BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ KIM OANH
VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VŨ THỊ KIM OANH
VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận
văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2020
Người cam đoan
Vũ Thị Kim Oanh
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa
học GS.TS. Phạm Hồng Thái đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến
khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính
Quốc gia, Ban QLĐT Sau đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã nhiệt tình
giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Công an tỉnh Quảng Bình, Thanh tra Sở Giao
thông vận tải tỉnh Quảng Bình và các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan đã
cung cấp số liệu giúp tôi hoàn thành luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô
giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của thầy, cô giáo,
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu cho tôi hoàn thành
luận văn này!
Hà Nội, 20 tháng 7 năm 2020
Học viên
Vũ Thị Kim Oanh
MỤC LỤC TRANG
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ .................................................................. 9
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ ................................................................ 13
1.3. Các bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ .......................................................................... 30
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ
AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN
NAY ................................................................................................................ 36
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến vi
phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng
Bình ............................................................................................................. 36
2.2. Thực tiễn vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường
bộ ở tỉnh Quảng Bình ................................................................................ 39
2.3. Thực tiễn phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ......................................................... 49
2.4. Nguyên nhân của hạn chế .................................................................. 62
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 65
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI
PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY ................................... 66
3.1. Quan điểm phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ......................................................... 66
3.2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay .......................................... 68
Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 100
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ Chữ viết đầy đủ
BATGT
TTATGT Ban An toàn giao thông Trật tự an toàn giao thông
TTATGTĐB Trật tự an toàn giao thông đường bộ
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình ............. 37
Bảng 2.2 (1): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa
bàn tỉnh của Công an tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019 ............................ 40
Bảng 2.2 (2): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa
bàn tỉnh của Thanh tra Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-
2019…………………………………………………………………………46
Bảng 2.3: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về TTATGTĐB tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................... 50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ (TTATGTĐB) nói riêng có tác hại rất lớn về nhiều mặt nên
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật tạo hành
lang pháp lý khá đầy đủ cho thực hiện TTATGTĐB. Chỉ thị số 18-CT/TW
ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy
nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông đã khẳng định: Công tác bảo đảm trật
tự, an toàn giao thông (TTATGT) và khắc phục ùn tắc giao thông phải được
xác định là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các cấp ủy Đảng; phát
huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của Nhân dân.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATGT của các
ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc,
sơ kết, tổng kết việc thực hiện của Đảng.
Trong những năm qua, khi Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được
ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để thiết lập trật tự kỷ cương về
TTATGTĐB, góp phần phát triển nền kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng
của đất nước. Việc triển khai thực hiện các quy định của Luật Giao thông
đường bộ trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng đã
được Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp... thực hiện
nghiêm túc và thu được kết quả tốt. Đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về cơ bản đã được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phổ
biến, thi hành, đưa pháp luật vào cuộc sống; vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB được kiềm chế, xử lý kịp thời; công tác phổ biến giáo dục pháp
luật đã được đẩy mạnh; các mặt công tác bảo đảm TTATGTĐB đã đi vào nề
nếp, được Nhân dân đồng tình ủng hộ và phát huy hiệu quả tích cực; bước đầu
1
tạo lập được những điều kiện thuận lợi để chủ động tham gia vào hoạt động
giao thông vận tải của cả nước nước và khu vực.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ở tỉnh Quảng Bình, tình hình vi
phạm pháp luật về TTATGTĐB vẫn còn diễn ra khá phổ biến, ý thức của
người tham gia giao thông chưa thực sự tự giác, còn hiện tượng đối phó, thậm
chí có hành vi chống đối người thi hành công vụ, tình trạng vi phạm: Điều
khiển phương tiện vi phạm tốc độ, tránh, vượt không đúng quy định, phương
tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, lái xe sau khi sử dụng rượu bia vẫn điều
khiển phương tiện; đi mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm, lấn chiếm lòng
đường, vỉa hè trái phép để làm nơi buôn bán hoặc trông giữ xe; tình trạng làm
đường đến đâu, xây nhà đến đó, xây nhà ven quốc lộ, vi phạm hành lang an
toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi; kết quả kiềm chế và làm
giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, số người chết và bị thương do tai
nạn giao thông còn cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông.
Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi
hành luật giao thông còn chậm. Một số quy định của Luật Giao thông đường
bộ chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, công chức làm công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB còn thiếu và yếu; công tác
phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGTĐB còn hình thức, chưa thực sự hiệu
quả; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chưa thực sự phòng, chống được
vi phạm; hạ tầng giao thông đường bộ và trang thiết bị giao thông đường bộ
của tỉnh chưa được quan tâm, đầu tư hiện đại, đồng bộ.
Từ những lý do trên, nhất là trong điều kiện phải bảo đảm tính mạng,
sức khỏe con người, bảo đảm kỷ cương nhằm phát triển kinh tế, ổn định xã
hội thì cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá và giải pháp ngăn chặn,
đẩy lùi và phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình. Đây cũng chính là lý do học viên lựa chọn đề tài “Vi phạm pháp
2
luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay” làm
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật hành chính, mã số: 8
38 01 02.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu về giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao
thông đường bộ
Về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính đã có nhiều công
trình nghiên cứu, trước hết trong các giáo trình Luật Hành chính ở các cơ sở
đào tạo, đã đưa ra, phân tích khái niệm về vi phạm pháp luật, vi phạm hành
chính, các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành
chính, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính.
Về giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao thông đã có nhiều công
trình nghiên cứu như: “Quản lý trật tự an toàn giao thông ở Việt Nam -
những vấn đề đặt ra để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình
hình mới”, do Hoàng Đình Ban làm chủ nhiệm, Đề tài khoa học cấp cơ sở,
năm 2013; “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn
Minh (2012), Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đó đề cập đến thực
trạng vi phạm hành chính, thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và đưa ra một số giải pháp
bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
Luận án tiến sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn
giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” của Trần Sơn Hà, thực hiện năm
2016 tại Học viện Hành chính Quốc gia là luận án chuyên ngành Quản lý
công, những vấn đề mà luận án nghiên cứu có liên quan trực tiếp về
TTATGTĐB, vì vậy trong chương thứ 4 của luận án, khi trình bày về các giải
pháp nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, tác giả
3
đã dành hai mục (mục 4.2.3 và 4.2.7), trình bày về nhóm giải pháp “Tổ chức
thực hiện pháp luật về giao thông đường bộ” và “Tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông
đường bộ”. Theo tác giả muốn nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về
TTATGTĐB, thì việc tăng cường công tác thanh, kiểm tra, cũng như vấn đề
tuần tra, kiểm soát cần phải được tăng cường, đặc biệt là cần phải có những
thay đổi từ khâu lập kế hoạch cho đến tổ chức thực hiện cần phải có sự thay
đổi mạnh mẽ.
Tình hình nghiên cứu vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ,
trật tự an toàn giao thông đường bộ
Luận án Tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội “Giải pháp nâng cao hiệu quả
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo chức
năng của lực lượng Cảnh sát giao thông” của Trương Diệu Loan thực hiện
năm 2015 tại Học Viện Cảnh sát nhân dân. Trong phần trình bày về thực
trạng cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ, tác giả đã phân tích hoạt động xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao
thông trong thời gian 10 năm (từ năm 2005 đến hết năm 2014); tác giả đã chỉ
ra những ưu điểm, hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt
động xử phạt. Từ những phân tích đó, đã nêu ra những giải pháp để khắc phục
những tồn tại trong công tác xử phạt của lực lượng Cảnh sát giao thông như:
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ, tăng cường biên chế, trang bị cho lực lượng Cảnh
sát giao thông.
Luận án Tiến sĩ Luật học của Nghiên cứu sinh Đinh Phan Quỳnh “Xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt
Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội, 2018. Trên cơ sở phân tích, luận
4
giải những vấn đề có liên quan đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ, luận án làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận cũng như pháp lý
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Bên cạnh
đó luận án tiến hành đánh giá thực trạng hoạt động xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ cũng như những yếu tố tác động tới hoạt
động này, để từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn có một số luận văn thạc sĩ Luật học, cũng nghiên cứu
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như: Luận
văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ hiện nay – Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và phương
hướng hoàn thiện” của Vũ Thị Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội, 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Nguyễn Văn
Minh, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012; Luận văn thạc sĩ
luật học“Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ” của Ngô Thị Hồng Loan, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014...
Tình hình nghiên cứu vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ,
trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình
Năm 2013 tác giả Đặng Quang Tuân nghiên cứu đề tài khoa học “Phổ
biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông - qua thực tiễn tỉnh Quảng
Bình’’. Công trình nêu bật vị trí, vai trò, mục đích của phổ biến, giáo dục
pháp luật, thực tiễn công tác giáo dục pháp luật giao thông ở Quảng Bình và
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình.
5
Luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng
Bình" của tác giả Trần Hồng Phong, Học viện Hành chính Quốc gia, 2018.
Mục đích của đề tài là nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB, phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình tổ chức
thực hiện pháp luật về giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình, từ đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp
luật về TTATGTĐB.
Tuy nhiên qua khảo sát cũng cho thấy chưa có công trình nào trực tiếp
nghiên cứu về vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình trong
khi đây là địa phương có tình hình vi phạm giao thông đường bộ khá phức
tạp, có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Vì vậy, đề
tài này được thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những
kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó và vẫn đảm bảo tính mới,
không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng về vi phạm pháp
luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình; đưa ra các quan điểm và giải pháp
phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, nội dung vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB; bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB, trong đó chú ý tới các bảo đảm pháp lý.
Đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình, việc thực hiện các biện pháp phòng, chống vi phạm, những
kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
6
Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân ở trên, luận văn đưa ra các quan
điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh
Quảng Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng
Bình hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay (hết tháng
12/2019).
Phạm vi không gian: tỉnh Quảng Bình.
Phạm vi nội dung: vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng
Bình do nhiều chủ thể có thẩm quyền phát hiện, xử lý, trong phạm vi đề tài
tập trung chủ yếu vào vi phạm TTATGTĐB do lực lượng Công an tỉnh Quảng
Bình và thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý.
Đây cũng là giới hạn của phạm vi nghiên cứu, do đó luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu về những vi phạm hành chính, mà không nghiên cứu những vi
phạm TTATGTĐB là tội phạm.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ
trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về pháp luật nói chung, về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đường bộ.
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khi thực hiện
đề tài là: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương
7
pháp so sánh, phương pháp thống kê và các phương pháp khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ, bổ sung những nhận định về thực
trạng và đề xuất, chi tiết một số giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
những nhà lãnh đạo, quản lý của tỉnh Quảng Bình; là tài liệu tham khảo cho sinh
viên, học viên, những người nghiên cứu về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đường bộ, nhất là những nội dung thực tiễn tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn có kết cấu nội dung gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý vi phạm pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ.
Chương 2. Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về
trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.
8
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trật tự
an toàn giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng là một trong
những nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống, là thước đo văn minh
của mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đều
gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông mà trước hết là giao thông đường
bộ. Dưới góc độ kinh tế, giao thông đường bộ được ví là huyết mạch kinh tế
của quốc gia, là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước cũng như năng lực tổ chức quản lý và văn minh của một
quốc gia. Vì vậy, đảm bảo TTATGT là chiến lược của bất kỳ quốc gia nào trên
thế giới.
Theo từ điển tiếng Việt: Giao thông là việc đi lại từ nơi này đến nơi
khác của người và phương tiện chuyên chở [24, Tr.393].
Luật Giao thông đường bộ năm 2008: Đường bộ gồm đường, cầu
đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ (Khoản 1, Điều 3).
Trên cơ sở cách hiểu về các thuật ngữ “giao thông”; “đường bộ” như
trên, có thể thấy giao thông đường bộ là việc đi lại từ chỗ này qua chỗ kia của
người và phương tiện chuyên chở trên đường đường bộ, cầu đường bộ, hầm
đường bộ, bến phà đường bộ. Trong khi đó TTATGTĐB là trạng thái xã hội
có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực giao thông đường bộ, nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông
9
đường bộ thông suốt. Đảm bảo TTATGTĐB góp phần vào sự phát triển kinh
tế cũng như bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.
Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì TTATGTĐB
được hiểu là: Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi
người tham gia giao thông phải tuân theo, nhờ đó bảo đảm cho hoạt động giao
thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao
thông, gây thiệt hại về người và tài sản. TTATGTĐB là một mặt của trật tự,
an toàn xã hội [22, Tr.1182].
Xuất phát từ quan điểm chung về pháp luật là tổng hợp các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành, hay thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội có thể hiểu: Pháp luật về TTATGTĐB là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong lĩnh vực TTATGTĐB nhằm đảm bảo hoạt động giao thông
đường bộ được diễn ra thông suốt, trật tự và an toàn.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Thứ nhất, pháp luật TTATGTĐB điều chỉnh một lĩnh vực khá rộng lớn,
phức tạp. Bao gồm những lĩnh vực lớn như quy tắc giao thông đường bộ, kết
cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện tham gia giao thông đường bộ,
người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vận tải đường
bộ… với nhiều chủ thể chịu tác động như các cơ quan Nhà nước, doanh
nghiệp, Nhân dân.
Thứ hai, pháp luật về TTATGTĐB được quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật do nhiều chủ thể ban hành với hiệu lực pháp lý khác
nhau. Ở cấp độ Hiến pháp, những quan điểm lớn về trật tự xã hội (trong đó có
TTATGTĐB) là cơ sở, tiền đề để các văn bản luật, văn bản dưới luật cụ thể
hóa, chi tiết hóa. Pháp luật về TTATGTĐB chủ yếu được quy định dưới hình
10
thức văn bản luật và dưới luật, trong đó các văn bản là nghị định, thông tư
hiện nay chiếm một tỷ lệ rất lớn.
Thứ ba, pháp luật về TTATGTĐB thường xuyên phải được thay đổi,
cập nhật và hoàn thiện. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế, số lượng phương tiện, kỹ thuật, tình hình tai nạn
giao thông và định hướng phòng ngừa tại nan, bảo đảm TTATGTĐB ở từng
thời kỳ.
1.1.3. Nội dung của pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Là một lĩnh vực của pháp luật trong quản lý nhà nước, pháp luật về
TTATGTĐB như đã phân tích có đối tượng tác động và nội dung tác động rất
rộng lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Có thể kể ra một số
nội dung cơ bản quy định về:
Quy tắc giao thông đường bộ. Đây là các quy định chung, bắt buộc các
chủ thể tham gia hoặc có liên quan phải tuân thủ. Chẳng hạn quy định về
người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng
làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường
bộ; xe ô tô có trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế
phía trước trong xe ô tô phải thắt dây an toàn hay quy tắc về việc chấp hành
báo hiệu đường bộ: Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và
chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ; khi có người điều khiển giao thông
thì người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển
giao thông; tại nơi có biển báo hiệu cố định lại có báo hiệu tạm thời thì người
tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của báo hiệu tạm thời…
Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Đây là các quy phạm về phân
loại đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kỹ thuật đường bộ; quỹ
đất dành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; phạm vi đất dành cho
đường bộ; bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình
11
đường bộ. Chẳng hạn, quy định về công trình báo hiệu đường bộ trong Luật
Giao thông đường bộ năm 2008 bao gồm:
a) Đèn tín hiệu giao thông;
b) Biển báo hiệu;
c) Cọc tiêu, rào chắn hoặc tường bảo vệ;
d) Vạch kẻ đường;
đ) Cột cây số;
e) Công trình báo hiệu khác (Khoản 1, Điều 45).
Phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Đây là nhóm các quy định
về tiêu chuẩn, điều kiện, quản lý phương tiện tham gia giao thông đường bộ
như: Điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới; cấp, thu hồi đăng ký và
biển số xe cơ giới; bảo đảm quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ; điều kiện tham gia
giao thông của xe thô sơ…
Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Nhóm
này bao gồm các quy phạm về: Điều kiện của người lái xe tham gia giao
thông; Giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe, sát
hạch để cấp giấy phép lái xe…
Vận tải đường bộ. Hoạt động vận tải đường bộ gồm hoạt động vận tải
không kinh doanh và hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ. Kinh doanh vận
tải đường bộ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp
luật. Kinh doanh vận tải đường bộ gồm kinh doanh vận tải hành khách, kinh
doanh vận tải hàng hóa. Hoạt động vận tải đường bộ phải phù hợp với quy
hoạch giao thông vận tải đường bộ và mạng lưới tuyến vận tải.
Quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ. Đây là nhóm quy phạm
điều chỉnh về nội dung quản lý nhà nước đối với trật tự giao thông đường bộ;
12
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước đối với
trật tự giao thông đường bộ.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật tự
an toàn giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến TTATGTĐB được pháp luật điều chỉnh bảo vệ, gồm tội phạm và vi phạm hành chính. Những hành vi là tội phạm được quy định tại Mục 1, Chương XXI Bộ luật Hình sự năm 2017 (các tội xâm phạm an toàn giao thông).
Vi phạm hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, theo Khoản 2, Điều 1, thì vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do
cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính. Thực chất của vi phạm hành chính là những hành vi
vi phạm pháp luật, do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý, hay vô ý xâm
phạm tới các quan hệ xã hội được các quy định về quản lý nhà nước điều
chỉnh và bảo vệ, không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử
lý vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính về TTATGTĐB là một loại vi phạm hành chính
do cá nhân, tổ chức thực hiện xâm phạm đến những quan hệ xã hội trong lĩnh
vực giao thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm
và theo quy định của pháp luật phải xử lý vi phạm hành chính.
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB được quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật, trong đó quan trọng nhất là Luật Giao thông đường bộ
năm 2008. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được ban hành đã tạo ra cơ
sở pháp lý quan trọng để thiết lập trật tự kỷ cương về TTATGTĐB, góp phần
13
phát triển nền kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước. Việc triển
khai thực hiện các quy định của Luật Giao thông đường bộ đã được Đảng,
Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp... thực hiện nghiêm túc
và thu được kết quả tốt. Đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Chính
phủ giao cho Bộ Công an ban hành về cơ bản đã được hoàn thiện, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác phổ biến, thi hành Luật, đưa Luật vào cuộc sống;
công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đã được đẩy mạnh; các mặt
công tác bảo đảm TTATGTĐB của lực lượng Cảnh sát giao thông đã đi vào
nề nếp, được Nhân dân đồng tình ủng hộ và phát huy hiệu quả tích cực; bước
đầu tạo lập được những điều kiện thuận lợi để chủ động tham gia vào hoạt
động giao thông vận tải của các nước trong khu vực và đẩy nhanh tiến trình
hội nhập với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
Bảo đảm TTATGT và hạn chế tai nạn giao thông là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn xã hội, trước hết là của các cơ quan Nhà
nước có chức năng và của người tham gia giao thông. Việc xử lý vi phạm
TTATGTĐB nhằm thiết lập và duy trì trật tự xã hội trong lĩnh vực giao thông
vận tải nhằm bảo đảm an toàn cho người, phương tiện khi tham gia giao
thông; bảo đảm hệ thống giao thông vận tải hoạt động thông suốt phục vụ
mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, hội nhập
sâu rộng kinh tế quốc tế. Muốn vậy, cần phải xây dựng các giải pháp mạnh,
đột phá, đồng bộ, thực hiện từng bước, liên tục và kiên trì nhằm cải thiện môi
trường giao thông trật tự, an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và bền vững.
Để phát hiên, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB thì
phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hoạt động vô cùng cần
thiết và có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay. Phòng, chống vi
phạm pháp luật về TTATGTĐB được hiểu là tổng thể các biện pháp, cách
thức được các chủ thể (nhà nước, xã hội) sử dụng để ngăn ngừa, phát hiện và
14
xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong giai
đoạn hiện nay, cần đặc biệt chú trọng yếu tố phòng ngừa, thậm chí phòng
ngừa từ xa để nâng cao hiệu quả đấu tranh với vi phạm giao thông đường bộ.
Đặc điểm của vi phạm pháp luật về TTATGTĐB:
Thứ nhất, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có số lượng lớn so với các
lĩnh vực giao thông khác. Điều này được lý giải bởi giao thông đường bộ
chiếm tỷ trọng lớn hơn so với các lĩnh vực giao thông khác như đường sắt,
đường thủy nội địa và đường hàng không. Theo số liệu của Bộ Giao thông
vận tải, hệ thống đường bộ hiện nay bao phủ khắp lãnh thổ và đóng vai trò
trục chính kết nối mạng lưới giữa các vùng, miền, các cảng hàng không, cảng
biển, cửa khẩu, đầu mối giao thông quan trọng. Hệ thống đường bộ Việt Nam
có tổng chiều dài 570.448km, trong đó Quốc lộ là 24.136km, đường cao tốc là
816km, đường tỉnh là 25.741km, đường huyện là 58.347km, đường đô thị là
26.953km, đường xã là 144.670km, đường thôn xóm là 181.188km và đường
nội đồng là 108.597km. Hệ thống quốc lộ hình thành nên các tuyến hành lang
Bắc - Nam, vùng duyên hải và cao nguyên, các tuyến đường Đông - Tây dọc
theo miền Trung Việt Nam. Ở phía Bắc, các tuyến quốc lộ tạo thành hình
mạng lưới nan quạt với tâm là Thủ đô Hà Nội. Ở phía Nam, các tuyến quốc lộ
tạo nên hình lưới [25].
Thứ hai, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB xảy ra thường xuyên, liên
tục, phức tạp, đa dạng. Nguyên nhân là do số lượng phương tiện tham gia
giao thông đường bộ hiện nay rất lớn với nhiều loại phương tiện từ cơ giới
đến thô sơ ở mọi miền của Tổ quốc; chất lượng hạ tầng cơ sở chưa được đảm
bảo, đồng bộ; ý thức của người tham gia giao thông chưa cao và chưa đồng
đều. Bên cạnh đó, hành vi vi phạm trong lĩnh vực TTATGTĐB cũng rất đa
dạng; các hành vi vi phạm đó được các văn bản pháp luật mô tả trong các quy
phạm pháp luật cụ thể, đây là một nội dung mà các chủ thể có thẩm quyền
15
phải rất lưu ý, bởi hoạt động xử lý chỉ có thể được thực hiện khi đối tượng có
hành vi vi phạm đã được mô tả trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.
Thứ ba, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB thuộc thẩm quyền xử lý của
nhiều tổ chức, cá nhân với hình thức xử lý đa dạng. Thẩm quyền xử lý hiện
nay được pháp luật trao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, lực lượng
Công an (Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh,
Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng Công
an cấp xã), Thanh tra giao thông vận tải, người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành đường bộ, Thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi
trường, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành bảo vệ
môi trường. Hình thức xử lý rất đa dạng, tùy vào hành vi, tính chất, mức độ vi
phạm mà bị cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn trong lĩnh vực giao
thông đường bộ; tạm giữ phương tiện, giấy tờ có liên quan đến người điều
khiển và phương tiện vi phạm; tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, tịch thu
phương tiện.
Thứ tư, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hành vi trái pháp luật của
cá nhân, tổ chức, có lỗi có thể là tội phạm hay vi phạm hành chính. Đây là các
hành vi của cá nhân (người điều khiển phương tiện giao thông, hành khách…)
hoặc tổ chức, cơ quan vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ quy định
trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và pháp luật có liên quan đến giao
thông đường bộ: pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về xây dựng, đê
điều… Lỗi của các chủ thể vi phạm là lỗi cố ý hoặc vô ý, song từ thực tiễn
cho thấy tỷ lệ lỗi cố ý chiếm đa số trong các trường hợp vi phạm. Trong các
hình thức xử phạt thì phạt tiền mang tính phổ biến, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay khi tai nạn giao thông đang gia tăng do liên quan đến sử dụng rượu
16
bia thì mức xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ
liên quan đến sử dụng rượu bia rất nghiêm khắc.
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại rất lớn, cả trước mắt và
lâu dài, nhiều mặt: kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực giao thông đường bộ gây thiệt hại lớn về kinh tế, bất ổn xã hội, kỷ
luật kỷ cương xã hội suy giảm. Đặc biệt, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là
nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến tai nạn giao thông.
Tai nạn giao thông đường bộ là sự việc xảy ra do người tham gia giao
thông đang hoạt động trên mạng lưới giao thông đường bộ vi phạm các qui
định về TTATGTĐB hay gặp phải sự cố bất ngờ gây ra những thiệt hại nhất
định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng năm tai nạn giao thông
đường bộ cướp đi sinh mệnh của 1,3 triệu người, làm hơn 50 triệu người bị
thương và gây thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 518 tỉ đô la. Việc phòng
ngừa, kéo giảm, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông xảy ra đã trở thành vấn
đề được các quốc gia trên thế giới và cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm[26].
Ở Việt Nam, tình hình tai nạn giao thông vẫn còn diễn biến phức tạp: từ
năm 2009 đến tháng 5 năm 2019 toàn quốc đã xảy ra 326.299 vụ tai nạn giao
thông đường bộ, làm chết 97.721 người, bị thương 329.756 người. Riêng năm
2018 tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 18.490 vụ, làm chết 8.079 người, bị
thương 14.732 người. Trung bình mỗi năm tai nạn giao thông cướp đi sinh
mạng của gần 10.000 người, trong đó đa số là lực lượng đang trong độ tuổi
lao động, gây rất nhiều hệ lụy cho xã hội [7].
17
1.2.2. Các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông
đường bộ
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB như đã phân tích ở trên rất đa dạng
cả về không gian, thời gian, đối tượng, loại hình. Nếu xét ở khía cạnh chủ thể
thì đó là các vi phạm của:
- Người điều khiển phương tiện: gồm người điều khiển xe cơ giới, xe
thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.
- Người tham gia giao thông: gồm người điều khiển, người sử dụng
phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật;
người đi bộ trên đường bộ.
- Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới.
- Người điều khiển giao thông là Cảnh sát giao thông; người được giao
nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến
phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.
- Hành khách là người được chở trên phương tiện vận tải hành khách
đường bộ, có trả tiền…
Nếu xét ở khía cạnh phương tiện giao thông, vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực giao thông đường bộ có sự tham gia của nhiều loại phương tiện, theo
quy định tại Điều 3 Luật Giao thông đường bộ bao gồm: phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ.
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới)
gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô,
máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy
điện) và các loại xe tương tự.
Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm
xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe
súc vật kéo và các loại xe tương tự.
18
Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm
nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh có tham gia giao thông đường bộ.
Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông
đường bộ và xe máy chuyên dùng.
Nếu xét ở lĩnh vực quản lý, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB được
quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Nghị định 100/2019/NĐ-
CP ngày ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt bao gồm
các nhóm sau:
Thứ nhất, vi phạm quy tắc giao thông đường bộ.
Đây là hành vi vi phạm của: người điều khiển xe ô tô và các loại xe
tương tự xe ô tô; người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện),
các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy; người điều
khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng; người điều khiển xe đạp, xe đạp máy
(kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác; người đi bộ… với các
hành vi rất đa dạng, tiêu biểu như: Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của
biển báo hiệu, vạch kẻ đường; chuyển hướng không nhường quyền đi trước,
không nhường đường; vi phạm các quy định khi dừng xe, đỗ xe; vi phạm quy
định về sử dụng còi; vi phạm về chuyển làn đường; tốc độ, số lượng người và
hàng hóa; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe; sử dụng điện thoại di động; đi vào khu
vực cấm, đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi; không chấp hành hiệu
lệnh của đèn tín hiệu giao thông; không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của
người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; điều khiển xe
trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn; điều khiển xe trên
đường mà trong cơ thể có chất ma túy…
19
Thứ hai, vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
Đây là hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến kết cấu hạ
tầng giao thông đường bộ như:
- Vi phạm quy định về bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác
trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng.
- Vi phạm quy định về phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên
đường bộ; đặt máy tuốt lúa trên đường bộ.
- Sử dụng, khai thác tạm thời trên đất hành lang an toàn đường bộ vào
mục đích canh tác nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an toàn công trình đường
bộ và an toàn giao thông; trồng cây trong phạm vi đất dành cho đường bộ làm
che khuất tầm nhìn của người điều khiển phương tiện giao thông; chiếm dụng
dải phân cách giữa của đường đôi làm nơi: bày, bán hàng hóa; để vật liệu xây
dựng; họp chợ, mua, bán hàng hóa trong phạm vi đất của đường bộ ở đoạn
đường ngoài đô thị; xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định.
- Sử dụng đường bộ trái quy định để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể
thao, diễu hành, lễ hội; dựng cổng chào hoặc các vật che chắn khác trái quy
định trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây ảnh hưởng đến TTATGTĐB;
treo băng rôn, biểu ngữ trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây
ảnh hưởng đến TTATGTĐB; đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo trên đất của
đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị; sử dụng trái phép đất của đường bộ ở
đoạn đường ngoài đô thị làm nơi sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa
xe, bơm nước mui xe gây ảnh hưởng đến TTATGTĐB.
- Các hành vi vi phạm về xây dựng bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ,
trạm thu phí đường bộ như: xây dựng hoặc thành lập bến xe, bãi đỗ xe, trạm
dừng nghỉ, trạm thu phí đường bộ khi chưa được cơ quan quản lý nhà nước về
giao thông vận tải đồng ý theo quy định; xây dựng bến xe, bãi đỗ xe, trạm
20
dừng nghỉ, trạm thu phí đường bộ không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo
quy định.
- Các hành vi vi phạm quy định về quản lý, khai thác, bảo trì, bảo vệ
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ: chăn dắt súc vật ở mái đường; buộc súc
vật vào hàng cây hai bên đường hoặc vào cọc tiêu, biển báo, rào chắn, các
công trình phụ trợ của giao thông đường bộ; tự ý leo trèo lên mố, trụ, dầm
cầu; tự ý đốt lửa trên cầu, dưới gầm cầu; neo đậu tàu, thuyền dưới gầm cầu
hoặc trong phạm vi hành lang an toàn cầu; tự ý be bờ, tát nước qua mặt đường
giao thông; đặt ống bơm nước, bơm cát qua đường, đốt lửa trên mặt đường…
Thứ ba, vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường
bộ. Đây là các hành vi liên quan đến phương tiện tham gia giao thông, bao
gồm các hành vi cơ bản:
- Các hành vi của người điều khiển xe ô tô (bao gồm cả rơ moóc hoặc
sơ mi rơ moóc được kéo theo) và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy
định về điều kiện của phương tiện khi tham gia giao thông: hành vi điều khiển
xe không có kính chắn gió hoặc có nhưng vỡ hoặc có nhưng không có tác
dụng (đối với xe có thiết kế lắp kính chắn gió); điều khiển xe không có đủ đèn
chiếu sáng, đèn soi biển số, đèn báo hãm, đèn tín hiệu, cần gạt nước, gương
chiếu hậu, dây an toàn, dụng cụ thoát hiểm, thiết bị chữa cháy, đồng hồ báo
áp lực hơi, đồng hồ báo tốc độ của xe hoặc có những thiết bị đó nhưng không
có tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế (đối với loại xe được quy định
phải có những thiết bị đó); điều khiển xe không có còi hoặc có nhưng còi
không có tác dụng; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm khói
hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm quy chuẩn môi trường về
khí thải, tiếng ồn…
- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của phương tiện khi tham
gia giao thông: điều khiển xe không có còi; đèn soi biển số; đèn báo hãm;
21
gương chiếu hậu bên trái người điều khiển hoặc có nhưng không có tác dụng;
điều khiển xe gắn biển số không đúng quy định; gắn biển số không rõ chữ, số;
gắn biển số bị bẻ cong, bị che lấp, bị hỏng; sơn, dán thêm làm thay đổi chữ,
số hoặc thay đổi màu sắc của chữ, số, nền biển; điều khiển xe không có đèn
tín hiệu hoặc có nhưng không có tác dụng; sử dụng còi không đúng quy chuẩn
kỹ thuật cho từng loại xe; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm
khói hoặc có nhưng không bảo đảm quy chuẩn môi trường về khí thải, tiếng
ồn; điều khiển xe không có đèn chiếu sáng gần, xa hoặc có nhưng không có
tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế; điều khiển xe không có hệ thống
hãm hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật;
điều khiển xe lắp đèn chiếu sáng về phía sau xe; điều khiển xe không có Giấy
đăng ký xe theo quy định hoặc sử dụng Giấy đăng ký xe đã hết hạn sử dụng;
sử dụng Giấy đăng ký xe đã bị tẩy xóa; sử dụng Giấy đăng ký xe không đúng
số khung, số máy của xe hoặc không do cơ quan có thẩm quyền cấp…
- Các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường khi tham gia giao
thông: hành vi điều khiển xe không đáp ứng yêu cầu về vệ sinh lưu thông
trong đô thị; các vi phạm như: để dầu nhờn, hóa chất rơi vãi xuống đường bộ;
chở hàng rời, chất thải, vật liệu xây dựng dễ rơi vãi mà không có mui, bạt che
đậy hoặc có mui, bạt che đậy nhưng vẫn để rơi vãi; chở hàng hoặc chất thải để
nước chảy xuống mặt đường gây mất an toàn giao thông và vệ sinh môi
trường; lôi kéo bùn, đất, cát, nguyên liệu, vật liệu hoặc chất phế thải khác ra
đường bộ gây mất an toàn giao thông và vệ sinh môi trường; đổ trái phép rác,
đất, cát, đá, vật liệu, chất phế thải sai quy định…
Thứ tư, vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia
giao thông đường bộ.
- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe
cơ giới: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy
22
(kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự xe mô tô hoặc điều khiển xe ô tô,
máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô; người điều khiển xe mô tô, xe gắn
máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không
có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới còn hiệu lực; người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại
xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không mang theo
Giấy đăng ký xe;…
- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe
máy chuyên dùng: người điều khiển xe máy chuyên dùng không đúng độ tuổi
hoặc tuổi không phù hợp với ngành nghề theo quy định; người điều khiển xe
máy chuyên dùng không mang theo bằng (hoặc chứng chỉ) điều khiển xe máy
chuyên dùng, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường
bộ; người điều khiển xe máy chuyên dùng không mang theo Giấy đăng ký xe;
người điều khiển xe máy chuyên dùng không mang theo Giấy chứng nhận an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm
định); người điều khiển xe máy chuyên dùng không có bằng (hoặc chứng chỉ)
điều khiển, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ.
Thứ năm, vi phạm quy định về vận tải đường bộ. Vi phạm của người
điều khiển xe ô tô chở hành khách, ô tô chở người và các loại xe tương tự xe
ô tô chở hành khách, chở người vi phạm quy định về vận tải đường bộ: không
hướng dẫn hành khách đứng, nằm, ngồi đúng vị trí quy định trong xe; không
mặc đồng phục, không đeo thẻ tên của lái xe theo quy định; chở quá số người
quy định; không đóng cửa lên xuống khi xe đang chạy; để người ngồi trên xe
khi xe lên, xuống phà, cầu phao hoặc khi xe đang ở trên phà (trừ người già
yếu, người bệnh, người khuyết tật); không chạy đúng tuyến đường, lịch trình,
hành trình vận tải quy định; sắp xếp, chằng buộc hành lý, hàng hóa không bảo
đảm an toàn; để rơi hành lý, hàng hóa trên xe xuống đường; để hàng hóa
23
trong khoang chở hành khách; chở hành lý, hàng hóa vượt quá kích thước bao
ngoài của xe; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, các vi phạm khác liên quan đến giao thông đường bộ như:
- Hành vi sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ; sản xuất, bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trái
phép (hành vi bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không
phải là biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền sản xuất hoặc không được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; hành vi sản xuất biển số trái phép
hoặc sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ).
- Hành vi của chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao
thông đường bộ (thực hiện hành vi tự ý thay đổi nhãn hiệu, màu sơn của xe
không đúng với Giấy đăng ký xe; lắp kính chắn gió, kính cửa của xe không
phải là loại kính an toàn; tự ý thay đổi màu sơn của xe không đúng với màu
sơn ghi trong Giấy đăng ký xe; không làm thủ tục khai báo với cơ quan đăng
ký xe theo quy định trước khi cải tạo xe (đối với loại xe có quy định phải làm
thủ tục khai báo); không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ
xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được
cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe
mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô; không làm thủ tục đổi lại
Giấy đăng ký xe theo quy định khi thay đổi địa chỉ của chủ xe; tự ý cắt, hàn,
đục lại số khung, số máy; đưa phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số
máy trái quy định tham gia giao thông; tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ
đăng ký xe; tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước, đặc tính của xe;
khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp
lại biển số, Giấy đăng ký xe.
- Hành vi của nhân viên phục vụ trên xe buýt, xe vận chuyển hành
khách theo tuyến cố định, xe vận chuyển hành khách theo hợp đồng, xe vận
24
chuyển khách du lịch vi phạm quy định về TTATGT: không hỗ trợ, giúp đỡ
hành khách đi xe là người cao tuổi, trẻ em không tự lên xuống xe được, người
khuyết tật vận động hoặc khuyết tật thị giác; không mặc đồng phục, không
đeo thẻ tên của nhân viên phục vụ trên xe theo quy định; thu tiền vé nhưng
không trao vé cho hành khách; thu tiền vé cao hơn quy định; sang nhượng
hành khách dọc đường cho xe khác mà không được hành khách đồng ý; đe
dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng
dịch vụ ngoài ý muốn; xuống khách để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của
người có thẩm quyền.
- Hành vi của hành khách đi xe vi phạm quy định về TTATGT: không
chấp hành hướng dẫn của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe về các quy định
bảo đảm TTATGT; gây mất trật tự trên xe; mang hóa chất độc hại, chất dễ
cháy, nổ, hàng nguy hiểm hoặc hàng cấm lưu thông trên xe khách; đu, bám
vào thành xe; đứng, ngồi, nằm trên mui xe, nóc xe, trong khoang chở hành lý;
tự ý mở cửa xe hoặc có hành vi khác không bảo đảm an toàn khi xe đang
chạy.
- Hành vi của người đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép: tụ tập để
cổ vũ, kích động hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định, lạng lách,
đánh võng, đuổi nhau trên đường hoặc đua xe trái phép; đua xe đạp, đua xe
đạp máy, đua xe xích lô, đua xe súc vật kéo, cưỡi súc vật chạy đua trái phép
trên đường giao thông; đua xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện trái phép; đua
xe ô tô trái phép.
- Hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường
bộ gắn biển số nước ngoài: điều khiển phương tiện không gắn ký hiệu phân
biệt quốc gia theo quy định; giấy tờ của phương tiện không có bản dịch sang
tiếng Anh hoặc tiếng Việt theo quy định; xe chở khách không có danh sách
25
hành khách theo quy định; lưu hành phương tiện trên lãnh thổ Việt Nam quá
thời hạn quy định; hoạt động quá phạm vi được phép hoạt động;…
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại lớn, lâu dài, nhiều mặt, vì
vậy việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là rất cần thiết, cấp
bách để giảm thiểu vi phạm, giảm thiểu tai nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản con
người và ổn định xã hội. Phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB
thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân từ trung ương đến địa
phương bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Có thể kể đến một số nội dung
cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng, ban hành văn bản, chương trình, kế hoạch. Trong tổ
chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền ở trung ương và địa phương nhằm triển khai và thi hành các văn
bản quy phạm pháp luật vào đời sống. Thông qua hoạt động ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể tổ chức thực hiện
pháp luật về TTATGT cụ thể hóa các quy tắc xử sự chung thành các hành vi
ứng xử thực tế.
Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB là cơ sở để các cơ quan chức năng triển khai các bước với
những nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Đây là
hoạt động quan trọng đảm bảo hiện thực hóa pháp luật trong đời sống xã hội.
Hai là, phổ biến giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt
động có mục đích do tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các hình thức nhất
định nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho tổ
chức, cá nhân được phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực
và hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
26
Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với
việc tổ chức thực hiện pháp luật, là kênh chuyển tải kiến thức, tình cảm, thái
độ đúng đắn của các chủ thể đối với pháp luật, từ đó thúc đẩy thành tự giác
tuân theo pháp luật. Các hoạt động giáo dục, phổ biến, giải thích, hướng dẫn
thực hiện pháp luật có vai trò tạo tiền đề cho việc thực hiện pháp luật.
Những hoạt động này giúp các chủ thể nhận thức được quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật.
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB là các cán bộ làm
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông như Cảnh sát giao
thông, Thanh tra giao thông, giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà
trường, phóng viên, các luật gia đang công tác tại cơ quan Tòa án, Viện kiểm
sát, Tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp (Hội luật gia, Đoàn luật sư, Tư vấn
pháp lý, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình...). Còn khách thể tức là đối
tượng để phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông đường bộ là cán bộ,
công nhân viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước,
doanh nghiệp; học sinh, sinh viên; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang;
đoàn viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội; các tầng lớp
Nhân dân; đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa và cả những
người tham gia đảm bảo an toàn giao thông như lực lượng Công an, Thanh
tra…
Nội dung công tác phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn
giao thông đường bộ là tổ chức tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho Nhân
dân chấp hành Luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt
động vận tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của các đối tượng tham gia giao thông đường bộ nhất là đội ngũ lái xe, chủ
xe, chủ hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ; các thông tin về tổ
chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông, quyền, nghĩa vụ
27
pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong
tham gia giao thông. Phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB là công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước
về đảm bảo TTATGTĐB, đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ của người tham gia giao
thông, từng bước kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm
TTATGTĐB [13, Tr.24-25].
Ba là, tổ chức bộ máy. Bộ máy, con người là nhân tố quyết định trong
phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Tổ chức bộ máy và nhân sự
trong hoạt động này được tổ chức từ trung ương đến địa phương, trong đó bộ
máy, con người của địa phương có vai trò trực tiếp và then chốt.
Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Bộ Giao thông vận tải
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giao thông
đường bộ. Bộ Công an thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giao
thông đường bộ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan; thực hiện các biện pháp bảo đảm TTATGT; phối hợp với
Bộ Giao thông vận tải bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Bộ Công
an, Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm phối hợp trong việc cung cấp số liệu
đăng ký phương tiện giao thông đường bộ, dữ liệu về tai nạn giao thông và
cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe. Bộ Quốc phòng thực hiện các nhiệm vụ
quản lý nhà nước về giao thông đường bộ theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông
vận tải thực hiện quản lý nhà nước về giao thông đường bộ.
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về giao thông đường bộ theo quy định của
28
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan trong phạm vi địa
phương (Điều 85).
Tổ chức, thẩm quyền phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB
thuộc lực lượng Công an và Thanh tra đường bộ. Theo Khoản 1, Điều 87 Luật
Giao thông đường bộ năm 2008, Cảnh sát giao thông đường bộ thực hiện việc
tuần tra, kiểm soát để kiểm soát người và phương tiện tham gia giao thông
đường bộ; xử lý vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ đối với người và
phương tiện tham gia giao thông đường bộ và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về quyết định của mình; phối hợp với cơ quan quản lý đường bộ phát
hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm quy định bảo vệ công trình đường bộ và
hành lang an toàn đường bộ.
Đối với thanh tra đường bộ: thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành về giao thông đường bộ. Thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi
phạm hành chính trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật của công
trình đường bộ; trường hợp cấp thiết, để kịp thời ngăn chặn hậu quả có thể
xảy ra đối với công trình đường bộ, được phép dừng phương tiện giao thông
và yêu cầu người điều khiển phương tiện thực hiện các biện pháp để bảo vệ
công trình theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về quyết định
đó; thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính trong việc
chấp hành các quy định về hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tại các
điểm dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, trạm
kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí và tại cơ sở kinh doanh vận tải đường bộ;
thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính trong việc đào
tạo, sát hạch, cấp, đổi, thu hồi Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, hoạt động
kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới. Việc thanh
29
tra đào tạo, sát hạch, cấp, đổi, thu hồi Giấy phép lái xe của lực lượng quân đội,
công an do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát. Thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát và giám sát xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là
hoạt động quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật nhằm đảm
bảo pháp luật được thực thi trên thực tế và các hoạt động giao thông diễn ra
thuận lợi, an toàn, trật tự. Tăng cường công tác tuần tra an toàn giao thông của
các lực lượng chức năng, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, thường xuyên
thanh tra, kiểm soát theo chuyên đề, tăng mức xử phạt vi phạm để đủ sức răn
đe; tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ huy, điều khiển giao thông và đảm
bảo giao thông chống ùn tắc.
1.3. Các bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ
1.3.1. Bảo đảm chính trị
Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật là yếu tố quan trọng đảm
bảo pháp luật được tổ chức thực hiện hiệu quả trên thực tế. Khi các cơ quan
lãnh đạo, các nhà quản lý quan tâm chỉ đạo sâu sát, tích cực và thường xuyên
đôn đốc các cơ quan chức năng thông qua ban hành các văn bản, hướng dẫn
thực hiện đồng thời nắm bắt thực tế để có định hướng phù hợp thì hoạt động
tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB sẽ đảm bảo thực thi đầy đủ,
nghiêm minh. Ngược lại, nếu sự chỉ đạo không thường xuyên, không kịp thời
hoặc không phù hợp với yêu cầu thực tế thì việc tổ chức thực hiện pháp luật
về TTATGTĐB sẽ không đảm bảo yêu cầu và an toàn, giao thông đường bộ
sẽ không được thông suốt và hiệu quả.
Đứng trước tình hình vi phạm giao thông diễn biến phức tạp, Ban Bí
thư đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ,
30
đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông trong đó xác
định mục đích, yêu cầu: i) nâng cao nhận thức và trách nhiệm cấp ủy đảng,
người đứng đầu chính quyền các cấp, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội
và các tầng lớp nhân dân về công tác này; thực hiện toàn diện, đồng bộ, liên
tục các chủ trương, giải pháp nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ công tác bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông; phấn đấu hằng năm kiềm chế, làm giảm từ
5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và
giảm ùn tắc giao thông đường bộ; ii) huy động mọi nguồn lực xã hội và hợp
tác quốc tế để bảo đảm các điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng giao thông,
phương tiện giao thông công cộng; iii) xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ bảo
đảm trật tự, an toàn giao thông trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ.
1.3.2. Bảo đảm kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng của một đất nước là yếu tố
ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm thực hiện pháp luật. Trong điều kiện sản
xuất nhỏ một người tự mình thực hiện tất cả các công đoạn của quá trình lao
động tạo ra sản phẩm thì dễ tùy tiện vì không có gì ràng buộc chủ thể,
nhưng trong dây chuyền và quy trình sản xuất công nghiệp, mỗi người chỉ
đảm nhiệm một khâu của quá trình sản xuất thì bắt buộc phải tuân theo
những quy định, tiêu chuẩn nhất định. Trình độ phát triển cao của lực
lượng sản xuất đặt ra yêu cầu và rèn giũa tác phong công nghiệp thói quen
tuân thủ các quy định. Như vậy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi về
kinh tế - kỹ thuật, rèn luyện tác phong, lối sống có kỷ cương, tuân thủ pháp
luật. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng còn tạo ra cơ sở
vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp
luật. Bất kỳ một văn bản pháp luật nào khi triển khai thực hiện cũng đòi hỏi
những chi phí cần thiết cho việc tuyên truyền, phổ biến, in ấn tài liệu, biểu mẫu,
31
tổng hợp và phổ biến thông tin có liên quan v.v... Trình độ phát triển kinh tế - xã
hội giao thông, thông tin liên lạc tạo thuận lợi cho các hoạt động nêu trên.
Thực hiện pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi
hỏi phải có những chi phí và điều kiện vật chất nhất định. Những chi phí
này bao gồm chi phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; chi phí cho
các cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện pháp luật, xử lý vi phạm
pháp luật. Kinh phí và điều kiện vật chất phục vụ cho các hoạt động này do
ngân sách Nhà nước đài thọ. Mức độ chi phí và điều kiện vật chất cần thiết
cho việc thực hiện các văn bản pháp luật cũng rất khác nhau. Có những văn
bản pháp luật đòi hỏi mức độ kinh phí và điều kiện vật chất không lớn, trái
lại có những văn bản pháp luật, nếu triển khai thực hiện đòi hỏi kinh phí và
điều kiện vật chất rất lớn. Chẳng hạn, việc xây dựng và lắp đặt đầy đủ các
công trình bảo đảm an toàn giao thông như: Trạm dừng nghỉ dọc đường,
cầu vượt cho người đi bộ, đường cứu nạn, cảnh báo tự động, gác chắn tại
giao cắt giữa đường bộ và đường sắt, đường tránh đô thị và đặc biệt là làn
đường dành cho xe mô tô, xe gắn máy; phát triển hệ thống giao thông tiếp
cận cho người khuyết tật, người cao tuổi và trẻ em đòi hỏi ngân sách Nhà
nước phải chi những khoản lớn... Ở nhiều nước khi ban hành văn bản pháp
luật ngoài việc dành thời gian cho công tác phổ biến, tuyên truyền đến đối
tượng hữu quan, họ còn tính toán cụ thể chi phí cho việc tuyên truyền, phổ
biến, tổ chức thực hiện, xử lý vi phạm.
1.3.3. Bảo đảm về nhận thức
Pháp luật được nhận thức đầy đủ và tự giác thi hành hay không phụ
thuộc vào trình độ văn hóa và ý thức pháp luật của công dân. Thực tiễn cho
thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, không chấp hành, tuân thủ pháp
luật là do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận
Nhân dân. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận công dân có trình độ văn hóa nhất
32
định, hiểu biết pháp luật nhưng đạo đức, nhân cách thấp kém nên vẫn cố tình
vi phạm pháp luật, có những hành vi xử sự không đúng với yêu cầu của pháp
luật. Nhưng nhìn chung trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của Nhân
dân ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật của Nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có
thể tiếp thu, nhận thức nâng cao hiểu biết về pháp luật, xây dựng tình cảm,
lòng tin vào pháp luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo
yêu cầu của pháp luật. Mặt khác, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của Nhân
dân được nâng cao tạo cơ sở thuận lợi để Nhân dân tham gia các hoạt động
giám sát và phản biện xã hội đối với quá trình thực hiện pháp luật của các cơ
quan Nhà nước, cán bộ công chức nhà nước góp phần bảo đảm thực hiện pháp
luật đúng đắn trong toàn xã hội.
1.3.4. Bảo đảm về pháp lý
Để đảm bảo tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật, quy trình
và kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu
cầu nhất định.
Trước hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải được
tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục tiêu
chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính sách
cũng chính là thiết lập tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức thực hiện
pháp luật về sau. Qua đó, những hành vi của các chủ thể cần điều chỉnh sẽ
được xác định với những định hướng cụ thể.
Với mục tiêu điều chỉnh các hành vi, các quy phạm pháp luật về
TTATGT phải xác định rõ các yếu tố của hành vi như chủ thể thực hiện hành
vi, điều kiện thực hiện hành vi. Đây chính là những thông tin cơ bản để các
chủ thể có trách nhiệm thực hiện tốt pháp luật giao thông nói chung và Luật
giao thông đường bộ nói riêng. Các quy định cụ thể, rõ ràng, gắn với trách
33
nhiệm pháp lý sẽ tạo điều kiện cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGT diễn ra thông suốt, có hiệu quả. Mục đích của việc ban hành pháp
luật về giao thông là nhằm điều chỉnh các hành vi của các chủ thể trong tham
gia giao thông. Mong muốn của nhà lập pháp là khuôn mẫu hành vi đó sẽ
được các đối tượng tuân thủ nghiêm minh. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với
hành vi không chỉ rõ ràng mà phải phù hợp với thực tiễn, khoa học và phát
triển.
1.3.5. Các bảo đảm khác
Các bảo đảm về chính trị, kinh tế, nhận thức và pháp lý là các bảo đảm
quan trọng trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, để hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB có hiệu quả cần thiết phải có các bảo đảm khác như: năng lực,
trình độ, ý thức của các cơ quan, cá nhân thực thi công tác phòng, chống vi
phạm pháp luật về TTATGTĐB mà trực tiếp là các lực lượng như Công an,
Thanh tra Giao thông vận tải; chế tài xử phạt đặc biệt quan trọng, bảo đảm
tính răn đe, nghiêm khắc kết hợp với việc phê phán của xã hội, cộng đồng; sự
phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác phòng, chống vi phạm pháp
luật về TTATGTĐB.
34
Tiểu kết Chương 1
Như vậy, về bản chất, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB những hành
vi của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý và theo quy định của pháp luật phải
bị xử lý tùy theo mức độ, tính chất vi phạm.
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có nhiều loại, do nhiều chủ thể thực
hiện, thời gian, không gian khác nhau, trong đó nổi bật là các vi phạm về quy
tắc giao thông đường bộ, vi phạm về phương tiện, người điều khiển phương
tiện, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Vi phạm pháp luật về lĩnh vực này
có tác hại rất lớn, nhiều mặt, vì vậy việc phòng, chống vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB có ý nghĩa lớn, cần sự vào cuộc của nhiều cơ quan, đơn vị và
Nhân dân, trong đó hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật, chương trình, kế
hoạch và công tác tổ chức bộ máy, nhân sự có vai trò rất quan trọng.
Để phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có hiệu quả, cần
có các bảo đảm về chính trị, kinh tế, nhận thức, xã hội, đặc biệt là bảo đảm về
pháp lý trong điều kiện tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền và tăng cường
kỷ cương, kỷ luật trong quản lý Nhà nước.
35
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến vi
phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng
Bình
2.1.1. Điều kiện tự nhiên có liên quan đến vi phạm pháp luật về trật tự an
toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình là danh xưng thiêng liêng của một vùng đất nằm ở Miền
Trung Việt Nam, nơi hội tụ giữa các yếu tố tự nhiên và văn hóa của cả hai
miền Nam - Bắc, đã có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, kết tinh
nhiều giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần độc đáo. Với vị trí địa lý cách Thủ
đô Hà Nội khoảng 500 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh
1.200 km về phía Bắc. Phía Đông có bờ biển dài 116,04 km, phía Tây giáp
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với đường biên giới dài 201,87 km, có
Cửa khẩu quốc tế Cha Lo, lại nằm trên hành lang kinh tế Đông Tây, Quảng
Bình có vị trí địa chính trị, quân sự và kinh tế quan trọng của cả nước [27].
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.003 km2, dân số năm 2017 là 882.505
người, chiếm 2,45% về diện tích và 1,02% dân số cả nước. Quảng Bình có 8
đơn vị hành chính cấp huyện; có 159 đơn vị hành chính cấp xã gồm: 01 thành
phố, 01 thị xã, 6 huyện, 16 phường, 07 thị trấn và 136 xã.
36
Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình
Đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km²
Tên Diện tích Dân số Mật độ
Tổng số Thành phố Đồng Hới Thị xã Ba Đồn Huyện Minh Hóa Huyện Tuyên Hoá Huyện Quảng Trạch Huyện Bố Trạch Huyện Quảng Ninh Huyện Lệ Thuỷ 8.000 156 162 1.394 1.129 448 2.115 1.194 1.402 882.505 119.222 106.980 50.708 80.030 106.947 184.371 90.794 143.453 110 764 660 36 71 239 87 76 102
(Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Bình năm 2017)
Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. Toàn bộ
diện tích được chia thành các vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi
và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Khí hậu Quảng Bình nằm ở
vùng nhiệt đới gió mùa, được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 9
đến tháng 3 năm sau, mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan đến vi phạm pháp luật về trật
tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình
Quảng Bình có hệ thống giao thông vận tải thuận lợi cho việc giao
thương với các vùng miền, khu vực trên thế giới, có sân bay Đồng Hới, tuyến
đường sắt bắc nam, quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh đi qua hầu hết các vùng
dân cư, quốc lộ 12A nối Quảng Bình với Lào và đông bắc Thái Lan. Vận tải
bằng đường biển và đường sông cũng là lợi thế của tỉnh. Quảng Bình có 5 cửa
sông, đặc biệt cảng biển Hòn La là nơi có mực nước sâu, mặt nước rộng lớn,
xung quanh là quần thể đảo che chắn gió tạo điều kiện thuận lợi cho tàu trọng
tải lớn ra vào, neo đậu.
37
Đặc biệt, Quảng Bình là nơi hội đủ các yếu tố về giao thông đường bộ.
Trên địa bàn tỉnh có 822km đường quốc lộ, 438km đường tỉnh, 1.346km đường
huyện và đường nội thị, 9.455 km đường giao thông nông thôn, 230km đường
thủy nội địa, đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về giao thông vận tải. Hệ thống
đường bộ của tỉnh bao gồm:
- Quốc lộ 1 từ km 595+500 xã Quảng Đông - Quảng Trạch đến km
17+500 xã Sen Thủy - Lệ Thủy Quảng Bình.
- Quốc lộ 12A xuất phát tại Ba Đồn (km 621 +100 QL1A đến thị trấn
Đồng Lê - Hồng Hóa - thị trấn Quy Đạt - ngã ba Pheo (Km 898 + 050/
ĐHCM) đi chung với đường Hồ Chí Minh đến ngã ba Khe Ve (Km
873+400/ĐHCM) đi theo Quốc lộ 12A hiện tại và kết thúc tại km 142+500
Cửa khẩu Cha Lo.
- Quốc lộ 12C: Xuất phát từ cảng Vũng Áng - Quốc lộ 1 (Km 573 +
420/QL1) đi chung với quốc lộ 1 đến Km 565 +100/QL1 (thị trấn Kì Anh) đi
theo tuyến mới đến Đồng Lê- đi chung với quốc lộ 12A đến ngã ba Hồng Hóa
- Hóa Tiến kết thúc tại ngã ba giao cắt với đường Hồ Chí Minh tại Km
879+800/Đường Hồ Chí Minh.
- Đường Hồ Chí Minh: đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, đường Hồ
Chí Minh nhánh Tây.
- Quốc lộ 15 dài 69 km, xuất phát từ xã Hương Hóa - Tân Ấp huyện
Tuyên Hóa đến xã Trường Thủy huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.
- Quốc lộ 9B: Xuất phát từ thị trấn Quán Hàu giáp quốc lộ 1 đến xã
Trường Sơn đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.
- Quốc lộ 9C: Xuất phát từ xã Cam Thủy huyện Lệ Thủy giáp Quốc lộ 1
đến bản làng Ho giáp đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.
- Hệ thống tỉnh lộ gồm có 14 tuyến có tổng chiều dài 364 km, có 29 cầu
các loại với tổng chiều dài là 401m, 3 ngầm có chiều dài 205 m.
38
- Đường nội thị thành phố Đồng Hới.
- Đường huyện xã có 744 km đường huyện và 2.647 km đường xã, đến
nay đã được bê tông hóa 100%.
Nhìn chung, hệ thống giao thông cơ bản hoàn thiện, kết nối được các
trọng điểm kinh tế lớn của tỉnh với các địa phương khác. Thời gian qua, trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình có nhiều công trình lớn mang tính kết nối cao, phục
vụ cho các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của tỉnh đã và đang được
đầu tư xây dựng, kết nối Quảng Bình với cả nước và các nước trong khu vực,
góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặc
dù vậy, so với nhu cầu sự phát triển của hệ thống giao thông chưa tạo được
bước đột phá cho nền kinh tế, nhiều công trình vẫn còn ở cấp kỹ thuật thấp,
một số địa bàn việc đi lại của người dân vẫn còn gặp khó khăn.
Những đặc điểm kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng giao thông ở Quảng
Bình đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB trên địa bàn.
Ngoài ra, hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông
đường bộ nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác như công tác điều hành quản lý, công tác xây dựng, thực thi văn quy
phạm pháp luật giao thông đường bộ, công tác tổng kết, đánh giá và rút ra bài
học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB, công tác
tuần tra, thanh tra, kiểm soát [13, Tr.41].
2.2. Thực tiễn vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
ở tỉnh Quảng Bình
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế, xã hội,
số lượng phương tiện giao thông, tình hình vi phạm giao thông trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình có số lượng khá lớn, diễn biến phức tạp với nhiều loại lỗi.
39
Tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB bị xử phạt và số tiền phạt nộp
ngân sách nhà nước thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.2 (1): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên
địa bàn tỉnh của Công an tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019
2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nội dung
31.821 29.828 26.154 26.009 22.189 136.001 Số vi phạm
31,29 29,4 31,9 36,8 33,6 162,99 Số tiền phạt (tỷ đồng)
(Nguồn: tác giả tổng hợp từ [1,2,3,4,5] )
Như vậy trong vòng 5 năm (2015-2019) tổng số vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB do Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý là hơn 136 ngàn
trường hợp với số tiền xử phạt gần 163 tỷ đồng. Phân tích số liệu hàng năm
cho thấy số lượng vi phạm có giảm nhưng số tiền phạt hàng năm tăng lên (do
số vụ vi phạm nghiêm trọng tăng). Cụ thể các năm như sau:
- Năm 2015, lực lượng CSGT toàn tỉnh đã thực hiện 12.653 ca với 48.925
lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 31.821 trường hợp. Phạt tại
chỗ 3.744 trường hợp, thu tiền 530.440.000 đồng. Tạm giữ phương tiện 6.565
trường hợp (ô tô 480 trường hợp; mô tô 5.782 trường hợp; xe khác 303 trường
hợp).
Về lỗi vi phạm:
Đối với ô tô: lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 1.683 trường hợp;
Đèn tín hiệu, đèn soi biển số: 939 trường hợp; tự ý thay đổi kích thước thành
thùng xe: 1.215 trường hợp; biển số không rõ, bị che lấp: 355 trường hợp; chở
hàng trong khoang chở khách: 269 trường hợp; không sử dụng đèn chiếu sáng:
508 trường hợp; đậu, đỗ không đúng nơi quy định: 277 trường hợp; không Giấy
phép lái xe: 118 trường hợp; không hoặc hết hạn kiểm định an toàn kỹ thuật: 125
trường hợp; xe khách chở quá số người quy định: 233 trường hợp; đi không
40
đúng phần đường: 85 trường hợp; quá tải: 1.204; vi phạm nồng độ cồn: 85
trường hợp; vi phạm tốc độ: 4.739 trường hợp.
Đối với mô tô: không đội mũ bảo hiểm: 3.654 trường hợp; vi phạm nồng
độ cồn: 1.904 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 3615 trường hợp; không
có chứng nhận đăng ký: 1.935 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân
sự: 2.269 trường hợp; kéo theo xe khác: 322 trường hợp; chở quá số người quy
định: 488 trường hợp; vượt đèn đỏ: 276 trường hợp; không chấp hành hiệu lệnh
Cảnh sát giao thông: 159 trường hợp.
Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: Đã thi hành
quyết định xử phạt: 25.125 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước
tỉnh 31.290.630.500 đồng. Trong đó ra quyết định xử lý lỗi quá tải: 1.145
trường hợp, thu vào kho bạc Nhà nước 7.144.750.000 đồng.
Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.862 trường hợp. Thông báo vi
phạm theo Thông tư 38 của Bộ Công an và Nghị định 81 của Chính phủ đến
cơ quan, đơn vị nơi cư trú của người vi phạm: 5.313 trường hợp [1].
- Năm 2016, lực lượng CSGT toàn tỉnh đã thực hiện 12.538 ca với 49.613
lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 29.828 trường hợp (ô tô
12.742 trường hợp, mô tô 16.980 trường hợp, 11 xe công nông, 01 máy kéo, 94
xe máy điện). Phạt tại chỗ 3.893 trường hợp, thu tiền 495.260.000 đồng. Tạm
giữ phương tiện 6.000 trường hợp (ô tô 462 trường hợp; mô tô 5.467 trường hợp;
xe công nông 11 trường hợp, 01 máy kéo, 1 ô tô điện, 58 xe máy điện).
Một số lỗi vi phạm, xử lý theo chuyên đề chủ yếu:
+ Nồng độ cồn: 1.790 trường hợp;
+ Quá tốc độ quy định: 4.815 trường hợp;
+ Không đội mũ bảo hiểm: 2.220 trường hợp;
+ Chở hàng quá tải: 647 trường hợp;
+ Không chấp hành hiệu lệnh: 80 trường hợp;
41
+ Xếp hàng quá giới hạn: 68 trường hợp;
+ Không có các loại giấy tờ liên quan đến phương tiện và người điều khiển
phương tiện: 6.217 trường hợp;
+ Xử lý xe ô tô biển xanh: 1 trường hợp;
+ Người điều khiển sử dụng chất ma túy: 4 trường hợp;
Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: Đã thi hành quyết
định xử phạt: 26.658 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh
29.424.978.000 đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.695 trường hợp.
Tiến hành làm thủ tục tiêu hủy, bán phế liệu 04 xe ô tô hết niên hạn
sử dụng, 01 xe mô tô ba bánh tự sản xuất lắp ráp, 346 xe mô tô không có
nguồn gốc.
Phối hợp với bưu điện tỉnh thu nộp tiền phạt, chuyển trả giấy tờ cho
người vi phạm qua dịch vụ bưu điện 94 trường hợp [2].
- Năm 2017, lực lượng CSGT toàn tỉnh thực hiện 13.064 ca với 56.533
lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 26.154 trường hợp. Phạt tại
chỗ 6.849 trường hợp, thu tiền 841.585.000 đồng. Tạm giữ 5.069 trường hợp (Ô
tô 840 trường hợp; Mô tô 4.048 trường hợp; xe khác 181 trường hợp).
Trong đó, Phòng Cảnh sát giao thông đã thực hiện 6.778 ca với 30.655
lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 13.619 trường hợp. Phạt tại
chỗ 3.214 trường hợp, thu tiền 355.310.000 đồng. Tạm giữ phương tiện 1.433
trường hợp (ô tô 530 trường hợp; mô tô 903 trường hợp).
Một số lỗi vi phạm, xử lý theo chuyên đề chủ yếu:
+ Ô tô: Vi phạm nồng độ cồn: 123 trường hợp; vi phạm chạy quá tốc
độ: 3.741 trường hợp (xe khách: 1.086 trường hợp, xe tải: 1.171 trường hợp, xe
con: 1.870 trường hợp); quá tải 250 trường hợp; lốp không đảm bảo tiêu chuẩn
kỹ thuật: 653 trường hợp; không có đèn tín hiệu, đèn soi biển số: 809 trường
hợp; lắp thùng xe có kích thước không đúng thiết kế nhà sản xuất: 495 trường
42
hợp; biển số mờ: 406 trường hợp; để hàng trong khoang chở khách: 235 trường
hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu sáng: 169 trường hợp; đậu đỗ không đúng nơi
quy định: 168 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 267 trường hợp; không
kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 252 trường hợp; không chứng
nhận đăng kiểm: 166 trường hợp; đưa phương tiện hết hạn kiểm định tham gia
giao thông: 20 trường hợp; không bạt che phủ 20 trường hợp; không thắt dây an
toàn: 174 trường hợp.
+ Môtô: vi phạm nồng độ cồn: 694 trường hợp; không Giấy phép lái xe:
1.282 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1004 trường hợp; không có
bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 1011 trường hợp; kéo theo xe khác: 46 trường
hợp; không đội mũ bảo hiểm: 581 trường hợp; chạy quá tốc độ: 76 trường
hợp.
Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: toàn tỉnh ra
quyết định xử phạt: 24.683 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh
31.977.737.000 đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.949 trường hợp.
Trong đó, Phòng Cảnh sát giao thông đã thi hành quyết định xử phạt:
10.667 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh 20.908.330.000
đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 1.640 trường hợp.
Phối hợp với bưu điện tỉnh thu nộp tiền phạt, chuyển trả giấy tờ cho
người vi phạm qua dịch vụ bưu điện: 572 trường hợp.
Tiêu hủy, bán phế liệu 12 xe ô tô hết niên hạn sử dụng (Phòng Cảnh sát
giao thông tiêu hủy 2 ô tô, thu tiền 925.200.000 đ; Công an huyện Minh Hóa
tiêu hủy, bán phế liệu 8 ô tô, thu tiền 24.000.000 đ); thanh lý 828 xe mô tô và
2 ô tô không có nguồn gốc. Hiện nay, tại kho tạm giữ còn 913 phương tiện
(bao gồm: phương tiện bị tạm giữ có đủ điều kiện là 786 xe, phương tiện
đang làm thủ tục tịch thu là 87 xe, phương tiện mục nát không sử dụng được
là 40 xe) [3].
43
- Năm 2018, lực lượng Cảnh sát giao thông toàn tỉnh đã tổ chức 12.544 ca
với 60.140 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 26.009 trường hợp
(13.287 ôtô, 12.720 môtô), trong đó phạt tại chỗ 4.856 trường hợp, thu tiền
669.510.000 đồng; Tạm giữ phương tiện: 5.253 trường hợp (761 ôtô, 4.635
môtô). Trong đó:
+ Phòng Cảnh sát giao thông: Tổ chức 6.801 ca, với 32.570 lượt cán bộ
chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 15.736 trường hợp vi phạm (10.667 ôtô,
5.069 môtô); tạm giữ phương tiện: 1.340 trường hợp (534 ôtô, 806 môtô).
Phạt tại chỗ 2.386 trường hợp, thu tiền phạt 403.100.000đ.
+ Công an các địa phương: Tổ chức 7.244 ca, với 27.570 lượt cán bộ
chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 10.273 trường hợp vi phạm (2.620 ôtô,
7.651 môtô); tạm giữ phương tiện: 3.913 trường hợp (227 ôtô, 3.829 môtô).
Phạt tại chỗ 2.470 trường hợp, thu tiền phạt 266.410.000đ.
Một số lỗi vi phạm chủ yếu:
+ Ô tô: vi phạm nồng độ cồn: 222 trường hợp; chạy quá tốc độ: 5.095
trường hợp (xe khách 1.476 trường hợp, xe tải 1.423 trường hợp, xe con 2.689
trường hợp); quá tải 141 trường hợp (lái xe 110 trường hợp, chủ xe 41 trường
hợp); lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 1.104 trường hợp; không có đèn
tín hiệu, đèn soi biển số: 1.282 trường hợp; lắp thùng xe có kích thước không
đúng thiết kế nhà sản xuất: 836 trường hợp; biển số mờ: 540 trường hợp; để
hàng trong khoang chở khách: 345 trường hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu sáng:
130 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 131 trường hợp; đậu đỗ
không đúng nơi quy định: 195 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 440
trường hợp; không kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 338 trường
hợp; không chứng nhận: 282 trường hợp; đưa phương tiện hết hạn kiểm định
tham gia giao thông: 116 trường hợp; không bạt che phủ: 148 trường hợp;
không thắt dây an toàn: 33 trường hợp; không có phù hiệu: 23 trường hợp;
44
giao xe không có phù hiệu: 19 trường hợp; chở hàng vượt quá chiều cao (dài):
64 trường hợp; chủ xe giao xe chở quá chiều cao (dài): 38 trường hợp; chở
quá khách: 101 trường hợp; chủ xe giao xe chở quá khách: 89 trường hợp;
không chấp hành hiệu lệnh dừng xe: 22 trường hợp; các lỗi khác: 1.218 trường
hợp.
+ Môtô: vi phạm nồng độ cồn: 1.592 trường hợp; không Giấy phép lái
xe: 2.901 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1.500 trường hợp; không
có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 4141 trường hợp; kéo theo xe khác: 245
trường hợp; xếp hàng quá giới hạn: 40 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm:
1.499 trường hợp; chạy quá tốc độ: 278 trường hợp; không chấp hành hiệu
lệnh dừng xe: 09 trường hợp; vượt đèn đỏ: 08 trường hợp; lỗi khác: 2.356
trường hợp.
Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: ra quyết định
xử phạt: 24.296 trường hợp. Thu nộp ngân sách nhà nước: 36.835.450.000 tỷ
đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.388 trường hợp [4].
- Năm 2019, lực lượng Cảnh sát giao thông toàn tỉnh đã tổ chức được
11.341 ca, với 54.023 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia; phát hiện xử lý 22.189
trường hợp vi phạm (9.185 ôtô, 12.994 môtô, 10 xe khác) trong đó phạt tại
chỗ 6.373 trường hợp, thu tiền 791.170.000đ; Tạm giữ phương tiện: 5.968
trường hợp (1.245 ôtô, 4.702 môtô, 21 xe khác).
Một số lỗi vi phạm chủ yếu:
+ Ô tô: vi phạm nồng độ cồn: 534 trường hợp; chạy quá tốc độ: 2.995
trường hợp (xe khách 512 trường hợp, xe tải 886 trường hợp, xe con 1.597
trường hợp); quá tải 113 trường hợp (lái xe 78 trường hợp, chủ xe 35 trường
hợp); lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 666 trường hợp; không có đèn
tín hiệu, đèn soi biển số: 705 trường hợp; lắp thùng xe có kích thước không
đúng thiết kế nhà sản xuất: 1.064 trường hợp; biển số mờ: 316 trường hợp; để
45
hàng trong khoang chở khách: 84 trường hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu
sáng: 55 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 171 trường hợp;
đậu đỗ không đúng nơi quy định: 234 trường hợp; không có Giấy phép lái xe:
386 trường hợp; không kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 513
trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 310 trường hợp; đưa phương tiện
hết hạn kiểm định tham gia giao thông: 210 trường hợp; không bạt che phủ:
188 trường hợp; không có phù hiệu: 16 trường hợp; giao xe không có phù
hiệu: 16 trường hợp; chở hàng vượt quá chiều cao (dài): 96 trường hợp; chủ
xe giao xe chở quá chiều cao (dài): 46 trường hợp; chở quá khách: 36 trường
hợp; chủ xe giao xe chở quá khách: 38 trường hợp; không chấp hành hiệu
lệnh dừng xe: 06 trường hợp; sử dụng ma túy: 01 trường hợp; các lỗi khác:
715 trường hợp.
+ Mô tô: vi phạm nồng độ cồn: 1.141 trường hợp; không Giấy phép lái
xe: 2.796 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1.475 trường hợp; không
có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 4.073 trường hợp; kéo theo xe khác: 330
trường hợp; xếp hàng quá giới hạn: 07 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm:
3.151 trường hợp; chạy quá tốc độ: 187 trường hợp; sử dụng ma túy: 01
trường hợp; lỗi khác: 1.795 trường hợp.
Xử lý vi phạm: Ra quyết định xử phạt: 22.079 trường hợp (13.992 ôtô;
8.075 môtô; 12 xe khác). Thu nộp ngân sách nhà nước: 33.645.612.000 đồng.
Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.958 trường hợp [5].
Bên cạnh lực lượng Công an, thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh
Quảng Bình đã phát hiện, xử lý nhiều sai phạm, nhất là các vi phạm về tải
trọng xe và thay đổi kích thước thành thùng chở hàng của xe ô tô tải. Đi liền
với việc tăng cường công tác tuyên truyền và ký cam kết, lực lượng Thanh tra
Giao thông đã tăng cường công tác kiểm soát tải trọng xe. Đặc biệt, tập trung
kiểm tra, xử lý tại các điểm đầu mối bốc xếp hàng hóa, mỏ vật liệu, nhà máy
46
xi măng và các tuyến đường có lưu lượng phương tiện giao thông vận tải
đường bộ lớn trên địa bàn.
Bảng 2.2 (2):
Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh
của Thanh tra Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019
Số liệu tổng thể Số liệu theo hành vi vi phạm, theo hình thức xử lý
Phạt nguội Trực tiếp tại hiện trường
Năm
Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng) Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng) Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng)
2015 823 2.284 823 2.284
2016 393 936 393 936
2017 409 1.120 381 1.045 28 75
2018 330 927 296 847 34 80
2019 409 1.232 400 1.218 9 14
6.499 2293 6.330 71 169 Tổng 2.364
(Nguồn: Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình)
Như vậy, trong 5 năm, tổng số vụ vi phạm bị xử phạt gần 2.300 vụ với
số tiền phạt gần 6,5 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là vi phạm phát hiện, xử lý tại
hiện trường.
Đặc biệt, từ ngày 15-5 đến 15-6-2019, Thanh tra Sở Giao thông vận tải
đã chủ trì phối hợp với Chi Cục quản lý đường bộ II mở đợt cao điểm kiểm
tra xử lý vi phạm đối với hành vi tự ý thay đổi kích thước thùng chở hàng và
các hành vi vi phạm khác, qua đó, phát hiện và lập biên bản vi phạm hành
chính 32 trường hợp vi phạm (điều khiển xe ô tô lắp thùng xe có kích thước
không đúng thiết kế nhà sản xuất, tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng, kích thước
47
thùng xe, chở hàng vượt trọng tải cho phép...) với tổng số tiền phạt hơn 125
triệu đồng [31].
Đối với các trường hợp vi phạm tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng, kích thước
thành thùng xe không đúng thiết kế nhà sản xuất, ngoài việc bị lập biên bản vi
phạm còn bị tạm giữ Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi
trường, tem kiểm định; đồng thời yêu cầu người vi phạm khôi phục lại hình
dáng, kích thước, tình trạng an toàn kỹ thuật như ban đầu của xe và đăng kiểm
lại trước khi đưa phương tiện ra tham gia giao thông theo quy định.
Cùng với việc xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm, lực lượng Thanh
tra Sở Giao thông vận tải còn tuyên truyền và giải thích rõ các quy định của
pháp luật về kích thước thành thùng xe, tải trọng, khổ giới hạn xe cho các đối
tượng vi phạm, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật. Vận
động các lái xe, chủ xe chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật khi
tham gia giao thông.
Từ việc thực hiện đồng bộ các giải pháp tích cực nói trên của Thanh tra
Sở Giao thông vận tải đã góp phần làm giảm đáng kể tình trạng phương tiện
giao thông đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và đặc biệt là việc tự ý
thay đổi kích thước thùng chở hàng của xe ô tô tải. Ý thức chấp hành các quy
định về vận tải đường bộ của chủ hàng, lái xe, chủ xe, doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải, cung cấp hàng hóa đã được nâng lên [31].
Từ những nỗ lực phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB
nói trên tình hình tai nạn giao thông trong những năm gần đây đều có chiều
hướng giảm, nhất là năm 2019. Năm 2019, tai nạn giao thông trên địa bàn
tỉnh tiếp tục giảm về số vụ, người chết và người bị thương so với năm 2018.
Số người chết do tai nạn giao thông tiếp tục giảm sâu, không xảy ra tai nạn
giao thông đặc biệt nghiêm trọng. Tính từ ngày 15/12/2018 - 14/12/2019, toàn
tỉnh xảy ra 205 vụ tai nạn giao thông, làm chết 93 người, bị thương 155
48
người. So với năm 2018, giảm 13 vụ, giảm 12 người chết, giảm 07 người bị
thương. Đây là năm thứ 10 liên tục tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh giảm
cả 03 tiêu chí.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phát hiện, xử lý vi phạm
pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình còn hạn chế, bất cập và gặp
nhiều khó khăn. Người vi phạm tìm nhiều phương thức, hành vi nhằm che
dấu, chống đối việc phát hiện, xử lý của các lực lượng chức năng; số lượng vi
phạm nguy hiểm ngày càng tăng liên quan đến tải trọng, tốc độ, sử dụng ma
túy, rượu bia;... Đặc biệt là khó khăn trong xử lý vi phạm thông qua camera
giám sát.
Hệ thống camera giám sát ghi nhận số trường hợp vi phạm là rất lớn
nhưng số trường hợp thực tế có đủ dấu hiệu chứng minh vi phạm lại rất thấp.
Nguyên nhân được cơ quan chức năng lý giải là do: Vào buổi tối, ánh sáng
yếu nên camera khó nhận diện được đầy đủ các ký tự của biển số. Hệ thống
không nhận diện được khi tín hiệu đèn là các mũi tên dẫn đến việc khi mũi tên
xanh bật sáng thì các phương tiện được rẽ trái nhưng hệ thống vẫn báo lỗi
không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; nhiều phương tiện chỉ
vi phạm lỗi không chấp hành hiệu lệnh của báo hiệu đường bộ, vạch sơn kẻ
đường nhưng hệ thống vẫn báo lỗi không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín
hiệu giao thông. Trong khi đó, quá trình xác minh và xử lý vi phạm phức tạp,
nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, công sức.
2.3. Thực tiễn phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Xây dựng, ban hành văn bản, chương trình, kế hoạch
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATGTĐB trước hết
căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật
khác. Cho đến nay, ngoài Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ,
49
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an và các bộ ngành có liên quan, Ủy Ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng và ban hành
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật với 20 Nghị định của Chính phủ, 01
quyết định của Thủ tướng chính phủ, 138 thông tư và thông tư liên tịch [15].
Hệ thống văn bản pháp luật đa dạng đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho công tác tổ
chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh. Đồng thời các văn
bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh đã cụ thể hóa các nội dung
quy định của văn bản cấp trên đáp ứng yêu cầu giảm thiểu tai nạn giao thông
hiện nay. Nhằm tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật trên một cách hiệu
quả, phù hợp với thực tiễn, UBND tỉnh Quảng Bình và các cơ quan chức năng
đã ban hành và tham mưu ban hành nhiều văn bản pháp luật.
Bảng 2.3: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về TTATGTĐB
tỉnh Quảng Bình
UBND Ban Công an Năm Sở Các sở ban, Tổng
ATGT GTVT ngành khác tỉnh tỉnh
2015 26 150 61 22 117 376
2016 22 165 63 29 178 457
2017 43 160 65 31 164 463
2018 34 155 62 30 186 467
2019 39 162 64 32 176 473
(Nguồn: Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình các năm 2015, 2016,
2017, 2018, 2019)
Bảng số liệu trên cho thấy, tùy vào tính chất công việc triển khai tổ
chức thực hiện pháp luật về TTATGT hàng năm mà các cơ quan, tổ chức ban
hành số lượng văn bản khác nhau. Thực tế cho thấy, các đơn vị, địa phương
đã quyết liệt trong việc gắn trách nhiệm người đứng đầu cũng như tham mưu
50
cho cấp ủy và lãnh đạo ban hành nhiều văn bản chỉ đạo với nhiều giải pháp
trong công tác đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn.
Một trong những văn bản có ý nghĩa chiến lược, định hướng về công tác
đảm bảo TTATGTĐB của tỉnh là Quyết định số 970/QĐ-UBND “Chiến lược
đảm bảo TTATGTĐB tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2030” do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành vào ngày 02 tháng 5 năm 2013 đã
đặt ra mục tiêu đảm bảo hiệu quả TTATGT, giảm thiểu tai nạn. Trên cơ sở
chiến lược này, hằng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Ban An toàn giao
thông (BATGT) tỉnh, các huyện thị xã, thành phố triển khai thực hiện bằng
các chủ đề cụ thể. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền an toàn giao thông
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Năm 2015, lực lượng Cảnh sát giao thông đã tích cực tham mưu cho
Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình, BATGT tỉnh Quảng Bình ban hành nhiều
Chỉ thị, chương trình, kế hoạch, trong đó đã nhấn mạnh về tăng cường thực
hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGTĐB, đặt rõ chỉ tiêu giảm tai
nạn giao thông và hạn chế ùn tắc giao thông, thực hiện chủ trương “Nâng cao
tinh thần trách nhiệm của người thực thi công vụ” theo tinh thần Nghị quyết
88/CP của Chính phủ về bảo đảm TTATGT, Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày
23/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao thông nghiêm trọng trong hoạt
động vận tải; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 03/10/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn
giao thông hàng hải và đường thủy nội địa; các Kế hoạch của Uỷ ban An toàn
giao thông Quốc gia và của Bộ Công an về các giải pháp bảo đảm
TTATGTĐB, kiềm chế tai nạn giao thông [1].
Từ năm 2016-2018, công tác xây dựng, ban hành văn bản, chương
trình, kế hoạch tiếp tục được quan tâm như: Năm 2016, Công an tỉnh Quảng
51
Bình tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng, ban hành Quyết định số
266/QĐ-UBND ngày 01/02/2016 về việc ban hành Kế hoạch phối hợp thực
hiện việc tuần tra, kiểm soát xử lý hành vi vi phạm chở hàng quá tải trọng của
xe ô tô vận chuyển hành hóa trên đường bộ, tỉnh Quảng Bình [2]. Năm 2017,
Công an tỉnh Quảng Bình tham mưu cho Tỉnh ủy Quảng Bình báo cáo sơ kết
5 năm thực hiện Chỉ thị số 18 của Ban Bí thư Trung ương; cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh công văn chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận hội nghị tổng kết Kế
hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA của Bộ Công an và Bộ Giao thông vận
tải về kiểm soát tải trọng xe; tham gia góp ý Dự thảo 01 Chỉ thị của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy; 01 Nghị định, 02 Đề án, 05 kế hoạch và 01 công văn của
Ủy ban nhân dân tỉnh [3]. Năm 2018, Phòng Cảnh sát giao thông đã tham
mưu cho Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình 01 chương trình, 13 kế hoạch, 2
kế hoạch phối hợp liên ngành; 13 phương án, 14 công văn chỉ đạo, triển khai
thực hiện công tác bảo đảm TTATGTĐB. Ngoài ra, chủ động ban hành 59 kế
hoạch, 24 phương án, 89 báo cáo [4].
Năm 2019, tiếp tục thực hiện năm an toàn giao thông với chủ đề "An
toàn cho hành khách và người đi mô tô, xe máy", chủ động, kịp thời trong
công tác tham mưu văn bản chỉ đạo triển khai các giải pháp bảo đảm
TTATGT, Công an tỉnh Quảng Bình đã tham mưu cho Tỉnh ủy Quảng Bình
ban hành Kế hoạch số 104-KH/TU ngày 02/4/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy; cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 703/KH-UBND ngày
16/5/2019 về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của
Ban Bí thư (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn
tắc giao thông”. Tham mưu Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình ban hành 41
Kế hoạch, 40 Phương án, 06 Báo cáo, 37 Công văn, 05 kiến nghị chỉ đạo thực
52
hiện các mặt công tác và kiến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm TTATGTĐB,
trong đó xuyên suốt Kế hoạch số 2348/KH-CAT-PV01-PC08 về thực hiện
Nghị quyết số 12/NQ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về tăng cường công
tác bảo đảm TTATGTĐB và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019-2021.
Chủ động xây dựng 148 kế hoạch, 164 phương án, 211 báo cáo, 255 công
văn, 6 tờ trình, 3 kiến nghị. Đặc biệt, chủ động tham mưu cho Lãnh đạo Công
an tỉnh Quảng Bình thành lập Tổ phản ứng nhanh (ký hiệu 141.QB), trong đó
lực lượng Cảnh sát giao thông là lượng nồng cốt, làm tổ trưởng có chức năng
tuần tra, kiểm soát, đảm bảo an ninh trật tự và TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình [5].
Về hạn chế: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng
pháp luật ở trung ương và địa phương còn chậm, tình trạng nợ đọng văn bản
hướng dẫn còn phổ biến; nhiều quy định về xử lý vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB không thể áp dụng do không phùi hợp hoặc thiếu nguồn lực; một số
cấp uỷ Đảng, nhất là cấp uỷ Đảng cơ sở chưa thực sự quan tâm sâu sát, chưa
nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc chỉ đạo xây dựng, ban hành văn bản
về công tác bảo đảm TTATGT; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc
việc thực hiện chưa thường xuyên, liên tục, thiếu quyết liệt; chưa thực sự triển
khai đầy đủ các giải pháp, chưa huy động cả hệ thống chính trị để thực hiện,
nhận thức đơn thuần là trách nhiệm của ngành Công an và Giao thông vận tải.
2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT là một trong
những hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật phổ biến. Trong quá trình triển
khai thực hiện đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng. Nội
dung công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao
thông đường bộ là tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho Nhân dân chấp
hành luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt động vận
53
tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các
đối tượng tham gia giao thông đường bộ, nhất là đội ngũ lái xe, chủ xe, chủ
hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ. Đồng thời, phổ biến các
thông tin về tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông,
quyền, nghĩa vụ pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp trong tham gia giao thông.
Trong thời gian qua các cơ quan chức năng ở tỉnh Quảng Bình đã tiến
hành tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTATGTĐB với nhiều hình thức đa
dạng, phù hợp với từng đối tượng người nghe. BATGT tỉnh phối hợp với Tạp
chí sinh hoạt Chi bộ mỗi số dành một trang cho chuyên mục “An toàn giao
thông”, nội dung đăng tải do Văn phòng BATGT tỉnh đảm nhận; đưa nội
dung an toàn giao thông vào tất cả các cuộc sinh hoạt chi bộ, đến từng đảng
viên. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn
dân tham gia bảo đảm TTATGT”. BATGT tỉnh ký các Chương trình phối hợp
với Hội Nông dân tỉnh về đẩy mạnh cuộc vận động “Nông dân tham gia bảo
đảm TTATGT”; với Hội Liên hiệp phụ nữ về cuộc vận động “Phụ nữ tham gia
bảo đảm TTATGT vì hạnh phúc của mỗi gia đình”; với Sở Y tế về “Tăng
cường công tác y tế nhằm giảm thiểu thiệt hại tai nạn giao thông”; với Hội Cựu
chiến binh về thực hiện cuộc vận động “Cựu chiến binh Việt Nam tham gia giữ
gìn TTATGT”; với Sở Giáo dục và Đào tạo về “Tăng cường công tác giáo dục
kiến thức an toàn giao thông trong trường học giai đoạn 2013 - 2018”; với tỉnh
Đoàn về “đẩy mạnh công tác giáo dục an toàn giao thông trong đoàn viên,
thanh thiếu nhi, học sinh, sinh viên giai đoạn 2012 - 2017”. Đặc biệt, các cơ
quan chức năng đã tập trung tuyên truyền vào đối tượng có nguy cơ gây tai
nạn giao thông cao như lái xe khách, thanh thiếu niên trên địa bàn nông thôn,
góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa giao thông cho người dân trên địa
bàn. Trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTATGTĐB lực
54
lượng Cảnh sát giao thông giữ vai trò hết sức quan trọng. Cảnh sát giao thông
hằng năm tổ chức thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền với những nội
dung, hình thức, phù hợp với từng điều kiện cụ thể để triển khai thực hiện các
nghị quyết, quyết định của Đảng và Chính phủ, các kế hoạch phương án của
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an về công tác đảm bảo TTATGTĐB. Việc
triển khai được thực hiện đến từng đối tượng cụ thể như học sinh, sinh viên
các trường học trên địa bàn tỉnh, bằng và thông qua các hội thi tìm hiểu Luật
Giao thông đường bộ, hội thi lái xe an toàn... Trong năm 2017, BATGT tỉnh,
Sở Giao thông vận tải đã cấp phát 1.500 tờ gấp và 5.000 tờ rơi tuyên truyền ,
1.000 cuốn cẩm nang “An toàn giao thông nông thôn”, 1.720 áp phích, 100
cuốn “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về tải
trọng phương tiện đường bộ”, 3.000 cuốn “Cẩm nang phòng chống tai nạn
giao thông do uống rượu, bia”; 1.000 tờ rơi tuyên truyền tháng cao điểm an
toàn giao thông cho học sinh đến trường ; 2.360 cuốn “ Làm quen với Luật
giao thông cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9”; tặng 350 mũ bảo hiểm cho học
sinh trường Tiểu học Tân Ninh – huyện Quảng Ninh; phối hợp với Sở Thông
tin và truyền thông, Công an tỉnh, Đài phát thanh và truyền hình, Báo Quảng
Bình xây dựng và phát sóng 26 chuyên mục, 16 phóng sự, 92 tin bài, duy trì
và thực hiện điểm tin TTATGT hằng ngày trên sóng phát thanh truyền hình
tỉnh, hàng số, hàng tháng trên báo Quảng Bình [13; Tr,42]. Nhìn chung các
địa phương, đơn vị đã tích cực đẩy mạnh công tác, tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật về TTATGT trên địa bàn. Quá trình thực hiện, đã có nhiều
hình thức tuyên truyền thực hiện có hiệu quả góp phần thay đổi nhận thức và
thái độ của Nhân dân về TTATGT.Với việc triển khai tích cực các biện pháp
tuyên truyền nên tình hình TTATGT trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích
cực, ý thức chấp hành luật giao thông của cán bộ, học sinh và Nhân dân ngày
càng được nâng lên, các hành vi vi phạm luật giao thông giảm dần. Trong 5
55
năm liền, Quảng Bình là một trong những tỉnh giảm tai nạn giao thông trên cả
ba tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.
Gần đây nhất, ngày 14/01/2020, BATGT tỉnh đã tổ chức lễ ra quân
Năm an toàn giao thông năm 2020 với chủ đề “Đã uống rượu, bia - không lái
xe”. Năm 2020 là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 100/NĐ-CP của Chính
phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và
đường sắt. Theo đó, với chủ đề “Đã uống rượu, bia - không lái xe”, trong năm
ATGT 2020, toàn tỉnh tiếp tục phấn đấu nâng cao nhận thức và ý thức của
người tham gia giao thông về chấp hành pháp luật TTATGT, nhất là quy định
pháp luật về nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông; tiếp tục giảm
tai nạn giao thông từ 05 - 10% cả 03 tiêu chí về số vụ, số người chết, số người
bị thương so với năm 2019; giảm tai nạn giao thông do nguyên nhân uống
rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông [29].
Về hạn chế: công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
TTATGTĐB tuy đã được quan tâm thực hiện, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu
thực tế; các ngành các cấp đã tham gia thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tuy
nhiên, không thực hiện thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức tuyên
truyền không phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa bàn; người dân
chưa ý thức được việc chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATGTĐB vừa là
trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi thiết thực của mình nhằm bảo vệ tính
mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi ích chung của toàn xã hội. Việc tổ
chức giáo dục Luật giao thông trong các trường học còn hạn chế. Việc đưa tin
của một số phương tiện thông tin đại chúng không phân tích sâu nguyên nhân
tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, làm rõ trách nhiệm các ngành, các đơn
vị, địa phương trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm TTATGTĐB;
chưa chú trọng biểu dương gương người tốt, việc tốt, các hoạt động tích cực
của lực lượng chức năng... nên không tạo được sự đồng thuận thực hiện các
56
biện pháp mạnh, đồng tình ủng hộ của Nhân dân đối với các lực lượng chức
năng thực thi nhiệm vụ.
2.3.3. Tổ chức bộ máy
Con người là nhân tố quyết định hiệu quả công việc. Nhận thức sâu sắc
điều đó, trong thời gian qua đội ngũ làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật
về TTATGTĐB đã được chú trọng kiện toàn. Để hoạt động có hiệu quả, các ban
ngành đã chủ động củng cố tổ chức bộ máy; tăng cường giáo dục chính trị tư
tưởng, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp; nâng cao năng lực nghiệp vụ,
chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu Luật An toàn giao thông, cử cán bộ tập huấn nghiệp vụ
nâng cao năng lực nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp ứng
yêu cầu đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn công tác.
Thứ nhất, để công tác đảm bảo TTATGTĐB diễn ra có tính kế hoạch,
có mục đích và có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo BATGT tỉnh
luôn kiện toàn tổ chức bộ máy đủ mạnh, có tính trách nhiệm cao. Ngày
04/8/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết
định số 2796/QĐ-UBND về việc kiện toàn BATGT tỉnh. BATGT tỉnh có 24
cơ quan thành viên và 27 đồng chí thành viên, trong đó Trưởng ban là Chủ
tịch tỉnh, Phó Trưởng ban thường trực là Giám đốc Sở Giao thông vận tải,
Phó Trưởng ban là Phó Giám đốc Công an tỉnh, các Ủy viên là đại diện Lãnh
đạo các sở, ban, ngành và đại diện tham gia thành viên gồm Lãnh đạo các cơ
quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; Liên đoàn Lao động tỉnh; Hội
Nông dân tỉnh; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; tỉnh Đoàn; Hội Chữ Thập đỏ tỉnh;
Hội cựu chiến binh tỉnh. Trong những năm vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh đã
chủ động tổ chức thực hiện và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong việc
triển khai các giải pháp đảm bảo TTATGTĐB. BATGT tỉnh luôn bám sát chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Ủy ban
57
nhân dân tỉnh... để thường xuyên tham mưu, chỉ đạo các đơn vị, địa phương
triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp trọng tâm bảo đảm
TTATGTĐB.
Thứ hai, Phòng Cảnh sát giao thông là đơn vị thuộc công an tỉnh Quảng
Bình với biên chế 90 đồng chí được bố trí 6 đội nghiệp vụ (đội CSGT đường
thủy; đội CSGT đường sắt; đội CSGT đường bộ; đội đăng ký quản lý xe lái;
đội tham mưu-tổng hợp; đội xử lý vi phạm). Trong những năm qua, Phòng đã
tích cực tham mưu Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình quyết định bố trí lực
lượng của Phòng Cảnh sát giao thông và Công an cấp huyện tổ chức hoạt
động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm bảo đảm TTATGT trên các tuyến
giao thông đường bộ theo địa giới hành chính của tỉnh.
Bên cạnh đó, căn cứ tình hình thực tế công tác bảo đảm TTATGT trên
đoạn quốc lộ đi qua địa giới hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị trấn thuộc
huyện, Phòng Cảnh sát giao thông tham mưu Giám đốc Công an tỉnh Quảng
Bình có kế hoạch bố trí lực lượng của Phòng Cảnh sát giao thông chủ trì, phối
hợp với Cảnh sát giao thông Công an cấp huyện tuần tra, kiểm soát và xử lý
vi phạm hành chính về TTATGT theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Phòng Cảnh sát giao thông còn tăng cường hướng dẫn, kiểm
tra, đôn đốc lực lượng Cảnh sát giao thông Công an cấp huyện thực hiện công
tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về TTATGTĐB.
Thứ ba, Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình gồm 24 công
chức (1 Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra, 21 công chức). Thanh tra
Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình đã tích cực tham mưu, giúp Giám đốc
Sở về công tác thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và công tác pháp chế theo quy
định của pháp luật.
58
Thứ tư, Công an cấp huyện, mỗi đơn vị có một đội Cảnh sát giao thông-
trật tự với biên chế của một đội là 20 đồng chí, trong thời gian qua đã làm tốt
công tác bố trí lực lượng, tổ chức hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi
phạm hành chính về TTATGT trên các tuyến đường huyện, đường xã, đường
chuyên dùng trong phạm vi địa giới hành chính; đường tỉnh, đường đô thị
theo quyết định phân công, phân cấp của Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình;
phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm
hành chính về TTATGT trên đoạn quốc lộ đi qua địa giới hành chính thành
phố thuộc tỉnh, thị trấn thuộc huyện theo kế hoạch của Giám đốc Công an tỉnh
Quảng Bình.
Về hạn chế: Tuy mạng lưới đảm bảo TTATGTĐB đã phủ khắp toàn
tỉnh, từ tỉnh đến huyện, thị xã, tuy nhiên lực lượng thực thi còn mỏng, vẫn còn
trình trạng buông lỏng quản lý, tiêu cực trong công việc. Đội ngũ làm công
tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB vẫn còn thiếu tính chủ động
trong thực thi pháp luật. Trong quá trình và trong phạm vi thực thi công vụ
nhiều cán bộ chưa giải đáp pháp luật cho Nhân dân. Việc giải thích các quy
định của pháp luật, hướng dẫn Nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ
trong phạm vi thẩm quyền vẫn còn chưa được tiến hành đầy đủ, thậm chí có
người do chưa nắm rõ các quy định còn giải thích tù mù hoặc sai sót. Một số
cán bộ vẫn còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật
chuyên ngành, còn nhiều hạn chế trong ứng xử theo pháp luật, không thường
xuyên cập nhật các văn bản mới ban hành nên nhiều khi giải quyết công việc
cho Nhân dân còn lúng túng, thậm chí có trường hợp còn vi phạm pháp luật.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn gây khó khăn, sách nhiễu; tình
trạng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật của một số cán bộ làm
công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB đã làm giảm lòng tin của
Nhân dân.
59
2.3.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
BATGT tỉnh, Công an tỉnh, Sở Giao thông vận tải đã chỉ đạo Cảnh sát
giao thông, thanh tra giao thông, Công an các địa phương huy động tối đa lực
lượng, phương tiện, trang thiết bị tăng cường tuần tra, kiểm soát... tiếp tục
nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB, trọng điểm là tuyến Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ
12A, đường giao thông nông thôn... Bên cạnh công tác tuần tra, kiểm tra
thường xuyên, lực lượng chức năng đã tiến hành tuần tra, kiểm soát theo từng
chuyên đề như kiểm tra nồng độ cồn, tổng kiểm soát xe ô tô chở khách sau
Tết Nguyên đán... góp phần quan trọng giữ vững TTATGT, nhất là trong
những thời gian cao điểm của năm. Hoạt động này góp phần rất lớn vào việc
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về TTATGTĐB của người tham gia giao
thông. Việc tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông
góp phần tích cực nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho người tham gia giao
thông. Mặt khác, thông qua hoạt động tuần tra, kiểm soát lực lượng chức năng
kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm góp phần thiết lập trật tự, nề nếp của
người tham gia giao thông đường bộ. Không những thế, các cơ quan chức
năng đã tăng cường chỉ đạo, siết chặt quản lý kinh doanh vận tải, bảo đảm an
toàn vận tải phục vụ các dịp lễ, tết. Sở Giao thông vận tải tăng cường kiểm tra
chặt chẽ phương tiện và người lái về các điều kiện an toàn trước khi xuất bến, điều
kiện kinh doanh, về việc chấp hành các quy định về an toàn giao thông, các bộ
phận an toàn giao thông và người điều hành vận tải.
Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân
dân tỉnh về tăng cường thực hiện kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ, Cảnh
sát giao thông, Thanh tra giao thông đã tiến hành tuần tra, kiểm soát, bảo đảm
hạ tầng giao thông, bảo đảm an toàn giao thông, tiến độ thi công các dự án,
giải phóng mặt bằng dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 và các dự án giao
60
thông trên địa bàn. Chủ động xây dựng phương án bảo đảm an toàn giao
thông trong mùa mưa lũ, đặc biệt tích cực ứng dụng công nghệ trong phát
hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật giao thông; bảo đảm TTATGT
trong các ngày lễ lớn và ngày tết.
Bên cạnh đó, thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25 tháng 11 năm
2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm soát tải
trọng phương tiện giao thông, BATGT tỉnh Quảng Bình đã có văn bản chỉ đạo
Sở Giao thông vận tải, Cảnh sát giao thông và các lực lượng chức năng khác
phối kết hợp thực hiện tuần tra, kiểm soát xử lý nghiêm minh hành vi chở quá
tải trọng của ô tô vận chuyển hàng hóa trên đường bộ. Đối tượng kiểm tra là
các xe ô tô tải, ô tô đầu kéo rơ mooc, xe ô tô chở container vượt tải trọng thiết
kế được được ghi trong giấy chứng nhận đăng kí hoặc sổ chứng nhận kiểm
định an toàn kĩ thuật và bảo vệ môi trường hoặc chở hàng vượt tải trọng, quá
khổ giới hạn cầu đường, xe ô tô vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng tham
gia giao thông vận tải trên các tuyến quốc lộ đi qua địa bàn tỉnh Quảng Bình
và hệ thống đường bộ địa phương. Hiện nay, tỉnh Quảng Bình vẫn đang duy
trì hoạt động 24/24h của trạm cân lưu động quốc lộ 1 và Tổ liên ngành tập
trung kiểm soát xe trên quốc lộ 12A, đường Hồ Chí Minh và khu vực tập
trung các mỏ vật liệu. Phối hợp với lực lượng Cảnh sát giao thông phân luồng
hướng dẫn các phương tiện trong các đợt thiên tai, lũ lụt, ùn tắc giao thông
bảo đảm an toàn cho người, phương tiện qua lại các tuyến đường trên địa bàn
tỉnh. Triển khai thực hiện công tác đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình
thi công Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 đoạn đi qua tỉnh Quảng Bình;
thường xuyên trực phân luồng, điều tiết giao thông, phục vụ tốt nhu cầu đi lại,
vận chuyển hàng hoá của Nhân dân.
Về hạn chế: việc tuần tra, kiểm soát có thời điểm chưa được thường
xuyên dẫn đến nhiều hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB xảy ra. Tình
61
trạng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong quá trình kiểm tra, kiểm soát. Do lực
lượng mỏng, thiết bị phục vụ cân kiểm soát tải trọng thiếu, nhiều trường hợp
lái xe chống đối, gây gổ tạo sức ép và gây khó khăn cho lực lượng liên ngành
khi thực hiện kiểm tra tải trọng.
2.4. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, hệ thống pháp luật quy định đối với vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB còn bất cập. Các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
xử lý VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn nhiều quy định thiếu
tính hợp lý (nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, thủ tục xử lý...), đây cũng là
yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xử lý các hành vi vi phạm hành
chính trong giao thông đường bộ, vì vậy cũng cần phải tiến hành rà soát để
sửa đổi bổ sung kịp thời.
Còn thiếu các quy định của pháp luật để tạo sự thông suốt, tính hiệu
quả, tính hợp pháp của hoạt động xử lý vi phạm hành chính. Ví dụ như việc
các cơ quan đăng kiểm khi tiếp nhận yêu cầu từ phía cơ quan có thẩm quyền
thì có thể từ chối cấp “Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ
môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ” (Giấy kiểm định), và
một trong những lý do phía cơ quan chức năng chưa cấp giấy kiểm định là do
người điều khiển phương tiện đó chưa thực hiện quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với hành vi vi phạm. Tuy nhiên có thể nói việc cơ quan đăng
kiểm từ chối không cấp giấy kiểm định trên cơ sở này lại không thực sự chính
xác theo quy định tại Khoản 2, Điều 3, Thông tư 70/2015/TT-BGTVT.
Hai là, tổ chức bộ máy, năng lực của các cơ quan, cá nhân trong phòng,
chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB còn bất cập, chưa đồng đều. Công
tác quản lý nhà nước về TTATGTĐB còn bộc lộ nhiều yếu kém. Cấp ủy,
chính quyền các địa phương chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa đồng bộ trong phối
hợp giữa các tổ chức để tuyên truyền vận động Nhân dân nâng cao ý thức
62
chấp hành Luật và những quy định của pháp luật về TTATGTĐB. Cán bộ
kiêm nhiệm, công tác an toàn giao thông chưa được phân công rõ trách nhiệm
dẫn tới không chủ động tham mưu giúp lãnh đạo triển khai đầy đủ các nhiệm
vụ về TTATGTĐB. BATGT là tổ chức phối hợp liên ngành, cán bộ kiêm
nhiệm, các thành viên BATGT hay thay đổi vị trí công tác thường phải bổ
sung kiện toàn, ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng công tác, thiếu tính chuyên
nghiệp trong quản lí.
Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
lớn, nhiều nội dung khó, phức tạp; trong khi đó, công chức thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính là kiêm nhiệm, chưa được
đào tạo kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về công tác này, do đó ảnh hưởng đến
chất lượng và tiến độ công việc đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp huyện, cấp
xã; công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong việc trao đổi thông tin,
sử dụng lực lượng phối hợp, đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật chưa
chặt chẽ, nhiều thủ tục bất cập; nhận thức pháp luật của một số cán bộ, công
chức về quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật còn hạn
chế; cán bộ đầu mối phụ trách, tham mưu của một số đơn vị còn thiếu.
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGT
còn nặng tính hình thức, tác động chưa đủ mạnh tới nhận thức của người dân
trong việc tự giác chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ cũng như
thái độ ứng xử có văn hóa khi tham gia giao thông; ý thức tự giác chấp hành
pháp luật về TTATGT của người tham gia giao thông chưa cao, vi phạm quy
định, quy tắc giao thông còn nhiều, phổ biến là các lỗi: chạy quá tốc độ quy
định, chở quá số người cho phép đi sai làn đường, lấn đường, uống rượu bia
quá mức cho phép, vượt đèn đỏ… đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra phần
lớn các vụ tai nạn giao thông.
63
Bốn là, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh
của phương tiện. Còn tồn tại nhiều "điểm đen" tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn
giao thông, hành lang an toàn giao thông chưa thực sự thông thoáng, hạn chế
tầm nhìn của lái xe, một số đoạn đường vừa khai thác, vừa thi công sửa chữa
nâng cấp, tiến độ thi công chậm, nhà thầu thiếu quan tâm đến các biện pháp
bảo đảm an toàn cho người và phương tiện qua lại; kinh phí phục vụ cho công
tác quản lý xử lý vi phạm hành chính cũng như phương tiện, thiết bị nghiệp
vụ phục vụ trong công tác xử lý vi phạm hành chính chưa được đảm bảo, do
đó, công tác quản lý nhà nước và xử lý vi phạm hành chính triển khai chưa
đồng bộ, hiệu quả, kịp thời để đáp ứng nhiệm vụ được giao và nhu cầu thực tế
trong công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của các ngành,
lĩnh vực.
Năm là, ý thức chấp hành pháp luật giao thông đường bộ của một bộ
phân nhân dân chưa cao, chưa đồng đều. Điều này gây khó khăn cho công tác
phòng, chống vi phạm, làm gia tăng khả năng vi phạm pháp luật giao thông
đường bộ.
64
Tiểu kết Chương 2
Trong vòng 5 năm (2015-2019) tổng số vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB do Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý là hơn 136 ngàn
trường hợp với số tiền xử phạt gần 163 tỷ đồng. Số lượng vi phạm có giảm
nhưng số vụ vi phạm nghiêm trọng tăng, số tiền phạt hàng năm tăng lên thể
hiện tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình vẫn tiềm
ẩn phức tạp. Công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xử lý của các lực
lượng chức năng đã có những kết quả đáng ghi nhận. Đặc biệt, công tác
phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình đã có
những kết quả đáng ghi nhận từ thể chế, tổ chức bộ máy, công tác tuyên
truyền đến việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm. Những kết
quả đó góp phần quan trọng vào việc kiểm soát vi phạm, hạn chế tai nạn giao
thông, ổn định trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB chưa được kiểm soát hiệu quả, công tác tuần tra kiểm soát cơ
động chưa nhiều, chưa kiểm soát hết địa bàn nên phát hiện các hành vi nguy
hiểm trực tiếp gây tai nạn giao thông chưa nhiều; hiệu quả tuần tra, kiểm soát
phát hiện xử lý vi phạm chưa cao; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
về TTATGTĐB và xử lý vi phạm của các cấp, các ngành ở tỉnh Quảng Bình
hiệu quả chưa cao, chưa thực sự tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong ý
thức của người tham gia giao thông.
Từ việc nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng, những hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng đưa ra những quan
điểm và giải pháp đồng bộ phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
65
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY
3.1. Quan điểm phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình
Thứ nhất, phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh
Quảng Bình phải căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, nhất là dự báo
về tình hình vi phạm và tai nạn giao thông. Dự báo trong thời gian tới, đất
nước ta nói chung, tỉnh Quảng Bình nói riêng sẽ có nhiều đổi mới, tiếp tục
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế xã hội sẽ phát triển nhanh,
mạnh bền vững và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, tình hình an ninh,
chính trị, TTATGT có nhiều yếu tố mới, phức tạp hơn. Giao thông vận tải sẽ
phát triển mạnh mẽ cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế, với nhiều loại hình,
phương tiện giao thông tiếp tục gia tăng, trong khi kết cấu hạ tầng chưa thể
đáp ứng kịp, tổ chức giao thông thiếu khoa học, quỹ đất dành cho giao thông
(cả giao thông động và giao thông tĩnh) thiếu và mất cân đối, nhất là giao
thông đô thị.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, nhu cầu đi lại gia tăng thì
tình hình vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình vẫn
diễn biến phức tạp, trong đó vi phạm liên quan đến xe gắn máy vẫn chiếm tỷ
trọng lớn, thời gian vào các khung giờ cao điểm, các hành vi vi phạm phổ
biến vẫn là vi phạm các quy tắc về giao thông như các vi phạm về tốc độ; làn
tuyến; tránh, vượt, sử dụng rượu bia... Do đó, tình hình tai nạn vẫn có thể gia
tăng, nhất là tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng làm chết người.
Thứ hai, phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng
Bình phải có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, trung ương và
66
địa phương, Nhà nước và Nhân dân, trong đó xác định vai trò quyết định của
các cấp, các ngành ở địa phương và người tham gia giao thông. Đặc biệt là ý
thức của người tham gia giao thông hiện nay chưa cao, chưa đồng đều. Công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB chưa duy trì
thường xuyên, liên tục, chưa phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa
bàn, chưa đến được cơ sở; người dân chưa nhận thức được việc chấp hành
pháp luật về bảo đảm TTATGTĐB vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi thiết
thực của mình, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi
ích chung của toàn xã hội.
Thứ ba, việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh
Quảng Bình phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp:
i) Hoàn thiện pháp luật về giao thông đường bộ; pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật về TTATGTĐB;
ii) Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát đảm bảo TTATGT, kiên quyết
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về TTATGTĐB, nhất là các
hành vi vi phạm có nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông cao, như chạy quá tốc
độ quy định, đi không đúng phần đường, làn đường, vượt không đúng quy
định, sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông, không có giấy
phép lái xe…; tập trung lực lượng vào các tuyến trọng điểm, thời gian cao
điểm để xử lý, nhất là số đối tượng thanh, thiếu niên, người điều khiển xe mô
tô không đội mũ bảo hiểm; chở quá số người, uống rượu, bia trong khi điều
khiển phương tiện tham gia giao thông; chạy quá tốc độ, không chấp hành
hiệu lệnh dừng xe…; phối hợp với các lực lượng chức năng đấu tranh phòng,
chống có hiệu quả vi phạm pháp luật hoạt động trên tuyến giao thông;
iii) Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về TTATGTĐB; đổi mới biện pháp và hình thức tuyên truyền nội dung sao
cho dễ hiểu, làm nổi bật được những vấn đề cấp bách về TTATGTĐB trong
67
từng thời điểm, phù hợp với từng đối tượng để tác động mạnh mẽ về ý thức
của mọi người khi tham gia giao thông, nhất là đối với đối tượng thanh, thiếu
niên điều khiển xe môtô, xe gắn máy tham gia giao thông… để Nhân dân, cán
bộ, công nhân viên chức, học sinh, sinh viên, thanh niên hiểu tự giác chấp
hành và đồng tình ủng hộ hỗ trợ lực lượng chức năng hoàn thành nhiệm vụ;
iv) Tổ chức khảo sát, kiến nghị các bất hợp lý trong tổ chức giao thông;
chú trọng tại các tuyến đường mới nâng cấp, mở rộng, kiến nghị việc giải
quyết các “điểm đen” tai nạn giao thông; tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ cao, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm TTATGTĐB, đặc biệt là các hành vi vi phạm quy định về tốc độ, phần
đường, nồng độ cồn, sử dụng chất kích thích, ma túy…; phát huy hiệu quả tác
dụng camera giám sát an ninh trật tự trên các tuyến giao thông trọng điểm để
hỗ trợ công tác đảm bảo TTATGTĐB.
v) Hoàn thiện tổ chức, đổi mới hoạt động các cơ quan, tổ chức, cán bộ
chiến sĩ, công chức làm nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các
sai phạm trong quá trình thực hiện công vụ.
3.2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
3.2.1. Những giải pháp chung cho cả nước
3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Thứ nhất, cần xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc
Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công an, gồm 04
văn bản thuộc Chương trình chính thức là Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công
an quy định về phân cấp trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác bảo
đảm trật tự và TTATGT trên tuyến đường cao tốc; Thông tư của Bộ trưởng
Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2014/TT-BCA ngày 24/4/2014
68
của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về vận hành, quản lý, bảo trì, bảo vệ hệ
thống giám sát, xử lý vi phạm TTATGTĐB; Thông tư của Bộ trưởng Bộ
Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 53/2015/TT-BCA ngày 20/10/2015 của
Bộ trưởng Bộ Công an về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong Công
an nhân dân; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về lắp đặt, sử
dụng và cấp giấy phép sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu
tiên và 05 văn bản thuộc Chương trình chuẩn bị gồm Nghị định về công tác
thống kê, báo cáo, chia sẻ dữ liệu tai nạn giao thông; Thông tư của Bộ trưởng
Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 73/2012/TT-BCA ngày 05/12/2012
của Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn giao
thông đường thủy của lực lượng Cảnh sát đường thủy; Thông tư của Bộ
trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 77/2012/TT-BCA ngày
28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra giải quyết
tai nạn giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông đường bộ; Thông tư của
Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đăng ký xe; Thông tư của Bộ trưởng Bộ
Công an quy định tiêu chuẩn kỹ thuật hệ thống giám sát, xử lý vi phạm
TTATGTĐB.
Thứ hai, hiện nay và trong những năm tới, trên cơ sở Luật Giao thông
đường bộ năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các ngành hữu
quan cần rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật giao thông
đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật ở các lĩnh vực khác có liên quan
đến giao thông đường bộ để bổ sung, sửa đổi hoặc hủy bỏ những văn bản
không còn hiệu lực, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho Luật Giao thông đường bộ thực hiện một cách tốt
nhất. Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an
toàn đường bộ, về đường ngang qua đường sắt, về tăng cường quản lý giao
thông công cộng, về tổ chức giao thông; vai trò, trách nhiệm của chính quyền
69
cấp huyện, cấp xã; kinh phí đảm bảo an toàn giao thông đường bộ lâu dài. Đối
với việc lấy ý kiến xây dựng văn bản pháp luật của Nhân dân, các cơ quan
chức năng tỉnh Quảng Bình cần làm tốt công tác tổ chức, hướng dẫn Nhân
dân đóng góp ý kiến góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật giao thông
đường bộ. Một vấn đề đặt ra nữa khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao
thông đường bộ là phải đảm bảo được tính đồng bộ.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB, cụ thể:
i) Về nguyên tắc xử lý:
Sửa đổi một số quy định của Khoản 1, Điều 3, Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 để đảm bảo tính chính xác, khoa học và phù hợp hơn; cụ thể:
Sửa đổi Điểm d, theo hướng bỏ nội dung quy định “… vi phạm hành chính
nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, vì nó mâu thuẫn với Điểm
b, Khoản 1, Điều 10 của Luật này. Hay việc tại Điểm e quy định: “Đối với
cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng
02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân”, cũng chưa thực sự phù hợp, bởi vi
phạm hành chính do tổ chức thực hiện thường có mức nguy hiểm hơn rất
nhiều so với vi phạm do cá nhân thực hiện. Vì vậy về vấn đề này nên quy
định như sau: Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền
đối với tổ chức ít nhất bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Việc quy
định từng mức phạt cụ thể do Chính phủ quy định trong các văn bản pháp luật
có liên quan [21, Tr.132].
ii) Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền, đối tượng bị xử lý
Về thẩm quyền: việc pháp luật quy định cụ thể các chức danh có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên thực
tế sẽ khó đảm bảo được tính phù hợp trong bối cảnh bộ máy Nhà nước đang
trong quá trình hoàn thiện và sắp xếp lại các đầu mối. Vì vậy, chỉ cần quy
70
định những vấn đề mang tính khái quát (ví dụ có thể dùng thuật ngữ Trưởng
Công an cấp huyện và tương đương, hoặc Trưởng phòng và tương đương là
đủ). Bên cạnh đó việc quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
cũng như đảm bảo thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ như hiện nay là không phù hợp (có thẩm quyền tịch
thu thì mới có thẩm quyền tạm giữ), dẫn đến tình trạng những vi phạm không
lớn nhưng phải chuyển lên cơ quan cấp trên để xử lý. Bên cạnh đó hiện thẩm
quyền xử lý của ở cơ sở, của cán bộ chiến sĩ đang làm nhiệm vụ còn thấp, kiến
nghị sửa đổi các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo hướng phân cấp mạnh hơn, tăng thẩm
quyền xử lý cho địa phương, cơ sở, người trực tiếp thi hành công vụ để hoạt
động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được tiến
hành một cách nhanh chóng, kịp thời; giảm thiểu những phiền hà cho người vi
phạm cũng như giảm tải cho các cơ quan Nhà nước cấp trên.
Về đối tượng bị xử lý: Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 (Điều 5) thì đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên lãnh thổ Việt Nam. Qua đó đối với cá
nhân thì độ tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính là từ đủ 14 tuổi trở lên,
trong khi hiện nay việc trẻ em có độ tuổi từ 12 đến dưới 14 thường xuyên có
những hành vi vi phạm hành chính về giao thông đường bộ, nhưng các lực
lượng chức năng không thể xử phạt. Chính vì vậy để đảm bảo tính giáo dục,
răn đe và phòng ngừa chung, trong lĩnh vực giao thông đường bộ cần nghiên
cứu để quy định độ tuổi chịu trách nhiệm cho phù hợp. Cần quy định độ tuổi
chịu trách nhiệm hành chính có thể giảm xuống 12 tuổi, và với nhóm chủ thể
từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thì bị áp dụng hình thức xử phạt là buộc lao
71
động công ích hoặc nhắc nhở tại chỗ (tất nhiên pháp luật phải bổ sung hình
thức xử phạt này).
iii) Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử lý: Nên bỏ
hình thức xử phạt cảnh cáo mà thay vào đó là giáo dục, nhắc nhở tại chỗ (đối
với người chưa thành niên), hoặc phạt lao động công ích (đối với người đã
thành niên); còn đối với tổ chức thì không áp dụng hình thức xử phạt cảnh
cáo. Đối với phạt tiền, cần tăng mức phạt tiền đối với những hành vi gây ảnh
hưởng trực tiếp đến TTATGTĐB như: Chở quá tải trọng trên 100%, vi phạm
tốc độ hoặc đi xe máy vào đường cao tốc, điều khiển phương tiện lạng lách
trên đường; hay những hành vi xuất phát từ lỗi cố ý như: Đi vào đường cấm,
đường ngược chiều; điều khiển phương tiện mà không có giấy phép lái xe đối
với những phương tiện yêu cầu có giấy phép [21, Tr.126].
Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật TTATGTĐB trên
cơ sở tách ra từ Luật Giao thông đường bộ hiện nay để điều chỉnh chuyên sâu
về công tác bảo đảm TTATGTĐB; quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các
ngành, chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đảm bảo
TTATGTĐB (theo đúng nguyên tắc "một cơ quan thực hiện nhiều việc và một
việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính"
đúng với tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp
hành Trung ương Khóa XII) nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện.
Theo đó, việc ban hành Luật Trật tự, an toàn giao thông sẽ thống nhất
hoạt động quản lý nhà nước về TTATGTĐB; đảm bảo tính minh bạch, đồng
bộ, tạo cơ sở pháp lý thống nhất áp dụng các quy định về xử lý vi phạm giao
thông đường bộ; đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính; góp phần hoàn thiện cơ sở
pháp lý về bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
72
Dựa trên kết quả tổng kết 10 năm thi hành Luật Giao thông đường bộ
năm 2008 và tham khảo kinh nghiệm của quốc tế về các chính sách quản lý
TTATGT, Bộ Công an nghiên cứu và xác định 7 chính sách cơ bản được đánh
giá, bao gồm: Quy định cụ thể về hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ và
khoảng cách giữa các xe; quy định về đi đường bộ; thống nhất việc quản lý
phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; quy định
cụ thể về tổ chức, chỉ huy, điều khiển và giải quyết ùn tắc giao thông đường
bộ; quy định về giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; quy định về giám sát
việc thi hành pháp luật và trách nhiệm pháp lý; vai trò, trách nhiệm quản lý
nhà nước về TTATGT.
Luật TTATGTĐB sẽ phải quy định cụ thể về phương tiện (khái niệm,
kiểu, loại, điều kiện tham gia giao thông của phương tiện), quy định cụ thể về
điều kiện của người điều khiển phương tiện để dễ vận dụng, thực hiện, đảm
bảo công tác quản lý, tránh việc do luật không quy định nên nhiều phương
tiện tham gia giao thông không được quản lý và sự tùy tiện trong việc chấp
hành pháp luật của người điều khiển phương tiện, gây khó khăn và tiềm ẩn
nhiều nguy cơ về tai nạn giao thông và mất an ninh, trật tự, vi phạm diễn ra
thường xuyên, phổ biến.
Quy định cụ thể hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ và khoảng cách
giữa các xe tham gia giao thông đường bộ... một cách đơn giản, dễ hiểu nhất
để người tham gia giao thông dễ nhớ, dễ hiểu và thực hiện. Đồng thời, Luật
TTATGTĐB sẽ quy định khái niệm về xe cơ giới, xe thô sơ, xe tự chế, xe
công nông, xe máy kéo, xe máy điện, xe đạp điện nên có nhiều cách hiểu khác
nhau, gây khó khăn trong công tác thực thi pháp luật…
Một số quy định được thay đổi như Điều 30 và Điều 31 Luật Giao
thông đường bộ năm 2008 đang quy định người điều khiển mô tô, xe gắn
máy, xe đạp, xe thô sơ không được đi dàn hàng ngang và phải đi theo hàng
73
một. Việc đi hai hàng hay nhiều hàng sẽ không cần quy định đối với các tuyến
đường dành riêng cho loại phương tiện khi đó nếu tình trạng bề rộng mặt
đường đủ điều kiện sẽ tổ chức giao thông phù hợp theo hình thức này. Do đó,
trong trường hợp kết cấu hạ tầng giao thông Việt Nam đạt đến được mức độ
nhất định, trong Luật TTATGTĐB sẽ không cần quy định này nữa [30].
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể trong Luật Giao thông
đường bộ năm 2008 và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Cụ thể:
i) Quy định về biển báo hiệu đường bộ chưa phù hợp: Khoản 4 Điều 10
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định biển báo hiệu đường bộ gồm
năm nhóm, tuy nhiên thực tế hiện nay phát sinh thêm nhóm biển mới "Nhóm
biển sử dụng trên các tuyến đường đối ngoại", nhóm biển này tuân thủ theo
các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhóm biển
báo quốc tế không có biển phụ hướng dẫn kèm theo dẫn đến nhiều người
tham gia giao thông không hiểu; ngoài ra Luật Giao thông đường bộ năm
2008 chỉ quy định biển báo mang tính nguyên tắc, không quy định cụ thể nên
phải ban hành văn bản dưới Luật để hướng dẫn thực hiện, không phù hợp với
xu hướng Luật hóa các quy định hiện nay (Luật quy định cụ thể, hạn chế mức
thấp nhất các văn bản dưới Luật).
ii) Quy định về tổ chức giao thông chưa phù hợp tình hình thực tiễn:
Khoản 2 Điều 37 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chỉ quy định Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm tổ chức giao thông trên hệ
thống quốc lộ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức
giao thông trên các hệ thống đường bộ thuộc phạm vi quản lý; không quy
định trách nhiệm tham gia tổ chức giao thông cho lực lượng Cảnh sát giao
thông, trong khi lực lượng Cảnh sát giao thông là lực lượng chủ yếu thực hiện
chỉ huy điều khiển giao thông và xử lý vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ, vì vậy khi thực thi nhiệm vụ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay
74
lực lượng Cảnh sát giao thông thường là đơn vị chủ động đề xuất phối hợp
với các đơn vị của ngành giao thông, BATGT các địa phương để tiến hành
khảo sát, kiến nghị về công tác tổ chức giao thông; bên cạnh đó lực lượng
Cảnh sát giao thông có thẩm quyền trong việc tuần tra kiểm soát, xử lý vi
phạm, khám nghiệm, điều tra giải quyết tai nạn giao thông nhưng các ý kiến
tham gia của Cảnh sát giao thông không được các cơ quan chức năng giải
quyết, khắc phục theo thẩm quyền, nhiều kiến nghị không được tiếp thu, khắc
phục kịp thời.
iii) Không quy định hoặc quy định không cụ thể, không đầy đủ về các
nội dung: Nơi cho phép chuyển làn đường; độ tuổi người điều khiển xe đạp
điện, xe máy điện; đảm bảo an toàn khi chuyển hướng, không chú ý gây tai
nạn giao thông; quy tắc ưu tiên "rẽ phải - đi thẳng - rẽ trái"; cấm dùng chân
điều khiển vô lăng của phương tiện khi tham gia giao thông; cấm lùi xe trên
đường một chiều hoặc đường đặt biển cấm đi ngược chiều; nhường đường
cho các xe đi cùng chiều phía sau, khi chuyển hướng (nguy cơ xảy ra tai nạn
giao thông); nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông thô
sơ; các trường hợp phải chú ý quan sát.
iv) Một số quy định về TTATGTĐB của Công ước Viên 1968 mà Việt
Nam tham gia chưa được nội luật hóa vào Luật Giao thông đường bộ hiện hành,
cần phải khắc phục, như: Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chỉ có quy định
người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy không
được sử dụng điện thoại di động còn người điều khiển ô tô không quy định;
tuy nhiên, Công ước Viên bắt buộc Luật quốc gia phải quy định người điều
khiển phương tiện không được phép sử dụng di động khi phương tiện đang di
chuyển. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đang quy định xe ô tô phải có
trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế phía trước trong xe
ô tô phải thắt dây an toàn (Điều 9 khoản 2); tuy nhiên, Công ước Viên lại quy
75
định việc thắt dây an toàn là bắt buộc đối với người lái xe và hành khách đi trên
phương tiện cơ giới ngồi tại những chỗ có trang bị dây đeo an toàn [7].
Điều 30 và Điều 31 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đang quy
định người điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp, xe thô sơ không được đi
dàn hàng ngang và phải đi theo hàng một; tuy nhiên, việc đi hai hàng hay
nhiều hàng sẽ không cần quy định đối với các tuyến đường dành riêng cho
loại phương tiện khi đó nếu tình trạng bề rộng mặt đường đủ điều kiện sẽ tổ
chức giao thông phù hợp theo hình thức này. Do đó, trong trường hợp kết cấu
hạ tầng giao thông Việt Nam đạt đến được mức độ nhất định sẽ không cần
quy định này nữa.
Ngoài ra còn một số nội dung khác chưa phù hợp giữa Luật Giao thông
đường bộ năm 2008 với Công ước Viên 1968 như: Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về hệ thống báo hiệu đường bộ, ký hiệu quốc gia trên xe rơ moóc, điều
kiện, kỹ thuật của phương tiện, quy tắc dành cho người đi bộ hiện nay đang được
bảo lưu.
v) Quy định về quản lý người điều khiển phương tiện bất cập: Luật
Giao thông đường bộ năm 2008 giao nhiệm vụ cho ngành giao thông vận tải
là cơ quan đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, quản lý về lao động (sử
dụng lái xe), và giao ngành Công an là cơ quan thực hiện nhiệm vụ tuần tra,
kiểm soát, xử lý vi phạm TTATGTĐB. Việc quản lý người điều khiển
phương tiện giao cho hai ngành quản lý nhưng hiện tại hai ngành lại chưa có
sự phối hợp chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin về việc cấp, cấp lại giấy
phép lái xe và việc xử lý lái xe vi phạm dẫn việc khó kiểm soát được.
3.2.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của trung ương trong phòng, chống
vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT đường bộ, đường sắt,
76
đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông khẳng định: Công tác bảo
đảm TTATGT và khắc phục ùn tắc giao thông phải được xác định là một
nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy Đảng; phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của Nhân dân. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATGT của các ngành chức năng và
chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc
thực hiện của Đảng [6].
Như vậy về mặt quan điểm, chúng ta đã xác định rõ cấp ủy Đảng và
chính quyền địa phương có một vai trò vô cùng quan trọng trong bảo đảm
TTATGTĐB cũng như khắc phục ùn tắc giao thông. Tuy nhiên trên thực tế sự
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cũng trách nhiệm của chính quyền địa phương
còn hời hợt, thiếu sâu sắc; công tác bảo đảm TTATGTĐB gần như được
khoán trắng cho lực lượng Cảnh sát giao thông và lực lượng Thanh tra ngành
giao thông vận tải vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, vì vậy trong thời gian tới để
phát huy tốt vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cũng như trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong công tác bảo đảm TTATGTĐB (trong đó có xử lý vi
phạm hành chính), cần phải thực hiện tốt một số nội dung sau: Phải xác định
được công tác bảo đảm TTATGTĐB là một trong những nhiệm vụ chính trị
quan trọng của Đảng bộ và chính quyền cần phải thực hiện tốt trong bất kỳ
thời điểm nào, giai đoạn nào. Trên tinh thần đó, cấp ủy Đảng phải xác định
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nhà nước của chính
quyền các cấp đối với công tác bảo đảm TTATGTĐB là nhiệm vụ trọng tâm,
thường xuyên, cấp bách, vì vậy về mặt chủ trương cần thiết đưa tiêu chí về
TTATGTĐB trở thành một trong những tiêu chí phân loại cũng như bình xét
các danh hiệu thi đua của cấp ủy, đơn vị và cá nhân có liên quan.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải quan tâm hơn nữa trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảm bảo TTATGTĐB, xác định đây là một trong
77
những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, cấp bách và lâu dài. Từ đó chủ
động xây dựng, ban hành các Nghị quyết, Chương trình nhằm cụ thể hoá các
nội dung về việc đảm bảo TTATGTĐB thành các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm
vụ, giải pháp phù hợp với từng đơn vị, địa phương, trong từng giai đoạn. Định
kỳ kiểm điểm, sơ tổng kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện để rút ra bài
học kinh nghiệm và đề ra giải pháp cho thời gian tiếp theo. Tăng cường kiểm
tra, đôn đốc, kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, khắc phục những
khó khăn, vướng mắc trong công tác đảm bảo TTATGTĐB.
Người đứng đầu các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trước hết về tình hình TTATGTĐB và tổ
chức thực hiện công tác đảm bảo TTATGTĐB ở địa phương, đơn vị, cơ quan
mình. Để làm tốt được vấn đề này, các cấp ủy Đảng cần phải đưa nội dung
bảo đảm TTATGTĐB vào và trở thành một nội dung quan trọng trong các
Nghị quyết cũng như Chỉ thị, quán triệt sâu sắc các nội dung Nghị quyết và
Chỉ thị tới các cấp chính quyền và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc
tổ chức thực hiện nội dung các Nghị quyết cũng như Chỉ thị. Đưa nội dung
kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị về công tác bảo đảm TTATGTĐB vào chương
trình kiểm tra, giám sát hàng năm; chủ trì phối hợp thường xuyên kiểm tra,
giám sát đối với cán bộ thuộc diện Cấp uỷ quản lý trong việc tham gia, chỉ
đạo công tác đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn. Đưa nội dung phổ biến, giáo
dục pháp luật về TTATGTĐB vào sinh hoạt định kỳ của Chi bộ Đảng, đoàn
thể, tổ chức chính trị - xã hội. Xác định rõ việc chấp hành pháp luật về
TTATGTĐB là một tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, cơ quan,
đơn vị, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, đoàn viên… nhằm quy định rõ trách
nhiệm quản lý nhà nước của các tổ chức, cá nhân về bảo đảm TTATGTĐB;
nghiêm cấm cán bộ, công chức can thiệp vào việc xử phạt vi phạm hành
78
chính; xử lý nghiêm đối với cán bộ, nhân viên vi phạm TTATGTĐB [21,
Tr.150].
3.2.2. Những giải pháp cho tỉnh Quảng Bình
3.2.2.1. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực bộ máy phòng, chống vi phạm
pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ
Thứ nhất, tiếp tục kiện toàn và nâng cao năng lực của BATGT tỉnh
Quảng Bình, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn giao
thông ở địa phương.
Thứ hai, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự, Thanh tra giao thông phải
là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo đảm TTATGTĐB đã được quan tâm
tăng biên chế và trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Tuy nhiên, so
với yêu cầu còn thiếu, năng lực hạn chế, chưa có chính sách đãi ngộ thoả đáng,
nhất là kinh phí cho bảo đảm TTATGTĐB ở cấp xã, phường hầu như chưa có;
phương tiện, thiết bị kỹ thuật chưa đảm bảo, nhất là thiết bị công nghệ tiên tiến,
hiện đại được ứng dụng trong công tác bảo đảm TTATGTĐB còn hạn chế. Do
đó, trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp:
i) Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ, công chức có khả
năng nắm bắt và hiểu biết sâu sắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
TTATGTĐB. Những chủ thể này phải là những người không chỉ giỏi về
chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề
nghiệp, trung thực, khách quan, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, biết đặt pháp
luật lên hàng đầu khi thi hành nhiệm vụ. Giải pháp này đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ từ khi tuyển dụng, đặc biệt đối với ngành Công an, phải quán triệt
ngay từ khi tuyển sinh đến quá trình đào tạo và quá trình công tác. Đồng thời
thường xuyên bồi dưỡng, trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức để người thực thi
công vụ hiểu pháp luật và giải quyết công việc trên cơ sở pháp luật. Cán bộ,
79
công chức có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin
pháp luật về TTATGT đến với Nhân dân. Phát huy tính chủ động của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong
việc lấy pháp luật làm nền tảng ứng xử trong việc giải quyết các mối quan hệ
xã hội. Đối với lực lượng Công an thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng
lực lượng Cảnh sát giao thông trong sạch vững mạnh, nhất là thực hiện Quyết
định số 607/QĐ-BCA của Bộ Công an quy định về tiêu chuẩn đạo đức của
Cảnh sát giao thông, những việc cần phải “Xây” và “Chống”. Quan tâm, thực
hiện tốt công tác đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ chiến sĩ, tăng cường
biên chế, trang thiết bị cho lực lượng Cảnh sát giao thông đủ sức đáp ứng yêu
cầu công tác trong tình hình mới. Đẩy mạnh phong trào chống tiêu cực trong
thi hành công vụ, tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán bộ, công chức, viên
chức, chiến sĩ và lực lượng thanh tra chuyên ngành nâng cao tinh thần trách
nhiệm, tính chuyên nghiệp trong thực thi nhiệm vụ bảo đảm TTATGT; có
chính sách khuyến khích, khen thưởng đối với cá nhân, tập thể có thành tích
và phê bình các cá nhân, đơn vị chưa hoàn thành nhiệm vụ [13, Tr.81].
ii) Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức, chiến sĩ Công an
trong công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Xác định
rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình giải quyết công việc của
Nhân dân, của tổ chức, gắn trách nhiệm với quyền lợi, với công việc chuyên
môn của từng cán bộ, công chức trên cơ sở đầu việc được giao. Nghiên cứu xây
dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức
kết hợp với chế độ khen thưởng, bổ nhiệm và kỷ luật phù hợp. Coi trọng lợi ích
chính đáng của cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB để họ chuyên tâm vào công việc.
Chính sách đãi ngộ bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần
đối với lực lượng này có ý nghĩa quyết định đến tinh thần và chất lượng
80
của đội ngũ cán bộ. Vì thế, trong thời gian tới cần thiết phải hoàn thiện chế
độ, chính sách đặc thù đối với cán bộ làm công tác chuyên trách, trực tiếp,
kiêm nhiệm và những người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham
gia công tác đảm bảo TTATGT; chế độ khen thưởng, tôn vinh đối với
người có thành tích đặc biệt xuất sắc; hỗ trợ kịp thời đối với người bị thương
hoặc thân nhân người bị hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ.
iii) Tăng cường phối hợp giữa Thanh tra giao thông với các cấp và các
đơn vị, tổ chức có liên quan (như chính quyền địa phương, Cảnh sát giao thông,
Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới Quảng Bình và các lực lượng hỗ trợ khác)
thông qua quy chế cộng tác và phối hợp; tăng cường phát triển nguồn nhân lực
của lực lượng thanh tra, tăng cường trang thiết bị và điều kiện làm việc.
3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật
và xây dựng văn hóa giao thông đường bộ
Thứ nhất, công tác tuyên truyền pháp luật được coi là một trong những
biện pháp quan trọng giúp người dân hiểu và tuân thủ pháp luật giao thông
đường bộ một cách nghiêm túc và có ảnh hưởng lâu dài. Do vậy công tác
tuyên truyền pháp luật giao thông đường bộ phải được các cấp các ngành của
tỉnh Quảng Bình quan tâm chỉ đạo, đồng thời các cấp, các ngành trong phạm
vi, chức năng nhiệm vụ của đơn vị cũng đã có nhiều hoạt động nhằm đưa
pháp luật giao thông đường bộ vào cuộc sống bằng nhiều hình thức phong
phú. Cùng với công tác tuyên truyền pháp luật, trình độ dân trí được nâng cao,
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được hoàn thiện, phương tiện tham gia
giao thông giảm thì sẽ đạt được mục tiêu giảm vi phạm pháp luật giao thông
đường bộ, giảm tai nạn giao thông. Trong những năm tiếp theo để thực hiện
pháp luật giao thông đường bộ đường bộ có hiệu quả cao, các cấp, các ngành
trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình cần tiếp tục thực hiện thường
xuyên công tác tuyên truyền và cần tập trung vào một số hình thức tuyên
81
truyền. Những hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật muốn đạt
kết quả cao phải kết hợp giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối
tượng; kết hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội; kết hợp với giáo
dục và cưỡng chế; phải tiến hành thường xuyên, liên tục, có chương trình kế
hoạch cụ thể, phải xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên có đủ nhiệt huyết, đủ
trình độ hiểu biết pháp luật giao thông đường bộ, gương mẫu trong việc chấp
hành pháp luật giao thông đường bộ.
Thứ hai, tập trung tuyên truyền đến tận cơ sở, đơn vị trực thuộc về các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Trung ương và địa phương mình
về TTATGTĐB; nâng cao ý thức chấp hành các quy định về TTATGTĐB
đến từng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động bằng nhiều hình
thức phong phú, đa dạng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, mang lại hiệu quả cao.
Thường xuyên tổ chức thực hiện, nhân rộng phong trào “3 không”: Không lái
xe khi đã uống rượu, bia; không chạy xe vào đường cấm, lấn tuyến vượt ẩu;
không chạy xe quá tốc độ quy định” và “3 có”: Có đội mũ bảo hiểm khi đi xe
máy; Có bằng lái xe; có ý thức tham gia các hoạt động tự quản về
TTATGTĐB. Đoàn Thanh niên với vai trò tiên phong, chủ động đi đầu trong
tất cả các chương trình hành động, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động,
xây dựng ý thức “Văn hóa giao thông” và nếp sống văn minh đô thị trong
thanh niên. Phát huy và khơi dậy tinh thần “Đâu cần thanh niên có, đâu khó
có thanh niên”, thường xuyên xây dựng các mô hình sinh hoạt sinh động, đổi
mới các hoạt động phong trào tạo sân chơi lành mạnh để thu hút đông đảo
thanh niên tham gia; thông qua đó tổ chức, định hướng cho thanh niên trở
thành lực lượng gương mẫu, đi đầu trong chấp hành các quy định về
TTATGTĐB.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng văn hóa giao thông đường bộ. Thời gian qua,
mô hình “Cổng trường an toàn giao thông” được các ngành, đoàn thể, địa
82
phương trong tỉnh quan tâm chỉ đạo, xây dựng và thực hiện, mang lại hiệu
quả thiết thực, tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức và hành vi của người
tham gia giao thông, đặc biệt là đối với phụ huynh và học sinh. Tuy nhiên, số
lượng các đơn vị, địa phương thực hiện mô hình “Cổng trường an toàn giao
thông” chưa nhiều, cần phát huy và nhân rộng nhiều hơn nữa, qua đó nâng
cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường, thầy cô giáo và cha mẹ học
sinh trong việc giáo dục, hướng dẫn học sinh thực hiện quy định pháp luật về
TTATGT.
Để tăng cường giải pháp bảo đảm TTATGT tại các trường học trong
thời gian tới, BATGT tỉnh vừa có Công văn số 134/BATGT yêu cầu Sở Giáo
dục và Đào tạo, BATGT các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các nhà trường
phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh thường xuyên nhắc nhở, giáo dục
con em mình tự giác chấp hành pháp luật về TTATGT, quy tắc giao thông;
đội mũ bảo hiểm đạt chuẩn khi tham gia giao thông bằng xe mô tô, xe gắn
máy, xe đạp điện; không điều khiển xe mô tô, xe gắn máy khi chưa đủ tuổi,
không có giấy phép lái xe; vận động người lớn phải đội mũ bảo hiểm cho trẻ
em từ 06 tuổi trở lên khi tham gia giao thông, sử dụng mũ bảo hiểm bảo đảm
chất lượng, cài quai đúng quy cách; khi đưa đón con em mình đến trường học
phải chấp hành quy định về dừng xe, đỗ xe trên đường bộ. Bên cạnh đó, Hiệu
trưởng nhà trường cần tổ chức giáo dục về TTATGT tại các trường cho phù
hợp để đảm bảo an toàn cho học sinh, giáo viên.
Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo, BATGT các địa phương cần tổ chức
ký cam kết giữa chính quyền - nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục
về an toàn giao thông cho học sinh; tiếp tục xây dựng và nhân rộng mô hình
“Cổng trường an toàn giao thông”. Tập trung việc giáo dục an toàn giao thông
cho học sinh, sinh viên từ bậc tiểu học đến đại học; đưa công tác tuyên truyền
pháp luật an toàn giao thông vào chương trình chính khóa, nhằm giáo dục kiến
83
thức cơ bản về pháp luật an toàn giao thông và rèn luyện ý thức chấp hành
pháp luật nói chung và pháp luật về an toàn giao thông nói riêng cho các bậc
học sinh trên toàn tỉnh, bảo đảm phù hợp với từng độ tuổi, trên cơ sở sự phát
triển tâm lý và thể chất của đối tượng cũng như điều kiện kinh tế - xã hội, môi
trường của Quảng Bình.
Đối với đội ngũ lái xe chuyên nghiệp: Các công ty vận tải phải thường
xuyên tổ chức giáo dục về an toàn giao thông, nội dung bao gồm: Tuyên
truyền, phổ biến hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về kinh
doanh vận tải; tăng cường tập huấn kiến thức pháp luật giao thông, kỹ năng và đạo
đức nghề nghiệp cho các lái xe ở các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ôtô. Gắn
trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ôtô trong
công tác này. Thường xuyên thảo luận nhóm về các mối nguy hiểm trên đường, các
thông tin về các điểm nguy hiểm trên tuyến, thường xuyên kiểm tra kỹ năng của lái
xe, xây dựng các chế tài đối với lái xe.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật về
trật tự an toàn giao thông đường bộ
Một là, tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp
thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ. Trong thực hiện
tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm, lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt
quan trọng; cần huy động tối đa lực lượng tham gia bảo đảm TTATGT, huy
động cả lực lượng Công an xã, tình nguyện viên, dân phòng… không để trống
địa bàn, dù ở nông thôn hay vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục duy trì kết quả thực
hiện bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe gắn máy, không được lơi lỏng
trong xử lý; cần hướng dẫn người dân thực hiện đội mũ bảo hiểm đúng cách
để đảm bảo an toàn. Như vậy để đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật an toàn
giao thông không những chỉ làm tốt công tác giáo dục, mà phải coi trọng
những biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật. Để tăng cường công tác tuần
84
tra, kiểm soát người và phương tiện và cũng như nâng cao hiệu quả công tác
này cần xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông trong sạch vững mạnh. Mặt
khác, trong công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật an toàn giao
thông cũng phải thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm các chuyên đề, các đợt
cao điểm để đề ra các biện pháp, giải pháp đồng thời phát huy kết quả đạt
được và khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện công vụ. Cùng
với việc tăng cường trang thiết bị cho các lực lượng chức năng, thì biên chế
cho các đơn vị cũng phải luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát
triển chung đặc biệt là với lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh
Quảng Bình.
Hai là, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát giao
thông, phát hiện xử lí nghiêm hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn.
Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm
TTATGTĐB có nguyên nhân từ hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn.
Không lấy việc đền bù, khắc phục thiệt hại của người có lỗi với nạn nhân để
miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Hằng năm đưa một số vụ tai nạn giao
thông đường bộ điển hình ở các địa phương ra xét xử lưu động, nhất là
những vụ có nguyên nhân từ hành vi uống rượu, bia quá nồng độ cồn quy
định gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về người và tài sản nhằm mục
đích giáo dục chung.
Ba là, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của lực
lượng thanh tra giao thông tỉnh Quảng Bình. Để thực hiện hiệu quả hơn nhiệm
vụ này trong thời gian tới, lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải phải tập
trung tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về tải
trọng xe, kích thước thùng chở hàng... tới lái xe, chủ xe, doanh nghiệp vận tải.
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về bốc xếp hàng hóa lên xe ô
tô khi tham gia giao thông trên đường bộ tại các doanh nghiệp, đơn vị trên địa
85
bàn tỉnh. Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về tải trọng phương tiện tại
Trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động.
Đặc biệt, lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải phải tập trung
kiểm tra, xử lý các vi phạm kích thước thành thùng chở hàng và tải trọng xe ô
tô tải một cách liên tục, trong đó chú trọng tâp trung kiểm tra, xử lý tại các
khu vực mỏ vật liệu, nơi tập kết hàng hóa các tuyến đường có nhiều phương
tiện vận tải hàng hóa trên địa bàn tỉnh, nhằm ngăn chặn kịp thời các xe ô tô
chở hàng quá tải trọng trước khi lưu thông trên đường. Phối hợp với các lực
lượng chức năng khác kịp thời phát hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm theo đúng quy định của pháp luật
3.2.2.4. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông, thiết bị kỹ thuật nhằm quản lý
đường bộ hiện đại, khoa học, văn minh
Thứ nhất, cần trang bị các công cụ, phương tiện hiện đại cho các cơ
quan thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông, nhằm phục vụ có hiệu quả
công tác tuần tra, kiểm soát và xử lí vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Triển
khai mạnh mẽ, quyết liệt đồng bộ việc thực hiện giai đoạn II Quyết định
1856/QĐ-TTg về giải tỏa hành lang đường bộ, đường sắt. Xây dựng kế hoạch
xử lý các điểm đen tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông trên toàn địa bàn, trình
Ủy ban nhân dân tỉnh sớm có quyết định phê duyệt và triển khai thực hiện.
Việc thực hiện các quy định của pháp luật về kết cấu hạ tầng an toàn
giao thông nhằm phát triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng an toàn giao thông là
một yêu cầu quan trọng, cần được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Giao
thông vận tải quan tâm, tập trung chỉ đạo. Kết cấu hạ tầng giao thông đường
bộ trên toàn tỉnh Quảng Bình những năm gần đây đã được đầu tư khá hoàn
thiện và bền vững, tuy nhiên đất dành cho đường bộ và hành lang an toàn
đường bộ vẫn còn ít, từ đó làm tăng nguy cơ vi phạm pháp luật an toàn giao
thông, làm tăng tai nạn giao thông và luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ùn tắc giao
86
thông đặc biệt là trong giờ cao điểm. Hiện nay, nhiều điểm giao nhau giữa
đường quốc lộ, các tuyển đường có tuyến đường sắt chạy cắt ngang, với lưu
lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng đông nên thường xuyên
xảy ra ùn tắc. Ngoài ra, việc sử dụng đường, hành lang an toàn đường bộ theo
quy định hiện nay trong tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Các cấp ủy Đảng, chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể xã hội, tổ chức chính trị trong toàn tỉnh cần
tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành quản lý bảo vệ và lập lại trật
tự hành lang an toàn đường bộ.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng, tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình quản lý sử dụng đất đai, xây dựng
nhà ở, lều quán, xây dựng khu công nghiệp, khu dân cư, khu kinh tế dọc các
tuyến đường bộ, đấu nối đường nhánh trực tiếp vào các tuyến quốc lộ, phát
hiện và xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, pháp
luật xây dựng Khu Quản lý đường bộ và Sở Giao thông vận tải phải soạn thảo
được quy chế phối hợp với chính quyền địa phương về công tác quản lý, bảo
vệ, giải tỏa hành lang an toàn đường bộ trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Các đơn vị quản lý đường bộ phải phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền
địa phương thống kê, phân loại công trình nằm trong hành lang an toàn đường
bộ theo mốc thời gian, đồng thời lập dự toán kinh phí đền bù hỗ trợ giải tỏa
các công trình nằm trong hành lang an toàn đường bộ theo mốc thời gian, các
công trình khác nằm trong hành lang an toàn đường bộ và công trình gây mất
an toàn giao thông báo cáo Tổng cục Đường bộ Việt Nam.
Thứ ba, tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ nghiệp vụ của các bộ
phận làm công tác đến bù giải phóng mặt bằng, công tác quản lý đường bộ.
Thành lập các ban giải phóng mặt bằng chuyên trách, các tổ công tác xử lý vi
phạm hành lang an toàn đường bộ tại các địa phương là cơ quan tham mưu
giúp việc cho đoàn công tác liên ngành của tỉnh nhằm đảm bảo tính chuyên
87
môn, nâng cao chất lượng của công tác quản lý, giải tỏa chống lấn chiếm hành
lang an toàn đường bộ. Nâng cao chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt dự án
đền bù giải phóng mặt bằng trong xây dựng công trình giao thông. Từ những
giải pháp trên tỉnh Quảng Bình cần tập trung xây dựng một chiến lược cho sự
phát triển giao thông đường bộ trong toàn tỉnh trên cơ sở của sự phát triển
kinh tế- xã hội, gia tăng dân số và nhu cầu thực tế tại địa phương. Trong đó
tập trung vào một số nội dung cụ thể như sau:
i) tiếp tục ưu tiên huy động các nguồn lực đầu tư hoàn chỉnh một bước
cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông, đảm bảo liên hoàn, liên kết giữa các
phương thức vận tải giữa các các huyện, thành phố trong tỉnh và kết nối với
các trung tâm kinh tế trọng điểm của đất nước.
ii) hoàn thành đầu tư nâng cấp, mở rộng các quốc lộ; xúc tiến việc đầu
tư xây dựng cầu vượt tại "điểm đen" giao thông.
iii) cải tạo, nâng cấp đồng bộ các tuyến đường trong tỉnh; xây dựng và
hoàn thành các công trình cầu trên sông của tỉnh.
Cụ thể:
Chú trọng công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống
kết cấu hạ tầng giao thông bảo đảm tính đồng bộ và hoàn thiện theo đúng các
quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật để từng bước nâng cao an toàn giao thông
trên toàn mạng lưới. Trong đó, việc quan tâm trước mắt là tập trung cải tạo để
xóa bỏ các điểm đen, các vị trí nguy hiểm tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tai nạn giao
thông cao; tránh tình trạng gia tăng tai nạn giao thông do chậm tiến hành cải
tạo các vị trí điểm đen.
- Cải tạo các điểm đen, các vị trí tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra tai nạn
giao thông: Tập trung cải tạo để xóa bỏ toàn bộ các điểm đen, các vị trí có
nguy cơ cao về tai nạn giao thông trên các tuyến Quốc lộ, đường Hồ chí Minh
88
hai nhánh Đông, Tây và hệ thống đường tỉnh; ưu tiên thực hiện trước đối với
các tuyến khu vực trung tâm có mật độ phương tiện giao thông lớn.
- Xử lý hệ thống cầu yếu: Nâng cấp toàn bộ cầu yếu còn lại trên mạng
Quốc lộ và Đường tỉnh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
- Cải tạo, nâng cấp các đoạn tuyến hạn chế năng lực vận tải: Thực hiện
nâng cấp 27Km đoạn Tân Ấp - Đồng Lê từ cấp V lên đạt cấp IV hai làn xe;
nâng cấp 14,7Km hiện là đường cấp V và 35,9Km hiện là đường cấp IV lên
cấp III, xây dựng mới đoạn tránh thị trấn Ba Đồn; quốc lộ 12C: Mở rộng đoạn
qua thị trấn Đồng Lê theo quy hoạch đô thị…
- Xây dựng đường tránh tại các đô thị: xây dựng đường tránh thị trấn
Ba Đồn của Quốc lộ 12A quy mô cấp III hai làn xe; đảm bảo tất cả các quốc
lộ khi đi qua các đô thị đều có xây dựng đường tránh, ưu tiên đường tránh thị
trấn Hoàn Lão, thị trấn Quán Hàu của Quốc lộ 1, đường tránh thị trấn Đồng
Lê của Quốc lộ 12C [23].
Thứ năm, giải pháp về vốn cho đầu tư cơ sở vật chất.
i) Tăng cường phối hợp với các bộ, ngành trung ương trong việc triển khai
thực hiện theo quy hoạch các dự án lớn về phát triển kết cấu hạ tầng trên địa
bàn tỉnh bằng nguồn vốn Ngân sách Trung ương như: Xây dựng mới tuyến bộ
ven biển; nâng cấp quốc lộ 1A; giải toả hành lang an toàn đường bộ, bảo trì
các tuyến Quốc lộ; cải tạo điểm có nguy cơ cao xảy ra tai nạn giao thông trên
hệ thống đường bộ của tỉnh; cung cấp trang thiết bị hiện đại cho lực lượng
làm công tác bảo đảm TTATGTĐB của tỉnh; phối hợp tốt với Bộ Giao thông
vận tải và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc tổ chức các khóa học đào tạo
nâng cao kiến thức về an toàn giao thông cho các cán bộ công tác trong lĩnh
vực an toàn giao thông của tỉnh bằng nguồn vốn Trung ương.
ii) Ngân sách tỉnh: Cân đối nguồn Ngân sách tỉnh kết hợp nguồn vốn hỗ
trợ từ Ngân sách Trung ương hàng năm để thực hiện đầu tư xây dựng hệ
89
thống kết cấu hạ tầng giao thông của tỉnh như: Cải tạo, nâng cấp hệ thống
đường tỉnh; xây dựng mới để thay thế các cầu yếu có nguy cơ mất an toàn
giao thông; xây dựng mới các cầu cho khu vực dân cư đang bị cô lập về giao
thông do chưa có cầu qua sông.
Nguồn thu từ xử phạt vi phạm: Sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí từ xử
phạt theo quy định hiện hành để tăng cường các hoạt động của các lực lượng
chức năng cũng như xây dựng các công trình bảo đảm an toàn giao thông.
Nguồn thu phí bảo trì đường bộ: Sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả
nguồn vốn bảo trì đường bộ theo quy định của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu
quả khai thác, đảm bảo TTATGT trên hệ thống đường bộ.
iii) Nguồn kinh phí huy động từ các doanh nghiệp: Xây dựng các cơ chế,
chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các công ty quản lý/vận
hành giao thông, các công ty bảo hiểm sản xuất và phân phối xe, công ty sản
xuất và phân phối thiết bị an toàn giao thông đường bộ, và các công ty kỹ
thuật và tư vấn an toàn đường bộ, đóng góp tiền, tham gia tài trợ cho các dự
án, công trình bảo đảm an toàn giao thông và các chiến dịch tuyên truyền...
Một số công ty khác như các công ty xăng dầu, nhà máy sản xuất ô tô và xe tải
trở thành nhà bảo trợ nhằm nâng cao hình ảnh công ty hoặc tạo ra thương hiệu
sản phẩm an toàn của công ty, có thể huy động đóng góp bằng tiền hoặc trực
tiếp xây dựng các công trình bảo đảm an toàn giao thông đường bộ. Việc đóng
góp vừa bảo đảm xã hội hoá công tác an toàn giao thông, vừa mang lại hiệu
quả cho doanh nghiệp trong công tác quảng bá thương hiệu.
iv) Nguồn kinh phí khác từ các tổ chức trong nước và nước ngoài và từ
đóng góp của người dân: Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù khuyến khích,
huy động các nguồn lực xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển
hạ tầng giao thông, xây dựng hệ thống giám sát, phát hiện vi phạm về
TTATGT. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo đảm TTATGT; huy động kinh
90
phí đóng góp từ nhân dân: Xây dựng những chính sách, để khuyến khích
người dân tham gia đóng góp kinh phí bằng nhiều hình thức cho việc bảo đảm
an toàn giao thông.
3.2.2.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của
chính quyền địa phương trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông
đường bộ
Đây là một trong những nội dung cơ bản của Chỉ thị số 18-CT/TW
ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác bảo đảm TTATGTĐB, đường sắt, đường thủy nội địa và
khắc phục ùn tắc giao thông. Kết luận số 45 của Ban Bí thư khóa XII.
Các cấp ủy địa phương ở Quảng Bình cần xây dựng kế hoạch tổ chức
thực hiện Chỉ thị số 18 của Ban Bí thư khóa XI và Kết luận số 45 của Ban Bí
thư khóa XII; thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực
hiện. Chỉ đạo các tổ chức đảng, nhất là cấp ủy cơ sở, chi bộ, tổ chức chính trị
- xã hội và các cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp thực hiện thường
xuyên, liên tục, có hiệu quả Chỉ thị số 18 và Kết luận số 45; cốt lõi là giáo dục
và yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải tự giác nêu gương chấp hành nghiêm
các quy định của pháp luật về TTATGT, vận động người dân có ý thức khi
tham gia giao thông và tích cực tham gia bảo đảm TTATGT, xây dựng nếp
sống văn hóa giao thông, văn minh trong cộng đồng dân cư.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước của chính quyền đối với công tác bảo đảm TTATGT và khắc
phục ùn tắc giao thông. Công tác bảo đảm TTATGT và khắc phục ùn tắc giao
thông phải được xác định là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy
đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của
nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
91
TTATGT của các ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc
kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.
Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát các đảng bộ, chi bộ trực thuộc
để đôn đốc, hướng dẫn thực hiện và xem xét biểu dương, khen thưởng, xử lý
trách nhiệm đối với cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, đơn vị trong việc tổ chức
thực hiện Chỉ thị số 18 và Kết luận số 45 của Ban Bí thư.
92
Tiểu kết Chương 3
Từ thực trạng tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB và phòng,
chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình, trong thời gian
tới các cấp, các ngành ở trung ương đến địa phương cần nghiêm túc, tích cực
triển khai đồng bộ các giải pháp từ việc hoàn thiện chính sách, pháp luật đến
tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của chính quyền trung ương.
Đối với địa phương, cần kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý, phòng ngừa, phát hiện và xử
lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB, trong đó tập trung vào các lực lượng
nòng cốt như Công an, Thanh tra giao thông; đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ
trong nhà trường, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật ATGTĐB
trong các tầng lớp Nhân dân và người tham gia giao thông; tăng cường công
tác thanh tra, kiểm soát, phòng ngừa vi phạm và tai nạn giao thông; thu hút và
cân đối các nguồn vốn nhằm đồng bộ cơ sở hạ tầng, kỹ thuật đường bộ và
tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp ủy Đảng địa phương.
93
KẾT LUẬN
Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại rất lớn, cả trước mắt và
lâu dài, nhiều mặt: Kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Vi phạm pháp luật về
TTATGTĐB là nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến tai nạn giao thông. Vì
vậy, việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình là cấp bách, khách quan.
Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB
diễn ra khá phổ biến, ở cả phương tiện cơ giới, thô sơ, vi phạm về quy tắc
giao thông, người điều khiển phương tiện, phương tiện, hạ tầng giao thông…
công tác đấu tranh, phòng chống đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, vi phạm vẫn phức tạp, tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra
theo hướng ngày càng nghiêm trọng, thể chế quản lý còn bất cập, bộ máy
quản lý chưa hiệu quả, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB
còn gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi quyết tâm lớn của cả hệ thống chính
trị, Nhà nước – Doanh nghiệp – Nhân dân trong việc phòng, chống vi phạm
pháp luật về TTATGTĐB, trong đó tập trung hoàn thiện thể chế, kiện toàn và
nâng cao năng lực bộ máy, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, xây dựng
đồng bộ hạ tầng giao thông đường bộ và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát.
Việc xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp và chính sách
TTATGTĐB đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai; giảm tai nạn giao thông
và tránh ùn tắc giao thông đường bộ một cách bền vững trên địa bàn toàn tỉnh,
tiến tới một xã hội có giao thông an toàn, văn minh, hiện đại và thân thiện.
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đáp ứng nhu cầu giao thông
vận tải và bảo đảm an toàn giao thông trên toàn bộ mạng lưới giao thông của
94
tỉnh, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, nâng cao vị thế của Quảng
Bình trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo Báo cáo
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.
2. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo Báo cáo
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.
3. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo Báo cáo
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.
4. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo Báo cáo
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.
5. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo Báo cáo
công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.
6. Ban Bí thư, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao
thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc
giao thông.
7. Ban chấp hành trung ương Đảng (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04
tháng 09 năm 2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác bảo đảm TTATGTĐB, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục
ùn tắc giao thông, Hà Nội.
8. Hoàng Đình Ban (Chủ nhiệm), Quản lý trật tự an toàn giao thông ở
Việt Nam - những vấn đề đặt ra để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp cơ sở, năm 2013
9. Bộ Công an, Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Giao thông đường
bộ năm 2008 về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ của lực
lượng Công an nhân dân, 2019.
10. Bộ Giao thông vận tải, Quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với
một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Cẩm nang
96
dành cho Lực lượng làm công tác Thanh tra giao thông đường bộ), Nhà
xuất bản Giao thông vận tải, 2016.
11. Chính phủ, Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
12. Chính phủ, Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
13. Trần Sơn Hà, Luận án tiến sĩ Quản lý công Quản lý nhà nước về trật
tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Học viện Hành
chính Quốc gia, 2016.
14. Trương Diệu Loan, Luận án tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội Giải pháp
nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ theo chức năng của lực lượng Cảnh sát giao thông,
Học Viện Cảnh sát nhân dân, 2015.
15. Trần Hồng Phong, Luận văn Tổ chức thực hiện pháp luật về
TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình", Học viện Hành chính Quốc gia, 2018. 16. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2015) Báo cáo tổng kết
tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.
17. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2016) Báo cáo tổng kết
tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.
18. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2017) Báo cáo tổng kết
tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.
19. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2018) Báo cáo tổng kết
tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.
20. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2019) Báo cáo tổng kết
tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình. 21. Quốc hội, Luật Giao thông đường bộ năm 2008. 22. Quốc hội, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
97
23. Đinh Phan Quỳnh, Luận án Tiến sĩ Luật học Xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay,
Học viện Khoa học xã hội, 2018.
24. Đặng Quang Tuân (Chủ nhiệm), Phổ biến giáo dục pháp luật về an
toàn giao thông - qua thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Đề tài khoa học cấp
tỉnh, 2013.
25. Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, 2005.
26. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Quyết định số 970/QĐ-UBND ngày
02 tháng 5 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình Về việc
phê duyệt Chiến lược bảo đảm TTATGTĐB tỉnh Quảng Bình đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
27. Viện Ngôn ngữ, Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển Tiếng Việt,
Nxb Đà Nẵng.
28. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2019-12-13/phat-trien-
giao-thong-duong-bo-hien-dai-tang-tinh-ket-noi-80279.aspx
29. http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/2789/Ban-ve-khai-niem-tai-
nan-giao-thong-duong-bo-o-Viet-Nam
30. https://www.quangbinh.gov.vn/ 31. https://baoquangbinh.vn/phap-luat/201907/thanh-tra-so-giao-thong-
van-tai-tang-cuong-kiem-soat-tai-trong-va-thay-doi-thung-cho-hang-
cua-xe-tai-2168582/
32. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/nam-2020-tiep-tuc-phan-dau-
giam-tai-nan-giao-thong-tu-05---10-ca-03-tieu-chi-so-voi-nam-
2019.htm
33. http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Bo-Cong-an-de-xuat-
xay-dung-Luat-Trat-tu-an-toan-giao-thong-duong-bo-563070/
98
https://sgtvt.quangbinh.gov.vn/3cms/thanh-tra-so-giao-thong-van-tai-tang- cuong-kiem-soat-tai-trong-va-thay-doi-thung-cho-hang-cua-.htm
99
PHỤ LỤC 1: CÁC VỊ TRÍ NGUY HIỂM CÓ NGUY CƠ CAO XẢY RA TAI NẠN GIAO THÔNG CẦN CẢI TẠO TUYẾN (Kèm theo Quyết định số 970 /QĐ-UBND ngày 02 /5/2013 của UBND tỉnh Quảng Bình)
TT Quốc lộ
Lý trình
Vị trí Ghi chú
1
Quốc lộ 1
Km601+00 - Km603+00 T+P
2
Quốc lộ 1
Km636+00 - Km638+00 T+P
3
Quốc lộ 1
Km645+00 -Km648+00 T+P
4
Quốc lộ 1
Km673+00 - Km674+00 T+P
5
Quốc lộ 1
Km707 - Km709
T+P
1
HCMĐ
T+P
Km923+00 - Km930+200
2
HCMĐ
Km860+700-Km861
Phải
3
HCMĐ
T+P
Km919 +400 - Km919+600
1
Quốc lộ 12C
Km65+400
Phải
2
Quốc lộ 12C
Km77+950
Trái
3 4
Quốc lộ 12C Quốc lộ 12C
Km82+200 Km82+500
Phải Phải
1
Km33+00 - Km59+00
HCMT Đèo U bò
2
HCMT Cổng trời Làng Ho
Km152+500 - Km169+00
1
Quốc lộ 12A
Km4+950
Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn gồ giảm tốc. Đầu tư làm lại mặt đường bằng BTXM, bạt đồi mở rộng tầm nhìn Đầu tư mở rộng nền mặt đường, lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn gồ giảm tốc. Nắn tuyến Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn lại vạch sơn phân làn, gồ giảm tốc. Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Mở rộng bụng đường cong, tăng cường thêm hệ thống cảnh báo nguy hiểm, lắp đặt hệ thống hộ lan kép về phía taluy âm Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn và phá tường chắn cũ, đổ bê tông tường chắn mới Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Mở rộng bán kính đường cong nằm, đào bạt mái mở rộng tầm nhìn, Lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, hộ lan tôn sóng. Mở rộng bán kính đường cong nằm, đào bạt mái mở rộng tầm nhìn, Lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, hộ lan tôn sóng. Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc
PHỤ LỤC
100
TT Quốc lộ
Lý trình
Vị trí Ghi chú
2
Quốc lộ 12A
Km6+200
3
Quốc lộ 12A
Km6+200 - Km8+00
4
Quốc lộ 12A
Km19+300
5
Quốc lộ 12A
Km21+100
6
Quốc lộ 12A
Km25+00 - Km29+00
7
Quốc lộ 12A
Tại Km 30+150
8
Quốc lộ 12A
Km 31+157 - Km31+310
9
Quốc lộ 12A
Tại Km 34+250
10 Quốc lộ 12A
Tại Km 46+200
11 Quốc lộ 12A
Km62+600 - Km64+00
12 Quốc lộ 12A
Km69+00 - Km70+00
13 Quốc lộ 12A
Km 72+500- Km75+00
1
Quốc lộ 12A
2
Quốc lộ 12A
3
Quốc lộ 12A
Km113+737 - Km114+600 Km121+200 - Km121+600 Km129+100 - Km131+200
1
Quốc lộ 15
Km 456+130
2
Quốc lộ 15
Km 459+722 - Km460+204
3
Quốc lộ 15
Tại Km462+600
4
Km557+700
P
Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Cải tạo cua ngoặt và mở rộng tầm nhìn Mở rộng nền đường và mặt đường Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Lắp dựng hộ lan mềm (Hộ lan 2 tầng) Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Đầu tư mở rộng bán kính.
1
Km0+00
P
Đầu tư mở rộng bán kính.
Quốc lộ 15 Đường tỉnh 563
101
PHỤ LỤC 2: Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2015 so với năm 2014. (Nguồn: [13]).
So sánh cùng kỳ năm 2014
TT Địa bàn
Số vụ
Số người chết
Số người bị thương
%
%
%
Tăng/ Giảm (+/-) -12 -1 -1 +2 -5 0 -6 +5 -18
5 -41 9 -17 -44 13 +47 13 15 -61 15 -19 -50 16 +53 26 112 -20
28 -71 55 -10 -7 9 +18 23 19 -25 28 0 -27 8 +24 69 239 -14
So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -22 +4 -7 +11 -38 -7 -7 +24 -42
-44 +8 -44 +92 -67 -20 -47 +53 -15
15 47 90 96
vụ vụ vụ vụ
So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -16 23 1 Minh Hóa 2 Đồng Hới -11 54 14 -11 3 Tuyên Hóa 4 Ba Đồn 25 +8 5 Quảng Ninh -34 22 Lệ Thủy -7 6 29 7 Quảng Trạch 15 -15 8 Bố Trạch 66 +23 Tổng 248 -63 (Xếp thứ tự từ địa phương có số người chết ít nhất đến nhiều nhất) + Tuyến đường xảy ra tai nạn: - QL: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: - Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Không nhường đường: - Sử dụng rượu, bia: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Dừng đỗ: - Khác:
+ Thời gian xảy ra tai nạn: - 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h: + Độ tuổi gây tai nạn: - Dưới 18 tuổi: - Từ 18 đến 27 tuổi: - Từ 27 đến 55 tuổi: - Trên 55 tuổi:
170 vụ vụ 27 vụ 21 vụ 23 vụ 7 t/h 89 t/h 150 t/h 9 vụ 21 vụ 80 vụ 8 vụ 18 vụ 13 vụ 36 vụ 2 vụ 24 vụ 7 vụ 1 vụ 38
vụ 14 vụ 89 127 vụ vụ 18
102
PHỤ LỤC 3: Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2016 so với năm 2015. (Nguồn: [13]).
TT Địa bàn
Số vụ
người chết
%
%
%
Số người bị thương
1 Quảng Ninh 11
So sánh cùng kỳ năm 2015 Số Tăng/ Giảm (+/-) -11
-50
8
So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-) -7
-47
9
So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-) -10
-53
Tuyên Hóa
-78 -48
-3 -2
-3 -8
2 12
10 11
11 17
-7 -11
-21 -32
-23 -15
-4
55
22
-15
-14
-15
-10
-20
0
0
-3
13
-19
0
8
0
Lệ Thủy
70 +16 38 +9 29 +6
70 -22 +60 51 +100 28
+30 7 +31 24 +26 10
+15 +23 0
-2 +9 +5
+27 +82 0
247 -1
235
-7
-1
-6
-4
+ Thời gian xảy ra tai nạn:
2 3 Ba Đồn 4 Bố Trạch 56 5 Quảng Trạch 15 6 Đồng Hới 7 8 Minh Hóa Tổng -2 105 (Xếp thứ tự từ địa phương có tỷ lệ số vụ, số người chết, số người bị thương ít nhất đến nhiều nhất) + Tuyến đường xảy ra tai nạn: - Quốc lộ:
162 vụ - 0h - 6h:
16
vụ
17 41 12 15
vụ vụ vụ
43 95 93
104
vụ - 6h - 12h: vụ - 12h - 18h: vụ - 18h - 24h: vụ t/h
- Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô:
130
t/h
13
t/h
+ Độ tuổi gây tai nạn:
36
11
68
12
12
- Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định:
14
vụ - Dưới 18 tuổi: vụ - Từ 18 đến 27 tuổi: vụ - Từ 27 đến 55 tuổi: vụ - Trên 55 tuổi: vụ
vụ vụ 88 133 vụ vụ 15
103
26
5
2
- Không nhường đường: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Không Giấy phép lái xe:
2
vụ vụ vụ vụ
1
69
vụ vụ
- Sử dụng rượu, bia - Khác:
104