ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ VÂN ANH

TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TÁC LƢU TRỮ

TẠI TỔNG CÔNG TY ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lƣu trữ học

Hà Nội - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ VÂN ANH

TỔ CHỨC, QUẢN LÝ CÔNG TÁC LƢU TRỮ

TẠI TỔNG CÔNG TY ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lƣu trữ học

Mã số: 60 32 24

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Thị Phụng

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nghiên cứu của Luận văn là khách quan, trung thực và chưa từng

công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các trích dẫn trong luận văn đều có

nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ

Trần Thị Vân Anh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 11

Chƣơng 1: THÀNH PHẦN, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA TÀI LIỆU

LƢU TRỮ HÌNH THÀNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY

ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM ................................................................................ 11

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam .. 11

1.1.1. Lịch sử Đường sắt Việt Nam giai đoạn (1881–1954) ............................ 11

1.1.2. Lịch sử Đường sắt Việt Nam giai đoạn (1954 – đến nay) ...................... 12

1.2. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty đƣờng

sắt Việt Nam ........................................................................................................ 15

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn ........................................................ 15

1.2.2. Cơ cấu tổ chức ........................................................................................ 16

1.3. Thành phần, nội dung, ý nghĩa tài liệu lƣu trữ hình thành trong hoạt

động của Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam .................................................. 18

1.3.1. Thành phần tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của Tổng công

ty Đường sắt Việt Nam ..................................................................................... 18

1.3.2. Nội dung tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam ......................................................................................... 20

1.3.3.Ý nghĩa tài liệu lưu trữ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam .............. 24

Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 29

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, QUẢN

LÝ CÔNG TÁC LƢU TRỮ TẠI TỔNG CÔNG TY ĐƢỜNG SẮT VIỆT

NAM (nghiên cứu tại Tổng công ty và một số đơn vị trực thuộc Tổng công

ty có trụ sở tại thành phố Hà Nội) .................................................................... 31

2.1. Lý luận chung về tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ ................................ 31

2.1.1. Một số khái niệm ..................................................................................... 31

2.1.2. Nội dung tổ chức, quản lý công tác lưu trữ ............................................ 32

2.1.3. Sự cần thiết phải tổ chức, quản lý công tác lưu trữ ............................... 36

2.2. Quy chế pháp lý của Việt Nam và các nƣớc về tổ chức, quản lý công tác

lƣu trữ trong doanh nghiệp ............................................................................... 38

2.2.1. Quy chế pháp lý của Việt Nam về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

trong doanh nghiệp ........................................................................................... 38

2.2.2. Quy chế pháp lý của các nước về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong

doanh nghiệp .................................................................................................... 41

2.3. Thực trạng tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ tại Tổng công ty Đƣờng

sắt Việt Nam ........................................................................................................ 46

2.3.1. Tổ chức bộ phận có chức năng tham mưu và tổ chức thực hiện công tác

lưu trữ ............................................................................................................... 46

2.3.2. Tổ chức tuyển dụng và bố trí nhân sự làm công tác lưu trữ .................. 51

2.3.3. Ban hành văn bản quy định về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ .......... 53

2.3.4. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cán bộ lưu trữ .......................................... 55

2.3.5. Thực hiện thống nhất chuyên môn, nghiệp vụ lưu trữ ............................ 57

2.3.6. Xây dựng kho tàng, trang thiết bị bảo quản TLLT. .............................. 68

2.3.7. Báo cáo, thống kê về lưu trữ theo quy định ............................................ 70

2.3.8. Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác lưu trữ. ....... 72

Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 74

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC,

QUẢN LÝ CÔNG TÁC LƢU TRỮ TẠI TỔNG CÔNG TY ĐƢỜNG SẮT

VIỆT NAM .......................................................................................................... 76

3.1. Nhận xét và đánh giá về tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ tại Tổng công

ty Đƣờng sắt Việt Nam....................................................................................... 76

3.1.1. Ưu điểm................................................................................................... 76

3.1.3. Nhược điểm ............................................................................................. 77

3.2. Nguyên nhân dẫn tới hạn chế của hoạt động tổ chức, quản lý công tác

lƣu trữ tại Tổng công ty Đƣờng sắt Việt Nam ................................................. 78

3.2.1. Nguyên nhân từ phía Tổng công ty Đường sắt Việt Nam ....................... 79

3.2.2. Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý Nhà nước về công tác lưu trữ ... 80

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ .......... 83

3.3.1. Nhóm giải pháp tổng thế ........................................................................ 83

3.3.2. Giải pháp quan trọng và cần thiết nhất – Chuẩn hóa trình độ, chuyên

môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác lưu trữ. ................................................. 89

Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................... 94

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 98

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 104

DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT VIẾT TẮT VIẾT ĐẦY ĐỦ

DN Doanh nghiệp 1

DNNN Doanh nghiệp Nhà nước 2

ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn 3

ĐSVN Đường sắt Việt Nam 4

KHKT Khoa học kỹ thuật 5

TLLT Tài liệu lưu trữ 6

TCT Tổng công ty 7

TCT ĐSVN Tổng công ty Đường sắt Việt Nam 8

XH Xã hội 9

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tài liệu lưu trữ là tài sản vô cùng quý báu của dân tộc, bởi vì nó chứa

đựng những thông tin quá khứ, ghi lại các thành tựu trong lao động của nhân

dân qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, những sự kiện lịch sử hoặc những cống

hiến to lớn của các anh hùng dân tộc, các nhà khoa học và văn hóa nổi tiếng.

Khối tài liệu này chính là nguồn thông tin có tính chính xác cao vì nó là bản

chính, bản gốc của những tài liệu có giá trị. Do đó người ta có thể sử dụng

chúng vào nhiều mục đích khác nhau, đem lại nhiều giá trị trong các hoạt

động của con người.

Nhận thức được điều đó ngay từ những ngày đầu của Nhà nước dân chủ

nhân dân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác lưu trữ.

Trong Thông đạt số 1C/VP ngày 03 tháng 01 năm 1946 gửi các Bộ trưởng,

Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: Tài liệu lưu trữ “có giá trị đặc biệt về phương

diện kiến thiết Quốc gia”[26] và nêu rõ: cấm các cơ quan, công sở, viên chức

tự tiện hủy bỏ hồ sơ, tài liệu lưu trữ, “những hồ sơ hoặc công văn không cần

dùng sau này sẽ phải gửi về Sở Lưu trữ công văn thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục

để tàng trữ”[26]. Điều đó cho thấy từ rất sớm, Nhà nước ta đã nhận thức được

tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ và công tác lưu trữ. Bước đầu Đảng và Nhà

nước đã có những chủ trương, biện pháp để tổ chức, quản lý tập trung thống

nhất tài liệu lưu trữ sau này.

Phát biểu tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định của Ban Bí

thư trung ương Đảng về Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê

Khả Phiêu – nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tài

liệu lưu trữ phải được quản lý tập trung thống nhất trong hệ thống các cơ

quan lưu trữ của Đảng cộng sản và của Nhà nước nhằm bảo vệ an toàn và

1

khai thác sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ vì lợi ích của dân tộc và của

cách mạng” [27;tr.2]. Điều này đòi hỏi ngành lưu trữ phải nêu cao tinh thần tự

lực, thường xuyên học hỏi và không ngừng cố gắng trong quá trình hoạt động

của mình. Trước hết cần chú ý đến công tác tổ chức, quản lý, bởi vì quản lý

tốt công tác này không những phục vụ tốt cho công tác của các cấp lãnh đạo

mà còn giúp cho việc thu thập, lưu giữ và cung cấp thông tin cho mọi hoạt

động trong đời sống xã hội, bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý của các

cơ quan tổ chức và cá nhân trong xã hội được tiến hành thường xuyên, đạt

hiệu quả cao. Hơn nữa, đây là công việc liên quan đến nhiều đơn vị, tổ chức

và cá nhân, vì vậy nắm vững và thực hiện nghiêm túc việc tổ chức, quản lý

công tác lưu trữ là yêu cầu bắt buộc không chỉ đối với các cơ quan nhà nước mà

còn với cả tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân.

Đối với cán bộ làm công tác lưu trữ thì kiến thức về tổ chức, quản lý công

tác lưu trữ càng hết sức cần thiết, không những giúp họ hiểu về chức năng,

phương pháp và hiệu quả của công tác tổ chức, quản lý một ngành một lĩnh vực,

một cơ quan tổ chức mà còn là một trong những hành trang cần thiết đối với các

hoạt động tác nghiệp văn thư lưu trữ vì các khâu nghiệp vụ là kết quả của công tác

tổ chức quản lý.

Tổng cục Đường sắt được thành lập theo quyết định số 505/TTg ngày 6-

4-1955 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 14/5/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có quyết định số 158/QĐ-TTg

chuyển Tổng cục đường sắt thành Liên hiệp Đường sắt Việt nam. Để phù hợp

với tình hình sản xuất kinh doanh mới, ngày 4/3/2003, Thủ tướng Chính phủ

đã ra quyết định số 34/QĐ- TTg, chuyển Liên hiệp Đường sắt Việt nam thành

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh

theo mô hình Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91). Ngày 13/11/2013

2

Chính phủ ban hành Nghị định số 175/2013/NĐ-CP về Điều lệ quy định tổ

chức và hoạt động của TCTĐSVN như sau: Trực tiếp kinh doanh vận tải,

đóng vai trò của một doanh nghiệp dịch vụ vận tải; Quản lý, sửa chữa, bảo trì

cơ sở hạ tầng đường sắt; chế tạo, đóng mới, đại tu, sửa chữa lớn và sản xuất

các phương tiện vận tải, thiết bị, phụ tùng chuyên ngành.

Thực hiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác văn thư, lưu trữ;

lưu trữ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam gần đây đã có nhiều thay đổi như:

Chỉnh lý khoa học kỹ thuật khối tài liệu được thu thập và bổ sung vào kho,

trang bị cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho công tác thu thập, bổ sung và bảo

quản tài liệu, ban hành được một số văn bản quy định về công tác văn thư, lưu

trữ, thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ văn thư, lưu trữ...

Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác lưu trữ của toàn Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế về mặt tổ chức, quản lý công

tác lưu trữ như: chưa ban hành hệ thống văn bản hoàn chỉnh về công tác lưu

trữ, công tác lưu trữ ở nhiều đơn vị chưa được quan tâm đúng mức mà chỉ coi

đây là công việc sự vụ đơn thuần; chưa thấy được vị trí, ý nghĩa và tầm quan

trọng của công tác lưu trữ; chưa có cán bộ lưu trữ chuyên trách, cán bộ lưu trữ

chưa được đào tạo bài bản do đó kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp

ứng được yêu cầu đ òi hỏi của sự nghiệp đổi mới công tác lưu trữ; chưa tiến

hành kiểm tra, đánh giá công tác lưu trữ một cách thường xuyên...Từ đó dẫn

đến những hậu quả không thể tránh khỏi là tài liệu bị thất lạc, mất mát, hư

hỏng và việc phục vụ khai thác tài liệu không đạt hiệu quả cao.

Từ thực tế trên, tác giả đã quyết định chọn vấn đề: “Tổ chức, quản lý

công tác lƣu trữ tại Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam” làm luận văn thạc

sỹ chuyên ngành “Lưu trữ học” của mình. Thông qua đề tài này, tác giả hy

vọng các cấp lãnh đạo, quản lý trong ngành đường sắt hiểu và quan tâm đến

công tác lưu trữ của cơ quan mình nhiều hơn nữa nhằm hoàn thiện công tác

lưu trữ của Tổng Công ty Đường sắt nói riêng, hướng tới sự nghiệp lưu trữ

3

nói chung.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Thực hiện đề tài, chúng tôi đặt ra những mục tiêu sau:

Thứ nhất: Khái quát những vấn đề lý luận và hệ thống các quy định hiện

hành về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ.

Thứ hai: Khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, quản

lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt

Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu trong phạm vi Tổng công ty Đường sắt Việt Nam từ

năm 2003 đến nay. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian nên phạm vi khảo sát

tập trung cơ quan Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và một số đơn vị trực

thuộc có trụ sở tại Hà Nội.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Khái quát lịch sử hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức tại Tổng công

ty Đường sắt Việt Nam

- Tìm hiểu về thành phần, nội dung các loại văn bản, tài liệu hình thành

trong hoạt động tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và phân tích những ý

nghĩa của khối tài liệu này đối với nền kinh tế - xã hội nói chung và đối với

doanh nghiệp nói riêng.

4

- Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ.

- Khảo sát thực trạng tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam.

- Đánh giá và nhận xét những hiệu quả, ưu điểm, hạn chế và phân tích

các nguyên nhân của những hạn chế trong tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý công tác

lưu trữ trong doanh nghiệp này.

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tổ chức, quản lý công tác văn thư, lưu trữ của doanh nghiệp là một

hướng nghiên cứu được rất nhiều độc giả quan tâm. Đã có một số công trình

nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này, dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng

một số vấn đề còn chưa được thống nhất. Cụ thể là các công trình nghiên cứu

như: luận văn thạc sỹ, khóa luận tốt nghiệp, niên luận, báo cáo khoa học đề

cập đến vấn đề này song chỉ ở một khía cạnh hay ở một nội dung cụ thể của

công tác lưu trữ. Luận văn thạc sỹ “Tổ chức quản lý công tác lưu trữ của các

tổng công ty 91” của tác giả Nguyễn Thị Kim Bình không đi sâu nghiên cứu

các giải pháp nghiệp vụ cụ thể của công tác lưu trữ ở các Tổng công ty 91 mà

chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp tổ chức quản lý công tác lưu trữ trong

các doanh nghiệp này, bao gồm: công tác chỉ đạo và tổ chức, công tác thu

thập TLLT công tác tổ chức khoa học TLLT, công tác kho tàng, khai thác sử

dụng TLLT và của các Tổng công ty 91 vào Lưu trữ lịch sử. Luận văn thạc

sỹ của tác giả Nguyễn Văn Báu với đề tài:“Công tác văn thư, lưu trữ trong

doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986

- 2006” cũng đã nghiên cứu về thực trạng công tác văn thư, lưu trữ tại một số

doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây nhất

có luận văn thạc sỹ của Trần Vũ Thành: “Tổ chức và quản lý công tác lưu trữ

5

trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (nghiên cứu các doanh

nghiệp trên địa bàn Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai)”, tác giả nghiên cứu về

vấn đề tổ chức quản lý công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu

tư nước ngoài (nghiên cứu các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Biên

Hòa - Đồng Nai).

Trên tạp chí “Lưu trữ Việt Nam” cũng đã có nhiều bài nghiên cứu về vấn

đề trên, chẳng hạn như: “Suy nghĩ về công tác lưu trữ của doanh nghiệp trong

thời kỳ đổi mới” của tác giả Nguyễn Trọng Biên - Tạp chí Lưu trữ Việt Nam

số 3/2000; bài “Thu thập tài liệu của các đơn vị sản xuất, kinh doanh vào Lưu

trữ - Thực trạng và giải pháp” của PGS.TS Vũ Thị Phụng, hay bài “Một số

biện pháp bước đầu nhằm thực hiện quản lý nhà nước đối với công tác lưu

trữ của các doanh nghiệp” của tác giả Nguyễn Thị Kim Bình, cả hai đều được

đăng trên Tạp chí Văn thư – Lưu trữ Việt Nam số 5/2004. Cùng với những

bài viết này còn có bài viết đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học lần thứ hai

của Khoa Lưu trữ học và Quản trị Văn phòng nhân kỷ niệm 5 năm thành lập

Khoa và 35 năm đào tạo cán bộ lưu trữ ở Việt Nam, đó là bài “TLLT của các

doanh nghiệp ở Việt Nam và những vấn đề khoa học cần nghiên cứu” của

TS.Vũ Thị Phụng. Hội thảo khoa học “Khai thác và phát huy giá trị của tài

liệu lưu trữ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn” do Trường ĐH

Khoa học Xã hội và Nhân văn tổ chức tháng 12/2009 có bài viết “TLLT của

doanh nghiệp với sự phát triển kinh tế Việt Nam” của ThS. Nguyễn Thị Kim

Bình... Các bài viết đã chỉ ra thực trạng của việc thực hiện các nhiệm vụ mang

tính cấp thiết trong công tác tổ chức quản lý công tác lưu trữ doanh nghiệp và

phần nào cho chúng ta thấy được giá trị vốn có của TLLT hình thành trong

họat động của các doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định khối tài liệu đó là một

thành phần quan trọng thuộc Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam để từ đó có

những biện pháp thiết thực nhằm tổ chức quản lý công tác lưu trữ thật tốt

6

phục vụ nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài của xã hội.

Qua đây có thể khẳng định được rằng vấn đề tổ chức, quản lý công tác

lưu trữ tại doanh nghiệp đã có công trình nghiên cứu nhưng chưa có công

trình nào đi sâu nghiên cứu về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng

Công ty Đường sắt Việt Nam. Vì vậy, luận văn của chúng tôi có kế thừa

nhưng không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khác.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp luận

Thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là phương pháp

luận mang tính chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Phương pháp

này được tác giả sử dụng để phân tích, nhìn nhận và đánh giá một cách khách

quan về tình hình thực tiễn của hoạt động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam. Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận

trên, tác giả nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp này.

6.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Tác giả sử dụng phương pháp này để thực hiện việc thu thập, tổng hợp

và phân tích hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức, quản lý công tác

lưu trữ trong cơ quan, đơn vị của doanh nghiệp. Dựa trên các số liệu và các

thông tin thu thập được trong quá trình khảo sát, tác giả thực hiện việc tổng

hợp, phân tích và đưa ra các nhận định trong đề tài.

6.3. Phương pháp so sánh, hệ thống

Phương pháp so sánh, hệ thống được tác giả sử dụng trong việc so sánh,

đối chiếu thực tiễn hoạt động tổ chức, quản lý tài liệu lưu trữ trong doanh

nghiệp với cơ sở lý luận của lưu trữ học Việt Nam. Từ kết quả so sánh đó, tác

giả hệ thống hóa thành các đặc điểm nổi bật của hoạt động này trong Tổng

7

Công ty Đường sắt Việt Nam.

6.4. Phương pháp thu thập thông tin qua phiếu khảo sát và xử lý phiếu

khảo sát

Phương pháp này được tác giả sử dụng để phát phiếu khảo sát ý kiến

của những cán bộ, nhân viên đang làm công tác văn thư, lưu trữ tại Tổng công

ty Đường sắt Việt Nam và các đơn vị trực thuộc Tổng công ty có trụ sở đóng

trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở kết quả của phiếu khảo sát, tác giả

thực hiện việc xử lý và lập các bảng số liệu khảo sát.

6.5. Phương pháp phỏng vấn

Phương pháp này được tác giả sử dụng để tiếp xúc và phỏng vấn đại diện

của một số cán bộ, nhân viên làm công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt

Việt Nam và các đơn vị trực thuộc Tổng công ty có trụ sở đóng trên địa bàn

thành phố Hà Nội về các biện pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong cơ

quan, đơn vị của Tổng công ty.

7. Các nguồn tƣ liệu chính đƣợc sử dụng

Thực hiện đề tài này, tác giả thu thập và sử dụng các nguồn tài liệu chủ

yếu như: sách chuyên khảo và giáo trình giảng dạy về ngành văn thư, lưu trữ

như: giáo trình Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ của tác giả Đào Xuân

Chúc, Nguyên Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm, giáo trình

Nghiệp vụ Lưu trữ cơ bản (dùng trong các trường THCN) của PGS.TS Vũ

Thị Phụng, Nguyễn Thị Chinh; Các đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về

công tác văn thư, lưu trữ trong các doanh nghiệp của Th.S Nguyễn Văn Báu,

Th.S Nguyễn Thị Kim Bình, Th.S Lã Thị Hồng, Th.S Trần Vũ Thành. Nguồn

tư liệu thứ ba tác giả sử dụng là các bài viết trên Tạp chí Văn thư, Lưu trữ và

một số báo cáo của các Hội thảo khoa học trong nước và quốc tế có nội dung

liên quan đến công tác văn thư, lưu trữ doanh nghiệp. Ví dụ như bài viết:

“Một số biện pháp bước đầu nhằm thực hiện quản lý Nhà nước đối với công

8

tác lưu trữ của các doanh nghiệp” của Th.S Nguyễn Thị Kim Bình trên Tạp

chí Văn thư, lưu trữ Việt Nam. Nguồn tư liệu chính thứ năm là các sách dịch

từ tiếng nước ngoài của Cục văn thư, lưu trữ Việt Nam và các tác giả thuộc

Trung tâm nghiên cứu khoa học văn thư, lưu trữ thuộc Cục. Ví dụ như cuốn

“Thực tiễn lưu trữ Pháp tập I và tập II của Cục Lưu trữ Pháp. Một nguồn tư

liệu chủ yếu nữa được tác giả dùng là các văn bản của Tổng công ty Đường

sắt Việt Nam và các đơn vị trực thuộc Tổng công ty có trụ sở đóng trên địa

bàn thành phố Hà Nội quy định về hoạt động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

trong chính doanh nghiệp này. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các văn bản pháp

luật liên quan đến công tác văn thư, lưu trữ của doanh nghiệp.

8. Đóng góp của đề tài

Về lý luận: Khẳng định thêm vai trò và sự cần thiết của việc tổ chức,

quản lý công tác lưu trữ đối với các cơ quan nói chung và trong các doanh

nghiệp nói riêng.

Về thực tế: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả

việc tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo

cho Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, tài liệu cho các học viên, sinh viên

tham khảo khi nghiên cứu về lĩnh vực này.

9. Bố cục của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục. nội dung của luận văn được chia

thành ba chương như sau:

Chƣơng 1: Thành phần, nội dung và ý nghĩa của tài liệu lƣu trữ

hình thành trong hoạt động của Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam

Chƣơng 2: Cơ sở lý luận và thực trạng tổ chức, quản lý công tác lƣu

trữ tại Tổng công ty Đƣờng sắt Việt Nam (nghiên cứu tại Tổng công ty và

một số đơn vị trực thuộc Tổng công ty có trụ sở đóng trên địa bàn thành

9

phố Hà Nội).

Chƣơng 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý công

tác lƣu trữ tại Tổng công ty Đƣờng sắt Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của

các thầy (cô) giáo, cán bộ, chuyên viên, nhân viên của TCTĐSVN và một số

đơn vị trực thuộc Tổng công ty nơi tôi đến khảo sát và đặc biệt là sự định

hướng, giúp đỡ của PGS.TS Vũ Thị Phụng – người đã hướng dẫn tôi hoàn

thành luận văn này. Nhân đây tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới quý thầy

(cô), bạn bè trong lớp cao học khóa 2010 – 2015, đồng nghiệp, gia đình và cô

giáo hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Do điều kiện thời gian và trình độ bản thân có hạn nên luận văn không

tránh khỏi một số thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng

góp của các thầy (cô), bàn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

Tác giả

10

Trần Thị Vân Anh

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: THÀNH PHẦN, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA TÀI LIỆU

LƢU TRỮ HÌNH THÀNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG

TY ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam

Đường sắt Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp lâu đời của

Việt Nam. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881 bằng việc khởi công

xây dựng tuyến Đường sắt đầu tiên đi từ cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ

Lớn dài 13 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam là vào ngày 20

tháng 7 năm 1885. Những năm sau đó, mạng lưới Đường sắt tiếp tục được

triển khai xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam theo công nghệ đường sắt

của Pháp với khổ đường ray một mét. Thời kỳ chiến tranh, Hệ thống Đường

sắt bị hư hại nặng nề. Kể từ năm 1986, Chính phủ Việt Nam tiến hành khôi

phục lại các tuyến đường sắt chính và các ga lớn, đặc biệt là tuyến Đường sắt

Bắc Nam [18; tr.9]

1.1.1. Lịch sử Đường sắt Việt Nam giai đoạn (1881–1954)

1.1.1.1. Giai đoạn trước 1945

- Năm 1902, Pháp xây dựng xong Đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng;

- Năm 1902, Pháp xây dựng xong Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng;

- Năm 1906, Pháp xây dựng xong Đường sắt Hà Nội – Lào Cai;

- Năm 1931, Pháp xây dựng xong Đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt;

- Năm 1933, Pháp xây dựng xong Đường sắt Sài Gòn – Lộc Ninh;

- Năm 1899 - 1936, Pháp xây dựng xong tuyến Đường sắt Bắc Nam.

1.1.1.2. Giai đoạn 1945 - 1954

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 28 tháng 8 năm

1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Chính thức ký Quyết định thành lập Bộ Giao

11

thông Công chính thuộc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong

đó có Sở Hỏa Xa - Cơ quan Quản lý Nhà nước và khai thác về Đường sắt Việt

Nam. Và từ đây, Hệ thống Đường sắt Việt Nam đã thực sự trở thành tài sản

của người Việt Nam, phục vụ người dân nước Việt [18, tr.120].

1.1.2. Lịch sử Đường sắt Việt Nam giai đoạn (1954 – đến nay)

1.1.2.1. Giai đoạn 1954 - 1975

Ngày 6/4/1955 Tổng cục Đường sắt Việt Nam được thành lập theo

Quyết định số: 505/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Cục Đường sắt

trực thuộc Bộ Giao thông và Bưu điện (trước đó là Bộ Giao thông Công

chính). Cơ cấu của Tổng Cục Đường sắt bao gồm:

- Văn phòng Tổng Cục Đường sắt;

- Cục Cầu đường Đường sắt;

- Nhà máy Xe lửa Gia Lâm;

- Cục Vận chuyển Đường sắt;

- Cục Kiến thiết Cơ bản Đường sắt;

- Ban Chỉ huy Quân sự Đường sắt;

- Ty Công an Đường sắt;

- Ty Y tế Đường sắt;

- Ty Thông tin Tín hiệu Đường sắt;

- Trường Đảng Tổng Cục Đường sắt [18]

1.1.2.2. Giai đoạn 1954 – 1964

Trong 10 năm (1954 – 1964), Hệ thống Đường sắt miền Bắc đã được

xây dựng và khôi phục lại với những tuyến đường chính là Hà Nội – Lào Cai;

Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn. Những tuyến đường này đã có vai

trò quan trọng phục vụ đi lại, khôi phục kinh tế miền Bắc trong nhiều năm

thời điểm đó và còn phát huy tác dụng đến bây giờ. Một Tuyến Đường sắt

khác được xây dựng là Hà Nội – Thái Nguyên với 164 km cũng hoàn thành

12

trong giai đọan này [18]

1.1.2.3. Giai đoạn 1964 – 1975

Những sự kiện nổi bật ghi dấu ấn của Ngành trong giai đoạn này là duy

trì vận chuyển hàng viện trợ và chở bộ đội trên các tuyến đường từ Bắc vào

Vinh với phong trào "Tất cả vì miền Nam thân yêu" do Hồ Chí Minh phát

động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chí Minh,

Ngành Đường sắt miền Bắc đã lập nên những kỳ tích huy hoàng, góp phần

quan trọng vào chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Hoa Kỳ

oanh liệt.

Tính đến năm 1971 - 1972 thì Việt Nam Cộng hòa có 1.240 km đường

sắt nhưng vì chiến cuộc và an ninh nên chỉ có 57% sử dụng được. Dù vậy, tổng

lượng hành khách và hàng hóa chuyên chở bằng đường sắt tăng dần. Cụ thể:

- Năm 1968, Tổng lượng hàng hóa vận tải 400.000 tấn; Số lượng hành

khách 0,73 triệu;

- Năm 1969, Tổng lượng hàng hóa vận tải 530.000 tấn; Số lượng hành

khách 1,75 triệu;

- Năm 1970, Tổng lượng hàng hóa vận tải 720.000 tấn; Số lượng hành

khách 2,4 triệu;[18]

1.1.2.4. Giai đoạn 1975đến nay

a. Thời kỳ đầu

Cơ cấu của Tổng Cục Đường sắt bao gồm:

- Văn phòng Tổng Cục;

- Các Vụ Tham mưu;

- Cục Cơ khí - Cầu đường Đường sắt;

- Cục Vận chuyển;

- Ban Chỉ huy Quân sự Đường sắt (năm 1980 trực thuộc Bộ Quốc phòng);

- Sở Y tế Đường sắt (năm 1994 chuyển thành Sở Y tế Giao thông Vận tải

13

trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải);

- Sở Thông tin Tín hiệu Đường sắt;

- Trường Đảng Tổng Cục Đường sắt;

- Trường Cao đẳng Đường sắt;

- Các Công ty Công trình Cầu đường Đường sắt;

- Nhà máy Xe lửa Gia Lâm.

b. Thời Bao cấp

Ngày 31 tháng 12 năm 1976, đầu máy này đã kéo đoàn tàu đầu tiên khai

thông tuyến đường sắt Bắc Nam, hiện vật đang được trưng bày tại Ga Sài Gòn.

Các Ty Quản lý trực thuộc Tổng Cục Đường sắt chuyển thành Sở và

nhiều doanh nghiệp quốc doanh của Ngành Đường sắt đã ra đời và giữ vững

mô hình hoạt động đến năm 1986.

c. Thời đổi mới đến nay

- Từ năm 1989 đến ngày 4 tháng 3 năm 2003, ngành Đường sắt được cơ

cấu lại thành một Doanh nghiệp Nhà nước với tên là Liên hiệp Đường sắt

Việt Nam, hoạt động trên nguyên tắc thị trường mở.

- Từ ngày 7 tháng 7 năm 2003, Đường sắt Việt Nam chính thức đi vào

hoạt động theo mô hình tổ chức mới bao gồm: Cục Đường sắt Việt Nam - Cơ

quan Quản lý Nhà nước về đường sắt; và Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam.

- Năm 2004, Quốc hội đã thông qua Luật Đường sắt. Như vậy, lần đầu tiên

trong lịch sử, ngành Đường sắt có bộ luật điều chỉnh lĩnh vực của Ngành.

- Năm 2010 Chuyển Công ty mẹ - Tổng Công ty ĐSVN thành công ty

trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu theo Quyết

định số 973/QĐ-TTg ngày 25/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ.

- Ngày 13 tháng 11 năm 2013 Chính Phủ ban hành Nghị định số:

175/2013/NĐ-CP về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đường

14

sắt Việt Nam [18, tr.328].

1.2. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty

đƣờng sắt Việt Nam

Căn cứ Nghị định số: 175/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 13 tháng 11

năm 2013 về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam được quy định như sau:

1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

1.2.1.1. Chức năng

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam có chức năng trực tiếp sản xuất, kinh

doanh và đầu tư tài chính vào các công ty con, công ty liên kết; quản lý, chỉ

đạo, chi phối các công ty con, công ty liên kết theo tỷ lệ chiếm giữ vốn điều lệ

tại các công ty đó theo quy định của pháp luật; quản lý, khai thác có hiệu quả

quỹ nhà, quỹ đất thuộc TCTĐSVN; tổ chức cứu hộ, cứu nạn, đảm bảo an

ninh, trật tự. an toàn giao thông vận tải đường sắt theo quy định [12, tr.4]

1.2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn

a. Nhiệm vụ

Kinh doanh có lãi; bảo toàn và phát triển vốn chủ sở hữu đầu tư tại

Đường sắt Việt Nam và của Đường sắt Việt Nam đầu tư tại các doanh nghiệp

khác; hoàn thành các nhiệm vụ khác do chủ sở hữu giao.

Tối đa hóa hiệu quả hoạt động của Đường sắt Việt Nam và các đơn vị

thành viên.

Phát triển Đường sắt Việt Nam có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại

và chuyên môn hóa cao; kinh doanh đa ngành, trong đó quản lý, khai thác hệ

thống kết cấu hạ tầng đường sắt, điều hành giao thông vận tải đường sắt và

vận tải đường sắt là các ngành, nghề kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa

sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ, nghiên cứu, đào tạo; có sự

15

tham gia của nhiều thành phần kinh tế; làm nòng cốt để ngành Đường sắt Việt

Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có

hiệu quả [12, tr.5]

b. Quyền hạn

- Quyền đối với vốn và tài sản: ĐSVN có quyền chiếm hữu, sử dụng,

định đoạt vốn và tài sản để kinh doanh, thực hiện các lợi ích hợp pháp từ vốn

và tài sản của Đường sắt Việt Nam theo quy định của pháp luật.

- Quyền kinh doanh và tổ chức kinh doanh: Chủ động tổ chức sản xuất,

kinh doanh, kế hoạch phối hợp sản xuất, kinh doanh, tổ chức bộ máy quản

lý theo yêu cầu kinh doanh và đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.

- Quyền về tài chính: Huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức phát

hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu Đường sắt Việt Nam; vay vốn của tổ chức

tín dụng và các tổ chức tài chính khác; vay vốn của người lao động và các

hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật.

- Quyền tham gia hoạt động công ích: Sản xuất, cung ứng sản phẩm,

dịch vụ công ích trên cơ sở đấu thầu. Đối với hoạt động công ích theo đặt

hàng, giao kế hoạch của Nhà nước thì Đường sắt Việt Nam có nghĩa vụ tiêu

thụ sản phẩm, cung ứng dịch vụ công ích đúng đối tượng, theo giá và phí do

Nhà nước quy định.

- Các quyền khác của Đường sắt Việt Nam: Lập quy hoạch, kế hoạch,

đầu tư, cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng đường sắt phù hợp với chiến lược,

quy hoạch tổng thể phát triển đường sắt được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt. Xây dựng dự toán thu, chi ngân sách, kế hoạch quản lý, khai thác, bảo

trì, sửa chữa kết cấu hạ tầng đường sắt trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phê duyệt; tổ chức giao kế hoạch, khai thác, bảo trì, sửa chữa hệ thống kết cấu

hạ tầng đường sắt quốc gia đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt...[12, tr.6]

1.2.2. Cơ cấu tổ chức

Với những chức năng, nhiệm vụ trên, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty

16

Đường sắt Việt Nam gồm có:

a) Hội đồng thành viên.

b) Tổng giám đốc,

c) Các Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng.

d) Bộ máy giúp việc, Ban Kiểm soát nội bộ.

Ngày 13 tháng 11 năm 2013 Chính Phủ ban hành Nghị định số:

175/2013/NĐ-CP về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đường

sắt Việt Nam.

Cơ cấu tổ chức ĐSVN tại thời điểm hiện nay bao gồm:

*)Các đơn vị hạch toán phụ thuộc

- Trung tâm điều hành giao thông vận tải Đường sắt

- Văn phòng và các Ban của Đường sắt Việt Nam

- Công ty sức kéo Đường sắt.

- Công ty Vận tải hành khách đường sắt Hà Nội

- Công ty Vận tải hành khách đường sắt Sài Gòn

*) Các đơn vị sự nghiệp

- Trường CĐ Nghề Đường sắt

- Trung tâm y tế Đường sắt

- Ban Quản lý Các dự án Đường sắt (RPMU)

- Ban Quản lý Dự án Đường sắt khu vực I

- Ban Quản lý Dự án Đường sắt khu vực II

- Ban Quản lý Dự án Đường sắt khu vực III

- Ban Quản lý Dự án Tòa nhà đường sắt

*) Công ty con do Đƣờng sắt Việt Nam sở hữu 100% vốn điều lệ

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Hà Hải

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Hà Lạng

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Hà Thái

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Vĩnh Phú

17

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Yên Lào

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Quảng Bình

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Bình Trị Thiên

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Quảng Nam

- Công ty TNHH MTV Quản lý ĐS Sài Gòn

- Công ty TNHH MTV Thông tin tín hiệu ĐS Hà Nội

- Công ty TNHH MTV Thông tin tín hiệu ĐS Bắc Giang

- Công ty TNHH MTV Thông tin tín hiệu ĐS Vinh

- Công ty TNHH MTV Thông tin tín hiệu ĐS Đà Nẵng

- Công ty TNHH MTV Thông tin tín hiệu ĐS Sài Gòn

- Công ty TNHH MTV Xe lửa Dĩ An

- Công ty TNHH MTV In Đường sắt

- Công ty TNHH MTV In đường sắt Sài Gòn

- Công ty TNHH MTV Vận tải Hàng hóa Đường sắt [12; tr56]

1.3. Thành phần, nội dung, ý nghĩa tài liệu lƣu trữ hình thành trong hoạt

động của Tổng Công ty Đƣờng sắt Việt Nam

1.3.1. Thành phần tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

TCTĐSVN hoạt động trên quy mô và phạm vi toàn quốc với nhiều

ngành nghề kinh doanh khác nhau nên khối lượng tài liệu sản sinh ra từ hoạt

động của Đường sắt Việt Nam là rất lớn, bao gồm ba loại tài liệu chính, đó là:

Tài liệu hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật và tài liệu chuyên môn.

- Tài liệu Hành chính: Là thành phần tài liệu chiếm khối lượng tương

đối lớn trong Phông lưu trữ Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, hình thành từ

hoạt động quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh và thực hiện các nhiệm vụ

khác của bộ máy lãnh đạo, các phòng, ban chức năng của TCTĐSVN và các

đơn vị trực thuộc dưới các hình thức văn bản như: Nghị quyết, Chỉ thị, Thông

18

tư, Quyết định, Báo cáo, Kế hoạch, Tờ trình, Công văn, Hồ sơ cán bộ,...

- Tài liệu khoa học - kỹ thuật: Tài liệu về các công trình xây dựng đường

sắt như: nhà ga, đường, ray, cầu, cống, hầm, ...Đó là tài liệu liên quan đến đầu

tư, xây dựng, thanh quyết toán các công trình, dự án trọng điểm quốc gia

thuộc lĩnh vực đường sắt ở nước ta. Loại hình tài liệu bao gồm: Bản vẽ thiết

kế thi công các công trình, các ga; Bản vẽ tín hiệu các ga; Báo cáo kinh tế kỹ

thuật; Báo cáo khảo sát địa chất công trình; Hồ sơ mời thầu các gói thầu, kết

quả thầu; Hồ sơ hoàn công các công trình, tín hiệu đáp dừng; Hồ sơ thanh

quyết toán công trình; bản vẽ tín hiệu các ga;...

- Tài liệu chuyên môn: Đây là loại hình tài liệu liên quan đến chuyên

môn, nghiệp vụ của ngành Đường sắt như: Lệnh chạy tàu; Biểu đồ chạy tàu

các tuyến; Lý trình các tuyến; Hiệp định liên vận hành khách quốc tế; Tài liệu

về các tiêu chuẩn kỹ thuật Ray-Ghi; Nghị đinh thư về Hội nghị Biên giới, Hội

nghị giá cước, Hội nghị ủy ban kỹ thuật...

Theo Báo cáo thống kê cơ sở công tác Lưu trữ và tài liệu lưu trữ năm

2013 của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam gửi Cục Văn thư – lưu trữ Nhà

nước, khối lượng tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ của TCT hiện nay được thể

hiện cụ thể như sau:

Nội dung Đơn vị tính Số lƣợng

1. Tài liệu lƣu trữ hành chính

- Tổng số phông/sưu tập lưu trữ Phông/sưu tập 19

Mét 150.5 - Tổng số mét giá tài liệu

Hồ sơ 131.5 Trong đó: + Đã chỉnh lý hoàn chỉnh

Mét 260 + Quy ra mét giá tài liệu

2. Tài liệu khoa học, kỹ thuật

Mét 295 - Tổng số mét giá tài liệu

3. Tài liệu chuyên môn

Mét 96 - Tổng số mét giá tài liệu

Hồ sơ 80 Trong đó: + Đã chỉnh lý hoàn chỉnh

19

Mét 96 + Quy ra mét giá tài liệu

1.3.2. Nội dung tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của Tổng công

ty Đường sắt Việt Nam

Tài liệu lưu trữ đang được bảo quản ở kho lưu trữ cơ quan TCTĐSVN

không chỉ lớn về khối lượng mà còn đa dạng, phong phú về nội dung. Bên

cạnh các quyết sách, chủ trương, quyết định quản lý, điều hành hoạt động của

ĐSVN; TLLT còn phản ánh rõ các lĩnh vực hoạt động của ĐSVN, đặc biệt là

lĩnh vực sản xuất kinh doanh.

- Khối tài liệu hành chính:

Nội dung chủ yếu của khối tài liệu hành chính là những tài liệu phản ánh

chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, cơ quan Nhà nước cấp

trên, lãnh đạo Tổng công ty đối với các mặt hoạt động của ĐSVN (tổ chức

cán bộ, thi đua, khen thưởng, lao động tiền lương...); các tài liệu chỉ đạo

chung về phát động phong trào thi đua cho các phòng, ban, bộ phận hoặc cá

nhân có thành tích; tài liệu liên quan đến thành lập, sáp nhập, giải thể, đổi

tên, cổ phần hóa...; tài liệu về việc phân cấp, phân quyền tuyển dụng, điều

động, bổ nhiệm, kỷ luật cán bộ; tài liệu về nâng ngạch, bậc lương, bảo hộ an

toàn lao động; thống kê tình hình chất lượng, số lượng cán bộ, báo cáo thực

hiện các chế độ chính sách cán bộ, kế hoạch tuyển dụng hàng năm; ...Khối tài

liệu hành chính này được hình thành từ rất nhiều nguồn khác nhau. Cụ thể

như sau:

+ Tài liệu thuộc các cơ quan Nhà nước cấp trên: Đường sắt Việt Nam là

doanh nghiệp lớn do Nhà nước thành lập nên chịu sự quản lý của Nhà nước,

Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính... Trong số các văn bản đến

từ nguồn này có thể tập trung vào hai loại lớn, gồm:

Loại thứ nhất là văn bản quy phạm pháp luật mang tính điều chỉnh chung

cho hoạt động của doanh nghiệp như: Luật doanh nghiệp, Luật Kế toán, Luật

20

thuế giá trị gia tăng, Luật đường sắt..., các Nghị định, Thông tư hướng dẫn

các mặt hoạt động chung của doanh nghiệp. Thông qua hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật, Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách kinh

tế của Đảng thành các quy định pháp lý có giá trị bắt buộc chung đối với

doanh nghiệp. Đồng thời tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi để các doanh

nghiệp nói chung, TCTĐSVN nói riêng hoạt động sản xuất kinh doanh theo

đúng pháp luật, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng

xã hội chủ nghĩa. Trong nhóm văn bản này, các Quyết định về thành lập, phê

duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của ĐSVN; các Quyết định về bầu, bãi

nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch HĐQT, ủy viên HĐQT; các Quyết định bổ

nhiệm, cách chức TGĐ và về lương của các cán bộ chủ chốt của ĐSVN có giá

trị đặc biệt quan trọng.

Ví dụ: Luật Đường sắt số 35/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của

Quốc hội

- Quyết định số 973/QĐ-TTg ngày 25/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ

chuyển Công ty mẹ - Tổng Công ty ĐSVN thành công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.

- Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 21/01/2013 của Thủ tướng Chính Phủ

phê duyệt đề án tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt Việt Nam giai đoạn 2012 – 2015.

Loại thứ hai là văn bản mang tính chỉ đạo trực tiếp về tài chính, về đầu

tư, về lao động xã hội, về ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của ĐSVN.

+ Tài liệu từ các đơn vị thành viên:

Khối tài liệu từ các đơn vị thành viên gửi về ĐSVN chiếm khối lượng

không nhỏ. Nội dung chủ yếu của các tài liệu này là phản ánh tình hình hoạt

động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên gửi lên Tổng công ty

ĐSVN để báo cáo, thông báo. Tài liệu này là tài liệu thuộc công văn đến.

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chỉ yêu cầu các đơn vị nộp lưu tại Tổng

21

công ty các tài liệu như: Hồ sơ hoàn công, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

+ Tài liệu từ chính quyền địa phương, các đối tác và các tổ chức XH khác.

Trong thực tế tài liệu từ nguồn này chiếm khối lượng không đáng kể. Tài

liệu của chính quyền địa phương (HĐND, UBND nơi cơ quan đóng trụ sở)

thường đề cập tới các vấn đề như: giữ gìn an ninh trật tự, tham gia các hoạt

động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao của địa phương,... Nội dung của các

tài liệu đến từ các đối tác chủ yếu là thư chào hàng, báo giá, giấy giới thiệu,

thư cảm ơn,...Sở dĩ khối tài liệu của đối tác có số lượng không nhiều là bởi

vì hầu hết hoạt động trao đổi mua bán đều được thực hiện ở các đơn vị

thành viên.

+ Tài liệu do chính ĐSVN ban hành

Theo quy định của pháp luật, ĐSVN không có thẩm quyền ban hành văn

bản quy phạm pháp luật mà chỉ được ban hành các văn bản áp dụng văn bản

quy phạm pháp luật, văn bản hành chính thông thường và văn bản chuyên

môn. Văn bản áp dụng văn bản quy phạm pháp luật có hai loại: Nghị quyết và

Quyết định của Tổng giám đốc và chủ tịch HĐQT, được ban hành theo trình

tự và thủ tục nhất định. Nội dung các văn bản này thường phản ánh chiến

lược, mục tiêu, kế hoạch dài hạn, kế hoạch kinh doanh hàng năm và các vấn

đề quan trọng khác của ĐSVN.

Ví dụ: Quyết định số 306/QĐ-ĐS của Tổng giám đốc Đường sắt Việt

Nam ngày 15/3/2013 về phê duyệt kế hoạch kiểm tra của Đường sắt Việt

Nam năm 2013.

Đối với các công văn hành chính: thông báo, tờ trình, hợp đồng,... đề cập

tới tất cả các mặt hoạt động của ĐSVN.

Ví dụ: Công văn số 04/ĐS-KSV của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

ngày 25/6/2014 về việc phê duyệt Chương trình kiểm tra, giám sát của Kiểm

22

soát viên Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Ngoài ra còn có các quyết định thành lập tổ chuyên gia đấu thầu, hoặc

các quyết định liên quan đến nhân sự như: thành lập đoàn cán bộ công tác

nước ngoài, miễn nhiệm, điều động cán bộ trong phạm vi quyền hạn của Tổng

giám đốc.

- Tài liệu khoa học kỹ thuật

Theo kết quả khảo sát, đây là khối tài liệu phản ánh rõ nét đặc trưng

ngành hoạt động của ĐSVN trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ

bản. Tài liệu khoa học kỹ thuật chủ yếu được sản sinh từ hoạt động của các

ban như: Ban kế toán, Ban đầu máy toa xe, Ban quản lý dự án Đường sắt, Ban

Quản lý kết cấu hạ tầng Đường sắt,...

Nội dung của tài liệu khoa học kỹ thuật phần lớn là tài liệu về các dự án,

tài liệu liên quan đến việc thanh quyết toán đầu tư các công trình xây dựng cơ

bản và mua sắm các trang thiết bị phục vụ hoạt động các mặt công tác của

ĐSVN. Cụ thể, tài liệu khoa học kỹ thuật của ĐSVN gồm:

+ Tài liệu quy hoạch, chiến lược phát triển mạng lưới đường sắt

+ Tài liệu xậy dựng cơ bản: gồm có hồ sơ công trình, lý trình Đường sắt

dọc tuyến (báo cáo kinh tế kỹ thuật, dự án, số liệu điều tra cơ bản, hợp đồng

thuê đất, giấy phép xây dựng, bản vẽ thiết kế - thi công – hoàn công, tổng dự

toán...) về các mảng như: kiến trúc nhà ga, đường ray, ...

+ Tài liệu về khoa học, kỹ thuật, công nghệ: chiến lược, quy hoạch phát

triển khoa học, công nghệ; văn bản liên quan đến chuyển giao công nghệ, ứng

dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; hồ sơ đề tài nghiên cứu khoa học

– công nghệ; văn bản hướng dẫn về tiêu chuẩn đo lường chất lượng...

Ví du: Hồ sơ hoàn công dự án “Hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt

thống nhất đến năm 2000”

Ngoài ra, trong thành phần tài liệu Phông lưu trữ Đường sắt Việt Nam

23

còn có một khối lượng đáng kể tài liệu tài chính, kế toán, kiểm toán. Đó là các

sổ sách kế toán, các chứng từ kế toán, các báo cáo tài chính hàng năm,...Nội

dung văn bản thường đề cập đến việc cấp tiền, cấp kinh phí cho các dự án; tài

liệu phản ánh về chế độ, nguyên tắc, chuẩn mực tài chính, kế toán; kế hoạch

ngân quỹ, thu chi, sử dụng tiền mặt hàng tháng; tỷ lệ phân chia cước phí,

doanh thu; thanh toán nợ đến hạn, nợ quá hạn, nợ khó đòi

1.3.3.Ý nghĩa tài liệu lưu trữ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

Qua việc tìm hiểu về đặc điểm, thành phần, nội dung tài liệu hình thành

trong quá trình hoạt động của TCTĐSVN, chúng ta thấy khối lượng tài liệu ở

đây là rất lớn, chúng không chỉ có giá trị đối với ĐSVN mà còn đem lại ý

nghĩa về nhiều mặt đối với quốc gia, cụ thể:

Đối với hoạt động của ĐSVN:

Thứ nhất, TLLT chứa đựng những thông tin có độ tin cậy cao phục vụ

hiệu quả cho việc ban hành các quyết định quản lý đúng đắn, phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ của TCTĐSVN, là bằng chứng cho sự hình thành và

phát triển của ngành Đường sắt.

TLLT được hình thành từ quá trình thực hiện hoạt động quản lý và các

hoạt động sản xuất kinh doanh của TCTĐSVN. Chúng phản ánh đầy đủ và

đúng đắn những chức năng, nhiệm vụ của ĐSVN và chứa đựng những thông

tin quan trọng cần thiết làm cơ sở cho hoạt động quản lý của lãnh đạo

TCTĐSVN như ban hành các quyết định, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế

hoạch, kiểm tra kết quả thực hiện, ...Để điều hành hoạt động của TCTĐSVN

có hiệu quả, Ban lãnh đạo TCTĐSVN cần phải được cung cấp thông tin về

pháp luật, vốn, khoa học kỹ thuật, giá cả thị trường; thông tin tìm hiểu về đối

tác làm ăn, đối thủ cạnh tranh, nhu cầu khách hàng, ...Những thông tin này sẽ

là cơ sở pháp lý và thực tiễn quan trọng giúp lãnh đạo TCTĐSVN đưa ra

những quyết định đúng đắn và hợp lý, định hướng hoạt động của TCTĐSVN

24

theo đúng đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Chúng được cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu và quan

trọng là nguồn từ tài liệu lưu trữ có độ tin cậy cao. Việc sử dụng thông tin tài

liệu lưu trữ không chỉ giúp lãnh đạo TCTĐSVN đưa ra các quyết sách quản lý

kịp thời mà còn xây dựng các kế hoạch, chiến lược kinh doanh hợp lý, thúc

đẩy sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững.

Thứ hai, TLLT là căn cứ giải quyết công việc hàng ngày của các đơn vị,

phòng, ban chức năng thuộc TCTĐSVN. Chúng không chỉ chứa đựng các

thông tin pháp lý, phân công việc của lãnh đạo đối với các phòng, ban chức

năng mà còn phản ánh đầy đủ các mặt hoạt động chuyên môn của từng phòng,

ban ở từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhờ đó, các phòng, ban có thể hoàn

thành tốt hơn nhiệm vụ công tác được giao của mình.

Ví dụ: khi muốn nâng cấp các toa xe thì phải xem lại bản thiết kế để biết

được đã qua bao nhiêu lần nâng cấp và sau những lần nâng cấp đó thì thông

số kỹ thuật như thế nào.

Thứ ba, TLLT là bằng chứng pháp lý có sức thuyết phục mạnh mẽ,

chứng minh sự lành mạnh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ĐSVN.

Với chức năng pháp lý vốn có của mình, TLLT có thể được sử dụng để giải

quyết các tranh chấp thương mại, các khiếu nại, tố cáo về gian lận hay các

đơn thư của khách hàng hoặc cơ quan, đơn vị về hoạt động hay sản phẩm kinh

doanh của TCT. Ý nghĩa này của tài liệu lưu trữ còn đặc biệt được phát huy

trong trường hợp TCTĐSVN luận giải về hoạt động tài chính của mình với

các cơ quan kiểm toán Nhà nước thông qua hệ thống chứng từ, hóa đơn, sổ

sách hàng năm.

Thứ tư, TLLT là kho kinh nghiệm quý báu về tổ chức quản lý đối với

hoạt động sản xuất kinh doanh của TCTĐSVN. TLLT ghi lại lịch sử hình

thành và phát triển của TCTĐSVN với các sự kiện lịch sử quan trọng như tài

25

liệu về sự ra đời của TCTĐSVN, tài liệu về thay đổi tên gọi, sáp nhập, giải

thể các đơn vị thành viên của TCTĐSVN. Chúng phản ánh từng bước phát

triển của TCTĐSVN từ khi thành lập đến nay với những thành công và cả

những thất bại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, kế hoạch, chiến

lược kinh doanh,... Nghiên cứu TLLT có thể giúp lãnh đạo TCT rút ra những

bài học quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. Từ đó đưa ra những điều

chỉnh hợp lý trong các chiến lược phát triển của mình trong tương lai. Đồng

thời, TLLT còn lưu giữ những bí quyết kinh doanh riêng về công nghệ quản

lý, kỹ thuật,...giúp đảm bảo chất lượng cũng như nét đặc trưng riêng của các

sản phẩm được cung ứng ra thị trường.

Thứ năm, TLLT mà đặc biệt là tài liệu khoa học kỹ thuật còn là căn cứ

để tiến hành thi công, xây lắp các công trình; sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, mở

rộng, sử dụng và quyết toán các công trình đường sắt đảm bảo các thông số

kỹ thuật và ý đồ thiết kế của chủ đầu tư cũng như kiến trúc sư. Việc sử dụng

TLLT khoa học kỹ thuật còn có vai trò trong việc giảm bớt thời gian, khối

lượng công việc khi tiến hành thi công hay cải tạo, nâng cấp các công trình

xây dựng khi đã khảo sát địa chất công trình, đồng thời giảm đến mức tối

thiểu những thiệt hại có thể xảy ra do dự đoán trước tuổi thọ công trình. Tài

liệu lưu trữ khoa học kỹ thuật còn là căn cứ để kiểm tra, giám sát chất lượng

thi công các công trình và là căn cứ để quản lý và khai thác sử dụng công

trình theo đúng chức năng và công dụng của chúng.

Ví dụ: Để có được những đoàn tàu chạy từ Bắc đến Nam chỉ với 28h,

ĐSVN đã phải nghiên cứu cải tiến rất nhiều lần mới có được những thành tựu

đó, hoặc các công trình kiến trúc, nhà ga, ke tàu...từ thủa tiền sơ khai cho đến

nay, tất cả những kết quả đó đều phải dựa trên nền tảng của tài liệu lưu trữ. Khi

muốn nâng cấp cải tiến hạng mục công trình nào đều phải lấy hồ sơ tài liệu cũ

26

làm bản lề để nghiên cứu, cải tiến mà giá trị gốc của nó không thay đổi.

Cuối cùng, TLLT còn góp phần xây dựng thương hiệu, hình ảnh đẹp của

TCTĐSVN trên thị trường cung ứng các dịch vụ đường sắt. Với những tài liệu

lưu trữ phản ánh truyền thống sản xuất kinh doanh cũng như những thành tựu

đã đạt được (bằng các giải thưởng, danh hiệu,...); tên tuổi và chất lượng của

các sản phẩm mà TCTĐSVN cung ứng sẽ được khẳng định, mang lại lợi thế

cạnh tranh cao cho TCTĐSVN so sánh với các doanh nghiệp kinh doanh khác

trên thị trường, mở ra ưu thế hợp tác, hội nhập với thị trường quốc tế.

Đối với quốc gia

Trước hết, cần phải khẳng định TLLT của TCTĐSVN là TLLT quốc gia

và thuộc thành phần Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Điều 2 Luật Lưu trữ

số: 01/2011/QH13 của Quốc hội ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2011 đã nêu

rất rõ:” Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam là toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước

Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình thành, nơi bảo quản, chế độ

chính trị - xã hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin.

Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm Phông lưu trữ Đảng Cộng sản

Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam.

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình

thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị

xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức

kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân vật lịch sử, tiêu biểu

và tài liệu khác được hình thành qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam gồm các phông lưu trữ của cơ quan,

tổ chức, cá nhân...”. Tổ chức kinh tế trong định nghĩa này là bao gồm tất cả

các loại hình doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau.

Trên phương diện quốc gia, TLLT TCTĐSVN chính là nguồn thông tin

phản ánh khách quan đường lối đổi mới cũng như những chính sách kinh tế

27

của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của ngành ĐSVN nói riêng; với

nền kinh tế quốc dân nói chung qua các thời kỳ lịch sử của đất nước. Thông

qua các tài liệu về quy hoạch phát triển ngành, giao chỉ tiêu công tác hàng

năm,...có thể thấy rõ sự thay đổi trong đường lối phát triển kinh tế và phát

triển ngành của Đảng và Nhà nước. Chẳng hạn như sự chuyển đổi từ Liên

hiệp ĐSVN sang hình thức Tổng công ty ĐSVN khẳng định mục tiêu xây

dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta.

Đồng thời với những tiến bộ mà ĐSVN đạt được phản ánh trong TLLT còn

chứng minh sự đúng đắn trong quá trình đổi mới chính sách và phát triển

ĐSVN cũng như nền kinh tế Việt Nam của Đảng và Nhà nước ta.

TCTĐSVN là một doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ một trong những

ngành kinh tế then chốt của đất nước – ngành ĐSVN. Bởi vậy, TLLT hình

thành từ hoạt động của TCTĐSVN còn là kho báu lưu giữ những thông tin, số

liệu, những bí quyết kinh doanh trong việc cung ứng những sản phẩm, dịch vụ

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đảm bảo an

toàn giao thông, làm nòng cốt để ngành TCTĐSVN phát triển nhanh, bền

vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

Qua TLLT có thể phần nào thấy được bối cảnh kinh tế, hoàn cảnh lịch

sử và những bước phát triển của ngành TCTĐSVN cũng như kinh tế - xã hội

trong nước. Do đó, TLLT của TCTĐSVN được xem là một nguồn sử liệu

quan trọng để nghiên cứu lịch sử xây dựng ngành TCTĐSVN. Đồng thời đó

cũng là nguồn không thể thiếu khi nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế đất

nước trong những năm qua, đặc biệt là từ khi đổi mới năm 1986.

TLLT của TCTĐSVN có vai trò quan trọng trong sự phát triển khoa học

kỹ thuật công nghệ đất nước. Thông qua quá trình hợp tác, liên doanh, liên kết

với các đối tác nước ngoài trong việc chuyển giao công nghệ; rất nhiều máy

móc, thiết bị, quy trình công nghệ về đường sắt đã được ứng dụng vào nước

28

ta. Đi kèm là các tài liệu hướng dẫn quy trình hoạt động cũng như cấu tạo của

hệ thống máy móc, công nghệ. Các tài liệu này sẽ là cơ sở để tiến hành áp

dụng các công nghệ hiện đại vào Việt Nam trên diện rộng. Đồng thời đó cũng

là tài liệu tham khảo hữu ích để cải tiến, sáng tạo ra nhiều máy móc, thiết bị,

quy trình công nghệ mới góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ

trong lĩnh vực đường sắt, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước.

Ngoài ra, TLLT của TCTĐSVN còn thể hiện một phần chính sách phát

triển quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là đối

ngoại về kinh tế. Với quy mô hoạt động trên phạm vi toàn quốc, TCTĐSVN

luôn đi đầu trong việc hợp tác, giao lưu, hội nhập quốc tế thông qua việc

chuyển giao công nghệ và hoạt động liên doanh, liên kết, xuất nhập khẩu. Do

đó, TLLT của TCTĐSVN còn phản ánh đường lối đổi mới, đa phương hóa,

đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hoạt động

chính trị đối ngoại đồng thời với hoạt động kinh tế đối ngoại.

Tiểu kết chƣơng 1

Với những hoạt động sản xuất, kinh doanh, Tổng công ty Đường sắt

Việt Nam đã sản sinh ra một khối lượng lớn tài liệu lưu trữ với nhiều loại

hình khác nhau. Khối tài liệu này phản ánh đầy đủ các hoạt động quản lý sản

xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, khối tài liệu đó không những có ý

nghĩa quan trọng đối với chính TCT mà còn có những ý nghĩa to lớn không

thể phủ nhận đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay. Đối với khoa

học lưu trữ ở Việt Nam, tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của doanh

nghiệp cũng là đối tượng cần nghiên cứu nghiêm túc. Những nghiên cứu đó

phải dựa trên cơ sở thực tiễn công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp nhằm

xây dựng cơ sở để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác lưu

trữ trong các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và Tổng công ty Đường sắt

29

Việt Nam nói riêng.

Hơn nữa, những tài liệu đã sản sinh ra trong hoạt động của TCT đều có

ý nghĩa thực tiễn và đã được doanh nghiệp sử dụng trong quá trình quản lý và

điều hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Vì thế, TCT cần phải

tiếp tục tổ chức, quản lý tốt công tác lưu trữ để lưu trữ tài liệu và đưa vào khai

thác có hiệu quả khối tài liệu này. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là TCT đã tổ

chức, quản lý công tác lưu trữ như thế nào để quản lý và khai thác có hiệu quả

khối tài liệu có giá trị trên. Trả lời câu hỏi trên, chương 2 của đề tài này tác

giả sẽ trình bày những tìm hiểu về cơ sở lý luận và thực trạng tổ chức, quản lý

30

công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, QUẢN LÝ

CÔNG TÁC LƢU TRỮ TẠI TỔNG CÔNG TY ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM

(nghiên cứu tại Tổng công ty và một số đơn vị trực thuộc Tổng công ty

có trụ sở tại thành phố Hà Nội)

2.1. Lý luận chung về tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ

2.1.1. Một số khái niệm

2.1.1.1. Tổ chức

Hiện nay, trên thế giới, tổ chức được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.

Tổ chức có thể hiểu là một thực thể hoặc tổ chức cũng có thể hiểu là một hoạt

động (hay là chức năng tổ chức). Trong đề tài này, tác giả sử dụng khái niệm

tổ chức là một hoạt động. Với cách tiếp cận này chúng ta có thể hiểu: “Tổ

chức là quy trình thiết kế bộ máy, sắp xếp, bố trí, sử dụng và phát triển các

nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu chung”[22;tr.136].

2.1.1.2. Quản lý

Hiện nay, với những nhận thức và các cách tiếp cận khác nhau sẽ có

những khái niệm khác nhau về quản lý. Ví dụ như khái niệm của F.W Taylor,

H. Fayol, M.P Follet, C. I. Barnarrd, H. Simon, v.v... Tuy vậy, trong đề tài

này tác giả sử dụng định nghĩa về quản lý như sau: “Quản lý là tác động có ý

thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý

để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức trong điều

kiện môi trường biến đổi”[22; tr.12]

2.1.1.3. Công tác lưu trữ

Công tác lưu trữ là một lĩnh vực hoạt động của nhà nước bao gồm tất cả

những vấn đề lý luận, thực tiễn và pháp chế liên quan tới việc tổ chức khoa

31

học, bảo quản và tổ chức khai thác, sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ phục

vụ công tác quản lý, công tác nghiên cứu khoa học lịch sử và các nhu cầu

chính đáng khác của các cơ quan, tổ chức, cá nhân [13, tr.15]

Vậy tổ chức, quản lý công tác lưu trữ là quy trình quản lý, thiết kế bộ

máy, sắp xếp, bố trí, sử dụng và phát triển các nguồn lực nhằm thực hiện mục

tiêu của công tác lưu trữ.

2.1.2. Nội dung tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

Nội dung của tổ chức, quản lý công tác lưu trữ bao gồm hai nội dung

chính là: Nguyên tắc tổ chức công tác lưu trữ và các biện pháp tổ chức, quản

lý công tác lưu trữ trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

2.1.2.1. Nguyên tắc tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

Nguyên tắc quản lý tập trung thống nhất tài liệu lưu trữ được áp dụng

với tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trên đất nước Việt Nam. Theo ý

kiến của PGS.TS Vũ Thị Phụng và PGS.TS Dương Văn Khảm thì nguyên tắc

quản lý tập trung thống nhất cũng được áp dụng để quản lý đối với tài liệu

hình thành trong hoạt động của các doanh nghiệp. “Vì thế, công tác lưu trữ ở

các doanh nghiệp cũng cần phải tuân theo những quy định chung trong Pháp

lệnh Lưu trữ quốc gia như: Việc chuyển tài liệu lưu trữ ra nước ngoài, thu

thập, quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng và công bố tài liệu lưu trữ quốc gia

thuộc bí mật Nhà nước và tài liệu đặc biệt quý hiếm được thực hiện theo quy

định của pháp luật; Nghiêm cấm việc chiếm giữ, tiêu huỷ trái phép, làm hư

hại tài liệu lưu trữ quốc gia hoặc sử dụng tài liệu lưu trữ quốc gia vào mục

đích trái với lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân”[29;tr.31].

Quản lý tập trung thống nhất về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ: Nhà

nước xác định và thành lập bởi hệ thống các cơ quan quản lý lưu trữ thống

nhất từ Trung ương đến địa phương. Hệ thống đó bao gồm: các cơ quan quản

32

lý ngành lưu trữ và mạng lưới các kho, các trung tâm lưu trữ. Những cơ quan

này giúp Nhà nước trong việc quản lý thống nhất tài liệu lưu trữ trong cả

nước. Đồng thời, các cơ quan này cũng có chức năng tham mưu cho các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản điều chỉnh và quản lý

công tác lưu trữ trong toàn quốc.

Quản lý thống nhất về mặt nghiệp vụ lưu trữ: Đảng và Nhà nước đã

nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn, chỉ

đạo công tác lưu trữ của các cơ quan trong toàn quốc. Chính vì vậy, các

nghiệp vụ lưu trữ như: Thu thập, bổ sung tài liệu; Phân loại tài liệu; Xác định

giá trị tài liệu; Chỉnh lý tài liệu; Bảo quản tài liệu; Tổ chức công cụ tra cứu

khoa học tài liệu, Ứng dụng công nghệ thông tin trong lưu trữ… tại lưu trữ

Quốc gia và lưu trữ các cơ quan từ trung ương đến địa phương đều thực hiện

theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước và các cơ

quan chuyên môn trên cơ sở quy định của các văn bản nói trên.

2.1.2.2. Các biện pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

Các biện pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ được thể hiện ở năm

nội dung như sau:

Thứ nhất là thành lập bộ phận quản lý lưu trữ: Bộ phận quản lý lưu trữ

được thành lập ở hầu hết trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, nhất là ở

khu vực Nhà nước. Đây là bộ phận có chức năng giúp lãnh đạo tổ chức, quản

lý công tác lưu trữ trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp bằng việc thực hiện

các nhiệm vụ cụ thể như: Xây dựng những văn bản quy định về công tác lưu

trữ trong cơ quan; Quản lý và thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ đối với tài liệu

lưu trữ của cơ quan; Đề xuất các phương án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lưu trữ

cho cơ quan và hàng năm báo cáo tình hình thực hiện công tác lưu trữ trong cơ

quan, lập kế hoạch thực hiện công tác lưu trữ của cơ quan trong thời gian tới.

Bộ phận lưu trữ được thành lập ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp theo các

33

quy định hiện hành của pháp luật. Ở khu vực Nhà nước, bộ phận quản lý lưu

trữ được xây dựng thành hệ thống thuộc các cơ quan từ Trung ương đến địa

phương. Riêng đối với doanh nghiệp, tùy thuộc quy mô lớn hay nhỏ của doanh

nghiệp mà các nhà đầu tư, các cơ quan chủ quản hoặc các lãnh đạo doanh nghiệp

quyết định thành lập bộ phận hoặc bố trí cán bộ quản lý công tác lưu trữ.

Thứ hai là tuyển dụng và bố trí cán bộ làm công tác lưu trữ: Cán bộ là

nhân tố đóng vai trò quan trọng trong công tác văn thư, lưu trữ ở các cơ quan.

Trình độ của cán bộ lưu trữ có tác động trực tiếp đến phương pháp, cách thức

tổ chức khoa học tài liệu trong kho lưu trữ cơ quan. Cán bộ có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ tìm ra phương pháp phân loại và sắp xếp tài

liệu của cơ quan một cách khoa học, hợp lý, dễ tra tìm. Ngược lại trình độ cán

bộ chuyên môn thấp sẽ ảnh hưởng không tốt đến cách phân loại và sắp xếp tài

liệu của cơ quan và làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác khai thác và sử

dụng tài liệu. Chính vì vậy, việc tuyển dụng và bố trí cán bộ làm công tác lưu

trữ ở cơ quan là một việc làm cần thiết cần được sự quan tâm trực tiếp sát sao

của lãnh đạo văn phòng và lãnh đạo cơ quan. Đối với doanh nghiệp chính

sách tuyển dụng và bố trí cán bộ còn phụ thuộc nhiều vào nhận thức của lãnh

đạo về vai trò, vị trí của công tác lưu trữ trong doanh nghiệp. Hầu hết các

doanh nghiệp đều bố trí cán bộ phụ trách công tác lưu trữ. Tuy nhiên, phần

lớn các doanh nghiệp đang bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác lưu trữ.

Thứ ba là tổ chức kho tàng, trang thiết bị cho công tác lưu trữ: Nhìn

chung, kho tàng, trang thiết bị cho công tác lưu trữ bước đầu đã được lãnh

đạo các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đầu tư xây dựng, nhất là

những cơ quan, tổ chức Nhà nước có quy mô lớn và các Trung tâm lưu trữ

Quốc gia, tỉnh, huyện. Tuy nhiên, ở hầu hết lưu trữ hiện hành đều chưa xây

dựng được kho lưu trữ chuyên dụng, song cũng đã có đầy đủ các trang thiết bị

như; giá, tủ, hộp, cặp, hệ thống điều hoà nhiệt độ… đảm bảo ở mức tương đối

34

yêu cầu bảo quản tài liệu ở giai đoạn hiện hành.

Thứ tư là ban hành văn bản chỉ đạo và hướng dẫn, phổ biến, tập huấn

nghiệp vụ công tác lưu trữ: Một trong những yếu tố làm căn cứ pháp lý cho việc

thực hiện nguyên tắc quản lý tập trung thống nhất về công tác lưu trữ trong toàn

quốc là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành lưu trữ. Hiện nay, nhà

nước ta đã xây dựng và ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

tương đối đầy đủ về công tác lưu trữ. Có giá trị pháp lý cao nhất là Luật Lưu trữ

được ban hành ngày 11/11/2011 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2013.

Dưới luật có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật và các văn bản hướng dẫn

nghiệp vụ chuyên môn cho các cơ quan, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ.

Tại các cơ quan, tổ chức ngoài việc tuân theo những quy định của những văn

bản trên cần phải thực hiện những quy định cụ thể do cơ quan ban hành. Những

cơ quan được lãnh đạo quan tâm sát sao đến công tác lưu trữ thường ban hành

những quy chế quy định một số điều cụ thể về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ,

việc thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ và trách nhiệm của các cán bộ, công chức,

viên chức cơ quan đối với công tác lưu trữ.

Thứ năm là công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong

công tác lưu trữ: Thanh tra, kiểm tra nhằm đánh giá quá trình thực hiện các

quy định pháp luật lưu trữ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Dựa trên

những kết quả thanh tra, kiểm tra, các cơ quan quản lý Nhà nước có thể đánh

giá được mức độ phù hợp của các quy định pháp luật lưu trữ đối với thực tiễn

lưu trữ trong các cơ quan, tổ chức. Từ đó có những điều chỉnh nội dung của

các văn bản quy phạm pháp luật về lưu trữ ngày càng phù hợp hơn với thực

tiễn công tác lưu trữ. Đồng thời, các cơ quan quản lý lưu trữ có thể có những

chỉ đạo, hướng dẫn để các cơ quan, tổ chức có thể thực hiện có hiệu quả cao

35

hơn công tác lưu trữ của mình.

2.1.3. Sự cần thiết phải tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

Có thể khẳng định rằng bất kỳ một cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nào

trong hoạt động của mình đều sản sinh ra các tài liệu. Những tài liệu đó có giá

trị thực tiễn được sử dụng hàng ngày trong hoạt động của cơ quan, tổ chức.

Tuy nhiên, khối lượng tài liệu ngày càng được sinh ra nhiều trong các cơ

quan, tổ chức, doanh nghiệp sẽ vượt quá khả năng kiểm soát của chính các cơ

quan này. Do vậy, lý thuyết về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ chỉ ra rằng

cần phải quản lý tập trung thống nhất khối tài liệu này để tạo điều kiện thực

hiện thống nhất các nghiệp vụ có tính khoa học của công tác lưu trữ. Khối

lượng tài liệu sẽ giảm xuống khi nó được quản lý tập trung thống nhất và

được tiến hành lựa chọn bằng những nghiệp vụ của công tác lưu trữ. Nhờ vậy

các cơ quan, tổ chức sẽ tiết kiệm diện tích về phòng, kho để lưu trữ những tài

liệu không có giá trị. Hơn nữa cơ quan, tổ chức sẽ tiết kiệm được chi phí về

bố trí cán bộ, nhân lực cho việc quản lý khối tài liệu đã hết giá trị.

Tổ chức, quản lý công tác lưu trữ cũng chỉ ra rằng cần phải thành lập

bộ phận quản lý công tác lưu trữ hoặc ít nhất cần phải bố trí cán bộ phụ trách

công tác này. Việc thành lập bộ phận quản lý công tác lưu trữ xuất phát từ

thực tế công tác lưu trữ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Bất kỳ một

cơ quan, tổ chức nào muốn hoạt động đều phải sử dụng các nguồn thông tin.

Trong khi đó, hơn 90% thông tin được chứa đựng trong văn bản, tài liệu. Tuy

nhiên, do khối lượng tài liệu được sinh ra ngày càng nhiều trong hoạt động

của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đã làm cho công tác tra cứu, sử dụng

những tài liệu này tốn kém rất nhiều công sức, thời gian. Do đó, hiệu quả của

việc tra cứu thông tin tài liệu trong cơ quan, tổ chức sẽ rất thấp nếu công tác

lưu trữ thiếu sự quản lý và hướng dẫn thống nhất của bộ phận chuyên môn về

lưu trữ. Bộ phận quản lý lưu trữ sẽ xây dựng những văn bản quy định về công

36

tác lưu trữ trong cơ quan; quản lý và thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ đối với tài

liệu lưu trữ của cơ quan; đề xuất các phương án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lưu

trữ cho cơ quan và hàng năm báo cáo tình hình thực hiện công tác lưu trữ trong

cơ quan, lập kế hoạch thực hiện công tác lưu trữ của cơ quan trong thời gian

tới. Nhờ đó, công tác lưu trữ được quản lý thống nhất, khoa học và góp phần

nâng cao năng suất, hiệu quả các hoạt động của các cơ quan, tổ chức.

Mặt khác, tổ chức, quản lý công tác lưu trữ cũng đặt ra yêu cầu về việc

tuyển dụng và bố trí cán bộ làm công tác lưu trữ. Đây là nhân tố quan trọng

quyết định hiệu quả của công tác lưu trữ trong các cơ quan, tổ chức. Cán bộ lưu

trữ được đào tạo về chuyên môn lưu trữ sẽ giúp các cơ quan, tổ chức nhận thức

đúng đắn giá trị tài liệu của mình. Từ nhận thức đúng, các cơ quan, tổ chức sẽ

có các biện pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ một cách hợp lý, hiệu quả.

Hơn nữa với sự tham mưu của các cán bộ lưu trữ, các cơ quan, tổ chức sẽ ban

hành các văn bản chỉ đạo hướng dẫn công tác lưu trữ và bố trí các kho, tàng

nhằm bảo quản tốt các tài liệu sản sinh ra trong hoạt động của mình.

Ngoài ra, với việc tổ chức, quản lý công tác lưu trữ thì công tác này

trong các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp cũng phải được thanh tra, kiểm tra

và xử lý các vi phạm pháp luật, quy định của cơ quan về lưu trữ. Tổ chức và

quản lý công tác lưu trữ tức là tổ chức và kiểm soát các thông tin chủ yếu phục

vụ cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Do vậy tổ chức, quản lý công tác

lưu trữ cũng cần phải có các cơ chế thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm

nhằm hướng công tác lưu trữ đạt được hiệu quả ngày càng cao hơn. Vì vậy, tổ

chức, quản lý công tác lưu trữ không chỉ đơn thuần giúp cho các cơ quan, tổ

chức kiểm soát một cách cơ học tài liệu mà nó còn giúp cơ quan quản lý tốt

nguồn lực thông tin của mình. Nhờ vậy, các hoạt động của các cơ quan, tổ chức

với tổ chức, quản lý tốt công tác lưu trữ sẽ đảm bảo hoạt động có hiệu quả.

Ngược lại nếu tổ chức, quản lý công tác lưu trữ không tốt sẽ gây nên các hậu

37

quả to lớn đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Đối với các cơ quan

quản lý Nhà nước về lưu trữ, tổ chức, quản lý thống nhất công tác lưu trữ sẽ

giúp cho các cơ quan này quản lý thống nhất tài liệu của Phông lưu trữ Quốc

gia Việt Nam.

Như vậy tổ chức, quản lý công tác lưu trữ thực sự cần thiết đối với hoạt

động của tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Nhờ tổ chức, quản lý tốt

công tác lưu trữ, hiệu quả của các hoạt động trong cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp ngày càng được nâng cao rõ rệt. Ngược lại, nếu tổ chức, quản lý công

tác lưu trữ không tốt sẽ gây nên những khó khăn, thậm chí có thể gây ra những

hậu quả to lớn đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Tổ chức,

quản lý công tác lưu trữ không chỉ là việc quản lý thống nhất một cách cơ học

tài liệu lưu trữ mà thông qua đó các nhà quản lý đặt ra một cơ chế kiểm soát

chặt chẽ nguồn lực thông tin của mình. Đây là nguồn lực có vai trò quan trọng

quyết định sự thành, bại của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong “thời đại

bùng nổ thông tin” như hiện nay.

2.2. Quy chế pháp lý của Việt Nam và các nƣớc về tổ chức, quản lý công

tác lƣu trữ trong doanh nghiệp

Cho đến nay, ở Việt Nam đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau

về tổ chức, quản lý đối với công tác lưu trữ doanh nghiệp. Trong phần này,

tác giả sẽ phân tích các cơ sở pháp lý của pháp luật lưu trữ Việt Nam và của

các nước về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ của doanh nghiệp làm cơ sở

đánh giá về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp.

2.2.1. Quy chế pháp lý của Việt Nam về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

trong doanh nghiệp

Tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của các doanh nghiệp có giá

trị rất quan trọng không những đối với chính doanh nghiệp mà còn đối với

38

nền kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp lý về lưu

trữ của Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những quy định cụ thể nhằm điều

chỉnh hợp lý công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp.

Các văn bản pháp luật lưu trữ của Việt Nam hiện nay chỉ mới dừng lại

xem các tài liệu của các doanh nghiệp như tài liệu của một tổ chức kinh tế

(doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, hộ kinh doanh cá thể, các hợp tác xã,...). Tại điều 1 của Pháp lệnh

lưu trữ số 34/2001/PL-UBTVQH10 ban hành năm 4/4/2001 quy định: “Tài

liệu lưu trữ quốc gia là tài liệu có giá trị về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an

ninh, ngoại giao, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ được hình thành

trong các thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam, trong quá trình hoạt động của

các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã

hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân

(sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) và các nhân vật lịch sử, tiêu biểu

phục vụ việc nghiên cứu lịch sử, khoa học và hoạt động thực tiễn”[41].

Đối với tài liệu kế toán hình thành trong hoạt động của các doanh

nghiệp nói chung thì được điều chỉnh bởi Quyết định số 218/2000/QĐ-BTC

ban hành ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng bộ Tài chính về việc ban hành chế

độ lưu trữ tài liệu kế toán trong đó quy định cụ thể về đối tượng điều chỉnh

của văn bản này như sau: “Ban hành kèm theo Quyết định này Chế độ lưu trữ

tài liệu kế toán áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế và các hộ kinh doanh cá thể; các đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị

vũ trang, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội

nghề nghiệp có sử dụng vốn, kinh phí của Nhà nước, của tập thể”[9]. Trong

văn bản này đã quy định cụ thể tất cả các nghiệp vụ lưu trữ liên quan đến tài

liệu kế toán của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Mặt khác, tại điều 3 Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ban hành

39

ngày 29/11/2005 quy định: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có

tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định

của pháp luật nhằm thực hiện mục đích của hoạt động kinh doanh”[34]. Như

vậy, dựa trên cơ sở những quy định của các văn bản quy phạm pháp luật trên

cho phép chúng ta khẳng định rằng tài liệu lưu trữ của doanh nghiệp thuộc đối

tượng điều chỉnh của luật pháp lưu trữ Việt Nam. Như vậy, các doanh nghiệp

đều có quyền chủ động trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng phải

trên cơ sở tuân thủ pháp luật của Nhà nước.

Hơn nữa, theo quy định tại khoản 7 điều 2 của Luật Lưu trữ số

01/2011/QH13 ban hành năm 2013 thì “Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam là

toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt Nam, không phụ thuộc vào thời gian

hình thành, nơi bảo quản, chế độ chính trị - xã hội, kỹ thuật ghi tin và vật

mang tin”[35]. Theo quy định này thì tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động

của các doanh nghiệp thuộc thành phần của Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam.

Một lần nữa chúng ta đã có thể khẳng định rằng: “Hệ thống văn bản

hình thành trong các doanh nghiệp là kết quả tất yếu của hoạt động sản xuất,

kinh doanh, phải thuộc sự quản lý của Nhà nước và công tác ban hành, quản

lý, sử dụng hệ thống văn bản đó cũng phải được điều chỉnh bằng pháp

luật”[4;tr.133].

Từ những phân tích trên đây, cho thấy rằng công tác lưu trữ của các

doanh nghiệp nói chung được xem là đối tượng điều chỉnh của nhiều văn bản

quy phạm pháp luật của Việt Nam, trong đó có sự điều chỉnh của pháp luật về

lưu trữ do Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, trong hầu hết

nội dung của các văn bản pháp luật về lưu trữ ở Việt Nam chưa có các quy

định cụ thể đối với việc tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong doanh nghiệp.

Đặc biệt, trong các văn bản quy phạm pháp luật về lưu trữ của Việt Nam vẫn

chưa quy định cụ thể về quyền sở hữu, cơ chế kiểm soát và những hướng dẫn

40

cụ thể về nghiệp vụ lưu trữ đối với công tác lưu trữ của doanh nghiệp. Thực tế

đó cũng cho thấy các văn bản quy phạm pháp luật chưa có sự điều chỉnh phù

hợp với thực tiễn của công tác lưu trữ trong doanh nghiệp.

2.2.2. Quy chế pháp lý của các nước về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

trong doanh nghiệp

Tổ chức, quản lý tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của các

doanh nghiệp đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về lưu trữ

của nhiều nước. Các nước đều coi trọng giá trị của tài liệu lưu trữ hình thành

trong doanh nghiệp và xem nó như một đối tượng quản lý chủ yếu của các cơ

quan quản lý Nhà nước về lưu trữ. Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng có các

chính sách điều chỉnh phù hợp đối với công tác lưu trữ của doanh nghiệp. Đặc

biệt, pháp luật lưu trữ của nhiều nước đã tách biệt cụ thể giữa tài liệu lưu trữ

của doanh nghiệp công và tài liệu lưu trữ của doanh nghiệp tư. Nhờ vậy, công

tác lưu trữ của các doanh nghiệp đã có cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện

có hiệu quả các hoạt động của mình. Đồng thời các cơ quan quản lý Nhà nước

về lưu trữ cũng thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý của mình đối với các

khối tài liệu hình thành trong hoạt động các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp tư.

Ở hầu hết các nước như: Nga, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Auxtralia,

Anbani, Bê Nanh, Angiêri, Hàn Quốc, Nhật Bản, v.v... tài liệu lưu trữ hình

thành trong hoạt động của các doanh nghiệp đều được điều chỉnh bởi các văn

bản pháp luật. Tài liệu lưu trữ của doanh nghiệp đều được quy định thuộc

thành phần của Phông lưu trữ Quốc gia như ở Nga, Luật Liên bang Nga về

công tác lưu trữ do Đuma Quốc gia thông qua ngày 01 tháng 10 năm 2004 và

Hội đồng Liên bang phê chuẩn ngày 13 tháng 10 năm 2004. Theo quy định

của Luật này công tác lưu trữ doanh nghiệp thuộc hệ thống mạng lưới lưu trữ

Nhà nước. “Thành phần Phông Lưu trữ Liên bang Nga bao gồm: các phông

lưu trữ và toàn bộ tài liệu lưu trữ thuộc lãnh thổ Liên bang Nga, không phụ

41

thuộc vào nguồn gốc và thời gian hình thành, tác giả tài liệu, nơi lưu giữ và

hình thức sở hữu,…những tài liệu lưu trữ này được bảo quản vĩnh viễn trên

lãnh thổ Liên bang Nga” [16; tr.20]. Ở nước CHND Trung Hoa, tài liệu lưu

trữ của doanh nghiệp được xác định thuộc sự điều chỉnh của các văn bản pháp

luật.“Qua phân tích tất cả đối tượng có thể thấy được có 4 loại đối tượng chấp

hành pháp luật pháp qui lưu trữ:…

Trên cơ sở xác định tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động của các

doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của các văn bản pháp luật về lưu

trữ, các nước cũng ban hành các chính sách thành lập các cơ quan để quản lý

và hướng dẫn nghiệp vụ thống nhất đối với công tác lưu trữ của các doanh

nghiệp như: Ở Nga “ngoài các viện lưu trữ Nhà nước ra, còn được xây dựng

một mạng lưới các phòng lưu trữ cơ quan đoàn thể và xí nghiệp, những

phòng lưu trữ này hoặc là tồn tại như những đơn vị tổ chức độc lập, hoặc là

đặt trong bộ phận phụ trách công tác văn phòng trong các cơ quan, đoàn thể,

xí nghiệp đó”[16; tr.15]. Ở Pháp cho phép thành lập các Trung tâm lưu trữ

riêng của “giới lao động” và thông qua các trung tâm lưu trữ này để lưu trữ

.Nhà nước tiến hành khảo sát, nghiên cứu và tuyên bố xếp hạng các tài liệu

của doanh nghiệp có giá trị bảo tồn Quốc gia. “Về mặt ý nghĩa Trung tâm lưu

trữ về giới lao động phải trở thành nơi bảo quản, nơi trao đổi, mở đầu trên

con đường của một đối tác thực sự với doanh nghiệp”[19;tr.48]. Riêng công

tác tổ chức, quản lý tài liệu trong các doanh nghiệp, ở Pháp đã hình thành các

cơ quan lưu trữ riêng trong chính các doanh nghiệp. “Hiện nay có khoảng 20

cơ quan lưu trữ được thiết lập ngay tại doanh nghiệp, đó là áp dụng những

quy định của sắc lệnh số 79-1037 ngày 3.12.1979”[19; tr.48]. Luật pháp lưu

trữ của Anbani quy định: “Ban Tổng giám đốc LTNN tổ chức, chỉ đạo và

kiểm tra hoạt động của cả mạng lưới lưu trữ. Các quy tắc, hướng dẫn, chỉ thị

do Ban Tổng giám đốc ban hành về việc quản lý tài liệu là những điều bắt

42

buộc phải chấp hành đối với cả màng lưới lưu trữ và các thể nhân, pháp nhân

tư có giữ tài liệu (Luật số 7726 ngày 29/7/1993 về Phông lưu trữ Quốc gia và

về các lưu trữ của Anbani)”[19; tr.4]

Để quản lý hiệu quả công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp, luật pháp

lưu trữ các nước đều công nhận quyền sở hữu tài liệu của các doanh nghiệp

song song với việc quy định cụ thể về phương thức quản lý tài liệu lưu trữ của

Nhà nước. Đồng thời, nhiều nước đã quy định cụ thể về việc bán, chuyển

nhượng, xác định giá trị tài liệu và việc xuất khẩu tài liệu của các doanh

nghiệp ra nước ngoài. Luật pháp Trung Quốc quy định: “Bất cứ cơ quan,

đoàn thể, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp và tổ chức cũng như cá nhân đều không

được bán TLLT thuộc sở hữu Nhà nước...Đối với TLLT cùng bản phục chế có

giá trị bảo tồn đối với Nhà nước và xã hội hoặc là phải giữ bí mật thuộc sở

hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và cá nhân, khi các viện lưu trữ các loại, các

cấp, các cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác cần

mang theo, vận chuyển hoặc gửi qua đường bưu điện ra nước ngoài, phải

được sự đồng ý của cơ quan chủ quản từ cấp tỉnh trở lên thẩm tra, phê duyệt

và được cơ quan hải quan kiểm tra cho phép”[19;tr.6-7]. Luật pháp về lưu trữ

của nước Côxta Rica quy định: “Không một ai là nhân viên hay không, có thể

được chiếm đoạt tài liệu này…Ban Tổng Giám đốc có các chức năng:...Yêu

cầu các tổ chức tư nhân cung cấp các thông tin về các tài liệu có giá trị khoa

học – văn hóa mà họ có, nhằm để có các thống kê, mục lục, đăng ký, kiểm kê

hoặc vi phim các tài liệu này (Luật về hệ thống lưu trữ Quốc gia số 7202

ngày 24 tháng 10 năm 1990 của Côxta Rica)” [19; tr.55-56]

Đối với công tác thu thập, bảo quản và khai thác tài liệu lưu trữ của các

doanh nghiệp cũng được luật pháp lưu trữ các nước quy định cụ thể. Luật

pháp lưu trữ nước Auxtralia quy định “Khi thực hiện chức năng của mình,

lưu trữ có thể thỏa thuận để giữ hồ sơ do các cá nhân, chứ không phải các cơ

43

quan Liên bang chuyển tới, theo sự thỏa thuận này lưu trữ và cá nhân đó có

quyền khai thác các tài liệu đó”[23; tr.18]. Đồng thời, công nhận quyền sở

hữu và quyền khai thác tài liệu doanh nghiệp của chính doanh nghiệp đó.

Tương tự các nước khác, hệ thống văn bản pháp luật lưu trữ của Auxtralia

quy định các hồ sơ của doanh nghiệp và chứa các thông tin bí mật thương mại

của doanh nghiệp không được tiết lộ, khai thác. “Hồ sơ Liên bang thuộc loại

không được khai thác nếu có chứa thông tin hoặc vấn đề sau:…

(j) Thông tin hoặc vấn đề (không thuộc loại thông tin hoặc vấn được đề cập

đến trong khoản (h)) liên quan đến doanh nghiệp hoặc nghề nghiệp của một

cá nhân, hoặc tới vấn đề tài chính và doanh nghiệp của một cơ quan, mà việc

tiết lộ các thông tin và vấn đề đó có thể có lý do chính đáng để dự đoán rằng

sẽ ảnh hưởng xấu tới các quan hệ thương mại và tài chính hợp luật của một cá

nhân hoặc cơ quan đó.

(3) Theo Bộ luật này, hồ sơ Liên bang là loại không được khai thác, nếu nó có

chứa các thông tin hoặc vấn đề có liên quan tới quan hệ cá nhân hoặc quan hệ

nghề nghiệp hay doanh nghiệp của bất kỳ một cá nhân nào (kể cả người đã

chết) hoặc có liên quan tới doanh nghiệp, các quan hệ buôn bán, tài chính của

tổ chức hoặc một hoạt động”[24; tr.21].

Mặc dù công nhận quyền sở hữu tài liệu của các tư nhân trong đó bao

gồm cả doanh nghiệp tư nhưng hệ thống pháp luật lưu trữ của các nước cũng

quy định sự quản lý của Nhà nước đối với những tài liệu lưu trữ của doanh

nghiệp có giá trị Quốc gia hay giá trị lịch sử. Luật pháp về lưu trữ ở Bê Nanh

quy đinh: “Mỗi khi tài liệu lưu trữ tư có một ý nghĩa quốc gia hay ý nghĩa

1 Điều 18. – Một ủy ban thường trực mà các thành viên được chỉ định trong Hội quốc gia về lưu trữ bằng sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ theo đề nghị của Giám đốc lưu trữ Quốc gia sẽ đánh giá tính chất quốc gia của những tài liệu đưa trình ủy ban. Ủy ban cũng tuyên bố việc thông báo một số tài lệu và việc đưa tài liệu lưu trữ tư ra khỏi lãnh thổ Quốc gia.

44

lịch sử được thừa nhận, sau khi có ý kiến của Ủy ban thường trực nói ở điều 181, Giám đốc lưu trữ Quốc gia hoặc đại diện có thể tiến hành sao tài liệu và

trong trường hợp bảo quản kém có thể yêu cầu chuyển chúng vào một kho lưu

trữ công (Sắc lệnh số 90-384 ngày 4/12/1990 của Bê Nanh)”[18; tr.38].

Tóm lại: Hầu hết Luật pháp lưu trữ các nước đều công nhận quyền sở

hữu tài liệu của doanh nghiệp. Đồng thời, quy định cụ thể các trường hợp

doanh nghiệp phải nộp tài liệu vào lưu trữ Nhà nước bảo quản và việc xuất

khẩu, bán, cho, tặng tài liệu của doanh nghiệp với một pháp nhân thứ hai phải

được sự đồng ý của cơ quan quản lý lưu trữ Nhà nước. Trường hợp xuất khẩu

tài liệu của doanh nghiệp ra nước ngoài phải có sự kiểm soát, cho phép của cơ

quan quản lý lưu trữ Nhà nước hoặc cơ quan Hải quan. Việc tiêu hủy tài liệu

của doanh nghiệp phải được thông báo cho cơ quan quản lý lưu trữ Nhà nước

biết và thẩm định. Xác định các khâu nghiệp vụ lưu trữ trong doanh nghiệp và

các hoạt động lưu trữ của doanh nghiệp đều thuộc đối tượng điều chỉnh của

pháp luật lưu trữ. Một số nước đã quy định cụ thể các nguyên tắc, chế độ

quản lý tài liệu của doanh nghiệp. Quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh

nghiệp trong việc quản lý, báo cáo, bảo quản tài liệu lưu trữ của mình. Đặt ra

các đặc quyền của lưu trữ Nhà nước đối với việc biết, ưu tiên mua, trưng mua,

thu thập,… đối với tài liệu lưu trữ doanh nghiệp trong các trường hợp cụ thể.

Những tài liệu lưu trữ có ý nghĩa quan trọng đối với Quốc gia, địa phương

được lưu trữ Nhà nước xếp hạng và thực hiện các biện pháp bảo quản, thu

mua để bảo quản trong các kho lưu trữ Nhà nước. Quy định cụ thể về các

quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với tài liệu cho, tặng, ký gửi vào lưu

trữ Nhà nước, đặc biệt là quyền cho phép hay không cho phép các cá nhân, cơ

quan, tổ chức khác kể cả cơ quan Nhà nước trong việc tiếp cận, khai thác các

thông tin tài liệu lưu trữ của doanh nghiệp nhất là tài liệu chứa bí mật thương

mại và bí mật công nghệ. Đặc biệt, luật pháp của nhiều nước đã phân định rõ

45

ràng các quyền và nghĩa vụ của lưu trữ doanh nghiệp công và tư.

2.3. Thực trạng tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ tại Tổng công ty Đƣờng

sắt Việt Nam

2.3.1. Tổ chức bộ phận có chức năng tham mưu và tổ chức thực hiện công

tác lưu trữ

Như đã phân tích ở trên, bộ phận quản lý công tác lưu trữ là một bộ

2.3.1.1. Tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức của một cơ quan. Bộ phận quản lý

công tác lưu trữ có chức năng giúp lãnh đạo quản lý công tác lưu trữ trong cơ

quan bằng việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như: Xây dựng những văn bản

quy định về công tác lưu trữ trong cơ quan; quản lý và thực hiện các nghiệp

vụ lưu trữ đối với tài liệu lưu trữ của cơ quan; đề xuất các phương án đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ lưu trữ cho cơ quan và hàng năm báo cáo tình hình thực

hiện công tác lưu trữ trong cơ quan, lập kế hoạch thực hiện công tác lưu trữ

của cơ quan trong thời gian tới.

Trước hết, cần phải khẳng định Tổng giám đốc ĐSVN là người chịu

trách nhiệm thống nhất, tổ chức, quản lý công tác văn thư – lưu trữ, TLLT của

Tổng công ty ĐSVN. Giám đốc các công ty với tư cách là đơn vị thành viên

có trách nhiệm chỉ đạo công tác văn thư – lưu trữ, TLLT, chỉ đạo việc nghiên

cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác văn thư, lưu trữ của đơn

vị mình.

Lưu trữ còn là một lĩnh vực hoạt động mang tính xã hội, giữ vị trí quan

trọng, không thể thiếu trong hoạt động của bất cứ một ngành nghề nào, bao

gồm cả ngành ĐSVN, là một công ty nhà nước, đầu tư và hoạt động chủ yếu

trong lĩnh vực giao thông vận tải theo chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước. Trên tinh thần cần phải tổ chức tốt công tác văn thư, lưu trữ ở tất

cả các cơ quan, tổ chức do Đảng và Nhà nước đề ra, ĐSVN đã có sự quan tâm

46

nhất định đối với công tác này ngay từ khi ra đời.

Hơn nữa, với quy mô tổ chức và hoạt động trên phạm vi toàn quốc,

quản lý mạng lưới giao thông đường sắt ở nhiều tỉnh, thành cùng các đơn vị

thành viên trực thuộc; khối tài liệu sản sinh trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của ĐSVN thực sự rất lớn, có giá trị; đa dạng, phong phú về các nội

dung: vận tải đa phương thức trong nước và liên vận quốc tế; quản lý, khai

thác, bảo dưỡng và sửa chữa hệ thống kết cấu hạ tầng ĐS quốc gia; kinh

doanh hệ thống kết cấu hạ tầng ĐS; điều hành giao thông vận tải ĐS; tư vấn,

khảo sát, thiết kế, chế tạo, đóng mới và sửa chữa các phương tiện, thiết bị,

phụ tùng chuyên ngành ĐS và các sản phẩm cơ khí; sản xuất và kinh doanh

vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, thực phẩm, đồ uống; kinh doanh du lịch,

khách sạn, xuất nhập khẩu hàng hóa; tư vấn, khảo sát, thiết kế, xây dựng các

công trình giao thông, thủy lợi, công nghiệp và dân dụng; dịch vụ viễn thông

và tin học; kinh doanh xăng, dầu, mỡ bôi trơn của ngành ĐS,...tài liệu hành

chính sản sinh trong quá trình quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh.

Với khối lượng lớn tài liệu đó cùng nhận thức đúng đắn về vai trò của

công tác lưu trữ và giá trị của TLLT hình thành từ quá trình hoạt động của

ĐSVN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh, tháng 5/1964 Bộ phận Văn thư -

Lưu trữ của Tổng cục Đường sắt Việt Nam thuộc Bộ Giao thông Vận tải (nay

là Tổng công ty ĐSVN) chính thức được thành lập. Từ năm 1963 trở về trước

do chưa ổn định về cơ cấu tổ chức nên ĐSVN chưa có điều kiện thiết lập bộ

phận chuyên trách về lưu trữ, song không phải vì thế mà công tác này không

được quan tâm, toàn bộ tài liệu, công văn giấy tờ đều được lưu giữ ở Kho lưu

trữ của Tổng cục ĐSVN (nay là Tổng Công ty ĐSVN).

Đến năm 1989, để thống nhất và tăng cường hoạt động quản lý trong

công tác Văn thư – Lưu trữ của cơ quan, Tổng Cục ĐSVN đã ký Quyết định

số 699-ĐS/TC ngày 23/8/1989 quy định chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng

47

và các phòng.

Gần đây nhất, ngày 30 tháng 6 năm 2014 Tổng giám đốc Tổng công ty

ĐSVN đã ký Quyết định số 868/QĐ-ĐS quy định chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng TCTĐSVN.

+ Tại TCTĐSVN, bộ phận phụ trách lưu trữ thuộc Tổ Hành chính (Văn

phòng Tổng công ty) có chức năng tham mưu giúp lãnh đạo Văn phòng trong

việc triển khai công tác lưu trữ theo quy định của Nhà nước đồng thời đề xuất

với lãnh đạo các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lưu trữ.

+ Tổ chức thực hiện, hướng dẫn công tác Văn thư – Lưu trữ và quy

trình xử lý văn bản trong cơ quan và các đơn vị của TCTĐSVN. Căn cứ các

văn bản của Nhà nước và của ĐSVN, xây dựng các văn bản chỉ đạo chung

công tác Văn thư – Lưu trữ cơ quan và các đơn vị thành viên, báo cáo lãnh

đạo Văn phòng xem xét, trình cấp có thẩm quyền ban hành.

+ Lập kế hoạch, đề xuất tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công

tác văn thư – lưu trữ của ĐSVN.

+ Lưu trữ văn bản, tài liệu của cơ quan. Tổ chức khai thác, sử dụng tài

liệu lưu trữ, bảo đảm an toàn TLLT của cơ quan.

+ Định kỳ hoặc đột xuất báo cáo về công tác văn thư, lưu trữ thuộc

phạm vi quản lý của Văn phòng và cơ quan.

+ Tham mưu đề xuất với lãnh đạo cơ quan các biên pháp nâng cao hiệu

quả hoạt động lưu trữ, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các bộ phận, cá nhân

trong cơ quan trong việc sắp xếp thống kê hồ sơ, tài liệu để giao nộp vào lưu

trữ cơ quan.

+ Phối hợp với phòng Tin học, đề xuất việc ứng dụng tiến bộ khoa học

công nghệ vào công tác văn thư – lưu trữ,

+ Thường trực giải quyết các nội dung công tác lưu trữ với các cơ quan

48

lưu trữ và nộp tài liệu lưu trữ vào Trung tâm lưu trữ theo quy định.

+ Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các bộ phận, cá nhân trong Tổng công

ty sắp xếp, thống kê, lập mục hồ sơ, TLLT

+ Bảo quản an toàn và tổ chức khai thác sử dụng TLLT của TCT.

+ Triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào công tác lưu trữ

+ Thường trực giải quyết các nội dung công tác lưu trữ của Tổng công

ty với cơ quan lưu trữ có thẩm quyền tại địa phương

+ Thực hiện giao nộp TLLT vào Trung tâm Lưu trữ tại địa phương theo

quy định

+ Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo định kỳ đột xuất công tác lưu trữ,

TLLT của Tổng công ty theo Quyết định số 14/2005/QĐ-BNV ngày

06/01/2005 của Bộ Nôi vụ.

Như vậy, theo Thông tư số 21/2005/TT-BNV ngày 01/01/2005 của Bộ

Nội vụ về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của

tổ chức văn thư, lưu trữ Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và

UBND; tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã tổ chức một bộ phận phụ

trách thực hiện nhiệm vụ công tác văn thư, lưu trữ đó là Tổ Hành chính thuộc

Văn phòng Tổng công ty đồng thời tổ chức bộ phận Văn thư - Lưu trữ thuộc

Phòng Hành chính Tổng hợp của các đơn vị thành viên. Đây thực sự là một

bước đệm quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển công tác lưu trữ của Tổng

công ty và các đơn vị thành viên, góp phần thống nhất về tổ chức và phương

thức hoạt động của Lưu trữ theo hướng khoa học, hiện đại.

2.3.1.2. Tại một số đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam có trụ sở ở thành phố Hà Nội.

Theo quy định của TCTĐSVN, căn cứ vào tình hình và khối lượng

công việc tại các đơn vị thành viên có thể tổ chức Tổ Văn thư - Lưu trữ hoặc

Bộ phận phụ trách công tác Văn thư – Lưu trữ để thực hiện các chức năng,

49

nhiệm vụ về công tác văn thư, lưu trữ.

Nhìn chung, Bộ phận Văn thư – Lưu trữ tại nhiều đơn vị thành viên

được tổ chức khá quy củ, thể hiện phong cách quản lý hiện đại, chuyên môn

hóa, thống nhất trong toàn Tổng công ty. Ngoài việc khảo sát công tác lưu trữ

ở Tổng công ty Đường sắt Việt Nam, chúng tôi còn tiến hành khảo sát công

tác lưu trữ ở một số đơn vị thành viên của Tổng công ty có trụ sở tại Hà Nội

để làm ví dụ minh chứng cho tổ chức, quản lý công tác lưu trữ của

TCTĐSVN. Ở các đơn vị thành viên trực thuộc TCTĐSVN, Bộ phận Văn thư

– Lưu trữ thuộc phòng Hành chính Tổng hợp, có chức năng tham mưu, giúp

việc cho lãnh đạo phòng Hành chính Tổng hợp và lãnh đạo Công ty trong

việc triển khai thực hiện công tác lưu trữ theo quy định của Nhà nước và của

TCTĐSVN đồng thời đề xuất với lãnh đạo các biện pháp nâng cao hiệu quả

hoạt động lưu trữ.

Theo Quyết định số 888/QĐ-ĐS ban hành quy chế công tác văn thư,

lưu trữ của Đường sắt Việt Nam ngày 15 tháng 9 năm 2011 Chủ tịch hội đồng

thành viên Đường sắt Viêt Nam quy định nhiệm vụ của cán bộ văn thư lưu trữ

như sau:

+ Hướng dẫn cán bộ, viên chức trong cơ quan, đơn vị lập hồ sơ và

chuẩn bị hồ sơ, tài liệu giao nộp vào lưu trữ hiện hành;

+ Thu thập hồ sơ, tài liệu đến hạn nộp lưu vào lưu trữ hiện hành; Phân

loại, chỉnh lý, xác định giá trị, thống kê, sắp xếp hồ sơ, tài liệu;

+ Bảo vệ, bảo quản an toàn hồ sơ, tài liệu; phục vụ việc khai thác, sử

dụng hồ sơ, tài liệu lưu trữ;

+ Lựa chọn hồ sơ, tài liệu thuộc diện nộp lưu để giao nộp vào lưu trữ

cấp trên theo quy định và làm các thủ tục tiêu hủy tài liệu hết giá trị.

Ví dụ: Tại Công ty Thông tin tín hiệu Đường sắt Hà Nội, công tác lưu

trữ được tổ chức, quản lý tương đối tốt theo mô hình quản lý tập trung thống

50

nhất (Phụ lục số 10).

2.3.2. Tổ chức tuyển dụng và bố trí nhân sự làm công tác lưu trữ

Cán bộ là nhân tố đóng vai trò quan trọng trong công tác văn thư, lưu trữ

ở các cơ quan. Trình độ của cán bộ lưu trữ có tác động trực tiếp đến phương

pháp, cách thức tổ chức khoa học tài liệu trong kho lưu trữ cơ quan. Cán bộ

có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ tìm ra phương pháp phân loại và sắp

xếp tài liệu của cơ quan một cách khoa học hợp lý, dễ tra tìm. Ngược lại trình

độ cán bộ chuyên môn thấp sẽ ảnh hưởng không tốt đến cách phân loại và sắp

xếp tài liệu của cơ quan ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác khai thác và sử

dụng tài liệu. Chính vì vậy, việc tuyển dụng và bố trí cán bộ làm công tác lưu

trữ ở cơ quan là một việc làm cần thiết, cần được sự quan tâm trực tiếp sát sao

của lãnh đạo văn phòng và lãnh đạo cơ quan.

Với mô hình quản lý tập trung thống nhất trong việc tổ chức, quản lý

công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và các đơn vị trực

thuộc Tổng công ty, mỗi cơ quan, đơn vị đều bố trí cán bộ văn thư cơ quan

kiêm nhiệm công tác lưu trữ để quản lý hồ sơ, tài liệu của đơn vị mình.

Nhiệm vụ của cán bộ văn thư lưu trữ là phải hướng dẫn cán bộ, viên chức

trong cơ quan, đơn vị lập hồ sơ và chuẩn bị hồ sơ, tài liệu giao nộp vào lưu

trữ hiện hành; Thu thập hồ sơ, tài liệu đến hạn nộp lưu vào lưu trữ hiện hành;

Phân loại, chỉnh lý, xác định giá trị, thống kê, sắp xếp hồ sơ, tài liệu; Bảo vệ,

bảo quản an toàn hồ sơ, tài liệu; phục vụ việc khai thác, sử dụng hồ sơ, tài liệu

lưu trữ; Lựa chọn hồ sơ, tài liệu thuộc diện nộp lưu để giao nộp vào lưu trữ

cấp trên theo quy định và làm các thủ tục tiêu hủy tài liệu hết giá trị. Tổng

công ty Đường sắt Việt Nam đã ban hành các quy định cụ thể về công tác lưu

trữ cho toàn Tổng công ty nên các phòng, ban, bộ phận đều phải thực hiện

công tác lưu trữ tài liệu theo quy định. Tổng công ty có bố trí kho lưu trữ và

bố trí cán bộ kiêm nhiệm quản lý kho lưu trữ. Tài liệu ở đây chủ yếu là của

51

Tổng công ty và tài liệu các công trình xây dựng của các Ban Quản lý Các dự

án ĐS (RPMU), Ban DA1, DA2, DA3 nộp về. Tuy nhiên, các bộ phận quản

lý kho lưu trữ của doanh nghiệp chưa được đào tạo chuyên môn về lưu trữ.

Chính vì thế, việc quản lý hoặc hướng dẫn các nghiệp vụ lưu trữ cho toàn

Tổng công ty cán bộ làm công tác lưu trữ chưa thực hiện được mà Tổng công

ty phải mời giảng viên ở các Trường đại học có chuyên môn về Lưu trữ để

hướng dẫn. Theo kết quả phỏng vấn thì các cán bộ làm công tác kiêm nhiệm

quản lý kho lưu trữ tại các công ty nói trên đều được đào tạo từ nhiều chuyên

ngành khác nhau như: Quản trị nhân sự; Kế toán...

Theo ý kiến của lãnh đạo Tổng công ty đường sắt Việt Nam mà chúng

tôi đã phỏng vấn họ cho rằng: Thực trạng về tuyển dụng và sử dụng cán bộ

làm công tác lưu trữ trong doanh nghiệp cũng xuất phát từ yêu cầu của doanh

nghiệp trong việc bảo mật tài liệu, văn bản. Do vậy, người được tuyển dụng,

sử dụng làm công tác văn thư - lưu trữ trong cơ quan, đơn vị chủ yếu là

thuyên chuyển cán bộ đã và đang làm việc ở các đơn vị, phòng, ban tại

TCTĐSVN vào làm công tác văn thư – lưu trữ vì họ cho rằng các cán bộ này

có kinh nghiệm và hiểu biết về tính chất đặc thù của ngành Đường sắt. Ngoài

ra, một số cán bộ được tuyển dụng mới vào làm công tác văn thư –lưu trữ

phải có đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch viên chức Hành chính, lưu trữ theo

quy định của Đường sắt Việt Nam (Phụ lục 05).

Hơn nữa, theo ý kiến của một số nhà quản lý Tổng công ty về thực tế

công tác tuyển dụng cán bộ làm công tác lưu trữ trong doanh nghiệp cũng

xuất phát từ nhiều hạn chế của nguồn lao động đã qua đào tạo về lưu trữ của

Việt Nam. Theo quan điểm này, cho rằng tài liệu hình thành trong thực tiễn

doanh nghiệp có nhiều đặc điểm khác biệt so với hệ thống văn bản hình thành

trong hoạt động của cơ quan Nhà nước như: Hệ thống văn bản, tài liệu của

doanh nghiệp có rất nhiều loại văn bản chuyên môn, đặc biệt là các văn bản

52

về lĩnh vực kỹ thuật, kinh tế, thương mại như: các hợp đồng kinh tế, các tài

liệu hướng dẫn kỹ thuật , tài liệu khoa học kỹ thuật, tài liệu xây dựng cơ bản,

lý trình dọc tuyến đường sắt, tài liệu về các tiêu chuẩn kỹ thuật Ray-Ghi, lệnh

chạy tàu, biểu đồ chạy tàu các tuyến, bản vẽ tín hiệu các ga...

Như đã trình bày ở trên, qua quá trình chúng tôi khảo sát tại Tổng công

ty và một số đơn vị trực thuộc Tổng công ty thì tổ chức, nhân sự làm công tác

lưu trữ tính đến ngày 31/12/2013, tổ chức văn thư – lưu trữ kiêm nhiệm có 03

phòng văn thư- lưu trữ; 11 tổ văn thư – lưu trữ; 01 bộ phận văn thư- lưu trữ.

Nhân sự làm công tác văn thư – lưu trữ có 80 người, trong đó: 06 người có

trình độ đại học chuyên ngành văn thư – lưu trữ; 28 người có tình độ đại học

chuyên ngành khác; 03 người có trình độ cao đẳng chuyên ngành khác; 10

người có trình độ trung cấp chuyên ngành văn thư – lưu trữ; 11 người có trình

độ trung cấp chuyên ngành khác; 11 người có trình độ sơ cấp (tập huấn ngắn

hạn). Qua kết quả khảo sát thực tế của chúng tôi tại doanh nghiệp cho thấy

còn khá nhiều các cán bộ phụ trách công tác lưu trữ làm việc không đúng với

ngành được đào tạo (Phụ lục số 02).

Mục đích cơ bản nhất của doanh nghiệp khi đầu tư sản xuất, kinh

doanh là tối ưu hóa lợi nhuận nên trong thực tế công tác lưu trữ trong doanh

nghiệp chưa mang lại lợi ích trước mắt nhiều nên đã trở thành lực cản để các

nhà lãnh đạo Tổng công ty dành sự quan tâm và đầu tư thích đáng trong việc

tuyển dụng cán bộ chuyên trách, xây dựng kho lưu trữ, bảo quản tài liệu của

doanh nghiệp mình. Như vậy, kết quả cho thấy công tác tuyển dụng, sử dụng

cán bộ làm công tác lưu trữ trong doanh nghiệp còn hạn chế. Các cán bộ

chuyên môn làm kiêm nhiệm công tác lưu trữ còn nhiều. Vì thế hiệu quả công

tác lưu trữ tại Tổng công ty chưa cao.

2.3.3. Ban hành văn bản quy định về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ

Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào

53

cũng đều phải sử dụng văn bản như một phương tiện giao tiếp chính thức để

thực hiện các hoạt động giao dịch, điều hành và quản lý doanh nghiệp mình.

Ngày nay, mặc dù công nghệ thông tin phát triển mạnh, các phương tiện

truyền tải thông tin hiện đại đang dần chiếm ưu thế nhưng chức năng quan

trọng đó của văn bản không hề bị mất đi. Để thực hiện một chức năng, nhiệm

vụ hay một chủ trương, chính sách về lĩnh vực nào đó chúng ta luôn cần đến

văn bản để quy định và điều chỉnh.

Qua quá trình hình thành và phát triển, cùng với việc ban hành văn bản,

quyết định quản lý, điều hành; Đường sắt Việt Nam đã xây dựng một hệ

thống văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác lưu trữ một cách đồng bộ, toàn

diện, tạo điều kiện cho công tác này được thực hiện một cách bài bản, khoa

học, thống nhất tại Đường sắt Việt Nam và các đơn vị thành viên. Việc ban

hành văn bản quy định về công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam dựa trên hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác này và phù hợp

với tình hình thực tế của cơ quan. Để tổ chức, quản lý thống nhất công tác lưu

trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và các đơn vị trực thuộc,

TCTĐSVN đã ban hành một số văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện

nghiệp vụ công tác lưu trữ, cụ thế như: Quyết định số 451/QĐ-ĐS-VP ngày

08/9/2003 của HĐQT về việc ban hành Quy chế quản lý công văn, tài liệu,

công tác lưu trữ tại TCTĐSVN; ngày 15 tháng 9 năm 2011 Chủ tịch hội đồng

thành viên Đường sắt Viêt Nam đã ban hành Quyết định số 888/QĐ-ĐS ban

hành Quy chế công tác văn thư, lưu trữ của Đường sắt Việt Nam; Tài liệu phổ

biến, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 01/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một

số điều của Luật Lưu trữ; Công văn số 2839/ĐS-VP của TCTĐSVN ngày

11/11/2013 quy định về việc nộp hồ sơ tài liệu và lưu trữ VP Tổng công ty;

Công văn số 3259/ĐS-VP của TCTĐSVN ngày 18/12/2013 về việc thực hiện

chế độ báo cáo thống kê định kỳ công tác văn thư, lưu trữ và tài liệu lưu trữ;

54

văn bản hướng dẫn truy cập Thông tư số 04/2014/TT-BNV quy định mức

kinh tế - kỹ thuật tạo lập cơ sở dữ liệu TLLT... Trong các văn bản này quy

định cụ thể về thẩm quyền ban hành và trách nhiệm quản lý, thực hiện công

tác văn thư, lưu trữ; Tổ chức bộ máy, nhận sự và nhiệm vụ của văn thư, lưu

trữ; kinh phí hoạt động văn thư, lưu trữ; Nghiệp vụ văn thư – lưu trữ. Ngoài

ra, văn bản còn quy định cụ thể việc kiểm tra, hướng dẫn ngiệp vụ, khen

thưởng, xử lý vi phạm và tổ chức thực hiện công tác văn thư, lưu trữ (Phụ

lục 01).

Những quy định trong văn bản được ban hành về cơ bản đã cụ thể hóa

các quy định của Nhà nước về công tác lưu trữ để phù hợp với đặc điểm tổ

chức và hoạt động của TCTĐSVN. Các văn bản đó phần lớn là được ban

hành bằng các văn bản của Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị nên hiệu lực

của chúng đối với nội bộ TCTĐSVN là tương đối cao. Phạm vi điều chỉnh

của chúng không chỉ giới hạn ở cơ quan TCT mà còn có giá trị áp dụng đối

với các đơn vị thành viên.

Nhìn chung, các văn bản này đều được sao gửi tới tất cả các bộ phận

thuộc cơ cấu tổ chức của TCTĐSVN và các đơn vị thành viên của

TCTĐSVN nhằm hướng dẫn thống nhất các quy định về công tác lưu trữ của

TCT và yêu cầu các đơn vị triển khai thực hiện nghiêm túc đồng thời quán

triệt đến từng cán bộ, chuyên viên, nhân viên làm việc liên quan đến công

tác công văn giấy tờ.

Việc xây dựng hệ thống văn bản trên chứng tỏ sự quan tâm của Lãnh

đạo TCT đối với công tác văn thư – lưu trữ, đây thực sự là cơ sở quan trọng

cho việc thực hiện tốt công tác lưu trữ của TCTĐSVN và các đơn vị thành

viên; góp phần không nhỏ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của TCTĐSVN.

2.3.4. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cán bộ lưu trữ

Qua tìm hiểu thực tế tại TCTĐSVN, chúng tôi được biết TCT thường

55

xuyên tổ chức và cử các cán bộ, chuyên viên theo học các lớp tập huấn, bồi

dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về công tác văn thư – lưu trữ đồng thời tạo điều

kiện thuận lợi cho cán bộ văn thư –lưu trữ không ngừng nâng cao trình độ

chuyên môn của bản thân. Đó là các lớp tập huấn do Chính phủ, Bộ giao

thông vận tải, Cục văn thư – Lưu trữ Nhà nước và các cơ quan cấp trên khác

tổ chức mang tính định kỳ mỗi năm 1 lần (thường diễn ra vào tháng 11). Đối

tượng tham gia tập huấn là toàn thể cán bộ của ĐSVN làm công tác công văn,

giấy tờ dưới nhiều hình thức như: Hội nghị chuyên đề tập huấn nghiệp vụ, kết

hợp phổ biến trong giao ban hay đơn thuần là truyền đạt qua công việc thực tế

hàng ngày.

Cơ quan TCTĐSVN và các đơn vị thành viên luôn tạo điều kiện cho

cán bộ tham gia các lớp đào tạo các cấp về chuyên môn văn thư- lưu trữ, hành

chính văn phòng từ bổ túc nghiệp vụ đến trung cấp chuyên nghiệp hay học đại

học chuyên ngành về lưu trữ, hành chính. TCTĐSVN cũng thường xuyên tổ

chức các lớp tập huấn, phổ biến các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ văn thư,

lưu trữ của cấp trên. Từ năm 2003 đến nay, bình quân TCTĐSVN tổ chức tập

huấn và Hội nghị, hội thảo chuyên đề về công tác văn thư –lưu trữ và soạn

thảo văn bản 02 lần/năm cho toàn Tổng công ty, doanh nghiệp đã có chính

sách đào tạo về nghiệp vụ lưu trữ cho cán bộ, nhân viên kiêm nhiệm của

mình. Do vậy hiệu quả công tác lưu trữ trong doanh nghiệp đã đạt được kết

quả đáng kể. Tháng 7 năm 2006 TCTĐSVN cử đoàn cán bộ Văn phòng TCT

sang Malaysia tham quan và học tập. Những đợt tập huấn được tổ chức định

kỳ không những giúp cho cán bộ, chuyên viên nâng cao được trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ mà còn bồi dưỡng nhận thức về nghề nghiệp, ý thức đúng về

tầm quan trọng của công việc mình đảm nhận, từ đó hun đúc thêm cho họ

lòng yêu nghề và nỗ lực để hoàn thành tốt công việc được giao. Kết thúc

những đợt tập huấn, TCTĐSVN thường có những bài kiểm tra để đánh giá

56

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của từng cán bộ làm công tác văn thư – lưu

trữ và đánh giá hiệu quả của đợt tập huấn, từ đó TCTĐSVN rút ra những bài

học kinh nghiệm cho các lần tổ chức tập huấn tiếp theo được quy mô hơn,

hiệu quả hơn (Phụ lục 08)

Bên cạnh việc tổ chức các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ văn thư

– lưu trữ, việc thực hiện chế độ chính sách đối với những người làm công tác

văn thư – lưu trữ cũng đã được các cấp lãnh đạo ở từng đơn vị quan tâm, chú

ý. Các cán bộ đảm nhận công tác văn thư – lưu trữ trong TCT đã được hưởng

lương theo đúng chế độ hiện hành của Nhà nước.

2.3.5. Thực hiện thống nhất chuyên môn, nghiệp vụ lưu trữ

Việc thực hiện thống nhất các chuyên môn, nghiệp vụ lưu trữ là một

nội dung quan trọng và là một yêu cầu tất yếu trong quá trình tổ chức, quản lý

công tác lưu trữ. Đó thực sự là tiền đề thúc đẩy công tác lưu trữ phát triển

theo hướng ngày càng nâng cao về chất lượng, phục vụ có hiệu quả cho nhu

cầu khai thác thông tin của xã hội.

Nhiệm vụ thực hiện thống nhất các nhiệp vụ lưu trữ cũng đồng nghĩa

với việc quản lý tốt khối TLLT của TCTĐSVN, bao gồm các hoạt động:

- Thu thập, bổ sung tài liệu vào lưu trữ hiện hành.

- Tổ chức khoa học TLLT

- Bảo quản TLLT

- Tổ chức khai thác, sử dụng TLLT

- Giao nộp TLLT vào Lưu trữ lịch sử

Vai trò của Lưu trữ TCTĐSVN trong việc quản lý thống nhất các

nghiệp vụ lưu trữ đối với các đơn vị thành viên thể hiện ở việc ban hành các

văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về lưu trữ trên cơ sở cụ thể hóa các văn bản của

Nhà nước liên quan đến vấn đề này và tố chức kiểm tra việc thực hiện. Công

tác lưu trữ các đơn vị thành viên vẫn độc lập trong việc thực hiện các nghiệp

57

vụ đó và tự tổ chức, quản lý khối tài liệu của mình sao cho khoa học đồng

thời tổ chức khai thác sử dụng chúng có hiệu quả theo đúng quy định của Nhà

nước và TCT.

Tình hình thực hiện các nghiệp vụ lưu trữ cụ thể sau:

2.3.5.1. Về tổ chức khoa học TLLT

Tổ chức khoa học TLLT thực chất là việc thực hiện các khâu nghiệp vụ

lưu trữ như: thu thập, bổ sung TLLT; phân loại khoa học TLLT; xác định giá

trị TLLT và xây dựng công cụ tra tìm TLLT.

* Về công tác thu thập và bổ sung TLLT

Thu thập, bổ sung TLLT là khâu nghiệp vụ được thực hiện đầu tiên

trong số các nghiệp vụ lưu trữ. Khâu thu thập có được thực hiện đúng quy

định và kế hoạch thì mới đảm bảo cho việc tiến hành các khâu nghiệp tiếp

theo một cách thuận lợi, có hiệu quả.

Việc thu thập, bổ sung tài liệu, hồ sơ vào Lưu trữ được thực hiện theo

quy định của Nhà nước và Quy chế tổ chức và hoạt động văn thư, lưu trữ của

TCTĐSVN ban hành kèm theo Quyết định số 888/QĐ- ĐS.

Thời hạn giao nộp tài liệu:

Hàng năm, theo thời hạn quy định, Lưu trữ TCT và lưu trữ các đơn vị

thành viên có nhiệm vụ tổ chức thu thập những hồ sơ đã đến hạn nộp lưu (từ

việc lập kế hoạch thu thập, hướng dẫn các đơn vị cá nhân chuẩn bị tài liệu

giao nộp cho đến việc chuẩn bị kho tàng, các phương tiện tiếp nhận và làm

các thủ tục tiếp nhận), cụ thể như sau:

+ Tài liệu hành chính: sau 01 năm kể từ năm kết thúc công việc;

+ Tài liệu xây dựng cơ bản: sau 03 tháng kể từ khi công trình được

quyết toán;

+ Tài liệu nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ: sau 01

58

năm kể từ năm công trình được nghiệm thu chính chức;

+ Tài liệu phim ảnh, microphim, tài liệu ghi âm, ghi hình và tài liệu

khác: sau 03 tháng kể từ khi công việc được kết thúc.

Nhưng trên thực tế, các quy định trên chưa được thực hiện một cách

nghiêm túc, đầy đủ; chỉ khi các phòng ban không còn không gian để tài liệu

hoặc khối tài liệu đó đã hết giá trị hiện hành thì mới chịu giao nộp tài liệu vào

Lưu trữ cơ quan TCT. Điều này ít nhiều cũng gây khó khăn cho công tác

chỉnh lý TLLT cũng như toàn bộ công tác lưu trữ TCT.

Nguồn nộp lưu tài liệu:

Nguồn tài liệu bổ sung cho Lưu trữ TCT bao gồm hồ sơ, tài liệu của

các phòng, ban chức năng thuộc cơ cầu tổ chức của TCTĐSVN như: Văn

phòng, Ban nghiệp vụ giúp việc Hội đồng quản trị, Ban Tổ chức cán bộ - lao

động, Ban kế hoạch đầu tư, Ban tài chính kế toán, Ban Vận chuyển, Ban

Quan hệ quốc tế, Ban khoa học công nghệ, Ban đầu máy toa xe, Ban kinh

doanh tiếp thị, Ban quản lý dự án xây dựng đường sắt, Ban quản lý dự án hạ

tầng đường sắt, Ban Thống kê máy tính, Ban Kiểm soát, Ban Thanh tra - Pháp

chế,... Do đặc điểm quản lý đã nêu trên, Kho lưu trữ TCTĐSVN không thu

thập tài liệu của các đơn vị thành viên mà các đơn vị thành viên đó tự thu thập

và quản lý khối tài liệu của mình trừ các hồ sơ hoàn công của các Ban Quản

lý dự án ĐS DA1, DA2, DA3.

Các đợt giao nộp tài liệu của các Ban về Kho phụ thuộc vào khối lượng

tài liệu của các Ban sản sinh ra nhiều hay ít. Có Ban tiến hành giao nộp tài

liệu khá thường xuyên như: Ban Ban kế hoạch đầu tư, Ban tài chính kế toán,

Ban Vận chuyển, Ban quản lý dự án xây dựng đường sắt, Ban quản lý dự án

hạ tầng đường sắt,... do tài liệu về dự án, kế hoạch đầu tư hay tài liệu thanh

quyết toán,...sản sinh ra nhiều. Bên cạnh đó có những Ban chưa tiến hành giao

nộp hay rất ít khi giao nộp tài liệu vào Kho như: Ban Thống kê máy tính, Ban

59

kinh doanh tiếp thị, Ban Kiểm soát,...

Qua số liệu thống kê ban đầu, tính từ tháng 01/2010 đến tháng 6/2013,

trên 700m giá tài liệu đã được thu thập, bổ sung vào kho lưu trữ TCT.

Thủ tục giao nộp:

Thủ tục giao nộp tài liệu về kho được tiến hành khá đơn giản. Trước

hết, đơn vị có tài liệu cần giao nộp có Công văn đề nghị Văn phòng tiếp nhận

tài liệu. Căn cứ vào công văn đề nghị, khối lượng tài liệu, tình trạng tài liệu

mà Văn phòng chuẩn bị kế hoạch tiếp nhận phù hợp: cặp hộp đựng tài liệu,

phương pháp tiếp nhận,....

Công tác giao nộp được tiến hành có sự phối hợp giữa cán bộ lưu trữ và

đại diện đơn vị giao nộp tài liệu.

Khi giao nộp sẽ có hai bản “Thống kế hồ sơ, tài liệu nộp lưu” và hai

bản “Biên bản giao nhận tài liệu” với chữ ký của hai bên được lập, đơn vị có

tài liệu giao nộp sẽ giữ mỗi loại một bản (mẫu thống kê và biên bản theo mẫu

của Cục Văn thư – Lưu trữ Nhà nước). Điển hình là Ban cơ sở hạ tầng Đường

sắt, Ban xây dựng cơ bản đều có bảng kê các hồ sơ công trình theo mã công

trình đi kèm theo khi giao nộp cho lưu trữ cơ quan. Trong trường hợp tài liệu

chưa được lập hồ sơ thì bàn giao tài liệu được thống kê theo hộp thùng.

* Về phân loại phông lưu trữ TCT:

Theo nghĩa chung nhất, phân loại TLLT là căn cứ vào các đặc trưng

chung của tài liệu để phân chia chúng thành các nhóm (nhóm lớn, nhóm nhỏ,

nhóm nhỏ hơn, nhóm nhỏ nhất) nhằm tổ chức khoa học và sử dụng có hiệu

quả những tài liệu đó. Thực chất đây chính là việc sắp xếp khoa học tài liệu

dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính logic, hợp lý cho tài liệu sau khi phân chúng

ra thành từng nhóm nhất định.

Với sự khác biệt cơ bản về đặc điểm, tính chất giữa các loại hình tài

liệu thì không có một phương án phân loại thống nhất nào chung cho tất cả.

60

Như đã trình bày, tài liệu sản sinh từ hoạt động của ĐSVN phần lớn là tài liệu

hành chính và tài liệu các công trình xây dựng cơ bản. Do vậy, phương án

phân loại đối với TLLT hành chính là hoàn toàn khác so với TLLT khoa học

kỹ thuật và theo các đặc trưng khác nhau của tài liệu.

* Về xác định giá trị tài liệu lưu trữ

Xác định giá trị là dựa trên những nguyên tắc, phương pháp, tiêu chuẩn

nhất định để nghiên cứu và quy định thời hạn bảo quản cho từng loại hình tài

liệu theo giá trị của chúng về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,...Từ đó lựa

chọn những tài liệu có giá trị để đưa vào lưu trữ đồng thời loại bỏ những tài

liệu đã hết giá trị.

Đây là một trong những khâu nghiệp vụ hết sức quan trọng thuộc nội

dung của công tác lưu trữ bởi nó mang tính quyết định rất lớn đối với số phận

tài liệu.

Thực tế tại TCT cho thấy rằng đây là khâu nghiệp vụ được lãnh đạo

TCT quan tâm rất nhiều và có những quy định rất chặt chẽ bởi khối lượng tài

liệu sản sinh hàng năm của ĐSVN là rất lớn trong khi đó diện tích kho lại hết

sức hạn hẹp; có lựa chọn chính xác, khoa học những tài liệu thực sự có giá trị

vào lưu trữ hiện hành thì mới đảm bảo có đủ mặt bằng bảo quản an toàn khối

tài liệu đó; phục vụ hiệu quả mọi nhu cầu khai thác, sử dụng của TCT.

Có thể khẳng định rằng ưu điểm lớn nhất trong công tác lưu trữ của

TCT là việc xác định giá trị tài liệu được thực hiện một cách khoa học, chặt

chẽ và hệ thống. Khâu nghiệp vụ này được tiến hành dựa trên cơ sở là những

hướng dẫn, quy định cụ thể về thời hạn bảo quản TLLT trong Bảng thời hạn

bảo quản TLLT của TCTĐSVN ban hành kèm Quyết định số 888/QĐ-ĐS.

Văn bản này không chỉ mang tính chất hướng dẫn mà còn tạo điều kiện cho

công tác xác định giá trị tài liệu được tiến hành thống nhất trong toàn cơ quan

61

TCT. Trên cơ sở đó, hội đồng xác định giá trị tài liệu được thành lập để tiến

hành xác định giá trị tài liệu khách quan và khoa học hơn. Thành phần Hội

đồng xác định giá trị tài liệu gồm:

- Tại cơ quan Tổng công ty:

+ Chánh văn phòng – Chủ tịch Hội đồng;

+ Lãnh đạo đơn vị có tài liệu - Ủy viên;

+ Trưởng phòng Văn Thư – Lưu trữ - Ủy viên;

+ Cán bộ phòng Văn thư – Lưu trữ - Thư ký Hội đồng.

- Tại các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty:

+ Thủ trưởng đơn vị - Chủ tịch Hội đồng

+ Trưởng phòng (Tổ trưởng) Văn thư – Lưu trữ - Ủy viên;

+ Lãnh đạo đơn vị có tài liệu - Ủy viên;

+ Cán bộ thuộc phòng (tố) Văn thư – Lưu trữ - Thư ký Hội đồng.

Hội đồng xác định giá trị tài liệu có nhiệm vụ tư vấn cho người đứng

đầu đơn vị về việc quyết định: mục lục hồ sơ, tài liệu giữ lại bảo quản; danh

mục tài liệu hết giá trị và làm việc theo phương thức thảo luận tập thể và biểu

quyết theo đa số.

Kết quả của việc xác định giá trị tài liệu là giữ lại những tài liệu có giá

trị với thời hạn bảo quản lâu dài và vĩnh viễn như: tài liệu về các công trình

xây dựng cơ bản (được giữ lại tối thiểu và đồng thời với tuổi thọ công trình);

tài liệu tư vấn, khảo sát, thiết kế, chế tạo, đóng mới và sửa chữa các phương

tiện, thiết bị, phụ tùng chuyên ngành ĐS, tài chính kế toán, kiểm toán; tư vấn,

khảo sát, thiết kế, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, công nghiệp

và dân dụng; tài liệu quy hoạch, kinh doanh vận tải ĐS; tài liệu kinh doanh hệ

thống kết cấu hạ tầng ĐS; tài liệu điều hành giao thông vận tải ĐS; tài liệu

dịch vụ viễn thông, phát hành báo đường sắt và tin học;...đồng thời loại hủy

những tài liệu hết giá trị, tài liệu trùng thừa, tài liệu gửi đến để biết, tài liệu

62

không phản ánh chức năng, nhiệm vụ của ĐSVN,...Việc loại hủy tài liệu cũng

được tiến hành hết sức cẩn thận, theo một quy trình nhất định. Sau khi có ý

kiến thẩm định bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền, Tổng giám đốc,

Thủ trưởng đơn vị cho phép hủy tài liệu hết giá trị bảo quản tại Lưu trữ

TCT, Lưu trữ đơn vị theo đề nghị của Hội đồng xác định giá trih tài liệu.

Việc tiêu hủy được lập thành hồ sơ và phải đảm bảo tiêu hủy thông tin tài

liệu. Uu điểm trong công tác xác định giá trị tài liệu đã góp phần nâng cao

chất lượng công tác lưu trữ của TCTĐSVN nói riêng và trong các doang

nghiệp nói chung.

2.3.5.2. Về công tác tổ chức khai thác sử dụng TLLT.

Thực tế cho thấy, mục đích cuối cùng và cũng là cái đích của công tác

lưu trữ là phải tổ chức sử dụng tốt các TLLT vào các mục đích khác nhau của

đời sống xã hội. Nó là một mặt của hoạt động thông tin khoa học và là một

trong những chức năng quan trọng và tất yếu của các phòng, kho lưu trữ. Có

tổ chức tốt khâu khai thác, sử dụng TLLT thì mới phát huy hết giá trị của bản

thân chúng và góp phần khẳng định ý nghĩa của TLLT cũng như vị trí, vai trò

của công tác lưu trữ trong xã hội.

Việc khai thác, sử dụng TLLT của TCT được thực hiện một quy trình,

thủ tục và những quy định cụ thể tại Quy chế tổ chức và hoạt động văn thư,

lưu trữ ban hành kèm Quyết định số 888/QĐ-ĐS.

* Đối tượng được khai thác, sử dụng TLLT:

- Cán bộ công nhân viên thực hiện nhiệm vụ được giao;

- Công chức, viên chức ngoài TCT được Thủ trưởng cơ quan phê

duyệt, cho phép sử dụng tài liệu để thực hiện nhiệm vụ được giao;

- Các cá nhân trong và ngoài nước sử dụng TLLT với mục đích chính

đáng và được Thủ trưởng cơ quan cho phép sử dụng.

Như vậy, theo quy định, đối tượng khai thác, sử dụng TLLT của ĐSVN

63

là tương đối rộng, mọi cán bộ trong, ngoài cơ quan TCT cũng như mọi cá

nhân trong và ngoài nước khi có nhu cầu chính đáng và được sự cho phép của

Thủ trưởng cơ quan thì đều được phục vụ.

Qua khảo sát thực tế tại ĐSVN thì đối tượng khai thác, sử dụng TLLT

chủ yếu là các cán bộ chuyên viên thuộc các phòng, ban chức năng; các đơn

vị thuộc cơ cấu tổ chức của TCT mà phần lớn là các chuyên viên Ban cơ sở

hạ tầng, Ban Kế toán – Tài chính. Loại tài liệu được mang ra khai thác chủ

yếu là tài liệu thanh quyết toán các công trình, dự án đầu tư; tài liệu thiết kế

và các công văn hành chính dưới dạng một hồ sơ hay một/ một số văn bản

trong hồ sơ.

* Mục đích khai thác, sử dụng:

TLLT của ĐSVN được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, gồm:

- Sản xuất kinh doanh;

- Thanh kiểm tra về các dự án, công trình;

- Đánh giá, xem xét, bình bầu khen thưởng;

- Nghiên cứu khoa học;

Trong đó, mục đích chủ yếu, thường xuyên và nhiều nhất là mục đích

sản xuất kinh doanh của cơ quan TCT và mục đích kiểm tra về các dự án,

công trình của các cơ quan nhà nước.

TCTĐSVN là một doanh nghiệp lớn cũng có các quyền và nghĩa vụ

trước pháp luật. Đình kỳ hoặc đột xuất, các cơ quan quản lý thuế có thể đến

kiểm tra nghĩa vụ đóng thuế của TCT và TLLT là một trong những chứng cứ

quan trọng để chứng minh việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình với

Nhà nước. Các TLLT về kiểm toán còn minh chứng cho khả năng ổn định và

phát triển vững mạnh về tài chính nhắm thu hút các ngồn vốn đầu tư trong và

ngoài nước.

* Hình thức khai thác, sử dụng:

Có nhiều hình thức khai thác, sử dụng TLLT của TCT được quy định

64

bằng văn bản, đó là: nghiên cứu tại chỗ, sao chụp tài liệu, xác nhận hồ sơ gốc.

TLLT chỉ được khai thác tại chỗ trong trường hợp đặc biệt cần đưa ra ngoài

kho phải được lãnh đạo đơn vị quản lý tài liệu cho phép bằng văn bản.

* Thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu:

- Bước 1: Các đơn vị, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu

soạn thảo công văn xin khai thác tài liệu.

- Bước 2: Trình lãnh đạo đơn vị ký duyệt.

- Bước 3: Trình lãnh đạo Văn phòng TCT xem xét và cho ý kiến.

- Bước 4: Sau khi có ý kiến đồng ý của lãnh đạo Văn phòng vào văn

bản xin khai thác, công văn sẽ được chuyển xuống bộ phận lưu trữ để cán bộ

lưu trữ giải quyết.

Khi cung cấp tài liệu cho đối tượng sử dụng, cán bộ lưu trữ TCT sẽ lập

một biên bản giao nhận, trong đó có các thông tin cơ bản bao gồm:

- Tên người khai thác.

- Đơn vị, cơ quan công tác.

- Hồ sơ, tài liệu đem ra khai thác.

- Ngày khai thác.

- Mục đích khai thác.

Do điều kiện không cho phép nên chúng tôi không thể thống kê chi tiết

số lượng, số lượt độc giả đến khai thác, sử dụng TLLT trong từng năm mà chỉ

có thể đưa ra con số tổng hợp dựa trên các báo cáo về công tác văn thư – lưu

trữ của TCT như sau:

Số lượt người khai thác, sử dụng TLLT Thời gian

Năm 2010 30

Năm 2011 26

Năm 2012 34

65

Năm 2013 30

Sự chênh lệch về số liệu thống kê trên chưa thể khẳng định được hiệu

quả công tác khai thác, sử dụng TLLT của TCT trong từng năm là cao hay

không cao bởi điều đó còn phụ thuộc nhiều vào nhu cầu của các cán bộ,

chuyên viên trong từng năm. Theo báo cáo thống kê tình hình công tác văn

thư – lưu trữ TCT năm 2010, tính đến ngày 31/12/2010, tổng số lượt người

khai thác, sử dụng TLLT là 30 với tổng số 640 hồ sơ, đơn vị bảo quản đem ra

phục vụ nhu cầu của độc giả.

Nhìn chung, công tác khai thác và sử dụng tài liệu tại TCT còn mang

tính thụ động và chưa phát huy được tiềm năng của tài liệu lưu trữ đối với

hoạt động sản xuất kinh doanh của TCT. Giữa những quy định mang tính

khoa học bằng văn bản cụ thể và tình hình thực tế thực hiện quy định đó về

khai thác TLLT không có sự thống nhất. Nguyên nhân của hạn chế này là bởi

diện tích kho lưu trữ TCT quá hẹp so với khối lượng lớn TLLT.

2.3.5.3. Về công tác giao nộp tài liệu vào kho Lưu trữ lịch sử

Trước hết, cần phải khẳng định TLLT của ĐSVN là TLLT quốc gia và

thuộc thành phần Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Điều 2 Luật Lưu trữ số:

01/2011/QH13 của Quốc hội ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2011 đã nêu rất

rõ:” Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam là toàn bộ tài liệu lưu trữ của nước Việt

Nam, không phụ thuộc vào thời gian hình thành, nơi bảo quản, chế độ chính

trị - xã hội, kỹ thuật ghi tin và vật mang tin.

Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm Phông lưu trữ Đảng Cộng

sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam.

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam là toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình

thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị

xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức

kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân vật lịch sử, tiêu biểu

66

và tài liệu khác được hình thành qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.

Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam gồm các phông lưu trữ của cơ quan,

tổ chức, cá nhân...”. Tổ chức kinh tế trong định nghĩa này là bao gồm tất cả

các loại hình doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau. TCTĐSVN là

một cơ quan do Chính phủ thành lập theo Quyết định số 34/2003/QĐ-

TTg ngày 4/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Liên hiệp

Đường sắt Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo mô hình

Tổng Công ty Nhà nước, chịu sự quản lý trực tiếp của Chính phủ và Bộ giao

thông vận tải, bởi vậy toàn bộ tài liệu sản sinh ra trong quá trình hoạt động

của TCT đều thuộc nguồn nộp lưu vào Lưu trữ lịch sử.

Với giá trị to lớn về nhiều mặt của tài liệu hình thành trong hoạt động

sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam như đã phân tích

ở phần trên thì đây là nguồn nộp lưu quan trọng vào Trung tâm Lưu trữ Quốc

gia III, nhằm phục vụ tốt cho mục đích nghiên cứu và khai thác thông tin của

xã hội.

TLLT của các đơn vị thành viên thuộc diện nộp lưu vào Lưu trữ tỉnh,

thành phố, trực thuộc TW thì được giao nộp vao Trung tâm lưu trữ tỉnh, thành

phố nơi đặt trụ sở Công ty. Như vậy, thành phần hồ sơ tài liệu của các đơn vị

thành viên thuộc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội sẽ là

nguồn nộp lưu vào Trung tâm lưu trữ Thành phố Hà Nội theo hướng dẫn của

Cục Văn thư – lưu trữ Nhà nước tại Công văn số 102/VTLTNN-NVĐP ngày

04/3/2004.

Tuân thủ theo Luật Lưu trữ số: 01/2011/QH13 của Quốc hội ban hành

ngày 11 tháng 11 năm 2011, thời hạn giao nộp tài liệu vào Lưu trữ lịch sử, cụ

thể như sau:

+) Tài liệu hành chính, tài liệu nghiên cứu khoa học, tài liệu xây dựng

67

cơ bản: Sau 10 năm kể từ năm tài liệu được nộp vào Lưu trữ Tổng Công ty

hoặc sau 05 năm kể từ năm tài liệu được nộp vào Lưu trữ tỉnh, thành phố trực

thuộc TW.

+) Tài liệu ảnh, phim điện ảnh, micro phim, tài liệu ghi âm, ghi hình:

sau 02 năm kể từ năm tài liệu được giao nộp vào Lưu trữ hiện hành.

Từ khi thành lập đến nay, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã nộp

9m giá tài liệu vào Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III

Có thể thấy rằng tài liệu sản sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của

Tông công ty Đường sắt Việt Nam là rất lớn và có giá trị không chỉ đối với cơ

quan Tổng công ty mà còn có ý nghĩa quốc gia, là thành phần quan trọng nộp

lưu vào Lưu trữ lịch sử. Việc thu thập, bổ sung vào Lưu trữ (cả Lưu trữ hiện

hành và Lưu trữ lịch sử) được thực hiện thường xuyên theo đúng thời hạn và

quy định của Nhà nước và Tổng công ty sẽ khắc phục tình trạng thất thoát

khối tài liệu có ý nghĩa quốc gia trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ

Đường sắt này.

2.3.6. Xây dựng kho tàng, trang thiết bị bảo quản TLLT.

Bảo quản tài liệu lưu trữ là công tác tổ chức và thực hiện các biện pháp,

trong đó chủ yếu là các biện pháp khoa học kỹ thuật để bảo vệ an toàn và kéo

dài tuổi thọ cho tài liệu nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác khai thác và sử

dụng tài liệu trong hiện tại và tương lai.

Việc bảo quản an toàn TLLT của ĐSVN là cần thiết và tất yếu bởi khối

tài liệu đó phần lớn là tài liệu về các công trình xây dựng cơ bản, thời hạn bảo

quản của chúng thường là đồng thời hoặc có thể lâu hơn so với tuổi thọ công

trình tùy vào mục đích sử dụng. Khối tài liệu càng lớn, càng phong phú về nội

dung và có giá trị về nhiều mặt thì càng phải tố chức các điều kiện bảo quản

cho tốt.

Hiện nay, toàn bộ TLLT của TCT đang được bảo quản tại 02 kho lưu

68

trữ ở tầng 1 tại Tổng công ty. Tình trạng vật lý của tài liệu ở kho nhìn chung

không được tốt vì khối tài liệu trong kho lưu trữ là khối tài liệu cũ từ năm

1927 đến nay, tài liệu rất bụi bẩn, ẩm mốc do trước đó không có chế độ bảo

quản tốt. Khối tài liệu hành chính, tài liệu khoa học kỹ thuật từ năm 1927 đến

nay có 122m đã chỉnh lý. Diện tích kho lưu trữ không lớn (tổng diện tích là 140 m2) chỉ đủ để đặt các giá tài liệu, không có không gian để chỉnh lý tài liệu

hoặc để tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu nhưng khối tài liệu hành chính và

tài liệu khoa học kỹ thuật vẫn được bảo quản riêng biệt. Hiện nay, diện tích

kho đã quá tải, nhiều hộp tài liệu phải để dưới nền kho lưu trữ (cụ thể như tài

liệu hoàn công dự án hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt thống nhất đến

năm 2000, các tài liệu của các phòng DA1, 2, 3 ). Điều kiện bảo quản này về

trước mắt chưa gây hại gì đến tài liệu song về lâu dài nếu không có biện pháp

bảo quản kịp thời thì chắc chắn khối tài liệu này sẽ bị hư hỏng bởi các tác

động khách quan của môi trường. Năm 2009 Tổng công ty đã nộp vào Trung

tâm lưu trữ Quốc gia III 09m tài liệu

Trang thiết bị phục vụ cho công tác bảo quản tài liệu tại Kho lưu trữ

TCT gồm có: giá, hộp để tài liệu, văn phòng phẩm (giấy, bút, bìa hồ sơ,...).

quạt thông gió, máy điều hòa, các thiết bị phòng cháy, chữa cháy, hệ thống

chiếu sáng, máy vi tính, máy hút ẩm...Giá, hộp để tài liệu đều theo đúng tiêu

chuẩn mới nhất do Cục Văn thư lưu trữ Nhà nước hướng dẫn, còn các dụng

cụ khác trong việc bảo quản như: quạt thông gió, máy điều hòa, các thiết bị

phòng cháy, chữa cháy, hệ thống chiếu sáng khá hiện đại, được bảo dưỡng có

thể phục vụ tốt cho công tác bảo quản TLLT (Phụ lục 09).

TLLT khi được đưa vào bảo quản hầu hết đã được đóng hộp, trên mỗi

cặp, hộp đều có dán nhãn ghi các thông tin cần thiết để tra tìm tài liệu được

nhanh chóng. Tuy nhiên, có một số tài liệu là bản vẽ thiết kế các công trình

được đóng thành những quyển (các khổ giấy A3, A2, A0) không thể gấp thành

69

khổ A4 để xếp vào cặp, hộp tài liệu được thì được bọc giấy và trên đó cũng

dán nhãn ghi đầy đủ các thông tin để phục vụ tra tìm tài liệu. Các tài liệu sau

khi đã được đưa vào cặp, hộp hoặc được bọc giấy sẽ được xếp lên giá theo

nguyên tắc từ trái qua phải, từ trên xuống dưới trong mỗi khoang giá theo

hướng người xếp tài liệu quay mặt vào giá. Khối tài liệu đã chỉnh lý được xếp

riêng và đánh số theo trình tự. Còn khối tài liệu chưa chỉnh lý được xếp vào

cặp bìa để lên giá và ghi là tài liệu chờ chỉnh lý (Phụ lục 06-07)

2.3.7. Báo cáo, thống kê về lưu trữ theo quy định

* Thống kê về lưu trữ

Thống kê về lưu trữ là một trong những biện pháp quan trọng trong

công tác quản lý của các cơ quan lưu trữ. Đó là những bản thống kê tổng hợp

phản ánh bằng số hiệu tình hình về các mặt của phòng, kho lưu trữ như: tình

hình kho tàng, trang thiết bị, khối lượng, thành phần TLLT, tình hình khai

thác sử dụng, tình hình cán bộ lưu trữ,...

Công tác thống kê về lưu trữ ở Tổng công ty được thực hiện theo

đúng quy định của Nhà nước tại Quyết định số 13/2005/QĐ-BNV và Quyết

định số 14/2005/QĐ-BNV ngày 06/01/2005 của Bộ Nội vụ về việc báo cáo

thống kê định kỳ công tác văn thư, lưu trữ.

Theo quy định, Lưu trữ Tổng công ty, Lưu trữ đơn vị phải thường

xuyên tổ chức thống kê, kiểm tra, đối chiếu hồ sơ, TLLT do mình đang quản

lý. Đối tượng thống kê lưu trữ ở Tổng công ty cụ thể gồm có: khối lượng

thành phần TLLT, kho tàng, phương tiện bảo quản tài liệu, tình hình sử dụng

TLLT và tình hình chất lượng, số lượng cán bộ, công chức lưu trữ. Thống kê

lưu trữ được thực hiện theo chế độ định kỳ. Số liệu thống kê được tính từ 00

giờ ngày 01 tháng 01 đến 24 giờ ngày 31 tháng 12 cùng năm - ( Phụ lục 02)

Cuối mỗi năm, các đơn vị trực thuộc gửi báo cáo thống kê lưu trữ về

Tổng công ty, Tổng công ty sẽ tổng hợp số liệu và gửi báo cáo về Cục Văn

70

thư và Lưu trữ Nhà nước. Các đơn vị thành viên thuộc diên nộp lưu TLLT

vào Trung tâm lưu trữ tỉnh, thành phố trực thuộc TW gửi báo cáo thống kê

lưu trữ về Trung tâm lưu trữ tỉnh, thành phố trực thuộc TW.

* Báo cáo tình hình công tác lưu trữ

Báo cáo là loại văn bản được sử dụng phổ biến trong các cơ quan lưu

trữ, nhằm phản ánh tình hình thực hiện các nhiệm vụ công tác lưu trữ và các

mặt liên quan khác lên cơ quan cấp trên.

Khác với các bản thống kê, báo cáo không mang tính chất liệt kê số liệu

đơn thuần, mà đòi hỏi phải diễn giải phân tích tình hình thực hiện các nhiệm

vụ công tác một cách cụ thể, chi tiết.

Tại Tổng công ty; các Ban; các đơn vị thường xuyên tiến hành tổng kết,

đánh giá, báo cáo kết quả công tác văn thư – lưu trữ trong năm; từ đó đề ra kế

hoạch và chương trình công tác văn thư – lưu trữ năm tiếp theo gửi về Văn

phòng Tổng công ty trước ngày 10 tháng 12 hàng năm để tổng hợp và theo

dõi. Nội dung đề cập trong báo có gồm:

- Kết quả thực hiện công tác văn thư – lưu trữ tại đơn vị trong năm ở

các mặt: quản lý, chỉ đạo công tác văn thư – lưu trữ (mô hình tổ chức và cán

bộ, triển khai các văn bản của Nhà nước về Lưu trữ, tình hình ban hành văn

bản về văn thư – lưu trữ, kết quả kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ, ứng dụng

công nghệ thông tin vào văn thư- lưu trữ); thực hiện các hoạt động nghiệp vụ

văn thư; thực hiện các hoạt động nghiệp vụ lưu trữ.

- Hạn chế tồn tại và nguyên nhân

- Phương hướng, nhiệm vụ công tác năm tiếp theo

- Kiến nghị các biện pháp hoàn thiện công tác văn thư – lưu trữ

Định kỳ hàng năm, theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước về

công tác văn thư - lưu trữ, Văn phòng Tổng công ty chịu trách nhiệm lập báo

cáo tình hình thực hiện công tác Văn thư - lưu trữ của Tổng công ty; các đơn

71

vị thành viên lập báo cáo tình hình thực hiện công tác, báo cáo Trung tâm lưu

trữ tỉnh, thành phố theo Quyết định số 14/2005/QĐ/BNV đã nêu trên. Công

tác văn thư – lưu trữ của Tổng công ty đã có những bước chuyển biến khá

đậm nét tạo tiền đề để Tổng công ty tiếp tục tổng hợp, nghiên cứu và phân

tích đánh giá xây dựng mô hình chuẩn về công tác văn thư – lưu trữ phù hợp

với mô hình tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; đáp

ứng có hiệu quả cho công tác quản lý và điều hành của Tổng công ty.

2.3.8. Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác lưu trữ.

Kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác lưu trữ là bộ

phận của công tác quản lý; là việc xem xét, điều chỉnh, đánh giá kết quả thực

hiện các hoạt động nghiệp vụ lưu trữ của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

và một số đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty có trụ sở tại Hà Nội,

giúp nâng cao chất lượng công tác này một cách rõ rệt; nhằm đảm bảo thực

hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước cũng như quy định của Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam về lưu trữ.

Đây được coi là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tổ

chức, điều hành quản lý công tác lưu trữ ở bất kỳ cơ quan, đơn vị nào. Một

mặt, kiểm tra là công cụ, phương tiện giúp lãnh đạo Tổng công ty phát hiện

những sai sót trong công tác lưu trữ để khắc phục, điều chỉnh kịp thời. Mặt

khác, dựa vào kết quả kiểm tra, Lưu trữ Tổng công ty có thể đánh giá một

cách tổng quan công tác lưu trữ của Tổng công ty để từ đó đề ra những chủ

trương, phương hướng nhiệm vụ cùng những giải pháp chỉ đạo kịp thời, thích

hợp đối với công tác này trong cơ quan.

Nội dung của công tác kiểm tra bao gồm: kiểm tra thực hiện nhiệm vụ

công tác của từng đơn vị thành viên; đánh giá kết quả thực hiện; kiểm tra thái

độ nghiêm túc trong thực hiện các văn bản của Nhà nước và của Tổng công ty

về công tác văn thư – lưu trữ, quy chế văn thư – lưu trữ; kiểm tra đội ngũ cán

72

bộ làm công tác lưu trữ trong toàn cơ quan Tổng công ty và các đơn vị thành viên.

Theo kết quả khảo sát và dựa trên các Báo cáo về lưu trữ gần đây của

Tổng công ty, công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ từ cơ quan Tổng công

ty đến các đơn vị thành viên được tiến hành thường xuyên. Lãnh đạo Văn

phòng Tổng công ty là người được Tổng giám đốc ủy quyền có trách nhiệm

cao nhất trong việc kiểm tra, giám sát công tác lưu trữ ở Tổng công ty Đường

sắt Việt Nam. Do hoạt động trên phạm vi cả nước nên việc kiểm tra không thể

tập trung về một đầu mối là Văn phòng Tổng công ty đặt trụ sở tại Hà Nội mà

được giao cho cả hai Văn phòng – bộ phận tham mưu giúp việc cho lãnh đạo

Tổng công ty trong việc thực hiện nhiệm vụ của công tác lưu trữ. Cụ thể, lãnh

đạo Tổng công ty giao cho Văn phòng Tổng công ty kiểm tra hướng dẫn

nghiệp vụ văn thư – lưu trữ của các đơn vị thành viên ở khu vực phía Bắc và

miền Trung; Văn phòng đại diện của Tổng công ty đặt tại thành phố Hồ Chí

Minh kiểm tra công tác văn thư – lưu trữ của các đơn vị ở khu vực phía Nam.

Tại các đơn vị đều xây dựng kế hoạch triển khai các văn bản của Nhà nước,

của Tổng công ty; đồng thời kiểm tra việc thực hiện các chế độ như: bảo mật

thông tin, trình độ đội ngũ cán bộ văn thư – lưu trữ, tổ chức khai thác sử dụng

TLLT, lưu trữ và bảo quản TLLT, ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác

văn thư – lưu trữ. Ngoài ra, TCTĐSVN còn tiến hành kiểm tra chéo công tác

văn thư – lưu trữ trong cụm, cụ thể tại công văn số 1692/ĐS-VP của

TCTĐSVN ngày 31 tháng 7 năm 2007 về kế hoạch kiể tra chéo công tác văn

thư – lưu trữ năm 2007 (Phụ lục 04).

Kết thúc đợt kiểm tra, TCTĐSVN thông báo công khai kết quả kiểm tra

vì kết quả của công tác kiểm tra sẽ là cơ sở khách quan để tiến hành xét thi

đua khen thưởng hay kỷ luật cho các đơn vị, cá nhân trong việc thực hiện các

quy định về lưu trữ cũng như hoàn thành hai nhiệm vụ cơ bản của công tác

lưu trữ là: bảo quản an toàn và tổ chức khai thác sử dụng hiệu quả TLLT của

73

cơ quan, đơn vị mình (Phụ lục 06). Hàng năm, Tổng công ty đều thực hiện

công việc xét bình bầu khen thưởng cho các cá nhân, đơn vị như một nhiệm

vụ thường niên. Chế độ khen thưởng kỉ luật thực hiện theo đúng quy định

hiện hành của Nhà nước và Quy chế thi đua - khen thưởng của Tổng công ty.

Đó là động lực thúc đẩy, nâng cao tinh thần, trách nhiệm làm việc của các cán

bộ làm công tác liên quan đến công văn giấy tờ trong toàn Tổng công ty cũng

như các đơn vị thành viên. Năm 2009 Tổ Hành chính Văn phòng TCTĐSVN

được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ tặng bằng khen có thành

tích xuất sắc trong công tác Văn phòng (Phụ lục 11).

Tiểu kết chƣơng 2

Có thể khẳng định rằng tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động tại

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam không những có ý nghĩa quan trọng với

TCT mà còn có những ý nghĩa không thể phủ nhận đối với nền kinh tế - xã

hội Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay. Từ

thực tế khảo sát cho thấy tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại TCT đã có

những ưu điểm, nhược điểm và đặc điểm khác biệt. Kết quả khảo sát chỉ ra

rằng các nhà lãnh đạo tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã nhận thức

được giá trị của tài liệu lưu trữ nhất là những tài liệu có giá trị quan trọng đối

với TCT. Minh chứng cho điều này là việc TCT đã bố trí kho bảo quản tài

liệu lưu trữ và bố trí cán bộ kiêm nhiệm làm công tác lưu trữ tại Tổng công ty

và các đơn vị thành viên. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đầy đủ về giá trị của

tài liệu lưu trữ nên nhiều tài liệu hình thành trong hoạt động của TCT này

đang bị bỏ rơi.

Thực tế cho thấy mục đích chủ yếu của TCT là tối đa hóa lợi nhuận

trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Do mục đích đó nên các biện pháp tổ

chức, quản lý công tác lưu trữ tại TCT còn nhiều vấn đề hạn chế, chưa được

quan tâm đúng mực. Để bảo quản tài liệu lưu trữ TCT đã lựa chọn phương

74

pháp bố trí công tác lưu trữ của mình theo mô hình quản lý tập trung thống

nhất. Mô hình đó cũng tạo ra những ưu điểm và những hạn chế nhất định

trong công tác lưu trữ của TCT. Những hạn chế của công tác lưu trữ tại TCT

xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Trong đó,

có nguyên nhân xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ của nhà quản lý doanh

nghiệp về giá trị của tài liệu lưu trữ. Hơn nữa, cho đến nay Nhà nước Việt

Nam mà trong đó cụ thể là Cục văn thư, lưu trữ Nhà nước chưa có những quy

định một cách cụ thể và đầy đủ để quản lý, hướng dẫn công tác lưu trữ trong

doanh nghiệp. Tuy nhiên, tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty

Đường sắt Việt Nam cũng tạo ra những hiệu quả nhất định đối với hoạt động

sản xuất, kinh doanh của chính doanh nghiệp. Do đó, để phát huy những ưu

điểm và khắc phục các hạn chế về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong

doanh nghiệp, các nhà khoa học và các cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ

cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra những giải pháp tối ưu nhất. Với những

nghiên cứu bước đầu, trong chương 3 của đề tài này, chúng tôi sẽ đề xuất một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

75

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC,

QUẢN LÝ CÔNG TÁC LƢU TRỮ TẠI TỔNG CÔNG TY

ĐƢỜNG SẮT VIỆT NAM

3.1. Nhận xét và đánh giá về tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ tại Tổng

công ty Đƣờng sắt Việt Nam.

3.1.1. Ưu điểm

Kết quả khảo sát thực tế về tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

TCTĐSVN đã cho thấy một số ưu điểm của công tác này như sau:

Thứ nhất, hầu hết các cấp quản lý của TCT cũng như người lao động

đã bước đầu nhận thức được giá trị và vai trò của công tác lưu trữ trong hoạt

động sản xuất của mình. Từ những nhận thức đó, họ đã ban hành các văn bản

quy định về công tác lưu trữ. Những quy định đó cũng đã phản ánh toàn diện

các hoạt động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong doanh.

Thứ hai, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đã bố trí bộ phận có chức

năng tham mưu và hướng dẫn tổ chức, quản lý công tác lưu trữ của doanh

nghiệp nên nhiều nghiệp vụ của công tác lưu trữ trong doanh nghiệp đã được

thực hiện thống nhất.

Thứ ba, TCT ngày càng quan tâm hơn trong việc bố trí các cán bộ làm

công tác lưu trữ nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác này trong

hoạt động của doanh nghiệp. Tại Tổng công ty đã bố trí cán bộ kiêm nhiệm

quản lý kho lưu trữ chung, điều này cho thấy họ cũng đã bắt đầu nhìn thấy

những giá trị tiềm ẩn và sự cần thiết phải tổ chức, quản lý công tác lưu trữ của

doanh nghiệp mình.

Thứ tư, công tác phổ biến, đào tạo và hướng dẫn thực hiện các quy định

về công tác lưu trữ trong TCT tỏ ra hiệu quả hơn khi Văn phòng Tổng công ty

76

thực hiện thường xuyên một năm 2 đợt về việc phổ biến, hướng dẫn các

nghiệp vụ về công tác văn thư, lưu trữ cho tất cả các cán bộ làm công tác này

của TCT.

Thứ năm, công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện công tác lưu trữ

được doanh nghiệp thực hiện thường xuyên hàng năm. Với việc thành lập Ban

thi đua khen thưởng, Tổng công ty đã ban hành những quy định khen thưởng,

kỷ luật về công tác lưu trữ, điều này đã làm hạn chế đến thấp nhất những vi

phạm các quy định về công tác văn thư, lưu trữ trong TCT. Đồng thời, các

văn bản của TCT cũng đã đưa ra các chế tài đủ mạnh để răn đe các hành vi vi

phạm các quy định về công tác lưu trữ, nhờ vậy TCT đã ngăn chặn được các

hành vi vi phạm các quy định về công tác lưu trữ của toàn thể cán bộ, nhân

viên và người lao động.

3.1.3. Nhược điểm

Bên cạnh những ưu điểm đạt được trong hoạt động tổ chức, quản lý

công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam cũng còn có những hạn

chế như sau:

Thứ nhất, mặc dù bước đầu các cấp quản lý của doanh nghiệp đã nhận

thức được giá trị của công tác lưu trữ đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh

của TCT, tuy nhiên các phòng, ban, bộ phận, các đơn vị trực thuộc TCT còn

thiếu sự quan tâm và chưa thực sự có nhận thức đúng đắn về công tác này.

Cán bộ làm công tác lưu trữ chưa tuyên truyền được ý nghĩa, giá trị TLLT

đến lãnh đạo, cán bộ nhân viên trong Tổng công ty để họ thấy được ý nghĩa

và giá trị của TLLT cũng như công tác lưu trữ đối với sự tồn tại và phát triển

của cơ quan mình. Do đó, tài liệu của Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc

chưa được tổ chức, quản lý chặt chẽ và khoa học.

Thứ hai, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chưa bố trí cán bộ lưu trữ

chuyên trách, mới chỉ bố trí cán bộ kiêm nhiệm công tác này, những cán bộ

77

này chưa qua đào tạo về chuyên môn lưu trữ. Số lượng cán bộ làm công tác

lưu trữ không ổn định, thường xuyên bị thuyên chuyển sang làm công việc

khác. Do chưa có những cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn về lưu

trữ nên việc xây dựng các văn bản quy định, hướng dẫn các nghiệp vụ công

tác lưu trữ chưa đầy đủ. Vì thế hiệu quả của công tác này trong doanh nghiệp

chưa cao.

Thứ ba, doanh nghiệp đã có chính sách bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm

công tác lưu trữ, phổ biến các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ công tác lưu trữ

nhưng do nhiều cán bộ trực tiếp làm việc với tài liệu lưu trữ đã không nhận

thức được các giá trị của tài liệu nên họ thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến

lưu trữ tài liệu một cách tự phát tạo nên hiệu quả thấp trong công tác lưu trữ

và có thể làm mất, làm hư hỏng những tài liệu quan trọng của doanh nghiệp.

Thứ tư, Tổng công ty đã bố trí kho lưu trữ chung cho toàn Tổng công ty

được trang bị tương đối đầy đủ các phương tiện, máy móc kỹ thuật cần thiết

để bảo quản tập trung tài liệu của mình. Mặc dù được đưa vào kho bảo quản

tập trung nhưng còn một khối lượng lớn tài liệu chưa được chỉnh lý khoa học

và tạo nên nhiều vấn đề khó khăn khi tra cứu, tổ chức sử dụng tài liệu. Hơn

nữa, kho lưu trữ của Tổng công ty được bố trí ở tầng 1 và diện tích kho hẹp

nên điều kiện bảo quản không đảm bảo làm cho tài liệu nhanh chóng bị ẩm

mốc, hư hỏng.

Thứ năm, thực tiễn của công tác lưu trữ tại TCTĐSVN cho thấy việc

cập nhật và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lưu trữ chưa được

áp dụng phổ biến nên công tác lưu trữ TCT chưa đạt hiệu quả cao.

3.2. Nguyên nhân dẫn tới hạn chế của hoạt động tổ chức, quản lý công tác

lƣu trữ tại Tổng công ty Đƣờng sắt Việt Nam

Dựa trên các kết quả khảo sát từ thực tế công tác lưu trữ tại Tổng công

ty Đường sắt Việt Nam và một số công ty trực thuộc Tổng công ty có trụ sở

78

tại Hà Nội. Chúng tôi nghiên cứu và nhận thấy những hạn chế và tồn tại của

hoạt động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ trong doanh nghiệp xuất phát từ

nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Trong đó, chúng tôi

thấy rằng hoạt động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại đây còn nhiều hạn

chế xuất phát từ một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

3.2.1. Nguyên nhân từ phía Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

Chúng ta có thể thấy rằng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi thực hiện

các hoạt động sản xuất, kinh doanh đều mong muốn tìm kiếm được càng

nhiều lợi nhuận càng tốt. Vì thế trong những công việc và lĩnh vực thực sự

quan trọng và cần thiết thì TCT mới chú trọng đầu tư và thực hiện nghiêm

chỉnh các quy trình nghiệp vụ của nó. Còn những hoạt động ở những lĩnh vực

mà TCT cho rằng ít ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị lợi nhuận của TCT thì

TCT thiếu đầu tư cả về nhân lực lẫn vật lực. Công tác lưu trữ tại Tổng công ty

Đường sắt Viêt Nam cũng được xếp vào một trong các lĩnh vực ít được chú

trọng. TCTĐSVN chưa bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác lưu trữ mà

hiện nay TCT mới chỉ bố trí cán bộ kiên nhiệm. Cán bộ làm công tác lưu trữ ơ

đây không ổn định, thường xuyên bị thuyên chuyển nên có ảnh hưởng lớn đến

công tác lưu trữ. Kho lưu trữ tại Tổng công ty chỉ quan tâm lưu trữ những tài

liệu có giá trị quan trọng quyết định sự sống còn của TCT và ở đây chủ yếu

lưu trữ những tài liệu về xây dựng các công trình, tài liệu kế toán...còn những

tài liệu khác thì vẫn còn để bó gói hoặc đựng trong các thùng caton (Phụ lục

08). Từ đó, công tác lưu trữ tài liệu trong TCT với các phương pháp lưu trữ

khác nhau, thiếu tính khoa học chưa thể phát huy được vai trò của mình trong

việc góp phần tăng năng suất và lợi nhuận của doanh nghiệp. Thực tế đó đã

làm cho các nhà lãnh đạo có những cân nhắc và chưa có những đầu tư thích

đáng đối với công tác lưu trữ cũng như chưa có các chính sách xây dựng kho

79

đúng tiêu chuẩn, tuyển dụng cán bộ lưu trữ chuyên trách,…

Tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam

đã lựa chọn phương pháp tổ chức theo mô hình quản lý tập trung thống nhất

nhằm bảo quản an toàn khối tài liệu lưu trữ của mình, đây cũng là một tiêu chí

để doanh nghiệp thiết kế, bố trí các bộ phận, đơn vị trong bộ máy quản lý của

mình. Khi xây dựng hệ thống thông tin có tính cát cứ giữa các bộ phận sẽ

giúp cho TCT dễ dàng tra cứu thông tin tài liệu lưu trữ phục vụ cho công việc

của doanh nghiệp được nhanh chóng, thuận lợi. Vì vậy, không phải ngẫu

nhiên TCT lựa chọn phương pháp tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tài liệu

theo hình tập trung, thống nhất.

Những hạn chế trong công tác lưu trữ tại Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam cũng còn xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ của các nhà lãnh đạo và

cán bộ, nhân viên làm việc trong doanh nghiệp về giá trị của tài liệu lưu trữ.

Bên cạnh đó, kinh phí để đầu tư cho công tác lưu trữ như xây dựng kho, bố trí

cán bộ,… tương đối lớn, trong nhận thức của TCT lại chưa nhìn nhận được

giá trị tiềm ẩn của tài liệu lưu trữ nên các nhà lãnh đạo TCT cho rằng đầu tư

cho công tác lưu trữ không đem lại lợi nhuận. Từ đó, họ xem nhẹ công tác lưu

trữ và chỉ chú trọng lưu trữ những tài liệu mà họ cho là quan trọng, các hoạt

động tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại TCT dù còn hạn chế nhưng ảnh

hưởng không lớn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

3.2.2. Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý Nhà nước về công tác lưu trữ

Tài liệu hình thành trong hoạt động của Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam không chỉ có giá trị đối với doanh nghiệp mà còn có giá trị về nhiều mặt

đối với nền kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới như

hiện nay, các doanh nghiệp đã và đang có vai trò ngày càng lớn trong quá

trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đối với

công tác lưu trữ, trong nhiều năm qua chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi

80

và phát triển mạnh mẽ cả về mặt lý luận, thực tiễn và hành lang pháp lý. Tuy

nhiên, cho đến hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật về lưu trữ kể cả Luật

Lưu trữ cũng còn thiếu những quy định cụ thể về tổ chức, quản lý công tác

lưu trữ của các doanh nghiệp. Bàn về vấn đề này TS. Hồ Văn Quýnh cho

rằng: “Chưa có văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước quy định toàn

diện cho công tác văn thư, lưu trữ của các doanh nghiệp. Vì thế công việc này

còn nan giải. Tùy theo từng doanh nghiệp có tầm cỡ to nhỏ khác nhau mà họ

tổ chức công tác văn thư, lưu trữ một cách thích hợp. Mục đích cuối cùng của

công tác văn thư, lưu trữ ở các doanh nghiệp là phục vụ kinh doanh có hiệu

quả. Công ty nào thấy đầu tư vào đây để sinh ra lợi nhuận thì họ tăng cường

và ngược lại”[32; tr.191]. Có thể khẳng định rằng, hiện nay chúng ta đang

thiếu hành lang pháp lý để hướng dẫn nghiệp vụ, thực hiện việc quản lý, thu

thập, trưng mua, mua và nhận chuyển nhượng tài liệu từ doanh nghiệp.

Pháp luật lưu trữ Việt Nam chỉ dừng lại xem doanh nghiệp như một tổ

chức kinh tế tức là xem công tác lưu trữ ở trong doanh nghiệp Nhà nước

(thuộc sở hữu công) và cũng như các cơ quan hành chính nhà nước. Vì thế

các quy định của luật pháp chưa áp dụng được trong các doanh nghiệp. Hơn

nữa, pháp luật lưu trữ Việt Nam chỉ mới dừng lại thừa nhận quyền sở hữu tài

liệu của cá nhân, gia đình, dòng họ mà chưa đề cập đến quyền sở hữu tài liệu

của doanh nghiệp. Vì thế, trong thời gian qua, hầu như các cơ quan quản lý

Nhà nước về công tác lưu trữ chưa quản lý được khối tài liệu của các doanh

nghiệp. Với quan điểm cho rằng: tài liệu của doanh nghiệp là tài liệu bất khả

xâm phạm thuộc sở hữu hoàn toàn của doanh nghiệp cho nên các cơ quan

quản lý lưu trữ các cấp hầu như chưa có những nghiên cứu về mặt lý luận và

thực tiễn để xây dựng các chính sách quản lý phù hợp đối với công tác lưu trữ

của các doanh nghiệp. Vì vậy pháp luật lưu trữ Việt Nam chưa có cơ sở để

quy định cụ thể về chế độ quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ một cách phù hợp

81

đối với công tác lưu trữ trong doanh nghiệp.

Từ những phân tích đó, cho thấy thực tiễn công tác lưu trữ trong doanh

nghiệp còn nhiều hạn chế cũng xuất phát từ việc thiếu những quy định cần

thiết, cụ thể và phù hợp để điều chỉnh công tác lưu trữ của các doanh nghiệp

nói chung tại Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nói riêng. Đồng thời pháp

luật lưu trữ Việt Nam chưa có các chế tài cần thiết trong việc xử lý các vi

phạm về việc tự ý tiêu hủy, mua bán, chuyển nhượng, xuất khẩu tài liệu trái

pháp luật nên chưa có cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý tài liệu lưu trữ

trong doanh nghiệp.

Mặc dù luật lưu trữ không quy định nhưng trong một số văn bản khác

của Nhà nước lại quy định chế độ lưu trữ của doanh nghiệp nói chung như

điều 12, Luật doanh nghiệp và chế độ lưu trữ tài liệu kế toán,… Tuy nhiên

những văn bản này chưa quy định toàn diện về tổ chức, quản lý công tác lưu

trữ doanh nghiệp. Hơn nữa, năng lực quản lý cũng như nhận thức về vai trò,

vị trí của công tác lưu trữ trong doanh nghiệp của các cán bộ, cơ quan quản lý

lưu trữ các cấp còn nhiều vấn đề bất cập nên chưa có một cơ quan nào quan

tâm đến các khối tài liệu này. Minh chứng cụ thể cho vấn đề này, là trong đợt

tuyên truyền triển khai Luật lưu trữ số 01/2011/QH13 ban hành ngày

11/11/2011 tới toàn thể nhân dân thì chưa có một Chi cục văn thư, lưu trữ hay

địa phương nào tổ chức tuyên tuyền và triển khai tới các doanh nghiệp nói

chung Tổng công ty Đường sắt Việt Nam nói riêng. Khi mà các cơ quan quản

lý Nhà nước về lưu trữ cũng như các cán bộ làm công tác lưu trữ còn chưa

biết, chưa hiểu về thực tiễn lưu trữ, thiếu nhận thức đúng đắn và đầy đủ về giá

trị của khối tài liệu này đối với nền kinh tế - xã hội của Quốc gia thì không

thể có những cơ sở vững chắc để điều chỉnh pháp luật lưu trữ nhằm thực hiện

82

việc quản lý có hiệu quả công tác lưu trữ trong các doanh nghiệp.

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao tổ chức, quản lý công tác lƣu trữ

3.3.1. Nhóm giải pháp tổng thế

3.3.1.1. Nâng cao hơn nữa nhận thức của Lãnh đạo, cán bộ và nhân viên

trong cơ quan về công tác lưu trữ

Thực tế đã chứng minh rằng trong mọi cơ quan, tổ chức; để tiến hành

thuận lợi và có kết quả một chủ trương, chính sách hay một vấn đề thì luôn

cần chú ý, quan tâm đến nhận thức của con người. Có nhận thức đúng đắn,

toàn diện về vấn đế thì những giải pháp tiếp theo mới được thực hiện theo

đúng kế hoạch và mục tiêu ban đầu. Nhận thức là tiền đề, là cơ sở để đảm bảo

thực hiện tốt công việc đặt ra.

Cần khẳng định công tác văn thư – lưu trữ là một trong những công tác

không thể thiếu trong hoạt động của bất cứ một cơ quan, tổ chức nào. Nó là

một mắt xích quan trong trong chuỗi các hoạt động nghiệp vụ đảm bảo thông

tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo cơ quan đồng thời góp phần

nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc của cán bộ nhân viên trong cơ quan.

Có thể nhận thấy rằng, Lãnh đạo Tổng công ty cũng như các cán bộ,

nhân viên trong cơ quan bước đầu đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của

công tác lưu trữ và ý nghĩa của TLLT đối với hiệu quả hoạt động của cơ quan.

Bởi vậy mà công tác lưu trữ tại Tổng công ty đã có được một vị trí tương đối

vững chắc và đã được quan tâm đầu tư nhưng còn hạn chế.

Là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn trong lĩnh vực đường sắt,

mục tiêu quan trọng của Tổng công ty là kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát

triển vốn chủ sở hữu, nhưng ở Tổng công ty đã có đầu tư cho công tác lưu trữ

- một mảng hoạt động không trực tiếp tạo ra của cải vật chất. Điều này thể

hiện trước hết ở việc thực hiện nghiêm túc các quy định chung của Nhà nước

về công tác văn thư – lưu trữ, đồng thời nghiên cứu ban hành một hệ thống

83

văn bản quy định về công tác văn thư – lưu trữ áp dụng thống nhất trong cơ

quan Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc. Đây là hệ thống văn bản chỉ đạo

và quản lý công tác lưu trữ đồng bộ, phù hợp với nhu cầu phát triển và đặc

thù quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Đó quả là một

cố gáng không nhỏ và là một kết quả lớn mà không phải một doang nghiệp

hoặc một cơ quan hành chính nhà nước có thể thực hiện được.

Nâng cao nhận thức của lãnh đạo cũng như cán bộ nhân viên đối với

công tác lưu trữ là việc làm cần thiết để đẩy mạnh công tác lưu trữ và đưa

công tác này đi vào nề nếp bởi nhận thức đúng đắn của Lãnh đạo và cán bộ cơ

quan Tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên là cốt lõi trong tổng thể

các giải pháp đặt ra. Bằng kiến thức và kinh nghiệm của mình cán bộ văn thư

– lưu trữ phải là người tiên phong tuyên truyền về ý nghĩa và giá trị của

TLLT, phải giúp cho Lãnh đạo và cán bộ Tổng công ty thấy được giá trị của

TLLT và ý nghĩa của công tác lưu trữ đối với sự tồn tại và phát triển của cơ

quan mình. Cách tuyên truyền hiệu quả nhất là tổ chức chỉnh lý khoa học có

chất lượng một khối tài liệu có giá trị cao của cơ quan, sau đó đưa vào khai

thác, sử dụng có hiệu quả. Từ đó hình thành nên thói quen sử dụng TLLT

phục vụ cho hoạt động quản lý, ra các quyết định quản lý hoặc giải quyết các

công việc chuyên môn, dần dần xóa đi tình trạng làm việc theo thói quen và

kinh nghiệm.

3.3.1.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về công tác lưu trữ

Muốn công tác lưu trữ đạt hiệu quả thì cần phải hoàn thiện hệ thống

văn bản chỉ đạo điều hành công tác này. Bên cạnh việc chỉ đạo thực hiện các

văn bản của cấp trên thì Tổng công ty cũng cần có những quy định riêng của

cơ quan mình và có những hướng dẫn thực hiện chi tiết dựa trên tình hình

thực tế của cơ quan.

Việc ban hành văn bản quy định về công tác lưu trữ cần được thực hiện

84

thường xuyên, kịp thời và có khả năng thực thi tại cơ quan Tổng công ty. Để

đạt được điều này, hệ thống văn bản đó phải phù hợp với thực tế cơ quan xu

hướng phát triển của thời đại. Không những vậy, Tổng công ty cần quan tâm,

chỉ đạo các đơn vị thành viên trong việc ban hành các quy định về văn thư –

lưu trữ một cách chi tiết, cụ thể các hoạt động nghiệp vụ tùy vào tình hình

thực tế của Tổng công ty và các đơn vị thành viên sao cho chất lượng công tác

này không ngừng được nâng cao, xứng tầm với quy mô tổ chức hoạt động của

một Tổng công ty lớn mạnh

3.3.1.3. Đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất cho công tác lưu trữ

Cùng với những giải pháp về con người, chúng ta cũng cần phải dặt ra

giải pháp về cơ sở vật chất sao cho đồng bộ. Có như vậy, công tác lưu trữ mới

thực sự có được tiền đề vững chắc để phát triển và đóng góp vào hiện quản

sản xuất kinh doanh.

Tổng công ty cần có kế hoạch đầu tư kho tàng, trang thiết bị máy móc

hiện đại, đồng bộ và hoàn chỉnh hơn nữa cho công tác lưu trữ. Hiện tại kho

lưu trữ Tổng công ty đang được bố trí tại tầng một của trụ sở làm việc ở số

118 Lê Duẩn – Hoàn Kiếm – Hà Nội, kho lưu trữ đặt tại đây có thể nói là rất

thuận lợi cho việc độc giả đến khai thác sử dụng nhưng tài liệu ở đây hay bị

ẩm móc vì kho Lưu trữ đặt ở tầng một. Tổng công ty cũng chưa có kho lưu

trữ chuyên dụng, Tổng công ty cần có kinh phí hàng năm cho công tác văn

thư – lưu trữ nói chung, công tác chỉnh lý hồ sơ tài liệu tồn đọng, bảo quản

TLLT nói riêng. Kinh phí, chi phí mua sắm trang thiết bị, chỉnh lý tài liệu,

vận chuyển, phục vụ công tác văn thư – lưu trữ được trích từ chi phí hoạt

động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc. Lãnh

đạo Tổng công ty và các đơn vị trực thuộc có trách nhiệm đảm bảo nguồn

kinh phí phục vụ công tác văn thư – lưu trữ. Đó thực sự là một giải pháp hữu

hiệu góp phần không nhỏ vào việc khắc phục hạn chế, cải thiện chất lượng

85

công tác văn thư – lưu trữ của Tổng công ty.

3.3.1.4. Thống nhất thực hiện tốt các khâu nghiệp vụ về lưu trữ

Tổng công ty cần tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị

trực thuộc thực hiện các quy định về nghiệp vụ lưu trữ, đặc biệt là những

nghiệp vụ còn tồn tại nhiều hạn chế.

Việc thu thập tài liệu vào Lưu trữ đã được quy định khá bài bản và chặt

chẽ xong một số các phòng, ban không thực hiện nghiêm túc. Các phòng, ban

chức năng đó chỉ nộp tài liệu vào lưu trữ khi đã hết không gian, mặt bằng để

tài liệu hoặc khối tài liệu nào đã hết giá trị sử dụng cho mục đích quản lý hay

cho công việc hàng ngày của các chuyên viên cán bộ(mặc dù công việc đã kết

thúc nhiều năm). Chất lượng các hồ sơ tài liệu giao nộp chưa được lập hồ sơ

thường được đóng hộp hoặc đựng trong hộp bìa catton. Có những tài liệu đã

được lập hồ sơ song không có sự đồng đều bên trong hồ sơ, tài liều trùng thừa

hết giá trị vẫn còn.

Để xảy ra tình trạng này một phần cũng là do công tác thanh tra, kiểm

tra đôi khi chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự có biện pháp cụ thể, hữu

hiệu nào được áp dụng. Thêm vào đó là do ý thức của một số cán bộ chuyên

viên chưa cao. Mặc dù thấy được sự bất hợp lý khi giữ tài liệu quá thời hạn

song họ vẫn không giao nộp bởi khi xuống lưu trữ khai thác thông tin chắc

chắn họ sẽ phải mất nhiều thời gian và thủ tục rườm rà.

Tổng công ty cần có những biện pháp cứng rắn hơn nữa trong việc đôn

đốc các phòng ban giao nộp tài liệu và lưu trữ cơ quan. Tài liệu phải được

giao nộp đầy đủ đúng thời gian quy định và phải được lập hồ sơ theo đúng

tiêu chuẩn chất lượng. Để làm được điều này, Phòng Văn thư Lưu trữ cần

tham mưu cho lãnh đạo trong việc xây dựng và ban hành dạnh mục hồ sơ gửi

đến các phòng, ban chức năng, để các chuyên viên tự lập hồ sơ ở giai đoạn

văn thư. Có như vậy mới đảm bảo chất lượng hồ sơ vì hơn ai hết, cán bộ

86

chuyên môn là người hiểu rõ tài liệu của mình nhất.

* Tổ chức bảo quản an toàn TLLT trong kho lưu trữ tổng công ty

Có thể nói, tài liệu lưu trữ sản sinh từ hoạt động của Tổng công ty

đường sắt Việt Nam đang được bảo quản trong tình trạng vật lý chưa được tốt

vì kho tài liệu được đặt tại tầng 1 khu nhà làm việc của Tổng công ty, tài liệu

bị xâm hại bởi các yếu tố môi trường bên ngoài không đảm bảo các điều kiện

bảo quản riêng biệt, phù hợp cho hai khối tài liệu của Tổng công ty.

Ngoài ra Tổng công ty Đường sắt Việt Nam còn dành một nguồn kinh

phí nhất định cho việc đầu tư các trang thiết bị phục vụ cho công tác bảo quản

tài liệu như: điều hòa, quạt thông gió, hệ thống chiếu sáng, ...cặp, hộp, giá

đựng tài liệu,...Các điều kiện bảo quản đó đều đảm bảo theo đúng tiêu chuẩn

mới nhất của Cục Văn thư – Lưu trữ Nhà nước.

Tuy nhiện, Lưu trữ TCTĐSVN vẫn cần quan tâm đầu tư hơn nữa cho

công tác bảo quản tài liệu lưu trữ. Cán bộ lưu trữ cần triển khai thường xuyên

các biện pháp giữ vệ sinh cho tài liệu, đặc biệt là chống lại sự phá hoại của vi

sinh vật, côn trùng, chuột, gián,...Không chỉ có vậy, cần thiết phải có chế độ

1,...và nên xây dựng các điều kiện bảo quản riêng biệt khối tài liệu đã chỉnh

để bảo quản đặc biệt với những tài liệu có khổ lớn như các bản vẽ khổ A0, A-

lývới khối tài liệu chưa chỉnh lý.

Với các điều kiện bảo quản lý tưởng riêng biệt cho từng khối tài liệu thì

chắc chắn tuổi thọ TLLT sẽ được nâng cao và có như vậy mới phục vụ lâu

dài, hiệu quả cho mọi nhu cầu chính đáng của xã hội.

* Đa dạng hóa các hình thức khai thác, sử dụng TLLT

Hiện nay, có rất nhiều hình thức khai thác, sử dụng TLLT nhưng do

điều kiện không cho phép, kho tàng chật hẹp nên không có không gian xây

dựng phòng đọc; hơn nữa, do sự bảo mật về thông tin kinh doanh và nhu cầu

khai thác không thương xuyên nên không đầu tư tổ chức các hình thức: công

bố, triển lãm,...Chỉ với một hình thức là cho mượn tài liệu thì chắc chắn sẽ

87

không phát huy hết tiềm năng to lớn của khối tài liệu có giá trị của TCT mà

còn ảnh hưởng đến tuổi thọ cũng như không thế tránh khỏi sự mất mát tài liệu

lưu trữ.

Lưu trữ TCT cần nhanh chóng xây dựng quy chế phòng đọc, quy chế

khai thác sử dụng tài liệu và xây dựng các công cụ tra cứu phục vụ cho việc

tra tìm tài liệu. Để nâng cao tầm quan trọng của tài liệu lưu trữ và tránh mất

mát tài liệu, TCT nên ban hành văn bản thu phí khi khai thác sử dụng tài liệu.

Ngoài ra, Lưu trữ TCT phải tăng cường các biện pháp tuyên truyền, quảng bá

thông tin TLLT. Muốn làm được như vậy, trước hết cán bộ làm công tác lưu

trữ cần phải hiểu và nắm rõ nội dung, thành phần tài liệu đang được bảo quản

tại kho và tầm quan trọng của từng loại tài liệu. Bên cạnh đó, cần thống kê,

nghiên cứu khai thác tình hình khai thác, sử dụng TLLT của TCT, ý nghĩa của

việc khai thác sử dụng TLLT đối với các sự kiện, chủ đề cụ thể để nâng cao

khả năng phục vụ của Lưu trữ TCT.

3.3.1.5. Tăng cường công tác quản lý, theo dõi, tổng kết, đánh giá hiệu quả

của công tác lưu trữ

Để chất lượng công tác lưu trữ được nâng cao và đi vào nề nếp thì Lãnh

đạo TCT cần phải thắt chặt hơn nữa quy chế và kiểm tra, đánh giá công tác

lưu trữ. Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ văn thư, lưu trữ

đối với các đơn vị thành viên. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản của TCT

về công tác văn thư, lưu trữ để phù hợp với văn bản quản lý của Nhà nước và

mô hình đổi mới tổ chức của TCT. Ngoài hình thức kiểm tra thông qua báo

cáo, thống kê công tác văn thư – lưu trữ, Lãnh đạo TCT cần ủy quyền một

cách công khai bằng văn bản cho Văn phòng TCT để thường xuyên theo dõi

kiểm tra việc thực hiện các quy định về văn thư – lưu trữ. Thực hiện thường

xuyên và đột xuất chế độ báo cáo, thống kê tổng hợp văn thư – lưu trữ theo

quy định. Công tác kiểm tra, đánh giá, tổng kết phải được tiến hành thường

88

xuyên, liên tục như một nhiệm vụ quan trọng của cơ quan.

Trên cơ sở kết quả kiểm tra, tổng kết đó, TCT nên xây dựng một chế độ

khen thưởng, kỷ luật kịp thời cho những đơn vị, cá nhân chưa thực hiện tốt

công tác lưu trữ cũng như những đơn vị, cá nhân chưa thực hiện tốt công tác

này. Đây sẽ là một động lực thúc dẩy tinh thần và khích lệ cán bộ nhân viên

thi đua thực hiện tốt công tác lưu trữ.

3.3.2. Giải pháp quan trọng và cần thiết nhất – Chuẩn hóa trình độ, chuyên

môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác lưu trữ.

Các nghiệp vụ thuộc công tác lưu trữ phần lớn là các nghiệp vụ phức tạp,

đòi hỏi cán bộ lưu trữ phải có trình độ chuyên môn cao, có đầu óc tổ chức

công việc khoa học, hợp lý. Thực tế, các cán bộ làm công tác lưu trữ của

Tổng công ty đều là cán bộ kiêm nhiệm được đào tạo từ các chuyên ngành

khác. Tại Tổng công ty chưa bố trí cán bộ chuyên trách về lưu trữ nên không

thể đáp ứng được các yêu cầu của công tác lưu trữ. Số lượng công việc về

lưu trữ tại Tổng công ty là rất lớn, cán bộ làm công tác lưu trữ chưa được đào

tạo đúng chuyên ngành và bị thuyên chuyển liên tục nên các công việc như:

thu thập, bổ sung, chỉnh lý tài liệu, khai thác sử dụng tài liệu... chưa làm tốt.

Với những hạn chế nêu trên thì không thể đảm bảo được chất lượng công việc

tổ chức, quản lý công tác lưu trữ. Bởi vậy Tổng công ty cần quan tâm hơn nữa

trong việc chỉ đạo các đơn vị thành viên kiện toàn tổ chức và bố trí đủ biên

chế về văn thư – lưu trữ; đặc biệt là biên chế chuyên ngành lưu trữ. Cán bộ

viên chức lưu trữ phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghiệp vụ ban hành kèm Quyết

định số 420/TCCP-VC ngày 29 tháng 5 năm 1993 và Quyết định số

650/TCCP-VC ngày 20/8/1993 của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là

Bộ Nội vụ). Để thực hiện được nhiệm vụ trên TCTĐSVN cần có giải pháp cụ

thể đầu tư chủ yếu vào đội ngũ cán bộ làm công tác lưu trữ như sau:

Mục tiêu: Nâng cao chất lượng, số lượng, ổn định nhân sự làm công

tác lưu trữ.

89

Biện pháp, lộ trình, kinh phí:

Thứ nhất: Tuyển dụng và bố trí nhân sự làm công tác lưu trữ phải là

người tốt nghiệp đúng chuyên ngành lưu trữ.

Thứ hai: Nên có Quy định cụ thể về việc thuyên chuyển cán bộ làm

công tác lưu trữ. Yêu cầu cán bộ làm lưu trữ cam kết phải làm việc từ 7 đến

10 năm mới được thuyên chuyển sang bộ phận khác hoặc cơ quan khác.

Thư ba: Hàng năm, TCTĐSVN nên có Kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng

cán bộ làm công tác văn thư – lưu trữ, các lớp tập huấn, bồi dưỡng này cần

được tổ chức tiến hành đều đặn và định kỳ hơn nhằm nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, liên tục bổ sung những kiến thức mới,

tránh tình trạng tụt hậu kiến thức so với sự tiến bộ và phát triển của xã hội,

đặc biệt về trình độ tin học. Trong các đợt tập huấn, cần mở rộng phạm vi, đối

tượng học viên để những cán bộ làm việc liên quan đến công tác công văn

giấy tờ trong toàn cơ quan Tổng công ty và đặc biệt là các đơn vị trực thuộc

có điều kiện nâng cao hiểu biết và trình độ chuyên môn về lưu trữ.

Thứ tư: Đối với cán bộ đang làm lưu trữ tại TCTĐSVN chưa qua đào

tạo về lưu trữ cần phải có quy định cụ thể cho đối tượng này, cụ thể:

- Đối với cán bộ có bằng Đại học chuyên ngành khác làm công tác lưu

trữ phải có chứng chỉ văn thư lưu trữ.

+ Xây dựng chương trình học khoảng 03 tháng (30 ngày), học vào các

ngày thứ 7, Chủ nhật hàng tuần, 2/3 số tiết học trên lớp, 1/3 số tiết thực hành,

học xong chương trình tổ chức cấp chứng chỉ nghiệp vụ văn thư – lưu trữ cho

các học viên, cụ thể như: TCTĐSVN có thể liên hệ với các Trường ĐH Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Nội vụ để mời giảng viên tham gia

giảng dạy và cấp chứng chỉ Văn thư – Lưu trữ.

+ Nội dung chương trình đào tạo ngắn hạn nghiệp vụ Văn thư – Lưu trữ

90

(cấp chứng chỉ) cụ thể như sau:

1. Mục tiêu, đối tượng

a. Mục tiêu

Chương trình bồi dưỡng hướng tới các mục tiêu sau :

- Trang bị những kiến thức cơ bản và cập nhật những kiến thức mới để

người học nắm vững và nâng cao năng lực về tổ chức, quản lý và nghiệp vụ

công tác văn thư- lưu trữ, góp phần đưa công tác này ở các cơ quan đi vào nề nếp.

- Chương trình trang bị một số kỹ năng, phương pháp làm việc, giao

tiếp để cán bộ quản lý và cán bộ chuyên trách công tác văn thư – lưu trữ có

thể thực hiện tốt chức trách được giao, tạo tác phong làm việc chuyên nghiệp,

đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.

b. Đối tượng

- Đối tượng chung: Học viên chủ yếu là những người đang công tác

trong lĩnh vực hành chính, văn phòng, văn thư, lưu trữ thuộc các cơ quan nhà

nước; các đơn vị sự nghiệp; các cơ quan Đảng, các tổ chức chính trị- xã hội,

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức kinh tế.

- Đối tượng cụ thể:

+ Công chức, viên chức được giao nhiệm vụ tổ chức, quản lý công

tác văn thư, lưu trữ (Chánh, phó văn phòng hoặc trưởng, phó phòng hành

chính/ Cán bộ quản lý công tác văn thư, lưu trữ cấp tỉnh và cấp huyện).

+ Cán bộ/nhân viên văn thư, lưu trữ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm.

2. Yêu cầu và giá trị của chứng chỉ

- Học viên sẽ được cấp chứng chỉ nếu tham dự đầy đủ thời gian theo

quy định và hoàn thành các bài thực hành, bài kiểm tra chuyên môn

- Chứng chỉ có giá trị để các cơ quan bố trí công việc và bổ nhiệm các

chức danh quản lý thuộc lĩnh vực văn thư, lưu trữ cũng như giải quyết các

chế độ có liên quan .

3. Phân bổ thời gian

Thời gian tối thiểu của toàn bộ khoá học là 3 tháng (60 buổi, tương

91

đương 30 ngày học), mỗi buổi học 4 tiết = tổng thời lượng: 240 tiết.

Trong đó:

- Giảng viên thuyết trình trên lớp: 120 tiết

- Thảo luận, thực hành (trên lớp) 60 tiết

- Tham quan, khảo sát, thực hành tại thực tế 36 tiết

- Kiểm tra, viết thu hoạch (4 phần x 04 tiết) 16 tiết

- Khai giảng, bế giảng 08 tiết

4. Cấu trúc chương trình

Chương trình gồm 04 phần lớn (trong từng phần thiết kế các chuyên đề

cụ thể tùy theo đối tượng từng khóa):

Phần 1. Tổ chức và quản lý công tác văn thư- lưu trữ

Phần 2. Nghiệp vụ công tác văn thư

Phần 3. Nghiệp vụ công tác luu trữ

Phần 4. Các kiến thức và kỹ năng bổ trợ (kỹ năng mềm)

Phân bổ Thời thời lƣợng TT Nội dung lƣợng LT TH/ TL

1 Phần 1. Tổ chức và quản lý về công tác văn thư- lưu trữ 20 10 10

2 Phần 2. Nghiệp vụ công tác văn thư 50 30 20

3 Phần 3. Nghiệp vụ công tác lưu trữ 60 40 20

4 Phần 4. Các kiến thức và kỹ năng bổ trợ ( tùy chọn) 30 20 10

5 Tham quan, khảo sát, thực hành thực tế 36

6 Kiểm tra, viết thu hoạch 04

7 Khai mạc, bế mạc, phát chứng chỉ 08

Tổng cộng 240 120 60

5. Phương pháp đào tạo

92

- Giảng viên thuyết trình kết hợp với trình chiếu.

- Trước hoặc sau một phần thuyết trình sẽ có thảo luận chung hoặc

thảo luận nhóm (học viên nêu những vấn đề từ thực tế, trả lời câu hỏi hoặc

thảo luận cách giải quyết các tình huống, các vấn đề thường gặp trong công

tác văn thư, lưu trữ ở các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp).

- Xem và bình luận về thực trạng công tác văn thư, lưu trữ ở Việt

Nam qua băng hình/ hoặc tham quan thực tế.

- Các học viên được khuyến khích để nêu tình huống và đề xuất cách

giải quyết tình huống; được thực hành một số nghiệp vụ tại lớp.

6. Trang thiết bị giảng dạy

Trang thiết bị giảng dạy gồm: Văn bản, hồ sơ, tài liệu thực hành; Máy

tính; Bảng giấy lật; Giấy màu, bút dạ, băng dính; Máy chiếu Projector; Giấy

khổ Ao.

7. Nội dung chi tiết

Phần 1. Tổ chức và quản lý công tác văn thƣ - lƣu trữ

1/. Tổ chức và quản lý về công tác văn thư

2/. Tổ chức và quản lý về công tác lưu trữ

Phần 2. Nghiệp vụ công tác văn thƣ

1/. Kỹ thuật soạn thảo và ban hành văn bản

2/. Quản lý văn bản đi và đến

3/. Quản lý và sử dụng con dấu

4/. Lập hồ sơ và nộp hồ sơ vào lưu trữ

Phần 3. Nghiệp vụ công tác lƣu trữ

1/. Thu thập và bổ sung tài liệu

2/. Phân loại tài liệu lưu trữ

3/. Xác định giá trị tài liệu

93

4/. Thống kê và bảo quản tài liệu

5/. Xây dựng công cụ tra cứu

6/. Tổ chức phục vụ khai thác, sử dụng tài liệu

Phần 4. Các kiến thức và kỹ năng bổ trợ (chọn 4 trong số 8 chuyên đề)

1/. Cải cách hành chính trong công tác văn thư - lưu trữ

2/. Áp dụng ISO 9001:2000 trong công tác văn thư - lưu trữ

3/. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác văn thư - lưu trữ

4/. Quản lý và sử dụng trang thiết bị trong công tác văn thư – lưu trữ

5/. Kỹ năng giao tiếp, ứng xử của cán bộ văn thư- lưu trữ trong công sở

6/. Kỹ năng tham mưu các vấn đề về công tác văn thư-lưu trữ

7/. Kỹ năng tổ chức công việc

8/. Kỹ năng giải quyết xung đột trong công sở

+ Kinh phí đào tạo: toàn bộ kinh phí do TCTĐSVN hỗ trợ.

- Đối với cán bộ, nhân viên làm công tác lưu trữ nhưng học chuyên

ngành khác và chưa có bằng đại học, yêu cầu phải có bằng tốt nghiệp chuyên

ngành văn thư – lưu trữ hệ trung cấp chuyên nghiệp trở lên.

Tiểu kết chƣơng 3

Tài liệu lưu trữ hình thành trong hoạt động tại Tổng công ty Đường sắt

Việt Nam có những giá trị to lớn không thể phủ nhận đối với doanh nghiệp và

đối với nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa. Yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ nói

chung và đối với doanh nghiệp nói riêng là phải nâng cao hiệu quả hoạt động

tổ chức, quản lý khối tài liệu này trong doanh nghiệp. Công tác lưu trữ tại

TCT chỉ thực sự được nâng cao hiệu quả khi TCT và các cơ quan quản lý Nhà

nước về lưu trữ nhận thức đầy đủ và toàn diện về giá trị của khối tài liệu này.

Hơn nữa, bản thân TCT cần có các chính sách bố trí, đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ của mình nhằm nâng cao chất lượng công tác lưu trữ của chính

94

doanh nghiệp. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam có quy mô hoạt động lớn

phải bố trí cán bộ lưu trữ chuyên trách, tham mưu cho TCT về biện pháp tổ

chức, quản lý công tác lưu trữ một cách khoa học và hiệu quả.

Về phía các cơ quan Nhà nước cần xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn

bản pháp luật quy định, hướng dẫn cụ thể công tác lưu trữ trong doanh nghiệp

hơn nữa. Yêu cầu đặt ra là các văn bản đó cần phải đáp ứng các yêu cầu và

nguyên tắc về tính sở hữu, tính bảo mật thông tin và phù hợp với thực tiễn

công tác lưu trữ của doanh nghiệp. Song song với việc ban hành, sửa đổi, bổ

sung các văn bản pháp luật, Nhà nước Việt Nam cần thành lập các cơ quan/bộ

phận chức năng nhằm nghiên cứu và quản lý chặt chẽ tài liệu hình thành trong

hoạt động của doanh nghiệp. Trong đó, cần nắm bắt và có chính sách lựa

chọn những tài liệu có giá trị Quốc gia của doanh nghiệp đưa vào bảo quản ở

Trung tâm lưu trữ Kinh tế - do Nhà nước hoặc tư nhân xây dựng để bảo quản

an toàn những tài liệu này phục vụ cho nhu cầu phát triển lâu dài của doanh

nghiệp và đất nước.

Bên cạnh đó, việc cho phép thành lập các doanh nghiệp thực hiện các

dịch vụ lưu trữ tài liệu của doanh nghiệp cũng thực sự cần thiết. Với hoạt

động của các doanh nghiệp này sẽ cho phép công tác tổ chức, quản lý lưu trữ

95

tài liệu của doanh nghiệp được nâng cao hiệu quả.

KẾT LUẬN

Công tác văn thư – lưu trữ là một trong những công tác không thể thiếu

trong hoạt động của bất cứ một cơ quan, tổ chức nào. Nó là một mắt xích

quan trọng trong chuỗi các hoạt động nghiệp vụ đảm bảo thông tin phục vụ sự

chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo cơ quan, đồng thời góp phần nâng cao hiệu

quả, chất lượng công việc của cán bộ nhân viên trong cơ quan.

Tổng công ty Đường sắt Việt Nam là cơ quan có quy mô lớn, được

Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động. Là một

loại hình doanh nghiệp nhà nước, hoạt động của Tổng công ty Đường sắt Việt

Nam đã sản sinh ra một khối lượng lớn tài liệu lưu trữ với nhiều loại hình

khác nhau. Khối tài liệu này không những có ý nghĩa quan trọng với các

doanh nghiệp mà còn có những ý nghĩa không thể phủ nhận đối với nền kinh

tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay

và là thành phần quan trọng thuộc Phông lưu trữ Quốc gia Việt Nam.

Từ thực tế khảo sát cho thấy tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

TCTĐSVN cũng có những ưu điểm, hạn chế và các đặc điểm khác biệt. Thực

tế công tác này tại TCT cũng cho thấy các nhà lãnh đạo đã nhận thức được

giá trị của tài liệu lưu trữ nhất là những tài liệu có giá trị quan trọng đối với

các doanh nghiệp mình.

Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi cũng xin đề xuất một số

giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tổ chức, quản

lý công tác lưu trữ tại TCTĐSVN như sau: để nâng cao hiệu quả công tác lưu

trữ đội ngũ cán bộ, nhân viên TCT phải có nhận thức hơn nữa về giá trị tài

liệu do chính mình sản sinh ra. Khi nhận thức được giá trị của tài liệu thì TCT

sẽ ban hành các chính sách phù hợp về tổ chức, quản lý có hiệu quả khối tài

96

liệu lưu trữ của mình. Tuy nhiên, nhận thức đó của TCT cũng chỉ được thay

đổi khi các cơ quan quản lý Nhà nước về lưu trữ có được nhận thức đúng đắn

và đầy đủ các giá trị của tài liệu lưu trữ đối với nền kinh tế của đất nước. Khi

nhận thức đúng đắn và đầy đủ về giá trị của tài liệu lưu trữ doanh nghiệp thì

các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ có các chính sách quản lý hợp lý, ban hành

các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ cụ thể có tính phù hợp với thực tiễn công

tác lưu trữ của doanh nghiệp. Tổ chức, quản lý công tác lưu trữ tại

TCTĐSVN cũng được nâng cao hiệu quả khi cơ quan bố trí cán bộ chuyên

trách về công tác lưu trữ. Những cán bộ này được đào tạo về chuyên môn

nghiệp vụ và hệ thống lý luận phù hợp với thực tiễn công tác lưu trữ trong

doanh nghiệp, sẽ là lực lượng tham mưu cho các lãnh đạo doanh nghiệp trong

việc tổ chức, quản lý có hiệu quả công tác lưu trữ của doanh nghiệp mình. Để

đào tạo được đội ngũ cán bộ đáp ứng những yêu cầu của doanh nghiệp, các

trường đào tạo cán bộ lưu trữ cần cải tiến chương trình đào tạo của mình theo

hướng đào tạo chuyên sâu phục vụ công tác lưu trữ doanh nghiệp... Tuy

nhiên, những kết quả trên đây chỉ là những nghiên cứu mang tính bước đầu

của chúng tôi. Vì thế, để có thể thực sự nâng cao được hiệu quả công tác lưu

trữ tại TCTĐSVN chúng tôi nghĩ rằng cần có nhiều công trình nghiên cứu

công phu hơn nữa nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn, cơ sở khoa học và cơ sở

pháp lý để thực hiện việc tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả công tác lưu

97

trữ của các doanh nghiệp nói chung và TCTĐSVN nói riêng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nguyễn Văn Báu (2008), Luận văn thạc sỹ: Công tác văn thư, lưu trữ

trong doanh nghiệp Nhà nước tại Thành phố HCM giai đoạn 1986 -

2006, Trường ĐHKHXH&NV – Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh.

[2]. Nguyễn Trọng Biên (2000), Suy nghĩ về công tác lưu trữ trong doanh

nghiệp trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số

3/2000, trang 9-11.

[3]. GS. Bê Lôp, A. N Loghinôva, K.G Michiép, N.R. Prôkôpenkô(1968), Lý

luận và thực tiễn công tác lưu trữ ở Liên xô, Bản dịch tiếng Việt của

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

[4]. Nguyễn Thị Kim Bình (2004), Một số biện pháp bước đầu nhằm thực

hiện quản lý Nhà nước đối với công tác lưu trữ của các doanh nghiệp,

Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số 5/2004, trang 131-134

[5]. Nguyễn Thị Kim Bình (2005), Luận văn thạc sỹ: Tổ chức quản lý công

tác lưu trữ của các Tổng công ty 91,Trường ĐHKHXH&NV- Đại học

Quốc gia Hà Nội.

[6]. Th.S Nguyễn Thị Kim Bình (2008), Những vấn đề cần xem xét trong

quản lý công tác lưu trữ ở các tập đoàn kinh tế Việt Nam, Tạp chí Văn

thư Lưu trữ Việt Nam số 4/2008, trang 5-9

[7]. Th.S Nguyễn Thị Kim Bình (2009), Giá trị tài liệu lưu trữ của doanh

nghiệp phục vụ nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời

kỳ đổi mới, Hội thảo khoa học “Khai thác và phát huy giá trị của tài liệu

lưu trữ trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn” do Trường

ĐHKHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức tháng 12/2009,

98

trang 141-155.

[8]. Th.S Nguyễn Thị Kim Bình (2012), Vấn đề quản lý tài liệu lưu trữ khi

chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Văn thư

Lưu trữ Việt Nam số 4/2012, trang 5-9

[9]. Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam (2000), Quyết định số

218/2000/QĐ-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2000 của Bộ Tài chính về

việc ban hành Chế độ lưu trữ tài liệu kế toán.

[10]. Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004), Nghị định số

111/2004/NĐ- CP của Chính phủ về công tác lưu trữ ban hành ngày

08/04/2004.

[11]. Chính Phủ nước CHXHCN Việt Nam (2013), Nghị định số 01/2013/NĐ-

CP ngày 03 tháng 01 năm 2013 của Chính Phủ quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật lưu trữ.

[12]. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2013), Nghị định số

175/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính Phủ về Điều lệ

tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam.

[13]. Đào Xuân Chúc, Nguyễn Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn

Thâm: Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ, Nxb Đại học và Giáo dục

chuyên nghiệp, Hà Nội, 1990.

[14]. CHND Trung Hoa (1992), Những văn bản Pháp quy về lưu trữ của nước

CHND Trung Hoa 1980-1992, Bắc Kinh.

[15]. Cục Lưu trữ Pháp (1993), Thực tiễn lưu trữ Pháp, Tập II, Paris, dịch:

Nguyễn Đức Bảo, Nguyễn Huy Côn, Đặng Trần Lộc, Nguyễn Đông

Hải, Nguyễn Thị Nga.

[16]. Cục Lưu trữ Nhà nước Nga (1992), Nguyên tắc thành lập và phương án

bố cục viện lưu trữ trong cả nước (bản dịch tiếng Việt), ban hành ngày

99

27/01/1992

[17]. Cục Văn thư, lưu trữ Nhà nước (1999), Sơ lược về pháp chế Lưu trữ

(dịch từ nguyên bản tiếng Trung của tác giả Thạch Đại Quyết), NXB

Lưu trữ Trung Quốc.

[18] Phan Văn Giản (2006), Lịch sử Đường sắt Việt Nam, NXB Chính trị

Quốc gia.

[19]. Hội đồng lưu trữ Quốc tế (1995), Luật lệ Lưu trữ các nước, 1981-1994,

K.G.SAUR, Munchen. New Providence. London. Paris, Trung tâm

nghiên cứu khoa học lưu trữ - Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước Việt

Nam dịch.

[20]. Vũ Thị Thu Hiền (2012), 500 doanh nghiệp lớn trên thế giới quản lý tài

liệu lưu trữ của mình như thế nào (nguồn: Báo Lưu trữ Trung Quốc”,

ngày 10 tháng 3 năm 2011, kỳ thứ 2125),Website:

http://www.archives.gov.vn , truy cập ngày 28/09/2014, 10h55’

[21]. PGS.TS Dương Văn Khảm (2001), Quản lý tài liệu lưu trữ Quốc gia

trong nền kinh tế thị trường theo pháp luật, Kỷ yếu hội thảo khoa học

Lưu trữ và Quản trị văn phòng lần thứ hai, do Trường Đại học Khoa học

Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức tháng 11-2001,

tr. 41-52

[22]. Khoa Khoa học Quản lý (2009), Bài giảng Khoa học quản lý đại cương,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.

[23]. Lagos Kornmendy (2007), Tư nhân hóa và Lưu trữ (bản tiếng Việt), Tạp

chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số 4 năm 2007; trang 29-31.

[24]. V.P.Kôzlôv (Chủ biên) (2002), Những nguyên tắc công tác cơ bản của

các viện lưu trữ Nhà nước Liên bang Nga (bản dịch tiếng Việt),

100

Matxcơva.

[25]. Doãn Lực (2008), Công tác tuyên truyền, giới thiệu tài liệu lưu trữ

hướng tới công chúng để tăng cường phục vụ sự nghiệp phát triển kinh

tế - xã hội ở Trung Quốc, Kỷ yếu hội nghị khoa học quốc tế: “phát huy giá trị

tài liệu lưu trữ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, do Cục Văn

thư và Lưu trữ Nhà nước Việt Nam tổ chức tháng 4/2008; tr.4-11.

[26]. Thông đạt số 1C ngày 03-01-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác

lưu trữ các công văn, tài liệu.

[27]. Bài phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu (nguyên Tổng Bí thư Đảng

Cộng sản Việt Nam) về nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo

của các cấp ủy đảng đối với công tác lưu trữ Đảng tại hội nghị tổng kết

10 năm thực hiện Quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng về

phông lưu trữ Đảng cộng sản Việt Nam.www.cpv.org.vn.

[28]. PGS.TS Vũ Thị Phụng (2003), Tài liệu lưu trữ của các doanh nghiệp ở

Việt Nam và những vấn đề khoa học cần nghiên cứu, Tạp chí Văn thư

Lưu trữ Việt Nam số 3/2003; tr.77-80

[29]. PGS.TS Vũ Thị Phụng (2004), Thu thập tài liệu của các đơn vị sản xuất,

kinh doanh vào lưu trữ - thực trạng và giải pháp, Tạp chí Văn thư Lưu

trữ Việt Nam số 5/2004 tr.127-130

[30]. PGS.TS Vũ Thị Phụng, Nguyễn Thị Chinh (2006), Giáo trình Nghiệp vụ

lưu trữ cơ bản, NXB Hà Nội.

[31]. PGS.TS Nguyễn Minh Phương (2001), Một số suy nghĩ bước đầu về ứng

dụng Luật pháp lưu trữ nước ngoài để xây dựng luật pháp lưu trữ Việt

Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lưu trữ và Quản trị văn phòng lần thứ

2, do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia

101

Hà Nội tổ chức tháng 11-2001; tr71-89.

[32]. TS. Hồ Văn Quýnh(2001), Một số vấn đề về công tác văn thư, lưu trữ

của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Kỷ yếu hội thảo khoa học Lưu

trữ và Quản trị văn phòng lần thứ hai, do Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức tháng11-2001 tại

Hà Nội, tr.179-191

[33]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI(2003), Luật Kế toán số

03/2003/QH11, ban hành ngày 17 tháng 06 năm 2003.

[34]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI(2005), Luật Doanh

nghiệp số 60/2005/QH11, ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005.

[35]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII(2011), Luật Lưu trữ số

01/2011/QH13, ban hành ngày 11 tháng 11 năm 2011.

[36]. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XI(2005), Luật Đường sắt số

35/2005/QH11, ban hành ngày 14/6/2005.

[37]. Trần Vũ Thành (2013), Tổ chức và quản lý công tác lưu trữ trong các

doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (nghiên cứu các doanh

nghiệp trên địa bàn Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai), Luận văn thạc sỹ.

[38]. Nguyễn Thị Thanh Thùy (2005), Tổ chức quản lý công tác lưu trữ tại

Tập đoàn Bưu chính viên thông Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Hà

Nội.

[39]. Tổng công ty đường sắt Việt Nam (2013), một số văn bản đi, đến của

Tổng công ty đường sắt Viêt Nam.

[40]. Tổng cục Thống kê (2010), Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ

21, NXB Thống kê, Hà Nội.

[41]. Ủy ban thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X (2001),

Pháp lệnh số 34/2001/PL-UBTVQH10, ngày 04 tháng 04 năm 2001 về

102

lưu trữ Quốc gia.

[42]. Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (2013), Báo cáo thuyết

minh về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

103

[43]. Website: http://www.vr.com.vn

PHỤ LỤC

1. Phụ lục 01: Các văn bản quy định, hướng dẫn về công tác văn thư, lưu trữ

của TCTĐSVN.

2. Phụ lục 02: Báo cáo thống kê tổng hợp công tác lưu trữ năm 2013 của

TCTĐSVN gửi Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước.

3. Phụ lục 03: Công văn về việc phương hướng nhiệm vụ công tác văn thư,

lưu trữ năm, 2010, 2012, 2014.

4. Phụ lục 04: Các văn bản kế hoạch kiểm tra, kết quả kiểm tra công tác văn

thư – lưu trữ năm 2007, 2008, 2009.

5. Phụ lục 05: Một số hình ảnh phỏng vấn cán bộ quản lý công tác văn phòng

TCT và cán bộ lưu trữ tại đơn vị.

6. Phụ lục 06: Một số hình ảnh TLLT đã chỉnh lý tại kho lưu trữ Tổng Công

ty ĐSVN.

7. Phụ lục 07: Một số hình ảnh TLLT chưa chỉnh lý tại kho lưu trữ Tổng

Công ty ĐSVN.

8. Phụ lục 08: Một số hình ảnh tổng kết, tập huấn công tác văn phòng ở trong

và ngoài nước.

9. Phụ lục 09: Một số hình ảnh kho tàng, trang thiết bị tại kho lưu trữ

TCTĐSVN.

10. Phụ lục 10a; 10b: Một số hình ảnh kho lưu trữ tại một số các đơn vị trực

thuộc Tổng Công ty ĐSVN đóng trên địa bàn TP Hà Nội.

11. Phụ lục 11: Hình ảnh bằng khen của Văn phòng Chính Phủ tặng Tổ hành

104

chính – Văn phòng TCTĐSVN.

PHỤC LỤC 5

HÌNH ẢNH PHỎNG VẤN CÁN BỘ QUẢN LÝ VĂN PHÒNG TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

105

HÌNH ẢNH PHỎNG VẤN CÁN BỘ LƢU TRỮ TẠI CÔNG TY VẬN TẢI ĐS HÀ NỘI - ẢNH CHỤP NGÀY 16/12/2014

PHỤC LỤC 6

HÌNH ẢNH TLLT KẾ TOÁN TẠI KHO LƢU TRỮ TCT ĐSVN ẢNH CHỤP 10/11/2014

106

HÌNH ẢNH TLLT ĐÃ CHỈNH LÝ TẠI KHO LƢU TRỮ TCT ĐSVN ẢNH CHỤP 10/11/2014

PHỤC LỤC 7

HÌNH ẢNH TLLT CHƢA CHỈNH LÝ TẠI KHO LƢU TRỮ TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

107

HÌNH ẢNH TLLT KHKT CHƢA CHỈNH LÝ TẠI KHO LƢU TRỮ TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

PHỤC LỤC 8

HÌNH ẢNH CB VĂN PHÒNG TCTĐSVN THAM QUAN, HỌC TẬP TẠI MALAYSIA - ẢNH CHỤP NGÀY 25/11/2014

108

HÌNH ẢNH HỘI NGHỊ TỔNG KẾT CÔNG TÁC VĂN PHÒNG TẠI TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 25/11/2014

PHỤC LỤC 9

HÌNH ẢNH THIẾT BỊ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY TẠI KHO LƢU TRỮ TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

109

HÌNH ẢNH THIẾT BỊ MÁY HÚT ẨM TẠI KHO LƢU TRỮ TCTĐSVN - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

PHỤC LỤC 10

110

HÌNH ẢNH TLLT TẠI KHO LƢU TRỮ CÔNG TY THÔNG TIN TÍN HIỆU ĐS HÀ NỘI - ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

HÌNH ẢNH TLLT TẠI KHO LƢU TRỮ NHÀ MÁY XE LỬA GIA LÂM ẢNH CHỤP NGÀY 10/11/2014

PHỤC LỤC 11

ẢNH BẰNG KHEN TỔ HÀNH CHÍNH - TCTĐSVN

111

DO CHỦ NHIỆM VPCP TẶNG - ẢNH CHỤP NGÀY 08/12/2014