VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN ĐÌNH DŨNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ
ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN ĐÌNH DŨNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ
ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số : 8 38 01 05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ
luật học “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng
ngừa” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng
lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Phan Đình Dũng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Tội phạm
học và phòng ngừa tội phạm của mình, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn đến ban
giám đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong Học viện Khoa học xã hội, đã
nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh, người
đã trực tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình đã tạo mọi điều kiện tốt
nhất để tôi có thể hoàn thành tốt mọi công việc trong quá trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó, tôi cũng gởi lời cảm ơn của mình đến cơ quan Trường Trung cấp
Cảnh sát nhân dân V, TAND tỉnh Quảng Nam, Công an tỉnh Quảng Nam, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện, chia sẻ, động viên tôi suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô và
bạn bè.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY
TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019 .................................................... 8
1.1. Phần hiện của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .............................................................................. 8
1.2. Phần ẩn của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 ............................... 31
CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM .................................... 36
2.1. Những yếu tố thuộc môi trường sống ở tỉnh Quảng Nam ................................. 37
2.2. Những yếu tố tiêu cực thuộc về chủ thể tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.................................................................................................. 47
2.3. Tình huống phạm tội .......................................................................................... 51
2.4. Yếu tố nạn nhân trong vụ phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác ................................................................................................................. 52
CHƯƠNG 3: HỆ THỐNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN
TỚI............................................................................................................................ 54
3.1. Dự báo tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .................................................................................... 54
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .................................................. 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1 ANTT An ninh trật tự
2 CAND Công an nhân dân
3 BLHS Bộ luật hình sự
4 TTHS Tố tụng hình sự
5 HSST Hình sự sơ thẩm
6 CYGTT Cố ý gây thương tích
7 NXB Nhà xuất bản
8 PPHS Phạm pháp hình sự
9 TAND Tòa án nhân dân
10 THTP Tình hình tội phạm
11 UBND Ủy ban Nhân dân
12 VKSND Viện kiểm sát Nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Mức độ tổng quan tuyệt đối (mức độ cơ bản) của tình hình tội
1.1 CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa 09
bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Tỉ lệ tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1.2 (So sánh với mức độ của THTP) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 10
năm 2015 đến năm 2019
Tổng quan so sánh tình hình Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
1.3 sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và một số 11
địa phương
So sánh mức độ của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác bị xét xử với mức độ của THTP về 12 1.4 xâm phạm sức khỏe con người bị xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam từ năm 2015 đến năm 2019
So sánh số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
1.5 khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với các địa 13
phương
Mức độ tăng giảm hằng năm của tội CYGTT hoặc gây tổn hại
1.6 cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam so 15
với năm 2015 là năm định gốc
Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội phạm CYGTT hoặc gây
1.7 tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng 15
Nam, so sánh với năm liền kề
Tổng quan theo giai đoạn 3 năm của tình hình tội CYGTT hoặc
1.8 gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Quảng Nam từ năm 16
2015 đến năm 2019
1.9 Cơ cấu số vụ HSST tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe 17
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019 theo địa bàn phạm tội
Cơ cấu của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
1.10 khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 22
theo thời gian phạm tội
Cơ cấu tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
1.11 người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 25
2019 theo hình phạt và chế định án treo được áp dụng
Đặc điểm về độ tuổi của các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây
1.12 tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng 26
Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Phân tích giới tính các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
1.13 cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 27
năm 2015 đến năm 2019
Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
1.14 của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam xét theo đặc điểm 27
về trình độ học vấn
Đặc điểm về nghề nghiệp của các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc
1.15 gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng 28
Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
1.16 của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 – 29
2019 theo đặc điểm về thành phần dân tộc
Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
1.17 của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến 29
năm 2019 theo đặc điểm về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Tỉ lệ số vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
1.18 khác được điều tra và đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng 33
Nam từ năm 2015 đến năm 2019.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Trung Trung Bộ, mới được
tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ vào năm 1997, có phía Đông giáp biển
Đông; phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế; phía Tây giáp
tỉnh Kon Tum và tỉnh Sê Kông (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào); phía Nam giáp
tỉnh Quảng Ngãi. Tuy được xếp vào vùng duyên hải, song địa hình Quảng Nam
thấp dần từ Tây sang Đông và có đặc trưng của ba loại địa hình khác nhau: Vùng
núi ở phía Tây; trung du ở giữa và đồng bằng ven biển phía Đông. Đây là một tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, nằm trên
tuyến giao thông huyết mạch của cả nước, với nhiều tiềm năng và giàu truyền thống
cách mạng, nổi danh với hai di sản văn hóa thế giới là đô thị cổ Hội An và khu đền
tháp Mỹ Sơn.
Về diện tích, dân cư, hành chính và kinh tế của tỉnh Quảng Nam thấy cần lưu
ý đến những thông số có ý nghĩa cho việc nghiên cứu như sau: Diện tích tự nhiên
của tỉnh là 10,428 km2, bao gồm 02 thành phố trực thuộc tỉnh, 01 thị xã và 15
huyện; tổng dân số có khoảng 1,5 triệu người với mật độ 149 người/km2; có 27 tộc
người cùng sinh sống trên địa bàn tỉnh, trong đó người Kinh chiếm 91,1%; người
Cơ Tu 3,2%; người Xơ Đăng 2,7% và người Giẻ Triêng 1,3%; những tộc người còn
lại chỉ chiếm 0,9%; số người trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên rất cao là 919
nghìn người, chiếm 61,3% dân số trong toàn tỉnh, tỉ lệ thất nghiệp 3,03% (năm
2018), với mật độ dân số khá cao, số người trong độ tuổi lao động đông đảo nên
không ít người trong độ tuổi lao động không có việc làm. Về kinh tế, tỉnh Quảng
Nam trong những năm qua có sự tăng trưởng khá, tỉnh có nhiều giải pháp quyết liệt
tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các thành phần kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững
an ninh - quốc phòng. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 3,81% so với năm
2018, thu nhập bình quân đầu người 66 triệu đồng; cơ cấu kinh tế từng bước chuyển
dịch theo đúng hướng, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỉ trọng 33,9%, 98 xã
1
đạt chuẩn nông thôn mới; tỉ lệ hộ nghèo giảm khá nhanh, toàn tỉnh còn 25.689 hộ
nghèo, tỉ lệ 6,06%; đời sống tinh thần của người dân được nâng lên, có 18/18
huyện, thị, thành, 244/244 xã, phường, thị trấn hoàn thành công tác phổ cập giáo
dục tiểu học, trung học cơ sở, giáo dục mầm non cho trẻ 05 tuổi và công tác xóa mù
chữ.
Bên cạnh những thành tựu kinh tế xã hội đã đạt được như đã nêu, tỉnh Quảng
Nam cũng hiện hữu những mặt tiêu cực, trong đó và trước hết phải kể đến THTP
mà trong cơ cấu của nó có loại tội xâm phạm trực tiếp đến cơ thể, sức khỏe con
người lại chiếm tỉ lệ rất cao; đó là tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Nam, trong 05 năm từ
năm 2015 đến 2019, TAND các cấp của tỉnh Quảng Nam đã xét xử HSST 3711 vụ
với 6119 bị cáo; trong đó có 447 vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, chiếm tỉ lệ 12,1% với 692 bị cáo, chiếm tỉ lệ 11,3%, tỉ lệ này trên phạm
vi toàn quốc giai đoạn 2001 - 2003 là 8,38%, 2004 - 2008 là 9,45%. Tình trạng
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như vậy gây lo lắng, bức
xúc trong nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình ANTT trên địa bàn tỉnh.
Trước THTP nói chung và tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác nói riêng, trong những năm qua, tỉnh ủy, hội đồng nhân dân,
UBND tỉnh Quảng Nam đã chỉ đạo sát sao các cơ quan chức năng thực hiện các văn
bản của Đảng và nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm như: Chỉ thị số
48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”; Quyết định số
623/2012/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm
2030, v.v., song THTP vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm trọng; vì thế nó cần phải
được nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu theo hướng phòng ngừa, tức là việc phòng
ngừa tội phạm phải được nghiên cứu và thiết lập trên cơ sở hướng dẫn của khoa học
pháp lí hình sự chuyên ngành mà ở đây muốn nói đến là tội phạm học.
2
Bên cạnh bề giầy lịch sử của các khoa học pháp lí hình sự về chống tội
phạm, Tội phạm học với tính chất là khoa học pháp lí hình sự về phòng ngừa tội
phạm cũng đã hiện hữu ở nước ta hàng chục năm nay và đang được áp dụng để
phòng ngừa các loại tội phạm. Theo đó, việc phòng ngừa tội phạm phải được thiết
lập trên cơ sở xác định được quy luật vận động của tội phạm cần phòng ngừa bằng
cách mô tả và phân tích chi tiết THTP. Đây là hướng nghiên cứu hứa hẹn mang lại
hiệu quả cao cho công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trên phạm vi quốc
tế và quốc gia. Vì thế nó cần được áp dụng cho từng địa phương, trong đó có Quảng
Nam và việc áp dụng này đối với những tội danh vốn đã xảy ra trên thực tế hàng
năm tại địa phương là rất cần thiết và khả thi.
Chính vì các lí do như vậy, đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình,
nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa” đã được lựa chọn để nghiên cứu trong
phạm vi chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm làm luận văn thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để có cơ sở lí luận cho việc thực hiện đề tài luận văn đã nêu, các công trình
khoa học chuyên ngành sau đây đã được tham khảo:
- GS.TS. Nguyễn Văn Cảnh và PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2003) Một số vấn
đề tội phạm học Việt Nam, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
- TS. Phạm Văn Tỉnh (2007) Một số vấn đề lí luận về tình hình tội phạm ở
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2004) “Phòng ngừa tội phạm và chiến lược
phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật số 3, tr. 74-84;
- PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2011), “Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ
quyền con người – một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học”,
Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 7, tr. 7-14;
- Phạm Văn Tỉnh (1996) “Cơ chế hành vi phạm tội - cơ sở để xác định
nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát số 3, tr. 18-21;
3
- PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2019) “Tích hợp mô hình tương tác xuyên thời
gian với đồng thời gian của cơ chế hành vi phạm tội - phương pháp phát triển lí luận
và nghiên cứu tội phạm học về nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội phạm”,
Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 10, tr.3-13;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2009) Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội;
…
Đây là những công trình chứa đựng lí luận chung về những vấn đề mà đề tài
luận văn này phải đề cập, tức là tác giả phải dựa vào đó để nghiên cứu sâu hơn về
tình hình, nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Cách nghiên cứu tội phạm học như vậy đã được triển khai trên thực tế ở
nước ta từ nhiều năm nay đối với nhiều loại tội phạm cụ thể. Đây cũng là một
nguồn tài liệu tham khảo bắt buộc của đề tài luận văn và trong quá trình thực hiện,
một số công trình khoa học sau đây đã được nghiên cứu:
- Đinh Trương Hoàng (2018) Nguyên nhân và điều kiện của các tội xâm
phạm tính mang, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học - Học viện Khoa học xã hội;
- Bùi Thị Thùy Linh (2017) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định: Tình hình,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện Khoa
học xã hội;
- Vũ Thị Thúy Mai (2017) Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Luận
văn thạc sĩ luật học - Học viện Khoa học xã hội;
- Đàm Minh Quân (2015) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: Tình hình, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ luật học - Học viện Khoa học xã hội;
...
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn này đã được ấn định ngay trong tên
đề tài, tức là phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
địa bàn tỉnh Quảng Nam. Mục đích này, như triết lí của tên đề tài đã chỉ ra, phải
được thực hiện trên cơ sở thực tế của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác địa bàn tỉnh Quảng Nam và trên cơ sở kết quả xác định
nguyên nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực cụ thể này trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam thời gian qua.
Về nhiệm vụ nghiên cứu vì mục đích đã nêu của đề tài luận văn
Để có thể thực hiện được mục đích như đã nêu của đề tài luận văn, các
nhiệm vụ sau đây đã được xác định:
Thứ nhất là nghiên cứu tài liệu, gồm việc nghiên cứu lí luận tội phạm học về
những vấn đề cơ bản của đề tài; nghiên cứu tài liệu pháp luật liên quan đến đề tài;
nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết của Đảng từ trung ương đến địa phương về đấu tranh
phòng và chống tội phạm;
Thứ hai là nghiên cứu thực tế, gồm thu thập, phân tích số liệu thống kê của
tòa án, báo cáo tổng kết năm của cơ quan tư pháp và thu thập bản án, hồ sơ vụ án cụ
thể;
Thứ ba là nghiên cứu thu hoạch, bao gồm:
- Phân tích, làm rõ tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 - 2019;
- Phân tích, xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
- Dự báo và đề xuất giải pháp tăng cường phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu
Đây là vấn đề lí luận còn có ý kiến khác nhau, song xét trong khuôn khổ tội
5
phạm học với tính cách là một khoa học độc lập, tức là có mục đích nghiên cứu
riêng, ..., có đối tượng nghiên cứu riêng, cái chỉ có thể là quy luật vận động của
khách thể nghiên cứu THTP, thì cho phép xác định rằng, đối tượng nghiên cứu của
đề tài này chính là Nguyên nhân và điều kiện của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thời gian qua.
Về phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi Tội phạm học thuộc
chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;
- Về tội danh: Quy định tại điều 104 BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009) và
điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Về cấp xét xử: Luận văn sử dụng số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm,
phúc thẩm và 400 hồ sơ vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác;
- Về không gian: Luận văn được xem xét trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
- Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ
năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo;
phương pháp tổng kết kinh nghiệm; phương pháp phỏng vấn chuyên gia; phương
pháp lựa chọn điển hình.
6
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
Về mặt lí luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hiện thực hóa lí luận
của tội phạm học về tình hình, nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn cấp tỉnh.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài đã làm rõ về tình hình,
nguyên nhân và điều kiện của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 - 2019, đồng thời kết quả nghiên
cứu có thể sử dụng là tài liệu tham khảo trong công tác phòng, chống tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài luận văn
gồm ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời
gian tới
7
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM TỪ
NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2019
Tuy đề tài không có nhiệm vụ đề cập đến lí luận, song, nghiên cứu thực tế
không thể thoát li lí luận. Vì thế ở đây chỉ xin nói đến cái lí luận cô đọng mà
chương này áp dụng và theo đó khái niệm tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, khi được định nghĩa đầy đủ, thì bao hàm hai mặt, mặt
bản chất và mặt biểu hiện của bản chất đó. Ở chương này chỉ đề cập đến mặt thứ
hai, tức mặt biểu hiện bản chất hay còn gọi là Quả. Nói cách khác, tổng thể các tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã được thực hiện trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 phải được làm rõ ở đây và cũng
theo lí luận, nó phải được đặt dưới góc độ của nhận thức luận, cái đã chỉ ra rằng,
THTP luôn luôn có hai phần là phần hiện và phần ẩn.
1.1. Phần hiện của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Phần hiện của THTP là toàn bộ những hành vi phạm tội và chủ thể của các
hành vi đó đã bị xử lí theo quy định của pháp luật hình sự ở từng đơn vị hành chính
- lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời gian nhất định và
được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự. Nói cách khác, phần này chủ yếu
được nghiên cứu trên cơ sở số liệu thống kê của tòa án và số liệu thống kê, hồ sơ vụ
án của cơ quan công an để làm rõ mức độ (tình trạng), diễn biến (động thái), cơ cấu
và tính chất của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
1.1.1. Mức độ (tình trạng) của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm
2019
Mức độ của THTP là đặc điểm định lượng tiêu biểu, cho biết về toàn bộ số
8
người phạm tội cùng số tội phạm do họ thực hiện trong một đơn vị thời gian và
không gian nhất định [27, tr.91-92].
Mức độ của tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015-2019 là số lượng các vụ án
đã xảy ra và số lượng người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian nêu trên.
Để có một cái nhìn toàn cảnh về THTP tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019, mức độ phải
được làm rõ bằng hai loại mức độ tổng quan tuyệt đối và mức độ tổng quan tương
đối.
1.1.1.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối
Để đánh giá khái quát mức độ của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả đã sử dụng số liệu
thống kê của TAND tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019. Kết quả nghiên
cứu thể hiện tại bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối (mức độ cơ bản) của tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Vụ án xét xử HSST Bị cáo Năm
2015 91 129
2016 102 157
2017 95 140
2018 74 122
2019 85 144
447 Tổng cộng 692
89,4 Trung bình 138,4
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Nam, từ năm 2015 đến năm
2019 đã xét xử HSST 447 vụ với 692 người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
9
sức khỏe của người khác. Trong đó: Năm 2015: 91 vụ, 129 bị cáo; năm 2016: 102
vụ, 157 bị cáo; năm 2017: 95 vụ, 140 bị cáo; năm 2018: 74 vụ, 122 bị cáo; năm
2019: 85 vụ, 144 bị cáo; như vậy, trung bình mỗi năm có khoảng 89 vụ phạm tội bị
đưa ra xét xử với khoảng 138 người phạm tội.
1.1.1.2. Mức độ tổng quan tương đối
Mức độ tổng quan tương đối để đối chiếu, so sánh và đánh giá khái quát
THTP bao gồm tỉ lệ, cơ số và mật độ tại tỉnh Quảng Nam. Thống kê của TAND tỉnh
Quảng Nam cho thấy THTP trên địa bàn tỉnh Quảng Nam diễn ra phức tạp, trong
thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, TAND tỉnh Quảng Nam đã xét xử tổng cộng
3711 vụ án hình sự cấp sơ thẩm với 6119 bị cáo. Trong đó, tỉ lệ tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tỉnh Quảng Nam ở mức trung bình về số
vụ là 447/3711, chiếm 12,1% và về số bị cáo 692/6119, chiếm 11,3%. Số vụ, số bị
cáo phạm tội nói chung và số vụ, số bị cáo phạm tội bị xét xử hàng năm đã phản
ánh được một phần THTP này trên địa bàn tỉnh, được thể hiện qua bảng 1.2 dưới
đây.
Bảng 1.2. Tỉ lệ tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (So
sánh với mức độ của THTP) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019
THTP
Tỉ lệ %
Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Năm
số vụ
số bị cáo
số vụ
số bị cáo
số vụ
số bị cáo
2015
740
1223
129
12,3
10,6
91
2016
740
1201
157
13,8
13,1
102
2017
687
1112
140
13,8
12,6
95
2018
714
1161
122
10,4
10,5
74
2019
830
1422
144
10,2
10,1
85
Tổng
3711
6119
447
692
12,1
11,3
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
10
Để làm rõ hơn tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019, cần đặt số vụ, số bị
cáo phạm tội trong sự so sánh với các số liệu khác có liên quan.
- So sánh với các địa phương Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế.
So sánh với các tỉnh lân cận trong cùng thời kỳ 2015 - 2019 cho thấy: Tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quảng Nam
chiếm 12,1% số vụ; 11,3% số đối tượng so với tổng số, thấp hơn so với các địa
phương được so sánh nhưng số vụ, số bị cáo phạm tội của tỉnh Quảng Nam cao hơn
so với các địa phương được so sánh; tuy nhiên sự so sánh này chỉ mang tính tham
khảo vì có sự khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội; ANTT. Kết quả phân tích thể
hiện ở bảng 1.3 dưới đây:
Bảng 1.3. Tổng quan so sánh tình hình Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và một số địa phương
Quảng Nam Đà Nẵng Thừa Thiên – Huế
Năm Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo
địa Số Số Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Số Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Tỉ lệ Bị Tỉ lệ phương vụ vụ (%) cáo (%) vụ (%) cáo (%) (%) cáo (%) (%)
2015 91 12,3 129 10,5 67 12,3 92 19,3 62 25,2 126 32,5
2016 102 13,8 157 13,1 70 12,5 114 20 65 27,5 132 38,7
2017 95 13,8 140 12,6 72 11,7 93 18,2 50 20,7 71 19,5
2018 74 10,4 122 10,5 94 18,2 112 16,2 53 20,3 72 21,5
2019 85 10,2 144 10,1 83 17,8 125 18,3 76 27,6 131 34,6
Tổng 447 12,1 692 11,3 386 15,5 536 18,2 306 24,2 532 29,5 cộng
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo số liệu của TAND các tỉnh
11
- So sánh số vụ và số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác bị xét xử HSST với số vụ và số người phạm các tội cố ý xâm phạm
sức khỏe của con người nói chung đã xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm
2015 đến năm 2019. Kết quả thể hiện tại bảng 1.4 dưới đây:
Bảng 1.4. So sánh mức độ của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác bị xét xử với mức độ của THTP về xâm phạm sức khỏe
con người bị xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Số vụ Số người phạm tội
Tội Các tội Tội CYGTT CYGTT hoặc Các tội cố ý cố ý xâm hoặc gây tổn gây tổn hại Tỉ lệ xâm phạm phạm hại cho sức cho sức khỏe % sức khỏe con sức khỏe Năm Tỉ lệ khỏe của của người người con % người khác khác người
1/2*10 3/4*10 1 2 3 4 0 0
91 2015 93 97,8% 129 131 98,5%
102 2016 105 97,1% 157 163 96,3%
95 2017 96 99% 140 141 99,3%
74 2018 75 98,7% 122 123 99,2%
85 2019 87 97,7% 144 147 98,0%
692 705 98,2% Tổng 447 456 98,0%
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Qua số liệu bảng cho thấy, trong các tội danh thuộc nhóm tội xâm phạm sức
khỏe, TAND tỉnh Quảng Nam đã xét xử 456 vụ với 705 bị cáo, trong đó có 447 vụ
(chiếm 98,0%) với 692 bị cáo (chiếm 98,2%) phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác. Có thể thấy rằng trong nhóm tội cố ý xâm phạm sức
khỏe con người thì tội phạm này chiếm tỉ lệ rất cao cả về số vụ, số người phạm tội.
12
- So sánh số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác bị xét xử với tổng số dân cư trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019, sự so sánh này cho thấy được mức độ phổ biến của tội phạm trong dân
cư, và chỉ số người phạm tội được tính theo tỉ lệ số người phạm tội trên 100.000
dân.
Phân tích cơ số người phạm tội trung bình mỗi năm trên 100.000 dân trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 cho thấy cứ 100.000 dân có 9,2 bị
cáo; so sánh với các tỉnh thấy: Tỉ lệ này thấp hơn thành phố Đà Nẵng trung bình có
9,8 bị cáo; cao hơn tỉnh Thừa Thiên Huế trung bình có 8,1 bị cáo; số liệu này cho
thấy THTP này ở tỉnh Quảng Nam hiện nay có cơ số tội phạm rất cao, chênh lệch
giữa các năm không nhiều, tình trạng này cần được các cơ quan chức năng của tỉnh
tiếp tục chú trọng trong quá trình đề ra các chủ trương, chính sách phòng ngừa tội
phạm. Kết quả thể hiện tại bảng 1.5.
Bảng 1.5. So sánh số bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với các địa phương (tính trên
100.000 dân)
Số bị cáo Số bị cáo tính trên 100.000 dân
Năm Quảng Thừa Thiên Quảng Thừa Đà Nẵng Đà Nẵng Thiên Huế Nam Huế Nam
2015 129 92 126 8,6 8,4 9,7
2016 157 114 132 10,5 10,4 10,2
2017 140 93 71 9,3 8,5 5,4
2018 122 112 72 8,1 10,2 5,5
2019 144 125 131 9,6 11,4 10,1
Trung 9,2 138,4 107,2 106,4 9,8 8,1 bình
- Dân số Quảng Nam tính trung bình 1,5 triệu người; Đà Nẵng tính trung bình 1,1
triệu người, Thừa thiên Huế tính trung bình 1,3 triệu người.
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo số liệu của TAND các tỉnh
13
Những con số được nêu và phân tích trên đây cho chúng ta thấy rõ tình trạng
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam từ năm 2015 đến năm 2019.
1.1.2. Động thái của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác ở tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Động thái của THTP là sự vận động tự nhiên của THTP theo thời gian. Đo
lường được sự vận động này là một bài toán phức tạp. Để bảo đảm tính khả thi,
động thái của THTP cần được hiểu một cách đơn giản là sự vận động của mức độ
và cơ cấu của THTP theo thời gian kèm theo đó là lời giải thích sự vận động đó trên
cơ sở của thực tiễn đời sống xã hội [27, tr.94].
Động thái của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 - 2019 là sự vận động và thay
đổi của tình trạng và cơ cấu của THTP này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong
khoảng thời gian từ năm 2015 - 2019.
Nghiên cứu động thái của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có ý nghĩa lớn đối với đặc điểm của THTP
này trên địa bàn tỉnh, từ đó làm rõ xu hướng và các quy luật thay đổi của THTP mà
dựa vào đó có thể dự báo về sự phát triển của nó trong tương lai gần. Khi đánh giá
động thái cần căn cứ vào số vụ, số bị cáo xét xử HSST hằng năm, phương pháp so
sánh theo năm định gốc, theo năm liền kề và theo giai đoạn được áp dụng. Kết quả
được thể hiện ở bảng 1.6; 1.7; 1.8.
14
Bảng 1.6. Mức độ tăng giảm hằng năm của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam so với năm 2015 là năm định gốc
Năm Số vụ bị xét xử Số bị cáo
100% 100% 2015 91 129
112,1% (tăng 12,1%) 121,7 % ( tăng 21,7%) 2016 102 157
104,4% (tăng 4,4%) 108,5% ( tăng 8,5%) 2017 95 140
81,3% (giảm 19,7%) 94,6% (giảm 5,4% ) 2018 74 122
93,4% (giảm 6,6%) 111,6% (tăng 11,6%) 2019 85 144
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Bảng 1.7. Mức độ tăng, giảm hàng năm của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, so sánh với năm liền kề
Mức độ tăng, giảm số vụ Số bị Mức độ tăng, giảm số bị cáo Năm Số vụ án hàng năm (%) cáo hàng năm (%)
91 100% 129 100% 2015
102 112,1% (tăng 12,1%) 157 121,7 % ( tăng 21,7%) 2016
95 104,4% (giảm 7,7%) 140 108,5% ( giảm 13,2%) 2017
74 81,3% (giảm 23,1%) 122 94,6% (giảm 13,9% ) 2018
85 93,4% (tăng 12,1%) 144 111,6% (tăng 17%) 2019
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
15
Bảng 1.8. Tổng quan theo giai đoạn 3 năm của tình hình tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Tổng số án xét xử Tỉ lệ bị Số trung bình năm HSST cáo/vụ Giai đoạn
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo %
288 426 96 142 2015 – 2017 147,9
254 406 85 135 2017 – 2019 158,8
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Áp dụng theo phương pháp so sánh định gốc, ta thấy xu hướng vận động của
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam như sau: Định gốc theo năm, lấy năm 2015 là năm định gốc, THTP giảm 6,6%
số vụ và tăng 11,6% số bị cáo. Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019
thì số vụ án trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có biến động tăng vào năm 2016, 2017;
biến động giảm năm 2018, 2019. Về số bị cáo có biến động tăng vào năm 2016,
2017, 2019 chỉ có năm 2018 là có biến động giảm.
Khi áp dụng phương pháp so sánh liền kề cho thấy mức độ của tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác biến động tăng, giảm qua
các năm. Cụ thể: Năm 2016 tăng cao nhất với 12,1% số vụ và 21,7% số bị cáo so
với năm 2015; năm 2017 giảm 7,7% số vụ và 13,2% bị cáo; năm 2018, giảm với
23,1% số vụ và 13,9% bị cáo; năm 2019 tăng 12,1% số vụ và tăng 17% số bị cáo.
Để làm rõ xu hướng của tình hình tội phạm, sử dụng giai đoạn 3 năm để
nghiên cứu và kết quả cho thấy, mức độ của tình hình tội phạm CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 diễn
ra theo xu hướng giảm số vụ, tăng số bị cáo; giai đoạn sau biến động tăng 10,9% số
bị cáo so với giai đoạn trước.
Qua việc làm rõ diễn biến (động thái) của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019 ta thấy: Động thái của THTP này có cả biến động giảm và biến động
16
tăng; điều này cho thấy tình trạng và diễn biến của THTP này cũng có sự thay đổi
theo thời gian.
1.1.3. Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Cơ cấu của THTP được tội phạm học xếp vào loại đặc điểm định tính tiêu biểu
của THTP. Nó là tổng thể của các hệ thống cấu trúc bên trong của THTP, cho biết
về kết cấu cũng như tỉ lệ tương quan giữa các kết cấu đó từ tổng quan đến chi tiết,
phản ánh về các mối liên hệ của THTP với các hiện tượng, quá trình kinh tế - xã hội
khác [27, tr.93].
Tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 - 2019 chính là việc đánh giá tỉ phần giữa các
bộ phận trong tổng số vụ phạm tội và số người phạm tội này trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019; qua nghiên cứu số liệu thống kê và 400 hồ
sơ vụ án, được thể hiện qua những loại cơ cấu sau đây:
1.1.3.1. Cơ cấu theo đơn vị hành chính - lãnh thổ
Việc nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các đơn vị hành chính cấp huyện
của tỉnh Quảng Nam và kết quả cụ thể được minh họa ở bảng 1.9.
Bảng 1.9. Cơ cấu số vụ HSST tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 theo địa
bàn phạm tội
Năm Năm Năm Năm Năm Tổng Tỉ lệ Đơn vị 2015 2016 2017 2018 2019 số (%)
Thành phố Tam Kỳ 8 6 6 12 13 45 10,1
Thành phố Hội An 9 8 8 4 9 38 8,5
9 8 15 Thị xã Điện Bàn 12 11 55 12,3
Huyện Bắc Trà My 3 2 4 1 7 17 3,8
Huyện Đại Lộc 9 9 10 1 8 37 8,3
Huyện Đông Giang 0 1 0 0 0 1 0,2
Huyện Duy Xuyên 6 7 9 9 6 37 8,3
17
Huyện Hiệp Đức 1 3 1 1 1 7 1,6
Huyện Nam Giang 2 4 2 1 1 10 2,2
Huyện Nam Trà My 0 2 2 1 0 5 1,1
Huyện Nông Sơn 5 2 2 0 1 10 2,2
Huyện Núi Thành 11 10 8 6 3 38 8,5
Huyện Phú Ninh 5 9 5 6 1 26 5,8
Huyện Phước Sơn 1 2 5 2 1 11 2,5
Huyện Quế Sơn 1 3 5 3 1 13 2,9
Huyện Tây Giang 0 1 1 0 0 2 0,5
Huyện Thăng Bình 15 13 14 13 11 66 14,8
Huyện Tiên Phước 6 8 2 6 7 29 6,5
Tổng số 91 102 95 74 85 447 100%
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Theo thống kê trên, cho thấy tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác xảy ra ở hầu hết các đơn vị hành chính, những địa bàn chiếm tỉ phần cao
gồm: Huyện Thăng Bình, thành phố Tam kỳ, thị xã Điện Bàn; thấp nhất là các
huyện miền núi: Đông Giang (0,2%), Tây Giang (0,5%), Nam Trà My (1,1%).
Các địa phương có số vụ xảy ra CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cao là do: Huyện Thăng Bình (14,8%) là địa bàn giáp ranh với nhiều
tuyến quốc lộ 1A, 14B đi Tây Nguyên, đường ven biển nối Hội An - Tam Kỳ đi
qua, ý thức chấp hành pháp luật của người dân thấp, có nhiều vụ tranh chấp đất đai,
khiếu kiện, nhiều đối tượng là ngư dân đi biển dài ngày khi vô bờ tổ chức ăn nhậu,
đánh nhau gây thương tích; các địa bàn Tam Kỳ (10,1%), Hội An (8,5%), Điện Bàn
(12,3%) là những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, dân cư đông đúc,
nhiều lao động nhập cư; tập trung nhiều các cơ sở kinh doanh có điều kiện, dịch vụ
như quán bar, karaoke, massages; những yếu tố này là môi trường thuận lợi để các
vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra.
1.1.3.2. Cơ cấu theo phương thức (các bước) thực hiện tội phạm
18
Phương thức thực hiện tội phạm là hệ thống những hành vi của người phạm
tội ở các giai đoạn chuẩn bị gây án, gây án và những hành vi che giấu tội phạm,
được thực hiện đầy đủ hay từng phần, bị chi phối bởi những yếu tố chủ quan hay
khách quan, kết hợp với việc sử dụng công cụ, phương tiện thích hợp nhằm đạt
được mục đích mà người phạm tội đã dự định trước.
Tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là loại tội
phạm mang tính bạo lực, với lỗi cố ý trực tiếp thường có nhiều thủ đoạn gây án
khác nhau; để đạt được mục đích gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, bọn tội phạm thường gây án nhanh, hành vi táo bạo và liều lĩnh; các vụ
án gây thương tích xảy ra là do mâu thuẫn giữa nạn nhân và đối tượng gây án. Qua
nghiên cứu 400 hồ sơ vụ án về tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác xảy ra trên địa bàn tỉnh từ năm 2015 đến năm 2019 (nguồn: Công an tỉnh
Quảng Nam), nhận thấy có phương thức, thủ đoạn gây án phổ biến:
Đối với những vụ phát sinh từ mâu thuẫn bột phát tức thời có giai đoạn
chuẩn bị phạm tội ít, số còn lại là không có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên,
điều đáng chú ý là số vụ án xảy ra do mâu thuẫn bột phát tức thời, nhưng có nhiều
trường hợp thủ phạm có mang sẵn công cụ gây án trong người, các loại công cụ sắc
nhọn để gây án, tình trạng này cho thấy tính nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao.
Những vụ có giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì giai đoạn chuẩn bị gây án thường diễn
ra trong thời gian ngắn, hành vi chuẩn bị đơn giản; sau khi phát sinh mâu thuẫn,
người phạm tội nhanh chóng tìm thêm lực lượng và tìm công cụ, phương tiện ở gần
hiện trường và tiến hành gây án ngay. Điển hình: Lúc 21 giờ 00’ ngày 23/8/2018 tại
quán nhậu của chị Trần Thị Lệ Thủy thuộc thôn Thái Đông, xã Bình Nam, huyện
Thăng Bình do mâu thuẫn trong lúc nhậu, Trần Thanh Thuận (1991, trú thôn Thái
Đông) dùng vỏ chai nước khoáng đập vỡ đánh anh Nguyễn Thành Hưng (1991, trú
cùng thôn) bị thương. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
Những vụ án phát sinh từ mâu thuẫn có trước, nếu có giai đoạn chuẩn bị phạm
tội thì quá trình chuẩn bị gây án thường diễn ra trong thời gian dài hơn, có một số
trường hợp sự chuẩn bị diễn ra chu đáo hơn. Người chuẩn bị gây án ngoài việc
19
chuẩn bị công cụ, phương tiện phù hợp còn có thể tiến hành một loạt hành vi khác
như: Quan sát, thăm dò, nắm bắt quy luật sinh hoạt đi lại của nạn nhân, v.v., để từ
đó chuẩn bị lực lượng, lựa chọn thời gian địa điểm gây án. Đối với vụ án có đồng
phạm, có sự phân công nhiệm vụ cho từng người để tiến hành gây án. Tuy nhiên số
vụ được chuẩn bị chu đáo chỉ chiếm tỉ lệ thấp, thông thường đây là những vụ được
thực hiện với động cơ trả thù, người phạm tội là người trực tiếp có mâu thuẫn với
nạn nhân, sau đó lôi kéo những người khác cùng tham gia. Điển hình: Lúc 17 giờ
00' ngày 20/11/2017, Nguyễn Văn Hưng (1985, trú: Cẩm Đông, Điện Phong, Điện
Bàn) đến gặp Lương Phú Thịnh (1986, trú: Mỹ Hạt, Nam Phước, Duy Xuyên) để
đòi số tiền 4,5 triệu đồng thị bị Văn Phú Sen (nhóm của Thịnh) dùng dao chém bị
thương. Đến 21 giờ 30' cùng ngày, đồng bọn của Hưng (gần 100 đối tượng) đi trên
20 xe taxi mang theo hung khí đến khối phố Bình An, Nam Phước dùng súng tự chế,
dao, gạch đá, vỏ chai bia đánh nhau với nhóm của Thịnh (khoảng 50 đối tượng).
Hậu quả: Phan Phước Hậu (1996, Giang Tắc, Điện Ngọc), Hoàng Trịnh Bảo
(1979, Bình An, Nam Phước), Huỳnh Văn Tây (Điện Dương, Điện Bàn), Nguyễn
Hồng Vương (1987, Bình An, Nam Phước) bị thương. (nguồn: Công an tỉnh Quảng
Nam).
Các vụ án xảy ra trên địa bàn Quảng Nam do mâu thuẫn cá nhân dẫn đến việc
trả thù của những nhóm thanh niên với nhau hoặc chúng lôi kéo nhiều người cùng
tham gia gây án. Điển hình: Ngày 14/3/2015 tại xã Tam An, huyện Phú Ninh, do
mâu thuẫn từ trước nên nhóm thanh niên trú tại xã Tam Phước gồm Lê Ngọc Toàn
(1991), Nguyễn Thanh Tú (1993), Nguyễn Đức Việt (1992) và Nguyễn Văn Thương
(1992) dùng dao, rựa và chai chứa xăng đến đánh nhau với nhóm thanh niên trú
thôn An Hòa, Tam An. Hậu quả nhóm thanh niên Tam Phước bị thương đến cấp
cứu tại Bệnh viện Thái Bình Dương, nhóm thanh niên ở Tam An tiếp tục đuổi vào
bệnh viện đánh nhóm thanh niên Tam Phước. Hậu quả 08 đối tượng của cả hai
nhóm bị thương. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
Đối với những vụ án xảy ra tại khu vực nhà ở, những vụ án này là do giữa thủ
phạm và nạn nhân có mâu thuẫn với nhau trong sinh hoạt, lao động, buôn bán, v.v.
20
dẫn đến mâu thuẫn thù tức thì người phạm tội nhanh chóng tìm kiếm công cụ,
phương tiện ở gần xung quanh hiện trường và lập tức gây thương tích hoặc sau một
thời gian tìm đến nhà gây thương tích cho nạn nhân.
Đối với những vụ án xảy ra trên đường đi thì thủ phạm thường có những hành
vi phổ biến sau đây: Các nhóm thanh niên thường tổ chức uống rượu, do những va
chạm nhỏ đã dẫn đến mâu thuẫn, sau đó tập hợp nhóm và tìm cách trả thù, chúng
thường chuẩn bị hung khí giấu trong người, khi có va chạm nhỏ là nhân cơ hội để
sử dụng gây thương tích cho nạn nhân; trên đường đi, tình cờ gặp những người có
mâu thuẫn với thủ phạm từ trước, trong tình huống thuận lợi thì thực hiện hành vi
phạm tội; đón phục ở những đoạn đường vắng, nơi ít người qua lại, lựa chọn điều
kiện thích hợp khi những người có mâu thuẫn với chúng đi qua để gây án.
Do va chạm về lời nói, cử chỉ trong cuộc sống giao tiếp, uống rượu say, v.v.
dẫn đến xô xát, hai bên cãi cọ, chửi bới xô đẩy nhau, thúc đẩy mâu thuẫn phát triển
và cuối cùng là xông vào đánh nhau. Người phạm tội sẵn có công cụ phương tiện ở
trên người như: Dao, cây, tuýp sắt, v.v. hoặc không có trên người nhưng đã nhanh
chóng tìm kiếm ở gần hiện trường như: Đá, gạch, cây, mảnh vỡ thủy tinh v.v. để
gây thương tích cho nạn nhân.
Do mâu thuẫn từ trước, để trả thù người phạm tội hoặc người thân của người
phạm tội đã chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: Dao, mã tấu, hóa chất
axit, v.v. tìm đến nhà nạn nhân hoặc lợi dụng điều kiện nạn nhân không để ý khi
đang đi trên đường gây thương tích cho nạn nhân.
Hiện trường các vụ án rất đa dạng, thủ phạm thường lợi dụng những sơ hở của
nạn nhân, những điều kiện tự nhiên sẵn có tại hiện trường để gây án. Thực tế các vụ
xảy ra thì hiện trường là nơi phản ánh các hành vi vật lộn, ẩu đả giữa nạn nhân và
thủ phạm cùng với các vật tồn tại ở hiện trường như: Cây, gạch đá, chai lọ, v.v. là
công cụ phương tiện mà thủ phạm sử dụng để gây án. Có một số vụ CYGTT dẫn
đến hậu quả chết người, có đông đối tượng tham gia, việc xác định đối tượng gây ra
hậu quả dẫn đến cái chết cho nạn nhân là hết sức khó khăn bởi các đối tượng đều có
tác động ngoại lực lên nạn nhân.
21
Nhìn chung, các vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam dù có chuẩn bị hay không có sự chuẩn bị trước
khi gây án hoặc do bột phát thì các đối tượng sau khi gây án thường bỏ chạy, tìm
mọi cách cất giấu, vứt bỏ hoặc tiêu hủy công cụ, phương tiện gây án; khi bị bắt thì
khai báo gian dối, đổ lỗi cho nhau.
1.1.3.3. Cơ cấu xét theo thời gian, địa điểm phạm tội
Trên cơ sở nghiên cứu 400 hồ sơ vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019,
thời gian thường xảy ra các vụ án xảy ra quanh năm và ở bất kỳ thời gian nào cả
ngày lẫn đêm; kết quả nghiên cứu mô tả như sau:
Bảng 1.10. Cơ cấu của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 theo thời gian
phạm tội
Thời gian trong ngày Số vụ xảy ra Tỉ lệ %
Từ 23 giờ đến 5 giờ sáng 38 9,5
Từ 5 giờ sáng đến 13 giờ 92 23
Từ 13 giờ đến 18 giờ 74 18,5
Từ 18 giờ đến 22 giờ 196 49
Tổng số 400 100%
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Công an tỉnh Quảng Nam
Từ số liệu thống kê cho thấy số vụ xảy ra nhiều nhất là buổi tối (từ 18giờ đến
22giờ) chiếm 49% tổng số vụ xảy ra; số vụ xảy ra vào đêm khuya cho đến sáng
hôm sau (từ 23giờ đến 5 giờ sáng) ít nhất, chiếm 9,5%; số vụ xảy ra vào buổi sáng
và trưa (từ 5giờ sáng đến 13giờ), chiếm 23%; số vụ xảy ra vào buổi chiều (từ 13giờ
đến 18giờ), chiếm 18,5%. Sở dĩ khoảng thời gian từ 18 giờ đến 22 giờ án xảy ra
nhiều vì đây là thời gian sau giờ làm việc, thường có các hoạt động đi lại, giao lưu,
ăn uống, v.v.; mặt khác, đây là thời gian các nhóm đối tượng đi chơi, do va chạm
trong đi lại, lời nói, hành động dẫn đến đánh nhau gây ra tội phạm.
22
Xét về khoảng thời gian gây án của một vụ án cụ thể, các vụ án CYGTT đều
diễn ra trong khoảng thời gian ngắn; sau khi bột phát xảy ra mâu thuẫn hoặc từ
những mâu thuẫn có trước, khi gặp lại nhau đôi bên cãi cọ, xô sát nhau và một bên
thực hiện hành vi phạm tội, toàn bộ chỉ xảy ra trong vòng 10 đến 30 phút; có những
vụ thời gian diễn ra tội phạm trong thời gian rất ngắn.
Khi nghiên cứu hồ sơ các vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy địa điểm gây án xảy ra ở trong
nhà, các quán nhậu, quán cà phê, v.v. chiếm 256/400 vụ, tỉ lệ 64%. Số vụ xảy ra ở
ngoài đường, nơi công cộng, trong đó ngoài việc chặn đường nạn nhân thì còn do
quá trình rượt đuổi, đánh nhau 144/400, tỉ lệ 36%. Đa phần nạn nhân và đối tượng
có quen biết nhau, do có va chạm, cự cãi dẫn đến mâu thuẫn, thù tức và người phạm
tội lập tức gây thương tích hoặc sau một thời gian đã tìm đến nhà của nạn nhân hoặc
gặp nhau trên đường thì gây thương tích cho nạn nhân. Điển hình như vụ: Lúc 19
giờ 15’ ngày 01/01/2019 tại Ngã tư đường Hùng Vương và Tôn Đức Thắng thuộc
phường An Sơn, thành phố Tam Kỳ, do mâu thuẫn cá nhân từ trước, Huỳnh Ngọc
Tài (1988, trú: thôn 1, Tiên Lập, Tiên Phước) chặn đường và dùng dao bấm đâm
anh Nguyễn Văn Thành (1988, An Mỹ, Tam Kỳ) và ông Nguyễn Văn Thống (1968,
Tam Thăng, Tam Kỳ) bị thương. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
Qua nghiên cứu cho thấy thời gian và địa điểm gây án luôn gắn liền với nhau
và có mối liên quan với thủ đoạn, công cụ, phương tiện gây án mà đối tượng gây án
quyết định thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.3.4. Cơ cấu tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam về công cụ, phương tiện gây án
Trong tội phạm CYGTT, công cụ, phương tiện phạm tội không phải là dấu
hiệu bắt buộc, nhưng đây là loại tội phạm có sử dụng bạo lực cho nên việc sử dụng
công cụ, phương tiện để gây án của thủ phạm xem như là một nhu cầu khách quan
khi thực hiện tội phạm. Mặt khác, công cụ, phương tiện gây án quyết định hình thức
và thủ đoạn gây án của thủ phạm; việc lựa chọn sử dụng công cụ, phương tiện để
23
gây án còn phụ thuộc vào yếu tố nạn nhân và sở trường nghề nghiệp của đối tượng
gây án.
Các vụ án do thủ phạm và nạn nhân có mâu thuẫn từ trước thì thủ phạm
thường có sự chuẩn bị cả về hung khí và phương tiện thích hợp, nhất là dùng các
loại dao, kiếm, mã tấu để gây án. Đối với các vụ án mâu thuẫn tức thời bột phát do
va chạm lời nói, cử chỉ, thái độ, v.v. thì thủ phạm thường sử dụng các vật có trong
người hoặc xung quanh khu vực phát sinh xung đột như: Cây, chai bia, đá, v.v. để
tấn công nạn nhân.
Qua nghiên cứu, thống kê 400 hồ sơ vụ án (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam)
cho thấy thủ phạm dùng công cụ gây án là phổ biến trong thực hiện hành vi phạm
tội. Số vụ đối tượng dùng sức mạnh thể lực đấm đá, xô ngã nạn nhân ít hơn, chiếm
21%. Công cụ, phương tiện mà người phạm tội thường dùng nhất bao gồm:
- Các loại công cụ sắc, nhọn chiếm 24% bao gồm: Mã tấu, kiếm, dao, dao tự
chế, dao dài, dao bấm, v.v. được dùng làm hung khí gây án chủ yếu là dao tự chế,
số dao khác chiếm tỉ lệ ít.
- Các loại công cụ khác chiếm 55% như: Ống tuýp sắt, gạch, đá, mảnh thủy
tinh, búa, cây tre, cây gỗ, hóa chất axit, v.v..
Công cụ, phương tiện gây án trong các vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là dùng công cụ tự chế
như ống tuýp sắt, mã tấu, các loại dao; đặc biệt có vụ đối tượng dùng dao sắc nhọn
(dạng dao Thái Lan) đâm nhiều nhát vào người nạn nhân dẫn đến hậu quả chết
người hoặc thương tích nặng bị truy tố về tội giết người do dùng hung khí nguy
hiểm, tính sát thương cao; điều này cho thấy tính bột phát, manh động rất cao của
tội phạm.
1.1.3.5. Cơ cấu tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 năm 2019 theo hình phạt được áp
dụng
Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thống kê 692 bị cáo bị xét xử HSST của TAND
tỉnh Quảng Nam trong thời gian 05 năm, tác giả có bảng thống kê sau:
24
Bảng 1.11. Cơ cấu tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 theo hình
phạt và chế định án treo được áp dụng
CT không hưởng án Dưới 3 Từ 3 - 7 7 năm tù Trường Tổng giam giữ treo năm tù năm tù trở lên hợp khác Năm số bị Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ cáo cáo (%) cáo (%) cáo (%) cáo (%) cáo (%) cáo (%)
2015 129 0,8 36 27,9 81 62,8 9 7 0 1 0 2 1,6
2016 157 1,3 59 37,6 83 52.9 13 8,3 0 2 0 0 0
2017 140 4,3 34 24,3 91 65 9 0 6,4 6 0 0 0
2018 122 2,7 27 22,1 84 68,8 9 0 7,4 2 0 0 0
2019 144 2,1 36 25 87 60,4 18 12,5 0 3 0 0 0
Tổng 692 14 2,0 192 27,7 426 61,6 58 8,3 0 0 2 0,3
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Theo quy định tại điều 134 của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có khung hình phạt thấp
nhất là cải tạo không giam giữ, cao nhất là chung thân. Từ kết quả phân tích, ta
thấy: 05 năm qua, ở Quảng Nam đặc biệt không có trường hợp phạm tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nào bị hội đồng xét xử TAND 02 cấp
tuyên án từ 07 tù trở lên. Năm 2015 có 01 trường hợp tuyên không có tội và 01
trường hợp áp dụng hình phạt đưa vào trường giáo dưỡng hoặc giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
Chiếm tỉ lệ cao nhất là từ dưới 03 năm tù (426 trường hợp, chiếm 61,6%); tiếp
theo là áp dụng chế định án treo (192 trường hợp, chiếm 27,7%); 3 - 7 năm tù (58
trường hợp, chiếm 8,3%); cải tạo không giam giữ (14 trường hợp, chiếm 2%).
Như vậy nhìn vào khung hình phạt của tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy: Tội phạm là ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng là chủ yếu nhưng xảy ra với số lượng lớn, ảnh hưởng xấu đến
tình hình trật tự an toàn xã hội, mức hình phạt nhẹ, án treo còn áp dụng phổ biến,
25
chưa có hiệu quả phòng ngừa chung. Vì vậy trong giai đoạn tiếp theo cần được chú
trọng nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa xã hội đối với loại tội phạm này.
1.1.3.6. Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 theo đặc điểm
nhân thân người phạm tội
Chỉ có thể hiểu được đặc điểm nhân thân của người phạm tội thì mới hiểu
được phương thức, thủ đoạn phạm tội, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội
của họ cũng như tổng kết rút ra những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội
phạm, từ đó giúp cho việc đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu 692 bị cáo xét xử HSST của các vụ án CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019 cho thấy:
- Đặc điểm về độ tuổi
Qua nghiên cứu thống kê của TAND tỉnh cho thấy bị cáo chủ yếu nằm trong
độ tuổi từ 30 - dưới 75 (436 bị cáo, chiếm 63%); tiếp theo là độ tuổi trên 18 - 30
(230 bị cáo, chiếm 33,2%); số bị cáo từ 16 - 18 tuổi (26 bị cáo, chiếm 3,8%); không
có bị cáo nào dưới 16 tuổi, trên 75 tuổi. Kết quả mô tả tại bảng 1.12.
Bảng 1.12. Đặc điểm về độ tuổi của các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015
đến năm 2019
Dưới 16 tuổi Từ 18 - 30 tuổi Từ 16 - dưới 18 tuổi Từ 30 - dưới 75 tuổi Năm Số bị cáo
Số người 0 0 0 0 0 0 129 157 140 122 144 692 Tỉ lệ % 0 0 0 0 0 0 Số người 8 8 4 4 2 26 Tỉ lệ % 6,2 5,1 2,9 3,3 0,8 3,8 Số người 48 43 68 25 46 230 Tỉ lệ % 37,5 27,4 48,6 20,5 35,5 33,2 Số người 73 106 68 93 96 436 Tỉ lệ % 56,6 67,5 48,6 76,2 63,7 63
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
26
- Đặc điểm về giới tính
Đối tượng thực hiện hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 là nam giới, chiếm tỉ
lệ gần như tuyệt đối, có tới 682 người chiếm 98,6%; số bị cáo là nữ chỉ có 10 người,
chiếm tỉ lệ 1,4%. Kết quả thể hiện tại bảng 1.13.
Bảng 1.13. Phân tích giới tính các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019
Nam giới Nữ giới Tổng số bị cáo
(5 năm) Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
692 682 98,6 10 1,4
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
- Đặc điểm trình độ học vấn
Trình độ học vấn ảnh hưởng rất lớn đến hành vi ứng xử của con người trong
các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng, kết quả nghiên cứu
số bị cáo có trình độ trung học phổ thông là 255 người, chiếm tỉ lệ 36,9%; số có
trình độ tiểu học, trung học cơ sở là 349 người, chiếm tỉ lệ 50,4%; đại học, cao
đẳng, trung cấp là 87 người, chiếm tỉ lệ 12,6%; chỉ 01 người không biết chữ, chiếm
tỉ lệ 0,1%. Mô tả bằng bảng 1.14 dưới đây:
Bảng 1.14. Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam xét theo đặc điểm về trình độ học vấn
Đại học, cao Không biết Tiểu học, trung Phổ thông đẳng, trung cấp Tổng số chữ học cơ sở trung học nghề Năm bị cáo
(5 năm) Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Bị cáo Bị cáo Bị cáo Bị cáo Tỉ lệ % % % %
Tổng 692 01 349 50,4 255 36,9 87 12,6 0,1
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
27
Qua phân tích về trình độ học vấn của các đối tượng phạm tội cho thấy đối
tượng có trình độ học vấn thấp chiếm tỉ lệ cao trong tổng số đối tượng phạm tội
(87,4% tính từ trung học phổ thông trở xuống), điều này ảnh hưởng rất lớn đến cách
xử sự của con người trong quan hệ xã hội, ảnh hưởng đến nhận thức pháp luật của
mỗi con người phạm tội, hiểu biết cách để xử lí các mâu thuẫn cụ thể phát sinh
trong quan hệ đời sống xã hội. Bên cạnh đó là lối sống ích kỉ, coi thường chuẩn
mực đạo đức xã hội, xem thường quyền sức khỏe con người, cách giải quyết mâu
thuẫn bằng bạo lực; vì vậy, khi chỉ có mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống đời thường
mà đối tượng sẵn sàng thực hiện hành vi phạm tội để trả thù.
- Đặc điểm nghề nghiệp
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Các bị cáo nghề không ổn định 325 người,
chiếm tỉ lệ 47%; làm nông 128 người, chiếm tỉ lệ 18,5%, lao động phổ thông trong
đó có công nhân 169 người, chiếm tỉ lệ 24,4%; học sinh, sinh viên 64 người, chiếm
tỉ lệ 9,2%; không nghề nghiệp 03 người, chiếm tỉ lệ 0,4%; cán bộ công chức, đảng
viên 03 người, chiếm tỉ lệ 0,4%; thể hiện tại bảng 1.15 dưới đây:
Bảng 1.15. Đặc điểm về nghề nghiệp của các bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm
2015 đến năm 2019
Có nghề
Nghề Cán bộ, Không nghiệp công nghề Làm Lao động Học sinh, không ổn Tổng số chức, nghiệp Năm nông phổ thông sinh viên định bị cáo Đảng
viên
Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ Bị Tỉ lệ
cáo % cáo % cáo % cáo % cáo % cáo %
03 0,4 325 47 03 0,4 128 18,5 169 24,4 64 9,2 Tổng 692
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
28
Từ các chỉ số trên cho thấy người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác ở Quảng Nam nghề nghiệp không ổn định, chiếm tỉ lệ rất cao;
đây là vấn đề mang tính cấp bách trong chính sách xã hội về tạo công ăn việc làm
cho công dân trong độ tuổi lao động.
- Đặc điểm thành phần dân tộc
Đối tượng phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 05 năm chủ yếu là người dân tộc Kinh 668 bị cáo,
chiếm tỉ lệ 96,5%; dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ rất ít, 24 bị cáo, chiếm tỉ lệ 3,5%;
không có người nước ngoài phạm tội. Kết quả mô tả ở bảng 1.16.
Bảng 1.16. Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 – 2019 theo đặc điểm về
thành phần dân tộc
Dân tộc kinh Dân tộc khác Tổng số bị cáo Số người Tỉ lệ % Số người Tỉ lệ %
668 24 692 96,5 3,5
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
- Đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Trong số 692 bị cáo bị xét xử trong 5 năm qua, số bị cáo phạm tội lần đầu
chiếm tỉ lệ rất lớn, chiếm 97,3 %; bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm chỉ chiếm
2,7%, ngoài ra có 07 bị cáo nghiện ma túy. Kết quả được mô tả ở bảng 1.17.
Bảng 1.17. Cơ cấu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 theo đặc
điểm về tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Tổng số bị cáo Phạm tội lần đầu Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
673 19 692
Tỉ lệ 97,3 2,7
Nguồn: TAND tỉnh Quảng Nam
Qua số liệu thống kê cho thấy người phạm tội lần đầu chiếm tỉ lệ rất cao,
điều này cho thấy: Để phòng ngừa hiệu quả tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho
29
sức khỏe của người khác, các cơ quan chức năng cần tăng cường tuyên truyền nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật người dân.
1.1.4. Tính chất của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Tính chất của THTP cũng là một đặc điểm định tính của THTP; nó phản ánh
mức độ nguy hiểm, mức độ nghiêm trọng khác nhau của THTP ở từng thời gian và
không gian khác nhau thông qua tương quan và tỉ lệ giữa các thành phần tạo nên cơ
cấu của THTP.
Tính chất của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 là một trong những
thông số định tính của tình hình tội này trong giai đoạn 2015 – 2019 thông qua sự
đánh giá đối với mức độ, cơ cấu và động thái của THTP.
Nghiên cứu tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác tại tỉnh Quảng nam từ năm 2015 đến năm 2019, tác giả đánh giá THTP có một
số tính chất cơ bản sau:
Thứ nhất, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
diễn ra rất phổ biến, thể hiện tính đồng phạm và tính quy mô có tổ chức cao;
Thứ hai, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn Quảng Nam được kiểm soát trong cả biên độ giao động tăng, giảm;
Thứ ba, tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ở
tất cả các đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Nam, trong đó tập trung nhiều nhất ở
huyện Thăng Bình, thị xã Điện Bàn, thành phố Tam Kỳ - những địa phương có dân
cư đông, kinh tế phát triển, có nhiều mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân;
Thứ tư, phương thức thực hiện phạm tội các vụ án xảy ra giữa thủ phạm và
nạn nhân do có mâu thuẫn từ trước thì có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và ngược lại
số vụ án xảy ra giữa thủ phạm và nạn nhân do mâu thuẫn bột phát tức thời thì không
có giai đoạn chuẩn bị phạm tội; sau khi gây án thì chúng đều có điểm chung là bỏ
chạy; sau khi bị bắt thì thường khai báo quanh co, đổ lỗi cho nhau hòng che giấu để
được nhẹ tội;
30
Thứ năm, thời gian phạm tội thường xảy ra từ 18 giờ đến 22 giờ. Địa điểm
thường xảy ra tội phạm là tại ngoài đường, nơi công cộng và ở trong nhà, các quán
nhậu, cà phê. Công cụ, phương tiện gây án là dùng sức mạnh thể lực đấm, đá, xô
ngã nạn nhân, các loại dao tự chế; tập trung vào loại tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng;
Thứ sáu, một số đặc điểm nhân thân đặc thù của tội phạm CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quảng Nam: Đối tượng phạm tội
chủ yếu là từ tuổi 35 tuổi trở lên và ngày càng trẻ hóa tội phạm ở lứa tuổi 18 - 30
tuổi; người phạm tội chủ yếu là nam giới; người không có nghề nghiệp ổn định và
trình độ học vấn thấp. Đây là một thách thức đối với các cơ quan chức năng trong
quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn sắp tới.
Như vậy, qua nghiên cứu các yếu tố về lượng và chất nói trên có thể nhận
định: Tình hình tội CYGTT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm
2019 là phức tạp và tội phạm này trên địa bàn tỉnh chiếm một tỉ lệ rất cao trong cơ
cấu THTP và đang có sự gia tăng cả về tính chất, mức độ nguy hiểm.
1.2. Phần ẩn của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Là một trong hai phần của THTP, tội phạm ẩn (hay phần ẩn của tình hình tội
phạm) được tạo nên bởi tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế, song
không được phát hiện, không bị xử lí theo quy định của pháp luật hình sự hoặc
không có trong thống kê tội phạm [27, tr.99].
Phần ẩn của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 là tổng thể các hành
vi phạm tội đã xảy ra trên thực tế trong giai đoạn này, song không được phát hiện,
không bị xử lí theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không có trong thống kê tội
phạm.
Về phương diện khoa học, việc mong muốn đánh giá một cách chính xác,
tuyệt đối phần ẩn của tình hình tội phạm là điều không thể thực hiện được, chỉ có
thể đánh giá mức độ tội phạm ẩn một cách tương đối.
31
Tội phạm ẩn có hai loại chính đó là tội phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn
chủ quan và một loại thứ ba đó là tội phạm ẩn thống kê - về thực chất, nó cũng là
một dạng của tội phạm ẩn chủ quan.
1.2.1. Tội phạm ẩn khách quan
Tội phạm ẩn khách quan là một thuật ngữ chỉ khái niệm có nội dung bao hàm
tất cả những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ quan có thẩm quyền khởi
tố vụ án hình sự không có thông tin về chúng [27, tr.163]. Đây là phần lớn nhất và
chủ yếu của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Tác giả khảo sát ý kiến cán bộ, chuyên gia công tác trong các cơ quan tư
pháp của tỉnh, nhiều người cho rằng tỉ lệ tội phạm ẩn của tội này là rất cao.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các
trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại trong đó có những trường
hợp tại khoản 1, Điều 134 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); người làm
chứng, nạn nhân vì nhiều lí do mà không tố cáo hành vi phạm tội, đó có thể là:
- Người phạm tội sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã dùng thủ đoạn thuyết
phục thậm chí mua chuộc, đe dọa đối với nguồn sinh sống, việc làm, sức khỏe của
nạn nhân và người thân làm cho họ bãi nại, không đủ can đảm để yêu cầu khởi tố vụ
án;
- Nạn nhân không nhận thức được hành vi phạm tội đã thực hiện đối với
mình; nạn nhân là người yếu thế, thậm chí đối tượng tái phạm nhiều lần nhưng
không muốn hoặc không dám tố giác tội phạm, do có mối quan hệ với người phạm
tội như: Họ hàng, huyết thống với người phạm tội, đó có thể là vợ chồng, cha con,
anh em ruột; nạn nhân có mối quan hệ là bạn bè, đồng nghiệp, thầy trò, làm ăn, kinh
doanh chung với người phạm tội; thiệt hại không lớn, thương tích nhẹ;
- Nạn nhân sợ bị người phạm tội trả thù hoặc tự dàn xếp thỏa thuận về dân
sự; có trường hợp họ không tin tưởng vào các cơ quan tư pháp tiến hành tố tụng có
thể bảo vệ mình khi họ tố giác tội phạm, ngại tiếp xúc, sợ thủ tục phiền hà, không
muốn tự mình đến với các cơ quan công an hay trụ sở chính quyền trình báo;
- Nạn nhân che dấu tội phạm, không muốn tố giác và còn mong muốn giữ kín
32
sự kiện phạm tội; họ là người cũng có lỗi như tham gia vào các tệ nạn xã hội như lô
đề, cá độ bóng đá, nợ nần nhưng không trả được, vì vậy bị các đối tượng thuê người
đánh để đòi nợ hoặc nạn nhân chửi bới, làm nhục; đánh người phạm tội trước;
- Người chứng kiến, người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án có
tâm lí “người ngay sợ kẻ gian”; sợ liên lụy, sợ bị trả thù hoặc sợ ảnh hưởng đến
người phạm tội là người thân của mình nên họ không tố giác, không dám đứng ra
làm chứng trước tòa hoặc không hợp tác với cơ quan chức năng để làm sáng tỏ vụ
án.
1.2.2. Tội phạm ẩn chủ quan
Tội phạm ẩn chủ quan là những vụ phạm tội, người thực hiện tội phạm đã bị
phát hiện nhưng vì lí do khác nhau mà cơ quan tư pháp lại cho rằng đó không phải
phạm tội hoặc hành vi của người đó không cấu thành tội phạm. Qua phân tích, tác
giả có bảng số liệu sau:
Bảng 1.18. Tỉ lệ số vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được điều tra và đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019
Năm Số vụ phát hiện Số vụ khám phá Tỉ lệ % Số vụ xét xử Tỉ lệ %
2015 123 122 99 91 74
2016 120 117 97,5 102 85
2017 143 129 90,2 95 66,4
2018 142 132 93 74 52,1
2019 130 120 92 84 53,8
Tổng 658 620 94,2 447 67,9
Nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam, TAND tỉnh Quảng Nam
Theo số liệu thống kê trên cho thấy, trong giai đoạn 2015 – 2019 cơ quan
điều tra các cấp đã tiếp nhận 658 vụ và tỉ lệ điều tra khám phá cũng rất cao nhưng
trong 05 năm tòa án xét xử HSST chỉ 447 vụ (chiếm tỉ lệ 67,9%), như vậy còn lại
211 vụ (chiếm tỉ lệ 32,1%) số vụ không được điều tra khám phá và đưa ra xét xử,
trong số này, ngoài những nguyên nhân khác thì chắc chắn sẽ có một phần là tội
33
phạm ẩn chủ quan, qua đây có thể thấy được mức độ ẩn của tội phạm này trên địa
bàn tỉnh và chủ yếu tồn tại ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố; qua các báo cáo
tổng kết hàng năm của Công an tỉnh Quảng Nam, tác giả thấy tình trạng này xuất
phát từ lí do sau:
- Cơ quan điều tra chưa chỉ đạo tập trung điều tra, làm rõ, xử lí nghiêm các
vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, các vụ việc liên quan
đến các hành vi đánh nhau gây thương tích, gây rối trật tự công cộng đã phát hiện;
- Có tình trạng cán bộ chiến sĩ thực hiện qua loa, chiếu lệ, không cụ thể,
thiếu quyết liệt, có trường hợp vì áp lực án nhiều mà không tổ chức các hoạt động
xác minh khi tiếp nhận tin báo tố giác hoặc dung túng,“bảo kê” cho tội phạm và các
hành vi vi phạm pháp luật;
- Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án và tiến hành điều tra theo quy định nhưng
không thể khám phá nên đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án, trong 5 năm có 38 vụ
chưa được làm rõ (chiếm tỉ lệ 5,8%).
1.2.3. Tội phạm ẩn thống kê
Tội phạm ẩn thống kê là loại tội phạm tồn tại vì một lí do nào đó mà không
có trong số liệu thống kê làm cho số liệu tội phạm thống kê phản ánh không chính
xác THTP thực tế đã xảy ra và đã xử lí, xuất phát từ các lí do sau:
- Có những hành vi phạm tội và người phạm tội đã bị xử lí hình sự nhưng lại
không được thống kê hình sự do chủ thể phạm nhiều tội trong đó có tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng khi thống kê chỉ ghi nhận tội
danh chính, vì vậy khi thống kê đối với trường hợp bị cáo phạm nhiều tội mà trong
đó có tội phạm nghiêm trọng hơn thì trong biểu mẫu thống kê chỉ xuất hiện vụ án
với tội danh trên. Như vậy, trong trường hợp này tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác sẽ bị ẩn.
- Việc chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác thống kê, trình độ năng lực
của cán bộ làm công tác thống kê của các cơ quan tư pháp cũng là một trong những
nguyên nhân làm hình thành tội phạm ẩn thống kê.
- Những năm gần đây các cơ quan tư pháp của tỉnh Quảng Nam mới chỉ bắt
34
đầu chú trọng công tác thống kê hình sự trên hệ thống phần mềm thống nhất của
ngành mình tạo thuận lợi hơn cho công tác thống kê, trích xuất thông tin, hạn chế
mức độ ẩn do thống kê. Nhưng hiện nay, do luật sửa đổi, các biểu mẫu thống kê
cũng không thống nhất các mục, có sự thay đổi qua các năm gây khó khăn cho công
tác tổng hợp, số liệu phản ánh về tình hình tội phạm không chính xác gây nên tình
trạng ẩn của loại tội phạm này vẫn tiếp tục tồn tại.
Như vậy để có được đánh giá chính xác về THTP tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến
năm 2019 đòi hỏi phải xem xét, đánh giá cả những số liệu về phần ẩn của THTP.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn, bằng kiến thức lí luận và thực tiễn của chuyên ngành
Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, tác giả đã tập trung làm rõ một số nội dung
cụ thể sau:
- Thông qua việc làm rõ các thông số mức độ, động thái, cơ cấu, tính chất và
tội phạm ẩn của THTP, có thể nhận thấy tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn Quảng Nam chiếm tỉ lệ cao, có tỉ lệ cao nhất trong
nhóm tội xâm phạm sức khỏe của con người diễn biến phức tạp, tỉ lệ cao hơn so với
các tỉnh; huyện Thăng Bình là địa phương xảy ra số vụ cao nhất tỉnh; phương thức
thủ đoạn ngày càng táo bạo, liều lĩnh, xảo quyệt; các vụ có số lượng bị cáo nhiều;
người phạm tội chủ yếu là phạm tội lần đầu, nam giới, từ 30 tuổi trở lên, trình độ
học vấn thấp; tỉ lệ tội phạm ẩn rất cao; hình phạt chủ yếu là dưới 03 năm và cho
hưởng án treo.
Đây là các cơ sở lí luận và thực tiễn quan trọng đóng vai trò tiền đề để tác giả
tập trung hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu tiếp theo là làm rõ nguyên nhân và điều
kiện của THTP sẽ được đề trong chương 2 của luận văn.
35
CHƯƠNG 2
NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Lí luận tội phạm học hiện nay ở nước ta về nguyên nhân và điều kiện của
THTP cho phép rút ra một số nhận xét làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên
cứu vấn đề của chương hai này như sau:
Một là, thừa nhận mối quan hệ giữa “Tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” và hành vi phạm tội
này là một cặp phạm trù “cái chung và cái riêng”, nên việc nghiên cứu nguyên
nhân và điều kiện của “Tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” hoàn toàn cho phép được thực hiện trên
cơ sở của cơ chế hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
Hai là, tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 như đã được mô tả ở
chương trước chính là sản phẩm (Quả) không mong đợi của sự tác động qua lại
giữa các hiện tượng tiêu cực thuộc môi trường sống và các yếu tố tâm - sinh lí - xã
hội tiêu cực thuộc cá nhân con người mà trong hoàn cảnh, tình huống nhất định đã
dẫn tới việc thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh trong thời
gian nói trên;
Ba là, vì xem sự tác động qua lại là bản chất (quy luật), nên việc nghiên cứu
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có thể được tiến hành theo phương án
khả thi nhất hiện nay là làm rõ các yếu tố tiêu cực tham gia vào sự tác động qua lại
này, tội phạm học gọi là các yếu tố làm phát sinh THTP. Đây là cách nghiên cứu ở
chương này;
36
Bốn là, tiếp thu thành quả của tâm lí học khách quan, tội phạm học Việt
Nam xem sự tác động qua lại, như đã nói ở Nhận xét 2 vừa nêu trên là một hành
trình diễn ra liên tục và gián tiếp từ khi con người sinh ra cho đến khi phạm tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác… Theo hai quá trình tương
tác nhập tâm và tương tác xuất tâm. Trong từng quá trình đó, các yếu tố làm phát
sinh THTP có thể được tìm kiếm theo một số mô hình kết cấu khác nhau và ở luận
văn này đã chọn kết cấu: Môi trường sống, gồm cả yếu tố tình huống; chủ thể hành
vi và nạn nhân của tội phạm.
2.1. Những yếu tố thuộc môi trường sống ở tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Môi trường tự nhiên – địa lí
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao; văn
hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện đáng
kể; công tác đối ngoại được đẩy mạnh; môi trường đầu tư được cải thiện; thu hút
được nhiều dự án đầu tư trong nước và nước ngoài. Du lịch đang trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của tỉnh; mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách đến tham quan,
lưu trú (trong đó, đến tháng 12/2019 có trên 7,6 triệu lươt khách tham quan, lưu trú,
trong đó gần 4,5 triệu lượt khách quốc tế).
Bên cạnh những đặc điểm tự nhiên - địa lí đã giúp tỉnh Quảng Nam phát triển
kinh tế xã hội, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam cũng đang đối mặt với vô
số thách thức, đó là: Sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, nông
dân mất đất canh tác, đời sống người công nhân còn khó khăn, chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn ngày càng xa, sự phát triển nhiều thành phần kinh tế đã ảnh
hưởng không ít đến các quan hệ xã hội, cạnh tranh trong kinh doanh, buôn bán làm
nảy sinh nhiều mâu thuẫn cá nhân với nhau, giữa nhóm người này với nhóm người
khác. Ngoài ra còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa giải quyết như: Tỉ lệ thất
nghiệp cao, tệ nạn cờ bạc, mại dâm, ma túy trên địa bàn vẫn còn phức tạp, sự xâm
nhập của sách báo, phim ảnh bạo lực, sự kích động, tôn vinh sức mạnh đã tác động
không ít đến tư tưởng con người, làm xuất hiện nhiều băng nhóm sử dụng vũ khí để
chứng tỏ sức mạnh và giải quyết bằng bạo lực những mâu thuẫn phát sinh. Nghiên
37
cứu tại chương 1 cho thấy mức độ THTP liên quan đến sức khỏe của con người
ngày càng tăng cao, diễn biến phức tạp; đặc biệt là tỉ lệ phạm tội CYGTT luôn cao
trong cơ cấu chung, những tồn tại thách thức trên chính là nguyên nhân, điều kiện
làm phát sinh các yếu tố tiêu cực làm hình thành nhiều loại tội phạm, trong đó có tội
phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh trong
thời gian qua.
2.1.2. Môi trường xã hội của tình hình tội phạm
2.1.2.1. Môi trường gia đình
Gia đình là cội nguồn đầu tiên của việc hình thành nhân cách ngay trong giai
đoạn sơ sinh, thậm chí ở cả thời kỳ tiền nhận thức; là môi trường giao tiếp gần gũi
nhất, tác động lên nhiều mặt đời sống và nhân cách cá nhân; có ảnh hưởng tình cảm
mạnh mẽ nhất đến cá nhân; gia đình có khả năng kết hợp đồng bộ sự hình thành trí
tuệ, đạo đức, ý chí, khí chất, thói quen; là môi trường thường xuyên và liên tục hình
thành các nhu cầu, lợi ích, chuẩn mực hành vi, đồng thời thực hiện chức năng kiểm
soát xã hội đối với các định hướng nhân cách.
Khảo sát 692 bị cáo phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác bị xét xử HSST trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm
2019, thấy: Gia đình đầy đủ cha mẹ có 310 bị cáo (46,1%); gia đình khuyết cha
hoặc mẹ có 158 bị cáo (23,5%); gia đình khuyết cả cha lẫn mẹ có 63 bị cáo (9,4%);
gia đình có người đã từng phạm tội là 30 bị cáo (3%); 02 người trong gia đình cùng
phạm tội có 34 bị cáo (5,1%); gia đình chỉ có con một là người phạm tội là 45 bị
cáo (5,2%); gia đình có nghề nghiệp và thu nhập ổn định là 52 bị cáo (7,7%).
(nguồn: Tác giả phân tích theo số liệu của TAND tỉnh Quảng Nam).
Trong số 158 bị cáo trong những gia đình khuyết cha hoặc mẹ, có 58 trường
hợp cha mẹ ly hôn, 54 trường hợp cha hoặc mẹ chết, 46 trường hợp bị cha, mẹ bỏ
rơi.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, nguyên nhân của nhiều vụ CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Quảng Nam do người phạm tội gây ra
trong thời gian qua cho hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn chiếm tỉ lệ cao, tiếp
38
theo là những gia đình không hoàn hảo, không đủ tiêu chuẩn gia đình văn hóa, gia
đình bình đẳng hạnh phúc, năng lực quản lí giáo dục con em của gia đình còn hạn
chế. Nhiều gia đình bị cuốn theo quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh ở
Quảng Nam, dẫn đến lối sống gấp, thực dụng, cằn cõi về mặt tình cảm và nhân văn,
ảnh hưởng từ lối sống của gia đình đến việc hình thành nhân cách cộc cằn, bạo lực;
gia đình đã từng có thành viên phạm tội, đã tác động không tốt đến nhân cách người
phạm tội từ giai đoạn chưa thành niên, tạo sự tự ti, mặc cảm, ảnh hưởng đến nếp
sống, nếp suy nghĩ tiêu cực của các em, thậm chí thành viên gia đình còn lôi kéo
người khác tham gia vào hoạt động phạm tội. Sự nuông chiều quá trớn, thiếu giáo
dục, quản lí của gia đình dẫn đến con cái là con một phạm tội.
Nghiên cứu tại chương 1 của luận văn cũng cho thấy: Người phạm tội không
có nghề nghiệp, trình độ học vấn thấp có tỉ lệ phạm tội cao điều đó thể hiện gia đình
của người phạm tội thường có các yếu tố tiêu cực như gia đình không muốn, không
biết cách hoặc không có khả năng thực hiện chức năng giáo dục và kiểm tra đối với
các thành viên, nhiều người là công nhân không có thời gian chăm sóc con cái,
không quan tâm chăm lo việc học hành và định hướng nghề nghiệp cho các thành
viên trong gia đình, gia đình phó mặc sinh hoạt của con cho nhà trường, không dành
thời gian để chia sẻ, phát hiện những thay đổi tâm - sinh lí của con, không kiểm tra
việc học tập, sinh hoạt của con cái. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án hằng năm, thấy có
rất nhiều vụ đối tượng phạm tội với chính cha, anh ruột của mình. Điển hình: Vụ Hồ
Văn Hậu (1993, trú thôn 5, xã Phước Mỹ, Phước Sơn) phạm tội CYGTT xảy ra tại
xã Phước Mỹ, huyện Phước Sơn, điều đáng chú ý ở đây nạn nhân chính là cha ruột
của Hậu; ngày 02/11/2015 Hậu xảy ra mâu thuẫn với cha ruột là Hồ Văn Nơm
(1962, trú cùng địa chỉ trên), ông Nơm lấy rựa chặt vào tay Hậu gây thương tích,
Hậu liền chạy vào bếp lấy đoạn củi gỗ đánh vào đầu ông Nơm gây thương tích phải
đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam, đến ngày 03/11/2015 thì
ông tử vong. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
2.1.2.2. Môi trường nhà trường
Con người lớn lên phải được cắp sách đến trường, quá trình học tập có ảnh
39
hưởng rất lớn đến nhận thức của mỗi cá nhân; vai trò của nhà trường đóng một vị trí
quan trọng trong việc hình thành những phẩm chất cá nhân của mỗi thành viên
trong xã hội.
Kết quả nghiên cứu cơ cấu trình độ học vấn trong đặc điểm nhân thân người
phạm tội ở chương 1 cho thấy, trong 692 bị cáo phạm tội trong vòng 05 năm thì chỉ
có 01 người không biết chữ, có rất nhiều người đã đi học với trình độ tiểu học, trung
học cơ sở (chiếm tỉ lệ 50,4%), trình độ phổ thông trung học (chiếm tỉ lệ rất cao
36,9%), đặc biệt người học thức cao đẳng, đại học vẫn tham gia (chiếm 12,6%).
Qua nghiên cứu cơ cấu về nghề nghiệp có 692 bị cáo phạm tội thì số vụ có người
phạm tội là học sinh, sinh viên tham gia chiếm tỉ lệ khá cao 9,2%, điều đó cho thấy,
bản thân môi trường giáo dục vẫn còn tồn tại những yếu tố tiêu cực nhất định.
Nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia chỉ ra nguyên nhân của tội phạm CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra là: Chương trình học ở nhà
trường còn nhiều bất cập ở việc không cân đối thời lượng giữa các môn học làm cho
học sinh vừa quá tải nhưng cũng vừa hổng kiến thức; học sinh học lệch, chỉ quan
tâm đến một vài môn các em yêu thích hoặc phải thi, điều đó dẫn đến việc một số
học sinh không nắm được kiến thức pháp luật, đạo đức và cách ứng xử trong đời
sống; học yếu, chán học, trốn học để tụ tập bạn bè đi chơi, mắc phải những tệ nạn
xã hội, vi phạm pháp luật, cuối cùng có thể đi vào con đường phạm tội là một quá
trình không phải ngắn nhưng trong lứa tuổi còn đi học thì lại diễn ra rất nhanh.
Thầy cô giáo không phải là tấm gương cho học sinh (nhận tiền, đòi tiền học
sinh, sa đọa, biến chất, sống buông thả, v.v.) hoặc nhược điểm trong công tác giảng
dạy không tạo cho các em hứng thú học tập thu nhận kiến thức, trong giảng dạy
kiến thức hạn chế, không có phương pháp phù hợp, không bao giờ nói với học sinh
về đạo đức hoặc pháp luật khi lên lớp; kỉ luật nhà trường lỏng lẻo, giáo viên thiếu
quan tâm đến học sinh, thiếu sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường trong việc giáo
dục con em, những biểu hiện xấu của các em không được nhà trường phản ánh kịp
thời, đầy đủ đến gia đình và ngược lại, việc sử dụng bạo lực trong nhà trường khá
phổ biến nhưng không được nhà trường quan tâm quản lí, giáo dục học sinh và có
40
hình thức ngăn chặn phù hợp.
2.1.2.3. Môi trường xã hội với nhà nước là chủ thể quản lí
a. Những yếu tố khách quan
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động mạnh
mẽ đến việc hình thành những chuẩn mực đạo đức, suy thoái về đạo đức lối sống,
nếp sống trong một bộ phận người ở Quảng Nam, đặc biệt là những người có mức
sống thấp, những người ở độ tuổi lao động không có việc làm. Trong xu thế hội
nhập quốc tế, việc mở rộng quan hệ quốc tế về kinh tế, về văn hóa thông tin, những
sản phẩm văn hóa có nội dụng bạo lực kích động đã tác động đến đạo đức, nhân
cách của con người. Qua nghiên cứu tại chương 1 cho thấy điều đáng báo động là
thực trạng tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra
trên địa bàn là do các băng nhóm tụ tập ở các quán cà phê, quán nhậu bình dân, các
điểm vui chơi giải trí để rồi gây rối, đâm, chém, đánh nhau với các băng nhóm khác
ngày càng có chiều hướng gia tăng kể cả ở nông thôn và thành thị. Một số không ít
người được trang bị kiến thức văn hóa một cách chắp vá, được cha mẹ nuông chiều,
có cuộc sống đua đòi vật chất, ngoại lai về lối sống, bị lôi cuốn vào tệ nạn xã hội
như ma túy, cờ bạc, mại dâm. Điển hình: Vào khoảng 19 giờ 00 ngày 15/11/2016,
có một nhóm thanh niên gồm khoảng 15 nam và 05 nữ đến và tổ chức sinh nhật tại
quán Phố Hồng Kông, số 53 đường Lý Thường Kiệt thuộc khối phố Sơn Phô 1,
phường Cẩm Châu, thành phố Hội An; đến khoảng 20 giờ 30’ cùng ngày, có một
nhóm thanh niên khác gồm 05 nam cũng đến và ngồi nhậu trước hiên quán; đến
khoảng 21 giờ 00’, hai bên xảy ra ẩu đả, nhóm 05 thanh niên này cầm chai bia đập
vỡ phần thân chai, chỉ còn phần cổ chai bước qua bên kia đường nơi có nhóm sinh
nhật; nhóm sinh nhật cũng dùng mũ bảo hiểm, mảnh vỡ vỏ cổ chai bia và ghế nhựa
làm hung khí đánh nhau. Trong nhóm sinh nhật có 01 thanh niên tên Lê Quang Đức
(sinh ngày 22/7/1995, trú tại tổ 5 - Tân Thành - Cẩm An - Hội An) cầm dao bấm
dấu trong người đâm 01 thanh niên trong nhóm 05 người tên là Nguyễn Văn Vinh
(sinh năm 1995, trú tại Cửa Suối - Cẩm Hà - Hội An). Hậu quả: Nguyễn Văn Vinh
chết, Lê Quang Đức đến cơ quan Công an đầu thú. (nguồn: Công an tỉnh Quảng
41
Nam).
Thứ hai, sự tác động của quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở Quảng
Nam tác động sâu sắc đến một bộ phận dân cư bỗng có nhiều tiền từ giải tỏa, đền
bù, sang nhượng đất đai, con cái trong gia đình có tiền mua xe máy, điện thoại di
động, bắt chước lối sống thành thị, bỏ học, lười lao động và lao vào các tệ nạn xã
hội như cờ bạc, sử dụng ma túy. Sự chênh lệch giữa điều kiện vật chất và ý thức
pháp luật, sự khập khiễng giữa kinh tế và văn hóa đã khiến nhiều người rơi vào
trạng thái mất thăng bằng về đạo đức, nhân cách, thường gọi là “bệnh sỉ”, thích ra
oai, coi thường người khác, trở thành nguồn gốc của các vụ gây thương tích không
rõ nguyên nhân hoặc từ những nguyên nhân rất nhỏ. Các địa phương diễn ra đô thị
hóa nhanh, có nhiều khu, cụm công nghiệp như thành phố Tam Kỳ, thị xã Điện
Bàn, giải tỏa đền bù đất đai ở vùng Đông của huyện Thăng Bình luôn số vụ gây
thương tích xảy ra cao nhất tỉnh.
Thứ ba, sự biến tướng của các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, sự đa
dạng của các sản phẩm, dịch vụ văn hoá: Mạng xã hội, internet, v.v. đã gây ra nhiều
khó khăn trong công tác quản lí nhà nước về văn hóa trên địa bàn Quảng Nam; nạn
mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tâm linh, ngoại cảm để trục lợi; các hủ tục còn
tồn tại khá nhiều, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nhiều cơ sở in, quảng
cáo, nhà hàng karaoke mở tràn lan, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hoạt động biến
tướng, trá hình, có nhiều biểu hiện tiêu cực. Một số sản phẩm văn hoá, văn học nghệ
thuật chất lượng kém được phát hành, truyền bá; không ít sản phẩm không phù hợp
với truyền thống văn hoá của dân tộc, thậm chí độc hại, phản động của nước ngoài
xâm nhập vào đời sống xã hội, làm xói mòn đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến
truyền thống văn hoá, thuần phong mỹ tục, làm mai một, biến dạng văn hoá truyền
thống.
b. Những yếu tố chủ quan
Từ tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm qua, tác giả nhận thấy bên cạnh những
kết quả đạt được thì vẫn còn một số tồn tại, hạn chế:
42
- Về tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước trong
công tác phòng, chống tội phạm
+ Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW, Tỉnh ủy Quảng Nam
đã ban hành Chương trình hành động số 09-CTr/TU, ngày 15/3/2011 để chỉ đạo các
tổ chức Đảng, các ban ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện chỉ thị; Ủy
ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 1440/KH-UBND, ngày 26/4/2011 phân
công trách nhiệm, hướng dẫn các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị 48-
CT/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động số 09-CTr/TU của tỉnh ủy gắn
với việc triển khai kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về phòng,
chống tội phạm; Đảng ủy Công an tỉnh đã ban hành Chương trình hành động số 50-
CTr/ĐUCA(PV11), ngày 07/4/2011 chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng
ủy công an tỉnh và công an các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh quán triệt, thực
hiện; báo cáo hằng năm của công an tỉnh đều có nội dung tham mưu cho tỉnh ủy,
UBND chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên qua sơ kết 05 năm thực hiện và tổng kết 10
năm thực hiện chỉ thị, Tỉnh ủy Quảng Nam báo cáo bên cạnh những kết quả đạt
được, trong quá trình triển khai thực hiện chỉ thị vẫn còn có một số hạn chế, tồn tại:
+ Một số cấp ủy, chính quyền địa phương, sở, ban, ngành, đoàn thể, cơ quan,
đon vị, trường học tuy đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành
động nhưng việc triển khai thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm theo tinh
thần Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị chưa thật sự đi vào chiều sâu, thiếu linh
hoạt, chưa khoa học nên quá trình tổ chức thực hiện chưa gắn chặt việc thực hiện
nội dung của chỉ thị với việc thực hiện công tác theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi
đơn vị, địa phương, ngành.
+ Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm trong những năm qua không
đạt được mục tiêu đề ra là đến năm đến năm 2020 giảm từ 3 - 5% số vụ phạm tội
hình sự so với năm 2016, mà tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn
diễn biến phức tạp, từ năm 2015 đến năm 2019 có 3711 vụ với 6119 bị cáo, nhất là
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, trong đó qua nghiên cứu
tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng xảy ra với số
43
vụ và số đối tượng phạm tội luôn chiếm tỉ lệ cao nhất (trên 12,1% số vụ và 11,3%
số bị cáo), tuy có giảm số vụ trong những năm gần đây nhưng số bị cáo vẫn không
hề giảm.
+ Sức mạnh tổng hợp từ các chủ thể có trách nhiệm phòng ngừa ngăn chặn
THTP nói chung, tội xâm phạm sức khỏe con người, tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác nói riêng chưa được phát huy mà còn tách rời, đơn
điệu, mang tính hình thức. nguyên nhân là do chưa có văn bản quy định cụ thể về cơ
chế phối hợp trong đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung và CYGTT
nói riêng. Việc quản lí các địa bàn, các băng nhóm thanh niên đánh nhau, gây rối
trật tự, những mâu thuẫn xảy ra chỉ mới tập trung trách nhiệm cho công an cơ sở mà
chưa có sự phối hợp với chính quyền địa phương với các cơ quan chức năng. Chính
vì vậy các vấn đề liên quan đến ANTT tại những nơi này không được giải quyết kịp
thời, hiệu quả.
+ Lực lượng công an toàn tỉnh chưa có bộ phận chuyên trách, được tổ chức
khoa học để có thể thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác một cách hiệu quả, chỉ mới tập trung vào việc
“chống”, tức là chỉ đối phó với tội phạm đã xảy ra. Sở Giáo dục và đào tạo chưa tạo
được sự phối hợp đa chiều với các ngành, các cấp, đặc biệt với gia đình trong quản
lí, giáo dục học sinh. Vai trò phòng ngừa tội phạm của ủy ban dân số, gia đình và
trẻ em còn mờ nhạt, yếu kém trong phối kết hợp và chủ động tiến hành hoạt động cụ
thể, thiết thực. đoàn thanh niên và hội liên hiệp phụ nữ cũng chỉ mới tổ chức một số
hoạt động mang tính phong trào, không thường xuyên, áp đặt số lượng người tham
gia cho các đơn vị trực thuộc mà cũng chưa thể hiện được vai trò của mình.
- Hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự về xử lí tội phạm này; do quy
định của pháp luật còn lỏng lẻo mà tội phạm có thể lợi dụng như đã phân tích ở
chương 1, trong thực tế nhiều vụ gây thương tích xảy ra, đối tượng đã gặp gỡ, mua
chuộc, dọa nạt người bị hại để họ rút đơn, bãi nại hoặc không yêu cầu khởi tố làm
cho cơ quan bảo vệ pháp luật không thể xử lí bằng luật hình sự. Biện pháp xử lí
không kiên quyết làm cho tội phạm này có điều kiện gia tăng; mặt khác biện pháp
44
hình sự (chế tài hình sự) đối với tội phạm này chưa nghiêm khắc và chưa đủ sức
mạnh răn đe. Nhiều vụ gây hậu quả nặng nề như tạt axít làm hủy hoại nhan sắc,
hình dáng, sức khỏe của người bị hại nhưng chỉ coi là tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác; không có hình phạt đặc biệt để trừng phạt người
phạm tội nên chưa đáp ứng yêu cầu phòng ngừa đấu tranh chống loại tội phạm này;
qua nghiên cứu chương 1 cho thấy tội phạm ẩn của tội này trên địa bàn tỉnh ở mức
III, mức cao, đáng báo động. Tất cả những điều này cho thấy còn tồn tại các hành vi
phạm tội CYGTT trên địa bàn tỉnh không bị trừng phạt, nhởn nhơ ngoài vòng pháp
luật hoặc trừng phạt không kịp thời.
- Hạn chế trong công tác quản lí xã hội
Các cơ quan chức năng tham gia vào hoạt động quản lí xã hội đôi khi cũng
có những thiếu sót làm ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách tốt của cá
nhân, thực tế hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, pháp luật ở nước ta trong những
năm qua bộc lộ nhiều sơ hở, trong đó hệ thống chính sách ban hành nhiều nhưng
hiệu quả thấp, nhiều chủ trương, chính sách chưa hoàn chỉnh lại thiếu đồng bộ và có
nhiều kẽ hở, khiến cho một số phần tử cơ hội, bất mãn lợi dụng mưu lợi cá nhân,
hay kích động người khác thực hiện tội phạm có sử dụng bạo lực, thành lập các tổ
chức “xã hội đen”, đòi nợ thuê. Cũng phải thấy rằng, hệ thống chính sách xã hội nếu
không được tổ chức, quản lí tốt sẽ không phát hiện kịp thời các mâu thuẫn xã hội và
sẽ dẫn đến là những mâu thuẫn là mầm mống của vi phạm pháp luật trong đó có các
loại tội phạm. Hiện nay, các cơ quan chức năng chưa quản lí tốt, kiềm chế các tệ
nạn xã hội, đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến môi trường xã hội ở
tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều yếu tố thuận lợi cho sự hình thành, tồn tại và phát
triển các loại tội phạm, tội phạm xâm phạm sức khỏe nói chung, trong đó có tội
phạm CYGTT. Bên cạnh đó, nghiên cứu ở chương 1 cho thấy có đến 97,3% người
phạm tội lần đầu, điều này cho thấy công tác tuyên truyền, giáo dục văn hóa tư
tưởng về ý thức tuân thủ pháp luật trong các tầng lớp nhân dân lao động còn những
hạn chế nhất định. Sự ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa có nội dung xấu đã góp
phần làm cho đạo đức xã hội xuống cấp và làm cho trạng thái tâm lí tiêu cực trong
45
xã hội phát triển. Việc quản lí các ngành nghề kinh doanh có điều kiện về ANTT
như vũ trường, karaoke, massages, khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ, v.v. còn nhiều hạn
chế, chưa chặc chẽ. Chính những thiếu sót, hạn chế trên đã làm cho các hành vi
phạm tội phát sinh, trong đó có THTP CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Qua nguồn số liệu thống kê cho thấy hằng năm trên địa bàn tỉnh có
hàng chục vụ xảy ra tại các địa điểm này. Điển hình: Lúc 15 giờ 30’ ngày
10/02/2018, tại quán Galaxy 1, phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ, khoảng 30
công nhân công ty ILSONG VINA (đóng tại Khu Công nghiệp Tam Thăng, thành
phố Tam Kỳ) đến hát karaoke và xảy ra mâu thuẫn với nhân viên của quán. Lúc
này, Đặng Vĩnh Thuận (nhân viên của quán) dùng kéo đâm Nguyễn Như Thạch
(1994, trú xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh) và Nguyễn Văn Thành (chưa rõ lai lịch)
gây thương tích vùng vai, bụng. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
- Những hạn chế thuộc chức năng của các cơ quan thực thi pháp luật
Qua nghiên cứu quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tội
phạm nói chung, tội phạm xâm phạm sức khỏe con người, tội phạm CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thời gian qua cho thấy các lực lượng chức
năng tỉnh Quảng Nam vẫn còn có một số điểm hạn chế như sau: Trình độ nghiệp vụ
pháp luật của cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật như TAND, VKSND, CAND
còn yếu chưa đáp ứng kịp thời với tình hình mới, cho nên trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và chống loại tội phạm xâm phạm sức khỏe con người
còn né tránh, thiếu hiệu quả, thậm chí không ít cán bộ trong các cơ quan này còn
tiêu cực, bao che cho tội phạm; tình hình đó làm lòng tin của quần chúng nhân dân
vào Đảng, vào các cơ quan thực hành pháp luật bị giảm sút, bọn tội phạm nhẩn nhơ,
coi thường pháp luật.
Việc cụ thể hóa nội dung công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của một
số cấp ủy, lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể còn thiếu chặt chẽ, chưa thực sự gắn
kết giữa việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn với việc tích cực phòng, chống tội
phạm; chưa huy động tối đa được sức mạnh tổng hợp của toàn thể cán bộ, nhân dân
tham gia phòng, chống tội phạm nên hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội
46
phạm chưa cao.
Việc phối hợp công tác, thông tin, nắm tình hình giữa các cơ quan bảo vệ
pháp luật còn yếu về nhiều mặt, có nơi, có lúc còn biểu hiện cục bộ; do đó hạn chế
đến kết quả đấu tranh.
Công tác điều tra xử lí tội phạm chưa nghiêm, biểu hiện cụ thể ở các mặt
như: Phát hiện tội phạm ít hơn thực tế xảy ra; tỉ lệ điều tra khám phá các vụ án chưa
rõ thủ phạm còn thấp, đặc biệt là những vụ án ít nghiêm trọng, hậu quả, tác hại
không lớn. Các vụ án nghiêm trọng vẫn còn có nhiều vụ không rõ thủ phạm trong
khi đó công tác điều tra, xử lí còn kéo dài, tỉ lệ xử lí hành chính, cho hưởng án treo
còn quá cao (27,7%), v.v., tình hình đó đã tạo ra trong xã hội nhiều người phạm tội
còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, chưa có tác dụng phòng ngừa, giáo dục chung.
Công tác cải tạo và quản lí các đối tượng đã phạm tội chưa đạt được mục
đích yêu cầu và còn có nhiều sơ hở cho nên chưa có tác dụng răn đe, giáo dục người
phạm tội cải tạo trở thành người lương thiện.
Nhà nước còn chưa quan tâm nhiều đến việc trang bị các phương tiện kỹ
thuật cho các lực lượng trực tiếp làm công tác đấu tranh chống tội phạm, đời sống
của cán bộ, chiến sĩ còn nhiều khó khăn do vậy hạn chế nhiều đến kết quả công tác
của các lực lượng này.
2.2. Những yếu tố tiêu cực thuộc về chủ thể tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
2.2.1. Những tiêu cực thuộc về ý thức cá nhân
Ý thức pháp luật, văn hóa pháp lí trong một bộ phận nhân dân còn yếu; qua
nghiên cứu cho thấy ở Quảng Nam người phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác đa số là phạm tội lần đầu (97,3%) và trình độ văn hóa từ
phổ thông trung học trở xuống (87,4%) nên bản thân họ có sự kém hiểu biết về xã
hội, về pháp luật (ấu trĩ pháp luật) và chuẩn mực về đạo đức lối sống từ đó hình
thành lối sống tiêu cực, có thái độ coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức
khỏe của người khác, ứng xử với nhau bằng bạo lực (hư vô pháp luật). Có thể nói
tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xuất phát từ
47
nguyên nhân chủ yếu là các đối tượng thực hiện hành vi để giải quyết những mâu
thuẫn với người bị hại, bản chất chung của sự việc là xuất phát từ nguyên nhân này,
mặc dù mâu thuẫn đó có thể xuất hiện từ nhiều nguyên nhân khác nhau, từ việc
cạnh tranh trong buôn bán, tranh chấp đất đai, đòi nợ, cho đến đánh ghen hoặc là
một câu nói, cử chỉ, thái độ trong khi uống rượu cũng tạo nên mâu thuẫn dẫn đến
hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây chính
là cơ sở để các cơ quan chức năng của tỉnh có thể đưa ra biện pháp phòng ngừa
thích hợp trong thời gian tới.
2.2.2. Sai lệch trong quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Những người phạm tội thường có những sai lệch về nhu cầu, thói quen, sở
thích lệch lạc, và đặc biệt là không kiềm chế được cảm xúc; đã thúc đẩy họ gây
thương tích cho người khác để thỏa mãn nhu cầu sai lệch của mình.
Trong phạm vi đề tài, quá trình động cơ hóa hành vi của người phạm tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam, qua nghiên cứu tại chương 1 cho thấy bị cáo đa phần là nam giới chiếm tỉ lệ
98,6%; các vụ án xảy ra chủ yếu ở các địa điểm trong nhà như quán nhậu, quán
karaoke chiếm tỉ lệ 64% số vụ; việc sử dụng rượu, bia làm cho các bị cáo, đa số là
quen biết nhau hoặc mâu thuẫn với nhau từ trước nhưng không kìm chế được cảm
xúc bản thân, không tỉnh táo, rất dễ kích động dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội.
Nhóm các bị cáo trong độ tuổi trung niên từ đủ 30 tuổi trở lên, chiếm tỉ lệ cao nhất
với 63% số bị cáo, đây đáng ra là độ tuổi đã có suy nghĩ và hành động chín chắn, có
khả năng kiềm chế và kiểm soát hành vi tốt, điều kiện kinh tế ổn định, nhưng số bị
cáo này phạm tội xuất phát từ các nguyên nhân lợi ích kinh tế như không có việc
làm ổn định, tranh chấp đất đai, tài sản, cạnh tranh trong kinh doanh, mâu thuẫn cá
nhân lâu ngày, sử dụng rượu, bia, v.v.; số bị cáo trong độ tuổi thanh niên từ 18 đến
dưới 30 tuổi chỉ chiếm 33,2%, ở độ tuổi này con người chưa có sự chín chắn trong
suy nghĩ và hành động, chưa có việc làm và thu nhập ổn định để phục vụ nhu cầu sở
thích của bản thân, bên cạnh đó việc thường xuyên nghiện games, xem phim, các
48
trang mạng xã hội bạo lực, tụ tập ăn chơi, quậy phá, v.v. đã hình thành tính cách các
bị cáo có xu hướng sử dụng bạo lực nên khi sử dụng rượu bia hoặc bị kẻ xấu dụ dỗ,
lôi kéo khó có thể kiểm soát cảm xúc của bản thân dẫn đến thực hiện hành vi phạm
tội. Điển hình: Vụ CYGTT xảy ra tại huyện Thăng Bình vào khoảng 23 giờ ngày
20/11/2015, do mâu thuẫn với nhóm thanh niên xã Bình Đào từ trước nên sau khi
uống rượu, 08 thanh niên xã Bình Minh gồm: Huỳnh Ngọc Nam (1995), Đinh
Thanh Minh (1999), Nguyễn Việt Vũ (1996), Đặng Ngọc Thái (1996), Nguyễn Việt
Dũng (1996), Trương Thanh Dũng (1997) - cùng trú Hà Bình, Bình Minh, Thăng
Bình mang theo hung khí từ Bình Minh lên Bình Đào để tìm nhóm thanh niên Bình
Đào đánh nhau. Khi cả nhóm đến trước trường Trung học phổ thông Nguyễn Thái
Bình (Bình Đào, Thăng Bình), phát hiện Nguyễn Dương Hoàng Vy (1999), Lê Bình
Phước (1996) thì dùng gạch đá, tuýp sắt, dao để đuổi đánh gây thương tích cho Vy.
Vụ án đã khởi tố vụ án với 05 bị can. (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam).
2.2.3. Sai lệch trong quá trình kế hoạch hóa và hiện thực hóa hành vi
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Đây là hai bước thuộc về phương thức thực hiện tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác, tức là hành vi của đối tượng đã bộc lộ ra ngoài.
Khi có nhu cầu (sai lệch) và đã nhìn thấy lợi ích (sai lệch) thì chủ thể thực hiện
hành vi sẽ chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện hành vi. Qua nghiên cứu hồ
sơ các vụ án ta thấy các đối tượng đã kế hoạch hóa hành vi phạm tội một cách cụ
thể. Điển hình: Trong vụ CYGTT xảy ra ngày 08/11/2017 tại thị trấn Tiên Kỳ, huyện
Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, do mâu thuẫn cá nhân từ trước, nhóm đối tượng Hồ
Anh Lin (1987, trú: Bình Phước, Tiên Kỳ, Tiên Phước), Hồ Anh Líp (anh ruột của
Lin) và Hồ Văn Dũng (cha của 2 đối tượng trên) đánh nhau với nhóm đối tượng của
Đoàn Ngọc Huy (1995, trú: thôn 2, Tiên Cảnh, Tiên Phước). Công an huyện Tiên
Phước phát hiện bắt giữ các đối tượng, thu giữ 01 súng tự chế, 04 dao, 03 kiếm,
một đầu đạn chì, 01 tuýp sắt. Hậu quả Líp bị thương nặng. (nguồn: Công an tỉnh
Quảng Nam). Điều này cho thấy vai trò và mức độ ảnh hưởng của quá trình kế
hoạch hóa đối với quá trình phạm tội, các đối tượng có thời gian để lên kế hoạch
49
chuẩn bị công cụ, phương tiện, phân công nhiệm vụ cho từng người để nhằm mục
đích gây tổn hại cho sức khỏe người khác, người phạm tội có xu hướng sử dụng các
công cụ có khả năng sát thương cao, lên kế hoạch để đối phó cơ quan chức năng khi
bị phát hiện. Việc chuẩn bị này nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời sẽ
xảy ra tội phạm, có những trường hợp CYGTT dẫn đến hậu quả chết người.
Ở giai đoạn quyết định hành động - hiện thực hóa hành vi phạm tội, người
phạm tội trực tiếp thực hiện hành vi bằng các hành động cụ thể, tác động vật chất
trực tiếp vào các đối tượng để thỏa mãn nhu cầu (sai lệch). Đối với tội phạm
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, bị cáo thường hành động
quyết liệt, diễn ra trong thời gian ngắn để xâm phạm sức khỏe của nạn nhân, gây ra
một thương tích nhất định mà BLHS quy định đó là tội phạm. Nhiều trường hợp đi
kèm với nó là các hành vi vi phạm pháp luật khác như: Vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, gây rối trật tự công cộng, phạm tội CYGTT trong tình trạng tinh thần
kích động mạnh, hành vi bạo hành, hành hạ người khác, chống người thi hành công
vụ, v.v..
Qua nghiên cứu trên địa bàn tỉnh, các cơ quan chức năng và các tổ chức xã
hội của tỉnh thường phản ứng chậm, không kịp thời, không nắm được tình hình khi
các đối tượng chuẩn bị, lên kế hoạch và tiến hành hành vi phạm tội. Các vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thường xảy ra mang tính lặp
lại nhưng các cơ quan chức năng vẫn chưa có biện pháp phòng ngừa hiệu quả; trở
lại các vụ việc nêu điển hình ở trên như vụ án xảy ra tại quán Phố Hồng Kông, số
53 đường Lý Thường Kiệt thuộc khối phố Sơn Phô 1, phường Cẩm Châu, thành phố
Hội An. Đây là địa điểm trong khoảng thời gian ngắn xảy ra hai vụ có hậu quả chết
người do các nhóm đối tượng gây ra và hiện vẫn là nơi tụ tập rất đông các nhóm
thanh niên vào buổi tối; hay như vụ án xảy ra ngày 20/11/2017 tại thị trấn Nam
phước, huyện Duy Xuyên có đến 150 đối tượng tham gia, gây mất ANTT suốt 20 km
từ thị xã Điện Bàn đến huyện Duy xuyên dọc quốc lộ 1A, nên cơ quan chức năng
hầu như không thể khống chế tình hình do chưa có phương án và lực lượng tại chỗ
cũng không đáp ứng được.
50
Công tác phòng ngừa THTP này trong thời gian qua đạt hiệu quả chưa cao,
các vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác diễn ra khi các đối
tượng sử dụng phương thức thủ đoạn nguy hiểm, manh động, ngày càng xảo quyệt
để qua mắt các lực lượng chức năng. Các vụ có sự chuẩn bị đều là các vụ việc lớn,
khi xảy ra để lại hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng sức khỏe con người, điều này
đặt ra câu hỏi lớn cần giải đáp đối với hoạt động phòng ngừa của các cơ quan chức
năng và toàn xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
2.3. Tình huống phạm tội
Vậy điều kiện nào và khi nào thì tội phạm được thực hiện? Động cơ phạm tội
sẽ trở thành hành vi phạm tội khi được “chất xúc tác” là tình huống cụ thể tồn tại
khách quan tại thời điểm xảy ra vụ phạm tội tác động. Động cơ phạm tội có đủ điều
kiện xã hội và tự nhiên cần thiết mới làm nảy sinh tội phạm. Trên địa bàn Quảng
Nam nếu lấy tiêu chí phân loại là thời gian thì tình huống phạm tội có các loại: Nhất
thời (cãi nhau, v.v.); diễn ra trong thời gian ngắn (tranh chấp trong giao dịch dân sự,
v.v.); diễn ra trong thời gian dài (xung khắc gia đình, hàng xóm, v.v.). Nếu phân
loại theo nguồn gốc phát sinh thì tình huống phạm tội có các loại: Do người phạm
tội cố tình gây ra để tạo thuận lợi cho hành vi phạm tội; do người phạm tội gây ra
nhưng không cố ý (say rượu); nảy sinh do hành vi trái đạo đức của người khác
(phản bội của người thân, bị khiêu khích cãi lộn, v.v.). Qua nghiên cứu các 400 hồ
sơ vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam (nguồn: Công an tỉnh Quảng Nam) trong 05 năm qua, cho thấy nổi lên
một số lí do dẫn đến hành vi phạm tội này là: Do mâu thuẫn cá nhân: 198 vụ, chiếm
tỉ lệ 49,5%; do tranh chấp cự cãi: 39 vụ, chiếm tỉ lệ 9,75%; do sử dụng rượu bia,
không làm chủ được hành vi: 153 vụ, chiếm tỉ lệ 38,2%; do ghen tuông tình ái: 10
vụ, chiếm tỉ lệ 2,5%.
Tình huống phạm tội cụ thể có vai trò rất lớn trong việc biến động cơ phạm
tội thành hành vi phạm tội; khi hội đủ những yếu tố cần thiết thuận lợi cho hành vi
phạm tội nó sẽ làm tăng tốc độ và quyết tâm gây án của đối tượng. Tuy nhiên không
thể coi nó là nguyên nhân dẫn đến tội phạm vì một người có nhân cách tốt sẽ không
51
có hành vi phạm tội trong tình huống đó.
2.4. Yếu tố nạn nhân trong vụ phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức phải chịu những thiệt hại
trực tiếp về tính mạng, tinh thần, sức khỏe, tài sản, tình cảm hoặc các quyền, lợi ích
hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây ra.
Nạn nhân của tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là những cá nhân phải chịu những thiệt hại trực
tiếp về sức khỏe hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hành vi phạm tội gây
ra.
Trong phạm vi đề tài, khi nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần nghiên cứu đặc điểm
hành vi và nhân cách của nạn nhân trong cơ chế hình thành các diễn biến của một
vụ phạm tội. Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án xảy ra trên địa bàn tỉnh, cho thấy nạn
nhân có các đặc điểm: Nạn nhân thiếu khả năng kiểm soát hành vi của mình (say
rượu, sức khỏe kém, khuyết tật); nạn nhân không muốn thông báo, tố giác cho cơ
quan chức năng những ý đồ hoặc những hành vi của người khác có dấu hiệu xâm
hại đến bản thân mình hoặc người khác; nạn nhân không chấp hành đúng các quy
định của pháp luật và các thể lệ khác; nạn nhân có quan hệ với những người xấu,
người phạm tội; bản thân nạn nhân có hành vi khiêu khích, gây rối hoặc đồng thời
thực hiện hành vi phạm tội; hành vi và phẩm chất nhân cách của nạn nhân trong
nhiều trường hợp là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của tình huống phạm tội; trong
những trường hợp đó, các hành vi của nạn nhân đã trở thành một trong những
nguyên nhân và điều kiện của tội phạm CYGTT. Điều này cần phải xem xét trong
công tác điều tra, xét xử và đặc biệt là trong công tác phòng ngừa nhằm loại trừ yếu
tố tạo nên những tình huống dẫn đến các hành vi phạm tội.
52
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở tình hình Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019, ở chương 2 của luận
văn, tác giả đã tập trung phân tích những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam từ năm 2015 đến năm 2019, bao gồm: Nguyên nhân từ các yếu tố tiêu cực
thuộc môi trường sống như môi trường tự nhiên - địa lí, môi trường xã hội; các hiện
tượng tiêu cực thuộc về chủ thể của tội phạm; tình huống phạm tội và yếu tố nạn
nhân trong vụ phạm tội. Trong đó tác giả đã tập trung chú ý nghiên cứu các nguyên
nhân thuộc về đó là những hạn chế trong công tác quản lí ANTT, yếu kém trong
công tác giáo dục, tuyên truyền và phổ biến pháp luật; từ những tồn tại, thiếu sót
của các cơ quan tiến hành tố tụng, đây là cơ sở quan trọng để xây dựng các giải
pháp phòng ngừa tội CYGTT có hiệu quả và nhằm hạn chế, loại bỏ các yếu tố tiêu
cực làm phát sinh tội phạm đạt kết quả tốt trong thời gian tới.
53
CHƯƠNG 3
HỆ THỐNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TỘI CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI
KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Dự báo tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
3.1.1. Dự báo trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Nam
Trong những năm tới, cùng với xu thế phát triển chung của tình hình kinh tế
xã hội trên cả nước, Quảng Nam tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế theo hướng thu
hút các nguồn đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm
tạo ra công ăn việc làm cho người lao động; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, kết hợp với phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội. Từ đó, bộ mặt kinh tế sẽ đa dạng hơn, cạnh tranh kinh tế trở nên quyết
liệt hơn, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, đời sống kinh tế của nhân dân sẽ
được cải thiện đáng kể, trình độ nhận thức pháp luật của người dân được nâng lên.
Tuy nhiên, kinh tế của tỉnh trong những những năm gần đây phát triển chậm lại; tỉ
lệ đóng ngân sách của ngành công nghiệp giảm; dịch bệnh tả lợn châu phi ảnh
hưởng lớn đến ngành chăn nuôi, dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng lớn đến kinh tế,
ngành du lịch mũi nhọn; song song đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề xã hội tiêu cực
ngày càng diễn biến phức tạp, từ sự tác động của mặt trái nảy sinh từ nền kinh tế thị
trường, tình trạng một số thanh thiếu niên thất nghiệp, bỏ học, đua đòi ăn chơi, giải
quyết mâu thuẫn bằng bạo lực có chiều hướng gia tăng, tình trạng không có việc
làm cho người dân ở tuổi lao động vẫn còn là vấn đề khó giải quyết; các tệ nạn xã
hội như mại dâm, ma túy, cờ bạc sẽ còn diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, văn hóa
pháp lí và ý thức pháp luật của người dân vẫn còn hạn chế, có những đối tượng xem
thường pháp luật, xem nhẹ quyền sức khỏe của người khác. Đặc biệt chú ý là đã có
và đang xuất hiện nhiều băng, nhóm tụ tập gây mâu thuẫn để đánh nhau, gây hoang
mang lo lắng trong nhân dân, ảnh hưởng đến sự ổn định trật tự xã hội, đây là
54
nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của các loại tội phạm hình sự nói chung
và tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng vẫn
còn tồn tại là vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
3.1.2. Dự báo về tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác
Qua phân tích làm rõ tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019 và trên cơ
sở những nguyên nhân và điều kiện đã phân tích cho thấy THTP này sẽ vẫn chiếm tỉ
lệ cao trong cơ cấu chung; có mức độ tăng giảm khác nhau, động thái phức tạp và
sẽ có chiều hướng tăng số bị cáo phạm tội;
Tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ thể hiện
ngày càng nguy hiểm với tính chất, ngày càng táo bạo, liều lĩnh, quyết liệt hơn, gây
ra hậu quả nghiêm trọng; có sự cấu kết của các đối tượng thành băng, ổ, nhóm; thủ
đoạn thực hiện tội phạm và che dấu tội phạm sẽ có sự biến đổi, được thực hiện tinh
vi xảo quyệt hơn và che giấu tội phạm; tỉ lệ các vụ án có sử dụng công cụ, phương
tiện nguy hiểm sẽ ngày càng phổ biến khi lên kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội;
Tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác diễn ra ở
tất cả các đơn vị hành chính, tập trung tại những trung tâm đô thị, khu công nghiệp,
địa bàn dân cư đông đúc như thành phố, thị xã (Tam Kỳ, Hội An, Điện Bàn) và các
địa bàn giáp ranh, địa bàn có nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện (Thăng Bình);
Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội nhiều nhất vẫn là nam giới, tuy nhiên
với đặc trưng là tỉnh có nhiều khu dịch thu hút nhiều khách nước ngoài, có nhiều
dân tộc, có đường biên giới giáp với nước Lào, vì vậy việc phòng ngừa đối với
người dân tộc thiểu số, người nước ngoài cần phải được hoạch định trong thời gian
tới. Thành phần tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
cũng sẽ đa dạng và phức tạp hơn gồm các đối tượng không có việc làm ổn định,
nhân dân lao động, học sinh, có tiền án, tiền sự. Độ tuổi người phạm tội chủ yếu
nằm trong khoảng từ 35 tuổi trở lên cho thấy họ không có việc làm ổn định, thu
nhập bấp bênh, nhu cầu cá nhân sai lệch ngày càng tăng nên dễ dàng phạm tội,
55
trong thời gian tới độ tuổi phạm tội có xu hướng trẻ hóa “nguồn nhân lực” phạm tội,
người phạm tội từ 18 - 30 tuổi vẫn chiếm tỉ lệ ngày càng cao, đặc biệt tỉ lệ người
chưa thành niên phạm tội tăng lên. Trình độ học vấn của đối tượng phạm tội sẽ ngày
càng được nâng cao, trong thời gian đến cần chủ động phòng ngừa các đối tượng có
trình độ học vấn cao nhưng chủ mưu phạm tội để phục vụ những nhu cầu, lợi ích cá
nhân.
Tình hình tội phạm ẩn của tội này trên địa bàn tỉnh vẫn sẽ ở mức cao, điều
này cho thấy còn tồn tại các hành vi phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh không bị trừng phạt, lặp lại hành vi phạm tội,
đối tượng nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật hoặc trừng phạt không kịp thời đòi hỏi cơ
quan chức năng phải có giải pháp hạn chế trong thời gian tới.
3.1.3. Dự báo về nguyên nhân và điều kiện của tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác
Sự xâm nhập của những loại phim ảnh bạo lực, sự phát triển của các loại tệ
nạn xã hội sẽ tác động và thu hút nhiều người tham gia nhất là tầng lớp thanh thiếu
niên; đó sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản làm phát sinh, phát triển tội
phạm hình sự nói chung và tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác nói riêng.
Thời gian qua, tuy các cơ quan chức năng đã thực hiện nhiều hình thức, biện
pháp tuyên truyền, phát động phong trào quần chúng kịp thời nâng cao cảnh giác
đấu tranh chống tội phạm, giải quyết những mâu thuẫn tại cộng đồng nhưng thực tế
cho thấy nhiều vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra
là do người dân không giải quyết được những mâu thuẫn. Một bộ phận dân cư trình
độ văn hóa, ý thức pháp luật còn thấp kém sẽ làm xã hội phát sinh nhiều mâu thuẫn,
tiêu cực, xung đột trong lối sống, trong làm ăn, trong tranh chấp về tài sản, đất đai
v.v. cho nên đây sẽ tiếp tục là nguyên nhân, điều kiện làm tăng thêm số vụ án
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp.
Mặt khác, với sự diễn biến phức tạp của tình hình xã hội nên công tác quản lí
56
xã hội, quản lí con người, quản lí văn hóa trong thời gian tới tuy được cải thiện một
bước nhưng sẽ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả sẽ không cao. Thực tế trong thời
gian qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều nổ lực trong công tác đấu tranh
phòng, chống loại tội phạm này, nhưng hiệu quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế, tỉ
lệ án được điều tra làm rõ chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Hơn nữa, căn cứ Bộ luật TTHS
năm 2015 đang đòi hỏi nhiều vấn đề phải hoàn thiện trong tổ chức hoạt động điều
tra, xét xử mà trước nhất là yếu tố con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
công tác, v.v.; đây là vấn đề không thể hoàn thiện được ngay trong thời gian ngắn.
Từ những dự báo trên cho thấy, tình hình CYGTT trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong thời gian đến còn có những tình hình phức tạp về số lượng và tính chất
vụ án cũng như người phạm tội. Vì vậy, cần phải tìm ra các biện pháp phòng ngừa
có hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của tỉnh nhằm từng bước ngăn
chặn và đẩy lùi loại tội phạm này, ổn định tình hình ANTT trên địa bàn.
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Lí luận tội phạm học hiện hành ở nước ta về phòng ngừa tội phạm cho phép
nhận thức rằng, phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là tổng thể các biện pháp (cơ bản và phái sinh)
do các cơ quan, tổ chức và mọi công dân ở tỉnh Quảng Nam tiến hành dưới sự lãnh
đạo của tỉnh ủy nhằm ngăn chặn và tiến tới đầy lùi loại tội phạm này.
Như vậy, hệ thống phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam luôn có hai bộ phận: Một bộ phận gọi
là các biện pháp ngăn chặn tội phạm, được thiết kế trên cơ sở của tình hình tội phạm
(tiềm năng) được xác định trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt được ở chương 1 và
một bộ phận khác là các biện pháp đẩy lùi tội phạm, được thiết lập trên cơ sở
nguyên nhân của tình hình tội phạm đã được làm rõ ở chương 2. Nói cụ thể hơn, các
biện pháp ngăn chặn tội phạm là những biện pháp phái sinh (từ tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam), phản ứng đối với quá trình xuất tâm của hành trình phạm tội được nghiên
57
cứu, còn các biện pháp đẩy lùi tội phạm là những biện pháp cơ bản, phản ứng đối
với quá trình nhập tâm của hành trình này.
3.2.1. Nhóm biện pháp ngăn chặn tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác
Với quan niệm rằng, ngăn chặn hành vi phạm tội phải dựa vào phương thức
thực hiện tội phạm (Modus-operandi), cái vẫn thường được hiểu có ba bước: Chuẩn
bị phạm tội, thực hiện tội phạm và che giấu hành vi (xóa dấu vết). Tuy vậy, việc
ngăn chặn ở đây (không phải là các biện pháp ngăn chặn được áp dụng theo quy
định của Bộ luật TTHS) chỉ đặt trọng tâm vào hai bước đầu - bước chuẩn bị phạm
tội (tức là biện pháp đẩy lùi những điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị phạm tội)
và bước thực hiện tội phạm với ba mục đích cụ thể là: Ngăn chặn không cho tội
phạm xảy ra; ngăn chặn không cho tội phạm được thực hiện đến cùng và ngăn chặn
không cho tái phạm.
3.2.1.1. Những biện pháp ngăn chặn tội phạm tiềm năng đối với tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội phạm tiềm năng ở đây bao hàm những hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác chưa xảy ra, nhưng có khả năng xảy ra, biện pháp này
tác động đến các đối tượng là người phạm tội tiềm năng và những nạn nhân tiềm
năng của tội phạm. Vì thế tội phạm tiềm năng rất cần được ngăn chặn; những biện
pháp ngăn chặn ở đây bao gồm:
a. Nhóm biện pháp liên quan đến những hoàn cảnh có khả năng phạm tội cao
Các cơ quan tư pháp, nòng cốt là lực lượng CAND, các phòng nghiệp vụ trực
thuộc, phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể và nhân dân đẩy mạnh công tác phát
động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc; tiếp tục tham mưu tỉnh ủy, UBND
tỉnh thực hiện đề án “Đổi mới nâng cao hiểu quả, chất lượng phong trào toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia tố giác
tội phạm và giúp đỡ cơ quan chức năng đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự và
các hành vi vi phạm pháp luật về CYGTT, gây rối trật tự công cộng;
Lực lượng CAND tăng cường kiểm tra, quản lí cư trú, quản lí vũ khí, vật liệu
58
nổ, công cụ hỗ trợ, không để các đối tượng sử dụng vào hoạt động phạm tội và vi
phạm pháp luật. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lí địa bàn, nắm hộ, nắm người
và giải quyết tình hình ANTT tại địa bàn cơ sở. Phối hợp với mặt trận Tổ quốc và
các ngành, đoàn thể tổ chức, xây dựng, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến ở địa
bàn dân cư, trong cơ quan doanh nghiệp trường học với các tên gọi khác nhau như
khối phố tự quản, tổ dân phòng, câu lạc bộ tự quản về ANTT; tiếp tục duy trì, hoạt
động mô hình phòng chống tội phạm hiệu quả, được Bộ Công an đánh giá cao như:
“Đội dân phòng”, “Tiếng loa an ninh” ở xã Bình Đào, huyện Thăng Bình, “Tiếng
kẻng canh phòng”, “Dòng tộc tự quản”, “Camera giám sát an ninh” ở nhiều địa
phương như thành phố Tam Kỳ, Hội An, các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi
Thành, diễn đàn “Công an lắng nghe ý kiến nhân dân" ở huyện Tiên Phước, v.v..
Gia đình, nhà trường, các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội phát huy vai trò
của trong công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và quản lí học sinh, sinh viên,
thanh thiếu niên; sớm phát hiện, ngăn chặn các hành vi bạo lực, đánh nhau gây
thương tích. Chủ động phối hợp với ngành tư pháp nâng cao hiệu quả hoạt động các
tổ hòa giải tại cơ sở trong việc tiếp cận, giải quyết các mâu thuẫn phát sinh giữa các
cá nhân, không để mâu thuẫn kéo dài, âm ỉ, dẫn đến nảy sinh các hành vi gây
thương tích.
b. Nhóm biện pháp liên quan đến những người phạm tội tiềm năng
Lực lượng công an chuyên trách triển khai thực hiện tốt công tác nghiệp vụ
cơ bản, đặc biệt là công tác quản lí các đối tượng từng là chủ mưu, cầm đầu trong
các băng nhóm tội phạm hình sự và quản lí các đối tượng có tiền án, tiền sự về các
tội CYGTT, gây rối trật tự công cộng, hoặc đối tượng có biểu hiện nghi vấn như
thường xuyên tụ tập, có quan hệ với đối tượng trong diện quản lí nghiệp vụ để chủ
động có biện pháp quản lí, phòng ngừa, kịp thời phát hiện, triệt xóa không để tồn tại
các băng nhóm bảo kê, đòi nợ thuê.
Rà soát, lập hồ sơ đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở
cai nghiện bắt buộc và áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với
các đối tượng có đủ điều kiện nhằm phòng ngừa hành vi vi phạm trong nhóm đối
59
tượng này.
Tập trung điều tra, làm rõ, truy tố, xét xử nghiêm các vụ CYGTT, các vụ
việc liên quan đến các hành vi đánh nhau gây thương tích, gây rối trật tự công cộng
đã phát hiện, góp phần giáo dục, phòng ngừa chung.
Cấp ủy, chính quyền, lực lượng công an tại các địa bàn giáp ranh thường
xuyên phối hợp trong việc theo dõi, quản lí các đối tượng nổi, đối tượng lưu động
có tiền án, tiền sự về các hành vi đánh nhau, gây thương tích, các băng ổ nhóm có
dấu hiệu hoạt động bảo kê, đòi nợ thuê núp dưới hình thức cho vay tín dụng, hoạt
động ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ huy các cấp của các cơ quan
CAND, VKSND, TAND trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và các
hành vi đánh nhau gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, không để xảy ra tình
trạng cán bộ thực hiện qua loa, chiếu lệ, không cụ thể, thiếu quyết liệt khi có tin báo
tố giác tội phạm hoặc dung túng,“bảo kê” cho tội phạm và các hành vi vi phạm
pháp luật.
c. Nhóm biện pháp liên quan đến những nạn nhân tiềm năng
Các ngành, các cấp quản lí nhà nước trong lĩnh vực văn hóa của tỉnh Quảng
Nam cần xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh, đề cao các giá trị truyền
thống của dân tộc, làm cho con người phát triển toàn diện về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống; hạn chế sự xuống cấp về đạo đức, thói quen lối sống không tốt của
một bộ phận giới trẻ.
Tuyên truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao trình độ học vấn cho nhân
dân, hình thành phong cách ứng xử văn minh, thái độ kìm chế, ôn hòa; nâng cao
cảnh giác của người dân, nhất là đối tượng có khả năng nạn nhân hóa cao, mỗi cá
nhân biết tự tăng cường khả năng bảo vệ của mình.
Nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở trong việc theo dõi tình hình các hộ
gia đình trong phạm vi quản lí; kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, xích mích nhỏ
trong gia đình; phát động phong trào toàn dân đoàn kết, tương trợ trong làng xóm;
phổ biến nếp sống văn hóa ở khu dân cư, chung thủy một vợ, một chồng. Khuyến
60
cáo người dân nên hạn chế uống rượu, tụ tập ở những nơi như quán karaoke, quán
rượu, bia; hạn chế tiếp xúc với các đối tượng có tiền án, tiền sự về tội CYGTT hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
3.2.1.2. Những biện pháp ngăn chặn không cho tội phạm thực hiện đến cùng
Nghiên cứu cơ cấu của THTP xét theo phương thức thực hiện tội phạm
(Modus- operandi) thì thấy rằng có những tội phạm thực hiện một cách bộc phát,
tức là chỉ có bước thực hiện tội phạm, theo nghiên cứu tại chương 1 cho thấy các vụ
án xảy ra chỉ có bước thực hiện tội phạm như vậy là do mâu thuẫn bộc phát tức thời,
nếu có giai đoạn chuẩn bị thì thường diễn ra trong thời gian ngắn, nhiều trường hợp
đối tượng mang sẵn công cụ gây án trong người hoặc tìm ở nơi gần đó. Nhưng lại
có những vụ án phát sinh từ mâu thuẫn có trước, tội phạm được thực hiện trải qua
cả ba bước, gồm chuẩn bị, thực hiện và che dấu hành vi phạm tội; đối với phương
thức phạm tội ba bước như vậy rất cần đến những biện pháp ngăn chặn, những biện
pháp không chỉ cần thiết mà hoàn toàn có thể thực hiện được; đó phải là những biện
pháp ngăn chặn ở cả bước chuẩn bị (công cụ gây án) và đặc biệt là ở bước thực hiện
tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Ngăn chặn tội phạm chuẩn bị, lên kế hoạch hóa hành vi
Các cơ quan chức năng của tỉnh bằng những biện pháp này để phát hiện tác
động vào hành vi chuẩn bị, lên kế hoạch thực hiện hành vi phạm tội khi nó chưa
diễn ra trên thực tế để nó không xảy ra và hạn chế thấp nhất hậu quả cho xã hội nếu
xảy ra. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra một số biện pháp cụ thể như:
Lực lượng CAND ở cơ sở tăng cường công tác tuần tra kiểm soát, đảm bảo
ANTT, nhất là vào ban đêm, xử lí vi phạm nồng độ cồn; kịp thời phát hiện, ngăn
chặn, xử lí các nhóm thanh thiếu niên tụ tập quá giờ quy định hoặc có dấu hiệu
chuẩn bị vũ khí, hung khí nguy hiểm, công cụ hỗ trợ, v.v. để giải quyết mâu thuẫn.
Các lực lượng chức năng tăng cường kiểm tra, quản lí cư trú, quản lí vũ khí,
vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, không để các đối tượng sử dụng vào hoạt động phạm tội
và vi phạm pháp luật. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lí địa bàn, nắm hộ, nắm
người và giải quyết tình hình ANTT tại địa bàn cơ sở.
61
- Ngăn chặn tội phạm đang hiện thực hóa hành vi
Đối với một hành vi phạm tội đang diễn ra, các cơ quan chức năng cần có
biện pháp để ngăn chặn không cho nó tiếp tục diễn ra, hạn chế thấp nhất hậu quả do
tội phạm gây ra, là sự phản ứng tức thì của xã hội đối với hành vi phạm tội đang
diễn ra, tác giả đưa ra một số biện pháp như:
Sau khi nhận được tin báo, tố giác tội phạm của quần chúng nhân dân, lực
lượng chức năng mà nòng cốt là lực lượng CAND cần có phương án, quy trình công
tác nhanh chóng có mặt tại hiện trường, bằng mọi biện pháp cùng cán bộ cơ sở, lực
lượng quần chúng ngăn chặn hành vi vi phạm, tổ chức bắt giữ đối tượng, tước vũ
khí, thu hồi giấy tờ, tang vật của người vi phạm, tổ chức cấp cứu người bị thương.
Nếu vụ việc đơn giản thì giải quyết tại chỗ bằng hình thức hòa giải, cam kết không
vi phạm; nếu vụ việc nghiêm trọng có đông người tham gia hoặc gây thương tích
nặng phải điều tra xử lí theo thủ tục TTHS. Nhanh chóng lập lại tình hình trật tự nơi
xảy ra, tuyệt đối không để các đối tượng quá khích hoặc các phần tử chống đối lợi
dụng tình hình để gây rối ANTT tại địa bàn. Chủ động huy động lực lượng quần
chúng nhân dân tham gia việc giải tán đám đông; phát hiện những đối tượng cầm
đầu để kịp thời ngăn chặn các hành động quá khích hay các hành vi manh động
khác.
- Ngăn chặn những trường hợp lặp lại của hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Biện pháp này áp dụng đối với những đối tượng thực hiện hành vi CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhiều lần mà chưa bị phát hiện, chưa
bị xử lí; đây là những biện pháp đấu tranh với tội phạm ẩn khách quan trong tình
hình tội phạm. Tác giả đưa ra một số biện pháp:
Cơ quan công an cần quan tâm nhiều đến công tác vận động quần chúng
tham gia tố giác tội phạm, tuyên truyền xóa đi tâm lí sợ trả thù, lo ngại, sợ dính líu
đến cơ quan công an của người làm chứng, nạn nhân để họ cung cấp khách quan,
đầy đủ những tình tiết mà họ biết khi có vụ CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác xảy ra. Cùng với đó, cũng phải có những biện pháp để bảo vệ nạn
62
nhân, người làm chứng để họ yên tâm khai báo cung cấp thông tin cho cơ quan công
an.
Thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng công an xã, bảo vệ dân phố, dân
phòng, bảo vệ cơ quan doanh nghiệp, nhà trường và các tổ chức quần chúng bảo vệ
ANTT vững mạnh, bám sát cơ sở để nắm được thông tin khi có vụ án CYGTT xảy
ra trên địa bàn; không để tình trạng đến khi có phản ánh của báo chí và ý kiến chỉ
đạo thì mới biết; mặt trận Tổ quốc, các ngành, đoàn thể, cơ quan doanh nghiệp,
trường học làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để bản thân nạn nhân và gia
đình họ tố giác tội phạm khi quyền và nghĩa vụ của mình bị xâm phạm.
Cơ quan điều tra, TAND, VKSND đưa các vụ án CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác đã phát hiện ra xét xử đứng người, đúng tội, nhất là vụ
án lớn, gây hoang mang trong dư luận giúp nhân dân thấy được khả năng bảo vệ
nạn nhân, trừng trị người phạm tội của pháp luật, hậu quả tác hại của hành vi phạm
tội gây ra cho xã hội.
3.2.1.3. Nhóm biện pháp ngăn chặn tái phạm
Đây là những biện pháp thuộc phạm trù “giải quyết vụ án hình sự”, song có
giá trị phòng ngừa rất cao. Các hoạt động của cơ quan tư pháp hình sự không chỉ tác
động trực tiếp đối với người phạm tội, các thành viên trong gia đình, bạn bè họ, mà
còn tác động đến tất cả mọi người, những ai tiếp nhận được những thông tin về hoạt
động đó. [27, tr.230]
Nhóm giải pháp nhằm hạn chế, đẩy lùi các đặc điểm nhân thân tiêu cực có
vai trò thúc đẩy hành vi tái phạm tội ở những người đã từng một lần thực hiện hành
vi phạm tội, đã thực hiện hình phạt song cần ngăn chặn để tránh tái phạm. Đồng
thời thực hiện tốt hai giai đoạn.
a. Giai đoạn thi hành án
Phân loại người phạm tội theo các đặc điểm nhân thân, áp dụng các biện
pháp cải tạo, giáo dục cho phù hợp, hiệu quả với từng nhóm đặc điểm nhân thân,
đổi mới tư duy hành pháp xét xử áp dụng hình phạt, cải cách tư pháp.
Đổi mới cơ bản đào tạo nghề trong các trại giam theo hướng đào tạo cho
63
phạm nhân những ngành nghề vừa phù hợp với năng lực, sở thích, vừa phù hợp với
nhu cầu xã hội, của địa phương nơi sau khi chấp hành xong án họ dự định làm ăn
sinh sống.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thi hành án hình sự, thay đổi
tư tưởng, quan điểm, tư duy của cán bộ quản giáo, coi trọng quyền cơ bản của con
người, đảm bảo đủ về số lượng, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, trang bị kỹ năng, kiến thức tâm lí lứa tuổi cho cán bộ, chiến sĩ làm công
tác thi hành án hình sự.
Đổi mới chính sách thi hành án theo hướng cho phép các doanh nghiệp đầu
tư vào các trại giam, vốn có lợi thế về quỹ đất, nguồn nhân lực; thay đổi quy định,
chế độ đối với người chấp hành án, có lương, thu nhập; cho phép phạm nhân được
học tập theo các chương trình đào tạo.
b. Giai đoạn tái hòa nhập
UBND các thành phố, thị xã, huyện; xã, phường, thị trấn bằng các hình thức
tuyên truyền kêu gọi mỗi cá nhân và toàn xã hội cần đổi mới tư duy, quan niệm xóa
bỏ thái độ, hành vi định kiến, kì thị với người chấp hành xong hình phạt tù và có
chính sách quan tâm tạo điều kiện cảm hóa, giáo dục, giúp đỡ họ ổn định cuộc sống,
góp phần phòng ngừa, chống tái phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật khác.
Xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa gia đình, chính quyền, trại giam trong
việc hỗ trợ tạo việc làm cho người chấp hành xong hình phạt được thiết lập ngay từ
khi bắt đầu cải tạo người chấp hành án.
Gia đình và chính quyền địa phương cần phải thường xuyên biện pháp quản
lí, động viên giúp đỡ họ xóa bỏ mặc cảm, tích cực học tập, lao động, tham gia các
hoạt động xã hội tại nơi sinh sống và phải luôn chấp hành đúng chính sách, pháp
luật của nhà nước.
3.2.2. Những biện pháp đẩy lùi tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Nếu những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp phái sinh, thì những
biện pháp đẩy lùi tội phạm là những biện pháp cơ bản, tác động vào quá trình nhập
64
tâm, tức khâu động cơ hóa hành vi. Vì thế, nó phải là một hệ thống các biện pháp
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người mà cụ thể là những biện
pháp kinh tế, giáo dục, văn hóa, chính trị, pháp luật, quản lí và tổ chức. Cụ thể, các
biện pháp đẩy lùi tội phạm gồm hai loại, một là những biện pháp về mặt nội dung,
gồm: 1. Biện pháp về mặt chính trị; 2. Biện pháp về mặt dân sự; 3. Biện pháp về
mặt kinh tế; 4. Biện pháp về mặt văn hóa - giáo dục; 5. Biện pháp về mặt xã hội và
hai là những biện pháp về mặt hình thức, tức là bảo đảm cho việc thực hiện các biện
pháp về mặt nội dung. Đó là: 6. Biện pháp về mặt pháp luật; 7. Biện pháp về mặt tổ
chức-quản lí.
3.2.2.1. Biện pháp về chính trị - tư tưởng
Tiếp tục chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ
thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị; chương trình hành động và kế hoạch thực hiện của
tỉnh ủy, UBND, công an tỉnh về triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ
Chính trị.
Chủ động và thường xuyên mở các đợt cao điểm tấn công trấn áp mạnh tội
phạm, nhất là vào các thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước,
của tỉnh và các ngày lễ lớn của dân tộc.
Tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng lực của các cơ quan chủ trì triển khai thực
hiện các đề án của chương trình, phát huy nội lực, huy động các nguồn lực, thu hút
sự tham gia của các cấp, các ngành, mặt trận, đoàn thể và toàn dân tham gia công
tác phòng, chống tội phạm. Tăng cường lực lượng chuyên trách làm công tác
phòng, chống tội phạm có nghiệp vụ, có chất lượng về địa bàn cơ sở.
Duy trì thường xuyên hội nghị phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật
với các ban, ngành, đoàn thể, các cơ quan doanh nghiệp trong công tác phòng,
chống tội phạm. Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, đa dạng hoá các hình thức tuyên
truyền pháp luật về hình sự để nâng cao ý thức cảnh giác, tham gia phòng, chống tội
phạm trong nhân dân. Tăng cường và hiệu lực quản lí nhà nước của các cơ quan
đơn vị, các ngành trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương.
Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 09-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng
65
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
trong tình hình mới”; các nghị quyết liên tịch, các quy chế phối hợp giữa lực lượng
CAND với các ngành, đoàn thể trong công tác đảm bảo an ninh quốc gia và giữ gìn
trật tự, an toàn xã hội. Gắn việc thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị của đơn vị, địa phương,
ngành phù hợp với thực tiễn của từng đơn vị, địa phương.
Tiếp tục chỉ đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực
hiện có hiệu quả Đề án “Bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành
xong án phạt tù” trên địa bàn tỉnh, gắn với việc thực hiện các đề án, phương án, kế
hoạch có liên quan trong đảm bảo ANTT.
3.2.2.2. Biện pháp về mặt dân sự
Các sở, ban, ngành, đoàn thể và chính quyền địa phương tăng cường công tác
tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm, đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến các quy định, chế tài của pháp luật đối với hành vi CYGTT, gây rối
trật tự công cộng, Luật Phòng chống tác hại của rượu bia, Luật Hôn nhân và Gia
đình, v.v.; thông qua nhiều hình thức như qua các phương tiện thông tin đại chúng,
qua bản tin “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” của Đài phát thanh -
truyền hình Quảng Nam và công an tỉnh, qua các buổi phát động phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại các địa bàn cơ sở, cơ quan, doanh nghiệp, trường
học. Cấp ủy, chính quyền địa phương củng cố, xây dựng và nhân rộng các mô hình
tự quản về ANTT, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ hòa giải, nhằm kịp thời
giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, không để kéo dài, dẫn đến các
hành vi tự giải quyết mâu thuẫn bằng việc gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe của
người khác, nhất là việc tụ tập, lôi kéo hình thành các nhóm đối tượng để giải quyết
mâu thuẫn, gây mất ANTT tại địa phương.
Chính quyền địa phương chủ động rà soát, lập danh sách các đối tượng hình
sự nổi, các ổ, nhóm tội phạm CYGTT, các đối tượng dễ bị lôi kéo tham gia phạm
tội, vi phạm pháp luật về xâm hại nhân thân để có biện pháp quản lí, phòng ngừa,
răn đe, giáo dục, không để xảy ra trường hợp các đối tượng, ổ nhóm tội phạm đã
66
được lập hồ sơ, theo dõi, quản lí gây ra các vụ việc bảo kê, đánh nhau hoặc gây án
đặc biệt nghiêm trọng; tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, giải tán các điểm tụ
tập, lạm dụng rượu, bia, gây rối, làm mất ANTT trên địa bàn.
Tăng cường công tác lập hồ sơ, đề nghị xét duyệt đưa đối tượng vào cơ sở
giáo dục, trường giáo dưỡng; áp dụng các biện pháp quản lí, giáo dục tại xã,
phường, thị trấn nhằm làm trong sạch địa bàn. Tiến hành củng cố hồ sơ xử lí hành
chính đối với các vụ việc CYGTT chưa đến mức xử lí hình sự để làm cơ sở xử lí
hình sự nếu đối tượng tiếp tục tái phạm. VKSND, TAND đưa ra xét xử án điểm, lưu
động một số vụ điển hình, dư luận quan tâm để giáo dục và phòng ngừa chung.
3.2.2.3. Biện pháp về mặt kinh tế
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả mạnh dạn
đề xuất một số biện pháp sau:
Các cơ quan chức năng của tỉnh cần có các biện pháp giải quyết việc làm và
đào tạo nghề cho những người trong độ tuổi lao động nhằm hạn chế tình trạng thất
nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo như tiếp tục chương
trình hỗ trợ khởi nghiệp, mỗi địa phương một sản phẩm; khôi phục các làng nghề
thủ công truyền thống kết hợp với phát triển du lịch ở các địa phương khác ngoài
Hội An, Điện Bàn, Tam Kỳ; tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyển dụng và sử dụng
lao động của doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động kết nối cung cầu lao động trên thị
trường; tiếp tục triển khai thực hiên tư vấn hỗ trợ, tìm việc làm, học nghề và kỹ
năng làm việc cho người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số; hỗ trợ người
nghèo, gia đình chính sách vay vốn để làm ăn, xây dựng và nhân rộng các mô hình
phát triển kinh tế hiệu quả.
Thường xuyên quan tâm giải quyết việc làm cho các đối tượng mãn hạn tù,
người có tiền án, tiền sự, số đối tượng đưa đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng trở
về địa phương để động viên, giúp đỡ họ sớm tái hòa nhập cộng đồng, làm ăn lương
thiện, trở thành người có ích cho xã hội, tích cực tham gia phòng chống tội phạm
trên địa bàn; thành lập các trung tâm giáo dục, dạy nghề miễn phí; liên minh hợp tác
67
xã của tỉnh tiếp tục đẩy mạnh việc mở các lớp vừa học nghề, vừa học chương trình
phổ thông trung học; liên kết với doanh nghiệp để giới thiệu việc làm, xây dựng quỹ
hỗ trợ vay vốn, thuê mặt bằng làm ăn; được giới thiệu tham gia lực lượng tự quản
giữ gìn ANTT tại địa phương.
UBND tỉnh cấp kinh phí cho các lực lượng làm công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thực hiện công tác tuyên truyền phòng chống tội phạm; kinh phí
thực hiện đề án đổi mới giám định tư pháp để đầu tư mua sắm trang thiết bị, phương
tiện phục vụ công tác giám định; nêu gương, biểu dương, khen thưởng kịp thời tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong tố giác và bắt giữ tội phạm.
3.2.2.4. Biện pháp về mặt văn hóa - giáo dục
Nhóm biện pháp này đặc biệt rất quan trọng đối với phòng ngừa tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, để nâng cao hiệu quả phòng
ngừa tội phạm trong thời gian tới cần có các biện pháp nhằm hạn chế những tác
động tiêu cực từ môi trường văn hóa - giáo dục. Thông qua quá trình nghiên cứu,
tác giả đề xuất một số biện pháp:
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền tiếp tục hướng dẫn thực hiện Nghị quyết hội
nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”,
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng gia đình văn hoá, xây dựng môi
trường sống thật trong sạch gắn với xây dựng nông thôn mới. Đồng thời lãnh đạo
các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội xây dựng nhiều hình thức sinh hoạt, vui chơi
giải trí thường xuyên ở khu dân cư, tích cực vận động thanh, thiếu niên tham gia,
tạo ra lối sống văn hoá lành mạnh; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công
nhân lao động khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế mở. Đặc biệt, cần có nghị quyết,
đề án quan tâm nâng cao trình độ dân trí, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, nâng
cao đạo đức, lối sống, khả năng kìm chế, ý thức tôn trọng quyền con người.
Cơ quan quản lí văn hóa của tỉnh nhân rộng các mô hình hội người cao tuổi,
câu lạc bộ “Gia đình hạnh phúc” để những bậc cha mẹ trao đổi kinh nghiệm, thi đua
nuôi dạy, giáo dục con cái và chăm sóc, xây dựng gia đình hạnh phúc, có nề nếp.
68
Đây là hoạt động phòng ngừa xã hội đối với tội phạm nhất là tội phạm trong lứa
tuổi người chưa thành niên có ý nghĩa lâu bền, đồng thời có tác dụng xây dựng đời
sống văn hóa ở cộng đồng dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Quảng Nam. Phát hiện và xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm như lưu hành văn
hóa phẩm đồi trụy, độc hại, tin giả mạo, trang mạng có thông tin xấu, độc, kích
động bạo lực, xuyên tạc lịch sử. Phải chú trọng xây dựng các điển hình, nhân rộng
điển hình những gương con người tốt, việc tốt; bài trừ tư tưởng và lối sống thỏa
mãn vật chất, coi thường các giá trị văn hóa và thẩm mỹ của một bộ phận người
dân. Chú trọng xây dựng các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa để làm nơi tổ chức các
chương trình sinh hoạt, hội họp, an toàn và hấp dẫn để nhân dân đến tham gia.
Ngành giáo dục của tỉnh thực hiện tốt cải tiến, đổi mới phương pháp giảng
dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chương trình giáo dục; tiến tới phổ cập
trung học phổ thông, đặc biệt là ở huyện miền núi như Tây Giang, Nam Trà My;
tiến tới không còn người trong độ tuổi đi học không đến trường. Đối với học sinh,
nhà trường cần mở các diễn đàn văn hóa thông qua hoạt động ngoại khóa hoặc các
chương trình sinh hoạt cộng đồng để các em có định hướng, để văn hóa thật sự ảnh
hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách, lối sống, tính nhân văn trong ứng xử.
3.2.2.5. Biện pháp về mặt xã hội
Để tăng cường chất lượng hiệu quả công tác vận động quần chúng, huy động
sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường
sống an toàn, lành mạnh, góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, trong thời gian
tới, cần tiếp tục thực hiện tốt các nội dung sau:
UBND tỉnh ban hành các quy định siết chặt trật tự, kỉ cương, chấp hành đúng
pháp luật trên các lĩnh vực quản lí văn hóa, quản lí trật tự đô thị, trật tự công cộng;
cải cách hành chính và văn hóa ứng xử công sở; chế độ trách nhiệm của cán bộ,
công chức trong tiếp xúc với nhân dân. Các quy định này nhằm tạo ra một môi
trường sống, lao động, học tập, sản xuất văn minh, có trách nhiệm, tôn trọng luật
pháp, tôn trọng bộ máy công quyền và mọi người tôn trọng lẫn nhau. Hạn chế
69
những nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn, bức xúc trong xã hội; tăng cường niềm
tin và cách ứng xử, hành động chuẩn mực, bình đẳng.
Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các chủ thể khác có liên
quan tăng cường trách nhiệm quản lí nhà nước trong việc tham mưu, thực hiện chế
độ chính sách, đào tạo nghề và việc làm đối với người tích cực tham gia các hoạt
động hòa giải tại cộng đồng; người tham gia tích cực phát hiện, tố giác, ngăn chặn,
đấu tranh với tội phạm (nhất là chế độ, chính sách đối với những người tham gia các
mô hình phòng chống tội phạm như câu lạc bộ phòng, chống tội phạm…); người
lầm lỗi hoàn lương; người có hoàn cảnh, khó khăn, bất hạnh.
Mặt trận Tổ quốc các cấp và các chủ thể có liên quan xây dựng những bộ
quy tắc ứng xử phù hợp với đời sống văn hóa, tôn giáo, phong tục, tập quán tại địa
phương. Chẳng hạn như hướng dẫn, vận động nhân dân xây dựng các “hương ước”
ở từng địa bàn thôn, xóm, khu phố; xây dựng các quy ước sinh hoạt trong các dòng
họ; xây dựng các chuẩn mực ứng xử, quan hệ giữa đồng bào tôn giáo và người
không theo tôn giáo.
3.2.2.6. Biện pháp về mặt pháp luật
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới, trên cơ sở nghiên cứu những hạn
chế về mặt pháp luật quy định đối với tội danh này và dự báo THTP trong thời gian
tới, tác giả có một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng như sau:
Cần quy định xử lí hình sự đối với những đối tượng phạm tội có hành vi
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng thủ đoạn dùng axít
nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm, tuy không gây thương tích hoặc thương tích
nhẹ dưới 10%, nhưng đây là thủ đoạn đê hèn, thiệt hại rất nghiêm trọng và nguy
hiểm, ảnh hưởng đến đời sống tinh thần và sức khỏe của con người.
Hành vi CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác rất nguy
hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe con người, gây rối trật tự xã hội, làm lo sợ
hoang mang trong nhân dân về trật tự pháp luật; do vậy, cần nghiên cứu hủy bỏ quy
70
định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 155, Bộ luật
TTHS về việc phạm tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
được quy định tại khoản 1, các Điều 134 BLHS. Bởi vì, đây là hành vi thể hiện ý
thức coi thường pháp luật, côn đồ hung hãn, xâm hại đến sức khỏe con người nên
đây là trách nhiệm và nghiệp vụ của nhà nước trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Quy định rõ hơn ở một số điều luật trong Bộ luật TTHS để tạo sự thống nhất
nhận thức trong việc tuân thủ các trình tự TTHS như: Đối với những vụ án CYGTT
nhưng nạn nhân từ chối giám định gây khó khăn cho quá trình điều tra chứng minh
tội phạm của cơ quan điều tra cho nên có thể quy định “bắt buộc giám định” nếu
người bị hại từ chối giám định mà không có lí do chính đáng thì áp dụng biện pháp
áp giải bắt buộc giám định nhằm ngăn chặn tình trạng những trường hợp nạn nhân
từ chối giám định do bị cưỡng ép, mua chuộc, v.v..
3.2.2.7. Biện pháp về mặt tổ chức - quản lí
Trong công tác phòng ngừa THTP nói chung và tội CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác nói riêng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các lực
lượng là một yêu cầu tất yếu góp phần đảm bảo cho hoạt động phòng ngừa được
thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Hệ thống các cơ quan này bao gồm: CAND, TAND,
VKSND, tư pháp; mỗi lực lượng trong hệ thống các cơ quan chuyên trách có những
chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mình trong phòng ngừa tội phạm, qua nghiên cứu,
tác giả có các đề xuất:
- Nâng cao chất lượng trong công tác quản lí đối tượng; công tác tiếp nhận,
kiểm tra tin báo, tố giác tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác; tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội
phạm và quản lí giáo dục đối tượng thuộc diện quản lí của cơ quan công an địa
phương, nhất là những đối tượng thường xuyên tập trung băng nhóm ăn nhậu rồi tổ
chức gây rối, đánh nhau nhưng chưa bị xử lí hình sự.
- Dự báo tình hình đã nêu thì tội phạm này sẽ diễn biến phức tạp hơn, trong
thời gian tới các cơ quan tư pháp cần phải có sự tăng cường chất lượng đội ngũ cán
71
bộ ở các cấp nhất là ở cấp huyện, cấp xã; thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng cho cán
bộ về trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, tinh thần tấn công tội phạm và rèn
luyện phẩm chất đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ.
- Các cấp lãnh đạo cần liên tục, thường xuyên cập nhật các kiến thức pháp
luật, các văn bản luật và các hướng dẫn của ngành cho cán bộ để phục vụ cho công
tác phòng ngừa và điều tra tội phạm. Đồng thời quan tâm nhiều hơn nữa về chế độ,
chính sách và đảm bảo điều kiện làm việc tốt để lực lượng cán bộ phát huy tính
sáng tạo, nhạy bén trong công việc, hạn chế tiêu cực.
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3, tác giả đã đưa ra cơ sở dự báo, dự báo tình hình và đề xuất
hệ thống toàn diện các giải pháp phòng ngừa tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới, bao gồm: Các
giải pháp ngăn chặn tội phạm khi chưa xảy ra, đang xảy ra và ngăn chặn không cho
tái phạm; các giải pháp đẩy lùi tội phạm, có các nhóm biện pháp về mặt chính trị;
biện pháp về mặt dân sự; biện pháp về mặt kinh tế; biện pháp về mặt văn hóa - giáo
dục; biện pháp về mặt xã hội; biện pháp về mặt pháp luật; biện pháp về mặt tổ chức
- quản lí, trong đó tập trung đưa ra các biện pháp về trách nhiệm của các chủ thể
trong công tác phòng ngừa tội phạm; nâng cao khả năng kiềm chế, ý thức tôn trọng
quyền con người. Hy vọng các giải pháp trên nếu được các cơ quan chức năng của
tỉnh Quảng Nam nghiên cứu áp dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa THTP nói chung và tình hình tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh.
72
KẾT LUẬN
Tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là loại tội
phạm phổ biến và có tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng gia tăng trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. Trong 05 năm (2015 - 2019), ngành TAND tỉnh Quảng Nam đã
xét xử HSST 447 vụ, 692 bị cáo phạm tội, chiếm 12,1% số vụ; 11,3% số bị cáo
phạm tội và chiếm 98,2% số vụ, 98,4% số bị cáo trong nhóm các tội về xâm hại sức
khỏe của con người.
Phòng ngừa THTP nói chung và tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; các cơ
quan, mặt trận Tổ quốc, ban, ngành, đoàn thể, trong đó lực lượng CAND là lực
lượng trực tiếp đấu tranh, giữ vai trò nòng cốt trong công tác phòng ngừa, ngăn
chặn, phát hiện, chứng minh tội phạm.
Tuy nhiên, do tác động của nhiều yếu tố tiêu cực với nhiều nguyên nhân nên
dự báo THTP nói chung và THTP này thời gian đến sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp.
Trong khi đó, những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh, hình thành tội phạm
chưa được nghiên cứu nên việc đưa ra hệ thống giải pháp phòng ngừa để nâng cao
hiệu quả là hết sức khó khăn, phức tạp.
Để khắc phục tình trạng trên, đề tài nghiên cứu “Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình,
nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa” dựa trên cơ sở lí luận về tội phạm học và từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam, tác giả đã làm rõ một số nội dung: Từ tình hình tội
CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tác giả đã nêu những hạn
chế, thiếu sót, khó khăn, nguyên nhân của những hạn chế của tình hình tội CYGTT
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bản tỉnh. Trên cơ sở đó, đề
tài đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp giúp cho các cơ quan chức năng có thể
vận dụng, góp phần hoàn thiện hoạt động phòng ngừa và nâng cao hiệu quả công
tác phòng ngừa loại tội phạm này trong giai đoạn hiện nay, đó là: (1) giải pháp ngăn
chặn tội phạm và (2) giải pháp đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội.
73
Công tác phòng ngừa phải được toàn xã hội, trực tiếp là chính quyền địa
phương quan tâm, đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục trực tiếp cho từng hộ gia
đình, từng cá nhân đối tượng để họ nhận thức được hành vi xử sự của mình trong xã
hội, có ý thức pháp luật, khả năng kiềm chế và tôn trọng quyền con người và cố
gắng vượt qua những khó khăn của cuộc sống.
Đối với công tác điều tra tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác thì cơ quan điều tra cần phải phối hợp nhanh chóng kịp thời với công an
cơ sở và những quần chúng tốt để phát hiện tội phạm và thu thập đầy đủ chứng cứ
để chứng minh sự thật khách quan của vụ án đúng quy định của pháp luật, giải
quyết vụ án được nhanh chóng, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội. Hình phạt
được áp dụng đối với các bị cáo được dư luận xã hội đánh giá là vừa nghiêm khắc,
vừa nhân văn, có tác dụng nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng và nhà nước, các phương pháp khoa học cụ thể cũng như những tri
thức cơ bản của chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm được trang bị,
thực trạng công tác phòng ngừa và điều tra, xử lí tội phạm CYGTT hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để làm sáng tỏ
những nội dung nghiên cứu.
Tác giả luận văn hy vọng sau khi được bảo vệ và nghiệm thu, công trình
nghiên cứu của mình có thể đóng góp một phần từng bước phòng ngừa, ngăn chặn
và đẩy lùi tội phạm cố ý xâm hại sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong thời gian đến; đồng thời bổ sung thêm tài liệu giảng dạy, học tập trong
các trường đào tạo chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới chỉ bước đầu, năng lực bản thân còn hạn
chế, mới bước đầu có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học. Vì vậy, nội dung luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ có những vấn đề, nội dung chưa giải
quyết triệt để, sâu sắc, khoa học, còn mang tính học thuật. Rất mong sự đóng góp
74
của thầy hướng dẫn, hội đồng và các thầy cô học viện để luận văn này được hoàn
thiện hơn./.
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011) Chỉ thị số 09/CT/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trong
tình hình mới, ban hành ngày 1/12/2011, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo 138/CP (2014) Mô hình phòng, chống tội phạm tại cơ sở, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
3. Bộ Công an (2013) Chỉ thị số 02/CT-BCA-C41 về việc tập trung chấn chỉnh,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiệp vụ cơ bản của lực lượng cảnh
sát nhân dân trong tình hình mới, ban hành ngày 01/4/2013, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005) Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, ban hành ngày 02/6/2005, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2010) Chỉ thị số 48/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ban hành ngày
22/10/2010, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2014) Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, , ban hành ngày 22/10/2010, Hà Nội.
7. Chính phủ (2016) Quyết định 623/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia
phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025, định hướng đến năm 2030, ban
hành ngày 14/4/2016, Hà Nội.
8. Công an tỉnh Quảng Nam (2015 - 2019) Báo cáo tổng kết công tác năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019.
9. Công an tỉnh Quảng Nam (2015 - 2019) số liệu thống kê án CYGTT hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
10. Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam (2015 - 2019) Niêm giám thống kê năm 2015,
2016, 2017, 2018, 2019.
11. Quốc hội (2015) Bộ luật tố tụng hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số
100/2015/QH13, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.
13. Quốc hội (2015) Luật tổ chức điều tra hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Thủ tướng Chính phủ (2011) Quyết định 282/QĐ-TTg về việc ban hành Kế
hoạch thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng
cường sự lãnh của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới, ban hành ngày 24/02/2011, Hà Nội.
15. Nguyễn Đức Dũng (2019) “Xây dựng và nhân rộng mô hình phòng chống tội
phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”, Chuyên đề An ninh – xã hội, Tạp chí
Công an nhân dân số 10, tr. 44-46.
16. Phạm Văn Tỉnh (1996) “Cơ chế hành vi phạm tội – cơ sở để xác định nguyên
nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí kiểm sát số 03, tr. 18-21.
17. Phạm Văn Tỉnh (2000) Các phương pháp nghiên cứu tình hình tội phạm, một số
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Phạm Văn Tỉnh (2007) “Vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm và nhu cầu nâng
cao trình độ tội phạm học ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12, tr.
69-73.
19. Phạm Văn Tỉnh (2007) “Khái niệm tội phạm và tình hình tội phạm dưới góc độ
tội phạm học”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6, tr. 73-79.
20. Phạm Văn Tỉnh (2008) “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ở
nước ta hiện nay – mô hình lí luận”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06, tr.
79-84.
21. Phạm Văn Tỉnh (2009) “Tội phạm và phòng ngừa tội phạm”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 4, tr. 57- 64.
22. Phạm Văn Tỉnh, Đào Bá Sơn (2010) Đấu tranh với tình hình tội phạm chống
người thi hành công vụ ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Phạm Văn Tỉnh (2010) “Quyền con người – bản chất và cách khoa học pháp lí”,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12, tr. 60-65.
24. Phạm Văn Tỉnh (2011) “Khoa học pháp lí Việt Nam và yêu cầu nâng cao trình
độ lí luận theo tinh thần Nghị Quyết XI của Đảng”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 8, tr. 18-22.
25. Phạm Văn Tỉnh (2011) “Phòng ngừa tội phạm và vấn đề bảo vệ quyền con
người – Một nghiên cứu kiên ngành tội phạm học và nhân quyền học”, Tạp chí
Cảnh sát Nhân dân, số 7, tr. 7-14.
26. Phạm Văn Tỉnh (2012) Tài liệu giảng dạy môn tội phạm học, Học viện khoa
học xã hội, Hà Nội.
27. Phạm Văn Tỉnh và Nguyễn Văn Cảnh (2013) Một số vấn đề tội phạm học Việt
Nam, Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an, Hà Nội.
28. Phạm Văn Tỉnh (2014) “Phòng ngừa tội phạm và chiến lược phòng ngừa tội
phạm”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 03, tr. 74-84.
29. Phạm Văn Tỉnh (2019) “Tích hợp mô hình tương tác xuyên thời gian với đồng
thời gian của cơ chế hành vi phạm tội – phương pháp phát triển lí luận và
nghiên cứu tội phạm học về nguyên nhân, điều kiện và phòng ngừa tội phạm”,
Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 10, tr. 3-13;
30. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam năm (2015 - 2019) số liệu thống kê thụ lí và
giải quyết các vụ án HSST năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019.
31. Học viện Cảnh sát nhân dân (2002) Giáo trình tội phạm học, Hà Nội.
32. Trường đại học luật Hà Nội (2008) Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
33. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000) Tội phạm học Việt Nam, một số
vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Võ Khánh Vinh (2002) Dự báo tình hình tội phạm, một số vấn đề lí luận – thực
tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Võ Khánh Vinh (2008) Giáo trình tội phạm học, Trường Đại học Huế, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội