BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
MARKETING QUA INTERNET VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thương Mại Mã số: 60.34.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội 04/2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
MARKETING QUA INTERNET VÀ THỰC TẾ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thương Mại Mã số: 60.34.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thu Hương Hà Nội 04/2008
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AMA: American marketing association: Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ
ARPANET: Advanced Research Projects Agency Network: Mạng lưới cơ quan
với các đề án nghiên cứu tân tiến.
B2B: Business to Business : Doanh nghiệp với doanh nghiệp
B2C: Business to Customer: Doanh nghiệp với người tiêu dùng
B2G: Business to Government: Doanh nghiệp với Chính phủ
CNTT: Công nghệ thông tin
PDA: Personal digital assistant : Thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân
PR: Public relations: Quan hệ công chúng
SWOT: Strengths, Weaknesses, Opportunities, Threats: Điểm Mạnh, Điểm
Yếu, Cơ hội, Thách thức
TMĐT: Thương Mại điện tử
TCP/IP: Internet protocol suite: Bộ giao thức liên mạng
VCCI: VietNam chamber of Commerce and Industrie: Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………. 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUA INTERNET ……… 4
1.1. KHÁI NIỆM VỀ MARKETING QUA INTERNET……………….. 4
1.1.1. Khái niệm Marketing .............................................................................. 4
1.1.2. Khái niệm Internet ................................................................................. 13
1.1.3. Khái niệm Marketing điện tử và Marketing qua Internet ..................... 14
1.1.4. Một số đặc điểm cơ bản của E- Marketing và Marketing qua Internet
khác với Marketing truyền thống ................................................................... 17
1.2.1. Sản phẩm qua Internet ........................................................................... 20
1.2.2. Kênh phân phối trực tiếp qua Internet .................................................. 22
1.2.3. Giá và kiểm soát giá qua Internet.......................................................... 24
1.2.4. Truyền thông Marketing tích hợp ......................................................... 25
1.2.5. Quản trị quan hệ khách hàng ................................................................. 26
1.3. VAI TRÒ CỦA MARKETING QUA INTERNET…………………28
1.3.1. Đối với khách hàng ............................................................................... 28
1.3.2. Đối với xã hội ........................................................................................ 29
1.3.3. Đối với hoạt động kinh doanh ............................................................... 30
1.4. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI MỘT SỐ
CÔNG TY TRÊN THẾ GIỚI………………………..………………… .34
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET
TẠI VIỆT NAM…………………………………………………………….37
2.1. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT
NAM……………………………………………………………………… 37
2.1.1. Điều kiện về cơ sở hạ tầng ................................................................. 37
2.1.2. Điều kiện về nhân lực ........................................................................ 38
2.1.3. Điều kiện về nhận thức ...................................................................... 40
2
2.2. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NA….41
2.2.1. Thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam ...................... 41
2.2.1.1. Xây dựng website ........................................................................ 41
2.2.1.2. Quảng cáo online......................................................................... 43
2.2.1.4. Marketing qua công cụ tìm kiếm ................................................ 49
2.2.1.5. Marketing thông qua “cộng đồng ảo” ......................................... 52
2.2.1.6. PR trên Internet ........................................................................... 56
2.2.1.7. Marketing lan truyền (Viral Marketing) ..................................... 57
2.2.2. Đánh giá hoạt động Marketing qua Internet tại Việt Nam.................58
2.2.2.1. Một số kết quả đạt được của hoạt động Marketing qua Internet tại
Việt Nam ......................................................................................................... 58
2.2.2.2. Một số tồn tại của Marketing qua Internet tại Việt Nam ............. 65
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM…....73
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN MARKETING QUA INTERNET
TẠI VIỆT NAM…........................................................................................73
3.1.1. Định hướng của Nhà nước ................................................................ 73
3.1.2. Một số xu hướng phát triển Marketing qua Internet ......................... 75
3.1.1.1. Tăng cường đào tạo về Thương mại điện tử (TMĐT) nói chung
và Marketing qua Internet nói riêng ........................................................ 78
3.1.1.2. Tăng cường sử dụng Quảng cáo trực tuyến ................................ 79
3.1.1.3. Sử dụng tích cực PR trong xây dựng Thương hiệu .................... 80
3.1.1.4. Nhiều công cụ Internet Marketing mới ra đời trên cơ sở sự phát
triển của Internet và những ứng dụng của nó .......................................... 80
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẰNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET……………………………......81
3.2.1. Nhóm giải pháp về phía Chính phủ .................................................. 81
3
3.2.1.1. Phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý .................................................. 81
3.2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ ............................................. 83
3.2.1.3. Đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về Thương mại điện tử ......... 85
3.2.1.4. Xây dựng hệ thống an toàn thông tin trên mạng ........................ 86
3.1.2.5. Chủ động tham gia hợp tác quốc tế về lĩnh vực thương mại điện
tử và Marketing qua Internet ................................................................... 87
3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp Việt Nam ...................... 88
3.2.2.1. Thay đổi nhận thức về Marketing và Marketing qua Internet ... 89
3.2.2.2. Lập kế hoạch Marketing qua Internet ......................................... 90
3.2.2.3. Xây dựng Ngân sách cho hoạt động Internet Marketing ............ 93
3.2.2.4. Giải pháp đào tạo về Internet Marketing .................................... 94
3.2.2.4. Nhóm giải pháp về vận dụng các công cụ của Marketing qua
Internet ..................................................................................................... 95
Xây dựng website doanh nghiệp ....................................................... 95
Giải pháp vận dụng Marketing qua Forum ....................................... 98
Giải pháp vận dụng Marketing qua Blog .......................................... 98
Giải pháp vận dụng Email ................................................................. 99
Giải pháp vận dụng Quảng cáo trên Internet................................... 100
Giải pháp vận dụng PR qua Internet ............................................... 101
KẾT LUẬN…………………………………………...…………………...103
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………..…………………………………….103
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ MARKETING QUA INTERNET
1.1. KHÁI NIỆM VỀ MARKETING QUA INTERNET
Sự bùng nổ của mạng Internet đã đem đến những biến đổi to lớn trong
mọi mặt của đời sống xã hội, tạo ra những giá trị chưa từng có. Không chỉ có
vậy, nhiều khái niệm mới mẻ gắn liền với Internet cũng ra đời như E-
Marketing, Internet Marketing, Marketing online…..Vậy Internet là gì,
Marketing và những khái niệm mới ra đời từ sự kết hợp Internet và Marketing
là gì?
Trong phần này, chúng ta cùng làm rõ khái niệm về Internet, Marketing
và sau đó xem xét chúng trong mối quan hệ với những khái niệm mới hiện
nay như Internet Marketing, E-Marketing để tìm kiếm những khác biệt.
1.1.1. Khái niệm Marketing
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Marketing. Marketing là quá
trình tổ chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty
sản xuất ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá
trình tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay Marketing là làm thị
trường, nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó. Trong Luận văn này, tác giả sử
dụng định nghĩa: Marketing là các cơ chế kinh tế và xã hội mà các tổ chức và
cá nhân sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của mình thông qua
quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Theo Philip Kotler thì marketing được hiểu như sau: Marketing là một
quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được
những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi
những sản phẩm có giá trị với những người khác.
5
Khái niệm này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi: nhu
cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi,
giao dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm
marketing.
Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu: Tư duy marketing bắt đầu từ những nhu
cầu và mong muốn thực tế của con người. Người ta cần thức ăn, không khí,
nước, quần áo và nơi ở để nương thân. Ngoài ra người ta còn rất ham muốn
được nghỉ ngơi, học hành và các dịch vụ khác. Họ cũng có sự ưa chuộng
những mẫu mã và nhãn hiệu cụ thể của những hàng hoá dịch vụ cơ bản.
Cần phân biệt rõ các khái niệm nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Nhu
cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ
bản nào đó. Người ta cần có thức ăn, quần áo, nơi ở, sự an toàn, của cải, sự
quý trọng và một vài thứ khác nữa để tồn tại. Những nhu cầu này không phải
do xã hội hay những người làm marketing tạo ra. Chúng tồn tại như một bộ
phận cấu thành cơ thể con người và nhân thân con người.
Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những
nhu cầu sâu xa hơn đó. Một người Mỹ có nhu cầu thức ăn và mong muốn có
có món hamburger, có nhu cầu về quần áo và mong muốn có bộ đồ Pierrre
Cardin, có nhu cầu về sự quý trọng và muốn có một chiếc xe Mercedes.
Trong một xã hội khác thì những nhu cầu này lại được thoả mãn theo một
cách khác: Những người thổ dân Úc thoả mãn cơn đói của mình bằng chim
cánh cụt; Nhu cầu về quần áo bằng mảnh khố; Sự quý trọng bằng một chuỗi
vòng vỏ ốc để đeo cổ. Mặc dù nhu cầu của con người thì ít, nhưng mong
muốn của họ thì nhiều. Mong muốn của con người không ngừng phát triển và
6
được định hình bởi các lực lượng và định chế xã hội, như nhà thờ, trường học,
gia đình và các công ty kinh doanh.
Yêu cầu là mong muốn có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn
của khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu cầu
khi có sức mua hỗ trợ. Nhiều người mong muốn có một chiến xe Mercedes,
nhưng chỉ có một số ít người có khả năng và sẵn sàng mua kiểu xe đó. Vì thế
công ty không những phải định lượng xem có bao nhiêu người mong muốn có
sản phẩm của mình, mà điều quan trọng hơn là phải định lượng xem có bao
nhiêu người thực sự sẵn sàng và có khả năng mua nó.
Những điểm khác biệt nêu trên đã làm sáng tỏ những ý kiến phê bình
thường thấy của những người lên án marketing là “những người làm
marketing tạo ra nhu cầu” hay “những người làm marketing dụ dỗ mọi người
mua những thứ mà họ không mong muốn”. Những người làm marketing
không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm
marketing. Cùng với những yếu tố ảnh hưởng khác trong xã hội, những người
làm marketing có tác động đến những mong muốn. Họ cổ vũ ý tưởng là chiếc
xe Mercedes sẽ thoả mãn nhu cầu về địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên
những người làm marketing không tạo ra nhu cầu về địa vị xã hội. Họ tác
động đến yêu cầu bằng cách làm ra sản phẩm thích hợp, hấp dẫn, vừa túi tiền
và dễ kiếm cho những người tiêu dùng mục tiêu.
Sản phẩm: Người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của mình bằng
hàng hoá và dịch vụ. Thuật ngữ sản phẩm ở đây được hiểu là cả hàng hoá lẫn
dịch vụ. Ta định nghĩa sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả
mãn một nhu cầu hay mong muốn. Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất
bắt nguồn không phải từ việc sở hữu chúng, mà chính là từ việc có được
7
những dịch vụ mà chúng đem lại. Ta mua một chiếc xe không phải để ngắm
nhìn nó mà vì nó cung ứng vận chuyển. Ta mua một cái bếp không phải để
chiêm ngưỡng mà vì nó đảm bảo dịch vụ nấu nướng. Vì vậy các sản phẩm vật
chất thực sự là những phương tiện đảm bảo phục vụ chúng ta. Trong thực tế
dịch vụ còn do những yếu tố khác đảm bảo, như con người, địa điểm, các hoạt
động, tổ chức và ý tưởng. Nếu ta cảm thấy buồn thì ta có thể đến một câu lạc
bộ hài kịch để xem một diễn viên hài biểu diễn, gia nhập câu lạc bộ độc thân
(tổ chức) hay chấp nhân triết lý sống khác nhau (ý tưởng). Vì thế chúng ta sẽ
sử dụng thuật ngữ sản phẩm để ám chỉ sản phẩm vật chất, sản phẩm dịch vụ
và những phương tiện khác có khả năng thoả mãn một mong muốn hay một
nhu cầu. Đôi khi ta cũng sẽ sử dụng những thuật ngữ khác nhau thay cho sản
phẩm, như hàng hoá, yếu tố thoả mãn hay nguồn tài nguyên.
Gía trị chi phí và sự thoả mãn: Trong số rất nhiều những sản phẩm có thể
thoả mãn một nhu cầu nhất định, người tiêu dùng sẽ lựa chọn như thế nào?
Giả sử, hàng ngày một người phải đi làm xa 3 dặm. Có một số sản phẩm có
thể thoả mãn được nhu cầu này: patanh, xe đạp, xe gắn máy, ô tô, taxi và xe
buýt. Những phương án này tạo nên một tập khả năng lựa chọn sản phẩm. Giả
sử người đó muốn thoả mãn một số nhu cầu phụ thêm trên đường đi làm, cụ
thể là tốc độ, an toàn, thoải mái và tiết kiệm. Ta gọi đó là tập nhu cầu. Bây giờ
thì mỗi sản phẩm có một khả năng khác nhau để thoả mãn những nhu cầu
khác nhau của người đó. Chẳng hạn như xe đạp thì chậm hơn, kém an toàn và
tốn sức hơn là ô tô, nhưng lại tiết kiệm hơn. Dù thế nào đi nữa thì người đó
cũng phải quyết định sản phẩm nào sẽ đảm bảo thoả mãn nhu cầu đầy đủ
nhất.
Khái niệm chủ đạo là giá trị đối với khách hàng. Người đó sẽ đánh giá
khả năng của từng sản phẩm thoả mãn tập nhu cầu của mình. Anh ta có thể
8
xếp hạng các sản phẩm từ loại thoả mãn nhiều nhu cầu nhất đến đến loại thoả
mãn ít nhu cầu nhất. Giá trị là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng
chung của sản phẩm thoả mãn những nhu cầu của mình.
Chúng ta có thể yêu cầu anh ta hình dung những đặc điểm của một sản
phẩm lý tưởng đối với những nhiệm vụ đó. Anh ta có thể trả lời rằng sản
phẩm lý tưởng sẽ đưa anh ta đến chỗ làm trong giây lát với sự an toàn tuyệt
đối, không mất sức và chi phí bằng không. Khi đó giá trị của mỗi sản phẩm
thực tế sẽ phụ thuộc vào mức độ nó gần với sản phẩm lý tưởng đó.
Giả sử rằng anh ta quan tâm hàng đầu đến tốc độ và sự thoải mái khi đi
làm. Nếu anh ta được sử dụng miễn phí bất kỳ sản phẩm nào trong số đó, thì
ta có thể đoán trước được là anh ta sẽ chọn ô tô. Nhưng bây giờ mới nảy sinh
vướng mắc: chi phí để mua ô tô lớn hơn nhiều so với chi phí để mua một
chiếc xe đạp, do đó anh ta sẽ phải từ bỏ nhiều thứ khác (có giá trị) để mua ô
tô. Vì thế anh ta sẽ xem xét giá trị và giá cả của sản phẩm trước khi anh ta
chọn. Anh ta sẽ chọn sản phẩm nào tạo ra giá trị lớn nhất trên một đồng USD.
Các nhà nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng ngày nay đã vượt ra
ngoài khuôn khổ chật hẹp của những giả thuyết kinh tế về cách thức người
tiêu dùng xét đoán giá trị và lựa chọn sản phẩm.
Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ: Việc con người có những nhu cầu
và mong muốn và có thể gắn cho các sản phẩm một giá trị vẫn chưa nói lên
hết được ý nghĩa của marketing. Markerting xuất hiện khi người ta quyết định
thoả mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là một
trong các cách để người ta có được các sản phẩm và Marketing phát sinh từ
phương thức tìm kiếm sản phẩm này.
9
Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một
người nào đó bằng cách đưa cho người đó những thứ gì đó. Trao đổi là một
khái niệm quyết định, tạo nền móng cho marketing. Trao đổi chỉ xảy ra khi
thoả mãn đủ điều kiện sau:
- Ít nhất phải có hai bên.
- Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia.
- Mỗi bên phải có khả năng tự giao dịch và chuyển giao hàng hoá của mình.
- Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từ lời đề nghị của bên kia.
- Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Nếu có đủ năm điều kiện này thì mới có tiềm năng trao đổi. Còn việc
trao đổi có thực sự diễn ra hay không là còn tuỳ thuộc vào vấn đề hai bên có
thể thảo thuận được những điều kiện trao đổi có lợi cho cả hai bên (hay chí ít
cũng không có hại) so với trước khi trao đổi. Chính vì ý nghĩa này mà trao đổi
được xem như là một quá trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm cho
cả hai bên có lợi hơn trước khi trao đổi.
Giao dịch đòi hỏi phải có một yếu tố: ít nhất có hai giá trị, những điều
kiện thực hiện đã được thoả thuận, thời gian thực hiện đã thoả thuận, địa điểm
thực hiện đã được thoả thuận. Thông thường có cả một hệ thống luật pháp hậu
thuẫn và bắt buộc các bên giao dịch phải thực hiện đúng các phần cam kết của
mình. Giao dịch rất dễ làm phát sinh mâu thuẫn do hiểu lầm hay cố tình.
Không có “luật hợp đồng” thì mọi người sẽ thiếu tin cậy vào giao dịch và tất
cả đều bị thua thiệt.
Các doanh nghiệp để theo dõi các vụ giao dịch của mình và phân loại
chúng theo mặt hàng, giá cả, địa điểm và những biến cố khác. Phân tích
10
doanh số bán là việc phân tích nguồn gốc doanh thu của công ty theo sản
phẩm, khách hàng và địa bàn…
Theo ý nghĩa chung nhất thì người làm marketing đang tìm cách tạo
cho được hành vi phản ứng từ phía bên kia. Một công ty kinh doanh thì muốn
phản ứng đó là hành vi mua hàng, một ứng viên chính trị thì muốn phản ứng
đó là hành vi bỏ phiếu, nhà thờ thì muốn phản ứng đó là hành vi theo đạo,
nhóm hoạt động xã hội thì muốn phản ứng đó là hành vi chấp nhận ý tưởng
của mình. Marketing bao gồm những hoạt động được tiến hành nhằm tạo ra
những phản ứng mong muốn đối với một đối tượng từ phía công chúng mục
tiêu.
Để đảm bảo các cuộc trao đổi diễn ra trôi chảy, người làm marketing
phải phân tích xem mỗi bên dự kiến sẽ cho và nhận cái gì. Những tình huống
trao đổi giản đơn có thể biểu diễn bằng một hồ sơ trong đó có hai người tham
gia cùng những thứ mong muốn và lời mời chào lưu thông giữa họ.
Đến đây ta đã thấy bản chất của marketing giao dịch. Maketing giao
dịch là một bộ phận ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm
marketing khôn ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, đáng tin
cậy, cùng có lợi với những khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và
những người cung ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn
đảm bảo chất lượng cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên
kia. Nhiệm vụ đó cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan
hệ ràng buộc chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác.
Marketing quan hệ sẽ làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong
những trường hợp tốt đẹp nhất giao dịch sẽ làm chuyển từ chỗ phải thương
lượng từng lần sang chỗ trở thành công việc thường lệ.
11
Kết quả cuối cùng của marketing quan hệ là hình thành được một tài
sản độc đáo của công ty, gọi là mạng lưới marketing bao gồm công ty và
những người cung ứng, những người phân phối và khách hàng của mình mà
công ty đã xây dựng được những mối quan hệ vững chắc, tin cậy trong kinh
doanh. Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa
lợi nhuận trong từng vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi
bên cùng có lợi với các đối tác. Nguyên tắc làm việc là phải xây dựng được
những mối quan hệ tốt rồi tự khắc các vụ giao dịch sẽ có lợi.
Thị trƣờng: Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm ẩn
cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham
gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó.
Như vậy quy mô của thị trường phụ thuộc vào một số người có nhu cầu
và có những tài nguyên được người khác quan tâm, và sẵn sàng đem lại
những tài nguyên đó để đổi lấy cái mà họ mong muốn.
Những người kinh doanh sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ nhóm
khách hàng khác nhau. Họ nói về thị trường nhu cầu (chẳng hạn như thị
trường thực phẩm thường ngày), thị trường sản phẩm (thị trường giày dép),
thị trường nhân khẩu (như thị trường thanh niên) và thị trường địa lý (như thị
trường Việt Nam). Hay họ còn mở rộng khái niệm để chỉ cả những nhóm
không phải khách hàng, như thị trường cử tri, thị trường sức lao động và thị
trường nhà hảo tâm.
Như vậy, khái niệm thị trường đã đưa ta quay lại điểm xuất phát là khái
niệm marketing. Marketing có nghĩa là hoạt động của con người diễn ra trong
mối quan hệ với thị trường. Marketing có nghĩa là làm việc với thị trường để
12
biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện thực với mục đích là thỏa mãn những
nhu cầu và mong muốn của con người.
Nếu một bên tích cực tìm kiếm cách trao đổi hơn bên kia, thì ta gọi bên
thứ nhất là người làm marketing còn bên thứ hai là khách hàng triển vọng.
Người làm marketing là người tìm kiếm tài nguyên từ một người khác và sẵn
sàng đưa ra một thứ gì đó có giá trị trao đổi. Người làm marketing tìm kiếm
một phản ứng từ phía bên kia để bán hoặc mua một thứ gì đó. Nói cách khác,
người làm marketing có thể là người bán hay người mua. Giả sử, có một số
người muốn mua một ngôi nhà hấp dẫn vừa mới xây xong. Như vậy là những
người mua đó cũng đang làm marketing! trong trường hợp cả hai bên đều tích
cực tìm cách trao đổi, thì ta nói rằng cả hai bên đều là người làm marketing và
gọi trường hợp đó là marketing lẫn nhau.
Trong trường hợp bình thường người làm marketing là một công ty
phục vụ thị trường người sử dụng cuối cùng đối mặt với các đối thủ cạnh
tranh. Công ty và các đối thủ cạnh tranh đều gửi sản phẩm tương ứng và
thông điệp cho người sử dụng cuối cùng một cách trực tiếp hay thông qua các
định chế trung gian marketing (những người trung gian và những người xúc
tiến thương mại). Hiệu quả tương đối của họ chịu ảnh hưởng của những người
cung ứng tương ứng cũng như của những lực lượng chính của môi trường
(nhân khẩu học, kinh tế, vật chất, kỹ thuật, chính trị pháp lý, xã hội/văn hóa).
Sau khi nghiên cứu kỹ những khái niệm ở trên chúng ta xin được nhắc
lại khái niệm marketing như sau: Marketing là những cơ chế kinh tế và xã hội
mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thoả mãn những nhu cầu và đòi hỏi
(mong muốn) của mình thông qua các quy trình trao đổi sản phẩm trên thị
trường.
13
1.1.2. Khái niệm Internet
Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET. Cơ quan
quản lý dự án nghiên cứu phát triển ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết
4 địa điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1968 bao gồm: Viện nghiên cứu
Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Tổng hợp Utah và Đại
học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide Area
Network-WAN) đầu tiên được xây dựng.
Thuật ngữ Internet xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó
mạng vẫn được gọi là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức
được coi như một chuẩn đối với ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối
với ARPANET phải sử dụng chuẩn mới này.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập kỷ
1980 khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các
trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã
chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt động,
ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng
khác đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới
năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn
tiếp tục phát triển. Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành
một mạng lớn nhất trên thế giới, mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh
vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục, văn hoá, xã hội...
Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không ngừng phát triển tạo ra cho nhân
loại một thời kỳ mới: kỷ nguyên thương mại điện tử trên Internet.
14
Vậy Internet là gì? Theo wikimedia, cuốn bách khoa toàn thư mở lớn
nhất thế giới : Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy
nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này
truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên
một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP).
Do bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp,
của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và
các chính phủ trên toàn cầu. Internet cung cấp một khối lượng thông tin và
dịch vụ khổng lồ trên Internet. Ngoài ra mạng Internet mang lại rất nhiều tiện
ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện ích phổ thông của
Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat), máy truy
tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và các
dịch vụ về y tế giáo dục như chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo.
Nguồn thông tin khổng lồ kèm theo các dịch vụ tương ứng chính là hệ
thống các trang Web liên kết với nhau và các tài liệu khác trong WWW
(World Wide Web).
1.1.3. Khái niệm Marketing điện tử và Marketing qua Internet
Đồng thời với sự bùng nổ những ứng dụng của Internet và các phương
tiện truyền thông hiện đại trong mọi mặt của đời sống xã hội, người ta cũng
bắt đầu nghiên cứu những ứng dụng của nó cho hoạt động Marketing. Trong
thực tế Internet và các phương tiện truyền thông có thể được sử dụng để hỗ
trợ cho những mục đích sau đây của Marketing :
Identifying – Internet và các phương tiện truyền thông có thể được sử
dụng để xác định mong muốn và nhu cầu của khách hàng.
Anticipating –Internet cung cấp thêm một kênh thông tin qua đó khách
15
hàng có thêm sự hiểu biết về sản phẩm và có thể thực hiện hành vi mua hàng.
Satisfying – Chìa khóa của thành công đối với Internet marketing chính
là đạt được sự hài lòng của khách hàng thông qua sự tiện dụng của website,
hình thức và nội dung của website.
Cùng với những ứng dụng của Internet và các phương tiện truyền thông
điện tử trong hoạt động Marketing thì các khái niệm mới như Marketing điện
tử (E- Marketing) và Marketing qua Internet (Internet Marketing) cũng ra đời.
Chúng ta cùng xem xét một số khái niệm tiêu biểu sau đây về E- Marketing
và Internet Marketing:
Khái niệm E-Marketing:
Theo Philip Kotler: E-Marketing là quá trình lập kế hoạch về sản phẩm,
giá, phân phối và xúc tiến đối với sản phẩm, dịch vụ và ý tưởng để đáp ứng
nhu cầu của tổ chức và cá nhân dựa trên các phương tiện điện tử và internet.
Hay: “Marketing điện tử bao gồm tất cả các hoạt động để thoả mãn nhu
cầu và mong muốn của khách hàng thông qua internet và các phương tiện
điện tử”. ( Theo Joel Reedy, Shauna Schullo, Kenneth Zimmerman).
Hoặc một định nghĩa khác cụ thể hơn về Marketing điện tử của Dave
Chaffey, tác giả của “Emarketing Excellent”, “Total Email Marketing”,
“Internet Marketing”: Marketing điện tử là hoạt động ứng dụng mạng internet
và các phương tiện điện tử (web, e-mail, cơ sở dữ liệu, multimedia, pda...) để
tiến hành các hoạt động marketing nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức và
duy trì quan hệ khách hàng thông qua nâng cao hiểu biết về khách hàng
(thông tin, hành vi, giá trị, mức độ trung thành...), các hoạt động xúc tiến
hướng mục tiêu và các dịch vụ qua mạng hướng tới thoả mãn nhu cầu của
khách hàng.
16
Tất cả các khái niệm nói trên về E-Marketing đều đưa ra được những
đặc điểm chung nhất của Marketing điện tử:
Môi trường: Marketing trong môi trường mới, môi trường Internet và
các phương tiện thông tin điện tử.
Phương tiện: Internet và các thiết bị thông tin điện tử như điện thoại di
động, đầu thu kĩ thuật số, cáp và vệ tinh…
Khái niệm Marketing qua Internet
Phần trên, khi xem xét các khái niệm về Marketing điện tử, chúng ta đã
thấy Internet đóng một vai trò rất quan trọng, là một trong hai loại phương
tiện không thể thiếu của Marketing điện tử. Vậy Internet Marketing được hiểu
như thế nào? Chúng ta cùng xem xét khái niệm dưới đây của tác giả Ghosh
Shikhar và Toby Bloomburg thuộc Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA):
Marketing Internet là lĩnh vực tiến hành hoạt động kinh doanh gắn liền với
dòng vận chuyển sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng, dựa trên
cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin Internet.
Từ định nghĩa của Ghosh Shikhar và Toby Bloomburg về Marketing
qua Internet ta thấy về môi trường và phương tiện của Marketing qua Internet
hạn chế hơn so với Marketing điện tử. Marketing qua Internet chỉ bao gồm
các hoạt động Marketing tiến hành trên nền Internet. Tuy nhiên, với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin như hiện nay khiến các phương tiện kĩ
thuật số hiện đại như điện thoại di động cũng có thể truy cập Internet thì ranh
giới giữa E- marketing và Internet Marketing ngày càng gần lại trong xu thế
hòa làm một.
17
Về mặt bản chất, Marketing điện tử và Marketing qua Internet không
thay đổi so với Marketing truyền thống, vẫn là một quá trình quá trình trao
đổi thông tin và kinh tế, từ việc xác định nhu cầu đến lập các kế hoạch 4Ps
đối với sản phẩm, dịch vụ, ý tưởng đến tiến hành và kiểm tra để thực hiện các
mục đích của tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên có sự khác biệt lớn về phương
thức tiến hành.
1.1.4. Một số đặc điểm cơ bản của E- Marketing và Marketing qua
Internet khác với Marketing truyền thống
Do có sự khác biệt lớn về phương thức tiến hành nên giữa Marketing
điện tử và Marketing qua Internet có sự khác biệt rất dễ nhận thấy so với
Marketing truyền thống về tốc độ, thời gian hoạt động, phạm vi hoạt động,
sản phẩm….
Tốc độ: Thông tin về sản phẩm dịch vụ được tung ra thị trường nhanh
hơn, khách hàng tiếp cận những thông tin này cũng nhanh hơn.
Giao dịch được tiến hành nhanh hơn và đối với một số hàng hoá đặc
biệt như hàng hoá số hoá, việc giao hàng và thanh toán được thực hiện gần
như ngay lập tức. Tốc độ giao dịch nhanh hơn vì vậy thông tin phản hồi từ
phía khách hàng cũng nhanh chóng đến với doanh nghiệp.
Thời gian hoạt động liên tục không bị gián đoạn: Tiến hành hoạt
động Marketing trên Internet có thể loại bỏ những trở ngại nhất định về sức
người. Chương trình Marketing thông thường, chưa có ứng dụng Internet, dù
có hiệu quả đến đâu, cũng không thể phát huy tác dụng 24/24 giờ mỗi ngày.
Nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể đối với hoạt động Marketing Internet.
Marketing Internet có khả năng hoạt động liên tục tại mọi thời điểm, khai thác
18
triệt để thời gian 24 giờ trong một ngày, 7 ngày trong một tuần, hoàn toàn
không có khái niệm thời gian chết. Ví dụ như hệ thống máy tính trên Internet
có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ khách hàng mọi lúc và mọi nơi. Các đơn đặt
hàng sản phẩm hay dịch vụ có thể được thoả mãn vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ
nơi đâu. Do đó, Marketing Internet có một ưu điểm hơn hẳn so với Marketing
thông thường là nó đã khắc phục được trở ngại của yếu tố thời gian và tận
dụng tốt hơn nữa các cơ hội kinh doanh.
Không gian: Phạm vi toàn cầu/không phụ thuộc không gian:
Marketing qua Internet có khả năng thâm nhập đến khắp mọi nơi trên toàn thế
giới. Thông qua Internet, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có khả năng
quảng bá sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng Mỹ, EU, Nhật, Úc với
chi phí thấp và thời gian nhanh nhất.
Ở đây, Marketing Internet đã hoàn toàn vượt qua mọi trở ngại về
khoảng cách địa lý. Thị trường trong Marketing Internet không có giới hạn,
cho phép doanh nghiệp khai thác được triệt để thị trường toàn cầu. Đặc trưng
này của Marketing Internet bên cạnh những lợi ích đã thấy rõ còn ẩn chứa
những thách thức đối với các doanh nghiệp. Khi khoảng cách về địa lý giữa
các khu vực thị trường đã trở nên ngày càng mờ nhạt thì việc đánh giá các yếu
tố của môi trường cạnh tranh cũng trở nên khó khăn và phức tạp hơn nhiều.
Môi trường cạnh tranh vốn đã gay gắt trong phạm vi một quốc gia, nay càng
trở nên khốc liệt hơn khi nó mở rộng ra phạm vi quốc tế. Chính điều này đòi
hỏi các doanh nghiệp phải luôn sáng suốt trong quá trình lập kế hoạch
Marketing của mình.
Đa dạng hoá sản phẩm: Giới thiệu sản phẩm và dịch vụ trên các cửa
hàng ảo (Virtual Stores) ngày càng hoàn hảo. Chỉ cần ngồi ở nhà, trước máy
19
vi tính kết nối Internet, không phải tốn công đi lại, khách hàng vẫn có thể thực
hiện việc mua sắm như tại các cửa hàng thật. Các siêu thị máy tính ảo, các
phòng tranh ảo, các cửa hàng trực tuyến, các nhà sách ảo... đang ngày càng
trở nên sống động và đầy thú vị. Chúng ta có thể kể ra rất nhiều địa chỉ (trang
Web bán hàng trên mạng) của các “cửa hàng ảo” hoạt động kinh doanh thành
công trên mạng trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như
www.amazon.com: cửa hàng bán tất cả các cuốn sách cho mọi khách hàng
trên thế giới, hiện nay bán rất nhiều mặt hàng với mục tiêu phấn đấu thành
công ty bán lẻ lớn nhất thế giới; www.dell.com: cung cấp giải pháp công nghệ
thông tin đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
Giảm sự khác biệt về văn hoá, luật pháp, kinh tế: do có sự ra đời của
các Luật mẫu về Thương mại điện tử, chữ ký điện tử, giao dịch điện tử giúp
giảm thiểu những khác biệt về Pháp luật kinh doanh trên môi trường điện tử.
Mặt khác môi trường Internet có tính toàn cầu, sự khác biệt về văn hoá của
người sử dụng được giảm đáng kể.
Trở ngại của khâu giao dịch trung gian đã được loại bỏ: Trong
Marketing truyền thống, để đến được với người tiêu dùng cuối cùng, hàng hoá
thường phải trải qua nhiều khâu trung gian như các nhà bán buôn, bán lẻ, đại
lý, môi giới... Trở ngại của hình thức phân phối này là doanh nghiệp không có
được mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng nên thông tin phản hồi thường
kém chính xác và không đầy đủ. Bởi vậy, phản ứng của doanh nghiệp trước
những biến động của thị trường thường kém kịp thời. Ngoài ra, doanh nghiệp
còn phải chia sẻ lợi nhuận thu được cho các bên trung gian.... Nhưng với
Marketing Internet và Marketing điện tử những cản trở bởi khâu giao dịch
trung gian đã hoàn toàn được loại bỏ. Nhà doanh nghiệp và khách hàng có thể
20
giao dịch trực tiếp một cách dễ dàng và nhanh chóng thông qua các website,
gửi e-mail trực tiếp, các diễn đàn thảo luận...
1.2. NHỮNG CÔNG CỤ CỦA MARKETING QUA INTERNET
1.2.1. Sản phẩm qua Internet
Về khái niệm và nội dung, chính sách sản phẩm trực tuyến so với
marketing truyền thống không có nhiều điểm khác biệt lớn. Sự phát triển của
sản phẩm trực tuyến nhằm hướng đến việc cung ứng giá trị từ dịch vụ và sản
phẩm hàng hoá trên nền Internet. Do vậy, nội dung lớn nhất cần quan tâm là
việc tạo ra giá trị thoả mãn cho khách hàng trực tuyến. Quá trình phân tích
tính ứng dụng của marketing qua internet cho thấy, khách hàng sẽ quan tâm
đến lợi ích mà doanh nghiệp có thể cung ứng trực tuyến như: dịch vụ mua
hàng trực tuyến có thể cung ứng hàng hoá hữu hình nhưng không cần đến tại
điểm bán hay dịch vụ tra cứu thông tin nhanh qua các công cụ tìm kiếm như
Google hay Yahoo!...Tuy nhiên, tương tự như marketing truyền thống, khi
nghiên cứu sản phẩm với tư cách là một công cụ trong hệ thống marketing –
mix cần quan tâm những nội dung sau:
Về đặc tính sản phẩm: đây là một trong những nội dung quan trọng
hàng đầu vì nó quyết định giá trị cốt lõi cho sản phẩm và dịch vụ cung ứng
trên thị trường. Không giống như sản phẩm hữu hình, sản phẩm trực tuyến
thường hướng đến một số giá trị lợi ích vô hình mà người tiêu dùng quan tâm
như tính tức thời của thông tin, tính bảo mật hay sự thuận tiện cho khách
hàng. Đây là những giá trị cốt lõi mà mỗi một sản phẩm hay dịch vụ trực
tuyến thường hướng đến. Ví dụ: công cụ tìm kiếm Yahoo ! cung cấp cho
người đọc danh sách địa chỉ website có liên quan đến nội dung khách hàng
tìm kiếm. Như vậy, sự hiện diện hữu hình của danh sách website đã làm thoả
mãn giá trị vô hình của khách hàng là sự nhanh nhạy và đầy đủ của thông tin,
21
giúp tiết kiệm thời gian và chi phí. Việc lựa chọn giá trị cốt lõi cung ứng trong
quá trình ra quyết định về sản phẩm trực tuyến là cơ sở cho việc thiết kế và
tạo dựng nội dung sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng mục
tiêu.
Về nhãn hiệu: trong quyết định về nhãn hiệu của sản phẩm trực tuyến
cũng có đầy đủ bộ nhận dạng thương hiệu như marketing truyền thống: logo,
tên gọi, biểu tượng… nhưng quan trọng nhất khi ra quyết định về nhãn hiệu
đối với sản phẩm trực tuyến là việc sử dụng tên đồng nhất trên Internet với hệ
thống sản phẩm hữu hình hay tên miền độc lập. Tên miền được hiểu là địa chỉ
truy cập đến website hay cổng thông tin trên Internet. Đây là đặc điểm duy
nhất để phân biệt trong quá trình tìm kiếm và khác biệt hoá nhãn hiệu công ty
với đối thủ cạnh tranh khác. Thông thường, tên miền có bốn bộ phận sau:
http:// Định dạng dữ liệu tìm kiếm
www chỉ nguồn khai thác (không nhất thiết phải có bộ phận này)
Domain name chỉ tên của công ty đăng ký trên Internet như
Yahoo! hay Dantri v.v..
Com, Com.vn, org, gov… là cấu trúc bộ phận của tên miền chỉ
nguồn gốc xuất xứ hoặc phân loại của tên miền đó. Ví dụ „com.vn‟
được hiểu là trang web của Việt Nam hay „com.uk‟ là trang web
có nguồn gốc từ Anh quốc, đuôi “.gov” chỉ các website của chính
phủ, đuôi “.org” chỉ website của các tổ chức phi chính phủ….
Việc đặt tên miền cũng tuân theo quy luật đặt tên của nhãn hiệu sao cho
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ và thuận tiện trong tìm kiếm. Một tên miền đầy đủ
sẽ bao gồm các thành tố sau: http://www.dell.com.vn có nghĩa đây là địa chỉ
website của công ty Dell tại Việt Nam. Dell là một công ty đa quốc gia nên
cũng sẽ có những địa chỉ khác tương tự như tại Singapore sẽ là:
http://www.dell.com.sg v.v..
22
Về dịch vụ hỗ trợ: quá trình hỗ trợ khách hàng được triển khai cùng quá
trình cung ứng dịch vụ và hậu mãi. Sự phát triển của dịch vụ hỗ trợ tạo thêm
giá trị gia tăng cho khách hàng khi tìm kiếm sản phẩm trực tuyến. Ví dụ hệ
thống hỗ trợ khách hàng của www.amazon.com rất quan tâm đến thông tin
khách hàng. Hầu hết thông tin về khách hàng, số lần lướt web và nội dung
thông tin thường tìm kiếm của họ đều được máy chủ lưu giữ và tiếp tục cập
nhật thông tin cho khách hàng trong lần tìm kiếm kế tiếp. Việc phát triển dịch
vụ hỗ trợ khách hàng được đánh giá là một trong những cơ sở quan trọng cho
quá trình xây dựng chiến lược khác biệt hoá giữa những doanh nghiệp cung
ứng sản phẩm trực tuyến trong cùng lĩnh vực.
1.2.2. Kênh phân phối trực tiếp qua Internet
Sự phát triển của hệ thống phân phối trực tuyến chịu sự ảnh hưởng lớn
nhất của công nghệ thông tin. Thành viên trong kênh phân phối trực tuyến
được phân chia tương tự như mô hình kênh phân phối hữu hình: Nhà sản xuất,
trung gian và người mua; song độ dài của kênh, hình thức hoạt động và vai trò
của từng thành viên trong kênh có sự khác biệt khá lớn. Thông thường, trong
hoạt động kinh doanh trực tuyến có bốn mô hình kênh như sau:
Thứ nhất, mô hình kênh tài trợ nội dung (Content Sponsorship): áp
dụng đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thông tin và thu tiền từ quảng
cáo như Google, Yahoo!, MSN…Loại hình báo điện tử hay trang tin cũng
hoạt động theo hình thức này. Kênh phân phối dạng ngắn, trực tiếp đến khách
hàng.
Thứ hai, mô hình bán hàng trực tiếp (Direct Selling): áp dụng trên thị
trường trực tuyến dành cho khách hàng tổ chức B2B (Business to Business)
và đã “nhen nhóm” trên thị trường trực tuyến cá nhân B2C (Business to
Customer). Khách hàng đặt hàng, thanh toán và thực hiện giao dịch trực tuyến
23
thông qua một website hoặc cổng giao dịch. Kênh này thường áp dụng cho
doanh nghiệp kinh doanh phần mềm, nhạc số hay dịch vụ hữu hình khác
không đòi hỏi tồn kho, giao hàng… Đây cũng là mô hình kênh ngắn chỉ với
hai thành viên trong kênh.
Thứ ba, mô hình trung gian về thông tin (Infomediary): phổ biến trong
lĩnh vực nghiên cứu thị trường trực tuyến và tài trợ thông tin. Thông qua trung
gian thông tin, khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu tìm hiểu
thông tin về một nhóm đối tượng mục tiêu nào đó sẽ đặt hàng cho trung gian
thực hiện khâu tìm kiếm thông tin với tiêu chí nhất định. Kết quả của quá
trình trao đổi là thông tin thu được từ cuộc nghiên cứu trực tuyến. Đối với
doanh nghiệp lớn, với bộ phận thông tin độc lập có thể triển khai mô hình
bằng chính nguồn lực bên trong để thu thập thông tin một cách chính xác và
đầy đủ về một vấn đề nghiên cứu nhất định. Đây được đánh giá là một trong
những đóng góp lớn nhất của Internet marketing trong việc xây dựng hệ thống
thông tin marketing.
Thứ tư, mô hình trung gian độc lập (Intermediaries): thể hiện dưới
dạng cổng thông tin trao đổi hàng hoá, dịch vụ như đấu giá (E-bay) hay đại
diện cho nhà sản xuất (tương tự như văn phòng đại diện của doanh nghiệp
trực tuyến) v.v.. thường áp dụng trong lĩnh vực du lịch, khách sạn, mua – bán
vé máy bay. Ngoài ra, mô hình bán lẻ trực tuyến (Online Retailing) hiện đang
rất phát triển với hai nhóm sản phẩm là hàng hoá hữu hình và dịch vụ số. Hầu
hết, website của công ty đều hướng đến mô hình này nhằm thay đổi thói quen
tiêu dùng và phát triển thêm một hệ thống phân phối mới. Tuy nhiên, mô hình
này ở Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức như hệ thống cơ sở pháp lý
chưa hoàn thiện, hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo cho việc thực hiện giao dịch
số (thanh toán trực tuyến, chữ ký điện tử, tải dữ liệu với dung lượng lớn v.v..)
24
Việc lựa chọn hình thức phân phối trực tuyến như thế nào phụ thuộc rất
nhiều vào đặc điểm của doanh nghiệp, đặc tính hàng hoá và dịch vụ của
doanh nghiệp cũng như định hướng thị trường của doanh nghiệp. Vì vậy, việc
ra quyết định đối với kênh phân phối trực tuyến nên được cân nhắc ngay sau
khi doanh nghiệp ra quyết định sản phẩm của mình cung ứng để có mô hình
kênh phân phối phù hợp nhất.
1.2.3. Giá và kiểm soát giá qua Internet
Giá trong marketing truyền thống là công cụ duy nhất đem lại doanh
thu cho doanh nghiệp bằng tiền và thường được ấn định từ phía nhà sản xuất,
song giá trong Internet marketing và E-Marketing lại có góc nhìn hoàn toàn
mới – giá tham chiếu (Price Transparency), hình thức đặt giá mà cả người
mua và người bán đều có thể tham khảo tất cả mức giá cạnh tranh khác được
rao bán trực tuyến để ấn định mức giá hợp lý cho cả hai bên. Từ quan điểm
này, quyết định về chiến lược giá trực tuyến được phát triển theo hướng sau:
Thứ nhất, chiến lược giá cố định (Fixed Pricing): tương tự như cách ấn
định giá cho sản phẩm dịch vụ trong marketing truyền thống, thường tập
trung vào một số hàng hoá có mức giá cạnh tranh hơn so với giá thực tế ngoài
thị trường do cắt giảm chi phí vận chuyển, thanh toán v.v.. khi thực hiện giao
dịch trên mạng. Chiến lược giá này bắt buộc người mua và người bán phải
tuân thủ mức giá đề ra, không được áp dụng chiết khấu dưới bất kỳ hình thức
nào.
Thứ hai, chiến lược giá linh hoạt (Flexible Pricing): chiến lược giá áp
dụng cho nhiều đối tượng khác nhau với mức giá khác nhau sao cho đem lại
hiệu quả cao nhất. Hai hình thức đặt giá phổ biến trong chiến lược này là giá
áp dụng cho từng phân đoạn thị trường (Segmented Pricing) và giá có thể đàm
phán (Negociated Pricing). Hai chiến lược này được áp dụng chủ yếu trong
25
giao dịch trực tuyến vì phù hợp với quan điểm giá tham chiếu, phản ánh đặc
tính hàng hoá, và nâng cao khả năng tự ra quyết định của người mua hàng
trực tuyến.
1.2.4. Truyền thông Marketing tích hợp
Thay vì sử dụng bốn công cụ xúc tiến hỗn hợp trong marketing truyền
thống, do được tiến hành trong môi trường ảo, hệ thống truyền thông trực
tuyến chỉ bao gồm quảng cáo trực tuyến, khuyến mại và quan hệ công chúng
(không bao gồm bán hàng cá nhân):
Đối với quảng cáo trực tuyến: quyết định về quảng cáo trong Internet
Marketing là việc lựa chọn hình thức quảng cáo hiệu quả trên phương tiện
duy nhất là Internet. Một số hình thức quảng cáo phổ biến: quảng cáo logo,
banner, Pop-up và Scroll-up. Hai hình thức đầu tiên được đo bằng đơn vị
pixel để xác định vị trí và hiệu quả. Hai hình thức còn lại được tính bằng thời
gian (ngày, tháng) lưu trên giao diện chính.
Đối với hoạt động quan hệ công chúng trực tuyến (PR): thường tập
trung tạo ra sự kiện để thu hút sự tham gia của khách hàng đến dịch vụ doanh
nghiệp cung cấp. PR trực tuyến gồm 03 nội dung chính: truyền tải nội dung
thông tin về doanh nghiệp trên hệ thống website, tạo blog hoặc web-log để
đăng tải thông tin, thu nhận thông tin phản hồi từ phía khách hàng về dịch vụ
của doanh nghiệp cũng như ngành kinh doanh và tạo dựng cộng đồng chung
có cùng giá trị chia sẻ. Hoạt động PR trực tuyến phải ứng dụng được sức
mạnh truyền thông, tạo hiệu ứng cho dịch vụ trực tuyến khác hoạt động hiệu
quả.
Đối với hoạt động marketing trực tiếp: được đánh giá là một trong
những công cụ mạnh nhất trong hoạt động truyền thông marketing tích hợp,
một số hình thức như gửi e-mail, tin nhắn qua hệ thống SMS… khá phổ biến.
26
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của dịch vụ gia tăng trên thiết bị di động,
nhiều công ty đã áp dụng thành công công cụ này cho việc quảng bá thương
hiệu, chăm sóc khách hàng và giới thiệu sản phẩm mới như tin nhắn chúc
mừng sinh nhật cho thuê bao thuộc hệ thống khách hàng của FPT Nokia, giới
thiệu chương trình khuyến mại của Vinaphone v.v..
Đối với khuyến mại trực tuyến: Thay vì tặng phiếu mua hàng trực tiếp,
khách hàng có thể nhận phiếu mua hàng trực tuyến tại cửa hàng “ảo‟ trên
Internet hay mẫu dùng thử (phần mềm chạy thử, trò chơi…) Sự đa dạng của hình
thức khuyến mại được quyết định bởi đặc điểm của dịch vụ cung ứng cũng như
khả năng tạo thêm giá trị gia tăng mới từ dịch vụ khuyến mại kèm theo.
1.2.5. Quản trị quan hệ khách hàng
Những đóng góp của Internet đối với hoạt động marketing được chứng
minh khá rõ thông qua sự góp mặt của CRM trong hệ thống Internet marketing-
mix. Khái niệm về marketing quan hệ theo định nghĩa của Judy Strauss. “CRM
là quá trình định hướng, trao đổi, cung ứng, phục vụ, duy trì và bồi đắp mối
quan hệ dài hạn với khách hàng. Nó bao gồm chuỗi hoạt động xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu khách hàng và kiểm soát mức độ thoả mãn của khách hàng
thông qua sự hỗ trợ của công nghệ thông tin”[16]. Như vậy, để khai thác hiệu
quả của CRM, người quản lý cần quyết định ba vấn đề chính sau:
- Kiểm soát hoạt động đội kinh doanh để cập nhật thông tin về thực trạng hệ
thống khách hàng (khách hàng mới, khách hàng cũ, khách hàng trung thành);
- Kiểm soát hoạt động marketing của doanh nghiệp nhằm xác định dịch vụ
cung ứng hiện tại đã thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở cấp độ nào, từ đó,
đánh giá hiệu quả, điều chỉnh khi cần thiết.
27
- Xây dựng hệ thống dịch vụ khách hàng. Ở Việt Nam hiện nay, CRM mới
chỉ tập trung chủ yếu vào nội dung thứ ba này với nhiều dịch vụ gia tăng như
tặng quà, gọi điện thăm hỏi, giải đáp khiếu nại…
Thông thường, hệ thống dịch vụ khách hàng bao gồm dịch vụ sau:
Bảng 1.1: Kênh cung ứng dịch vụ khách hàng
TT LOẠI HÌNH DỊCH VỤ % SỬ
Trung tâm trả lời trực tiếp khiếu nại khách hàng 1
E-mail 2 92 DỤNG 88
Thư tín 3 87
Fax 4 82
5 Hỗ trợ dịch vụ tại website của doanh nghiệp 53
6 Hộp thư trả lời tự động 38
7 Trung tâm hỗ trợ dịch vụ trực tuyến 31
8 Bản đánh giá của khách hàng 27
9 Thông qua hệ thống cửa hàng bán lẻ 12
10 Đến trực tiếp tại trung tâm dịch vụ khách hàng 58
11 Kênh khác 10
(Nguồn: “Sustaining Customer Care in a Rapidly Changing Business world”,
Laurent Castro, Conference Board 2003, NewYork )
Qua bảng số liệu trên, chúng ta thấy các kênh cung ứng dịch vụ khách
hàng qua Internet chiếm tỉ lệ khá cao trong số các kênh được liệt kê (4/11
kênh). Dịch vụ khách hàng qua Email được sử dụng lên tới 88% chỉ sau Trung
tâm trả lời trực tiếp khiếu nại khách hàng (99%), kênh hỗ trợ dịch vụ tại
website của doanh nghiệp mức độ sử dụng cũng lên tới 53%. Điều này đã cho
thấy sự thành công của việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trên những
công cụ marketing, tạo cơ hội cho người làm marketing đa dạng hoá chiến
lược, gia tăng giá trị cung ứng và sự thoả mãn cho khách hàng. Do sự thuận
tiện, không đòi hỏi chi phí quá cao và dễ dàng cho các đối tượng sử dụng từ cá
28
nhân đến doanh nghiệp, hoạt động CRM qua Internet nói riêng và Marketing
qua Internet nói chung ngày càng được các doanh nghiệp đánh giá cao.
1.3. VAI TRÒ CỦA MARKETING QUA INTERNET
Thông tin của một đứa trẻ mới sinh, một cụ già vừa qua đời đều có thể
được ghi lại bằng dấu ấn của “số hoá” trên hệ thống thông tin Nhà nước hay
công tác khiếu nại của người dân đến Quốc hội thông qua website v.v.. cho
thấy cuộc sống của con người đang được gắn liền với Internet, với công nghệ
cao. Tuy nhiên, mức độ chấp nhận công nghệ đối với mỗi cá nhân là khác
nhau. Vì vậy, để đánh giá vai trò của Internet marketing đối với hoạt động
kinh doanh, chúng ta cũng cần có sự đánh giá và nhìn nhận từ góc độ mỗi cá
nhân và cộng đồng về lĩnh vực này.
1.3.1. Đối với khách hàng
Nếu trong thời đại ngày nay, thông tin được đánh giá là một trong
những nguồn lực quan trọng nhất của xã hội, thì mỗi cá nhân hiện đang có cơ
hội nắm trong tay nhiều thông tin hơn bất cứ khi nào. Trong quá trình ra quyết
định mua, khách hàng được cung cấp một lượng thông tin vô cùng đa dạng từ
nhiều nguồn khác nhau, phù hợp với đặc tính của từng nhóm. Họ có điều kiện
so sánh, đánh giá và tìm hiểu thông tin về sản phẩm kỹ hơn qua Internet, thậm
chí, họ có thể thu về giá trị gia tăng ngay khi chưa có quyết định mua nếu
nằm trong chiến lược Internet marketing của doanh nghiệp như tặng tài khoản
Internet miễn phí, tải nhạc miễn phí…Không chỉ đơn giản là cung cấp thông
tin, ứng dụng của Internet đã rút ngắn khoảng cách giao dịch của B2C, tạo đà
cho sự phát triển của thương mại điện tử.
29
1.3.2. Đối với xã hội
Xét rộng hơn, mức độ chấp nhận Internet marketing được đánh giá
thông qua hiệu quả truyền tin trên Internet. Ngày nay, những thuật ngữ như
forum, nhật ký online - blogs hay công cụ tìm kiếm trực tuyến - Search
engine… không còn xa lạ với người dùng Internet. Sự xâm nhập của Internet
đã tạo ra những cộng đồng “ảo” với mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Số lượng
người sử dụng Internet liên tục tăng trong những năm gần đây, đồng thuận với
nó là sự gia tăng các nhóm nhỏ khách hàng mục tiêu đã tạo thành một cộng
đồng có sức lan toả mạnh, là cơ hội cho Internet marketing triển khai chiến
lược “bành trướng” của mình.
Bảng 1.2: Số lƣợng và tỉ lệ ngƣời sử dụng Internet trên toàn thế giới
Số lượng người Mức độ tăng Dân số Tỉ lệ dân số sử
VÙNG dùng Internet trưởng (%) năm 2004 dụng Internet
2000 2004 (triệu) (2000– 2004) (triệu) trên tổng số
Bắc Mỹ 108,1 228,0 110,9 326,7 dân (%) 69,8
Châu Âu 101,0 217,9 115,7 718,9 29,9
Châu Á 114,3 243,6 113,2 3.654,6 6,7
Mỹ Latinh 18,1 51,1 183,3 9,4 546,1
và Caribe Châu Phi 4,5 12,3 171,4 1,4 906,0
Trung Đông 5,3 16,8 219,2 2,1 259,2
Châu Đại 7,6 16,0 109,7 2,0 31,9
Dương Tổng cộng 358,9 785,7 100 6.453,3 12,2
(Nguồn: “Internet Usage Statistics – the big picture”
www.internetworldstats.com/stas.htm)
30
Qua những số liệu trên chúng ta thấy số lượng người sử dụng Internet
liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối trong thời gian qua. Từ 385,9
triệu người dùng Internet lên 785,7 triệu người tương đương với mức độ tăng
trưởng là 100%. Trong số các vùng thống kê, Bắc Mỹ và Châu Âu là các vùng
có tỉ lệ dân số sử dụng Internet ở mức cao nhất: 69,8 % và 29,9 %, ở Châu Á tỉ
lệ dân số dùng Internet về con số tương đối chưa cao: 6,7% tuy nhiên tương
ứng với gần 243 triệu người vào năm 2004 là con số không nhỏ. Những con số
ấy cho thấy mức độ chấp nhận của cộng đồng ngày càng cao và những công cụ
của Internet marketing đang dần được đưa vào đời sống kinh doanh.
1.3.3. Đối với hoạt động kinh doanh
Internet marketing đã thực sự tạo ra một quy trình kinh doanh mới
trong thế giới số. Nhà quản trị sẽ trải qua quy trình ba bước của quá trình
quản trị, đều có những phân tích, đánh giá về thị trường (E - Environment), về
quá trình lựa chọn chiến lược để triển khai kế hoạch (S - Strategy) cho đến
quá trình thực hiện (P - Planning), tuy nhiên tất cả đều thực hiện trong môi
trường “số hoá”. Vai trò của Internet marketing được thể hiện rất rõ trong quá
trình kế hoạch hoá chiến lược của doanh nghiệp. Cụ thể, nhà quản trị có thể
thu thập các thông tin về môi trường vĩ mô, vi mô và các yếu tố khác ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua Internet, từ đó
có những chiến lược kinh doanh thích hợp với sự lựa chọn các chiến lược
Marketing hỗ trợ mang lại hiệu quả tối ưu trên nền Internet. Cuối cùng là lập
kế hoạch thực hiện và đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngay cả bước
cuối cùng này cũng có thể được thực hiện với sự hỗ trợ tích cực của Internet
Marketing.
31
Internet THỊ TRƯỜNG
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ kế hoạch hoá chiến lƣợc kinh doanh
E
Môi trường vĩ mô Môi trường vi mô Các yếu tố ảnh hưởng khác
S W O T
KẾ HOẠCH INTERNET MARKETING
S
CHIẾN LƢỢC E- BUSINESS
INTERNET MARKETING - MIX
CHIẾN LƢỢC INTERNET MARKETING
CRM
P
THƢỚC ĐO ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
(Nguồn: Judy Strauss, Adel El-Ansary and Raymond Frost, Internet
marketing, Tr. 20).
Với tư cách là một bộ phận không thể thiếu của quá trình chiến lược
hoá hoạt động kinh doanh, vai trò của Internet marketing đối với hoạt động
kinh doanh có thể được lượng hoá theo những tiêu chí sau:
Internet marketing kiến tạo giá trị mới: Bằng việc ứng dụng Internet
marketing, doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân
trong quá trình sản xuất hàng loạt, cung cấp thông tin có tính chất cá thể,
thuận tiện với tiêu chí 24h trên 7 ngày, tăng cường hệ thống quản lý bán và
theo dõi tiến trình cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển hệ thống phân phối v.v..
Internet marketing giúp cho việc cắt giảm chi phí: Internet marketing là
kết quả của việc tính toán hiệu quả chi phí; Cụ thể là tiết kiệm chi phí trong
hoạt động phân phối, cắt giảm chi phí truyền thông bằng công cụ sẵn có, chi
32
phí nghiên cứu và chăm sóc khách hàng, tạo lập hệ thống kênh phân phối hiệu
quả và nâng cao chất lượng công tác chăm sóc khách hàng.
Internet marketing làm gia tăng doanh thu: Quá trình trao đổi trực
tuyến giúp cho việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cung ứng, tạo cơ hội cho
việc cải thiện doanh thu. Ngoài ra, với việc tạo thêm nhiều giá trị gia tăng,
doanh nghiệp có cơ hội tăng giá một cách hợp lý đồng thời việc xây dựng hệ
thống thông tin khách hàng giúp cho nhà quản trị có thêm điều kiện kích
thích, thay đổi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng trong cơ cấu chi tiêu v.v..
Rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian: Với hình thức
marketing thông thường, doanh nghiệp phải bố trí doanh nghiệp và đội ngũ
nhân viên của mình tại các địa phương, quốc gia mà mình tiến hành hoạt động
kinh doanh. Như vậy, với số lượng nhân viên vừa phải doanh nghiệp chỉ có
thể tập trung vào một hoặc một số thị trường trọng điểm của mình và hoạt
động marketing bị giới hạn trong biên giới lãnh thổ. Thông qua các công cụ
của marketing trực tuyến, với môi trường kinh doanh là mạng Internet toàn
cầu doanh nghiệp dễ dàng có thể tiếp cận khách hàng tiềm năng của mình trên
nhiều khu vực lãnh thổ và không bị giới hạn bời khu vực địa lí. Một công ty
tại Việt Nam có thể bán hàng qua mạng, gửi những thông điệp tiếp thị qua
email tới những khách hàng ở những nơi rất xa về mặt địa lí: Mỹ, Châu Âu…
trong thời gian ngắn. Các công ty không tin học hoá hoạt động kinh doanh
của mình, chỉ sử dụng đội ngũ nhân viên để thực hiện hoạt động kinh doanh
sẽ chịu những giới hạn về thời gian làm việc. Nhân viên công ty này sẽ làm
việc theo giờ giấc cố định. Hết giờ làm việc, các nhân viên này sẽ về nhà .
Vậy nếu khách hàng có nhu cầu mua sản phẩm dịch vụ vào thời gian không
làm việc của cơ quan thì doanh nghiệp đã mất đi một lượng khách hàng.
Ngược lại, với việc tự động hoá việc kinh doanh, doanh nghiệp có thể phục vụ
khách hàng của mình tốt hơn, không hạn chế về thời gian. Doanh nghiệp sẽ
33
chăm sóc được những nhu cầu của khách hàng 24/24 giờ; 7 ngày trong tuần;
365 ngày trong một năm.
Phản hồi nhanh: Thông thường, khi khách hàng có thắc mắc về sản
phẩm dịch vụ của công ty, nhân viên công ty nhận các thông tin này, xử lí và
có phản hồi. Tuy nhiên, quá trình này tốn thời gian và nhiều khi không kịp
thời. Nhiều khi doanh nghiệp phải trả lời cùng một thắc mắc cho rất nhiều
người. Với công nghệ Web, doanh nghiệp có thể đăng những thắc mắc
thường gặp của khách trên website của mình, và khách hàng sẽ tự tìm thấy
câu trả lời cho câu hỏi của mình
Dễ thay đổi và thích nghi: Thay đổi một quy trình kinh doanh thường
không dễ dàng. Doanh nghiệp phải đối mặt với sức ỳ của hệ thống. Việc thay
đổi gây ra nhiều xáo trộn, đặc biệt là khi liên quan đến con người. Với giải
pháp marketing trực tuyến, doanh nghiệp có thể điều chỉnh những yếu tố “linh
hoạt”: website, quy trình kinh doanh ứng dụng công nghệ thông tin .v.v. để
thích nghi với điều kiện mới.
Tạo lợi thế cạnh tranh : càng ngày thì hoạt động kinh doanh và
marketing càng trở nên khó khăn bởi thị trường có quá nhiều sản phầm và
dịch vụ tương tự, cùng thoả mãn nhu cầu.Những doanh nghiệp biết kết hợp
marketing truyền thống và marketing trực tuyến sẽ có lợi thế hơn những
doanh nghiệp chỉ sử dụng các biện pháp marketing truyền thống.Internet ngày
nay cũng được coi là một môi trường kinh doanh quan trọng, nhất là những
nước có tỉ lệ sử dụng Internet cao .
Tạo mối quan hệ bền chặt với khách hàng : Hoạt động marketing luôn
coi trọng khách hàng. Công ty nào xây dựng được mối quan hệ bền chặt với
khách hàng, có các khách hàng trung thành sẽ có ưu thế trong hoạt động kinh
doanh. Nhờ tự động hoá, các thói quen, hành vi, các đặc điểm cá nhân của
34
khách hàng được theo dõi và lưu giữ. Qua đó, doanh nghiệp nhanh chóng biết
được khách hàng cần gì để đưa ra cách đáp ứng. Khi khách hàng được quan
tâm đẩy đủ, họ sẽ trung thành hơn với sản phẩm dịch vụ của công ty.
Qua những đánh giá, nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau về Internet
marketing, đã cho chúng ta thấy một bức tranh tương đối tổng thể về Internet
Marketing và vai trò của nó đối với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế số.
1.4. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI MỘT SỐ
CÔNG TY TRÊN THẾ GIỚI
Internet là một công cụ tuyệt vời để mở rộng tầm vươn xa của một nhãn
hiệu công ty. Một số nhãn hiệu được thừa nhận rộng rãi ngày nay như Yahoo!
chỉ hoàn toàn nhờ vào việc đưa lên Internet. Những công ty khác như
Gateway hay Disney đã sử dụng Internet để củng cố cho nhãn hiệu vững chắc
vốn có của họ. Ngay cả những công ty lâu đời và mang tính truyền thống hơn
như Ford, General Electric cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc mở rộng
nhãn hiệu sang những cộng đồng mạng bằng cách tạo ra những website tinh tế
và đắt tiền. Ford có hẳn một “phòng trưng bày trực tuyến” trong đó khách
hàng có thể xem tất cả những mẫu ô tô và xe tải mới nhất của Ford đồng thời
cũng có thể tìm hiểu được thông tin về các mẫu mã khác của công ty. Địa chỉ
này còn cung cấp cả thông tin về lịch sử ô tô cổ điển cho những người thích
tìm hiểu như Thunderbird hay Mustang.
Internet cũng được các công ty trong lĩnh vực xuất bản sử dụng để
quảng bá cho hình ảnh và sản phẩm của mình. Tạp chí Horticulture, Nghệ
thuật làm vườn Mỹ, cung cấp một website cho phép khách hàng đến thăm có
thể lập quy hoạch cho khu vườn của mình đến từng gốc cây, ngọn cỏ. Thậm
chí nó còn có một tiện ích cho phép người truy cập nhập địa chỉ nơi họ định
đặt mảnh vườn để xem thông tin về các loại cây phù hợp với vùng đất ở đó.
35
Nhờ một website như vậy mà số độc giả của tạp chí này tăng lên trông thấy.
Hay tại trang web bán sách trực tuyến hàng đầu thế giới Amazone.com, nhờ
kĩ thuật, người quản lí trang web biết được rằng những người mua sách
Marketing thường mua sách về quảng cáo. Vì thế, trong quá trình người mua
sách tìm hiểu những đầu sách về Marketing thì các đầu sách về quảng cáo
cũng được giới thiệu. Điều này giúp Amazone không những bán được những
sách về Marketing mà còn bán thêm được một số sách về quảng cáo.
Hay chúng ta có thể kể đến một ví dụ khác, đó là sự ra đời của website
về du lịch nổi tiếng nhất hiện nay của Mỹ : vacation.com. Vào thời điểm năm
1994, khi dịch vụ trực tuyến mới bắt đầu nhen nhóm xuất hiện trong các hộ
gia đình Mỹ, và Easy Sabre là hãng đứng đầu trong lĩnh vực cung cấp các tour
du lịch trực tuyến, sau đến là các hãng International Expedition, Mountain
Travel…Tuy nhiên chưa có một website nào tổng hợp được tất cả các thông
tin về du lịch. Vacation.com đã ra đời với một cơ sở dữ liệu tiếp thị đầy đủ
nhất cho du lịch, cung cấp một mạng lưới các website với bộ sưu tập phong
phú nhất về nội dung du lịch, giải trí hiện có trên Internet, và đã đạt được tỉ lệ
người thăm viếng cao, rất nhiều những khách thăm quan website
vacation.com sau này trở thành khách hàng. Mạng Vacation.com gồm hơn 20
địa chỉ hướng vào khách hàng cá nhân bán những sản phẩm như tour du lịch,
kì nghỉ trọn gói… và thông tin về hơn 30 hãng quản lý tour du lịch theo
chuyên đề. Ngoài ra để có thể quảng bá thành công, không thể không kể đến
mối quan hệ vàng giữa Vacation và những người hùng Internet như Yahoo!,
Alta vista, Excite…Nhờ việc thiết lập các công cụ tìm kiếm mà đến năm 1998
có hơn 3 triệu lượt người thăm viếng website một tháng, và hơn 400.000
người khác thường xuyên sử dụng dịch vụ đem đến doanh thu hơn 20 triệu
USD và lãi suất cao từ những người chuyên đặt chỗ nghỉ hàng năm [15].
36
Qua những phân tích ở trên về Marketing qua Internet chúng ta thấy
mặc dù Internet Marketing là một khái niệm mới xuất hiện, nhưng vai trò của
nó đối với hoạt động kinh doanh đã được khẳng định. Trong thời đại bùng nổ
của công nghệ thông tin và Internet, doanh nghiệp nào không biết nhanh
chóng khai thác những lợi ích mà nó mang lại, tất yếu sẽ bị bỏ lại phía sau.
Ứng dụng Marketing qua Internet là điều cần thiết để doanh nghiệp không chỉ
tiếp tục duy trì vị trí và hình ảnh của mình trên thương trường, mà còn là con
đường để doanh nghiệp có thể đi nhanh và đi xa hơn trên con đường chinh
phục khách hàng, chiếm lĩnh thị trường.
37
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET
TẠI VIỆT NAM
2.1. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT
NAM
Áp dụng Marketing qua Internet là một ý tưởng mới xuất hiện ở Việt
Nam cách đây không lâu. Để áp dụng được công cụ Marketing qua Internet
cần một số điều kiện cơ bản : về cơ sở hạ tầng, nhân lực kĩ thuật cũng như
Marketing, về nhận thức của người dân cũng như của các doanh nghiệp.
2.1.1. Điều kiện về cơ sở hạ tầng
Marketing qua Internet hoạt động trên nền tảng Internet vì vậy việc
phát triển Internet là cần thiết. Môi trường Internet càng phát triển mạnh, số
người sử dụng càng nhiều thì các hoạt động Marketing qua Internet của doanh
nghiệp càng hiệu quả. Các hoạt động quảng bá trực tuyến càng có cơ hội tiếp
xúc với lượng lớn người sử dụng tiềm năng sản phẩm dịch vụ của công ty.
Bảng 2.1. Tình hình phát triển Internet tại Việt Nam năm 2007
1/2007 Nội dung 6-2007 12/2007
Số người dùng 16.737.129 16.511.849 18.500.000
Tỷ lệ số dân sử dụng Internet 19.87% 20.14 % 22.4%
Tổng thuê bao băng rộng 876.056 829.791 1.294.111
(Nguồn: Trung tâm Internet Việt Nam VNNIC, www.vnnic.com.vn)
38
Tỉ lệ dân số Việt Nam sử dụng Internet tính tới thời điểm tháng
12/2007 đã tăng lên đáng kể, đạt 22,04% tương ứng với số người sử dụng
18,5 triệu người [12], đó là một tín hiệu đáng mừng cho những ai đã kinh
doanh trên mạng hoặc đang ấp ủ những kế hoạch kinh doanh trên Internet. Số
lượng các nhà cung cấp dịch vụ mạng viễn thông cũng được mở rộng lên
thành 9 nhà cung cấp gồm Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội ( HPT), Tổng
công ty viễn thông quân đội (VIETTEL), Công ty cổ phần dịch vụ Internet
(OCI), Công ty cổ phần dịch vụ bưu chính viễn thông Sài Gòn (SPT), Công ty
Netnam - viện CNTT (NETNAM), Công ty cổ phần phát triển đầu tư công
nghệ (FPT), Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty
thông tin viễn thông điện lực (EVN), Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập
khẩu điện-điện tử quận 10 (TIENET). Sự xuất hiện của những công ty viễn
thông mới thay vì sự độc quyền của VNPT đem đến cho khách hàng nhiều sự
lựa chọn hơn với giá cả ngày càng cạnh tranh hơn, chất lượng dịch vụ tốt hơn
mà sự ra đời của dịch vụ truy cập Internet tốc độ cao ADSL ở Việt Nam vào
giữa năm 2003 là một minh chứng. Số lượng thuê bao Internet băng thông
rộng đã tăng từ 183 thuê bao vào năm 2003 lên 1294111 thuê bao vào năm
2007, là một con số hùng hồn cho thấy sự phát triển nhanh chóng của loại
hình dịch vụ này. Sự góp mặt của ADSL đã góp phần làm nên những tiền đề
quan trọng về cơ sở hạ tầng cho những ứng dụng thương mại trên nền Internet
tại Việt Nam.
2.1.2. Điều kiện về nhân lực
Để áp dụng được Marketing qua Internet cần những nhân lực am hiểu
kĩ thuật và nhân lực Marketing hiểu biết về Marketing ứng dụng trên nền
Internet.
39
- Đội ngũ kĩ thuật: phải có đội ngũ kĩ thuật am hiểu về tin học để có thể xây
dựng hoặc ứng dụng Internet trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Đội ngũ Marketing: ngoài những kiến thức cơ bản về Marketing truyền
thống, những người thực hiện Marketing qua Internet cũng phải có hiểu biết
về các công cụ của Marketing qua Internet vì môi trường Marketing qua
Internet có những đặc thù riêng so với môi trường Marketing truyền thống.
Theo điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI
phối hợp với tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG thực hiện năm 2005 về “Thực
trạng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong doanh nghiệp” tiến
hành tại 5 thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ) thì trong số 22.8% doanh nghiệp có tới 40%
nhân viên có kĩ năng tin học cơ bản (Words, Excel); đối với doanh nghiệp sản
xuất thì tỉ lệ này là dưới 20% nhân viên có kỹ năng tin học cơ bản (Words,
Excel). Đó là tỉ lệ cán bộ công nhân viên có khả năng sử dụng các chương
trình tin học văn phòng, còn tỷ lệ nhân viên biết sử dụng Internet trong thực tế
cao hơn con số này rất nhiều. Những con số nói trên so với thế giới còn thấp,
nhưng so với những năm trước đây ở Việt Nam thì đó là những tín hiệu vui về
sự cải thiện trình độ tin học và khả năng tiếp cận Internet của cán bộ, nhân
viên các doanh nghiệp.
Ngày nay các chương trình phổ cập tin học được đưa vào giảng dạy
trong nhà trường từ cấp tiểu học và đã có tác dụng to lớn trong việc truyền bá
những hiểu biết cơ bản về máy tính và Internet cho người dân; giúp mở ra khả
năng về một thị trường mạng rộng lớn.
Khái niệm Marketing dù đến Việt Nam hơi muộn (khoảng đầu thập
niên 90 của thế kỉ 20) nhưng cũng đã kịp đặt chân vào các trường kinh tế của
Việt Nam. Điều này giúp đảm bảo một nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng các
40
yêu cầu về kiến thức Marketing mà còn cả khả năng khai thác, vận dụng
những tiện ích của Internet trong việc thực hành nghề nghiệp sau này.
2.1.3. Điều kiện về nhận thức
Để ứng dụng được Marketing qua Internet trong hoạt động kinh doanh
thì doanh nghiệp phải có nhận thức về vai trò của công nghệ thông tin,
Internet và Marketing trong doanh nghiệp.
Với xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hoá, ý thức về việc đổi mới bằng
việc ứng dụng các phương pháp quản lí mới: sử dụng Internet, Marketing của
các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước.
Trước khi ứng dụng Marketing qua Internet, các doanh nghiệp cũng
phải có nhận thức cơ bản về thương mại điện tử và Marketing nói chung,
Internet Marketing nói riêng. Theo điều tra mới nhất của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam công bố tháng 01/2007 thì đến thời điểm năm 2006
có 20-25% số doanh nghiệp Việt Nam có website riêng. Trong số đó, có 5-6%
số doanh nghiệp ở Việt Nam thực sự thực hiện thương mại điện tử, còn lại
mới chỉ áp dụng Thương mại điện tử ở trình độ thấp. Như vậy, nhận thức của
doanh nghiệp Việt Nam về thương mại điện tử có thể nói là chưa thực sự tốt,
điều này sẽ gây khó khăn trong việc ứng dụng Marketing qua Internet trong
doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp sử dụng Marketing qua Internet nhằm
tiếp cận các doanh nghiệp khác.
Tóm lại, hiện nay điều kiện áp dụng Marketing qua Internet tại Việt
Nam đã có nhưng chưa đầy đủ. Doanh nghiệp, tổ chức hoàn toàn có thể áp
dụng Marketing qua Internet vào hoạt động kinh doanh để quảng bá các sản
phẩm dịch vụ của mình. Tuy nhiên, với mức độ tác động còn hạn chế của
Marketing qua Internet do số lượng người sử dụng Internet còn thấp, doanh
nghiệp nên coi Marketing qua Internet là một hoạt động bổ sung cho hoạt
41
động Marketing truyền thống của doanh nghiệp chứ không nên chỉ áp dụng
duy nhất các biện pháp Marketing trực tuyến.
2.2. HOẠT ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển mãnh mẽ, công nghệ
thông tin và thương mại điện tử đã xâm nhập vào mọi góc cạnh của đời sống
xã hội nói chung và hoạt động kinh tế nói riêng. Internet và Thương mại điện
tử đã trở nên quen thuộc với nhiều tầng lớp dân cư, từ học sinh, sinh viên đến
các doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước, từ đó những khái
niệm như Marketing online, Marketing trực tuyến, Internet Marketing cũng
được phổ biến rộng rãi hơn tại Việt Nam.
2.2.1. Thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam
Phát triển thương mại điện tử (TMĐT) là xu hướng tất yếu của thời đại
trên phạm vi toàn cầu. Để làm nên TMĐT, không thể không kể đến vai trò
của Marketing nói chung và Marketing qua Internet nói riêng, vì phần lớn
TMĐT được triển khai trên nền Internet trong đó Marketing qua Internet là
một trong những nội dung căn bản của TMĐT. Website giới thiệu sản phẩm,
thư điện tử, các banner quảng cáo, thậm chí cả forum và blog cá nhân, đó là
những công cụ rất dễ nhận thấy của Marketing trên nền Internet.
2.2.1.1. Xây dựng website
Hình thức đơn giản nhất của Marketing qua internet là việc thiết lập
một website giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ của một công ty. Website này có
thể đứng độc lập do doanh nghiệp tự quản lí hoặc là một phần của một cổng
thương mại điện tử .
Với các doanh nghiệp có kinh phí hạn hẹp thì việc tham gia một cổng
thương mại điện tử rất có lợi. Cổng thương mại điện tử này sẽ do một công ty
42
hoặc một tổ chức đứng ra xây dựng và quảng bá. Doanh nghiệp tham gia cổng
thương mại điện tử này chỉ phải trả một khoản phí nhỏ hàng năm là kinh phí
xây dựng website, chi phí quản lí trang web. Cổng thương mại điện tử này
giống như một cái chợ to, còn các trang web bên trong là các gian hàng, quầy
hàng. Ở Việt Nam có thể kể đến các cổng giao dịch thương mại điện tử được
nhiều người biết đến như: www.chodientu.com.vn; www.vnemart.com.vn ;
www.vietco.com.vn với nhiều doanh nghiệp tham gia.
Tuy nhiên, đối với các công ty lớn, việc có riêng một website vẫn là
cần thiết bởi các cổng thương mại điện tử thường chỉ cho phép doanh nghiệp
đăng thông tin theo mẫu nhất định, thường rất sơ lược, nhiều khi không truyền
tải được hết thông tin về sản phẩm, dịch vụ của công ty.
Một số doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng kết
hợp hai hình thức nói trên. Họ vừa xây dựng website riêng cho mình, vừa
tham gia một cổng thương mại điện tử. Trên website riêng của họ, các thông
tin về công ty, sản phẩm dịch vụ của công ty được cung cấp chi tiết đầy đủ.
Trên cổng thương mại điện tử, thông tin của công ty được cung cấp sơ lược
đủ để người đọc biết sơ qua về công ty: tên công ty, lĩnh vực hoạt động, khả
năng, website công ty…Nếu muốn tìm hiểu thêm người đọc có thể trực tiếp
truy cập website của công ty qua gian hàng ảo của cổng thương mại điện tử.
Như vậy, doanh nghiệp vẫn tận dụng được sự quảng bá chung của cổng
thương mại điện tử, vừa cung cấp được đầy đủ thông tin cần thiết cho những
người quan tâm.
Năm 2006 là năm có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành CNTT-TT, khi là
năm đầu tiên có luật về CNTT-TT, bộ Luật Giao dịch điện tử, và Luật
Thương mại sửa đổi 2005, Bộ Luật Dân sự sửa đổi, nghị định Thương mại
điện tử có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai “Kế hoạch tổng
43
thể TMĐT giai đoạn 2006-2010” do đó số lượng doanh nghiệp tham gia
TMĐT bắt đầu tăng lên…Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Thương mại, số
lượng doanh nghiệp có website chiếm chỉ khoảng 20-25%. Trong số đó, có
tới 93,8% số website chỉ để giới thiệu về công ty. Tính năng giao dịch điện tử
chỉ 27%. Tính ra, chỉ khoảng 5,4 đến 6% số doanh nghiệp Việt Nam sử dụng
thương mại điện tử [14]. Điều này một lần nữa cho thấy trình độ áp dụng
TMĐT nói chung và thực hành Marketing qua Internet nói riêng của các
doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.
2.2.1.2. Quảng cáo online
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta gặp quảng cáo ở khắp mọi nơi.
Từ những biển quảng cáo ngoài trời, các quảng cáo trên các báo và tạp chí
phổ biến cho đến quảng cáo trên truyền hình với hàng triệu khán giả theo dõi.
Ngày nay với sự xâm nhập của Internet, nhiều lĩnh vực bắt đầu được
Internet hoá. Song song với báo giấy, nhiều toà soạn cho ra đời những tờ báo
điện tử với nội dung phong phú, hấp dẫn, cập nhật. Công nghệ đã cho phép
xem các chương trình truyền hình trên Internet với chất lượng không thua
kém truyền hình thông thường. Người xem có thể xem được rất nhiều kênh
với chi phí rẻ, xem lại các chương trình mà mình bỏ lỡ, không phụ thuộc vào
lịch phát sóng của đài truyền hình.
Với các tính năng ưu việt kể trên, báo điện tử và các trang web thu hút
được lượng lớn người truy cập. Nhiều công ty đã nắm bắt cơ hội này và
quảng cáo trực tuyến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình. Những trang
báo điện tử Việt Nam: VnExpress, Vietnamnet, Thanhnien Online, TuoiTre
Online, Dantri thu hút được rất nhiều quảng cáo từ các doanh nghiệp lớn.
Thực tế cho thấy, nguồn thu từ quảng cáo là nguồn thu chính của các báo điện
44
tử miễn phí. Dưới đây là một số khái quát về thực trạng quảng cáo qua
Internet tại Việt Nam.
Hình thức quảng cáo: Có hai hình thức quảng cáo trực tuyến: quảng
cáo qua website và quảng cáo trả phí qua các công cụ tìm kiếm (Paid
advertising in Search Engine)
Quảng cáo qua website: quảng cáo dạng Banner,quảng cáo Pop-up, và
quảng cáo xen nội dung(Text based Ad) là những quảng cáo được đặt trên
website của một bên thứ ba và liên kết với website của doanh nghiệp.Các mẫu
quảng cáo này được thiết kế để khuyến khích người xem nhấp chuột (click)
vào để xem thêm thông tin, và lí tưởng nhất là mua sản phẩm. Những quảng
cáo này được tính trên một mức phí : theo từng lần nhấp chuột vào quảng cáo
(pay per click) hoặc theo doanh thu đem lại từ việc bán hàng do quảng cáo
này mang lại (pay per sale).
Quảng cáo qua công cụ tìm kiếm: Đó là việc đăng các từ khóa tìm kiếm
liên quan đến hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp trên các công cụ tìm kiếm
nổi tiếng như công cụ tìm kiếm của Yahoo!, Google,…Khi người truy cập
mạng đánh các từ khóa tìm kiếm vào các công cụ tìm kiếm thì sẽ được một
danh sách các kết quả thỏa mãn các tiêu chí tìm kiếm đó. Trong trường hợp
doanh nghiệp đăng kí từ khóa tìm kiếm của mình với các công ty quảng cáo thì
cơ hội họ xuất hiện trong danh sách kết quả của người tìm kiếm sẽ cao hơn.
Hiện nay hình thức quảng cáo qua website cụ thể là việc đặt banner,
logo trên các website có nhiều người truy cập là hình thức mà các doanh
nghiệp Việt Nam thường sử dụng nhất. Ngoài ra để thu hút các doanh nghiệp
tham gia, các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng đưa ra những hình thức
quảng cáo rất đa dạng khác như tổ chức các chuyên trang như Top 100, Best
Ten (trên http://www.vnn.vn, http://www.Business.vnn.vn ), các hội chợ
45
thương mại trên Internet. Các mục rao vặt trên Internet cũng rất phát triển,
người xem có thể tìm mua các đơn đặt hàng đơn lẻ trên mục rao vặt của
www.fpt.vn, www.raovat.com.vn, www.rongbay.com.vn ... Việc quảng cáo
qua các công cụ tìm kiếm cũng đang thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp
Việt Nam trong thời gian gần đây.
Thị trƣờng quảng cáo: Có thể khẳng định rằng thị trường quảng cáo
trực tuyến tại Việt Nam còn nhỏ bé và chưa phát triển hoàn thiện. Theo ước
tính của một chuyên gia về quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam doanh thu từ
quảng cáo trực tuyến chỉ đạt khoảng 15-20 tỷ đồng/năm, trong đó có tới 60%
thuộc về Vnexpress [5, tr.50]. Số người mua, người bán quảng cáo cũng chưa
nhiều. Trong số hàng trăm nghìn doanh nghiệp Việt nam chỉ khoảng 25%
trong tổng số doanh nghiệp có website riêng và vài ngàn doanh nghiệp thực
hiện quảng cáo trên mạng. Số website cung cấp dịch vụ quảng cáo trên mạng
trong cả nước ước tính khoảng 2.500 website, chủ yếu là website của các
doanh nghiệp, các cơ quan tổ chức chính phủ và cơ quan báo chí.
Tuy nhiên, điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đã thừa nhận
những lợi ích của quảng cáo trên mạng. Theo một cuộc điều tra chọn mẫu trên
20 doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu thuộc
trường Đại học Ngoại Thương năm 2007 cho kết quả: 25% số doanh nghiệp
được hỏi cho rằng vai trò quảng cáo trên mạng là rất quan trọng, 45% số
doanh nghiệp cho rằng Quảng cáo trên mạng có ảnh hưởng tốt tới kết quả
kinh doanh của công ty, chỉ có 5% cho rằng Quảng cáo trên mạng không có
ảnh hưởng gì đến công ty. Quảng cáo trên mạng không chỉ tác động tốt tới
các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, mà ngay cả đối với các công ty kinh
doanh hướng đến thị trường trong nước cũng đem lại những kết quả không
nhỏ. Công ty xuất nhập khẩu sách báo (thuộc Bộ Văn hoá và thông tin) đã cho
biết nhờ Website mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những
46
thay đổi về chất, khắc phục những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt
Nam và các nước. Cụ thể Web site www.xuhabasa.com.vn đã mang lại cho
công ty này thêm khoảng 5% khách hàng mới. Ngoài ra, sự xuất hiện công ty
trên Internet đã góp phần đưa uy tín của công ty lên một tầm cao mới, nhiều
đề nghị hợp tác làm ăn và thị trường mới cũng đã xuất hiện nhờ sự có mặt của
các công ty này. Nhà sách Minh Khai ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ sau một
tháng khai trương việc bán sách qua mạng đã bán được trên 1000 cuốn sách
các loại.
Chất lƣợng quảng cáo qua mạng: Các doanh nghiệp Việt Nam chủ
yếu sử dụng các chiến lược quảng cáo thụ động, xây dựng Website hoặc đặt
quảng cáo trên mạng và chờ khách hàng tự tìm đến với công ty của mình.
Chất lượng các quảng cáo trên mạng nói chung của các doanh nghiệp Việt
Nam chưa cao. Khả năng tài chính hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt Nam
đã không cho phép họ đầu tư nhiều cho những công nghệ hiện đại cho các
quảng cáo trên mạng cũng như việc cập nhật, thay đổi các quảng cáo đó. Bên
cạnh đó, tốc độ và dung lượng đường truyền chậm cũng không cho phép triển
khai các công nghệ quảng cáo quá phức tạp.
Vấn đề thiết kế quảng cáo trên mạng: Do không có đủ các cán bộ
chuyên môn về Internet và thiết kế quảng cáo trên mạng, các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay thường sử dụng dịch vụ thiết kế trang Web và quảng cáo
của các công ty tin học, các nhà cung cấp dịch vụ Internet và quảng cáo trực
tuyến. Với các lợi thế của mình, các công ty thiết kế cung cấp các dịch vụ tư
vấn, hỗ trợ và đưa ra những lựa chọn khác nhau cho các khách hàng. Các
doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ thiết kế một trang Web đơn giản với các
thông tin trên Internet như địa chỉ, điện thoại, số fax, email,...hoặc một trang
Web phức tạp hơn với các form đăng ký mua bán, trao đổi hoặc ký gửi hàng
hoá trên mạng hoặc là phần quảng cáo về sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh, các
47
loại hình dịch vụ. Hầu hết các doanh nghiệp thường chủ động gửi các thông
tin và hình ảnh cho nhà thiết kế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng có thể liên
hệ với nhà thiết kế để sử dụng kho dữ liệu ảnh trên Internet để chọn ảnh theo
chủ đề. Các nhà cung cấp dịch vụ thiết kế hiện nay còn cung cấp dịch vụ tư
vấn cho khách hàng đăng ký giới thiệu trang quảng cáo của mình trong các
diễn đàn thương mại trên Internet phù hợp với ngành hàng của doanh nghiệp
hoặc đăng kí Website của doanh nghiệp vào các công cụ tìm kiếm trên mạng.
Các công ty như FPT, VDC, VASC, Saigon Net, Phương Nam Net,...đều có
các trang Web đặc biệt để hỗ trợ thêm về quảng bá thương hiệu cho các hợp
đồng dài hạn.
2.2.1.3. E-mail Marketing
Thư điện tử đã được sử dụng khá lâu bởi nó rất rẻ và nhanh ngay cả
khi tốc độ đường truyền Internet không cao. Những người thực hiện
Marketing trực tuyến đã sử dụng thư điện tử để xây dựng mối quan hệ chặt
chẽ với khách hàng, đẩy các thông điệp quảng cáo tới khách hàng. Có thể coi
marketing qua thư điện tử là một dạng của tiếp thị trực tiếp. Công ty có trong
tay danh sách người mà mình sẽ gửi thư điện tử, các đặc điểm riêng biệt của
nhóm đối tượng này: tên, tuổi, giới, thu nhập, sở thích để từ đó có cách thức
tiếp cận riêng. Theo eMarketer, một công ty nghiên cứu về thương mại điện
tử cho biết 94 % số người sử dụng Internet có email. Năm 1999, các nhà hoạt
động marketing đã đầu tư 97 triệu đô la Mỹ cho các chiến dịch marketing qua
email, và lên tới 4.8 tỷ đô la Mỹ vào năm 2004 (Theo nghiên cứu của
Forrester). Ngân sách dành cho Email Marketing có thể lên tới hàng tỷ đô la
như vậy vì những lợi ích to lớn và ưu điểm vượt trội của nó so với các loại
hình quảng cáo truyền thống khác. Một số ưu điểm mà các doanh nghiệp có
thể dễ dàng nhận thấy như:
48
Tiết kiệm chi phí: chi phí để gửi một số lượng lớn thư điện tử rẻ hơn rất
nhiều so với chi phí gửi thư trực tiếp thông thường vì gửi thư điện tử
không phải chịu chi phí giấy, in ấn, phong bì, vận chuyển…
Duy trì mối quan hệ bền chặt: việc gửi thư điện tử thường xuyên cung
cấp các thông tin hữu ích về sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng sẽ khiến
khách hàng nhớ đến công ty. Do khả năng tự động hoá, công ty dễ dàng
định kì gửi cho khách hàng những thông tin mà khách hàng quan tâm
Dễ theo dõi và đo lường: với sự trợ giúp của máy tính và các phần mềm
chuyên dụng, từng “cử động” của khách hàng được công ty ghi nhận.
Chẳng hạn, công ty sẽ biết được trong bức thư điện tử mà mình gửi thì
phần nào được đọc nhiều nhất, số lấn đọc thư của khách, khu vực mà
khách hàng đang ở, sở thích của khách.
Phản hồi nhanh: với tính năng tự động hoá, công ty có thể ngay lập tức
phản hồi các thắc mắc của khách hàng. Khi sử dụng thư điện tử như
một công cụ tiếp thị cần được sự cho phép của khách hàng, nếu không
những thư mà công ty gửi đến sẽ bị coi là thư rác (Spam), khách hàng sẽ
không đọc những lá thư này và có ấn tượng xấu về công ty, khi đó công ty
sẽ khó khăn trong việc gửi những thông điệp khác qua thư điện tử sau này.
Các công ty Việt Nam cũng đã nhận ra những ưu điểm của loại hình
Marketing này, nếu như cách đây hai năm, thư Quảng cáo hầu như đến từ
nước ngoài thì hiện nay ngày càng xuất hiện nhiều thư Quảng cáo về sản
phẩm, dịch vụ ở Việt Nam với các nội dung quảng cáo vô cùng phong phú từ
dịch vụ lắp đặt, bảo hành, bán mỹ phẩm, thiết bị công nghiệp, sản phẩm điện
tử, phần mềm đến rao bán nhà đất trị giá vài trăm triệu đồng. Kết quả khảo sát
trên 20 doanh nghiệp xuất khẩu về mức độ quan trọng của Email Marketing
cũng cho kết quả rất khả quan: 20% số doanh nghiệp cho rằng Email
49
Marketing rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
36% cho rằng có ảnh hưởng tốt, chỉ có 16% cho rằng không hiệu quả [5].
Hiện nay với mức chi phí "rẻ như cho", chỉ khoảng vài trăm đến vài
triệu cho một danh sách vài triệu địa chỉ thư kèm phần mềm gửi, hình thức
Quảng cáo qua email hấp dẫn khá nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp nhỏ, tiểu thương, cá nhân có nhu cầu mua bán. Một doanh nghiệp năm
2007 đã tính toán rằng, để đến với hàng triệu khách hàng, nếu Quảng cáo qua
truyền hình tốn trung bình 150 - 200 đồng/lượt người xem, báo giấy 80 - 100
đồng/lượt người đọc, website 20 - 60 đồng/lượt người xem thì Quảng cáo qua
email chỉ tốn 1 đồng/lượt người xem, thậm chí còn rẻ hơn nữa.
Tuy nhiên, Quảng cáo qua e-mail tại Việt Nam bên cạnh những lợi ích
mà nó mang lại như chi phí rẻ, thì các ưu điểm khác như thiết lập quan hệ bền
chặt với khách hàng, phản hồi nhanh… không phát huy hết được tác dụng do
các loại email Quảng cáo gửi với số lượng lớn và không hữu ích với phần lớn
người đọc được gọi chung là thư rác (spam). Hầu hết người dùng đang bội
thực vì email Quảng cáo và bày tỏ sự khó chịu với nhưng email "không mời
mà đến" này. Con số thư rác vào các hộp email ngày một tăng, có khi tới vài
trăm email một ngày. Không chỉ thế, email còn đang dần trở thành công cụ để
lừa đảo trực tuyến khi ngày càng có nhiều kẻ sử dụng email để phát tán virus,
khủng bố bom thư (gửi nhiều thư gây nghẽn hệ thống), giả mạo để lừa đảo
người dùng cung cấp mật khẩu, số tài khoản Ngân hàng... Với sự gia tăng từ
những biến thái qua email, hiệu quả Quảng cáo qua hình thức này đang giảm
mạnh không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới.
2.2.1.4. Marketing qua công cụ tìm kiếm
Hiện nay, có hàng tỉ trang web trên thế giới. Công cụ tìm kiếm ra đời
nhằm trợ giúp việc tìm kiếm thông tin trên Internet dễ dàng hơn. Công cụ tìm
50
kiếm hoạt động theo nguyên tắc: khi nhập từ khoá cần tìm kiếm vào một
công cụ tìm kiếm thì nó sẽ trả về các kết quả thoả mãn tiêu chí trên.
Theo e-Marketer, một công ty chuyên nghiên cứu về Marketing trực
tuyến thì 90% số người dùng Internet sử dụng công cụ tìm kiếm ít nhất một
lần một ngày. Nhiều người tin rằng một công ty có thứ hạng cao trong kết quả
tìm kiếm ứng với một từ khoá là một công ty hàng đầu trong lĩnh vực đó. Vì
thế, để nằm trong 30 kết quả đầu tiên ứng với một vài từ khoá chủ chốt là một
lợi thế cạnh tranh to lớn.
Nhiều công ty lớn nhưng chưa chắc đã có thứ hạng cao ứng với một vài
từ khoá chủ chốt. Đây là cơ hội rất lớn cho các công ty nhỏ biết sử dụng biện
pháp Marketing qua công cụ tìm kiếm để vượt lên trong cuộc kinh doanh trên
mạng.
Hiện nay, có rất nhiều các công cụ tìm kiếm trong đó quan trọng nhất là
các công cụ tìm kiếm có phạm vi hoạt động toàn cầu vì có lượng người sử
dụng cao như Yahoo!, Google, MSN…Nếu có thứ hạng cao trên các công cụ
tìm kiếm này với đúng từ khoá thì cơ hội doanh nghiệp tiếp cận được với
khách hàng mục tiêu rất lớn.
Hình 2.1: Các công cụ tìm kiếm hàng đầu thế giới
51
Marketing qua công cụ tìm kiếm là hình thức Marketing mới và có nhiều
ưu điểm:
Khách hàng tìm đến tự nhiên: công cụ tìm kiếm được coi là một công cụ
khách quan khi tìm kiếm thông tin (phần quảng cáo trả phí qua công cụ tìm
kiếm đựơc tách ra khỏi kết quả tìm kiếm). Thật tự nhiên khi một người
muốn mua điện thoại cũ gõ vào công cụ tìm kiếm từ khoá “điện thoại cũ”
và xem xét các kết quả tìm kiếm để chọn cho mình một chiếc điện thoại cũ
phù hợp.
Không tốn kém: tuy việc có thứ hạng cao là khó khăn, nhưng việc này
thường không tốn kém do các công cụ tìm kiếm đánh giá kết quả theo các
tiêu chí khách quan : nội dung website, số lần truy cập ….
Không giới hạn phạm vi địa lí: các công cụ tìm kiếm lớn như Google,
Yahoo!… có phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Chúng hỗ trợ nhiều thứ
tiếng, vì thế ai cũng có thể thực hiện tìm kiếm thông tin mình muốn.
Độ tin cậy cao : Vì tính chính xác của kết quả tìm kiếm tạo nên uy
tín của các công cụ tìm kiếm cho nên kết quả tìm kiếm trả về được tính
toán bằng những tiêu chí khách quan và thường xuyên thay đổi.
Chúng ta đều có thể nhận thức rằng phương pháp marketing qua các
công cụ tìm kiếm là một trong những yếu tố rất quan trọng trong chiến lược
thương hiệu của các doanh nghiệp. Thứ tự thương hiệu của công ty trong kết
quả tìm kiếm và nội dung về thương hiệu của sản phẩm chính là những tiêu
chí để nhận định vị trí của công ty trong con mắt công chúng.
Để đạt được thứ hạng cao trong kết quả tìm kiếm thôi chưa đủ. Công ty
phải định vị mình với các từ khoá mà khách hàng mục tiêu của họ hay sử
dụng. Đây là một quá trình đòi hỏi sự nỗ lực lớn và thường xuyên của công
ty. Chiến thắng sẽ thuộc về những công ty sẵn sàng đầu tư vào các phương
52
thức phù hợp và lâu dài để có thể đảm bảo rằng quảng bá thương hiệu trên
mạng là điều tối quan trọng mà họ muốn. Công ty càng sớm nhìn nhận
marketing qua công cụ tìm kiếm trực tuyến là một nhân tố quan trọng trong
chiến lược thương hiệu, thì công ty đó càng nhanh chóng thành công trong
việc quảng bá thương hiệu của mình trên một môi trường không gian ảo
không biên giới của Internet.
Việc đăng kí các từ khoá tìm kiếm ngày càng được nhiều công ty Việt
Nam áp dụng bởi chi phi cho công cụ này cũng rất thấp mà hiệu quả mang lại
khá cao. Hầu hết các công ty cung cấp dịch vụ thiết kế, quảng bá website như
vietnamtradefaire.com, vietwebpro.com… đều cung cấp dịch vụ đăng kí từ
khóa tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm nổi tiếng thế giới. Chi phí trọn gói
đăng kí website vào các search engin theo báo giá của vietnamtradefaire.com
vào thời điểm tháng 04/2008 là 100 đô la Mỹ. Tuy nhiên, kết quả tìm kiếm là
khách quan, do vậy nó cần các công ty phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau
nhằm quảng bá cho công ty.
2.2.1.5. Marketing thông qua “cộng đồng ảo”
Cộng đồng ảo đầu tiên xuất hiện khoảng 10 năm sau khi hình thành nên
Internet. Vào đầu những năm 80, một mạng máy tính đầu tiên được gọi là
Usenet được lập ra để liên kết các trung tâm máy tính tại các trường đại học
sử dụng hệ điều hành Unix với nhau. Chức năng đầu tiên của Usenet là phân
phối các thông tin khác nhau thông qua mạng liên kết. Người tham gia có thể
thiết lập các nhóm tin về mọi chủ đề để cùng chia sẻ. Đây là các cuộc thảo
luận dưới dạng bảng tin. Người tham gia gửi các thông điệp tham gia một chủ
đề và đọc các thông điệp đã được gửi đến trước đó. Ban đầu các nhóm tin
được thiết lập xung quanh các chủ đề về kĩ thuật, các môn nghiên cứu sau đó
được mở rộng ra các chủ để khác như y tế, giáo dục, ẩm thực… Các nhóm tin
53
đã tăng lên nhanh chóng từ 150 nhóm tin vào năm 1984 lên hơn 25.000 nhóm
tin năm 1998. Ban đầu cộng đồng ảo được tạo ra trên Internet với mục đích
phi thương mại, nhưng càng về sau các nhà kinh doanh càng chú ý đến
khuynh hướng này.
Mạng tạo điều kiện cho mọi người trên toàn thế giới cộng tác với nhau
trong bất kì chủ đề nào mà họ quan tâm. Đây là bản chất của cộng đồng ảo.
Một cộng đồng tốt sẽ thúc đẩy sự hợp tác giữa các thành viên vì lợi ích của
nhau và của các tổ chức tham gia. Nhưng làm thế nào để các lợi ích thương
mại của một tổ chức có thể thích nghi với một cộng đồng ảo? Câu trả lời này
nằm trong việc tổ chức chiến lược tiếp thị. Hãy nghiên cứu ba loại chiến lược
tiếp thị: Chiến lược tiếp thị đại chúng, tiếp thị trực tiếp và tiếp thị hợp tác.
Trong tiếp thị đại chúng, các công ty nâng cao hình ảnh của họ, làm cho nhiều
người biết đến họ bằng việc tăng lượng sản phẩm bán ra. Trong tiếp thị trực
tiếp, các công ty cung cấp triển vọng đưa ra nhiều thông tin về sản phẩm để
tăng lượng khách hàng có kiến thức về sản phẩm nhằm bán được nhiều hơn.
Trong tiếp thị hợp tác, các công ty hỗ trợ khách hàng tìm hiểu, đánh giá
những thay đổi trong tương lai, tìm ra sản phẩm dịch vụ tốt nhất đáp ứng nhu
cầu của họ. Chính các hoạt động này đã giúp các công ty hiểu rõ hơn về
những triển vọng trong tương lai, giúp tạo lòng tin ở khách hàng và do đó bán
được nhiều sản phẩm.
Các trang web nói chung và các cộng đồng ảo nói riêng đều hỗ trợ
chiến lược tiếp thị trực tiếp và chiến lược tiếp thị đại chúng. Những cơ hội do
cộng đồng ảo mang lại được hợp nhất trong các hoạt động tiếp thị của doanh
nghiệp thông qua ba xu thế khác nhau, các xu thế này đi từ thấp đến cao. Xu
thế đầu tiên đề cập đến tiếp thị trực tiếp, xu thế thứ hai và thứ ba liên quan
đến tiếp thị hợp tác. Không có xu thế nào nói về tiếp thị đại chúng. Internet
54
chưa bao giờ và không bao giờ là công cụ tiếp thị hiệu quả cho xu thế tiếp thị
đại chúng. Vậy các xu thế kể trên là gì?
Xu thế 1: Tài trợ: Quảng cáo trong cộng đồng hay tài trợ nội dung của cộng
đồng
Xu thế 2: Tham gia: Cung cấp nội dung như một thành viên tương tác trong
hội đồng.
Xu thế 3: Xây dựng: Tạo và duy trì mối quan hệ trong cộng đồng ảo.
Quảng cáo và tài trợ cho cộng đồng ảo: Cộng đồng ảo chủ yếu được
hình thành từ những trang Web chứa các nội dung khác nhau. Các thông tin
quảng cáo có thể đăng kí hoặc tham gia vào các web này. Quyết định quảng
cáo và tài trợ cho cộng đồng ảo cũng giống như quyết định quảng cáo trên các
phương tiện thông tin truyền thống. Mối quan tâm chính là sự tập trung của
thị trường và tính chất của cộng đồng. Tài trợ khác với quảng cáo ở chỗ công
chúng dễ dàng chú ý đến nhà tài trợ cùng với quá trình thực hiện nội dung tài
trợ. Còn đối với quảng cáo, nhân viên phụ trách của công ty sẽ phải làm quen
với những vấn đề mà cộng đồng ảo quan tâm nhất, sau đó sẽ quyết định có
thực hiện bước kế tiếp để trở thành thành viên của cộng đồng ảo hay không.
Tham gia vào cộng đồng ảo: Khi chuyển từ vai trò một người tài trợ
cho nội dung của một cộng đồng ảo sang vai trò người tạo ra nội dung của
cộng đồng ảo, một công ty phải chuẩn bị để trao đổi trực tiếp với các thành
viên của cộng đồng. Những nhân viên được giao nhiệm vụ trao đổi với các
thành viên của cộng đồng sẽ là người liên lạc giữa công ty và cộng đồng. Việc
tham gia vầo cộng đồng ảo có thể khiến công ty có được sự ủng hộ của các
thành viên của cộng đồng. Mặt khác, công ty có nhiều cơ hội để giới thiệu về
công ty và sản phẩm thông qua các nội dung trao đổi trong cộng đồng.
55
Xây dựng cộng đồng ảo: Quyết định xây dựng một cộng đồng ảo đòi
hỏi công ty phải lập ra nhiều kế hoạch vì việc này liên quan đến phương thức
kinh doanh mới. Bước đầu tiên là chọn tiêu điểm cho một cộng đồng. Hãy tập
trung vào những độc giả có mục đích và người phát triển cộng đồng sẽ là
người đại diện cho nhóm cộng đồng có mục đích chung này. Nhiều doanh
nghiệp đóng vai trò là người phát triển cộng đồng hoặc người môi giới đã
giành được những vị trí tốt để mở rộng hoạt động đồng thời tiến tới việc mở
rộng ra các cộng đồng ảo mới. Ngày nay các văn phòng du lịch, dịch vụ tài
chính, kinh doanh bất động sản đặt việc kinh doanh trên cơ sở đáp ứng nhu
cầu khách hàng và cơ hội mở rộng kinh doanh trên những phương tiện mới
như Internet. Các công ty phân phối và bán lẻ cũng có cơ hội lớn để thành lập
các cộng đồng ảo trong thị phần hiện thời của họ. Họ phục vụ nhu cầu của
khách hàng trong việc lựa chọn sản phẩm và nhà sản xuất, loại bỏ những sản
phẩm hoặc nhà sản xuất không được khách hàng ưng ý. Chắc chắn sẽ có
những cộng đồng ảo được xây dựng và cạnh tranh với các kênh bán hàng
đang tồn tại.
Vậy một cộng đồng ảo có thể tạo ra doanh thu như thế nào? Có ba loại
doanh thu có thể được tạo ra: thứ nhất là phí thuê bao của các thành viên, thứ
hai là chi phí quảng cáo, tài trợ của các tổ chức, cá nhân muốn củng cố vị trí
của mình trong cộng đồng và thứ ba là phí giao dịch, doanh thu chênh lệch
giữa giá sản xuất và giá bán hàng hoá, dịch vụ cho các thành viên của cộng
đồng [15, p.50-65].
Ở Việt Nam, Forum chính là một trong những hình thức phổ biến của
“cộng đồng ảo”. Tuy nhiên việc áp dụng Forum marketing vẫn còn rất hạn
chế. Hầu hết các website công ty đều có thiết kế mục Forum, phần lớn các
thành viên tham gia Forum lại chính là nhân viên công ty tham gia với do bắt
buộc mà không có thành viên là người ngoài công ty. Các Forum vì thiếu
56
thành viên tích cực nên thường chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và không
có tác dụng tuyên truyền, quảng bá về sản phẩm, hình ảnh công ty. Đối với
những Forum công cộng, ở đó các thành viên tự do và tự nguyện tham gia vì
những chủ đề mà họ ưa thích đến thời điểm hiện nay phần lớn hoạt động với
mục đích phi thương mại, mang tính chất trao đổi thông tin là chính. Tuy
nhiên cũng đã có những công ty biết khai thác những lợi ích của Forum bằng
các hình thức tài trợ nội dung hoặc xây dựng Forum nhằm mục đích thương
mại, chúng ta có thể thấy một số ví dụ tiêu biểu như website:
www.webtretho.com có Forum khá hữu ích về mọi vấn đề liên quan đến việc
nuôi dạy, chăm sóc em bé, và thu hút được sự tham gia của rất nhiều bà mẹ
trẻ. Web này cũng được tận dụng là nơi bán và giới thiệu các sản phẩm dành
cho em bé.
2.2.1.6. PR trên Internet
PR (Public Relations) là thuật ngữ chỉ công việc liên quan đến các mối
quan hệ công chúng, hay còn được gọi là giao tế. Người phụ trách công việc
này thì được gọi là chuyên viên giao tế, chuyên viên quan hệ công chúng (PR
Manager).
Nhiệm vụ chính của những người phụ trách quan hệ công chúng là
quản lý hình ảnh của công ty, tổ chức. Xét về mặt kỹ thuật, các nhân viên
chuyên về quan hệ công chúng có nhiệm vụ xây dựng sự hiểu biết, nhận thức
và tạo ra hình ảnh đẹp cho công ty hoặc khách hàng nào đó. Bằng các thủ
thuật nghiệp vụ của mình, các chuyên gia quan hệ công chúng thường tạo ra
một câu chuyện (story), một bài báo (article), một sự kiện (event) để rồi lồng
vào trong đó các ý tưởng liên quan đến sản phẩm/dịch vụ nhằm thu hút sự
quan tâm của người tiêu dùng. Điểm quan trọng nhất trong sức mạnh quan hệ
công chúng nằm ở chỗ, PR góp phần thiết lập độ tin cậy của các nhóm khách
57
hàng mục tiêu đối với một sản phẩm, một công ty hoặc một cá nhân nào đó
bằng cách tận dụng ảnh hưởng của bên thứ ba - phương tiện truyền thông.
Gần đây, phần lớn ảnh hưởng này được thực hiện thông qua sự tiếp xúc giữa
con người với con người - giữa nhân viên phụ trách quan hệ công chúng với
đại diện của hãng truyền thông, cụ thể là các nhà báo (báo viết, báo nói và báo
hình). Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, mạng Internet với các tính năng ưu
việt đã ảnh hưởng không nhỏ đến vai trò và phương thức thực hiện PR.
Ở Việt Nam, khái niệm PR chỉ mới được nhắc đến nhiều từ 2 -3 năm
trở lại đây. Vì vậy việc áp dụng PR nói chung còn hạn chế. Nhân viên
Marketing của các công ty thường chưa có kiến thức về lĩnh vực này, vì vậy
đối với họ việc tổ chức các sự kiện, viết bài PR, quan hệ với giới báo chí và
các công ty truyền thông còn khá mới lạ và bỡ ngỡ. Tuy nhiên, ở Việt Nam
người ta đang nhắc tới “nghề PR” như một thứ mốt thời thượng, và ngày càng
có nhiều người làm PR chuyên nghiệp. Trong mục tuyển dụng của các công
ty thay vì nói một cách chung chung là cần tuyển dụng nhân viên Marketing,
thì nay nhiều công ty đã đăng một cách rõ ràng: cần tuyển dụng nhân viên PR.
Những bài viết về Phở 24, Cà phê Trung Nguyên, hay những bài báo viết về
thú chơi độc đáo trong đó có lồng ghép thông tin về những sản phẩm mới của
các công ty… là những bài PR rất điển hình.
2.2.1.7. Marketing lan truyền (Viral Marketing)
Thời gian gần đây, cả thế giới biết đến một cậu thanh niên với ý tưởng
kinh doanh một trang web có tên là Trang chủ một triệu đô MillionDollar
Hompage. Cậu chia trang web làm nhiều ô, mỗi ô là 100 pixel và bán mỗi ô
đó với gíá 100 USD. Ý tưởng đó đã được báo chí chú ý và đăng tin; nhiều
người cũng bàn tán về trang web này. Nhờ vậy, nhiều công ty đã đến mua vị
trí trên trang web trên để đặt logo của mình. Những người hiếu kì đổ vào
58
trang web của cậu xem rất đông vì thế các công ty trên trang web của cậu
cũng được quảng bá rất nhiều. Đây là một ví dụ điển hình về Marketing lan
truyền.
Marketing lan truyền nếu thành công có tốc độ lan truyền nhanh, đặc
biệt là khi có sự tham gia của báo chí đưa tin. Thông tin được những người
quen chuyển cho nhau nên độ tin cậy cao. Ngoài ra, đây là hình thức
Marketing ít tốn kém.
Ở Việt Nam chưa có một ví dụ điển hình nổi bật nào về việc sử dụng
công cụ này nhằm quảng bá tên tuổi, sản phẩm công ty. Tuy nhiên việc xuất
hiện các forum cho phép những người truy cập internet trao đổi những thông
tin về sản phẩm, nhà sản xuất, đại lý phân phối các loại sản phẩm mà họ quan
tâm là một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp thực hiện Marketing lan truyền.
2.2.2. Đánh giá hoạt động Marketing qua Internet tại Việt Nam
2.2.2.1. Một số kết quả đạt đƣợc của hoạt động Marketing qua Internet
tại Việt Nam
Marketing qua Internet mới xuất hiện ở Việt Nam nhưng có nhiều
công ty đã bước đầu ứng dụng Marketing qua Internet vào hoạt động kinh
doanh của mình và có những kết quả nhất định. Đặc biệt là những công ty
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ trực tuyến. Môi trường làm việc của họ dựa
rất nhiều vào mạng Internet vì vậy tích cực ứng dụng Marketing qua Internet
giúp họ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Có thể kể đến sự thành
công của trang web tuyển dụng trực tuyến VietNamWorks
(www.vietnamworks.com), hay tập đoàn Hapro.
i, Vietnamworks.com
59
VietnamWorks.com là trang web tuyển dụng lớn nhất Việt Nam hiện
nay, là nhịp cầu kết nối người tìm việc và nhà tuyển dụng trên Internet từ năm
2002. Với những dịch vụ đa dạng về nhân sự, trang web này đã phục vụ trên
3,000 công ty và 400,000 người tìm việc. Đối với nhà tuyển dụng,
VietnamWorks.com cung cấp cách thức nhanh và hiệu quả để tuyển dụng
nhân sự hàng đầu. Vietnamworks.com cung cấp dịch vụ quảng cáo tuyển
dụng trực tuyến, một cơ sở dữ liệu hồ sơ của người tìm việc được cập nhật
thường xuyên, và dịch vụ đăng quảng cáo tuyển dụng trên các báo in tiếng
Việt và tiếng Anh có số lượng phát hành lớn. Đối với người tìm việc,
vietnamWorks.com giúp họ tiếp cận được với nhiều cơ hội việc làm, với
những công ty danh tiếng, và cung cấp cho họ hành trang để phát triển tối đa
nghề nghiệp của mình.
Hình 2.2. Ảnh trang chủ website Vietnamwork.com.vn
60
Khách hàng của VietnamWorks.com là những công ty hàng đầu trên thế giới
và tại Việt Nam hoạt động trong mọi ngành nghề. Các khách hàng tiêu biểu
của VietnamWorks.com gồm có Unilever, Mercedes-Benz, Prudential, Nike,
British Petroleum, Citibank, Sony, Procter & Gamble, Panasonic, Phillips
Electronics, Canon, Trung Nguyen Coffee và nhiều tên tuổi khác.
Năm 2004, với những thành công của mình, VietnamWorks.com đã
được Quỹ đầu tư mạo hiểm của tập đoàn dữ liệu quốc tế IDG chọn là một
trong 3 công ty Việt Nam để đầu tư mạo hiểm.
VietnamWorks ra đời vào năm 2003 trong thời gian mà thị trường
tuyển dụng lao động đang phát triển. Các doanh nghiệp muốn tìm cho mình
những nhân viên có chất lượng cao, với chi phí hợp lí và thời gian nhanh
chóng. Về phía người tham gia tìm việc, họ cũng muốn tìm được những công
việc có chất lượng tại các công ty phù hợp với năng lực của mình. Tuy nhiên,
vào thời điểm đó chưa có nhiều công ty cung cấp dịch vụ tuyển dụng thực sự
có chất lượng.
Thành công của VietnamWorks.com do nhiều nguyên nhân, nhưng
trong đó việc áp dụng Marketing qua Internet bài bản và đúng cách chiếm vai
trò quan trọng. Công ty này sử dụng tất cả các công cụ Marketing trực tuyến:
xây dựng website,quảng cáo trực tuyến, Marketing qua thư điện tử và công
cụ tìm kiếm và cả Marketing truyền miệng .
Sử dụng Marketing truyền thống: Thời gian đầu khi mới thành lập,
VietnamWorks đã làm rất tốt công tác marketing truyền thống.Công ty này
tham gia quảng cáo trên các báo lớn : Thanh niên, Tuổi Trẻ, những báo có
nhiều ngừời đọc trong độ tuổi lao động.
Ngoài ra, công ty còn cung cấp các bài viết tư vấn về các kinh nghiệm
tuyển dụng cũng như cách tìm kiếm việc làm hiệu quả. Điều này khiến cho uy
61
tín của công ty tăng lên như một nhà cung cấp dịch vụ tuyển dụng giàu kinh
nghiệm.
Xây dựng Website :Với việc ứng dụng Internet vào hoạt động kinh
doanh, Vietnamworks đã trở thành công ty đầu tiên cung cấp dịch vụ tuyển
dụng trực tuyến. Tại đây, các ứng viên có thể tìm hiểu thông tin về các thông
báo tuyển dụng từ phía các công ty. Ngược lại, các công ty cũng có thể tìm
kiếm hồ sơ của các ứng viên tham gia.
Trang web được thiết kế với giao diện đẹp mắt, tiện lợi cho việc sử
dụng. Trong đó có cung cấp chức năng tìm kiếm, qua đó người sử dụng có thể
lọc ra các thông tin mà mình quan tâm.
Do làm tốt công tác marketing truyền thống nên công ty đã thu hút
được một lượng lớn các công ty có nhu cầu tuyển dụng và hồ sơ của những
người tìm việc. Cho đến tháng 4 năm2006, VietnamWorks.com có gần 11
triệu lượt truy cập và có hơn 2000 công việc đăng tuyển trong tháng 4. Đây là
một con số không nhỏ đối với một công ty tuyển dụng.
Quảng cáo trực tuyến : Ngoài việc đăng quảng cáo trên các báo và tạp
chí, công ty còn tham gia quảng cáo trên các website có lượng người truy cập
lớn của Việt Nam như ThanhNien Online, Vietnamnet …
Công ty hợp tác với báo Thanhnien Online để cung cấp dịch vụ việc làm
trên báo điện tử Thanhnien Online. Đây là tờ báo có uy tín lớn trong giới trẻ
và có lượng truy cập cao.
Đặc biệt hơn, công ty là một trong số ít các công ty của Việt Nam có
quảng cáo trên các công cụ tìm kiếm. Khi thực hiện tìm kiếm tại Google với
những từ khoá liên quan đến tuyển dụng như: “tuyển dụng”, “việc làm”, “kinh
tế”… thì kết quả tìm kiếm đều xuất hiện VietnamWorks ở phần tài trợ (bên
trái và bên phải trên cùng). Vì công ty sử dụng dịch vụ quảng cáo
62
GoogleAdWords nên chỉ khi người dùng nhấp chuột vào VietnamWorks thì
công ty VietnamWorks mới phải trả phí. Điều này khiến VietnamWoks chỉ
phải trả một chi phí nhỏ mà thương hiệu được hiện diện nhiều qua công cụ
tìm kiếm phổ biến nhất Google.
Marketing qua thư điện tử: Thư điện tử là một phương tiện quan trọng
giúp công ty duy trì mối quan hệ với khách hàng. Định kì, công ty gửi cho
những người đã đăng kí bản tin dịch vụ việc làm của mình một vài bản tin
việc làm trong đó có tóm tắt các vị trí cần tuyển dụng, nếu người đọc quan
tâm thì họ có thể vào trang web VietnamWorks để xem thông tin đó một cách
đầy đủ hơn. Nếu không muốn nhận bản tin này nữa, khách hàng có thể huỷ
(unscribe) đăng kí bản tin một cách dễ dàng, điều này tránh cho công ty bị
hiểu nhầm là gửi thư rác (Spam).
Marketing qua công cụ tìm kiếm: Thông thường khi muốn tìm việc qua
mạng, người tìm việc sẽ gõ vào công cụ tìm kiếm từ khoá “việc làm”, “tuyển
dụng”, “marketing”, “kế toán”….Khi thử nghiệm tại Google với các từ khoá
trên thì trang web của công ty VietnamWork đều đứng ở vị trí cao trong kết
quả tìm kiếm (đứng trong top 10 trang web đầu tiên) vì thế công ty thu hút
được một lượng khách truy cập đáng kể qua kênh công cụ tìm kiếm. Đây là
những ngừời có nhu cầu thực sự về vấn đề tuyển dụng (họ chủ động tìm kiếm
thông tin) nên khả năng họ sử dụng dịch vụ của VietnamWorks là rất cao.
Marketing lan truyền: Đây là hình thức marketing có chi phí thấp và
hiệu quả cao. Những người phát tán thông tin đều là những người có mối
quan hệ thân quen với nhau nên thường tạo ra độ tin cậy cao.
Từ số liệu tuyển dụng tại trang VietnamWorks.com công ty đã tổng hợp
lại và cho ra đời bản báo cáo về thị trường lao động Việt Nam. Trong đó có nêu
63
lên cung và cầu lao động mỗi ngành, xu hướng tuyển dụng… Bản báo cáo này
được xuất bản định kí theo quý, và được phát miễn phí trên trang web.
Nhiều người đã sử dụng bản báo cáo này như một tham khảo về thị
trường lao động Việt Nam. Một số báo lớn như Thanh niên, cũng trích dẫn số
liệu từ báo cáo này trong các bài viết của mình. Vì vậy, tên tuổi của
VietnamWorks có khả năng lan rộng mà không tốn nhiều chi phí và đạt được
độ tin cậy cao.
Như vậy, qua phần trình bày ở trên chúng ta thấy rằng
VietnamWorks.com là một điển hình về việc ứng dụng Marketing qua
Internet tại Việt Nam. Các công cụ Marketing qua Internet đều được công ty
này sử dụng bên cạnh việc tiến hành hoạt động Marketing truyền thống. Công
ty đã thu hút được số lượng lớn người tìm việc và các công ty hàng đầu sử
dụng dịch vụ tuyển dụng của mình. Điều này khẳng định, nếu một công ty áp
dụng Marketing qua Internet đúng cách thì sẽ đem lại hiệu quả to lớn.
ii, Tập đoàn Hapro
Với mục tiêu hình thành mô hình tổng công ty điện tử hiện đại ngang tầm
với các tập đoàn kinh tế trong khu vực Đông Nam châu Á vào năm 2020,
ngày 20/32006, tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro) đã trình Ủy ban
Nhân dân thành phố Hà Nội xin phép được lập Dự án đầu tư “Tổng công ty
điện tử - e Hapro”. Theo đó, mục tiêu của Hapro tới năm 2010 là: công tác
quản lý, điều hành, ra quyết định của lãnh đạo, các phòng ban, ban nghiệp vụ
và bộ phận sản xuất kinh doanh đều được tiến hành trên môi trường mạng
máy tính thống nhất trong toàn tổng công ty. 100% các đơn vị trực thuộc công
ty mẹ ứng dụng thương mại điện tử và hệ thống các phần mềm đặc thù theo
từng chức năng, nhiệm vụ của đơn vị. 80% các công ty thành viên (công ty
con và các công ty liên kết có vốn của công ty mẹ) ứng dụng thương mại điện
64
tử loại hình B2B, B2C, B2G, hải quan điện tử. 70% các công ty liên kết tự
nguyện biết tới tiện ích và tiến hành ứng dụng thương mại điện tử loại hình
B2B và B2C. Các hạng mục nội dung để thực hiện e-Hapro gồm:
- Cải tạo và hoàn thiện hệ thống hạ tầng mạng và phần cứng.
- Xây dựng đội ngũ nhân lực quản trị hạ tầng công nghệ thông tin và
truyển thông.
- Xây dựng trang thông tin điện tử e- Hapro/cổng giao dịch điện tử để kết
nối với các công ty thành viện.
- Xây dựng ngân hàng cơ sở dữ liệu của Tổng công ty và hoàn thiện mô
hình kinh doanh TMĐT
Hình 2.3. Website của Hapro
65
Năm 2006, Hapro đã tiến hành triển khai xây dựng hệ thống mạng máy
tính và website Hapro qua đó đã quảng bá thông tin, hình ảnh Hapro và tìm
được nhiều khách hàng cung cấp và mua sản phẩm, ký kết được nhiều hợp
đồng. Kết quả kinh doanh năm 2006 là:
- Tổng doanh thu: 3.765 tỷ đồng, bằng 81% kế hoạch năm, tăng 13% so
với cùng kì
- Kim ngạch xuất nhập khẩu: 144 triệu USD tăng 19% so với cùng kì,
trong đó kim ngạch xuất khẩu: 73,5 triệu USD, bằng 101% kế hoạch năm,
tăng 40% so với cùng kỳ [5, p.67].
2.2.2.2. Một số tồn tại của Marketing qua Internet tại Việt Nam
Sự hiểu biết chưa đầy đủ về Marketing nói chung và Marketing trên
Internet nói riêng. Nguồn nhân lực dành cho Marketing còn thiếu và yếu:
Hoạt động Marketing qua Internet là một hoạt động mới. Trên thế giới việc
phát triển của Marketing qua Internet cũng mới bắt đầu vào năm 1995 thời
điểm bùng nổ của các công ty kinh doanh trên mạng. Ở Việt Nam số công ty
áp dụng Marketing qua Internet bài bản càng ít bởi vì đây là hoạt động rất mới
ở Việt Nam. Các công ty tiên phong ứng dụng Marketing qua Internetmới
xuất hiện khoảng 5 năm gần đây (tương ứng với sự ra đời của quảng cáo trực
tuyến trên các trang báo điện tử của Việt Nam như Vnexpress,VietNamNet).
Một số công ty Việt Nam đã tìm hiểu các tài liệu, thực tế các công ty trên thế
giới để áp dụng vào Việt Nam, phần lớn là do bộ phận kĩ thuật của công ty
tìm hiểu vì nó gắn với môi trường kĩ thuật mà công ty hoạt động chứ không
phải do bộ phận Marketing. Điều này dẫn đến hiểu biết không đầy đủ về hoạt
động Marketing trực tuyến. Quy trình đúng để áp dụng Marketing qua
Internet phải bắt đầu từ bộ phận Marketing. Bộ phận này sẽ tích hợp
Marketing qua Internet vào hoạt động Marketing tổng thể, phối hợp nó với
66
các biện pháp Marketing truyền thống còn bộ phận kĩ thuật là người triển khai
các biện pháp kĩ thuật mà bộ phận Marketing yêu cầu để thực hiện Marketing
trực tuyến. Phòng Marketing của một công ty thường có 4 bộ phận, với 4
nhiệm vụ khác nhau:
- Kinh doanh: có nhiệm vụ bán hàng cho các điểm bán, mở rộng điểm
bán, tăng chất lượng đơn hàng, phủ hàng...
- Trade Marketing (tiếp thị thương mại): có nhiệm vụ hỗ trợ bán hàng
đến các điểm bán, bằng những chương trình khuyến mãi cho chủ điểm bán
hay những giá trị gia tăng cho chủ điểm bán.
- Customer Marketing (tiếp thị tiêu dùng): có nhiệm vụ hỗ trợ bán
hàng đến người tiêu dùng, giảm tồn kho tại quầy kệ điểm bán, tạo những giá
trị gia tăng cho người tiêu dùng.
- Brand Marketing (tiếp thị nhãn hiệu): có nhiệm vụ gia tăng sự nhận
biết nhãn hiệu trong tâm trí người tiêu dùng theo sự định vị của công ty.
Tuy vậy, các doanh nghiệp phần lớn chưa đánh giá được vai trò tác
dụng của Marketing, nhiều doanh nghiệp không có bộ phận Marketing thường
trực trong doanh nghiệp. Ở một số công ty nhỏ, kinh doanh thường làm luôn
việc của tiếp thị thương mại, và tiếp thị tiêu dùng thường làm luôn việc của
thương hiệu, do vậy nó chỉ có 2 bộ phận dưới quyền điều khiển của ông giám
đốc kinh doanh và tiếp thị. Trong thời gian gần đây, một số doanh nghiệp đã
chú trọng đến hoạt động marketing và áp dụng nó trong hoạt động kinh doanh
của mình nhưng số lượng doanh nghiệp như vậy không nhiều.
Chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng thương hiệu qua Internet.
Trong thế giới phẳng, việc xây dựng thương hiệu trên Internet có nhiều thuận
lợi, phù hợp với cả doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp mới thành lập. Một
doanh nghiệp nhỏ cũng có thể trở thành một doanh nghiệp tầm cỡ với cách
thiết kế trang web hấp dẫn. Các doanh nghiệp có thể phát triển cả hệ thống
67
phân phối toàn cầu với chi phí thấp, sử dụng Internet để kích thích việc quảng
cáo truyền khẩu về các sản phẩm, dịch vụ... Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt
Nam không thực sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho việc phát triển thương
hiệu qua Internet. “Toàn cầu hóa ngày càng tăng, hội nhập về kinh tế ngày
càng nhanh chóng, vì vậy thương hiệu Việt cũng có cơ hội vươn ra sân chơi
toàn cầu” - GS John Quelch - Phó Hiệu trưởng Trường Kinh doanh Harvard
(Mỹ) nhận định. Trong thực tế, top 10 thương hiệu toàn cầu như: Coca-Cola,
Microsoft, IBM, GE, Intel, Nokia, Disney, McDonald‟s, Toyota và Marlboro,
tất cả đều là những thương hiệu mạnh tại thị trường nội địa trước khi trở thành
thương hiệu toàn cầu, vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải xác định làm ra
sản phẩm để phục vụ thị trường trong nước và chiếm lĩnh thị trường một cách
thuyết phục rồi hãy vươn ra thị trường quốc tế.
Những quy định về Pháp luật kinh doanh trên Internet còn thiếu, nhiều
hoạt động trên Internet chưa có quy định pháp luật rõ ràng: Những cơ hội
vàng mà Internet mang lại cho kinh doanh là vô hạn. Đó là những cơ hội có
thêm khách hàng, xây dựng doanh nghiệp mới, đạt hiệu quả kinh doanh và
tích lũy vốn tức thời trên phạm vi toàn cầu. Nhưng những cơ hội đó đòi hỏi
phải trả giá. Do các doanh nghiệp hoạt động trên Internet thuộc lĩnh vực
không có quy định của Pháp luật vì vậy nhiều khi doanh nghiệp cảm thấy
mình như đang hoạt động trong chân không. Trên Internet, ngoài những
nguyên tắc hoạt động của chính doanh nghiệp, hầu như không có tiền lệ về
pháp lý hướng dẫn cho doanh nghiệp, hoặc đôi khi doanh nghiệp thấy mình
phải tuân theo các chắp vá của nhiều luật lệ và quy định mâu thuẫn nhau ở bất
cứ nơi nào có hoạt động Internet. Những “quy tắc cũ” vẫn được áp dụng, đó
là một thực tế chúng ta có thể thấy ở trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng. Nói cách khác do còn thiếu các quy định áp dụng cho Internet nên
nhiều quy định về kinh doanh trong thế giới “thực” vẫn được áp dụng cho
68
kinh doanh trên Internet. Mặc dù không phải tất cả các quy định về kinh
doanh trong thế giới thực đều được áp dụng cho môi trường Internet, nhưng
những quy định cơ bản nói chung vẫn có giá trị. Có thể nói rằng Luật CNTT –
TT, Luật giao dịch điện tử, Luật thương mại sửa đổi, Luật dân sự sửa đổi và
nghị định Thương mại điện tử ra đời năm 2006, Pháp lệnh quảng cáo năm
2001 và nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh này ban hành năm 2003 là
một bước tiến rất lớn của Pháp luật Việt Nam về kinh doanh trên Internet.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa thực sự ấn tượng.
Vấn đề liên quan đến Email – Marketing hiện nay rất nổi cộm ở Việt
Nam, nó gây ra sự khó chịu cho rất nhiều người sử dụng email. Tại một số
nước tiên tiến như Anh, Úc, Mỹ... do sớm nhận thấy những tác hại của thư rác
đã ban hành các dự luật, chỉ thị cấm Doanh nghiệp gửi emai tới người nhận cá
nhân mà không có sự cho phép của họ hay đưa ra các khung hình phạt nặng
để nghiêm trị đối với những kẻ gửi thư rác. Điều 70 của Luật Công nghệ
thông tin Việt Nam năm 2006 có quy định: “Tổ chức, cá nhân không được
che giấu tên của mình hoặc giả mạo tên của tổ chức, cá nhân khác khi gửi
thông tin trên môi trường mạng. Tổ chức, cá nhân gửi thông tin quảng cáo
trên môi trường mạng phải bảo đảm cho người tiêu dùng khả năng từ chối
nhận thông tin quảng cáo. Tổ chức, cá nhân không được tiếp tục gửi thông tin
quảng cáo trên môi trường mạng đến người tiêu dùng nếu người tiêu dùng đó
thông báo không đồng ý nhận thông tin quảng cáo”. Tuy nhiên lại không quy
định rõ hình thức xử phạt khi có vi phạm. Trong thực tế hàng ngày chúng ta
nhận được rất nhiều thư rác không hề có sự xin phép người nhận cũng như
không thiết kế chức năng cho phép người nhận từ chối nhận thư. Một vài
công ty lịch sự thì có thêm dòng “ xin lỗi quý vị nếu thư này làm phiền quý
vị”. Chính vì vậy đã có ý kiến rằng phải ban hành luật chống Spam.
69
Những quy định về Quảng cáo thương mại trong Nghị định quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo số 24/2003/NĐ-CP cũng cần phải xem
xét và sửa đổi. Điển hình là điều 19 quy định các doanh nghiệp muốn đăng
quảng cáo trên mạng Internet phải gửi sản phẩm quảng cáo lên Bộ VH- TT
trước khi thực hiện quảng cáo ít nhất 10 ngày làm việc; và trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày nhận được sản phẩm quảng cáo, nếu Bộ VH- TT
hoặc Sở VH- TT không đồng ý với sản phẩm quảng cáo thì phải trả lời bằng
văn bản nêu rõ lý do. Quá thời hạn trên mà không có văn bản trả lời thì đơn vị
được thực hiện sản phẩm quảng cáo mà mình đã gửi. Bản dự thảo cũng nêu rõ
quy định này chỉ áp dụng đối với các công ty xin phép cung cấp thông tin trên
mạng, không áp dụng đối với các Web site của các tờ báo, do những cơ quan
này đã chịu sự kiểm soát và điều chỉnh của Luật báo chí. Một mặt biện pháp
này giúp đảm bảo an ninh, an toàn và tránh những thông tin sai lệch được
truyền tải trên Internet, mặt khác nó cản trở việc phát triển quảng cáo trên
mạng, đi ngược lại chủ trương phát triển TMĐT và gây khó khăn cho chính
các nhà quản lý. Việc quy định tất cả các quảng cáo trên Internet phải được sự
cho phép của Bộ Văn hoá- Thông tin sẽ nảy sinh nhu cầu phải thành lập một
bộ máy chuyên theo dõi quảng cáo không có giấy phép. Đây là điều gây tốn
kém không cần thiết và thực tế là không làm nổi. Thứ hai, liệu Bộ VH- TT có
đảm bảo được rằng, sau khi ký xác nhận cho phép đăng tải quảng cáo trên
Internet, nội dung đó không bị sai lệch. Chẳng hạn có một hacker tấn công
Web site nào đó và làm sai lệch thông tin quảng cáo trên Internet thì ai sẽ là
người chịu trách nhiệm.
Trong Nghị định nêu rõ: Sản phẩm quảng cáo thực hiện trên Internet
do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được phép cung cấp dịch
vụ thông tin Internet chịu trách nhiệm. Nhà quản lý chỉ nên dừng lại ở quy
định này là đủ. Bởi vì các nhà quản lý Web site khi xin phép đưa thông tin lên
70
mạng đã phải cam kết chịu trách nhiệm với những gì đăng tải trên trang Web
của họ, việc quy đinh quảng cáo trên Web site phải xin phép có thể gây ra tâm
lý ngần ngại thực hiện việc quảng cáo trên mạng của các doanh nghiệp.
Vấn đề tính an toàn, bảo vệ số liệu và quyền riêng tư cá nhân: Hiện tại
ở Việt Nam vẫn chưa hề có đạo luật nào điều chỉnh về việc xử lý dữ liệu và
thông tin cá nhân, ngoại trừ một điều luật chung trong điều 34 Luật dân sự và
điều 21 về thu thập và xử lý thông tin cá nhân trong môi trường mạng của
Luật Công nghệ thông tin năm 2006, và gần đây là nghị định số 63/2007/NĐ-
CP về xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực CN-TT. Những diều luật
này nêu rõ việc thu thập, lưu giữ, sử dụng và tiết lộ thông tin cá nhân của một
cá nhân phải được sự đồng ý của cá nhân đó, trừ phi cơ quan có thẩm quyền
có quyết định khác theo quy định của pháp luật. Một nhà kinh doanh trên
Internet (e- Vendor) không phải là một “cơ quan có thẩm quyền” (theo ý
nghĩa được nêu trong điều 34, Luật Dân Sự), do đó nhà kinh doanh phải được
sự đồng ý của các khách hàng mà nhà kinh doanh đó thu thập, lưu giữ và
cung cấp các thông tin cá nhân của họ. Tuy nhiên, nếu thông tin được lưu trữ
trên một Web site có tên miền “.vn”, việc lưu trữ và phân phối thông tin sẽ
chịu sự quản lý của Bộ Văn hoá- Thông tin. Những vi phạm trong việc thu
thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường
mạng mà không được sự đồng ý của người đó sẽ bị phạt theo quy định tại
nghị định 63/2007/NĐ-CP, mức xử phạt là từ 500.000 -2.000.000 đồng. Có
thể nói việc ra đời nghị định 63/2007/NĐ-CP có ý nghĩa rất lớn trong hướng
dẫn xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Nhưng
mức xử phạt nói chung còn rất nhẹ, chưa có nhiều tác dụng răn đe.
Vấn đề tên miền: Tên miền được coi như nhãn hiệu thương mại ở trên
mạng của doanh nghiệp. Theo điều 6 của Quy chế quản lý và cấp giấy phép
cung cấp thông tin, thiết lập trang tin điện tử trên Internet ngày 10/10/2002
71
của Bộ Văn hoá- Thông tin thì các cơ quan tổ chức muốn được cấp giấy phép
thành lập trang Web hoặc đưa thông tin lên mạng phải có địa chỉ tên miền
hợp lệ. Cũng giống như các doanh nghiệp trên thế giới, các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với các vấn đề rắc rối liên quan đến tên
miền như tình trạng tên công ty hoặc sản phẩm của công ty vốn có uy tín trên
thị trường đã bị kẻ khác chiếm mất. Do việc đăng ký tên miền theo nguyên tắc
ai đăng ký trước thì người đó được quyền sở hữu nên các doanh nghiệp này
buộc phải mua lại với cái giá cao hơn rất nhiều so với giá thực phải chi trả
cho việc đăng ký một tên miền. Chẳng hạn như một khách sạn ở thành phố
Hồ Chí Minh đã phải bỏ tới 3000 USD để mua lại tên của mình, trong khi các
chủ sở hữu chỉ phải trả từ 40 đến 50 USD tiền đăng ký và cũng ngần ấy số
tiền duy trì tên miền trong một năm. Nhiều doanh nghiệp, tổ chức chưa hề
đưa trang Web của mình lên mạng nhưng ở trên mạng đã tồn tại một trang
Web mạo danh doanh nghiệp. Vấn đề là các tổ chức, cá nhân “đánh cắp” tên
miền có thể lợi dụng trang Web mang tên miền của một doanh nghiệp để thu
lợi cho mình mà không được sự cho phép của doanh nghiệp hoặc tồi tệ hơn là
đưa các thông tin gây ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.
Hiện tượng bị “đánh cắp” tên miền nói trên chỉ xuất hiện đối với các
doanh nghiệp đăng ký tên miền quốc tế hay còn gọi là các tên miền dùng
chung như: .com, .net, .org. Các tên miền này không thuộc phạm vi quản lý
của một quốc gia nào, mà do công ty tư nhân của Mỹ kinh doanh. Chính sách
của tên miền dùng chung là đăng ký tự do, không có chính sách quản lý nên ai
đăng ký trước thì sở hữu trước. Các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý đến
tình trạng này để có biện pháp đăng kí, bảo vệ tên miền của doanh nghiệp
mình một cách hợp lý.
72
Trong chương 2 đã trình bày những điều kiện cơ bản cần có để có thể
áp dụng Marketing qua Internet và cho phép khẳng định rằng Việt Nam đã
hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để có thể áp dụng thành công hoạt động
này. Tuy nhiên, thực tế áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam cũng
cho thấy trình độ ứng dụng Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua
Internet nói riêng tại các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Để hoạt động này
thực sự hiệu quả đối với các doanh nghiệp, chương 3 sẽ đề xuất một số giải
pháp mang tính chất gợi ý đối với Chính phủ trong điều hành chính sách vĩ
mô và đối với các doanh nghiệp trong xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên
làm Marketing và trong việc sử dụng các công cụ của Marketing qua Internet
một cách hiệu quả.
73
Chƣơng 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET TẠI VIỆT NAM
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT TRIỂN MARKETING QUA INTERNET
TẠI VIỆT NAM
3.1.1. Định hƣớng của Nhà nƣớc
Để bắt nhịp với xu thế chung của thời đại, một kế hoạch tổng thể phát
triển TMĐT đến năm 2010 kèm lộ trình thực hiện đã được Thủ tướng chính
phủ phê duyệt trong Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 với
quan điểm: Phát triển thương mại điện tử góp phần thúc đẩy thương mại và
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhà nước đóng vai trò tạo lập
môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi nhằm thu hút công nghệ
tiên tiến và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng Thương mại điện tử, cung
cấp các hoạt động hỗ trợ thương mại điện tử. Phát triển thương mại điện tử
gắn kết chặt chẽ với việc ứng dụng và phát triển Công nghệ thông tin và
truyền thông.
Một số mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2006-2010 cũng được đề ra:
Khoảng 60% doanh nghiệp có quy mô lớn tiến hành giao dịch thương mại
điện tử loại hình “doanh nghiệp với doanh nghiệp”. Khoảng 80% doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của Thương mại điện tử và tiến
hành giao dịch Thương mại điện tử loại hình “doanh nghiệp với người tiêu
dùng” hoặc “doanh nghiệp với doanh nghiệp”. Khoảng 10% hộ gia đình tiến
hành giao dịch Thương mại điện tử loại hình “ doanh nghiệp với người tiêu
dùng” hoặc “ người tiêu dùng với người tiêu dùng”[4].
74
Riêng với lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, cơ sở để thực hiện
Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng, Chính phủ
cũng đã ban hành Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg ngày 8/2/2002 về định
hướng phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 2005-2010 với mục tiêu đến
năm 2010: “ công nghệ thông tin Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực,
được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực; công nghiệp công nghệ thông tin
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, có tỷ trọng đóng
góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng. Đồng thời, mạng thông tin quốc gia
phủ trên khắp cả nước với thông lượng lớn, tốc dodọ và chất lượng cao, giá rẻ.
Tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình trên thế giới”.
Với định hướng trên, Việt Nam phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công
nghệ thông tin trung bình hàng năm khoảng 20-25%, tạo ra giá trị sản lượng
phần mềm khoảng 500 triệu USD/năm, phấn đấu đào tạo 25.000 chuyên gia
về công nghệ thông tin trình độ cao và lập trình viên chuyên nghiệp thông
thạo ngoại ngữ để phục vụ cho việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông
tin. Các chính sách được ban hành nhằm tạo điều kiện cho sự ứng dụng, phát
triển Marketing qua Internet và thương mại điện tử bao gồm Pháp lệnh Bưu
chính viễn thông, Nghị định 55/2001/NĐ-CP ngày 23/08/2001 của Chính Phủ
về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet… Như vậy có thể thấy Việt
Nam đang gấp rút chuẩn bị để theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng Công nghệ thông tin thế giới. Những đường lối, chính sách ưu ái phát
triển Công nghệ thông tin và Thương mại điện tử được ban hành đã và đang
tỏ rõ tác dụng tích cực trong thực tế áp dụng. Số lượng thuê bao Internet tăng
trưởng ngoạn mục, số lượng website doanh nghiệp không ngừng tăng lên
hàng ngày là những minh chứng hùng hồn.
Đối với hoạt động Marketing qua Internet, vì là khái niệm rất mới mẻ
nên chúng ta không thấy được những quy định chi tiết trong các Quyết định
75
của Chính phủ. Tuy nhiên, những chính sách ưu tiên phát triển Thương Mại
điện tử và Công nghệ thông tin nói chung cũng sẽ tạo nhiều điều kiện và cơ
hội thuận lợi để phát triển hoạt động Marketing qua Internet nói riêng.
3.1.2. Một số xu hƣớng phát triển Marketing qua Internet
Theo thời gian, Marketing không ngừng thay đổi, phát triển, sự phát
triển đặc biệt mạnh mẽ trong giai đoạn bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay.
Theo Philip Kotler, chuyên gia hàng đầu về Marketing thì Marketing trong
tương lai gần sẽ thay đổi theo sáu xu hướng chính trên phạm vi toàn cầu, đó là:
Từ lối tư duy thiết lập giao dịch chuyển sang lối tư duy thiết lập quan
hệ: Mối quan hệ bền chặt với khách hàng ngày càng trở lên quan trọng, trong
nhiều trường hợp chi phí tìm kiếm các khách hàng mới tốn kém hơn rất nhiều
chi phí cho việc gìn giữ những khách hàng đã có. Vì vậy thay vì tìm kiếm
những khách hàng để chỉ thực hiện được giao dịch một lần, nhiều doanh
nghiệp đã đầu tư vào việc xây dựng quan hệ thân thiết với khách hàng hiện tại
nhằm biến họ trở thành những khách hàng lâu dài, thường xuyên của doanh
nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet tạo ra thêm nhiều phương
tiện để gắn kết giữa khách hàng và doanh nghiệp như E-mail, Forum, giải đáp
khiếu nại trực tuyến…
Từ marketing sản phẩm chuyển sang marketing dịch vụ và kinh
nghiệm: Lĩnh vực dịch vụ ngày càng phát triển thể hiện ở tỷ trọng của nó
trong thương mại quốc tế ngày càng tăng lên. Mặc dù là hàng hóa vô hình
nhưng lĩnh vực dịch vụ cũng cần sự đầu tư thích đáng để tuyên truyền, quảng
bá đến người tiêu dùng và xây dựng hình ảnh của hãng cung cấp.
76
Từ một doanh nghiệp tự mình tìm cách đáp ứng nhu cầu khách hàng
thành một doanh nghiệp cùng với khách hàng tìm ra cách đáp ứng nhu cầu
của họ: Đây là xu hướng xuyên suốt quá trình phát triển của Marketing. Một
trong những nguyên lý cơ bản của Marketing hiện đại chính là bán cái khách
hàng cần chứ không phải bán cái mà doanh nghiệp có. Trong những năm sắp
tới, Marketing sẽ phát triển lên một tầm cao mới. Từ chỗ một mình doanh
nghiệp chủ động tìm cách nắm bắt và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, doanh
nghiệp trong tương lai nhờ mối quan hệ thân thiết hơn với khách hàng sẽ cùng
khách hàng tìm ra cách thức đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất, đem
đến sự thỏa mãn và hài lòng tối đa cho khách hàng trên tinh thần hợp tác đôi
bên cùng có lợi.
Từ các phương tiện truyền thông độc lập thành một hệ thống truyền
thông hợp nhất: Do sự phát triển ngày càng phong phú, đa dạng của các kênh
thông tin, sự cập nhật thông tin liên tục nhờ công nghệ truyền thông hiện đại
khiến người tiêu dùng ngày nay dễ dàng có được thông tin về sản phẩm, dịch
vụ mà không tốn kém nhiều chi phí cho việc thu thập, tìm kiếm. Chính vì vậy
chiến dịch truyền thông của doanh nghiệp sẽ được thực hiện cùng lúc hoặc
luân phiên trên nhiều kênh thông tin khác nhau tạo thành một hệ thống truyền
thông hợp nhất thay vì các phương tiện truyền thông độc lập như trước kia.
Các phương tiện truyền tin hiện đại như radio, vô tuyến, Internet, điện thoại di
động, cáp, vệ tinh… được huy động tối đa khi thực hiện chiến dịch truyền
thông hỗn hợp.
Từ truyền thông theo phương thức truyền thống chuyển sang truyền
thông online: Tryền thông trên báo, tạo chí, trên truyền thanh và trên truyền
hình sẽ tiếp tục là hướng đi chủ đạo của tiếp thị, nhưng chi tiêu cho các
phương tiện truyền thông mới được đánh giá sẽ có bước tiến nhảy vọt khi
77
các nhà quảng cáo dần chuyển hướng đầu tư của mình sang internet, điện
thoại di động cùng nhiều hướng đi công nghệ mới khác. Hãng Veronis
Suhler Stevenson dự đoán ngành công nghiệp quảng cáo trực tuyến, quảng
cáo trên điện thoại di động sẽ tăng trưởng trung bình 23% từ năm 2006 tới
năm 2011, trong khi quảng cáo truyền thống chỉ duy trì tỷ lệ tăng trưởng
hàng năm xung quanh mức 1%.
Từ “chuỗi cung ứng” (supply chains) thành “chuỗi nhu cầu” (demand
chains): xu hướng này thống nhất với xu hướng kết hợp giữa doanh nghiệp và
khách hàng nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng và xu hướng
chuyển từ lối tư duy thiết lập giao dịch sang lối tư duy thiết lập quan hệ.
Từ sáu xu hướng của Marketing trong tương lai theo Philip Kotler,
chúng ta có thể thấy hai điểm nổi bật: Marketing sẽ diễn ra theo chiều hướng
tương tác sâu giữa doanh nghiệp và khách hàng nhằm thiết lập những quan hệ
thân thiết và gần gũi hơn để có thể cùng khách hàng tìm cách đáp ứng nhu cầu
của họ. Điều nổi bật thứ hai là vai trò của công nghệ Internet trong việc thực
hiện Marketing.
Việt Nam không nằm ngoài sáu xu hướng phát triển kể trên. Tuy nhiên,
Marketing tại nước ta chưa có lịch sử phát triển lâu dài, vì vậy phương hướng
phát triển Marketing trong thời gian tới sẽ là sự kết hợp giữa những chiến
lược đào tạo, tuyên truyền và thực hiện ở tầm vĩ mô với những xu thế cụ thể ở
cấp vi mô. Dưới đây sẽ trình bày một số xu hướng phát triển của Marketing
qua Internet tại Việt Nam trong những năm tới:
78
3.1.1.1. Tăng cƣờng đào tạo về Thƣơng mại điện tử (TMĐT) nói chung và
Marketing qua Internet nói riêng
Tăng cường đào tạo về Thương mại điện tử là chủ trương của Chính
phủ nhằm chuẩn bị nhân lực về Thương mại điện tử cho công cuộc hội nhập
kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt khi Việt Nam ra
nhập thành công WTO. Trong kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT đến năm
2010 kèm lộ trình thực hiện đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt nhấn
mạnh công tác đào tạo và phát triển nguồn lực cho TMĐT có vị trí, ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Mặt khác, theo quyết định 191/2005/QĐ-TTg ban hành
ngày 29/7/2005 phê duyệt đề án “ Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục
vụ hội nhập và phát triển giai đoạn 2005-2010” cũng đề ra mục tiêu: “Hỗ trợ
doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng cơ sở
dữ liệu về thông tin kinh tế, ứng dụng công nghệ thông tin để tăng hiệu quả
sản xuất, kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc
tế; góp phần đào tạo nguồn nhân lực và phát triển thị trường công nghiệp
công nghệ thông tin; phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [14].
Năm 2007, Chính phủ đã chi 18,5 tỷ đồng kinh phí hoạt động cho đề án này.
Ngoài những chiến lược hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT về
phía Chính phủ, bản thân các doanh nghiệp cũng đang ngày càng quan tâm
đến vấn đề này thể hiện ở cung - cầu đào tạo về TMĐT trong những năm gần
đây tăng lên rõ rệt: Các chương trình đào tạo về CNTT và TMĐT không chỉ
tăng về số lượng mà còn cả mặt chất lượng. Chất lượng tài liệu, giáo trình và
trình độ giảng viên cũng đã được nâng lên một bước. Với sự phổ biến ngày
càng rộng rãi của Internet, các tài liệu trong lĩnh vực chủ yếu được thu thập,
biên soạn và cập nhật qua mạng từ các nguồn của nước ngoài. Lượng giảng
viên có trình độ được đào tạo chính thức về CNTT và TMĐT trong và ngoài
79
nước cũng đang tăng lên. Ngoài ra, các hình thức đào tạo cũng có bước
chuyển biến rõ nét. Nhu cầu về đào tạo theo đơn đặt hàng và đào tạo trực
tuyến tăng mạnh: các khoá đào tạo theo đơn đặt hàng chiếm 37% và đào tạo
trực tuyến chiếm 9% trong tổng số các khoá đào tạo theo kết quả điều tra [7].
Chất lượng đào tạo cũng được nâng lên một bước khi một số khoá học được
đào tạo bằng tiếng Anh và có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài.
3.1.1.2. Tăng cƣờng sử dụng Quảng cáo trực tuyến
Trong các công cụ của Marketing qua Internet thì quảng cáo là công cụ
được dùng nhiều nhất tới thời điểm hiện nay và sẽ tiếp tục được sử dụng
nhiều hơn trong tương lai. Cùng với cộng đồng người sử dụng tăng lên nhanh
chóng, các công nghệ quảng cáo mới ra đời sẽ đưa quảng cáo trực tuyến trở
thành một trong những điểm nóng của ngành quảng cáo. Với tỷ lệ phát triển
30% và sẽ còn tăng mạnh, cả Jupiter và Forrester đều dự đoán ngân sách cho
quảng cáo trực tuyến có thể tăng tới 20 - 26 tỷ USD vào năm 2010.
Ở Việt Nam, mặc dù www.24h.com.vn , www.dantri.com.vn ,
www.vnexpress.net đang đi những bước tiên phong ấn tượng, chúng ta vẫn
chưa có một giải pháp quảng cáo đột phá nào đáng kể. Thị trường quảng cáo
trực tuyến còn rất nhỏ, chỉ chiếm xấp xỉ 1% tổng số tiền chi cho quảng cáo
nói chung [13]. Trong bối cảnh đó, đa phần các công ty đều đang loay hoay
tìm giải pháp do doanh thu chính của các dịch vụ trực tuyến vẫn là quảng cáo.
Vì vậy nhiều chuyên gia về Marketing và Quảng cáo trực tuyến cho rằng
không lâu nữa sẽ có những giải pháp vượt trội để Internet phát huy được ưu
thế so với truyền hình và báo giấy. Quảng cáo trực tuyến cũng được cho là
một trong những xu hướng chính của Marketing qua Internet tại Việt Nam
năm 2008.
80
3.1.1.3. Sử dụng tích cực PR trong xây dựng Thƣơng hiệu
Đối với các công ty nhỏ không có ngân quỹ tiếp thị dư giả, thì việc thực
hiện những chiến dịch PR (quan hệ công chúng) luôn là phương thức hiệu quả
cả về mặt tài chính lẫn việc khai phá thị trường cũng như việc quảng bá
thương hiệu của công ty. Trên thế giới, PR cũng đang nổi lên như một ngôi
sao trong số các công cụ của Marketing, nhiều chuyên gia còn cho rằng PR
xứng đáng được tách ra làm một lĩnh vực riêng biệt so với Marketing.
Tại Việt Nam trong hai năm vừa qua, với sự phát triển rầm rộ của thị
trường chứng khoán, đã đánh dấu những chuyển biến tích cực trong việc sử
dụng công cụ PR. Nhiều doanh nghiệp để tạo dựng tiếng tăm và thu hút nhà
đầu tư, trước khi niêm yết trên thị trường chứng khoán đã sử dụng công cụ PR
giới thiệu hoạt động của doanh nghiệp đến với công chúng. Có thể xem đây là
một trong những cơ hội để mang hình ảnh của doanh nghiệp đến với nhà đầu
tư và công chúng góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp.
Hoạt động PR được dự đoán tiếp tục là công cụ được tích cực sử dụng
trong nhũng năm tới nhằm làm cho doanh nghiệp hướng tới, củng cố niềm tin
khách hàng, giúp doanh nghiệp xử lý khi gặp khủng hoảng. Đặc biệt, nếu biết
cách khai thác đúng thời điểm thì trong một số tình huống hoạt động PR sẽ
góp phần xây dựng hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp đối với công chúng
đạt đạt hiệu quả cao.
3.1.1.4. Nhiều công cụ Internet Marketing mới ra đời trên cơ sở sự phát
triển của Internet và những ứng dụng của nó
Nếu như trước kia, khi nói đến Marketing qua Internet người ta chỉ
nghĩ đến việc tạo ra một website giới thiệu về công ty và các hình thức gửi
81
thư quảng cáo (Spam); thì ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của Internet kèm
theo những ứng dụng mà nó mang đến như Blog, forum, các công cụ tìm
kiếm, công cụ phân loại… Thì đồng thời các công cụ mới của Internet
Marketing trên cở sở các ứng dụng đó cũng ra đời. Đó chính là Blog
Marketing, Forum Marketing, Marketing qua công cụ tìm kiếm…. và còn rất
nhiều, rất nhiều các công cụ chưa được biết tới. Có thể nói rằng, bất cứ một
ứng dụng mới nào của Internet cũng có thể là mảnh đất màu mỡ để áp dụng
Marketing qua Internet.
Ở Việt Nam, với cộng đồng bloger lên đến 4 triệu thành viên vào năm
2007 đang thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp. Blog Marketing cũng được
coi là một trong những tâm điểm gây chú ý của Marketing trong những năm
sắp tới.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẰNG CƢỜNG HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG MARKETING QUA INTERNET
3.2.1. Nhóm giải pháp về phía Chính phủ
3.2.1.1. Phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý
Với sự ra đời của Luật CNTT năm 2006, Luật Thương mại sửa đổi năm
2005, Bộ luật giao dịch điện tử 2006, Bộ luật dân sự sửa đổi và Nghị định
Thương mại điện tử có hiệu lực và nhiều văn bản dưới luật khác liên quan đến
lĩnh vực Công nghệ thông tin và Thương mại điện tử có thể nói hành lang
pháp lý cho hoạt động Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua
Internet nói riêng đã và đang được xây dựng. Tuy nhiên, vấn đề cấp bách hiện
nay là Chính phủ cần có những biện pháp tích cực hơn nữa để sớm đưa những
văn bản pháp quy điều chỉnh lĩnh vực Thương mại điện tử vào cuộc sống
nhằm tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc cho lĩnh vực này.
82
Mặt khác, cần rà soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan nhằm bảo đảm toàn bộ hệ thống pháp luật được định hướng chung
là hỗ trợ, tạo điều kiện cho thương mại điện tử trong đó có hoạt động
Marketing qua Internet phát triển. Xây dựng cơ chế, bộ máy hữu hiệu để thực
thi việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, bí mật riêng tư
và để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong Thương mại điện tử theo quy
định của Pháp luật hiện hành
Riêng đối với Marketing qua Internet, mà cụ thể là hoạt động quảng
cáo, tên miền, e-mail tiếp thị không được phép, và các vấn đề bảo vệ số liệu
và quyền riêng tư trên mạng cần được xem xét để xây dựng các quy phạm
pháp luật phù hợp. Cụ thể: Đối với hoạt động quảng cáo, nên yêu cầu các
doanh nghiệp khi đăng kí tên miền làm luôn bước đăng kí theo đúng nội dung
mà quy chế yêu cầu. Một cách khác đơn giản hơn, đó là yêu cầu các đơn vị
cung cấp dịch vụ Internet phải chịu trách nhiệm về các trang web mà họ
truyền tải. Chính những cơ quan này sẽ thay mặt cơ quản quản lý đảm bảo nội
dung họ đưa lên Internet là phù hợp với các quy định của pháp luật, nếu
không họ sẽ là người chịu trách nhiệm trước tiên.
Đối với trường hợp gửi e-mail quảng cáo không được phép gây khó
chịu cho người sử dụng e-mail, nên quy định các hình phạt cụ thể.
Việc vi phạm về quyền riêng tư đối với các thông tin cá nhân trên
Internet mức phạt hiện nay theo Nghị định63/2007 là quá thấp (từ 500.000
VNĐ -2.000.000 VNĐ), nên quy định chi tiết hơn, đối với một số hành động
vi phạm gây thiệt hại về kinh tế hoặc danh dự cá nhân, nên có mức hình phạt
cao hơn.
83
3.2.1.2. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ
Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng phát
triển trên nền tảng hạ tầng cơ sở công nghệ bởi các hoạt động này diễn ra chủ
yếu trên môi trường Internet, do đó để phát triển Thương mại điện tử và
Marketing qua Internet điều kiện tiên quyết là một hạ tầng cơ sở công nghệ
thông tin vững chắc.
Thực tế hiện nay cho thấy tại Việt Nam, lĩnh vực công nghệ thông tin
mặc dù đã thu hút được sự quan tâm của các tầng lớp xã hội nhưng do hạn
chế về cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật mà cho đến nay, lĩnh vực này vẫn đang
gặp phải những khó khăn nhất định làm cản trở tới sự phát triển của Thương
mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet nói riêng. Có thể kể đến một
số khó khăn như: cước viễn thông, cước truy cập Internet còn cao so với các
nước trong khu vực và mặt bằng chung của thế giới, mặt khác do cơ sở hạ
tầng yếu kém nên dù các doanh nghiệp muốn nâng cấp công nghệ cũng khó
có thể thực hiện được.
Vì thế Nhà nước cần quan tâm triển khai thực hiện những chính sách về
công nghệ thông tin một cách hiệu quả. Những chính sách này phải được triển
khai thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương để theo kịp sự phát triển
của hoạt động công nghệ thông tin tại Việt Nam với phương châm: coi công
nghệ thông tin là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên
niên kỷ, từng bước hình thành một xã hội thông tin, coi công nghiệp công
nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn được nhà nước ưu tiên hỗ trợ và
khuyến khích phát triển, ưu tiên phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông
tạo cơ sở cho các ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của toàn
xã hội.
84
Nhà nước cũng cần có chính sách đẩy mạnh ứng dụng Internet trong
các cơ quan hành chính, doanh nghiệp và các cá nhân. Các biện pháp đưa ra
bao gồm:
- Điều chỉnh mức cước thuê bao điện thoại và thuê bao Internet. Đây là
một trong các nhân tố cản trở việc đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin và
Marketing qua Internet tại các doanh nghiệp. Hơn nữa, hạ tầng viễn thông
chưa tốt, hệ thống cáp thông tin chưa vươn tới các vùng sâu, vùng xa khiến
người dân khó có cơ hội tiếp cận Internet; do đó ít có cơ hội tiếp cận với hình
thức giao dịch trên mạng, trong khi số người sử dụng Internet là một trong
những tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng tham gia thương mại điện tử ở mỗi
quốc gia và là điều kiện quan trọng để các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch
Marketing qua Internet.
- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông và
kinh doanh Internet. Nhờ có Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp
dịch vụ Internet cho phép nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ Internet
nên đến thời điểm tháng 3/2008 cả nước có 9 nhà cung cáp dịch vụ trong lĩnh
vực này. Tuy nhiên tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) với
những lợi thế về cơ sở hạ tầng và những ưu đãi từ phía ngành vẫn chiếm thị
phần lớn nhất, chi phối giá dịch vụ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa những nhà
cung cấp. Do vậy việc ban hành những quy định cụ thể nhằm tạo ra sự cạnh
tranh công bằng giữa các doanh nghiệp, từ đó giảm mức cước viễn thông là
cần thiết.
- Nhà nước cần xây dựng kế hoạch tổng thể nhằm đưa dịch vụ Internet
đến các vùng sâu, vùng xa nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở những
vùng này có thể ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh. Để có được
điều này việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghệ là không thể thiếu.
85
3.2.1.3. Đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về Thƣơng mại điện tử
Có một chính sách hợp lý về đào tạo, tuyên truyền và phổ cập về
Thương mại điện tử nói chung và Marketing qua Internet là cần thiết bởi
nguồn lực là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi trường hợp. Tuy
nhiên việc phát triển nguồn lực phải đồng bộ và cân đối trên cơ sở huy động
sự đóng góp nguồn lực của toàn xã hội. Trước hết, cần tập trung đào tạo
nguồn nhân lực và hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng Thương mại điện tử giữa các
doanh nghiệp lớn. Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ trong giai đoạn đầu đối
với các chương trình, mục tiêu cụ thể.
Trong giai đoạn 2006-2010, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nhằm
đẩy mạnh việc đào tạo chính quy tại các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp thuộc các ngành kinh tế và luật, đồng thời đào tạo theo chương
trình đại cương tại các trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành thương mại,
quản trị kinh doanh, đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước làm công tác hoạch
đính chính sách và thực thi pháp luật về thương mại điện tử ở Trung ương và
các tỉnh, thành phố. Có một thực tế là hầu hết các trường kinh tế tại Việt Nam
đều giảng dạy môn Marketing nhưng hầu như chưa có trường nào đi sâu về
lĩnh vực Marketing điện tử hay Marketing qua Internet. Riêng đối với E-
Marketing và Marketing qua Internet thì những kiến thức về Marketing là
chưa đủ, sinh viên cần phải được bổ sung thêm những kiến thức về công nghệ
thông tin cũng như Thương mại điện tử bởi nền tảng của E-Marketing và
Marketing qua Internet chính là hạ tầng công nghệ thông tin. Vì vậy việc đào
tạo nguồn nhân lực phải được chú trọng không chỉ nghiệp vụ Marketing mà
cả về lĩnh vực công nghệ.
Chính phủ cũng cần có những chính sách rõ ràng, cụ thể nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ đào tạo về thương mại
điện tử. Hiện nay các dịch vụ đào tạo về Thương mại điện tử đều do các
86
Trường Đại học, cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp khối kinh tế cung cấp.
Việc đa dạng hóa các nhà cung cấp dịch vụ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh sẽ
giúp cải thiện chất lượng dịch vụ đào tạo và giảm chi phí đào tạo cho mỗi học
viên có nhu cầu trang bị kiến thức trong lĩnh vực Thương mại điện tử nói
chung và Marketing qua Internet nói riêng.
Phổ cập, tuyên truyền rộng rãi về Thương mại điện tử trong nhân dân,
trước hết cho cộng động doanh nghiệp, các cấp quản lý, các hiệp hội ngành
hàng cũng cần được chú trọng bởi phát triển nguồn nhân lực là việc làm của
toàn xã hội, nhà nước chỉ hỗ trợ trong giai đoạn đầu, sau đó chính các doanh
nghiệp là lực lượng chủ yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực lâu dài cho
đất nước. Việc xây dựng đội ngũ nhân viên Marketing xuất phát từ chính nhu
cầu thực tế của doanh nghiệp bao giờ cũng có hiệu quả và tính bền vững lâu
dài hơn.
3.2.1.4. Xây dựng hệ thống an toàn thông tin trên mạng
Những hình thức tội phạm mới xuất hiện liên quan đến Internet và vấn
đề bảo mật thông tin trên Internet ngày càng nhiều và nguy hiểm do tính chất
nghiêm trọng của những thiệt hại mà nó gây ra cho nạn nhân và cho nền kinh
tế nói chung. Những hoạt động lừa đảo qua thư điện tử nhằm đánh cắp những
thông tin về tài khoản tín dụng của các cá nhân, các hình thức xâm nhập trái
phép vào hệ thống dữ liệu của các ngân hàng, các tổ chức để tiến hành những
giao dịch bất hợp pháp hoặc chỉnh sửa dữ liệu trái phép… ngày càng trở nên
báo động bởi tần xuất thường xuyên của những vụ việc. Việc phát tán các
phầm mềm hoặc các đoạn mã nguồn gây hại một cách cố ý cũng đang khiến
cộng đồng những người sử dụng Internet đau đầu. Tuy nhiên các văn bản
pháp lý hiện nay của Việt Nam chưa đề cập cụ thể đến loại tội phạm này và
hệ thống pháp luật quốc gia chưa đáp ứng được yêu cầu của các hoạt động
87
ứng dụng Internet. So với các nước và lãnh thổ trong khu vực, Việt Nam đi
khá chậm trong xây dựng cơ sở pháp lý về giao dịch điện tử. Bộ Luật về Giao
dịch điện tử mới được ban hành năm 2006, Nghị định số 26/2007/NĐ-CP
ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký
số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và chỉ thị số 03/2007/CT-BBCVT về tăng
cường đảm bảo an ninh trên Internet được ban hành ngày 23/02/2007; trong
khi đó Malaysia đã ban hành Luật chữ ký số năm 1997, Singapore ban hành
Luật Giao dịch điện tử năm 1998, Hàn Quốc có Luật chữ ký điện tử vào năm
1999 và sửa đổi vào năm 2001, Thái Lan và Nhật Bản cũng đã có các văn bản
pháp luật liên quan đến giao dịch điện tử vào năm 2001. Mặc dù vậy, việc ban
hành các văn bản pháp luật liên quan đến giao dịch điện tử và vấn đề bảo đảm
an ninh trên mạng cũng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển thị trường
dịch vụ chứng thực điện tử qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký số
trong các giao dịch điện tử và khung pháp lý đồng bộ cho việc đảm bảo an
toàn thông tin mạng. Yêu cầu hiện nay là phải sớm đưa những văn bản này
vào thực hiện nghiêm túc, tạo điều kiện cho việc phát triển Thương mại điện
tử và Marketing qua Internet tại Việt Nam.
Thực hiện tốt vấn đề an ninh mạng sẽ tạo điều kiện để Marketing qua
Internet tại Việt Nam phát triển lên một mức độ cao hơn, đó chính là: Thanh
toán trực tuyến.
3.1.2.5. Chủ động tham gia hợp tác quốc tế về lĩnh vực thƣơng mại điện
tử và Marketing qua Internet
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia muốn phát triển
cần có sự hợp tácvới các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên toàn thế
giới. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề hợp tác quốc tế
là cần thiết để tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài về công nghệ và đào tạo
88
nguồn nhân lực cho việc phát triển thương mại điện tử bởi so với các nước
trên thế giới Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu. Trong kế hoạch tổng thể phát
triển thương mại điện tử giai đoạn 2005-2010 cũng ghi rõ: Phát triển công
nghệ hỗ trợ thương mại điện tử trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công
nghệ từ nước ngoài.
Vì vậy, một mặt Việt Nam cần chủ động tham gia hợp tác quốc tế mở
rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của mình, thống nhất các chuẩn về
công nghệ, hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, giải
quyết tranh chấp, an toàn trong các giao dịch thương mại sử dụng Internet;
mặt khác thông qua hợp tác quốc tế với lợi thế của nhưng người đi sau chúng
ta có thể học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước đi
trước về đào tạo nguồn nhân lực, công nghệ, chính sách, pháp luật…
Trong hợp tác đa phương, cần ưu tiên hợp tác với các tổ chức kinh tế
thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN và các tổ chức
chuyên trách thương mại của Liên hiệp quốc như UNCTAD, UNCITRAL,…;
tích cực tham gia các hiệp định song phương và đa phương liên quan đến
thương mại điện tử như: Luật chữ ký điện tử của UNCITRAL, Incoterms
2000, Công ước Hamburg 1978 … nhằm từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển Thương mại điện tử và
Marketing qua Internet.
3.2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp Việt Nam
Hiện nay, bên cạnh những nỗ lực của Chính Phủ nhằm xây dựng một
nền TMĐT phát triển vững chắc tại Việt Nam, thì vai trò của các doanh
nghiệp là rất lớn. TMĐT nói chung và Internet Marketing nói riêng đem đến
lợi ích trực tiếp cho các doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp cũng chính
89
là tác giả đồng thời là nhân vật chính trong „tác phẩm” TMĐT và Internet
Marketing. Các doanh nghiệp có thể tham khảo một số giải pháp dưới đây:
3.2.2.1. Thay đổi nhận thức về Marketing và Marketing qua Internet
Như đã phân tích ở các phần trước, hiện nay phần lớn doanh nghiệp
Việt Nam chưa nhận thấy hết vai trò quan trọng của hoạt động Marketing, và
đặc biệt hoạt động Marketing qua Internet trong thời đại ngày nay. Không chỉ
thiếu nhân viên làm Marketing chuyên nghiệp, bản thân nhận thức của doanh
nghiệp từ ban lãnh đạo cho đến nhân viên về vai trò của Marketing chưa cao.
Chính vì vậy việc thay đổi nhận thức của toàn thể cán bộ công nhân viên về
Marketing rất quan trọng và cần thiết mặc dù việc làm này không hề đơn giản.
Một số giải pháp mà doanh nghiệp Việt Nam cần làm ngay để có thể thay đổi
cách nhìn nhận về Marketing là:
Trước hết cần bắt đầu từ bộ phận lãnh đạo, bản thân các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp nên chủ động tìm hiểu các kiến thức về Marketing từ đó nhận
thức được tầm quan trọng của Marketing và Marketing qua Internet trong thời
đại ngày nay và truyền niềm tin cho các nhân viên của mình.
Có chính sách tuyển dụng, đào tạo hợp lý bộ phận Marketing trong
doanh nghiệp. Tốt nhất là nên thành lập phòng Marketing độc lập với Phòng
kinh doanh.
Thúc đẩy sự liên kết giữa bộ phận Marketing và Kinh doanh bằng cách:
- Thường xuyên tổ chức họp giữa hai bộ phận MKT và bán hàng.
- Tạo điều kiện cho những người làm MKT và những người bán hàng
giao tiếp với nhau.
- Tổ chức những nhiệm vụ phối hợp và luân phiên công việc giữa nhân
viên MKT và nhân viên bán hàng.
- Phân công một người từ bộ phận MKT sang làm việc với lực lượng
90
bán hàng và giúp những người làm MKT hiểu được những vấn đề của bộ
phận bán hàng một cách tốt hơn.
- Bố trí bộ phận MKT và bộ phận bán hàng trong cùng một tòa nhà
hoặc cùng một khu vực để tối đa hóa sự phối hợp của họ.
- Đặt ra các chỉ tiêu về phân chia thu nhập và hệ thống khen thưởng.
- Xác định một cách cẩn thận các bước trong mô hình kết hợp giữa
Marketing và bán hàng.
- Cải tiến thông tin phản hồi từ lực lượng bán hàng
3.2.2.2. Lập kế hoạch Marketing qua Internet
Sau khi đã giải quyết xong vấn đề nhận thức về Marketing và
Marketing qua Internet, đièu quan trọng kế tiếp là lập kế hoạch cho hoạt động
Marketing qua Internet, dưới đây là những yếu tố cơ bản của một kế hoạch
marketing qua Internet:
Phân tích bên trong và bên ngoài: Có thể áp dụng phương pháp PEST và
SWOT để đánh giá các yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng tới việc thực hiện
kế hoạch marketing cũng như các điểm mạnh và điểm yếu nội bộ doanh
nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần xem xét những yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng
quan trọng trong kinh doanh trên Internet như sự chấp nhận về mặt pháp lý
của chữ ký điện tử, năng lực thanh toán trực tuyến của hệ thống ngân hàng.
Hơn nữa, cũng cần quan tâm tới năng lực của doanh nghiệp liên quan tới
marketing trực tuyến như năng lực của hệ thống và nhân viên, danh tiếng của
doanh nghiệp hoặc loại sản phẩm đặc biệt mà bạn cung cấp như phần mềm
hoặc hy máy ảnh số - những yếu tố sẽ hỗ trợ rất nhiều trong một thế giới kinh
doanh ảo.
91
Mục tiêu Internet marketing: Dù doanh nghiệp xây dựng kế hoạch marketing
qua Internet để thay thế hoặc bổ xung cho kế hoạch marketing chung, cần nêu
rõ và cụ thể các mục tiêu Internet marketing. Ví dụ, có thể đặt mục tiêu “3000
khách thăm trang web của doanh nghiệp trong 6 tháng tới”. Bằng cách đặt
mục tiêu cụ thể, doanh nghiệp mới có cơ sở để đánh giá quá trình thực hiện
sau này. Một vài doanh nghiệp cũng đặt ra mục tiêu “doanh thu bán hàng”
trên mạng.
Chiến lược marketing qua Internet: Doanh nghiệp phải quyết định chiến lược
marketing để đạt mục tiêu đã định. Nên chọn một nhóm người dùng Internet
làm khách hàng hoặc khán giả mục tiêu. Ví dụ, một nhà cung cấp cơm văn
phòng qua trang web có thể chọn các nhân viên văn phòng làm khách hàng
mục tiêu. Sau đó, doanh nghiệp phải quyết định tạo ra sự khác biệt giữa sản
phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp với các nhà cung cấp khác. Nhà cung cấp
cơm văn phòng trên có thể chọn đặc tính “phục vụ ăn trưa theo yêu cầu” và
“chọn món qua trang web” để thể hiện tuyên bố định vị “món ăn khác nhau
cho các bữa khác nhau”. Nếu doanh nghiệp dùng các hoạt động marketing
trực tuyến để hỗ trợ cho hoạt động marketing chung thì cần bảo đảm nhất
quán các yếu tố trong chiến lược marketing, ví dụ như chiến lược định vị phải
phù hợp với chiến lược chung.
Các chiến thuật marketing qua Internet: Doanh nghiệp cần xác định cụ thể
các chiến thuật sẽ được sử dụng để phục vụ kế hoạch Marketing của mình. Về
cơ bản, các chiến thuật marketing mà doanh nghiệp áp dụng trên Internet
tương tự như các chiến thuật truyền thống nhưng theo cách khác. Trên
Internet, khách hàng có cơ hội tốt hơn để kiểm tra các đặc điểm kỹ thuật chi
tiết của sản phẩm cũng như so sánh giá cả. Tùy vào chiến lược của doanh
nghiệp, cũng có thể nghĩ tới việc cung cấp cho khách hàng sản phẩm với các
92
mức giá có thể mặc cả. Có rất nhiều lựa chọn các công cụ tương tác để thu hút
khách hàng như các banner tương tác cho phép khách hàng nhấn chuột vào để
xem chi tiết hơn, cung cấp thông tin có ích hấp dẫn người xem tới trang web
của doanh nghiệp... Tuy nhiên, đối với việc giao hàng, về cơ bản doanh
nghiệp vẫn phải giao hàng trực tiếp, trừ các sản phẩm đặc biệt có thể số hóa
như âm nhạc, sách, phần mềm hoặc ảnh số.
Do tính vô hình của hoạt động kinh doanh trên Internet nên những
chiến lược để phục vụ như con người, quy trình và chứng cứ hữu hình có vai
trò rất quan trọng để xây dựng lòng tin. Doanh nghiệp có thể sử dụng các ý
kiến bình luận hoặc xếp hạng của khách hàng về sản phẩm/dịch vụ, mô tả
cách thức cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng và sự hiện diện thực tế
của doanh nghiệp như văn phòng hoặc cửa hàng để hỗ trợ thông tin về sản
phẩm/dịch vụ.
Thực hiện: Doanh nghiệp cũng phải lập kế hoạch thực hiện trong đó nêu rõ ai
làm gì và khi nào. Ví dụ, nếu doanh nghiệp thuê người xây dựng trang web,
doanh nghiệp phải giám sát họ chặt chẽ và bảo đảm thời hạn. Sau cùng phải
đánh giá kết quả doanh nghiệp đã đạt được so với mục tiêu.
Đo lường hiệu quả của kế hoạch Marketing: Dưới đây là một số thước đo chủ
yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nói chung và hiệu quả của
các kế hoạch Marketing nói riêng:
Thước đo bán hàng: Có thể đánh giá hiệu quả của kế hoạch Marketing thông
qua tăng trưởng doanh thu, thị phần hay doanh thu từ sản phẩm mới.
Thước đo khả năng sẵn sàng mua hàng: Thông qua nhận định của khách hàng
về sản phẩm, tỷ lệ dùng thử hay tỷ lệ mua lại sản phẩm của khách hàng,
93
doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng sẵn sàng mua hàng của khách.
Khả năng này sẽ tăng lên khi doanh nghiệp thực hiện tốt một kế hoạch
Marketing.
Thước đo về sự hài lòng của khách hàng: Sự hài lòng, thỏa mãn của khách
hàng hay sự phàn nàn, chê bai cũng là một tiêu chí để đánh giá hiệu quả của
chiến dịch Marketing đã thực hiện. Mục tiêu luôn là tăng tối đa sự thỏa mãn,
hài lòng của khách hàng và giữ lại được nhiều khách hàng hơn, giảm số lượng
khách hàng mất đi do sự không hài lòng.
Thước đo về phân phối: Thể hiện ở số lượng đại lý, lượng hàng lưu kho trung
bình, chu kỳ hết hàng, thu nhập từ phân phối, doanh số trung bình tại mỗi thời
điểm bán hàng…
Thước đo về truyền thông: Thể hiện qua nhận thức của khách hàng về thương
hiệu từ trước khi có những chiến dịch truyền thông và sau khi có các chiến
dịch truyền thông. Tỷ lệ tiếp cận hiệu quả và tỷ lệ phản hồi…
Thước đo nhãn hiệu: Thể hiện ở sức mạnh thương hiệu và tài sản thương hiệu.
Đo lường lực lượng bán hàng: Chất lượng của đội ngũ nhân viên chủ chốt, tỷ
lệ các nhân viên chủ chốt đạt được đề nghị mua hàng, chi phí cho mỗi lần
chào hàng, hỏi hàng, chi phí cho mỗi đồng bán hàng….
Mức đo giá cả và khả năng sinh lời: Thể hiện qua sự nhạy cảm của giá, mức
thay đổi bình quân, lợi nhuận biên, suất sinh lời, ROI, DCF…
3.2.2.3. Xây dựng Ngân sách cho hoạt động Internet Marketing
Hoạt động Marketing qua Internet rất tiết kiệm chi phí, tuy nhiên nó cũng
cần được dành cho một nguồn ngân sách hợp lý để duy trì các hoạt động
94
Marketing thường xuyên: quản trị website, gửi thư quảng cáo, thăm dò cho
khách hàng, duy trì hoạt động của Forum, đào tạo nhân viên Marketing… và
các hoạt động mang tính chiến dịch thích ứng với kế hoạch Marketing từng
giai đoạn như tăng cường đặt banner quảng cáo, viết bài PR, đăng từ khóa tìm
kiếm… Tất cả các chi phí đó phải được xác định tương đối chính xác ngay từ
đầu để doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu của mình mà vẫn đảm bảo
được tính hiệu quả và tiết kiệm.
Mặt khác doanh nghiệp nên dành cho bộ phận Marketing sự độc lập
nhất định trong việc quyết định các chiến lược Marketing từng thời điểm và
cách phân bổ ngân sách trong giới hạn cho phép cho các công cụ Marketing
cụ thể, điều này sẽ giúp phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo của bộ
phận Marketing và có thể đem lại hiệu quả bất ngờ cho doanh nghiệp.
3.2.2.4. Giải pháp đào tạo về Internet Marketing
Doanh nghiệp cần có chính sách tuyển dụng và đào tạo hợp lý nhân viên
Marketing, vì yếu tố con người rất quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực
Marketing – lĩnh vực cần sự năng động, sáng tạo hơn bao giờ hết. Để tạo ra
một đội ngũ nhân viên Marketing làm việc hiệu quả và chuyên nghiệp, doanh
nghiệp có thể phối hợp với nhà trường trong công tác đào tạo nguồn nhân lực
theo hình thức đặt hàng, thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ
cho nhân viên Marketing, có chính sách hỗ trợ đào tạo đối với nhân viên như
tạo điều kiện thuận lợi về thời gian và kinh phí nếu nhân viên có nhu cầu học
thêm lên cao nhằm nâng cao chuyên môn.
95
3.2.2.4. Nhóm giải pháp về vận dụng các công cụ của Marketing qua Internet
Xây dựng website doanh nghiệp
Trong thời kì công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, mỗi
doanh nghiệp cần có một website riêng. Tuỳ từng giai đoạn và mục tiêu cụ thể
trong giai đoạn đó mà website của doanh nghiệp có thể ở các mức độ khác
nhau. Giai đoạn đầu có thể chỉ đơn thuần giới thiệu thông tin về sản phẩm và
công ty, các giai đoạn sau sẽ nâng cấp để có thể đáp ứng được các nhu cầu
giao dịch cao hơn. Một số vấn đề doanh nghiệp cần chú ý khi xây dựng
website:
Một là: Xác định mục tiêu cho website của doanh nghiệp. Mục tiêu
này phải được xây dựng dựa trên việc phân tích các yếu tố như: doanh nghiệp
kinh doanh ngành nghề gì, khách hàng của doanh nghiệp là ai, đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp như thế nào. Mục tiêu đặt ra càng rõ ràng thì kết quả
do website mang lại càng cao.
Hai là: Đặt tên miền cho website. Tên miền riêng khẳng định vị trí gúp
khách hàng dễ dàng tìm đến với website của doanh nghiệp. Việc đặt tên miền
rất quan trọng vì nó thường gắn liền với doanh nghiệp hay nhãn hiệu sản
phẩm nổi tiếng mà doanh nghiệp cung cấp. Tên miền nên ngắn gọn, dễ nhớ,
dễ đọc. Việc đăng ký tên miền cũng cần được lưu ý để tránh những tranh chấp
về tên miền. Đối với những doanh nghiệp xác định thị trường mục tiêu là thị
trường nội địa thì nên đăng ký các tên miền .vn để được Pháp luật Việt Nam
bảo vệ, đồng thời cũng khiến cho tốc độ truy cập website của doanh nghiệp
nhanh hơn do không phải đi đường vòng. Đối với những doanh nghiệp xác
96
định kinh doanh trên thị trường nước ngoài thì nên nhanh chóng đăng ký các
tên miền quốc tế để tránh có người khác đăng ký mất.
Ba là: Đầu tư thiết kế trang chủ. Trang chủ là trang được ghé thăm
nhiều nhất, chính vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đặc biệt khi tiến
hành xây dựng website riêng. Trang chủ phải đáp ứng được các yêu cầu: thể
hiện rõ ràng mục đích của website, xắp xếp khoa học để người truy cập dễ
dàng tìm được thứ mà họ cần một cách nhanh nhất. Trang chủ không cần phải
quá màu mè phức tạp hay có những minh họa tinh vi bởi người truy cập
thường bỏ qua những đồ họa như quảng cáo và tập trung vào những phần của
trang chủ trông có vẻ có ích hơn.
Bốn là: Rút ngắn thời gian tải xuống của website. Việc mất quá nhiều
thời gian để tải xuống một trang web dễ gây chán nản cho người truy cập. Vì
vậy nên hạn chế các file ảnh đặc biệt là ảnh động và thuê các gói dịch vụ
internet có tốc độ đường truyền lớn đối với trường hợp website có nhiều hình
ảnh.
Năm là: Tránh một số sai lầm mà các chủ sở hữu website hay mắc
phải, đó là:
Ý tưởng vụn vặt: Các doanh nghiệp thích đưa ra ý tưởng vụn vặt hoặc khó
hiểu với hy vọng không ai làm giống họ. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp
nhận một thực tế rằng nếu đó là ý tưởng hay nó sẽ nhanh chóng bị bắt chước.
Bắt chước: Một số khác thất bại vì lặp lại mô hình kinh doanh nổi tiếng nào
đó. Chẳng hạn, nhiều người hăm hở xây dựng website 1 triệu USD như của
Alex Tew nhưng đều không thể mời chào được quảng cáo.
97
Thiếu linh động: Các công ty mới thành lập lo ngại việc điều chỉnh kế hoạch
sẽ khiến họ đi trệch khỏi định hướng ban đầu. Nhưng họ cũng cần nhớ rằng
"khả năng thích nghi luôn là điểm nhấn cho thành công của mỗi doanh
nghiệp".
Tiền nào của nấy: Chuyên gia phát triển web giỏi sẽ tạo ra các sản phẩm tốt.
Thuê nhân công giá rẻ cũng là một "bí quyết" giúp doanh nghiệp nhanh chóng
thất bại.
Thiếu chuyên môn: Ai cũng có thể tự nhận là một chuyên gia và các công ty
thường thiếu thông tin cần thiết để đánh giá khả năng của người đó. Vì thế,
nên tham khảo ý kiến của ít nhất ba người khác nhau trước khi quyết định một
vấn đề.
Bỏ qua người sử dụng: Đây là sai lầm phổ biến của các công ty hoạt động
trên web. Họ xây dựng website nhưng không đứng ở vị trí của người sử dụng.
Họ háo hức hiện thực hóa những ý tưởng trong đầu mà không nhận ra chúng
có thực sự cần thiết hay không. Phát hành bản thử nghiệm là cách tốt nhất để
nâng cao khả năng tương tác với người dùng.
Chi quá đà: Nhiều người thất bại vì rót tiền vào những thứ không cần thiết.
Ví dụ, họ đầu tư hẳn một máy chủ IBM Xeon chuyên dụng trong khi thuê
hosting giá 20 USD cũng là quá đủ.
Cả tin: Do thiếu kinh nghiệm, không ít người tin tưởng cả những thư rác bày
kế "làm giàu không khó" hoặc tuyên bố có thông tin mật của đối thủ. Trên
thực tế, Internet là phương tiện tuyệt vời cho những kẻ lừa đảo và viễn cảnh
phất lên nhanh chóng thực ra lại đòi hỏi rất nhiều nỗ lực.
98
Thiếu lòng nhiệt huyết: Ai cũng có sai lầm, nhưng sai lầm lớn nhất là họ
không chịu cố gắng và thất bại sẽ sớm đến với những ai làm việc nửa vời.
Giải pháp vận dụng Marketing qua Forum
Doanh nghiệp nên chủ động tạo ra Forum của mình bằng cách yêu cầu
công ty cung cấp dịch vụ thiết kế website cho mình làm luôn việc thiết kế
Forum. Trước hết doanh nghiệp cần khuấy động được phong trào tham gia
Forum công ty của các nhân viên và dần dần phổ biến nó ra ngoài để các
thành viên bên ngoài biết đến và tham gia. Việc quản trị Forum rất quan trọng
để đảm bảo Forum đó “sống” được. Một người quản trị Forum tốt sẽ biết cách
khéo léo gợi lên các chủ đề thú vị xoay quanh lĩnh vực mà công ty đang kinh
doanh, từ đó gián tiếp quảng bá cho công ty.
Ngoài việc chủ động tạo ra Forum, doanh nghiệp cũng nên tham gia vào các
cộng đồng, diễn đàn về các lĩnh vực, chủ đề liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
tới lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp để học hỏi thêm, tạo mối quan hệ,
hỗ trợ lẫn nhau và tìm kiếm khách hàng tiềm năng.
Giải pháp vận dụng Marketing qua Blog
Hiện nay phong trào viết Blog đang rất phát triển tại Việt Nam và trên
toàn thế giới. Riêng Việt Nam đến thời điểm năm 2007 có khoảng 4 triệu
Blogger. Sức lan truyền của những blog này đã được chứng minh thông qua
những cuộc tranh luận nảy lửa lôi kéo cả cộng đồng mạng tham gia. Thực tế
cũng cho thấy những trang nhật ký cá nhân điện tử đó cũng có thể được doanh
nghiệp sử dụng hiệu quả phục vụ công việc kinh doanh của mình. Một số gợi
ý cho các doanh nghiệp Việt Nam như:
- Tạo ra những Blog công ty mà nhiều người có thể tham gia với những bài
viết liên quan đến lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh.
99
- Quảng cáo trên các Blog có nhiều người truy cập.
- Đặt các Blogger nổi tiếng những chủ đề liên quan đến lĩnh vực kinh doanh
của doanh nghiệp. Bằng việc khuấy động và khéo léo dẫn dắt các chủ đề, các
Blogger uy tín có thể quảng bá cho doanh nghiệp vô cùng hiệu quả.
Giải pháp vận dụng Email
Để thực hiện tốt việc gửi Email, doanh nghiệp cần thực hiện các bước
sau đây:
Xác định đối tượng khách hàng tiềm năng và lên danh sách gửi thư: Để
tạo danh sách gửi thư, doanh nghiệp có thể thu thập email khách hàng thông
qua website của doanh nghiệp. Hầu hết các website của các doanh nghiệp ở các
nước có sự ứng dụng rộng rãi Thương mại điện tử và của nhiều doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay đều thiết kế các mục đăng kí nhận bản tin, nhận báo giá
nhằm thu thập e-mail và thông tin của những khách hàng quan tâm đến sản
phẩm của doanh nghiệp. Có một cách khác là doanh nghiệp mua danh sách
kèm phần mềm gửi thư của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo. Tuy nhiên,
những địa chỉ thư có được theo cách thứ hai này không cho phép doanh nghiệp
có thể phân loại được đối tượng gửi thư. Nó chỉ thích hợp cho những chiến
dịch Marketing đại chúng, không phân biệt đối tượng khách hàng mục tiêu.
Thiết kế thư điện tử: Thư điện tử nên được cá nhân hóa tới từng đối
tượng khách hàng vì người nhận thư bao giờ cũng thích nhận những bức thư
được gửi đích danh đến họ hơn là một bức thư chung chung có thể dùng gửi
cho tất cả mọi người. Nội dung thư nên ngắn gọn, không mang tính gạ gẫm và
quảng cáo sai sự thật. Nên hạn chế việc dùng các kí tự mà thay vào đó là hình
ảnh minh họa về sản phẩm. Thiết kế một bức thư với bố cục và màu sắc đẹp,
bắt mắt, lời lẽ ngắn gọn, xúc tích sẽ gây được cảm tình tốt của khách hàng.
Tất nhiên doanh nghiệp không được quên các thông tin liên hệ để khách hàng
100
liên lạc lại khi có nhu cầu. Nút lựa chọn cho phép hoặc không cho phép doanh
nghiệp tiếp tục gửi các thông điệp đến khách hàng là cần thiết để thể hiện sự
tôn trọng với khách hàng và theo đúng Luật định.
Xác định thời điểm gửi thư: Thư điện tử được gửi đến đúng lúc khách
hàng có nhu cầu về sản phẩm là trường hợp lý tưởng mà các doanh nghiệp
luôn mơ ước. Tuy nhiên để có thể nắm bắt được nhu cầu khách hàng đúng lúc
như vậy đòi hỏi người làm Marketing qua Internet phải theo dõi thường xuyên
và kiểm soát được lượng người thường xuyên truy cập websitet của doanh
nghiệp. Mặt khác, tùy thuộc vào từng chiến dịch Marketing, mà việc gửi thư
có thể được tiến hành một cách đồng loạt và không phân biệt. Ví dụ, mùa hè
thường là mùa của các giải bóng đá đỉnh cao, nhu cầu tụ tập uống bia và xem
bóng đá màn hình lớn tăng lên đặc biệt vào mùa này, công ty TNHH Hoàng
Đạo – một công ty chuyên kinh doanh máy chiếu, đã thực hiện một chiến dịch
E –mail Marketing trước mùa hè 2006 một tháng để khuấy động phong trào
xem bóng đá bằng máy chiếu. Chiến dịch này kết hợp với nhiều chiến dịch
khác như PR, quảng cáo đã khiến doanh số bán máy chiếu của công ty trong
mùa bóng đá 2006 tăng gấp 3 lần so với cùng kì năm 2005.
Tiến hành gửi thư: Cuối cùng là thực hiện việc gửi email tới các đối
tượng khách hàng nhưng tránh làm phiền bằng việc gửi liên tục và không cho
họ quyền từ chối nhận thư. Tần suất gửi thư được đề nghị là 1-2 lần/tháng.
Giải pháp vận dụng Quảng cáo trên Internet
Để thực hiện tốt chiến dịch Quảng cáo trên Internet, doanh nghiệp cũng
cần làm các bước sau đây:
- Xác định đối tượng mà quảng cáo hướng: Việc này giúp doanh nghiệp có
thể lựa chọn được các phương tiện quảng cáo hiệu quả. Hiện nay tại Việt
Nam có một số website được nhiều người truy cập như www.dantri.com.vn,
101
www.vnexpress.net, www.24h.com.vn, www.vietimes.com,
www.vneconomy.com.vn ... Tuy nhiên đối tượng độc giả của các báo này
không hoàn toàn giống nhau. Chính vì vậy việc xác định chính xác đối tượng
khách hàng mục tiêu sẽ giúp lựa chọn được kênh quảng cáo phù hợp.
- Thiết kế quảng cáo: Một mẫu quảng cáo ấn tượng có thể gây sự chú ý cao
của những người lướt web. Doanh nghiệp nếu có thể nên thuê các công ty
quảng cáo chuyên nghiệp thiết kế các mẫu banner dùng trong chiến dịch
quảng cáo, vì nói chung nhân viên Marketing của các công ty rất ít người giỏi
về các phần mềm chuyên dụng để thiết kế và chỉnh sửa ảnh như Photoshop,
Corel Draw…
- Lựa chọn hình thức trả tiền quảng cáo: Hình thức hiệu quả và tiết kiệm mà
doanh nghiệp được khuyên là nên trả tiền trên số lượng người kích chuột vào
banner của doanh nghiệp. Thậm chí hiện nay với sự phát triển của công nghệ,
người ta còn có thể thống kê được lượng IP truy cập vào website của doanh
nghiệp, tránh được tình trạng trả cước nhiều lần cho cùng một người truy cập.
Giải pháp vận dụng PR qua Internet
Vai trò của PR là không thể phủ nhận và việc tăng cường vận dụng PR
trong công việc kinh doanh đang là một xu hướng không chỉ tại Việt Nam mà
trên toàn thế giới. Để vận dụng tốt PR nói chung và PR qua Internet nói riêng,
các doanh nghiệp Việt Nam nên:
Có chính sách tuyển dụng, đào tạo hợp lý nhân viên làm PR chuyên
nghiệp. Đối với một số công ty nhỏ, để tiết kiệm chi phí có thể thuê PR
chuyên nghiệp bên ngoài tùy từng kế hoạch Marketing cụ thể.
Chủ động kết thân với giới truyền thông để phục vụ cho công tác quảng
bá hình ảnh, uy tín của mình.
102
Chủ động chuẩn bị nội dung cho các bài PR, trước khi liên lạc với giới
báo chí. Điều này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Tranh thủ mọi cơ hội truyền thông miễn phí cho doanh nghiệp. Ví dụ
như một công ty kinh doanh máy chiếu có thể chủ động liên lạc với các kênh
truyền hình để cung cấp thông tin cho các chương trình khoa giáo, hoặc các
chương trình về công nghệ mới, …
Tài trợ cho các sự kiện truyền hình, tổ chức các buổi họp báo giới thiệu
sản phẩm, dịch vụ mới…
Trên đây đã trình bày một số phương hướng phát triển của hoạt động
Marketing qua Internet, đồng thời cũng đề xuất một số kiến nghị đối với
Chính Phủ trong quá trình điều hành, xây dựng các chính sách vĩ mô nhằm
tạo ra môi trường thuận lợi và hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động
Marketing qua Internet có thể phát triển hơn nữa trong thời gian tới. Tuy
nhiên, ngoài những tác động ở tầm vĩ mô của Chính Phủ thì doanh nghiệp
mới là nhân tố quan trọng nhất quyết định tương lai của Marketing qua
Internet. Chính những thay đổi sâu sắc trong nhận thức và hành động của các
doanh nghiệp về Marketing qua Internet và Kinh doanh điện tử sẽ tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt của thương mại điện tử nói chung trong
tương lai, vì vậy trong chương này, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất giải pháp
đối với doanh nghiệp nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động
Marketing qua Internet ở cấp doanh nghiệp.
103
KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng CN-TT đã đem đến những biến đổi sâu sắc trong mọi
mặt đời sống xã hội trong đó có hoạt động kinh doanh tại các doanh nghiệp.
Với sự ra đời của Internet, khoảng cách không gian và thời gian giữa các quốc
gia, giữa người với người được rút ngắn lại. Tận dụng điều kì diệu ấy, các
doanh nghiệp, các tổ chức và Chính phủ bằng những hoạt động của mình đã
tạo ra một khái niệm mới: Thương mại điện tử. Từ khái niệm này, hàng loạt
các khái niệm như Marketing qua Internet, Marketing điện tử, Kinh doanh
điện tử đã… ra đời.
Tại Việt Nam, Marketing qua Internet cũng đã bắt đầu được tiến hành,
5-6% số doanh nghiệp Việt Nam thực sự sử dụng Thương mại điện tử, 25-
26% số doanh nghiệp có website riêng là những minh chứng sống động cho
điều này. Tuy nhiên những con số ấy cũng nói lên rằng ứng dụng Internet
trong hoạt động Marketing nói riêng và kinh doanh nói chung của doanh
nghiệp còn ở trình độ thấp.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc tăng cường
những ứng dụng của Internet nói chung và Marketing qua Internet là cần thiết
do những lợi ích lớn lao mà nó mang lại, đặc biệt đối với những doanh nghiệp
xuất khẩu. Xuất phát từ những tìm hiểu, phân tích về tình hình thực tế tại Việt
Nam, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với tham vọng có thể phần
nào giúp ích cho các doanh nghiệp tại Việt Nam, đem đến một cái nhìn mới
về Marketing qua Internet.
Cuối cùng, xin được gửi lời cám ơn chân thành, sâu sắc tới cô giáo
hướng dẫn TS. Phạm Thu Hương và toàn thể các thầy, cô giáo, các cán bộ
công tác tại Khoa sau đại học trường Đại học Ngoại Thương, đã giúp đỡ tôi
hoàn thành Luận văn này.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Chính Phủ (2005), Quyết định 191/2005/QĐ-TTg ban hành ngày 29/7/2005
phê duyệt đề án “ Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT phục vụ hội nhập và
phát triển giai đoạn 2005-2010”.
2. Chính phủ (2007 ), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
3. Chính phủ ( 2007), Nghị định số 63/2007 quy định sử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Công nghệ thông tin.
4. Bộ Thương Mại ( 2006), Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử
ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2010
5. TS. Phạm Thu Hương (2007), Các giải pháp vận dụng Marketing điện tử
(E-Marketing) cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, năm 2007.
6. Thu Hiền, Quảng cáo qua E-mail, đâu là giải pháp?, Tạp chí thế giới vi
tính, 15/9/2006.
7. PGS-TS. Nguyễn Hoàng Long, Một số ý kiến về phát triển Đào tạo Thương
mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2006 -2010, Hội thảo “ Đào tạo Thương
mại điện tử trong các trường Đại học và Cao Đẳng Hà Nội”, 29/8/2006.
8. Vũ Minh (dịch từ New York times), Các “đại gia Internet” chạy đua
quảng cáo trực tuyến, http://www.vietimes.com.vn, 7/2007.
9. Quốc hội, Luật giao dịch điện tử 2005.
10. ThS. Nguyễn Văn Thoan, Giáo trình đào tạo thương mại điện tử - Thực
trạng và giải pháp, Hội thảo “ Đào tạo Thương mại điện tử trong các trường
Đại học và Cao Đẳng Hà Nội”, 29/8/2006.
105
11. Đặng Vỹ, Chỉ có 5- 6% doanh nghiệp thực hiện Thương mại điện tử,
Vietnamnet, 2007.
12. http://www.vnnic.vn
13. http:// www.vnemart.com.vn
14. http://irv.moi.gov.vn/KH-CN/ncpmud/2006/7/15914.ttvn
Tiếng Anh
15. Nhóm tác giả Elicom ( tài liệu dịch), Thành công nhờ Internet, NXB Hà
Nội, năm 2000. 16. Judy Strauss, Adel El-Ansary and Raymond Frost, E-marketing, the 4th
Edition, Prentice Hall Publishing House, 2006, page 3
17. Philip Kotler & Armstrong, Marketing – An Introduction, Prentice Hall
Publishing House, 2007.
18. http://www.sba.gov/starting_business/marketing/emarketing.html
19. http://www.davechaffey.com/E-business
20. http://www.emarketing.com
21. http://www.marketing-online.co.uk
22. http://www.helpdocuments.com
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam ( VNNIC), số người
sử dụng Internet tại Việt Nam năm 2007 là 18,5 triệu người tương đương với
22% dân số và số thuê bao Internet đã lên tới 5,2 triệu thuê bao, 20 -25%
trong số khoảng 150.000 doanh nghiệp trong cả nước có Website riêng.
Những con số thống kê nói trên cho thấy sự phát triển sâu rộng của Internet
tới mọi mặt của xã hội, cũng như nhận thức của các doanh nghiệp về những
lợi ích mà Internet mang lại. Internet không chỉ xoá nhoà khoảng cách về
không gian, thời gian mà còn khiến hoạt động kinh doanh truyền thống hiệu
quả hơn và tạo ra nhiều cơ hội mới trong kinh doanh.
Khái niệm Marketing mới chỉ được nói đến tại Việt Nam vào những
năm cuối của thập niên 90 của thế kỉ 20, nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn
chưa hết ngỡ ngàng với những kiến thức rất mới mẻ về Marketing thì cùng
với sự bùng nổ của Internet, họ lại được chứng kiến những biến đổi vô cùng
thú vị của hoạt động này. Marketing qua Internet vừa là lợi ích to lớn mà
Internet mang lại cũng vừa là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp bởi
môi trường Internet có những đặc thù riêng khác với môi trường kinh doanh
thông thuờng, nên nếu chỉ áp dụng những phương pháp Marketing truyền
thống vào môi trường Internet sẽ không phù hợp.
Mặc dù 20-25% các doanh nghiệp Việt Nam có website, nhưng hầu hết
chỉ dừng ở mức đơn giản như: xây dựng website để giới thiệu thông tin doanh
nghiệp một cách sơ sài, hay quảng cáo trên Internet… Các kiến thức về
Marketing nói chung cũng như các biện pháp Marketing qua Internet cũng
chưa được biết đến sâu sắc và rộng rãi tại Việt Nam. Chính vì thế việc nghiên
cứu về Marketing qua Internet một cách có hệ thống tại Việt Nam là cần thiết.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động Marketing nói chung và Internet Marketing nói riêng đã
được rất nhiều các chuyên gia kinh tế trên thế giới nghiên cứu như Philip
Kotler, Judy Strauss, Dave chaffey,… Tại Việt Nam, những vấn đề lý thuyết
Marketing cũng được nghiên cứu và đưa vào giảng dạy tại các trường đại học
khối kinh tế từ khoảng chục năm trở lại đây. Riêng đối với hoạt động
Marketing qua Internet, tuy còn mới mẻ nhưng cũng đã có những công trình
nghiên cứu về nó như đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Các giải pháp vận
dụng Marketing điện tử cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam” do
TS.Phạm Thu Hương làm chủ nhiệm thực hiện năm 2007.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận và thực tiễn về Marketing qua
Internet và vận dụng vào các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Nêu rõ được thực trạng ứng dụng Marketing qua Internet tại các doanh
nghiệp cả những mặt ưu và khuyết điểm trong thời gian 5 năm vừa qua.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào hoạt động Marketing qua Internet tại các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ để thấy được mặt mạnh cũng như những tồn tại của hoạt
động này, trên cơ sở đó đề ra các kiến nghị và giải pháp để đưa ra một quy
trình Marketing phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam.
Về phạm vi thời gian, Luận văn chỉ tập trung vào khoảng thời gian 5
năm gần đây, khi mà Internet thực sự bùng nổ và sự xuất hiện của hoạt động
thương mại điện tử kéo theo sự cần thiết của hoạt động Marketing qua
Interent tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
3
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,
cụ thể, tác giả có vận dụng và tập trung vào các phương pháp chính sau:
Quan sát: Vì đây là một vấn đề tương đối mới tại Việt Nam nên tác giả sử
dụng phương pháp này tìm hiểu chung về mặt lý thuyết và thực tiễn áp dụng
tại các doanh nghiệp nhằm có cái nhìn chung về sự phát triển của Marketing
qua Internet.
Thực nghiệm: Làm việc tại phòng Marketing của doanh nghiệp vừa và nhỏ
(Công ty TNHH Hoàng Đạo, 65 Láng Hạ, Hà Nội) để tìm hiểu thực tế áp
dụng Marketing tại doanh nghiệp đó, từ đó có cái nhìn sâu sát hơn về
Marketing qua Internet tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Xử lý số liệu : Các số liệu thống kê thu thập được sẽ giúp lượng hoá được tình
hình phát triển của Marketing qua Internet và có những dự đoán chính xác
hơn cho tương lai cũng như có cơ sở để đề ra những giải pháp hiệu quả hơn.
6. Kết cấu của Luận văn
Cụ thể, về mặt cấu trúc, Luận văn gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan về Marketing qua Internet
Chương II: Thực trạng áp dụng Marketing qua Internet tại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động Marketing
qua Internet tại Việt Nam