỉnh Quảng

Ninh theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 – 2018

Vụ án hình sự Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác Năm

Tỷ lệ Thụ lý Đã giải quyết Tỷ lệ Thụ lý

Đã giải quyết 1380 1277 1597 1617 1856 7727 99,64 100,00 99,87 99,69 100,00 99,84 77 81 98 142 173 571 100,00 100,00 98,98 100,00 100,00 99,82 2014 1385 2015 1277 2016 1599 2017 1622 2018 1856 Tổng 7739

77 81 97 142 173 570 (Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ninh)

Về chất lượng giải quyết các vụ án:

Bảng 2.4. Số liệu số lượng án bị hủy, bị sửa của TAND tỉnh Quảng Ninh

theo từng năm, giai đoạn từ năm 2014 – 2018

Năm

Số vụ án bị sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 3 0 3 6 4

Vụ án hình sự 13 17 10 22 14

Số vụ án bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác 0 0 0 0 0

Vụ án hình sự 0 1 0 0 0

76

16

1

0

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng cộng

45

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Quảng Ninh)

Các vụ án định tội danh và quyết định hình phạt đúng:

Ví dụ 1: Nội dung vụ án: Tối ngày 14/08/2018, Ngô Văn H phát hiện

anh Đào Đức B dùng zalo có tên nick “Đắng lòng” nhắn tin vào zalo của chị

Nguyễn Thị H1 (vợ H). Sau đó H nhắn tin và điện thoại nói giả giọng phụ nữ

để bảo anh B đến đón đi chơi. Khoảng 22 giờ 15 phút ngày 14/08/2018, tại

khu vực cổng nhà Ngô Văn H ở thôn T, xã C, Thành phố Y, H bảo con trai là

Ngô Huy T (dưới 18 tuổi) cùng mình ra chặn bắt và đánh anh B. H cầm một

đoạn tuýp phi 27 bằng kim loại, dài 1m65, đường kính 2,7cm và bảo T lấy

thanh kiếm tự chế bằng kim loại dài 1m08, bản rộng 04cm, chuôi bằng gỗ có

chiều dài 27,5cm để chặn bắt và đánh anh B. H và T ra đứng lấp ở hai đầu

ngõ cách nhau 36m thì anh B đi xe mô tô Airblade biển số 89B1-204.03 đến,

H cầm tuýp sắt xông lên hô “nó đây rồi” thấy vậy, anh B phóng xe mô tô

nhanh qua vị trí H đứng, đi được khoảng 30m thì T từ vị trí lấp sẵn chạy ra lề

đường, tay phải cầm kiếm phi lao theo làm mũi kiếm cắm trúng vào mông

bên trái anh B. Hậu quả anh B bị tổn thương 53% sức khỏe.

Với nội dung trên, TAND tỉnh Quảng Ninh đã tuyên xử Ngô Văn H và

Ngô Huy T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều

134 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn H 06 (sáu) năm tù. Ngô Huy T 02 (hai)

năm 09 (chín) tháng tù.

* Nhận xét: Trong vụ án nêu trên, TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử 2 bị

cáo H và T về tội cố ý gây thương tích là hoàn toàn có căn cứ, đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật. Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm

tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của người

khác, gây mất trật tự trị an và tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên

cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung,

mức án 6 năm tù và 2 năm 9 tháng tù là hoàn phù hợp. Sau khi xét xử sơ

thẩm, bị cáo H và T đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tòa án cấp cao tại

46

Hà Nội đã không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo xử y án sơ thẩm.

Vụ án 2: Nội dung vụ án: Lê Huy H, Lê Văn T và Nguyễn Văn Đ có

mối quan hệ bạn bè, quen biết nhau. Do có mâu thuẫn từ trước nên khoảng 20

giờ ngày 20/4/2016, Lê Huy H hẹn Nguyễn Đăng H1 đến Khu công nghiệp K

thuộc địa phận xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh để đánh nhau. Sau đó H

mượn xe mô tô nhãn hiệu EXCITER, BKS 99F1–209.60 của anh Nguyễn

Văn Hậu ở cùng thôn và gọi điện thoại cho Nguyễn Văn Đ, bảo Đ mang theo

hung khí để đánh nhau. Đ lấy 01 thanh kiếm dài 57,5 cm, chuôi kiếm cuốn

băng dính màu đen, dài 16,5 cm, lưỡi kiếm bằng kim loại màu trắng, dài 41

cm, bản lưỡi kiếm chỗ rộng nhất là 3,5cm, có 01 lưỡi sắc, đầu lưỡi kiếm

nhọn. H điều khiển xe mô tô mượn của Hậu đến đón Đ, sau đó H điểu khiển

xe chở Đ đi vòng quanh thôn thì gặp Lê Văn T, Nguyễn Thế H, Lưu Văn Tân

và Phùng Văn Tiến, đều ở cùng thôn với H, nên rủ đi cùng. Tất cả cùng nhau

đi đến Khu công nghiệp K.

Đối với Nguyễn Đăng H1, đã gọi điện thoại cho Nguyễn Đăng H2 ở

cùng thôn và rủ H2 đi cùng. H1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream cầm 04

thanh tuýp bằng kim loại, mỗi thanh dài khoảng 80 cm, rồi đi ra đón H2.

Khoảng 21h30’ ngày 20/4/2016, khi nhóm của Lê Huy H đang đi trên

đường đôi Khu công nghiệp K thì gặp nhóm của Nguyễn Đăng H1 đi phía

trước. Khi nhận ra nhau, H1 điều khiển xe mô tô, chở H2 phía sau, quay xe lại

rồi H1 điều khiển xe mô tô lao về phía xe mô tô của Lê Huy H nhưng H tránh

được. Xe mô tô của H1 bị đổ ra đường. H quay xe lại rồi dừng xe. T và Đ

nhảy ra khỏi xe. Đ cầm kiếm, T cầm ống tuýp bằng kim loại, chạy đến để

đánh H1 và H2, trong lúc đuổi thì Đ hô “Chém”, H1 hoảng sợ bỏ chạy vào

một Công ty ở gần đó, khi Đ và T chạy tới chỗ H2 thì H2 nói: “Em không

phải H1” rồi H2 cũng bỏ chạy vào một Công ty gần đó. T và Đ không đuổi

theo được thì quay lại, ngồi lên xe mô tô do H điều khiển, tiếp tục đuổi theo

47

nhóm còn lại của H1 để đánh, quá trình đuổi theo, Đ hô “Chém chết mẹ

chúng nó đi”. Nhóm của H đuổi theo nhóm còn lại của H1 từ đường đôi Khu

công nghiệp K ra quốc lộ 17, rồi theo Quốc lộ 17B, hướng về phía huyện H.

Cùng thời điểm này, anh Dương Minh Tuân đang điều khiển xe mô tô nhãn

hiệu Honda Wave, BKS 99F1–228.36, chở phía sau là anh Nguyễn Quang

Trường đi đến đầu Khu công nghiệp K, thấy có nhóm thanh niên đuổi đánh

thì anh Tuân và anh Trường quay xe ra, đi trên Quốc lộ 17, phía trước, cùng

chiều với nhóm của Lê Huy H. Thấy xe của anh Tuân và anh Trường đi phía

trước, nghĩ anh Tuân và anh Trường đi cùng nhóm của H1 nên Lê Huy H điều

khiển xe mô tô, chở T và Đ với tốc độ cao (khoảng 60 km/h) đuổi theo xe của

anh Tuân và anh Trường. Bị bọn H đuổi theo, anh Tuân và anh Trường sợ bị

đánh nên cũng phóng xe bỏ chạy. Đi đến đoạn đường gần cổng trường THPT

H số 2 thì H điều khiển xe đuổi đến gần xe của anh Tuân và anh Trường đi ở

phía bên phải, gần lề đường, còn xe của nhóm H đi phía bên trái xe anh Tuân,

anh Trường. H điều khiển xe mô tô của mình ép xe của anh Tuân và anh

Trường lại, còn T và Đ ngồi sau xe, T cầm thanh tuýp bằng kim loại, giơ lên

cH1 cH1 thanh tuýp sắt về phía anh Tuân và anh Trường, Đ cầm kiếm giơ lên

để đánh anh Tuân và anh Trường, H còn rú ga xe kêu to. Do sợ hãi và không

có đường chạy nên anh Tuân điều khiển xe lao lên vỉa hè phía bên phải và

đâm vào gốc cây trên vỉa hè, xe mô tô bị đổ, anh Tuân và anh Trường bị ngã

ra khỏi xe. H, T và Đ thấy xe mô tô của anh Tuân và anh Trường bị đâm vào

gốc cây như vậy thì đi tiếp. Đến khu vực cầu Thanh Hoài, xã T, huyện H thì

H điều khiển xe mô tô chở T và Đ quay lại, khi đi qua chỗ anh Tuân và anh

Trường, thấy có người dân ở đó thì H điều khiển xe chở T và Đ đi thẳng về

Anh Tuân và anh Trường sau đó được người dân đưa đến Bệnh viện để cấp

cứu. Do bị thương tích nặng nên đến ngày 30/4/2016 thì anh Tuân bị tử vong.

Vụ án nêu trên đã bị trả hồ sơ điều tra nhiều lần, và có những quan

48

điểm trái chiều liên quan đến tội danh của các bị cáo Lê Huy H, Lê Văn T và

Nguyễn Văn Đ phạm tội giết người hay cố ý gây thương tích. Theo quan điểm

của học viên việc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử các bị cáo về tội

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là phù

hợp bởi. Có thể thấy, do nhầm tưởng anh Dương Minh Tuân và anh Nguyễn

Quang Trường cùng nhóm với Nguyễn Đăng H1, Lê Huy H đã có hành vi

điều khiển xe mô tô với tốc độ cao (khoảng 80km/h) chở theo Lê Văn T và

Nguyễn Văn Đ đuổi theo xe mô tô của anh T và anh Trường. Quá trình đuổi

theo Đ hô “chém chết mẹ chúng nó đi”. Khi đuổi đến đoạn đường gần cổng

trường THPT T 2, H đã ép xe của anh Tuân vào lề đường, T dùng tuýp giơ

lên hô to. Hành vi của các bị cáo là truy đuổi, hô to dọa đánh, giơ tuýp lên cao

khiến các bị hại hoảng sợ và thực tế Do hoảng sợ, anh T đã lao xe lên vỉa hè,

đâm vào gốc cây ven đường đẫn dến anh T tử vong, anh Trường bị thương.

Có thể thấy hành vi của các bị cáo là quyết liệt nhưng ở mức độ chỉ là đe dọa

dẫn đến bị hại hoang mang lo sợ, và thực tế các bị cáo không mong muốn cái

chết cho phía bị hại. Do đó xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác là có cơ sở.

Vụ án 3: Nội dung vụ án: Bùi Hạnh T, sinh ngày 26/5/2005 tại thôn T,

xã T, huyện K, tỉnh Quảng Ninh và Nguyễn Bảo N, Huỳnh Thanh T1, Cao

Phương Q là bạn bè cùng học lớp 4B Trường tiểu học T điểm lẻ ở thôn T, xã

T. Vào ngày 20/02/2017 trong lúc ngồi học trong lớp thì T nói Q là điệu, lúc

này chỉ có T1 nghe. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày khi đi chào cờ ngoài sân

trường thì T1 đi cùng với Q và N, T1 nói với Q “bạn T chửi bạn là điệu”, khi

T1 nói thì N cùng nghe. Đến trưa ngày 21/02/2017 trước lúc đi học thì N nói

với mẹ ruột tên Trương Thị B là “bạn T chửi con”, B hỏi “chửi con lúc nào?”.

N nói “trưa hôm qua bạn T1 nói với con là bạn T chửi con”, sau đó N đi học.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày bị cáo B đi bộ từ nhà đến trường đón N

49

tan học về, khi gặp N ở phía trước cổng trường thì B hỏi “đứa nào là Hạnh T”.

Lúc này Hạnh T đang đứng đối diện cổng trường phía trước quán của bà H thì

N dùng tay chỉ về hướng của T đang đứng. B đi vào phía trong sân trường và

dùng tay ngoắt và kêu Hạnh T lại chổ B đang đứng, khi Hạnh T đi đến, B hỏi

Hạnh T “tại sao mày chửi bạn là đỉ đứng đường”. Hạnh T trả lời “con không

có”, B dùng tay trái đánh (tát) nhiều cái trúng vào mặt, đầu của Hạnh T, B

dùng tay phải nắm giữ lấy tay trái của Hạnh T, còn Tay trái xỉ vào mặt của

Hạnh T nói “mày nói láo, con tao nói là mày chữi nó”, rồi B dùng tay tát vào

mặt Hạnh T nhiều cái làm mặt của T bị đỏ lên, Hạnh T dùng tay, chân đánh

lại B nhưng không trúng. Lúc này có cô R là cô giáo chủ nhiệm lớp của T đến

can ngăn nên B dẫn N về nhà. Còn T thì đứng trước quán của bà H khóc, một

lúc sau thì bà Nguyễn Thị Diền C là mẹ ruột của T đến đón T tan học, thấy T

đang khóc mặt xưng đỏ nên bà Diền C hỏi thì biết T bị B đánh nên bà Diền C

dẫn T đến nhà B để hỏi chuyện. Khi đến nhà B thì giữa bà Diền C và B cự cải

qua lại với nhau, lúc này thấy T bị mệt nên bà Diền C nhờ anh Lê Phước V

điều khiển xe mô tô đưa T đến Trạm y tế xã T khám, thấy T có dấu hiệu còn

mệt nên bà Diền C đưa T đến Bệnh viện đa khoa huyện K nhập viện và điều

trị đến ngày 27/02/2017, thấy T còn biểu hiện đau đầu nên gia đình đưa Hạnh

T đến Bệnh viện Tâm thần thành phố C điều trị đến ngày 09/3/2017 thì gia

đình tiếp tục chuyển Hạnh T đến Bệnh viện Nhi Đồng thành phố C điều trị

đến ngày 24/3/2017 thì xuất viện trong tình trạng Hạnh T không chịu tiếp xúc

với người lạ, thường xuyên khóc.

Sau khi xuất viện, bà Diền C là người đại diện hợp pháp của Hạnh T

làm đơn yêu cầu xử lý đối với Trương Thị B theo pháp luật hình sự và xin

giám định tỷ lệ thương tích. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương

tích số 60 ngày 31/3/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ninh kết luận:

Bùi Hạnh T bị tổn hại sức khỏe là 00% (không phần trăm), đương sự Bùi

50

Hạnh T có biểu hiện rối loạn tâm thần, cần được giám định tại Trung tâm

pháp y Tâm thần khu vực Tây nam Bộ. Tại bản kết luận giám định pháp y

về tâm thần số 47 ngày 31/5/2017 của Trung tâm pháp y tâm thần Khu vực

Tây Nam Bộ kết luận:

Về y học:

- Trước, trong khi xảy ra sự việc: Đương sự không có bệnh lý tâm thần;

- Sau khi xảy ra sự việc và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: rối

loạn Stress sau sang chấn (F43.1 - ICD10), giai đoạn bệnh tiến triển;

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bệnh lý tâm thần là: 21% (hai mươi mốt

phần trăm)

Quyết định của Tòa án: Tuyên bố: Bị cáo Trương Thị B phạm tội “Cố ý

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.

Áp dụng khoản 2 Điều 104; Điều 33; điểm b, p khoản 1 và khoản 2

Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; điểm đ khoản 2 Điều 134 của Luật số

12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm

2015; điểm h khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày

20/6/2017 của Quốc hội.

Xử phạt bị cáo Trương Thị B: 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình

phạt tù được tính kể từ ngày bắt đi thi hành án.

* Nhận xét: trong vụ án trên, Tòa án đã dựa vào kết luận giám định để

giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể, đây là hậu quả của hành vi phạm tội gây ra,

hậu quả này là cơ sở quan trọng để xác định tội danh tội Cố ý gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà Tòa án đã quyết định. Việc xác định đúng tội

danh, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân, tính chất mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội và xử phạt bị cáo B 03 năm tù là phù hợp.

2.2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những số liệu, kết quả đạt được nói lên diễn biến tình hình

51

xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong những năm gần đây thì các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh vẫn còn mắc phải một số thiếu sót. Cụ thể có thể kể đến các thiếu

sót vi phạm sau:

* Không thống nhất quan điểm trong việc định tội danh

Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều vụ án có những quan điểm, ý kiến trái

chiều xoay quanh việc xác định tội danh khi có hậu quả chết người xảy ra là

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay là

tội giết người.

Ví dụ: Nội dung vụ án

Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 22/12/2016, tại khu vực nhà trọ ở Thành

phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh do mâu thuẫn cá nhân nên Trương Thanh T đã

dùng tay tát 01 nhát vào mặt anh Tô Văn L khiến anh L ngã xuống giường

được làm bằng tấm cốt pha theo tư thế nằm nghiêng. Thấy anh L ngã, T tiếp

tục dùng súng bắn nhựa silicon vụt một nhát vào mạn sườn bên trái của anh L.

Sau đó, T đi hút thuốc lào rồi đi ra nhà anh Đặng Văn Vĩ làm việc. Đến

khoảng 06 giờ sáng ngày 23/12/2016, T cùng mọi người ăn cơm sáng thì thấy

anh L không dậy nên T gọi anh L dậy ăn sáng thì anh L bảo “các cậu cứ ăn

sáng đi để còn đi làm, lúc nào anh dậy thì anh sẽ ăn sau”. Đến khoảng 09 giờ

sáng cùng ngày, T quay lại lán trại tiếp tục gọi anh L dậy thì phát hiện anh L

đã chết. Đến ngày 24/12/2016, T đã tới Cơ quan điều tra đầu thú.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 05 ngày 23/01/2017 của

Trung tâm giám định pháp y tỉnh Quảng Ninh đối với Tô Văn L xác định

nguyên nhân chết của anh Tô Văn L: Sốc mất máu không hồi phục. Cơ chế:

Ngoại lực tác động làm vỡ thận trái dẫn đến mất máu cấp làm tử vong.

Ngày 27/12/2016, trên cơ sở điều tra xác minh, Cơ quan CSĐT Công

an tỉnh Quảng Ninh đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với

52

Trương Thanh T về tội giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS 1999.

Đến ngày 28/2/2017, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh ra bản kết

luận điều tra, đề nghị truy tố đối với Trương Thanh T về tội giết người quy

định tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS 1999. Nhiều ý kiến trái chiều cho

rằng bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác.

* Nhận xét: Trong vụ án này, để xác định T phạm tội theo quy định tại

khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 hay Điều 93 BLHS 1999 cần phải đánh giá

tổng thể ý thức chủ quan và diễn biến hành vi phạm tội. Có thể thấy để truy

cứu TNHS theo khoản 3 Điều 104 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)

với tình tiết định khung tăng nặng dẫn đến chết người cần chứng minh được

các nội dung sau:

Một là, giữa hành vi cố ý gây thương tích với hậu quả chết người có

mối quan hệ nhân quả hay không?

Hai là, người phạm tội có lỗi với hậu quả chết người hay không? Nếu

có thì là lỗi cố ý hay vô ý?

Quan điểm của học viên như sau: Thứ nhất, căn cứ vào quy định của

pháp luật, căn cứ vào kết quả giám định pháp y, căn cứ vào tình tiết vụ án

trên, học viên nhận thấy rằng hành vi của Trương Thanh T có mối quan hệ

nhân quả với hậu quả anh Tô Văn L chết. Bởi lẽ, tham khảo nội dung tại mục

VI Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 19/01/1989 của HĐTP TAND tối cao

hướng dẫn về thương tích dẫn đến chết người: Cần hiểu nội dung điều 109

BLHS như sau:

- Kẻ gây thương tích nặng bị kết án theo khoản 2 điều 109 BLHS.

- Kẻ gây cố tật nặng bị kết án theo khoản 3 điều 109 BLHS.

- Kẻ gây thương tích dẫn đến chết người bị kết án theo khoản 3 điều

109 BLHS.

- Kẻ gây thương tích không nặng, không gây cố tật nặng, không dẫn

53

đến chết người, thì bị kết án theo khoản 1 điều 109 BLHS.

Thương tích dẫn đến chết người trước hết là thương tích nặng làm

cho nạn nhân chết vì thương tích nặng này, nghĩa là giữa thương

tích và cái chết của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả. Thí dụ: đâm

vào hông nạn nhân làm nạn nhân bị đứt tỉnh mạch hông và do bị

mất nhiều máu nên nạn nhân bị chết.

Cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trường hợp

gây thương tích không phải là thương tích nặng, nhưng vì nạn nhân

là người quá già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho bị

chết sớm hơn, nếu không bị gây thương tích thì nạn nhân chưa chết.

Trong vụ án trên, xét diễn biến của vụ việc thì các vết tổn thương bên

trong của anh L là do bị T đánh. Thương tích này là các thương tích nặng, nếu

không được phát hiện và cứu chữa kịp thời sẽ dẫn đến hậu quả chết người. Do

đó, có cơ sở xác định, hành vi cố ý gây thương tích và hậu quả thương tích do

hành vi của T gây ra hoàn toàn có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Thứ hai, xét về yếu tố lỗi của bị cáo, học viên cho rằng, bị cáo T có lỗi

đối với hậu quả nạn nhân là anh L chết. Bởi vì nguyên nhân trực tiếp dẫn

đến cái chết của anh L là do các vết thương nội tạng bị chảy máu trong, dẫn

đến mất máu cấp, không phục hồi và dẫn đến tử vong. T đã dùng súng bắn

nhựa đánh một nhát vào vùng mạn sườn của anh L dẫn đến thương tích. T

chỉ đánh một cái vào vùng mạn sườn của anh L do bực tức và sau đó thái độ

của T với anh L vẫn bình thường. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa T và anh L

chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, công việc. Qua hành vi của T cũng

như diễn biến thái độ tâm lý của T cho thấy bị cáo không mong muốn hoặc

chấp nhận hậu quả anh L chết. Chính vì vậy, việc TAND tỉnh Quảng Ninh

xét xử hành vi của Trương Thanh T phạm tội cố ý gây thương tích theo

khoản 3 Điều 104 BLHS 1999. Bản án nêu trên đã bị kháng nghị và TAND

54

cấp cao ở Hà Nội đã xử y án sơ thẩm.

* Việc áp dụng hình phạt chưa phù hợp: Quá trình áp dụng hình phạt,

một lỗi phổ biến mà cơ quan tiến hành tố tụng thường gặp phải dẫn đến bản

án bị sửa là do việc đánh giá chứng cứ, nhân thân, mức độ nguy hiểm cho xã

hội của hành vi phạm tội không chính xác dẫn đến việc quyết định hình phạt

không phù hợp, quá nặng hoặc quá nhẹ. Cụ thể:

Vụ án thứ nhất: Vào ngày 07/03/2017, Nguyễn Phương T đi chơi thì

bị 02 thanh niên lạ mặt dùng gậy đánh vào đầu gây thương tích. Vì vậy, tối

ngày 08/03/2017 trước khi đi chơi, T vào bếp của gia đình anh Nguyễn Văn

Bảy, sinh năm 1984 (bạn của T, mà T lên chơi từ ngày 05/03/2017) lấy một

con dao dài 38,5 cm, loại dao chặt mũi vuông, cán dao dài 12 cm, lưỡi dao dài

26,5 cm, nơi rộng nhất của lưỡi dao 07 cm. T không cho ai biết rồi cất vào áo

khoác đang mặc trên người nhằm mục đích nếu bị đánh thì dùng dao đánh lại.

Sau đó, T cùng với Lò Thị Ngợi đi chơi theo hướng từ bản Hưng Phong đi

bản thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 08/03/2017, T và Ngợi đang trên đường

quay về thì gặp Lường Văn Sơn, sinh ngày 21/5/2000 điều khiển xe môtô chở

theo Đèo Văn Sớm, sinh năm 2000 và Lò Văn Đạo, sinh năm 1997; Sơn điều

khiển xe qua vị trí T và Ngợi rồi quay đầu xe lại hỏi “hai người đi đâu đấy”, T

trả lời “đưa bạn gái đi chơi”, rồi hỏi lại Sơn “các anh có việc gì không? Sơn

trả lời “không có gì, tưởng người quen thôi” nhưng T không nghe thấy, sau đó

Sơn điều khiển xe môtô lên ngã ba đường ách vị trí gặp T 31,8m đứng chơi.

Sơn dựng chân chống và ngồi trên xe, Đạo xuống xe và đứng nghe điện thoại

còn Sớm cũng vừa xuống xe và đứng bên cạnh. T đi bộ lên cách 3,6 m thấy

vậy nên nghĩ rằng Sơn, Sớm và Đạo chặn đánh mình. T tay phải rút con dao

giấu sẵn trong người, chạy đến vị trí Sơn đứng cách 1,1m tay phải vung dao

theo chiều hướng từ phải qua trái, từ sau ra trước chém về phía Lường Văn

55

Sơn thì trúng vào tai và gò má bên trái gây thương tích với vết thương vùng

má có kích thước dài, rộng sâu tương ứng là 8 x 4 x 3cm và vết thương vùng

đỉnh tại có kích thước dài, rộng sâu tương ứng là 3 x 1 x 1cm. Sau đó Lường

Văn Sơn được Đèo Văn Sớm và Lò văn Đạo đưa đi cấp cứu điều trị đến ngày

14/03/2017 ra viện. Còn T cầm theo con dao chạy về nhà anh Nguyễn Văn

Bảy cất vào vị trí cũ và trốn vào vườn cây của nhà người dân đến ngày

11/03/2017 bị Cơ quan điều tra bắt khẩn cấp về hành vi cố ý gây thương tích.

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm giám định

pháp y tỉnh Quảng Ninh kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định “trên mặt có

01 sẹo vết thương, kéo dài từ gò má trái đến điểm giữa của vành tai trái nằm

ngang So với trục cơ thể kích thước 13 x 0,1cm, được khâu bằng 12 mũi chỉ,

chưa cắt chỉ” và “vỡ lồi cầu và mõm vẹt xương hàm dưới trái, hiện chưa thấy

can xương”, vật thể gây nên thương tích: “vật sắc”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể

của Lường Văn Sơn hiện tại là 18% (mười tám phần trăm).

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Móng Cái, tỉnh Quảng

Ninh đã áp dụng điểm a, i khoản 2 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều

46, Điều 60 Bộ luật hình sự 1999. Khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 - Bộ

luật hình sự 2015; Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc

hội, Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội, Nghị quyết

số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán – Tòa án

nhân dân tối cao. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 03 (ba) năm tù cho hưởng

án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án.

* Nhận xét: Học viên đồng tình với quan điểm định tội danh của bị cáo

Nguyễn Phương T về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS 1999. Tuy nhiên,

học viên không đồng tình với việc quyết định hình phạt trong bản án hình sự

sơ thẩm mà Hội đồng xét xử đã tuyên đối với bị cáo, bởi mức án mà Tòa án

56

đã áp dụng cho bị cáo Nguyễn Phương T không tương xứng với tính chất,

mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, không đảm bảo mục

đích trừng trị, giáo dục người phạm tội. Trong vụ án trên, giữa T và Sơn

không hề có mâu thuẫn gì. Chỉ vì T từng bị thanh niên lạ mặt đánh và nghĩ là

Sơn chặn đánh mình thực tế thì không phải vậy) mà T đã dùng con dao đã

chuẩn bị sẵn mang đi phòng thân, chạy về phía Sơn và chém về phía Sơn

trúng vào tai và gò mái trái của Sơn, cho thấy, vị trí mà T hướng tới chém là

vùng đầu của bị hại Sơn. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ quyết tâm

thực hiện tội phạm, coi thường sức khỏe tính mạng của người khác. Trong

vụ án trên, bị cáo phải chịu hai tình tiết tăng nặng định khung là “dùng hung

khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ”. Tuy nhiên, bản án hình sự sơ thẩm

của TAND thị xã Móng Cái lại tuyên phạt bị cáo T 03 năm tù, cho hưởng án

treo, thời gian thử thách 05 năm là không phù hợp với tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi mà bị cáo T đã thực hiện, thiếu tính răn đe, giáo dục

đối với bị cáo.

Vụ án thứ hai: Khoảng 20h00 ngày 28/5/2017, Nguyễn Văn A cùng

với Phạm Đức D, sinh năm 1999, Nguyễn Văn S, sinh năm 2000 xẩy ra mâu

thuẫn với Nguyễn Viết P, sinh năm 1997 và Nguyễn Văn T, sinh năm 1999

nên P và T dùng chân, tay đánh A nhưng sau đó được mọi người can ngăn.

Vì vậy, tối ngày 29/5/2017 trước khi đi chơi, A đem theo một con dao, loại

gấp bằng kim loại dài 21cm, phần lưỡi dao nhọn dài 9cm giấu ở cạp quần

đang mặc với mục đích để phòng thân rồi cùng với D, S và một số người bạn

khác đi chơi.

Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc A cùng với nhóm bạn

của mình đang chơi tại bãi đất trống thì Nguyễn Viết P cùng với nhóm bạn

của P đến. P bật đèn pin của điện thoại lên rồi hỏi “A đâu”, thì được A trả lời

lại “A đây”. P tiến về phía A, dùng tay trái nắm lấy cổ áo và đẩy A ra giữa

57

sân. H là bạn đi cùng với A vào can ngăn nhưng P nói to “việc này không liên

quan đến mày”, rồi dùng tay phải đấm một cái vào cằm bên trái của A, H tiếp

tục vào can ngăn nhưng bị P đẩy ngã xuống đất nên Phạm Đức D là bạn đi

cùng với A tiếp tục vào can ngăn. D đấy A ra phía sau, còn mình đứng giữa,

dơ tay chắn để P không xông vào đánh A nhưng P vẫn tiếp tục xông về phía

A cách 60cm, A đưa tay phải xuống cạp quần lấy con dao gthôn Tã cất sẵn từ

trước, bấm nút để lưỡi dao bật ra nhưng bị kẹt nên lấy tay trái kéo lưỡi dao ra

thẳng với cán dao rồi tay phải cầm dao, vung theo hình vòng cung từ sau ra

trước, từ phải qua trái theo chiều song song với mặt đất về phía P thì lưỡi dao

trung vào vùng bụng bên trái của P gây nên vết thương kích thước dài 2cm,

sâu khó xác định. A rút dao, dơ chân đạp về phía P nhưng không trúng nên

chạy đi và ném con dao xuống mương nước, cách vị trí đâm 12,7m sau đó

chạy về nhà mình. Còn P được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh

Quảng Ninh điều trị đến ngày 09/8/2017 thì xuất viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 57/BKL-TTPY

ngày 22/8/2017 của Trung tâm pháp y kết luận: Dấu hiệu chính qua giám

định: “Mổ khâu lỗ thủng hồng tràng đã ổn định”. Tỷ lệ tổn thương cơ thể

của P do thương tích gây nên hiện tại là 31% (Ba một phần trăm). Bản án

hình sự sơ thẩm của TAND thành phố Hạ Long đã căn cứ khoản 3 Điều 104,

điểm b, d, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 41, Điều 68, Điều 69,

Điều 74 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Khoản 3 Điều

7, khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm

2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội, xử phạt

bị cáo A 05 năm tù.

* Nhận xét: Học viên đồng tình với quan điểm định tội danh đối với A.

Tuy nhiên, mức hình phạt 05 năm tù mà Tòa án đã áp dụng đối với A là quá

nặng. Bởi lẽ, nguyên nhân của việc A gây thương tích cho P là do P có hành

58

vi gây sự và đấm A trước. Ngoài ra, trước đó, P đã từng đánh A. Dù đã được

D can ngắn nhưng P vẫn tiếp tục có hành vi gây sự và có ý định đánh A.

Chính hành vi này của P đã khiến bị cáo bực tức và có hành vi dùng dao đâm

P để P không đánh mình nữa. Trong vụ án này, bị hại cũng có lỗi, nó là

nguyên nhân đã gây ra hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi hậu quả xảy ra,

gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại, bị hại cũng có đơn xin

giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo,

tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo nhận thức pháp luật

còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong trạng

thái bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại. Khi

thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội là người chưa thành niên, do

đó, nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội là chủ yếu nhằm

giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công

dân có ích cho xã hội. Việc Hội đồng xét xử áp dụng dưới khung hình phạt

đối với bị cáo là có căn cứ, hợp pháp và phù hợp với tinh thần pháp luật.

Nhưng việc áp dụng hình phạt 05 (năm) năm tù giam đối với bị cáo là quá

nghiêm khắc, quá chú trọng đến răn đe, trừng trị, không mang tính khoan

hồng của pháp luật, đặc biệt đối với người chưa thành niên phạm tội.

Do đó, trong trường hợp này, theo quan điểm của học viên, có thể áp

dụng mức hình phạt 03 năm tù đối với bị cáo và xem xét cho bị cáo được

hưởng án treo, để vừa thể hiện tính răn đe, giáo dục, vừa thể hiện sự khoan

hồng của nhà nước và cho bị cáo có cơ hội sửa chữa, làm lại cuộc đời.

* Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn không phù hợp

Nội dung vụ án: Bị cáo Võ Văn Dũng bị truy tố và xét xử theo quy định

tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (với 02 tình tiết định khung

thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 104 BLHS: dùng hung

khí nguy hiểm và phạm tội có tính chất côn đồ) thuộc loại tội phạm nghiêm

59

trọng. Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, Dũng đang thi hành hình phạt tù

theo bản án số 24/2016/HSST ngày 24/8/2016 của TAND huyện Hoành Bồ -

07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”), nên bị cáo phải chịu tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Quá trình giải quyết vụ án, các

cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm áp dụng biện pháp ngăn chặn không

phù hợp (Cấm đi khỏi nơi cư trú), dẫn đến trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ

thẩm bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án (Tòa án phải xét

xử vắng mặt bị cáo).

* Nhận xét: Trong vụ án nêu trên, lẽ ra với tính chất hành vi phạm tội

và nhân thân Võ Văn Dũng thì các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm cần

có sự cân nhắc, xem xét thận trọng khi áp dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn

chặn. Việc không áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam đối với Võ Văn

Dũng là không phù hợp, không đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm

của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, làm ảnh hưởng đến thời

hạn giải quyết vụ án.gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án không đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật.

2.2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác của TAND

tỉnh Quảng Ninh

* Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất: Quy định của BLHS 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có nhiều điểm bất cập, chưa rõ ràng

(nội dung này sẽ được nêu rõ tại chương 3 của luận văn). Hoạt động áp dụng

pháp luật chỉ chính xác, thể hiện đúng vai trò, ý nghĩa cũng như mục đích

hướng tới khi Nhà nước ban hành một quy phạm pháp luật khi hoạt động

nhận thức pháp luật được đúng đắn, đầy đủ. Mặc dù vừa có hiệu lực từ ngày

01/01/2018, nhưng qua quá trình nghiên cứu các quy định tại điều 134 BLHS

60

cũng như thực tiễn xét xử của TAND tỉnh Quảng Ninh đối với tội Cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có thể thấy đã phát

sinh một số bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng. Đây là một trong những

nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xét xử vụ án về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Thứ hai: Số lượng các vụ án phải giải quyết trong những năm qua liên

tục tăng về số lượng vụ án; tính chất vụ án ngày càng phức tạp.

Thứ ba: Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, kinh phí để đầu tư các

trang thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin phục

vụ công tác chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Chế độ kinh phí, tài

chính đối với hoạt động xét xử còn chưa được quan tâm, chú trọng và chưa

tương xứng với tính chất đặc thù của công tác và đòi hỏi yêu cầu thực hiện

nhiệm vụ của Tòa án.

* Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức và khả năng phân tích, vận dụng pháp luật của một số

Thẩm phán còn hạn chế về năng lực, trình độ, kinh nghiệm; thiếu tính cẩn

thận trong việc ban hành các quyết định, bản án; chạy theo chỉ tiêu về số

lượng giải quyết nên làm ảnh hưởng tới chất lượng giải quyết án.

- Kỹ năng sử dụng máy tính của một số Thẩm phán còn hạn chế, việc

đưa ứng dụng công nghệ vào quá trình làm việc chưa được chú trọng và áp

dụng dẫn đến việc tiến hành thủ tục tố tụng của Thẩm phán gây tốn kém thời

gian, công sức cho chính mình và người tham gia tố tụng.

- Trình độ nghiệp vụ, chuyên môn xét xử của các Hội thẩm còn hạn

61

chế, không đáp ứng được đòi hỏi từ thực tiễn nhu cầu xét xử đặt ra.

Kết luận chƣơng 2

Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác tại Điều 134 BLHS 2015 là quy định có nhiều điểm mới

được sửa đổi một cách toàn diện, tiến bộ thể hiện tư duy lập pháp phù hợp

với thực tiễn công tác giải quyết loại tội phạm này. Tuy nhiên, trước diễn

biến tình hình loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng cả về số

lượng lẫn mức độ nguy hiểm thì một số nội dung của Điều luật đã được dự

báo sẽ khó khăn trong quá trình áp dụng đòi hỏi các cơ quan chức năng kịp

thời ban hành văn bản hướng dẫn góp phần nâng cao chất lượng áp dụng

pháp luật nói chung và chất lượng xét xử đối với loại tội phạm này trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng được hiệu quả. Từ việc phân tích thực tiễn áp

dụng quy định trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cùng với việc phân tích những

kết quả đạt được, vướng mắc, tồn tại, học viên đã thẳng thắn chỉ ra nguyên

nhân của các vướng mắc, tồn tại hạn chế này, đây sẽ là tiền đề quan trọng

giúp học viên đề xuất những giải pháp thiết thực, đúng trọng tâm và đạt hiệu

62

quả trong chương 3 của luận văn.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP

DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG

TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC

3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

BLHS về Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

ngƣời khác

Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định các văn bản pháp luật nói

chung và của BLHS nói riêng là nội dung trọng tâm cần thực hiện nhằm hiện

thực hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp được đề

ra trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết số

48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020. Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm

giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ

ban hành theo Quyết định 623/QĐ-TTg đã thống nhất 4 quan điểm chỉ đạo

trong đó xác định phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng

yếu, cấp bách, thường xuyên, liên tục và lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và

toàn quân, trong đó các cơ quan chức năng làm nòng cốt; tập trung lực lượng,

sử dụng tổng hợp các biện pháp, chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh

ngăn chặn tội phạm, trong đó lấy phòng ngừa là chính, đồng thời chủ động tấn

công trấn áp tội phạm, kịp thời phát hiện, điều tra và xử lý nghiêm minh mọi

hành vi phạm tội; Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với cơ quan thực thi pháp

63

luật trong khu vực và trên thế giới…

Đây là những chủ trương nhằm phấn đấu đến năm 2020 giảm từ 3-5%

tổng số vụ phạm tội hình sự so với năm 2016; nâng cao hiệu quả công tác

phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ

chức xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm về kinh tế,

tham nhũng, ma túy, môi trường, tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa

tuổi chưa thành niên, tội phạm liên quan trực tiếp đến sự suy thoái đạo đức

gia đình, xã hội… Tỷ lệ điều tra, khám phá các loại tội phạm đạt từ 75% trở

lên, các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đạt 95% trở lên trên

tổng số án khởi tố. Hằng năm, bắt giữ, vận động đầu thú 30% số đối tượng

truy nã (trong đó trên 40% số đối tượng truy nã mới phát sinh). Giảm tỷ lệ tái

phạm tội trong số người chấp hành xong án phạt tù xuống dưới 15%; ít nhất

50% số khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường

đạt tiêu chí “An toàn về an ninh, trật tự”; chuyển hóa thành công 60% địa bàn

được xác định là trọng điểm, phức tạp về trật tự, an toàn xã hội [23].

Từ đó cho thấy việc áp dụng hiệu quả các quy định pháp luật hình sự

đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác sẽ đáp ứng được những chủ trương lớn trong hoạt động tư pháp, cụ thể:

Thứ nhất, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu và định hướng hoàn

thiện pháp luật Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020, là giai đoạn bản lề của

phát triển kinh tế, hoàn thiện thể chế và pháp luật. Theo đó, Nghị quyết nhấn

mạnh mục tiêu:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,

khả thi, công khai, minh bạch […], xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát

64

huy vai trò và hiệu lực của pháp luật […].

Như vậy có thể khẳng định, mục tiêu tăng cường hiệu quả các quy định

hình sự cho phù hợp với tình hình gia tăng tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh là một trong

những mục tiêu quan trọng của quá trình hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam.

Nghị quyết cũng đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện pháp luật về đấu

tranh phòng chống tội phạm nói cung theo hướng xây dựng các cơ quan bảo

vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát

hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm đồng thời hoàn thiện chính sách hình

sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa.

Thứ hai, sự cần thiết tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật còn đặt ra

khi pháp luật hình sự Việt Nam mặc dù đã có một số văn bản quy định về Tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như Bộ

luật Hình sự. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa được

ban hành, dẫn đến khó khăn trong công tác áp dụng. Do vậy, việc hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng quy định cụ thể và rõ ràng về cách

thức áp dụng quy định pháp luật hình sự đối với tội phạm này cần thiết.

Có thể nói, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung hướng tới

thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là

chủ trương: “Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội

phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và

bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho

xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học,

công nghệ và hội nhập quốc tế”. Đồng thời, đáp ứng đúng tinh thần và cụ thể

hóa Hiến pháp năm 2013, tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần

65

bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị

trường định hướng XHCN, đấu tranh chống tham nhũng đồng thời bảo đảm

mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh.

Từ chủ trương đó, việc xây dựng và áp dụng các quy định của BLHS

đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác thời gian qua đã có nhiều thay đổi để phù hợp. Cụ thể, việc bãi bỏ hình

phạt tử hình nhưng tăng dân mức hình phạt cho thấy những thay đổi trong tư

duy lập pháp để gần hơn với quốc tế.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

BLHS về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

ngƣời khác

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

BLHS 2015 có hiệu lực ngày 01/01/2018, tuy nhiên từ lý luận nội dung

điều luật tại Điều 134 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác đã nảy sinh nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến việc áp

dụng pháp luật không thống nhất. Cụ thể:

Thứ nhất: Điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS 2015 quy định vũ khí và vật

liệu nổ là quy định khó áp dụng bởi lẽ vũ khí và vật liệu nổ theo hướng dẫn

tại Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ ngày 20/6/2017

quy định như sau:

1. Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện

được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho

tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao

gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và

vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.

2. Vũ khí quân dụng là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu

66

chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị

cho lực lượng vũ trangnhân dân và các lực lượng khác theo quy

định của Luật này để thi hành công vụ, bao gồm:

a) Súng cầm tay bao gồm: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên,

súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu;

b) Vũ khí hạng nhẹ bao gồm: súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ,

súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân;

c) Vũ khí hạng nặng bao gồm: máy bay chiến đấu, trực thăng vũ

trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu ngầm, pháo mặt đất,

pháo phòng không, tên lửa;

d) Bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi; đạn sử dụng cho các loại vũ

khí quy định tại các điểm a, b và c khoản này.

…4. Vũ khí thô sơ là vũ khí có cấu tạo, nguyên lý hoạt động đơn

giản và được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, bao

gồm: dao găm, kiếm, giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn,

quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu.

5. Vũ khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc

công nghiệp, được sử dụng để luyện tập, thi đấu thể thao, bao gồm:

a) Súng trường hơi, súng trường bắn đạn nổ, súng ngắn hơi, súng

ngắn bắn đạn nổ, súng thể thao bắn đạn sơn, súng bắn đĩa bay và

đạn sử dụng cho các loại súng này;

b) Vũ khí thô sơ quy định tại khoản 4 Điều này dùng để luyện tập,

thi đấu thể thao.

6. Vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự là vũ khí được chế tạo,

sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ

thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát

thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy

kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí

67

thô sơ, vũ khí thể thao.

7. Vật liệu nổ là sản phẩm dưới tác động của xung kích thích ban

đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát

sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm:

a) Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản xuất, sử dụng

nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích;

b) Phụ kiện nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm

chứa thuốc nổ có tác dụng tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối

thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ.

8. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích quốc

phòng, an ninh.

9. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích kinh

tế, dân sự.

10. Tiền chất thuốc nổ là hóa chất nguy hiểm, trực tiếp dùng để sản

xuất thuốc nổ... [32].

Theo quy định của điều luật trên thì vũ khí bao gồm, vũ khí quân dụng

và vũ khí thô sơ. Vật liệu nổ bao gồm, vật liệu nổ quân dụng và vật liệu nổ

công nghiệp. Hiện nay, liên quan đến các loại công cụ trên, thì BLHS 2015

cũng có những tội độc lập đó là:Điều 304. Tội chế tạo tàng trữ, vận chuyển,

sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng phương tiện kỹ

thuật quân sự; Điều 305. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán

trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; Điều 306. Tội chế tạo, tàng trữ, vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ,

vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ.

Vấn đề đặt ra là nếu trường hợp A sử dụng vũ khí quân dụng để gây

thương tích cho B thì A sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự như thế nào? Bởi tình

tiết sử dụng vũ khí quân dụng đã được sử dụng làm tình tiết định tội trong tội

68

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác nên không thể

tiếp tục được sử dụng để cấu thành Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật

quân sự (Điều 304) được vì như vậy là gây bất lợi cho người phạm tội khi

một hành vi bị áp dụng 2 lần. Hướng xử lý như vậy sẽ trái với hướng xử lý

trước đây theo BLHS 1999 bởi hành vi nêu trên trước đây sẽ bị xử lý về 02

tội; do đó cần phải hướng dẫn trường hợp nêu trên [47].

. Thứ hai: Điều 134 BLHS 2015 quy định, người có hành vi cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ thương

tật dưới 11% nhưng nếu có thêm một trong các dấu hiệu được quy định từ

điểm a đến điểm k khoản 1 thì vẫn cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, do điều

luật không quy định mức tỷ lệ thương tật tối thiểu là bao nhiêu % để truy

cứu trách nhiệm hình sự nên có trường hợp người gây thương tích cho người

khác làm tổn hại 1% sức khỏe cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Do đó cũng nên sửa đổi đưa ra một mức tối thiểu thể hiện tính chất nguy

hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ ba: Tên gọi tội danh là “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác” nhưng thực tế khi áp dụng tội này chỉ xử lý về

tội cố ý gây thương tích. Nên cần thiết phải tách ra làm các tội độc lập trong

đó sửa đổi, mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội cố ý gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Việc sửa đổi này cũng sẽ phù hợp hơn về nội hàm và

đưa về đúng bản chất của tội cố ý gây thương tích.

Thứ tư: Về tình tiết điểm c khoản 1 Điều 134 “Cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người già yếu”.BLHS 2015 đề cập đến tình

tiết “người già yếu” tuy nhiên lại không giải thích người già yếu là người như

thế nào? Do đó tình tiết này áp dụng trong thực tiễn không thống nhất. Ngoài

ra Cụm từ này để chỉ 01 chủ thể là người già yếu và ốm đau hay là chỉ 02 chủ

69

thể là người già yếu và người ốm đau cũng cần phải được hướng dẫn. Thiết

nghĩ nếu không ban hành văn bản hướng dẫn, theo quan điểm của học viên

nên bỏ cụm từ già yếu và thống nhất áp dụng tỉnh tiết là người dưới 70 tuổi

bởi theo y học, khi cơ thể con người từ 70 tuổi trở lên, các bộ phận cơ thể đã

lão hóa, hoạt động kém hiệu quả, việc trao đổi chất và tái tạo tế bào diễn ra

chậm, do vậy, khi người phạm tội gây thương tích thì rất nguy hiểm và khó có

khả năng phục hồi do đó không cần quy định tình tiết người già yếu cũng đủ

phân hóa tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ năm: Về khoản 6 Điều 134 BLHS 2015: Đây là quy định mới của

BLHS 2015 so với BLHS 1999 khi quy định trách nhiệm hình sự trong giai

đoạn chuẩn bị phạm tội của tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác” là tội có cấu thành vật chất, bắt buộc phải có hậu quả

xảy ra thì mới cấu thành tội phạm. Như vậy yếu tố hậu quả là yếu tố bắt buộc

trong cấu thành tội phạm, chỉ khi xảy ra hậu quả là gây thương tích theo tỉ lệ

luật định, hoặc thuộc trường hợp luật định thì người phạm tội mới phải chịu

trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác. Tuy nhiên, khoản 6 Điều 134 BLHS lại quy định:

“Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm,

hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Thiết nghĩ

nội dung điều luật nêu trên rất thiếu tính khả thi và khó áp dụng trong thực

tiễn xét xử [47].

3.2.2. Các giải pháp về thực tiễn xét xử của tòa án về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

3.2.2.1. Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật

70

Thực tiễn xét xử cho thấy các hành vi phạm tội cũng giống như các

quan hệ xã hội rất đa dạng và ở thể động nên luôn biến đổi, không vụ án nào

giống vụ án nào trong khi các quy phạm pháp luật luôn ở thể tĩnh không thể

nào điều chỉnh toàn bộ các tình tiết, vụ án hình sự do đó dẫn đến việc ban

hành các văn bản hướng dẫn là cần thiết. Pháp luật chỉ đi vào cuộc sống khi

nó phù hợp với nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn, ngược lại, cũng từ thực tiễn

mà các nhà làm luật kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật được

hoàn chỉnh hơn. Trong những năm qua, công tác giải thích và hướng dẫn pháp

luật được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm để giải quyết những khó khăn,

vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật. Việc giải thích, hướng dẫn pháp luật

đã được liên ngành tố tụng trung ương quan tâm, có nhiều nghị quyết, thông

tư liên ngành hướng dẫn các quy định của pháp luật trong đó có hướng dẫn

việc áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại hại cho sức

khỏe của người khác. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, đặc biệt

trong giai đọn BLHS 2015 đã có hiệu lực thi hành, thì công tác hướng dẫn áp

dụng pháp luật cần được làm một cách khoa học, có trọng tâm, trọng điểm và

tránh nhiều văn bản chồng chéo. Việc hướng dẫn pháp luật cần được tập hợp

chung trong một văn bản mang tính thống nhất, để làm cơ sở pháp lý cho việc

áp dụng pháp luật.

3.2.2.2. Nghiên cứu ban hành án lệ về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Hiện nay, TAND tối cao đã công bố, thừa nhận tổng cộng 26 án lệ,

trong đó có 04 án lệ về hình sự, tuy nhiên tỏng 04 án lệ về hình sự không có

án lệ nào liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác. Do đó, trong thời gian tới, Hội đồng thẩm phán TAND tối

cao cần nghiên cứu sớm ban hành áp dụng án lệ về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác để đảm bảo xem xét đầy đủ,

71

khách quan, toàn diện và công bằng trong hoạt động xét xử. Bởi thực tiễn có

những vụ án mà người phạm tội có hành vi phạm tội tương tự nhau nhưng

mỗi Hội đồng xét xử khác nhau lại xét xử khác nhau là thiếu thống nhất, gây

nên sự bất bình đẳng giữa những người phạm tội với nhau, tạo dư luận xấu

trong quần chúng nhân dân. Việc ban hành án lệ góp phần bổ sung cho những

thiếu sót, những lỗ hổng của pháp luật và khắc phục được tình trạng thiếu

pháp luật. Án lệ góp phần giải thích và vận dụng pháp luật trong từng trường

hợp cụ thể. Với sự trợ giúp của án lệ, các vụ việc được giải quyết nhanh

chóng hơn khi chưa có luật thành văn điều chỉnh. Án lệ tạo sự thống nhất

trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án trong công tác xét xử giữa

các cấp tòa án. Án lệ góp phần nâng cao trình độ người tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng, thông qua việc không ngừng cập nhật liên tục án lệ để

giải quyết. Án lệ cũng góp phần phòng chống tham nhũng, đảm bảo công

bằng, khách quan trong công tác xét xử.

3.2.2.3. Phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ

quan tổ chức

Trong hoạt động xét xử của Toà án sẽ không hoàn thành tốt nhiệm vụ

của mình nếu không có sự phối kết hợp với các cơ quan Nhà nước đặc biệt là

cơ quan Công an và Viện Kiểm sát cùng cấp. Vì vậy, Toà án cần phải tăng

cường mối quan hệ phối hợp với cơ quan Công an, Viện kiểm sát cùng cthôn

Tể giải quyết tốt các vụ án lớn, khó khăn phức tạp, vụ án trọng điểm. Các cơ

quan tư pháp phải có sự bàn bạc đi đến thống nhất, tránh những biểu hiện cục

bộ từng ngành, đồng thời phải có thái độ cương quyết trong việc khắc phục

những sai sót trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Không để

tình trạng nể nang, thoả hiệp làm ảnh hưởng tới chất lượng xét xử. Xây dựng

quy chế phối hợp trong công tác, định kỳ họp trao đổi những vấn đề còn có ý

kiến khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về đánh giá chứng cứ và áp

dụng pháp luật, nhằm đảm bảo giải quyết tốt vụ án, đặc biệt là những vụ án

72

phức tạp, trọng điểm được dư luận xã hội quan tâm.

3.2.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất - nâng cao điều kiện làm việc cho

Tòa án

- Bổ sung trang thiết bị làm việc, nhất là các thiết bị, phương tiện phục

vụ ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và hoạt động chuyên môn, phấn

đấu đến năm 2020 trang bị đầy đủ mỗi cán bộ, công chức làm việc tại TAND

tỉnh Quảng Ninh có 01 máy vi tính riêng; tất cả các máy tính đều nối mạng

internet, mạng nội bộ đảm bảo công tác quản lý phần mềm lưu trữ các loại án.

Bởi thực tiễn hiện nay tại TAND tỉnh Quảng Ninh, máy tính vẫn phải dùng

chung dẫn đến việc bất tiện trong hoạt động, chất lượng làm việc không cao.

- Thực hiện theo hướng dẫn số 88/TANDTC-PC ngày 01/4/2016 của

Toà án nhân dân tối cao về việc triển khai mô hình phòng xử án, TAND tỉnh

Quảng Ninh cần xây dựng thêm 01 hội trường xét xử thân thiện sử dụng cho

phiên toà gia đình và người chưa thành niên để đảm bảo không tạo sự mặc

cảm tự ti đối với người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự.

- Đặc biệt để Hội thẩm nhân dân và cán bộ, công chức Tòa án được tiếp

cận, nghiên cứu, cập nhật các văn bản chuyên môn được kịp thời, TAND tỉnh

73

Quảng Ninh cũng cần xây dựng phòng đọc, tủ sách pháp luật.

Kết luận chƣơng 3

Bên cạnh các yêu cầu đặt ra trong việc nâng cao chất lượng áp dụng

quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, học viên đã chỉ ra 05 giải pháp bao

gồm: Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác; Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng

pháp luật; Nghiên cứu ban hành án lệ về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác; Phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến

hành tố tụng, các cơ quan tổ chức; Tăng cường cơ sở vật chất - nâng cao điều

kiện làm việc cho Tòa án; Giải pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác; mỗi giải pháp đều có vai trò, vị trí quan trọng riêng vì vậy trong thời

gian tới cần tiến hành các giải pháp một cách đồng bộ, toàn diện để đạt được

kết quả cao nhất, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của ngành Tòa án nói

chung và chất lượng xét xử các vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích

74

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trong thực tiễn.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng

Ninh, bước đầu Luận văn đã cố gắng làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận

và thực tiễn để làm rõ các dấu hiệu phạm tội và công tác xét xử đối với tội

này trên địa bàn. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là một trong những tội thuộc nhóm các tội phạm xâm hại sức

khỏe của con người, là một trong những tội phạm khá phổ biến và gây hậu

quả xấu cho xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân bị hại, gia đình và

toàn xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống nội

dung quy định của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả trong

thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, xử lý

tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác nói riêng.

Luận văn này đã nêu, phân tích, đánh giá làm rõ những vấn đề lý luận

cơ bản về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Khái niệm, ý nghĩa và các dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự Việt

Nam hiện hành quy định tại các giai đoạn lịch sử. Phân biệt tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội

phạm có liên quan.

Luận văn đã đánh giá tình hình tội phạm và kết quả giải quyết các vụ

án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ năm

2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đồng thời phân tích một số

75

vấn đề trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội danh và hình phạt đối với tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh.

Trên cơ sở nghiên cứu các nội dung trên Luận văn đã xác định được

một số tồn tại, bất cập trong quy định của BLHS cùng thực tiễn của tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ đó đề xuất

ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nhằm nâng cao có

76

hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Văn Beo (2008), Luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm,

Trung tâm học liệu, Đại học C.

2. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới.

3. Bộ Tư pháp Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam (1976), Thông tư số 03-BTP/TT ngày 20/4/1976 của Bộ Tư pháp

Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

4. Bộ Y tế (2014), Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014

Thông tư quy định về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể, Hà Nội.

5. Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1995), Thông tư số

12/TTLB liên bộ Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội ngày 26-7-

1995 quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới, Hà Nội.

6. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần

chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

7. Thân Đình Chung (2014), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn

quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện

khoa học xã hội.

8. Đặng Thị Hương Dung, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong

luật hình sự Việt Nam.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

77

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

12. Đỗ Đức Hồng Hà (2004), “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây

thương tích”, Tạp chí toà án nhân dân, (3), tr. 7 – 11.

13. Nguyễn Ngọc Hoà (2001), “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,

nhân phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa BLHS năm 1999 và

BLHS năm 1985”, Tạp chí luật học, (1).

14. Nguyễn Ngọc Hòa, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (phần

các tội phạm) quyển 1, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

15. Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

(1976), Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt.

16. Hội đồng Quốc gia (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

17. Trần Văn Hưởng (2013), Bình luận khoa học luật hình sự Việt Nam (có

sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

18. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự

(phần các tội phạm), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

19. Trần Văn Luyện (chủ biên) (2017), Bình luận khoa học bộ luật hình sự năm

2015 (Sửa đổi Bổ sung 2017) - Phần tội phạm, Nxb Công an nhân dân.

20. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2002), Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Cao Thị Oanh - Lê Đăng Doanh (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học

Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội.

22. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần

78

các tội phạm), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Lương Minh Phương (2013), Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm

các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người của Toà án nhân dân ở

tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

24. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam

Phần các tội phạm, tập I, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

25. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

27. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

29. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

32. Quốc hội (2017), Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ

hỗ trợ, Hà Nội.

33. TAND tỉnh Quảng Ninh (2014), Báo cáo tổng kết công tác năm 2014 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2015, Quảng Ninh.

34. TAND tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo tổng kết công tác năm 2015 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2016, Quảng Ninh.

35. TAND tỉnh Quảng Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2017, Quảng Ninh.

36. TAND tỉnh Quảng Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2018, Quảng Ninh.

37. TAND tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 và

phương hướng nhiệm vụ năm 2019, Quảng Ninh.

38. Thủ tướng Chính phủ (1995), Thông tư số 442-TTg ngày 19/1/1955 về

79

việc trừng trị một số tội phạm, Hà Nội.

39. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày

14/4/2016 phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai

đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030, Hà Nội.

40. Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến

sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

41. Tòa án nhân dân tối cao (1970), Công văn số 452/HS2 ngày 10/8/1970 của

Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội phạm giết người, Hà Nội.

42. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày

29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của bộ luật hình

sự, Hà Nội.

43. Tòa án nhân dân tối cao (1987), Công văn số 03/TATC ngày 22/10/1987

Hướng dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự, Hà Nội.

44. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ

(1998), Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV

ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi,

bổ sung một số điều của BLHS, Hà Nội.

45. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân.

46. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(tập II), Nxb CAND, Hà Nội.

47. Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số ý kiến về tội Cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều

80

134 Bộ luật hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (12).