BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THỊ KIM OANH

VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ

TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ THỊ KIM OANH

VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ

TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI - NĂM 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai

công bố trong bất cứ công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận

văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 2020

Người cam đoan

Vũ Thị Kim Oanh

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người hướng dẫn khoa

học GS.TS. Phạm Hồng Thái đã tận tình hướng dẫn và đóng góp nhiều ý kiến

khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Hành chính

Quốc gia, Ban QLĐT Sau đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo đã nhiệt tình

giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Công an tỉnh Quảng Bình, Thanh tra Sở Giao

thông vận tải tỉnh Quảng Bình và các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan đã

cung cấp số liệu giúp tôi hoàn thành luận văn của mình.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô

giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của thầy, cô giáo,

gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu cho tôi hoàn thành

luận văn này!

Hà Nội, 20 tháng 7 năm 2020

Học viên

Vũ Thị Kim Oanh

MỤC LỤC TRANG

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VI PHẠM

PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .... 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trật

tự an toàn giao thông đường bộ .................................................................. 9

1.2. Khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật

tự an toàn giao thông đường bộ ................................................................ 13

1.3. Các bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn giao thông đường bộ .......................................................................... 30

Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 35

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ

AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN

NAY ................................................................................................................ 36

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến vi

phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng

Bình ............................................................................................................. 36

2.2. Thực tiễn vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường

bộ ở tỉnh Quảng Bình ................................................................................ 39

2.3. Thực tiễn phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ......................................................... 49

2.4. Nguyên nhân của hạn chế .................................................................. 62

Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 65

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI

PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY ................................... 66

3.1. Quan điểm phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình ......................................................... 66

3.2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay .......................................... 68

Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 93

KẾT LUẬN .................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 100

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ Chữ viết đầy đủ

BATGT

TTATGT Ban An toàn giao thông Trật tự an toàn giao thông

TTATGTĐB Trật tự an toàn giao thông đường bộ

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình ............. 37

Bảng 2.2 (1): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa

bàn tỉnh của Công an tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019 ............................ 40

Bảng 2.2 (2): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa

bàn tỉnh của Thanh tra Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-

2019…………………………………………………………………………46

Bảng 2.3: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về TTATGTĐB tỉnh

Quảng Bình ..................................................................................................... 50

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ (TTATGTĐB) nói riêng có tác hại rất lớn về nhiều mặt nên

Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật tạo hành

lang pháp lý khá đầy đủ cho thực hiện TTATGTĐB. Chỉ thị số 18-CT/TW

ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy

nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông đã khẳng định: Công tác bảo đảm trật

tự, an toàn giao thông (TTATGT) và khắc phục ùn tắc giao thông phải được

xác định là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của các cấp ủy Đảng; phát

huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của Nhân dân.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATGT của các

ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc,

sơ kết, tổng kết việc thực hiện của Đảng.

Trong những năm qua, khi Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được

ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để thiết lập trật tự kỷ cương về

TTATGTĐB, góp phần phát triển nền kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng

của đất nước. Việc triển khai thực hiện các quy định của Luật Giao thông

đường bộ trên phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng đã

được Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp... thực hiện

nghiêm túc và thu được kết quả tốt. Đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật về cơ bản đã được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phổ

biến, thi hành, đưa pháp luật vào cuộc sống; vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB được kiềm chế, xử lý kịp thời; công tác phổ biến giáo dục pháp

luật đã được đẩy mạnh; các mặt công tác bảo đảm TTATGTĐB đã đi vào nề

nếp, được Nhân dân đồng tình ủng hộ và phát huy hiệu quả tích cực; bước đầu

1

tạo lập được những điều kiện thuận lợi để chủ động tham gia vào hoạt động

giao thông vận tải của cả nước nước và khu vực.

Bên cạnh những kết quả đạt được, ở tỉnh Quảng Bình, tình hình vi

phạm pháp luật về TTATGTĐB vẫn còn diễn ra khá phổ biến, ý thức của

người tham gia giao thông chưa thực sự tự giác, còn hiện tượng đối phó, thậm

chí có hành vi chống đối người thi hành công vụ, tình trạng vi phạm: Điều

khiển phương tiện vi phạm tốc độ, tránh, vượt không đúng quy định, phương

tiện không đảm bảo an toàn kỹ thuật, lái xe sau khi sử dụng rượu bia vẫn điều

khiển phương tiện; đi mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm, lấn chiếm lòng

đường, vỉa hè trái phép để làm nơi buôn bán hoặc trông giữ xe; tình trạng làm

đường đến đâu, xây nhà đến đó, xây nhà ven quốc lộ, vi phạm hành lang an

toàn giao thông đường bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi; kết quả kiềm chế và làm

giảm tai nạn giao thông chưa vững chắc, số người chết và bị thương do tai

nạn giao thông còn cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông.

Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi

hành luật giao thông còn chậm. Một số quy định của Luật Giao thông đường

bộ chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực cán bộ, công chức làm công tác

phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB còn thiếu và yếu; công tác

phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGTĐB còn hình thức, chưa thực sự hiệu

quả; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chưa thực sự phòng, chống được

vi phạm; hạ tầng giao thông đường bộ và trang thiết bị giao thông đường bộ

của tỉnh chưa được quan tâm, đầu tư hiện đại, đồng bộ.

Từ những lý do trên, nhất là trong điều kiện phải bảo đảm tính mạng,

sức khỏe con người, bảo đảm kỷ cương nhằm phát triển kinh tế, ổn định xã

hội thì cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá và giải pháp ngăn chặn,

đẩy lùi và phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình. Đây cũng chính là lý do học viên lựa chọn đề tài “Vi phạm pháp

2

luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay” làm

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật hành chính, mã số: 8

38 01 02.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Tình hình nghiên cứu về giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao

thông đường bộ

Về vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính đã có nhiều công

trình nghiên cứu, trước hết trong các giáo trình Luật Hành chính ở các cơ sở

đào tạo, đã đưa ra, phân tích khái niệm về vi phạm pháp luật, vi phạm hành

chính, các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành

chính, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính.

Về giao thông đường bộ, trật tự an toàn giao thông đã có nhiều công

trình nghiên cứu như: “Quản lý trật tự an toàn giao thông ở Việt Nam -

những vấn đề đặt ra để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình

hình mới”, do Hoàng Đình Ban làm chủ nhiệm, Đề tài khoa học cấp cơ sở,

năm 2013; “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn

Minh (2012), Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đó đề cập đến thực

trạng vi phạm hành chính, thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa và đưa ra một số giải pháp

bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.

Luận án tiến sĩ Quản lý công “Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn

giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” của Trần Sơn Hà, thực hiện năm

2016 tại Học viện Hành chính Quốc gia là luận án chuyên ngành Quản lý

công, những vấn đề mà luận án nghiên cứu có liên quan trực tiếp về

TTATGTĐB, vì vậy trong chương thứ 4 của luận án, khi trình bày về các giải

pháp nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, tác giả

3

đã dành hai mục (mục 4.2.3 và 4.2.7), trình bày về nhóm giải pháp “Tổ chức

thực hiện pháp luật về giao thông đường bộ” và “Tăng cường công tác kiểm

tra, thanh tra, tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm trật tự, an toàn giao thông

đường bộ”. Theo tác giả muốn nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về

TTATGTĐB, thì việc tăng cường công tác thanh, kiểm tra, cũng như vấn đề

tuần tra, kiểm soát cần phải được tăng cường, đặc biệt là cần phải có những

thay đổi từ khâu lập kế hoạch cho đến tổ chức thực hiện cần phải có sự thay

đổi mạnh mẽ.

Tình hình nghiên cứu vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ,

trật tự an toàn giao thông đường bộ

Luận án Tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội “Giải pháp nâng cao hiệu quả

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo chức

năng của lực lượng Cảnh sát giao thông” của Trương Diệu Loan thực hiện

năm 2015 tại Học Viện Cảnh sát nhân dân. Trong phần trình bày về thực

trạng cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đường bộ, tác giả đã phân tích hoạt động xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao

thông trong thời gian 10 năm (từ năm 2005 đến hết năm 2014); tác giả đã chỉ

ra những ưu điểm, hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt

động xử phạt. Từ những phân tích đó, đã nêu ra những giải pháp để khắc phục

những tồn tại trong công tác xử phạt của lực lượng Cảnh sát giao thông như:

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ, tăng cường biên chế, trang bị cho lực lượng Cảnh

sát giao thông.

Luận án Tiến sĩ Luật học của Nghiên cứu sinh Đinh Phan Quỳnh “Xử lý

vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt

Nam hiện nay”, Học viện Khoa học xã hội, 2018. Trên cơ sở phân tích, luận

4

giải những vấn đề có liên quan đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ, luận án làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận cũng như pháp lý

về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Bên cạnh

đó luận án tiến hành đánh giá thực trạng hoạt động xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ cũng như những yếu tố tác động tới hoạt

động này, để từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, còn có một số luận văn thạc sĩ Luật học, cũng nghiên cứu

về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ như: Luận

văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực

giao thông đường bộ hiện nay – Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và phương

hướng hoàn thiện” của Vũ Thị Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội,

Hà Nội, 2010; Luận văn thạc sĩ luật học “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa” của Nguyễn Văn

Minh, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012; Luận văn thạc sĩ

luật học“Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông

đường bộ” của Ngô Thị Hồng Loan, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2014...

Tình hình nghiên cứu vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ,

trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

Năm 2013 tác giả Đặng Quang Tuân nghiên cứu đề tài khoa học “Phổ

biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông - qua thực tiễn tỉnh Quảng

Bình’’. Công trình nêu bật vị trí, vai trò, mục đích của phổ biến, giáo dục

pháp luật, thực tiễn công tác giáo dục pháp luật giao thông ở Quảng Bình và

đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình.

5

Luận văn “Tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng

Bình" của tác giả Trần Hồng Phong, Học viện Hành chính Quốc gia, 2018.

Mục đích của đề tài là nghiên cứu lý luận về tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB, phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình tổ chức

thực hiện pháp luật về giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình, từ đó đề xuất

những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp

luật về TTATGTĐB.

Tuy nhiên qua khảo sát cũng cho thấy chưa có công trình nào trực tiếp

nghiên cứu về vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình trong

khi đây là địa phương có tình hình vi phạm giao thông đường bộ khá phức

tạp, có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Vì vậy, đề

tài này được thực hiện có dựa trên việc tham khảo, tiếp thu có chọn lọc những

kết quả nghiên cứu của các công trình trước đó và vẫn đảm bảo tính mới,

không trùng lặp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng về vi phạm pháp

luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình; đưa ra các quan điểm và giải pháp

phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ thêm khái niệm, đặc điểm, nội dung vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB; bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB, trong đó chú ý tới các bảo đảm pháp lý.

Đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình, việc thực hiện các biện pháp phòng, chống vi phạm, những

kết quả, hạn chế và nguyên nhân.

6

Trên cơ sở thực trạng, nguyên nhân ở trên, luận văn đưa ra các quan

điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh

Quảng Bình hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng

Bình hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi thời gian: trong giai đoạn từ năm 2015 đến nay (hết tháng

12/2019).

Phạm vi không gian: tỉnh Quảng Bình.

Phạm vi nội dung: vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng

Bình do nhiều chủ thể có thẩm quyền phát hiện, xử lý, trong phạm vi đề tài

tập trung chủ yếu vào vi phạm TTATGTĐB do lực lượng Công an tỉnh Quảng

Bình và thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý.

Đây cũng là giới hạn của phạm vi nghiên cứu, do đó luận văn chỉ tập trung

nghiên cứu về những vi phạm hành chính, mà không nghiên cứu những vi

phạm TTATGTĐB là tội phạm.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ

trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước về pháp luật nói chung, về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao

thông đường bộ.

Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong khi thực hiện

đề tài là: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương

7

pháp so sánh, phương pháp thống kê và các phương pháp khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về vi phạm pháp

luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ, bổ sung những nhận định về thực

trạng và đề xuất, chi tiết một số giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Ý nghĩa thực tiễn

Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho

những nhà lãnh đạo, quản lý của tỉnh Quảng Bình; là tài liệu tham khảo cho sinh

viên, học viên, những người nghiên cứu về vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao

thông đường bộ, nhất là những nội dung thực tiễn tại địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn có kết cấu nội dung gồm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý vi phạm pháp luật về trật

tự an toàn giao thông đường bộ.

Chương 2. Thực trạng vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông

đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.

Chương 3. Quan điểm và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về

trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay.

8

CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VI PHẠM

PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trật tự

an toàn giao thông đường bộ

1.1.1. Khái niệm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng là một trong

những nhu cầu tất yếu của con người trong cuộc sống, là thước đo văn minh

của mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đều

gắn bó chặt chẽ với hoạt động giao thông mà trước hết là giao thông đường

bộ. Dưới góc độ kinh tế, giao thông đường bộ được ví là huyết mạch kinh tế

của quốc gia, là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển kinh tế

- xã hội của đất nước cũng như năng lực tổ chức quản lý và văn minh của một

quốc gia. Vì vậy, đảm bảo TTATGT là chiến lược của bất kỳ quốc gia nào trên

thế giới.

Theo từ điển tiếng Việt: Giao thông là việc đi lại từ nơi này đến nơi

khác của người và phương tiện chuyên chở [24, Tr.393].

Luật Giao thông đường bộ năm 2008: Đường bộ gồm đường, cầu

đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ (Khoản 1, Điều 3).

Trên cơ sở cách hiểu về các thuật ngữ “giao thông”; “đường bộ” như

trên, có thể thấy giao thông đường bộ là việc đi lại từ chỗ này qua chỗ kia của

người và phương tiện chuyên chở trên đường đường bộ, cầu đường bộ, hầm

đường bộ, bến phà đường bộ. Trong khi đó TTATGTĐB là trạng thái xã hội

có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật trong

lĩnh vực giao thông đường bộ, nhằm đảm bảo cho hoạt động giao thông

9

đường bộ thông suốt. Đảm bảo TTATGTĐB góp phần vào sự phát triển kinh

tế cũng như bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước.

Theo từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì TTATGTĐB

được hiểu là: Trạng thái xã hội có trật tự được hình thành và điều chỉnh bởi

các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông, vận tải công cộng mà mọi

người tham gia giao thông phải tuân theo, nhờ đó bảo đảm cho hoạt động giao

thông thông suốt, trật tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn giao

thông, gây thiệt hại về người và tài sản. TTATGTĐB là một mặt của trật tự,

an toàn xã hội [22, Tr.1182].

Xuất phát từ quan điểm chung về pháp luật là tổng hợp các quy phạm

pháp luật do nhà nước ban hành, hay thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ

xã hội có thể hiểu: Pháp luật về TTATGTĐB là tổng thể các quy phạm pháp

luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong lĩnh vực TTATGTĐB nhằm đảm bảo hoạt động giao thông

đường bộ được diễn ra thông suốt, trật tự và an toàn.

1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Thứ nhất, pháp luật TTATGTĐB điều chỉnh một lĩnh vực khá rộng lớn,

phức tạp. Bao gồm những lĩnh vực lớn như quy tắc giao thông đường bộ, kết

cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phương tiện tham gia giao thông đường bộ,

người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vận tải đường

bộ… với nhiều chủ thể chịu tác động như các cơ quan Nhà nước, doanh

nghiệp, Nhân dân.

Thứ hai, pháp luật về TTATGTĐB được quy định trong nhiều văn bản

quy phạm pháp luật do nhiều chủ thể ban hành với hiệu lực pháp lý khác

nhau. Ở cấp độ Hiến pháp, những quan điểm lớn về trật tự xã hội (trong đó có

TTATGTĐB) là cơ sở, tiền đề để các văn bản luật, văn bản dưới luật cụ thể

hóa, chi tiết hóa. Pháp luật về TTATGTĐB chủ yếu được quy định dưới hình

10

thức văn bản luật và dưới luật, trong đó các văn bản là nghị định, thông tư

hiện nay chiếm một tỷ lệ rất lớn.

Thứ ba, pháp luật về TTATGTĐB thường xuyên phải được thay đổi,

cập nhật và hoàn thiện. Điều này xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có sự phát

triển mạnh mẽ của kinh tế, số lượng phương tiện, kỹ thuật, tình hình tai nạn

giao thông và định hướng phòng ngừa tại nan, bảo đảm TTATGTĐB ở từng

thời kỳ.

1.1.3. Nội dung của pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Là một lĩnh vực của pháp luật trong quản lý nhà nước, pháp luật về

TTATGTĐB như đã phân tích có đối tượng tác động và nội dung tác động rất

rộng lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Có thể kể ra một số

nội dung cơ bản quy định về:

Quy tắc giao thông đường bộ. Đây là các quy định chung, bắt buộc các

chủ thể tham gia hoặc có liên quan phải tuân thủ. Chẳng hạn quy định về

người tham gia giao thông phải đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng

làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường

bộ; xe ô tô có trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế

phía trước trong xe ô tô phải thắt dây an toàn hay quy tắc về việc chấp hành

báo hiệu đường bộ: Người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh và

chỉ dẫn của hệ thống báo hiệu đường bộ; khi có người điều khiển giao thông

thì người tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển

giao thông; tại nơi có biển báo hiệu cố định lại có báo hiệu tạm thời thì người

tham gia giao thông phải chấp hành hiệu lệnh của báo hiệu tạm thời…

Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Đây là các quy phạm về phân

loại đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kỹ thuật đường bộ; quỹ

đất dành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; phạm vi đất dành cho

đường bộ; bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình

11

đường bộ. Chẳng hạn, quy định về công trình báo hiệu đường bộ trong Luật

Giao thông đường bộ năm 2008 bao gồm:

a) Đèn tín hiệu giao thông;

b) Biển báo hiệu;

c) Cọc tiêu, rào chắn hoặc tường bảo vệ;

d) Vạch kẻ đường;

đ) Cột cây số;

e) Công trình báo hiệu khác (Khoản 1, Điều 45).

Phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Đây là nhóm các quy định

về tiêu chuẩn, điều kiện, quản lý phương tiện tham gia giao thông đường bộ

như: Điều kiện tham gia giao thông của xe cơ giới; cấp, thu hồi đăng ký và

biển số xe cơ giới; bảo đảm quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ

môi trường của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ; điều kiện tham gia

giao thông của xe thô sơ…

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Nhóm

này bao gồm các quy phạm về: Điều kiện của người lái xe tham gia giao

thông; Giấy phép lái xe; tuổi, sức khỏe của người lái xe; đào tạo lái xe, sát

hạch để cấp giấy phép lái xe…

Vận tải đường bộ. Hoạt động vận tải đường bộ gồm hoạt động vận tải

không kinh doanh và hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ. Kinh doanh vận

tải đường bộ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp

luật. Kinh doanh vận tải đường bộ gồm kinh doanh vận tải hành khách, kinh

doanh vận tải hàng hóa. Hoạt động vận tải đường bộ phải phù hợp với quy

hoạch giao thông vận tải đường bộ và mạng lưới tuyến vận tải.

Quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ. Đây là nhóm quy phạm

điều chỉnh về nội dung quản lý nhà nước đối với trật tự giao thông đường bộ;

12

trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý nhà nước đối với

trật tự giao thông đường bộ.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật tự

an toàn giao thông đường bộ

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến TTATGTĐB được pháp luật điều chỉnh bảo vệ, gồm tội phạm và vi phạm hành chính. Những hành vi là tội phạm được quy định tại Mục 1, Chương XXI Bộ luật Hình sự năm 2017 (các tội xâm phạm an toàn giao thông).

Vi phạm hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính

năm 2012, theo Khoản 2, Điều 1, thì vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do

cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà

nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử

phạt vi phạm hành chính. Thực chất của vi phạm hành chính là những hành vi

vi phạm pháp luật, do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý, hay vô ý xâm

phạm tới các quan hệ xã hội được các quy định về quản lý nhà nước điều

chỉnh và bảo vệ, không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử

lý vi phạm hành chính.

Vi phạm hành chính về TTATGTĐB là một loại vi phạm hành chính

do cá nhân, tổ chức thực hiện xâm phạm đến những quan hệ xã hội trong lĩnh

vực giao thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm

và theo quy định của pháp luật phải xử lý vi phạm hành chính.

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB được quy định trong nhiều văn bản

quy phạm pháp luật, trong đó quan trọng nhất là Luật Giao thông đường bộ

năm 2008. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được ban hành đã tạo ra cơ

sở pháp lý quan trọng để thiết lập trật tự kỷ cương về TTATGTĐB, góp phần

13

phát triển nền kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước. Việc triển

khai thực hiện các quy định của Luật Giao thông đường bộ đã được Đảng,

Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp... thực hiện nghiêm túc

và thu được kết quả tốt. Đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Chính

phủ giao cho Bộ Công an ban hành về cơ bản đã được hoàn thiện, tạo điều

kiện thuận lợi cho công tác phổ biến, thi hành Luật, đưa Luật vào cuộc sống;

công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đã được đẩy mạnh; các mặt

công tác bảo đảm TTATGTĐB của lực lượng Cảnh sát giao thông đã đi vào

nề nếp, được Nhân dân đồng tình ủng hộ và phát huy hiệu quả tích cực; bước

đầu tạo lập được những điều kiện thuận lợi để chủ động tham gia vào hoạt

động giao thông vận tải của các nước trong khu vực và đẩy nhanh tiến trình

hội nhập với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.

Bảo đảm TTATGT và hạn chế tai nạn giao thông là trách nhiệm của cả

hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn xã hội, trước hết là của các cơ quan Nhà

nước có chức năng và của người tham gia giao thông. Việc xử lý vi phạm

TTATGTĐB nhằm thiết lập và duy trì trật tự xã hội trong lĩnh vực giao thông

vận tải nhằm bảo đảm an toàn cho người, phương tiện khi tham gia giao

thông; bảo đảm hệ thống giao thông vận tải hoạt động thông suốt phục vụ

mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, hội nhập

sâu rộng kinh tế quốc tế. Muốn vậy, cần phải xây dựng các giải pháp mạnh,

đột phá, đồng bộ, thực hiện từng bước, liên tục và kiên trì nhằm cải thiện môi

trường giao thông trật tự, an toàn, văn minh, hiện đại, thân thiện và bền vững.

Để phát hiên, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB thì

phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hoạt động vô cùng cần

thiết và có ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay. Phòng, chống vi

phạm pháp luật về TTATGTĐB được hiểu là tổng thể các biện pháp, cách

thức được các chủ thể (nhà nước, xã hội) sử dụng để ngăn ngừa, phát hiện và

14

xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Trong giai

đoạn hiện nay, cần đặc biệt chú trọng yếu tố phòng ngừa, thậm chí phòng

ngừa từ xa để nâng cao hiệu quả đấu tranh với vi phạm giao thông đường bộ.

Đặc điểm của vi phạm pháp luật về TTATGTĐB:

Thứ nhất, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có số lượng lớn so với các

lĩnh vực giao thông khác. Điều này được lý giải bởi giao thông đường bộ

chiếm tỷ trọng lớn hơn so với các lĩnh vực giao thông khác như đường sắt,

đường thủy nội địa và đường hàng không. Theo số liệu của Bộ Giao thông

vận tải, hệ thống đường bộ hiện nay bao phủ khắp lãnh thổ và đóng vai trò

trục chính kết nối mạng lưới giữa các vùng, miền, các cảng hàng không, cảng

biển, cửa khẩu, đầu mối giao thông quan trọng. Hệ thống đường bộ Việt Nam

có tổng chiều dài 570.448km, trong đó Quốc lộ là 24.136km, đường cao tốc là

816km, đường tỉnh là 25.741km, đường huyện là 58.347km, đường đô thị là

26.953km, đường xã là 144.670km, đường thôn xóm là 181.188km và đường

nội đồng là 108.597km. Hệ thống quốc lộ hình thành nên các tuyến hành lang

Bắc - Nam, vùng duyên hải và cao nguyên, các tuyến đường Đông - Tây dọc

theo miền Trung Việt Nam. Ở phía Bắc, các tuyến quốc lộ tạo thành hình

mạng lưới nan quạt với tâm là Thủ đô Hà Nội. Ở phía Nam, các tuyến quốc lộ

tạo nên hình lưới [25].

Thứ hai, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB xảy ra thường xuyên, liên

tục, phức tạp, đa dạng. Nguyên nhân là do số lượng phương tiện tham gia

giao thông đường bộ hiện nay rất lớn với nhiều loại phương tiện từ cơ giới

đến thô sơ ở mọi miền của Tổ quốc; chất lượng hạ tầng cơ sở chưa được đảm

bảo, đồng bộ; ý thức của người tham gia giao thông chưa cao và chưa đồng

đều. Bên cạnh đó, hành vi vi phạm trong lĩnh vực TTATGTĐB cũng rất đa

dạng; các hành vi vi phạm đó được các văn bản pháp luật mô tả trong các quy

phạm pháp luật cụ thể, đây là một nội dung mà các chủ thể có thẩm quyền

15

phải rất lưu ý, bởi hoạt động xử lý chỉ có thể được thực hiện khi đối tượng có

hành vi vi phạm đã được mô tả trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.

Thứ ba, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB thuộc thẩm quyền xử lý của

nhiều tổ chức, cá nhân với hình thức xử lý đa dạng. Thẩm quyền xử lý hiện

nay được pháp luật trao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, lực lượng

Công an (Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh,

Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng Công

an cấp xã), Thanh tra giao thông vận tải, người được giao thực hiện nhiệm vụ

thanh tra chuyên ngành đường bộ, Thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi

trường, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành bảo vệ

môi trường. Hình thức xử lý rất đa dạng, tùy vào hành vi, tính chất, mức độ vi

phạm mà bị cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ

hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn trong lĩnh vực giao

thông đường bộ; tạm giữ phương tiện, giấy tờ có liên quan đến người điều

khiển và phương tiện vi phạm; tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, tịch thu

phương tiện.

Thứ tư, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là hành vi trái pháp luật của

cá nhân, tổ chức, có lỗi có thể là tội phạm hay vi phạm hành chính. Đây là các

hành vi của cá nhân (người điều khiển phương tiện giao thông, hành khách…)

hoặc tổ chức, cơ quan vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ quy định

trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và pháp luật có liên quan đến giao

thông đường bộ: pháp luật về bảo vệ môi trường, pháp luật về xây dựng, đê

điều… Lỗi của các chủ thể vi phạm là lỗi cố ý hoặc vô ý, song từ thực tiễn

cho thấy tỷ lệ lỗi cố ý chiếm đa số trong các trường hợp vi phạm. Trong các

hình thức xử phạt thì phạt tiền mang tính phổ biến, đặc biệt trong giai đoạn

hiện nay khi tai nạn giao thông đang gia tăng do liên quan đến sử dụng rượu

16

bia thì mức xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ

liên quan đến sử dụng rượu bia rất nghiêm khắc.

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại rất lớn, cả trước mắt và

lâu dài, nhiều mặt: kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực giao thông đường bộ gây thiệt hại lớn về kinh tế, bất ổn xã hội, kỷ

luật kỷ cương xã hội suy giảm. Đặc biệt, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là

nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến tai nạn giao thông.

Tai nạn giao thông đường bộ là sự việc xảy ra do người tham gia giao

thông đang hoạt động trên mạng lưới giao thông đường bộ vi phạm các qui

định về TTATGTĐB hay gặp phải sự cố bất ngờ gây ra những thiệt hại nhất

định đến tính mạng, sức khỏe của con người hoặc tài sản của cơ quan, tổ

chức, cá nhân.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hàng năm tai nạn giao thông

đường bộ cướp đi sinh mệnh của 1,3 triệu người, làm hơn 50 triệu người bị

thương và gây thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 518 tỉ đô la. Việc phòng

ngừa, kéo giảm, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông xảy ra đã trở thành vấn

đề được các quốc gia trên thế giới và cộng đồng quốc tế hết sức quan tâm[26].

Ở Việt Nam, tình hình tai nạn giao thông vẫn còn diễn biến phức tạp: từ

năm 2009 đến tháng 5 năm 2019 toàn quốc đã xảy ra 326.299 vụ tai nạn giao

thông đường bộ, làm chết 97.721 người, bị thương 329.756 người. Riêng năm

2018 tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 18.490 vụ, làm chết 8.079 người, bị

thương 14.732 người. Trung bình mỗi năm tai nạn giao thông cướp đi sinh

mạng của gần 10.000 người, trong đó đa số là lực lượng đang trong độ tuổi

lao động, gây rất nhiều hệ lụy cho xã hội [7].

17

1.2.2. Các loại hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông

đường bộ

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB như đã phân tích ở trên rất đa dạng

cả về không gian, thời gian, đối tượng, loại hình. Nếu xét ở khía cạnh chủ thể

thì đó là các vi phạm của:

- Người điều khiển phương tiện: gồm người điều khiển xe cơ giới, xe

thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

- Người tham gia giao thông: gồm người điều khiển, người sử dụng

phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật;

người đi bộ trên đường bộ.

- Người lái xe là người điều khiển xe cơ giới.

- Người điều khiển giao thông là Cảnh sát giao thông; người được giao

nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông, ở bến

phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

- Hành khách là người được chở trên phương tiện vận tải hành khách

đường bộ, có trả tiền…

Nếu xét ở khía cạnh phương tiện giao thông, vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực giao thông đường bộ có sự tham gia của nhiều loại phương tiện, theo

quy định tại Điều 3 Luật Giao thông đường bộ bao gồm: phương tiện giao

thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ.

Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới)

gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô,

máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy

điện) và các loại xe tương tự.

Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm

xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe

súc vật kéo và các loại xe tương tự.

18

Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm

nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an

ninh có tham gia giao thông đường bộ.

Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông

đường bộ và xe máy chuyên dùng.

Nếu xét ở lĩnh vực quản lý, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB được

quy định tại Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Nghị định 100/2019/NĐ-

CP ngày ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt bao gồm

các nhóm sau:

Thứ nhất, vi phạm quy tắc giao thông đường bộ.

Đây là hành vi vi phạm của: người điều khiển xe ô tô và các loại xe

tương tự xe ô tô; người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện),

các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy; người điều

khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng; người điều khiển xe đạp, xe đạp máy

(kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác; người đi bộ… với các

hành vi rất đa dạng, tiêu biểu như: Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của

biển báo hiệu, vạch kẻ đường; chuyển hướng không nhường quyền đi trước,

không nhường đường; vi phạm các quy định khi dừng xe, đỗ xe; vi phạm quy

định về sử dụng còi; vi phạm về chuyển làn đường; tốc độ, số lượng người và

hàng hóa; dừng xe, đỗ xe, quay đầu xe; sử dụng điện thoại di động; đi vào khu

vực cấm, đường có biển báo hiệu có nội dung cấm đi; không chấp hành hiệu

lệnh của đèn tín hiệu giao thông; không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của

người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông; điều khiển xe

trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn; điều khiển xe trên

đường mà trong cơ thể có chất ma túy…

19

Thứ hai, vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Đây là hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến kết cấu hạ

tầng giao thông đường bộ như:

- Vi phạm quy định về bán hàng rong hoặc bán hàng hóa nhỏ lẻ khác

trên lòng đường đô thị, trên vỉa hè các tuyến phố có quy định cấm bán hàng.

- Vi phạm quy định về phơi thóc, lúa, rơm, rạ, nông, lâm, hải sản trên

đường bộ; đặt máy tuốt lúa trên đường bộ.

- Sử dụng, khai thác tạm thời trên đất hành lang an toàn đường bộ vào

mục đích canh tác nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an toàn công trình đường

bộ và an toàn giao thông; trồng cây trong phạm vi đất dành cho đường bộ làm

che khuất tầm nhìn của người điều khiển phương tiện giao thông; chiếm dụng

dải phân cách giữa của đường đôi làm nơi: bày, bán hàng hóa; để vật liệu xây

dựng; họp chợ, mua, bán hàng hóa trong phạm vi đất của đường bộ ở đoạn

đường ngoài đô thị; xả nước ra đường bộ không đúng nơi quy định.

- Sử dụng đường bộ trái quy định để tổ chức các hoạt động văn hóa, thể

thao, diễu hành, lễ hội; dựng cổng chào hoặc các vật che chắn khác trái quy

định trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây ảnh hưởng đến TTATGTĐB;

treo băng rôn, biểu ngữ trái phép trong phạm vi đất dành cho đường bộ gây

ảnh hưởng đến TTATGTĐB; đặt, treo biển hiệu, biển quảng cáo trên đất của

đường bộ ở đoạn đường ngoài đô thị; sử dụng trái phép đất của đường bộ ở

đoạn đường ngoài đô thị làm nơi sửa chữa phương tiện, máy móc, thiết bị; rửa

xe, bơm nước mui xe gây ảnh hưởng đến TTATGTĐB.

- Các hành vi vi phạm về xây dựng bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ,

trạm thu phí đường bộ như: xây dựng hoặc thành lập bến xe, bãi đỗ xe, trạm

dừng nghỉ, trạm thu phí đường bộ khi chưa được cơ quan quản lý nhà nước về

giao thông vận tải đồng ý theo quy định; xây dựng bến xe, bãi đỗ xe, trạm

20

dừng nghỉ, trạm thu phí đường bộ không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo

quy định.

- Các hành vi vi phạm quy định về quản lý, khai thác, bảo trì, bảo vệ

kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ: chăn dắt súc vật ở mái đường; buộc súc

vật vào hàng cây hai bên đường hoặc vào cọc tiêu, biển báo, rào chắn, các

công trình phụ trợ của giao thông đường bộ; tự ý leo trèo lên mố, trụ, dầm

cầu; tự ý đốt lửa trên cầu, dưới gầm cầu; neo đậu tàu, thuyền dưới gầm cầu

hoặc trong phạm vi hành lang an toàn cầu; tự ý be bờ, tát nước qua mặt đường

giao thông; đặt ống bơm nước, bơm cát qua đường, đốt lửa trên mặt đường…

Thứ ba, vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường

bộ. Đây là các hành vi liên quan đến phương tiện tham gia giao thông, bao

gồm các hành vi cơ bản:

- Các hành vi của người điều khiển xe ô tô (bao gồm cả rơ moóc hoặc

sơ mi rơ moóc được kéo theo) và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy

định về điều kiện của phương tiện khi tham gia giao thông: hành vi điều khiển

xe không có kính chắn gió hoặc có nhưng vỡ hoặc có nhưng không có tác

dụng (đối với xe có thiết kế lắp kính chắn gió); điều khiển xe không có đủ đèn

chiếu sáng, đèn soi biển số, đèn báo hãm, đèn tín hiệu, cần gạt nước, gương

chiếu hậu, dây an toàn, dụng cụ thoát hiểm, thiết bị chữa cháy, đồng hồ báo

áp lực hơi, đồng hồ báo tốc độ của xe hoặc có những thiết bị đó nhưng không

có tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế (đối với loại xe được quy định

phải có những thiết bị đó); điều khiển xe không có còi hoặc có nhưng còi

không có tác dụng; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm khói

hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm quy chuẩn môi trường về

khí thải, tiếng ồn…

- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của phương tiện khi tham

gia giao thông: điều khiển xe không có còi; đèn soi biển số; đèn báo hãm;

21

gương chiếu hậu bên trái người điều khiển hoặc có nhưng không có tác dụng;

điều khiển xe gắn biển số không đúng quy định; gắn biển số không rõ chữ, số;

gắn biển số bị bẻ cong, bị che lấp, bị hỏng; sơn, dán thêm làm thay đổi chữ,

số hoặc thay đổi màu sắc của chữ, số, nền biển; điều khiển xe không có đèn

tín hiệu hoặc có nhưng không có tác dụng; sử dụng còi không đúng quy chuẩn

kỹ thuật cho từng loại xe; điều khiển xe không có bộ phận giảm thanh, giảm

khói hoặc có nhưng không bảo đảm quy chuẩn môi trường về khí thải, tiếng

ồn; điều khiển xe không có đèn chiếu sáng gần, xa hoặc có nhưng không có

tác dụng, không đúng tiêu chuẩn thiết kế; điều khiển xe không có hệ thống

hãm hoặc có nhưng không có tác dụng, không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật;

điều khiển xe lắp đèn chiếu sáng về phía sau xe; điều khiển xe không có Giấy

đăng ký xe theo quy định hoặc sử dụng Giấy đăng ký xe đã hết hạn sử dụng;

sử dụng Giấy đăng ký xe đã bị tẩy xóa; sử dụng Giấy đăng ký xe không đúng

số khung, số máy của xe hoặc không do cơ quan có thẩm quyền cấp…

- Các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ môi trường khi tham gia giao

thông: hành vi điều khiển xe không đáp ứng yêu cầu về vệ sinh lưu thông

trong đô thị; các vi phạm như: để dầu nhờn, hóa chất rơi vãi xuống đường bộ;

chở hàng rời, chất thải, vật liệu xây dựng dễ rơi vãi mà không có mui, bạt che

đậy hoặc có mui, bạt che đậy nhưng vẫn để rơi vãi; chở hàng hoặc chất thải để

nước chảy xuống mặt đường gây mất an toàn giao thông và vệ sinh môi

trường; lôi kéo bùn, đất, cát, nguyên liệu, vật liệu hoặc chất phế thải khác ra

đường bộ gây mất an toàn giao thông và vệ sinh môi trường; đổ trái phép rác,

đất, cát, đá, vật liệu, chất phế thải sai quy định…

Thứ tư, vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia

giao thông đường bộ.

- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe

cơ giới: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy

22

(kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự xe mô tô hoặc điều khiển xe ô tô,

máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô; người điều khiển xe mô tô, xe gắn

máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không

có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới còn hiệu lực; người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại

xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy không mang theo

Giấy đăng ký xe;…

- Các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe

máy chuyên dùng: người điều khiển xe máy chuyên dùng không đúng độ tuổi

hoặc tuổi không phù hợp với ngành nghề theo quy định; người điều khiển xe

máy chuyên dùng không mang theo bằng (hoặc chứng chỉ) điều khiển xe máy

chuyên dùng, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường

bộ; người điều khiển xe máy chuyên dùng không mang theo Giấy đăng ký xe;

người điều khiển xe máy chuyên dùng không mang theo Giấy chứng nhận an

toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm

định); người điều khiển xe máy chuyên dùng không có bằng (hoặc chứng chỉ)

điều khiển, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ.

Thứ năm, vi phạm quy định về vận tải đường bộ. Vi phạm của người

điều khiển xe ô tô chở hành khách, ô tô chở người và các loại xe tương tự xe

ô tô chở hành khách, chở người vi phạm quy định về vận tải đường bộ: không

hướng dẫn hành khách đứng, nằm, ngồi đúng vị trí quy định trong xe; không

mặc đồng phục, không đeo thẻ tên của lái xe theo quy định; chở quá số người

quy định; không đóng cửa lên xuống khi xe đang chạy; để người ngồi trên xe

khi xe lên, xuống phà, cầu phao hoặc khi xe đang ở trên phà (trừ người già

yếu, người bệnh, người khuyết tật); không chạy đúng tuyến đường, lịch trình,

hành trình vận tải quy định; sắp xếp, chằng buộc hành lý, hàng hóa không bảo

đảm an toàn; để rơi hành lý, hàng hóa trên xe xuống đường; để hàng hóa

23

trong khoang chở hành khách; chở hành lý, hàng hóa vượt quá kích thước bao

ngoài của xe; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.

Thứ sáu, các vi phạm khác liên quan đến giao thông đường bộ như:

- Hành vi sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ; sản xuất, bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trái

phép (hành vi bán biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không

phải là biển số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền sản xuất hoặc không được

cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; hành vi sản xuất biển số trái phép

hoặc sản xuất, lắp ráp trái phép phương tiện giao thông cơ giới đường bộ).

- Hành vi của chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao

thông đường bộ (thực hiện hành vi tự ý thay đổi nhãn hiệu, màu sơn của xe

không đúng với Giấy đăng ký xe; lắp kính chắn gió, kính cửa của xe không

phải là loại kính an toàn; tự ý thay đổi màu sơn của xe không đúng với màu

sơn ghi trong Giấy đăng ký xe; không làm thủ tục khai báo với cơ quan đăng

ký xe theo quy định trước khi cải tạo xe (đối với loại xe có quy định phải làm

thủ tục khai báo); không làm thủ tục đăng ký sang tên xe (để chuyển tên chủ

xe trong Giấy đăng ký xe sang tên của mình) theo quy định khi mua, được

cho, được tặng, được phân bổ, được điều chuyển, được thừa kế tài sản là xe

mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô; không làm thủ tục đổi lại

Giấy đăng ký xe theo quy định khi thay đổi địa chỉ của chủ xe; tự ý cắt, hàn,

đục lại số khung, số máy; đưa phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số

máy trái quy định tham gia giao thông; tẩy xóa, sửa chữa hoặc giả mạo hồ sơ

đăng ký xe; tự ý thay đổi khung, máy, hình dáng, kích thước, đặc tính của xe;

khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp

lại biển số, Giấy đăng ký xe.

- Hành vi của nhân viên phục vụ trên xe buýt, xe vận chuyển hành

khách theo tuyến cố định, xe vận chuyển hành khách theo hợp đồng, xe vận

24

chuyển khách du lịch vi phạm quy định về TTATGT: không hỗ trợ, giúp đỡ

hành khách đi xe là người cao tuổi, trẻ em không tự lên xuống xe được, người

khuyết tật vận động hoặc khuyết tật thị giác; không mặc đồng phục, không

đeo thẻ tên của nhân viên phục vụ trên xe theo quy định; thu tiền vé nhưng

không trao vé cho hành khách; thu tiền vé cao hơn quy định; sang nhượng

hành khách dọc đường cho xe khác mà không được hành khách đồng ý; đe

dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng

dịch vụ ngoài ý muốn; xuống khách để trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của

người có thẩm quyền.

- Hành vi của hành khách đi xe vi phạm quy định về TTATGT: không

chấp hành hướng dẫn của lái xe, nhân viên phục vụ trên xe về các quy định

bảo đảm TTATGT; gây mất trật tự trên xe; mang hóa chất độc hại, chất dễ

cháy, nổ, hàng nguy hiểm hoặc hàng cấm lưu thông trên xe khách; đu, bám

vào thành xe; đứng, ngồi, nằm trên mui xe, nóc xe, trong khoang chở hành lý;

tự ý mở cửa xe hoặc có hành vi khác không bảo đảm an toàn khi xe đang

chạy.

- Hành vi của người đua xe trái phép, cổ vũ đua xe trái phép: tụ tập để

cổ vũ, kích động hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định, lạng lách,

đánh võng, đuổi nhau trên đường hoặc đua xe trái phép; đua xe đạp, đua xe

đạp máy, đua xe xích lô, đua xe súc vật kéo, cưỡi súc vật chạy đua trái phép

trên đường giao thông; đua xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện trái phép; đua

xe ô tô trái phép.

- Hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường

bộ gắn biển số nước ngoài: điều khiển phương tiện không gắn ký hiệu phân

biệt quốc gia theo quy định; giấy tờ của phương tiện không có bản dịch sang

tiếng Anh hoặc tiếng Việt theo quy định; xe chở khách không có danh sách

25

hành khách theo quy định; lưu hành phương tiện trên lãnh thổ Việt Nam quá

thời hạn quy định; hoạt động quá phạm vi được phép hoạt động;…

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại lớn, lâu dài, nhiều mặt, vì

vậy việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là rất cần thiết, cấp

bách để giảm thiểu vi phạm, giảm thiểu tai nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản con

người và ổn định xã hội. Phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB

thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân từ trung ương đến địa

phương bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Có thể kể đến một số nội dung

cơ bản sau đây:

Một là, xây dựng, ban hành văn bản, chương trình, kế hoạch. Trong tổ

chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB ban hành văn bản quy phạm pháp

luật, văn bản áp dụng pháp luật là hình thức hoạt động của các cơ quan có

thẩm quyền ở trung ương và địa phương nhằm triển khai và thi hành các văn

bản quy phạm pháp luật vào đời sống. Thông qua hoạt động ban hành văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, các chủ thể tổ chức thực hiện

pháp luật về TTATGT cụ thể hóa các quy tắc xử sự chung thành các hành vi

ứng xử thực tế.

Bên cạnh đó, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB là cơ sở để các cơ quan chức năng triển khai các bước với

những nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Đây là

hoạt động quan trọng đảm bảo hiện thực hóa pháp luật trong đời sống xã hội.

Hai là, phổ biến giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt

động có mục đích do tổ chức, cá nhân thực hiện thông qua các hình thức nhất

định nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật cho tổ

chức, cá nhân được phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực

và hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

26

Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với

việc tổ chức thực hiện pháp luật, là kênh chuyển tải kiến thức, tình cảm, thái

độ đúng đắn của các chủ thể đối với pháp luật, từ đó thúc đẩy thành tự giác

tuân theo pháp luật. Các hoạt động giáo dục, phổ biến, giải thích, hướng dẫn

thực hiện pháp luật có vai trò tạo tiền đề cho việc thực hiện pháp luật.

Những hoạt động này giúp các chủ thể nhận thức được quyền, nghĩa vụ,

trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật.

Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB là các cán bộ làm

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông như Cảnh sát giao

thông, Thanh tra giao thông, giáo viên giảng dạy pháp luật trong các nhà

trường, phóng viên, các luật gia đang công tác tại cơ quan Tòa án, Viện kiểm

sát, Tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp (Hội luật gia, Đoàn luật sư, Tư vấn

pháp lý, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình...). Còn khách thể tức là đối

tượng để phổ biến, giáo dục pháp luật an toàn giao thông đường bộ là cán bộ,

công nhân viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước,

doanh nghiệp; học sinh, sinh viên; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang;

đoàn viên, hội viên của các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội; các tầng lớp

Nhân dân; đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa và cả những

người tham gia đảm bảo an toàn giao thông như lực lượng Công an, Thanh

tra…

Nội dung công tác phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn

giao thông đường bộ là tổ chức tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho Nhân

dân chấp hành Luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt

động vận tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

của các đối tượng tham gia giao thông đường bộ nhất là đội ngũ lái xe, chủ

xe, chủ hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ; các thông tin về tổ

chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông, quyền, nghĩa vụ

27

pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong

tham gia giao thông. Phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB là công tác

giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước

về đảm bảo TTATGTĐB, đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật về giao thông đường bộ của người tham gia giao

thông, từng bước kiềm chế, giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm

TTATGTĐB [13, Tr.24-25].

Ba là, tổ chức bộ máy. Bộ máy, con người là nhân tố quyết định trong

phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Tổ chức bộ máy và nhân sự

trong hoạt động này được tổ chức từ trung ương đến địa phương, trong đó bộ

máy, con người của địa phương có vai trò trực tiếp và then chốt.

Theo quy định của Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ

thống nhất quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Bộ Giao thông vận tải

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giao thông

đường bộ. Bộ Công an thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giao

thông đường bộ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp

luật có liên quan; thực hiện các biện pháp bảo đảm TTATGT; phối hợp với

Bộ Giao thông vận tải bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Bộ Công

an, Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm phối hợp trong việc cung cấp số liệu

đăng ký phương tiện giao thông đường bộ, dữ liệu về tai nạn giao thông và

cấp, đổi, thu hồi giấy phép lái xe. Bộ Quốc phòng thực hiện các nhiệm vụ

quản lý nhà nước về giao thông đường bộ theo quy định của Luật này và các

quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm

vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông

vận tải thực hiện quản lý nhà nước về giao thông đường bộ.

Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình

tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về giao thông đường bộ theo quy định của

28

Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan trong phạm vi địa

phương (Điều 85).

Tổ chức, thẩm quyền phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB

thuộc lực lượng Công an và Thanh tra đường bộ. Theo Khoản 1, Điều 87 Luật

Giao thông đường bộ năm 2008, Cảnh sát giao thông đường bộ thực hiện việc

tuần tra, kiểm soát để kiểm soát người và phương tiện tham gia giao thông

đường bộ; xử lý vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ đối với người và

phương tiện tham gia giao thông đường bộ và chịu trách nhiệm trước pháp

luật về quyết định của mình; phối hợp với cơ quan quản lý đường bộ phát

hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm quy định bảo vệ công trình đường bộ và

hành lang an toàn đường bộ.

Đối với thanh tra đường bộ: thực hiện chức năng thanh tra chuyên

ngành về giao thông đường bộ. Thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi

phạm hành chính trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ

kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật của công

trình đường bộ; trường hợp cấp thiết, để kịp thời ngăn chặn hậu quả có thể

xảy ra đối với công trình đường bộ, được phép dừng phương tiện giao thông

và yêu cầu người điều khiển phương tiện thực hiện các biện pháp để bảo vệ

công trình theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về quyết định

đó; thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính trong việc

chấp hành các quy định về hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tại các

điểm dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, trạm

kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí và tại cơ sở kinh doanh vận tải đường bộ;

thanh tra, phát hiện, ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính trong việc đào

tạo, sát hạch, cấp, đổi, thu hồi Giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, hoạt động

kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới. Việc thanh

29

tra đào tạo, sát hạch, cấp, đổi, thu hồi Giấy phép lái xe của lực lượng quân đội,

công an do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định.

Bốn là, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát. Thanh tra,

kiểm tra, kiểm soát và giám sát xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB là

hoạt động quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật nhằm đảm

bảo pháp luật được thực thi trên thực tế và các hoạt động giao thông diễn ra

thuận lợi, an toàn, trật tự. Tăng cường công tác tuần tra an toàn giao thông của

các lực lượng chức năng, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, thường xuyên

thanh tra, kiểm soát theo chuyên đề, tăng mức xử phạt vi phạm để đủ sức răn

đe; tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ huy, điều khiển giao thông và đảm

bảo giao thông chống ùn tắc.

1.3. Các bảo đảm ngăn chặn, hạn chế vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn giao thông đường bộ

1.3.1. Bảo đảm chính trị

Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện pháp luật là yếu tố quan trọng đảm

bảo pháp luật được tổ chức thực hiện hiệu quả trên thực tế. Khi các cơ quan

lãnh đạo, các nhà quản lý quan tâm chỉ đạo sâu sát, tích cực và thường xuyên

đôn đốc các cơ quan chức năng thông qua ban hành các văn bản, hướng dẫn

thực hiện đồng thời nắm bắt thực tế để có định hướng phù hợp thì hoạt động

tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB sẽ đảm bảo thực thi đầy đủ,

nghiêm minh. Ngược lại, nếu sự chỉ đạo không thường xuyên, không kịp thời

hoặc không phù hợp với yêu cầu thực tế thì việc tổ chức thực hiện pháp luật

về TTATGTĐB sẽ không đảm bảo yêu cầu và an toàn, giao thông đường bộ

sẽ không được thông suốt và hiệu quả.

Đứng trước tình hình vi phạm giao thông diễn biến phức tạp, Ban Bí

thư đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông đường bộ,

30

đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông trong đó xác

định mục đích, yêu cầu: i) nâng cao nhận thức và trách nhiệm cấp ủy đảng,

người đứng đầu chính quyền các cấp, các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội

và các tầng lớp nhân dân về công tác này; thực hiện toàn diện, đồng bộ, liên

tục các chủ trương, giải pháp nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ công tác bảo

đảm trật tự, an toàn giao thông; phấn đấu hằng năm kiềm chế, làm giảm từ

5% đến 10% tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và

giảm ùn tắc giao thông đường bộ; ii) huy động mọi nguồn lực xã hội và hợp

tác quốc tế để bảo đảm các điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng giao thông,

phương tiện giao thông công cộng; iii) xây dựng lực lượng làm nhiệm vụ bảo

đảm trật tự, an toàn giao thông trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ.

1.3.2. Bảo đảm kinh tế

Trình độ phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng của một đất nước là yếu tố

ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm thực hiện pháp luật. Trong điều kiện sản

xuất nhỏ một người tự mình thực hiện tất cả các công đoạn của quá trình lao

động tạo ra sản phẩm thì dễ tùy tiện vì không có gì ràng buộc chủ thể,

nhưng trong dây chuyền và quy trình sản xuất công nghiệp, mỗi người chỉ

đảm nhiệm một khâu của quá trình sản xuất thì bắt buộc phải tuân theo

những quy định, tiêu chuẩn nhất định. Trình độ phát triển cao của lực

lượng sản xuất đặt ra yêu cầu và rèn giũa tác phong công nghiệp thói quen

tuân thủ các quy định. Như vậy, trình độ phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi về

kinh tế - kỹ thuật, rèn luyện tác phong, lối sống có kỷ cương, tuân thủ pháp

luật. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng còn tạo ra cơ sở

vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp

luật. Bất kỳ một văn bản pháp luật nào khi triển khai thực hiện cũng đòi hỏi

những chi phí cần thiết cho việc tuyên truyền, phổ biến, in ấn tài liệu, biểu mẫu,

31

tổng hợp và phổ biến thông tin có liên quan v.v... Trình độ phát triển kinh tế - xã

hội giao thông, thông tin liên lạc tạo thuận lợi cho các hoạt động nêu trên.

Thực hiện pháp luật theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi

hỏi phải có những chi phí và điều kiện vật chất nhất định. Những chi phí

này bao gồm chi phí cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; chi phí cho

các cơ quan nhà nước tổ chức triển khai thực hiện pháp luật, xử lý vi phạm

pháp luật. Kinh phí và điều kiện vật chất phục vụ cho các hoạt động này do

ngân sách Nhà nước đài thọ. Mức độ chi phí và điều kiện vật chất cần thiết

cho việc thực hiện các văn bản pháp luật cũng rất khác nhau. Có những văn

bản pháp luật đòi hỏi mức độ kinh phí và điều kiện vật chất không lớn, trái

lại có những văn bản pháp luật, nếu triển khai thực hiện đòi hỏi kinh phí và

điều kiện vật chất rất lớn. Chẳng hạn, việc xây dựng và lắp đặt đầy đủ các

công trình bảo đảm an toàn giao thông như: Trạm dừng nghỉ dọc đường,

cầu vượt cho người đi bộ, đường cứu nạn, cảnh báo tự động, gác chắn tại

giao cắt giữa đường bộ và đường sắt, đường tránh đô thị và đặc biệt là làn

đường dành cho xe mô tô, xe gắn máy; phát triển hệ thống giao thông tiếp

cận cho người khuyết tật, người cao tuổi và trẻ em đòi hỏi ngân sách Nhà

nước phải chi những khoản lớn... Ở nhiều nước khi ban hành văn bản pháp

luật ngoài việc dành thời gian cho công tác phổ biến, tuyên truyền đến đối

tượng hữu quan, họ còn tính toán cụ thể chi phí cho việc tuyên truyền, phổ

biến, tổ chức thực hiện, xử lý vi phạm.

1.3.3. Bảo đảm về nhận thức

Pháp luật được nhận thức đầy đủ và tự giác thi hành hay không phụ

thuộc vào trình độ văn hóa và ý thức pháp luật của công dân. Thực tiễn cho

thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật, không chấp hành, tuân thủ pháp

luật là do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận

Nhân dân. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận công dân có trình độ văn hóa nhất

32

định, hiểu biết pháp luật nhưng đạo đức, nhân cách thấp kém nên vẫn cố tình

vi phạm pháp luật, có những hành vi xử sự không đúng với yêu cầu của pháp

luật. Nhưng nhìn chung trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của Nhân

dân ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng

cao ý thức pháp luật của Nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có

thể tiếp thu, nhận thức nâng cao hiểu biết về pháp luật, xây dựng tình cảm,

lòng tin vào pháp luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo

yêu cầu của pháp luật. Mặt khác, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của Nhân

dân được nâng cao tạo cơ sở thuận lợi để Nhân dân tham gia các hoạt động

giám sát và phản biện xã hội đối với quá trình thực hiện pháp luật của các cơ

quan Nhà nước, cán bộ công chức nhà nước góp phần bảo đảm thực hiện pháp

luật đúng đắn trong toàn xã hội.

1.3.4. Bảo đảm về pháp lý

Để đảm bảo tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật, quy trình

và kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm những yêu

cầu nhất định.

Trước hết, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật phải được

tiến hành trên cơ sở xác định rõ các vấn đề của cuộc sống và các mục tiêu

chính sách rõ ràng cần phải đạt đến. Xác định các mục tiêu của chính sách

cũng chính là thiết lập tiêu chí để đánh giá hiệu quả của việc tổ chức thực hiện

pháp luật về sau. Qua đó, những hành vi của các chủ thể cần điều chỉnh sẽ

được xác định với những định hướng cụ thể.

Với mục tiêu điều chỉnh các hành vi, các quy phạm pháp luật về

TTATGT phải xác định rõ các yếu tố của hành vi như chủ thể thực hiện hành

vi, điều kiện thực hiện hành vi. Đây chính là những thông tin cơ bản để các

chủ thể có trách nhiệm thực hiện tốt pháp luật giao thông nói chung và Luật

giao thông đường bộ nói riêng. Các quy định cụ thể, rõ ràng, gắn với trách

33

nhiệm pháp lý sẽ tạo điều kiện cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGT diễn ra thông suốt, có hiệu quả. Mục đích của việc ban hành pháp

luật về giao thông là nhằm điều chỉnh các hành vi của các chủ thể trong tham

gia giao thông. Mong muốn của nhà lập pháp là khuôn mẫu hành vi đó sẽ

được các đối tượng tuân thủ nghiêm minh. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với

hành vi không chỉ rõ ràng mà phải phù hợp với thực tiễn, khoa học và phát

triển.

1.3.5. Các bảo đảm khác

Các bảo đảm về chính trị, kinh tế, nhận thức và pháp lý là các bảo đảm

quan trọng trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở Việt

Nam hiện nay. Tuy nhiên, để hoạt động phòng, chống vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB có hiệu quả cần thiết phải có các bảo đảm khác như: năng lực,

trình độ, ý thức của các cơ quan, cá nhân thực thi công tác phòng, chống vi

phạm pháp luật về TTATGTĐB mà trực tiếp là các lực lượng như Công an,

Thanh tra Giao thông vận tải; chế tài xử phạt đặc biệt quan trọng, bảo đảm

tính răn đe, nghiêm khắc kết hợp với việc phê phán của xã hội, cộng đồng; sự

phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong công tác phòng, chống vi phạm pháp

luật về TTATGTĐB.

34

Tiểu kết Chương 1

Như vậy, về bản chất, vi phạm pháp luật về TTATGTĐB những hành

vi của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao

thông đường bộ một cách cố ý hoặc vô ý và theo quy định của pháp luật phải

bị xử lý tùy theo mức độ, tính chất vi phạm.

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có nhiều loại, do nhiều chủ thể thực

hiện, thời gian, không gian khác nhau, trong đó nổi bật là các vi phạm về quy

tắc giao thông đường bộ, vi phạm về phương tiện, người điều khiển phương

tiện, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Vi phạm pháp luật về lĩnh vực này

có tác hại rất lớn, nhiều mặt, vì vậy việc phòng, chống vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB có ý nghĩa lớn, cần sự vào cuộc của nhiều cơ quan, đơn vị và

Nhân dân, trong đó hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật, chương trình, kế

hoạch và công tác tổ chức bộ máy, nhân sự có vai trò rất quan trọng.

Để phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có hiệu quả, cần

có các bảo đảm về chính trị, kinh tế, nhận thức, xã hội, đặc biệt là bảo đảm về

pháp lý trong điều kiện tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền và tăng cường

kỷ cương, kỷ luật trong quản lý Nhà nước.

35

CHƯƠNG 2.

THỰC TRẠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN

GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan đến vi

phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng

Bình

2.1.1. Điều kiện tự nhiên có liên quan đến vi phạm pháp luật về trật tự an

toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

Quảng Bình là danh xưng thiêng liêng của một vùng đất nằm ở Miền

Trung Việt Nam, nơi hội tụ giữa các yếu tố tự nhiên và văn hóa của cả hai

miền Nam - Bắc, đã có bề dày truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời, kết tinh

nhiều giá trị văn hóa, vật chất và tinh thần độc đáo. Với vị trí địa lý cách Thủ

đô Hà Nội khoảng 500 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh

1.200 km về phía Bắc. Phía Đông có bờ biển dài 116,04 km, phía Tây giáp

nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với đường biên giới dài 201,87 km, có

Cửa khẩu quốc tế Cha Lo, lại nằm trên hành lang kinh tế Đông Tây, Quảng

Bình có vị trí địa chính trị, quân sự và kinh tế quan trọng của cả nước [27].

Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 8.003 km2, dân số năm 2017 là 882.505

người, chiếm 2,45% về diện tích và 1,02% dân số cả nước. Quảng Bình có 8

đơn vị hành chính cấp huyện; có 159 đơn vị hành chính cấp xã gồm: 01 thành

phố, 01 thị xã, 6 huyện, 16 phường, 07 thị trấn và 136 xã.

36

Bảng 2.1: Các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Bình

Đơn vị diện tích: km²; mật độ: người/km²

Tên Diện tích Dân số Mật độ

Tổng số Thành phố Đồng Hới Thị xã Ba Đồn Huyện Minh Hóa Huyện Tuyên Hoá Huyện Quảng Trạch Huyện Bố Trạch Huyện Quảng Ninh Huyện Lệ Thuỷ 8.000 156 162 1.394 1.129 448 2.115 1.194 1.402 882.505 119.222 106.980 50.708 80.030 106.947 184.371 90.794 143.453 110 764 660 36 71 239 87 76 102

(Nguồn: Niên giám Thống kê Quảng Bình năm 2017)

Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. Toàn bộ

diện tích được chia thành các vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi

và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Khí hậu Quảng Bình nằm ở

vùng nhiệt đới gió mùa, được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 9

đến tháng 3 năm sau, mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8.

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan đến vi phạm pháp luật về trật

tự an toàn giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

Quảng Bình có hệ thống giao thông vận tải thuận lợi cho việc giao

thương với các vùng miền, khu vực trên thế giới, có sân bay Đồng Hới, tuyến

đường sắt bắc nam, quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh đi qua hầu hết các vùng

dân cư, quốc lộ 12A nối Quảng Bình với Lào và đông bắc Thái Lan. Vận tải

bằng đường biển và đường sông cũng là lợi thế của tỉnh. Quảng Bình có 5 cửa

sông, đặc biệt cảng biển Hòn La là nơi có mực nước sâu, mặt nước rộng lớn,

xung quanh là quần thể đảo che chắn gió tạo điều kiện thuận lợi cho tàu trọng

tải lớn ra vào, neo đậu.

37

Đặc biệt, Quảng Bình là nơi hội đủ các yếu tố về giao thông đường bộ.

Trên địa bàn tỉnh có 822km đường quốc lộ, 438km đường tỉnh, 1.346km đường

huyện và đường nội thị, 9.455 km đường giao thông nông thôn, 230km đường

thủy nội địa, đảm bảo cho nhu cầu thiết yếu về giao thông vận tải. Hệ thống

đường bộ của tỉnh bao gồm:

- Quốc lộ 1 từ km 595+500 xã Quảng Đông - Quảng Trạch đến km

17+500 xã Sen Thủy - Lệ Thủy Quảng Bình.

- Quốc lộ 12A xuất phát tại Ba Đồn (km 621 +100 QL1A đến thị trấn

Đồng Lê - Hồng Hóa - thị trấn Quy Đạt - ngã ba Pheo (Km 898 + 050/

ĐHCM) đi chung với đường Hồ Chí Minh đến ngã ba Khe Ve (Km

873+400/ĐHCM) đi theo Quốc lộ 12A hiện tại và kết thúc tại km 142+500

Cửa khẩu Cha Lo.

- Quốc lộ 12C: Xuất phát từ cảng Vũng Áng - Quốc lộ 1 (Km 573 +

420/QL1) đi chung với quốc lộ 1 đến Km 565 +100/QL1 (thị trấn Kì Anh) đi

theo tuyến mới đến Đồng Lê- đi chung với quốc lộ 12A đến ngã ba Hồng Hóa

- Hóa Tiến kết thúc tại ngã ba giao cắt với đường Hồ Chí Minh tại Km

879+800/Đường Hồ Chí Minh.

- Đường Hồ Chí Minh: đường Hồ Chí Minh nhánh Đông, đường Hồ

Chí Minh nhánh Tây.

- Quốc lộ 15 dài 69 km, xuất phát từ xã Hương Hóa - Tân Ấp huyện

Tuyên Hóa đến xã Trường Thủy huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình.

- Quốc lộ 9B: Xuất phát từ thị trấn Quán Hàu giáp quốc lộ 1 đến xã

Trường Sơn đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.

- Quốc lộ 9C: Xuất phát từ xã Cam Thủy huyện Lệ Thủy giáp Quốc lộ 1

đến bản làng Ho giáp đường Hồ Chí Minh nhánh Tây.

- Hệ thống tỉnh lộ gồm có 14 tuyến có tổng chiều dài 364 km, có 29 cầu

các loại với tổng chiều dài là 401m, 3 ngầm có chiều dài 205 m.

38

- Đường nội thị thành phố Đồng Hới.

- Đường huyện xã có 744 km đường huyện và 2.647 km đường xã, đến

nay đã được bê tông hóa 100%.

Nhìn chung, hệ thống giao thông cơ bản hoàn thiện, kết nối được các

trọng điểm kinh tế lớn của tỉnh với các địa phương khác. Thời gian qua, trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình có nhiều công trình lớn mang tính kết nối cao, phục

vụ cho các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của tỉnh đã và đang được

đầu tư xây dựng, kết nối Quảng Bình với cả nước và các nước trong khu vực,

góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặc

dù vậy, so với nhu cầu sự phát triển của hệ thống giao thông chưa tạo được

bước đột phá cho nền kinh tế, nhiều công trình vẫn còn ở cấp kỹ thuật thấp,

một số địa bàn việc đi lại của người dân vẫn còn gặp khó khăn.

Những đặc điểm kinh tế, xã hội và cơ sở hạ tầng giao thông ở Quảng

Bình đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB trên địa bàn.

Ngoài ra, hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông

đường bộ nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu

tố khác như công tác điều hành quản lý, công tác xây dựng, thực thi văn quy

phạm pháp luật giao thông đường bộ, công tác tổng kết, đánh giá và rút ra bài

học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB, công tác

tuần tra, thanh tra, kiểm soát [13, Tr.41].

2.2. Thực tiễn vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

ở tỉnh Quảng Bình

Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế, xã hội,

số lượng phương tiện giao thông, tình hình vi phạm giao thông trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình có số lượng khá lớn, diễn biến phức tạp với nhiều loại lỗi.

39

Tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB bị xử phạt và số tiền phạt nộp

ngân sách nhà nước thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 2.2 (1): Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên

địa bàn tỉnh của Công an tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019

2015 2016 2017 2018 2019 Tổng Nội dung

31.821 29.828 26.154 26.009 22.189 136.001 Số vi phạm

31,29 29,4 31,9 36,8 33,6 162,99 Số tiền phạt (tỷ đồng)

(Nguồn: tác giả tổng hợp từ [1,2,3,4,5] )

Như vậy trong vòng 5 năm (2015-2019) tổng số vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB do Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý là hơn 136 ngàn

trường hợp với số tiền xử phạt gần 163 tỷ đồng. Phân tích số liệu hàng năm

cho thấy số lượng vi phạm có giảm nhưng số tiền phạt hàng năm tăng lên (do

số vụ vi phạm nghiêm trọng tăng). Cụ thể các năm như sau:

- Năm 2015, lực lượng CSGT toàn tỉnh đã thực hiện 12.653 ca với 48.925

lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 31.821 trường hợp. Phạt tại

chỗ 3.744 trường hợp, thu tiền 530.440.000 đồng. Tạm giữ phương tiện 6.565

trường hợp (ô tô 480 trường hợp; mô tô 5.782 trường hợp; xe khác 303 trường

hợp).

Về lỗi vi phạm:

Đối với ô tô: lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 1.683 trường hợp;

Đèn tín hiệu, đèn soi biển số: 939 trường hợp; tự ý thay đổi kích thước thành

thùng xe: 1.215 trường hợp; biển số không rõ, bị che lấp: 355 trường hợp; chở

hàng trong khoang chở khách: 269 trường hợp; không sử dụng đèn chiếu sáng:

508 trường hợp; đậu, đỗ không đúng nơi quy định: 277 trường hợp; không Giấy

phép lái xe: 118 trường hợp; không hoặc hết hạn kiểm định an toàn kỹ thuật: 125

trường hợp; xe khách chở quá số người quy định: 233 trường hợp; đi không

40

đúng phần đường: 85 trường hợp; quá tải: 1.204; vi phạm nồng độ cồn: 85

trường hợp; vi phạm tốc độ: 4.739 trường hợp.

Đối với mô tô: không đội mũ bảo hiểm: 3.654 trường hợp; vi phạm nồng

độ cồn: 1.904 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 3615 trường hợp; không

có chứng nhận đăng ký: 1.935 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân

sự: 2.269 trường hợp; kéo theo xe khác: 322 trường hợp; chở quá số người quy

định: 488 trường hợp; vượt đèn đỏ: 276 trường hợp; không chấp hành hiệu lệnh

Cảnh sát giao thông: 159 trường hợp.

Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: Đã thi hành

quyết định xử phạt: 25.125 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước

tỉnh 31.290.630.500 đồng. Trong đó ra quyết định xử lý lỗi quá tải: 1.145

trường hợp, thu vào kho bạc Nhà nước 7.144.750.000 đồng.

Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.862 trường hợp. Thông báo vi

phạm theo Thông tư 38 của Bộ Công an và Nghị định 81 của Chính phủ đến

cơ quan, đơn vị nơi cư trú của người vi phạm: 5.313 trường hợp [1].

- Năm 2016, lực lượng CSGT toàn tỉnh đã thực hiện 12.538 ca với 49.613

lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 29.828 trường hợp (ô tô

12.742 trường hợp, mô tô 16.980 trường hợp, 11 xe công nông, 01 máy kéo, 94

xe máy điện). Phạt tại chỗ 3.893 trường hợp, thu tiền 495.260.000 đồng. Tạm

giữ phương tiện 6.000 trường hợp (ô tô 462 trường hợp; mô tô 5.467 trường hợp;

xe công nông 11 trường hợp, 01 máy kéo, 1 ô tô điện, 58 xe máy điện).

Một số lỗi vi phạm, xử lý theo chuyên đề chủ yếu:

+ Nồng độ cồn: 1.790 trường hợp;

+ Quá tốc độ quy định: 4.815 trường hợp;

+ Không đội mũ bảo hiểm: 2.220 trường hợp;

+ Chở hàng quá tải: 647 trường hợp;

+ Không chấp hành hiệu lệnh: 80 trường hợp;

41

+ Xếp hàng quá giới hạn: 68 trường hợp;

+ Không có các loại giấy tờ liên quan đến phương tiện và người điều khiển

phương tiện: 6.217 trường hợp;

+ Xử lý xe ô tô biển xanh: 1 trường hợp;

+ Người điều khiển sử dụng chất ma túy: 4 trường hợp;

Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: Đã thi hành quyết

định xử phạt: 26.658 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh

29.424.978.000 đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.695 trường hợp.

Tiến hành làm thủ tục tiêu hủy, bán phế liệu 04 xe ô tô hết niên hạn

sử dụng, 01 xe mô tô ba bánh tự sản xuất lắp ráp, 346 xe mô tô không có

nguồn gốc.

Phối hợp với bưu điện tỉnh thu nộp tiền phạt, chuyển trả giấy tờ cho

người vi phạm qua dịch vụ bưu điện 94 trường hợp [2].

- Năm 2017, lực lượng CSGT toàn tỉnh thực hiện 13.064 ca với 56.533

lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 26.154 trường hợp. Phạt tại

chỗ 6.849 trường hợp, thu tiền 841.585.000 đồng. Tạm giữ 5.069 trường hợp (Ô

tô 840 trường hợp; Mô tô 4.048 trường hợp; xe khác 181 trường hợp).

Trong đó, Phòng Cảnh sát giao thông đã thực hiện 6.778 ca với 30.655

lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Lập biên bản vi phạm 13.619 trường hợp. Phạt tại

chỗ 3.214 trường hợp, thu tiền 355.310.000 đồng. Tạm giữ phương tiện 1.433

trường hợp (ô tô 530 trường hợp; mô tô 903 trường hợp).

Một số lỗi vi phạm, xử lý theo chuyên đề chủ yếu:

+ Ô tô: Vi phạm nồng độ cồn: 123 trường hợp; vi phạm chạy quá tốc

độ: 3.741 trường hợp (xe khách: 1.086 trường hợp, xe tải: 1.171 trường hợp, xe

con: 1.870 trường hợp); quá tải 250 trường hợp; lốp không đảm bảo tiêu chuẩn

kỹ thuật: 653 trường hợp; không có đèn tín hiệu, đèn soi biển số: 809 trường

hợp; lắp thùng xe có kích thước không đúng thiết kế nhà sản xuất: 495 trường

42

hợp; biển số mờ: 406 trường hợp; để hàng trong khoang chở khách: 235 trường

hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu sáng: 169 trường hợp; đậu đỗ không đúng nơi

quy định: 168 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 267 trường hợp; không

kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 252 trường hợp; không chứng

nhận đăng kiểm: 166 trường hợp; đưa phương tiện hết hạn kiểm định tham gia

giao thông: 20 trường hợp; không bạt che phủ 20 trường hợp; không thắt dây an

toàn: 174 trường hợp.

+ Môtô: vi phạm nồng độ cồn: 694 trường hợp; không Giấy phép lái xe:

1.282 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1004 trường hợp; không có

bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 1011 trường hợp; kéo theo xe khác: 46 trường

hợp; không đội mũ bảo hiểm: 581 trường hợp; chạy quá tốc độ: 76 trường

hợp.

Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: toàn tỉnh ra

quyết định xử phạt: 24.683 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh

31.977.737.000 đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.949 trường hợp.

Trong đó, Phòng Cảnh sát giao thông đã thi hành quyết định xử phạt:

10.667 trường hợp. Thu tiền nộp vào kho bạc Nhà nước tỉnh 20.908.330.000

đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 1.640 trường hợp.

Phối hợp với bưu điện tỉnh thu nộp tiền phạt, chuyển trả giấy tờ cho

người vi phạm qua dịch vụ bưu điện: 572 trường hợp.

Tiêu hủy, bán phế liệu 12 xe ô tô hết niên hạn sử dụng (Phòng Cảnh sát

giao thông tiêu hủy 2 ô tô, thu tiền 925.200.000 đ; Công an huyện Minh Hóa

tiêu hủy, bán phế liệu 8 ô tô, thu tiền 24.000.000 đ); thanh lý 828 xe mô tô và

2 ô tô không có nguồn gốc. Hiện nay, tại kho tạm giữ còn 913 phương tiện

(bao gồm: phương tiện bị tạm giữ có đủ điều kiện là 786 xe, phương tiện

đang làm thủ tục tịch thu là 87 xe, phương tiện mục nát không sử dụng được

là 40 xe) [3].

43

- Năm 2018, lực lượng Cảnh sát giao thông toàn tỉnh đã tổ chức 12.544 ca

với 60.140 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 26.009 trường hợp

(13.287 ôtô, 12.720 môtô), trong đó phạt tại chỗ 4.856 trường hợp, thu tiền

669.510.000 đồng; Tạm giữ phương tiện: 5.253 trường hợp (761 ôtô, 4.635

môtô). Trong đó:

+ Phòng Cảnh sát giao thông: Tổ chức 6.801 ca, với 32.570 lượt cán bộ

chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 15.736 trường hợp vi phạm (10.667 ôtô,

5.069 môtô); tạm giữ phương tiện: 1.340 trường hợp (534 ôtô, 806 môtô).

Phạt tại chỗ 2.386 trường hợp, thu tiền phạt 403.100.000đ.

+ Công an các địa phương: Tổ chức 7.244 ca, với 27.570 lượt cán bộ

chiến sĩ tham gia. Phát hiện xử lý 10.273 trường hợp vi phạm (2.620 ôtô,

7.651 môtô); tạm giữ phương tiện: 3.913 trường hợp (227 ôtô, 3.829 môtô).

Phạt tại chỗ 2.470 trường hợp, thu tiền phạt 266.410.000đ.

Một số lỗi vi phạm chủ yếu:

+ Ô tô: vi phạm nồng độ cồn: 222 trường hợp; chạy quá tốc độ: 5.095

trường hợp (xe khách 1.476 trường hợp, xe tải 1.423 trường hợp, xe con 2.689

trường hợp); quá tải 141 trường hợp (lái xe 110 trường hợp, chủ xe 41 trường

hợp); lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 1.104 trường hợp; không có đèn

tín hiệu, đèn soi biển số: 1.282 trường hợp; lắp thùng xe có kích thước không

đúng thiết kế nhà sản xuất: 836 trường hợp; biển số mờ: 540 trường hợp; để

hàng trong khoang chở khách: 345 trường hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu sáng:

130 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 131 trường hợp; đậu đỗ

không đúng nơi quy định: 195 trường hợp; không có Giấy phép lái xe: 440

trường hợp; không kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 338 trường

hợp; không chứng nhận: 282 trường hợp; đưa phương tiện hết hạn kiểm định

tham gia giao thông: 116 trường hợp; không bạt che phủ: 148 trường hợp;

không thắt dây an toàn: 33 trường hợp; không có phù hiệu: 23 trường hợp;

44

giao xe không có phù hiệu: 19 trường hợp; chở hàng vượt quá chiều cao (dài):

64 trường hợp; chủ xe giao xe chở quá chiều cao (dài): 38 trường hợp; chở

quá khách: 101 trường hợp; chủ xe giao xe chở quá khách: 89 trường hợp;

không chấp hành hiệu lệnh dừng xe: 22 trường hợp; các lỗi khác: 1.218 trường

hợp.

+ Môtô: vi phạm nồng độ cồn: 1.592 trường hợp; không Giấy phép lái

xe: 2.901 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1.500 trường hợp; không

có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 4141 trường hợp; kéo theo xe khác: 245

trường hợp; xếp hàng quá giới hạn: 40 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm:

1.499 trường hợp; chạy quá tốc độ: 278 trường hợp; không chấp hành hiệu

lệnh dừng xe: 09 trường hợp; vượt đèn đỏ: 08 trường hợp; lỗi khác: 2.356

trường hợp.

Về công tác xử lý vi phạm hành chính về TTATGTĐB: ra quyết định

xử phạt: 24.296 trường hợp. Thu nộp ngân sách nhà nước: 36.835.450.000 tỷ

đồng. Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.388 trường hợp [4].

- Năm 2019, lực lượng Cảnh sát giao thông toàn tỉnh đã tổ chức được

11.341 ca, với 54.023 lượt cán bộ chiến sĩ tham gia; phát hiện xử lý 22.189

trường hợp vi phạm (9.185 ôtô, 12.994 môtô, 10 xe khác) trong đó phạt tại

chỗ 6.373 trường hợp, thu tiền 791.170.000đ; Tạm giữ phương tiện: 5.968

trường hợp (1.245 ôtô, 4.702 môtô, 21 xe khác).

Một số lỗi vi phạm chủ yếu:

+ Ô tô: vi phạm nồng độ cồn: 534 trường hợp; chạy quá tốc độ: 2.995

trường hợp (xe khách 512 trường hợp, xe tải 886 trường hợp, xe con 1.597

trường hợp); quá tải 113 trường hợp (lái xe 78 trường hợp, chủ xe 35 trường

hợp); lốp không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật: 666 trường hợp; không có đèn

tín hiệu, đèn soi biển số: 705 trường hợp; lắp thùng xe có kích thước không

đúng thiết kế nhà sản xuất: 1.064 trường hợp; biển số mờ: 316 trường hợp; để

45

hàng trong khoang chở khách: 84 trường hợp; không sử dụng đủ đèn chiếu

sáng: 55 trường hợp; không có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 171 trường hợp;

đậu đỗ không đúng nơi quy định: 234 trường hợp; không có Giấy phép lái xe:

386 trường hợp; không kiểm định an toàn kỹ thuật trường hợp hết hạn: 513

trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 310 trường hợp; đưa phương tiện

hết hạn kiểm định tham gia giao thông: 210 trường hợp; không bạt che phủ:

188 trường hợp; không có phù hiệu: 16 trường hợp; giao xe không có phù

hiệu: 16 trường hợp; chở hàng vượt quá chiều cao (dài): 96 trường hợp; chủ

xe giao xe chở quá chiều cao (dài): 46 trường hợp; chở quá khách: 36 trường

hợp; chủ xe giao xe chở quá khách: 38 trường hợp; không chấp hành hiệu

lệnh dừng xe: 06 trường hợp; sử dụng ma túy: 01 trường hợp; các lỗi khác:

715 trường hợp.

+ Mô tô: vi phạm nồng độ cồn: 1.141 trường hợp; không Giấy phép lái

xe: 2.796 trường hợp; không chứng nhận đăng kiểm: 1.475 trường hợp; không

có bảo hiểm trách nhiệm dân sự: 4.073 trường hợp; kéo theo xe khác: 330

trường hợp; xếp hàng quá giới hạn: 07 trường hợp; không đội mũ bảo hiểm:

3.151 trường hợp; chạy quá tốc độ: 187 trường hợp; sử dụng ma túy: 01

trường hợp; lỗi khác: 1.795 trường hợp.

Xử lý vi phạm: Ra quyết định xử phạt: 22.079 trường hợp (13.992 ôtô;

8.075 môtô; 12 xe khác). Thu nộp ngân sách nhà nước: 33.645.612.000 đồng.

Tước Giấy phép lái xe có thời hạn: 2.958 trường hợp [5].

Bên cạnh lực lượng Công an, thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh

Quảng Bình đã phát hiện, xử lý nhiều sai phạm, nhất là các vi phạm về tải

trọng xe và thay đổi kích thước thành thùng chở hàng của xe ô tô tải. Đi liền

với việc tăng cường công tác tuyên truyền và ký cam kết, lực lượng Thanh tra

Giao thông đã tăng cường công tác kiểm soát tải trọng xe. Đặc biệt, tập trung

kiểm tra, xử lý tại các điểm đầu mối bốc xếp hàng hóa, mỏ vật liệu, nhà máy

46

xi măng và các tuyến đường có lưu lượng phương tiện giao thông vận tải

đường bộ lớn trên địa bàn.

Bảng 2.2 (2):

Tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh

của Thanh tra Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Bình từ năm 2015-2019

Số liệu tổng thể Số liệu theo hành vi vi phạm, theo hình thức xử lý

Phạt nguội Trực tiếp tại hiện trường

Năm

Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng) Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng) Số vụ Số tiền phạt (triệu đồng)

2015 823 2.284 823 2.284

2016 393 936 393 936

2017 409 1.120 381 1.045 28 75

2018 330 927 296 847 34 80

2019 409 1.232 400 1.218 9 14

6.499 2293 6.330 71 169 Tổng 2.364

(Nguồn: Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình)

Như vậy, trong 5 năm, tổng số vụ vi phạm bị xử phạt gần 2.300 vụ với

số tiền phạt gần 6,5 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là vi phạm phát hiện, xử lý tại

hiện trường.

Đặc biệt, từ ngày 15-5 đến 15-6-2019, Thanh tra Sở Giao thông vận tải

đã chủ trì phối hợp với Chi Cục quản lý đường bộ II mở đợt cao điểm kiểm

tra xử lý vi phạm đối với hành vi tự ý thay đổi kích thước thùng chở hàng và

các hành vi vi phạm khác, qua đó, phát hiện và lập biên bản vi phạm hành

chính 32 trường hợp vi phạm (điều khiển xe ô tô lắp thùng xe có kích thước

không đúng thiết kế nhà sản xuất, tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng, kích thước

47

thùng xe, chở hàng vượt trọng tải cho phép...) với tổng số tiền phạt hơn 125

triệu đồng [31].

Đối với các trường hợp vi phạm tự ý cải tạo kết cấu, hình dáng, kích thước

thành thùng xe không đúng thiết kế nhà sản xuất, ngoài việc bị lập biên bản vi

phạm còn bị tạm giữ Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi

trường, tem kiểm định; đồng thời yêu cầu người vi phạm khôi phục lại hình

dáng, kích thước, tình trạng an toàn kỹ thuật như ban đầu của xe và đăng kiểm

lại trước khi đưa phương tiện ra tham gia giao thông theo quy định.

Cùng với việc xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm, lực lượng Thanh

tra Sở Giao thông vận tải còn tuyên truyền và giải thích rõ các quy định của

pháp luật về kích thước thành thùng xe, tải trọng, khổ giới hạn xe cho các đối

tượng vi phạm, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật. Vận

động các lái xe, chủ xe chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật khi

tham gia giao thông.

Từ việc thực hiện đồng bộ các giải pháp tích cực nói trên của Thanh tra

Sở Giao thông vận tải đã góp phần làm giảm đáng kể tình trạng phương tiện

giao thông đường bộ vi phạm chở hàng quá tải trọng và đặc biệt là việc tự ý

thay đổi kích thước thùng chở hàng của xe ô tô tải. Ý thức chấp hành các quy

định về vận tải đường bộ của chủ hàng, lái xe, chủ xe, doanh nghiệp kinh

doanh dịch vụ vận tải, cung cấp hàng hóa đã được nâng lên [31].

Từ những nỗ lực phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB

nói trên tình hình tai nạn giao thông trong những năm gần đây đều có chiều

hướng giảm, nhất là năm 2019. Năm 2019, tai nạn giao thông trên địa bàn

tỉnh tiếp tục giảm về số vụ, người chết và người bị thương so với năm 2018.

Số người chết do tai nạn giao thông tiếp tục giảm sâu, không xảy ra tai nạn

giao thông đặc biệt nghiêm trọng. Tính từ ngày 15/12/2018 - 14/12/2019, toàn

tỉnh xảy ra 205 vụ tai nạn giao thông, làm chết 93 người, bị thương 155

48

người. So với năm 2018, giảm 13 vụ, giảm 12 người chết, giảm 07 người bị

thương. Đây là năm thứ 10 liên tục tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh giảm

cả 03 tiêu chí.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phát hiện, xử lý vi phạm

pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình còn hạn chế, bất cập và gặp

nhiều khó khăn. Người vi phạm tìm nhiều phương thức, hành vi nhằm che

dấu, chống đối việc phát hiện, xử lý của các lực lượng chức năng; số lượng vi

phạm nguy hiểm ngày càng tăng liên quan đến tải trọng, tốc độ, sử dụng ma

túy, rượu bia;... Đặc biệt là khó khăn trong xử lý vi phạm thông qua camera

giám sát.

Hệ thống camera giám sát ghi nhận số trường hợp vi phạm là rất lớn

nhưng số trường hợp thực tế có đủ dấu hiệu chứng minh vi phạm lại rất thấp.

Nguyên nhân được cơ quan chức năng lý giải là do: Vào buổi tối, ánh sáng

yếu nên camera khó nhận diện được đầy đủ các ký tự của biển số. Hệ thống

không nhận diện được khi tín hiệu đèn là các mũi tên dẫn đến việc khi mũi tên

xanh bật sáng thì các phương tiện được rẽ trái nhưng hệ thống vẫn báo lỗi

không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông; nhiều phương tiện chỉ

vi phạm lỗi không chấp hành hiệu lệnh của báo hiệu đường bộ, vạch sơn kẻ

đường nhưng hệ thống vẫn báo lỗi không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín

hiệu giao thông. Trong khi đó, quá trình xác minh và xử lý vi phạm phức tạp,

nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian, công sức.

2.3. Thực tiễn phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

2.3.1. Xây dựng, ban hành văn bản, chương trình, kế hoạch

Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về đảm bảo TTATGTĐB trước hết

căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật

khác. Cho đến nay, ngoài Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ,

49

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an và các bộ ngành có liên quan, Ủy Ban

nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng và ban hành

hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật với 20 Nghị định của Chính phủ, 01

quyết định của Thủ tướng chính phủ, 138 thông tư và thông tư liên tịch [15].

Hệ thống văn bản pháp luật đa dạng đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho công tác tổ

chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh. Đồng thời các văn

bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh đã cụ thể hóa các nội dung

quy định của văn bản cấp trên đáp ứng yêu cầu giảm thiểu tai nạn giao thông

hiện nay. Nhằm tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật trên một cách hiệu

quả, phù hợp với thực tiễn, UBND tỉnh Quảng Bình và các cơ quan chức năng

đã ban hành và tham mưu ban hành nhiều văn bản pháp luật.

Bảng 2.3: Xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về TTATGTĐB

tỉnh Quảng Bình

UBND Ban Công an Năm Sở Các sở ban, Tổng

ATGT GTVT ngành khác tỉnh tỉnh

2015 26 150 61 22 117 376

2016 22 165 63 29 178 457

2017 43 160 65 31 164 463

2018 34 155 62 30 186 467

2019 39 162 64 32 176 473

(Nguồn: Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình các năm 2015, 2016,

2017, 2018, 2019)

Bảng số liệu trên cho thấy, tùy vào tính chất công việc triển khai tổ

chức thực hiện pháp luật về TTATGT hàng năm mà các cơ quan, tổ chức ban

hành số lượng văn bản khác nhau. Thực tế cho thấy, các đơn vị, địa phương

đã quyết liệt trong việc gắn trách nhiệm người đứng đầu cũng như tham mưu

50

cho cấp ủy và lãnh đạo ban hành nhiều văn bản chỉ đạo với nhiều giải pháp

trong công tác đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn.

Một trong những văn bản có ý nghĩa chiến lược, định hướng về công tác

đảm bảo TTATGTĐB của tỉnh là Quyết định số 970/QĐ-UBND “Chiến lược

đảm bảo TTATGTĐB tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm

2030” do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành vào ngày 02 tháng 5 năm 2013 đã

đặt ra mục tiêu đảm bảo hiệu quả TTATGT, giảm thiểu tai nạn. Trên cơ sở

chiến lược này, hằng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo Ban An toàn giao

thông (BATGT) tỉnh, các huyện thị xã, thành phố triển khai thực hiện bằng

các chủ đề cụ thể. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền an toàn giao thông

trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Năm 2015, lực lượng Cảnh sát giao thông đã tích cực tham mưu cho

Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình, BATGT tỉnh Quảng Bình ban hành nhiều

Chỉ thị, chương trình, kế hoạch, trong đó đã nhấn mạnh về tăng cường thực

hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm TTATGTĐB, đặt rõ chỉ tiêu giảm tai

nạn giao thông và hạn chế ùn tắc giao thông, thực hiện chủ trương “Nâng cao

tinh thần trách nhiệm của người thực thi công vụ” theo tinh thần Nghị quyết

88/CP của Chính phủ về bảo đảm TTATGT, Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày

23/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các giải

pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao thông nghiêm trọng trong hoạt

động vận tải; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 03/10/2012 của Thủ tướng Chính

phủ về tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn

giao thông hàng hải và đường thủy nội địa; các Kế hoạch của Uỷ ban An toàn

giao thông Quốc gia và của Bộ Công an về các giải pháp bảo đảm

TTATGTĐB, kiềm chế tai nạn giao thông [1].

Từ năm 2016-2018, công tác xây dựng, ban hành văn bản, chương

trình, kế hoạch tiếp tục được quan tâm như: Năm 2016, Công an tỉnh Quảng

51

Bình tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng, ban hành Quyết định số

266/QĐ-UBND ngày 01/02/2016 về việc ban hành Kế hoạch phối hợp thực

hiện việc tuần tra, kiểm soát xử lý hành vi vi phạm chở hàng quá tải trọng của

xe ô tô vận chuyển hành hóa trên đường bộ, tỉnh Quảng Bình [2]. Năm 2017,

Công an tỉnh Quảng Bình tham mưu cho Tỉnh ủy Quảng Bình báo cáo sơ kết

5 năm thực hiện Chỉ thị số 18 của Ban Bí thư Trung ương; cho Uỷ ban nhân

dân tỉnh công văn chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận hội nghị tổng kết Kế

hoạch số 12593/KHPH-BGTVT-BCA của Bộ Công an và Bộ Giao thông vận

tải về kiểm soát tải trọng xe; tham gia góp ý Dự thảo 01 Chỉ thị của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy; 01 Nghị định, 02 Đề án, 05 kế hoạch và 01 công văn của

Ủy ban nhân dân tỉnh [3]. Năm 2018, Phòng Cảnh sát giao thông đã tham

mưu cho Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình 01 chương trình, 13 kế hoạch, 2

kế hoạch phối hợp liên ngành; 13 phương án, 14 công văn chỉ đạo, triển khai

thực hiện công tác bảo đảm TTATGTĐB. Ngoài ra, chủ động ban hành 59 kế

hoạch, 24 phương án, 89 báo cáo [4].

Năm 2019, tiếp tục thực hiện năm an toàn giao thông với chủ đề "An

toàn cho hành khách và người đi mô tô, xe máy", chủ động, kịp thời trong

công tác tham mưu văn bản chỉ đạo triển khai các giải pháp bảo đảm

TTATGT, Công an tỉnh Quảng Bình đã tham mưu cho Tỉnh ủy Quảng Bình

ban hành Kế hoạch số 104-KH/TU ngày 02/4/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh

ủy; cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 703/KH-UBND ngày

16/5/2019 về thực hiện Kết luận số 45-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW của

Ban Bí thư (khóa XI) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

bảo đảm TTATGT đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn

tắc giao thông”. Tham mưu Lãnh đạo Công an tỉnh Quảng Bình ban hành 41

Kế hoạch, 40 Phương án, 06 Báo cáo, 37 Công văn, 05 kiến nghị chỉ đạo thực

52

hiện các mặt công tác và kiến nghị các giải pháp nhằm bảo đảm TTATGTĐB,

trong đó xuyên suốt Kế hoạch số 2348/KH-CAT-PV01-PC08 về thực hiện

Nghị quyết số 12/NQ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về tăng cường công

tác bảo đảm TTATGTĐB và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019-2021.

Chủ động xây dựng 148 kế hoạch, 164 phương án, 211 báo cáo, 255 công

văn, 6 tờ trình, 3 kiến nghị. Đặc biệt, chủ động tham mưu cho Lãnh đạo Công

an tỉnh Quảng Bình thành lập Tổ phản ứng nhanh (ký hiệu 141.QB), trong đó

lực lượng Cảnh sát giao thông là lượng nồng cốt, làm tổ trưởng có chức năng

tuần tra, kiểm soát, đảm bảo an ninh trật tự và TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình [5].

Về hạn chế: Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng

pháp luật ở trung ương và địa phương còn chậm, tình trạng nợ đọng văn bản

hướng dẫn còn phổ biến; nhiều quy định về xử lý vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB không thể áp dụng do không phùi hợp hoặc thiếu nguồn lực; một số

cấp uỷ Đảng, nhất là cấp uỷ Đảng cơ sở chưa thực sự quan tâm sâu sát, chưa

nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc chỉ đạo xây dựng, ban hành văn bản

về công tác bảo đảm TTATGT; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc

việc thực hiện chưa thường xuyên, liên tục, thiếu quyết liệt; chưa thực sự triển

khai đầy đủ các giải pháp, chưa huy động cả hệ thống chính trị để thực hiện,

nhận thức đơn thuần là trách nhiệm của ngành Công an và Giao thông vận tải.

2.3.2. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGT là một trong

những hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật phổ biến. Trong quá trình triển

khai thực hiện đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng. Nội

dung công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao

thông đường bộ là tuyên truyền sâu rộng và hướng dẫn cho Nhân dân chấp

hành luật giao thông đường bộ; các quy định của pháp luật về hoạt động vận

53

tải hàng hóa trên đường bộ để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các

đối tượng tham gia giao thông đường bộ, nhất là đội ngũ lái xe, chủ xe, chủ

hàng khi tham gia vận tải hàng hóa trên đường bộ. Đồng thời, phổ biến các

thông tin về tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực an toàn giao thông,

quyền, nghĩa vụ pháp luật các quy trình, thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp trong tham gia giao thông.

Trong thời gian qua các cơ quan chức năng ở tỉnh Quảng Bình đã tiến

hành tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTATGTĐB với nhiều hình thức đa

dạng, phù hợp với từng đối tượng người nghe. BATGT tỉnh phối hợp với Tạp

chí sinh hoạt Chi bộ mỗi số dành một trang cho chuyên mục “An toàn giao

thông”, nội dung đăng tải do Văn phòng BATGT tỉnh đảm nhận; đưa nội

dung an toàn giao thông vào tất cả các cuộc sinh hoạt chi bộ, đến từng đảng

viên. Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn

dân tham gia bảo đảm TTATGT”. BATGT tỉnh ký các Chương trình phối hợp

với Hội Nông dân tỉnh về đẩy mạnh cuộc vận động “Nông dân tham gia bảo

đảm TTATGT”; với Hội Liên hiệp phụ nữ về cuộc vận động “Phụ nữ tham gia

bảo đảm TTATGT vì hạnh phúc của mỗi gia đình”; với Sở Y tế về “Tăng

cường công tác y tế nhằm giảm thiểu thiệt hại tai nạn giao thông”; với Hội Cựu

chiến binh về thực hiện cuộc vận động “Cựu chiến binh Việt Nam tham gia giữ

gìn TTATGT”; với Sở Giáo dục và Đào tạo về “Tăng cường công tác giáo dục

kiến thức an toàn giao thông trong trường học giai đoạn 2013 - 2018”; với tỉnh

Đoàn về “đẩy mạnh công tác giáo dục an toàn giao thông trong đoàn viên,

thanh thiếu nhi, học sinh, sinh viên giai đoạn 2012 - 2017”. Đặc biệt, các cơ

quan chức năng đã tập trung tuyên truyền vào đối tượng có nguy cơ gây tai

nạn giao thông cao như lái xe khách, thanh thiếu niên trên địa bàn nông thôn,

góp phần nâng cao nhận thức về văn hóa giao thông cho người dân trên địa

bàn. Trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTATGTĐB lực

54

lượng Cảnh sát giao thông giữ vai trò hết sức quan trọng. Cảnh sát giao thông

hằng năm tổ chức thực hiện nhiều hoạt động tuyên truyền với những nội

dung, hình thức, phù hợp với từng điều kiện cụ thể để triển khai thực hiện các

nghị quyết, quyết định của Đảng và Chính phủ, các kế hoạch phương án của

Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an về công tác đảm bảo TTATGTĐB. Việc

triển khai được thực hiện đến từng đối tượng cụ thể như học sinh, sinh viên

các trường học trên địa bàn tỉnh, bằng và thông qua các hội thi tìm hiểu Luật

Giao thông đường bộ, hội thi lái xe an toàn... Trong năm 2017, BATGT tỉnh,

Sở Giao thông vận tải đã cấp phát 1.500 tờ gấp và 5.000 tờ rơi tuyên truyền ,

1.000 cuốn cẩm nang “An toàn giao thông nông thôn”, 1.720 áp phích, 100

cuốn “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về tải

trọng phương tiện đường bộ”, 3.000 cuốn “Cẩm nang phòng chống tai nạn

giao thông do uống rượu, bia”; 1.000 tờ rơi tuyên truyền tháng cao điểm an

toàn giao thông cho học sinh đến trường ; 2.360 cuốn “ Làm quen với Luật

giao thông cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 9”; tặng 350 mũ bảo hiểm cho học

sinh trường Tiểu học Tân Ninh – huyện Quảng Ninh; phối hợp với Sở Thông

tin và truyền thông, Công an tỉnh, Đài phát thanh và truyền hình, Báo Quảng

Bình xây dựng và phát sóng 26 chuyên mục, 16 phóng sự, 92 tin bài, duy trì

và thực hiện điểm tin TTATGT hằng ngày trên sóng phát thanh truyền hình

tỉnh, hàng số, hàng tháng trên báo Quảng Bình [13; Tr,42]. Nhìn chung các

địa phương, đơn vị đã tích cực đẩy mạnh công tác, tuyên truyền phổ biến,

giáo dục pháp luật về TTATGT trên địa bàn. Quá trình thực hiện, đã có nhiều

hình thức tuyên truyền thực hiện có hiệu quả góp phần thay đổi nhận thức và

thái độ của Nhân dân về TTATGT.Với việc triển khai tích cực các biện pháp

tuyên truyền nên tình hình TTATGT trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích

cực, ý thức chấp hành luật giao thông của cán bộ, học sinh và Nhân dân ngày

càng được nâng lên, các hành vi vi phạm luật giao thông giảm dần. Trong 5

55

năm liền, Quảng Bình là một trong những tỉnh giảm tai nạn giao thông trên cả

ba tiêu chí số vụ, số người chết và số người bị thương.

Gần đây nhất, ngày 14/01/2020, BATGT tỉnh đã tổ chức lễ ra quân

Năm an toàn giao thông năm 2020 với chủ đề “Đã uống rượu, bia - không lái

xe”. Năm 2020 là năm đầu tiên thực hiện Nghị định số 100/NĐ-CP của Chính

phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và

đường sắt. Theo đó, với chủ đề “Đã uống rượu, bia - không lái xe”, trong năm

ATGT 2020, toàn tỉnh tiếp tục phấn đấu nâng cao nhận thức và ý thức của

người tham gia giao thông về chấp hành pháp luật TTATGT, nhất là quy định

pháp luật về nồng độ cồn khi điều khiển phương tiện giao thông; tiếp tục giảm

tai nạn giao thông từ 05 - 10% cả 03 tiêu chí về số vụ, số người chết, số người

bị thương so với năm 2019; giảm tai nạn giao thông do nguyên nhân uống

rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông [29].

Về hạn chế: công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về

TTATGTĐB tuy đã được quan tâm thực hiện, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu

thực tế; các ngành các cấp đã tham gia thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, tuy

nhiên, không thực hiện thường xuyên, liên tục; nội dung, hình thức tuyên

truyền không phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa bàn; người dân

chưa ý thức được việc chấp hành pháp luật về bảo đảm TTATGTĐB vừa là

trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi thiết thực của mình nhằm bảo vệ tính

mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi ích chung của toàn xã hội. Việc tổ

chức giáo dục Luật giao thông trong các trường học còn hạn chế. Việc đưa tin

của một số phương tiện thông tin đại chúng không phân tích sâu nguyên nhân

tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, làm rõ trách nhiệm các ngành, các đơn

vị, địa phương trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm TTATGTĐB;

chưa chú trọng biểu dương gương người tốt, việc tốt, các hoạt động tích cực

của lực lượng chức năng... nên không tạo được sự đồng thuận thực hiện các

56

biện pháp mạnh, đồng tình ủng hộ của Nhân dân đối với các lực lượng chức

năng thực thi nhiệm vụ.

2.3.3. Tổ chức bộ máy

Con người là nhân tố quyết định hiệu quả công việc. Nhận thức sâu sắc

điều đó, trong thời gian qua đội ngũ làm công tác tổ chức thực hiện pháp luật

về TTATGTĐB đã được chú trọng kiện toàn. Để hoạt động có hiệu quả, các ban

ngành đã chủ động củng cố tổ chức bộ máy; tăng cường giáo dục chính trị tư

tưởng, phẩm chất, đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp; nâng cao năng lực nghiệp vụ,

chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tổ chức

các cuộc thi tìm hiểu Luật An toàn giao thông, cử cán bộ tập huấn nghiệp vụ

nâng cao năng lực nghiệp vụ, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đáp ứng

yêu cầu đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn công tác.

Thứ nhất, để công tác đảm bảo TTATGTĐB diễn ra có tính kế hoạch,

có mục đích và có hiệu quả, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo BATGT tỉnh

luôn kiện toàn tổ chức bộ máy đủ mạnh, có tính trách nhiệm cao. Ngày

04/8/2017, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết

định số 2796/QĐ-UBND về việc kiện toàn BATGT tỉnh. BATGT tỉnh có 24

cơ quan thành viên và 27 đồng chí thành viên, trong đó Trưởng ban là Chủ

tịch tỉnh, Phó Trưởng ban thường trực là Giám đốc Sở Giao thông vận tải,

Phó Trưởng ban là Phó Giám đốc Công an tỉnh, các Ủy viên là đại diện Lãnh

đạo các sở, ban, ngành và đại diện tham gia thành viên gồm Lãnh đạo các cơ

quan Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh; Liên đoàn Lao động tỉnh; Hội

Nông dân tỉnh; Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh; tỉnh Đoàn; Hội Chữ Thập đỏ tỉnh;

Hội cựu chiến binh tỉnh. Trong những năm vừa qua, Ủy ban nhân dân tỉnh đã

chủ động tổ chức thực hiện và phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trong việc

triển khai các giải pháp đảm bảo TTATGTĐB. BATGT tỉnh luôn bám sát chỉ

đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Ủy ban

57

nhân dân tỉnh... để thường xuyên tham mưu, chỉ đạo các đơn vị, địa phương

triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp trọng tâm bảo đảm

TTATGTĐB.

Thứ hai, Phòng Cảnh sát giao thông là đơn vị thuộc công an tỉnh Quảng

Bình với biên chế 90 đồng chí được bố trí 6 đội nghiệp vụ (đội CSGT đường

thủy; đội CSGT đường sắt; đội CSGT đường bộ; đội đăng ký quản lý xe lái;

đội tham mưu-tổng hợp; đội xử lý vi phạm). Trong những năm qua, Phòng đã

tích cực tham mưu Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình quyết định bố trí lực

lượng của Phòng Cảnh sát giao thông và Công an cấp huyện tổ chức hoạt

động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm bảo đảm TTATGT trên các tuyến

giao thông đường bộ theo địa giới hành chính của tỉnh.

Bên cạnh đó, căn cứ tình hình thực tế công tác bảo đảm TTATGT trên

đoạn quốc lộ đi qua địa giới hành chính thành phố thuộc tỉnh, thị trấn thuộc

huyện, Phòng Cảnh sát giao thông tham mưu Giám đốc Công an tỉnh Quảng

Bình có kế hoạch bố trí lực lượng của Phòng Cảnh sát giao thông chủ trì, phối

hợp với Cảnh sát giao thông Công an cấp huyện tuần tra, kiểm soát và xử lý

vi phạm hành chính về TTATGT theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Phòng Cảnh sát giao thông còn tăng cường hướng dẫn, kiểm

tra, đôn đốc lực lượng Cảnh sát giao thông Công an cấp huyện thực hiện công

tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm về TTATGTĐB.

Thứ ba, Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình gồm 24 công

chức (1 Chánh Thanh tra, 02 Phó Chánh Thanh tra, 21 công chức). Thanh tra

Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Bình đã tích cực tham mưu, giúp Giám đốc

Sở về công tác thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành; giải quyết

khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và công tác pháp chế theo quy

định của pháp luật.

58

Thứ tư, Công an cấp huyện, mỗi đơn vị có một đội Cảnh sát giao thông-

trật tự với biên chế của một đội là 20 đồng chí, trong thời gian qua đã làm tốt

công tác bố trí lực lượng, tổ chức hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi

phạm hành chính về TTATGT trên các tuyến đường huyện, đường xã, đường

chuyên dùng trong phạm vi địa giới hành chính; đường tỉnh, đường đô thị

theo quyết định phân công, phân cấp của Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình;

phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm

hành chính về TTATGT trên đoạn quốc lộ đi qua địa giới hành chính thành

phố thuộc tỉnh, thị trấn thuộc huyện theo kế hoạch của Giám đốc Công an tỉnh

Quảng Bình.

Về hạn chế: Tuy mạng lưới đảm bảo TTATGTĐB đã phủ khắp toàn

tỉnh, từ tỉnh đến huyện, thị xã, tuy nhiên lực lượng thực thi còn mỏng, vẫn còn

trình trạng buông lỏng quản lý, tiêu cực trong công việc. Đội ngũ làm công

tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB vẫn còn thiếu tính chủ động

trong thực thi pháp luật. Trong quá trình và trong phạm vi thực thi công vụ

nhiều cán bộ chưa giải đáp pháp luật cho Nhân dân. Việc giải thích các quy

định của pháp luật, hướng dẫn Nhân dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ

trong phạm vi thẩm quyền vẫn còn chưa được tiến hành đầy đủ, thậm chí có

người do chưa nắm rõ các quy định còn giải thích tù mù hoặc sai sót. Một số

cán bộ vẫn còn yếu về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật

chuyên ngành, còn nhiều hạn chế trong ứng xử theo pháp luật, không thường

xuyên cập nhật các văn bản mới ban hành nên nhiều khi giải quyết công việc

cho Nhân dân còn lúng túng, thậm chí có trường hợp còn vi phạm pháp luật.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn gây khó khăn, sách nhiễu; tình

trạng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật của một số cán bộ làm

công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB đã làm giảm lòng tin của

Nhân dân.

59

2.3.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát

BATGT tỉnh, Công an tỉnh, Sở Giao thông vận tải đã chỉ đạo Cảnh sát

giao thông, thanh tra giao thông, Công an các địa phương huy động tối đa lực

lượng, phương tiện, trang thiết bị tăng cường tuần tra, kiểm soát... tiếp tục

nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB, trọng điểm là tuyến Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh, Quốc lộ

12A, đường giao thông nông thôn... Bên cạnh công tác tuần tra, kiểm tra

thường xuyên, lực lượng chức năng đã tiến hành tuần tra, kiểm soát theo từng

chuyên đề như kiểm tra nồng độ cồn, tổng kiểm soát xe ô tô chở khách sau

Tết Nguyên đán... góp phần quan trọng giữ vững TTATGT, nhất là trong

những thời gian cao điểm của năm. Hoạt động này góp phần rất lớn vào việc

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về TTATGTĐB của người tham gia giao

thông. Việc tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông

góp phần tích cực nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho người tham gia giao

thông. Mặt khác, thông qua hoạt động tuần tra, kiểm soát lực lượng chức năng

kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm góp phần thiết lập trật tự, nề nếp của

người tham gia giao thông đường bộ. Không những thế, các cơ quan chức

năng đã tăng cường chỉ đạo, siết chặt quản lý kinh doanh vận tải, bảo đảm an

toàn vận tải phục vụ các dịp lễ, tết. Sở Giao thông vận tải tăng cường kiểm tra

chặt chẽ phương tiện và người lái về các điều kiện an toàn trước khi xuất bến, điều

kiện kinh doanh, về việc chấp hành các quy định về an toàn giao thông, các bộ

phận an toàn giao thông và người điều hành vận tải.

Thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân

dân tỉnh về tăng cường thực hiện kiểm soát tải trọng xe trên đường bộ, Cảnh

sát giao thông, Thanh tra giao thông đã tiến hành tuần tra, kiểm soát, bảo đảm

hạ tầng giao thông, bảo đảm an toàn giao thông, tiến độ thi công các dự án,

giải phóng mặt bằng dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 và các dự án giao

60

thông trên địa bàn. Chủ động xây dựng phương án bảo đảm an toàn giao

thông trong mùa mưa lũ, đặc biệt tích cực ứng dụng công nghệ trong phát

hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật giao thông; bảo đảm TTATGT

trong các ngày lễ lớn và ngày tết.

Bên cạnh đó, thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 25 tháng 11 năm

2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác kiểm soát tải

trọng phương tiện giao thông, BATGT tỉnh Quảng Bình đã có văn bản chỉ đạo

Sở Giao thông vận tải, Cảnh sát giao thông và các lực lượng chức năng khác

phối kết hợp thực hiện tuần tra, kiểm soát xử lý nghiêm minh hành vi chở quá

tải trọng của ô tô vận chuyển hàng hóa trên đường bộ. Đối tượng kiểm tra là

các xe ô tô tải, ô tô đầu kéo rơ mooc, xe ô tô chở container vượt tải trọng thiết

kế được được ghi trong giấy chứng nhận đăng kí hoặc sổ chứng nhận kiểm

định an toàn kĩ thuật và bảo vệ môi trường hoặc chở hàng vượt tải trọng, quá

khổ giới hạn cầu đường, xe ô tô vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng tham

gia giao thông vận tải trên các tuyến quốc lộ đi qua địa bàn tỉnh Quảng Bình

và hệ thống đường bộ địa phương. Hiện nay, tỉnh Quảng Bình vẫn đang duy

trì hoạt động 24/24h của trạm cân lưu động quốc lộ 1 và Tổ liên ngành tập

trung kiểm soát xe trên quốc lộ 12A, đường Hồ Chí Minh và khu vực tập

trung các mỏ vật liệu. Phối hợp với lực lượng Cảnh sát giao thông phân luồng

hướng dẫn các phương tiện trong các đợt thiên tai, lũ lụt, ùn tắc giao thông

bảo đảm an toàn cho người, phương tiện qua lại các tuyến đường trên địa bàn

tỉnh. Triển khai thực hiện công tác đảm bảo an toàn giao thông trong quá trình

thi công Dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 đoạn đi qua tỉnh Quảng Bình;

thường xuyên trực phân luồng, điều tiết giao thông, phục vụ tốt nhu cầu đi lại,

vận chuyển hàng hoá của Nhân dân.

Về hạn chế: việc tuần tra, kiểm soát có thời điểm chưa được thường

xuyên dẫn đến nhiều hành vi vi phạm pháp luật về TTATGTĐB xảy ra. Tình

61

trạng tiêu cực vẫn còn xảy ra trong quá trình kiểm tra, kiểm soát. Do lực

lượng mỏng, thiết bị phục vụ cân kiểm soát tải trọng thiếu, nhiều trường hợp

lái xe chống đối, gây gổ tạo sức ép và gây khó khăn cho lực lượng liên ngành

khi thực hiện kiểm tra tải trọng.

2.4. Nguyên nhân của hạn chế

Một là, hệ thống pháp luật quy định đối với vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB còn bất cập. Các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động

xử lý VPHC trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn nhiều quy định thiếu

tính hợp lý (nguyên tắc, hình thức, thẩm quyền, thủ tục xử lý...), đây cũng là

yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xử lý các hành vi vi phạm hành

chính trong giao thông đường bộ, vì vậy cũng cần phải tiến hành rà soát để

sửa đổi bổ sung kịp thời.

Còn thiếu các quy định của pháp luật để tạo sự thông suốt, tính hiệu

quả, tính hợp pháp của hoạt động xử lý vi phạm hành chính. Ví dụ như việc

các cơ quan đăng kiểm khi tiếp nhận yêu cầu từ phía cơ quan có thẩm quyền

thì có thể từ chối cấp “Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ

môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ” (Giấy kiểm định), và

một trong những lý do phía cơ quan chức năng chưa cấp giấy kiểm định là do

người điều khiển phương tiện đó chưa thực hiện quyết định xử phạt vi phạm

hành chính đối với hành vi vi phạm. Tuy nhiên có thể nói việc cơ quan đăng

kiểm từ chối không cấp giấy kiểm định trên cơ sở này lại không thực sự chính

xác theo quy định tại Khoản 2, Điều 3, Thông tư 70/2015/TT-BGTVT.

Hai là, tổ chức bộ máy, năng lực của các cơ quan, cá nhân trong phòng,

chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB còn bất cập, chưa đồng đều. Công

tác quản lý nhà nước về TTATGTĐB còn bộc lộ nhiều yếu kém. Cấp ủy,

chính quyền các địa phương chỉ đạo chưa quyết liệt, chưa đồng bộ trong phối

hợp giữa các tổ chức để tuyên truyền vận động Nhân dân nâng cao ý thức

62

chấp hành Luật và những quy định của pháp luật về TTATGTĐB. Cán bộ

kiêm nhiệm, công tác an toàn giao thông chưa được phân công rõ trách nhiệm

dẫn tới không chủ động tham mưu giúp lãnh đạo triển khai đầy đủ các nhiệm

vụ về TTATGTĐB. BATGT là tổ chức phối hợp liên ngành, cán bộ kiêm

nhiệm, các thành viên BATGT hay thay đổi vị trí công tác thường phải bổ

sung kiện toàn, ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng công tác, thiếu tính chuyên

nghiệp trong quản lí.

Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

lớn, nhiều nội dung khó, phức tạp; trong khi đó, công chức thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính là kiêm nhiệm, chưa được

đào tạo kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về công tác này, do đó ảnh hưởng đến

chất lượng và tiến độ công việc đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp huyện, cấp

xã; công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong việc trao đổi thông tin,

sử dụng lực lượng phối hợp, đấu tranh, phòng, chống vi phạm pháp luật chưa

chặt chẽ, nhiều thủ tục bất cập; nhận thức pháp luật của một số cán bộ, công

chức về quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật còn hạn

chế; cán bộ đầu mối phụ trách, tham mưu của một số đơn vị còn thiếu.

Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGT

còn nặng tính hình thức, tác động chưa đủ mạnh tới nhận thức của người dân

trong việc tự giác chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ cũng như

thái độ ứng xử có văn hóa khi tham gia giao thông; ý thức tự giác chấp hành

pháp luật về TTATGT của người tham gia giao thông chưa cao, vi phạm quy

định, quy tắc giao thông còn nhiều, phổ biến là các lỗi: chạy quá tốc độ quy

định, chở quá số người cho phép đi sai làn đường, lấn đường, uống rượu bia

quá mức cho phép, vượt đèn đỏ… đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra phần

lớn các vụ tai nạn giao thông.

63

Bốn là, hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh

của phương tiện. Còn tồn tại nhiều "điểm đen" tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn

giao thông, hành lang an toàn giao thông chưa thực sự thông thoáng, hạn chế

tầm nhìn của lái xe, một số đoạn đường vừa khai thác, vừa thi công sửa chữa

nâng cấp, tiến độ thi công chậm, nhà thầu thiếu quan tâm đến các biện pháp

bảo đảm an toàn cho người và phương tiện qua lại; kinh phí phục vụ cho công

tác quản lý xử lý vi phạm hành chính cũng như phương tiện, thiết bị nghiệp

vụ phục vụ trong công tác xử lý vi phạm hành chính chưa được đảm bảo, do

đó, công tác quản lý nhà nước và xử lý vi phạm hành chính triển khai chưa

đồng bộ, hiệu quả, kịp thời để đáp ứng nhiệm vụ được giao và nhu cầu thực tế

trong công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của các ngành,

lĩnh vực.

Năm là, ý thức chấp hành pháp luật giao thông đường bộ của một bộ

phân nhân dân chưa cao, chưa đồng đều. Điều này gây khó khăn cho công tác

phòng, chống vi phạm, làm gia tăng khả năng vi phạm pháp luật giao thông

đường bộ.

64

Tiểu kết Chương 2

Trong vòng 5 năm (2015-2019) tổng số vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB do Công an tỉnh Quảng Bình phát hiện, xử lý là hơn 136 ngàn

trường hợp với số tiền xử phạt gần 163 tỷ đồng. Số lượng vi phạm có giảm

nhưng số vụ vi phạm nghiêm trọng tăng, số tiền phạt hàng năm tăng lên thể

hiện tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình vẫn tiềm

ẩn phức tạp. Công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh xử lý của các lực

lượng chức năng đã có những kết quả đáng ghi nhận. Đặc biệt, công tác

phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình đã có

những kết quả đáng ghi nhận từ thể chế, tổ chức bộ máy, công tác tuyên

truyền đến việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm. Những kết

quả đó góp phần quan trọng vào việc kiểm soát vi phạm, hạn chế tai nạn giao

thông, ổn định trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB chưa được kiểm soát hiệu quả, công tác tuần tra kiểm soát cơ

động chưa nhiều, chưa kiểm soát hết địa bàn nên phát hiện các hành vi nguy

hiểm trực tiếp gây tai nạn giao thông chưa nhiều; hiệu quả tuần tra, kiểm soát

phát hiện xử lý vi phạm chưa cao; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

về TTATGTĐB và xử lý vi phạm của các cấp, các ngành ở tỉnh Quảng Bình

hiệu quả chưa cao, chưa thực sự tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong ý

thức của người tham gia giao thông.

Từ việc nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng, những hạn chế và nguyên

nhân của những hạn chế sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng đưa ra những quan

điểm và giải pháp đồng bộ phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB

trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

65

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG

VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH QUẢNG BÌNH HIỆN NAY

3.1. Quan điểm phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình

Thứ nhất, phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh

Quảng Bình phải căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, nhất là dự báo

về tình hình vi phạm và tai nạn giao thông. Dự báo trong thời gian tới, đất

nước ta nói chung, tỉnh Quảng Bình nói riêng sẽ có nhiều đổi mới, tiếp tục

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế xã hội sẽ phát triển nhanh,

mạnh bền vững và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, tình hình an ninh,

chính trị, TTATGT có nhiều yếu tố mới, phức tạp hơn. Giao thông vận tải sẽ

phát triển mạnh mẽ cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế, với nhiều loại hình,

phương tiện giao thông tiếp tục gia tăng, trong khi kết cấu hạ tầng chưa thể

đáp ứng kịp, tổ chức giao thông thiếu khoa học, quỹ đất dành cho giao thông

(cả giao thông động và giao thông tĩnh) thiếu và mất cân đối, nhất là giao

thông đô thị.

Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, nhu cầu đi lại gia tăng thì

tình hình vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình vẫn

diễn biến phức tạp, trong đó vi phạm liên quan đến xe gắn máy vẫn chiếm tỷ

trọng lớn, thời gian vào các khung giờ cao điểm, các hành vi vi phạm phổ

biến vẫn là vi phạm các quy tắc về giao thông như các vi phạm về tốc độ; làn

tuyến; tránh, vượt, sử dụng rượu bia... Do đó, tình hình tai nạn vẫn có thể gia

tăng, nhất là tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng làm chết người.

Thứ hai, phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng

Bình phải có sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, trung ương và

66

địa phương, Nhà nước và Nhân dân, trong đó xác định vai trò quyết định của

các cấp, các ngành ở địa phương và người tham gia giao thông. Đặc biệt là ý

thức của người tham gia giao thông hiện nay chưa cao, chưa đồng đều. Công

tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về TTATGTĐB chưa duy trì

thường xuyên, liên tục, chưa phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa

bàn, chưa đến được cơ sở; người dân chưa nhận thức được việc chấp hành

pháp luật về bảo đảm TTATGTĐB vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi thiết

thực của mình, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi

ích chung của toàn xã hội.

Thứ ba, việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh

Quảng Bình phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp:

i) Hoàn thiện pháp luật về giao thông đường bộ; pháp luật về xử lý vi

phạm pháp luật về TTATGTĐB;

ii) Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát đảm bảo TTATGT, kiên quyết

xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về TTATGTĐB, nhất là các

hành vi vi phạm có nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông cao, như chạy quá tốc

độ quy định, đi không đúng phần đường, làn đường, vượt không đúng quy

định, sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông, không có giấy

phép lái xe…; tập trung lực lượng vào các tuyến trọng điểm, thời gian cao

điểm để xử lý, nhất là số đối tượng thanh, thiếu niên, người điều khiển xe mô

tô không đội mũ bảo hiểm; chở quá số người, uống rượu, bia trong khi điều

khiển phương tiện tham gia giao thông; chạy quá tốc độ, không chấp hành

hiệu lệnh dừng xe…; phối hợp với các lực lượng chức năng đấu tranh phòng,

chống có hiệu quả vi phạm pháp luật hoạt động trên tuyến giao thông;

iii) Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

về TTATGTĐB; đổi mới biện pháp và hình thức tuyên truyền nội dung sao

cho dễ hiểu, làm nổi bật được những vấn đề cấp bách về TTATGTĐB trong

67

từng thời điểm, phù hợp với từng đối tượng để tác động mạnh mẽ về ý thức

của mọi người khi tham gia giao thông, nhất là đối với đối tượng thanh, thiếu

niên điều khiển xe môtô, xe gắn máy tham gia giao thông… để Nhân dân, cán

bộ, công nhân viên chức, học sinh, sinh viên, thanh niên hiểu tự giác chấp

hành và đồng tình ủng hộ hỗ trợ lực lượng chức năng hoàn thành nhiệm vụ;

iv) Tổ chức khảo sát, kiến nghị các bất hợp lý trong tổ chức giao thông;

chú trọng tại các tuyến đường mới nâng cấp, mở rộng, kiến nghị việc giải

quyết các “điểm đen” tai nạn giao thông; tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công

nghệ cao, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện và xử lý các hành vi vi

phạm TTATGTĐB, đặc biệt là các hành vi vi phạm quy định về tốc độ, phần

đường, nồng độ cồn, sử dụng chất kích thích, ma túy…; phát huy hiệu quả tác

dụng camera giám sát an ninh trật tự trên các tuyến giao thông trọng điểm để

hỗ trợ công tác đảm bảo TTATGTĐB.

v) Hoàn thiện tổ chức, đổi mới hoạt động các cơ quan, tổ chức, cán bộ

chiến sĩ, công chức làm nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các

sai phạm trong quá trình thực hiện công vụ.

3.2. Giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao

thông đường bộ ở tỉnh Quảng Bình hiện nay

3.2.1. Những giải pháp chung cho cả nước

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Thứ nhất, cần xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc

Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công an, gồm 04

văn bản thuộc Chương trình chính thức là Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công

an quy định về phân cấp trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác bảo

đảm trật tự và TTATGT trên tuyến đường cao tốc; Thông tư của Bộ trưởng

Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17/2014/TT-BCA ngày 24/4/2014

68

của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về vận hành, quản lý, bảo trì, bảo vệ hệ

thống giám sát, xử lý vi phạm TTATGTĐB; Thông tư của Bộ trưởng Bộ

Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 53/2015/TT-BCA ngày 20/10/2015 của

Bộ trưởng Bộ Công an về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe trong Công

an nhân dân; Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về lắp đặt, sử

dụng và cấp giấy phép sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu

tiên và 05 văn bản thuộc Chương trình chuẩn bị gồm Nghị định về công tác

thống kê, báo cáo, chia sẻ dữ liệu tai nạn giao thông; Thông tư của Bộ trưởng

Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 73/2012/TT-BCA ngày 05/12/2012

của Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn giao

thông đường thủy của lực lượng Cảnh sát đường thủy; Thông tư của Bộ

trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung Thông tư số 77/2012/TT-BCA ngày

28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định quy trình điều tra giải quyết

tai nạn giao thông đường bộ của Cảnh sát giao thông đường bộ; Thông tư của

Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đăng ký xe; Thông tư của Bộ trưởng Bộ

Công an quy định tiêu chuẩn kỹ thuật hệ thống giám sát, xử lý vi phạm

TTATGTĐB.

Thứ hai, hiện nay và trong những năm tới, trên cơ sở Luật Giao thông

đường bộ năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các ngành hữu

quan cần rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật giao thông

đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật ở các lĩnh vực khác có liên quan

đến giao thông đường bộ để bổ sung, sửa đổi hoặc hủy bỏ những văn bản

không còn hiệu lực, ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm

tạo điều kiện thuận lợi cho Luật Giao thông đường bộ thực hiện một cách tốt

nhất. Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an

toàn đường bộ, về đường ngang qua đường sắt, về tăng cường quản lý giao

thông công cộng, về tổ chức giao thông; vai trò, trách nhiệm của chính quyền

69

cấp huyện, cấp xã; kinh phí đảm bảo an toàn giao thông đường bộ lâu dài. Đối

với việc lấy ý kiến xây dựng văn bản pháp luật của Nhân dân, các cơ quan

chức năng tỉnh Quảng Bình cần làm tốt công tác tổ chức, hướng dẫn Nhân

dân đóng góp ý kiến góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật giao thông

đường bộ. Một vấn đề đặt ra nữa khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao

thông đường bộ là phải đảm bảo được tính đồng bộ.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB, cụ thể:

i) Về nguyên tắc xử lý:

Sửa đổi một số quy định của Khoản 1, Điều 3, Luật xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 để đảm bảo tính chính xác, khoa học và phù hợp hơn; cụ thể:

Sửa đổi Điểm d, theo hướng bỏ nội dung quy định “… vi phạm hành chính

nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, vì nó mâu thuẫn với Điểm

b, Khoản 1, Điều 10 của Luật này. Hay việc tại Điểm e quy định: “Đối với

cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng

02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân”, cũng chưa thực sự phù hợp, bởi vi

phạm hành chính do tổ chức thực hiện thường có mức nguy hiểm hơn rất

nhiều so với vi phạm do cá nhân thực hiện. Vì vậy về vấn đề này nên quy

định như sau: Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền

đối với tổ chức ít nhất bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Việc quy

định từng mức phạt cụ thể do Chính phủ quy định trong các văn bản pháp luật

có liên quan [21, Tr.132].

ii) Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền, đối tượng bị xử lý

Về thẩm quyền: việc pháp luật quy định cụ thể các chức danh có thẩm

quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên thực

tế sẽ khó đảm bảo được tính phù hợp trong bối cảnh bộ máy Nhà nước đang

trong quá trình hoàn thiện và sắp xếp lại các đầu mối. Vì vậy, chỉ cần quy

70

định những vấn đề mang tính khái quát (ví dụ có thể dùng thuật ngữ Trưởng

Công an cấp huyện và tương đương, hoặc Trưởng phòng và tương đương là

đủ). Bên cạnh đó việc quy định thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn

cũng như đảm bảo thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ như hiện nay là không phù hợp (có thẩm quyền tịch

thu thì mới có thẩm quyền tạm giữ), dẫn đến tình trạng những vi phạm không

lớn nhưng phải chuyển lên cơ quan cấp trên để xử lý. Bên cạnh đó hiện thẩm

quyền xử lý của ở cơ sở, của cán bộ chiến sĩ đang làm nhiệm vụ còn thấp, kiến

nghị sửa đổi các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo hướng phân cấp mạnh hơn, tăng thẩm

quyền xử lý cho địa phương, cơ sở, người trực tiếp thi hành công vụ để hoạt

động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ được tiến

hành một cách nhanh chóng, kịp thời; giảm thiểu những phiền hà cho người vi

phạm cũng như giảm tải cho các cơ quan Nhà nước cấp trên.

Về đối tượng bị xử lý: Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành

chính năm 2012 (Điều 5) thì đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh

vực giao thông đường bộ là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên lãnh thổ Việt Nam. Qua đó đối với cá

nhân thì độ tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính là từ đủ 14 tuổi trở lên,

trong khi hiện nay việc trẻ em có độ tuổi từ 12 đến dưới 14 thường xuyên có

những hành vi vi phạm hành chính về giao thông đường bộ, nhưng các lực

lượng chức năng không thể xử phạt. Chính vì vậy để đảm bảo tính giáo dục,

răn đe và phòng ngừa chung, trong lĩnh vực giao thông đường bộ cần nghiên

cứu để quy định độ tuổi chịu trách nhiệm cho phù hợp. Cần quy định độ tuổi

chịu trách nhiệm hành chính có thể giảm xuống 12 tuổi, và với nhóm chủ thể

từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thì bị áp dụng hình thức xử phạt là buộc lao

71

động công ích hoặc nhắc nhở tại chỗ (tất nhiên pháp luật phải bổ sung hình

thức xử phạt này).

iii) Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử lý: Nên bỏ

hình thức xử phạt cảnh cáo mà thay vào đó là giáo dục, nhắc nhở tại chỗ (đối

với người chưa thành niên), hoặc phạt lao động công ích (đối với người đã

thành niên); còn đối với tổ chức thì không áp dụng hình thức xử phạt cảnh

cáo. Đối với phạt tiền, cần tăng mức phạt tiền đối với những hành vi gây ảnh

hưởng trực tiếp đến TTATGTĐB như: Chở quá tải trọng trên 100%, vi phạm

tốc độ hoặc đi xe máy vào đường cao tốc, điều khiển phương tiện lạng lách

trên đường; hay những hành vi xuất phát từ lỗi cố ý như: Đi vào đường cấm,

đường ngược chiều; điều khiển phương tiện mà không có giấy phép lái xe đối

với những phương tiện yêu cầu có giấy phép [21, Tr.126].

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật TTATGTĐB trên

cơ sở tách ra từ Luật Giao thông đường bộ hiện nay để điều chỉnh chuyên sâu

về công tác bảo đảm TTATGTĐB; quy định rõ trách nhiệm của các cấp, các

ngành, chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đảm bảo

TTATGTĐB (theo đúng nguyên tắc "một cơ quan thực hiện nhiều việc và một

việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính"

đúng với tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp

hành Trung ương Khóa XII) nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện.

Theo đó, việc ban hành Luật Trật tự, an toàn giao thông sẽ thống nhất

hoạt động quản lý nhà nước về TTATGTĐB; đảm bảo tính minh bạch, đồng

bộ, tạo cơ sở pháp lý thống nhất áp dụng các quy định về xử lý vi phạm giao

thông đường bộ; đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính; góp phần hoàn thiện cơ sở

pháp lý về bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

72

Dựa trên kết quả tổng kết 10 năm thi hành Luật Giao thông đường bộ

năm 2008 và tham khảo kinh nghiệm của quốc tế về các chính sách quản lý

TTATGT, Bộ Công an nghiên cứu và xác định 7 chính sách cơ bản được đánh

giá, bao gồm: Quy định cụ thể về hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ và

khoảng cách giữa các xe; quy định về đi đường bộ; thống nhất việc quản lý

phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; quy định

cụ thể về tổ chức, chỉ huy, điều khiển và giải quyết ùn tắc giao thông đường

bộ; quy định về giải quyết tai nạn giao thông đường bộ; quy định về giám sát

việc thi hành pháp luật và trách nhiệm pháp lý; vai trò, trách nhiệm quản lý

nhà nước về TTATGT.

Luật TTATGTĐB sẽ phải quy định cụ thể về phương tiện (khái niệm,

kiểu, loại, điều kiện tham gia giao thông của phương tiện), quy định cụ thể về

điều kiện của người điều khiển phương tiện để dễ vận dụng, thực hiện, đảm

bảo công tác quản lý, tránh việc do luật không quy định nên nhiều phương

tiện tham gia giao thông không được quản lý và sự tùy tiện trong việc chấp

hành pháp luật của người điều khiển phương tiện, gây khó khăn và tiềm ẩn

nhiều nguy cơ về tai nạn giao thông và mất an ninh, trật tự, vi phạm diễn ra

thường xuyên, phổ biến.

Quy định cụ thể hệ thống báo hiệu đường bộ, tốc độ và khoảng cách

giữa các xe tham gia giao thông đường bộ... một cách đơn giản, dễ hiểu nhất

để người tham gia giao thông dễ nhớ, dễ hiểu và thực hiện. Đồng thời, Luật

TTATGTĐB sẽ quy định khái niệm về xe cơ giới, xe thô sơ, xe tự chế, xe

công nông, xe máy kéo, xe máy điện, xe đạp điện nên có nhiều cách hiểu khác

nhau, gây khó khăn trong công tác thực thi pháp luật…

Một số quy định được thay đổi như Điều 30 và Điều 31 Luật Giao

thông đường bộ năm 2008 đang quy định người điều khiển mô tô, xe gắn

máy, xe đạp, xe thô sơ không được đi dàn hàng ngang và phải đi theo hàng

73

một. Việc đi hai hàng hay nhiều hàng sẽ không cần quy định đối với các tuyến

đường dành riêng cho loại phương tiện khi đó nếu tình trạng bề rộng mặt

đường đủ điều kiện sẽ tổ chức giao thông phù hợp theo hình thức này. Do đó,

trong trường hợp kết cấu hạ tầng giao thông Việt Nam đạt đến được mức độ

nhất định, trong Luật TTATGTĐB sẽ không cần quy định này nữa [30].

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể trong Luật Giao thông

đường bộ năm 2008 và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Cụ thể:

i) Quy định về biển báo hiệu đường bộ chưa phù hợp: Khoản 4 Điều 10

Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định biển báo hiệu đường bộ gồm

năm nhóm, tuy nhiên thực tế hiện nay phát sinh thêm nhóm biển mới "Nhóm

biển sử dụng trên các tuyến đường đối ngoại", nhóm biển này tuân thủ theo

các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhóm biển

báo quốc tế không có biển phụ hướng dẫn kèm theo dẫn đến nhiều người

tham gia giao thông không hiểu; ngoài ra Luật Giao thông đường bộ năm

2008 chỉ quy định biển báo mang tính nguyên tắc, không quy định cụ thể nên

phải ban hành văn bản dưới Luật để hướng dẫn thực hiện, không phù hợp với

xu hướng Luật hóa các quy định hiện nay (Luật quy định cụ thể, hạn chế mức

thấp nhất các văn bản dưới Luật).

ii) Quy định về tổ chức giao thông chưa phù hợp tình hình thực tiễn:

Khoản 2 Điều 37 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chỉ quy định Bộ

trưởng Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm tổ chức giao thông trên hệ

thống quốc lộ; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức

giao thông trên các hệ thống đường bộ thuộc phạm vi quản lý; không quy

định trách nhiệm tham gia tổ chức giao thông cho lực lượng Cảnh sát giao

thông, trong khi lực lượng Cảnh sát giao thông là lực lượng chủ yếu thực hiện

chỉ huy điều khiển giao thông và xử lý vi phạm hành chính về giao thông

đường bộ, vì vậy khi thực thi nhiệm vụ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay

74

lực lượng Cảnh sát giao thông thường là đơn vị chủ động đề xuất phối hợp

với các đơn vị của ngành giao thông, BATGT các địa phương để tiến hành

khảo sát, kiến nghị về công tác tổ chức giao thông; bên cạnh đó lực lượng

Cảnh sát giao thông có thẩm quyền trong việc tuần tra kiểm soát, xử lý vi

phạm, khám nghiệm, điều tra giải quyết tai nạn giao thông nhưng các ý kiến

tham gia của Cảnh sát giao thông không được các cơ quan chức năng giải

quyết, khắc phục theo thẩm quyền, nhiều kiến nghị không được tiếp thu, khắc

phục kịp thời.

iii) Không quy định hoặc quy định không cụ thể, không đầy đủ về các

nội dung: Nơi cho phép chuyển làn đường; độ tuổi người điều khiển xe đạp

điện, xe máy điện; đảm bảo an toàn khi chuyển hướng, không chú ý gây tai

nạn giao thông; quy tắc ưu tiên "rẽ phải - đi thẳng - rẽ trái"; cấm dùng chân

điều khiển vô lăng của phương tiện khi tham gia giao thông; cấm lùi xe trên

đường một chiều hoặc đường đặt biển cấm đi ngược chiều; nhường đường

cho các xe đi cùng chiều phía sau, khi chuyển hướng (nguy cơ xảy ra tai nạn

giao thông); nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông thô

sơ; các trường hợp phải chú ý quan sát.

iv) Một số quy định về TTATGTĐB của Công ước Viên 1968 mà Việt

Nam tham gia chưa được nội luật hóa vào Luật Giao thông đường bộ hiện hành,

cần phải khắc phục, như: Luật Giao thông đường bộ năm 2008 chỉ có quy định

người điều khiển xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy không

được sử dụng điện thoại di động còn người điều khiển ô tô không quy định;

tuy nhiên, Công ước Viên bắt buộc Luật quốc gia phải quy định người điều

khiển phương tiện không được phép sử dụng di động khi phương tiện đang di

chuyển. Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đang quy định xe ô tô phải có

trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế phía trước trong xe

ô tô phải thắt dây an toàn (Điều 9 khoản 2); tuy nhiên, Công ước Viên lại quy

75

định việc thắt dây an toàn là bắt buộc đối với người lái xe và hành khách đi trên

phương tiện cơ giới ngồi tại những chỗ có trang bị dây đeo an toàn [7].

Điều 30 và Điều 31 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đang quy

định người điều khiển mô tô, xe gắn máy, xe đạp, xe thô sơ không được đi

dàn hàng ngang và phải đi theo hàng một; tuy nhiên, việc đi hai hàng hay

nhiều hàng sẽ không cần quy định đối với các tuyến đường dành riêng cho

loại phương tiện khi đó nếu tình trạng bề rộng mặt đường đủ điều kiện sẽ tổ

chức giao thông phù hợp theo hình thức này. Do đó, trong trường hợp kết cấu

hạ tầng giao thông Việt Nam đạt đến được mức độ nhất định sẽ không cần

quy định này nữa.

Ngoài ra còn một số nội dung khác chưa phù hợp giữa Luật Giao thông

đường bộ năm 2008 với Công ước Viên 1968 như: Quy chuẩn kỹ thuật quốc

gia về hệ thống báo hiệu đường bộ, ký hiệu quốc gia trên xe rơ moóc, điều

kiện, kỹ thuật của phương tiện, quy tắc dành cho người đi bộ hiện nay đang được

bảo lưu.

v) Quy định về quản lý người điều khiển phương tiện bất cập: Luật

Giao thông đường bộ năm 2008 giao nhiệm vụ cho ngành giao thông vận tải

là cơ quan đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, quản lý về lao động (sử

dụng lái xe), và giao ngành Công an là cơ quan thực hiện nhiệm vụ tuần tra,

kiểm soát, xử lý vi phạm TTATGTĐB. Việc quản lý người điều khiển

phương tiện giao cho hai ngành quản lý nhưng hiện tại hai ngành lại chưa có

sự phối hợp chặt chẽ trong việc trao đổi thông tin về việc cấp, cấp lại giấy

phép lái xe và việc xử lý lái xe vi phạm dẫn việc khó kiểm soát được.

3.2.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của trung ương trong phòng, chống

vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 4/9/2012 của Ban Bí thư về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo TTATGT đường bộ, đường sắt,

76

đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông khẳng định: Công tác bảo

đảm TTATGT và khắc phục ùn tắc giao thông phải được xác định là một

nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy Đảng; phát huy sức mạnh của cả

hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của Nhân dân. Nâng cao hiệu lực,

hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TTATGT của các ngành chức năng và

chính quyền các cấp; tăng cường việc kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc

thực hiện của Đảng [6].

Như vậy về mặt quan điểm, chúng ta đã xác định rõ cấp ủy Đảng và

chính quyền địa phương có một vai trò vô cùng quan trọng trong bảo đảm

TTATGTĐB cũng như khắc phục ùn tắc giao thông. Tuy nhiên trên thực tế sự

lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cũng trách nhiệm của chính quyền địa phương

còn hời hợt, thiếu sâu sắc; công tác bảo đảm TTATGTĐB gần như được

khoán trắng cho lực lượng Cảnh sát giao thông và lực lượng Thanh tra ngành

giao thông vận tải vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, vì vậy trong thời gian tới để

phát huy tốt vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng cũng như trách nhiệm của chính

quyền địa phương trong công tác bảo đảm TTATGTĐB (trong đó có xử lý vi

phạm hành chính), cần phải thực hiện tốt một số nội dung sau: Phải xác định

được công tác bảo đảm TTATGTĐB là một trong những nhiệm vụ chính trị

quan trọng của Đảng bộ và chính quyền cần phải thực hiện tốt trong bất kỳ

thời điểm nào, giai đoạn nào. Trên tinh thần đó, cấp ủy Đảng phải xác định

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nhà nước của chính

quyền các cấp đối với công tác bảo đảm TTATGTĐB là nhiệm vụ trọng tâm,

thường xuyên, cấp bách, vì vậy về mặt chủ trương cần thiết đưa tiêu chí về

TTATGTĐB trở thành một trong những tiêu chí phân loại cũng như bình xét

các danh hiệu thi đua của cấp ủy, đơn vị và cá nhân có liên quan.

Các cấp uỷ Đảng, chính quyền phải quan tâm hơn nữa trong công tác

lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảm bảo TTATGTĐB, xác định đây là một trong

77

những nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, cấp bách và lâu dài. Từ đó chủ

động xây dựng, ban hành các Nghị quyết, Chương trình nhằm cụ thể hoá các

nội dung về việc đảm bảo TTATGTĐB thành các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm

vụ, giải pháp phù hợp với từng đơn vị, địa phương, trong từng giai đoạn. Định

kỳ kiểm điểm, sơ tổng kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện để rút ra bài

học kinh nghiệm và đề ra giải pháp cho thời gian tiếp theo. Tăng cường kiểm

tra, đôn đốc, kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, khắc phục những

khó khăn, vướng mắc trong công tác đảm bảo TTATGTĐB.

Người đứng đầu các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Thủ trưởng các cơ

quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm trước hết về tình hình TTATGTĐB và tổ

chức thực hiện công tác đảm bảo TTATGTĐB ở địa phương, đơn vị, cơ quan

mình. Để làm tốt được vấn đề này, các cấp ủy Đảng cần phải đưa nội dung

bảo đảm TTATGTĐB vào và trở thành một nội dung quan trọng trong các

Nghị quyết cũng như Chỉ thị, quán triệt sâu sắc các nội dung Nghị quyết và

Chỉ thị tới các cấp chính quyền và thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc

tổ chức thực hiện nội dung các Nghị quyết cũng như Chỉ thị. Đưa nội dung

kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị về công tác bảo đảm TTATGTĐB vào chương

trình kiểm tra, giám sát hàng năm; chủ trì phối hợp thường xuyên kiểm tra,

giám sát đối với cán bộ thuộc diện Cấp uỷ quản lý trong việc tham gia, chỉ

đạo công tác đảm bảo TTATGTĐB trên địa bàn. Đưa nội dung phổ biến, giáo

dục pháp luật về TTATGTĐB vào sinh hoạt định kỳ của Chi bộ Đảng, đoàn

thể, tổ chức chính trị - xã hội. Xác định rõ việc chấp hành pháp luật về

TTATGTĐB là một tiêu chí đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, cơ quan,

đơn vị, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, đoàn viên… nhằm quy định rõ trách

nhiệm quản lý nhà nước của các tổ chức, cá nhân về bảo đảm TTATGTĐB;

nghiêm cấm cán bộ, công chức can thiệp vào việc xử phạt vi phạm hành

78

chính; xử lý nghiêm đối với cán bộ, nhân viên vi phạm TTATGTĐB [21,

Tr.150].

3.2.2. Những giải pháp cho tỉnh Quảng Bình

3.2.2.1. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực bộ máy phòng, chống vi phạm

pháp luật về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Thứ nhất, tiếp tục kiện toàn và nâng cao năng lực của BATGT tỉnh

Quảng Bình, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn giao

thông ở địa phương.

Thứ hai, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự, Thanh tra giao thông phải

là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo đảm TTATGTĐB đã được quan tâm

tăng biên chế và trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Tuy nhiên, so

với yêu cầu còn thiếu, năng lực hạn chế, chưa có chính sách đãi ngộ thoả đáng,

nhất là kinh phí cho bảo đảm TTATGTĐB ở cấp xã, phường hầu như chưa có;

phương tiện, thiết bị kỹ thuật chưa đảm bảo, nhất là thiết bị công nghệ tiên tiến,

hiện đại được ứng dụng trong công tác bảo đảm TTATGTĐB còn hạn chế. Do

đó, trong thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp:

i) Tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ, công chức có khả

năng nắm bắt và hiểu biết sâu sắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực

TTATGTĐB. Những chủ thể này phải là những người không chỉ giỏi về

chuyên môn, nghiệp vụ mà còn có đạo đức trong sáng, tâm huyết với nghề

nghiệp, trung thực, khách quan, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, biết đặt pháp

luật lên hàng đầu khi thi hành nhiệm vụ. Giải pháp này đòi hỏi phải thực hiện

đồng bộ từ khi tuyển dụng, đặc biệt đối với ngành Công an, phải quán triệt

ngay từ khi tuyển sinh đến quá trình đào tạo và quá trình công tác. Đồng thời

thường xuyên bồi dưỡng, trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản liên quan

đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức để người thực thi

công vụ hiểu pháp luật và giải quyết công việc trên cơ sở pháp luật. Cán bộ,

79

công chức có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời các thông tin

pháp luật về TTATGT đến với Nhân dân. Phát huy tính chủ động của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong

việc lấy pháp luật làm nền tảng ứng xử trong việc giải quyết các mối quan hệ

xã hội. Đối với lực lượng Công an thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng

lực lượng Cảnh sát giao thông trong sạch vững mạnh, nhất là thực hiện Quyết

định số 607/QĐ-BCA của Bộ Công an quy định về tiêu chuẩn đạo đức của

Cảnh sát giao thông, những việc cần phải “Xây” và “Chống”. Quan tâm, thực

hiện tốt công tác đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ chiến sĩ, tăng cường

biên chế, trang thiết bị cho lực lượng Cảnh sát giao thông đủ sức đáp ứng yêu

cầu công tác trong tình hình mới. Đẩy mạnh phong trào chống tiêu cực trong

thi hành công vụ, tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán bộ, công chức, viên

chức, chiến sĩ và lực lượng thanh tra chuyên ngành nâng cao tinh thần trách

nhiệm, tính chuyên nghiệp trong thực thi nhiệm vụ bảo đảm TTATGT; có

chính sách khuyến khích, khen thưởng đối với cá nhân, tập thể có thành tích

và phê bình các cá nhân, đơn vị chưa hoàn thành nhiệm vụ [13, Tr.81].

ii) Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức, chiến sĩ Công an

trong công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Xác định

rõ trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình giải quyết công việc của

Nhân dân, của tổ chức, gắn trách nhiệm với quyền lợi, với công việc chuyên

môn của từng cán bộ, công chức trên cơ sở đầu việc được giao. Nghiên cứu xây

dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức

kết hợp với chế độ khen thưởng, bổ nhiệm và kỷ luật phù hợp. Coi trọng lợi ích

chính đáng của cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB để họ chuyên tâm vào công việc.

Chính sách đãi ngộ bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần

đối với lực lượng này có ý nghĩa quyết định đến tinh thần và chất lượng

80

của đội ngũ cán bộ. Vì thế, trong thời gian tới cần thiết phải hoàn thiện chế

độ, chính sách đặc thù đối với cán bộ làm công tác chuyên trách, trực tiếp,

kiêm nhiệm và những người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham

gia công tác đảm bảo TTATGT; chế độ khen thưởng, tôn vinh đối với

người có thành tích đặc biệt xuất sắc; hỗ trợ kịp thời đối với người bị thương

hoặc thân nhân người bị hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ.

iii) Tăng cường phối hợp giữa Thanh tra giao thông với các cấp và các

đơn vị, tổ chức có liên quan (như chính quyền địa phương, Cảnh sát giao thông,

Trung tâm Đăng kiểm xe cơ giới Quảng Bình và các lực lượng hỗ trợ khác)

thông qua quy chế cộng tác và phối hợp; tăng cường phát triển nguồn nhân lực

của lực lượng thanh tra, tăng cường trang thiết bị và điều kiện làm việc.

3.2.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên tuyền, phổ biến giáo dục pháp luật

và xây dựng văn hóa giao thông đường bộ

Thứ nhất, công tác tuyên truyền pháp luật được coi là một trong những

biện pháp quan trọng giúp người dân hiểu và tuân thủ pháp luật giao thông

đường bộ một cách nghiêm túc và có ảnh hưởng lâu dài. Do vậy công tác

tuyên truyền pháp luật giao thông đường bộ phải được các cấp các ngành của

tỉnh Quảng Bình quan tâm chỉ đạo, đồng thời các cấp, các ngành trong phạm

vi, chức năng nhiệm vụ của đơn vị cũng đã có nhiều hoạt động nhằm đưa

pháp luật giao thông đường bộ vào cuộc sống bằng nhiều hình thức phong

phú. Cùng với công tác tuyên truyền pháp luật, trình độ dân trí được nâng cao,

kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được hoàn thiện, phương tiện tham gia

giao thông giảm thì sẽ đạt được mục tiêu giảm vi phạm pháp luật giao thông

đường bộ, giảm tai nạn giao thông. Trong những năm tiếp theo để thực hiện

pháp luật giao thông đường bộ đường bộ có hiệu quả cao, các cấp, các ngành

trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình cần tiếp tục thực hiện thường

xuyên công tác tuyên truyền và cần tập trung vào một số hình thức tuyên

81

truyền. Những hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật muốn đạt

kết quả cao phải kết hợp giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối

tượng; kết hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội; kết hợp với giáo

dục và cưỡng chế; phải tiến hành thường xuyên, liên tục, có chương trình kế

hoạch cụ thể, phải xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên có đủ nhiệt huyết, đủ

trình độ hiểu biết pháp luật giao thông đường bộ, gương mẫu trong việc chấp

hành pháp luật giao thông đường bộ.

Thứ hai, tập trung tuyên truyền đến tận cơ sở, đơn vị trực thuộc về các

chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Trung ương và địa phương mình

về TTATGTĐB; nâng cao ý thức chấp hành các quy định về TTATGTĐB

đến từng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động bằng nhiều hình

thức phong phú, đa dạng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, mang lại hiệu quả cao.

Thường xuyên tổ chức thực hiện, nhân rộng phong trào “3 không”: Không lái

xe khi đã uống rượu, bia; không chạy xe vào đường cấm, lấn tuyến vượt ẩu;

không chạy xe quá tốc độ quy định” và “3 có”: Có đội mũ bảo hiểm khi đi xe

máy; Có bằng lái xe; có ý thức tham gia các hoạt động tự quản về

TTATGTĐB. Đoàn Thanh niên với vai trò tiên phong, chủ động đi đầu trong

tất cả các chương trình hành động, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động,

xây dựng ý thức “Văn hóa giao thông” và nếp sống văn minh đô thị trong

thanh niên. Phát huy và khơi dậy tinh thần “Đâu cần thanh niên có, đâu khó

có thanh niên”, thường xuyên xây dựng các mô hình sinh hoạt sinh động, đổi

mới các hoạt động phong trào tạo sân chơi lành mạnh để thu hút đông đảo

thanh niên tham gia; thông qua đó tổ chức, định hướng cho thanh niên trở

thành lực lượng gương mẫu, đi đầu trong chấp hành các quy định về

TTATGTĐB.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng văn hóa giao thông đường bộ. Thời gian qua,

mô hình “Cổng trường an toàn giao thông” được các ngành, đoàn thể, địa

82

phương trong tỉnh quan tâm chỉ đạo, xây dựng và thực hiện, mang lại hiệu

quả thiết thực, tạo sự chuyển biến tích cực về ý thức và hành vi của người

tham gia giao thông, đặc biệt là đối với phụ huynh và học sinh. Tuy nhiên, số

lượng các đơn vị, địa phương thực hiện mô hình “Cổng trường an toàn giao

thông” chưa nhiều, cần phát huy và nhân rộng nhiều hơn nữa, qua đó nâng

cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường, thầy cô giáo và cha mẹ học

sinh trong việc giáo dục, hướng dẫn học sinh thực hiện quy định pháp luật về

TTATGT.

Để tăng cường giải pháp bảo đảm TTATGT tại các trường học trong

thời gian tới, BATGT tỉnh vừa có Công văn số 134/BATGT yêu cầu Sở Giáo

dục và Đào tạo, BATGT các huyện, thị xã, thành phố chỉ đạo các nhà trường

phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh thường xuyên nhắc nhở, giáo dục

con em mình tự giác chấp hành pháp luật về TTATGT, quy tắc giao thông;

đội mũ bảo hiểm đạt chuẩn khi tham gia giao thông bằng xe mô tô, xe gắn

máy, xe đạp điện; không điều khiển xe mô tô, xe gắn máy khi chưa đủ tuổi,

không có giấy phép lái xe; vận động người lớn phải đội mũ bảo hiểm cho trẻ

em từ 06 tuổi trở lên khi tham gia giao thông, sử dụng mũ bảo hiểm bảo đảm

chất lượng, cài quai đúng quy cách; khi đưa đón con em mình đến trường học

phải chấp hành quy định về dừng xe, đỗ xe trên đường bộ. Bên cạnh đó, Hiệu

trưởng nhà trường cần tổ chức giáo dục về TTATGT tại các trường cho phù

hợp để đảm bảo an toàn cho học sinh, giáo viên.

Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo, BATGT các địa phương cần tổ chức

ký cam kết giữa chính quyền - nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục

về an toàn giao thông cho học sinh; tiếp tục xây dựng và nhân rộng mô hình

“Cổng trường an toàn giao thông”. Tập trung việc giáo dục an toàn giao thông

cho học sinh, sinh viên từ bậc tiểu học đến đại học; đưa công tác tuyên truyền

pháp luật an toàn giao thông vào chương trình chính khóa, nhằm giáo dục kiến

83

thức cơ bản về pháp luật an toàn giao thông và rèn luyện ý thức chấp hành

pháp luật nói chung và pháp luật về an toàn giao thông nói riêng cho các bậc

học sinh trên toàn tỉnh, bảo đảm phù hợp với từng độ tuổi, trên cơ sở sự phát

triển tâm lý và thể chất của đối tượng cũng như điều kiện kinh tế - xã hội, môi

trường của Quảng Bình.

Đối với đội ngũ lái xe chuyên nghiệp: Các công ty vận tải phải thường

xuyên tổ chức giáo dục về an toàn giao thông, nội dung bao gồm: Tuyên

truyền, phổ biến hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà nước về kinh

doanh vận tải; tăng cường tập huấn kiến thức pháp luật giao thông, kỹ năng và đạo

đức nghề nghiệp cho các lái xe ở các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ôtô. Gắn

trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị kinh doanh vận tải bằng xe ôtô trong

công tác này. Thường xuyên thảo luận nhóm về các mối nguy hiểm trên đường, các

thông tin về các điểm nguy hiểm trên tuyến, thường xuyên kiểm tra kỹ năng của lái

xe, xây dựng các chế tài đối với lái xe.

3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật về

trật tự an toàn giao thông đường bộ

Một là, tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp

thời mọi hành vi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ. Trong thực hiện

tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm, lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt

quan trọng; cần huy động tối đa lực lượng tham gia bảo đảm TTATGT, huy

động cả lực lượng Công an xã, tình nguyện viên, dân phòng… không để trống

địa bàn, dù ở nông thôn hay vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục duy trì kết quả thực

hiện bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe gắn máy, không được lơi lỏng

trong xử lý; cần hướng dẫn người dân thực hiện đội mũ bảo hiểm đúng cách

để đảm bảo an toàn. Như vậy để đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật an toàn

giao thông không những chỉ làm tốt công tác giáo dục, mà phải coi trọng

những biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật. Để tăng cường công tác tuần

84

tra, kiểm soát người và phương tiện và cũng như nâng cao hiệu quả công tác

này cần xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông trong sạch vững mạnh. Mặt

khác, trong công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật an toàn giao

thông cũng phải thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm các chuyên đề, các đợt

cao điểm để đề ra các biện pháp, giải pháp đồng thời phát huy kết quả đạt

được và khắc phục những thiếu sót trong quá trình thực hiện công vụ. Cùng

với việc tăng cường trang thiết bị cho các lực lượng chức năng, thì biên chế

cho các đơn vị cũng phải luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình phát

triển chung đặc biệt là với lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải tỉnh

Quảng Bình.

Hai là, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát của Cảnh sát giao

thông, phát hiện xử lí nghiêm hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn.

Nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm phạm

TTATGTĐB có nguyên nhân từ hành vi uống rượu bia quá nồng độ cồn.

Không lấy việc đền bù, khắc phục thiệt hại của người có lỗi với nạn nhân để

miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Hằng năm đưa một số vụ tai nạn giao

thông đường bộ điển hình ở các địa phương ra xét xử lưu động, nhất là

những vụ có nguyên nhân từ hành vi uống rượu, bia quá nồng độ cồn quy

định gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về người và tài sản nhằm mục

đích giáo dục chung.

Ba là, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của lực

lượng thanh tra giao thông tỉnh Quảng Bình. Để thực hiện hiệu quả hơn nhiệm

vụ này trong thời gian tới, lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải phải tập

trung tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định về tải

trọng xe, kích thước thùng chở hàng... tới lái xe, chủ xe, doanh nghiệp vận tải.

Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về bốc xếp hàng hóa lên xe ô

tô khi tham gia giao thông trên đường bộ tại các doanh nghiệp, đơn vị trên địa

85

bàn tỉnh. Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm về tải trọng phương tiện tại

Trạm kiểm tra tải trọng xe lưu động.

Đặc biệt, lực lượng Thanh tra Sở Giao thông vận tải phải tập trung

kiểm tra, xử lý các vi phạm kích thước thành thùng chở hàng và tải trọng xe ô

tô tải một cách liên tục, trong đó chú trọng tâp trung kiểm tra, xử lý tại các

khu vực mỏ vật liệu, nơi tập kết hàng hóa các tuyến đường có nhiều phương

tiện vận tải hàng hóa trên địa bàn tỉnh, nhằm ngăn chặn kịp thời các xe ô tô

chở hàng quá tải trọng trước khi lưu thông trên đường. Phối hợp với các lực

lượng chức năng khác kịp thời phát hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi

phạm theo đúng quy định của pháp luật

3.2.2.4. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông, thiết bị kỹ thuật nhằm quản lý

đường bộ hiện đại, khoa học, văn minh

Thứ nhất, cần trang bị các công cụ, phương tiện hiện đại cho các cơ

quan thanh tra giao thông, Cảnh sát giao thông, nhằm phục vụ có hiệu quả

công tác tuần tra, kiểm soát và xử lí vi phạm pháp luật về TTATGTĐB. Triển

khai mạnh mẽ, quyết liệt đồng bộ việc thực hiện giai đoạn II Quyết định

1856/QĐ-TTg về giải tỏa hành lang đường bộ, đường sắt. Xây dựng kế hoạch

xử lý các điểm đen tiềm ẩn nguy cơ tai nạn giao thông trên toàn địa bàn, trình

Ủy ban nhân dân tỉnh sớm có quyết định phê duyệt và triển khai thực hiện.

Việc thực hiện các quy định của pháp luật về kết cấu hạ tầng an toàn

giao thông nhằm phát triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng an toàn giao thông là

một yêu cầu quan trọng, cần được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Sở Giao

thông vận tải quan tâm, tập trung chỉ đạo. Kết cấu hạ tầng giao thông đường

bộ trên toàn tỉnh Quảng Bình những năm gần đây đã được đầu tư khá hoàn

thiện và bền vững, tuy nhiên đất dành cho đường bộ và hành lang an toàn

đường bộ vẫn còn ít, từ đó làm tăng nguy cơ vi phạm pháp luật an toàn giao

thông, làm tăng tai nạn giao thông và luôn tiềm ẩn nguy cơ gây ùn tắc giao

86

thông đặc biệt là trong giờ cao điểm. Hiện nay, nhiều điểm giao nhau giữa

đường quốc lộ, các tuyển đường có tuyến đường sắt chạy cắt ngang, với lưu

lượng phương tiện tham gia giao thông ngày càng đông nên thường xuyên

xảy ra ùn tắc. Ngoài ra, việc sử dụng đường, hành lang an toàn đường bộ theo

quy định hiện nay trong tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Các cấp ủy Đảng, chính

quyền, các ban, ngành, đoàn thể xã hội, tổ chức chính trị trong toàn tỉnh cần

tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành quản lý bảo vệ và lập lại trật

tự hành lang an toàn đường bộ.

Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai, xây dựng, tăng

cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình quản lý sử dụng đất đai, xây dựng

nhà ở, lều quán, xây dựng khu công nghiệp, khu dân cư, khu kinh tế dọc các

tuyến đường bộ, đấu nối đường nhánh trực tiếp vào các tuyến quốc lộ, phát

hiện và xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đất đai, pháp

luật xây dựng Khu Quản lý đường bộ và Sở Giao thông vận tải phải soạn thảo

được quy chế phối hợp với chính quyền địa phương về công tác quản lý, bảo

vệ, giải tỏa hành lang an toàn đường bộ trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.

Các đơn vị quản lý đường bộ phải phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền

địa phương thống kê, phân loại công trình nằm trong hành lang an toàn đường

bộ theo mốc thời gian, đồng thời lập dự toán kinh phí đền bù hỗ trợ giải tỏa

các công trình nằm trong hành lang an toàn đường bộ theo mốc thời gian, các

công trình khác nằm trong hành lang an toàn đường bộ và công trình gây mất

an toàn giao thông báo cáo Tổng cục Đường bộ Việt Nam.

Thứ ba, tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ nghiệp vụ của các bộ

phận làm công tác đến bù giải phóng mặt bằng, công tác quản lý đường bộ.

Thành lập các ban giải phóng mặt bằng chuyên trách, các tổ công tác xử lý vi

phạm hành lang an toàn đường bộ tại các địa phương là cơ quan tham mưu

giúp việc cho đoàn công tác liên ngành của tỉnh nhằm đảm bảo tính chuyên

87

môn, nâng cao chất lượng của công tác quản lý, giải tỏa chống lấn chiếm hành

lang an toàn đường bộ. Nâng cao chất lượng lập, thẩm định, phê duyệt dự án

đền bù giải phóng mặt bằng trong xây dựng công trình giao thông. Từ những

giải pháp trên tỉnh Quảng Bình cần tập trung xây dựng một chiến lược cho sự

phát triển giao thông đường bộ trong toàn tỉnh trên cơ sở của sự phát triển

kinh tế- xã hội, gia tăng dân số và nhu cầu thực tế tại địa phương. Trong đó

tập trung vào một số nội dung cụ thể như sau:

i) tiếp tục ưu tiên huy động các nguồn lực đầu tư hoàn chỉnh một bước

cơ bản kết cấu hạ tầng giao thông, đảm bảo liên hoàn, liên kết giữa các

phương thức vận tải giữa các các huyện, thành phố trong tỉnh và kết nối với

các trung tâm kinh tế trọng điểm của đất nước.

ii) hoàn thành đầu tư nâng cấp, mở rộng các quốc lộ; xúc tiến việc đầu

tư xây dựng cầu vượt tại "điểm đen" giao thông.

iii) cải tạo, nâng cấp đồng bộ các tuyến đường trong tỉnh; xây dựng và

hoàn thành các công trình cầu trên sông của tỉnh.

Cụ thể:

Chú trọng công tác quy hoạch và đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống

kết cấu hạ tầng giao thông bảo đảm tính đồng bộ và hoàn thiện theo đúng các

quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật để từng bước nâng cao an toàn giao thông

trên toàn mạng lưới. Trong đó, việc quan tâm trước mắt là tập trung cải tạo để

xóa bỏ các điểm đen, các vị trí nguy hiểm tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tai nạn giao

thông cao; tránh tình trạng gia tăng tai nạn giao thông do chậm tiến hành cải

tạo các vị trí điểm đen.

- Cải tạo các điểm đen, các vị trí tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra tai nạn

giao thông: Tập trung cải tạo để xóa bỏ toàn bộ các điểm đen, các vị trí có

nguy cơ cao về tai nạn giao thông trên các tuyến Quốc lộ, đường Hồ chí Minh

88

hai nhánh Đông, Tây và hệ thống đường tỉnh; ưu tiên thực hiện trước đối với

các tuyến khu vực trung tâm có mật độ phương tiện giao thông lớn.

- Xử lý hệ thống cầu yếu: Nâng cấp toàn bộ cầu yếu còn lại trên mạng

Quốc lộ và Đường tỉnh trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

- Cải tạo, nâng cấp các đoạn tuyến hạn chế năng lực vận tải: Thực hiện

nâng cấp 27Km đoạn Tân Ấp - Đồng Lê từ cấp V lên đạt cấp IV hai làn xe;

nâng cấp 14,7Km hiện là đường cấp V và 35,9Km hiện là đường cấp IV lên

cấp III, xây dựng mới đoạn tránh thị trấn Ba Đồn; quốc lộ 12C: Mở rộng đoạn

qua thị trấn Đồng Lê theo quy hoạch đô thị…

- Xây dựng đường tránh tại các đô thị: xây dựng đường tránh thị trấn

Ba Đồn của Quốc lộ 12A quy mô cấp III hai làn xe; đảm bảo tất cả các quốc

lộ khi đi qua các đô thị đều có xây dựng đường tránh, ưu tiên đường tránh thị

trấn Hoàn Lão, thị trấn Quán Hàu của Quốc lộ 1, đường tránh thị trấn Đồng

Lê của Quốc lộ 12C [23].

Thứ năm, giải pháp về vốn cho đầu tư cơ sở vật chất.

i) Tăng cường phối hợp với các bộ, ngành trung ương trong việc triển khai

thực hiện theo quy hoạch các dự án lớn về phát triển kết cấu hạ tầng trên địa

bàn tỉnh bằng nguồn vốn Ngân sách Trung ương như: Xây dựng mới tuyến bộ

ven biển; nâng cấp quốc lộ 1A; giải toả hành lang an toàn đường bộ, bảo trì

các tuyến Quốc lộ; cải tạo điểm có nguy cơ cao xảy ra tai nạn giao thông trên

hệ thống đường bộ của tỉnh; cung cấp trang thiết bị hiện đại cho lực lượng

làm công tác bảo đảm TTATGTĐB của tỉnh; phối hợp tốt với Bộ Giao thông

vận tải và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc tổ chức các khóa học đào tạo

nâng cao kiến thức về an toàn giao thông cho các cán bộ công tác trong lĩnh

vực an toàn giao thông của tỉnh bằng nguồn vốn Trung ương.

ii) Ngân sách tỉnh: Cân đối nguồn Ngân sách tỉnh kết hợp nguồn vốn hỗ

trợ từ Ngân sách Trung ương hàng năm để thực hiện đầu tư xây dựng hệ

89

thống kết cấu hạ tầng giao thông của tỉnh như: Cải tạo, nâng cấp hệ thống

đường tỉnh; xây dựng mới để thay thế các cầu yếu có nguy cơ mất an toàn

giao thông; xây dựng mới các cầu cho khu vực dân cư đang bị cô lập về giao

thông do chưa có cầu qua sông.

Nguồn thu từ xử phạt vi phạm: Sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí từ xử

phạt theo quy định hiện hành để tăng cường các hoạt động của các lực lượng

chức năng cũng như xây dựng các công trình bảo đảm an toàn giao thông.

Nguồn thu phí bảo trì đường bộ: Sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả

nguồn vốn bảo trì đường bộ theo quy định của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu

quả khai thác, đảm bảo TTATGT trên hệ thống đường bộ.

iii) Nguồn kinh phí huy động từ các doanh nghiệp: Xây dựng các cơ chế,

chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là các công ty quản lý/vận

hành giao thông, các công ty bảo hiểm sản xuất và phân phối xe, công ty sản

xuất và phân phối thiết bị an toàn giao thông đường bộ, và các công ty kỹ

thuật và tư vấn an toàn đường bộ, đóng góp tiền, tham gia tài trợ cho các dự

án, công trình bảo đảm an toàn giao thông và các chiến dịch tuyên truyền...

Một số công ty khác như các công ty xăng dầu, nhà máy sản xuất ô tô và xe tải

trở thành nhà bảo trợ nhằm nâng cao hình ảnh công ty hoặc tạo ra thương hiệu

sản phẩm an toàn của công ty, có thể huy động đóng góp bằng tiền hoặc trực

tiếp xây dựng các công trình bảo đảm an toàn giao thông đường bộ. Việc đóng

góp vừa bảo đảm xã hội hoá công tác an toàn giao thông, vừa mang lại hiệu

quả cho doanh nghiệp trong công tác quảng bá thương hiệu.

iv) Nguồn kinh phí khác từ các tổ chức trong nước và nước ngoài và từ

đóng góp của người dân: Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù khuyến khích,

huy động các nguồn lực xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ phát triển

hạ tầng giao thông, xây dựng hệ thống giám sát, phát hiện vi phạm về

TTATGT. Thực hiện xã hội hóa công tác bảo đảm TTATGT; huy động kinh

90

phí đóng góp từ nhân dân: Xây dựng những chính sách, để khuyến khích

người dân tham gia đóng góp kinh phí bằng nhiều hình thức cho việc bảo đảm

an toàn giao thông.

3.2.2.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của

chính quyền địa phương trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông

đường bộ

Đây là một trong những nội dung cơ bản của Chỉ thị số 18-CT/TW

ngày 04/9/2012 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với công tác bảo đảm TTATGTĐB, đường sắt, đường thủy nội địa và

khắc phục ùn tắc giao thông. Kết luận số 45 của Ban Bí thư khóa XII.

Các cấp ủy địa phương ở Quảng Bình cần xây dựng kế hoạch tổ chức

thực hiện Chỉ thị số 18 của Ban Bí thư khóa XI và Kết luận số 45 của Ban Bí

thư khóa XII; thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực

hiện. Chỉ đạo các tổ chức đảng, nhất là cấp ủy cơ sở, chi bộ, tổ chức chính trị

- xã hội và các cơ quan, đơn vị, trường học, doanh nghiệp thực hiện thường

xuyên, liên tục, có hiệu quả Chỉ thị số 18 và Kết luận số 45; cốt lõi là giáo dục

và yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải tự giác nêu gương chấp hành nghiêm

các quy định của pháp luật về TTATGT, vận động người dân có ý thức khi

tham gia giao thông và tích cực tham gia bảo đảm TTATGT, xây dựng nếp

sống văn hóa giao thông, văn minh trong cộng đồng dân cư.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước của chính quyền đối với công tác bảo đảm TTATGT và khắc

phục ùn tắc giao thông. Công tác bảo đảm TTATGT và khắc phục ùn tắc giao

thông phải được xác định là một nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy

đảng; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia tích cực của

nhân dân. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về

91

TTATGT của các ngành chức năng và chính quyền các cấp; tăng cường việc

kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện.

Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát các đảng bộ, chi bộ trực thuộc

để đôn đốc, hướng dẫn thực hiện và xem xét biểu dương, khen thưởng, xử lý

trách nhiệm đối với cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy, đơn vị trong việc tổ chức

thực hiện Chỉ thị số 18 và Kết luận số 45 của Ban Bí thư.

92

Tiểu kết Chương 3

Từ thực trạng tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB và phòng,

chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình, trong thời gian

tới các cấp, các ngành ở trung ương đến địa phương cần nghiêm túc, tích cực

triển khai đồng bộ các giải pháp từ việc hoàn thiện chính sách, pháp luật đến

tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của chính quyền trung ương.

Đối với địa phương, cần kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt

động của bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý, phòng ngừa, phát hiện và xử

lý vi phạm pháp luật về TTATGTĐB, trong đó tập trung vào các lực lượng

nòng cốt như Công an, Thanh tra giao thông; đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả

công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ

trong nhà trường, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật ATGTĐB

trong các tầng lớp Nhân dân và người tham gia giao thông; tăng cường công

tác thanh tra, kiểm soát, phòng ngừa vi phạm và tai nạn giao thông; thu hút và

cân đối các nguồn vốn nhằm đồng bộ cơ sở hạ tầng, kỹ thuật đường bộ và

tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp ủy Đảng địa phương.

93

KẾT LUẬN

Vi phạm pháp luật về TTATGTĐB có tác hại rất lớn, cả trước mắt và

lâu dài, nhiều mặt: Kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Vi phạm pháp luật về

TTATGTĐB là nguyên nhân trực tiếp, cơ bản dẫn đến tai nạn giao thông. Vì

vậy, việc phòng, chống vi phạm pháp luật về TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình là cấp bách, khách quan.

Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật về TTATGTĐB

diễn ra khá phổ biến, ở cả phương tiện cơ giới, thô sơ, vi phạm về quy tắc

giao thông, người điều khiển phương tiện, phương tiện, hạ tầng giao thông…

công tác đấu tranh, phòng chống đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, vi phạm vẫn phức tạp, tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra

theo hướng ngày càng nghiêm trọng, thể chế quản lý còn bất cập, bộ máy

quản lý chưa hiệu quả, công tác tổ chức thực hiện pháp luật về TTATGTĐB

còn gặp nhiều khó khăn.

Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi quyết tâm lớn của cả hệ thống chính

trị, Nhà nước – Doanh nghiệp – Nhân dân trong việc phòng, chống vi phạm

pháp luật về TTATGTĐB, trong đó tập trung hoàn thiện thể chế, kiện toàn và

nâng cao năng lực bộ máy, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, xây dựng

đồng bộ hạ tầng giao thông đường bộ và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm

soát.

Việc xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp và chính sách

TTATGTĐB đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai; giảm tai nạn giao thông

và tránh ùn tắc giao thông đường bộ một cách bền vững trên địa bàn toàn tỉnh,

tiến tới một xã hội có giao thông an toàn, văn minh, hiện đại và thân thiện.

Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đáp ứng nhu cầu giao thông

vận tải và bảo đảm an toàn giao thông trên toàn bộ mạng lưới giao thông của

94

tỉnh, góp phần ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, nâng cao vị thế của Quảng

Bình trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo Báo cáo

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

2. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2016), Báo cáo Báo cáo

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

3. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo Báo cáo

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

4. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo Báo cáo

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

5. Ban An toàn giao thông tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo Báo cáo

công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông, Quảng Bình.

6. Ban Bí thư, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao

thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc

giao thông.

7. Ban chấp hành trung ương Đảng (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04

tháng 09 năm 2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác bảo đảm TTATGTĐB, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục

ùn tắc giao thông, Hà Nội.

8. Hoàng Đình Ban (Chủ nhiệm), Quản lý trật tự an toàn giao thông ở

Việt Nam - những vấn đề đặt ra để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế

xã hội trong tình hình mới, Đề tài khoa học cấp cơ sở, năm 2013

9. Bộ Công an, Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Giao thông đường

bộ năm 2008 về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ của lực

lượng Công an nhân dân, 2019.

10. Bộ Giao thông vận tải, Quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với

một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ (Cẩm nang

96

dành cho Lực lượng làm công tác Thanh tra giao thông đường bộ), Nhà

xuất bản Giao thông vận tải, 2016.

11. Chính phủ, Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

12. Chính phủ, Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

13. Trần Sơn Hà, Luận án tiến sĩ Quản lý công Quản lý nhà nước về trật

tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Học viện Hành

chính Quốc gia, 2016.

14. Trương Diệu Loan, Luận án tiến sĩ An ninh và trật tự xã hội Giải pháp

nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ theo chức năng của lực lượng Cảnh sát giao thông,

Học Viện Cảnh sát nhân dân, 2015.

15. Trần Hồng Phong, Luận văn Tổ chức thực hiện pháp luật về

TTATGTĐB ở tỉnh Quảng Bình", Học viện Hành chính Quốc gia, 2018. 16. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2015) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.

17. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2016) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.

18. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2017) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.

19. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2018) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình.

20. Phòng Cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Bình (2019) Báo cáo tổng kết

tình hình tai nạn giao thông, tỉnh Quảng Bình. 21. Quốc hội, Luật Giao thông đường bộ năm 2008. 22. Quốc hội, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

97

23. Đinh Phan Quỳnh, Luận án Tiến sĩ Luật học Xử lý vi phạm hành chính

trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo pháp luật Việt Nam hiện nay,

Học viện Khoa học xã hội, 2018.

24. Đặng Quang Tuân (Chủ nhiệm), Phổ biến giáo dục pháp luật về an

toàn giao thông - qua thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Đề tài khoa học cấp

tỉnh, 2013.

25. Từ điển bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội, 2005.

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Quyết định số 970/QĐ-UBND ngày

02 tháng 5 năm 2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình Về việc

phê duyệt Chiến lược bảo đảm TTATGTĐB tỉnh Quảng Bình đến năm

2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

27. Viện Ngôn ngữ, Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển Tiếng Việt,

Nxb Đà Nẵng.

28. http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2019-12-13/phat-trien-

giao-thong-duong-bo-hien-dai-tang-tinh-ket-noi-80279.aspx

29. http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/2789/Ban-ve-khai-niem-tai-

nan-giao-thong-duong-bo-o-Viet-Nam

30. https://www.quangbinh.gov.vn/ 31. https://baoquangbinh.vn/phap-luat/201907/thanh-tra-so-giao-thong-

van-tai-tang-cuong-kiem-soat-tai-trong-va-thay-doi-thung-cho-hang-

cua-xe-tai-2168582/

32. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/nam-2020-tiep-tuc-phan-dau-

giam-tai-nan-giao-thong-tu-05---10-ca-03-tieu-chi-so-voi-nam-

2019.htm

33. http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Bo-Cong-an-de-xuat-

xay-dung-Luat-Trat-tu-an-toan-giao-thong-duong-bo-563070/

98

https://sgtvt.quangbinh.gov.vn/3cms/thanh-tra-so-giao-thong-van-tai-tang- cuong-kiem-soat-tai-trong-va-thay-doi-thung-cho-hang-cua-.htm

99

PHỤ LỤC 1: CÁC VỊ TRÍ NGUY HIỂM CÓ NGUY CƠ CAO XẢY RA TAI NẠN GIAO THÔNG CẦN CẢI TẠO TUYẾN (Kèm theo Quyết định số 970 /QĐ-UBND ngày 02 /5/2013 của UBND tỉnh Quảng Bình)

TT Quốc lộ

Lý trình

Vị trí Ghi chú

1

Quốc lộ 1

Km601+00 - Km603+00 T+P

2

Quốc lộ 1

Km636+00 - Km638+00 T+P

3

Quốc lộ 1

Km645+00 -Km648+00 T+P

4

Quốc lộ 1

Km673+00 - Km674+00 T+P

5

Quốc lộ 1

Km707 - Km709

T+P

1

HCMĐ

T+P

Km923+00 - Km930+200

2

HCMĐ

Km860+700-Km861

Phải

3

HCMĐ

T+P

Km919 +400 - Km919+600

1

Quốc lộ 12C

Km65+400

Phải

2

Quốc lộ 12C

Km77+950

Trái

3 4

Quốc lộ 12C Quốc lộ 12C

Km82+200 Km82+500

Phải Phải

1

Km33+00 - Km59+00

HCMT Đèo U bò

2

HCMT Cổng trời Làng Ho

Km152+500 - Km169+00

1

Quốc lộ 12A

Km4+950

Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn gồ giảm tốc. Đầu tư làm lại mặt đường bằng BTXM, bạt đồi mở rộng tầm nhìn Đầu tư mở rộng nền mặt đường, lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn gồ giảm tốc. Nắn tuyến Đầu tư lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, sơn lại vạch sơn phân làn, gồ giảm tốc. Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Mở rộng bụng đường cong, tăng cường thêm hệ thống cảnh báo nguy hiểm, lắp đặt hệ thống hộ lan kép về phía taluy âm Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn và phá tường chắn cũ, đổ bê tông tường chắn mới Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Bạt taluy dương mở rộng tầm nhìn Mở rộng bán kính đường cong nằm, đào bạt mái mở rộng tầm nhìn, Lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, hộ lan tôn sóng. Mở rộng bán kính đường cong nằm, đào bạt mái mở rộng tầm nhìn, Lắp đặt hệ thống đèn cảnh báo, hộ lan tôn sóng. Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc

PHỤ LỤC

100

TT Quốc lộ

Lý trình

Vị trí Ghi chú

2

Quốc lộ 12A

Km6+200

3

Quốc lộ 12A

Km6+200 - Km8+00

4

Quốc lộ 12A

Km19+300

5

Quốc lộ 12A

Km21+100

6

Quốc lộ 12A

Km25+00 - Km29+00

7

Quốc lộ 12A

Tại Km 30+150

8

Quốc lộ 12A

Km 31+157 - Km31+310

9

Quốc lộ 12A

Tại Km 34+250

10 Quốc lộ 12A

Tại Km 46+200

11 Quốc lộ 12A

Km62+600 - Km64+00

12 Quốc lộ 12A

Km69+00 - Km70+00

13 Quốc lộ 12A

Km 72+500- Km75+00

1

Quốc lộ 12A

2

Quốc lộ 12A

3

Quốc lộ 12A

Km113+737 - Km114+600 Km121+200 - Km121+600 Km129+100 - Km131+200

1

Quốc lộ 15

Km 456+130

2

Quốc lộ 15

Km 459+722 - Km460+204

3

Quốc lộ 15

Tại Km462+600

4

Km557+700

P

Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Cải tạo cua ngoặt và mở rộng tầm nhìn Mở rộng nền đường và mặt đường Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Lắp dựng hộ lan mềm (Hộ lan 2 tầng) Bổ sung biển báo đi chậm và vạch sơn giảm tốc Đầu tư mở rộng bán kính.

1

Km0+00

P

Đầu tư mở rộng bán kính.

Quốc lộ 15 Đường tỉnh 563

101

PHỤ LỤC 2: Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2015 so với năm 2014. (Nguồn: [13]).

So sánh cùng kỳ năm 2014

TT Địa bàn

Số vụ

Số người chết

Số người bị thương

%

%

%

Tăng/ Giảm (+/-) -12 -1 -1 +2 -5 0 -6 +5 -18

5 -41 9 -17 -44 13 +47 13 15 -61 15 -19 -50 16 +53 26 112 -20

28 -71 55 -10 -7 9 +18 23 19 -25 28 0 -27 8 +24 69 239 -14

So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -22 +4 -7 +11 -38 -7 -7 +24 -42

-44 +8 -44 +92 -67 -20 -47 +53 -15

15 47 90 96

vụ vụ vụ vụ

So sánh cùng kỳ năm 2014 Tăng/ Giảm (+/-) -16 23 1 Minh Hóa 2 Đồng Hới -11 54 14 -11 3 Tuyên Hóa 4 Ba Đồn 25 +8 5 Quảng Ninh -34 22 Lệ Thủy -7 6 29 7 Quảng Trạch 15 -15 8 Bố Trạch 66 +23 Tổng 248 -63 (Xếp thứ tự từ địa phương có số người chết ít nhất đến nhiều nhất) + Tuyến đường xảy ra tai nạn: - QL: - Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô: - Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định: - Không nhường đường: - Sử dụng rượu, bia: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Dừng đỗ: - Khác:

+ Thời gian xảy ra tai nạn: - 0h - 6h: - 6h - 12h: - 12h - 18h: - 18h - 24h: + Độ tuổi gây tai nạn: - Dưới 18 tuổi: - Từ 18 đến 27 tuổi: - Từ 27 đến 55 tuổi: - Trên 55 tuổi:

170 vụ vụ 27 vụ 21 vụ 23 vụ 7 t/h 89 t/h 150 t/h 9 vụ 21 vụ 80 vụ 8 vụ 18 vụ 13 vụ 36 vụ 2 vụ 24 vụ 7 vụ 1 vụ 38

vụ 14 vụ 89 127 vụ vụ 18

102

PHỤ LỤC 3: Phân tích tai nạn giao thông tại các địa bàn năm 2016 so với năm 2015. (Nguồn: [13]).

TT Địa bàn

Số vụ

người chết

%

%

%

Số người bị thương

1 Quảng Ninh 11

So sánh cùng kỳ năm 2015 Số Tăng/ Giảm (+/-) -11

-50

8

So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-) -7

-47

9

So sánh cùng kỳ năm 2015 Tăng/ Giảm (+/-) -10

-53

Tuyên Hóa

-78 -48

-3 -2

-3 -8

2 12

10 11

11 17

-7 -11

-21 -32

-23 -15

-4

55

22

-15

-14

-15

-10

-20

0

0

-3

13

-19

0

8

0

Lệ Thủy

70 +16 38 +9 29 +6

70 -22 +60 51 +100 28

+30 7 +31 24 +26 10

+15 +23 0

-2 +9 +5

+27 +82 0

247 -1

235

-7

-1

-6

-4

+ Thời gian xảy ra tai nạn:

2 3 Ba Đồn 4 Bố Trạch 56 5 Quảng Trạch 15 6 Đồng Hới 7 8 Minh Hóa Tổng -2 105 (Xếp thứ tự từ địa phương có tỷ lệ số vụ, số người chết, số người bị thương ít nhất đến nhiều nhất) + Tuyến đường xảy ra tai nạn: - Quốc lộ:

162 vụ - 0h - 6h:

16

vụ

17 41 12 15

vụ vụ vụ

43 95 93

104

vụ - 6h - 12h: vụ - 12h - 18h: vụ - 18h - 24h: vụ t/h

- Đường tỉnh: - Nội thị: - Nông thôn: - Khác: + Phương tiện gây ra tai nạn: - Ô tô: - Mô tô:

130

t/h

13

t/h

+ Độ tuổi gây tai nạn:

36

11

68

12

12

- Khác: + Nguyên nhân: - Tốc độ: - Không đúng phần đường: - Tránh xe: - Vượt xe: - Chuyển hướng sai quy định:

14

vụ - Dưới 18 tuổi: vụ - Từ 18 đến 27 tuổi: vụ - Từ 27 đến 55 tuổi: vụ - Trên 55 tuổi: vụ

vụ vụ 88 133 vụ vụ 15

103

26

5

2

- Không nhường đường: - Quy trình thao tác lái xe: - Do người đi bộ: - Không Giấy phép lái xe:

2

vụ vụ vụ vụ

1

69

vụ vụ

- Sử dụng rượu, bia - Khác:

104