BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Nguyễn Thị Thu Thuỷ

MARKETING QUA INTERNET VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thương Mại Mã số: 60.34.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội 04/2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

Nguyễn Thị Thu Thuỷ

MARKETING QUA INTERNET VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thương Mại Mã số: 60.34.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thu Hương Hà Nội 04/2008

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AMA: American marketing association: Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ

ARPANET: Advanced Research Projects Agency Network: Mạng lưới cơ quan

với các đề án nghiên cứu tân tiến.

B2B: Business to Business : Doanh nghiệp với doanh nghiệp

B2C: Business to Customer: Doanh nghiệp với người tiêu dùng

B2G: Business to Government: Doanh nghiệp với Chính phủ

CNTT: Công nghệ thông tin

PDA: Personal digital assistant : Thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân

PR: Public relations: Quan hệ công chúng

SWOT: Strengths, Weaknesses, Opportunities, Threats: Điểm Mạnh, Điểm

Yếu, Cơ hội, Thách thức

TMĐT: Thương Mại điện tử

TCP/IP: Internet protocol suite: Bộ giao thức liên mạng

VCCI: VietNam chamber of Commerce and Industrie: Phòng Thương mại và

Công nghiệp Việt Nam

1

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUA INTERNET ……… 4

1.1. KHÁI NIỆM VỀ MARKETING QUA INTERNET……………….. 4

1.1.1. Khái niệm Marketing .............................................................................. 4

1.1.2. Khái niệm Internet ................................................................................. 13

1.1.3. Khái niệm Marketing điện tử và Marketing qua Internet ..................... 14

1.1.4. Một số đặc điểm cơ bản của E- Marketing và Marketing qua Internet

khác với Marketing truyền thống ................................................................... 17

1.2.1. Sản phẩm qua Internet ........................................................................... 20

1.2.2. Kênh phân phối trực tiếp qua Internet .................................................. 22

1.2.3. Giá và kiểm soát giá qua Internet.......................................................... 24

1.2.4. Truyền thông Marketing tích hợp ......................................................... 25

1.2.5. Quản trị quan hệ khách hàng ................................................................. 26

1.3. VAI TRÒ CỦA MARKETING QUA INTERNET…………………28

1.3.1. Đối với khách hàng ............................................................................... 28

1.3.2. Đối với xã hội ........................................................................................ 29

1.3.3. Đối với hoạt động kinh doanh ............................................................... 30

1.4. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI MỘT SỐ

CÔNG TY TRÊN THẾ GIỚI………………………..………………… .34

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET

TẠI VIỆT NAM…………………………………………………………….37

2.1. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT

NAM……………………………………………………………………… 37

2.1.1. Điều kiện về cơ sở hạ tầng ................................................................. 37

2.1.2. Điều kiện về nhân lực ........................................................................ 38

2.1.3. Điều kiện về nhận thức ...................................................................... 40

2

2.2. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NA….41

2.2.1. Thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam ...................... 41

2.2.1.1. Xây dựng website ........................................................................ 41

2.2.1.2. Quảng cáo online......................................................................... 43

2.2.1.4. Marketing qua công cụ tìm kiếm ................................................ 49

2.2.1.5. Marketing thông qua “cộng đồng ảo” ......................................... 52

2.2.1.6. PR trên Internet ........................................................................... 56

2.2.1.7. Marketing lan truyền (Viral Marketing) ..................................... 57

2.2.2. Đánh giá hoạt động Marketing qua Internet tại Việt Nam.................58

2.2.2.1. Một số kết quả đạt được của hoạt động Marketing qua Internet tại

Việt Nam ......................................................................................................... 58

2.2.2.2. Một số tồn tại của Marketing qua Internet tại Việt Nam ............. 65

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ

HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM…....73

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN MARKETING QUA INTERNET

TẠI VIỆT NAM…........................................................................................73

3.1.1. Định hướng của Nhà nước ................................................................ 73

3.1.2. Một số xu hướng phát triển Marketing qua Internet ......................... 75

3.1.1.1. Tăng cường đào tạo về Thương mại điện tử (TMĐT) nói chung

và Marketing qua Internet nói riêng ........................................................ 78

3.1.1.2. Tăng cường sử dụng Quảng cáo trực tuyến ................................ 79

3.1.1.3. Sử dụng tích cực PR trong xây dựng Thương hiệu .................... 80

3.1.1.4. Nhiều công cụ Internet Marketing mới ra đời trên cơ sở sự phát

triển của Internet và những ứng dụng của nó .......................................... 80

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẰNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET……………………………......81

3.2.1. Nhóm giải pháp về phía Chính phủ .................................................. 81

3

3.2.1.1. Phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý .................................................. 81

3.2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ ............................................. 83

3.2.1.3. Đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về Thương mại điện tử ......... 85

3.2.1.4. Xây dựng hệ thống an toàn thông tin trên mạng ........................ 86

3.1.2.5. Chủ động tham gia hợp tác quốc tế về lĩnh vực thương mại điện

tử và Marketing qua Internet ................................................................... 87

3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp Việt Nam ...................... 88

3.2.2.1. Thay đổi nhận thức về Marketing và Marketing qua Internet ... 89

3.2.2.2. Lập kế hoạch Marketing qua Internet ......................................... 90

3.2.2.3. Xây dựng Ngân sách cho hoạt động Internet Marketing ............ 93

3.2.2.4. Giải pháp đào tạo về Internet Marketing .................................... 94

3.2.2.4. Nhóm giải pháp về vận dụng các công cụ của Marketing qua

Internet ..................................................................................................... 95

Xây dựng website doanh nghiệp ....................................................... 95

Giải pháp vận dụng Marketing qua Forum ....................................... 98

Giải pháp vận dụng Marketing qua Blog .......................................... 98

Giải pháp vận dụng Email ................................................................. 99

Giải pháp vận dụng Quảng cáo trên Internet................................... 100

Giải pháp vận dụng PR qua Internet ............................................... 101

KẾT LUẬN…………………………………………...…………………...103

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………..…………………………………….103

4

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUA INTERNET

1.1. KHÁI NIỆM VỀ MARKETING QUA INTERNET

Sự bùng nổ của mạng Internet đã đem đến những biến đổi to lớn trong

mọi mặt của đời sống xã hội, tạo ra những giá trị chưa từng có. Không chỉ có

vậy, nhiều khái niệm mới mẻ gắn liền với Internet cũng ra đời như E-

Marketing, Internet Marketing, Marketing online…..Vậy Internet là gì,

Marketing và những khái niệm mới ra đời từ sự kết hợp Internet và Marketing

là gì?

Trong phần này, chúng ta cùng làm rõ khái niệm về Internet, Marketing

và sau đó xem xét chúng trong mối quan hệ với những khái niệm mới hiện

nay như Internet Marketing, E-Marketing để tìm kiếm những khác biệt.

1.1.1. Khái niệm Marketing

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Marketing. Marketing là quá

trình tổ chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty

sản xuất ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá

trình tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay Marketing là làm thị

trường, nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó. Trong Luận văn này, tác giả sử

dụng định nghĩa: Marketing là các cơ chế kinh tế và xã hội mà các tổ chức và

cá nhân sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của mình thông qua

quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.

Theo Philip Kotler thì marketing được hiểu như sau: Marketing là một

quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được

những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi

những sản phẩm có giá trị với những người khác.

5

Khái niệm này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi: nhu

cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi,

giao dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm

marketing.

Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu: Tư duy marketing bắt đầu từ những nhu

cầu và mong muốn thực tế của con người. Người ta cần thức ăn, không khí,

nước, quần áo và nơi ở để nương thân. Ngoài ra người ta còn rất ham muốn

được nghỉ ngơi, học hành và các dịch vụ khác. Họ cũng có sự ưa chuộng

những mẫu mã và nhãn hiệu cụ thể của những hàng hoá dịch vụ cơ bản.

Cần phân biệt rõ các khái niệm nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Nhu

cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ

bản nào đó. Người ta cần có thức ăn, quần áo, nơi ở, sự an toàn, của cải, sự

quý trọng và một vài thứ khác nữa để tồn tại. Những nhu cầu này không phải

do xã hội hay những người làm marketing tạo ra. Chúng tồn tại như một bộ

phận cấu thành cơ thể con người và nhân thân con người.

Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những

nhu cầu sâu xa hơn đó. Một người Mỹ có nhu cầu thức ăn và mong muốn có

có món hamburger, có nhu cầu về quần áo và mong muốn có bộ đồ Pierrre

Cardin, có nhu cầu về sự quý trọng và muốn có một chiếc xe Mercedes.

Trong một xã hội khác thì những nhu cầu này lại được thoả mãn theo một

cách khác: Những người thổ dân Úc thoả mãn cơn đói của mình bằng chim

cánh cụt; Nhu cầu về quần áo bằng mảnh khố; Sự quý trọng bằng một chuỗi

vòng vỏ ốc để đeo cổ. Mặc dù nhu cầu của con người thì ít, nhưng mong

muốn của họ thì nhiều. Mong muốn của con người không ngừng phát triển và

6

được định hình bởi các lực lượng và định chế xã hội, như nhà thờ, trường học,

gia đình và các công ty kinh doanh.

Yêu cầu là mong muốn có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn

của khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu cầu

khi có sức mua hỗ trợ. Nhiều người mong muốn có một chiến xe Mercedes,

nhưng chỉ có một số ít người có khả năng và sẵn sàng mua kiểu xe đó. Vì thế

công ty không những phải định lượng xem có bao nhiêu người mong muốn có

sản phẩm của mình, mà điều quan trọng hơn là phải định lượng xem có bao

nhiêu người thực sự sẵn sàng và có khả năng mua nó.

Những điểm khác biệt nêu trên đã làm sáng tỏ những ý kiến phê bình

thường thấy của những người lên án marketing là “những người làm

marketing tạo ra nhu cầu” hay “những người làm marketing dụ dỗ mọi người

mua những thứ mà họ không mong muốn”. Những người làm marketing

không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm

marketing. Cùng với những yếu tố ảnh hưởng khác trong xã hội, những người

làm marketing có tác động đến những mong muốn. Họ cổ vũ ý tưởng là chiếc

xe Mercedes sẽ thoả mãn nhu cầu về địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên

những người làm marketing không tạo ra nhu cầu về địa vị xã hội. Họ tác

động đến yêu cầu bằng cách làm ra sản phẩm thích hợp, hấp dẫn, vừa túi tiền

và dễ kiếm cho những người tiêu dùng mục tiêu.

Sản phẩm: Người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của mình bằng

hàng hoá và dịch vụ. Thuật ngữ sản phẩm ở đây được hiểu là cả hàng hoá lẫn

dịch vụ. Ta định nghĩa sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả

mãn một nhu cầu hay mong muốn. Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất

bắt nguồn không phải từ việc sở hữu chúng, mà chính là từ việc có được

7

những dịch vụ mà chúng đem lại. Ta mua một chiếc xe không phải để ngắm

nhìn nó mà vì nó cung ứng vận chuyển. Ta mua một cái bếp không phải để

chiêm ngưỡng mà vì nó đảm bảo dịch vụ nấu nướng. Vì vậy các sản phẩm vật

chất thực sự là những phương tiện đảm bảo phục vụ chúng ta. Trong thực tế

dịch vụ còn do những yếu tố khác đảm bảo, như con người, địa điểm, các hoạt

động, tổ chức và ý tưởng. Nếu ta cảm thấy buồn thì ta có thể đến một câu lạc

bộ hài kịch để xem một diễn viên hài biểu diễn, gia nhập câu lạc bộ độc thân

(tổ chức) hay chấp nhân triết lý sống khác nhau (ý tưởng). Vì thế chúng ta sẽ

sử dụng thuật ngữ sản phẩm để ám chỉ sản phẩm vật chất, sản phẩm dịch vụ

và những phương tiện khác có khả năng thoả mãn một mong muốn hay một

nhu cầu. Đôi khi ta cũng sẽ sử dụng những thuật ngữ khác nhau thay cho sản

phẩm, như hàng hoá, yếu tố thoả mãn hay nguồn tài nguyên.

Gía trị chi phí và sự thoả mãn: Trong số rất nhiều những sản phẩm có thể

thoả mãn một nhu cầu nhất định, người tiêu dùng sẽ lựa chọn như thế nào?

Giả sử, hàng ngày một người phải đi làm xa 3 dặm. Có một số sản phẩm có

thể thoả mãn được nhu cầu này: patanh, xe đạp, xe gắn máy, ô tô, taxi và xe

buýt. Những phương án này tạo nên một tập khả năng lựa chọn sản phẩm. Giả

sử người đó muốn thoả mãn một số nhu cầu phụ thêm trên đường đi làm, cụ

thể là tốc độ, an toàn, thoải mái và tiết kiệm. Ta gọi đó là tập nhu cầu. Bây giờ

thì mỗi sản phẩm có một khả năng khác nhau để thoả mãn những nhu cầu

khác nhau của người đó. Chẳng hạn như xe đạp thì chậm hơn, kém an toàn và

tốn sức hơn là ô tô, nhưng lại tiết kiệm hơn. Dù thế nào đi nữa thì người đó

cũng phải quyết định sản phẩm nào sẽ đảm bảo thoả mãn nhu cầu đầy đủ

nhất.

Khái niệm chủ đạo là giá trị đối với khách hàng. Người đó sẽ đánh giá

khả năng của từng sản phẩm thoả mãn tập nhu cầu của mình. Anh ta có thể

8

xếp hạng các sản phẩm từ loại thoả mãn nhiều nhu cầu nhất đến đến loại thoả

mãn ít nhu cầu nhất. Giá trị là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng

chung của sản phẩm thoả mãn những nhu cầu của mình.

Chúng ta có thể yêu cầu anh ta hình dung những đặc điểm của một sản

phẩm lý tưởng đối với những nhiệm vụ đó. Anh ta có thể trả lời rằng sản

phẩm lý tưởng sẽ đưa anh ta đến chỗ làm trong giây lát với sự an toàn tuyệt

đối, không mất sức và chi phí bằng không. Khi đó giá trị của mỗi sản phẩm

thực tế sẽ phụ thuộc vào mức độ nó gần với sản phẩm lý tưởng đó.

Giả sử rằng anh ta quan tâm hàng đầu đến tốc độ và sự thoải mái khi đi

làm. Nếu anh ta được sử dụng miễn phí bất kỳ sản phẩm nào trong số đó, thì

ta có thể đoán trước được là anh ta sẽ chọn ô tô. Nhưng bây giờ mới nảy sinh

vướng mắc: chi phí để mua ô tô lớn hơn nhiều so với chi phí để mua một

chiếc xe đạp, do đó anh ta sẽ phải từ bỏ nhiều thứ khác (có giá trị) để mua ô

tô. Vì thế anh ta sẽ xem xét giá trị và giá cả của sản phẩm trước khi anh ta

chọn. Anh ta sẽ chọn sản phẩm nào tạo ra giá trị lớn nhất trên một đồng USD.

Các nhà nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng ngày nay đã vượt ra

ngoài khuôn khổ chật hẹp của những giả thuyết kinh tế về cách thức người

tiêu dùng xét đoán giá trị và lựa chọn sản phẩm.

Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ: Việc con người có những nhu cầu

và mong muốn và có thể gắn cho các sản phẩm một giá trị vẫn chưa nói lên

hết được ý nghĩa của marketing. Markerting xuất hiện khi người ta quyết định

thoả mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là một

trong các cách để người ta có được các sản phẩm và Marketing phát sinh từ

phương thức tìm kiếm sản phẩm này.

9

Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một

người nào đó bằng cách đưa cho người đó những thứ gì đó. Trao đổi là một

khái niệm quyết định, tạo nền móng cho marketing. Trao đổi chỉ xảy ra khi

thoả mãn đủ điều kiện sau:

- Ít nhất phải có hai bên.

- Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia.

- Mỗi bên phải có khả năng tự giao dịch và chuyển giao hàng hoá của mình.

- Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từ lời đề nghị của bên kia.

- Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.

Nếu có đủ năm điều kiện này thì mới có tiềm năng trao đổi. Còn việc

trao đổi có thực sự diễn ra hay không là còn tuỳ thuộc vào vấn đề hai bên có

thể thảo thuận được những điều kiện trao đổi có lợi cho cả hai bên (hay chí ít

cũng không có hại) so với trước khi trao đổi. Chính vì ý nghĩa này mà trao đổi

được xem như là một quá trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm cho

cả hai bên có lợi hơn trước khi trao đổi.

Giao dịch đòi hỏi phải có một yếu tố: ít nhất có hai giá trị, những điều

kiện thực hiện đã được thoả thuận, thời gian thực hiện đã thoả thuận, địa điểm

thực hiện đã được thoả thuận. Thông thường có cả một hệ thống luật pháp hậu

thuẫn và bắt buộc các bên giao dịch phải thực hiện đúng các phần cam kết của

mình. Giao dịch rất dễ làm phát sinh mâu thuẫn do hiểu lầm hay cố tình.

Không có “luật hợp đồng” thì mọi người sẽ thiếu tin cậy vào giao dịch và tất

cả đều bị thua thiệt.

Các doanh nghiệp để theo dõi các vụ giao dịch của mình và phân loại

chúng theo mặt hàng, giá cả, địa điểm và những biến cố khác. Phân tích

10

doanh số bán là việc phân tích nguồn gốc doanh thu của công ty theo sản

phẩm, khách hàng và địa bàn…

Theo ý nghĩa chung nhất thì người làm marketing đang tìm cách tạo

cho được hành vi phản ứng từ phía bên kia. Một công ty kinh doanh thì muốn

phản ứng đó là hành vi mua hàng, một ứng viên chính trị thì muốn phản ứng

đó là hành vi bỏ phiếu, nhà thờ thì muốn phản ứng đó là hành vi theo đạo,

nhóm hoạt động xã hội thì muốn phản ứng đó là hành vi chấp nhận ý tưởng

của mình. Marketing bao gồm những hoạt động được tiến hành nhằm tạo ra

những phản ứng mong muốn đối với một đối tượng từ phía công chúng mục

tiêu.

Để đảm bảo các cuộc trao đổi diễn ra trôi chảy, người làm marketing

phải phân tích xem mỗi bên dự kiến sẽ cho và nhận cái gì. Những tình huống

trao đổi giản đơn có thể biểu diễn bằng một hồ sơ trong đó có hai người tham

gia cùng những thứ mong muốn và lời mời chào lưu thông giữa họ.

Đến đây ta đã thấy bản chất của marketing giao dịch. Maketing giao

dịch là một bộ phận ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm

marketing khôn ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, đáng tin

cậy, cùng có lợi với những khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và

những người cung ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn

đảm bảo chất lượng cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên

kia. Nhiệm vụ đó cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan

hệ ràng buộc chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác.

Marketing quan hệ sẽ làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong

những trường hợp tốt đẹp nhất giao dịch sẽ làm chuyển từ chỗ phải thương

lượng từng lần sang chỗ trở thành công việc thường lệ.

11

Kết quả cuối cùng của marketing quan hệ là hình thành được một tài

sản độc đáo của công ty, gọi là mạng lưới marketing bao gồm công ty và

những người cung ứng, những người phân phối và khách hàng của mình mà

công ty đã xây dựng được những mối quan hệ vững chắc, tin cậy trong kinh

doanh. Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa

lợi nhuận trong từng vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi

bên cùng có lợi với các đối tác. Nguyên tắc làm việc là phải xây dựng được

những mối quan hệ tốt rồi tự khắc các vụ giao dịch sẽ có lợi.

Thị trƣờng: Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm ẩn

cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham

gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó.

Như vậy quy mô của thị trường phụ thuộc vào một số người có nhu cầu

và có những tài nguyên được người khác quan tâm, và sẵn sàng đem lại

những tài nguyên đó để đổi lấy cái mà họ mong muốn.

Những người kinh doanh sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ nhóm

khách hàng khác nhau. Họ nói về thị trường nhu cầu (chẳng hạn như thị

trường thực phẩm thường ngày), thị trường sản phẩm (thị trường giày dép),

thị trường nhân khẩu (như thị trường thanh niên) và thị trường địa lý (như thị

trường Việt Nam). Hay họ còn mở rộng khái niệm để chỉ cả những nhóm

không phải khách hàng, như thị trường cử tri, thị trường sức lao động và thị

trường nhà hảo tâm.

Như vậy, khái niệm thị trường đã đưa ta quay lại điểm xuất phát là khái

niệm marketing. Marketing có nghĩa là hoạt động của con người diễn ra trong

mối quan hệ với thị trường. Marketing có nghĩa là làm việc với thị trường để

12

biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện thực với mục đích là thỏa mãn những

nhu cầu và mong muốn của con người.

Nếu một bên tích cực tìm kiếm cách trao đổi hơn bên kia, thì ta gọi bên

thứ nhất là người làm marketing còn bên thứ hai là khách hàng triển vọng.

Người làm marketing là người tìm kiếm tài nguyên từ một người khác và sẵn

sàng đưa ra một thứ gì đó có giá trị trao đổi. Người làm marketing tìm kiếm

một phản ứng từ phía bên kia để bán hoặc mua một thứ gì đó. Nói cách khác,

người làm marketing có thể là người bán hay người mua. Giả sử, có một số

người muốn mua một ngôi nhà hấp dẫn vừa mới xây xong. Như vậy là những

người mua đó cũng đang làm marketing! trong trường hợp cả hai bên đều tích

cực tìm cách trao đổi, thì ta nói rằng cả hai bên đều là người làm marketing và

gọi trường hợp đó là marketing lẫn nhau.

Trong trường hợp bình thường người làm marketing là một công ty

phục vụ thị trường người sử dụng cuối cùng đối mặt với các đối thủ cạnh

tranh. Công ty và các đối thủ cạnh tranh đều gửi sản phẩm tương ứng và

thông điệp cho người sử dụng cuối cùng một cách trực tiếp hay thông qua các

định chế trung gian marketing (những người trung gian và những người xúc

tiến thương mại). Hiệu quả tương đối của họ chịu ảnh hưởng của những người

cung ứng tương ứng cũng như của những lực lượng chính của môi trường

(nhân khẩu học, kinh tế, vật chất, kỹ thuật, chính trị pháp lý, xã hội/văn hóa).

Sau khi nghiên cứu kỹ những khái niệm ở trên chúng ta xin được nhắc

lại khái niệm marketing như sau: Marketing là những cơ chế kinh tế và xã hội

mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thoả mãn những nhu cầu và đòi hỏi

(mong muốn) của mình thông qua các quy trình trao đổi sản phẩm trên thị

trường.

13

1.1.2. Khái niệm Internet

Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET. Cơ quan

quản lý dự án nghiên cứu phát triển ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết

4 địa điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1968 bao gồm: Viện nghiên cứu

Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Tổng hợp Utah và Đại

học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area

Network-WAN) đầu tiên được xây dựng.

Thuật ngữ Internet xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó

mạng vẫn được gọi là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức

được coi như một chuẩn đối với ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối

với ARPANET phải sử dụng chuẩn mới này.

Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập kỷ

1980 khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các

trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã

chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt động,

ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.

Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng

khác đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới

năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn

tiếp tục phát triển. Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành

một mạng lớn nhất trên thế giới, mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh

vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục, văn hoá, xã hội...

Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không ngừng phát triển tạo ra cho nhân

loại một thời kỳ mới: kỷ nguyên thương mại điện tử trên Internet.

14

Vậy Internet là gì? Theo wikimedia, cuốn bách khoa toàn thư mở lớn

nhất thế giới : Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy

nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này

truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên

một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP).

Do bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp,

của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và

các chính phủ trên toàn cầu. Internet cung cấp một khối lượng thông tin và

dịch vụ khổng lồ trên Internet. Ngoài ra mạng Internet mang lại rất nhiều tiện

ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ thông của

Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy

tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và các

dịch vụ về y tế giáo dục như chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo.

Nguồn thông tin khổng lồ kèm theo các dịch vụ tương ứng chính là hệ

thống các trang Web liên kết với nhau và các tài liệu khác trong WWW

(World Wide Web).

1.1.3. Khái niệm Marketing điện tử và Marketing qua Internet

Đồng thời với sự bùng nổ những ứng dụng của Internet và các phương

tiện truyền thông hiện đại trong mọi mặt của đời sống xã hội, người ta cũng

bắt đầu nghiên cứu những ứng dụng của nó cho hoạt động Marketing. Trong

thực tế Internet và các phương tiện truyền thông có thể được sử dụng để hỗ

trợ cho những mục đích sau đây của Marketing :

Identifying – Internet và các phương tiện truyền thông có thể được sử

dụng để xác định mong muốn và nhu cầu của khách hàng.

Anticipating –Internet cung cấp thêm một kênh thông tin qua đó khách

15

hàng có thêm sự hiểu biết về sản phẩm và có thể thực hiện hành vi mua hàng.

Satisfying – Chìa khóa của thành công đối với Internet marketing chính

là đạt được sự hài lòng của khách hàng thông qua sự tiện dụng của website,

hình thức và nội dung của website.

Cùng với những ứng dụng của Internet và các phương tiện truyền thông

điện tử trong hoạt động Marketing thì các khái niệm mới như Marketing điện

tử (E- Marketing) và Marketing qua Internet (Internet Marketing) cũng ra đời.

Chúng ta cùng xem xét một số khái niệm tiêu biểu sau đây về E- Marketing

và Internet Marketing:

Khái niệm E-Marketing:

Theo Philip Kotler: E-Marketing là quá trình lập kế hoạch về sản phẩm,

giá, phân phối và xúc tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng

nhu cầu của tổ chức và cá nhân dựa trên các phương tiện điện tử và internet.

Hay: “Marketing điện tử bao gồm tất cả các hoạt động để thoả mãn nhu

cầu và mong muốn của khách hàng thông qua internet và các phương tiện

điện tử”. ( Theo Joel Reedy, Shauna Schullo, Kenneth Zimmerman).

Hoặc một định nghĩa khác cụ thể hơn về Marketing điện tử của Dave

Chaffey, tác giả của “Emarketing Excellent”, “Total Email Marketing”,

“Internet Marketing”: Marketing điện tử là hoạt động ứng dụng mạng internet

và các phương tiện điện tử (web, e-mail, cơ sở dữ liệu, multimedia, pda...) để

tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và

duy trì quan hệ khách hàng thông qua nâng cao hiểu biết về khách hàng

(thông tin, hành vi, giá trị, mức độ trung thành...), các hoạt động xúc tiến

hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu của

khách hàng.

16

Tất cả các khái niệm nói trên về E-Marketing đều đưa ra được những

đặc điểm chung nhất của Marketing điện tử:

Môi trường: Marketing trong môi trường mới, môi trường Internet và

các phương tiện thông tin điện tử.

Phương tiện: Internet và các thiết bị thông tin điện tử như điện thoại di

động, đầu thu kĩ thuật số, cáp và vệ tinh…

Khái niệm Marketing qua Internet

Phần trên, khi xem xét các khái niệm về Marketing điện tử, chúng ta đã

thấy Internet đóng một vai trò rất quan trọng, là một trong hai loại phương

tiện không thể thiếu của Marketing điện tử. Vậy Internet Marketing được hiểu

như thế nào? Chúng ta cùng xem xét khái niệm dưới đây của tác giả Ghosh

Shikhar và Toby Bloomburg thuộc Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA):

Marketing Internet là lĩnh vực tiến hành hoạt động kinh doanh gắn liền với

dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng, dựa trên

cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin Internet.

Từ định nghĩa của Ghosh Shikhar và Toby Bloomburg về Marketing

qua Internet ta thấy về môi trường và phương tiện của Marketing qua Internet

hạn chế hơn so với Marketing điện tử. Marketing qua Internet chỉ bao gồm

các hoạt động Marketing tiến hành trên nền Internet. Tuy nhiên, với sự phát

triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay khiến các phương tiện kĩ

thuật số hiện đại như điện thoại di động cũng có thể truy cập Internet thì ranh

giới giữa E- marketing và Internet Marketing ngày càng gần lại trong xu thế

hòa làm một.

17

Về mặt bản chất, Marketing điện tử và Marketing qua Internet không

thay đổi so với Marketing truyền thống, vẫn là một quá trình quá trình trao

đổi thông tin và kinh tế, từ việc xác định nhu cầu đến lập các kế hoạch 4Ps

đối với sản phẩm, dịch vụ, ý tưởng đến tiến hành và kiểm tra để thực hiện các

mục đích của tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên có sự khác biệt lớn về phương

thức tiến hành.

1.1.4. Một số đặc điểm cơ bản của E- Marketing và Marketing qua

Internet khác với Marketing truyền thống

Do có sự khác biệt lớn về phương thức tiến hành nên giữa Marketing

điện tử và Marketing qua Internet có sự khác biệt rất dễ nhận thấy so với

Marketing truyền thống về tốc độ, thời gian hoạt động, phạm vi hoạt động,

sản phẩm….

Tốc độ: Thông tin về sản phẩm dịch vụ được tung ra thị trường nhanh

hơn, khách hàng tiếp cận những thông tin này cũng nhanh hơn.

Giao dịch được tiến hành nhanh hơn và đối với một số hàng hoá đặc

biệt như hàng hoá số hoá, việc giao hàng và thanh toán được thực hiện gần

như ngay lập tức. Tốc độ giao dịch nhanh hơn vì vậy thông tin phản hồi từ

phía khách hàng cũng nhanh chóng đến với doanh nghiệp.

Thời gian hoạt động liên tục không bị gián đoạn: Tiến hành hoạt

động Marketing trên Internet có thể loại bỏ những trở ngại nhất định về sức

người. Chương trình Marketing thông thường, chưa có ứng dụng Internet, dù

có hiệu quả đến đâu, cũng không thể phát huy tác dụng 24/24 giờ mỗi ngày.

Nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể đối với hoạt động Marketing Internet.

Marketing Internet có khả năng hoạt động liên tục tại mọi thời điểm, khai thác

18

triệt để thời gian 24 giờ trong một ngày, 7 ngày trong một tuần, hoàn toàn

không có khái niệm thời gian chết. Ví dụ như hệ thống máy tính trên Internet

có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ khách hàng mọi lúc và mọi nơi. Các đơn đặt

hàng sản phẩm hay dịch vụ có thể được thoả mãn vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ

nơi đâu. Do đó, Marketing Internet có một ưu điểm hơn hẳn so với Marketing

thông thường là nó đã khắc phục được trở ngại của yếu tố thời gian và tận

dụng tốt hơn nữa các cơ hội kinh doanh.

Không gian: Phạm vi toàn cầu/không phụ thuộc không gian:

Marketing qua Internet có khả năng thâm nhập đến khắp mọi nơi trên toàn thế

giới. Thông qua Internet, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng

quảng bá sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng Mỹ, EU, Nhật, Úc với

chi phí thấp và thời gian nhanh nhất.

Ở đây, Marketing Internet đã hoàn toàn vượt qua mọi trở ngại về

khoảng cách địa lý. Thị trường trong Marketing Internet không có giới hạn,

cho phép doanh nghiệp khai thác được triệt để thị trường toàn cầu. Đặc trưng

này của Marketing Internet bên cạnh những lợi ích đã thấy rõ còn ẩn chứa

những thách thức đối với các doanh nghiệp. Khi khoảng cách về địa lý giữa

các khu vực thị trường đã trở nên ngày càng mờ nhạt thì việc đánh giá các yếu

tố của môi trường cạnh tranh cũng trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều.

Môi trường cạnh tranh vốn đã gay gắt trong phạm vi một quốc gia, nay càng

trở nên khốc liệt hơn khi nó mở rộng ra phạm vi quốc tế. Chính điều này đòi

hỏi các doanh nghiệp phải luôn sáng suốt trong quá trình lập kế hoạch

Marketing của mình.

Đa dạng hoá sản phẩm: Giới thiệu sản phẩm và dịch vụ trên các cửa

hàng ảo (Virtual Stores) ngày càng hoàn hảo. Chỉ cần ngồi ở nhà, trước máy

19

vi tính kết nối Internet, không phải tốn công đi lại, khách hàng vẫn có thể thực

hiện việc mua sắm như tại các cửa hàng thật. Các siêu thị máy tính ảo, các

phòng tranh ảo, các cửa hàng trực tuyến, các nhà sách ảo... đang ngày càng

trở nên sống động và đầy thú vị. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều địa chỉ (trang

Web bán hàng trên mạng) của các “cửa hàng ảo” hoạt động kinh doanh thành

công trên mạng trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như

www.amazon.com: cửa hàng bán tất cả các cuốn sách cho mọi khách hàng

trên thế giới, hiện nay bán rất nhiều mặt hàng với mục tiêu phấn đấu thành

công ty bán lẻ lớn nhất thế giới; www.dell.com: cung cấp giải pháp công nghệ

thông tin đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.

Giảm sự khác biệt về văn hoá, luật pháp, kinh tế: do có sự ra đời của

các Luật mẫu về Thương mại điện tử, chữ ký điện tử, giao dịch điện tử giúp

giảm thiểu những khác biệt về Pháp luật kinh doanh trên môi trường điện tử.

Mặt khác môi trường Internet có tính toàn cầu, sự khác biệt về văn hoá của

người sử dụng được giảm đáng kể.

Trở ngại của khâu giao dịch trung gian đã được loại bỏ: Trong

Marketing truyền thống, để đến được với người tiêu dùng cuối cùng, hàng hoá

thường phải trải qua nhiều khâu trung gian như các nhà bán buôn, bán lẻ, đại

lý, môi giới... Trở ngại của hình thức phân phối này là doanh nghiệp không có

được mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng nên thông tin phản hồi thường

kém chính xác và không đầy đủ. Bởi vậy, phản ứng của doanh nghiệp trước

những biến động của thị trường thường kém kịp thời. Ngoài ra, doanh nghiệp

còn phải chia sẻ lợi nhuận thu được cho các bên trung gian.... Nhưng với

Marketing Internet và Marketing điện tử những cản trở bởi khâu giao dịch

trung gian đã hoàn toàn được loại bỏ. Nhà doanh nghiệp và khách hàng có thể

20

giao dịch trực tiếp một cách dễ dàng và nhanh chóng thông qua các website,

gửi e-mail trực tiếp, các diễn đàn thảo luận...

1.2. NHỮNG CÔNG CỤ CỦA MARKETING QUA INTERNET

1.2.1. Sản phẩm qua Internet

Về khái niệm và nội dung, chính sách sản phẩm trực tuyến so với

marketing truyền thống không có nhiều điểm khác biệt lớn. Sự phát triển của

sản phẩm trực tuyến nhằm hướng đến việc cung ứng giá trị từ dịch vụ và sản

phẩm hàng hoá trên nền Internet. Do vậy, nội dung lớn nhất cần quan tâm là

việc tạo ra giá trị thoả mãn cho khách hàng trực tuyến. Quá trình phân tích

tính ứng dụng của marketing qua internet cho thấy, khách hàng sẽ quan tâm

đến lợi ích mà doanh nghiệp có thể cung ứng trực tuyến như: dịch vụ mua

hàng trực tuyến có thể cung ứng hàng hoá hữu hình nhưng không cần đến tại

điểm bán hay dịch vụ tra cứu thông tin nhanh qua các công cụ tìm kiếm như

Google hay Yahoo!...Tuy nhiên, tương tự như marketing truyền thống, khi

nghiên cứu sản phẩm với tư cách là một công cụ trong hệ thống marketing –

mix cần quan tâm những nội dung sau:

Về đặc tính sản phẩm: đây là một trong những nội dung quan trọng

hàng đầu vì nó quyết định giá trị cốt lõi cho sản phẩm và dịch vụ cung ứng

trên thị trường. Không giống như sản phẩm hữu hình, sản phẩm trực tuyến

thường hướng đến một số giá trị lợi ích vô hình mà người tiêu dùng quan tâm

như tính tức thời của thông tin, tính bảo mật hay sự thuận tiện cho khách

hàng. Đây là những giá trị cốt lõi mà mỗi một sản phẩm hay dịch vụ trực

tuyến thường hướng đến. Ví dụ: công cụ tìm kiếm Yahoo ! cung cấp cho

người đọc danh sách địa chỉ website có liên quan đến nội dung khách hàng

tìm kiếm. Như vậy, sự hiện diện hữu hình của danh sách website đã làm thoả

mãn giá trị vô hình của khách hàng là sự nhanh nhạy và đầy đủ của thông tin,

21

giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Việc lựa chọn giá trị cốt lõi cung ứng trong

quá trình ra quyết định về sản phẩm trực tuyến là cơ sở cho việc thiết kế và

tạo dựng nội dung sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng mục

tiêu.

Về nhãn hiệu: trong quyết định về nhãn hiệu của sản phẩm trực tuyến

cũng có đầy đủ bộ nhận dạng thương hiệu như marketing truyền thống: logo,

tên gọi, biểu tượng… nhưng quan trọng nhất khi ra quyết định về nhãn hiệu

đối với sản phẩm trực tuyến là việc sử dụng tên đồng nhất trên Internet với hệ

thống sản phẩm hữu hình hay tên miền độc lập. Tên miền được hiểu là địa chỉ

truy cập đến website hay cổng thông tin trên Internet. Đây là đặc điểm duy

nhất để phân biệt trong quá trình tìm kiếm và khác biệt hoá nhãn hiệu công ty

với đối thủ cạnh tranh khác. Thông thường, tên miền có bốn bộ phận sau:

 http:// Định dạng dữ liệu tìm kiếm

 www chỉ nguồn khai thác (không nhất thiết phải có bộ phận này)

 Domain name chỉ tên của công ty đăng ký trên Internet như

Yahoo! hay Dantri v.v..

 Com, Com.vn, org, gov… là cấu trúc bộ phận của tên miền chỉ

nguồn gốc xuất xứ hoặc phân loại của tên miền đó. Ví dụ „com.vn‟

được hiểu là trang web của Việt Nam hay „com.uk‟ là trang web

có nguồn gốc từ Anh quốc, đuôi “.gov” chỉ các website của chính

phủ, đuôi “.org” chỉ website của các tổ chức phi chính phủ….

Việc đặt tên miền cũng tuân theo quy luật đặt tên của nhãn hiệu sao cho

ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và thuận tiện trong tìm kiếm. Một tên miền đầy đủ

sẽ bao gồm các thành tố sau: http://www.dell.com.vn có nghĩa đây là địa chỉ

website của công ty Dell tại Việt Nam. Dell là một công ty đa quốc gia nên

cũng sẽ có những địa chỉ khác tương tự như tại Singapore sẽ là:

http://www.dell.com.sg v.v..

22

Về dịch vụ hỗ trợ: quá trình hỗ trợ khách hàng được triển khai cùng quá

trình cung ứng dịch vụ và hậu mãi. Sự phát triển của dịch vụ hỗ trợ tạo thêm

giá trị gia tăng cho khách hàng khi tìm kiếm sản phẩm trực tuyến. Ví dụ hệ

thống hỗ trợ khách hàng của www.amazon.com rất quan tâm đến thông tin

khách hàng. Hầu hết thông tin về khách hàng, số lần lướt web và nội dung

thông tin thường tìm kiếm của họ đều được máy chủ lưu giữ và tiếp tục cập

nhật thông tin cho khách hàng trong lần tìm kiếm kế tiếp. Việc phát triển dịch

vụ hỗ trợ khách hàng được đánh giá là một trong những cơ sở quan trọng cho

quá trình xây dựng chiến lược khác biệt hoá giữa những doanh nghiệp cung

ứng sản phẩm trực tuyến trong cùng lĩnh vực.

1.2.2. Kênh phân phối trực tiếp qua Internet

Sự phát triển của hệ thống phân phối trực tuyến chịu sự ảnh hưởng lớn

nhất của công nghệ thông tin. Thành viên trong kênh phân phối trực tuyến

được phân chia tương tự như mô hình kênh phân phối hữu hình: Nhà sản xuất,

trung gian và người mua; song độ dài của kênh, hình thức hoạt động và vai trò

của từng thành viên trong kênh có sự khác biệt khá lớn. Thông thường, trong

hoạt động kinh doanh trực tuyến có bốn mô hình kênh như sau:

Thứ nhất, mô hình kênh tài trợ nội dung (Content Sponsorship): áp

dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin và thu tiền từ quảng

cáo như Google, Yahoo!, MSN…Loại hình báo điện tử hay trang tin cũng

hoạt động theo hình thức này. Kênh phân phối dạng ngắn, trực tiếp đến khách

hàng.

Thứ hai, mô hình bán hàng trực tiếp (Direct Selling): áp dụng trên thị

trường trực tuyến dành cho khách hàng tổ chức B2B (Business to Business)

và đã “nhen nhóm” trên thị trường trực tuyến cá nhân B2C (Business to

Customer). Khách hàng đặt hàng, thanh toán và thực hiện giao dịch trực tuyến

23

thông qua một website hoặc cổng giao dịch. Kênh này thường áp dụng cho

doanh nghiệp kinh doanh phần mềm, nhạc số hay dịch vụ hữu hình khác

không đòi hỏi tồn kho, giao hàng… Đây cũng là mô hình kênh ngắn chỉ với

hai thành viên trong kênh.

Thứ ba, mô hình trung gian về thông tin (Infomediary): phổ biến trong

lĩnh vực nghiên cứu thị trường trực tuyến và tài trợ thông tin. Thông qua trung

gian thông tin, khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu

thông tin về một nhóm đối tượng mục tiêu nào đó sẽ đặt hàng cho trung gian

thực hiện khâu tìm kiếm thông tin với tiêu chí nhất định. Kết quả của quá

trình trao đổi là thông tin thu được từ cuộc nghiên cứu trực tuyến. Đối với

doanh nghiệp lớn, với bộ phận thông tin độc lập có thể triển khai mô hình

bằng chính nguồn lực bên trong để thu thập thông tin một cách chính xác và

đầy đủ về một vấn đề nghiên cứu nhất định. Đây được đánh giá là một trong

những đóng góp lớn nhất của Internet marketing trong việc xây dựng hệ thống

thông tin marketing.

Thứ tư, mô hình trung gian độc lập (Intermediaries): thể hiện dưới

dạng cổng thông tin trao đổi hàng hoá, dịch vụ như đấu giá (E-bay) hay đại

diện cho nhà sản xuất (tương tự như văn phòng đại diện của doanh nghiệp

trực tuyến) v.v.. thường áp dụng trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, mua – bán

vé máy bay. Ngoài ra, mô hình bán lẻ trực tuyến (Online Retailing) hiện đang

rất phát triển với hai nhóm sản phẩm là hàng hoá hữu hình và dịch vụ số. Hầu

hết, website của công ty đều hướng đến mô hình này nhằm thay đổi thói quen

tiêu dùng và phát triển thêm một hệ thống phân phối mới. Tuy nhiên, mô hình

này ở Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức như hệ thống cơ sở pháp lý

chưa hoàn thiện, hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo cho việc thực hiện giao dịch

số (thanh toán trực tuyến, chữ ký điện tử, tải dữ liệu với dung lượng lớn v.v..)

24

Việc lựa chọn hình thức phân phối trực tuyến như thế nào phụ thuộc rất

nhiều vào đặc điểm của doanh nghiệp, đặc tính hàng hoá và dịch vụ của

doanh nghiệp cũng như định hướng thị trường của doanh nghiệp. Vì vậy, việc

ra quyết định đối với kênh phân phối trực tuyến nên được cân nhắc ngay sau

khi doanh nghiệp ra quyết định sản phẩm của mình cung ứng để có mô hình

kênh phân phối phù hợp nhất.

1.2.3. Giá và kiểm soát giá qua Internet

Giá trong marketing truyền thống là công cụ duy nhất đem lại doanh

thu cho doanh nghiệp bằng tiền và thường được ấn định từ phía nhà sản xuất,

song giá trong Internet marketing và E-Marketing lại có góc nhìn hoàn toàn

mới – giá tham chiếu (Price Transparency), hình thức đặt giá mà cả người

mua và người bán đều có thể tham khảo tất cả mức giá cạnh tranh khác được

rao bán trực tuyến để ấn định mức giá hợp lý cho cả hai bên. Từ quan điểm

này, quyết định về chiến lược giá trực tuyến được phát triển theo hướng sau:

Thứ nhất, chiến lược giá cố định (Fixed Pricing): tương tự như cách ấn

định giá cho sản phẩm dịch vụ trong marketing truyền thống, thường tập

trung vào một số hàng hoá có mức giá cạnh tranh hơn so với giá thực tế ngoài

thị trường do cắt giảm chi phí vận chuyển, thanh toán v.v.. khi thực hiện giao

dịch trên mạng. Chiến lược giá này bắt buộc người mua và người bán phải

tuân thủ mức giá đề ra, không được áp dụng chiết khấu dưới bất kỳ hình thức

nào.

Thứ hai, chiến lược giá linh hoạt (Flexible Pricing): chiến lược giá áp

dụng cho nhiều đối tượng khác nhau với mức giá khác nhau sao cho đem lại

hiệu quả cao nhất. Hai hình thức đặt giá phổ biến trong chiến lược này là giá

áp dụng cho từng phân đoạn thị trường (Segmented Pricing) và giá có thể đàm

phán (Negociated Pricing). Hai chiến lược này được áp dụng chủ yếu trong

25

giao dịch trực tuyến vì phù hợp với quan điểm giá tham chiếu, phản ánh đặc

tính hàng hoá, và nâng cao khả năng tự ra quyết định của người mua hàng

trực tuyến.

1.2.4. Truyền thông Marketing tích hợp

Thay vì sử dụng bốn công cụ xúc tiến hỗn hợp trong marketing truyền

thống, do được tiến hành trong môi trường ảo, hệ thống truyền thông trực

tuyến chỉ bao gồm quảng cáo trực tuyến, khuyến mại và quan hệ công chúng

(không bao gồm bán hàng cá nhân):

Đối với quảng cáo trực tuyến: quyết định về quảng cáo trong Internet

Marketing là việc lựa chọn hình thức quảng cáo hiệu quả trên phương tiện

duy nhất là Internet. Một số hình thức quảng cáo phổ biến: quảng cáo logo,

banner, Pop-up và Scroll-up. Hai hình thức đầu tiên được đo bằng đơn vị

pixel để xác định vị trí và hiệu quả. Hai hình thức còn lại được tính bằng thời

gian (ngày, tháng) lưu trên giao diện chính.

Đối với hoạt động quan hệ công chúng trực tuyến (PR): thường tập

trung tạo ra sự kiện để thu hút sự tham gia của khách hàng đến dịch vụ doanh

nghiệp cung cấp. PR trực tuyến gồm 03 nội dung chính: truyền tải nội dung

thông tin về doanh nghiệp trên hệ thống website, tạo blog hoặc web-log để

đăng tải thông tin, thu nhận thông tin phản hồi từ phía khách hàng về dịch vụ

của doanh nghiệp cũng như ngành kinh doanh và tạo dựng cộng đồng chung

có cùng giá trị chia sẻ. Hoạt động PR trực tuyến phải ứng dụng được sức

mạnh truyền thông, tạo hiệu ứng cho dịch vụ trực tuyến khác hoạt động hiệu

quả.

Đối với hoạt động marketing trực tiếp: được đánh giá là một trong

những công cụ mạnh nhất trong hoạt động truyền thông marketing tích hợp,

một số hình thức như gửi e-mail, tin nhắn qua hệ thống SMS… khá phổ biến.

26

Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của dịch vụ gia tăng trên thiết bị di động,

nhiều công ty đã áp dụng thành công công cụ này cho việc quảng bá thương

hiệu, chăm sóc khách hàng và giới thiệu sản phẩm mới như tin nhắn chúc

mừng sinh nhật cho thuê bao thuộc hệ thống khách hàng của FPT Nokia, giới

thiệu chương trình khuyến mại của Vinaphone v.v..

Đối với khuyến mại trực tuyến: Thay vì tặng phiếu mua hàng trực tiếp,

khách hàng có thể nhận phiếu mua hàng trực tuyến tại cửa hàng “ảo‟ trên

Internet hay mẫu dùng thử (phần mềm chạy thử, trò chơi…) Sự đa dạng của hình

thức khuyến mại được quyết định bởi đặc điểm của dịch vụ cung ứng cũng như

khả năng tạo thêm giá trị gia tăng mới từ dịch vụ khuyến mại kèm theo.

1.2.5. Quản trị quan hệ khách hàng

Những đóng góp của Internet đối với hoạt động marketing được chứng

minh khá rõ thông qua sự góp mặt của CRM trong hệ thống Internet marketing-

mix. Khái niệm về marketing quan hệ theo định nghĩa của Judy Strauss. “CRM

là quá trình định hướng, trao đổi, cung ứng, phục vụ, duy trì và bồi đắp mối

quan hệ dài hạn với khách hàng. Nó bao gồm chuỗi hoạt động xây dựng hệ

thống cơ sở dữ liệu khách hàng và kiểm soát mức độ thoả mãn của khách hàng

thông qua sự hỗ trợ của công nghệ thông tin”[16]. Như vậy, để khai thác hiệu

quả của CRM, người quản lý cần quyết định ba vấn đề chính sau:

- Kiểm soát hoạt động đội kinh doanh để cập nhật thông tin về thực trạng hệ

thống khách hàng (khách hàng mới, khách hàng cũ, khách hàng trung thành);

- Kiểm soát hoạt động marketing của doanh nghiệp nhằm xác định dịch vụ

cung ứng hiện tại đã thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở cấp độ nào, từ đó,

đánh giá hiệu quả, điều chỉnh khi cần thiết.

27

- Xây dựng hệ thống dịch vụ khách hàng. Ở Việt Nam hiện nay, CRM mới

chỉ tập trung chủ yếu vào nội dung thứ ba này với nhiều dịch vụ gia tăng như

tặng quà, gọi điện thăm hỏi, giải đáp khiếu nại…

Thông thường, hệ thống dịch vụ khách hàng bao gồm dịch vụ sau:

Bảng 1.1: Kênh cung ứng dịch vụ khách hàng

TT LOẠI HÌNH DỊCH VỤ % SỬ

Trung tâm trả lời trực tiếp khiếu nại khách hàng 1

E-mail 2 92 DỤNG 88

Thư tín 3 87

Fax 4 82

5 Hỗ trợ dịch vụ tại website của doanh nghiệp 53

6 Hộp thư trả lời tự động 38

7 Trung tâm hỗ trợ dịch vụ trực tuyến 31

8 Bản đánh giá của khách hàng 27

9 Thông qua hệ thống cửa hàng bán lẻ 12

10 Đến trực tiếp tại trung tâm dịch vụ khách hàng 58

11 Kênh khác 10

(Nguồn: “Sustaining Customer Care in a Rapidly Changing Business world”,

Laurent Castro, Conference Board 2003, NewYork )

Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy các kênh cung ứng dịch vụ khách

hàng qua Internet chiếm tỉ lệ khá cao trong số các kênh được liệt kê (4/11

kênh). Dịch vụ khách hàng qua Email được sử dụng lên tới 88% chỉ sau Trung

tâm trả lời trực tiếp khiếu nại khách hàng (99%), kênh hỗ trợ dịch vụ tại

website của doanh nghiệp mức độ sử dụng cũng lên tới 53%. Điều này đã cho

thấy sự thành công của việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trên những

công cụ marketing, tạo cơ hội cho người làm marketing đa dạng hoá chiến

lược, gia tăng giá trị cung ứng và sự thoả mãn cho khách hàng. Do sự thuận

tiện, không đòi hỏi chi phí quá cao và dễ dàng cho các đối tượng sử dụng từ cá

28

nhân đến doanh nghiệp, hoạt động CRM qua Internet nói riêng và Marketing

qua Internet nói chung ngày càng được các doanh nghiệp đánh giá cao.

1.3. VAI TRÒ CỦA MARKETING QUA INTERNET

Thông tin của một đứa trẻ mới sinh, một cụ già vừa qua đời đều có thể

được ghi lại bằng dấu ấn của “số hoá” trên hệ thống thông tin Nhà nước hay

công tác khiếu nại của người dân đến Quốc hội thông qua website v.v.. cho

thấy cuộc sống của con người đang được gắn liền với Internet, với công nghệ

cao. Tuy nhiên, mức độ chấp nhận công nghệ đối với mỗi cá nhân là khác

nhau. Vì vậy, để đánh giá vai trò của Internet marketing đối với hoạt động

kinh doanh, chúng ta cũng cần có sự đánh giá và nhìn nhận từ góc độ mỗi cá

nhân và cộng đồng về lĩnh vực này.

1.3.1. Đối với khách hàng

Nếu trong thời đại ngày nay, thông tin được đánh giá là một trong

những nguồn lực quan trọng nhất của xã hội, thì mỗi cá nhân hiện đang có cơ

hội nắm trong tay nhiều thông tin hơn bất cứ khi nào. Trong quá trình ra quyết

định mua, khách hàng được cung cấp một lượng thông tin vô cùng đa dạng từ

nhiều nguồn khác nhau, phù hợp với đặc tính của từng nhóm. Họ có điều kiện

so sánh, đánh giá và tìm hiểu thông tin về sản phẩm kỹ hơn qua Internet, thậm

chí, họ có thể thu về giá trị gia tăng ngay khi chưa có quyết định mua nếu

nằm trong chiến lược Internet marketing của doanh nghiệp như tặng tài khoản

Internet miễn phí, tải nhạc miễn phí…Không chỉ đơn giản là cung cấp thông

tin, ứng dụng của Internet đã rút ngắn khoảng cách giao dịch của B2C, tạo đà

cho sự phát triển của thương mại điện tử.

29

1.3.2. Đối với xã hội

Xét rộng hơn, mức độ chấp nhận Internet marketing được đánh giá

thông qua hiệu quả truyền tin trên Internet. Ngày nay, những thuật ngữ như

forum, nhật ký online - blogs hay công cụ tìm kiếm trực tuyến - Search

engine… không còn xa lạ với người dùng Internet. Sự xâm nhập của Internet

đã tạo ra những cộng đồng “ảo” với mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Số lượng

người sử dụng Internet liên tục tăng trong những năm gần đây, đồng thuận với

nó là sự gia tăng các nhóm nhỏ khách hàng mục tiêu đã tạo thành một cộng

đồng có sức lan toả mạnh, là cơ hội cho Internet marketing triển khai chiến

lược “bành trướng” của mình.

Bảng 1.2: Số lƣợng và tỉ lệ ngƣời sử dụng Internet trên toàn thế giới

Số lượng người Mức độ tăng Dân số Tỉ lệ dân số sử

VÙNG dùng Internet trưởng (%) năm 2004 dụng Internet

2000 2004 (triệu) (2000– 2004) (triệu) trên tổng số

Bắc Mỹ 108,1 228,0 110,9 326,7 dân (%) 69,8

Châu Âu 101,0 217,9 115,7 718,9 29,9

Châu Á 114,3 243,6 113,2 3.654,6 6,7

Mỹ Latinh 18,1 51,1 183,3 9,4 546,1

và Caribe Châu Phi 4,5 12,3 171,4 1,4 906,0

Trung Đông 5,3 16,8 219,2 2,1 259,2

Châu Đại 7,6 16,0 109,7 2,0 31,9

Dương Tổng cộng 358,9 785,7 100 6.453,3 12,2

(Nguồn: “Internet Usage Statistics – the big picture”

www.internetworldstats.com/stas.htm)

30

Qua những số liệu trên chúng ta thấy số lượng người sử dụng Internet

liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối trong thời gian qua. Từ 385,9

triệu người dùng Internet lên 785,7 triệu người tương đương với mức độ tăng

trưởng là 100%. Trong số các vùng thống kê, Bắc Mỹ và Châu Âu là các vùng

có tỉ lệ dân số sử dụng Internet ở mức cao nhất: 69,8 % và 29,9 %, ở Châu Á tỉ

lệ dân số dùng Internet về con số tương đối chưa cao: 6,7% tuy nhiên tương

ứng với gần 243 triệu người vào năm 2004 là con số không nhỏ. Những con số

ấy cho thấy mức độ chấp nhận của cộng đồng ngày càng cao và những công cụ

của Internet marketing đang dần được đưa vào đời sống kinh doanh.

1.3.3. Đối với hoạt động kinh doanh

Internet marketing đã thực sự tạo ra một quy trình kinh doanh mới

trong thế giới số. Nhà quản trị sẽ trải qua quy trình ba bước của quá trình

quản trị, đều có những phân tích, đánh giá về thị trường (E - Environment), về

quá trình lựa chọn chiến lược để triển khai kế hoạch (S - Strategy) cho đến

quá trình thực hiện (P - Planning), tuy nhiên tất cả đều thực hiện trong môi

trường “số hoá”. Vai trò của Internet marketing được thể hiện rất rõ trong quá

trình kế hoạch hoá chiến lược của doanh nghiệp. Cụ thể, nhà quản trị có thể

thu thập các thông tin về môi trường vĩ mô, vi mô và các yếu tố khác ảnh

hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua Internet, từ đó

có những chiến lược kinh doanh thích hợp với sự lựa chọn các chiến lược

Marketing hỗ trợ mang lại hiệu quả tối ưu trên nền Internet. Cuối cùng là lập

kế hoạch thực hiện và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngay cả bước

cuối cùng này cũng có thể được thực hiện với sự hỗ trợ tích cực của Internet

Marketing.

31

Internet THỊ TRƯỜNG

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ kế hoạch hoá chiến lƣợc kinh doanh

E

Môi trường vĩ mô Môi trường vi mô Các yếu tố ảnh hưởng khác

S W O T

KẾ HOẠCH INTERNET MARKETING

S

CHIẾN LƢỢC E- BUSINESS

INTERNET MARKETING - MIX

CHIẾN LƢỢC INTERNET MARKETING

CRM

P

THƢỚC ĐO ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

(Nguồn: Judy Strauss, Adel El-Ansary and Raymond Frost, Internet

marketing, Tr. 20).

Với tư cách là một bộ phận không thể thiếu của quá trình chiến lược

hoá hoạt động kinh doanh, vai trò của Internet marketing đối với hoạt động

kinh doanh có thể được lượng hoá theo những tiêu chí sau:

Internet marketing kiến tạo giá trị mới: Bằng việc ứng dụng Internet

marketing, doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân

trong quá trình sản xuất hàng loạt, cung cấp thông tin có tính chất cá thể,

thuận tiện với tiêu chí 24h trên 7 ngày, tăng cường hệ thống quản lý bán và

theo dõi tiến trình cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát

triển hệ thống phân phối v.v..

Internet marketing giúp cho việc cắt giảm chi phí: Internet marketing là

kết quả của việc tính toán hiệu quả chi phí; Cụ thể là tiết kiệm chi phí trong

hoạt động phân phối, cắt giảm chi phí truyền thông bằng công cụ sẵn có, chi

32

phí nghiên cứu và chăm sóc khách hàng, tạo lập hệ thống kênh phân phối hiệu

quả và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc khách hàng.

Internet marketing làm gia tăng doanh thu: Quá trình trao đổi trực

tuyến giúp cho việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung ứng, tạo cơ hội cho

việc cải thiện doanh thu. Ngoài ra, với việc tạo thêm nhiều giá trị gia tăng,

doanh nghiệp có cơ hội tăng giá một cách hợp lý đồng thời việc xây dựng hệ

thống thông tin khách hàng giúp cho nhà quản trị có thêm điều kiện kích

thích, thay đổi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng trong cơ cấu chi tiêu v.v..

Rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian: Với hình thức

marketing thông thường, doanh nghiệp phải bố trí doanh nghiệp và đội ngũ

nhân viên của mình tại các địa phương, quốc gia mà mình tiến hành hoạt động

kinh doanh. Như vậy, với số lượng nhân viên vừa phải doanh nghiệp chỉ có

thể tập trung vào một hoặc một số thị trường trọng điểm của mình và hoạt

động marketing bị giới hạn trong biên giới lãnh thổ. Thông qua các công cụ

của marketing trực tuyến, với môi trường kinh doanh là mạng Internet toàn

cầu doanh nghiệp dễ dàng có thể tiếp cận khách hàng tiềm năng của mình trên

nhiều khu vực lãnh thổ và không bị giới hạn bời khu vực địa lí. Một công ty

tại Việt Nam có thể bán hàng qua mạng, gửi những thông điệp tiếp thị qua

email tới những khách hàng ở những nơi rất xa về mặt địa lí: Mỹ, Châu Âu…

trong thời gian ngắn. Các công ty không tin học hoá hoạt động kinh doanh

của mình, chỉ sử dụng đội ngũ nhân viên để thực hiện hoạt động kinh doanh

sẽ chịu những giới hạn về thời gian làm việc. Nhân viên công ty này sẽ làm

việc theo giờ giấc cố định. Hết giờ làm việc, các nhân viên này sẽ về nhà .

Vậy nếu khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm dịch vụ vào thời gian không

làm việc của cơ quan thì doanh nghiệp đã mất đi một lượng khách hàng.

Ngược lại, với việc tự động hoá việc kinh doanh, doanh nghiệp có thể phục vụ

khách hàng của mình tốt hơn, không hạn chế về thời gian. Doanh nghiệp sẽ

33

chăm sóc được những nhu cầu của khách hàng 24/24 giờ; 7 ngày trong tuần;

365 ngày trong một năm.

Phản hồi nhanh: Thông thường, khi khách hàng có thắc mắc về sản

phẩm dịch vụ của công ty, nhân viên công ty nhận các thông tin này, xử lí và

có phản hồi. Tuy nhiên, quá trình này tốn thời gian và nhiều khi không kịp

thời. Nhiều khi doanh nghiệp phải trả lời cùng một thắc mắc cho rất nhiều

người. Với công nghệ Web, doanh nghiệp có thể đăng những thắc mắc

thường gặp của khách trên website của mình, và khách hàng sẽ tự tìm thấy

câu trả lời cho câu hỏi của mình

Dễ thay đổi và thích nghi: Thay đổi một quy trình kinh doanh thường

không dễ dàng. Doanh nghiệp phải đối mặt với sức ỳ của hệ thống. Việc thay

đổi gây ra nhiều xáo trộn, đặc biệt là khi liên quan đến con người. Với giải

pháp marketing trực tuyến, doanh nghiệp có thể điều chỉnh những yếu tố “linh

hoạt”: website, quy trình kinh doanh ứng dụng công nghệ thông tin .v.v. để

thích nghi với điều kiện mới.

Tạo lợi thế cạnh tranh : càng ngày thì hoạt động kinh doanh và

marketing càng trở nên khó khăn bởi thị trường có quá nhiều sản phầm và

dịch vụ tương tự, cùng thoả mãn nhu cầu.Những doanh nghiệp biết kết hợp

marketing truyền thống và marketing trực tuyến sẽ có lợi thế hơn những

doanh nghiệp chỉ sử dụng các biện pháp marketing truyền thống.Internet ngày

nay cũng được coi là một môi trường kinh doanh quan trọng, nhất là những

nước có tỉ lệ sử dụng Internet cao .

Tạo mối quan hệ bền chặt với khách hàng : Hoạt động marketing luôn

coi trọng khách hàng. Công ty nào xây dựng được mối quan hệ bền chặt với

khách hàng, có các khách hàng trung thành sẽ có ưu thế trong hoạt động kinh

doanh. Nhờ tự động hoá, các thói quen, hành vi, các đặc điểm cá nhân của

34

khách hàng được theo dõi và lưu giữ. Qua đó, doanh nghiệp nhanh chóng biết

được khách hàng cần gì để đưa ra cách đáp ứng. Khi khách hàng được quan

tâm đẩy đủ, họ sẽ trung thành hơn với sản phẩm dịch vụ của công ty.

Qua những đánh giá, nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau về Internet

marketing, đã cho chúng ta thấy một bức tranh tương đối tổng thể về Internet

Marketing và vai trò của nó đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế số.

1.4. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI MỘT SỐ

CÔNG TY TRÊN THẾ GIỚI

Internet là một công cụ tuyệt vời để mở rộng tầm vươn xa của một nhãn

hiệu công ty. Một số nhãn hiệu được thừa nhận rộng rãi ngày nay như Yahoo!

chỉ hoàn toàn nhờ vào việc đưa lên Internet. Những công ty khác như

Gateway hay Disney đã sử dụng Internet để củng cố cho nhãn hiệu vững chắc

vốn có của họ. Ngay cả những công ty lâu đời và mang tính truyền thống hơn

như Ford, General Electric cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc mở rộng

nhãn hiệu sang những cộng đồng mạng bằng cách tạo ra những website tinh tế

và đắt tiền. Ford có hẳn một “phòng trưng bày trực tuyến” trong đó khách

hàng có thể xem tất cả những mẫu ô tô và xe tải mới nhất của Ford đồng thời

cũng có thể tìm hiểu được thông tin về các mẫu mã khác của công ty. Địa chỉ

này còn cung cấp cả thông tin về lịch sử ô tô cổ điển cho những người thích

tìm hiểu như Thunderbird hay Mustang.

Internet cũng được các công ty trong lĩnh vực xuất bản sử dụng để

quảng bá cho hình ảnh và sản phẩm của mình. Tạp chí Horticulture, Nghệ

thuật làm vườn Mỹ, cung cấp một website cho phép khách hàng đến thăm có

thể lập quy hoạch cho khu vườn của mình đến từng gốc cây, ngọn cỏ. Thậm

chí nó còn có một tiện ích cho phép người truy cập nhập địa chỉ nơi họ định

đặt mảnh vườn để xem thông tin về các loại cây phù hợp với vùng đất ở đó.

35

Nhờ một website như vậy mà số độc giả của tạp chí này tăng lên trông thấy.

Hay tại trang web bán sách trực tuyến hàng đầu thế giới Amazone.com, nhờ

kĩ thuật, người quản lí trang web biết được rằng những người mua sách

Marketing thường mua sách về quảng cáo. Vì thế, trong quá trình người mua

sách tìm hiểu những đầu sách về Marketing thì các đầu sách về quảng cáo

cũng được giới thiệu. Điều này giúp Amazone không những bán được những

sách về Marketing mà còn bán thêm được một số sách về quảng cáo.

Hay chúng ta có thể kể đến một ví dụ khác, đó là sự ra đời của website

về du lịch nổi tiếng nhất hiện nay của Mỹ : vacation.com. Vào thời điểm năm

1994, khi dịch vụ trực tuyến mới bắt đầu nhen nhóm xuất hiện trong các hộ

gia đình Mỹ, và Easy Sabre là hãng đứng đầu trong lĩnh vực cung cấp các tour

du lịch trực tuyến, sau đến là các hãng International Expedition, Mountain

Travel…Tuy nhiên chưa có một website nào tổng hợp được tất cả các thông

tin về du lịch. Vacation.com đã ra đời với một cơ sở dữ liệu tiếp thị đầy đủ

nhất cho du lịch, cung cấp một mạng lưới các website với bộ sưu tập phong

phú nhất về nội dung du lịch, giải trí hiện có trên Internet, và đã đạt được tỉ lệ

người thăm viếng cao, rất nhiều những khách thăm quan website

vacation.com sau này trở thành khách hàng. Mạng Vacation.com gồm hơn 20

địa chỉ hướng vào khách hàng cá nhân bán những sản phẩm như tour du lịch,

kì nghỉ trọn gói… và thông tin về hơn 30 hãng quản lý tour du lịch theo

chuyên đề. Ngoài ra để có thể quảng bá thành công, không thể không kể đến

mối quan hệ vàng giữa Vacation và những người hùng Internet như Yahoo!,

Alta vista, Excite…Nhờ việc thiết lập các công cụ tìm kiếm mà đến năm 1998

có hơn 3 triệu lượt người thăm viếng website một tháng, và hơn 400.000

người khác thường xuyên sử dụng dịch vụ đem đến doanh thu hơn 20 triệu

USD và lãi suất cao từ những người chuyên đặt chỗ nghỉ hàng năm [15].

36

Qua những phân tích ở trên về Marketing qua Internet chúng ta thấy

mặc dù Internet Marketing là một khái niệm mới xuất hiện, nhưng vai trò của

nó đối với hoạt động kinh doanh đã được khẳng định. Trong thời đại bùng nổ

của công nghệ thông tin và Internet, doanh nghiệp nào không biết nhanh

chóng khai thác những lợi ích mà nó mang lại, tất yếu sẽ bị bỏ lại phía sau.

Ứng dụng Marketing qua Internet là điều cần thiết để doanh nghiệp không chỉ

tiếp tục duy trì vị trí và hình ảnh của mình trên thương trường, mà còn là con

đường để doanh nghiệp có thể đi nhanh và đi xa hơn trên con đường chinh

phục khách hàng, chiếm lĩnh thị trường.

37

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET

TẠI VIỆT NAM

2.1. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT

NAM

Áp dụng Marketing qua Internet là một ý tưởng mới xuất hiện ở Việt

Nam cách đây không lâu. Để áp dụng được công cụ Marketing qua Internet

cần một số điều kiện cơ bản : về cơ sở hạ tầng, nhân lực kĩ thuật cũng như

Marketing, về nhận thức của người dân cũng như của các doanh nghiệp.

2.1.1. Điều kiện về cơ sở hạ tầng

Marketing qua Internet hoạt động trên nền tảng Internet vì vậy việc

phát triển Internet là cần thiết. Môi trường Internet càng phát triển mạnh, số

người sử dụng càng nhiều thì các hoạt động Marketing qua Internet của doanh

nghiệp càng hiệu quả. Các hoạt động quảng bá trực tuyến càng có cơ hội tiếp

xúc với lượng lớn người sử dụng tiềm năng sản phẩm dịch vụ của công ty.

Bảng 2.1. Tình hình phát triển Internet tại Việt Nam năm 2007

1/2007 Nội dung 6-2007 12/2007

Số người dùng 16.737.129 16.511.849 18.500.000

Tỷ lệ số dân sử dụng Internet 19.87% 20.14 % 22.4%

Tổng thuê bao băng rộng 876.056 829.791 1.294.111

(Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam VNNIC, www.vnnic.com.vn)

38

Tỉ lệ dân số Việt Nam sử dụng Internet tính tới thời điểm tháng

12/2007 đã tăng lên đáng kể, đạt 22,04% tương ứng với số người sử dụng

18,5 triệu người [12], đó là một tín hiệu đáng mừng cho những ai đã kinh

doanh trên mạng hoặc đang ấp ủ những kế hoạch kinh doanh trên Internet. Số

lượng các nhà cung cấp dịch vụ mạng viễn thông cũng được mở rộng lên

thành 9 nhà cung cấp gồm Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội ( HPT), Tổng

công ty viễn thông quân đội (VIETTEL), Công ty cổ phần dịch vụ Internet

(OCI), Công ty cổ phần dịch vụ bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT), Công ty

Netnam - viện CNTT (NETNAM), Công ty cổ phần phát triển đầu tư công

nghệ (FPT), Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty

thông tin viễn thông điện lực (EVN), Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập

khẩu điện-điện tử quận 10 (TIENET). Sự xuất hiện của những công ty viễn

thông mới thay vì sự độc quyền của VNPT đem đến cho khách hàng nhiều sự

lựa chọn hơn với giá cả ngày càng cạnh tranh hơn, chất lượng dịch vụ tốt hơn

mà sự ra đời của dịch vụ truy cập Internet tốc độ cao ADSL ở Việt Nam vào

giữa năm 2003 là một minh chứng. Số lượng thuê bao Internet băng thông

rộng đã tăng từ 183 thuê bao vào năm 2003 lên 1294111 thuê bao vào năm

2007, là một con số hùng hồn cho thấy sự phát triển nhanh chóng của loại

hình dịch vụ này. Sự góp mặt của ADSL đã góp phần làm nên những tiền đề

quan trọng về cơ sở hạ tầng cho những ứng dụng thương mại trên nền Internet

tại Việt Nam.

2.1.2. Điều kiện về nhân lực

Để áp dụng được Marketing qua Internet cần những nhân lực am hiểu

kĩ thuật và nhân lực Marketing hiểu biết về Marketing ứng dụng trên nền

Internet.

39

- Đội ngũ kĩ thuật: phải có đội ngũ kĩ thuật am hiểu về tin học để có thể xây

dựng hoặc ứng dụng Internet trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

- Đội ngũ Marketing: ngoài những kiến thức cơ bản về Marketing truyền

thống, những người thực hiện Marketing qua Internet cũng phải có hiểu biết

về các công cụ của Marketing qua Internet vì môi trường Marketing qua

Internet có những đặc thù riêng so với môi trường Marketing truyền thống.

Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI

phối hợp với tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG thực hiện năm 2005 về “Thực

trạng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong doanh nghiệp” tiến

hành tại 5 thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải

Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ) thì trong số 22.8% doanh nghiệp có tới 40%

nhân viên có kĩ năng tin học cơ bản (Words, Excel); đối với doanh nghiệp sản

xuất thì tỉ lệ này là dưới 20% nhân viên có kỹ năng tin học cơ bản (Words,

Excel). Đó là tỉ lệ cán bộ công nhân viên có khả năng sử dụng các chương

trình tin học văn phòng, còn tỷ lệ nhân viên biết sử dụng Internet trong thực tế

cao hơn con số này rất nhiều. Những con số nói trên so với thế giới còn thấp,

nhưng so với những năm trước đây ở Việt Nam thì đó là những tín hiệu vui về

sự cải thiện trình độ tin học và khả năng tiếp cận Internet của cán bộ, nhân

viên các doanh nghiệp.

Ngày nay các chương trình phổ cập tin học được đưa vào giảng dạy

trong nhà trường từ cấp tiểu học và đã có tác dụng to lớn trong việc truyền bá

những hiểu biết cơ bản về máy tính và Internet cho người dân; giúp mở ra khả

năng về một thị trường mạng rộng lớn.

Khái niệm Marketing dù đến Việt Nam hơi muộn (khoảng đầu thập

niên 90 của thế kỉ 20) nhưng cũng đã kịp đặt chân vào các trường kinh tế của

Việt Nam. Điều này giúp đảm bảo một nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng các

40

yêu cầu về kiến thức Marketing mà còn cả khả năng khai thác, vận dụng

những tiện ích của Internet trong việc thực hành nghề nghiệp sau này.

2.1.3. Điều kiện về nhận thức

Để ứng dụng được Marketing qua Internet trong hoạt động kinh doanh

thì doanh nghiệp phải có nhận thức về vai trò của công nghệ thông tin,

Internet và Marketing trong doanh nghiệp.

Với xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hoá, ý thức về việc đổi mới bằng

việc ứng dụng các phương pháp quản lí mới: sử dụng Internet, Marketing của

các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước.

Trước khi ứng dụng Marketing qua Internet, các doanh nghiệp cũng

phải có nhận thức cơ bản về thương mại điện tử và Marketing nói chung,

Internet Marketing nói riêng. Theo điều tra mới nhất của Phòng Thương mại

và Công nghiệp Việt Nam công bố tháng 01/2007 thì đến thời điểm năm 2006

có 20-25% số doanh nghiệp Việt Nam có website riêng. Trong số đó, có 5-6%

số doanh nghiệp ở Việt Nam thực sự thực hiện thương mại điện tử, còn lại

mới chỉ áp dụng Thương mại điện tử ở trình độ thấp. Như vậy, nhận thức của

doanh nghiệp Việt Nam về thương mại điện tử có thể nói là chưa thực sự tốt,

điều này sẽ gây khó khăn trong việc ứng dụng Marketing qua Internet trong

doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp sử dụng Marketing qua Internet nhằm

tiếp cận các doanh nghiệp khác.

Tóm lại, hiện nay điều kiện áp dụng Marketing qua Internet tại Việt

Nam đã có nhưng chưa đầy đủ. Doanh nghiệp, tổ chức hoàn toàn có thể áp

dụng Marketing qua Internet vào hoạt động kinh doanh để quảng bá các sản

phẩm dịch vụ của mình. Tuy nhiên, với mức độ tác động còn hạn chế của

Marketing qua Internet do số lượng người sử dụng Internet còn thấp, doanh

nghiệp nên coi Marketing qua Internet là một hoạt động bổ sung cho hoạt

41

động Marketing truyền thống của doanh nghiệp chứ không nên chỉ áp dụng

duy nhất các biện pháp Marketing trực tuyến.

2.2. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM

Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển mãnh mẽ, công nghệ

thông tin và thương mại điện tử đã xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống

xã hội nói chung và hoạt động kinh tế nói riêng. Internet và Thương mại điện

tử đã trở nên quen thuộc với nhiều tầng lớp dân cư, từ học sinh, sinh viên đến

các doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước, từ đó những khái

niệm như Marketing online, Marketing trực tuyến, Internet Marketing cũng

được phổ biến rộng rãi hơn tại Việt Nam.

2.2.1. Thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam

Phát triển thương mại điện tử (TMĐT) là xu hướng tất yếu của thời đại

trên phạm vi toàn cầu. Để làm nên TMĐT, không thể không kể đến vai trò

của Marketing nói chung và Marketing qua Internet nói riêng, vì phần lớn

TMĐT được triển khai trên nền Internet trong đó Marketing qua Internet là

một trong những nội dung căn bản của TMĐT. Website giới thiệu sản phẩm,

thư điện tử, các banner quảng cáo, thậm chí cả forum và blog cá nhân, đó là

những công cụ rất dễ nhận thấy của Marketing trên nền Internet.

2.2.1.1. Xây dựng website

Hình thức đơn giản nhất của Marketing qua internet là việc thiết lập

một website giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ của một công ty. Website này có

thể đứng độc lập do doanh nghiệp tự quản lí hoặc là một phần của một cổng

thương mại điện tử .

Với các doanh nghiệp có kinh phí hạn hẹp thì việc tham gia một cổng

thương mại điện tử rất có lợi. Cổng thương mại điện tử này sẽ do một công ty

42

hoặc một tổ chức đứng ra xây dựng và quảng bá. Doanh nghiệp tham gia cổng

thương mại điện tử này chỉ phải trả một khoản phí nhỏ hàng năm là kinh phí

xây dựng website, chi phí quản lí trang web. Cổng thương mại điện tử này

giống như một cái chợ to, còn các trang web bên trong là các gian hàng, quầy

hàng. Ở Việt Nam có thể kể đến các cổng giao dịch thương mại điện tử được

nhiều người biết đến như: www.chodientu.com.vn; www.vnemart.com.vn ;

www.vietco.com.vn với nhiều doanh nghiệp tham gia.

Tuy nhiên, đối với các công ty lớn, việc có riêng một website vẫn là

cần thiết bởi các cổng thương mại điện tử thường chỉ cho phép doanh nghiệp

đăng thông tin theo mẫu nhất định, thường rất sơ lược, nhiều khi không truyền

tải được hết thông tin về sản phẩm, dịch vụ của công ty.

Một số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng kết

hợp hai hình thức nói trên. Họ vừa xây dựng website riêng cho mình, vừa

tham gia một cổng thương mại điện tử. Trên website riêng của họ, các thông

tin về công ty, sản phẩm dịch vụ của công ty được cung cấp chi tiết đầy đủ.

Trên cổng thương mại điện tử, thông tin của công ty được cung cấp sơ lược

đủ để người đọc biết sơ qua về công ty: tên công ty, lĩnh vực hoạt động, khả

năng, website công ty…Nếu muốn tìm hiểu thêm người đọc có thể trực tiếp

truy cập website của công ty qua gian hàng ảo của cổng thương mại điện tử.

Như vậy, doanh nghiệp vẫn tận dụng được sự quảng bá chung của cổng

thương mại điện tử, vừa cung cấp được đầy đủ thông tin cần thiết cho những

người quan tâm.

Năm 2006 là năm có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành CNTT-TT, khi là

năm đầu tiên có luật về CNTT-TT, bộ Luật Giao dịch điện tử, và Luật

Thương mại sửa đổi 2005, Bộ Luật Dân sự sửa đổi, nghị định Thương mại

điện tử có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai “Kế hoạch tổng

43

thể TMĐT giai đoạn 2006-2010” do đó số lượng doanh nghiệp tham gia

TMĐT bắt đầu tăng lên…Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Thương mại, số

lượng doanh nghiệp có website chiếm chỉ khoảng 20-25%. Trong số đó, có

tới 93,8% số website chỉ để giới thiệu về công ty. Tính năng giao dịch điện tử

chỉ 27%. Tính ra, chỉ khoảng 5,4 đến 6% số doanh nghiệp Việt Nam sử dụng

thương mại điện tử [14]. Điều này một lần nữa cho thấy trình độ áp dụng

TMĐT nói chung và thực hành Marketing qua Internet nói riêng của các

doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.

2.2.1.2. Quảng cáo online

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp quảng cáo ở khắp mọi nơi.

Từ những biển quảng cáo ngoài trời, các quảng cáo trên các báo và tạp chí

phổ biến cho đến quảng cáo trên truyền hình với hàng triệu khán giả theo dõi.

Ngày nay với sự xâm nhập của Internet, nhiều lĩnh vực bắt đầu được

Internet hoá. Song song với báo giấy, nhiều toà soạn cho ra đời những tờ báo

điện tử với nội dung phong phú, hấp dẫn, cập nhật. Công nghệ đã cho phép

xem các chương trình truyền hình trên Internet với chất lượng không thua

kém truyền hình thông thường. Người xem có thể xem được rất nhiều kênh

với chi phí rẻ, xem lại các chương trình mà mình bỏ lỡ, không phụ thuộc vào

lịch phát sóng của đài truyền hình.

Với các tính năng ưu việt kể trên, báo điện tử và các trang web thu hút

được lượng lớn người truy cập. Nhiều công ty đã nắm bắt cơ hội này và

quảng cáo trực tuyến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình. Những trang

báo điện tử Việt Nam: VnExpress, Vietnamnet, Thanhnien Online, TuoiTre

Online, Dantri thu hút được rất nhiều quảng cáo từ các doanh nghiệp lớn.

Thực tế cho thấy, nguồn thu từ quảng cáo là nguồn thu chính của các báo điện

44

tử miễn phí. Dưới đây là một số khái quát về thực trạng quảng cáo qua

Internet tại Việt Nam.

Hình thức quảng cáo: Có hai hình thức quảng cáo trực tuyến: quảng

cáo qua website và quảng cáo trả phí qua các công cụ tìm kiếm (Paid

advertising in Search Engine)

Quảng cáo qua website: quảng cáo dạng Banner,quảng cáo Pop-up, và

quảng cáo xen nội dung(Text based Ad) là những quảng cáo được đặt trên

website của một bên thứ ba và liên kết với website của doanh nghiệp.Các mẫu

quảng cáo này được thiết kế để khuyến khích người xem nhấp chuột (click)

vào để xem thêm thông tin, và lí tưởng nhất là mua sản phẩm. Những quảng

cáo này được tính trên một mức phí : theo từng lần nhấp chuột vào quảng cáo

(pay per click) hoặc theo doanh thu đem lại từ việc bán hàng do quảng cáo

này mang lại (pay per sale).

Quảng cáo qua công cụ tìm kiếm: Đó là việc đăng các từ khóa tìm kiếm

liên quan đến hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp trên các công cụ tìm kiếm

nổi tiếng như công cụ tìm kiếm của Yahoo!, Google,…Khi người truy cập

mạng đánh các từ khóa tìm kiếm vào các công cụ tìm kiếm thì sẽ được một

danh sách các kết quả thỏa mãn các tiêu chí tìm kiếm đó. Trong trường hợp

doanh nghiệp đăng kí từ khóa tìm kiếm của mình với các công ty quảng cáo thì

cơ hội họ xuất hiện trong danh sách kết quả của người tìm kiếm sẽ cao hơn.

Hiện nay hình thức quảng cáo qua website cụ thể là việc đặt banner,

logo trên các website có nhiều người truy cập là hình thức mà các doanh

nghiệp Việt Nam thường sử dụng nhất. Ngoài ra để thu hút các doanh nghiệp

tham gia, các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng đưa ra những hình thức

quảng cáo rất đa dạng khác như tổ chức các chuyên trang như Top 100, Best

Ten (trên http://www.vnn.vn, http://www.Business.vnn.vn ), các hội chợ

45

thương mại trên Internet. Các mục rao vặt trên Internet cũng rất phát triển,

người xem có thể tìm mua các đơn đặt hàng đơn lẻ trên mục rao vặt của

www.fpt.vn, www.raovat.com.vn, www.rongbay.com.vn ... Việc quảng cáo

qua các công cụ tìm kiếm cũng đang thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp

Việt Nam trong thời gian gần đây.

Thị trƣờng quảng cáo: Có thể khẳng định rằng thị trường quảng cáo

trực tuyến tại Việt Nam còn nhỏ bé và chưa phát triển hoàn thiện. Theo ước

tính của một chuyên gia về quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam doanh thu từ

quảng cáo trực tuyến chỉ đạt khoảng 15-20 tỷ đồng/năm, trong đó có tới 60%

thuộc về Vnexpress [5, tr.50]. Số người mua, người bán quảng cáo cũng chưa

nhiều. Trong số hàng trăm nghìn doanh nghiệp Việt nam chỉ khoảng 25%

trong tổng số doanh nghiệp có website riêng và vài ngàn doanh nghiệp thực

hiện quảng cáo trên mạng. Số website cung cấp dịch vụ quảng cáo trên mạng

trong cả nước ước tính khoảng 2.500 website, chủ yếu là website của các

doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức chính phủ và cơ quan báo chí.

Tuy nhiên, điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đã thừa nhận

những lợi ích của quảng cáo trên mạng. Theo một cuộc điều tra chọn mẫu trên

20 doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu thuộc

trường Đại học Ngoại Thương năm 2007 cho kết quả: 25% số doanh nghiệp

được hỏi cho rằng vai trò quảng cáo trên mạng là rất quan trọng, 45% số

doanh nghiệp cho rằng Quảng cáo trên mạng có ảnh hưởng tốt tới kết quả

kinh doanh của công ty, chỉ có 5% cho rằng Quảng cáo trên mạng không có

ảnh hưởng gì đến công ty. Quảng cáo trên mạng không chỉ tác động tốt tới

các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, mà ngay cả đối với các công ty kinh

doanh hướng đến thị trường trong nước cũng đem lại những kết quả không

nhỏ. Công ty xuất nhập khẩu sách báo (thuộc Bộ Văn hoá và thông tin) đã cho

biết nhờ Website mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những

46

thay đổi về chất, khắc phục những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt

Nam và các nước. Cụ thể Web site www.xuhabasa.com.vn đã mang lại cho

công ty này thêm khoảng 5% khách hàng mới. Ngoài ra, sự xuất hiện công ty

trên Internet đã góp phần đưa uy tín của công ty lên một tầm cao mới, nhiều

đề nghị hợp tác làm ăn và thị trường mới cũng đã xuất hiện nhờ sự có mặt của

các công ty này. Nhà sách Minh Khai ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ sau một

tháng khai trương việc bán sách qua mạng đã bán được trên 1000 cuốn sách

các loại.

Chất lƣợng quảng cáo qua mạng: Các doanh nghiệp Việt Nam chủ

yếu sử dụng các chiến lược quảng cáo thụ động, xây dựng Website hoặc đặt

quảng cáo trên mạng và chờ khách hàng tự tìm đến với công ty của mình.

Chất lượng các quảng cáo trên mạng nói chung của các doanh nghiệp Việt

Nam chưa cao. Khả năng tài chính hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt Nam

đã không cho phép họ đầu tư nhiều cho những công nghệ hiện đại cho các

quảng cáo trên mạng cũng như việc cập nhật, thay đổi các quảng cáo đó. Bên

cạnh đó, tốc độ và dung lượng đường truyền chậm cũng không cho phép triển

khai các công nghệ quảng cáo quá phức tạp.

Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng: Do không có đủ các cán bộ

chuyên môn về Internet và thiết kế quảng cáo trên mạng, các doanh nghiệp

Việt Nam hiện nay thường sử dụng dịch vụ thiết kế trang Web và quảng cáo

của các công ty tin học, các nhà cung cấp dịch vụ Internet và quảng cáo trực

tuyến. Với các lợi thế của mình, các công ty thiết kế cung cấp các dịch vụ tư

vấn, hỗ trợ và đưa ra những lựa chọn khác nhau cho các khách hàng. Các

doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ thiết kế một trang Web đơn giản với các

thông tin trên Internet như địa chỉ, điện thoại, số fax, email,...hoặc một trang

Web phức tạp hơn với các form đăng ký mua bán, trao đổi hoặc ký gửi hàng

hoá trên mạng hoặc là phần quảng cáo về sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh, các

47

loại hình dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp thường chủ động gửi các thông

tin và hình ảnh cho nhà thiết kế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có thể liên

hệ với nhà thiết kế để sử dụng kho dữ liệu ảnh trên Internet để chọn ảnh theo

chủ đề. Các nhà cung cấp dịch vụ thiết kế hiện nay còn cung cấp dịch vụ tư

vấn cho khách hàng đăng ký giới thiệu trang quảng cáo của mình trong các

diễn đàn thương mại trên Internet phù hợp với ngành hàng của doanh nghiệp

hoặc đăng kí Website của doanh nghiệp vào các công cụ tìm kiếm trên mạng.

Các công ty như FPT, VDC, VASC, Saigon Net, Phương Nam Net,...đều có

các trang Web đặc biệt để hỗ trợ thêm về quảng bá thương hiệu cho các hợp

đồng dài hạn.

2.2.1.3. E-mail Marketing

Thư điện tử đã được sử dụng khá lâu bởi nó rất rẻ và nhanh ngay cả

khi tốc độ đường truyền Internet không cao. Những người thực hiện

Marketing trực tuyến đã sử dụng thư điện tử để xây dựng mối quan hệ chặt

chẽ với khách hàng, đẩy các thông điệp quảng cáo tới khách hàng. Có thể coi

marketing qua thư điện tử là một dạng của tiếp thị trực tiếp. Công ty có trong

tay danh sách người mà mình sẽ gửi thư điện tử, các đặc điểm riêng biệt của

nhóm đối tượng này: tên, tuổi, giới, thu nhập, sở thích để từ đó có cách thức

tiếp cận riêng. Theo eMarketer, một công ty nghiên cứu về thương mại điện

tử cho biết 94 % số người sử dụng Internet có email. Năm 1999, các nhà hoạt

động marketing đã đầu tư 97 triệu đô la Mỹ cho các chiến dịch marketing qua

email, và lên tới 4.8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2004 (Theo nghiên cứu của

Forrester). Ngân sách dành cho Email Marketing có thể lên tới hàng tỷ đô la

như vậy vì những lợi ích to lớn và ưu điểm vượt trội của nó so với các loại

hình quảng cáo truyền thống khác. Một số ưu điểm mà các doanh nghiệp có

thể dễ dàng nhận thấy như:

48

 Tiết kiệm chi phí: chi phí để gửi một số lượng lớn thư điện tử rẻ hơn rất

nhiều so với chi phí gửi thư trực tiếp thông thường vì gửi thư điện tử

không phải chịu chi phí giấy, in ấn, phong bì, vận chuyển…

 Duy trì mối quan hệ bền chặt: việc gửi thư điện tử thường xuyên cung

cấp các thông tin hữu ích về sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng sẽ khiến

khách hàng nhớ đến công ty. Do khả năng tự động hoá, công ty dễ dàng

định kì gửi cho khách hàng những thông tin mà khách hàng quan tâm

 Dễ theo dõi và đo lường: với sự trợ giúp của máy tính và các phần mềm

chuyên dụng, từng “cử động” của khách hàng được công ty ghi nhận.

Chẳng hạn, công ty sẽ biết được trong bức thư điện tử mà mình gửi thì

phần nào được đọc nhiều nhất, số lấn đọc thư của khách, khu vực mà

khách hàng đang ở, sở thích của khách.

 Phản hồi nhanh: với tính năng tự động hoá, công ty có thể ngay lập tức

phản hồi các thắc mắc của khách hàng. Khi sử dụng thư điện tử như

một công cụ tiếp thị cần được sự cho phép của khách hàng, nếu không

những thư mà công ty gửi đến sẽ bị coi là thư rác (Spam), khách hàng sẽ

không đọc những lá thư này và có ấn tượng xấu về công ty, khi đó công ty

sẽ khó khăn trong việc gửi những thông điệp khác qua thư điện tử sau này.

Các công ty Việt Nam cũng đã nhận ra những ưu điểm của loại hình

Marketing này, nếu như cách đây hai năm, thư Quảng cáo hầu như đến từ

nước ngoài thì hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều thư Quảng cáo về sản

phẩm, dịch vụ ở Việt Nam với các nội dung quảng cáo vô cùng phong phú từ

dịch vụ lắp đặt, bảo hành, bán mỹ phẩm, thiết bị công nghiệp, sản phẩm điện

tử, phần mềm đến rao bán nhà đất trị giá vài trăm triệu đồng. Kết quả khảo sát

trên 20 doanh nghiệp xuất khẩu về mức độ quan trọng của Email Marketing

cũng cho kết quả rất khả quan: 20% số doanh nghiệp cho rằng Email

49

Marketing rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,

36% cho rằng có ảnh hưởng tốt, chỉ có 16% cho rằng không hiệu quả [5].

Hiện nay với mức chi phí "rẻ như cho", chỉ khoảng vài trăm đến vài

triệu cho một danh sách vài triệu địa chỉ thư kèm phần mềm gửi, hình thức

Quảng cáo qua email hấp dẫn khá nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh

nghiệp nhỏ, tiểu thương, cá nhân có nhu cầu mua bán. Một doanh nghiệp năm

2007 đã tính toán rằng, để đến với hàng triệu khách hàng, nếu Quảng cáo qua

truyền hình tốn trung bình 150 - 200 đồng/lượt người xem, báo giấy 80 - 100

đồng/lượt người đọc, website 20 - 60 đồng/lượt người xem thì Quảng cáo qua

email chỉ tốn 1 đồng/lượt người xem, thậm chí còn rẻ hơn nữa.

Tuy nhiên, Quảng cáo qua e-mail tại Việt Nam bên cạnh những lợi ích

mà nó mang lại như chi phí rẻ, thì các ưu điểm khác như thiết lập quan hệ bền

chặt với khách hàng, phản hồi nhanh… không phát huy hết được tác dụng do

các loại email Quảng cáo gửi với số lượng lớn và không hữu ích với phần lớn

người đọc được gọi chung là thư rác (spam). Hầu hết người dùng đang bội

thực vì email Quảng cáo và bày tỏ sự khó chịu với nhưng email "không mời

mà đến" này. Con số thư rác vào các hộp email ngày một tăng, có khi tới vài

trăm email một ngày. Không chỉ thế, email còn đang dần trở thành công cụ để

lừa đảo trực tuyến khi ngày càng có nhiều kẻ sử dụng email để phát tán virus,

khủng bố bom thư (gửi nhiều thư gây nghẽn hệ thống), giả mạo để lừa đảo

người dùng cung cấp mật khẩu, số tài khoản Ngân hàng... Với sự gia tăng từ

những biến thái qua email, hiệu quả Quảng cáo qua hình thức này đang giảm

mạnh không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới.

2.2.1.4. Marketing qua công cụ tìm kiếm

Hiện nay, có hàng tỉ trang web trên thế giới. Công cụ tìm kiếm ra đời

nhằm trợ giúp việc tìm kiếm thông tin trên Internet dễ dàng hơn. Công cụ tìm

50

kiếm hoạt động theo nguyên tắc: khi nhập từ khoá cần tìm kiếm vào một

công cụ tìm kiếm thì nó sẽ trả về các kết quả thoả mãn tiêu chí trên.

Theo e-Marketer, một công ty chuyên nghiên cứu về Marketing trực

tuyến thì 90% số người dùng Internet sử dụng công cụ tìm kiếm ít nhất một

lần một ngày. Nhiều người tin rằng một công ty có thứ hạng cao trong kết quả

tìm kiếm ứng với một từ khoá là một công ty hàng đầu trong lĩnh vực đó. Vì

thế, để nằm trong 30 kết quả đầu tiên ứng với một vài từ khoá chủ chốt là một

lợi thế cạnh tranh to lớn.

Nhiều công ty lớn nhưng chưa chắc đã có thứ hạng cao ứng với một vài

từ khoá chủ chốt. Đây là cơ hội rất lớn cho các công ty nhỏ biết sử dụng biện

pháp Marketing qua công cụ tìm kiếm để vượt lên trong cuộc kinh doanh trên

mạng.

Hiện nay, có rất nhiều các công cụ tìm kiếm trong đó quan trọng nhất là

các công cụ tìm kiếm có phạm vi hoạt động toàn cầu vì có lượng người sử

dụng cao như Yahoo!, Google, MSN…Nếu có thứ hạng cao trên các công cụ

tìm kiếm này với đúng từ khoá thì cơ hội doanh nghiệp tiếp cận được với

khách hàng mục tiêu rất lớn.

Hình 2.1: Các công cụ tìm kiếm hàng đầu thế giới

51

Marketing qua công cụ tìm kiếm là hình thức Marketing mới và có nhiều

ưu điểm:

 Khách hàng tìm đến tự nhiên: công cụ tìm kiếm được coi là một công cụ

khách quan khi tìm kiếm thông tin (phần quảng cáo trả phí qua công cụ tìm

kiếm đựơc tách ra khỏi kết quả tìm kiếm). Thật tự nhiên khi một người

muốn mua điện thoại cũ gõ vào công cụ tìm kiếm từ khoá “điện thoại cũ”

và xem xét các kết quả tìm kiếm để chọn cho mình một chiếc điện thoại cũ

phù hợp.

 Không tốn kém: tuy việc có thứ hạng cao là khó khăn, nhưng việc này

thường không tốn kém do các công cụ tìm kiếm đánh giá kết quả theo các

tiêu chí khách quan : nội dung website, số lần truy cập ….

 Không giới hạn phạm vi địa lí: các công cụ tìm kiếm lớn như Google,

Yahoo!… có phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Chúng hỗ trợ nhiều thứ

tiếng, vì thế ai cũng có thể thực hiện tìm kiếm thông tin mình muốn.

 Độ tin cậy cao : Vì tính chính xác của kết quả tìm kiếm tạo nên uy

tín của các công cụ tìm kiếm cho nên kết quả tìm kiếm trả về được tính

toán bằng những tiêu chí khách quan và thường xuyên thay đổi.

Chúng ta đều có thể nhận thức rằng phương pháp marketing qua các

công cụ tìm kiếm là một trong những yếu tố rất quan trọng trong chiến lược

thương hiệu của các doanh nghiệp. Thứ tự thương hiệu của công ty trong kết

quả tìm kiếm và nội dung về thương hiệu của sản phẩm chính là những tiêu

chí để nhận định vị trí của công ty trong con mắt công chúng.

Để đạt được thứ hạng cao trong kết quả tìm kiếm thôi chưa đủ. Công ty

phải định vị mình với các từ khoá mà khách hàng mục tiêu của họ hay sử

dụng. Đây là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực lớn và thường xuyên của công

ty. Chiến thắng sẽ thuộc về những công ty sẵn sàng đầu tư vào các phương

52

thức phù hợp và lâu dài để có thể đảm bảo rằng quảng bá thương hiệu trên

mạng là điều tối quan trọng mà họ muốn. Công ty càng sớm nhìn nhận

marketing qua công cụ tìm kiếm trực tuyến là một nhân tố quan trọng trong

chiến lược thương hiệu, thì công ty đó càng nhanh chóng thành công trong

việc quảng bá thương hiệu của mình trên một môi trường không gian ảo

không biên giới của Internet.

Việc đăng kí các từ khoá tìm kiếm ngày càng được nhiều công ty Việt

Nam áp dụng bởi chi phi cho công cụ này cũng rất thấp mà hiệu quả mang lại

khá cao. Hầu hết các công ty cung cấp dịch vụ thiết kế, quảng bá website như

vietnamtradefaire.com, vietwebpro.com… đều cung cấp dịch vụ đăng kí từ

khóa tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm nổi tiếng thế giới. Chi phí trọn gói

đăng kí website vào các search engin theo báo giá của vietnamtradefaire.com

vào thời điểm tháng 04/2008 là 100 đô la Mỹ. Tuy nhiên, kết quả tìm kiếm là

khách quan, do vậy nó cần các công ty phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau

nhằm quảng bá cho công ty.

2.2.1.5. Marketing thông qua “cộng đồng ảo”

Cộng đồng ảo đầu tiên xuất hiện khoảng 10 năm sau khi hình thành nên

Internet. Vào đầu những năm 80, một mạng máy tính đầu tiên được gọi là

Usenet được lập ra để liên kết các trung tâm máy tính tại các trường đại học

sử dụng hệ điều hành Unix với nhau. Chức năng đầu tiên của Usenet là phân

phối các thông tin khác nhau thông qua mạng liên kết. Người tham gia có thể

thiết lập các nhóm tin về mọi chủ đề để cùng chia sẻ. Đây là các cuộc thảo

luận dưới dạng bảng tin. Người tham gia gửi các thông điệp tham gia một chủ

đề và đọc các thông điệp đã được gửi đến trước đó. Ban đầu các nhóm tin

được thiết lập xung quanh các chủ đề về kĩ thuật, các môn nghiên cứu sau đó

được mở rộng ra các chủ để khác như y tế, giáo dục, ẩm thực… Các nhóm tin

53

đã tăng lên nhanh chóng từ 150 nhóm tin vào năm 1984 lên hơn 25.000 nhóm

tin năm 1998. Ban đầu cộng đồng ảo được tạo ra trên Internet với mục đích

phi thương mại, nhưng càng về sau các nhà kinh doanh càng chú ý đến

khuynh hướng này.

Mạng tạo điều kiện cho mọi người trên toàn thế giới cộng tác với nhau

trong bất kì chủ đề nào mà họ quan tâm. Đây là bản chất của cộng đồng ảo.

Một cộng đồng tốt sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các thành viên vì lợi ích của

nhau và của các tổ chức tham gia. Nhưng làm thế nào để các lợi ích thương

mại của một tổ chức có thể thích nghi với một cộng đồng ảo? Câu trả lời này

nằm trong việc tổ chức chiến lược tiếp thị. Hãy nghiên cứu ba loại chiến lược

tiếp thị: Chiến lược tiếp thị đại chúng, tiếp thị trực tiếp và tiếp thị hợp tác.

Trong tiếp thị đại chúng, các công ty nâng cao hình ảnh của họ, làm cho nhiều

người biết đến họ bằng việc tăng lượng sản phẩm bán ra. Trong tiếp thị trực

tiếp, các công ty cung cấp triển vọng đưa ra nhiều thông tin về sản phẩm để

tăng lượng khách hàng có kiến thức về sản phẩm nhằm bán được nhiều hơn.

Trong tiếp thị hợp tác, các công ty hỗ trợ khách hàng tìm hiểu, đánh giá

những thay đổi trong tương lai, tìm ra sản phẩm dịch vụ tốt nhất đáp ứng nhu

cầu của họ. Chính các hoạt động này đã giúp các công ty hiểu rõ hơn về

những triển vọng trong tương lai, giúp tạo lòng tin ở khách hàng và do đó bán

được nhiều sản phẩm.

Các trang web nói chung và các cộng đồng ảo nói riêng đều hỗ trợ

chiến lược tiếp thị trực tiếp và chiến lược tiếp thị đại chúng. Những cơ hội do

cộng đồng ảo mang lại được hợp nhất trong các hoạt động tiếp thị của doanh

nghiệp thông qua ba xu thế khác nhau, các xu thế này đi từ thấp đến cao. Xu

thế đầu tiên đề cập đến tiếp thị trực tiếp, xu thế thứ hai và thứ ba liên quan

đến tiếp thị hợp tác. Không có xu thế nào nói về tiếp thị đại chúng. Internet

54

chưa bao giờ và không bao giờ là công cụ tiếp thị hiệu quả cho xu thế tiếp thị

đại chúng. Vậy các xu thế kể trên là gì?

Xu thế 1: Tài trợ: Quảng cáo trong cộng đồng hay tài trợ nội dung của cộng

đồng

Xu thế 2: Tham gia: Cung cấp nội dung như một thành viên tương tác trong

hội đồng.

Xu thế 3: Xây dựng: Tạo và duy trì mối quan hệ trong cộng đồng ảo.

Quảng cáo và tài trợ cho cộng đồng ảo: Cộng đồng ảo chủ yếu được

hình thành từ những trang Web chứa các nội dung khác nhau. Các thông tin

quảng cáo có thể đăng kí hoặc tham gia vào các web này. Quyết định quảng

cáo và tài trợ cho cộng đồng ảo cũng giống như quyết định quảng cáo trên các

phương tiện thông tin truyền thống. Mối quan tâm chính là sự tập trung của

thị trường và tính chất của cộng đồng. Tài trợ khác với quảng cáo ở chỗ công

chúng dễ dàng chú ý đến nhà tài trợ cùng với quá trình thực hiện nội dung tài

trợ. Còn đối với quảng cáo, nhân viên phụ trách của công ty sẽ phải làm quen

với những vấn đề mà cộng đồng ảo quan tâm nhất, sau đó sẽ quyết định có

thực hiện bước kế tiếp để trở thành thành viên của cộng đồng ảo hay không.

Tham gia vào cộng đồng ảo: Khi chuyển từ vai trò một người tài trợ

cho nội dung của một cộng đồng ảo sang vai trò người tạo ra nội dung của

cộng đồng ảo, một công ty phải chuẩn bị để trao đổi trực tiếp với các thành

viên của cộng đồng. Những nhân viên được giao nhiệm vụ trao đổi với các

thành viên của cộng đồng sẽ là người liên lạc giữa công ty và cộng đồng. Việc

tham gia vầo cộng đồng ảo có thể khiến công ty có được sự ủng hộ của các

thành viên của cộng đồng. Mặt khác, công ty có nhiều cơ hội để giới thiệu về

công ty và sản phẩm thông qua các nội dung trao đổi trong cộng đồng.

55

Xây dựng cộng đồng ảo: Quyết định xây dựng một cộng đồng ảo đòi

hỏi công ty phải lập ra nhiều kế hoạch vì việc này liên quan đến phương thức

kinh doanh mới. Bước đầu tiên là chọn tiêu điểm cho một cộng đồng. Hãy tập

trung vào những độc giả có mục đích và người phát triển cộng đồng sẽ là

người đại diện cho nhóm cộng đồng có mục đích chung này. Nhiều doanh

nghiệp đóng vai trò là người phát triển cộng đồng hoặc người môi giới đã

giành được những vị trí tốt để mở rộng hoạt động đồng thời tiến tới việc mở

rộng ra các cộng đồng ảo mới. Ngày nay các văn phòng du lịch, dịch vụ tài

chính, kinh doanh bất động sản đặt việc kinh doanh trên cơ sở đáp ứng nhu

cầu khách hàng và cơ hội mở rộng kinh doanh trên những phương tiện mới

như Internet. Các công ty phân phối và bán lẻ cũng có cơ hội lớn để thành lập

các cộng đồng ảo trong thị phần hiện thời của họ. Họ phục vụ nhu cầu của

khách hàng trong việc lựa chọn sản phẩm và nhà sản xuất, loại bỏ những sản

phẩm hoặc nhà sản xuất không được khách hàng ưng ý. Chắc chắn sẽ có

những cộng đồng ảo được xây dựng và cạnh tranh với các kênh bán hàng

đang tồn tại.

Vậy một cộng đồng ảo có thể tạo ra doanh thu như thế nào? Có ba loại

doanh thu có thể được tạo ra: thứ nhất là phí thuê bao của các thành viên, thứ

hai là chi phí quảng cáo, tài trợ của các tổ chức, cá nhân muốn củng cố vị trí

của mình trong cộng đồng và thứ ba là phí giao dịch, doanh thu chênh lệch

giữa giá sản xuất và giá bán hàng hoá, dịch vụ cho các thành viên của cộng

đồng [15, p.50-65].

Ở Việt Nam, Forum chính là một trong những hình thức phổ biến của

“cộng đồng ảo”. Tuy nhiên việc áp dụng Forum marketing vẫn còn rất hạn

chế. Hầu hết các website công ty đều có thiết kế mục Forum, phần lớn các

thành viên tham gia Forum lại chính là nhân viên công ty tham gia với do bắt

buộc mà không có thành viên là người ngoài công ty. Các Forum vì thiếu

56

thành viên tích cực nên thường chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và không

có tác dụng tuyên truyền, quảng bá về sản phẩm, hình ảnh công ty. Đối với

những Forum công cộng, ở đó các thành viên tự do và tự nguyện tham gia vì

những chủ đề mà họ ưa thích đến thời điểm hiện nay phần lớn hoạt động với

mục đích phi thương mại, mang tính chất trao đổi thông tin là chính. Tuy

nhiên cũng đã có những công ty biết khai thác những lợi ích của Forum bằng

các hình thức tài trợ nội dung hoặc xây dựng Forum nhằm mục đích thương

mại, chúng ta có thể thấy một số ví dụ tiêu biểu như website:

www.webtretho.com có Forum khá hữu ích về mọi vấn đề liên quan đến việc

nuôi dạy, chăm sóc em bé, và thu hút được sự tham gia của rất nhiều bà mẹ

trẻ. Web này cũng được tận dụng là nơi bán và giới thiệu các sản phẩm dành

cho em bé.

2.2.1.6. PR trên Internet

PR (Public Relations) là thuật ngữ chỉ công việc liên quan đến các mối

quan hệ công chúng, hay còn được gọi là giao tế. Người phụ trách công việc

này thì được gọi là chuyên viên giao tế, chuyên viên quan hệ công chúng (PR

Manager).

Nhiệm vụ chính của những người phụ trách quan hệ công chúng là

quản lý hình ảnh của công ty, tổ chức. Xét về mặt kỹ thuật, các nhân viên

chuyên về quan hệ công chúng có nhiệm vụ xây dựng sự hiểu biết, nhận thức

và tạo ra hình ảnh đẹp cho công ty hoặc khách hàng nào đó. Bằng các thủ

thuật nghiệp vụ của mình, các chuyên gia quan hệ công chúng thường tạo ra

một câu chuyện (story), một bài báo (article), một sự kiện (event) để rồi lồng

vào trong đó các ý tưởng liên quan đến sản phẩm/dịch vụ nhằm thu hút sự

quan tâm của người tiêu dùng. Điểm quan trọng nhất trong sức mạnh quan hệ

công chúng nằm ở chỗ, PR góp phần thiết lập độ tin cậy của các nhóm khách

57

hàng mục tiêu đối với một sản phẩm, một công ty hoặc một cá nhân nào đó

bằng cách tận dụng ảnh hưởng của bên thứ ba - phương tiện truyền thông.

Gần đây, phần lớn ảnh hưởng này được thực hiện thông qua sự tiếp xúc giữa

con người với con người - giữa nhân viên phụ trách quan hệ công chúng với

đại diện của hãng truyền thông, cụ thể là các nhà báo (báo viết, báo nói và báo

hình). Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, mạng Internet với các tính năng ưu

việt đã ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò và phương thức thực hiện PR.

Ở Việt Nam, khái niệm PR chỉ mới được nhắc đến nhiều từ 2 -3 năm

trở lại đây. Vì vậy việc áp dụng PR nói chung còn hạn chế. Nhân viên

Marketing của các công ty thường chưa có kiến thức về lĩnh vực này, vì vậy

đối với họ việc tổ chức các sự kiện, viết bài PR, quan hệ với giới báo chí và

các công ty truyền thông còn khá mới lạ và bỡ ngỡ. Tuy nhiên, ở Việt Nam

người ta đang nhắc tới “nghề PR” như một thứ mốt thời thượng, và ngày càng

có nhiều người làm PR chuyên nghiệp. Trong mục tuyển dụng của các công

ty thay vì nói một cách chung chung là cần tuyển dụng nhân viên Marketing,

thì nay nhiều công ty đã đăng một cách rõ ràng: cần tuyển dụng nhân viên PR.

Những bài viết về Phở 24, Cà phê Trung Nguyên, hay những bài báo viết về

thú chơi độc đáo trong đó có lồng ghép thông tin về những sản phẩm mới của

các công ty… là những bài PR rất điển hình.

2.2.1.7. Marketing lan truyền (Viral Marketing)

Thời gian gần đây, cả thế giới biết đến một cậu thanh niên với ý tưởng

kinh doanh một trang web có tên là Trang chủ một triệu đô MillionDollar

Hompage. Cậu chia trang web làm nhiều ô, mỗi ô là 100 pixel và bán mỗi ô

đó với gíá 100 USD. Ý tưởng đó đã được báo chí chú ý và đăng tin; nhiều

người cũng bàn tán về trang web này. Nhờ vậy, nhiều công ty đã đến mua vị

trí trên trang web trên để đặt logo của mình. Những người hiếu kì đổ vào

58

trang web của cậu xem rất đông vì thế các công ty trên trang web của cậu

cũng được quảng bá rất nhiều. Đây là một ví dụ điển hình về Marketing lan

truyền.

Marketing lan truyền nếu thành công có tốc độ lan truyền nhanh, đặc

biệt là khi có sự tham gia của báo chí đưa tin. Thông tin được những người

quen chuyển cho nhau nên độ tin cậy cao. Ngoài ra, đây là hình thức

Marketing ít tốn kém.

Ở Việt Nam chưa có một ví dụ điển hình nổi bật nào về việc sử dụng

công cụ này nhằm quảng bá tên tuổi, sản phẩm công ty. Tuy nhiên việc xuất

hiện các forum cho phép những người truy cập internet trao đổi những thông

tin về sản phẩm, nhà sản xuất, đại lý phân phối các loại sản phẩm mà họ quan

tâm là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp thực hiện Marketing lan truyền.

2.2.2. Đánh giá hoạt động Marketing qua Internet tại Việt Nam

2.2.2.1. Một số kết quả đạt đƣợc của hoạt động Marketing qua Internet

tại Việt Nam

Marketing qua Internet mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng có nhiều

công ty đã bước đầu ứng dụng Marketing qua Internet vào hoạt động kinh

doanh của mình và có những kết quả nhất định. Đặc biệt là những công ty

cung cấp các sản phẩm, dịch vụ trực tuyến. Môi trường làm việc của họ dựa

rất nhiều vào mạng Internet vì vậy tích cực ứng dụng Marketing qua Internet

giúp họ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Có thể kể đến sự thành

công của trang web tuyển dụng trực tuyến VietNamWorks

(www.vietnamworks.com), hay tập đoàn Hapro.

i, Vietnamworks.com

59

VietnamWorks.com là trang web tuyển dụng lớn nhất Việt Nam hiện

nay, là nhịp cầu kết nối người tìm việc và nhà tuyển dụng trên Internet từ năm

2002. Với những dịch vụ đa dạng về nhân sự, trang web này đã phục vụ trên

3,000 công ty và 400,000 người tìm việc. Đối với nhà tuyển dụng,

VietnamWorks.com cung cấp cách thức nhanh và hiệu quả để tuyển dụng

nhân sự hàng đầu. Vietnamworks.com cung cấp dịch vụ quảng cáo tuyển

dụng trực tuyến, một cơ sở dữ liệu hồ sơ của người tìm việc được cập nhật

thường xuyên, và dịch vụ đăng quảng cáo tuyển dụng trên các báo in tiếng

Việt và tiếng Anh có số lượng phát hành lớn. Đối với người tìm việc,

vietnamWorks.com giúp họ tiếp cận được với nhiều cơ hội việc làm, với

những công ty danh tiếng, và cung cấp cho họ hành trang để phát triển tối đa

nghề nghiệp của mình.

Hình 2.2. Ảnh trang chủ website Vietnamwork.com.vn

60

Khách hàng của VietnamWorks.com là những công ty hàng đầu trên thế giới

và tại Việt Nam hoạt động trong mọi ngành nghề. Các khách hàng tiêu biểu

của VietnamWorks.com gồm có Unilever, Mercedes-Benz, Prudential, Nike,

British Petroleum, Citibank, Sony, Procter & Gamble, Panasonic, Phillips

Electronics, Canon, Trung Nguyen Coffee và nhiều tên tuổi khác.

Năm 2004, với những thành công của mình, VietnamWorks.com đã

được Quỹ đầu tư mạo hiểm của tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG chọn là một

trong 3 công ty Việt Nam để đầu tư mạo hiểm.

VietnamWorks ra đời vào năm 2003 trong thời gian mà thị trường

tuyển dụng lao động đang phát triển. Các doanh nghiệp muốn tìm cho mình

những nhân viên có chất lượng cao, với chi phí hợp lí và thời gian nhanh

chóng. Về phía người tham gia tìm việc, họ cũng muốn tìm được những công

việc có chất lượng tại các công ty phù hợp với năng lực của mình. Tuy nhiên,

vào thời điểm đó chưa có nhiều công ty cung cấp dịch vụ tuyển dụng thực sự

có chất lượng.

Thành công của VietnamWorks.com do nhiều nguyên nhân, nhưng

trong đó việc áp dụng Marketing qua Internet bài bản và đúng cách chiếm vai

trò quan trọng. Công ty này sử dụng tất cả các công cụ Marketing trực tuyến:

xây dựng website,quảng cáo trực tuyến, Marketing qua thư điện tử và công

cụ tìm kiếm và cả Marketing truyền miệng .

Sử dụng Marketing truyền thống: Thời gian đầu khi mới thành lập,

VietnamWorks đã làm rất tốt công tác marketing truyền thống.Công ty này

tham gia quảng cáo trên các báo lớn : Thanh niên, Tuổi Trẻ, những báo có

nhiều ngừời đọc trong độ tuổi lao động.

Ngoài ra, công ty còn cung cấp các bài viết tư vấn về các kinh nghiệm

tuyển dụng cũng như cách tìm kiếm việc làm hiệu quả. Điều này khiến cho uy

61

tín của công ty tăng lên như một nhà cung cấp dịch vụ tuyển dụng giàu kinh

nghiệm.

Xây dựng Website :Với việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh

doanh, Vietnamworks đã trở thành công ty đầu tiên cung cấp dịch vụ tuyển

dụng trực tuyến. Tại đây, các ứng viên có thể tìm hiểu thông tin về các thông

báo tuyển dụng từ phía các công ty. Ngược lại, các công ty cũng có thể tìm

kiếm hồ sơ của các ứng viên tham gia.

Trang web được thiết kế với giao diện đẹp mắt, tiện lợi cho việc sử

dụng. Trong đó có cung cấp chức năng tìm kiếm, qua đó người sử dụng có thể

lọc ra các thông tin mà mình quan tâm.

Do làm tốt công tác marketing truyền thống nên công ty đã thu hút

được một lượng lớn các công ty có nhu cầu tuyển dụng và hồ sơ của những

người tìm việc. Cho đến tháng 4 năm2006, VietnamWorks.com có gần 11

triệu lượt truy cập và có hơn 2000 công việc đăng tuyển trong tháng 4. Đây là

một con số không nhỏ đối với một công ty tuyển dụng.

Quảng cáo trực tuyến : Ngoài việc đăng quảng cáo trên các báo và tạp

chí, công ty còn tham gia quảng cáo trên các website có lượng người truy cập

lớn của Việt Nam như ThanhNien Online, Vietnamnet …

Công ty hợp tác với báo Thanhnien Online để cung cấp dịch vụ việc làm

trên báo điện tử Thanhnien Online. Đây là tờ báo có uy tín lớn trong giới trẻ

và có lượng truy cập cao.

Đặc biệt hơn, công ty là một trong số ít các công ty của Việt Nam có

quảng cáo trên các công cụ tìm kiếm. Khi thực hiện tìm kiếm tại Google với

những từ khoá liên quan đến tuyển dụng như: “tuyển dụng”, “việc làm”, “kinh

tế”… thì kết quả tìm kiếm đều xuất hiện VietnamWorks ở phần tài trợ (bên

trái và bên phải trên cùng). Vì công ty sử dụng dịch vụ quảng cáo

62

GoogleAdWords nên chỉ khi người dùng nhấp chuột vào VietnamWorks thì

công ty VietnamWorks mới phải trả phí. Điều này khiến VietnamWoks chỉ

phải trả một chi phí nhỏ mà thương hiệu được hiện diện nhiều qua công cụ

tìm kiếm phổ biến nhất Google.

Marketing qua thư điện tử: Thư điện tử là một phương tiện quan trọng

giúp công ty duy trì mối quan hệ với khách hàng. Định kì, công ty gửi cho

những người đã đăng kí bản tin dịch vụ việc làm của mình một vài bản tin

việc làm trong đó có tóm tắt các vị trí cần tuyển dụng, nếu người đọc quan

tâm thì họ có thể vào trang web VietnamWorks để xem thông tin đó một cách

đầy đủ hơn. Nếu không muốn nhận bản tin này nữa, khách hàng có thể huỷ

(unscribe) đăng kí bản tin một cách dễ dàng, điều này tránh cho công ty bị

hiểu nhầm là gửi thư rác (Spam).

Marketing qua công cụ tìm kiếm: Thông thường khi muốn tìm việc qua

mạng, người tìm việc sẽ gõ vào công cụ tìm kiếm từ khoá “việc làm”, “tuyển

dụng”, “marketing”, “kế toán”….Khi thử nghiệm tại Google với các từ khoá

trên thì trang web của công ty VietnamWork đều đứng ở vị trí cao trong kết

quả tìm kiếm (đứng trong top 10 trang web đầu tiên) vì thế công ty thu hút

được một lượng khách truy cập đáng kể qua kênh công cụ tìm kiếm. Đây là

những ngừời có nhu cầu thực sự về vấn đề tuyển dụng (họ chủ động tìm kiếm

thông tin) nên khả năng họ sử dụng dịch vụ của VietnamWorks là rất cao.

Marketing lan truyền: Đây là hình thức marketing có chi phí thấp và

hiệu quả cao. Những người phát tán thông tin đều là những người có mối

quan hệ thân quen với nhau nên thường tạo ra độ tin cậy cao.

Từ số liệu tuyển dụng tại trang VietnamWorks.com công ty đã tổng hợp

lại và cho ra đời bản báo cáo về thị trường lao động Việt Nam. Trong đó có nêu

63

lên cung và cầu lao động mỗi ngành, xu hướng tuyển dụng… Bản báo cáo này

được xuất bản định kí theo quý, và được phát miễn phí trên trang web.

Nhiều người đã sử dụng bản báo cáo này như một tham khảo về thị

trường lao động Việt Nam. Một số báo lớn như Thanh niên, cũng trích dẫn số

liệu từ báo cáo này trong các bài viết của mình. Vì vậy, tên tuổi của

VietnamWorks có khả năng lan rộng mà không tốn nhiều chi phí và đạt được

độ tin cậy cao.

Như vậy, qua phần trình bày ở trên chúng ta thấy rằng

VietnamWorks.com là một điển hình về việc ứng dụng Marketing qua

Internet tại Việt Nam. Các công cụ Marketing qua Internet đều được công ty

này sử dụng bên cạnh việc tiến hành hoạt động Marketing truyền thống. Công

ty đã thu hút được số lượng lớn người tìm việc và các công ty hàng đầu sử

dụng dịch vụ tuyển dụng của mình. Điều này khẳng định, nếu một công ty áp

dụng Marketing qua Internet đúng cách thì sẽ đem lại hiệu quả to lớn.

ii, Tập đoàn Hapro

Với mục tiêu hình thành mô hình tổng công ty điện tử hiện đại ngang tầm

với các tập đoàn kinh tế trong khu vực Đông Nam châu Á vào năm 2020,

ngày 20/32006, tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) đã trình Ủy ban

Nhân dân thành phố Hà Nội xin phép được lập Dự án đầu tư “Tổng công ty

điện tử - e Hapro”. Theo đó, mục tiêu của Hapro tới năm 2010 là: công tác

quản lý, điều hành, ra quyết định của lãnh đạo, các phòng ban, ban nghiệp vụ

và bộ phận sản xuất kinh doanh đều được tiến hành trên môi trường mạng

máy tính thống nhất trong toàn tổng công ty. 100% các đơn vị trực thuộc công

ty mẹ ứng dụng thương mại điện tử và hệ thống các phần mềm đặc thù theo

từng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. 80% các công ty thành viên (công ty

con và các công ty liên kết có vốn của công ty mẹ) ứng dụng thương mại điện

64

tử loại hình B2B, B2C, B2G, hải quan điện tử. 70% các công ty liên kết tự

nguyện biết tới tiện ích và tiến hành ứng dụng thương mại điện tử loại hình

B2B và B2C. Các hạng mục nội dung để thực hiện e-Hapro gồm:

- Cải tạo và hoàn thiện hệ thống hạ tầng mạng và phần cứng.

- Xây dựng đội ngũ nhân lực quản trị hạ tầng công nghệ thông tin và

truyển thông.

- Xây dựng trang thông tin điện tử e- Hapro/cổng giao dịch điện tử để kết

nối với các công ty thành viện.

- Xây dựng ngân hàng cơ sở dữ liệu của Tổng công ty và hoàn thiện mô

hình kinh doanh TMĐT

Hình 2.3. Website của Hapro

65

Năm 2006, Hapro đã tiến hành triển khai xây dựng hệ thống mạng máy

tính và website Hapro qua đó đã quảng bá thông tin, hình ảnh Hapro và tìm

được nhiều khách hàng cung cấp và mua sản phẩm, ký kết được nhiều hợp

đồng. Kết quả kinh doanh năm 2006 là:

- Tổng doanh thu: 3.765 tỷ đồng, bằng 81% kế hoạch năm, tăng 13% so

với cùng kì

- Kim ngạch xuất nhập khẩu: 144 triệu USD tăng 19% so với cùng kì,

trong đó kim ngạch xuất khẩu: 73,5 triệu USD, bằng 101% kế hoạch năm,

tăng 40% so với cùng kỳ [5, p.67].

2.2.2.2. Một số tồn tại của Marketing qua Internet tại Việt Nam

Sự hiểu biết chưa đầy đủ về Marketing nói chung và Marketing trên

Internet nói riêng. Nguồn nhân lực dành cho Marketing còn thiếu và yếu:

Hoạt động Marketing qua Internet là một hoạt động mới. Trên thế giới việc

phát triển của Marketing qua Internet cũng mới bắt đầu vào năm 1995 thời

điểm bùng nổ của các công ty kinh doanh trên mạng. Ở Việt Nam số công ty

áp dụng Marketing qua Internet bài bản càng ít bởi vì đây là hoạt động rất mới

ở Việt Nam. Các công ty tiên phong ứng dụng Marketing qua Internetmới

xuất hiện khoảng 5 năm gần đây (tương ứng với sự ra đời của quảng cáo trực

tuyến trên các trang báo điện tử của Việt Nam như Vnexpress,VietNamNet).

Một số công ty Việt Nam đã tìm hiểu các tài liệu, thực tế các công ty trên thế

giới để áp dụng vào Việt Nam, phần lớn là do bộ phận kĩ thuật của công ty

tìm hiểu vì nó gắn với môi trường kĩ thuật mà công ty hoạt động chứ không

phải do bộ phận Marketing. Điều này dẫn đến hiểu biết không đầy đủ về hoạt

động Marketing trực tuyến. Quy trình đúng để áp dụng Marketing qua

Internet phải bắt đầu từ bộ phận Marketing. Bộ phận này sẽ tích hợp

Marketing qua Internet vào hoạt động Marketing tổng thể, phối hợp nó với

66

các biện pháp Marketing truyền thống còn bộ phận kĩ thuật là người triển khai

các biện pháp kĩ thuật mà bộ phận Marketing yêu cầu để thực hiện Marketing

trực tuyến. Phòng Marketing của một công ty thường có 4 bộ phận, với 4

nhiệm vụ khác nhau:

- Kinh doanh: có nhiệm vụ bán hàng cho các điểm bán, mở rộng điểm

bán, tăng chất lượng đơn hàng, phủ hàng...

- Trade Marketing (tiếp thị thương mại): có nhiệm vụ hỗ trợ bán hàng

đến các điểm bán, bằng những chương trình khuyến mãi cho chủ điểm bán

hay những giá trị gia tăng cho chủ điểm bán.

- Customer Marketing (tiếp thị tiêu dùng): có nhiệm vụ hỗ trợ bán

hàng đến người tiêu dùng, giảm tồn kho tại quầy kệ điểm bán, tạo những giá

trị gia tăng cho người tiêu dùng.

- Brand Marketing (tiếp thị nhãn hiệu): có nhiệm vụ gia tăng sự nhận

biết nhãn hiệu trong tâm trí người tiêu dùng theo sự định vị của công ty.

Tuy vậy, các doanh nghiệp phần lớn chưa đánh giá được vai trò tác

dụng của Marketing, nhiều doanh nghiệp không có bộ phận Marketing thường

trực trong doanh nghiệp. Ở một số công ty nhỏ, kinh doanh thường làm luôn

việc của tiếp thị thương mại, và tiếp thị tiêu dùng thường làm luôn việc của

thương hiệu, do vậy nó chỉ có 2 bộ phận dưới quyền điều khiển của ông giám

đốc kinh doanh và tiếp thị. Trong thời gian gần đây, một số doanh nghiệp đã

chú trọng đến hoạt động marketing và áp dụng nó trong hoạt động kinh doanh

của mình nhưng số lượng doanh nghiệp như vậy không nhiều.

Chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng thương hiệu qua Internet.

Trong thế giới phẳng, việc xây dựng thương hiệu trên Internet có nhiều thuận

lợi, phù hợp với cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp mới thành lập. Một

doanh nghiệp nhỏ cũng có thể trở thành một doanh nghiệp tầm cỡ với cách

thiết kế trang web hấp dẫn. Các doanh nghiệp có thể phát triển cả hệ thống

67

phân phối toàn cầu với chi phí thấp, sử dụng Internet để kích thích việc quảng

cáo truyền khẩu về các sản phẩm, dịch vụ... Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt

Nam không thực sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho việc phát triển thương

hiệu qua Internet. “Toàn cầu hóa ngày càng tăng, hội nhập về kinh tế ngày

càng nhanh chóng, vì vậy thương hiệu Việt cũng có cơ hội vươn ra sân chơi

toàn cầu” - GS John Quelch - Phó Hiệu trưởng Trường Kinh doanh Harvard

(Mỹ) nhận định. Trong thực tế, top 10 thương hiệu toàn cầu như: Coca-Cola,

Microsoft, IBM, GE, Intel, Nokia, Disney, McDonald‟s, Toyota và Marlboro,

tất cả đều là những thương hiệu mạnh tại thị trường nội địa trước khi trở thành

thương hiệu toàn cầu, vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải xác định làm ra

sản phẩm để phục vụ thị trường trong nước và chiếm lĩnh thị trường một cách

thuyết phục rồi hãy vươn ra thị trường quốc tế.

Những quy định về Pháp luật kinh doanh trên Internet còn thiếu, nhiều

hoạt động trên Internet chưa có quy định pháp luật rõ ràng: Những cơ hội

vàng mà Internet mang lại cho kinh doanh là vô hạn. Đó là những cơ hội có

thêm khách hàng, xây dựng doanh nghiệp mới, đạt hiệu quả kinh doanh và

tích lũy vốn tức thời trên phạm vi toàn cầu. Nhưng những cơ hội đó đòi hỏi

phải trả giá. Do các doanh nghiệp hoạt động trên Internet thuộc lĩnh vực

không có quy định của Pháp luật vì vậy nhiều khi doanh nghiệp cảm thấy

mình như đang hoạt động trong chân không. Trên Internet, ngoài những

nguyên tắc hoạt động của chính doanh nghiệp, hầu như không có tiền lệ về

pháp lý hướng dẫn cho doanh nghiệp, hoặc đôi khi doanh nghiệp thấy mình

phải tuân theo các chắp vá của nhiều luật lệ và quy định mâu thuẫn nhau ở bất

cứ nơi nào có hoạt động Internet. Những “quy tắc cũ” vẫn được áp dụng, đó

là một thực tế chúng ta có thể thấy ở trên thế giới nói chung và Việt Nam nói

riêng. Nói cách khác do còn thiếu các quy định áp dụng cho Internet nên

nhiều quy định về kinh doanh trong thế giới “thực” vẫn được áp dụng cho

68

kinh doanh trên Internet. Mặc dù không phải tất cả các quy định về kinh

doanh trong thế giới thực đều được áp dụng cho môi trường Internet, nhưng

những quy định cơ bản nói chung vẫn có giá trị. Có thể nói rằng Luật CNTT –

TT, Luật giao dịch điện tử, Luật thương mại sửa đổi, Luật dân sự sửa đổi và

nghị định Thương mại điện tử ra đời năm 2006, Pháp lệnh quảng cáo năm

2001 và nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh này ban hành năm 2003 là

một bước tiến rất lớn của Pháp luật Việt Nam về kinh doanh trên Internet.

Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa thực sự ấn tượng.

Vấn đề liên quan đến Email – Marketing hiện nay rất nổi cộm ở Việt

Nam, nó gây ra sự khó chịu cho rất nhiều người sử dụng email. Tại một số

nước tiên tiến như Anh, Úc, Mỹ... do sớm nhận thấy những tác hại của thư rác

đã ban hành các dự luật, chỉ thị cấm Doanh nghiệp gửi emai tới người nhận cá

nhân mà không có sự cho phép của họ hay đưa ra các khung hình phạt nặng

để nghiêm trị đối với những kẻ gửi thư rác. Điều 70 của Luật Công nghệ

thông tin Việt Nam năm 2006 có quy định: “Tổ chức, cá nhân không được

che giấu tên của mình hoặc giả mạo tên của tổ chức, cá nhân khác khi gửi

thông tin trên môi trường mạng. Tổ chức, cá nhân gửi thông tin quảng cáo

trên môi trường mạng phải bảo đảm cho người tiêu dùng khả năng từ chối

nhận thông tin quảng cáo. Tổ chức, cá nhân không được tiếp tục gửi thông tin

quảng cáo trên môi trường mạng đến người tiêu dùng nếu người tiêu dùng đó

thông báo không đồng ý nhận thông tin quảng cáo”. Tuy nhiên lại không quy

định rõ hình thức xử phạt khi có vi phạm. Trong thực tế hàng ngày chúng ta

nhận được rất nhiều thư rác không hề có sự xin phép người nhận cũng như

không thiết kế chức năng cho phép người nhận từ chối nhận thư. Một vài

công ty lịch sự thì có thêm dòng “ xin lỗi quý vị nếu thư này làm phiền quý

vị”. Chính vì vậy đã có ý kiến rằng phải ban hành luật chống Spam.

69

Những quy định về Quảng cáo thương mại trong Nghị định quy định

chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo số 24/2003/NĐ-CP cũng cần phải xem

xét và sửa đổi. Điển hình là điều 19 quy định các doanh nghiệp muốn đăng

quảng cáo trên mạng Internet phải gửi sản phẩm quảng cáo lên Bộ VH- TT

trước khi thực hiện quảng cáo ít nhất 10 ngày làm việc; và trong thời hạn 5

ngày làm việc kể từ ngày nhận được sản phẩm quảng cáo, nếu Bộ VH- TT

hoặc Sở VH- TT không đồng ý với sản phẩm quảng cáo thì phải trả lời bằng

văn bản nêu rõ lý do. Quá thời hạn trên mà không có văn bản trả lời thì đơn vị

được thực hiện sản phẩm quảng cáo mà mình đã gửi. Bản dự thảo cũng nêu rõ

quy định này chỉ áp dụng đối với các công ty xin phép cung cấp thông tin trên

mạng, không áp dụng đối với các Web site của các tờ báo, do những cơ quan

này đã chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của Luật báo chí. Một mặt biện pháp

này giúp đảm bảo an ninh, an toàn và tránh những thông tin sai lệch được

truyền tải trên Internet, mặt khác nó cản trở việc phát triển quảng cáo trên

mạng, đi ngược lại chủ trương phát triển TMĐT và gây khó khăn cho chính

các nhà quản lý. Việc quy định tất cả các quảng cáo trên Internet phải được sự

cho phép của Bộ Văn hoá- Thông tin sẽ nảy sinh nhu cầu phải thành lập một

bộ máy chuyên theo dõi quảng cáo không có giấy phép. Đây là điều gây tốn

kém không cần thiết và thực tế là không làm nổi. Thứ hai, liệu Bộ VH- TT có

đảm bảo được rằng, sau khi ký xác nhận cho phép đăng tải quảng cáo trên

Internet, nội dung đó không bị sai lệch. Chẳng hạn có một hacker tấn công

Web site nào đó và làm sai lệch thông tin quảng cáo trên Internet thì ai sẽ là

người chịu trách nhiệm.

Trong Nghị định nêu rõ: Sản phẩm quảng cáo thực hiện trên Internet

do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được phép cung cấp dịch

vụ thông tin Internet chịu trách nhiệm. Nhà quản lý chỉ nên dừng lại ở quy

định này là đủ. Bởi vì các nhà quản lý Web site khi xin phép đưa thông tin lên

70

mạng đã phải cam kết chịu trách nhiệm với những gì đăng tải trên trang Web

của họ, việc quy đinh quảng cáo trên Web site phải xin phép có thể gây ra tâm

lý ngần ngại thực hiện việc quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp.

Vấn đề tính an toàn, bảo vệ số liệu và quyền riêng tư cá nhân: Hiện tại

ở Việt Nam vẫn chưa hề có đạo luật nào điều chỉnh về việc xử lý dữ liệu và

thông tin cá nhân, ngoại trừ một điều luật chung trong điều 34 Luật dân sự và

điều 21 về thu thập và xử lý thông tin cá nhân trong môi trường mạng của

Luật Công nghệ thông tin năm 2006, và gần đây là nghị định số 63/2007/NĐ-

CP về xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực CN-TT. Những diều luật

này nêu rõ việc thu thập, lưu giữ, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân của một

cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó, trừ phi cơ quan có thẩm quyền

có quyết định khác theo quy định của pháp luật. Một nhà kinh doanh trên

Internet (e- Vendor) không phải là một “cơ quan có thẩm quyền” (theo ý

nghĩa được nêu trong điều 34, Luật Dân Sự), do đó nhà kinh doanh phải được

sự đồng ý của các khách hàng mà nhà kinh doanh đó thu thập, lưu giữ và

cung cấp các thông tin cá nhân của họ. Tuy nhiên, nếu thông tin được lưu trữ

trên một Web site có tên miền “.vn”, việc lưu trữ và phân phối thông tin sẽ

chịu sự quản lý của Bộ Văn hoá- Thông tin. Những vi phạm trong việc thu

thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường

mạng mà không được sự đồng ý của người đó sẽ bị phạt theo quy định tại

nghị định 63/2007/NĐ-CP, mức xử phạt là từ 500.000 -2.000.000 đồng. Có

thể nói việc ra đời nghị định 63/2007/NĐ-CP có ý nghĩa rất lớn trong hướng

dẫn xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Nhưng

mức xử phạt nói chung còn rất nhẹ, chưa có nhiều tác dụng răn đe.

Vấn đề tên miền: Tên miền được coi như nhãn hiệu thương mại ở trên

mạng của doanh nghiệp. Theo điều 6 của Quy chế quản lý và cấp giấy phép

cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet ngày 10/10/2002

71

của Bộ Văn hoá- Thông tin thì các cơ quan tổ chức muốn được cấp giấy phép

thành lập trang Web hoặc đưa thông tin lên mạng phải có địa chỉ tên miền

hợp lệ. Cũng giống như các doanh nghiệp trên thế giới, các doanh nghiệp Việt

Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với các vấn đề rắc rối liên quan đến tên

miền như tình trạng tên công ty hoặc sản phẩm của công ty vốn có uy tín trên

thị trường đã bị kẻ khác chiếm mất. Do việc đăng ký tên miền theo nguyên tắc

ai đăng ký trước thì người đó được quyền sở hữu nên các doanh nghiệp này

buộc phải mua lại với cái giá cao hơn rất nhiều so với giá thực phải chi trả

cho việc đăng ký một tên miền. Chẳng hạn như một khách sạn ở thành phố

Hồ Chí Minh đã phải bỏ tới 3000 USD để mua lại tên của mình, trong khi các

chủ sở hữu chỉ phải trả từ 40 đến 50 USD tiền đăng ký và cũng ngần ấy số

tiền duy trì tên miền trong một năm. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức chưa hề

đưa trang Web của mình lên mạng nhưng ở trên mạng đã tồn tại một trang

Web mạo danh doanh nghiệp. Vấn đề là các tổ chức, cá nhân “đánh cắp” tên

miền có thể lợi dụng trang Web mang tên miền của một doanh nghiệp để thu

lợi cho mình mà không được sự cho phép của doanh nghiệp hoặc tồi tệ hơn là

đưa các thông tin gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.

Hiện tượng bị “đánh cắp” tên miền nói trên chỉ xuất hiện đối với các

doanh nghiệp đăng ký tên miền quốc tế hay còn gọi là các tên miền dùng

chung như: .com, .net, .org. Các tên miền này không thuộc phạm vi quản lý

của một quốc gia nào, mà do công ty tư nhân của Mỹ kinh doanh. Chính sách

của tên miền dùng chung là đăng ký tự do, không có chính sách quản lý nên ai

đăng ký trước thì sở hữu trước. Các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý đến

tình trạng này để có biện pháp đăng kí, bảo vệ tên miền của doanh nghiệp

mình một cách hợp lý.

72

Trong chương 2 đã trình bày những điều kiện cơ bản cần có để có thể

áp dụng Marketing qua Internet và cho phép khẳng định rằng Việt Nam đã

hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để có thể áp dụng thành công hoạt động

này. Tuy nhiên, thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam cũng

cho thấy trình độ ứng dụng Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua

Internet nói riêng tại các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Để hoạt động này

thực sự hiệu quả đối với các doanh nghiệp, chương 3 sẽ đề xuất một số giải

pháp mang tính chất gợi ý đối với Chính phủ trong điều hành chính sách vĩ

mô và đối với các doanh nghiệp trong xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên

làm Marketing và trong việc sử dụng các công cụ của Marketing qua Internet

một cách hiệu quả.

73

Chƣơng 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN MARKETING QUA INTERNET

TẠI VIỆT NAM

3.1.1. Định hƣớng của Nhà nƣớc

Để bắt nhịp với xu thế chung của thời đại, một kế hoạch tổng thể phát

triển TMĐT đến năm 2010 kèm lộ trình thực hiện đã được Thủ tướng chính

phủ phê duyệt trong Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 với

quan điểm: Phát triển thương mại điện tử góp phần thúc đẩy thương mại và

nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập

ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhà nước đóng vai trò tạo lập

môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi nhằm thu hút công nghệ

tiên tiến và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng Thương mại điện tử, cung

cấp các hoạt động hỗ trợ thương mại điện tử. Phát triển thương mại điện tử

gắn kết chặt chẽ với việc ứng dụng và phát triển Công nghệ thông tin và

truyền thông.

Một số mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2006-2010 cũng được đề ra:

Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch thương mại

điện tử loại hình “doanh nghiệp với doanh nghiệp”. Khoảng 80% doanh

nghiệp có quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của Thương mại điện tử và tiến

hành giao dịch Thương mại điện tử loại hình “doanh nghiệp với người tiêu

dùng” hoặc “doanh nghiệp với doanh nghiệp”. Khoảng 10% hộ gia đình tiến

hành giao dịch Thương mại điện tử loại hình “ doanh nghiệp với người tiêu

dùng” hoặc “ người tiêu dùng với người tiêu dùng”[4].

74

Riêng với lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, cơ sở để thực hiện

Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng, Chính phủ

cũng đã ban hành Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 8/2/2002 về định

hướng phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 2005-2010 với mục tiêu đến

năm 2010: “ công nghệ thông tin Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực,

được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực; công nghiệp công nghệ thông tin

trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, có tỷ trọng đóng

góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng. Đồng thời, mạng thông tin quốc gia

phủ trên khắp cả nước với thông lượng lớn, tốc dodọ và chất lượng cao, giá rẻ.

Tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình trên thế giới”.

Với định hướng trên, Việt Nam phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công

nghệ thông tin trung bình hàng năm khoảng 20-25%, tạo ra giá trị sản lượng

phần mềm khoảng 500 triệu USD/năm, phấn đấu đào tạo 25.000 chuyên gia

về công nghệ thông tin trình độ cao và lập trình viên chuyên nghiệp thông

thạo ngoại ngữ để phục vụ cho việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông

tin. Các chính sách được ban hành nhằm tạo điều kiện cho sự ứng dụng, phát

triển Marketing qua Internet và thương mại điện tử bao gồm Pháp lệnh Bưu

chính viễn thông, Nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính Phủ

về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet… Như vậy có thể thấy Việt

Nam đang gấp rút chuẩn bị để theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách

mạng Công nghệ thông tin thế giới. Những đường lối, chính sách ưu ái phát

triển Công nghệ thông tin và Thương mại điện tử được ban hành đã và đang

tỏ rõ tác dụng tích cực trong thực tế áp dụng. Số lượng thuê bao Internet tăng

trưởng ngoạn mục, số lượng website doanh nghiệp không ngừng tăng lên

hàng ngày là những minh chứng hùng hồn.

Đối với hoạt động Marketing qua Internet, vì là khái niệm rất mới mẻ

nên chúng ta không thấy được những quy định chi tiết trong các Quyết định

75

của Chính phủ. Tuy nhiên, những chính sách ưu tiên phát triển Thương Mại

điện tử và Công nghệ thông tin nói chung cũng sẽ tạo nhiều điều kiện và cơ

hội thuận lợi để phát triển hoạt động Marketing qua Internet nói riêng.

3.1.2. Một số xu hƣớng phát triển Marketing qua Internet

Theo thời gian, Marketing không ngừng thay đổi, phát triển, sự phát

triển đặc biệt mạnh mẽ trong giai đoạn bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay.

Theo Philip Kotler, chuyên gia hàng đầu về Marketing thì Marketing trong

tương lai gần sẽ thay đổi theo sáu xu hướng chính trên phạm vi toàn cầu, đó là:

Từ lối tư duy thiết lập giao dịch chuyển sang lối tư duy thiết lập quan

hệ: Mối quan hệ bền chặt với khách hàng ngày càng trở lên quan trọng, trong

nhiều trường hợp chi phí tìm kiếm các khách hàng mới tốn kém hơn rất nhiều

chi phí cho việc gìn giữ những khách hàng đã có. Vì vậy thay vì tìm kiếm

những khách hàng để chỉ thực hiện được giao dịch một lần, nhiều doanh

nghiệp đã đầu tư vào việc xây dựng quan hệ thân thiết với khách hàng hiện tại

nhằm biến họ trở thành những khách hàng lâu dài, thường xuyên của doanh

nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet tạo ra thêm nhiều phương

tiện để gắn kết giữa khách hàng và doanh nghiệp như E-mail, Forum, giải đáp

khiếu nại trực tuyến…

Từ marketing sản phẩm chuyển sang marketing dịch vụ và kinh

nghiệm: Lĩnh vực dịch vụ ngày càng phát triển thể hiện ở tỷ trọng của nó

trong thương mại quốc tế ngày càng tăng lên. Mặc dù là hàng hóa vô hình

nhưng lĩnh vực dịch vụ cũng cần sự đầu tư thích đáng để tuyên truyền, quảng

bá đến người tiêu dùng và xây dựng hình ảnh của hãng cung cấp.

76

Từ một doanh nghiệp tự mình tìm cách đáp ứng nhu cầu khách hàng

thành một doanh nghiệp cùng với khách hàng tìm ra cách đáp ứng nhu cầu

của họ: Đây là xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của Marketing. Một

trong những nguyên lý cơ bản của Marketing hiện đại chính là bán cái khách

hàng cần chứ không phải bán cái mà doanh nghiệp có. Trong những năm sắp

tới, Marketing sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Từ chỗ một mình doanh

nghiệp chủ động tìm cách nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, doanh

nghiệp trong tương lai nhờ mối quan hệ thân thiết hơn với khách hàng sẽ cùng

khách hàng tìm ra cách thức đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất, đem

đến sự thỏa mãn và hài lòng tối đa cho khách hàng trên tinh thần hợp tác đôi

bên cùng có lợi.

Từ các phương tiện truyền thông độc lập thành một hệ thống truyền

thông hợp nhất: Do sự phát triển ngày càng phong phú, đa dạng của các kênh

thông tin, sự cập nhật thông tin liên tục nhờ công nghệ truyền thông hiện đại

khiến người tiêu dùng ngày nay dễ dàng có được thông tin về sản phẩm, dịch

vụ mà không tốn kém nhiều chi phí cho việc thu thập, tìm kiếm. Chính vì vậy

chiến dịch truyền thông của doanh nghiệp sẽ được thực hiện cùng lúc hoặc

luân phiên trên nhiều kênh thông tin khác nhau tạo thành một hệ thống truyền

thông hợp nhất thay vì các phương tiện truyền thông độc lập như trước kia.

Các phương tiện truyền tin hiện đại như radio, vô tuyến, Internet, điện thoại di

động, cáp, vệ tinh… được huy động tối đa khi thực hiện chiến dịch truyền

thông hỗn hợp.

Từ truyền thông theo phương thức truyền thống chuyển sang truyền

thông online: Tryền thông trên báo, tạo chí, trên truyền thanh và trên truyền

hình sẽ tiếp tục là hướng đi chủ đạo của tiếp thị, nhưng chi tiêu cho các

phương tiện truyền thông mới được đánh giá sẽ có bước tiến nhảy vọt khi

77

các nhà quảng cáo dần chuyển hướng đầu tư của mình sang internet, điện

thoại di động cùng nhiều hướng đi công nghệ mới khác. Hãng Veronis

Suhler Stevenson dự đoán ngành công nghiệp quảng cáo trực tuyến, quảng

cáo trên điện thoại di động sẽ tăng trưởng trung bình 23% từ năm 2006 tới

năm 2011, trong khi quảng cáo truyền thống chỉ duy trì tỷ lệ tăng trưởng

hàng năm xung quanh mức 1%.

Từ “chuỗi cung ứng” (supply chains) thành “chuỗi nhu cầu” (demand

chains): xu hướng này thống nhất với xu hướng kết hợp giữa doanh nghiệp và

khách hàng nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng và xu hướng

chuyển từ lối tư duy thiết lập giao dịch sang lối tư duy thiết lập quan hệ.

Từ sáu xu hướng của Marketing trong tương lai theo Philip Kotler,

chúng ta có thể thấy hai điểm nổi bật: Marketing sẽ diễn ra theo chiều hướng

tương tác sâu giữa doanh nghiệp và khách hàng nhằm thiết lập những quan hệ

thân thiết và gần gũi hơn để có thể cùng khách hàng tìm cách đáp ứng nhu cầu

của họ. Điều nổi bật thứ hai là vai trò của công nghệ Internet trong việc thực

hiện Marketing.

Việt Nam không nằm ngoài sáu xu hướng phát triển kể trên. Tuy nhiên,

Marketing tại nước ta chưa có lịch sử phát triển lâu dài, vì vậy phương hướng

phát triển Marketing trong thời gian tới sẽ là sự kết hợp giữa những chiến

lược đào tạo, tuyên truyền và thực hiện ở tầm vĩ mô với những xu thế cụ thể ở

cấp vi mô. Dưới đây sẽ trình bày một số xu hướng phát triển của Marketing

qua Internet tại Việt Nam trong những năm tới:

78

3.1.1.1. Tăng cƣờng đào tạo về Thƣơng mại điện tử (TMĐT) nói chung và

Marketing qua Internet nói riêng

Tăng cường đào tạo về Thương mại điện tử là chủ trương của Chính

phủ nhằm chuẩn bị nhân lực về Thương mại điện tử cho công cuộc hội nhập

kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam ra

nhập thành công WTO. Trong kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT đến năm

2010 kèm lộ trình thực hiện đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt nhấn

mạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn lực cho TMĐT có vị trí, ý nghĩa

đặc biệt quan trọng. Mặt khác, theo quyết định 191/2005/QĐ-TTg ban hành

ngày 29/7/2005 phê duyệt đề án “ Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục

vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010” cũng đề ra mục tiêu: “Hỗ trợ

doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng cơ sở

dữ liệu về thông tin kinh tế, ứng dụng công nghệ thông tin để tăng hiệu quả

sản xuất, kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc

tế; góp phần đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị trường công nghiệp

công nghệ thông tin; phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [14].

Năm 2007, Chính phủ đã chi 18,5 tỷ đồng kinh phí hoạt động cho đề án này.

Ngoài những chiến lược hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT về

phía Chính phủ, bản thân các doanh nghiệp cũng đang ngày càng quan tâm

đến vấn đề này thể hiện ở cung - cầu đào tạo về TMĐT trong những năm gần

đây tăng lên rõ rệt: Các chương trình đào tạo về CNTT và TMĐT không chỉ

tăng về số lượng mà còn cả mặt chất lượng. Chất lượng tài liệu, giáo trình và

trình độ giảng viên cũng đã được nâng lên một bước. Với sự phổ biến ngày

càng rộng rãi của Internet, các tài liệu trong lĩnh vực chủ yếu được thu thập,

biên soạn và cập nhật qua mạng từ các nguồn của nước ngoài. Lượng giảng

viên có trình độ được đào tạo chính thức về CNTT và TMĐT trong và ngoài

79

nước cũng đang tăng lên. Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng có bước

chuyển biến rõ nét. Nhu cầu về đào tạo theo đơn đặt hàng và đào tạo trực

tuyến tăng mạnh: các khoá đào tạo theo đơn đặt hàng chiếm 37% và đào tạo

trực tuyến chiếm 9% trong tổng số các khoá đào tạo theo kết quả điều tra [7].

Chất lượng đào tạo cũng được nâng lên một bước khi một số khoá học được

đào tạo bằng tiếng Anh và có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài.

3.1.1.2. Tăng cƣờng sử dụng Quảng cáo trực tuyến

Trong các công cụ của Marketing qua Internet thì quảng cáo là công cụ

được dùng nhiều nhất tới thời điểm hiện nay và sẽ tiếp tục được sử dụng

nhiều hơn trong tương lai. Cùng với cộng đồng người sử dụng tăng lên nhanh

chóng, các công nghệ quảng cáo mới ra đời sẽ đưa quảng cáo trực tuyến trở

thành một trong những điểm nóng của ngành quảng cáo. Với tỷ lệ phát triển

30% và sẽ còn tăng mạnh, cả Jupiter và Forrester đều dự đoán ngân sách cho

quảng cáo trực tuyến có thể tăng tới 20 - 26 tỷ USD vào năm 2010.

Ở Việt Nam, mặc dù www.24h.com.vn , www.dantri.com.vn ,

www.vnexpress.net đang đi những bước tiên phong ấn tượng, chúng ta vẫn

chưa có một giải pháp quảng cáo đột phá nào đáng kể. Thị trường quảng cáo

trực tuyến còn rất nhỏ, chỉ chiếm xấp xỉ 1% tổng số tiền chi cho quảng cáo

nói chung [13]. Trong bối cảnh đó, đa phần các công ty đều đang loay hoay

tìm giải pháp do doanh thu chính của các dịch vụ trực tuyến vẫn là quảng cáo.

Vì vậy nhiều chuyên gia về Marketing và Quảng cáo trực tuyến cho rằng

không lâu nữa sẽ có những giải pháp vượt trội để Internet phát huy được ưu

thế so với truyền hình và báo giấy. Quảng cáo trực tuyến cũng được cho là

một trong những xu hướng chính của Marketing qua Internet tại Việt Nam

năm 2008.

80

3.1.1.3. Sử dụng tích cực PR trong xây dựng Thƣơng hiệu

Đối với các công ty nhỏ không có ngân quỹ tiếp thị dư giả, thì việc thực

hiện những chiến dịch PR (quan hệ công chúng) luôn là phương thức hiệu quả

cả về mặt tài chính lẫn việc khai phá thị trường cũng như việc quảng bá

thương hiệu của công ty. Trên thế giới, PR cũng đang nổi lên như một ngôi

sao trong số các công cụ của Marketing, nhiều chuyên gia còn cho rằng PR

xứng đáng được tách ra làm một lĩnh vực riêng biệt so với Marketing.

Tại Việt Nam trong hai năm vừa qua, với sự phát triển rầm rộ của thị

trường chứng khoán, đã đánh dấu những chuyển biến tích cực trong việc sử

dụng công cụ PR. Nhiều doanh nghiệp để tạo dựng tiếng tăm và thu hút nhà

đầu tư, trước khi niêm yết trên thị trường chứng khoán đã sử dụng công cụ PR

giới thiệu hoạt động của doanh nghiệp đến với công chúng. Có thể xem đây là

một trong những cơ hội để mang hình ảnh của doanh nghiệp đến với nhà đầu

tư và công chúng góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp.

Hoạt động PR được dự đoán tiếp tục là công cụ được tích cực sử dụng

trong nhũng năm tới nhằm làm cho doanh nghiệp hướng tới, củng cố niềm tin

khách hàng, giúp doanh nghiệp xử lý khi gặp khủng hoảng. Đặc biệt, nếu biết

cách khai thác đúng thời điểm thì trong một số tình huống hoạt động PR sẽ

góp phần xây dựng hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp đối với công chúng

đạt đạt hiệu quả cao.

3.1.1.4. Nhiều công cụ Internet Marketing mới ra đời trên cơ sở sự phát

triển của Internet và những ứng dụng của nó

Nếu như trước kia, khi nói đến Marketing qua Internet người ta chỉ

nghĩ đến việc tạo ra một website giới thiệu về công ty và các hình thức gửi

81

thư quảng cáo (Spam); thì ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của Internet kèm

theo những ứng dụng mà nó mang đến như Blog, forum, các công cụ tìm

kiếm, công cụ phân loại… Thì đồng thời các công cụ mới của Internet

Marketing trên cở sở các ứng dụng đó cũng ra đời. Đó chính là Blog

Marketing, Forum Marketing, Marketing qua công cụ tìm kiếm…. và còn rất

nhiều, rất nhiều các công cụ chưa được biết tới. Có thể nói rằng, bất cứ một

ứng dụng mới nào của Internet cũng có thể là mảnh đất màu mỡ để áp dụng

Marketing qua Internet.

Ở Việt Nam, với cộng đồng bloger lên đến 4 triệu thành viên vào năm

2007 đang thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp. Blog Marketing cũng được

coi là một trong những tâm điểm gây chú ý của Marketing trong những năm

sắp tới.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẰNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET

3.2.1. Nhóm giải pháp về phía Chính phủ

3.2.1.1. Phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý

Với sự ra đời của Luật CNTT năm 2006, Luật Thương mại sửa đổi năm

2005, Bộ luật giao dịch điện tử 2006, Bộ luật dân sự sửa đổi và Nghị định

Thương mại điện tử có hiệu lực và nhiều văn bản dưới luật khác liên quan đến

lĩnh vực Công nghệ thông tin và Thương mại điện tử có thể nói hành lang

pháp lý cho hoạt động Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua

Internet nói riêng đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên, vấn đề cấp bách hiện

nay là Chính phủ cần có những biện pháp tích cực hơn nữa để sớm đưa những

văn bản pháp quy điều chỉnh lĩnh vực Thương mại điện tử vào cuộc sống

nhằm tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc cho lĩnh vực này.

82

Mặt khác, cần rà soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật

liên quan nhằm bảo đảm toàn bộ hệ thống pháp luật được định hướng chung

là hỗ trợ, tạo điều kiện cho thương mại điện tử trong đó có hoạt động

Marketing qua Internet phát triển. Xây dựng cơ chế, bộ máy hữu hiệu để thực

thi việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, bí mật riêng tư

và để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong Thương mại điện tử theo quy

định của Pháp luật hiện hành

Riêng đối với Marketing qua Internet, mà cụ thể là hoạt động quảng

cáo, tên miền, e-mail tiếp thị không được phép, và các vấn đề bảo vệ số liệu

và quyền riêng tư trên mạng cần được xem xét để xây dựng các quy phạm

pháp luật phù hợp. Cụ thể: Đối với hoạt động quảng cáo, nên yêu cầu các

doanh nghiệp khi đăng kí tên miền làm luôn bước đăng kí theo đúng nội dung

mà quy chế yêu cầu. Một cách khác đơn giản hơn, đó là yêu cầu các đơn vị

cung cấp dịch vụ Internet phải chịu trách nhiệm về các trang web mà họ

truyền tải. Chính những cơ quan này sẽ thay mặt cơ quản quản lý đảm bảo nội

dung họ đưa lên Internet là phù hợp với các quy định của pháp luật, nếu

không họ sẽ là người chịu trách nhiệm trước tiên.

Đối với trường hợp gửi e-mail quảng cáo không được phép gây khó

chịu cho người sử dụng e-mail, nên quy định các hình phạt cụ thể.

Việc vi phạm về quyền riêng tư đối với các thông tin cá nhân trên

Internet mức phạt hiện nay theo Nghị định63/2007 là quá thấp (từ 500.000

VNĐ -2.000.000 VNĐ), nên quy định chi tiết hơn, đối với một số hành động

vi phạm gây thiệt hại về kinh tế hoặc danh dự cá nhân, nên có mức hình phạt

cao hơn.

83

3.2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ

Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng phát

triển trên nền tảng hạ tầng cơ sở công nghệ bởi các hoạt động này diễn ra chủ

yếu trên môi trường Internet, do đó để phát triển Thương mại điện tử và

Marketing qua Internet điều kiện tiên quyết là một hạ tầng cơ sở công nghệ

thông tin vững chắc.

Thực tế hiện nay cho thấy tại Việt Nam, lĩnh vực công nghệ thông tin

mặc dù đã thu hút được sự quan tâm của các tầng lớp xã hội nhưng do hạn

chế về cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật mà cho đến nay, lĩnh vực này vẫn đang

gặp phải những khó khăn nhất định làm cản trở tới sự phát triển của Thương

mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng. Có thể kể đến một

số khó khăn như: cước viễn thông, cước truy cập Internet còn cao so với các

nước trong khu vực và mặt bằng chung của thế giới, mặt khác do cơ sở hạ

tầng yếu kém nên dù các doanh nghiệp muốn nâng cấp công nghệ cũng khó

có thể thực hiện được.

Vì thế Nhà nước cần quan tâm triển khai thực hiện những chính sách về

công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Những chính sách này phải được triển

khai thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương để theo kịp sự phát triển

của hoạt động công nghệ thông tin tại Việt Nam với phương châm: coi công

nghệ thông tin là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên

niên kỷ, từng bước hình thành một xã hội thông tin, coi công nghiệp công

nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn được nhà nước ưu tiên hỗ trợ và

khuyến khích phát triển, ưu tiên phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông

tạo cơ sở cho các ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của toàn

xã hội.

84

Nhà nước cũng cần có chính sách đẩy mạnh ứng dụng Internet trong

các cơ quan hành chính, doanh nghiệp và các cá nhân. Các biện pháp đưa ra

bao gồm:

- Điều chỉnh mức cước thuê bao điện thoại và thuê bao Internet. Đây là

một trong các nhân tố cản trở việc đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin và

Marketing qua Internet tại các doanh nghiệp. Hơn nữa, hạ tầng viễn thông

chưa tốt, hệ thống cáp thông tin chưa vươn tới các vùng sâu, vùng xa khiến

người dân khó có cơ hội tiếp cận Internet; do đó ít có cơ hội tiếp cận với hình

thức giao dịch trên mạng, trong khi số người sử dụng Internet là một trong

những tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia thương mại điện tử ở mỗi

quốc gia và là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch

Marketing qua Internet.

- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông và

kinh doanh Internet. Nhờ có Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp

dịch vụ Internet cho phép nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ Internet

nên đến thời điểm tháng 3/2008 cả nước có 9 nhà cung cáp dịch vụ trong lĩnh

vực này. Tuy nhiên tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) với

những lợi thế về cơ sở hạ tầng và những ưu đãi từ phía ngành vẫn chiếm thị

phần lớn nhất, chi phối giá dịch vụ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa những nhà

cung cấp. Do vậy việc ban hành những quy định cụ thể nhằm tạo ra sự cạnh

tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, từ đó giảm mức cước viễn thông là

cần thiết.

- Nhà nước cần xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm đưa dịch vụ Internet

đến các vùng sâu, vùng xa nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở những

vùng này có thể ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Để có được

điều này việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghệ là không thể thiếu.

85

3.2.1.3. Đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về Thƣơng mại điện tử

Có một chính sách hợp lý về đào tạo, tuyên truyền và phổ cập về

Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet là cần thiết bởi

nguồn lực là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi trường hợp. Tuy

nhiên việc phát triển nguồn lực phải đồng bộ và cân đối trên cơ sở huy động

sự đóng góp nguồn lực của toàn xã hội. Trước hết, cần tập trung đào tạo

nguồn nhân lực và hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng Thương mại điện tử giữa các

doanh nghiệp lớn. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ trong giai đoạn đầu đối

với các chương trình, mục tiêu cụ thể.

Trong giai đoạn 2006-2010, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nhằm

đẩy mạnh việc đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp thuộc các ngành kinh tế và luật, đồng thời đào tạo theo chương

trình đại cương tại các trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành thương mại,

quản trị kinh doanh, đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước làm công tác hoạch

đính chính sách và thực thi pháp luật về thương mại điện tử ở Trung ương và

các tỉnh, thành phố. Có một thực tế là hầu hết các trường kinh tế tại Việt Nam

đều giảng dạy môn Marketing nhưng hầu như chưa có trường nào đi sâu về

lĩnh vực Marketing điện tử hay Marketing qua Internet. Riêng đối với E-

Marketing và Marketing qua Internet thì những kiến thức về Marketing là

chưa đủ, sinh viên cần phải được bổ sung thêm những kiến thức về công nghệ

thông tin cũng như Thương mại điện tử bởi nền tảng của E-Marketing và

Marketing qua Internet chính là hạ tầng công nghệ thông tin. Vì vậy việc đào

tạo nguồn nhân lực phải được chú trọng không chỉ nghiệp vụ Marketing mà

cả về lĩnh vực công nghệ.

Chính phủ cũng cần có những chính sách rõ ràng, cụ thể nhằm khuyến

khích các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ đào tạo về thương mại

điện tử. Hiện nay các dịch vụ đào tạo về Thương mại điện tử đều do các

86

Trường Đại học, cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp khối kinh tế cung cấp.

Việc đa dạng hóa các nhà cung cấp dịch vụ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh sẽ

giúp cải thiện chất lượng dịch vụ đào tạo và giảm chi phí đào tạo cho mỗi học

viên có nhu cầu trang bị kiến thức trong lĩnh vực Thương mại điện tử nói

chung và Marketing qua Internet nói riêng.

Phổ cập, tuyên truyền rộng rãi về Thương mại điện tử trong nhân dân,

trước hết cho cộng động doanh nghiệp, các cấp quản lý, các hiệp hội ngành

hàng cũng cần được chú trọng bởi phát triển nguồn nhân lực là việc làm của

toàn xã hội, nhà nước chỉ hỗ trợ trong giai đoạn đầu, sau đó chính các doanh

nghiệp là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực lâu dài cho

đất nước. Việc xây dựng đội ngũ nhân viên Marketing xuất phát từ chính nhu

cầu thực tế của doanh nghiệp bao giờ cũng có hiệu quả và tính bền vững lâu

dài hơn.

3.2.1.4. Xây dựng hệ thống an toàn thông tin trên mạng

Những hình thức tội phạm mới xuất hiện liên quan đến Internet và vấn

đề bảo mật thông tin trên Internet ngày càng nhiều và nguy hiểm do tính chất

nghiêm trọng của những thiệt hại mà nó gây ra cho nạn nhân và cho nền kinh

tế nói chung. Những hoạt động lừa đảo qua thư điện tử nhằm đánh cắp những

thông tin về tài khoản tín dụng của các cá nhân, các hình thức xâm nhập trái

phép vào hệ thống dữ liệu của các ngân hàng, các tổ chức để tiến hành những

giao dịch bất hợp pháp hoặc chỉnh sửa dữ liệu trái phép… ngày càng trở nên

báo động bởi tần xuất thường xuyên của những vụ việc. Việc phát tán các

phầm mềm hoặc các đoạn mã nguồn gây hại một cách cố ý cũng đang khiến

cộng đồng những người sử dụng Internet đau đầu. Tuy nhiên các văn bản

pháp lý hiện nay của Việt Nam chưa đề cập cụ thể đến loại tội phạm này và

hệ thống pháp luật quốc gia chưa đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động

87

ứng dụng Internet. So với các nước và lãnh thổ trong khu vực, Việt Nam đi

khá chậm trong xây dựng cơ sở pháp lý về giao dịch điện tử. Bộ Luật về Giao

dịch điện tử mới được ban hành năm 2006, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP

ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký

số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và chỉ thị số 03/2007/CT-BBCVT về tăng

cường đảm bảo an ninh trên Internet được ban hành ngày 23/02/2007; trong

khi đó Malaysia đã ban hành Luật chữ ký số năm 1997, Singapore ban hành

Luật Giao dịch điện tử năm 1998, Hàn Quốc có Luật chữ ký điện tử vào năm

1999 và sửa đổi vào năm 2001, Thái Lan và Nhật Bản cũng đã có các văn bản

pháp luật liên quan đến giao dịch điện tử vào năm 2001. Mặc dù vậy, việc ban

hành các văn bản pháp luật liên quan đến giao dịch điện tử và vấn đề bảo đảm

an ninh trên mạng cũng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường

dịch vụ chứng thực điện tử qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số

trong các giao dịch điện tử và khung pháp lý đồng bộ cho việc đảm bảo an

toàn thông tin mạng. Yêu cầu hiện nay là phải sớm đưa những văn bản này

vào thực hiện nghiêm túc, tạo điều kiện cho việc phát triển Thương mại điện

tử và Marketing qua Internet tại Việt Nam.

Thực hiện tốt vấn đề an ninh mạng sẽ tạo điều kiện để Marketing qua

Internet tại Việt Nam phát triển lên một mức độ cao hơn, đó chính là: Thanh

toán trực tuyến.

3.1.2.5. Chủ động tham gia hợp tác quốc tế về lĩnh vực thƣơng mại điện

tử và Marketing qua Internet

Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia muốn phát triển

cần có sự hợp tácvới các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên toàn thế

giới. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề hợp tác quốc tế

là cần thiết để tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài về công nghệ và đào tạo

88

nguồn nhân lực cho việc phát triển thương mại điện tử bởi so với các nước

trên thế giới Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu. Trong kế hoạch tổng thể phát

triển thương mại điện tử giai đoạn 2005-2010 cũng ghi rõ: Phát triển công

nghệ hỗ trợ thương mại điện tử trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công

nghệ từ nước ngoài.

Vì vậy, một mặt Việt Nam cần chủ động tham gia hợp tác quốc tế mở

rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của mình, thống nhất các chuẩn về

công nghệ, hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, giải

quyết tranh chấp, an toàn trong các giao dịch thương mại sử dụng Internet;

mặt khác thông qua hợp tác quốc tế với lợi thế của nhưng người đi sau chúng

ta có thể học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước đi

trước về đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, chính sách, pháp luật…

Trong hợp tác đa phương, cần ưu tiên hợp tác với các tổ chức kinh tế

thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN và các tổ chức

chuyên trách thương mại của Liên hiệp quốc như UNCTAD, UNCITRAL,…;

tích cực tham gia các hiệp định song phương và đa phương liên quan đến

thương mại điện tử như: Luật chữ ký điện tử của UNCITRAL, Incoterms

2000, Công ước Hamburg 1978 … nhằm từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng

kỹ thuật và môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển Thương mại điện tử và

Marketing qua Internet.

3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp Việt Nam

Hiện nay, bên cạnh những nỗ lực của Chính Phủ nhằm xây dựng một

nền TMĐT phát triển vững chắc tại Việt Nam, thì vai trò của các doanh

nghiệp là rất lớn. TMĐT nói chung và Internet Marketing nói riêng đem đến

lợi ích trực tiếp cho các doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp cũng chính

89

là tác giả đồng thời là nhân vật chính trong „tác phẩm” TMĐT và Internet

Marketing. Các doanh nghiệp có thể tham khảo một số giải pháp dưới đây:

3.2.2.1. Thay đổi nhận thức về Marketing và Marketing qua Internet

Như đã phân tích ở các phần trước, hiện nay phần lớn doanh nghiệp

Việt Nam chưa nhận thấy hết vai trò quan trọng của hoạt động Marketing, và

đặc biệt hoạt động Marketing qua Internet trong thời đại ngày nay. Không chỉ

thiếu nhân viên làm Marketing chuyên nghiệp, bản thân nhận thức của doanh

nghiệp từ ban lãnh đạo cho đến nhân viên về vai trò của Marketing chưa cao.

Chính vì vậy việc thay đổi nhận thức của toàn thể cán bộ công nhân viên về

Marketing rất quan trọng và cần thiết mặc dù việc làm này không hề đơn giản.

Một số giải pháp mà doanh nghiệp Việt Nam cần làm ngay để có thể thay đổi

cách nhìn nhận về Marketing là:

Trước hết cần bắt đầu từ bộ phận lãnh đạo, bản thân các nhà lãnh đạo

doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu các kiến thức về Marketing từ đó nhận

thức được tầm quan trọng của Marketing và Marketing qua Internet trong thời

đại ngày nay và truyền niềm tin cho các nhân viên của mình.

Có chính sách tuyển dụng, đào tạo hợp lý bộ phận Marketing trong

doanh nghiệp. Tốt nhất là nên thành lập phòng Marketing độc lập với Phòng

kinh doanh.

Thúc đẩy sự liên kết giữa bộ phận Marketing và Kinh doanh bằng cách:

- Thường xuyên tổ chức họp giữa hai bộ phận MKT và bán hàng.

- Tạo điều kiện cho những người làm MKT và những người bán hàng

giao tiếp với nhau.

- Tổ chức những nhiệm vụ phối hợp và luân phiên công việc giữa nhân

viên MKT và nhân viên bán hàng.

- Phân công một người từ bộ phận MKT sang làm việc với lực lượng

90

bán hàng và giúp những người làm MKT hiểu được những vấn đề của bộ

phận bán hàng một cách tốt hơn.

- Bố trí bộ phận MKT và bộ phận bán hàng trong cùng một tòa nhà

hoặc cùng một khu vực để tối đa hóa sự phối hợp của họ.

- Đặt ra các chỉ tiêu về phân chia thu nhập và hệ thống khen thưởng.

- Xác định một cách cẩn thận các bước trong mô hình kết hợp giữa

Marketing và bán hàng.

- Cải tiến thông tin phản hồi từ lực lượng bán hàng

3.2.2.2. Lập kế hoạch Marketing qua Internet

Sau khi đã giải quyết xong vấn đề nhận thức về Marketing và

Marketing qua Internet, đièu quan trọng kế tiếp là lập kế hoạch cho hoạt động

Marketing qua Internet, dưới đây là những yếu tố cơ bản của một kế hoạch

marketing qua Internet:

Phân tích bên trong và bên ngoài: Có thể áp dụng phương pháp PEST và

SWOT để đánh giá các yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện

kế hoạch marketing cũng như các điểm mạnh và điểm yếu nội bộ doanh

nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần xem xét những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng

quan trọng trong kinh doanh trên Internet như sự chấp nhận về mặt pháp lý

của chữ ký điện tử, năng lực thanh toán trực tuyến của hệ thống ngân hàng.

Hơn nữa, cũng cần quan tâm tới năng lực của doanh nghiệp liên quan tới

marketing trực tuyến như năng lực của hệ thống và nhân viên, danh tiếng của

doanh nghiệp hoặc loại sản phẩm đặc biệt mà bạn cung cấp như phần mềm

hoặc hy máy ảnh số - những yếu tố sẽ hỗ trợ rất nhiều trong một thế giới kinh

doanh ảo.

91

Mục tiêu Internet marketing: Dù doanh nghiệp xây dựng kế hoạch marketing

qua Internet để thay thế hoặc bổ xung cho kế hoạch marketing chung, cần nêu

rõ và cụ thể các mục tiêu Internet marketing. Ví dụ, có thể đặt mục tiêu “3000

khách thăm trang web của doanh nghiệp trong 6 tháng tới”. Bằng cách đặt

mục tiêu cụ thể, doanh nghiệp mới có cơ sở để đánh giá quá trình thực hiện

sau này. Một vài doanh nghiệp cũng đặt ra mục tiêu “doanh thu bán hàng”

trên mạng.

Chiến lược marketing qua Internet: Doanh nghiệp phải quyết định chiến lược

marketing để đạt mục tiêu đã định. Nên chọn một nhóm người dùng Internet

làm khách hàng hoặc khán giả mục tiêu. Ví dụ, một nhà cung cấp cơm văn

phòng qua trang web có thể chọn các nhân viên văn phòng làm khách hàng

mục tiêu. Sau đó, doanh nghiệp phải quyết định tạo ra sự khác biệt giữa sản

phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp với các nhà cung cấp khác. Nhà cung cấp

cơm văn phòng trên có thể chọn đặc tính “phục vụ ăn trưa theo yêu cầu” và

“chọn món qua trang web” để thể hiện tuyên bố định vị “món ăn khác nhau

cho các bữa khác nhau”. Nếu doanh nghiệp dùng các hoạt động marketing

trực tuyến để hỗ trợ cho hoạt động marketing chung thì cần bảo đảm nhất

quán các yếu tố trong chiến lược marketing, ví dụ như chiến lược định vị phải

phù hợp với chiến lược chung.

Các chiến thuật marketing qua Internet: Doanh nghiệp cần xác định cụ thể

các chiến thuật sẽ được sử dụng để phục vụ kế hoạch Marketing của mình. Về

cơ bản, các chiến thuật marketing mà doanh nghiệp áp dụng trên Internet

tương tự như các chiến thuật truyền thống nhưng theo cách khác. Trên

Internet, khách hàng có cơ hội tốt hơn để kiểm tra các đặc điểm kỹ thuật chi

tiết của sản phẩm cũng như so sánh giá cả. Tùy vào chiến lược của doanh

nghiệp, cũng có thể nghĩ tới việc cung cấp cho khách hàng sản phẩm với các

92

mức giá có thể mặc cả. Có rất nhiều lựa chọn các công cụ tương tác để thu hút

khách hàng như các banner tương tác cho phép khách hàng nhấn chuột vào để

xem chi tiết hơn, cung cấp thông tin có ích hấp dẫn người xem tới trang web

của doanh nghiệp... Tuy nhiên, đối với việc giao hàng, về cơ bản doanh

nghiệp vẫn phải giao hàng trực tiếp, trừ các sản phẩm đặc biệt có thể số hóa

như âm nhạc, sách, phần mềm hoặc ảnh số.

Do tính vô hình của hoạt động kinh doanh trên Internet nên những

chiến lược để phục vụ như con người, quy trình và chứng cứ hữu hình có vai

trò rất quan trọng để xây dựng lòng tin. Doanh nghiệp có thể sử dụng các ý

kiến bình luận hoặc xếp hạng của khách hàng về sản phẩm/dịch vụ, mô tả

cách thức cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng và sự hiện diện thực tế

của doanh nghiệp như văn phòng hoặc cửa hàng để hỗ trợ thông tin về sản

phẩm/dịch vụ.

Thực hiện: Doanh nghiệp cũng phải lập kế hoạch thực hiện trong đó nêu rõ ai

làm gì và khi nào. Ví dụ, nếu doanh nghiệp thuê người xây dựng trang web,

doanh nghiệp phải giám sát họ chặt chẽ và bảo đảm thời hạn. Sau cùng phải

đánh giá kết quả doanh nghiệp đã đạt được so với mục tiêu.

Đo lường hiệu quả của kế hoạch Marketing: Dưới đây là một số thước đo chủ

yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nói chung và hiệu quả của

các kế hoạch Marketing nói riêng:

Thước đo bán hàng: Có thể đánh giá hiệu quả của kế hoạch Marketing thông

qua tăng trưởng doanh thu, thị phần hay doanh thu từ sản phẩm mới.

Thước đo khả năng sẵn sàng mua hàng: Thông qua nhận định của khách hàng

về sản phẩm, tỷ lệ dùng thử hay tỷ lệ mua lại sản phẩm của khách hàng,

93

doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng sẵn sàng mua hàng của khách.

Khả năng này sẽ tăng lên khi doanh nghiệp thực hiện tốt một kế hoạch

Marketing.

Thước đo về sự hài lòng của khách hàng: Sự hài lòng, thỏa mãn của khách

hàng hay sự phàn nàn, chê bai cũng là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả của

chiến dịch Marketing đã thực hiện. Mục tiêu luôn là tăng tối đa sự thỏa mãn,

hài lòng của khách hàng và giữ lại được nhiều khách hàng hơn, giảm số lượng

khách hàng mất đi do sự không hài lòng.

Thước đo về phân phối: Thể hiện ở số lượng đại lý, lượng hàng lưu kho trung

bình, chu kỳ hết hàng, thu nhập từ phân phối, doanh số trung bình tại mỗi thời

điểm bán hàng…

Thước đo về truyền thông: Thể hiện qua nhận thức của khách hàng về thương

hiệu từ trước khi có những chiến dịch truyền thông và sau khi có các chiến

dịch truyền thông. Tỷ lệ tiếp cận hiệu quả và tỷ lệ phản hồi…

Thước đo nhãn hiệu: Thể hiện ở sức mạnh thương hiệu và tài sản thương hiệu.

Đo lường lực lượng bán hàng: Chất lượng của đội ngũ nhân viên chủ chốt, tỷ

lệ các nhân viên chủ chốt đạt được đề nghị mua hàng, chi phí cho mỗi lần

chào hàng, hỏi hàng, chi phí cho mỗi đồng bán hàng….

Mức đo giá cả và khả năng sinh lời: Thể hiện qua sự nhạy cảm của giá, mức

thay đổi bình quân, lợi nhuận biên, suất sinh lời, ROI, DCF…

3.2.2.3. Xây dựng Ngân sách cho hoạt động Internet Marketing

Hoạt động Marketing qua Internet rất tiết kiệm chi phí, tuy nhiên nó cũng

cần được dành cho một nguồn ngân sách hợp lý để duy trì các hoạt động

94

Marketing thường xuyên: quản trị website, gửi thư quảng cáo, thăm dò cho

khách hàng, duy trì hoạt động của Forum, đào tạo nhân viên Marketing… và

các hoạt động mang tính chiến dịch thích ứng với kế hoạch Marketing từng

giai đoạn như tăng cường đặt banner quảng cáo, viết bài PR, đăng từ khóa tìm

kiếm… Tất cả các chi phí đó phải được xác định tương đối chính xác ngay từ

đầu để doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu của mình mà vẫn đảm bảo

được tính hiệu quả và tiết kiệm.

Mặt khác doanh nghiệp nên dành cho bộ phận Marketing sự độc lập

nhất định trong việc quyết định các chiến lược Marketing từng thời điểm và

cách phân bổ ngân sách trong giới hạn cho phép cho các công cụ Marketing

cụ thể, điều này sẽ giúp phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo của bộ

phận Marketing và có thể đem lại hiệu quả bất ngờ cho doanh nghiệp.

3.2.2.4. Giải pháp đào tạo về Internet Marketing

Doanh nghiệp cần có chính sách tuyển dụng và đào tạo hợp lý nhân viên

Marketing, vì yếu tố con người rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực

Marketing – lĩnh vực cần sự năng động, sáng tạo hơn bao giờ hết. Để tạo ra

một đội ngũ nhân viên Marketing làm việc hiệu quả và chuyên nghiệp, doanh

nghiệp có thể phối hợp với nhà trường trong công tác đào tạo nguồn nhân lực

theo hình thức đặt hàng, thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ

cho nhân viên Marketing, có chính sách hỗ trợ đào tạo đối với nhân viên như

tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và kinh phí nếu nhân viên có nhu cầu học

thêm lên cao nhằm nâng cao chuyên môn.

95

3.2.2.4. Nhóm giải pháp về vận dụng các công cụ của Marketing qua Internet

 Xây dựng website doanh nghiệp

Trong thời kì công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, mỗi

doanh nghiệp cần có một website riêng. Tuỳ từng giai đoạn và mục tiêu cụ thể

trong giai đoạn đó mà website của doanh nghiệp có thể ở các mức độ khác

nhau. Giai đoạn đầu có thể chỉ đơn thuần giới thiệu thông tin về sản phẩm và

công ty, các giai đoạn sau sẽ nâng cấp để có thể đáp ứng được các nhu cầu

giao dịch cao hơn. Một số vấn đề doanh nghiệp cần chú ý khi xây dựng

website:

Một là: Xác định mục tiêu cho website của doanh nghiệp. Mục tiêu

này phải được xây dựng dựa trên việc phân tích các yếu tố như: doanh nghiệp

kinh doanh ngành nghề gì, khách hàng của doanh nghiệp là ai, đối thủ cạnh

tranh của doanh nghiệp như thế nào. Mục tiêu đặt ra càng rõ ràng thì kết quả

do website mang lại càng cao.

Hai là: Đặt tên miền cho website. Tên miền riêng khẳng định vị trí gúp

khách hàng dễ dàng tìm đến với website của doanh nghiệp. Việc đặt tên miền

rất quan trọng vì nó thường gắn liền với doanh nghiệp hay nhãn hiệu sản

phẩm nổi tiếng mà doanh nghiệp cung cấp. Tên miền nên ngắn gọn, dễ nhớ,

dễ đọc. Việc đăng ký tên miền cũng cần được lưu ý để tránh những tranh chấp

về tên miền. Đối với những doanh nghiệp xác định thị trường mục tiêu là thị

trường nội địa thì nên đăng ký các tên miền .vn để được Pháp luật Việt Nam

bảo vệ, đồng thời cũng khiến cho tốc độ truy cập website của doanh nghiệp

nhanh hơn do không phải đi đường vòng. Đối với những doanh nghiệp xác

96

định kinh doanh trên thị trường nước ngoài thì nên nhanh chóng đăng ký các

tên miền quốc tế để tránh có người khác đăng ký mất.

Ba là: Đầu tư thiết kế trang chủ. Trang chủ là trang được ghé thăm

nhiều nhất, chính vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đặc biệt khi tiến

hành xây dựng website riêng. Trang chủ phải đáp ứng được các yêu cầu: thể

hiện rõ ràng mục đích của website, xắp xếp khoa học để người truy cập dễ

dàng tìm được thứ mà họ cần một cách nhanh nhất. Trang chủ không cần phải

quá màu mè phức tạp hay có những minh họa tinh vi bởi người truy cập

thường bỏ qua những đồ họa như quảng cáo và tập trung vào những phần của

trang chủ trông có vẻ có ích hơn.

Bốn là: Rút ngắn thời gian tải xuống của website. Việc mất quá nhiều

thời gian để tải xuống một trang web dễ gây chán nản cho người truy cập. Vì

vậy nên hạn chế các file ảnh đặc biệt là ảnh động và thuê các gói dịch vụ

internet có tốc độ đường truyền lớn đối với trường hợp website có nhiều hình

ảnh.

Năm là: Tránh một số sai lầm mà các chủ sở hữu website hay mắc

phải, đó là:

Ý tưởng vụn vặt: Các doanh nghiệp thích đưa ra ý tưởng vụn vặt hoặc khó

hiểu với hy vọng không ai làm giống họ. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp

nhận một thực tế rằng nếu đó là ý tưởng hay nó sẽ nhanh chóng bị bắt chước.

Bắt chước: Một số khác thất bại vì lặp lại mô hình kinh doanh nổi tiếng nào

đó. Chẳng hạn, nhiều người hăm hở xây dựng website 1 triệu USD như của

Alex Tew nhưng đều không thể mời chào được quảng cáo.

97

Thiếu linh động: Các công ty mới thành lập lo ngại việc điều chỉnh kế hoạch

sẽ khiến họ đi trệch khỏi định hướng ban đầu. Nhưng họ cũng cần nhớ rằng

"khả năng thích nghi luôn là điểm nhấn cho thành công của mỗi doanh

nghiệp".

Tiền nào của nấy: Chuyên gia phát triển web giỏi sẽ tạo ra các sản phẩm tốt.

Thuê nhân công giá rẻ cũng là một "bí quyết" giúp doanh nghiệp nhanh chóng

thất bại.

Thiếu chuyên môn: Ai cũng có thể tự nhận là một chuyên gia và các công ty

thường thiếu thông tin cần thiết để đánh giá khả năng của người đó. Vì thế,

nên tham khảo ý kiến của ít nhất ba người khác nhau trước khi quyết định một

vấn đề.

Bỏ qua người sử dụng: Đây là sai lầm phổ biến của các công ty hoạt động

trên web. Họ xây dựng website nhưng không đứng ở vị trí của người sử dụng.

Họ háo hức hiện thực hóa những ý tưởng trong đầu mà không nhận ra chúng

có thực sự cần thiết hay không. Phát hành bản thử nghiệm là cách tốt nhất để

nâng cao khả năng tương tác với người dùng.

Chi quá đà: Nhiều người thất bại vì rót tiền vào những thứ không cần thiết.

Ví dụ, họ đầu tư hẳn một máy chủ IBM Xeon chuyên dụng trong khi thuê

hosting giá 20 USD cũng là quá đủ.

Cả tin: Do thiếu kinh nghiệm, không ít người tin tưởng cả những thư rác bày

kế "làm giàu không khó" hoặc tuyên bố có thông tin mật của đối thủ. Trên

thực tế, Internet là phương tiện tuyệt vời cho những kẻ lừa đảo và viễn cảnh

phất lên nhanh chóng thực ra lại đòi hỏi rất nhiều nỗ lực.

98

Thiếu lòng nhiệt huyết: Ai cũng có sai lầm, nhưng sai lầm lớn nhất là họ

không chịu cố gắng và thất bại sẽ sớm đến với những ai làm việc nửa vời.

 Giải pháp vận dụng Marketing qua Forum

Doanh nghiệp nên chủ động tạo ra Forum của mình bằng cách yêu cầu

công ty cung cấp dịch vụ thiết kế website cho mình làm luôn việc thiết kế

Forum. Trước hết doanh nghiệp cần khuấy động được phong trào tham gia

Forum công ty của các nhân viên và dần dần phổ biến nó ra ngoài để các

thành viên bên ngoài biết đến và tham gia. Việc quản trị Forum rất quan trọng

để đảm bảo Forum đó “sống” được. Một người quản trị Forum tốt sẽ biết cách

khéo léo gợi lên các chủ đề thú vị xoay quanh lĩnh vực mà công ty đang kinh

doanh, từ đó gián tiếp quảng bá cho công ty.

Ngoài việc chủ động tạo ra Forum, doanh nghiệp cũng nên tham gia vào các

cộng đồng, diễn đàn về các lĩnh vực, chủ đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp

tới lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp để học hỏi thêm, tạo mối quan hệ,

hỗ trợ lẫn nhau và tìm kiếm khách hàng tiềm năng.

 Giải pháp vận dụng Marketing qua Blog

Hiện nay phong trào viết Blog đang rất phát triển tại Việt Nam và trên

toàn thế giới. Riêng Việt Nam đến thời điểm năm 2007 có khoảng 4 triệu

Blogger. Sức lan truyền của những blog này đã được chứng minh thông qua

những cuộc tranh luận nảy lửa lôi kéo cả cộng đồng mạng tham gia. Thực tế

cũng cho thấy những trang nhật ký cá nhân điện tử đó cũng có thể được doanh

nghiệp sử dụng hiệu quả phục vụ công việc kinh doanh của mình. Một số gợi

ý cho các doanh nghiệp Việt Nam như:

- Tạo ra những Blog công ty mà nhiều người có thể tham gia với những bài

viết liên quan đến lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh.

99

- Quảng cáo trên các Blog có nhiều người truy cập.

- Đặt các Blogger nổi tiếng những chủ đề liên quan đến lĩnh vực kinh doanh

của doanh nghiệp. Bằng việc khuấy động và khéo léo dẫn dắt các chủ đề, các

Blogger uy tín có thể quảng bá cho doanh nghiệp vô cùng hiệu quả.

 Giải pháp vận dụng Email

Để thực hiện tốt việc gửi Email, doanh nghiệp cần thực hiện các bước

sau đây:

Xác định đối tượng khách hàng tiềm năng và lên danh sách gửi thư: Để

tạo danh sách gửi thư, doanh nghiệp có thể thu thập email khách hàng thông

qua website của doanh nghiệp. Hầu hết các website của các doanh nghiệp ở các

nước có sự ứng dụng rộng rãi Thương mại điện tử và của nhiều doanh nghiệp

Việt Nam hiện nay đều thiết kế các mục đăng kí nhận bản tin, nhận báo giá

nhằm thu thập e-mail và thông tin của những khách hàng quan tâm đến sản

phẩm của doanh nghiệp. Có một cách khác là doanh nghiệp mua danh sách

kèm phần mềm gửi thư của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo. Tuy nhiên,

những địa chỉ thư có được theo cách thứ hai này không cho phép doanh nghiệp

có thể phân loại được đối tượng gửi thư. Nó chỉ thích hợp cho những chiến

dịch Marketing đại chúng, không phân biệt đối tượng khách hàng mục tiêu.

Thiết kế thư điện tử: Thư điện tử nên được cá nhân hóa tới từng đối

tượng khách hàng vì người nhận thư bao giờ cũng thích nhận những bức thư

được gửi đích danh đến họ hơn là một bức thư chung chung có thể dùng gửi

cho tất cả mọi người. Nội dung thư nên ngắn gọn, không mang tính gạ gẫm và

quảng cáo sai sự thật. Nên hạn chế việc dùng các kí tự mà thay vào đó là hình

ảnh minh họa về sản phẩm. Thiết kế một bức thư với bố cục và màu sắc đẹp,

bắt mắt, lời lẽ ngắn gọn, xúc tích sẽ gây được cảm tình tốt của khách hàng.

Tất nhiên doanh nghiệp không được quên các thông tin liên hệ để khách hàng

100

liên lạc lại khi có nhu cầu. Nút lựa chọn cho phép hoặc không cho phép doanh

nghiệp tiếp tục gửi các thông điệp đến khách hàng là cần thiết để thể hiện sự

tôn trọng với khách hàng và theo đúng Luật định.

Xác định thời điểm gửi thư: Thư điện tử được gửi đến đúng lúc khách

hàng có nhu cầu về sản phẩm là trường hợp lý tưởng mà các doanh nghiệp

luôn mơ ước. Tuy nhiên để có thể nắm bắt được nhu cầu khách hàng đúng lúc

như vậy đòi hỏi người làm Marketing qua Internet phải theo dõi thường xuyên

và kiểm soát được lượng người thường xuyên truy cập websitet của doanh

nghiệp. Mặt khác, tùy thuộc vào từng chiến dịch Marketing, mà việc gửi thư

có thể được tiến hành một cách đồng loạt và không phân biệt. Ví dụ, mùa hè

thường là mùa của các giải bóng đá đỉnh cao, nhu cầu tụ tập uống bia và xem

bóng đá màn hình lớn tăng lên đặc biệt vào mùa này, công ty TNHH Hoàng

Đạo – một công ty chuyên kinh doanh máy chiếu, đã thực hiện một chiến dịch

E –mail Marketing trước mùa hè 2006 một tháng để khuấy động phong trào

xem bóng đá bằng máy chiếu. Chiến dịch này kết hợp với nhiều chiến dịch

khác như PR, quảng cáo đã khiến doanh số bán máy chiếu của công ty trong

mùa bóng đá 2006 tăng gấp 3 lần so với cùng kì năm 2005.

Tiến hành gửi thư: Cuối cùng là thực hiện việc gửi email tới các đối

tượng khách hàng nhưng tránh làm phiền bằng việc gửi liên tục và không cho

họ quyền từ chối nhận thư. Tần suất gửi thư được đề nghị là 1-2 lần/tháng.

 Giải pháp vận dụng Quảng cáo trên Internet

Để thực hiện tốt chiến dịch Quảng cáo trên Internet, doanh nghiệp cũng

cần làm các bước sau đây:

- Xác định đối tượng mà quảng cáo hướng: Việc này giúp doanh nghiệp có

thể lựa chọn được các phương tiện quảng cáo hiệu quả. Hiện nay tại Việt

Nam có một số website được nhiều người truy cập như www.dantri.com.vn,

101

www.vnexpress.net, www.24h.com.vn, www.vietimes.com,

www.vneconomy.com.vn ... Tuy nhiên đối tượng độc giả của các báo này

không hoàn toàn giống nhau. Chính vì vậy việc xác định chính xác đối tượng

khách hàng mục tiêu sẽ giúp lựa chọn được kênh quảng cáo phù hợp.

- Thiết kế quảng cáo: Một mẫu quảng cáo ấn tượng có thể gây sự chú ý cao

của những người lướt web. Doanh nghiệp nếu có thể nên thuê các công ty

quảng cáo chuyên nghiệp thiết kế các mẫu banner dùng trong chiến dịch

quảng cáo, vì nói chung nhân viên Marketing của các công ty rất ít người giỏi

về các phần mềm chuyên dụng để thiết kế và chỉnh sửa ảnh như Photoshop,

Corel Draw…

- Lựa chọn hình thức trả tiền quảng cáo: Hình thức hiệu quả và tiết kiệm mà

doanh nghiệp được khuyên là nên trả tiền trên số lượng người kích chuột vào

banner của doanh nghiệp. Thậm chí hiện nay với sự phát triển của công nghệ,

người ta còn có thể thống kê được lượng IP truy cập vào website của doanh

nghiệp, tránh được tình trạng trả cước nhiều lần cho cùng một người truy cập.

 Giải pháp vận dụng PR qua Internet

Vai trò của PR là không thể phủ nhận và việc tăng cường vận dụng PR

trong công việc kinh doanh đang là một xu hướng không chỉ tại Việt Nam mà

trên toàn thế giới. Để vận dụng tốt PR nói chung và PR qua Internet nói riêng,

các doanh nghiệp Việt Nam nên:

Có chính sách tuyển dụng, đào tạo hợp lý nhân viên làm PR chuyên

nghiệp. Đối với một số công ty nhỏ, để tiết kiệm chi phí có thể thuê PR

chuyên nghiệp bên ngoài tùy từng kế hoạch Marketing cụ thể.

Chủ động kết thân với giới truyền thông để phục vụ cho công tác quảng

bá hình ảnh, uy tín của mình.

102

Chủ động chuẩn bị nội dung cho các bài PR, trước khi liên lạc với giới

báo chí. Điều này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.

Tranh thủ mọi cơ hội truyền thông miễn phí cho doanh nghiệp. Ví dụ

như một công ty kinh doanh máy chiếu có thể chủ động liên lạc với các kênh

truyền hình để cung cấp thông tin cho các chương trình khoa giáo, hoặc các

chương trình về công nghệ mới, …

Tài trợ cho các sự kiện truyền hình, tổ chức các buổi họp báo giới thiệu

sản phẩm, dịch vụ mới…

Trên đây đã trình bày một số phương hướng phát triển của hoạt động

Marketing qua Internet, đồng thời cũng đề xuất một số kiến nghị đối với

Chính Phủ trong quá trình điều hành, xây dựng các chính sách vĩ mô nhằm

tạo ra môi trường thuận lợi và hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động

Marketing qua Internet có thể phát triển hơn nữa trong thời gian tới. Tuy

nhiên, ngoài những tác động ở tầm vĩ mô của Chính Phủ thì doanh nghiệp

mới là nhân tố quan trọng nhất quyết định tương lai của Marketing qua

Internet. Chính những thay đổi sâu sắc trong nhận thức và hành động của các

doanh nghiệp về Marketing qua Internet và Kinh doanh điện tử sẽ tạo ra

những bước phát triển nhảy vọt của thương mại điện tử nói chung trong

tương lai, vì vậy trong chương này, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất giải pháp

đối với doanh nghiệp nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động

Marketing qua Internet ở cấp doanh nghiệp.

103

KẾT LUẬN

Cuộc cách mạng CN-TT đã đem đến những biến đổi sâu sắc trong mọi

mặt đời sống xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp.

Với sự ra đời của Internet, khoảng cách không gian và thời gian giữa các quốc

gia, giữa người với người được rút ngắn lại. Tận dụng điều kì diệu ấy, các

doanh nghiệp, các tổ chức và Chính phủ bằng những hoạt động của mình đã

tạo ra một khái niệm mới: Thương mại điện tử. Từ khái niệm này, hàng loạt

các khái niệm như Marketing qua Internet, Marketing điện tử, Kinh doanh

điện tử đã… ra đời.

Tại Việt Nam, Marketing qua Internet cũng đã bắt đầu được tiến hành,

5-6% số doanh nghiệp Việt Nam thực sự sử dụng Thương mại điện tử, 25-

26% số doanh nghiệp có website riêng là những minh chứng sống động cho

điều này. Tuy nhiên những con số ấy cũng nói lên rằng ứng dụng Internet

trong hoạt động Marketing nói riêng và kinh doanh nói chung của doanh

nghiệp còn ở trình độ thấp.

Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc tăng cường

những ứng dụng của Internet nói chung và Marketing qua Internet là cần thiết

do những lợi ích lớn lao mà nó mang lại, đặc biệt đối với những doanh nghiệp

xuất khẩu. Xuất phát từ những tìm hiểu, phân tích về tình hình thực tế tại Việt

Nam, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với tham vọng có thể phần

nào giúp ích cho các doanh nghiệp tại Việt Nam, đem đến một cái nhìn mới

về Marketing qua Internet.

Cuối cùng, xin được gửi lời cám ơn chân thành, sâu sắc tới cô giáo

hướng dẫn TS. Phạm Thu Hương và toàn thể các thầy, cô giáo, các cán bộ

công tác tại Khoa sau đại học trường Đại học Ngoại Thương, đã giúp đỡ tôi

hoàn thành Luận văn này.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Chính Phủ (2005), Quyết định 191/2005/QĐ-TTg ban hành ngày 29/7/2005

phê duyệt đề án “ Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và

phát triển giai đoạn 2005-2010”.

2. Chính phủ (2007 ), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.

3. Chính phủ ( 2007), Nghị định số 63/2007 quy định sử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực Công nghệ thông tin.

4. Bộ Thương Mại ( 2006), Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử

ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2010

5. TS. Phạm Thu Hương (2007), Các giải pháp vận dụng Marketing điện tử

(E-Marketing) cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đề tài nghiên cứu

khoa học cấp bộ, năm 2007.

6. Thu Hiền, Quảng cáo qua E-mail, đâu là giải pháp?, Tạp chí thế giới vi

tính, 15/9/2006.

7. PGS-TS. Nguyễn Hoàng Long, Một số ý kiến về phát triển Đào tạo Thương

mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2010, Hội thảo “ Đào tạo Thương

mại điện tử trong các trường Đại học và Cao Đẳng Hà Nội”, 29/8/2006.

8. Vũ Minh (dịch từ New York times), Các “đại gia Internet” chạy đua

quảng cáo trực tuyến, http://www.vietimes.com.vn, 7/2007.

9. Quốc hội, Luật giao dịch điện tử 2005.

10. ThS. Nguyễn Văn Thoan, Giáo trình đào tạo thương mại điện tử - Thực

trạng và giải pháp, Hội thảo “ Đào tạo Thương mại điện tử trong các trường

Đại học và Cao Đẳng Hà Nội”, 29/8/2006.

105

11. Đặng Vỹ, Chỉ có 5- 6% doanh nghiệp thực hiện Thương mại điện tử,

Vietnamnet, 2007.

12. http://www.vnnic.vn

13. http:// www.vnemart.com.vn

14. http://irv.moi.gov.vn/KH-CN/ncpmud/2006/7/15914.ttvn

Tiếng Anh

15. Nhóm tác giả Elicom ( tài liệu dịch), Thành công nhờ Internet, NXB Hà

Nội, năm 2000. 16. Judy Strauss, Adel El-Ansary and Raymond Frost, E-marketing, the 4th

Edition, Prentice Hall Publishing House, 2006, page 3

17. Philip Kotler & Armstrong, Marketing – An Introduction, Prentice Hall

Publishing House, 2007.

18. http://www.sba.gov/starting_business/marketing/emarketing.html

19. http://www.davechaffey.com/E-business

20. http://www.emarketing.com

21. http://www.marketing-online.co.uk

22. http://www.helpdocuments.com

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam ( VNNIC), số người

sử dụng Internet tại Việt Nam năm 2007 là 18,5 triệu người tương đương với

22% dân số và số thuê bao Internet đã lên tới 5,2 triệu thuê bao, 20 -25%

trong số khoảng 150.000 doanh nghiệp trong cả nước có Website riêng.

Những con số thống kê nói trên cho thấy sự phát triển sâu rộng của Internet

tới mọi mặt của xã hội, cũng như nhận thức của các doanh nghiệp về những

lợi ích mà Internet mang lại. Internet không chỉ xoá nhoà khoảng cách về

không gian, thời gian mà còn khiến hoạt động kinh doanh truyền thống hiệu

quả hơn và tạo ra nhiều cơ hội mới trong kinh doanh.

Khái niệm Marketing mới chỉ được nói đến tại Việt Nam vào những

năm cuối của thập niên 90 của thế kỉ 20, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn

chưa hết ngỡ ngàng với những kiến thức rất mới mẻ về Marketing thì cùng

với sự bùng nổ của Internet, họ lại được chứng kiến những biến đổi vô cùng

thú vị của hoạt động này. Marketing qua Internet vừa là lợi ích to lớn mà

Internet mang lại cũng vừa là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp bởi

môi trường Internet có những đặc thù riêng khác với môi trường kinh doanh

thông thuờng, nên nếu chỉ áp dụng những phương pháp Marketing truyền

thống vào môi trường Internet sẽ không phù hợp.

Mặc dù 20-25% các doanh nghiệp Việt Nam có website, nhưng hầu hết

chỉ dừng ở mức đơn giản như: xây dựng website để giới thiệu thông tin doanh

nghiệp một cách sơ sài, hay quảng cáo trên Internet… Các kiến thức về

Marketing nói chung cũng như các biện pháp Marketing qua Internet cũng

chưa được biết đến sâu sắc và rộng rãi tại Việt Nam. Chính vì thế việc nghiên

cứu về Marketing qua Internet một cách có hệ thống tại Việt Nam là cần thiết.

2

2. Tình hình nghiên cứu

Hoạt động Marketing nói chung và Internet Marketing nói riêng đã

được rất nhiều các chuyên gia kinh tế trên thế giới nghiên cứu như Philip

Kotler, Judy Strauss, Dave chaffey,… Tại Việt Nam, những vấn đề lý thuyết

Marketing cũng được nghiên cứu và đưa vào giảng dạy tại các trường đại học

khối kinh tế từ khoảng chục năm trở lại đây. Riêng đối với hoạt động

Marketing qua Internet, tuy còn mới mẻ nhưng cũng đã có những công trình

nghiên cứu về nó như đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Các giải pháp vận

dụng Marketing điện tử cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam” do

TS.Phạm Thu Hương làm chủ nhiệm thực hiện năm 2007.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận và thực tiễn về Marketing qua

Internet và vận dụng vào các doanh nghiệp ở Việt Nam.

Nêu rõ được thực trạng ứng dụng Marketing qua Internet tại các doanh

nghiệp cả những mặt ưu và khuyết điểm trong thời gian 5 năm vừa qua.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung vào hoạt động Marketing qua Internet tại các Doanh

nghiệp vừa và nhỏ để thấy được mặt mạnh cũng như những tồn tại của hoạt

động này, trên cơ sở đó đề ra các kiến nghị và giải pháp để đưa ra một quy

trình Marketing phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam.

Về phạm vi thời gian, Luận văn chỉ tập trung vào khoảng thời gian 5

năm gần đây, khi mà Internet thực sự bùng nổ và sự xuất hiện của hoạt động

thương mại điện tử kéo theo sự cần thiết của hoạt động Marketing qua

Interent tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.

3

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,

cụ thể, tác giả có vận dụng và tập trung vào các phương pháp chính sau:

Quan sát: Vì đây là một vấn đề tương đối mới tại Việt Nam nên tác giả sử

dụng phương pháp này tìm hiểu chung về mặt lý thuyết và thực tiễn áp dụng

tại các doanh nghiệp nhằm có cái nhìn chung về sự phát triển của Marketing

qua Internet.

Thực nghiệm: Làm việc tại phòng Marketing của doanh nghiệp vừa và nhỏ

(Công ty TNHH Hoàng Đạo, 65 Láng Hạ, Hà Nội) để tìm hiểu thực tế áp

dụng Marketing tại doanh nghiệp đó, từ đó có cái nhìn sâu sát hơn về

Marketing qua Internet tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Xử lý số liệu : Các số liệu thống kê thu thập được sẽ giúp lượng hoá được tình

hình phát triển của Marketing qua Internet và có những dự đoán chính xác

hơn cho tương lai cũng như có cơ sở để đề ra những giải pháp hiệu quả hơn.

6. Kết cấu của Luận văn

Cụ thể, về mặt cấu trúc, Luận văn gồm ba chương:

Chương I: Tổng quan về Marketing qua Internet

Chương II: Thực trạng áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam

Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động Marketing

qua Internet tại Việt Nam