BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Hồng
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
THỜI KỲ 1945 – 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
Lê Thị Hồng
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
THỜI KỲ 1945 – 1975
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 03 13
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN ĐẠT
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt Nam thời kỳ
1945 - 1975 là công trình nghiên cứu và biên soạn của riêng tôi trong thời gian theo
học lớp Cao học khóa 23, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam tại Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung đề tài trước Hội đồng bảo vệ luận văn.
Tác giả
Lê Thị Hồng
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Khoa Lịch sử và Phòng Sau Đại học Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình học tập tại trường.
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ts. Lê Văn Đạt, Thầy đã nhiệt tình giúp
đỡ em trong quá trình tìm tài liệu và làm luận văn.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ CÁC HÌNH THỨC MẶT TRẬN
DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG CÁCH MẠNG VIỆT
NAM ........................................................................................................ 7
1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 7
1.2. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và những
tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt
Nam ................................................................................................................ 18
1.3. Các hình thức tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cách mạng
Việt Nam ........................................................................................................ 21
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 28
Chương 2. MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 -
1954) ...................................................................................................... 30
2.1. Mặt trận Dân tộc thống nhất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính
quyền nhân dân (9/1945 – 12/1946) ............................................................... 30
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và nhu cầu, chủ trương mở rộng Mặt trận đoàn
kết dân tộc ................................................................................................ 30
2.1.2. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam góp phần
xây dựng và bảo vệ chính quyền ............................................................. 36
2.2. Mặt trận Dân tộc thống nhất thực hiện nhiệm vụ của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (12-1946 đến 7-1954) .................................. 49
2.2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và yêu cầu mở rộng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất ................................................................... 49
2.2.2. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt góp phần giành thắng lợi bước
đầu của cuộc kháng chiến (1946 - 1950) ................................................. 52
2.2.3. Mặt trận Liên Việt góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn (1951 - 1954) ........................................................................... 59
Tiếu kết chương 2...................................................................................................... 69
Chương 3. MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975) ........................... 71
3.1. Bối cảnh tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định
Giơnevơ 1954 ................................................................................................. 71
3.2. Mặt trận Dân tộc thống nhất thực hiện nhiệm vụ của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước....................................................................................... 73
3.2.1. Mặt trận Liên Việt hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình ....................... 73
3.2.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước
nhà ........................................................................................................... 76
3.2.3. Mặt trận Dân tộc thống nhất miền Nam với sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước (1960 - 1975) ........................................................................... 96
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 140
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 151
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- MTDTTN : Mặt trận Dân tộc Thống nhất
- HLHQDVN : Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam
- MTTQVN : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- MTDTGPMNVN : Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam
- CPCMLTCHMNVN : Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam
- VNDCCH : Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- LMCLLDTDC&HBVN : Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và
Hòa bình Việt Nam
- Nxb : Nhà xuất bản
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã đúc
kết được nhiều truyền thống quý báu. Trong đó, đoàn kết đã trở thành một trong
những truyền thống nổi bật nhất; là cội nguồn sức mạnh to lớn, đảm bảo cho dân tộc
tồn tại và phát triển, xây dựng đất nước, chống chọi với thiên tai, địch họa, chiến
thắng thù trong giặc ngoài, giữ vững non sông đất nước.
Phát huy truyền thống vẻ vang đó, ngay từ năm 1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam - trung thành với lợi ích dân tộc đã tập hợp, đoàn kết toàn dân trong MTDTTN
mà hình thức đầu tiên là Hội phản đế đồng minh. Kể từ đó đến nay, trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, không có thời kỳ nào vắng tổ chức Mặt trận. Thắng lợi vĩ đại
của cách mạng tháng Tám năm 1945 gắn liền với sự nghiệp của các tổ chức Mặt
trận thời kỳ này, đặc biệt là Mặt trận Việt Minh.
Trên cơ sở phát huy vai trò đó, cùng với những bài học kinh nghiệm được rút
ra trong quá trình xây dựng và phát triển công tác Mặt trận trong giai đoạn trước,
MTDTTN trong thời kỳ 1945 - 1975 đã có những đóng góp vô cùng to lớn để đưa
đến thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta: kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954 - 1975).
Lịch sử Việt Nam có lẽ hiếm có thời kỳ nào chứa đựng nhiều biến động,
thăng trầm như thời kỳ 1945 - 1975. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp chưa
kết thúc, đế quốc Mỹ đã lăm le nhảy vào. Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại phải
đối đầu với những kẻ thù mạnh đến vậy. Song cuối cùng, thắng lợi đã thuộc về nhân
dân Việt Nam. Nguyên nhân của những kỳ tích ấy thì có rất nhiều, nhưng nổi bật là
vai trò của MTDTTN. MTDTTN đã có vai trò lịch sử quan trọng, là một nhân tố
quyết định làm nên thắng lợi của dân tộc ta. Vì vậy, để có thể hiểu một cách sâu sắc
về lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 không thể không tìm hiểu về MTDTTN.
Những hoạt động của MTDTTN, trực tiếp hay gián tiếp, đều có chi phối quan trọng
đến tiến trình của lịch sử Việt Nam thời kỳ này.
2
Mặt khác, vấn đề MTDTTN cũng là đối tượng của không chỉ khoa học lịch
sử mà còn đối với lĩnh vực chính trị. Những bài học về tập hợp lực lượng quần
chúng, về cách phối hợp hoạt động để phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc mãi
mãi là những bài học quý giá và luôn mang tính thời sự nóng bỏng. Nghiên cứu về
MTDTTN, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm để phục vụ cho công tác xây dựng
và bảo vệ đất nước trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết.
Hơn thế nữa, MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời kỳ này, tự nó cũng
là một đối tượng nghiên cứu rất quan trọng trong mảng đề tài nghiên cứu về lịch sử
Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 nói chung. Bản thân việc nghiên cứu đề tài này cũng
không nằm ngoài mục đích hiểu rõ, hiểu sâu thêm về vấn đề MTDTTN trong lịch sử
Việt Nam, để từ đó có thể hoàn thiện thêm về tri thức lịch sử Việt Nam 1945 -
1975.
Riêng đối với công tác giảng dạy, hiện nay quá trình dạy học bộ môn Lịch sử
Việt Nam ở các trường phổ thông nói chung và môn Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam ở các trường Cao đẳng và Đại học nói riêng còn thiếu sự
toàn diện. Đó là, thường xem nhẹ các lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức chính trị
- xã hội trong đó có vấn đề MTDTTN, mà chủ yếu chú trọng lĩnh vực chính trị -
quân sự. Vì vậy, nắm vững và truyền đạt được những kiến thức về MTDTTN cho
người học sẽ góp phần giúp giáo viên giảng dạy đạt kết quả tốt hơn. Do đó, khi
nghiên cứu về MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975, tôi cũng
mong muốn góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch
sử Việt Nam cũng như môn Đường lối cách mạng Việt Nam hiện nay theo hướng
toàn diện hơn.
Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Mặt trận Dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975” làm đề tài luận văn thạc sỹ
lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề MTDTTN trong lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975
không phải là một đề tài nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu lịch sử đã đề cập khá
nhiều đến mảng đề tài này, trực tiếp cũng như gián tiếp. Tuy nhiên, một công trình
3
chuyên sâu và đầy đủ về vấn đề này, cho đến nay vẫn chưa được xuất bản.
Các công trình mang tính chất đại cương như Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến
nay, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2000; Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội của các tác giả Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá
Đệ, Nguyễn Văn Thư, xuất bản năm 2003; Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập: từ
nguyên thủy đến 2000 của Trương Hữu Quýnh và những tác giả khác, xuất bản năm
2003…đều trình bày những nét lớn của lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 nói
chung. Các công trình này, đều nhìn nhận thấy sự quan trọng của MTDTTN đối với
sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nhưng do đây là những công trình mang
tính chất đại cương, các tác giả không thể trình bày vấn đề này một cách chi tiết và
chuyên sâu.
Các công trình Mặt trận dân tộc thống nhất là gì? của tác giả Viễn Trình,
Nxb Sự thật, xuất bản năm 1957; Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam của tác giả Nguyễn Công Bình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm
1963; Vài nét tư liệu về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, Báo cứu quốc, số
28, tháng 1-1977; Lược sử Mặt trận dân tộc thống nhất của Ủy ban trung ương
MTTQVN, Nxb Sự thật, xuất bản năm 1991…đều là những công trình nghiên cứu
về MTDTTN trong cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu về mặt
thời gian của các công trình này là khá rộng lớn, do đó chưa đi sâu nghiên cứu được
một cách chi tiết về MTDTTN trong thời kỳ 1945 - 1975.
Công trình Về mặt trận dân tộc thống nhất của Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật,
Hà Nội, xuất bản 1972 và những bài viết của các tác giả khác đăng trên các báo và
tạp chí như: Quá trình tiến hành công tác Mặt trận của Đảng ta, Tạp chí nghiên
cứu lịch sử số 139, 1971 của tác giả Văn Tâu; Nhận thức và thực tiễn của vấn đề
xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 2, 1991 của
tác giả Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Văn Khánh; Hồ Chí Minh hoàn thiện về đường lối
chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất, Tạp chí nghiên
cứu lịch sử, số 2, 1992 của tác giả Lê Mậu Hãn…là những công trình nặng về
phương diện lý luận trong việc tìm hiểu về MTDTTN trong cách mạng Việt Nam.
Các công trình này đã thể hiện một cách chi tiết về quan điểm xây dựng MTDTTN
4
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự hình thành và hoạt động của
MTDTTN trong các giai đoạn cụ thể mà chưa nghiên cứu sâu, chi tiết về MTDTTN
trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975. Hơn nữa, bản thân các bài viết trên
các báo và tạp chí chủ yếu là các công trình nghiên cứu tương đối nhỏ, chưa thể
trình này vấn đề này một cách khái quát và hệ thống.
Các công trình như: Sự thành lập và phát triển của Mặt trận Việt Minh của
Ban tuyên huấn Việt Minh - Liên Việt chiến khu VI, Tổng bộ Việt Minh xuất bản
năm 1949; Mặt trận Việt Minh của tác giả Nguyễn Thành, Nxb Sự thật, Hà Nội,
xuất bản năm 1991; Chung một bóng cờ (Về Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam) của tác giả Trần Bạch Đằng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
xuất bản năm 1993; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960-1977),
của các tác giả Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, Nxb Tổng hợp, Tp HCM, xuất bản
năm 2010; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2010…lại là những công trình
nghiên cứu về Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, MTDTGPMNVN, do vậy
không thể bao quát hết được vấn đề MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời kỳ
1945 - 1975.
Nhìn chung, tất cả các công trình nêu trên đã quan tâm nghiên cứu đến
MTDTTN nói chung cũng như MTDTTN trong thời kỳ 1945 - 1975. Tuy nhiên, các
công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh của toàn bộ mảng đề tài này. Do đó, thực
hiện đề tài, tôi hy vọng có thể kế thừa những thành quả của các công trình nghiên
cứu đi trước để có thể tổng hợp, khái quát lại một cách toàn diện và hệ thống hơn
vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975 là một bức tranh sinh động và rộng
lớn. Vấn đề mà luận văn đặt ra chỉ nhằm tìm hiểu một khía cạnh nhỏ trong mảng
nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Luận văn chỉ tập trung tìm hiểu về sự ra đời, quá
trình hoạt động và những đóng góp của MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời
kỳ 1945 - 1975.
5
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Trong điều kiện thời gian có hạn và nguồn tư liệu còn hạn chế, luận văn đặt
ra nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Cơ sở lý luận, bối cảnh lịch sử và những tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của
MTDTTN trong cách mạng Việt Nam; các hình thức tổ chức MTDTTN ở nước ta
từ 1930 đến nay.
- Sự ra đời, quá trình hoạt động và những đóng góp của MTDTTN trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954).
- Sự ra đời, quá trình hoạt động và những đóng góp của MTDTTN trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).
- Tính chất, đặc điểm và một số bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng
MTDTTN trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta.
4. Đóng góp của luận văn
Không tham vọng đưa lại điều gì mới mẻ mang tính phát hiện nhưng với tinh
thần làm việc nghiêm túc và khoa học, khi thực hiện đề tài “Mặt trận Dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975”, luận văn mong muốn có
những đóng góp nhất định:
- Luận văn trình bày một cách khái quát về bối cảnh ra đời, quá trình hoạt
động của MTDTTN trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược.
- Luận văn góp phần làm sáng rõ hơn những đóng góp to lớn của Mặt trận
đối với cách mạng Việt Nam trong trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược.
- Bước đầu rút ra đặc điểm, tính chất và những bài học kinh nghiệm về
MTDTTN Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Luận văn tập hợp nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và học tập vấn đề MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 - 1975.
5. Nguồn tư liệu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm, tập hợp, khai
thác tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, kế thừa nghiêm túc các nguồn tài liệu có liên
6
quan. Nguồn tài liệu này gồm:
- Tài liệu của Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
- Văn kiện Đảng toàn tập; Văn kiện các Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất
thời kỳ 1945 - 1975; Hồ Chí Minh Toàn tập.
- Các công trình nghiên cứu chuyên đề về MTDTTN tại Thư viện Tổng hợp;
Thư viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Thư viện Khoa học -
xã hội…
- Các sách, hồi ký của các vị lãnh đạo Đảng, chính quyền, Mặt trận trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Đề tài còn sử dụng khá nhiều các nguồn tư liệu từ các báo và tạp chí khoa
học có viết về MTDTTN.
- Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số tư liệu từ sách điện tử và internet. Đây
là một nguồn tài liệu vô cùng phong phú. Tuy vậy, chúng tôi rất cẩn thận trong quá
trình khai thác nguồn tư liệu này.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
- Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp chặt chẽ với phương pháp logic, đồng thời sử
dụng các phương pháp chuyên ngành như phương pháp sưu tầm, phân tích, tổng
hợp tài liệu…
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục. Nội dung chính của luận văn có cấu
trúc thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở hình thành và các hình thức Mặt trận Dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam
Chương 2. Mặt trận Dân tộc thống nhất trong kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Chương 3. Mặt trận Dân tộc thống nhất trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975)
7
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ CÁC HÌNH THỨC
MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận
Đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN là một tư tưởng lớn, nội dung lớn của
đường lối cách mạng đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định ngay từ khi Đảng
vừa mới ra đời. Chủ trương đó được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa, phát triển
truyền thống đoàn kết của dân tộc ta; kết hợp một cách tài tình, khéo léo những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân và đoàn
kết dân tộc; đặc biệt là những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc trong MTDTTN.
Thứ nhất, MTDTTN Việt Nam được xây dựng dựa trên truyền thống đoàn kết,
nhân nghĩa của cộng đồng dân tộc; những kinh nghiệm, tư tưởng tập hợp lực lượng
dân tộc để dựng nước, cứu nước của các thế hệ yêu nước, cách mạng tiền bối.
Một trong những đặc điểm nổi bật của lịch sử dân tộc Việt Nam là truyền
thống dựng nước gắn chặt với truyền thống giữ nước, đấu tranh xã hội - giai cấp
không tách rời đấu tranh dân tộc. Quá trình lịch sử đó đã hun đúc nên những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự
cường, cần cù, sáng tạo trong lao động, anh dũng trong đấu tranh…và một trong
những truyền thống nổi bật nhất, một trong những nhân tố làm nên thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đó là tinh thần đoàn kết cộng đồng, dân tộc. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã trở thành lẽ sống của mỗi người Việt Nam,
gắn chặt vận mệnh của mỗi cá nhân vào vận mệnh của cộng đồng, quốc gia, dân tộc
và hình thành nên sự cố kết cộng đồng một cách tự nhiên.
Tuy nhiên, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc không phải ngẫu
nhiên mà có. Đó là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố về điều kiện địa lý, tự nhiên
và vị trí quan trọng của dân tộc mà những cư dân người Việt từ thuở xa xưa vừa
được thừa hưởng sự ưu đãi của đất trời, vừa phải đối mặt với những thử thách khắc
8
nghiệt của thiên tai, địch họa. Trước sự đe dọa của thiên tai, nhân dân ta phải đoàn
kết hợp quần nhau lại mới đủ sức mạnh để khai phá đất hoang thành đồng ruộng,
lập xóm làng, đắp đê chống lũ lụt, khơi kênh ngòi chống úng hạn… công cuộc lao
động gian khổ và yêu cầu hợp quần đó tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa con người
với thiên nhiên, giữa người với người ở cùng một làng, một nước.
Đặc biệt, nước ta ở vào vị trí địa lý quan trọng của vùng Đông Nam Á, là địa
bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị và quân sự. Cho nên, từ thời cổ
đại đến cận đại và hiện đại, Việt Nam là mảnh đất mà các thế lực bành trướng, xâm
lăng luôn luôn thèm khát và tìm mọi cách để chiếm đoạt. Trong lịch sử tồn tại và
phát triển của mình, dân tộc ta phải chống ngoại xâm rất nhiều lần với tần suất rất
cao: đã phải tiến hành gần 20 cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc cùng với hàng trăm
cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Họa mất nước có khi kéo dài hàng chục,
thậm chí hàng trăm năm. Thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại trên 12 thế kỷ.
Trên thế giới, ít có dân tộc nào phải chống ngoại xâm nhiều đến như thế.
“Hơn nữa Việt Nam phải chống ngoại xâm trong những điều kiện rất ác liệt,
trong so sánh lực lượng rất chênh lệch. Nước đi xâm lược, ngoại trừ vài ba trường
hợp như Nam Việt, Nam Hán, Xiêm là những quốc gia không lớn lắm, còn lại đều
là những đế chế lớn mạnh ở phương Đông hay những cường quốc đế quốc chủ
nghĩa trên thế giới. Trong hoàn cảnh đó, muốn chiến thắng kẻ thù lớn mạnh, Việt
Nam phải huy động sức mạnh của cả nước, của toàn dân...
Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thành
công từ xa xưa đến gần đây đều là chiến tranh nhân dân yêu nước, kết hợp giữa vai
trò của quân đội chủ lực của nhà nước với sự tham gia rộng lớn của các tầng lớp
nhân dân, của cả dân tộc, phát huy tất cả sức mạnh tinh thần và vật chất của đất
nước. Ngược lại, những cuộc kháng chiến thất bại, nguyên nhân chủ yếu là, hoặc
chỉ đơn thuần dựa vào quân đội, dựa vào thành lũy hoặc để mất lòng dân”[48,
tr.100]. Tức là chưa đoàn kết được các tầng lớp nhân dân đấu tranh bảo vệ độc lập
dân tộc.
Với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện địa lý đặc thù nêu trên, để tồn tại và phát
triển, các cư dân trên lãnh thổ hình chữ S từ hàng ngàn năm nay đã cố kết lại để
9
chống chọi với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ
đó, đã sớm nảy sinh và hình thành ý thức cộng đồng, ý thức tập thể và cao hơn là ý
thức dân tộc. Ý thức này ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam và được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống đoàn kết trên nền
tảng vững chắc - chủ nghĩa yêu nước. Đoàn kết đối với các thế hệ người Việt Nam
đã trở thành một tình cảm tự nhiên “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một
nước phải thương nhau cùng”; đã trở thành một triết lý nhân sinh: “Một cây làm
chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; đã trở thành phép ứng xử và tư
duy chính trị: Nhà - Làng - Nước thống nhất; “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền
cũng là dân” và được đúc kết, nâng lên thành kinh nghiệm, thành phép trị nước và
đánh giặc: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”,
“Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức”...
Cũng chính trong quá trình dựng nước và giữ nước, cha ông ta còn tích lũy
được không ít những kiến thức, kinh nghiệm phong phú, đa dạng, thích hợp với
mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau về xây dựng, thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc với
nhiều hình thức như: Hội nghị Diên Hồng (1284); Hội thề Lũng Nhai (1416); Hội
Duy Tân (1905); Việt Nam Quang phục Hội (1912)…Đây là một trong những nhân
tố góp phần đem đến thắng lợi cho dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ
đất nước, giành lại độc lập dân tộc.
Nhằm kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2/1930) đã vạch ra sự
cần thiết phải xây dựng một MTDTTN để đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ
chức chính trị, các cá nhân phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Thứ hai, chủ trương xây dựng MTDTTN của Đảng Cộng sản Việt Nam còn
xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đoàn kết dân tộc với
tư tưởng cốt lõi: Cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của đông đảo quần chúng
nhân dân.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848), C.Mác - Ph.Ăngghen
sau khi phân tích quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa tư bản, các ông đã
10
chứng minh sự ra đời, phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản là một tất yếu lịch
sử; đồng thời chỉ ra những mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
sự mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Từ đó, C.Mác - Ph.Ăngghen đã chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân: xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức,
bóc lột; xây dựng một chế độ xã hội mới - xã hội cộng sản văn minh.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử nói trên, giai cấp vô sản phải đoàn kết tất
cả các lực lượng tiến bộ xung quanh mình. Đặc biệt, khi giai cấp tư sản và các thế
lực áp bức, bóc lột liên minh, liên kết với nhau chống phong trào cách mạng thì các
giai cấp, tầng lớp lao động bị áp bức muốn giải phóng được cho mình phải đoàn kết,
liên minh lại với nhau, đoàn kết với giai cấp vô sản, tạo nên một mặt trận cách
mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Bên cạnh đó, C.Mác - Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng: sự thống nhất về lợi ích
chính là cơ sở để làm nên sự thống nhất giữa vấn đề đoàn kết dân tộc và đoàn kết
giai cấp: “Muốn cho các dân tộc có thể thực sự đoàn kết lại thì họ phải có những lợi
ích chung. Muốn cho những lợi ích của họ trở thành lợi ích chung thì những quan
hệ sở hữu hiện có phải bị thủ tiêu, bởi lẽ những quan hệ sở hữu hiện có tạo điều
kiện cho một số dân tộc này bóc lột một số dân tộc khác; chỉ có giai cấp công nhân
là thiết tha với việc thủ tiêu những quan hệ sở hữu hiện tồn. Duy chỉ có mình nó
mới có thể làm được việc này”[18, tr.624].
C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: vấn đề đoàn kết, tập hợp lực lượng cách
mạng, liên minh các giai cấp, các dân tộc là điều kiện cần cho thắng lợi của cách
mạng. Lực lượng của cách mạng chính là mọi thành viên trong xã hội, không phân
biệt nam nữ, dân tộc, quốc gia, đoàn kết mọi công nhân trong toàn xã hội, tất cả mọi
thành viên trong xã hội vào hiệp hội dựa trên sự hiệp tác. Không chỉ vậy, sức mạnh
của khối đoàn kết ấy không chỉ bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp vô sản trong giai
đoạn giành chính quyền, mà nó còn bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp vô sản trong
quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Trong liên minh ấy, giai cấp vô
sản là giai cấp tiên phong có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Bởi vì: “trong tất
11
cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai
cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với
sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân
nền đại công nghiệp” [18; tr.610-611].
Như vậy, những đóng góp của C.Mác, Ph.Ăngghen trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn của vấn đề đoàn kết dân tộc là rất quan trọng. Các ông đã đặt nền
tảng để xây dựng khối liên minh công nông, đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn kết các
dân tộc bị áp bức, tập hợp lực lượng, đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đi tới
thắng lợi.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ăngghen, V.I. Lênin đã
nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cần thiết phải đoàn kết các giai cấp và tầng lớp
trong xã hội, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng tháng Mười Nga, V.I. Lênin cho rằng: trong cách mạng việc liên minh
giai cấp là một vấn đề to lớn. “Nếu chỉ một mình giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu
tranh một cách đơn độc thì đó không những là một điều dại dột mà còn là một tội ác
nữa”[21, tr.29]. Đặc biệt, V.I. Lênin còn nêu vấn đề đoàn kết những người vô sản
với nhân dân các nước bị áp bức, bóc lột nhằm chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc thành một khẩu hiệu chiến lược: “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới đoàn kết lại”. Đến đây, vấn đề đoàn kết đã được phát triển và mở rộng,
không những đoàn kết nhân dân trong nước mà còn phải đoàn kết với nhân dân thế
giới, nhất là các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng
của từng nước nói riêng và cho phong trào, mục tiêu cách mạng thế giới nói chung.
Tiếp thu những quan điểm đó, Quốc tế Cộng sản trong quá trình hoạt động của
mình, đã tiến hành nhiều hoạt động dù ở cấp độ “thấp” hay “hẹp” hơn Mặt trận
nhưng vẫn có ý nghĩa như là sự tập hợp lực lượng quần chúng, liên kết phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế như: “Quốc tế thanh niên”, “Quốc tế nông dân”,
“Công hội đỏ”, “Quốc tế phụ nữ”… Mô hình này của Quốc tế Cộng sản về sau đã
được lặp lại trong cấu trúc hệ thống chính trị cách mạng các nước do giai cấp vô sản
lãnh đạo. Đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc - nơi mà yếu tố dân tộc còn
chiếm ưu thế, cho nên còn có điều kiện tập hợp trong Mặt trận thống nhất tất cả
12
những lực lượng dân chủ trong nước để tiến hành đấu tranh cách mạng chống chủ
nghĩa đế quốc. Ngay trong Quốc tế Cộng sản - cơ quan cao nhất của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, ở một khía cạnh nào đó cũng mang tính chất một sự
tập hợp, đoàn kết, thống nhất, liên minh hợp tác để thực hiện những mục tiêu chung
của phong trào cách mạng thế giới. Ngay trong Quốc tế Cộng sản - cơ quan cao
nhất của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ở một khía cạnh nào đó cũng
mang tính chất một sự tập hợp, đoàn kết, thống nhất, liên minh hợp tác để thực hiện
những mục tiêu chung của phong trào cách mạng thế giới.
Trong Báo cáo chính trị của G.Dimitrop - Chủ tịch Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản năm 1920, đã tập trung chủ yếu cho cuộc đấu tranh thành lập MTDTTN
công nhân và Mặt trận thống nhất nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa. Thông qua
những cấp độ hợp tác, hiệp thương, liên minh…cấp độ Mặt trận có thể được coi là
mang tính chất rộng rãi. Nó không chỉ bao trùm sự đoàn kết các lực lượng trong
nước vào sự nghiệp cách mạng nói chung của dân tộc mà còn mở rộng ra phạm vi
liên kết và đoàn kết quốc tế, cùng giúp đỡ nhau nhằm thực hiện những mục tiêu to
lớn mà nhân loại đặt ra.
Bắt đầu từ năm 1923, Quốc tế Cộng sản đã bắt tay chỉ đạo việc xây dựng
MTDTTN ở một nước cụ thể - nước Trung Hoa cách mạng. Quốc tế Cộng sản kỳ
vọng có thể rút từ thực tiễn cách mạng Trung Hoa những kinh nghiệm để áp dụng
cho phong trào cách mạng các nước khác có hoàn cảnh tương tự. Mặc dù, sự chỉ
đạo xây dựng MTDTTN ở Trung Quốc không mấy thành công, nhưng tư tưởng chỉ
đạo đó của Quốc tế Cộng sản đã có ý nghĩa rất tích cực đối với phong trào cách
mạng thế giới nói chung và nhất là phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ
thuộc nói riêng.
Như vậy, do đặc điểm của thời đại mình, C.Mác và Ph.Ăngghen mới chỉ kêu
gọi đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế giới và thực hiện liên minh công nông (sau
Công xã Pari 1871) trong đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến V.I.Lênin,
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ách
áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, tư tưởng liên minh
công nông của C.Mác được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy mô
13
toàn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ về vấn đề dân tộc, nhất là vấn đề
dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong
MTDTTN vẫn chưa được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đặt ra một cách hệ thống,
cụ thể và đầy đủ.
Nhưng những đóng góp của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Quốc tế Cộng
sản về vấn đề đoàn kết dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về phương diện lý
luận và thực tiễn. Các ông đã đặt nền tảng để xây dựng khối liên minh công nông,
đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn kết các dân tộc bị áp bức; tập hợp lực lượng, đưa
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đi tới thắng lợi. Đó là những cơ sở lý luận quan
trọng để Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam hình thành và xây dựng nên
chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng MTDTTN nhằm đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, việc xây dựng MTDTTN ở nước ta còn dựa trên những quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết trong MTDTTN.
Trên cơ sở kết hợp tài tình và khéo léo chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa
truyền thống văn hoá dân tộc, nhất là truyền thống đoàn kết; chắt lọc tinh hoa văn
hoá nhân loại; trải qua thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú và sinh động,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận thức được sự cần thiết phải thực hiện đoàn
kết dân tộc; đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn
của nhân dân Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhưng với Người,
đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu
mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động
của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật
chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là MTDTTN.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về MTDTTN vô cùng phong phú và đa
dạng, từ việc khẳng định vị trí, vai trò, tác dụng, tầm quan trọng của Mặt trận, đến
các vấn đề chiến lược, sách lược, nguyên tắc, phương pháp lập MTDTTN. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nêu lên những quan điểm cơ bản nhất của
14
Người về MTDTTN. Đây sẽ là cơ sở lý luận cực kỳ quan trọng để Đảng Cộng sản
Việt Nam hình thành đường lối xây dựng và phát triển MTDTTN trong quá trình
lãnh đạo cách mạng.
Một là, một trong những cống hiến có giá trị của Người trước hết đó là đã xác
định đúng đắn vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đoàn kết dân tộc nói chung và đoàn
kết trong MTDTTN nói riêng.
Theo Hồ Chủ tịch, muốn cách mạng giành thắng lợi thì phải thực hiện đại
đoàn kết dân tộc. Từ quan niệm đoàn kết thông thường mang tính đạo đức, ứng xử
đã được Người nâng lên thành quan điểm, nguyên tắc chiến lược mang tính quy luật
của cách mạng Việt Nam:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”[59, tr.607].
Giải thích về nguồn gốc sức mạnh của dân tộc Việt Nam, Người nêu rõ: “Sức
mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của
nhân dân Việt Nam” [61; tr.607]. Người coi đoàn kết là lực lượng vô cùng to lớn, là
lực lượng mạnh nhất của chúng ta để chống lại những thế lực xâm lược lớn mạnh
hơn rất nhiều về vật chất. Nhưng muốn đại đoàn kết dân tộc thì phải tổ chức quần
chúng thành MTDTTN rộng rãi. Sự hình thành khối đại đoàn kết dân tộc là một tất
yếu và sự ra đời của MTDTTN cũng là một tất yếu lịch sử. Toàn dân tộc chỉ trở
thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ
quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục
tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu
không được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm
triệu con người thì cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Về tầm quan trọng
của tổ chức nói chung, các hội, đoàn nói riêng trong việc tập hợp, huy động sức
mạnh dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Người không có tổ chức thì cũng như chiếc
đũa lẻ loi, ai bẻ cũng gãy. Người có đoàn thể thì cũng như chiếc đũa cột thành một
bó, không ai bẻ gãy được.
Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách Mặt trận đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN
15
rộng rãi, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh
viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập
lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta giành được thắng lợi
trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”[59, tr.604].
Hai là, theo Hồ Chí Minh, MTDTTN là một hình thức tập hợp quần chúng
rộng rãi, đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác
với họ, dù từ trước tới nay họ đã thuộc phe phái nào”[57, tr.49]. Mặt trận là nơi tập
hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, thực hiện thêm bạn, bớt thù, tập trung mũi
nhọn đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu
cầu và nhiệm vụ cách mạng, Cương lĩnh và Điều lệ của MTDTTN có thể có những
nét khác nhau, tên gọi của MTDTTN theo đó, cũng có thể khác nhau. Song thực
chất chỉ là một, đó là một tổ chức chính trị, xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam
- nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung
là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Thành lập MTDTTN là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại đoàn
kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục
tiêu và lợi ích. Mục đích chung của MTDTTN được Hồ Chí Minh xác định cụ thể
phù hợp với từng giai đoạn cách mạng nhằm bảo đảm những lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của mỗi con người.
Ba là, MTDTTN là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm
tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên
16
cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để
giải quyết vấn đề này, Người nói: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí
và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên
lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn
dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”[58, tr.137].
Bốn là, MTDTTN phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công -
nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
MTDTTN là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con
dân nước Việt. Song đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của
quần chúng nhân dân mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng
khối liên minh công - nông - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc
cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn khác với tư
tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trước đó.
Người chỉ rõ, sở dĩ phải lấy liên minh công - nông làm nền tảng “vì họ là
người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết,
mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn,
bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”[57, tr.214]. Nhưng Người cũng lưu ý, trong khi
nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công nông, cần chống lại khuynh hướng
chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông mà không thấy vai trò và sự cần
thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức. Làm
cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với cách mạng.
Cho nên công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có
thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo
đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có
chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mới
đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra
được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng
17
vào khối đại đoàn kết trong Mặt trận, biến tiến trình cách mạng thành ngày hội thật
sự của quần chúng. Chính vì vậy, Người luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và
Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng,
không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của
Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt
động đúng đắn.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp
với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng; phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng
của đại đa số nhân dân. Người viết: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan
trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách
mạng”[59; tr.605]. Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục,
nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự
nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh trong việc xây dựng Mặt trận.
Năm là, Hồ Chí Minh cho rằng: MTDTTN không phải là sách lược tạm thời
mà là một chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng.
Đó là quan điểm rất cơ bản của Hồ Chủ tịch về MTDTTN. Xuất phát từ quan
điểm đoàn kết lâu dài với mọi người yêu nước và tiến bộ, Người khẳng định: “trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
MTDTTN vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam” [59;
tr.605]. Do vậy, Người không ngừng kêu gọi, nhắc nhở tất cả những ai có tinh thần
dân tộc, yêu nước cần phải được quy tụ lại trong MTDTTN. Người không chỉ kêu
gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết, mà còn hô hào, động viên mọi người tích cực
tham gia vào các tổ chức, đoàn thể của Mặt trận hoặc làm một việc gì đó, dù to, dù
nhỏ miễn là có ích cho công cuộc cứu nước và xây dựng Tổ quốc.
Như vậy, không chỉ là người đề xướng và tuyên truyền, giáo dục tư tưởng,
quan điểm về đại đoàn kết trong MTDTTN mà Người còn trực tiếp chỉ đạo và xây
dựng các tổ chức Mặt trận, từ Hội phản đế Đồng minh - hình thức tổ chức Mặt trận
đầu tiên đến các hình thức tổ chức tiếp theo như: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên
Việt, MTTQVN, MTDTGPMNVN và LMCLLDTDC&HBVN. Đồng thời, Người
còn tự nêu gương sáng về thực hành đoàn kết và đoàn kết đã trở thành một phẩm
18
chất nổi bật trong đạo đức cách mạng của Người. Bằng cả tư tưởng và hành động,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành linh hồn, là kiến trúc sư và là hiện thân
của khối đại đoàn kết dân tộc trong MTDTTN.
Những tư tưởng của Người về xây dựng MTDTTN là tài sản vô cùng quý
báu của dân tộc ta, là cơ sở tư tưởng, lý luận cho việc xây dựng và phát triển
MTDTTN Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh của dân tộc cho độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
1.2. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và những tiền
đề, điều kiện cho sự ra đời của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam triều đình nhà Nguyễn bước vào giai đoạn
khủng hoảng sâu sắc. Đấu tranh giai cấp trong nước phát triển giữa hai lực lượng cơ
bản của xã hội: nông dân và phong kiến. Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân
nổi lên từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến miền núi, làm cho chế độ phong kiến thối
nát bị lay chuyển đến tận gốc rễ. Nông dân đã tỏ rõ là một động lực cơ bản thúc đẩy
xã hội phát triển.
Trước âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp, triều đình nhà
Nguyễn đã không có những biện pháp cứng rắn để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Nước Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Mâu thuẫn xã hội chủ yếu
nhất là giữa đế quốc Pháp với toàn thể dân tộc Việt Nam, nhưng mâu thuẫn sâu sắc
vốn có giữa nông dân với phong kiến vẫn tồn tại. Trải qua hai chương trình khai
thác thuộc địa do thực dân Pháp tiến hành ở Đông Dương đã làm cho tính chất xã
hội nước ta thay đổi - một xã hội thuộc địa đang hình thành với một cơ cấu xã hội
mới đan xen, chồng chéo với những tôn giáo, đẳng cấp, những tập tục, lề thói đa
dạng…trên nền tảng một xã hội truyền thống đang tan rã. Lúc này, muốn giải phóng
được dân tộc thì điều kiện quyết định chính là sự đồng tâm hiệp lực, đoàn kết hết
thảy mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân
tộc…cùng nhau đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc.
Chính vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân lên xâm lược nước ta, phong
trào yêu nước đã diễn ra mạnh mẽ khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến với tinh
19
thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”. Sự tiếp nối của phong trào chống Pháp
đó chứng tỏ tinh thần yêu nước và sự quật cường của cả một dân tộc.
Tham gia vào các phong trào cứu nước đó, không chỉ có những người cần
lao bị áp bức, bóc lột mà còn cả những vị khoa bảng nổi tiếng như các tiến sĩ: Phạm
Văn Nghị, Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Ngô Đức kế, Huỳnh Thúc Kháng và
lớp lớp những phó bảng, cử nhân, tú tài như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu,
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền…Trong đội ngũ những người xả thân cho độc lập
dân tộc còn có cả những ông vua yêu nước: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân; có
mặt cả những địa chủ lớn: Trần Chánh Chiếu; các tín đồ Thiên chúa giáo: Nguyễn Trường Tộ, Mai Lão Bạng; các thổ ty vùng dân tộc ít người: N’Trang Long, Đèo
Cát Hãn…
Nhưng cuối cùng tất cả các cuộc đấu tranh trên đều bị thực dân Pháp dìm
trong biển máu. Thực tiễn hào hùng và bi thương của phong trào yêu nước chống
Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng minh rằng: tinh thần yêu nước,
chống ngoại xâm của nhân dân ta đời nào cũng có, sức mạnh đoàn kết đánh giặc
luôn tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam. Song trong thời đại mới, để có thể
đánh bại các thế lực đế quốc chủ nghĩa xâm lược, không chỉ dựa vào sức mạnh đoàn
kết tự phát mà đòi hỏi phải có một sức mạnh đoàn kết tự giác, có tổ chức của cả dân
tộc. Cách mạng Việt Nam lâm vào sự khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp
lãnh đạo, thiếu một vĩ nhân, một tổ chức đủ tầm, đủ sức xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, chiến đấu chống kẻ thù dưới ngọn cờ của một tư tưởng tiến bộ. Sự thất bại
của các phong trào đấu tranh này, đã đem lại cho cách mạng Việt Nam một bài học
kinh nghiệm vô cùng quan trọng là: sự cần thiết phải thành lập MTDTTN ở một
Trong bối cảnh mới, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu
tiên tìm thấy ánh sáng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin và cách
mạng tháng Mười Nga. Người đã tìm tòi, vận dụng lý luận cách mạng tiên tiến
nước thuộc địa muốn làm cách mạng chống đế quốc.
vào nước ta, hình thành đường lối cứu nước, chuẩn bị điều kiện về tư tưởng, chính
trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức cách
mạng của quần chúng. Trong hoàn cảnh đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và
20
MTDTTN cũng từng bước được hình thành và trở thành một bộ phận trong đường
lối đấu tranh giải phóng dân tộc. Theo đó, nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc là tập hợp, tổ chức, giáo dục và giác ngộ nhân dân, từ đó đưa nhân
dân tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng rộng lớn do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đoàn kết dân tộc muốn trở thành lực lượng thực tế phải được tổ chức lại và
phối hợp hoạt động để thực hiện mục tiêu chung. Năm 1923, trong Báo cáo gửi
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị cần sớm có chương trình hành động
“để tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng”. Đến diễn đàn Đại hội Quốc tế Nông
dân lần thứ hai (1924), Người lại kiến nghị Quốc tế Cộng sản phải làm cho “Mặt
trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa trở thành hiện thực”. Đó là
những phác thảo ban đầu quan trọng về tư tưởng thành lập một Mặt trận đấu tranh
của dân tộc.
Đến tác phẩm Đường Cách mệnh, những nội dung, nguyên tắc về đại đoàn
kết dân tộc và MTDTTN được định hình cụ thể và rõ nét hơn. Trên cơ sở nắm vững
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, Người
đã đề ra quan điểm cơ bản: cách mạng là sự nghiệp chung của quần chúng nhân
dân, không phải là việc của một, hai người. Người coi trọng sức mạnh “dân khí”
hơn mọi thứ vũ khí. Do đó, phương pháp cách mạng trước hết là phải đồng tâm,
hiệp lực: “biết cách làm, biết cách đồng tâm, hiệp lực mà làm thì chắc làm được”.
Đến đây, quan điểm về đoàn kết cũng có bước phát triển, từ chỗ chỉ thuần túy là
đoàn kết công - nông đã mở rộng đến nhiều giai tầng xã hội, kể cả những người
thuộc tầng lớp trên. Đây là sự hình thành ý tưởng đầu tiên của Người về MTDTTN
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội chứ không chỉ có công nông.
Nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã lập ra Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên (6-1925). Thông qua hoạt động của Hội, đường lối cứu nước và tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc đã hòa nhập vào các phong trào yêu nước và các giai
tầng xã hội. Nhờ đó, phong trào đấu tranh của công nhân và các phong trào yêu
nước có bước phát triển mạnh mẽ, đi theo con đường cách mạng vô sản. Đây cũng
chính là tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của MTDTTN. Từ đó, chúng ta thấy một
21
đặc điểm của cách mạng Việt Nam: MTDTTN ra đời gắn liền với sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và trong suốt các thời kỳ cách mạng do Đảng lãnh đạo,
không khi nào vắng bóng Mặt trận dưới các hình thức và tên gọi khác nhau.
Nguyễn Ái Quốc đã kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đặt nền móng về tư tưởng và tổ chức,
chuẩn bị điều kiện để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản, đoàn thể
quần chúng và MTDTTN Việt Nam. Sự ra đời của MTDTTN đầu tiên dưới hình
thức Hội Phản đế đồng minh là xuất phát từ yêu cầu khách quan của cách mạng
Việt Nam và là kết quả tất yếu của quá trình chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản cũng như MTDTTN. Mở ra một thời kỳ phát triển mới
của cách mạng nước ta, thời kỳ toàn dân đoàn kết đấu tranh trong MTDTTN do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, đi theo quỹ đạo của cách mạng thế giới.
1.3. Các hình thức tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, “Mặt trận” được định nghĩa là “tổ chức
rộng rãi gồm nhiều giai cấp, tầng lớp liên minh với nhau để đấu tranh cho mục đích
chung” [81, tr.629].
Nếu xét trong lịch sử Việt Nam, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
(1930), thì chưa từng có một tổ chức chính trị nào có tên là Mặt trận. Dù trong suốt
thời gian đó, nước ta có nhiều đoàn thể chính trị cũng như cách mạng được ra đời
nhằm đoàn kết các tầng lớp đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Các hình
thức tập hợp lực lượng này là một trong những nhân tố góp phần đem đến thắng lợi
cho dân tộc Việt Nam trong đấu tranh giành lại độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa truyền thống đấu tranh đó, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
(2/1930), Đảng ta đã chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng một MTDTTN nhằm đoàn
kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền
thống yêu nước, phấn đấu cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Và từ đó đến
nay, Đảng đã lãnh đạo thành lập các tổ chức Mặt trận với quy mô, tính chất, hình
thức hoạt động phù hợp yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Để có cái
nhìn cụ thể và toàn diện về MTDTTN trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 -
22
1975, luận văn sẽ hệ thống lại các hình thức MTDTTN Việt Nam từ năm 1930 đến
nay.
- Hội phản đế Đồng Minh (18/11/1930 - 3/1935) - hình thức đầu tiên của
MTDTTN Việt Nam
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào cách mạng phản đế, phản
phong diễn ra sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Qua phong
trào, các tổ chức chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau đã gặp nhau ở mục tiêu
giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia của nhiều tầng lớp, giai cấp.
Quá trình đấu tranh cách mạng đã khẳng định khối liên minh công - nông là cơ sở
của MTDTTN do Đảng chủ xướng. Trong Nghị quyết về vấn đề phản đế, tại Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930
đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất Phản đế. Ngày 18-11-
1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị thành
lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức đầu tiên của MTDTTN dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Bản Chị thị đã đề ra một cách toàn diện những nội dung cơ bản về tính chất,
nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể xây dựng MTDTTN. Nhưng tiếc rằng Hội
phản đế Đồng Minh lúc ấy cũng chưa thực hiện được vì một số cấp bộ bên dưới
chưa quán triệt chủ trương của Trung ương, có nơi còn cho rằng chưa cần tổ chức
Hội phản đế Đồng Minh vội. Nhưng, Hội đã tạo được phong trào phản đế mạnh mẽ
trong cả nước, có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp quần chúng. Đồng thời sự
ra đời của Hội cũng đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của
Đảng trong quá trình tổ chức và xây dựng MTDTTN.
- Phản đế Liên Minh (3/1935 - 10/1936) - một bước nâng cao nhận thức về
MTDTTN
Sau những hoạt động tập hợp của “Hội Phản đế Đồng minh”, trong hoàn cảnh
cần phải tăng cường sức mạnh của tất cả các tầng lớp, tổ chức yêu nước cho sự
nghiệp cách mạng và mở rộng hoạt động của hình thức MTDTTN. Tháng 3-1935,
Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế Liên Minh,
23
quyết định thành lập và thông qua Điều lệ của tổ chức này nhằm tập hợp tất cả các
lực lượng phản đế toàn Đông Dương.
Điều lệ của Phản đế Liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế
Đồng Minh. Đó là, bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận Nghị quyết, Điều lệ
và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên. Tuy nhiên, trên thực tế
về tổ chức và phong trào đều chưa được triển khai rộng rãi. Song đây là thời kỳ
quan trọng, từng bước hoàn chỉnh chính sách MTDTTN của Đảng.
- Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế (10/1936 - 6/1938)
Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trong công tác tập hợp lực lượng
cách mạng, xây dựng khối liên minh giữa các giai tầng ở các thời kỳ trước, tháng
10/1936, Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế.
Khác với các Mặt trận trước đó, Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế chủ trương
bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp - những người yêu chuộng hòa bình, công
lý và chủ trương tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông
Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương. Đồng thời, Mặt trận cũng kêu gọi
và ban hành một số quyền tự do cơ bản cho nhân dân Đông Dương.
- Mặt trận Dân chủ Đông Dương (6/1938 - 11/1939)
Từ năm 1936, tình hình thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam,
đặc biệt là Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với nhiều chính sách tiến bộ,
trong đó có những chính sách liên quan đến các thuộc địa. Tình hình trong nước
cũng có nhiều thay đổi lớn, sau những năm tháng đấu tranh khó khăn, gian khổ
cùng nhiều hy sinh mất mát, nên yêu cầu cấp thiết nhất của toàn dân lúc này là đòi
các quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình…Vì vậy, để phù hợp với điều kiện
lịch sử mới, tháng 6-1938, Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ Đông
Dương nhằm tập hợp đoàn kết rộng rãi công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ
tư sản nhỏ, các đảng phái cải lương, những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương để
chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hoà bình cho nhân
dân.
Đây là một thời kỳ mà chủ trương, chính sách Mặt trận trở thành nhiệm vụ
trung tâm của Đảng, tổ chức quần chúng và trong mọi lĩnh vực hoạt động từ tuyên
24
truyền, vận động đến các phong trào đấu tranh. Đồng thời, đây cũng là thời kỳ Đảng
Cộng sản cạnh tranh và liên minh với các đảng phái thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp
theo những xu hướng chính trị, xã hội khác nhau. Do vậy, Mặt trận Dân chủ Đông
Dương là hình thức Mặt trận rộng rãi nhất, khắc phục được bệnh cô độc, hẹp hòi
trong các giai đoạn trước.
- Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương (11/1939 - 5/1941)
Ngày 01-9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp đã
phát xít hóa bộ máy chính quyền, đặt Mặt trận Dân chủ Đông Dương ngoài vòng
pháp luật và đàn áp dã man. Thực tiễn này làm cho vấn đề sống còn của các dân tộc
Đông Dương được đặt ra hết sức cấp thiết. Để phù hợp với tình hình mới và đưa
cách mạng tiếp tục tiến lên, tháng 11-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành MTDTTN
chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc Thống nhất
phản đế Đông Dương. Nhờ chủ trương đúng đắn trên, các tổ chức phản đế phát triển
nhanh chóng cả ở hình thức bí mật và công khai, hoàn thiện hệ thống tổ chức, tạo
cơ sở cho việc xây dựng Mặt trận Việt Minh sau này.
- Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh (19/5/1941 - 3/1951) -
ngọn cờ tập hợp toàn dân đấu tranh giành chính quyền
Tháng 9-1940, Nhật vào đánh chiếm Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và
làm tay sai cho Nhật. Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình tình, Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 8 (5-1941), đã quyết định đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, sách lược vận động là phải làm sao có lợi
cho cách mạng, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết để đánh
thức được tinh thần dân tộc trong nhân dân. Cho nên Mặt trận phải dùng tên khác
cho có tính dân tộc hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại.
Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập MTDTTN chống
phát xít Pháp - Nhật, lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã thu hút được mọi giới
đồng bào yêu nước đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong
25
những năm 1941-1945, làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám, lập nên
nước VNDCCH.
- Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Hội Liên Việt (29/5/1946 -
3/1951) - góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước VNDCCH vừa mới ra đời đã đương
đầu với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Để đoàn kết hơn nữa mọi giai tầng
trong xã hội qua đó phát huy thuận lợi, đẩy lùi khó khăn, đưa cách mạng tiếp tục
tiến lên, tháng 5-1946, Đảng đã chỉ đạo thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt
Nam - gọi tắt là Hội Liên Việt. Việc thành lập Hội Liên Việt là sự phát triển của
MTDTTN, trong đó Mặt trận Việt Minh là một bộ phận của Hội Liên Việt. Mặt trận
Việt Minh và Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây
dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi,
giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt trở thành yêu cầu
khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nhằm củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
- Mặt trận Liên Việt (3/3/1951 - 9/1955)
Sang năm 1951, cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân ta đã bước sang
giai đoạn quyết liệt, việc thống nhất các hình thức Mặt trận để đoàn kết toàn dân,
tập trung mọi lực lượng đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng trở thành
yêu cầu cấp bách. Từ thực tiễn này, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh
và Hội Liên Việt đã hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt (3-1951). Mặt trận đã góp
phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (1954) công nhận chủ quyền, độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (10/9/1955 - 2/1977)
Sau hiệp định Giơnevơ, đất nước bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc được giải
phóng, miền Nam nằm dưới sự thống trị của Mỹ. Cách mạng Việt Nam có hai
nhiệm vụ chiến lược là: thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Trước bối cảnh
lịch sử mới, ngày 10-9-1955, MTTQVN ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực
26
lượng trong nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và các lực lượng tay
sai. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận đã phát huy tác dụng to lớn của mình trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
- Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960 - 2/1977)
Trong cao trào đấu tranh quyết liệt của đồng bào miền Nam, đặc biệt là phong
trào Đồng Khởi, MTDTGPMNVN ra đời (20-12-1960) đảm nhận nhiệm vụ đoàn
kết và lãnh đạo nhân dân miền Nam đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, đánh đổ ngụy quân, ngụy quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc. MTDTGPMNVN đã không ngừng củng cố và mở rộng khối
đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu
tranh trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và ngoại giao, góp phần đưa đến thắng
lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta.
- Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (20/4/1968
- 2/1977)
Bước sang cuối những năm 60 của thế kỷ XX, khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ đang diễn ra ác liệt với không ít hy sinh mất mát, để quy tụ các phong trào đấu
tranh của sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào các tôn giáo, thương gia, nhân sĩ tại
các thành thị miền Nam, Đảng đã chỉ đạo thành lập LLCLLDTDC&HBVN (20-4-
1968).
Trên cơ sở mục tiêu chung là đánh đuổi đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam,
bảo vệ và xây dựng miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà, MTTQVN,
MTDTGPMNVN và LLCLLDTDC&HBVN đã hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong
công tác tập hợp, đoàn kết mọi giai tầng để tạo nên sức mạnh vô địch cho kháng
chiến, góp phần làm nên thắng lợi mùa xuân năm 1975.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (4/2/1977 - nay)
Sau khi nước nhà được hoàn toàn độc lập, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng yêu
cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội MTDTTN họp từ 31-1 đến 4-2-
1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: thống nhất MTTQVN,
27
MTDTGPMNVN và LLCLLDTDC&HBVN thành một tổ chức duy nhất trên đất
nước ta lấy tên là MTTQVN.
Sự ra đời của MTTQVN là mốc đánh dấu bước phát triển của MTDTTN trong
giai đoạn mới của cách mạng. Đây là một hình thức tổ chức của MTDTTN Việt
Nam nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; tăng cường sự nhất trí về chính
trị và tinh thần trong nhân dân; phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ
của nhân dân; động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia công
cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
28
Tiểu kết chương 1
Sự cần thiết phải thành lập MTDTTN Việt Nam xuất phát từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, một giai
cấp đơn độc không thể đưa cách mạng tới thắng lợi. Do đó, giai cấp công nhân
muốn làm cách mạng thắng lợi cần phải đoàn kết với các giai cấp và tầng lớp khác.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của nước ta,
Nguyễn Ái Quốc đã đưa đoàn kết dân tộc lên một tầm cao mới - đại đoàn kết dân
tộc trong MTDTTN và nhấn mạnh sự cần thiết phải thành lập MTDTTN trong cách
mạng Việt Nam.
Không chỉ vậy, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã để lại truyền
thống quý báu về đoàn kết, liên minh, lập MTDTTN chống ngoại xâm. Giai cấp
phong kiến trước kia và các nhà yêu nước tiền bối đã không tìm ra con đường đoàn
kết dân tộc, tách rời, thậm chí đối lập dân tộc với giai cấp nên đã không đưa cách
mạng đến thành công. Vượt qua những hạn chế đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh với lập trường giai cấp và dân tộc phù hợp, với nhãn quan chính trị đúng đắn
và tư duy độc lập, sáng tạo; xác định đúng đối tượng và nhiệm vụ cách mạng nên đã
phát hiện, nhìn nhận đúng các lực lượng cách mạng. Để tổ chức, tập hợp, huy động
lực lượng của toàn dân tộc chống đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc cần thiết
phải thành lập MTDTTN.
Trong thực tế lịch sử, sự tồn tại và phát triển kế tiếp nhau của các hình thức
tổ chức Mặt trận từ năm 1930 đến nay đã chứng minh sự cần thiết và tính tất yếu
khách quan phải lập MTDTTN chống đế quốc cũng như trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm trong công tác xây dựng MTDTTN
thời kỳ 1930-1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ 1945-1975, đã tiếp tục
củng cố, xây dựng MTDTTN để phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hoàn
thành nhiệm vụ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước.
29
Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ trình bày sự ra đời, quá trình hoạt động và
những đóng góp của MTDTTN trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
Trên cơ sở đó, rút ra những đặc điểm, tính chất và một số bài học kinh nghiệm trong
việc xây dựng MTDTTN trong giai đoạn này.
30
Chương 2. MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945 - 1954)
2.1. Mặt trận Dân tộc thống nhất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính
quyền nhân dân (9/1945 – 12/1946)
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử và nhu cầu, chủ trương mở rộng Mặt trận đoàn
kết dân tộc.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, so sánh tương quan lực lượng trên vũ đài
quốc tế thay đổi có lợi cho phong trào cách mạng thế giới và các lực lượng hòa
bình, dân tộc, dân chủ.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã hình thành, vượt ra khuôn khổ
một nước là Liên Xô. Cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc với thắng lợi của
phe Đồng minh đã cứu loài người khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít Đức - Ý -
Nhật. Các nước Ba Lan, Bungari, Hunggari, Tiệp Khắc, Nam Tư, Anbani, Bắc
Triều Tiên, Mông Cổ…được giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới khiến cho
phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân
thế giới có chỗ dựa vững chắc, hình thành thế tiến công từ nhiều phía vào phe đế
quốc chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và phụ thuộc phát triển chưa từng thấy ở châu Á, châu Phi và Mỹ latinh. Quy mô và
chiều sâu của các phong trào này đã làm lung lay hệ thống thuộc địa và làm suy yếu
lực lượng của chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ở
nhiều nước giành thắng lợi vào những năm tiếp sau.
Trong khi đó, ở các nước tư bản châu Âu, nền kinh tế bị chiến tranh thế giới
tàn phá nặng nề. Các chính phủ cầm quyền lo vơ vét của cải, bóc lột nhân lực ở các
nước thuộc địa để phục vụ cho việc khôi phục nền kinh tế ở chính quốc và chống lại
phong trào đấu tranh đòi quyền độc lập càng làm cho đời sống các tầng lớp lao
31
động thêm điêu đứng. Trước tình hình đó, các Đảng Cộng sản ở các nước Tây Âu
như Pháp, Ý…chiếm đa số ghế trong quốc hội, tham gia chính phủ liên hợp, đã phát
động phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân sinh, dân chủ, ủng hộ phong trào đấu
tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Các cuộc đấu tranh này đã gián tiếp khích lệ
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong
đó có Việt Nam.
Về tình hình trong nước, việc nhanh chóng giành chính quyền về tay nhân
dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đã tạo ra thế hợp pháp có lợi
trong giao thiệp quốc tế, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chính trị, tạo ra thế và lực
mới chưa từng có cho cách mạng Việt Nam.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc: kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ
xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân rất phấn khởi vì sau hơn 80 năm phải làm nô lệ,
giờ đây mới được hưởng không khí của độc lập, tự do. Vì thế, nhân dân ta cũng
không từ chối một sự hy sinh nào, kể cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và tài sản
để giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Khối đại đoàn kết toàn dân được quy tụ xung quanh Đảng Cộng sản và Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Hệ thống chính quyền từ trung ương đến cơ sở và lực lượng vũ
trang tuy còn non trẻ nhưng đã lập được chiến công hiển hách trong cách mạng
tháng Tám. Bên cạnh đó là hệ thống vững chắc của Mặt trận Việt Minh và các đoàn
thể cứu quốc làm hậu thuẫn và cơ sở chính trị cho chính quyền nhân dân. Đặc biệt,
chúng ta có lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh - một lãnh tụ được nhân dân yêu mến và
tin tưởng, là người đã sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng MTDTTN,
thành lập và giáo dục quân đội, khai sinh ra nước VNDCCH, là “người công dân
thứ nhất” có công đưa nước nhà thoát khỏi vòng lầm than nô lệ. Các tầng lớp nhân
dân từ Nam chí Bắc, một lòng một dạ đoàn kết xung quanh Người, sẵn sàng làm
theo mệnh lệnh của Người với lòng tin mãnh liệt.
Tuy nhiên, Nhà nước VNDCCH vừa mới ra đời đã bị bao vây từ bốn phía.
Chính quyền cách mạng còn non trẻ đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách
32
tưởng chừng như không thể vượt qua. Các lực lượng đế quốc phản cách mạng mặc
dù đã suy yếu nhưng vẫn đang tìm mọi cách để khôi phục vị trí của mình. Dưới sự
tập hợp của Mỹ, chúng đang câu kết với nhau để chống lại phong trào cách mạng
thế giới, nhất là cách mạng Việt Nam. Mặc dù, các thế lực phản động đều có mục
tiêu chung là chống phá và tiêu diệt cách mạng Việt Nam, nhưng mỗi nước lại có
những mưu đồ tính toán riêng. Điều này đã gây những khó khăn rất lớn cho phong
trào cách mạng nước ta.
Do hậu quả của chính sách cai trị và bóc lột tàn khốc của Nhật - Pháp đã dẫn
đến nạn đói vào cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm cho hơn 2 triệu người bị chết
đói; tiếp đó nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, 50% ruộng đất
bỏ hoang; sau lũ lụt là hạn hán làm cho 25% diện tích canh tác ở miền Bắc và 50%
diện tích canh tác ở miền Nam phải bỏ hoang. Công nghiệp chỉ có không quá 200
nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn, hàng hoá khan hiếm. Tài
chính quốc gia gần như trống rỗng. Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư
bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720
đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền rách. Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề,
trên 90% số dân không biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và
vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học
ở ngành luật và ngành thuốc. Đói kém và dốt nát trở thành một hiểm họa đe dọa sự
sống còn của chế độ mới không kém gì giặc ngoại xâm.
Trong khi đó, gần 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc.
Núp dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí quân Nhật, chúng mang
theo nhiều mưu đồ thâm độc đúng như Đảng ta đã nhận định: chúng vào với âm
mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ
chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng,
không thì chí ít cũng buộc Pháp nhường cho chúng một số quyền lợi về kinh tế,
biến Đông Dương thành vật “tế thần” trong quan hệ ngoại giao với Pháp. Bên cạnh
đó, bọn phản động Việt Quốc, Việt Cách đã móc nối với bọn phản động trong tổ
chức Đại Việt thân Nhật đã thất thế và bọn tay sai cũ của Pháp nhằm tập hợp, liên
33
kết nhau lại trong cái gọi là Mặt trận quốc gia chống Pháp nhưng thực chất là chống
phá chính quyền cách mạng của nhân dân ta.
Ở phía Nam vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa Đồng
minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật. Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã
giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Anh và Pháp
cấu kết đàn áp cách mạng Đông Dương vì "sợ rằng phong trào ấy "làm gương" cho
các thuộc địa của Anh". Mặt khác, cũng để ngǎn chặn âm mưu của Mỹ muốn tranh
giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông - Nam châu Á. Chính vì
vậy, ngày 12-9-1945, quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở
cho lực lượng của Pháp biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự
trong thành phố, giao cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát, thả 1.500 lính Pháp bị
Nhật giam giữ trước đây và trang bị cho lực lượng này, trắng trợn đòi lực lượng vũ
trang Việt Nam nộp vũ khí. Đặc biệt, ngày 23-9-1945, được quân Anh và quân Nhật
giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ
hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương.
Tình hình và diễn biến trên đây đã làm cho nền độc lập mà nhân dân ta vừa
giành được đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đòi hỏi Đảng ta phải có
những quyết sách khôn khéo, mềm dẻo về đối ngoại cũng như đối nội. Việc sử dụng
bạo lực quân sự để chống lại các thế lực đế quốc và phản động tay sai không thể
tiến hành ngay được vì lực lượng vũ trang cách mạng còn non yếu và hơn thế nữa
lại chưa có cớ hợp pháp trước những đội quân Đồng minh được phái vào nước ta
nhằm giải giáp phát xít Nhật. Nếu chúng ta áp dụng những biện pháp cứng rắn trong
khi chưa đủ thực lực sẽ tạo cớ để tập đoàn đế quốc và tay sai hùa nhau bóp chết
cách mạng Việt Nam. Nhưng nếu tỏ ra mềm yếu, nhu nhược và nhân nhượng không
có nguyên tắc thì kẻ thù càng lấn tới để ép ta phải đầu hàng không điều kiện. Tuy so
sánh lực lượng thuận lợi cơ bản thuộc về cách mạng nhưng đó lại là những nhân tố
tiềm năng còn cần phải có thời gian để khai thác, phát huy; nhưng trước mắt lại
chồng chất những khó khăn đòi hỏi phải ứng phó giải quyết ngay không thể chần
chừ.
34
Trong tình thế vô cùng hiểm nghèo đó, chỉ cần một chút chần chừ hoặc lệch
lạc sẽ đem lại những hậu quả khôn lường. Vì vậy, Đảng Cộng sản Đông Dương,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã hết sức bình tĩnh và khôn khéo, dựa hẳn vào
khối đoàn kết toàn dân để chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
mọi thác ghềnh nguy hiểm đến bến bờ thắng lợi.
Với một nhãn quan chính trị nhạy bén, ngay tại Hội nghị Tân Trào, Đảng ta
khẳng định rằng, việc quân Đồng minh vào Việt Nam là khó tránh khỏi. Do đó,
Đảng Cộng sản Đông Dương phải giành lợi thế bằng việc chớp thời cơ, nhanh
chóng giành chính quyền về tay nhân dân và chuẩn bị sẵn sàng ứng phó trong mọi
tình thế và chỉ ra: “chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi giữa ta và
Đồng minh”, “Ta có mạnh thì họ mới chịu “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một
khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”[25,
tr.84]. Muốn có thực lực của mình thì cần phải củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết
dân tộc và MTDTTN hơn nữa. Đó chính là nguồn lực duy nhất lúc này để tạo ra sức
mạnh lật ngược tình thế.
Trong diễn văn đọc ngày 2-9-1945, Chính phủ lâm thời nước VNDCCH đã
công bố những phương sách cấp bách về nội trị, ngoại giao, quân sự, tài chính, văn
hóa, cứu tế. Tổng bộ Việt Minh đã ra lời kêu gọi: Người có tiền giúp tiền, kẻ có sức
giúp sức, người có tài trí giúp tài trí. Tất cả phải góp vào một hòn đá, một viên gạch
đặng xây dựng lâu đài dân tộc độc lập Việt Nam.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã ra bản Chỉ thị quan trọng “Kháng chiến kiến quốc”. Bản Chỉ thị đã
phân tích cụ thể tình hình thế giới và trong nước, đánh giá thái độ, âm mưu của các
thế lực đế quốc đối với cách mạng Đông Dương và đi đến kết luận: “kẻ thù chính
của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lăng, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng”[4, tr.27]. Đồng thời, đề ra những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt
Nam lúc này: củng cố chính quyền cách mạng; chống thực dân Pháp xâm lược; bài
trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên và trên cơ sở nhận rõ tầm quan trọng của
chính sách, công tác Mặt trận, Bản chỉ thị đã có những chỉ đạo kịp thời nhằm củng
35
cổ, mở rộng và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào Mặt trận Việt
Minh.
Thứ nhất, lập MTDTTN chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng Việt Minh
bao gồm mọi tầng lớp nhân dân (chú trọng: kéo địa chủ, phong kiến và đồng bào
công giáo...)
Thứ hai, về mở rộng Mặt trận thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược,
Chỉ thị nhấn mạnh việc thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; tiếp tục thực hiện
chủ trương Hoa - Việt thân thiện; giữ vững đường lối độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế đối với Pháp. Chỉ thị còn đề ra những sách lược cụ thể để đối phó
với cuộc chiến tranh ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, phát triển Mặt trận thống nhất
kháng Pháp của Lào - Việt để mở rộng chiến tranh du kích bao vây địch ở cả Việt -
Miên - Lào.
Thứ ba, về Mặt trận Việt Minh “hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc.
Thống nhất các tổ chức ấy trong toàn kỳ và trong toàn quốc…..Tổ chức thêm những
đoàn thể cứu quốc mới vào Mặt trận Việt Minh (ví dụ Việt Nam công giáo cứu
quốc hội và Việt Nam hướng đạo cứu quốc hội)…Giúp cho Việt Nam Dân chủ
đảng thống nhất và phát triển vào mặt trận những tầng lớp tư sản, địa chủ yêu nước
tiến bộ”[78, tr.142-143].
Thứ tư, Bản Chỉ thị đã uốn nắn những khuyết điểm, khắc phục những xung
đột, xích mích giữa các đoàn thể trong Mặt trận, nhất là giữa các hội cứu quốc và
Việt Nam Dân chủ Đảng; san phẳng những mâu thuẫn giữa Ủy ban nhân dân và Ủy
ban Việt Minh, trừ tiệt hiện tượng hai chính quyền cạnh tranh (chính quyền Ủy ban
nhân dân và chính quyền Ủy ban Việt Minh); chấn chỉnh lại Tổng bộ Việt Minh để
có sinh hoạt đều, quan hệ thường xuyên với cấp dưới, lập Bộ Tuyên truyền để điều
khiển các tờ báo và ra các loại sách phổ thông của mặt trận. Để đảm bảo quyền lãnh
đạo của Đảng trong Mặt trận, những người cộng sản bắt buộc phải vào các đoàn thể
cứu quốc mà làm việc và hoạt động, nhất là trong các Ủy ban Việt Minh ở địa
phương cũng như Tổng bộ Việt Minh.
Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, vấn đề đoàn kết toàn dân trong
MTDTTN cần được đặt lên vị trí hàng đầu. Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu
36
là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương, biện pháp nhằm đoàn kết tất cả
các giai cấp, tầng lớp, ở trong và ngoài nước để tạo thành một khối thống nhất, đưa
con thuyền cách mạng Việt Nam từng bước vượt qua mọi thác ghềnh nguy hiểm.
2.1.2. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam góp
phần xây dựng và bảo vệ chính quyền
Chủ trương của Đảng về mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc
trong MTDTTN phù hợp với tình hình thực tiễn nên nhiều đoàn thể cứu quốc và các
đảng phái dân chủ được thành lập để huy động tổng hợp sức mạnh của quần chúng
nhân dân trên khắp cả ba miền Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ: Công thương cứu quốc,
Sinh viên cứu quốc, Công giáo cứu quốc, Hướng đạo cứu quốc đoàn, Viên chức cứu
quốc, Cựu binh sỹ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc…Mặt trận càng được mở rộng, thì nền tảng công - nông của
Mặt trận càng được tăng cường vững mạnh. Hội Công nhân cứu quốc từ tháng 8
đến tháng 10 năm 1945, lần lượt tổ chức Hội nghị đại biểu từng xứ Bắc, Trung,
Nam; số hội viên đầu năm 1946 là 22 vạn người. Hội Nông dân cứu quốc tiến hành
mở rộng tổ chức ở thôn xã. Số đoàn viên thanh niên, phụ nữ tăng lên nhanh. Sau
ngày giành chính quyền ít lâu, số hội viên của Mặt trận Việt Minh lên tới khoảng 5
triệu người. Nhiều công chức cao cấp, quan lại, kỳ hào, sư sãi, thầy tu, địa chủ cũng
tham gia đoàn thể cứu quốc.
Hệ thống tổ chức Việt Minh bao gồm: Làng hay xã có ban chấp hành của
Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra. Tổng, huyện, (hay phủ,
châu, quận) tỉnh, kỳ, cấp nào có ban chấp ủy của Việt Minh cấp ấy. Việt Minh toàn
quốc có Tổng bộ [72, tr.600].
Sau cách mạng tháng Tám, nhờ ảnh hưởng to lớn của Việt Minh, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, vượt qua bao khó khăn
hiểm nghèo của những ngày chính quyền cách mạng còn non trẻ để giữ vững nền
độc lập, tự do của Tổ quốc trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính sách đoàn
kết toàn dân, thêm bạn bớt thù, linh hoạt khéo léo nhưng vẫn giữ vững nguyên tắc
lợi ích tối cao của dân tộc đã làm cho Việt Minh một lần nữa trở thành ngọn cờ tập
hợp các lực lượng yêu nước để giữ vững những thành quả của cách mạng. Những
37
đóng góp to lớn đó của Việt Minh được thể hiện cụ thể trên các mặt sau.
Về xây dựng chính quyền cách mạng: dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt
Minh, nhân dân ta đã tạo thành một khối đoàn kết, thống nhất trong việc xây dựng
chính quyền cách mạng.
Ngày 25-8-1945, Ủy ban Giải phóng dân tộc được cải tổ thành Chính phủ
lâm thời. Nhiều ủy viên Việt Minh đã tự nguyện không tham gia Chính phủ lâm
thời để mời thêm các vị nhân sĩ yêu nước ngoài Việt Minh tham gia. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đánh giá: “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt
lợi ích của dân tộc, của đoàn kết lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng
khen, đáng kính mà chúng ta phải học”[55, tr.160].
Thường vụ Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời sớm xác định một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là hoàn chỉnh và chính thức hóa cơ quan
quyền lực tối cao của nước VNDCCH đó là: xúc tiến Tổng tuyển cử bầu cử Quốc
hội, ban hành Hiến pháp, lập Chính phủ chính thức. Thực hiện nhiệm vụ trên, Chính
phủ và Việt Minh đã triển khai sâu rộng công tác chuẩn bị Tổng tuyển cử trong cả
nước, coi đó là một cuộc vận động giáo dục và tổ chức quần chúng rộng lớn, thực
hiện đại đoàn kết thống nhất dân tộc. Với những hoạt động tích cực của Việt Minh,
ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra sôi nổi trong cả nước bất chấp sự đe
dọa và hoạt động phá hoại của bọn phản động.
Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các
đảng phái dân chủ khác nhau, 43% đại biểu không đảng phái (87% số đại biểu là
công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng, 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu các dân tộc
ít người). Quốc hội khóa I là thành quả của cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt. Thắng
lợi của Tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội là thắng lợi to lớn của chiến lược đại đoàn
kết và nghệ thuật động viên tổ chức toàn dân tham gia công cuộc xây dựng chính
quyền, củng cố nền độc lập tự do của Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Đi đôi với xây dựng cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, chính quyền
nhân dân ở các địa phương cũng được chú trọng củng cố và kiện toàn. Ngày 22-11-
1945, Chính phủ liên hiệp lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 63-SL, về tổ chức,
38
quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp (xã,
huyện, tỉnh, kỳ). Tiếp đó, ngày 23-1-1946, ra Sắc lệnh số 10-SL, sửa đổi một số
điều khoản của Sắc lệnh số 63-SL kể trên để tạo ra những căn cứ pháp lý quan trọng
cho tổ chức, hoạt động của chính quyền các cấp.
Trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, Mặt trận Việt
Minh kêu gọi các tầng lớp nhân dân không phân biệt giai cấp, giàu nghèo đều phải
góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính và cải thiện đời sống nhân
dân. Bên cạnh những biện pháp cơ bản để phát triển kinh tế như: khôi phục các nhà
máy, hầm mỏ, cho tư nhân góp vốn kinh doanh, khuyến khích giới công thương mở
hợp tác xã, lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, sửa chữa đê điều, định lại
các ngạch thuế … Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển sản xuất nông nghiệp
với khẩu hiệu "Không một tấc đất bỏ hoang, tấc đất tấc vàng”. Đồng thời Việt Minh
và các đoàn thể cứu quốc đã vận động nhân dân cứu trợ đồng bào những nơi đang bị
đói. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một
bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”[23,
tr.32], Mặt trận Việt Minh cùng các đoàn thể cứu quốc nhanh chóng đề ra nhiều
hình thức, biện pháp để tạo ra một phong trào hưởng ứng sôi nổi trong toàn dân.
Dưới những hoạt động tích cực của Việt Minh, nhân dân ta đã phát huy cao
độ truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái tạo thành một phong trào thống nhất
hành động của toàn dân từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược,
thu hút tất cả các giai cấp, tầng lớp tham gia cứu đói. Nhờ đó, nạn đói đã được đẩy
lùi, sản xuất nông nghiệp được phục hồi nhanh chóng. Theo thống kê của Bộ canh
nông, chỉ riêng ở Bắc Bộ, sản lượng lương thực cả nǎm 1946 đạt 1.925.000 tấn, xấp
xỉ bằng vụ mùa của cả nước nǎm 1940. Đây “thực là một kỳ công của chế độ dân
chủ”[39, tr.30].
Để giải quyết những khó khăn về tài chính, Chính phủ đã động viên toàn dân
đóng góp tiền của và hưởng ứng "Tuần lễ vàng", xây dựng "Quỹ độc lập". Các tầng
lớp nhân dân trên cả nước trong "Tuần lễ vàng" đã đóng góp được 370 kg vàng và
hơn 60 triệu đồng cho "Quỹ độc lập" và "Quỹ đảm phụ quốc phòng". Nhiều nhà
công thương ở Hà Nội ủng hộ Chính phủ hàng trǎm lạng vàng và hàng triệu đồng.
39
Điển hình như gia đình tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô ở Hà Nội, là cơ sở Việt Minh
trong thời kỳ hoạt động bí mật, nay lại tự nguyện hiến cho cách mạng hàng tạ vàng
và nhiều cửa hàng, cửa hiệu đang kinh doanh sinh lời lớn. Thắng lợi đó không chỉ
có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Nhân dân thêm tin tưởng,
gắn bó và hết lòng ủng hộ Việt Minh, đóng góp công sức xây dựng đất nước và chế
độ mới.
Trong việc giải quyết nạn dốt, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động
chiến dịch chống nạn mù chữ, Chính phủ ra Sắc lệnh định rõ việc học chữ Quốc
ngữ bắt buộc và không mất tiền, thành lập Nha Bình dân học vụ để phụ trách công
tác xóa nạn mù chữ, Mặt trận Việt Minh cùng các đoàn thể, ngành giới phát động
phong trào thi đua sâu rộng trong cả nước. Nhờ vậy, chỉ sau một năm, cả nước đã
có 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Cùng với việc nâng cao dân trí, để khắc phục
những tệ nạn, tiêu cực do xã hội cũ để lại, Mặt trận và các đoàn thể còn đi đầu trong
tuyên truyền, vận động toàn dân thực hiện cuộc vận động xây dựng đời sống mới.
Trong việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, Việt Minh và các đoàn
thể cứu quốc đi đầu trong việc tuyên truyền, vận động, tổ chức, tạo điều kiện để các
tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang bằng nhiều hình thức như:
lựa chọn, động viên thanh niên hăng hái tham gia nhập ngũ; phát động phong trào
tìm nhặt, lấy, mua vũ khí của địch để trang bị cho lực lượng vũ trang; phát động các
phong trào nhằm cung cấp nhu yếu phẩm cho lực lượng vũ trang như “Mùa đông
binh sĩ”, “Hũ gạo nuôi quân”…Nhờ những hoạt động tích cực của Việt Minh, đến
cuối năm 1946, trong cả nước đã phát triển bộ đội chủ lực lên hơn 8 vạn người và
hơn 1 triệu dân quân tự vệ, trở thành lực lượng nòng cốt của toàn dân.
Trong việc chống thù trong, giặc ngoài. Năm 1945 - 1946, trến đất nước ta
có nhiều đảng phái phản động, chống đối quyết liệt. Các đảng Việt Quốc, Việt Cách
dựa vào lực lượng quân Tưởng Giới Thạch nhằm tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt
Minh. Trong tình thế đó, vấn đề sống còn là phải loại trừ chia rẽ, hạn chế và ngăn
chặn đối lập, thực hiện thống nhất quốc gia để tập trung lực lượng chống đế quốc
xâm lược. Đảng ta, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững và giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia, dựa chắc vào sức mạnh của
40
khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các lực lượng yêu nước và cách mạng trong Mặt
trận Việt Minh. Thông qua hoạt động tích cực của Mặt trận, Đảng ta đã có những
sách lược khôn khéo, mềm dẻo, nhân nhượng, thỏa hiệp, hòa giải có nguyên tắc,
từng bước làm thất bại âm mưu phá hoại của họ và buộc họ từ đối lập phải đồng
tình và hợp tác để bảo vệ độc lập, tự do của đất nước.
Hàng loạt chủ trương, biện pháp cách mạng được thực thi để giữ gìn khối
đoàn kết dân tộc phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ. Mặt trận Việt
Minh cũng ra lời kêu gọi Việt Quốc chấm dứt mọi hành động chia rẽ, phá hoại và
cùng nhau hợp tác. Vì lợi ích quốc gia, Đảng ta quyết định cải tổ Chính phủ lâm
thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời (1-1-1946); mở rộng thêm 70 ghế đại biểu
Quốc hội cho các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách không thông qua bầu cử; lập Chính
phủ liên hiệp kháng chiến (2-3-1946)…Bằng sách lược khôn khéo và mềm dẻo dựa
trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chính quyền và Mặt trận Việt Minh đã đạt được sự
nhân nhượng, thỏa hiệp góp phần vào sự thành công của việc lập Chính phủ liên
hiệp kháng chiến. Thắng lợi này không chỉ phá tan âm mưu chia rẽ, phá hoại, bóp
chết chính quyền cách mạng non trẻ nước ta của kẻ địch mà còn là thắng lợi của
khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh.
Đối phó với một đội quân đông đảo cùng với những mưu đồ xảo quyệt của
như Tưởng, phương thức đấu tranh chủ yếu của ta lúc này là triệt để sử dụng vị thế
đã làm chủ đất nước của Chính phủ để huy động lực lượng quần chúng đông đảo
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu đen tối của địch; triệt để sử dụng danh nghĩa
đón tiếp quân Đồng minh để tỏ rõ sức mạnh đoàn kết và quyết tâm bảo vệ nền độc
lập dân tộc của nhân dân ta thông qua những cuộc biểu dương lực lượng chính trị
của quần chúng cách mạng. Ngày 11-9-1945, Mặt trận Việt Minh huy động 10 vạn
nhân dân Huế; ngày 12-9-1945, 5 vạn nhân dân Quảng Ngãi tổ chức mít tinh đón
tiếp phái bộ quân sự Mỹ. Quần chúng dự mít tinh hô vang khẩu hiệu: “Hoan hô
quân Đồng minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”. Khí thế của quần chúng đã
khiến đại biểu Mỹ tại Hà Nội phải tuyên bố ủng hộ nền độc lập của Việt Nam. Tiếp
đó, đầu tháng 10-1945, Hà Ứng Khâm - Tổng tham mưu trưởng của quân đội
Tưởng đến Hà Nội, Mặt trận Việt Minh lại huy động 30 vạn nhân dân Hà Nội
41
xuống đường diễu hành với đội ngũ chỉnh tề, cờ đỏ sao vàng, hô vang các khẩu
hiệu: “Ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, “Ủng hộ
Chính phủ Hồ Chí Minh” để “đón tiếp”. Được tận mắt chứng kiến thực lực to lớn và
khí thế cách mạng rầm rộ của quần chúng, chúng đã phải thừa nhận Chính phủ của
ta và đã phải dừng lại ý định dùng vũ trang trực tiếp lật đổ chính quyền cách mạng
nước ta.
Cùng với việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để làm lung
lay ý chí xâm lược của kẻ địch, Đảng và Mặt trận Việt Minh còn phối hợp nhiều
biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, kể cả sử dụng vũ lực để trấn áp các hành
động phá hoại, xâm phạm đến nền độc lập, chủ quyền của đất nước ta.
Ở Nam Bộ, được sự tiếp tay, bao che của quân Anh, quân Pháp đã gây ra
nhiều vụ khiêu khích trắng trợn. Nhân dân Nam Bộ đã tiến hành tổ chức các cuộc
mít tinh, biểu tình phản đối quyết liệt. Khi quân Pháp dùng vũ lực gây hấn ở Sài
Gòn, Xứ ủy Nam Bộ nhanh chóng huy động một lực lượng tác chiến gồm 350 đội
xung phong công đoàn, 15.000 tự vệ chiến đấu và một số đội quân Nam tiến, đã vừa
tổ chức đánh địch, vừa phá hủy hàng loạt nhà máy, kho tàng để ngăn chặn, kìm
chân địch cho nhân dân tản cư, dời kho tàng, cơ quan ra khỏi thành phố.
Hưởng ứng lời kêu gọi về chi viện sức người, sức của cho miền Nam của
Chính phủ và Mặt trận Việt Minh, từ tháng 9 đến tháng 10-1945, nhiều tổ chức
công nhân miền Bắc đã gửi thư cho Tổ chức Lao động quốc tế kêu gọi sự ủng hộ.
Hơn 3 vạn đại biểu công giáo cũng gửi thư cho Giáo Hoàng và các giáo hữu cứu
quốc. Hội Phụ nữ cứu quốc cũng gửi thư đến các tổ chức quốc tế tố cáo âm mưu
của Anh - Pháp, kêu gọi ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Nam
Bộ.
Cuộc chiến đấu kiên cường của nhân dân Nam Bộ được sự hỗ trợ, phối hợp
của đồng bào cả nước đã làm thất bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực
dân Pháp và buộc chúng phải thay đổi kế hoạch chiến lược, chuyển sang thủ đoạn
dùng phương pháp ngoại giao để đưa quân ra miền Bắc. Sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc cúng từng bước làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền, phá tan
Việt Minh của quân Tưởng. Hơn thế nữa, trong nội bộ quân Tưởng đang phát sinh
42
nhiều mâu thuẫn do tranh giành quyền lực giữa các phe phái nên bọn cầm đầu quân
Tưởng trên nước ta cũng không dễ bề hành động. Trong khi đó, Pháp và Tưởng đã
bắt tay nhau trong việc ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp (28-2-1946), quân Tưởng đồng
ý cho quân Pháp ra miền Bắc thay chân chúng.
Tình hình trên đòi hỏi Đảng và Mặt trận Việt Minh phải có lựa chọn sáng
suốt, tỉnh táo để không mắc bẫy của chúng, giữ vững được chính quyền. Đảng ta
chủ trương hòa với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước. Thực hiện chủ trương trên,
Hiệp định Sơ bộ giữa ta và Pháp đã được ký kết (6-3-1946). Đây là một thành công
lớn, một bài học quý trong việc thực hiện chủ trương đấu tranh, nhân nhượng hòa
giải, thực thi chiến lược đoàn kết, thống nhất quốc gia. Với Hiệp định Sơ bộ, chúng
ta đã gạt được 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi, nâng cao uy tín và vị thế của
Chính phủ VNDCCH.
Như vậy, sau cách mạng tháng Tám, nhờ ảnh hưởng to lớn của Việt Minh,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân ta đã đoàn kết nhất trí, vượt qua bao
khó khăn, hiểm nghèo để giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đánh giá công
lao to lớn của Việt Minh, Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh -
Liên Việt tháng 3-1951 nêu rõ: Việt Minh có công lớn trong việc xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, chống quân cướp nước. Công đức ấy, tất cả mọi người Việt Nam
phải ghi nhớ. Lịch sử của Việt Minh 10 năm đấu tranh cho độc lập, tự do của dân
tộc cũng là những trang lịch sử vẻ vang vào bậc nhất của dân tộc Việt Nam ta.
Tuy nhiên, Hiệp định Sơ bộ vừa được ký kết đã bị thực dân phản động Pháp
phản bội, làm cho các cuộc đàm phán ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp không đạt
được kết quả. Mặt khác, ngay trong nhân dân còn có những nghi ngờ, dao động vì
mọi người chưa hiểu hết chủ trương hòa hoãn với Pháp thông qua Hiệp định Sơ bộ
chỉ là một giải pháp tình thế do tương quan lực lượng quy định. Chính vì vậy, ngày
9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời đưa ra Chỉ thị lịch sử “Hòa
để tiến” nêu rõ: ý nghĩa quan trọng của việc ký Hiệp định với Pháp nhằm thống
nhất tư tưởng trong toàn Đảng, ngăn ngừa các khuynh hướng sai lầm có thể xảy ra
trong đảng viên, cán bộ và nhân dân làm ảnh hưởng đến việc chấp hành chủ trương
của Đảng; đồng thời nhấn mạnh đến việc phải cảnh giác đề phòng, tỉnh táo chuẩn bị
43
sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội ước. Riêng về công tác Mặt trận, bản Chỉ thị đã có
chủ trương mới. Đó là:
Xuất phát từ những thay đổi nói trên nên MTDTTN chống thực dân Pháp
xâm lược nói chung phải đổi thành MTDTTN chống bọn phản động Pháp để giành
lại độc lập hoàn toàn, gạt bỏ những bất đồng trong nội bộ quốc gia - dân tộc nhằm
chĩa mũi nhọn vào kẻ thù xâm lược bên ngoài và các lực lượng phản động tay sai.
Do vậy, lúc này cần phải thay đổi lại những khẩu hiệu tuyên truyền và hình thức tổ
chức, tranh đấu cho phù hợp. Khẩu hiệu “Kháng chiến” phải nhường chỗ cho khẩu
hiệu “Kiến quốc”; khẩu hiệu “Chống thực dân Pháp xâm lược” phải nhường chỗ
cho khẩu hiệu “Liên hiệp bình đẳng với nước Pháp mới” và “Hai dân tộc Việt -
Pháp liên hiệp lại chống bọn phản động Pháp”.
Về hình thức Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc, Chỉ thị cũng nhấn mạnh
phải lợi dụng những khả năng mới mà thành lập những tổ chức mới và sửa chữa
điều lệ của các hội cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới, đặng thu nạp đông
đảo quần chúng vào Việt Minh.
Trong thực tế, bên cạnh những kết quả đạt được thì sự phát triển của Mặt
trận Việt Minh trong thời gian này cũng gặp phải nhiều khó khăn, phức tạp. Sau khi
ký Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp đã bội ước; chúng lập ra cái gọi là “Chính phủ
Nam Kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh cầm đầu, nhằm tách khỏi Nam Kỳ ra
khỏi Việt Nam thống nhất. Đi đôi với việc chuẩn bị lực lượng để đánh chiếm nước
ta, thực dân Pháp ra sức chia rẽ Nam Bắc, chia rẽ dân tộc, chia rẽ giai cấp, chia rẽ
tôn giáo, chia rẽ đảng phái. Chúng gây ra những vụ khủng bố, bắt bớ người ở Nam
Bộ; chúng xui người thiểu số Cao Miên tàn sát người Việt. Một số lãnh tụ Cao đài,
Hào hảo từ bỏ MTDTTN.
Mặt khác, số lượng “cán bộ ít lại còn phải phân phối vào các cơ quan hành
chính chuyên môn, bộ đội nên việc củng cố không sao làm kịp được. Thêm vào đó
tình thế trong nước trở nên rối ren thực dân Pháp lăm le trở lại Việt Nam… Vì phải
lo đối phó với tình thế phức tạp đó việc củng cố Việt Minh bị lơ là rất nhiều”[2,
tr.4].
44
Không những vậy, trong khi các tầng lớp nhân dân có nhiều diễn biến phức
tạp như trên thì công tác vận động, tuyên truyền, phát triển của Mặt trận và các đoàn
thể cứu quốc lại mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm như: nhiều cán bộ chưa nhận
đúng đắn về vai trò, vị trí và khả năng cách mạng của trí thức tư sản, tiểu tư sản
thành thị, thậm chí liệt họ vào hạng “phản động”; chỉ thân cận và ủng hộ những
người tán thành Việt Minh ra mặt, thù ghét bất cứ ai chỉ trích Việt Minh bất kể đúng
sai; đối với phần tử bất mãn thì không chú ý đến giáo dục, cảm hóa họ mà chỉ nghĩ
đến việc bắt bớ; đối với đồng bào công giáo thì không tìm cách gần gũi, thuyết phục
mà nhiều nơi sự tuyên truyền lại mang tính bài xích để cho bọn phản động lợi dụng
chia rẽ, chống phá ta.
Chính vì vậy, Mặt trận Việt Minh lúc này đã được mở rộng nhưng trong thực
tế vẫn chưa bao gồm được một số thuộc tầng lớp trên. Do “một số cán bộ của ta hẹp
hòi khiến cho một số phong kiến, địa chủ và đồng bào công giáo sợ Việt Minh là
cộng sản. Những lý do trên làm phong kiến, địa chủ và công giáo không tín nhiệm
mặt trận hay e dè không dám tham gia mặt trận. Vì thế cơ sở của Việt Minh tuy có
phát triển mạnh mẽ hầu khắp nơi, uy tín và ảnh hưởng tuy đã lan rộng nhưng trong
hàng ngũ còn thiếu một số khá nhiều địa chủ, phong kiến và đồng bào công giáo”[2,
tr.4-5]. Thậm chí, trong hàng ngũ Việt Minh lúc này xuất hiện những lệch lạc như:
phát sinh những xích mích trong Mặt trận, nhất là giữa các đoàn thể cứu quốc với
Đảng Dân chủ; sự cạnh tranh giữa Ủy ban Việt Minh và Ủy ban nhân dân… “Trong
khi đó, giặc Pháp vẫn tiếp tục mở rộng chiến tranh ở Nam Bộ và khiêu khích ở Bắc
và Trung, chúng tìm hết cách chia rẽ Việt Minh với đồng bào công giáo, địa chủ và
phong kiến. Chúng tuyên truyền Việt Minh là cộng sản tịch thu ruộng đất của địa
chủ và diệt đạo.”[2; tr.5]
Hoàn cảnh trên, đã đặt ra nhu cầu cấp bách cần phải khắc phục những thiếu
sót, hạn chế trong công tác xây dựng và phát triển Mặt trận Việt Minh. “Đứng trước
một cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp có thể xảy ra không biết lúc nào, việc
đại đoàn kết toàn dân là chuyện thiết yếu. Để tranh thủ sự e dè và thành kiến của địa
chủ, phong kiến và công giáo” [2, tr.5]. Đồng thời xuất phát từ chủ trương hòa hoãn
với Pháp nên cần thay đổi cả về đối tượng, khẩu hiệu đấu tranh; nêu cao khẩu hiệu
45
liên hiệp giữa hai dân tộc Việt - Pháp nên đòi hỏi cần có hình thức tổ chức, tập hợp
lực lượng mới thích hợp. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình thức tổ
chức Mặt trận mới đó là Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam.
Để chuẩn bị cho chủ trương mới này, một Ban vận động Hội gồm 27 vị,
trong đó có đại biểu của Việt Minh (Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ
Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền....), đại biểu các giới (chí sĩ
Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Luyện, Phan Anh,
cựu Thượng thư Bùi Bằng Đoàn), đại biểu Việt Nam Quốc dân Đảng (Chu Bá
Phượng, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, Vũ Hồng Khanh) đã được
thành lập. Cơ cấu của Ban vận động nói trên cho thấy hình thức tổ chức MTDTTN
mới sẽ thể hiện rõ nét tính liên minh, liên hợp, đại diện của các tổ chức, đảng phái.
Ngày 29-5-1946, HLHQDVN gọi tắt là Liên Việt tuyên bố chính thức thành
lập tại Hà Nội, cụ Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự, cụ Huỳnh Thúc Kháng là Hội
trưởng và cụ Tôn Đức Thắng là Phó Hội trưởng. Việc thành lập HLHQDVN là sự
phát triển, mở rộng MTDTTN. Mặt trận Việt Minh vẫn là một thành viên tích cực
của Hội Liên Việt, là tổ chức có sức tập hợp những thành phần cơ bản của xã hội là
công nhân và nông dân chiếm đại đa số trong nhân dân, làm cơ sở cho Hội. Đó là
một đặc điểm của khối đoàn kết dân tộc trong tình hình bấy giờ: một Mặt trận dân
tộc mà có hai tổ chức.
Bản Tuyên ngôn, Cương lĩnh và Điều lệ của HLHQDVN được công bố đã
xác định mục đích của Hội là: đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào
yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị,
chủng tộc, để làm cho nước Việt Nam: độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường.
Chương trình của hội có hai điểm mới: thứ nhất, Hội Liên Việt không phải là
một Mặt trận thống nhất riêng của các đảng phái yêu nước, chẳng hạn như Việt
Minh. Nó là một khối kết hợp các đảng, các phái và các tầng lớp nhân dân vô đảng
vô phái cùng chung một mục đích: vì nước. “Đó là mặt trận thống nhất của toàn
dân…Bao nhiêu thành kiến giai cấp, bao nhiêu phân tranh đảng phái, bao nhiêu đố
kị về tôn giáo và nòi giống phải hất ra khỏi con đường tiến triển của dân tộc Việt
Nam” [16]. Thứ hai, Hội Liên Việt không những chủ trương làm cho dân tộc Việt
46
Nam được tự do giải phóng, mà còn tranh đấu cho lãnh thổ Việt Nam được toàn
vẹn, nước Việt Nam mau chiếm được địa vị phú cường.
Thành phần hội viên sáng lập ra hội HLHQDVN không những có những
người cộng sản, những người của Mặt trận Việt Minh, của Đảng Dân chủ, của tư
sản, trí thức ngoài Việt Minh mà còn có cả Việt Nam Quốc dân đảng là những phần
tử núp dưới bóng quân Tưởng đang ra sức chống đối Việt Minh, theo phương châm:
thêm bạn bớt thù, tất cả cho độc lập thống nhất. Nhưng như vậy không có nghĩa là
đoàn kết vô điều kiện, vô nguyên tắc.
Trước sự chia rẽ và phá hoại trắng trợn của Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã công khai đề ra bốn điều kiện đoàn kết của Hội: một là,
những phần tử trong Mặt trận phải chân thành vì dân, vì nước, chứ không thể đeo
mặt nạ ái quốc mà phản nước hại dân; hai là, không phải chỉ đoàn kết trên mặt tờ
giấy, mà phải hành động chung để đạt mục đích chung; ba là, các đảng phái trong
Mặt trận có quyền giữ nguyên bản sắc chính trị và tổ chức của mình, nhưng phải
tuân theo chương trình tối thiểu chung của Mặt trận; bốn là, trong khi đoàn kết, các
đảng phái phải giám thị nhau và phê bình nhau một cách thân mật.
Sáng kiến ra đời Hội Liên Việt bên cạnh tổ chức Mặt trận Việt Minh vốn đã
rất rộng rãi, đầy uy tín là một quá trình suy nghĩ với tư duy độc lập, sáng tạo để tìm
mọi khả năng, điều kiện mở rộng lực lượng phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.
Do vậy, đặc điểm mới về tính chất, nội dung, hình thức tổ chức của Hội cũng khác
với các hình thức tổ chức Mặt trận trước đó cũng như sau này. Đánh giá về vai trò,
ý nghĩa và đặc điểm mới của Hội Liên Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “từ
nay quốc dân Việt Nam đã liên hiệp, không chỉ liên hiệp trong Chính phủ mà còn
liên hiệp ở quảng đại quần chúng nhân dân”. Hình thức thống nhất dân tộc rộng rãi
của quốc dân ta đã tìm thấy. Đối với kẻ thù của dân tộc, việc thành lập Hội Liên
Việt là “một trả lời đích đáng cho bọn phản động Pháp đang tìm hết cách chia rẽ
đồng bào miền Nam và đồng bào miền Bắc, đồng bào bên đạo và đồng bào bên đời,
người Việt Nam giàu và người Việt Nam nghèo, công dân người Kinh và công dân
người Thượng”[23, tr.70].
47
Hội Liên Việt ra đời trong điều kiện ta mở rộng Chính phủ liên hiệp kháng
chiến, tiến hành sự hòa hoãn với Tưởng, cô lập thực dân Pháp xâm lược và ký kết
Hiệp định Sơ bộ để mượn tay Pháp đuổi quân Tưởng về nước. Trong hoàn cảnh đó,
Hội ra đời không chỉ đóng vai trò liên minh, liên hiệp với các giai cấp, tầng lớp trên,
mà quan trọng hơn còn là sự thống nhất hành động của toàn dân, làm hậu thuẫn
vững chắc cho việc thực thi các đối sách của Đảng, Chính phủ.
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ với Chính phủ Pháp, Việt Nam đã nghiêm túc thi
hành các điều khoản trong Hiệp định, nhưng thực dân Pháp đã bội ước. Để cứu vãn
tình thế, đồng thời xuất phát từ lòng thiết tha mong muốn hòa bình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký với Pháp bản Tạm ước 14-9-1946, quy định một số điều tạm thời về
kinh tế, văn hóa giữa hai nước, đình chỉ chiến sự và định thời gian tiếp tục đàm
phán vào tháng 1-1947. Thắng lợi này không chỉ giành thế chủ động cho ta về thời
gian mà còn đặt cơ sở tăng cường sự đoàn kết, hữu nghị và sự hiểu biết lẫn nhau để
củng cố, phát triển mặt trận thống nhất hành động giữa hai dân tộc Việt - Pháp trong
cuộc đấu tranh chống phản động Pháp ở chính quốc.
Tuy ký Tạm ước với Pháp, nhưng Đảng và Chính phủ nhận thức rõ ràng
không thể dùng đàm phán để giải quyết vấn đề độc lập, thống nhất của dân tộc.
Chính sách ngoại giao thành hay bại phần lớn phụ thuộc vào sự đoàn kết phấn đấu
của ta, chứ không phải ở “lòng tốt” hay ở “sự thành thật” của thực dân Pháp. Chính
vì vậy, cần phải đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trong HLHQDVN, khép chặt hàng
ngũ xung quanh Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống;
tăng cường củng cố Việt Minh và các tổ chức, đoàn thể cứu quốc.
Từ khi ra đời, HLHQDVN đã thu hút được thêm nhiều người ngoài Mặt trận
Việt Minh. Phải nói rằng, trong tình thế khó khăn nguy hiểm ấy nếu Đảng không
sáng suốt, kiên quyết, nhẫn nại và khéo léo vận động các tầng lớp xã hội bên trên để
họ đứng về phía cách mạng hay ít ra cũng đứng trung lập có lợi cho cách mạng thì
không thể nào phân hóa và cô lập kẻ thù chính. Điều đó chứng tỏ, Đảng đã sử dụng
rất chắc thứ vũ khí sắc bén của mình là MTDTTN trong những hoàn cảnh mới.
48
Giai cấp công nhân đã nêu cao tinh thần dũng cảm trong chiến đấu ở miền
Nam và trên mặt trận sản xuất, nhưng họ chưa có một tổ chức thích hợp, có tính
chất giai cấp để tập hợp công nhân trong cả nước.
Để mở rộng hơn nữa cuộc vận động, tổ chức công nhân và lao động, Tổng
liên đoàn lao động Việt Nam đã được thành lập vào ngày 20-7-1946. Ngay sau khi
thành lập, tổ chức này đã gia nhập hội HLHQDVN và ít lâu sau được Liên hiệp
công đoàn thế giới công nhận là hội viên của mình. Số đoàn viên công đoàn tăng
lên gần 30 vạn người vào cuối năm 1946 (sau cách mạng tháng Tám, số công nhân
cứu quốc có 15 vạn).
Đối với nông dân, Chính phủ chú ý đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, quan
tâm thi hành thông tư giảm tô, giải thích rõ việc địa chủ phải giảm tô 25% là quyền
lợi của tá điền được luật pháp công nhận và bênh vực. Trong thời kỳ này, tổ chức
Nông dân cứu quốc ở Nam Bộ được phục hồi nhanh chóng từ tháng 6 năm 1946,
sau khi bị xộc xệch do kháng chiến Nam Bộ nổ ra. Ở Bắc Bộ, tổ chức Nông dân cứu
quốc phần lớn đã thống nhất đến cấp huyện. Ở Trung Bộ thống nhất đến tỉnh và
khu. Trên phạm vi cả nước, thì phong trào Nông dân cứu quốc mạnh nhất ở các tỉnh
Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Nghệ Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Gia Định,
Chợ Lớn, Mỹ Tho…
Cùng với tổ chức công nông, Đảng Cộng sản Đông Dương đã giúp đỡ một số
trí thức thành lập ra Đảng Xã hội Việt Nam (22-7-1946) nhằm tập hợp, đoàn kết
mọi trí thức yêu nước và dân chủ. Sau khi ra đời, Đảng Xã hội đã gia nhập
HLHQDVN. Sự ra đời của Đảng Xã hội đã góp phần tăng cường hàng ngũ
MTDTTN, làm sáng tỏ hơn chủ trương nhất quán mở rộng tập hợp lực lượng chống
thực dân Pháp xâm lược, phát huy vai trò của Mặt trận Việt Minh và HLHQDVN
trong việc tăng cường, mở rộng đoàn kết.
Hội Phụ nữ cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển. Vì
quyền lợi dân tộc và lợi ích riêng của giới phụ nữ đã đặt ra vấn đề là phải có một tổ
chức mới của giới phụ nữ cho thích hợp, đáp ứng những đòi hỏi mới của tình hình
chính trị, xã hội. Xuất phát từ yêu cầu đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tuyên bố
thành lập ngày 20-10-1946 và sau đó gia nhập Hội Liên Việt.
49
Sự củng cố, mở rộng của Việt Minh, Liên Việt đã góp phần quan trọng trong
việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu xâm lược của thực
dân Pháp. Dưới sự động viên, tổ chức của Việt Minh, Liên Việt, các tầng lớp nhân
dân trong cả nước đã xây dựng thành 12 chiến khu, vùng rừng núi Việt Bắc được
củng cố làm căn cứ vững chắc cho cuộc kháng chiến lâu dài. Các tầng lớp nhân dân
từ công nhân, nông dân, đồng bào các dân tộc cùng lực lượng vũ trang được huy
động, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền cách mạng trong những
năm 1945-1946 là một điển hình thành công hiếm có về nghệ thuật thực hành chiến
lược đoàn kết, thống nhất dân tộc trong MTDTTN rộng rãi của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Liên Việt cùng với Việt Minh đã đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo
vệ chính quyền nhân dân, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược và tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến thần thánh, giữ vững thành
quả của Cách mạng tháng Tám. Những thắng lợi đó chứng tỏ: sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân trong MTDTTN là một nhân tố cực kỳ quan trọng giúp cho sự
nghiệp cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách để đi đến thắng lợi cuối cùng.
2.2. Mặt trận Dân tộc thống nhất thực hiện nhiệm vụ của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (12-1946 đến 7-1954)
2.2.1. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và yêu cầu mở rộng
Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Những người cầm đầu Chính phủ Pháp lúc bấy giờ tuy có khác nhau ít nhiều
trong cách giải quyết vấn đề bang giao Pháp - Việt, song đều có một quyết tâm
chung là giành lại quyền thống trị của chúng ở Việt Nam và toàn bộ bán đảo Đông
Dương với bất cứ giá nào. Để thực hiện mưu đồ đó, Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước
vừa ký chưa kịp ráo mực đã bị thực dân phản động Pháp phản bội. Quân Pháp tấn
công các phòng tuyến của quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Chúng lập ra cái
gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh cầm đầu, nhằm tách
Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam thống nhất. Không chỉ vậy, quân đội Pháp đánh chiếm
Hải Phòng và Lạng Sơn; vào ngày đầu hạ tuần tháng 11-1946 bắt đầu mở rộng cuộc
chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn và quyết liệt đối với miền Bắc. Đặc biệt, ngày
50
17-12, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gây ra vụ tàn sát
đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Đỉnh điểm của hành động khiêu khích
này là ngày 18-12, tướng Móoclie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài
chính, đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để chúng
làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố, nếu các yêu cầu trên không
được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946, quân
Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh một mặt khẩn trương đôn đốc các địa phương đẩy mạnh các
công việc chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với âm mưu xâm lược của thực dân Pháp; mặt
khác đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 12-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân
kháng chiến”, nêu một cách tóm tắt nội dung đường lối và chính sách kháng chiến
gồm: mục đích, tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình kháng chiến, cơ quan
lãnh đạo kháng chiến, khẩu hiệu tuyên truyền để hướng dẫn các Đảng bộ và cơ quan
chỉ đạo kháng chiến các cấp thi hành.
Khẩu hiệu chính trị số một đặt ra lúc này là mọi người hãy gia nhập Hội Liên
Việt. Cơ quan chỉ đạo cuộc kháng chiến gồm: về “đoàn thể” có “Trung kiên chỉ đạo
kháng chiến”; về chính quyền có Chính phủ kháng chiến và Ban Thường vụ Quốc
hội; về MTDTTN có “Ủy ban Liên hiệp quốc dân ủng hộ kháng chiến” toàn quốc
do Hội Liên Việt lập ra, bao gồm các đảng phái, các tầng lớp, các tôn giáo, các dân
tộc [23, tr.152]. Nhiệm vụ của Ủy ban này là “hiệu triệu nhân dân tham gia kháng
chiến, cổ lệ binh sĩ và làm cho cuộc kháng chiến thật là của toàn dân.” [23; tr.152].
Tiếp đó, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi “Toàn
quốc kháng chiến”, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”[54; tr.480], mở đầu cho cuộc kháng chiến trường kỳ
chống thực dân Pháp xâm lược. Lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch là lời hịch
của non sông đất nước, thể hiện quyết tâm sắt đá, nhuệ khí của cả dân tộc và cổ vũ
tinh thần yêu nước của toàn dân đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
51
Thực hiện Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng và Lời kêu
gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và
Hội Liên Việt đã ra sức tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Mặt
trận Việt Minh và Hội Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt
động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến
thắng lợi, giành độc lập dân tộc. Trải qua ba tháng đầu diễn ra kháng chiến toàn
quốc đã giúp cho Đảng có cơ sở nhận định, đánh giá vai trò, vị trí của Mặt trận và
đề ra các chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết và
phát huy vai trò của MTDTTN; trên cơ sở đó mà đấu tranh làm thất bại âm mưu
chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, lập Mặt trận thống nhất quốc gia của thực dân Pháp
xâm lược và bè lũ tay sai.
Hội nghị cán bộ Trung ương (3-6/4/1947), đã đặt nhiệm vụ chính trị lên hàng
đầu, trong đó coi việc củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc chống thực dân phản
động Pháp là chính sách căn bản, lâu dài của Đảng. Nghị quyết của Hội nghị cũng
chỉ rõ: phải chống bệnh hẹp hòi, cần có nhận định đúng và biện pháp khôn khéo với
đồng bào Công giáo, đồng bào dân tộc thiểu số; cần chống quan niệm chủ quan cho
rằng chỉ đảng viên hay “người mặt trận” mới làm được việc và chống khuynh
hướng hữu khuynh dung nạp cả bọn phản động hoặc bị bọn phản động lừa phỉnh
giật dây. Đồng thời, Hội nghị đã đề ra một số biện pháp cụ thể để phát triển và huy
động cao nhất sự đóng góp của Mặt trận dân tộc trong quá trình thực hiện đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính của Đảng.
Đối với Mặt trận Việt Minh cần phải phát triển ở các vùng căn cứ địa, đường
giao thông, đồn điền, vùng địch kiểm soát. Trong vùng bị tạm chiếm thì Việt Minh
phải chuyển sang hoạt động bí mật, vùng tự do cũng phải chuẩn bị một bộ phận bí
mật, lập những tổ chức thích hợp với hoàn cảnh mới. Công tác chấn chỉnh Tổng bộ
Việt Minh và các cấp được cụ thể hóa trên các mặt tổ chức Đảng đoàn, đưa một số
người ngoài Đảng vào Tổng bộ, phân định công việc giữa Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh.
Đối với Hội Liên Việt, cần phải khắc phục quan niệm sai lầm cho rằng tổ
chức này không cần trong kháng chiến và nảy sinh khuynh hướng muốn thủ tiêu
52
Hội này. Tổng bộ Việt Minh đã sử dụng nhiều chủ trương, biện pháp tăng cường vai
trò của Hội như: cử người phụ trách ở Trung ương cũng như các khu; xuất bản tờ
báo Toàn dân kháng chiến; thông qua dự thảo chương trình hoạt động mới của
Hội…Ở một số khu có sáng kiến lập ra các hình thức hội “ủng hộ kháng chiến” để
Hội Liên Việt có hoạt động cụ thể.
Như vậy, để thực hiện đường lối, chủ trương động viên toàn dân tham gia
kháng chiến, Đảng, Chính phủ, Mặt trận đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triển
khai một loạt công tác tư tưởng, tổ chức, quân sự, kinh tế nhằm tăng cường lực
lượng kháng chiến về mọi mặt, phá tan âm mưu mới về chính trị, quân sự của thực
dân Pháp. Công tác Mặt trận và hoạt động của Việt Minh - Liên Việt cùng các tổ
chức đoàn thể thành viên được đẩy mạnh nhằm động viên tinh thần đoàn kết, yêu
nước, đóng góp cho cuộc kháng chiến. Đồng thời, đã đề ra những chủ trương nhằm
đoàn kết tôn giáo, các dân tộc thiểu số và các nhân sĩ, trí thức để đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
2.2.2. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt góp phần giành thắng lợi
bước đầu của cuộc kháng chiến (1946 - 1950)
Từ khi phát động toàn quốc kháng chiến đến khi Mặt trận Việt Minh và Hội
Liên Việt thống nhất với nhau, thì Việt Minh và Liên Việt đã sát cánh với nhau
trong mọi công tác, góp phần giành thắng lợi bước đầu của cuộc kháng chiến trường
kỳ.
Về số lượng và tổ chức, Mặt trận Việt Minh đã phát triển lực lượng và đẩy
mạnh hoạt động trong nhân dân lao động ở cả nông thôn và thành thị thông qua các
đoàn thể cứu quốc. Ngoài ra, còn có những hình thức tổ chức thích hợp với từng
giới. Đầu năm 1947, Ủy ban Mặt trận Việt Minh Nam Bộ được thành lập do Hà
Huy Giáp làm Chủ nhiệm và Trần Bạch Đằng làm Tổng Thư ký. Ngay sau khi ra
đời, Ủy ban Mặt trận Việt Minh Nam Bộ đã thành lập các đội cảm tử xung phong,
tổ chức lãn công, đình công đòi quyền lợi kinh tế, tẩy chay Chính phủ bù nhìn, đòi
các quyền tự do dân chủ, chống khủng bố và kêu gọi các trí thức lớn, điền chủ và
bước đầu triển khai các biện pháp đoàn kết với Công giáo, Cao đài, Hòa hảo. Mặt
trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn được củng cố. Các tỉnh miền Tây và Đông Nam
53
Bộ thu hút được nhiều trí thức và giáo phái tham gia Mặt trận Việt Minh. Ở khu vực
Nam Trung Bộ, Ủy ban Việt Minh các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa
đã tích cực vận động các tầng lớp nhân dân chống địch càn quét, mở rộng chiếm
đóng. Trên địa bàn Tây Nguyên, Mặt trận Việt Minh và Hội đánh Tây ở các tỉnh
Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk tích cực vận động đồng bào Ba Na, Gia Rai đoàn kết
với người Kinh đánh quân xâm lược.
Đối với Hội Liên Việt đã có vai trò hết sức quan trọng và cần thiết trong việc
đoàn kết, tập hợp lực lượng, đặc biệt đối với nhân sĩ, trí thức ở trong và ngoài nước
để chống lại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc mà nổi
lên lúc này là chủ trương của thực dân Pháp lập ra cái gọi là Mặt trận Liên hiệp
quốc gia để lừa gạt nhân dân trong nước và dư luận Pháp; chống Việt Minh, chống
cộng sản; tiến tới lập chính phủ bù nhìn toàn quốc. Hội còn tích cực vận động các
nhà văn hóa, nhà khoa học cống hiến tài năng và trí tuệ của mình vào sự nghiệp
kháng chiến, kiến quốc, nhất là sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Do đó, số lượng của Việt Minh và Liên Việt đã tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên,
“Số lượng toàn quốc chưa có con số rõ ràng, có nơi được 1/2 số cử tri, có nơi 2/3
sang năm 1949 số lượng phát triển mạnh, như khu I phát triển được 73.240 hội viên,
khu X, khu V mỗi khu phát triển được bốn vạn rưỡi”[1, tr.21].
Về tình hình các cấp bộ, đặc biệt năm 1949, Ban Chấp hành các cấp được
củng cố chấn chỉnh lại. 60% chấp hành từ khu tới xã được bầu chính thức, còn một
số xã rất ít không có Ban Chấp hành vì ở những chỗ này là công giáo toàn tổng.
Cùng với việc chấn chỉnh các cấp bộ, công tác huấn luyện cũng được chú ý. Rất
nhiều khu đã mở những lớp cho cán bộ tỉnh, huyện, xã cho hội viên. Các đoàn thể
thì mở rất nhiều. Khu Việt Bắc, 6 tháng đầu năm mở được 1650 lớp, có 48.360 học
sinh. Riêng 3 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh cũng trong 6 tháng này mở được tất cả 4.053
lớp với 155.772 học sinh [1, tr.21].
Trên mặt trận chính trị, các tổ chức của MTDTTN đã đi sâu vận động quần
chúng ở vùng tự do cũng như vùng bị địch chiếm đóng chống lại âm mưu “dùng
người Việt trị người Việt”; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các
mặt trận kháng chiến. Mặt trận và các đoàn thể động viên các tầng lớp nhân dân
54
tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và tích cực tổ chức, tạo điều kiện cho đồng
bào tản cư. Nhiều hội viên, đoàn viên hăng hái tham gia vào các Ủy ban động viên
dân chúng, đi khắp các nơi khai hội, giải thích cho dân, phân phát truyền đơn, kẻ
khẩu hiệu ở khắp các xóm làng, đọc những bài hò vè vắn tắt dễ hiểu, diễn những vở
kịch giản đơn, giải thích về đường lối kháng chiến của Chính phủ và Mặt trận.
“Ngoài việc mít tinh, giải thích, nói chuyện, in truyền đơn, hiệu triệu phát trong các
dịp kỷ niệm hoặc các dịp đặc biệt. Năm 1949, nhiều tỉnh còn ra được báo hàng tuần,
hàng tháng hoặc đặc san. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền vẫn chưa được chú ý, ít
có những hình thức tuyên truyền rầm rộ sâu rộng trong nhân dân. Việc tuyên truyền
ở các cấp không có người chuyên trách.” [1; tr.21]. Đặc biệt, nhờ sử dụng tổng hợp
các biện pháp quân sự, chính trị đi đôi với tuyên truyền, vận động và cải thiện đời
sống, tranh thủ tầng lớp trên nên MTDTTN đã từng bước phá âm mưu chia rẽ của
giặc Pháp trong việc tạo ra những cái gọi là “Xứ Nùng tự trị” (vùng Đông Bắc),
“Xứ Thái tự trị” (vùng Tây Bắc), “Xứ Mường tự trị” (Hòa Bình) …
Phong trào thi đua yêu nước của các ngành, các giới ở vùng tự do, phong
trào đấu tranh chính trị của các giai cấp, tầng lớp ở các vùng bị địch chiếm, đặc biệt
là các đô thị, đã phát triển sôi động hơn so với giai đoạn trước. Nếu như năm 1947
mới chỉ có 15 cuộc đấu tranh của công nhân Nam Bộ đòi tăng lương, giảm giờ làm,
thì sang năm 1948 đã có 40 cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia
Định và cả Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng…Năm 1949, tăng lên 54 cuộc đấu tranh
của công nhân ở cả ba miền. Năm 1950 có đến 65 cuộc đấu tranh lớn nổ ra. Bên
cạnh phong trào của công nhân, còn có phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của
tiểu thương, trí thức gửi kiến nghị phản đối Chính phủ bù nhìn do Pháp dựng lên.
Cuộc đấu tranh chống lại “Vụ án Liên Việt” tại Sài Gòn từ giữa năm 1949 do
hoạt động của Hội Liên Việt bị lộ, địch đưa các hội viên Liên Việt ra tòa xét xử, đã
giấy lên phong trào đấu tranh của các giới đòi ngăn chặn vụ án. Mở đầu là cuộc đấu
tranh của hơn 300 trí thức có danh tiếng ký tên vào bản kiến nghị do Luật sư
Nguyễn Hữu Thọ làm Trưởng phái đoàn đại diện các giới, đòi đình chỉ vụ án. Ngày
15-3-1950, địch đưa 22 hội viên Liên Việt ra tòa xét xử. Hơn 3.000 người gồm nam,
55
nữ học sinh, công chức, lao động, bác sĩ, dược sĩ tham gia đấu tranh gây sức ép
buộc địch phải tuyên bố hoãn xét xử.
Khi phái đoàn viện trợ của Mỹ đến Sài Gòn (6-3-1950), hưởng ứng Lời kêu
gọi của Ủy ban Kháng chiến hành chính Sài Gòn, hơn 30 vạn người dự mít tinh, gần
500.000 người xuống đường tuần hành hô vang khẩu hiệu phản đối Pháp - Mỹ xâm
lược, xé cờ, đốt xe địch vào ngày 19-3-1950.
Trên mặt trận quân sự, trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, nhân
dân cả nước đã phối hợp với cuộc chiến đấu ác liệt ở thủ đô Hà Nội và các thành
phố lớn, hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ và Mặt trận thi hành chính sách
“vườn không nhà trống”, phá hoại cầu đường, xây dựng làng chiến đấu nhằm ngăn
chặn bước tiến của quân thù. Phối hợp giữa quân và dân tiêu diệt hội tề phản động,
phá chính quyền bù nhìn của địch ở thôn quê mà địch vừa lập được ở một số nơi.
Với những hoạt động tích cực của Việt Minh và Liên Việt đã đưa đến thắng lợi trên
chiến trường: thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947; thắng lợi của
chiến dịch Biên Giới năm 1950.
Bên cạnh đó, Việt Minh và Liên Việt còn “vận động bộ đội chính quy, nuôi
dưỡng bộ đội địa phương. Tất cả và đa số các cấp bộ đoàn thể trong Mặt trận, từ
Trung ương đến tỉnh đã đỡ đầu một hay hai đơn vị bộ đội chính quy hay địa
phương. Ngoài ra còn vận động nhân dân đỡ đầu như ở Phú Thọ có hai người đỡ
đầu hay đại đội, một người đỡ đầu một tiểu đoàn và một bà đỡ đầu một trung đội.
Hiện nay các xã đang vận động đỡ đầu mỗi xã một tiểu đội.”[1; tr.21-22]. Việc nuôi
dưỡng bộ đội địa phương được đặc biệt chú ý, nhiều xã đã quyên góp được hàng
vạn đồng bạc. “Đặc biệt phong trào nuôi bộ đội địa phương Hà Tĩnh lên rất cao, có
xã quyên góp được 13 triệu, toàn tỉnh quyên góp được 300 triệu” [1, tr.22].
Không những vậy, “phong trào luyện tập quân sự và tòng quân lên cao và
đều. Hầu hết các đoàn viên có đủ điều kiện đều gia nhập dân quân, đặc biệt có nhiều
đội phụ nữ du kích và bạch đầu quân cũng luyện tập rất hăng hái. Nhiều lớp huấn
luyện quân sự mở ở các nơi. Số thanh niên xung phong tòng quân ở các khu lên đến
hàng chục vạn. Riêng Thanh - Nghệ -Tĩnh đã có 19 vạn thanh niên, trong đó có
công chức và học sinh xung phong tòng quân.” [1; tr.22].
56
Trên mặt trận kinh tế, Việt Minh và Liên Việt đã vận động giảm tô và hiến
điền, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, đáp ứng nhu cầu tại chỗ cũng như cho kháng
chiến. “Việc vận động giảm tô ráo riết hơn trước nhiều. Ở những địa phương việc
giảm tô gặp khó khăn, Liên Việt đứng ra triệu tập Hội nghị chủ điền và tá điền để
thảo luận dàn xếp việc giảm tô. Nhờ vậy mà việc giảm tô thu được nhiều kết quả”
[1; tr.22]. Không chỉ vậy, Việt Minh và Liên Việt còn phối hợp với nhau trong việc
vận động nhân dân hiến điền, có những địa chủ hiến hàng trăm mẫu, có một số phú
nông cũng xung phong. Việc tăng gia sản xuất cũng có nhiều kết quả như “Vĩnh
Yên, Yên Bái giồng thêm được 1.290 mẫu bông, 666 mẫu mía, 603 mẫu lúa ba
giang, 879 mẫu chiêm, 30 mẫu sắn, 170 mẫu ngô. Ở khu 4, ba tỉnh Thanh - Nghệ -
Tĩnh tăng gia được 8.954 mẫu, khẩn hoang được 5.096 mẫu, đắp được 101.765 đê
Nông giang. Tỉnh Vĩnh Yên đầu năm 1949, chăn nuôi thêm được 90 trâu, 133 bò,
580 lợn nái” [1, tr.22].
Về thực hiện bình dân học vụ, “Mặt trận các cấp đã có kế hoạch thanh toán
nạn mù chữ trong các đoàn thể và tham gia thanh toán nạn mù chữ toàn dân. Hiện
nay số đoàn viên cứu quốc mù chữ rất ít. Nhiều tỉnh đã thanh toán xong và đã tiến
tới lập các lớp bổ túc bình dân” [1, tr.23].
Trên mặt trận ngoại giao, các hoạt động đối ngoại nhân dân đã được phát
triển mạnh mẽ, góp phần giúp cho nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân Pháp hiểu
rõ về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, hình thành mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Ngoài ra, còn liên lạc với Hội Ítxara của Lào,
Ítxarắc của Miên - Lào
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, nhân dân thành thị và
nông thôn gần chiến trường đã tản cư đi nơi khác, hàng vạn thanh niên gia nhập bộ
đội, hàng vạn công nhân rời xí nghiệp, vận chuyển máy móc đi xây dựng công
nghiệp quốc phòng, nhiều người công tác văn hóa đi đảm đương những nhiệm vụ
khác cho nên tổ chức của các đoàn thể trong Mặt trận bị xáo trộn. Hơn nữa, hoạt
động của Hội Liên Việt chưa có sự tiến bộ đáng kể vì nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong thực tế hoạt động, Việt Minh và Liên Việt chưa có sự phân công rõ
ràng. Bên cạnh đó, cuộc tấn công mùa hè năm 1947 của địch làm cho đường liên lạc
57
Nam - Bắc gặp khó khăn, các vùng tạm chiếm mở rộng; quân Pháp đang chuẩn bị
lực lượng, lập chính phủ bù nhìn tay sai và đẩy mạnh hoạt động quân sự nhằm tiêu
diệt quân chủ lực của ta. Chúng tuyên bố không công nhận Việt Nam độc lập thống
nhất, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện chính của nhân dân Việt
Nam. Chúng tuyên truyền thù hằn giai cấp, đảng phải, tôn giáo và dân tộc để chia rẽ
MTDTTN mà Việt Minh là trụ cột, cô lập Đảng Cộng sản.
Sau khi chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” bị thất bại, thực dân Pháp phải
chuyển sang “đánh kéo dài”, ráo riết thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh
người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, rải quân để bình định, củng cố các
vùng chiếm đóng của chúng ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Bình - Trị -
Thiên và đồng bằng Bắc Bộ, thực thi chiến lược “chiến tranh tổng lực” đánh phá cơ
sở kinh tế, chính trị và lực lượng hậu bị của ta.
Trong điều kiện như vậy, công tác mặt trận lại càng phải được chú trọng hơn
để tăng cường khối đoàn kết toàn dân, chống mọi âm mưu chia rẽ của thực dân
Pháp. Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương mở rộng (1-1948) đã khẳng định: mặt
trận dân tộc chống Pháp lúc này phải là Hội Liên Việt, Việt Minh là bộ phận trụ cột
trong Liên Việt và Hội là đội tiên phong, bộ tham mưu lãnh đạo cả mặt trận toàn
dân. Muốn củng cố và mở rộng MTDTTN, phải phát triển Liên Việt và củng cố
Việt Minh, đặc biệt là Tổng bộ, một mặt thống nhất hệ thống tổ chức Việt Minh từ
dưới lên trên (thống nhất các Hội Cứu quốc toàn quốc). Việt Minh phải gia nhập
toàn thể vào Hội Liên Việt. Đồng thời, Hội nghị còn đề ra một số biện pháp nhằm
xây dựng và mở rộng Hội Liên Việt và định ra phương châm: “Các giai cấp trong
nước nhân nhượng quyền lợi với nhau để cứu vãn quyền lợi chung của dân tộc”[24;
tr. 27]. Cụ thể hóa Nghị quyết của Hội nghị Trung ương, Hội nghị cán bộ Trung
ương lần thứ tư (5-1948) và lần thứ năm (8-1948) đã chú trọng đến công tác mặt
trận ở ba điểm sau:
Thứ nhất, Hội nghị đã cụ thể hóa việc chấn chỉnh tổ chức Việt Minh nói
chung và các cấp bộ Việt Minh và Việt Minh đoàn nói riêng; cụ thể hóa việc đào
58
tạo cán bộ cho Việt Minh, xây dựng Việt Minh ở miền núi và trong vùng địch
chiếm đóng.
Thứ hai, đối với Liên Việt, Hội nghị ấn định trọng tâm phát triển lấy cơ sở là
xã, đặc biệt chú ý Liên Việt cấp xã, duy trì sinh hoạt một tháng một lần. Không tổ
chức Liên Việt trong vùng dân tộc thiểu số. Các công tác ở cơ sở của Việt Minh
trước đây nay chuyển sang cho Liên Việt.
Thứ ba, Hội nghị đề ra nội dung, nguyên tắc, mối quan hệ giữa hai hình thức
tổ chức. Các cấp bộ Việt Minh cử người tham gia Ban chấp hành Liên Việt tương
đương. Các hội viên cứu quốc phải tham gia sinh hoạt và làm mọi công việc của
Liên Việt.
Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ năm (8-1948) đã nêu ra sáu đặc
điểm của MTDTTN giai đoạn hiện tại. Trong đó, đặc điểm thứ sáu, đồng thời cũng
là một khuyết điểm, đó là có hai hình thức Việt Minh và Liên Việt chồng chéo lên
nhau khiến cho tổ chức và sự lãnh đạo phức tạp thêm.
Hội nghị cũng đề ra những chủ trương, biện pháp tiến hành thống nhất, trước
hết Đảng và Việt Minh phải quán triệt trên thực tế phương châm thực hiện thống
nhất là: “Củng cố Việt Minh và phát triển Liên Việt để tiến tới thống nhất Việt
Minh, Liên Việt”. Đây là phương pháp duy nhất đúng, nên không thể vội vã mà cần
có sự chuẩn bị chu đáo. Đánh giá về phương pháp, hình thức tổ chức mặt trận này,
văn kiện chỉ rõ đó có thể coi là một “phát kiến” độc đáo, sáng tạo của Việt Nam mà
“chúng ta tìm ra trong cuộc vận động đại đoàn kết toàn dân này”[24; tr. 217]. “Hội
nghị cán bộ Trung ương Đảng lần thứ 5 vừa rồi, nhận thấy đã có điều kiện làm cho
Việt Minh và Liên Việt thành một MTDTTN nên đã quyết nghị thống nhất hai mặt
trận làm một. Vả lại, việc thống nhất hai mặt trận còn có lợi là sẽ thanh toán được
những bất tiện kể trên về tổ chức, công tác và cán bộ”[2; 6]. Quá trình chấn chỉnh,
củng cố, phát triển tiến tới thống nhất Việt Minh, Liên Việt còn được tiếp tục trong
suốt các năm tiếp theo.
Trước những thất bại sâu cay của đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ ngày càng can
thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Tháng 7-1949, Pháp đưa Bảo Đại
59
về lập Chính phủ bù nhìn, Mỹ giúp trang bị và huấn luyện quân sự cho ngụy binh.
Trước những hành động đó, phong trào chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ diễn
ra mạnh mẽ thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Ngày 9-1-1950, 2.000 học
sinh Sài Gòn biểu tình; ngày 13-1-1950, học sinh, sinh viên Hà Nội bãi khóa hưởng
ứng học sinh Sài Gòn; ngày 19-3-1950, các giới đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn biểu
tình chống Mỹ, đòi chúng phải rút ngay các tàu chiến và máy bay ra khỏi Sài Gòn.
Căn cứ vào tình hình trên, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng (2-1950)
đề ra chủ trương tích cực hoàn thành nhiệm vụ cầm cự, chuẩn bị chuyển sang tổng
phản công, quyết định chế độ tổng động viên trong kháng chiến. Đồng thời, Hội
nghị cũng bổ sung lần cuối những chủ trương, biện pháp về thống nhất Việt Minh,
Liên Việt và đề ra nhiệm vụ toàn diện về công tác mặt trận, dân vận nhằm tăng
cường Mặt trận dân tộc thống nhất trong thời kỳ chuyển hướng chiến lược quân sự.
Như vậy, MTDTTN từ ngày đầu kháng chiến đến trước khi thống nhất có
mấy điểm cần lưu ý như sau: “Mặt trận Việt Minh được củng cố thêm và Liên Việt
được phát triển mạnh xuống các cấp huyện, xã. Vai trò của Liên Việt đã được đề
cao ở nhiều địa phương. Nhiều thân hào thân sĩ nhất là giới phụ lão tham gia Liên
Việt và hăng hái hoạt động. Sự liên lạc, phối hợp với chính quyền, các ngành
chuyên môn và quân sự, đã chặt chẽ và thiết thực. Vận động nhân dân chuẩn bị tổng
phản công có kết quả nhiều trong những công tác: tham gia sản xuất, đóng quỹ tham
gia kháng chiến, ủng hộ đỡ đầu bộ đội, lập quỹ nuôi du kích và bộ đội địa phương,
ủng hộ thương binh” [2, tr.23]. Những đóng góp đó đã góp phần đưa lại thắng lợi
bước đầu của cuộc kháng chiến.
2.2.3. Mặt trận Liên Việt góp phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn (1951 - 1954)
Tháng 12-1950, Mỹ, Pháp cùng các Chính phủ “quốc gia” Việt, Miên, Lào
đã ký bản “Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương”. Mỹ cam kết sẽ viện trợ quân
sự cho các nước trên để phòng thủ Đông Dương. Đến tháng 9-1951, Mỹ lại trực tiếp
ký với Bảo Đại hiệp ước tay đôi “Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mỹ” nhằm chuyển
thẳng một phần viện trợ Mỹ cho Chính phủ Bảo Đại và trực tiếp ràng buộc chính
phủ đó vào Mỹ. Tháng 12-1951, Mỹ lại ký với Bảo Đại một bản “Hiệp nghị an ninh
60
chung”. Được Mỹ viện trợ, Pháp đã kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông
Dương, tập trung lực lượng phòng ngự và bình định vùng tạm chiếm, nhất là ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời chuẩn bị các cuộc phản công với hy vọng giành lại
quyền chủ động chiến lược đã bị mất ở chiến trường Bắc Bộ.
Để thực hiện ý đồ đó, chúng đã tăng cường bắt lính, lập ra một số binh đoàn
cơ động chiến lược; xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố đi đôi với đẩy mạnh bình
định; ra sức phát triển và củng cố ngụy quyền nông thôn, lập “hương dũng”, “hương
đồn”, chuyển lực lượng vũ trang của bọn phản động đội lốt tôn giáo thành quân
chính quy để kìm kẹp nhân dân; sử dụng nhiều thủ đoạn thâm độc và tàn bạo để
triệt phá kinh tế của ta; lập ra những tổ chức và đảng phái phản động dưới các nhãn
mác “độc lập”, “dân chủ”, bầu cử giả hiệu và phát triển “quân đội quốc gia” hòng
lừa bịp nhân dân ta.
Trước yêu cầu đòi hỏi mới của cuộc kháng chiến, vấn đề củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc và mở rộng MTDTTN có tầm quan trọng đặc biệt. Quá trình thống
nhất Việt Minh - Liên Việt để thực hiện khẩu hiệu “một dân tộc, một mặt trận”, đẩy
mạnh kháng chiến kiến quốc đã được Đảng ta đề ra từ năm 1947 nhưng đến đầu
năm 1951 vẫn chưa được thực hiện. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến công tác
Mặt trận và củng cố khối đoàn kết toàn dân.
Chính vì vậy, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951), Đảng ta đã
vạch ra đường lối tiếp tục đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi và đề ra yêu cầu tăng
cường đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể trong tình hình
mới. Đại hội đã quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao
động Việt Nam. Đồng thời, Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị do
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày. Đánh giá vai trò, tác dụng của Mặt trận và các tổ
chức đoàn thể, Báo cáo chính trị khẳng định: “Trong công việc to tát kháng chiến
kiến quốc, Mặt trận Liên Việt - Việt Minh, Công đoàn, Nông hội và các đoàn thể
quần chúng có một tác dụng rất to lớn. Chúng ta phải giúp cho các đoàn thể ấy phát
triển, củng cố và hoạt động thực sự”[25, tr.35].
Những vấn đề về củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN
đã được Đại hội bổ sung, phát triển một cách có hệ thống trong Luận cương cách
61
mạng Việt Nam có tựa đề Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do đồng chí Trường Chinh trình bày, với những nội
dung cụ thể như sau:
Về vị trí của MTDTTN: muốn kháng chiến thắng lợi phải lập MTDTTN
chống đế quốc thật rộng rãi bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, các phần tử yêu
nước không phân biệt chủng tộc, giai cấp, tôn giáo, đảng phái chính trị. Đồng thời,
Luận cương cũng nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với MTDTTN là không thể
phân chia với bất cứ giai cấp nào và phải ngày càng được củng cố. Muốn vậy phải
chú trọng đến quyền lợi của công nhân, nông dân lao động và phải nắm vững lập
trường giai cấp, lập trường của Đảng, đồng thời phải chú trọng các đảng phái khác
trong Mặt trận.
Trong tình hình mới, nhiệm vụ củng cố MTDTTN bao gồm những nội dung
sau: Thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu của MTDTTN lúc này là củng cố, phát triển khối
đại đoàn kết dân tộc và động viên toàn dân đánh đuổi đế quốc xâm lược; Thứ hai,
nội dung củng cố MTDTTN lúc này là chấn chỉnh Mặt trận về ba mặt: tư tưởng, tổ
chức và công tác; Thứ ba, về tổ chức, cần thống nhất Việt Minh - Liên Việt trong
toàn quốc, xóa bỏ hẳn tình trạng hai hình thức Mặt trận lồng vào nhau.
Trong thực tế, sự cần thiết phải thống nhất Việt Minh - Liên Việt xuất phát
từ những lý do sau: “Việt Minh và Liên Việt tuy là hai tổ chức riêng rẽ nhưng thật
ra nó chỉ đề ra do vận động thực hiện chính sách Mặt trận dân tộc của Đảng ta. Sở
dĩ Đảng còn phải để Liên Việt và Việt Minh thành hai tổ chức riêng rẽ như thế là để
tránh những thành kiến, e dè như đã nói trên làm cho Mặt trận dễ dàng phát triển.
Nhưng từ khi Liên Việt ra đời và làm việc với Việt Minh đến nay ta thấy những
thành kiến, e dè trên hầu như đã được thanh toán. Các giới trí thức, tư sản và đồng
bào công giáo một thời gian gần gũi nhận thấy số đông cán bộ Việt Minh tuy có
kém văn hóa thật, nhưng về ý thức chính trị, tinh thần nhẫn nại, lòng hy sinh thì rất
khá, nên họ đã quý mến và đã đoàn kết chặt chẽ để cùng hoạt động chung. Đồng
thời những thành kiến sai lầm về Liên Việt cũng mất đi trước những công tác thiết
thực của Liên Việt”[2, tr.6].
62
Hơn nữa, “sau gần hai năm công tác thực tế, ta đã thấy: Nếu ta đem được
toàn thể cán bộ Việt Minh ra vận động Liên Việt thì Liên Việt còn phát triển mạnh
mẽ hơn nữa và cơ bản đã ngăn cấm sự thâm nhập của những phần tử cơ hội, hay
phần tử nguy hiểm. Thống nhất Việt Minh với Liên Việt để phát triển Liên Việt ta
còn được cảm tình của giới trí thức, tư sản. Họ cho ta không thủ cựu, không thiện
kiến và chỉ biết làm việc cho dân tộc, cho cách mạng. Vậy bỏ Việt Minh phát triển
Liên Việt là rất lợi cho cuộc vận động chính trị. Việt Minh và Liên Việt thống nhất
thì các tổ chức trong Mặt trận ấy mới dễ dàng chỉnh đốn. Mỗi giới sẽ để Đảng thống
nhất về tổ chức và hành động trong giới mình. Do đó, Mặt trận dân tộc càng bền
chặt” [1; tr.28].
Từ thực tế trên, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng chỉ rõ: Việt Minh là mặt
trận thống nhất của dân tộc, đã đem lại cho lịch sử nước nhà một kỷ nguyên mới,
nhưng cũng do đó là phát sinh ra trong xã hội những điều kiện mới cho nên đã đến
lúc cần phải có một hình thức mới của Mặt trận cũng như trước kia Việt Minh ra
đời thay thế cho Mặt trận Thống nhất phản đế. Vì vậy, Hội Liên Việt thành lập để
kết nạp được toàn thể nhân dân. Nhưng phát triển như ngày nay, Liên Việt và Việt
Minh cần phải thống nhất thì việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc mới xúc tiến
mạnh mẽ được.
Về kế hoạch thống nhất Việt Minh và Liên Việt được đặt ra cụ thể như sau:
“Việc này không đến nỗi khó khăn khi hội giải thích về vụ giải tán hội, vì được làm
công khai. Ta có thể để hẳn một tuần lễ để giải thích về việc hòa hợp Việt Minh và
Liên Việt để nhân dân nhận thức rõ ràng. Trong thời gian này, ta có thể dùng báo
chí, mở mít tinh để: nói rõ sự cần thiết phải có khối đại đoàn kết; nói rõ mục đích
chung của Việt Minh và Liên Việt; giải thích chủ trương và điều lệ của Việt Minh;
nếu cần đề cao những thành tích của Việt Minh. Làm được vậy thì nhân dân sẽ nhận
rõ Việt Minh và Liên Việt tuy là hai tổ chức nhưng vẫn là một Mặt trận dân tộc
thống nhất. Việt Minh không bị thủ tiêu, trái lại, vẫn tồn tại và phát triển trong Hội
Liên hiệp Quốc dân Việt Nam”[1, tr.29].
Trên cơ sở kế hoạch đã được vạch sẵn, từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, tại xã
Vinh Quang, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang đã diễn ra Đại hội toàn quốc
63
thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Đây là lần đầu tiên kể từ khi hình thức tổ chức
Mặt trận đầu tiên ra đời vào năm 1930 có một Đại hội công khai, có đủ đại biểu cả
nước, đại diện các ngành, các giới. Quyết nghị của Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh
chủ trương thống nhất Việt Minh - Liên Việt, trịnh trọng ghi công Mặt trận Việt
Minh và các chiến sĩ Việt Minh đã xây dựng và phát triển MTDTTN; đồng thời nêu
rõ việc hoàn thành thống nhất Việt Minh - Liên Việt thành một MTDTTN lấy tên là
Mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Mặt trận Liên Việt.
Chính cương mới của Mặt trận Liên Việt được ấn định theo những phương
châm: đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước, lấy lực lượng công nông và trí thức
làm nền tảng; vừa kháng chiến vừa kiến quốc, đồng thời phải cải thiện dân sinh; kết
hợp tinh thần ái quốc chân chính với tinh thần quốc tế chân chính, phối hợp cuộc
kháng chiến Việt Nam với cuộc kháng chiến của Miên - Lào và phong trào bảo vệ
hòa bình thế giới. Tuyên ngôn của Mặt trận kêu gọi đồng bào hãy tham gia đông
đảo vào Mặt trận Liên Việt.
Đại hội cử ra Ủy ban toàn quốc của Mặt trận gồm 52 người, suy tôn Hồ Chí
Minh là Chủ tịch danh dự và Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch. Báo Cứu quốc - cơ quan
của Tổng bộ Việt Minh chuyển thành cơ quan Trung ương của Mặt trận Liên Việt,
báo của Kỳ bộ (Nam Bộ) và các khu bộ Việt Minh chuyển thành cơ quan của Mặt
trận Liên Việt cấp tương đương.
Hoàn thành thống nhất Việt Minh - Liên Việt là một thắng lợi có ý nghĩa lịch
sử hết sức trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta. Đó
là bước tiến, sự trưởng thành của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và MTDTTN Việt
Nam trong cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Thắng lợi to lớn về chính trị này
tạo cơ sở vững chắc để đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới để đi tới
thắng lợi cuối cùng.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ II và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt,
các hoạt động của Mặt trận đã được đẩy mạnh. Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương lần thứ nhất (3-1951), yêu cầu các ngành, các cấp phải phổ biến sâu rộng nội
dung văn kiện Đại hội Mặt trận, chấn chỉnh tổ chức và công tác Mặt trận từ trên
xuống dưới, nhằm đề cao vai trò và tác dụng thực tế của Mặt trận; tránh tình trạng
64
Đảng hoặc chính quyền bao biện hoặc coi nhẹ Mặt trận; đồng thời quyết nghị thành
lập Ban Mặt trận thay Đảng đoàn Mặt trận. Ban Mặt trận Trung ương được thành
lập theo Nghị quyết ngày 16-4-1951 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng
chí Hoàng Quốc Việt làm trưởng ban. Hoạt động của Mặt trận và các tổ chức, đoàn
thể tập trung vào tuyên truyền sâu rộng về việc Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt
động công khai, làm cho mọi người hiểu được tôn chỉ, mục đích của Đảng đồng
thời tăng cường giới thiệu vai trò, vị trí của Mặt trận Liên Việt.
Báo cáo của Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh đã nhấn mạnh: MTDTTN là
một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa. Mặt trận Liên Việt là một trong những trụ cột của Nhà nước
VNDCCH và là một bộ phận của khối liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào, của
Mặt trận hòa bình dân chủ thế giới. Bên cạnh đó, Báo cáo còn chỉ ra những hạn chế,
thiếu sót về công tác mặt trận trong thời gian qua: “chính sách Mặt trận chưa được
giải thích rõ ràng sâu rộng trong nhân dân. Có nơi coi Mặt trận Liên Việt là một tổ
chức để đối phó với người ngoài Đảng, chứ không có lợi ích thiết thực gì, coi tổ
chức này là một tổ chức “tượng trưng” để thu hút những phần tử lung tung” [3,
tr.94]. Có nơi lại bỏ phóng Liên Việt cho địa chủ, tư sản, phú nông, cường hào lợi
dụng mưu lợi riêng; vẫn chưa ra sức phát triển tổ chức Liên Việt trong các vùng tôn
giáo, thiểu số và tạm bị chiếm. Những khuyết điểm đó biểu lộ tư tưởng hữu khuynh
trong việc thi hành chính sách Mặt trận của Đảng, do lập trường giai cấp, quan điểm
quần chúng và sự nhận định bạn và thù của một số cán bộ chưa được đúng đắn mà
sinh ra.
Sau thất bại liên tiếp của các chiến dịch quân sự ở Hòa Bình, Tây Bắc và
Thượng Lào, thực dân Pháp càng điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh. Tháng 7-1953,
kế hoạch quân sự Nava được Mỹ chấp thuận nhằm tạo ra thế mạnh về quân sự,
giành lại thế chủ động chiến lược trong vòng 18 tháng. Trước những diễn biến phức
tạp của tình hình, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (25-1-
1953), đã chỉ đạo cuộc kháng chiến và trong hoàn cảnh mới cần tăng cường, mở
rộng MTDTTN với ba vấn đề chính là: tăng cường đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân
65
tộc thiểu số và các đảng phái dân chủ. Do đó, Mặt trận Liên Việt đã không ngừng
được củng cố và mở rộng.
Về hệ thống tổ chức của Mặt trận Liên Việt có 5 cấp: xã hay khu phố, huyện
hay thị xã, tỉnh hay thành, khu hay xứ, toàn quốc. Ủy ban Mặt trận các cấp gọi tắt là
Ủy ban Liên Việt (Ủy ban Liên Việt xã, hay khu phố; Ủy ban Liên Việt huyện hay
thị xã; Ủy ban Liên Việt tỉnh hay thành; Ủy ban Liên Việt khu hay xứ; Ủy ban Liên
Việt toàn quốc) [72, tr.610]. Với những hoạt động tích cực, Mặt trận Liên Việt đã
góp phần quan trọng đưa đến thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Trên mặt trận chính trị, Mặt trận Liên Việt đã thi hành những chính sách và
biện pháp cụ thể để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của tất cả các tầng lớp nhân
dân để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Chú trọng công tác vận động
thanh niên, nhi đồng, phụ nữ, tư sản, tiểu thương, địa chủ, phú cường…đóng góp
công sức cho cuộc kháng chiến. Cùng với đó, Mặt trận còn đề ra chủ trương chấn
chỉnh Ban Chấp hành của Mặt trận, các đoàn thể để công việc khỏi dẫm chân lên
nhau; chú trọng sửa đổi lối làm việc; củng cố MTDTTN ở các xã, nhất là trong
vùng địch tạm chiếm.
Để phá tan âm mưu của Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm tổ chức những cuộc
tuyển cử để lập ra các “Hội đồng hàng xã, thị xã”, “Hội đồng hàng tỉnh” và tuyển cử
Quốc hội bù nhìn, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã phối hợp giải thích cho quần
chúng trong vùng tạm chiếm và vận động tẩy chay hoạt động lừa bịp của địch, đề
cao chính quyền dân chủ nhân dân.
Trên mặt trận kinh tế, Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể phối hợp với chính
quyền động viên nhân dân đẩy mạnh phong trào sản xuất, tiết kiệm lên một bước
phát triển mới. Mặt trận đã tích cực tham gia phát động nông dân thực hiện giảm tô,
giảm tức và cải cách ruộng đất theo chủ trương của Đảng và Luật cải cách ruộng đất
của Nhà nước. Mặt trận và các đoàn thể đã vận động nhân dân đấu tranh kinh tế với
địch, bài trừ buôn lậu, chống dùng hàng xa xỉ phẩm, vận động các tầng lớp nhân
dân chống lại việc định phá giá đồng bạc Đông Dương năm 1953. Trong vùng sau
lưng địch, Mặt trận vận động nhân dân đấu tranh đòi tăng lương, chống giãn thợ,
66
thải hồi công nhân viên chức và tổ chức cứu đói ở các địa phương với nhiều biện
pháp khác nhau đã giúp đồng bào vượt qua nạn đói. Đây không chỉ là thắng lợi lớn
trên mặt trận kinh tế - tài chính mà còn có ý nghĩa to lớn về chính trị, tỏ rõ bản chất
tốt đẹp, sự ưu việt của chính quyền dân chủ nhân dân, góp phần củng cố niềm tin
của các tầng lớp nhân dân đối với cuộc kháng chiến.
Trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể thành viên đã
triển khai một số hoạt động như chống dịch, chống chiến tranh vi trùng…tuyên
truyền, phổ biến cho nhân dân đề cao cảnh giác, động viên mọi người phát hiện tiêu
hủy ngay các vật lạ do địch thả. Mặt trận còn huy động các đoàn thể thanh niên, phụ
nữ, công đoàn và toàn dân tham gia phòng chống chiến tranh vi trùng. Mặt trận và
các tổ chức, đoàn thể phối hợp với chính quyền trên nhiều địa phương tích cực
tuyên truyền đi đôi với tổ chức, tạo điều kiện để nhân dân đón thương, bệnh binh về
nuôi dưỡng, chăm sóc…
Trên mặt trận quân sự, với vai trò, chức năng của mình, Mặt trận và các tổ
chức, đoàn thể đã động viên tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc để giáo dục ý
thức tình nguyện tòng quân, động viên phong trào tòng quân diệt giặc trong nhân
dân, nhất là đối với thanh niên. Ngoài số thanh niên đủ tiêu chuẩn tòng quân, nhập
ngũ, ở các địa phương, cơ sở còn không ngừng chú trọng xây dựng, phát triển lực
lượng dân quân, du kích, tự vệ để đánh địch tại chỗ nhằm giữ gìn trật tự an ninh và
bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Mặt trận còn huy động nhân dân khắp nơi đóng góp cho bộ đội, dân quân du
kích để quân đội “ăn no, mặc ấm, đánh khỏe” với các phong trào như: “Hũ gạo nuôi
quân”, “Mùa đông binh sĩ”, “Đón thương binh về làng”…Nhờ sự tích cực vận động
của Mặt trận và sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, bộ đội chủ lực đã có bước
tiến rõ rệt cả về quân số, trang bị và tác chiến, đã phát triển nhanh chóng bộ đội địa
phương, dân quân, du kích trở thành lực lượng dự trữ dồi dào, hùng hậu của bộ đội
chủ lực.
Một trong những hoạt động nổi bật của Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể
trong những năm tích cực chuẩn bị để chuyển mạnh sang tổng phản công là đoàn
kết, động viên toàn dân đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực cho các chiến dịch trong
67
những năm 1951, 1952, 1953 ở các vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc…để
giành thắng lợi to lớn làm thất bại mọi âm mưu, kế hoạch quân sự của địch. Mặt
trận đã huy động các tầng lớp nhân dân: mở đường vận tải, đi dân công tiếp tế
lương thực, thực phẩm, đạn dược, cứu chữa thương binh, thu dọn chiến
trường…Chỉ tính trong năm 1952, nhân dân đã góp công sửa chữa, làm mới 1.800
km đường ô tô. Lực lượng vật chất phục vụ chiến dịch Tây Bắc (1952) là 9.360 tấn
gạo, 164 tấn muối, 195 tấn thịt, 71 tấn thực phẩm khác, 33 tấn đạn, 194.400 dân
công với khoảng 7 triệu ngày công [39, tr.109].
Đặc biệt, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến đông
xuân năm 1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Mặt trận Liên
Việt các cấp đã tích cực phối hợp với các cấp bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể cách
mạng tổ chức, động viên các tầng lớp nhân dân dốc sức người, sức của phục vụ cho
chiến dịch. Vượt qua những khó khăn chồng chất, theo lời kêu gọi của Đảng và Mặt
trận Liên Việt, nhân dân khắp nơi trên cả nước, nhất là vùng kháng chiến và các
tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc, khu III, Thanh Hóa, vượt qua khó khăn đóng góp sức
người, sức của cho chiến dịch. Riêng đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc đã đóng góp
được 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt và 31.818 dân công với 1.296.075 ngày công [39,
tr.120].
Một cuộc tổng động viên vĩ đại đã diễn ra khắp các vùng miền, của tất cả các
giai cấp và tầng lớp trong MTDTTN nhằm dốc sức người, sức của cho mặt trận
Điện Biên Phủ. Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tấn công địch ở Điện Biên Phủ.
Qua 3 đợt chiến đấu gay go, quyết liệt, dũng cảm, sáng tạo đến ngày 7-5-1954, quân
ta hoàn toàn đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống toàn bộ chỉ huy và
16.000 quân Pháp kéo cờ trắng ra hàng.
Trên mặt trận ngoại giao, mặc dầu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn về
nhiều mặt, đặc biệt là điều kiện tài chính, Mặt trận Liên Việt đã chủ động và tích
cực tham gia các hội nghị quốc tế, qua đó có điều kiện tiếp xúc với đại diện nhân
dân thế giới, các tổ chức dân chủ, nhất là các đoàn thể dân chủ, hòa bình và tiến bộ
Pháp, đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới. Thông qua
những hoạt động tích cực đó, đã làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân Liên
68
Xô, Trung Quốc, nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân
ta, phản đối cuộc chiến tranh của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, ủng hộ về vật chất
và tinh thần cho nhân dân Việt Nam.
Đặc biệt, ngày 31-3-1954, Ban Thường trực Ủy ban Liên Việt toàn quốc đã
họp hội nghị mở rộng để thảo luận và quyết định: ủng hộ việc triệu tập Hội nghị
Giơnevơ để giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông
Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian
khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân ta, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập
lại hòa bình ở Đông Dương. Điện Biên Phủ trở thành điểm quy tụ mọi lực lượng
yêu nước, tiến bộ ở trong nước, quốc tế, hình thành MTDTTN có quy mô, hiệu quả
nhất trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp
Mỹ của nhân dân ta.
69
Tiểu kết chương 2
Khác với giai đoạn cách mạng trước đây, đây là giai đoạn mà chưa lúc nào
trên đất nước ta trong cùng một lúc lại có nhiều kẻ thù và các hạng tay sai với cùng
mục tiêu là bóp chết chính quyền cách mạng còn non trẻ của nhân dân ta. Trong
tình thế nguy hiểm đó, dựa trên nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc,
Đảng ta đã có sách lược sáng tạo, linh hoạt, chủ trương lập HLHQDVN bên cạnh
Mặt trận Việt Minh làm cho MTDTTN ngày càng rộng rãi, vững chắc.
Một MTDTTN với hai hình thức tổ chức do một Đảng lãnh đạo, nhưng liên
hiệp rộng rãi nhiều lực lượng, kể cả với người vô đảng, vô phái và đối lập, đó là
một nét độc đáo, sáng tạo chưa từng có trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói
chung và lịch sử MTDTTN nói riêng. Nhờ có phương pháp cách mạng và chính
sách Mặt trận khôn khéo, mềm dẻo và táo bạo, nên chúng ta đã tan mưu toan lập
Mặt trận thống nhất quốc gia của bè lũ tay sai đế quốc; vô hiệu hóa luận điệu lừa
bịp về Mặt trận công nông của bọn giả danh cách mạng; củng cố và giữ vững chính
quyền cách mạng.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã có
những bổ sung, phát triển một số nội dung mang tính lý luận về MTDTTN. Sự phát
triển tư duy lý luận về mô hình tổ chức MTDTTN thể hiện qua chủ trương, phương
hướng hợp nhất hai hình thức tổ chức Mặt trận theo quy trình củng cố Việt Minh,
phát triển Liên Việt, tiến tới thống nhất, hòa Việt Minh vào Liên Việt. Qua đó,
chúng ta đã sáng tạo ra mô hình tổ chức vừa có tính chất Mặt trận vừa có tính chất
Hội mà không cần tổ chức thành một Mặt trận đơn thuần.
Chủ trương, biện pháp thống nhất Việt Minh - Liên Việt là đúng đắn, sáng
tạo và liên tục được bổ sung, cụ thể hóa liên tục trong 4 năm (1947-1950) và đến
tháng 3-1951, chúng ta đã hoàn thành việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Đây
không chỉ là một sự kiện có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, đánh dấu sự lớn mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN, mà còn tạo cơ sở, điều kiện mới củng
cố, phát huy vai trò tổ chức Mặt trận trong thời kỳ cuộc kháng chiến chuyển sang
giai đoạn tổng phản công. Những kết quả, chuyển biến tiến bộ về xây dựng, phát
70
triển khối đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN là một nhân tố quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tuy nhiên, giữa sự phát triển của MTDTTN, phát triển chính sách, công tác
Mặt trận với việc phát huy vai trò, vị trí của hình thức tổ chức Mặt trận trên thực tế
không tránh khỏi những khuyết điểm, chẳng những không tương xứng với tầm vóc,
vị trí của Mặt trận trong sứ mệnh lịch sử cao cả, mà có lúc còn mờ nhạt dần, thậm
chí mang tính hình thức. Những vấn đề lý luận, thực tiễn có tính nguyên tắc về
MTDTTN tuy đã có sự tổng kết, phát triển, nhận thức rõ hơn, nhưng nhiều vấn đề
cụ thể về mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn
thể vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập cần được rút kinh nghiệm và bổ sung, phát
triển ở giai đoạn sau.
71
Chương 3. MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRONG
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
3.1. Bối cảnh tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam sau Hiệp định
Giơnevơ 1954
Năm 1954, sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về
chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết và có hiệu lực.
Bản Hiệp định đánh dấu thắng lợi của chín năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh
của các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Với thắng lợi đó, quân và dân ta đã bảo vệ
được thành quả của cách mạng tháng Tám trên miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Hiệp định ký chưa ráo mực, đế quốc Mỹ đã lập khối quân
sự Đông Nam Á (SEATO), ngang nhiên đặt miền Nam vào “khu vực bảo hộ” của
khối này. Trong kế hoạch chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ,
miền Nam có một vị trí địa chính trị, địa quân sự, kinh tế cực kỳ quan trọng không
chỉ đối với Mỹ mà còn đối với toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy,
chẳng bao lâu sau ngày đình chiến, Mỹ đã tìm mọi cách hất cẳng Pháp, lập nên
chính quyền phản động Ngô Đình Diệm và thông qua chính quyền đó để phá hoại
sự nghiệp cách mạng, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam.
Trước tình hình trên, ngày 5-9-1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam chỉ ra những đặc điểm mới của cách mạng Việt Nam sau năm 1954,
trong đó có đặc điểm lớn, bao trùm nhất là: đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Còn miền Nam dưới sự thống trị
của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên với âm mưu thâm
độc: tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam, thôn tính miền Nam,
chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ, lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc Việt Nam, tiền đồn của
hệ thống xã hội chủ nghĩa hòng đè bẹp, đẩy lùi và tiến tới tiêu diệt các nước xã hội
72
chủ nghĩa.
Từ đặc điểm đó, dẫn đến trong xã hội miền Bắc, mâu thuẫn chủ yếu là mâu
thuẫn giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; còn ở miền Nam,
mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn dân miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược
và tập đoàn phản động tay sai. Song mâu thuẫn bao trùm nhất là: mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Đấu tranh thống nhất
nước nhà là nguyện vọng, là yêu cầu và nhiệm vụ lịch sử của toàn thể dân tộc Việt
Nam.
Để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đó, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam lần thứ 8 (13-8-1955) đã nêu rõ: cần phải mở rộng và củng cố MTDTTN
trong toàn quốc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình từ Bắc tới
Nam, tranh thủ bất cứ người nào ta có thể tranh thủ, trung lập bất cứ người nào ta có
thể trung lập, phân hóa Mỹ, Pháp, phân hóa bọn thân Mỹ và thân Pháp, cô lập đế
quốc Mỹ và bọn thân Mỹ phản động.
Trong lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơnevơ thành công cũng như nhiều thư
gửi đồng bào cả nước và nhiều bài nói, bài viết trong thời gian này, Hồ Chí Minh đã
xác định nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta là đấu tranh để thống nhất Tổ quốc
và nhấn mạnh đến vai trò của việc củng cố, mở rộng và phát triển khối đại đoàn kết
dân tộc trên cả hai miền đất nước. Trong thư gửi đồng bào cả nước ngày 6-7-1956,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là: kiên quyết
tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, thực hiện thống nhất nước nhà trên
cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình, hoàn thành sự nghiệp vẻ vang
giải phóng dân tộc”[56, tr.463].
Trên cơ sở đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960) đã vạch ra nhiệm
vụ cụ thể cho cách mạng mỗi miền và nhiệm vụ chung cho cách mạng cả nước:
Ở miền Bắc, sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân căn bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Bắc phải trải qua giai đoạn đấu tranh đòi phía Pháp thi hành nghiêm chỉnh
Hiệp định Giơnevơ, tiếp quản vùng mới giải phóng, hoàn thành cải cách ruộng đất,
73
hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong quá trình này, Mỹ đã mở
rộng hoạt động ném bom bắn phá, nên miền Bắc phải kết hợp cả với cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại, nhằm bảo vệ miền Bắc và phối hợp với cuộc chiến đấu
giải phóng miền Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhằm xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và là hậu phương cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc.
Ở miền Nam, do vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
Đảng chủ trương tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mở đầu thời
kỳ ta đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ 1954 về
Việt Nam. Trong quá trình diễn biến, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng dân tộc chống
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, nhằm giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân hai nước Lào và
Campuchia...
Trong việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả
nước, cách mạng mỗi miền có vị trí và vai trò khác nhau. Miền Bắc là hậu phương
nên nó có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng cả
nước và sự nghiệp thống nhất đất nước. Miền Nam là tiền tuyến nên nó có vai trò
quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hậu phương và tiền tuyến, cách mạng hai
miền Bắc - Nam, do đó, có quan hệ gắn bó với nhau, phối hợp với nhau, tác động
qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Cả hai miền Nam
Bắc có nhiệm vụ chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình
thống nhất Tổ quốc để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình - thống nhất - độc lập
- dân chủ và giàu mạnh. Chính đường lối đó đã đặt ra và giải quyết một cách độc
đáo, sáng tạo yêu cầu nội dung của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN ở
mỗi miền và chung của cả nước.
3.2. Mặt trận Dân tộc thống nhất thực hiện nhiệm vụ của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước
3.2.1. Mặt trận Liên Việt hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
74
Hòa bình lặp lại, chiến tranh tuy đã chấm dứt nhưng miền Bắc vẫn gặp phải
những khó khăn chồng chất. Trước khi rút đi, địch đã vơ vét hầu hết vật tư, thiết bị;
phá hủy hoặc tháo dỡ những bộ phận quan trọng của máy móc; hủy hoại và mang
theo hồ sơ tài liệu hòng làm cho nhiều nhà máy, hãng buôn, trường học công sở
phải đóng cửa, hàng loạt công nhân viên chức bị sa thải…Không chỉ vậy, địch còn
ra sức tung tin bịa đặt, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
làm cho quần chúng hoang mang, lo lắng.
Đứng trước tình hình đó, được sự lãnh đạo kịp thời, sự động viên của các hội
viên Liên Việt, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là công nhân, viên chức đã có nhiều
đóng góp trong cuộc đấu tranh chống địch di chuyển, cướp phá tài sản ở Hà Nội,
Hải Phòng và nhiều thành phố, thị xã khác. Nhờ đó, mọi hoạt động của Hà Nội và
các thành phố, thị xã khác sớm trở lại cuộc sống bình thường. Việc cung ứng điện,
nước, đảm bảo giao thông vận tải không bị đình trệ, rối loạn. Các bệnh viện, trường
học và các công trình dịch vụ công cộng sớm được phục hồi.
Ngoài những khó khăn, phức tạp do địch gây ra, do hậu quả nặng nề của
chiến tranh và do thiên tai khắc nghiệt, nạn đói đã bắt đầu lan rộng, kéo dài cho tới
vụ chiêm năm 1955, nhất là những vùng bị nạn lụt, vùng đồng chiêm và những nơi
bị địch tàn phá nhiều. Trước tình hình khó khăn đó, Mặt trận Liên Việt và các đoàn
thể đã chủ động phối hợp với chính quyền có biện pháp cứu trợ số hộ quá khó khăn,
gia đình thương binh, liệt sỹ, tích cực vận động nhân dân tương trợ, giúp đỡ nhau
bằng nhiều hình thức cho vay, cho mượn để vượt qua nạn đói. Đồng thời, được sự
động viên của Mặt trận, một số gia đình địa chủ đã tự nguyện mở kho cứu tế người
đói.
Không chỉ đề ra các biện pháp trước mắt để giải quyết nạn đói, Mặt trận và
các đoàn thể còn vận động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tận dụng hết các
đất đai hoang hóa, ruộng đất của những gia đình vào Nam để trồng các loại cây rau
màu ngắn ngày, tăng diện tích, sản lượng vụ lúa xuân để chống nạn thiếu đói trong
những ngày giáp hạt. Nhờ những biện pháp trên mà nạn đói đã được khắc phục, góp
phần nhanh chóng ổn định tình hình xã hội, tạo được niềm tin trong nhân dân, tạo
cơ sở để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
75
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm nổi lên lúc này là chống âm mưu dụ
dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam. Để chống lại âm mưu đó, Mặt trận và các
tổ chức đoàn thể đã phối hợp với bộ đội và các ngành, các cấp tuyên truyền, giải
thích cho đồng bào hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, vạch
trần những luận điệu xảo trá của địch. Đặc biệt, ngày 1-5-1955, Ủy ban Liên Việt
toàn quốc đã ra tuyên bố phản đối và lên án đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai dụ dỗ,
cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam gây nhiều khó khăn cho đời sống và
tín ngưỡng của đồng bào Công giáo.
Mặt trận và các đoàn thể còn không ngừng động viên các lực lượng vũ trang
trong việc giữ gìn trật tự an ninh ở miền Bắc, đấu tranh với những hoạt động gây rối
ở đồng bằng…Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở những địa phương này đã
không ngừng tuyên truyền trong quần chúng, đẩy mạnh hoạt động trừ gian kết hợp
chặt chẽ với việc vận động sản xuất, cải thiện đời sống, làm cho phần lớn những cơ
sở và hàng ngàn người lầm đường lạc lối được trở về với gia đình, bản làng.
Bên cạnh việc chống lại âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào
Nam, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể còn vận động nhân dân đấu tranh đòi địch
thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, lên án tội ác của Mỹ - Diệm đối với
đồng bào miền Nam, đòi thống nhất nước nhà. Mặt trận đã tổ chức các buổi mít
tinh, thu hút đông đảo đại biểu các giới, nhân sĩ trí thức yêu nước và chức sắc tôn
giáo tiêu biểu tham gia phát biểu tố cáo những hành động vi phạm Hiệp định đình
chiến của đối phương; phản đối những vụ tàn sát, khủng bố đồng bào miền Nam và
trả thù những người đã tham gia kháng chiến; thông qua kiến nghị chống Mỹ, chống
những phần tử thực dân Pháp và tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định đình
chiến; đòi quân đội Liên hiệp Pháp nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định đình chiến.
Tháng 1-1955, Mặt trận Liên Việt và các tổ chức đoàn thể đã phối hợp hành
động nhằm động viên nhân dân hưởng ứng cuộc vận động lập lại quan hệ bình
thường Bắc - Nam, ra tuyên bố, hiệu triệu và được các tầng lớp nhân dân hưởng
ứng bằng nhiều hình thức như mít tinh, biểu tình và gửi thư qua Ủy ban Giám sát
quốc tế đến nhân dân miền Nam. Nhằm hưởng ứng chủ trương của Trung ương
Đảng về đấu tranh đòi đối phương phải mở hội nghị hiệp thương giữa hai miền
76
Nam - Bắc, ngày 7-6-1955, Ủy ban Liên Việt toàn quốc ra tuyên bố hoan nghênh và
sẵn sàng chấp nhận mọi sự tiếp xúc để thực hiện hội nghị hiệp thương giữa hai miền
Nam - Bắc.
Bất chấp nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta và sự phản đối
của dư luận quốc tế, đầu tháng 7-1955, Ngô Đình Diệm đã ra tuyên bố không công
nhận Hiệp định Giơnevơ, không tổ chức tổng tuyển cử; tiến hành chiến dịch chống
Hiệp định Giơnevơ; thực hiện chiến dịch tố cộng, diệt cộng để tàn sát, trả thù những
người kháng chiến. Trước tình hình đó, ngay từ ngày 5-7-1955, Mặt trận Liên Việt
đã tổ chức Hội nghị liên tịch để thảo luận, đề ra những nhiệm vụ tiếp tục động viên
các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh đòi thực hiện các điều khoản của Hiệp
định Giơnevơ. Tiếp đó, ngày 18-7-1955, Ủy ban Liên Việt toàn quốc họp phiên bất
thường để thành lập Ban Vận động thực hiện thống nhất nước nhà của Mặt trận với
ba nhiệm vụ cụ thể là: tham gia ý kiến, phản ánh, đề bạt ý kiến của dân với Chính
phủ và vận động nhân dân làm hậu thuẫn cho Chính phủ. Đặc biệt, nhân dịp kỷ
niệm 1 năm ngày ký Hiệp định Giơnevơ, ngày 21-7-1955, Ủy ban Liên Việt ra
tuyên bố tố cáo luận điệu giả dối của nhà cầm quyền miền Nam, đòi nhà cầm quyền
miền Nam cử đại biểu hiệp thương, thực hiện tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
Như vậy, ra đời từ năm 1951, với những đóng góp quan trọng đưa đến thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đến đây Mặt trận
Liên Việt đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
3.2.2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà (1955
- 1975)
Miền Bắc tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện vừa khôi
phục, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, phải chịu sự tác động trực tiếp của hai mươi
năm chiến tranh vô cùng ác liệt, đòi hỏi toàn dân đoàn kết một lòng, cống hiến hết
sức mình cả về tinh thần và vật chất đóng góp vào sự nghiệp chung. Hơn nữa, Mặt
trận Liên Việt lúc này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử đoàn kết toàn dân kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, nhiệm vụ chung của cả nước và của mỗi miền đã
thay đổi, vì vậy, cần phải có Mặt trận mới thích hợp, thu hút tất cả mọi tổ chức và
77
cá nhân yêu nước, nhất là những người ở vùng mới giải phóng. Đó là những yêu
cầu khách quan đòi hỏi tiếp tục phải tăng cường củng cố và mở rộng MTDTTN.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc củng cố và mở rộng MTDTTN trong
giai đoạn cách mạng mới, tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết vạch rõ phương
hướng mở rộng Mặt trận lúc này là: củng cố sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền,
quân đội; ra sức tranh thủ sự ủng hộ của công nhân, nông dân, trí thức cách mạng;
không ngừng tranh thủ mọi lực lượng có thể hợp tác để thực hiện một MTDTTN
rộng rãi. Chiến tranh kết thúc, nhưng Mặt trận không thể co hẹp lại mà cần phải mở
rộng hơn nữa, nhất là phải kêu gọi sự hợp tác, ủng hộ của các phần tử trí thức, của
giai cấp tư sản, cùng các nhân sĩ dân chủ và thân sĩ yêu nước.
Quán triệt phương hướng về mở rộng MTDTTN trong giai đoạn cách mạng
mới, từ ngày 7 đến ngày 11-1-1955, Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc
đã họp tại Hà Nội. Hội nghị đã tổng kết những vấn đề về tổ chức hoạt động của Mặt
trận Liên Việt từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II và rút ra 5 nguyên tắc lớn
trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận, đó là: thương lượng; dân chủ; thống nhất
hành động; tôn trọng tính độc lập của tổ chức; thân ái hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. Bên cạnh đó, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết “Mở rộng và củng cố
MTDTTN”. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: “Những nghị quyết ấy thể
hiện chính sách căn bản của Đảng về MTDTTN hiện nay”[26; tr.20].
Trong Hội nghị trung ương lần thứ bảy (3/1955), Đảng ta đã nhận định: đế
quốc Mỹ đang trực tiếp can thiệp vào Việt Nam ngày càng sâu, phá hoại kết quả của
hiệp định đình chiến, phá hoại thống nhất của Việt Nam, chuẩn bị gây lại chiến
tranh Đông Dương. Do vậy, cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập và
dân chủ của nhân dân ta là lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Để đạt được
mục đích của cuộc đấu tranh, ta phải mở rộng và củng cố MTDTTN trong cả nước,
phải đoàn kết với bất cứ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào
có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập được, cốt nhằm
phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng, đồng thời tìm kiếm thêm nhiều bạn, cả
trong nước lẫn ngoài nước.
78
Tháng 8-1955, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ tám và ra nghị quyết
chỉ rõ cuộc đấu tranh để thống nhất nước nhà là một cuộc đấu tranh rất gian khổ và
phức tạp. Muốn giành thắng lợi, cần phải mở rộng và củng cố MTDTTN trong toàn
quốc, tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình từ Bắc đến Nam, tranh
thủ bất cứ người nào ta có thể tranh thủ, trung lập bất cứ người nào ta có thể trung
lập. Trên cơ sở chủ trương lập MTDTTN, Hội nghị thông qua bản Dự thảo Cương
lĩnh chung của Mặt trận. Hội nghị nêu rõ: “sau khi bản Dự thảo ấy chính thức thành
Cương lĩnh chung của Mặt trận, nó sẽ là cơ sở tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân
chủ và hòa bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của
chúng, giành thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [26, tr.574]. Bản dự thảo Cương lĩnh được
thông qua đánh dấu bước trưởng thành giữa tư duy lý luận và thực tiễn đối với mối
quan hệ giữa nhiệm vụ cách mạng hai miền làm cơ sở xác định chủ trương, chính
sách và mô hình tổ chức, hoạt động của Mặt trận trong giai đoạn cách mạng mới.
Thực hiện chủ trương trên của Đảng, Đại hội MTDTTN Việt Nam đã họp (từ
5-10/9/1955) tại Hà Nội. Tham dự Đại hội có 361 đại biểu, đại diện cho các chính
đảng, các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và
quân đội cùng nhiều anh hùng, chiến sĩ thi đua, nhân sĩ, tư sản và một số kiều bào ở
Thái Lan, Lào, Miên, Trung Quốc, Pháp. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Hoàng
Quốc Việt đã trình bày bản Dự thảo Cương lĩnh và Điều lệ mới của Mặt trận. Đồng
chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt tuyên bố thành lập MTTQVN và
nhấn mạnh Mặt trận Liên Việt đã làm tròn nhiệm vụ và từ nay sẽ hòa mình trong
MTTQVN. Đại hội bầu ra Ủy ban Trung ương MTTQVN gồm 81 vị thuộc đủ các
chính đảng, đoàn thể nhân dân, tôn giáo, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy
tôn là Chủ tịch danh dự; đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Chủ tịch Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN.
Đại hội nhất trí thông qua bản Cương lĩnh gồm 10 điểm đề cập đến quyền lợi
của các tầng lớp nhân dân: hoàn thành độc lập dân tộc; thực hiện thống nhất đất
nước; xây dựng chế độ dân chủ; phát triển kinh tế, nâng cao sản xuất; cải cách
ruộng đất; thi hành chính sách xã hội hợp lý; phát triển văn hóa, giáo dục; củng cố
79
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; thi hành chính sách ngoại giao hòa bình độc lập; nhân
dân toàn quốc đại đoàn kết.
Trong Tuyên ngôn, MTTQVN xác định: đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ và
nguy hiểm nhất của toàn dân Việt Nam. Từ đó, Mặt trận đề ra ba nhiệm vụ là: đấu
tranh thi hành triệt để Hiệp định Giơnevơ, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất;
ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt, giữ vững và phát triển phong trào yêu nước ở
miền Nam; ra sức mở rộng MTDTTN trong toàn quốc, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, bản
Tuyên ngôn của Mặt trận tha thiết kêu gọi các tầng lớp nhân dân, kêu gọi mọi người
Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, không phân biệt dân tộc, thành phần xã
hội, khuynh hướng chính trị và tín ngưỡng tôn giáo; không phân biệt trước đây đã
đứng về phe nào nhưng ngày nay tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
hãy siết chặt hàng ngũ trong Mặt trận để cùng nhau thực hiện bản Cương lĩnh của
Mặt trận.
Sự ra đời của MTTQVN trong hoàn cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt làm
hai miền là một sự kiện chính trị trọng đại và là một thắng lợi lịch sử của nhân dân
cả nước. Mặt trận Tổ quốc trở thành ngọn cờ công khai để đoàn kết tập hợp nhân
dân cả nước và nhân dân tiến bộ thế giới, chĩa mũi nhọn, cô lập đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai. Với tinh thần đó, sau một thời gian ngắn, hơn 30 đảng phái chính trị,
đoàn thể và nhiều tổ chức, cá nhân đã gia nhập Mặt trận.
Về hệ thống tổ chức của MTTQVN: từ cấp Trung ương đến cấp huyện, thị
trấn, quận (của một thành phố), cấp nào có Ủy ban Mặt trận của cấp ấy. Ở xí
nghiệp, xã, cơ quan, công sở, trường học, doanh trại, đường phố thì không cử ra Ủy
ban Mặt trận. [72, tr.618-619].
Sau khi ra đời, MTTQVN trở thành tổ chức rộng lớn và có những đóng góp
quan trọng trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh thống nhất nước nhà. Để có cái nhìn hệ thống và cụ
thể về quá trình hoạt động cũng như những đóng góp của MTTQVN trong giai đoạn
này, luận văn sẽ trình bày theo từng giai đoạn gắn với việc thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể của Mặt trận.
80
Thứ nhất, trong giai đoạn từ 1955 đến 1960: MTTQVN đã đoàn kết toàn
dân khôi phục, phát triển kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất, bước đầu xây dựng cơ sở
vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh đòi thống nhất nước nhà.
Những đóng góp to lớn đó của Mặt trận được thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây:
Trên lĩnh vực kinh tế, ngay từ cuối năm 1955, thực hiện ba nhiệm vụ công
tác chính do Đại hội MTTQVN đề ra, Mặt trận các cấp đã phối hợp với chính quyền
và các tổ chức, đoàn thể đẩy mạnh vận động nhân dân đóng thuế nông nghiệp vụ
đông nhằm bảo đảm thu đúng chính sách, đúng mức thuế phải đóng, đúng hạn, kết
hợp vận động sản xuất vụ chiêm xuân, thực hiện chính sách giá cả và Sắc lệnh bảo
vệ sản xuất, trừng trị bọn phá hoại. Mặt khác, Mặt trận các cấp còn tăng cường củng
cố đoàn kết ở nông thôn, coi đó là sức mạnh để thúc đẩy sản xuất, phù hợp với từng
vùng, từng đối tượng. Được sự cổ vũ, động viên của Mặt trận, các tầng lớp nhân
dân đã phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái giúp nhau vượt qua nạn
đói, phát triển các hình thức vần công, đổi công để khai hoang, phục hóa, làm thủy
lợi, giúp vốn, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Trong hai năm 1959 và năm 1960,
Mặt trận và các đoàn thể còn thường xuyên phối hợp với chính quyền động viên
nhân dân tích cực thực hiện chính sách thu mua, huy động lương thực. Ở một số địa
phương miền núi, Mặt trận còn vận động nhân dân bỏ trồng cây thuốc phiện chuyển
sang trồng hoa màu, lương thực, trồng cây gây rừng…Đặc biệt, Mặt trận đã có vai
trò hết sức quan trọng trong công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, góp phần xóa
bỏ giai cấp phong kiến, mang lại ruộng đất và đưa nông dân lên địa vị làm chủ với
những biện pháp như: mở rộng diện trưng thu, trưng mua, phân hóa giai cấp địa
chủ, chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách thích đáng. Tuy nhiên, do nhận thức
không đầy đủ giữa đấu tranh giai cấp và đoàn kết dân tộc, cuộc cải cách ruộng đất
kết hợp với chỉnh đốn tổ chức đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, gây tổn
thất lớn đến mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, ảnh hưởng xấu đến khối đại
đoàn kết dân tộc. Mục tiêu, yêu cầu của cuộc vận động là củng cố, mở rộng Mặt
trận chống phong kiến ở nông thôn, nhưng do những sai lầm đã làm cho khối liên
minh công nông và MTDTTN bị ảnh hưởng xấu. Trong lịch sử chưa bao giờ Mặt
81
trận gặp tổn thất nặng nề như thời kỳ này. Gần như toàn bộ tổ chức Mặt trận và các
đoàn thể từ cấp tỉnh, huyện, xã đã bị vô hiệu hóa, thậm chí bị giải thể.
Đảng, Nhà nước đã nghiêm túc tự phê bình, kịp thời đề ra những biện pháp
sữa chữa sai lầm. Cuộc đấu tranh phê bình ấy giúp củng cố khối đoàn kết trong Mặt
trận, làm cho các tổ chức, các giới thống nhất với nhau trong quá trình thực hiện các
nhiệm vụ của cách mạng. Các phái đoàn của Mặt trận từ cấp trung ương đến khu,
tỉnh, huyện đã đóng góp tích cực vào công tác sửa sai, vận động hội viên thi đua
thực hiện kế hoạch của Nhà nước, góp phần khôi phục được sự đoàn kết và nhanh
chóng ổn định tình hình xã hội.
Bên cạnh đó, Mặt trận đã tích cực tham gia phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp, đưa nông dân cá thể vào con đường làm ăn tập thể, tạo cơ sở mới đoàn kết
nông dân, củng cố khối liên minh công nông. Trong phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp, bần nông và trung nông lớp dưới hăng hái hưởng ứng. Từ cuối năm 1958,
phong trào thành lập hợp tác xã bắt đầu. Sang năm 1959, khắp nơi trong nông thôn
được tổ chức những cuộc trao đổi rộng rãi về hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa trong nông nghiệp để nâng cao giác ngộ chính trị cho nông dân.
Phong trào hợp tác hóa phát triển mạnh, đến cuối năm 1960 trên 85% nông hộ đã đi
vào hợp tác xã sản xuất.
Chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận tiếp tục đoàn kết với giai
cấp tư sản dân tộc, tiến hành cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và
giành được những thắng lợi cơ bản. Mặt trận cùng với Hội công thương tổ chức
những lớp học, mở nhiều cuộc tọa đàm để giúp các nhà tư sản nhận thức được tính
chất nhân đạo, hợp tình, hợp lý của chính sách cải tạo. Mặt trận và các đoàn thể đã
lắng nghe, tìm hiểu hoàn cảnh, nguyện vọng của gia đình, con cái họ để có kiến
nghị cụ thể về bố trí, sắp xếp việc làm, ổn định đời sống, học hành giúp họ yên tâm
cải tạo. Mặt trận cùng các đoàn thể đã tham gia giải quyết những khó khăn, vướng
mắc để thợ thủ công và người buôn bán nhỏ yên tâm sản xuất. Phát huy cao độ vai
trò của Mặt trận và các đoàn thể, tính đến tháng 9 năm 1960, 100% số cơ sở công
nghiệp tư bản tư doanh đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí
nghiệp hợp tác với gần 1 vạn công nhân; gần 90% tổng số thợ thủ công trong diện
82
cải tạo đã tham gia hợp tác xã thủ công nghiệp bậc vừa và thấp; hơn 7 vạn thợ thủ
công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Đến cuối năm 1960, trên 60% những
người buôn bán nhỏ đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho thương
nghiệp quốc doanh, trên 1 vạn người đã chuyển sang sản xuất.
Trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, Mặt trận cũng đã có những đóng
góp quan trọng. Ban thanh toán nạn mù chữ do Chủ tịch Mặt trận Tôn Đức Thắng
đứng đầu đã phát động nhiều chiến dịch “tổng tiến công diệt dốt”, “Điện Biên Phủ
diệt dốt”, được đông đảo nhân dân hưởng ứng, có nhiều sáng kiến kết hợp đẩy
mạnh sản xuất với xóa bỏ nạn mù chữ. Do vậy, đã có hơn 1 triệu người thoát nạn
mù chữ. Năm học 1956-1957, miền Bắc có 606.000 học sinh vỡ lòng, gần 1 triệu
học sinh phổ thông, 7.783 học sinh trung học chuyên nghiệp, 3.664 học sinh đại
học. Năm 1957, ở miền Bắc đã có 55 bệnh viện, 362 nhà hộ sinh, 13 viện điều
dưỡng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, phần lớn những
người thất nghiệp do chế độ cũ để lại được sắp xếp việc làm.
Trên lĩnh vực xây dựng và củng cố chính quyền từ Trung ương đến cơ sở
trong giai đoạn mới, Mặt trận cùng các đoàn thể, tổ chức thành viên cũng tỏ rõ vai
trò, vị trí của mình trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các
cấp vào dịp đầu năm 1959. MTTQVN là chỗ dựa của chính quyền, tiêu biểu cho
khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở khối liên minh công nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo. Điều đó được thể hiện, trong bộ máy nhà nước, từ cơ quan dân cử
đến cơ quan hành chính các cấp đều thể hiện tính chất Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong số 1.314 đại biểu hội đồng nhân dân của 19 tỉnh miền xuôi bầu năm 1959 có
27 trí thức, 4 nhân sĩ, 10 linh mục, 12 hòa thượng, 4 tư sản. Trong số đại biểu Quốc
hội khóa II, có 2 nhà tư sản, 2 linh mục, 3 hòa thượng.
Mặt trận Tổ quốc đã tăng cường khối đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, phối
hợp với các cơ quan chính quyền thi hành chính sách dân tộc, tạo điều kiện cho các
dân tộc thiểu số mở mang kinh tế, văn hóa, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ. Bên cạnh đó, dựa vào quần chúng, phát huy vai trò của các nhà
tu hành có uy tín, Mặt trận đã góp phần ngăn chặn hoạt động của bọn phản động
83
gây chia rẽ lương giáo và chống phá cách mạng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để
đồng bào có đạo đoàn kết xây dựng cuộc sống ngày một tốt đẹp.
Về công tác xây dựng pháp luật, Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể đã tích
cực tham gia xây dựng chính sách mà nổi bật là việc tham gia xây dựng Luật Nghĩa
vụ quân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, đặc biệt là Hiến pháp sửa đổi. Trong quá
trình góp ý sửa đổi Hiến pháp và xây dựng pháp luật, Mặt trận và các tổ chức, đoàn
thể đã động viên nhân dân, đặc biệt là các nhân sĩ, trí thức, mạnh dạn phát biểu
tranh luận. Ngày 25-4-1959, Ban Thư ký của Ủy ban Trung ương MTTQVN đã ra
thông tri hướng dẫn các cấp Mặt trận thực hiện Lời kêu gọi của MTTQVN đối với
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các vị nhân sĩ, trí thức và kiều bào ở nước ngoài
tích cực tham gia, góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Trong cuộc đấu tranh đòi hòa bình, thống nhất nước nhà. Song song với
nhiệm vụ xây dựng và củng cố miền Bắc, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã tham
gia nhiều hoạt động cụ thể nhằm đấu tranh chống lại những hành động khiêu khích
của địch ở vùng giới tuyến quân sự tạm thời; phá tan âm mưu cưỡng ép đồng bào ta
di cư vào Nam của bọn phản động. Ngày 21-12-1955, Hội nghị mở rộng Ban Thư
ký Ủy ban Trung ương MTQTVN đã ra tuyên bố kịch liệt lên án Mỹ - Diệm tổ chức
tuyển cử bầu quốc hội riêng rẽ ở miền Nam, kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết
hơn nữa, hưởng ứng mạnh mẽ Cương lĩnh của Mặt trận, đấu tranh đòi hiệp thương
tổng tuyển cử tự do thống nhất nước nhà…
Trong năm 1957, Mặt trận đã tuyên truyền, động viên ý chí đoàn kết, đấu
tranh cho sự nghiệp thống nhất; đặc biệt cuộc vận động chống âm mưu “đặt cộng
sản ra ngoài vòng pháp luật” của chính quyền Ngô Đình Diệm. Mặt trận đã phối
hợp với Ban Thống nhất giúp đỡ thành lập Ban Quan hệ thư tín, góp phần làm tăng
số bưu thiếp trao đổi giữa hai miền hơn nhiều lần so với năm 1956. Nhiều nơi đồng
bào công giáo đã hưởng ứng, chuyển vào Nam hàng ngàn lá thư, nói lên tình cảm và
nguyện vọng tha thiết thống nhất đất nước.
Trong năm 1958, Mặt trận đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác
đấu tranh thống nhất đất nước. Sau bức công hàm của Chính phủ (ngày 7-3-1958)
gửi chính quyền miền Nam, Ủy ban Trung ương MTQTVN đã ra tuyên bố vạch trần
84
âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam và yêu cầu hai miền cử đại biểu
tiếp xúc trao đổi buôn bán, tạo điều kiện đi tới hiệp thương tổng tuyển cử. Trong dịp
đấu tranh chống Mỹ nhân ngày 20-7-1958, Mặt trận Tổ quốc lên án chính sách của
Mỹ - Diệm ở miền Nam, nêu cao quyết tâm của Chính phủ và nhân dân ta, bảo vệ
Hiệp định Giơnevơ, đề nghị hai miền gặp gỡ bàn bạc theo công hàm ngày 7-3-1958
và Tuyên bố của Chính phủ ngày 8-5-1958. Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể thành
viên còn chủ trì, phối hợp đợt đấu tranh sôi nổi, mạnh mẽ trên toàn miền Bắc kéo
dài liên tục từ tháng 7-1959 đến tháng 7-1960 để phản đối Mỹ - Diệm thi hành luật
phát xít tàn sát đồng bào miền Nam, trả thù những người kháng chiến và cố tình phá
hoại Hiệp định Giơnevơ, chia cắt lâu dài đất nước ta.
Sự ra đời và hoạt động của MTQTVN nhằm thực hiện Cương lĩnh đại đoàn
kết, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong nhân dân miền Bắc để thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng (9-1960), đã phân tích những biến đổi sâu sắc trong xã hội, biểu
dương những thắng lợi của sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân và khẳng định vai trò
của Mặt trận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, các đảng phái,
các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ
đó đã động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”[27, tr.611].
Thứ hai, trong giai đoạn từ 1960 đến 1968: MTTQVN đã có những đóng
góp quan trọng đối với việc xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và ra sức
chi viện cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của đồng bào miền Nam.
Sau khi tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhu cầu khách quan về
tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và MTDTTN chẳng những không
giảm đi mà còn tăng lên. Cương lĩnh MTTQVN năm 1955 đã xác định MTTQVN là
mặt trận chung của cả nước. Qua 5 năm, cách mạng miền Nam đã phát triển, thực tế
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đặt ra yêu cầu cần có hình thức tổ chức mặt
trận mới thích hợp và MTDTGPMNVN đã ra đời vào ngày 20-12-1960. Trong bối
cảnh mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra xung quanh các vấn đề: tính chất,
85
đối tượng, vai trò, vị trí và nhiệm vụ cụ thể của Mặt trận trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, miền
Bắc đã bộc lộ rõ mâu thuẫn gay gắt giữa yêu cầu phải đẩy mạnh công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa với tình trạng quan hệ sản xuất mới vừa được thiết lập, chưa được
củng cố, với việc cải thiện đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng. Trong khi đó,
về quan hệ quốc tế, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa nhìn chung
đều nhất trí, ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhưng nội bộ còn có bất đồng về quan điểm nên gây không ít khó
khăn trong việc hình thành mặt trận đoàn kết quốc tế, kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ
cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất nước nhà.
Xuất phát từ tình hình trên, MTDTTN chẳng những không bị thu hẹp mà còn
cần được củng cố và mở rộng hơn nữa. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II MTTQVN đã được tiến hành từ ngày 25 đến ngày 29-4-1961 tại Hà Nội với
496 đại biểu các chính đảng, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, quân đội, mặt trận địa
phương, đồng bào miền Nam tập kết, các nhân sĩ tiến bộ và kiều bào mới về nước.
Đại hội hoàn toàn nhất trí với đường lối, phương châm do Đại hội toàn quốc lần thứ
III của Đảng Lao động Việt Nam đề ra.
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, Đại hội đã thảo
luận và thông qua nghị quyết thể hiện quyết tâm của toàn dân ta xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Về phương
hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới, nghị quyết nêu rõ một số điểm chính sau: tích
cực đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân trong cả nước; củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến nhanh, mạnh,
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; tăng cường đoàn kết quốc tế, đấu tranh góp phần
củng cố và bảo vệ hòa bình thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân đã đoàn kết chặt chẽ trong MTTQVN,
ra sức khắc phục những khó khăn, đẩy mạnh các phong trào thi đua xã hội chủ
nghĩa và đã giành được thắng lợi to lớn trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-
1965).
86
Trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Mặt trận đã phối hợp với
các ngành, các cấp chính quyền và các tổ chức, đoàn thể, triển khai nhiều hoạt động
hướng vào phục vụ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, tham gia giải quyết việc
làm, các vấn đề ăn, mặc, ở, học hành và góp phần đẩy mạnh công tác giáo dục văn
hóa, y tế đi đôi với tích cực vận động nhân dân xóa bỏ mê tín và những hủ tục lạc
hậu, ra sức thực hiện cuộc vận động nếp sống mới. Mặt trận phát động và tổ chức
nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động cách mạng nhằm nâng cao ý thức
trách nhiệm chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, đoàn kết nhất trí của các tầng
lớp nhân dân đã được thể hiện đậm nét qua các phong trào thi đua yêu nước, điển
hình như: Hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong, Nhà máy cơ khí Duyên Hải, Hợp tác
xã thủ công nghiệp Thành Công, Trường phổ thông cấp II Bắc Lý, phong trào “Ba
nhất” trong các lực lượng vũ trang, phong trào “Phụ nữ năm tốt”, phong trào
“Thanh niên ba sẵn sàng”…
Mặt trận và các đoàn thể cũng phối hợp triển khai cuộc vận động hợp tác hóa
nông nghiệp kết hợp với hoàn thành cải cách dân chủ ở miền núi và tích cực tham
gia vào việc phát triển, củng cố, hoàn thiện hợp tác hóa nghề cá ở vùng biển; củng
cố và nhân rộng hợp tác xã tín dụng ở miền xuôi, miền núi và hợp tác xã mua bán
trên tất cả các vùng, miền để hoàn thiện công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp một
cách toàn diện. Ngoài ra, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể tiếp tục giúp đỡ các nhà
tư sản đã tiếp thu cải tạo thật sự trở thành những người lao động và chấp hành tốt
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, nêu
gương người tốt việc tốt, Mặt trận còn đi sâu vận động thuyết phục, đấu tranh, giáo
dục những người lạc hậu. Đồng thời, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể thành viên đã
có những đóng góp tích cực trong các lĩnh vực khác như: đẩy mạnh công tác văn
hóa quần chúng; đấu tranh chống bọn phản cách mạng và gián điệp biệt kích của
Mỹ - ngụy, cải tạo tại chỗ những phần tử xấu, giữ gìn trật tự trị an, xây dựng lực
lượng dân quân, tự vệ; vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm, hoàn thành nghĩa vụ
quân sự và tăng cường quản lý lương thực, ổn định giá cả thị trường…
87
Song song với việc động viên nhân dân thực hiện kế hoạch 5 năm, Mặt trận
còn vận động các tầng lớp nhân dân miền Bắc ủng hộ miền Nam đấu tranh thống
nhất nước nhà. Các tổ chức đảng phái, đoàn thể đã có nhiều hình thức huy động
quần chúng tham gia mít tinh, biểu tình, hội thảo, lấy chữ ký, đưa đơn kiến nghị tố
cáo âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ trước dư luận trong nước và quốc tế, kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
Để bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của nhân dân miền Bắc với đồng bào miền
Nam trong nạn lũ lụt, ngày 13-11-1961, Ủy ban Trung ương MTTQVN ra tuyên bố
đòi chính quyền miền Nam phải chấm dứt các cuộc càn quét, tổ chức cứu giúp đồng
bào bị lũ lụt; kêu gọi các tổ chức nhân quyền quốc tế hãy can thiệp để chính quyền
miền Nam tiếp nhận gạo, vải, thuốc men của tổ chức Hồng thập tự (Chữ thập đỏ)
của nước VNDCCH gửi giúp nạn nhân bị lũ lụt ở miền Nam. Ngày 20-7-1962, ngay
sau khi Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN công bố “Bốn chủ trương cứu nước
khẩn cấp”, Ủy ban Trung ương MTTQVN cùng các chính đảng, đoàn thể ở miền
Bắc đã lên tiếng hưởng ứng.
Để thắt chặt tình đoàn kết giữa nhân dân hai miền Nam - Bắc trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một sự kiện quan trọng đã diễn ra để lại tình cảm
sâu đậm và đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự phối hợp đấu tranh giữa hai tổ
chức Mặt trận của hai miền, đó là chuyến viếng thăm chính thức miền Bắc của
Đoàn đại biểu MTDTGPMNVN vào ngày 19-10-1962. Các tầng lớp nhân dân miền
Bắc đã đón tiếp Đoàn bằng tình cảm sâu nặng với nhiều hoạt động thiết thực. Cuộc
hội đàm và tuyên bố chung giữa hai đoàn đại biểu Mặt trận hai miền đã khẳng định
tình đoàn kết chiến đáu vì mục tiêu chung đã đề ra trong Cương lĩnh của MTTQVN
và Cương lĩnh MTDTGPMNVN. Không những vậy, Mặt trận còn động viên nhân
dân miền Bắc ra sức thi đua sản xuất để chi viện sức người, sức của cho cách mạng
miền Nam. Tính từ năm 1960 đến năm 1963, hơn 4 vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội ở
miền Bắc được điều động vào miền Nam đánh giặc, chiếm trên 50% lực lượng quân
sự tập trung ở miền Nam. Hơn 165.000 khẩu súng các loại và hàng ngàn tấn phương
tiện khác được vận chuyển vào Nam…Con đường Hồ Chí Minh không ngừng được
mở rộng. Tính đến cuối năm 1964, lực lượng vũ trang tập trung ở miền Nam đã lên
88
tới 150.000 người, du kích tự vệ có khoảng 30 vạn người. Tháng 11-1964, Chủ tịch
Nguyễn Hữu Thọ đã đánh giá: “Đó là sự hỗ trợ vô giá, xuất phát từ tình cảm ruột
thịt của người cùng một nước và xuất phát từ nhiệm vụ chung của nhân dân hai
miền”[35, tr.424].
Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ ngoan cố và liều lĩnh thực hiện chiến lược
“chiến tranh cục bộ” để xâm lược miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá
hoại ở miền Bắc - bởi chúng nhận thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả
nước, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến cứu nước ở miền Nam. Với âm mưu
đó, đế quốc Mỹ đã dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ ra lệnh cho không
quân Mỹ ném bom bắn phá một số nơi trên miền Bắc, như: sông Gianh, Vinh - Bến
Thủy, Lạch Trường, thị xã Hồng Gai…vào ngày 5-8-1954. Đặc biệt, ngày 13-2-
1965, Giônxơn quyết định mở rộng các hoạt động đánh phá thành cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc, với những mục tiêu: phá tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn nguồn chi viện từ bên
ngoài cho miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay
ý chí chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước. Mỹ huênh hoang
cho rằng, với lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tối
tân thuộc 50 loại khác nhau, kể cả những loại mới nhất như B52, F111 và một khối
lượng bom đạn khổng lồ thì chỉ trong vòng 6 tháng, chúng sẽ đưa miền Bắc trở lại
“thời kỳ đồ đá”.
Trước tình hình căng thẳng đó, Đảng ta đã nhận định: đế quốc Mỹ là tên cầm
đầu phe đế quốc. Nếu lần này chúng bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược ở
miền Nam Việt Nam thì đấy sẽ là một thất bại lớn, mang theo những hậu quả hết
sức tai hại cho cả Mỹ và phe đế quốc. Vì vậy, chúng không chịu thất bại một cách
dễ dàng, trái lại chúng rất ngoan cố. Tình hình mới đó đặt ra cho “chúng ta phải
động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, tiến tới thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà”[34, tr.634].
89
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử nặng nề và vẻ vang đó, Đảng ta xác định:
“củng cố và mở rộng hơn nữa MTDTTN chống Mỹ, cứu nước trên cơ sở liên minh
công nông, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể
tranh thủ, tập trung mũi nhọn chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” [34, tr.635]. Đối
với miền Bắc: cách mạng có nhiệm vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ, đồng thời phối hợp với cuộc chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” ở miền
Nam; vừa ra sức chiến đấu vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
chiến tranh và làm nghĩa vụ hậu phương lớn.
Để thực hiện nhiệm vụ mới, Đảng thực hiện nhiều chủ trương và biện pháp
nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc với tinh thần: chống
lại những hành động phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ là nhiệm vụ của
các lực lượng phòng không, không quân, hải quân ta với vũ khí, phương tiện chiến
tranh hiện đại và của cả lực lượng dân quân du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân,
bất cứ già trẻ, gái trai, với vũ khí thông thường, hễ địch đến là đánh. Ai không trực
tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu, khi bình thường thì toàn dân sản xuất. Với sự
quyết tâm cao độ đó, MTTQVN đã góp phần xây dựng miền Bắc vững mạnh và
đánh bại cuộc tấn công phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ.
Ngay sau khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc và sau
chiến thắng của quân dân Nam Ngạn (Hàm Rồng - Thanh Hóa), Ủy ban Trung ương
MTTQVN kêu gọi toàn dân phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn
kết triệu người như một kiên quyết bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hết lòng ủng
hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam.
Sang năm 1966, Mỹ mở rộng phạm vi đánh phá các đường giao thông quan
trọng, các cơ sở công nghiệp, các công trình thủy lợi lớn, những vùng đông dân cư
và tăng cường bao vây, phong tỏa vùng biển hòng làm lung lay quyết tâm của ta,
ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Để đối phó với cuộc chiến
tranh phá hoại ngày càng ác liệt, Mặt trận và các đoàn thể phối chặt chẽ với chính
quyền và các lực lượng vũ trang tổ chức cho nhân dân sơ tán triệt để người già, trẻ
em, người không trực tiếp sản xuất và di dời, phân tán kho tàng dọc đường giao
90
thông…Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận, công tác sơ tán đã được tiến hành
khẩn trương với một khối lượng công việc cực kỳ to lớn. Nhờ đó, sang năm 1967,
mặc dù địch tăng cường, mở rộng chiến tranh phá hoại đánh phá miền Bắc ác liệt
hơn, nhưng nhân dân miền Bắc vẫn vững vàng, những thiếu sót trong công tác
phòng không sơ tán được khắc phục, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại về
tính mạng, tài sản của nhân dân.
Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể được phát huy rõ nét, đặc biệt ở địa
phương, cơ sở trong việc tổ chức, tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phối hợp,
hỗ trợ dân quân, tự vệ và bộ đội, tham gia đánh trả máy bay địch, tạo nên mạng lưới
phòng không dày đặc. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại đã huy động
được mọi đơn vị, cá nhân thuộc các tầng lớp, thế hệ: thanh niên, phụ nữ, phụ lão,
công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên tham gia; đã trực tiếp chiến đấu, bắt sống
giặc lái Mỹ. Sau 4 năm tiến hành đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân, hải
quân, đế quốc Mỹ đã buộc phải chấm dứt không điều kiện cuộc chiến tranh phá
hoại.
Thực hiện nghĩa vụ hậu phương đối với miền Nam, Mặt trận đã đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong việc huy động việc đóng góp sức người, sức của cho cách
mạng miền Nam, thực hiện tốt nghĩa vụ hậu phương lớn “thóc không thiếu một cân,
quân không thiếu một người”. Chỉ trong vòng 4 năm (1965-1968), dưới sự huy
động của Mặt trận, miền Bắc đã đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội tham
gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu cùng với hàng chục vạn tấn vật chất và nhiều vật
dụng khác. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào miền Nam trong
vòng 4 năm này đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Nguồn lực chi viện trên
cùng với thắng lợi giành được trong chiến đấu và sản xuất của quân dân miền Bắc
đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền Nam, buộc chúng phải phi
Mỹ hóa chiến tranh, chấp nhận sự thất bại trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”.
Trước những thắng lợi to lớn đã giành được, ngày 3-11-1968, Hội nghị bất
thường Ủy ban Trung ương MTTQVN đã ra tuyên bố biểu dương thành tích của
quân dân ta, kêu gọi đồng bào hai miền thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ nâng cao
91
tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc và tiến tới thống nhất nước nhà.
Thứ ba, trong giai đoạn 1969 - 1975: MTTQVN đã động viên nhân dân
miền Bắc khôi phục, phát triển kinh tế; đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai
của đế quốc Mỹ; làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến, tiến lên giành
thắng lợi quyết định.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân cả nước bước
vào thời kỳ gay go, quyết liệt nhất, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.
Trước sự kiện vô cùng đau buồn và mất mát to lớn này, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Chính phủ và MTTQVN ra thông cáo đặc biệt kêu gọi cán bộ, đảng viên,
chiến sỹ và đồng bào cả nước, kiều bào ở nước ngoài hãy biến đau thương thành
hành động cách mạng, dũng cảm tiến lên tiếp tục thực hiện sự nghiệp vĩ đại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ ngày 14 đến ngày 16-12-1971, Đại hội lần thứ III MTTQVN đã họp tại
Hà Nội. Tham dự Đại hội có 460 đại biểu đại diện các chính đảng, đoàn thể, dân
tộc, tôn giáo, Việt kiều mới về nước và Mặt trận các địa phương. Đặc biệt, Đại hội
lần này của Mặt trận còn vinh dự được đón tiếp đoàn đại biểu của MTDTGPMNVN
và LMCLLDTDC&HBVN. Chủ tịch Tôn Đức Thắng đọc diễn văn khai mạc Đại
hội và khẳng định: Đại hội lần này là biểu thị sắt đá của toàn dân ta của toàn dân ta
quyết tâm đoàn kết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Hoàng Quốc Việt đọc Báo cáo chính trị, đúc kết
những kết quả, thành tựu của Mặt trận qua chặng đường 10 năm với những đóng
góp của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và các tổ
chức, đoàn thể thành viên của Mặt trận. Đồng thời, Báo cáo cũng chỉ ra những tồn
tại, khuyết điểm về quan điểm, nhận thức và phương thức tiến hành công tác Mặt
trận trong những năm qua; rút ra những bài học kinh nghiệm và đề ra nội dung,
phương hướng hoạt động của Mặt trận trong nhiệm kỳ tới.
Trong Đại hội lần này, đồng chí Trường Chinh còn trình bày một văn kiện
quan trọng nữa là Báo cáo Về công tác mặt trận hiện nay. Văn kiện đã nêu ra những
vấn đề : tổng kết những vấn đề lý luận, thực tiễn của chặng đường hơn 3 thập kỷ kể
92
từ hình thức tổ chức mặt trận đầu tiên do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập;
phân tích, lý giải những vấn đề cơ bản về MTDTTN trong cách mạng dân tộc, dân
chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; khẳng định tính tất yếu khách
quan, sự cần thiết phải duy trì, phát triển MTDTTN trong cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa; đồng thời chỉ ra những nhận thức mới về vai
trò, vị trí, phạm vi, đối tượng và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Mặt trận trong thời
kỳ mới của cách mạng.
Ngoài ra, Đại hội còn thông qua Điều lệ sửa đổi; thông qua Nghị quyết với 5
nhiệm vụ và phương hướng công tác cụ thể của Mặt trận các cấp trong thời gian tới;
bầu ra Ủy ban Trung ương khóa mới của MTTQVN gồm 134 vị đại biểu cho các
chính đảng, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang, các dân tộc, các
tôn giáo, một số ngành, một số địa phương. Đoàn Chủ tịch gồm 34 đồng chí, Cụ
Tôn Đức Thắng được tái cử làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
MTTQVN.
Đại hội III của MTTQVN thực sự trở thành một sinh hoạt chính trị lớn của
đất nước và là dịp để tổng kết, đánh giá về tổ chức, hoạt động của Mặt trận và sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận nói chung và phát huy vai trò
của Mặt trận Tổ quốc nói riêng. Trên đà thắng lợi của Đại hội, MTTQVN đã huy
động nhân dân miền Bắc tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế; đánh thắng chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ; chi viện sức người, sức của cho cách
mạng miền Nam, tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước.
Trong công tác khôi phục, phát triển kinh tế: Mặt trận Tổ quốc đã kêu gọi
các tầng lớp nhân dân miền Bắc ra sức tiến hành khôi phục và phát triển kinh tế,
xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh. Mùa hè năm 1971, nhân dân
nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ phải trải qua trận lụt lớn chưa từng có, gây ra những
thiệt hại lớn về tài sản và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất. Trước
tình hình đó, Mặt trận và các đoàn thể đã phối hợp cùng với chính quyền huy động
mọi lực lượng cứu hộ đưa người, tài sản của nhân dân, kho tàng của Nhà nước, của
hợp tác xã ra khỏi vùng bị lũ lụt; tổ chức lực lượng phân phát lương thực, thuốc
93
men cho nhân dân; phối hợp với chính quyền tăng cường vận động và giúp đỡ nhân
dân nhanh chóng sửa chữa nhà cửa, kho tàng, dọn vệ sinh và khôi phục sản xuất,
chăn nuôi. Mặt trận và các đoàn thể còn đi đầu trong việc tổ chức, hỗ trợ đồng bào
bị thiệt hại về sức người cũng như sức của. Bị thiệt hại nặng nề trên chiến trường
miền Nam cũng như chiến trường Lào - Cămpuchia, từ cuối năm 1971, đế quốc Mỹ
đã tiến hành đánh phá trở lại miền Bắc với quy mô lớn và khốc liệt hơn nhiều.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, cùng với việc tổ chức, động viên các tầng lớp
nhân dân dũng cảm chiến đấu để đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của địch, Mặt
trận và các đoàn thể còn đảm bảo sẵn sàng sản xuất và xây dựng, ổn định đời sống
nhân dân với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”.
Vận dụng kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, các tổ chức
đảng, chính quyền, Mặt trận đã huy động nhân dân khẩn trương chuyển mọi hoạt
động từ thời bình sang thời chiến, sẵn sàng đáp trả lại quân địch. Chính vì vậy, các
tầng lớp nhân dân đã bẻ gãy ngay từ đầu các đợt tấn công đầu tiên của địch. Trong
vòng một tháng, từ ngày 8-4 đến ngày 8-5-1972, quân và dân miền Bắc đã anh
dũng, mưu trí bắn rơi 90 máy bay, bắn cháy, bắn bị thương 20 tàu chiến, hạn chế
hoạt động phá hoại của địch, đảm bảo chi viện cho cách mạng miền Nam.
Cùng với việc động viên các lực lượng chống chiến tranh phá hoại, Mặt trận
và các đoàn thể còn phối hợp với các ngành, các giới, đoàn thể hoàn thành công tác
tuyển quân, xây dựng lực lượng vũ trang. Chỉ trong mấy tháng giữa năm 1972, bộ
đội miền Bắc đã tăng hơn 100.000 người so với năm cao nhất 1968. Lực lượng dân
quân tự vệ được phát triển cả về quân số và trang bị. Nhờ quyết tâm và sự chuẩn bị
sẵn sàng chiến đấu của toàn quân, toàn dân nên chỉ trong vòng gần 6 tháng từ ngày
9-5 đến ngày 22-10-1972, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 561 máy bay Mỹ, các đơn
vị pháo binh bảo vệ bờ biển của ba thứ quân bắn hỏng 60 tàu chiến Mỹ.
Bị thất bại lớn trên cả chiến trường Nam - Bắc và ngày càng bị dư luận Mỹ,
dư luận thế giới phản đối, ngày 12-10-1972, đế quốc Mỹ đã phải chấp nhận những
điều căn bản của Hiệp nghị Pari. Ngày 20-10-1972, đại diện chính quyền Mỹ thỏa
thuận lịch trình tiến đến ký kết chính thức Hiệp định, trong đó có điều khoản đến
ngày 18-10-1972, Mỹ chấm dứt ném bom và thả mìn ở miền Bắc Việt Nam. Nhưng
94
sau đó, Mỹ lại lật lọng, không chịu ký ngay mà chủ trương đánh thêm một đòn quân
sự nữa để ép ta phải nhượng bộ. Mỹ chủ trương mở một đợt ném bom thật mạnh
bằng máy bay chiến lược B.52 vào Hà Nội. Đỉnh điểm là đêm 18-12-1972, đế quốc
Mỹ cho máy bay chiến thuật và máy bay B.52 đánh phá ba đợt lớn ở 8 tỉnh, thành
trên vĩ tuyến 20, trong đó có Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Với quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, quân dân miền Bắc đã làm
nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đập tan uy lực của không lực Hoa Kỳ, giáng
một đòn quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari. Đó là thắng lợi lớn
nhất của nhân dân ta, là thất bại nặng nề nhất của đế quốc Mỹ kể từ khi chúng tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nước ta.
Ngay sau khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký kết, Trung ương Đảng,
Chính phủ và Mặt trận hai miền đã ra lời kêu gọi vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu phá hoại hòa bình,
ngăn trở con đường độc lập tự do của nhân dân ta. Ngày 29-1-1973, Hội nghị bất
thường của Ủy ban Trung ương MTTQVN đã đánh giá ý nghĩa thắng lợi to lớn của
Hiệp định và khẳng định quyết tâm giương cao ngọn cờ hòa bình và hòa hợp dân
tộc, MTTQVN cùng các tổ chức yêu nước khác ở cả hai miền cổ vũ đồng bào trong
nước cũng như kiều bào ở nước ngoài hăng hái phấn đấu thực hiện mục tiêu thống
nhất nước nhà.
Bên cạnh đó, quân dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đã đẩy mạnh
khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm tăng cường
tiềm lực về kinh tế và quốc phòng, xây dựng miền Bắc thật vững mạnh, làm tròn
nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với miền Nam ruột thịt. Đồng thời, giáo dục nhân
dân nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức lao động tập thể, có kỹ thuật, có kỷ luật, ra
sức thi đua hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước 1973-1975.
Trước những diễn biến, phát triển nhanh chóng của cách mạng miền Nam,
Hội nghị Bộ Chính trị (18-12-1974) đã đề ra chủ trương giải phóng miền Nam trong
hai năm và dự kiến phương án tranh thủ thời cơ giải phóng miền Nam trong năm
1975, Mặt trận và các tổ chức thành viên đã động viên các tầng lớp nhân dân dốc
toàn lực chi viện cho chiến trường miền Nam, quyết tâm giành toàn thắng trong
95
chiến dịch lịch sử. Một phong trào toàn dân sôi nổi chi viện cho chiến trường miền
Nam chưa từng có diễn ra ở khắp nơi, khắp các ngành, các cấp, các giới.
Trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy, với những chiến thắng vang
dội của quân dân miền Nam từ Tây Nguyên đến Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng, Hội
nghị lần thứ bảy Ủy ban Trung ương MTTQVN đã họp tại Hà Nội (19-3-1975), đề
ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt trong giai đoạn mới của cách mạng. Đồng thời,
Mặt trận và các đoàn thể mở đợt tuyên truyền sâu rộng chiến thắng, động viên thi
đua với miền Nam ruột thịt với khẩu hiệu: “Thi đua với miền Nam, mỗi người làm
việc bằng hai”, hoàn thành vượt mức những nhiệm vụ trước mắt, đẩy mạnh sản
xuất, tiết kiệm; làm tốt công tác quân sự địa phương, tăng cường tiềm lực kinh tế và
quốc phòng; chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam.
Khi quân và dân ta ở miền Nam thực hiện những đòn tiến công chiến lược
quyết định thì số lượng nhân lực được huy động từ hậu phương miền Bắc tăng
cường cho các chiến trường miền Nam năm 1975 chiếm 30% lực lượng lao động xã
hội ở miền Bắc. Chỉ 4 tháng đầu năm 1975, số lượng cán bộ, chiến sỹ được lệnh
hành quân thần tốc vào chiến trường miền Nam đã lên đến 110.000 người. Tính cả
giai đoạn 1973 - 1975, 50% quân số chủ lực Quân giải phóng miền Nam là từ hậu
phương miền Bắc tăng cường vào. Đó là chưa kể hàng chục vạn người khác phục
vụ trên các lĩnh vực vận tải, mở đường, đảm bảo giao thông và nhiều hoạt động
khác cũng được huy động từ miền Bắc vào.
Bên cạnh nguồn nhân lực, phần lớn vũ khí, đạn, trang thiết bị quân sự, thuốc
và dụng cụ y tế đến lương thực, thực phẩm…đáp ứng cho nhu cầu tác chiến ở chiến
trường miền Nam đều từ hậu phương miền Bắc chuyển vào (gồm cả vũ khí, phương
tiện, thiết bị quân sự của các nước viện trợ cho nhân dân ta đánh Mỹ xâm lược cũng
được hậu phương miền Bắc tiếp nhận, nghiên cứu khai thác sử dụng, cải tiến cho
phù hợp với cách đánh của ta rồi chuyển vào chiến trường miền Nam).
Đặc biệt, ngày 30-4-1975, khi Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin thành phố Sài
Gòn đã được giải phóng, đồng bào Thủ đô đã ra các đường phố hân hoan chào
mừng chiến thắng vĩ đại của nhân dân ta. Khắp nơi trên miền Bắc, trong suốt ngày
96
30-4-1975 và những ngày sau đó, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận đâu đâu cũng tổ
chức mít tinh, tuần hành mừng miền Nam giải phóng.
3.2.3. Mặt trận Dân tộc thống nhất miền Nam với sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước (1960 - 1975)
3.2.3.1. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960 - 1975)
Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.
Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ đang chuyển dần sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn bị đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thống trị, ra sức phá hoại hiệp định. Chính
quyền Mỹ - Diệm dùng quân đội và cảnh sát bình định các lực lượng đối lập, đàn áp
các phong trào yêu nước của quần chúng, khủng bố các lực lượng cách mạng và
kháng chiến còn lại ở miền Nam, thực hiện “tố cộng”, “diệt cộng”. Chúng cự tuyệt
mọi đề nghị của Chính phủ VNDCCH về Hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất
nước; nhưng lại cho bầu cử Quốc hội và ban hành Hiến pháp riêng, lập “Nền Đệ
nhất Cộng hòa” ở Nam Việt Nam. Với phương châm “thà giết nhầm chứ không bỏ
sót”, nhằm “tiêu diệt Cộng sản tận gốc, tiêu diệt không thương tiếc, tiêu diệt như
trong tình trạng chiến tranh” đã dẫn đến hàng vạn cán bộ đảng viên bị truy lùng,
giết, giam cầm…Kết hợp với các biện pháp bạo lực tàn bạo, Mỹ - Diệm còn dùng
các thủ đoạn lừa mị, mua chuộc bằng các biện pháp kinh tế - xã hội.
Đồng bào miền Nam vốn có truyền thống yêu nước và cách mạng, lại được
rèn luyện qua mấy chục năm đấu tranh giải phóng dân tộc, đã nhanh chóng nhận ra
những âm mưu và thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và tay sai. Nhưng Mỹ - Diệm
càng tàn bạo bao nhiêu thì phong trào đấu tranh của quần chúng càng bùng lên dữ
dội bấy nhiêu với hàng loạt các cuộc mít tinh, biểu tình công khai, hợp pháp và nửa
hợp pháp, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống
nhất đất nước, đòi nối lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc; đi đôi với
đấu tranh chống phá thủ đoạn “tố cộng”, “diệt cộng”. Bên cạnh các phong trào của
các tầng lớp lao động, xuất hiện các phong trào của học sinh, sinh viên, trí thức.
Những cuộc đấu tranh này không chỉ chứng minh hùng hồn cho lòng yêu nước thiết
tha, cho ý chí quật cường của quân dân miền Nam mà còn là tiền đề để Đảng ta đề
97
ra những chủ trương, đường lối tập hợp, tổ chức nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn
thành giải phóng dân tộc.
Trong khi chúng ta đang cần phải đoàn kết toàn dân vào MTDTTN rộng rãi
để đánh bại âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của đế quốc Mỹ và tay sai, thì sau Hiệp
định Giơnevơ, các tổ chức đảng và đoàn thể yêu nước, cách mạng ở miền Nam đều
phải rút vào bí mật, không còn một tổ chức nào công khai, đoàn kết, tập hợp quần
chúng đấu tranh. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với cách mạng miền Nam lúc này là cần
phải thành lập một MTDTTN riêng của miền Nam mới hoàn thành được nhiệm vụ
tiêu diệt đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Sự cần thiết và chủ trương thành lập
MTDTTN cho cách mạng miền Nam đã được Đảng ta đề ra chủ trương từ năm
1954.
Vấn đề MTDTTN riêng cho miền Nam ngày càng sáng tỏ hơn qua “Đề
cương cách mạng miền Nam” do đồng chí Lê Duẩn xây dựng, được Hội nghị Xứ ủy
Nam Bộ thảo luận vào cuối năm 1956 và sau này trở thành cơ sở của Nghị quyết 15
của Đảng về cách mạng miền Nam. Bản đề cương cho rằng: vấn đề xây dựng và
phát triển MTDTTN có vị trí hết sức quan trọng - xuất phát từ một quan điểm cơ
bản là cách mạng miền Nam phải giải quyết bằng con đường bạo lực cách mạng nên
phải tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền để giải
phóng miền Nam.
Sự cần thiết phải thành lập một MTDTTN cho cách mạng miền Nam được
Đảng đề ra một cách cụ thể trong văn bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
15 (1959) Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực
hiện thống nhất nước nhà với chủ trương: “Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất,
hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng và
toàn dân ta. Nhưng vì nhiệm vụ cơ bản của mỗi miền khác nhau, cho nên nhiệm vụ,
tính chất, thành phần Mặt trận ở mỗi miền có chỗ khác nhau. Vì vậy, cần có Mặt
trận riêng cho miền Nam”[32, tr.87]. Mặt trận ở miền Nam tuy là riêng cho miền
Nam, không nằm trong MTTQVN, nhưng phải cùng thực hiện mục tiêu chung với
Mặt trận Tổ quốc là nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh và thực tế phải do Đảng ta lãnh đạo.
98
Tinh thần của bản Đề cương và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp
hành Trung ương đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng (9-1960). Đại hội khẳng định: “cần ra sức xây dựng khối công
nông binh liên hiệp và thực hiện một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, chống
Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở”. Mục tiêu phấn đấu của Mặt trận
này là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, “nhằm giải
phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc”[33, tr.920].
Như vậy, chủ trương về việc thành lập một MTDTTN ở miền Nam đã sớm
được thống nhất trong chỉ đạo của Trung ương và Đảng bộ miền Nam. Tuy nhiên,
thực tế trên chiến trường miền Nam còn cần những điều kiện vật chất tối thiểu và
đặc biệt là nhân tố con người - nhân tố không thể thiếu được cho bất cứ một chuyển
biến phát triển cách mạng nào. Những điều kiện và nhân tố trực tiếp này chỉ có thể
là sản phẩm tất yếu của phong trào quần chúng cách mạng được tổ chức vận động
lên đến đỉnh cao với sự bùng nổ cách mạng là cuộc Đồng khởi long trời chuyển đất
năm 1960. Đồng khởi đã đánh dấu một bước phát triển nhảy vọt quan trọng, chuyển
cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp
miền với sự kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Và
Đồng khởi đã tạo ra những nhân tố mới, thực lực mới để đưa miền Nam chuyển
sang chiến tranh cách mạng.
Cách mạng miền Nam từ trong và sau Đồng khởi phát triển như vũ bão, làm
thay đổi nhanh chóng tình hình ở cả thành thị và nông thôn, tác động trực tiếp đến
nhiều tầng lớp, nhân sĩ, trí thức và cả một bộ phận trong chính quyền và quân đội
Sài Gòn. Cuộc đấu tranh của quân dân miền Nam đã chuyển sang giai đoạn mới nên
vấn đề đặt ra ở đây là cần thiết phải thành lập một tổ chức để tập hợp, tổ chức, lãnh
đạo toàn dân tạo thành một khối thống nhất mới đưa cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng. Một MTDTTN đã hoàn toàn chín muồi để ra đời và đảm nhận nhiệm vụ lịch
sử.
Trong khi mọi công tác chuẩn bị cho việc thành lập MTDTTN đã được
chuẩn bị sẵn sàng, thì ngày 11-11-1960 ở Sài Gòn xảy ra cuộc đảo chính nhằm lật
đổ chính quyền gia đình trị Ngô Đình Diệm. Cuộc đảo chính thất bại nhưng khủng
99
hoảng trong nội bộ ngụy quyền vẫn tiếp tục kéo dài triền miên, dẫn đến hàng loạt
cuộc đảo chính, li khai, “thay ngựa giữa dòng” của Mỹ sau này, mà điều này sẽ là
bất lợi cho chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam. Không những vậy, nhiều
nơi ở thành thị và nông thôn miền Nam đang diễn ra những phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân chống chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu mới phải có tổ chức để xử lý gấp rút tình huống
khi có thời cơ đến. Lập tức Bộ Chính trị gửi các bức điện chỉ đạo Xứ ủy Nam Bộ và
Liên khu ủy V, rằng trong tình hình mới “phải ra cương lĩnh mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam, có thể lấy tên là phong trào dân tộc giải phóng miền Nam, nếu
thấy thích hợp”[33, tr.1014].
Do đó, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh,
đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc, các giới toàn miền
Nam đã họp Đại hội thành lập MTDTGPMNVN. Đại hội cử ra một Ban Trung
ương lâm thời do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu nước nổi tiếng ở miền
Nam làm Chủ tịch. Đại hội thông qua Chương trình của MTDTGPMNVN.
Chương trình của MTDTGPMNVN vạch ra 10 điểm hành động cho tất cả
thành viên của Mặt trận cùng nhau đoàn kết, phấn đấu. Cụ thể:
1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của Mỹ và chính quyền độc tài Ngô
Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân
chủ.
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm
cho người cày có ruộng.
5. Xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc dân chủ.
6. Tổ chức lại và xây dựng một quân đội trung thành với Tổ quốc và hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân.
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của ngoại kiều và kiều bào.
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình trung lập.
100
9. Lập quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ
quốc.
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới [35,
tr.959].
Nội dung các văn kiện của Đại hội toát lên tinh thần cơ bản là mở rộng đoàn
kết dân tộc, nhiệm vụ dân tộc được đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ dân chủ rất mềm
dẻo, linh hoạt, phù hợp với một mặt trận rộng rãi bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp
xã hội. Mặt trận vẫn chủ trương thực hiện khẩu hiệu ‘người cày có ruộng” nhưng
phải tiến hành từng bước cho phù hợp. Trước mắt là thực hiện giảm tô, đảm bảo
nguyên canh và quyền sở hữu chính đáng ruộng đất của nông dân đã được chia, chỉ
tịch thu ruộng đất của bọn phản động chia cho dân cày nghèo. Với công nhân thì
đấu tranh đòi ban hành luật lao động, cấm sa thải, cúp phạt, đánh đập và cải thiện
đời sống. Mặt trận cũng khuyến khích giới công thương tham gia khôi phục, khuếch
trương công nghệ và tiểu công nghệ…
Như vậy, MTDTGPMNVN ra đời là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam trong cuộc đấu tranh chống ách thống trị
thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Với sự ra đời của Mặt trận, cách mạng miền
Nam đã có tổ chức công khai, rõ ràng để tập hợp quần chúng. Mặt trận thật sự trở
thành người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, đã
đoàn kết toàn dân, trở thành ngọn cờ tập hợp, tổ chức và lãnh đạo các lực lượng yêu
nước miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt hai
thập kỷ.
Ngay từ khi mới ra đời cho đến năm 1975, thông qua những hoạt động tích
cực trên tất cả các lĩnh vực, MTDTGPMNVN đã có những đóng góp vô cùng quan
trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam.
Nhưng do giới hạn của luận văn, tác giả chỉ trình bày một cách khái quát những
hoạt động và đóng góp của Mặt trận trên cả ba mặt: chính trị, quân sự và ngoại giao.
Qua đó, giúp chúng ta đánh giá một cách khách quan, chân thực những đóng góp
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng đối với cách mạng miền Nam trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
101
Thứ nhất, về hoạt động chính trị: Luận văn trình bày khái quát quá trình
hoạt động và những đóng góp của MTDTGPMNVN về xây dựng và phát triển hệ
thống tổ chức Mặt trận; Mặt trận với quá trình xây dựng chính quyền và hậu
phương tại chỗ cho chiến tranh cách mạng; sự lãnh đạo của Mặt trận đối với các
phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào miền Nam trong thời gian từ năm 1960
đến 1975.
Một là, về xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức Mặt trận:
Từ ngày thành lập đến Đại hội lần thứ nhất của Mặt trận (1962) thì cơ quan
lãnh đạo của Mặt trận là Ủy ban Trung ương lâm thời. Gần một tháng sau ngày
công bố thành lập, ngày 15-2-1961, tại khu căn cứ Tây Ninh đã diễn ra sự kiện lịch
sử: Lễ ra mắt Ủy ban Trung ương lâm thời MTDTGPMNVN. Tại buổi lễ, lần đầu
tiên lá cờ của MTDTGPMNVN với hai màu xanh, đỏ giữa có ngôi sao vàng năm
cánh được kéo lên giữa rừng núi chiến khu. Cũng tại đây đã tiến hành thủ tục trọng
thể kết nạp thành viên mới của Mặt trận, đó là Lực lượng vũ trang giải phóng miền
Nam Việt Nam, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Mặt trận.
Từ Đại hội Mặt trận lần thứ nhất, cơ quan lãnh đạo của Mặt trận là Ủy ban
Trung ương Mặt trận chính thức do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Đoàn
chủ tịch, Ban Thư ký và 30 ủy viên. Từ sau Đại hội lần thứ nhất, hệ thống Ủy ban
Mặt trận từ trung ương đến địa phương được hình thành. Ủy ban Mặt trận địa
phương được tổ chức ở bốn cấp: cấp khu, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Ủy ban Mặt
trận làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng khi chưa có chính quyền. Một số
ngành của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng được kiện toàn để làm
chức năng của cơ quan chính quyền như: Ban Quân sự Trung ương, Ban Thông tin -
Văn hóa - Giáo dục, Ban liên lạc đối ngoại, Ban Kinh tế - Tài chính, Ban Bảo vệ an
ninh, Ban Quản lý vùng giải phóng, Ban Giao thông liên lạc.
Đến tháng 10-1962, hầu hết các tỉnh thành đều có Ủy ban Mặt trận. Trong số
41 tỉnh thành từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau thì 38 tỉnh, thành đã có Ủy ban Mặt
trận ra mắt nhân dân. Tất cả các xã vùng giải phóng và vùng phá thế kềm kẹp của
địch đều có Ủy ban Mặt trận hoặc các hội quần chúng, đảng phái đều tham gia Mặt
trận làm nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, tổ chức chính trị, quân sự, văn hóa và cả kinh
102
tế nữa. Xét toàn bộ cơ sở và hệ thống, MTDTGPMNVN giống như một Chính phủ.
Số hội viên tham gia vào các Hội Giải phóng phát triển nhanh chóng. Nếu năm
1961, toàn miền Nam mới có gần 40 vạn hội viên thì sang năm 1962 đã tăng lên
hàng triệu người.
Từ sau Đại hội Mặt trận lần thứ 2 (1964), hệ thống tổ chức của Ủy ban Mặt
trận từ trung ương đến địa phương được tổ chức hoàn chỉnh, Ủy ban Mặt trận được
tổ chức hoàn thiện từ xã, huyện đến Miền.
Ngày 25-5-1968 Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị 13-CT NT với nội
dung nhan đề: “Ra sức xây dựng chính quyền cách mạng các cấp theo kịp sự phát
triển của tình hình”. Từ đây, “Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng được thống nhất
đổi tên là Ủy ban nhân dân cách mạng ở toàn miền Nam Việt Nam” [35, tr.411]. Cơ
quan tuyên truyền của Mặt trận là Thông tấn xã Giải phóng, báo Giải phóng và Đài
phát thanh giải phóng cùng với trên 30 tờ báo trung ương và địa phương.
Đồng thời các tổ chức thành viên của Mặt trận lần lượt ra đời và hoạt động
có hiệu quả, góp phần phát triển lực lượng và ảnh hưởng của MTDTGPMNVN
ngày càng lớn mạnh. Đến năm 1962, Mặt trận đã tập hợp được 20 tổ chức bao gồm
các đoàn thể, các giới, tôn giáo, dân tộc, các đảng phái dân chủ. Ở cấp trung ương,
các Ban Chấp hành các giới, nhiều tổ chức trong Mặt trận đã thành lập chính thức
như: Phụ nữ, công nhân (Hội Lao động giải phóng), nông dân, sinh viên học sinh và
các tổ chức Hội văn nghệ giải phóng, hội những người kháng chiến cũ, hội nhà báo,
Ủy ban đoàn kết Á Phi, Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới, Đảng xã hội, Đảng Dân
chủ…Ở các vùng giải phóng, hầu hết các Khu, tỉnh, huyện, xã đều thành lập Ủy ban
Mặt trận. Đáng chú ý, là ở các vùng quan trọng như Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định
cũng đã thành lập Ủy ban Mặt trận và các Ban chấp hành các giới, các đoàn thể. Ở
khu V trước tiên là thành lập Ủy ban phong trào dân tộc tự trị Tây Nguyên, riêng ở
đồng bằng 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên đã có 27 Ủy ban Mặt trận xã
và 159 Ban cán sự quần chúng. Một số các tổ chức, đoàn thể trong Mặt trận được
các tổ chức quốc tế thừa nhận và là ủy viên trong Ban chấp hành quốc tế như Thanh
niên, sinh viên học sinh, Hội nhà báo[6, tr.7-8]
103
Như vậy, trước khi có CPLTCHMNVN, MTDTGPMNVN đồng thời làm
chức năng nhà nước. Ủy ban Trung ương Mặt trận thực tế là chính phủ cách mạng ở
miền Nam, các ủy ban tỉnh, quận, xã…thực hiện nhiệm vụ quản lý vùng giải phóng.
Hai là, về các Đại hội Mặt trận: Trong quá trình hoạt động từ sau khi thành
lập đến năm 1975, MTDTGPMNVN đã tiến hành các Đại hội đề ra chủ trương,
nhiệm vụ trong từng giai đoạn cụ thể và kiện toàn cơ cấu tổ chức của Mặt trận.
* Đại hội MTDTGPMNVN lần thứ nhất.
Nhằm quán triệt những tư tưởng chỉ đạo mới của Đảng về cách mạng miền
Nam, biến những tư tưởng đó thành hiện thực cách mạng, đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, từ ngày 16-2 đến 3-3-1962, tại vùng Cà
Tum (Tây Ninh) khoảng 80 đại biểu các chính đảng, các đoàn thể, lực lượng vũ
trang giải phóng, đại diện các dân tộc, các tôn giáo và nhiều nhân vật tiêu biểu đã
họp Đại hội MTDTGPMNVN lần thứ nhất.
Đại hội khẳng định chương trình hành động 10 điểm nêu trong Hội nghị
thành lập Mặt trận là hoàn toàn đúng đắn và đề ra những nhiệm vụ cụ thể: đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ
tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ. Đồng thời, Đại hội chủ
trương thành lập một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, giữ vững hòa bình, thi
hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc, tích cực góp phần
bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới. Chủ trương “thi hành
chính sách trung lập” là một sách lược mềm dẻo, nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực
lượng yêu nước chống Mỹ - Diệm.
Đại hội còn thông qua Cương lĩnh về các chính sách hòa bình trung lập,
chính sách dân tộc, chính sách ruộng đất, chính sách đối với trí thức, tư sản, tôn
giáo, ngoại kiều, chính sách đối với binh lính và nhân viên chính quyền Sài Gòn.
Những quyết định quan trọng này của Đại hội nhằm tạo điều kiện đoàn kết rộng rãi
nhất, sẵn sàng bắt tay với những ai dù chưa tán thành Cương lĩnh của Mặt trận
nhưng vẫn tán thành chống Mỹ, cứu nước. “Bản Cương lĩnh của Mặt trận, nó đánh
dấu sự lớn mạnh của phong trào cách mạng miền Nam, đồng thời thể hiện sách lược
104
của Đảng rất mềm dẻo, rất rộng rãi nhằm tập hợp tất cả mọi lực lượng để cứu nhà
cứu nước - phân hóa cô lập địch đến cao độ, có khả năng tạo ra bước quá độ cần
thiết cho sự phát triển thuận lợi của cách mạng miền Nam”[6, tr.8].
Đại hội nhất trí cử ra Ủy ban Trung ương Mặt trận với tư cách là người đại
diện chân chính và hợp pháp của nhân dân miền Nam. Để biểu thị lòng mong muốn
đoàn kết rộng rãi, sẵn sàng cộng tác với tất cả những ai có tinh thần yêu nước,
chống Mỹ, Đại hội quyết định trong số 52 vị ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận
để dành 21 vị, trong đó có 3 Phó Chủ tịch cho các đoàn thể, đảng phái sau này sẽ
tham gia Mặt trận. Đại hội còn đề cử 6 vị nhân sĩ là tư sản, trí thức nổi tiếng đang
hoạt động trong các đô thị tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận.
Đại hội là một sự kiện chính trị quan trọng, góp phần cổ vũ, động viên nhân
dân miền Nam đoàn kết trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và tay sai. Hàng triệu
người trên khắp miền Nam đã tổ chức mít tinh hoan nghênh Ủy ban Mặt trận và bày
tỏ niềm tin tưởng vào chính sách đúng đắn, chính nghĩa của Mặt trận.
* Đại hội MTDTGPMNVN lần thứ hai.
Từ ngày 1 đến ngày 8-11-1964, tại một địa điểm gần xóm Giữa (Tây Ninh),
MTDTGPMNVN tổ chức Đại hội lần thứ II nhằm động viên nhân dân miền Nam
dốc toàn lực lượng, thực hiện đến cùng cuộc kháng chiến toàn diện và trường kỳ
chống Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước, tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn
nữa trong thời gian trước mắt. Tham dự Đại hội có 150 đại biểu thay mặt cho các
đảng phái dân chủ, đoàn thể nhân dân, tôn giáo, các dân tộc và quân giải phóng
miền Nam Việt Nam. Đại hội nhất trí bầu ra Ủy ban Trung ương mới gồm 50 ủy
viên, cũng do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN đã trình bày Báo cáo chính
trị, khẳng định lại một lần nữa 6 yêu sách cấp bách nhất của nhân dân miền Nam:
triệt hạ vô điều kiện toàn bộ chế độ độc tài phát xít của Ngô Đình Diệm; chấm dứt
ngay sự xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam; thực hiện không trì hoãn
một nền dân chủ thực sự rộng rãi; thực hiện chính sách kinh doanh độc lập, dân chủ
và hợp lý để nâng cao dần mức sống của nhân dân; đình chỉ ngay các cuộc càn quét,
105
bắn giết đồng bào; tiến tới thương lượng giữa các phái hữu quan ở miền Nam Việt
Nam để đi đến ngừng bắn và giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Điều lệ và các chính sách của Mặt
trận do Ủy ban Trung ương Mặt trận trình bày; nêu rõ phương hướng phấn đấu
trước mắt của cách mạng miền Nam là: đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị và vũ
trang của quân và dân miền Nam; ra sức củng cố khối đoàn kết toàn dân, không
phân biệt tôn giáo và chính kiến dân tộc; mọi người đều phải cống hiến tất cả sức
lực, tài năng, trí tuệ vào cuộc kháng chiến thần thánh, thực hiện cuộc chiến tranh ái
quốc toàn dân, toàn diện và trường kỳ.
Thành công của Đại hội MTDTGPMNVN lần thứ hai đánh dấu bước tiến
mới của chính sách đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân
miền Nam, thể hiện sự trưởng thành rõ rệt của Mặt trận. Từ đây, Mặt trận công khai
là người lãnh đạo cách mạng miền Nam, là người đại diện chân chính của 14 triệu
đồng bào miền Nam. Mặc dù chưa lập được chính phủ nhưng Mặt trận được nhiều
nước trên thế giới thừa nhận. Uy tín và ảnh hưởng của Mặt trận ngày càng lên cao
cả ở trong và ngoài nước.
* Đại hội bất thường của Mặt trận:
Theo chủ trương của Đảng, để chuẩn bị cho bước phát triển mới của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội bất thường của MTDTGPMNVN đã họp
từ ngày 15 đến ngày 20-8-1967 tại Tây Ninh.
Đại hội đã tổng kết những thắng lợi về chính trị, quân sự, ngoại giao của
nhân dân miền Nam dưới ngọn cở của Mặt trận trong thời gian qua. Đồng thời
thông qua Cương lĩnh Chính trị mới nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc,
động viên toàn thể đồng bào miền Nam thừa thắng xông lên quyết đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược và cũng nhằm công bố với thế giới về toàn bộ đường lối, chính sách
của Mặt trận ở thời kỳ mới. Cương lĩnh của Mặt trận còn là cơ sở hành động cho
một Chính phủ Cách mạng lâm thời khi thời cơ đến.
Với tinh thần “phát triển bản Chương trình trước đây”, bản Cương lĩnh
Chính trị của MTGP ngoài phần mở đầu và lời kết, nội dung có 4 phần chính.
I. Đoàn kết toàn dân chống Mỹ, cứu nước.
106
II. Xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và
phồn vinh. Trong đó nêu rõ 14 chính sách của Mặt trận.
III. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam Bắc, tiến tới hòa bình,
thống nhất Tổ quốc.
IV. Thi hành chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập.
Cương lĩnh Chính trị của Mặt trận thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng
của đồng bào miền Nam; thể hiện mạnh mẽ tinh thần đoàn kết ruột thịt Nam - Bắc
và ý chí thống nhất Tổ quốc. Đồng thời, Cương lĩnh cũng thể hiện tinh thần sáng tạo
tài tình của Mặt trận, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt về sách
lược, đề ra những chủ trương, chính sách sáng suốt, kịp thời. Bản Cương lĩnh là
ngọn cờ tập hợp tất cả mọi lực lượng yêu nước và dân chủ, đánh thắng hoàn toàn
giặc Mỹ xâm lược.
Ba là, Mặt trận với quá trình xây dựng chính quyền, vùng giải phóng và hậu
phương tại chỗ cho chiến tranh cách mạng.
Sau khi Mặt trận được thành lập (1960), vùng giải phóng ngày càng được
củng cố và phát triển. Trên thực tế, Mặt trận được coi như một Chính phủ ngay từ
năm 1961. Mặt trận đã xây dựng được một hệ thống của mình từ xã đến huyện, tỉnh,
miền lên đến Ủy ban Trung ương Mặt trận. Ngay từ cuối những năm 1960, các tỉnh
thành ở miền Nam đều vận động thành lập Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng địa
phương và kịp thời ra mắt đồng bào.
Ở vùng giải phóng, Ủy ban Mặt trận đảm nhiệm chức năng chính quyền ngày
càng rõ nét và có hiệu quả. Ủy ban Mặt trận chăm lo mọi mặt cho đời sống của
nhân dân trong việc cung cấp lương thực và vận động tuyển mộ tân binh cho lực
lượng vũ trang, một số nơi đã giành lại ruộng đất cho nhân dân đã được cách mạng
tạm cấp trước đây nay bị cướp giật. Trong vùng giải phóng và một phần vùng tranh
chấp, Ủy ban Mặt trận và Ủy ban Nhân dân Tự quản các cấp đã được thành lập từ
Miền tới xã. Năm 1968, số dân miền Nam do Mặt trận quản lý là 10 triệu/14 triệu
người, trong đó có 4 triệu người sống trong vùng giải phóng và ít nhất có 6 triệu
rưỡi người nữa thuộc quyền cai trị bí mật của Mặt trận trong các vùng danh nghĩa là
của Mỹ và Sài Gòn kiểm soát.
107
Trên cơ sở lực lượng mạnh và uy tín của Mặt trận, từ năm 1968, nhân dân
miền Nam bắt đầu mở cuộc vận động thành lập chính quyền cách mạng. Cho đến
cuối năm 1968, các Ủy ban giải phóng đã thành lập ở nhiều địa phương, mạnh nhất
là đồng bằng Sông Cửu Long, căn cứ lâu đời của Mặt trận, và hầu hết cao nguyên
Trung phần bắt đầu chuyển thành Ủy ban nhân dân cách mạng. Cuối năm 1968,
nhiều địa phương miền Nam tổ chức bầu cử “Hội đồng nhân dân cách mạng”. Trên
toàn miền Nam, chính quyền đã được xây dựng ở 516/1800 xã, 7/121 huyện và 3/44
tỉnh (Gia Lai, Cà Mau, Mỹ Tho) [80, tr.122].
Hệ thống chính quyền cách mạng đã đem lại cho đồng bào quyền dân sinh,
dân chủ, bình đẳng…Trong đó quan trọng nhất là đem lại quyền lợi ruộng đất cho
nông dân. Đến hết năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia 2 triệu 10 vạn ha (tức
70% diện tích canh tác) cho nông dân không có ruộng. Nhờ đó, hệ thống chính
quyền cách mạng đã thực sự trở thành một nhân tố thắng lợi cho cách mạng miền
Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), miền Bắc là
“hậu phương lớn” và vùng giải phóng ở miền Nam là “hậu phương trực tiếp’. Để
vùng giải phóng thực sự trở thành hậu phương trực tiếp của cuộc kháng chiến ở
miền Nam, Mặt trận đã chú trọng đến việc bảo vệ, xây dựng vùng giải phóng, động
viên nhân tài vật lực cho tiền tuyến và các mặt trận.
Để thực hiện vai trò hậu phương trực tiếp, Mặt trận đã chia cho nông dân 2
triệu ha đất trồng trọt. Không chỉ được giải quyết vấn đề ruộng đất, nông dân miền
Nam trong vùng giải phóng cũng được giảm tô rất lớn. Mức tô trong những năm
1962 - 1963 giảm từ 40 đến 80% so với mức tô năm 1958 - 1959. Ngay trong vùng
mới phá thế kiềm kẹp thì nông dân chỉ phải nộp thuế cho điền chủ từ 8 đến 20%.
Bên cạnh đó, Mặt trận các cấp còn thực hiện xóa bỏ mọi khoản nợ mà nông dân đã
vay của tổ chức “Nông tín cuộc” của chính quyền Sài Gòn. Chính sách ruộng đất
của Mặt trận đã động viên được lực lượng to lớn của nông dân tham gia vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong các vùng giải phóng, Mặt trận đã phát động phong trào thi đua sản
xuất. Quân và dân, tay cày tay súng, trồng tỉa quanh năm, đẩy mạnh sản xuất lúa
108
gạo, ngô khoai, thực phẩm, chú trọng chăn nuôi đảm bảo nhu cầu cung cấp cho
kháng chiến đến mức tối đa. Ủy ban Mặt trận các cấp không chỉ quan tâm đến chiến
sự, trị an mà còn rất quan tâm đến việc hướng dẫn đồng bào cải tiến kỹ thuật canh
tác, cải tiến nghề nông, đưa vào trồng nhiều giống lúa mới, năng suất cao; tiến hành
khôi phục, tổ chức các cơ sở, ngành nghề sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp
để phục vụ chiến đấu và đời sống nhân dân. Đồng thời, Mặt trận cũng rất chú trọng
đến công tác thủy lợi.
Những thành tựu về xây dựng và phát triển kinh tế trong vùng giải phóng tuy
mới là bước đầu nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn, khẳng định tính ưu việt của chế
độ mới dưới sự lãnh đạo của MTDTGPMNVN, góp phần làm biến đổi nền kinh tế
vùng giải phóng, hình thành nền kinh tế mang tính dân chủ nhân dân.
Bên cạnh những thành tựu về xây dựng và phát triển kinh tế trong vùng giải
phóng, Mặt trận còn chăm lo giải quyết các vấn đề văn hóa, văn nghệ, giáo dục, y
tế.
Cùng với sự phát triển của cách mạng, sự ra đời của các tổ chức văn hóa giải
phóng như: Hội Văn học - Nghệ thuật giải phóng, Hội Nhà báo giải phóng, Nhà
xuất bản giải phóng, Đài Phát thanh giải phóng, xưởng phim giải phóng với đội ngũ
cán bộ văn hóa, văn nghệ trưởng thành trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, đã góp
phần quan trọng vào việc tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, của Mặt trận; xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa, tinh
thần ở các vùng giải phóng. Đồng thời, chính quyền cách mạng và các đoàn thể
quần chúng đã vận động nhân dân tham gia bài trừ văn hóa thực dân, bảo tồn và
phát huy truyền thống văn hóa dân tộc để xây dựng đời sống văn hóa mới.
Được sự chi viện của miền Bắc, ngành giáo dục trong vùng giải phóng nhanh
chóng phát triển vươn lên đáp ứng yêu cầu “giải phóng đến đâu, mở trường tới
đấy”. Đến năm 1966, trên các vùng giải phóng toàn miền Nam đã có 5.994 trường
phổ thông với 500.000 học sinh [43, tr.119]. Năm 1967, các trường sư phạm giải
phóng đào tạo giáo viên cấp I, cấp II được thành lập. Bên cạnh giáo dục phổ thông,
phong trào bổ túc văn hóa đã bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa cho hàng trăm
nghìn cán bộ các cấp của Mặt trận, của chính quyền cách mạng và đoàn thể quần
109
chúng. Không chỉ ở vùng giải phóng, vùng căn cứ, ngành giáo dục giải phóng đã
mở rộng ảnh hưởng vào các trường học ở vùng tranh chấp. Tại đây, cán bộ giáo dục
đã khắc phục khó khăn, bám trụ địa bàn, mớ lớp học cho con em nhân dân lao động.
Vùng giải phóng mở rộng thì theo đó mạng lưới y tế cũng hình thành. Cùng
với hệ thống bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu…các ban y tế giải phóng của các khu,
tỉnh, huyện, xã lần lượt được thành lập, tạo thành mạng lưới y tế điều trị, khám chữa
bệnh rộng khắp. Mặt trận còn vận động đồng bào lập tủ thuốc gia đình, tủ thuốc
thôn xóm, lập Trạm y tế, Nhà hộ sinh…Bên cạnh số cán bộ y tế từ miền Bắc vào,
trong vùng giải phóng đã thành lập hệ thống các trường trung cấp, sơ cấp y, dược;
mở các lớp chuyên tu, bổ túc nhằm đào tạo đội ngũ thầy thuốc và nhân viên y tế có
chuyên môn vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của cuộc kháng chiến, của
các vùng giải phóng ngày càng được mở rộng. Đặc biệt, ngành y tế giải phóng đã
góp công xứng đáng vào công việc phòng chống chất độc hóa học của Mỹ rải trên
xóm làng ở nhiều tỉnh, xây dựng các chuyên đề “chống sốt rét”, “ngoại khoa dã
chiến”.
Như vậy, nhờ những chủ trương và chính sách đúng đắn của
MTDTGPMNVN mà đời sống nhân dân vùng giải phóng nói chung được cải thiện
rõ rệt, các mặt văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế bước đầu phát triển, đời sống tinh thần
của nhân dân được nâng cao. Mặc dù, chiến tranh tàn phá ngày càng dữ dội nhưng
sức đóng góp nhân tài, vật lực của vùng giải póng cho kháng chiến ngày càng lớn.
Trên thực tế, những vùng giải phóng đã trở thành hậu phương vững chắc của sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam.
Sau mười năm “Đồng khởi”, một năm Tổng tiến công và nổi dậy, ta đã giải
phóng nhiều vùng rộng lớn. Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã hình thành trên
thực tế chính quyền nhân dân ở cơ sở và phát huy vai trò quản lý chính trị - xã hội,
huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trước sự
phát triển vượt bậc của phong trào đấu tranh và để đáp ứng mọi yêu cầu đối nội, đối
ngoại, đặc biệt là cuộc đấu tranh ngoại giao, chuẩn bị cho những giải pháp đối với
cuộc chiến tranh, thì vấn đề xây dựng, củng cố chính quyền cực kỳ quan trọng. Hơn
nữa, sự hình thành, phát triển hệ thống chính quyền các cấp là một hình thức biểu
110
hiện cao nhất của sự liên minh, đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp. Do vậy, vấn đề
thành lập chính phủ liên hiệp đã chín muồi và hết sức bức thiết.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng và LMCLLDTDC&HBVN (4-1968), phát huy
vai trò làm cơ sở của chính quyền nhân dân đã có nhiều hoạt động tích cực góp
phần quan trọng vào việc thành lập chính phủ liên hiệp. Qua quá trình bàn bạc, đến
trung tuần tháng 5-1969, đã chọn ra được những người tiêu biểu, có uy tín trong
Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh, đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã
hội để giới thiệu vào Chính phủ lâm thời và Hội đồng cố vấn của Chính phủ.
Trên cơ sở đó, ngày 6-6-1969, tại vùng căn cứ Bắc Tây Ninh (rừng Tà Nốt,
huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, của
LMCLLDTDC&HBVN cùng các lực lượng yêu nước khác ở miền Nam đã họp Đại
hội đại biểu nhân dân toàn miền Nam. Đại hội đã thông qua một nghị quyết quan
trọng và bầu CPCMLTCHMNVN, cử Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch
Chính phủ, bầu ra Hội đồng cố vấn Chính phủ, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được cử
làm Chủ tịch Hội đồng.
Đại hội đã thông qua nghị quyết xác định chế độ Cộng hòa miền Nam Việt
Nam. Chính sách đối nội của Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam là đoàn kết
toàn dân, không phân biệt thành phần xã hội, tôn giáo, dân tộc, xu hướng chính trị
và quá khứ, miễn là tán thành hòa bình, độc lập.
Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ trình bày tại Đại hội đã đề ra
phương hướng và mục tiêu của Chính phủ lâm thời: sự ra đời của Chính phủ Cách
mạng lâm thời nhằm đoàn kết toàn dân, toàn quân ta tiến lên đánh bại chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ chính quyền tay sai, giành lấy thắng lợi hoàn
toàn, thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến
tới thống nhất Tổ quốc. Đó sẽ là Chính phủ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải
phóng dân tộc Chính phủ đó tiêu biểu cho khối đoàn kết của toàn dân ta và thực
hiện chính sách đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các lực lượng chính trị, các
dân tộc, các tôn giáo và tất cả mọi người Việt Nam yêu nước.
Việc xác định chế độ chính trị, việc thành lập CPCMLTCHMNVN do Đại
hội quốc dân quyết định có nghĩa là xác nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam không
111
phải là một nước mà là một chính thể; đồng thời thể hiện rõ chủ trương xây dựng
chính quyền cách mạng ở miền Nam theo quy mô một chính phủ hoàn chỉnh từ
trung ương đến huyện xã. CPCMLTCHMNVN ra đời là kết quả tất yếu của quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ và cực kỳ anh dũng của nhân dân miền Nam.
Sau hơn một năm, đi đôi với phát động cao trào quần chúng nổi dậy khởi
nghĩa, giành và mở rộng quyền làm chủ, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng còn
tiến hành cuộc vận động chính trị sâu rộng trong nhân dân để thành lập chính quyền
cách mạng các cấp. Nhờ đó, đại đa số các xã, huyện, tỉnh và nhiều thành phố, thị xã
đều đã có chính quyền cách mạng và nhiều nơi các Ủy ban nhân dân cách mạng
đang bước đầu đi vào thực hiện vai trò của mình. Ở những nơi này, Mặt trận và các
đoàn thể đã tổ chức hoạt động phát huy vai trò của chính quyền cách mạng trong
việc động viên, lãnh đạo quần chúng chiến đấu và sản xuất, cải thiện đời sống, trấn
áp địch và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Ngoài tham gia thành lập chính quyền cách mạng ở những nơi chưa có hoặc
ở vùng mới giải phóng, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể còn góp phần củng cố tổ
chức và ra sức phát huy vai trò của chính quyền cách mạng như: tham gia cải tiến
nội dung công tác và lề lối làm việc của chính quyền trong việc động viên, lãnh đạo
nhân dân xây dựng xã chiến đấu, tham gia chiến tranh du kích, đánh giặc giữ làng,
chống do thám gián điệp; động viên, lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, cải
thiện đời sống, đẩy mạnh công tác văn hóa, giáo dục, y tế; tích cực đóng góp sức
người, sức của cho tiền tuyến.
Ngày 5-10-1969, Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đề ra chủ trương, tổ
chức đảng đoàn chính quyền, nhấn mạnh trong khi củng cố và phát huy vai trò của
chính quyền, phải ra sức phát huy ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng,
không được coi nhẹ vai trò của Mặt trận vì trong cuộc kháng chiến ở miền Nam,
Mặt trận đã có một vai trò lịch sử hết sức to lớn: Mặt trận là người tổ chức và là
ngọn cờ động viên, lãnh đạo nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước; cùng với LMCLLDTDC&HBVN và các đoàn thể, các tổ chức
kháng chiến, Mặt trận là hậu thuẫn vững chắc của chính quyền cách mạng; mặt
112
khác, sau khi Chính phủ Cách mạng ra đời, Mặt trận vẫn còn vai trò quan trọng về
mặt đối ngoại.
Ngay sau khi Hiệp định Pari (1-1973) được ký kết, Mỹ - ngụy đã mở chiến
dịch “tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng, thực hiện xóa thế da báo ở
miền Nam, tiêu diệt lực lượng vũ trang, chính trị của ta, xóa bỏ tình trạng hai chính
quyền, hai quân đội. Âm mưu lâu dài của đế quốc Mỹ và tay sai là tìm mọi cách xóa
bỏ sự tồn tại của chính quyền và quân đội cách mạng để chúng độc chiếm miền
Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành một quốc gia riêng với một
chế độ chính trị thân Mỹ, một nền kinh tế và văn hóa chịu sự chi phối của Mỹ.
Để tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên, Hội nghị Trung ương lần thứ
21 của Đảng (7-1973), đã phân tích làm sáng tỏ tính chất xã hội miền Nam đã có
một sự thay đổi quan trọng. Đó là một xã hội một phần dân chủ nhân dân và một
phần thuộc địa mới của đế quốc Mỹ. Vùng giải phóng thể hiện rõ tính chất dân chủ
nhân dân trong xã hội miền Nam. Chính phủ Cách mạng lâm thời là chính quyền
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và LMCLLDTDC&HBVN, là chính quyền của
khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh công nông làm cơ sở, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, được lực lượng vũ trang nhân dân làm hậu thuẫn vững chắc và được các tầng
lớp nhân dân nhiệt liệt ủng hộ. Vùng giải phóng đã có tiền đề xây dựng từng bước
chế độ chính trị mới, nền kinh tế mới và một nền văn hóa mới theo hướng dân tộc
dân chủ nhân dân, thực hiện đúng đắn và đầy đủ Cương lĩnh của Mặt trận, biến
vùng giải phóng thành hậu phương tại chỗ của cách mạng miền Nam, phát huy tác
dụng đối với cuộc đấu tranh của đồng bào vùng tạm bị chiếm.
Trên cơ sở đó, nội dung chủ yếu của cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền
Nam trong giai đoạn mới là: xây dựng một chế độ dân tộc dân chủ, một nền kinh tế
dân tộc dân chủ, một nền văn hóa dân tộc dân chủ cùng với xây dựng một quân đội
thực sự bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền lợi nhân dân.
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã tạo được sự nhất trí cao
trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam. Vì vậy, sang đến cuối năm 1974, ta đã
chuyển lên tấn công, ngày càng giành được quyền chủ động trên chiến trường; đã
113
xuất hiện tấn công và nổi dậy từng phần ở nông thôn. Quân địch đã bị ngăn chặn,
đẩy lùi, bị động, lúng túng và bị sụp đổ từng phần ở nông thôn.
Trong quá trình triển khai cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, dưới sự
chỉ đạo của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam không chỉ tập trung vào
mũi quân sự mà còn chú trọng nổi dậy và thực hiện chính sách, công tác Mặt trận và
binh vận, huy động sức người, sức của thật đầy đủ, kịp thời để đáp ứng mọi yêu cầu
của cách mạng miền Nam trong tình hình mới. Ngày 1-4-1975, Chính phủ Cách
mạng lâm thời đã công bố 10 chính sách đối với vùng giải phóng, cụ thể hóa Cương
lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, mang lại và bảo vệ lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp xã hội, tăng cường đoàn kết, xây dựng chế độ dân chủ mới
Từ ngày 26-4-1975, cùng với các mũi tiến công của quân chủ lực, các lực
lượng vũ trang tại chỗ của các quận, huyện đã tiến công tiêu diệt địch tại các ấp, xã,
khóm, phường, hỗ trợ quần chúng nổi dậy và làm tan rã chính quyền các cấp, giành
quyền làm chủ từ xã, ấp, phướng khóm trở lên.
Từ ngày 29 đến ngày 30-4-1975, trước khi quân ta kéo vào thành phố, quần
chúng cách mạng đã giành chính quyền ở 107 điểm. Quần chúng đã cùng lực lượng
vũ trang địa phương đánh chiếm các đồn bốt địch, các phân chi khu cảnh sát và các
cơ quan hành chính, giải tán bộ máy kìm kẹp của địch, thành lập các Ủy ban nhân
dân cách mạng, chiếm và bảo vệ các kho tàng, cơ sở kinh tế, văn hóa. Vào lúc 5 giờ
30 sáng 30-4-1975, khi quân giải phóng từ các hướng tiến vào nội thành, nội các
Dương Văn Minh chủ trương bỏ ngỏ thành phố và cho phát lệnh kêu gọi binh sĩ
ngừng bắn, giữ nguyên hiện trạng đóng quân. 11 giờ 30, trên Đài phát thanh Sài
Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh đọc bản Tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Cơ sở cách mạng tại chỗ lãnh đạo nhân dân chiếm toàn bộ các cơ quan, đồn bốt và
xây dựng chính quyền cách mạng.
Bốn là, Mặt trận lãnh đạo các phong trào đấu tranh chính trị
Trong giai đoạn 1961 - 1965: Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, phong trào
chống phá ấp chiến lược đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi bao gồm
6 triệu lượt người tham gia, là một cuộc đấu tranh hết sức gay go, quyết liệt diễn ra
hằng ngày giữa nhân dân với Mỹ - Diệm. Trong số 3.364 ấp mà địch đã lập được, ta
114
đã phá 2.234 ấp, trong đó có 264 ấp bị phá hoàn toàn, địch phải bỏ luôn và 115 ấp
đã chuyển thành làng chiến đấu của nhân dân, nhiều ấp ta đã phá đi phá lại nhiều
lần, có ấp phá đến 15, 16 lần. Hơn 100.000 đồng bào ta đã tự đứng lên san bằng các
cấp chiến lược trở về với quê hương làng cũ. Phong trào phá thế kìm kẹp của địch
cũng đạt kết quả: trong năm 1962, ta đã phá được 8.982 thôn (năm 1961 chỉ phá
được 8.188 thôn), trong đó có 4.441 thôn hoàn toàn được giải phóng. Như vậy ta đã
kiểm soát được khoảng 76% tổng số thôn xã ở miền Nam (toàn miền Nam có
17.162 thôn, số dân ta kiểm soát lên đến 45,27% (toàn miền Nam có 14 triệu
người)[5, tr.6-7].
Do tác động của cuộc đấu tranh vũ trang và phong trào “phá ấp chiến lược” ở
các vùng nông thôn, phong trào đấu tranh chính trị dưới sự phát động của Mặt trận
đã lôi cuốn được nhiều giai cấp, tầng lớp tham gia. Nhân dân miền Nam đã đấu
tranh chung quanh 10 khẩu hiệu của MTDTGPMNVN. Trong năm 1962 đã có 2
triệu lượt người kéo vào thị xã, thị trấn, qua đồn bốt đấu tranh trực diện với các cấp
chính quyền của địch. Hơn 19 triệu lượt người đã tham gia mít tinh biểu tình hội
họp lớn nhỏ hoan nghênh và ủng hộ các chủ trương chính sách của
MTDTGPMNVN, tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm. Ở đô thị, phong trào đòi tự do, dân
chủ, chống bắt lính…đã có 435.830 người dự. Sinh viên, học sinh cũng đấu tranh
mạnh, trong năm đã có 36.800 giáo viên và học sinh tham gia đấu tranh, mạnh nhất
là đợt đấu tranh chống vụ án Giáo sư Lê Quang Vịnh. Tư sản dân tộc cũng đấu
tranh nhiều hơn trước, vì bị chèn ép. Phong trào chống Mỹ ở Sài Gòn - Chợ Lớn
cũng lên cao, có 86 vụ đánh sĩ quan cố vấn Mỹ [5, tr.5-6].
Nổi bật trong phong trào đô thị thời gian này là cuộc đấu tranh của Tín đồ
Phật giáo. Đỉnh cao của phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị miền Nam là
cuộc xuống đường đấu tranh của 70 vạn nhân dân Sài Gòn ngày 16-6-1963, cuộc
tổng bãi khóa của học sinh, sinh viên Sài Gòn tháng 8-1963. Cuộc đấu tranh của
đồng bào Phật giáo miền Nam được các giới đồng bào ủng hộ và phối hợp đấu tranh
đã góp phần đẩy Mỹ - Diệm vào khủng hoảng ngày càng sâu sắc dẫn đến sự kiện
“thay ngựa giữa dòng”. Được Mỹ bật đèn xanh, bọn tay sai làm cuộc đảo chính giết
chết anh em Diệm - Nhu vào ngày 1-11-1963 nhưng tình hình của Mỹ - Ngụy vẫn
115
lún sâu vào cuộc khủng hoảng. Nhân dân Sài Gòn tiếp tục đấu tranh đòi thủ tiêu
mọi tàn tích của chế độ cũ, trừng trị bọn ác ôn.
Trong giai đoạn 1965 - 1968: quân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của
MTDTGPMNVN còn giành nhiều thắng lợi quan trọng trên mặt trận chính trị, góp
phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ và tay sai.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn miền Nam, quần chúng nông dân, được sự
hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của
địch, từng bước phá mảng lớn “ấp chiến lược”, làm thất bại âm mưu “bình định”,
giành dân của chúng. Quá trình chống phá “bình định” luôn gắn liền với quá trình
xây dựng làng, xã chiến đấu. Cán bộ, đảng viên, quân giải phóng và nhân dân kiên
trì thực hiện phương châm “ba bám”, vận dụng linh hoạt phương châm “ba mũi giáp
công”, tìm ra nhiều cách đánh phong phú, trừng trị bọn tề điệp, bọn tay sai ác ôn và
các đoàn “xây dựng nông thôn”.
Cuộc chống càn, phá bình định của xã Anh Dũng, phía Nam thành phố Đà
Nẵng được coi là một điển hình của phong trào chống phá bình định trong giai đoạn
này. Trong xã chỉ có 4.000 dân, nhưng trong một năm rưỡi đã tiêu diệt 2.180 tên
địch, bắn rơi 17 máy bay. Với thành tích đó, xã có 70 dũng sĩ diệt Mỹ, trong đó có
17 nữ và 2 lão dũng sĩ trên 60 tuổi.
Trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất 1965 - 1966, tai khu Sài Gòn -
Gia Định, từ ngày 8-1 đến 5-2-1966, Mỹ mở cuộc hành quân Gờ - Rim đánh vào Hố
Bò (Phú Mỹ Hưng), An Nhơn Tây thuộc huyện Củ Chi. Chúng dự định tạo ra một
vùng trắng và vành đai thép về phía Bắc để bảo vệ Sài Gòn. Cùng với lực lượng địa
phương, nông dân Củ Chi vẫn bám trụ chiến đấu “một tấc không đi, một ly không
rời”. Cuối cùng địch đã phải chịu thất bại, Củ Chi trở thành “Đất thép thành đồng”.
Trong mùa khô lần thứ hai 1966 - 1967, quân dân miền Nam đã giành thêm
390 xã, nâng số ấp, xã được giải phóng năm 1967 lên 700 xã và 6.750 ấp. Chính
quyền Sài Gòn thống kê kết quả “bình định” năm 1967 đạt 13% kế hoạch [7, tr.19].
Không những vậy, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận trong hầu hết các đô thị
miền Nam đã dấy lên các phong trào đấu tranh. Phong trào bắt đầu khởi phát từ Huế
- Đà Nẵng vào tháng 3-1966, phong trào đã nhanh chóng phát triển chưa từng có ở
116
cả ba thành phố lớn và 22 tỉnh lỵ. Thành phần tham gia phong trào bao gồm mọi
tầng lớp nhân dân trong các thành thị: thanh niên, sinh viên, công nhân, người buôn
bán, trí thức, các tín đồ Phật giáo và các tôn giáo khác. Thậm chí phong trào còn thu
hút cả binh sỹ trong quân đội, nhân viên chính quyền Sài Gòn và những người làm
việc trong các căn cứ quân sự của Mỹ. Cùng với phong trào chung, phong trào của
từng giới chống Mỹ cũng rất sôi nổi. Đáng chú ý nhất là cuộc bãi công của 5 vạn
công nhân Sài Gòn vào cuối tháng 12-1966, phản đối sự khủng bố trắng trợn của
bọn Mỹ xâm lược và tay sai là một minh chứng về sức mạnh tiềm tàng của phong
trào đô thị.
Các phong trào đấu tranh này thể hiện rõ mục tiêu chống Mỹ chứ không phải
chỉ đơn thuần đòi một số quyền lợi về dân sinh, dân chủ. Khẩu hiệu đấu tranh của
phong trào là nhằm thẳng vào chính sách xâm lược của Mỹ; lên án lính Mỹ hống
hách, xúc phạm thô bạo phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc và đòi Mỹ cút về
nước.
Qua đấu tranh, MTDTGPMNVN đã tập hợp lực lượng và phát triển tổ chức
quần chúng; đoàn kết quần chúng và tổ chức cho các lực lượng quần chúng liên kết
lại, hình thành các Mặt trận cơ sở, thông qua các hình thức tổ chức: đồng hương,
khu phố, trường lớp, tín ngưỡng….Ngoài ra, còn đưa được những người có cảm
tình với cách mạng trong các tầng lớp trung gian hoặc tầng lớp trên, thông quan họ
đề ra khẩu hiệu vừa phải và tập hợp lực lượng quần chúng đấu tranh.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ, rầm rộ của phong trào đấu tranh chính trị ở
các thành thị, các hình thức tổ chức mang tính mặt trận do quần chúng tự động lập
ra cũng phát triển với quy mô chưa từng có, hướng theo hoặc phù hợp với mục tiêu,
cương lĩnh, khẩu hiệu của Mặt trận. Đây cũng là những hình thức tổ chức mở rộng
của MTDTTN. Các tổ chức Bảo vệ văn hóa dân tộc đã ra đời, tập hợp nhiều hội, chi
hội, nghiệp đoàn như: Hội Bạn trẻ Việt Nam, Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam, Hội
đồng bảo vệ thanh thiếu nhi, Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ…Tùy theo
nội dung, tên gọi và tôn chỉ mà các hội tập hợp những tổ chức và cá nhân theo sở
thích, nghề nghiệp khác nhau.
117
Trong giai đoạn 1969 - 1975: trên chiến trường miền Nam, được sự hỗ trợ
của các lực lượng vũ trang nhân dân và thắng lợi quân sự cổ vũ, dưới sự lãnh đạo
của MTDTGPMNVN, một phong trào quần chúng ở hầu hết các vùng nông thôn,
đồng bằng, rừng núi, ven thị nổi dậy chống ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm
chủ. Phong trào nổi lên mạnh mẽ ở Quảng Trị, các tỉnh Trung Trung Bộ, đồng bằng
Sông Cửu Long. Ở những nơi đó, nhiều “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy đã bị san
bằng, chương trình “bình định” nông thôn - “xương sống” của “Việt Nam hóa chiến
tranh” bị giáng một đòn nặng nề.
Ở thành thị, diễn ra phong trào đấu tranh sôi nổi dưới nhiều hình thức như
bãi công, bãi khóa, mít tinh, biểu tình, hội thảo…thu hút đông đảo các tầng lớp như
công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, Phật tử …tham gia đòi các quyền tự do, dân
chủ, đòi Mỹ rút về nước, chống đàn áp, chống chế độ bắt lính, chống chế độ “quân
sự hóa học đường”. Phong trào nổ ra liên tiếp và rầm rộ, nhất là các thành phố lớn
như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Các phong trào đấu tranh chính trị này, kết hợp với
đấu tranh quân sự và ngoại giao đã buộc Mỹ phải chịu thất bại trong chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” và đi đến ký kết Hiệp định Pari về lập lại hòa bình ở
Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, quân dân
miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chính trị nhằm vào mục tiêu đòi Mỹ - Thiệu nghiêm
chỉnh thi hành Hiệp định Pari, đòi chúng thực hiện các quyền tự do dân chủ, đòi lật
đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Từ giữa năm 1974 đã xuất hiện những tổ chức,
những phong trào của các lực lượng thứ ba, tôn giáo, phe nhóm chính trị chống
Thiệu, tố cáo Thiệu độc tài, tham nhũng và đòi Thiệu phải từ chức. Ngày 10-10-
1974, có sự lãnh đạo của Thành ủy Sài Gòn, 3.000 ký giả đã xuống đường tổ chức
“ngày ký giả đi ăn mày” phản đối Luật 007 của Thiệu đàn áp báo chí. Hàng vạn
nhân dân và các dân biểu tham gia cùng các ký giả.
Dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Cách mạng lâm thời và Mặt trận, phong trào
đấu tranh chính trị của các tầng lớp đồng bào đô thị miền Nam tiếp tục dâng cao.
Ngày 26-1-1975, Thành ủy Sài Gòn tổ chức - lãnh đạo cuộc biểu tình có 18 đoàn
thể công khai và có những nhân vật nổi tiếng tham gia, đó là cuộc đấu tranh chính
118
trị có tính chất tổng diễn tập của quần chúng, đòi Thiệu từ chức và dấy lên một
phong trào sôi nổi góp phần làm suy sụp ý chí chiến đấu của quân đội Sài Gòn.
Mũi tiến công chính trị lại được Mặt trận phát huy cao độ trong chiến dịch
Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Quần chúng có sự hỗ trợ của
lực lượng vũ trang tại chỗ đã giải phóng thị trấn Củ Chi và thị trấn Thủ Đức. Ở nội
thành, khi quân chủ lực ta tiến vào thì quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại
chỗ đã đánh chiếm hoặc vận động, uy hiếp làm tan rã địch, chiếm trụ sở phường,
khóm.
Thành tích nổi bật nhất của nhân dân Sài Gòn trong chiến dịch giải phóng
thành phố là: toàn bộ các xí nghiệp công nghiệp lớn, nhỏ đều được bảo đảm an toàn.
Công nhân tổ chức canh gác bảo vệ nhà máy và bàn giao chu đáo. Nhân viên làm ở
các công sở đã giữ gìn tài sản và đặc biệt là hồ sơ bàn giao đầy đủ. Có thể nói, toàn
thành phố được giải phóng hầu như nguyên vẹn, đó là điều hiếm có trong lịch sử
chiến tranh. Điều đó chỉ có thể hiểu được trên cơ sở một cuộc chiến tranh toàn dân
dựa trên sức mạnh của khối đại đoàn kết của cả dân tộc, biết kết hợp chặt chẽ lực
lượng chính trị với lực lượng vũ trang trên ba mũi giáp công để tạo ra sức mạnh
tổng hợp chiến thắng áp đảo kẻ thù ở bước cuối cùng này.
Thứ hai, về hoạt động quân sự: Mặt trận đã góp phần lãnh đạo quân, dân
miền Nam lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ, thực hiện giải
phóng miền Nam.
Thắng lợi của Đồng khởi năm 1960 làm cho chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam đứng trước nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, từ đầu năm 1961
Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với thủ đoạn: dùng
lực lượng quân sự lớn hiện đại, thực hiện chiến thuật tân kỳ mở các cuộc hành quân
càn quét vào các vùng giải phóng và vùng tranh chấp, dồn dân lập “ấp chiến lược”
trên quy mô lớn nhằm “tát nước bắt cá”. Ấp chiến lược được coi là “quốc sách”, là
“xương sống” của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Tất cả những thủ đoạn trên của
chúng nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng vừa mới hình thành; tách nhân
dân với cán bộ cách mạng; tiến tới thủ tiêu thành quả của phong trào Đồng khởi, thủ
119
tiêu lực lượng đấu tranh chính trị của quần chúng; giữ vững chế độ thực dân mới ở
miền Nam, tiếp tục chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ.
Từ khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời, các lực lượng vũ trang nhân dân
miền Nam thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
củaTrung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền đã tổ chức những hoạt động quân sự, đạt
những kết quả quan trọng. Năm 1962, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu
35.000 tên (có 400 tên Mỹ), làm rã ngũ 32.000 tên, lật đổ 18 đầu tàu hỏa, phá sập
312 cầu, cống, bắn hỏng 12 tàu xuồng và bắn rơi nhiều máy bay địch [43, tr.76].
Đầu năm 1963 dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, quân và dân miền Nam đã làm
nên chiến thắng Ấp Bắc oanh liệt. Thắng lợi đó đã gây tiếng vang lớn, đánh dấu sự
phát triển về chất của phong trào đấu tranh của quân dân miền Nam. Với thắng lợi
này, quân ta đã tìm ra được phương thức tác chiến phù hợp để đối phó có hiệu quả
với “trực thăng vận”, ‘thiết xa vận” của địch. Sau chiến thắng này,
MTDTGPMNVN đã phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc, diệt giặc lập công”,
kiên quyết tiến công tiêu diệt địch, làm phá sản chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết
xa vận” của chúng.
Được Mỹ bật đèn xanh, bọn tay sai làm cuộc đảo chính giết chết anh em
Diệm - Nhu vào ngày 1-11-1963, nhưng Mỹ - Ngụy vẫn lún sâu vào cuộc khủng
hoảng. Tháng 3-1964, Mỹ đưa ra kế hoạch Johnson - Mc Namara, nhằm bình định
miền Nam trong vòng hai năm (1964-1965). Chúng lập ra Bộ chỉ huy Liên hợp Việt
- Mỹ và cùng một lúc chúng tăng thêm 6.000 cố vấn và lính chiến đấu Mỹ, đưa số
quân Mỹ ở miền Nam lên trên hai vạn rưỡi tên vào cuối năm 1964. Sau khi tăng
thêm quân, chúng tiến hành hàng loạt các cuộc càn quét để lập ấp chiến lược, tiêu
diệt lực lượng vũ trang giải phóng.
Để đánh bại âm mưu mới của Mỹ, cuối tháng 11-1964, Bộ Chỉ huy Miền
quyết định mở chiến dịch tiến công trên địa bàn 4 tỉnh: Bà Rịa, Long Khánh, Biên
Hòa, Bình Thuận. Dưới là cờ tập hợp của Mặt trận, nhân dân miền Nam quyết tâm
tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng, giành những thắng lợi có tính chất
quyết định. Chiến dịch Bình Giã thắng lợi (1-1965), góp phần tạo bước ngoặt trong
so sánh lực lượng có lợi cho chiến tranh cách mạng và chứng tỏ xu hướng thất bại
120
của “chiến tranh đặc biệt”. Sau chiến thắng Bình Giã, Quân giải phóng tiếp tục tiêu
diệt nhiều tiểu đoàn quân chủ lực Sài Gòn trong các trận An Lão, Đèo Nhông,
Plâycu, Đồng Xoài, Ba Gia. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 1965, quân và dân
miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 90.000 tên địch, trong đó có 3.000 tên xâm
lược Mỹ. Chiến dịch Bình Giã cùng với chiến dịch Ba Gia, chiến dịch Đồng Xoài
góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, đánh dấu bước trưởng
thành về trình độ, tổ chức, chuẩn bị tác chiến tập trung của lực lượng vũ trang nhân
dân miền Nam.
Để cứu vãn tình thế, đầu năm 1965, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với
vũ khí và trang bị kỹ thuật hiện đại vào Việt Nam, chuyển sang chiến lược “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Tiến hành
chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, Mỹ nhằm thực hiện âm mưu: nhanh
chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hỏa lực để có thể áp đảo được chủ lực ta bằng
chiến lược quân sự mới “tìm diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy
lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngự, buộc ta phải phân tán, đánh nhỏ hoặc
rút về biên giới, làm cho chiến tranh cách mạng tàn lụi dần; mở rộng và củng cố hậu
phương của chúng, lập đội quân “bình định” kết hợp hoạt động càn quét với các
hoạt động chính trị và xã hội lừa bịp cố thực hiện cho kỳ được “mặt trận thứ hai”
nhằm “tranh thủ trái tim của nhân dân”.
Để thực hiện mưu đồ trên và ỷ vào ưu thế quân sự, Mỹ vừa mới vào miền
Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” tiến công đơn vị
quân giải phóng ở Vạn Tường - Quảng Ngãi (8-1965). Tiếp đó, Mỹ mở hai cuộc
phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt
cuộc hành quân vào “đất thánh Việt cộng”.
Ngay khi quân Mỹ kéo vào miền Nam, chốt giữ những vị trí then chốt ở
chiến trường, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, quân và dân ta đã cho chúng nếm
những trận phủ đầu nặng nề: ngày 28-5-1965, một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ bị
diệt gọn ở Núi Thành; ngày 18-8-1965, 919 tên Mỹ bị diệt, 22 tăng, xe bọc thép, 13
máy nay bị tan xác ở Vạn Tường. Vạn Tường được coi như một “Ấp Bắc” đối với
quân đội Mỹ và mở đầu cho “cao trào diệt Mỹ” trên toàn miền Nam; các đơn vị
121
thiện chiến của Mỹ như Sư đoàn Anh Cả đỏ, Lữ dù 173, Sư đoàn lính thủy đánh bộ
cũng bị những đòn phủ đầu choáng váng ở Đất Cuốc (8-11-1965), Dầu Tiếng (11-
1965), Đồng Dương (12-1965)…Các căn cứ hậu phương của Mỹ, ngụy như ở khu
vực Sài Gòn, sân bay nước Mặn, Chu Lai, các cư xá Mỹ…cũng bị đặc công và pháo
binh của ta làm cho nổ tung. Cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 của
Mỹ nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng, lấn đất, giành dân, củng cố ngụy quyền
đã nhanh chóng thất bại trước sức tiến công mãnh liệt của quân và dân ta trên cả ba
mũi giáp công và ba vùng chiến lược.
Bước vào mùa khô 1966-1967 với lực lượng được tăng lên hơn 980.000
quân, Mỹ đã mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, với 895 cuộc hành quân lớn
nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt, vào hướng chiến lược chính là miền
Đông Nam Bộ, trọng điểm là Tây Ninh, nhằm mục tiêu “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo,
chỉ huy Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Giải phóng và các đơn vị chủ
lực Quân giải phóng, tạo bước ngoặt trong chiến tranh. Đó là cuộc hành quân
Attleboro đánh vào chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh) tháng 11-1966; cuộc
hành quân Cedar Falls đánh vào “tam giác sắt” (Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi)
tháng 1-1967 và cuộc hành quân Junction City đánh vào vùng Bắc Tây Ninh. Quân
và dân miền Nam đã đập tan cuộc phản công mùa khô lần thứ hai của địch, loại
khỏi vòng chiến đấu 151.000 quân, bắn rơi và phá hủy 1231 máy bay, phá hủy
1.627 xe tăng và xe bọc thép, 2.107 ô tô, 308 khẩu pháo, 42 tàu…
Trước những thắng lợi to lớn mà quân dân miền Nam giành được sau hai
mùa khô, tháng 1-1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp và nhận định: chúng
ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Từ đó, Hội nghị đi đến kết
luận: “Tình thế ấy cho phép chúng ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân
dân ta sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết
định”[29, tr.49-50]. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy
đồng loạt Tết Mậu thân năm 1968, nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm
lược của đế quốc Mỹ.
Chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy, ngay từ năm 1967, dưới sự
lãnh đạo của MTDTGPMNVN, quân dân miền Nam đã gấp rút chuẩn bị và bí mật
122
vận chuyển, cất giấu một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược tại các vùng giáp ranh và
ngay trong các thành phố, thị xã. Đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, quân và dân ta
đã tiến hành tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt ở hầu hết các sào huyệt, các cơ
quan đầu não, căn cứ quân sự, các hệ thống giao thông, các kho tàng của địch, hầu
khắp các thành phố, thị xã, thị trấn và những vùng nông thôn còn bị địch kiểm soát.
Qua 3 đợt tổng công kích và nổi dậy, mặc dù bị tổn thất khá lớn nhưng quân
và dân miền Nam đã “xoay chuyển được cục diện tình hình” mà trước đó ta chưa
bao giờ có được. Bằng cuộc tổng tiến công chiến lược Mậu Thân, quân và dân ta đã
giáng một đòn quyết định vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng
phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh và tuyên bố “phi Mỹ hóa chiến
tranh”, bắt đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc, cử người đàm phán với Chính phủ VNDCCH ở Hội nghị Pari, mở ra
cục diện “vừa đánh vừa đàm” kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị - quân sự - ngoại
giao cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 là đòn bất ngờ góp phần quyết
định chiều hướng của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương, làm phá sản
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm chấn động dư luận Mỹ và thế giới. Sau
đòn tấn công bất ngờ đó, phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi rút
hết quân đội về nước của nhân dân dấy lên khắp nước Mỹ. Hạ nghị viện Mỹ cũng ra
nghị quyết đòi rút tất cả quân đội Mỹ ở Việt Nam về nước trong thời hạn ngắn nhất.
Lợi dụng tình hình đó, Níchxơn đã đưa ra lời hứa sẽ chấm dứt chiến tranh trong
vòng 6 tháng và sẽ có những thay đổi trong chính sách đối nội, đối ngoại của nước
Mỹ để mong trúng cử tổng thống trong kỳ bầu cử cuối năm 1968.
Sau khi trúng cử, tổng thống Níchxơn đã cho ra đời học thuyết mang tên
mình - “Học thuyết Níchxơn”. Học thuyết này được thí điểm ở Việt Nam với tên
gọi “Việt Nam hóa chiến tranh”. Về thực chất đó là cuộc chiến tranh giữa những
người Việt Nam với nhau. Âm mưu cơ bản của Mỹ vẫn là “dùng người Việt đánh
người Việt” với bom đạn, đôla Mỹ, do Mỹ chỉ huy và vì lợi ích của Mỹ. Để đạt
được mục tiêu chiến lược của “Việt Nam hóa chiến tranh’, Níchxơn đưa ra thực
hiện cùng lúc ba loại chiến tranh là “chiến tranh giành dân”, “chiến tranh hủy diệt”,
123
“chiến tranh bóp nghẹt” trên cơ sở huy động sức mạnh tối đa về quân sự của nước
Mỹ, kết hợp với những thủ đoạn xảo quyệt về chính trị và ngoại giao.
Từ nửa cuối năm 1970 đến nửa đầu năm 1971, địch cùng lúc mở ba cuộc
hành quân lớn: Lam Sơn 719, Toàn Thắng 01/71, Quang Trung 4, trong đó cuộc
hành quân Lam Sơn 719 là quan trọng nhất, vì nó là thử thách quyết định của Việt
Nam hóa chiến tranh.
Đứng trước những cuộc hành quân lớn đó, dưới sự lãnh đạo của Chính phủ
Cách mạng lâm thời, Trung ương cục miền Nam và Mặt trận Giải phóng, Quân giải
phóng miền Nam đã phối hợp với các chiến trường Lào, Cămpuchia đập tan hành
động phiêu liêu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai. Kết quả là đã tiêu diệt và làm bị
thương hàng chục ngàn quân địch, phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh
của chúng. Lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn bị đánh quỵ, vai trò
nòng cốt của chúng trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bị giáng một đòn
nặng nề.
Những thắng lợi to lớn đó của cách mạng miền Nam cho phép ta tính toán
đến kế hoạch phát triển thế chiến lược tiến công, tạo ra bước phát triển nhảy vọt cho
cuộc kháng chiến. Hội nghị Bộ Chính trị (5-1971) đề ra chủ trương: “Kịp thời nắm
lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến
công quân sự, chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên
toàn chiến trường…giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ
phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua”. Kế hoạch tiến công
chiến lược Xuân - Hè 1972 được chuẩn bị chu đáo.
Trên cơ sở đó, đúng lúc địch đang sơ hở, trưa ngày 30-3-1972, quân và dân
ta nổ súng mở đầu cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, làm
cho Mỹ - ngụy hết sức bị động lúng túng. Đây là cuộc tiến công và nổi dậy mạnh
nhất, dài ngày nhất, rộng khắp nhất và giành thắng lợi lớn nhất từ sau cuộc Tiến
công và nổi dậy Xuân 1968. Bị bất ngờ và thua đau, tập đoàn Níchxơn đã ngang
nhiên “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cách gây lại cuộc chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc, đơn phương bỏ Hội nghị bốn bên ở Pari.
124
Một lần nữa, quân dân miền Nam dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Cách mạng
lâm thời, Trung ương cục miền Nam và Mặt trận Giải phóng tiếp tục đẩy mạnh cuộc
tiến công và nổi dậy trên chiến trường, kết hợp với đấu tranh trên bàn hội nghị và
phối hợp với cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ,
làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không”; buộc Mỹ phải ngừng ném bom
không điều kiện và đề nghị nối lại bàn đàm phán. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari
về kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã tạo ra bước
ngoặt căn bản cho cuộc kháng chiến, đã “Đánh cho Mỹ cút” và mở ra một thời cơ
chiến lược mới cho quân dân ta tiến lên “Đánh cho ngụy nhào” để giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
Sau Hiệp định Pari, nhân dân ta thi hành nghiêm chỉnh những điều khoản của
Hiệp định, đồng thời ra sức đấu tranh đòi phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng
phải nghiêm chỉnh thực hiện. Nhưng ngược lại, Chính phủ Hoa Kỳ và chính quyền
Sài Gòn vi phạm rất nghiêm trọng. Chỉ chưa đầy một tháng sau khi Hiệp định được
ký kết, từ ngày 28-1-1973 đến 24-2-1973, quân đội Sài Gòn đã vi phạm tới 12.000
vụ tiến công lấn chiếm các vùng thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Cách mạng
lâm thời, dây dưa, lẩn tránh gây khó dễ, không chịu thực hiện hoặc vi phạm nghiêm
trọng nhiều điều khoản của Hiệp định và Nghị định thư.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 nhận định về tình hình và đề ra nhiệm vụ cho cách
mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: nhiệm vụ cơ bản là hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân và nhiệm vụ trước mắt là: “buộc địch phải thi hành
nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực
lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình
huống đưa cách mạng miền Nam tiến lên”[30, tr.237].
Trên tinh thần Nghị quyết 21 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Mặt
trận chủ trương tăng cường đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt
trận chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp
định; vừa chống lấn chiếm, vừa xây dựng lực lượng. Ngày 15-10-1973, Bộ chỉ huy
các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam ra lệnh cho các lực
125
lượng vũ trang cách mạng toàn miền Nam kiên quyết đánh trả đích đáng những
hành động chiến tranh của chính quyền Sài Gòn ở bất cứ đâu, bằng các hình thức và
lực lượng thích đáng. Từ giữa những năm 1974, những hoạt động tấn công và nổi
dậy của quân dân miền Nam ngày càng mạnh mẽ, làm thất bại các hoạt động bình
định của địch và đẩy chúng vào thế phòng ngự.
Trên cơ sở so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho cách mạng miền Nam, Hội
nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 đã bàn về kế hoạch giải phóng
hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975-1976. Cụ thể là năm 1975 tranh thủ thời
cơ, bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, rộng khắp, tạo điều kiện đến năm 1976
tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tuy
nhiên, Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ: nếu thời cơ
đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam, Chính phủ
cách mạng lâm thời mà đặc biệt là vai trò huy động sự đoàn kết chiến đấu của nhân
dân của MTDTGPMNVN, cùng với các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang,
quần chúng nhân dân khắp nội và ngoại thành Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã nổi
dậy, phối hợp đánh, chiếm giữ các vị trí, các mục tiêu trong hệ thống chính quyền và quân đội, cảnh sát của địch trong thành phố. Lúc 11 giờ 30’ ngày 30-4-1975,
Quân giải phóng tiến vào, cắm lá cờ giải phóng lên Dinh tổng thống chế độ Sài
Gòn, Dương Văn Minh thay mặt cho chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng không
điều kiện. Cùng với tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn, đồng bằng Sông Cửu Long
cũng tiến công và nổi dậy. Đến ngày 2-5-1975, toàn bộ miền Nam Việt Nam từ đất
liền đến hải đảo hoàn toàn giải phóng.
Thứ ba, về hoạt động ngoại giao: Với sự ra đời của MTDTGPMNVN, Việt
Nam từ đây không chỉ có ngoại giao của VNDCCH mà còn có ngoại giao của Mặt
trận cùng thực hiện nhiệm vụ chung là tranh thủ tuyên truyền giải thích sự nghiệp
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, lên án chính sách xâm lược và những hành
động tàn bạo của Mỹ, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới
đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
126
MTDTGPMNVN ngay từ khi mới ra đời đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ
của dư luận và các nước trên thế giới. Hội đồng Luật gia Á - Phi, Hội đồng Đoàn
kết nhân dân Á - Phi đã ra nghị quyết ủng hộ Mặt trận và gửi điện chúc mừng. Các
nước Lào, Cămpuchia, Ấn Độ, Nhật Bản, Xênêgan, Cônggô…đã bày tỏ mối thiện
cảm với cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Nhiều tờ báo, nhiều tổ chức ở
Anh, Pháp, Hà Lan, Thụy Sĩ…lên tiếng ủng hộ Mặt trận.
Thực hiện các chuyến thăm ngoại giao, tham dự các Hội nghị quốc tế nhằm
tăng cường sự ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế. Tính từ khi thành lập
đến năm 1965, Mặt trận đã cử 78 phái đoàn đi dự lễ kỷ niệm, thăm hữu nghị nhiều
nước trên thế giới: các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc ở châu Á, châu Phi,
châu Mỹ Latinh và một số nước Tây Âu. Nhằm thắt chặt quan hệ với các nước anh
em, Mặt trận đã lập cơ quan đại diện bên cạnh Ủy ban đoàn kết Á - Phi tại Cairo (Ai
Cập). Mặt trận cũng đã có đại diện thường trực ở các nước Cuba, Trung Quốc,
Inđônêxia, Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Tiệp Khắc…Tiếp đó các cơ quan đại
diện và phòng thông tin của Mặt trận lần lượt thành lập ở Mông Cổ, Lào,
Cămpuchia…sau đó là Nauy, Thụy Điển, Phần Lan, Pháp và nhiều nơi khác.
Mặt trận cũng đã cử nhiều đoàn đại biểu tham dự các diễn đàn hội nghị quốc
tế để xây dựng khối đoàn kết quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Mặt
trận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, Mặt
trận đã cử đại biểu tham dự 66 cuộc hội nghị quốc tế của: công đoàn, thanh niên,
phụ nữ, luật gia, báo chí, tôn giáo, điện ảnh, đoàn kết Á - Phi, đàm phán về biên
giới Việt Nam - Cămpuchia, hội nghị nhân dân Đông Dương…Trong số 66 cuộc
hội nghị này có 37 cuộc hội nghị quốc tế trên thế giới, 29 cuộc hội nghị quốc tế khu
vực. Cũng như các đoàn đi thăm nước ngoài, số đoàn đại biểu của Mặt trận đi dự
hội nghị quốc tế mỗi năm đều tăng: năm 1961 có 1 lần, 1962 có 7 lần, 1963 có 14
lần, 1964 có 21 lần, 1965 có 23 lần. Qua đó, vai trò, uy tín và vị trí của Mặt trận đề
cao trên trường quốc tế.
Trong thời gian này, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, MTDTGPMNVN đã có
nhiều hoạt động ngoại giao nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, tỏ rõ
127
quyết tâm chống Mỹ, cứu nước giành độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam và kêu
gọi sự đoàn kết, ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới đối với Việt Nam.
Từ ngày 1 đến ngày 9-3-1965 tại Phnôm Pênh đã diễn ra Hội nghị Nhân dân
Đông Dương. Đoàn đại biểu của MTDTGPMNVN tham dự Hội nghị cùng các đoàn
đại biểu của MTTQVN, cộng đồng xã hội bình dân Cămpuchia, Neo Lào Hắcxạt,
lực lượng Trung lập Lào yêu nước và các đoàn thể tổ chức khác thuộc ba nước
Đông Dương. Hội nghị đã đưa ra Nghị quyết chung, khẳng định tình đoàn kết của
nhân dân Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và thông
qua ba nghị quyết riêng về Việt Nam, Lào, Cămpuchia. Hội nghị Nhân dân Đông
Dương đánh dấu một bước tiến lớn trong sự nghiệp đoàn kết chiến đấu của nhân
dân ba nước Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ
xâm lược. Thắng lợi này là đòn tấn công mạnh mẽ đánh vào chính sách can thiệp và
xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng ở Đông Dương.
Để nhân dân thế giới rõ lập trường của mình, ngày 22-3-1965, Mặt trận
tuyên bố lập trường sắt đá kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trước sau như một của
mình gồm 5 điểm: Mỹ là kẻ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, kẻ gây chiến và xâm lược
cực kỳ thô bạo; nhân dân miền Nam quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ để giải phóng
miền Nam, thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình,
trung lập; nghĩa vụ thiêng liêng của quân và dân miền Nam là đánh đuổi đế quốc
Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc; nhân dân miền Nam Việt Nam tỏ
lòng biết ơn sâu sắc sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công
lý trên thế giới và tuyên bố sẵn sàng tiếp nhận mọi sự giúp đỡ, kể cả vũ khí và dụng
cụ chiến tranh của bạn bè khắp năm châu; toàn dân đoàn kết, toàn dân vũ trang, tiếp
tục anh dũng xông lên, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước
Ngay sau khi bản tuyên bố lập trường 5 điểm của Mặt trận được công bố, đã
có 22 chính phủ, 22 tổ chức quốc tế và khu vực, 446 đảng phái và đoàn thể quần
chúng, 27 đảng cộng sản và công nhân thuộc 92 nước trên thế giới lên tiếng đồng
tình với Mặt trận, ủng hộ nhân dân miền Nam Việt Nam. Bên cạnh đó, Mặt trận tiếp
tục cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm hữu nghị các nước trên thế giới. Năm 1966 có 29
đoàn đi thăm 16 nước; năm 1967 có 79 đoàn đi thăm 29 nước. Như vậy, từ 1961
128
đến 1967, Mặt trận đã đi thăm được 12 nước xã hội chủ nghĩa, 52 nước tư bản chủ
nghĩa và 3 nước dân tộc chủ nghĩa. Mặt trận cũng đã mở thêm nhiều các cơ quan
đại diện. Tính đến cuối năm 1967, Mặt trận đã có cơ quan đại diện tại hơn 20 nước.
Từ năm 1969 trở đi, có hàng loạt các Hội nghị quốc tế đã diễn ra. Các Hội
nghị này ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt
Nam và chiến tranh Đông Dương. Tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước
Không liên kết họp tại Georgetown của Guyana (8-1972), CPCMLTCHMNVN đã
được công nhận là thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết.
Bên cạnh đó, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời tiếp tục vận động
sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và của Lào và Cămpuchia, góp phần hàn
gắn sự rạn nứt trong phong trào cộng sản quốc tế, làm tăng cường tình đoàn kết
quốc tế. Đồng thời, “ta đẩy mạnh một số hoạt động ngoại giao nhà nước, ngoại giao
nhân dân, tăng cường phối hợp với phong trào nhân dân Mỹ, củng cố và mở rộng
quan hệ với bạn bè, đề cao ảnh hưởng của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm
thời. Ta cũng chú ý hơn trước việc tranh thủ ủng hộ vật chất của nhân dân thế giới
đối với miền Nam Việt Nam”[8, tr.93].
Đặc biệt là Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã rất thành công
trong việc xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Cămpuchia. Trong hai
ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương được tổ chức đã
khẳng định sự cam kết hợp tác lâu dài giữa các dân tộc Đông Dương, khẳng định
quyết tâm đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ giành lại độc lập, tự do của ba nước
Đông Dương đi đến thắng lợi cuối cùng.
Một trong những đóng góp quan trọng của Mặt trận đối với hoạt động ngoại
giao trong thời kỳ này đó là kiên quyết đấu tranh trên bàn đàm phán ở Hội nghị
Pari, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, công nhận hòa bình đối với Việt
Nam.
Tại phiên họp ngày 26-10-1968, Bộ trưởng VNDCCH, Xuân Thủy đã đồng ý
để Mặt trận Giải phóng và chính quyền miền Nam Việt Nam tham gia vào cuộc
đàm phán. Ngày 31-10-1968, hai bên thống nhất: Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc
không điều kiện và chấp nhận nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận tại Hội
129
nghị bốn bên tại Pari. Như vậy, sau 8 năm tìm cách phủ nhận sự tồn tại và vai trò
đại diện của Mặt trận Giải phóng, cuối cùng Mỹ cũng phải thừa nhận và đàm phán
với Mặt trận, để giải quyết vấn đề chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Ngày 3-11-1968, Ủy ban Trung ương MTGPMNVN đã ra tuyên bố về giải
pháp chính trị cho nhân dân miền Nam Việt Nam. Ngày 16-12-1968, đoàn đại biểu
chính thức của Mặt trận do ông Trần Bửu Kiếm, Ủy viên Đoàn Chủ tịch kiêm
Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại của Ủy ban Trung ương Mặt trận, dẫn đầu đã đến
Pari để tham dự Hội nghị Pari về Việt Nam. Ngày 18-1-1969, Hội nghị bốn bên bắt
đầu.
Ngày 25-1-1969, tại phiên họp thứ nhất, Trưởng đoàn Mặt trận Giải phóng
đã khẳng định vai trò to lớn của MTDTGPMNVN là người tổ chức, lãnh đạo nhân
dân miền Nam đấu tranh chống Mỹ và tay sai, có lực lượng chính trị và quân sự
hùng hậu, đã giải phóng 4/5 diện tích đất đai với 11 triệu dân; đã tiến hành bầu cử
nhân dân ở hầu khắp các nơi trong vùng giải phóng. Mặt trận là người đại diện chân
chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, có tiếng nói quyết định và đủ
thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến miền Nam Việt Nam. Mỹ muốn
tìm giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam thì phải nói chuyện nghiêm
chỉnh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Ngày 5-8-1969, tại phiên họp lần thứ 16, đoàn đại biểu Mặt trận Giải phóng
đã công bố giải pháp toàn bộ 10 điểm, đòi quân Mỹ và chư hầu phải rút không điều
kiện, đòi Mỹ phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam. Giải pháp này là một sáng kiến quan trọng, hợp tình hợp lý cho một giải
pháp về vấn đề miền Nam Việt Nam trên tinh thần hòa hợp dân tộc.
Đến ngày 10-9-1969, Đoàn đại biểu của MTDTGPMNVN nay trở thành
đoàn đại biểu của CPCMLTCHMNVN tại Hội nghị Pari về Việt Nam do bà
Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ ngoại giao CPCMLTCHMNVN là Trưởng đoàn.
Việc đoàn đại biểu của Chính phủ Cách mạng lâm thời chính thức thay thế Mặt trận
để ngồi vào bàn đàm phán đã thực sự thể hiện tính pháp lý của đại diện cách mạng
miền Nam, tăng thêm sức mạnh trên bàn đàm phán cho đoàn VNDCCH.
130
Trải qua một quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt trên cả ba mặt trận: chính
trị, quân sự và ngoại giao; đặc biệt là cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán từ phiên
họp đầu tiên đến ngày 21-7-1973, Mỹ đã phải chấp nhận những giải pháp do 2 đoàn
Việt Nam đề ra. Cũng ngày này, bà Nguyễn Thị Bình với tư cách Bộ trưởng Bộ
ngoại giao CPCMLTCHMNVN cùng với Bộ trưởng Ngoại giao của các bên tham
dự Hội nghị cùng ký kết vào văn bản Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh và lập
lại hòa bình tại Việt Nam. Tiếp đó, CPCMLTCHMNVN tham gia vào Hội nghị
Quốc tế về Việt Nam và ký vào bản Định ước ngày 2-3-1973.
Hiệp định Pari được ký kết, là kết quả của những thắng lợi to lớn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt Nam; là thành công rất
xuất sắc của MTDTGPMNVN, CPCMLTCHMNVN trên trường quốc tế, được
nhiều nước trên thế giới chúc mừng và ca ngợi.
Sau Hiệp định Pari, quân và dân miền Nam Việt Nam đã thi hành nghiêm
chỉnh Hiệp định, nhưng phía Mỹ đã có những hành động nhằm phá hoại Hiệp định.
Lúc này, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời nghiêm khắc tố cáo và phê
phán các hành động phá hoại hiệp định của chính quyền Sài Gòn, tranh thủ dư luận
gây sức ép buộc chính quyền Nguyễn Văn Thiệu phải tôn trọng Hiệp định Pari.
Bên cạnh đó, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời còn tiếp tục tranh
thủ sự ủng hộ và viện trợ quốc tế, xem đây như một nhiệm vụ quan trọng. Hoạt
động ngoại giao đã hướng phong trào vào việc đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi
hành hiệp định; lên án chính quyền Sài Gòn không chịu ngừng bắn, không thả hết tù
nhân chính trị. Trong tuyên truyền quốc tế, Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm
thời cũng vận động báo chí quốc tế gợi lại hình ảnh của các “chuồng cọp” để tăng
sức ép với Sài Gòn. Thông qua những hoạt động này, đã làm cho dư luận Mỹ và thế
giới nhận thức được hành động phá hoại hiệp định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
và việc thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari của nhân dân Việt Nam.
Trong những năm cuối 1974 đầu năm 1975, hoạt động ngoại giao nhằm vào
nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi, đánh giá về khả năng Mỹ có thể trở lại can thiệp bằng
quân sự hay không và đấu tranh ngăn chặn khả năng đó. Với những thông tin, tư
liệu, sự kiện do ngoại giao và các cơ quan tham mưu cung cấp và với tầm nhìn
131
chiến lược, Bộ Chính trị đã nhận định: khả năng can thiệp về quân sự của Mỹ rất
hạn chế. Nếu ngụy quyền có nguy cơ sụp đổ, ta cần đề phòng Mỹ có khả năng can
thiệp bằng không quân hoặc hải quân để cứu chúng. Khả năng dùng lục quân rất ít,
nhưng dù chúng có can thiệp thế nào cũng không cứu vãn được ngụy khỏi sụp đổ.
Trong quá trình theo dõi sát sao mọi động thái của Mỹ, ngành ngoại giao đã
đi đến kết luận: lúc này, Mỹ chỉ có thể hăm dọa và gây sức ép từ xa. Điều này thể
hiện rõ trong phản ứng yếu ớt của Mỹ khi Quân Giải phóng đánh chiếm và giải
phóng hoàn toàn Phước Long (1-1975) và đặc biệt là Tuyên bố của tổng thống Mỹ
G. Ford ngày 22-1-1975: sẽ không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện
trợ cho Sài Gòn. Điều đó, càng chứng minh tính đúng đắn của Bộ Chính trị trong
việc nhận định “khả năng can thiệp về quân sự của Mỹ là rất hạn chế”.
Trong những ngày cuối cùng của cuộc Tổng tiến công giải phóng Sài Gòn,
hoạt động ngoại giao của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời còn tiếp tục
góp phần ngăn chặn các hành động trung gian muộn màng của một số nước lớn, làm
thất bại kế hoạch di tản của Liên hợp quốc do Mỹ gợi ý, đồng ý để Hoa Kỳ di tản
những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Sài Gòn.
3.2.3.2. Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam
Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (1-1968), đã đề ra nhiệm vụ trọng đại và cấp
bách trong thời kỳ mới là: động viên sự nỗ lực lớn nhất ở cả hai miền, đưa cuộc
chiến tranh cách mạng của nhân dân ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương
pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Về vấn đề
Mặt trận, Nghị quyết của Hội nghị nhấn mạnh cần phải thành lập một Mặt trận thứ
hai bên cạnh Mặt trận Giải phóng, lấy một cái tên thích hợp với Cương lĩnh rộng rãi
hơn Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Về việc lập Mặt trận thứ hai, trong Điện của Bộ Chính trị gửi lãnh đạo Trung
ương Cục miền Nam đã xác định một số nội dung cơ bản: Mặt trận thứ hai lấy tên
là: “Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình”; Mặt trận này kêu gọi đấu tranh thực
hiện các khẩu hiệu: “Độc lập, chủ quyền”, “Tự do”, “Dân chủ”, “Cơm áo ruộng
đất”, “Lập quan hệ bình thường giữa hai miền Nam - Bắc, tiến tới thống nhất Tổ
quốc”; Mặt trận này sẽ giữ thái độ độc lập với MTDTGPMNVN, tuyên bố liên
132
minh với Mặt trận Giải phóng. Mặt trận thứ hai thành lập chủ yếu ở các thành phố,
đặc biệt ở các thành phố lớn; Hướng dẫn hình mẫu cụ thể cờ của Mặt trận (Hình
chữ nhật, hai màu đỏ ở trên, dưới, giữa màu xanh da trời, ngôi sao vàng ở chính
giữa).
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, quân dân miền Nam đã
tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968. Hòa cùng khí thế
thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam nói chung và thành phố
Huế nói riêng, ngay trong đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968, Liên minh các lực
lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế được thành lập. Tiếp đó, Liên
minh dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Trung Trung Bộ cũng đã được thành lập.
Nhằm mở Mặt trận thứ hai trong quá trình tổng tiến công và nổi dậy, ngày 7-
2-1968, Đài phát thanh Giải phóng đã phát đi bản Tuyên ngôn cứu nước khẩn cấp
của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình. Ngày 8-2-1968, Đoàn
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTDTGPMNVN ra Tuyên bố ủng hộ, đoàn kết với
Liên minh để chống Mỹ - Thiệu - Kỳ, để cứu nước, cứu nhà. Để phát huy hơn nữa
vai trò của Liên minh và Tuyên ngôn, tránh hiểu lầm và ảnh hưởng đến sự hiệu
triệu, động viên, tập hợp quần chúng, Bộ Chính trị đã kịp thời góp ý một số điểm và
chỉ rõ nội dung tuyên ngôn phải thể hiện được lập trường nguyên tắc chống Mỹ
xâm lược; không nên hiểu rằng Liên minh là một lực lượng trung lập giữa Mỹ và
Mặt trận Giải phóng.
Nhu cầu đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao đòi hỏi cấp thiết sớm thực
hiện chủ trương thành lập Mặt trận thứ hai. Ngày 8-4-1968, Bộ Chính trị có điện
gửi Trung ương Cục miền Nam, chỉ rõ yêu cầu cần thành lập ủy ban toàn miền Nam
của của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình. Đây là một công
việc khó khăn, phức tạp, nhưng là một chủ trương sách lược rất quan trọng cần phải
thực hiện.
Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy 1968, là một đòn chính trị và quân
sự lớn đánh vào đầu não của chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, làm đảo
lộn kế hoạch chiến lược quân sự của địch, đẩy chúng lún sâu vào thế phòng ngự bị
động. Đồng thời, cao trào đã tạo điều kiện cho một số nhân sĩ, trí thức rời các đô thị
133
ra vùng giải phóng, đi theo tiếng gọi của Mặt trận với chính sách đại đoàn kết dân
tộc và chủ trương hòa bình trung lập. Số đông còn lại cùng với nhân dân tiếp tục
đấu tranh. Nhưng càng thất bại, Mỹ càng bộc lộ bản chất xâm lược ngoan cố, hung
hãn và chính quyền Sài Gòn càng phơi trần bộ mặt bán nước thối tha, tàn bạo.
Chúng càng chà đạp trắng trợn lên nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, thì mặt
trận tranh đấu chống Mỹ và bù nhìn tay sai ở đô thị càng được mở rộng, tập hợp
đông đảo các tầng lớp đồng bào từ công nhân lao động đến học sinh, sinh viên, trí
thức, tư sản, đến cả những người trong hàng ngũ công chức, sĩ quan và binh lính
thuộc chính quyền tay sai. Nguyện vọng cơ bản và bức thiết nhất của đồng bào ta là
độc lập, chủ quyền dân tộc, tự do dân chủ, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hòa
bình, trung lập, ấm no hạnh phúc và tiền tới thống nhất nước nhà. Chính vì vậy,
ngày 20 và ngày 21-4-1968, Hội nghị đại biểu toàn miền Nam của Liên minh các
lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam đã diễn ra tại một địa điểm gần Sài
Gòn, Chợ Lớn. Tham dự có đại diện các nhân sĩ, trí thức, học sinh, văn nghệ sĩ, ký
giả, công chức…thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, tôn giáo, đoàn thể. Hội nghị
đã bầu ra Ủy ban Trung ương Liên minh do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch;
hai Phó Chủ tịch là kỹ sư Lâm Văn Tết và Hòa thượng Thích Đôn Hậu; Tổng thư
ký là Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ; ba Phó Tổng thư ký là bác sĩ Dương Quỳnh
Hoa, nhà văn Thanh Nghị và sinh viên Lê Hiếu Đằng.
Liên minh đã ra bản Tuyên ngôn cứu nước, xác định rõ kẻ thù, khẳng định
lập trường của Liên minh và vai trò, sứ mạng lịch sử của Liên minh: “Cứu nước là
sự nghiệp của toàn dân, và sức mạnh đảm bảo thắng lợi, là sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc. LMCLLDTDC&HBVN chủ trương đoàn kết mọi lực lượng và cá
nhân yêu nước, không phân biệt xu hướng, chính kiến, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, thành phần xã hội, đoàn kết trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập và chủ
quyền dân tộc hiện nay cũng như trong giai đoạn kiến thiết đất nước sau này” [79,
tr.417]. Với Cương lĩnh thích hợp, Liên minh đã đoàn kết và tranh thủ thêm được
một số tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị và một số người có xu
hướng hòa bình trung lập nhưng chưa tham gia Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam, tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nói về ý nghĩa sự ra
134
đời của Liên minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự ra đời và những hoạt
động tích cực của Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt
Nam…là một thắng lợi rực rỡ của lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân đoàn kết
chống Mỹ, cứu nước”[61, tr.448].
Ngay sau khi Liên minh ra đời, Mặt trận DTGPMNVN đã ra tuyên bố ủng hộ
lập trường chính trị, chương trình hành động, sẵn sàng liên hiệp hành động với Liên
minh trong sự nghiệp đoàn kết đấu tranh chống Mỹ, cứu nước. Tiếp đó, ngày 2-5-
1968, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN ra tuyên bố chỉ rõ
việc LMCLLDTDC&HBVN ra đời là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu
bước phát triển mới của khối đại đoàn kết để cứu nước của nhân dân.
Ra đời trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam,
LMCLLDTDC&HBVN được sự tham gia, ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân
dân đã không ngừng lớn mạnh về chính trị và tổ chức. Đồng thời, kiên định lập
trường đã được khẳng định trong Tuyên ngôn cứu nước, Liên minh các lực lượng
dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam tại Hội nghị đại biểu Liên minh lần thứ hai
(ngày 30 và 31-7-1968) đã long trọng công bố Chương trình chính trị nhằm đề ra
những chính sách và chủ trương cụ thể trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc, xây
dựng một miền Nam độc lập, tự do, dân chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng tạo
điều kiện từng bước tiến lên hòa bình thống nhất nước nhà.
Chương trình chính trị gồm có những điểm chính sau đây:
I. Cứu quốc: Đoàn kết mọi lực lượng và cá nhân yêu nước, kiên quyết chống
chiến tranh xâm lược, đánh đổ chế độ bù nhìn tay sai, thành lập Chính phủ liên hiệp
dân tộc, giành độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng cho miền Nam
Việt Nam.
II. Kiến quốc: Sau khi giành lại độc lập, chủ quyền và hòa bình cho xứ sở,
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam chủ trương luôn
luôn đoàn kết với các lực lượng và cá nhân yêu nước, đề ra những chính sách cụ thể
về đối nội, đối ngoại nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, kiến thiết đất nước, xây
dựng miền Nam Việt Nam thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, tự do, dân
chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng.
135
III. Vấn đề thống nhất: Thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết và là
nghĩa vụ thiêng liêng của dân ta. Hiện nay trên thực tế nước ta có hai chế độ chính
trị khác nhau ở hai miền Nam Bắc. Sự thống nhất nước nhà không thể giải quyết
một sớm một chiều được, do đó hai miền Nam Bắc cần có sự bàn bạc, thương lượng
với nhau trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng đặc điểm của mỗi miền để tiến tới hòa
bình thống nhất nước nhà. [8].
Để thực hiện được đường lối chính trị đúng đắn của mình, Liên minh chú
trọng và củng cố khối đoàn kết vững mạnh của toàn dân nhằm đảm bảo mọi thắng
lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Liên minh đã thông qua các giới học sinh,
sinh viên, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các
thành thị miền Nam, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức đấu tranh ở
trong nước và nước ngoài, góp phần động viên, thúc đẩy hoạt động yêu nước, chống
Mỹ và tay sai. Liên minh Khu Sài Gòn - Gia Định ra đời trong cuộc họp của các
nhân sĩ, trí thức thành phố tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương Nam (đóng ở xã Bình
Chánh, tỉnh Long An) do Giáo sư Lê Văn Giáp làm Chủ tịch. Một số thành viên
Liên minh sau này đã tham gia Ban Cố Vấn và Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của LMCLLDTDC&HBVN và Ủy ban
Liên minh khu Sài Gòn - Gia Định có tiếng vang lớn trong nước và thế giới, tạo
niềm phấn khởi và tin tưởng trong nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
LMCLLDTDC&HBVN ra đời đánh dấu bước phát triển mới của khối đại
đoàn kết toàn dân, đáp ứng kịp thời yêu cầu cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta, tạo thêm cơ sở chính trị để tiến tới thành lập CPCMLTCHMNVN. Việc Liên
minh ra đời làm cho lực lượng cách mạng ngày càng hùng hậu, làm cho Mỹ - ngụy
ngày càng lộ rõ bộ mặt cướp nước và bán nước và càng bị cô lập. Nhận thức được
điều đó, ngụy quyền Sài Gòn điên cuồng xuyên tạc tổ chức đoàn kết dân tộc mới
này. Tòa án quân sự vùng III chiến thuật quân đội Sài Gòn đã kết án tử hình và tịch
biên gia sản của 10 thành viên của Ủy ban Trung ương Liên minh.
Đầu năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh đã có nhiều hoạt
động trên các lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại. Ngày 6-3-1969, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi điện tới Luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên
136
minh nêu lên nhiệm vụ trước mắt của toàn dân ta và bày tỏ tin tưởng rằng: hợp tác
chặt chẽ với Mặt trận Giải phóng, Liên minh nhất định sẽ ngày càng mở rộng ảnh
hưởng, làm cho khối đoàn kết toàn dân ngày càng lớn mạnh, góp phần đưa cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Từ ngày 20 đến ngày 21-4-1969, LMCLLDTDC&HBVN mở Đại hội lần thứ
I. Đầy đủ các vị trong Ủy ban Trung ương Liên minh, đại diện Liên minh các địa
phương và đông đảo các đoàn thể chính trị, tôn giáo, nhiều nhân sĩ, trí thức, văn
nghệ sĩ, ký giả, sinh viên, học sinh và các nhà công thương, kỹ nghệ đã tham dự Đại
hội.
Đại hội đã phân tích những thắng lợi to lớn của cách mạng miền Nam trong
hơn một năm qua và khẳng định, trong quá trình liên hiệp với Mặt trận Giải phóng,
Liên minh đã có những đóng góp rất tích cực cho cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc. Trước yêu cầu mới của cách mạng, Liên minh chủ trương sẵn sàng liên
hiệp với mọi lực lượng cứu nước, dân chủ để mở rộng hơn nữa mặt trận đoàn kết
dân tộc và kêu gọi đồng bào các thành thị hãy tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết dân
tộc, đứng lên đấu tranh lật đổ Thiệu - Kỳ - Hương, lập nội các hòa bình, buộc Mỹ
rút quân vô điều kiện ra khỏi miền Nam.
Liên minh đã phối hợp hoạt động với Mặt trận giải phóng phát huy vai trò
làm cơ sở của chính quyền nhân dân đã có nhiều hoạt động tích cực góp phần quan
trọng vào việc thành lập chính phủ liên hiệp. Những người tiêu biểu, có uy tín trong
Liên minh và Mặt trận giải phóng đã được giới thiệu vào Chính phủ lâm thời và Hội
đồng cố vấn của Chính phủ. Từ ngày 6 đến ngày 10-6-1969, tại vùng căn cứ Bắc
Tây Ninh (rừng Tà Nốt huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh) đã diễn ra Đại hội đại biểu
quốc dân miền Nam, thành lập CPCMLTCHMNVN. Khi chính quyền các cấp được
xây dựng, củng cố, kiện toàn, Liên minh đã trở thành hậu thuẫn vững chắc của
chính quyền nhân dân.
Với chủ trương sẵn sàng liên hiệp với mọi lực lượng cứu nước, dân chủ để
mở rộng hơn nữa mặt trận đoàn kết dân tộc dân chủ, cứu nước và kêu gọi đồng bào
các thành thị hãy tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết dân tộc, Liên minh đã cùng với
Mặt trận giải phóng động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh dưới nhiều
137
hình thức. Hàng loạt các phong trào của học sinh, sinh viên, công nhân, tăng ni,
Phật tử đã diễn ra trong thời gian này. Tiêu biểu như: ngày 7-1-1970, hưởng ứng lời
kêu gọi của Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam, hơn 70.000 công nhân
thuộc 118 nghiệp đoàn Sài Gòn tổng bãi công ủng hộ công nhân xe buýt đòi chính
quyền Thiệu - Kỳ phải lập lại công quản xe buýt, nhận lại công nhân bị sa thải.
Hàng vạn công nhân ở các thành phố thị xã khác ở Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Bến
Tre, Mỹ Tho cũng tổ chức mít tinh, biểu tình, hội họp kịch liệt phản đối chế độ Mỹ
- Thiệu và ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn.
Phong trào học sinh, sinh viên phát triển với những cuộc đấu tranh quy mô
lớn. Điển hình là phong trào đấu tranh phản đối Mỹ - Diệm bắt giam 40 sinh viên đã
bùng phát thành nhiều cuộc tổng bãi khóa lan nhanh từ Sài Gòn ra Huế, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Long Xuyên, Sóc Trăng…Phong trào học sinh, sinh viên chưa kết thúc thì
ngày 8-5-1970, đã nổ ra phong trào của Phật tử ở Đà Nẵng rất rầm rộ, thu hút hơn
35.000 công nhân theo đạo Phật xuống đường biểu tình. Tiếp đó, ngày 31-7-1971,
Luật sư Trịnh Đình Thảo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên minh đã gửi thư cho
đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn và các thành thị miền Nam vạch trần âm mưu thủ
đoạn của việc “bầu cử Hạ viện” và “tổng thống” nhằm lừa bịp nhân dân, đã dẫn đến
nhiều hình thức đấu tranh nhằm tẩy chay trò hề của Mỹ - ngụy trong khắp các đô thị
miền Nam.
Đầu năm 1971, một sự kiện rất đáng chú ý, có tác dụng tập hợp, thu hút
nhiều nhân sĩ, trí thức còn trong vùng địch tạm chiếm, đó là Ủy ban Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình khu Sài Gòn - Gia Định do Giáo sư Nguyễn
Văn Chi làm Chủ tịch đã ra vùng giải phóng. Ngày 20-9-1974, Ủy ban Liên minh
các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế, do Giáo sư Lê Văn Hảo
làm Chủ tịch, ra tuyên bố lên án chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đàn áp dã man các
cuộc biểu tình của đồng bào và kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh, tiến lên giành thắng
lợi hoàn toàn.
Thực hiện chủ trương thành lập một hình thức tổ chức mặt trận rộng rãi hơn
và thực hiện liên hợp hành động các hình thức tổ chức mặt trận hiện có, trong hai
ngày 18 và 19-4-1974, Ủy ban Trung ương LMCLLDTDC&HBVN đã họp Hội
138
nghị mở rộng, đánh giá thắng lợi của Hiệp định Pari, phong trào đấu tranh ở các đô
thị, đồng thời kêu gọi các giới, đồng bào đô thị, nhân sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên,
công chức, quân nhân Sài Gòn, công thương, kỹ nghệ gia, hãy đoàn kết chặt chẽ,
phối hợp hành động giữa các giới, các tổ chức hình thành mặt trận rộng rãi, đòi dân
sinh, dân chủ, hòa bình, hòa hợp dân tộc.
Nhờ chủ trương đúng đắn trên của Liên minh, đã dấy lên phong trào đấu
tranh chính trị sôi nổi trong các thành phố, đô thị miền Nam với nhiều hình thức tổ
chức và hoạt động đấu tranh mới như: đấu tranh đòi giải quyết việc làm cho 20 vạn
người thất nghiệp; phong trào của một số tôn giáo, giáo dân; phong trào của giới
báo chí cũng phát triển mạnh mẽ. Ngày 10-10-1974, giới báo chí và đồng bào Sài
Gòn tổ chức biểu tình với đoàn người kéo dài 1km, đả đảo chế độ độc tài, đòi Thiệu
từ chức. Sang năm 1975, thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam của Bộ Chính
trị, phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị dưới sự lãnh đạo của Liên minh và
Mặt trận giải phóng đã kết hợp với đấu tranh vũ trang đưa đến thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là chiến thắng của cả dân tộc Việt Nam, của
mọi người Việt Nam yêu nước, trong đó có sự đóng góp to lớn của Liên minh.
Song song với việc tổ chức cho các giới, đồng bào đấu tranh chính trị trong
các đô thị, Liên minh đã phối hợp với MTDTGPMNVN trong việc thống nhất mọi
lực lượng cách mạng, yêu nước để hình thành phái đoàn đại diện chân chính, hợp
pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari về Việt Nam và
buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari, công nhận chủ quyền độc lập và lãnh thổ toàn vẹn
của nước ta, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Không những vậy,
Liên minh còn tập hợp mọi lực lượng đấu tranh đòi Mỹ - ngụy thi hành hiệp định
Pari, tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Bằng sức mạnh đoàn kết vĩ đại của toàn dân, với lòng yêu nước nồng nàn,
với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân dân miền Nam đã tập hợp
muôn người như một trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng và MCLLDTDC &
HBVN, đã hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước. Từ ngày 31.1 đến 4.2.1977, Đại hội MTDTTN Việt Nam đã họp tại
Thành phố Hồ Chí Minh, quyết định: thống nhất MTTQVN, MTDTGPMNVN và
139
LMCLLDTDC & HBVN thành một tổ chức duy nhất trên đất nước ta lấy tên là Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Sự ra đời của LMCLLDTDC&HBVN là điểm sáng tạo
trong quá trình xây dựng MTDTTN ở miền Nam Việt Nam nói riêng và cả nước nói
chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
140
Tiểu kết chương 3
Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ chính trị - xã hội khác nhau; đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng
khác nhau, đòi hỏi phải có sự sáng tạo về đường lối cách mạng nói chung và chủ
trương chính sách MTDTTN nói riêng. Trong bối cảnh đó, Đảng vẫn khẳng định
đường lối cách mạng là tiếp tục giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; xác định vị trí, mối quan hệ khăng khít giữa cuộc đấu tranh của nhân
dân ở hai miền có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Chính đường lối đó đã đặt ra và giải
quyết một cách độc đáo, sáng tạo, yêu cầu của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và
MTDTTN ở mỗi miền và chung cả nước.
MTTQVN là hình thức tổ chức đặc biệt so với tất cả các tổ chức trước đó và
sau này là bởi trong cùng một lúc vừa phải đoàn kết, tập hợp lực lượng hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ; tập trung sức lực cho công cuộc cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa phải cổ vũ, động viên để duy trì, phát triển cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Đó chính là một sáng tạo độc đáo mới mẻ
trong lịch sử MTDTTN Việt Nam, là một cống hiến lý luận, thực tiễn làm phong
phú kho tàng của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phối hợp, lồng ghép hai chiến lược
cách mạng và cũng là hai chiến lược đoàn kết, tập hợp lực lượng khác nhau để hoàn
thành một mục tiêu chung của cách mạng cả nước.
Sự phát triển của cách mạng miền Nam đã dẫn đến sự ra đời của
MTDTGPMNVN (1960) và sau đó là LMCLLDTDC&HBVN (1968) để kêu gọi
các giai cấp, tầng lớp đứng lên đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất
đất nước, hình thành nên MTDTTN chống Mỹ, cứu nước rộng rãi. Dưới sự lãnh đạo
của Mặt trận và Liên minh, với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân
dân ta đã đồng tâm hiệp lực, muôn người như một đã hoàn thành sự nghiệp vẻ vang
giải phóng hoàn toàn miền Nam, tạo tiền đề tiến tới thống nhất Tổ quốc, thu non
sông về một mối.
141
KẾT LUẬN
1. MTDTTN ở Việt Nam cần được nhận thức trên tầm chiến lược, không
phải chỉ ở mức độ sách lược như các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản trước Đại
hội VII và đường lối chính trị của các Đảng Cộng sản khác đã chủ trương. Sự hình
thành và phát triển của MTDTTN chống đế quốc, phong kiến là một nhân tố cơ bản
quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước.
Đây là một chiến lược cách mạng - chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có
thể tập hợp được, hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh với kẻ
thù. Nếu không tập hợp được toàn thể dân tộc vào một khối, thành một lực lượng
hùng hậu cô lập đế quốc và phong kiến thì không thể nào đánh thắng được kẻ thù.
Đối với dân tộc ta, một dân tộc nhỏ muốn đánh thắng thực dân, đế quốc to thì nhất
thiết phải ra sức tập trung lực lượng và phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc
trong MTDTTN.
Trong suốt các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là thời kỳ 1945 - 1975, Đảng ta
luôn thực hiện chiến lược đoàn kết toàn dân, xây dựng MTDTTN. Điều đó phù hợp
với truyền thống đoàn kết của dân tộc ta và tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy,
đã đưa đến những thắng lợi to lớn cho cách mạng Việt Nam, nhất là đánh thắng
được là hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ. MTDTTN thực sự đã trở thành một nhân tố
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử vẻ vang của MTDTTN nói chung và
MTDTTN trong cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là một pho lịch sử vô
cùng quý giá, phong phú, sinh động của dân tộc ta; đồng thời thể hiện sự vận dụng
sáng tạo, tài tình học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong điều
kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau thì công tác Mặt trận cũng còn gặp
phải những khó khăn, hạn chế nhất định.
2. Từ việc nghiên cứu MTDTTN trong cách mạng Việt Nam thời kỳ 1945 -
1975, bước đầu có thể rút ra một số tính chất, đặc điểm của Mặt trận. Việc xác định
142
tính chất, đặc điểm của MTDTTN ở nước ta sẽ giúp phân biệt với Mặt trận các
nước khác. Chính tính chất và đặc điểm của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nước ta đã quy định tính chất và đặc điểm của MTDTTN Việt Nam. Tìm hiểu tính
chất và đặc điểm của mặt trận trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
không những có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận, góp phần làm phong phú cách mạng
giải phóng dân tộc của Việt Nam, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công tác Mặt
trận của Đảng Cộng sản mà còn có ý nghĩa thiết thực đối với công tác Mặt trận ngày
nay.
Về tính chất, MTDTTN Việt Nam trong giai đoạn này nổi bật lên hai tính
chất cơ bản sau:
Một là, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, tính chất không thay
đổi của Mặt trận là tính chất dân tộc và dân chủ. Trong đó, tính chất dân tộc trở
thành đặc trưng nổi bật nhất của MTDTTN chống đế quốc ở nước ta.
Tính chất dân tộc của Mặt trận thể hiện ở nhiệm vụ phản đế; tính chất dân
chủ thể hiện ở nhiệm vụ phản phong. Tính chất này của Mặt trận đã nói lên mối
quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam đã được kết hợp nhuần nhuyễn và xử
lý một cách hài hòa, không tách rời và đối lập nhau bởi một tổ chức liên minh, liên
hiệp đó là MTDTTN Việt Nam. Mọi ưu điểm và thành tựu, cũng như mọi sai lầm
và khuyết điểm của Mặt trận đều bắt nguồn từ chỗ nhận thức về tính chất dân tộc và
dân chủ của mặt trận trong điều kiện nước ta.
Tính chất dân tộc và dân chủ của MTDTTN Việt Nam tồn tại trong suốt giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mặc dù trong thời gian dài, hàng ngũ
đối tượng cách mạng có nhiều thay đổi, lực lượng đồng minh có thay đổi, cương
lĩnh đấu tranh cũng như tên gọi của Mặt trận cũng thay đổi nhiều lần, song không vì
thế mà làm thay đổi tính chất dân tộc và dân chủ của Mặt trận.
Như vậy, căn cứ vào nội dung, nhiệm vụ được đề ra trong đường lối cách
mạng Việt Nam, thì MTDTTN nước ta có hai tính chất cơ bản, đó là tính dân tộc và
dân chủ. Song nhìn chung, tính chất dân tộc vẫn là xuyên suốt, nổi trội và trở thành
một đặc trưng cơ bản của MTDTTN ở Việt Nam.
143
Tính chất dân tộc của MTDTTN chống đế quốc ở nước ta được thể hiện sâu
sắc, toàn diện trong đường lối, chiến lược, sách lược và trên mọi lĩnh vực của cuộc
cách mạng. Tính chất đó không chỉ biểu hiện ở số người tham gia Mặt trận đông
đảo mà còn tập hợp, thu hút được hầu hết các giai cấp, tầng lớp của cộng đồng dân
tộc ở trong và ngoài nước, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, đảng phái,
có lợi ích giống nhau và khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, chỉ cần tán thành
mục tiêu chung là giải phóng dân tộc. Không những vậy, tính chất dân tộc của Mặt
trận còn được thể hiện ở quá trình giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích của giai cấp,
tầng lớp khi tham gia Mặt trận đều tuân theo nguyên tắc phải đặt lợi ích dân tộc lên
hàng đầu. Các lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp, các bộ phận đều phải phục tùng
lợi ích dân tộc. Độc lập dân tộc là lý tưởng và mục tiêu cao nhất của mọi thành viên
trong cộng đồng dân tộc cũng như trong Mặt trận. Thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng
và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển giữa các dân tộc và các tôn giáo cũng biểu hiện
tính dân tộc sâu sắc của Mặt trận nước ta.
Tuy mang tính dân tộc sâu sắc nhưng Mặt trận nước ta không rơi vào chủ
nghĩa dân tộc vị kỷ hẹp hòi; không xóa nhòa ranh giới giai cấp. Cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc càng được mở rộng thì nhiệm vụ dân chủ, phản phong cũng
được nâng lên tương ứng để đảm bảo sự hài hòa giữa hai tính chất dân tộc và dân
chủ cùng hai nhiệm vụ đối với dân tộc và giai cấp.
Hai là, MTDTTN Việt Nam mang tính chất rộng rãi, bao gồm nhiều tầng lớp
nhân dân không phân biệt giàu nghèo, chủng tộc hay tôn giáo.
Tính chất rộng rãi của MTDTTN được thể hiện: Mặt trận đã tập hợp và thu
hút được mọi người yêu nước Việt Nam ở trong và ngoài nước, bao gồm đủ các lứa
tuổi, giới tính, các ngành nghề ở mọi vùng miền…Mặt trận không chỉ có các tổ
chức, đoàn thể nhân dân, mà còn có sự tham gia của các tầng lớp trên, của một số
đảng phái dân chủ, yêu nước của người Việt Nam và người nước ngoài trên đất
nước Việt Nam. Đây chính là điểm khác nhau căn bản giữa Mặt trận với các chính
đảng, các đoàn thể. Đó cũng chính là lợi thế của Mặt trận, làm cho Mặt trận có thể
tập hợp được mọi tầng lớp nhân dân có thể tập hợp được, tạo nên sức mạnh của
khối đại đoàn kết dân tộc, đánh bại kẻ thù xâm lược.
144
Tính chất rộng rãi của Mặt trận không chỉ thể hiện ở phạm vi đối tượng tham
gia đấu tranh mà còn biểu hiện ở hình thức tổ chức tập hợp phong phú, đa dạng.
Mặt trận gồm những hình thức tổ chức cao, có hệ thống thống nhất từ trên xuống
dưới và có chương trình, điều lệ chặt chẽ cho đến những hình thức tổ chức với điều
lệ đơn sơ. Mặt trận còn kế thừa, sử dụng tất cả các hình thức tập hợp quần chúng, kể
cả những hình thức tập hợp mang tính dân gian truyền thống.
Với tính chất rộng rãi như vậy, nên uy tín, ảnh hưởng của Mặt trận đã ăn sâu,
lan rộng khắp toàn dân. Không những thế, Mặt trận trong thời kỳ này dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã liên minh với Mặt trận nhân dân các nước Đông Dương và Mặt
trận nhân dân thế giới, đoàn kết, ủng hộ Việt Nam. Do đó, đã hình thành trên thực tế
“ba tầng mặt trận” thống nhất ở trong nước, khu vực và trên thế giới.
Về đặc điểm, chúng ta có thể khái quát một số đặc điểm của MTDTTN Việt
Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân như sau:
Một là, MTDTTN Việt Nam do giai cấp công nhân thực tế lãnh đạo thông
qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, hoàn toàn không phân chia quyền
lãnh đạo ấy với một giai cấp nào khác.
MTDTTN Việt Nam ra đời gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam từ chủ trương đến hình thức, biện pháp, điều kiện hoạt động của Mặt trận. Hơn
80 năm qua, không khi nào vắng bóng MTDTTN Việt Nam trong các thời kỳ cách
mạng và cũng không khi nào thiếu sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận. Trong
từng bước đi của Mặt trận, Đảng luôn thông qua vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị
của mình, làm cho chủ trương, đường lối đấu tranh cách mạng và chủ trương, biện
pháp, hình thức tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng biến thành chương trình
hành động của các tổ chức Mặt trận khác nhau qua các thời kỳ. Đảng Cộng sản vừa
là thành viên, vừa là tổ chức lãnh đạo Mặt trận là một nguyên tắc được hình thành
từ ngay khi MTDTTN Việt Nam vừa mới ra đời. Chính sự hóa thân của Đảng vào
Mặt trận nhưng vẫn giữ vai trò độc lập của Đảng trong Mặt trận đã tạo thành cái cốt
chính trị vững chắc cho các tổ chức Mặt trận qua các thời kỳ khác nhau. Đó là nhân
tố làm cho MTDTTN phát triển một cách linh hoạt, sáng tạo trong từng giai đoạn cụ
thể với những tên gọi khác nhau, làm cho Mặt trận khắc phục được những khuyết
145
điểm “tả” khuynh và hữu khuynh, giải quyết được những mâu thuẫn nội bộ, những
vấn đề nảy sinh.
Hai là, MTDTTN nước ta là một tổ chức vững chắc, thống nhất và lâu bền.
Đây cũng là một trong những đặc điểm độc đáo, sáng tạo của Mặt trận ở
nước ta. Đặc điểm này trước hết được thể hiện ở nguyên tắc đoàn kết đã được đề ra
trong các Tuyên ngôn, Chính cương của các hình thức tổ chức Mặt trận. Đảng ta đã
chỉ rõ: Mặt trận là một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sức
mạnh vô biên của cuộc kháng chiến và kiến quốc, là cơ sở quần chúng rộng rãi làm
thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của
chúng.
Tính vững chắc, lâu bền và thống nhất của Mặt trận còn thể hiện nhằm hoàn
thành những mục tiêu, chiến lược lâu dài của cách mạng dân tộc dân chủ mà trước
hết là giành độc lập dân tộc. Hơn nữa, Mặt trận là một hệ thống tổ chức được duy trì
thường xuyên, thống nhất từ trên xuống dưới, ăn sâu bám rễ đến các tầng lớp nhân
dân ở cơ sở. Đặc biệt, đặc điểm này còn được thể hiện ở vai trò hạt nhân lãnh đạo
của Đảng và có sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể quần chúng cơ bản như công
- nông - thanh - phụ làm nòng cốt, trong đó công - nông luôn chiếm đa số.
Ba là, MTDTTN vừa là vấn đề chiến lược, vừa là vấn đề sách lược.
Mặt trận chính là nơi kết hợp một cách hài hòa giữa chiến lược và sách lược
của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Mục tiêu của cách mạng dân tộc dân
chủ là phản đế và phản phong, hai nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít, tác động
qua lại lẫn nhau. Quá trình thực hiện hai nhiệm vụ ấy không bao giờ được tách rời
chúng, đó là chiến lược; song do đặc điểm tương quan lực lượng và diễn biến của
cuộc đấu tranh, hai nhiệm vụ đó không được tiến hành nhất loạt ngang nhau, đó là
sách lược. Trong khi vận động toàn dân đấu tranh cho nhiệm vụ chiến lược đánh đổ
đế quốc, giành độc lập, tự do cho đất nước và thực hiện cải cách dân chủ, người cày
có ruộng, MTDTTN lại phải thực hiện việc liên minh, liên kết với nhân sĩ dân chủ,
thân sĩ yêu nước…để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, tạo nguồn sức
mạnh to lớn để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ.
146
Chính Mặt trận và chỉ có Mặt trận mới là tổ chức hợp lý nhất có thể kết hợp
hài hòa giữa chiến lược và sách lược trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Đó là lợi thế và cũng là sứ mệnh lịch sử cao cả của Mặt trận mà không tổ
chức, đoàn thể nào có thể thay thế được. Một tổ chức vừa là chiến lược, vừa là sách
lược; vừa giữ vững nguyên tắc, vừa linh hoạt, mềm dẻo như MTDTTN Việt Nam là
thành quả của sự phân tích một cách khoa học cơ cấu giai cấp, xã hội Việt Nam
trong thế kỷ XX với những mâu thuẫn xã hội không giống ở các nước khác, sáng
tạo ra một hình thức tổ chức mang tính chất đặc thù để giải quyết các mâu thuẫn
trong xã hội, tiến tới giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Bốn là, MTDTTN Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ tùy từng thời
kỳ mà có mục tiêu, khẩu hiệu đấu tranh; chủ trương tập hợp, đoàn kết lực lượng và
tên gọi khác nhau.
Thực tế qua các thời kỳ, Mặt trận đã đề ra những khẩu hiệu đấu tranh uyển
chuyển, không cứng nhắc, lựa chọn các hình thức tổ chức linh hoạt với tên gọi của
Mặt trận chung và Mặt trận của từng giới, phù hợp với đặc điểm và nhiệm vụ của
từng thời kỳ cách mạng khác nhau. Đây là một đặc điểm nổi bật của MTDTTN Việt
Nam. Giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của nước ta trên thực tế kéo
dài nửa thể kỷ với sự thay đổi về nhiệm vụ và mục tiêu đấu tranh ở từng thời kỳ, đặt
ra những yêu cầu khác nhau về việc tập hợp lực lượng và thiết lập các hình thức liên
minh khác nhau. Sự thay đổi việc tập hợp lực lượng và thiết lập sự liên minh bằng
các hình thức tổ chức MTDTTN khác nhau chẳng những diễn ra theo dòng chảy
liên tục của thời gian qua các thời kỳ lịch sử, mà còn diễn ra trong cùng một thời
điểm lịch sử, dẫn đến sự đa dạng hóa các hình thức tổ chức Mặt trận. Có như vậy
mới đáp ứng được khẩu hiệu đấu tranh khác nhau.
Năm là, giữa các đảng phái, các tầng lớp trong Mặt trận nói chung không có
sự đấu tranh giai cấp mà có sự hợp tác, phê bình, kiểm soát, thành thật, ai cũng đặt
quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết.
Đó là do điều kiện đặc biệt ở nước ta đảng phái ít. Nhân dân bị kìm hãm dưới
ách đế quốc quá lâu nên chán ghét chế độ thuộc địa, nên thống nhất tư tưởng và
hành động, dễ dàng thống nhất thành một khối, có một kỷ luật nghiêm khắc từ trên
147
đến dưới. Hình thức vừa kết nạp đoàn thể vừa kết hợp cả các tầng lớp cá nhân đứng
trong mặt trận. Nó là sản phẩm đặc biệt trong cuộc đấu tranh của dân tộc ta.
3. Trên cơ sở chỉ ra những tính chất, đặc điểm cũng như thực tiễn hoạt động
của MTDTTN trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chúng ta có thể bước đầu
rút ra những bài học kinh nghiệm về MTDTTN trong giai đoạn này.
Một là, không ngừng chú trọng nâng cao nhận thức về đại đoàn kết dân tộc
trong MTDTTN.
Trong suốt quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhiệm vụ xây
dựng MTDTTN có tầm quan trọng đặc biệt, nhưng lại là vấn đề mới mẻ, chưa có
những chỉ dẫn cụ thể, chưa có mô hình tiền lệ. Chính vì vậy luôn xuất hiện những
quan niệm, nhận thức khác nhau về MTDTTN ở nước ta.
Do đó, việc làm chuyển biến và nâng cao nhận thức về đại đoàn kết dân tộc
trong MTDTTN là vấn đề có ý nghĩa quyết định mở đường cho việc thực hiện các
chủ trương, chính sách về Mặt trận. Để nâng cao nhận thức về Mặt trận, trước hết
cần quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cần đặc biệt chú trọng nghiên cứu,
học tập, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh về đường lối cách mạng nói chung và đại đoàn kết trong MTDTTN nói riêng.
Bên cạnh đó, việc giáo dục, nâng cao nhận thức về Mặt trận còn cần phải được tiến
hành một cách chu đáo, cẩn thận phù hợp với điều kiện thực tế từng lúc, từng nơi;
không chỉ giới hạn trong hệ thống tổ chức của Mặt trận mà còn phải tiến hành trong
các tổ chức đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân.
Hai là, vận dụng đúng đắn những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng, thực
hiện MTDTTN.
Một vấn đề có tính nguyên tắc là không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của
Đảng trong MTDTTN, phải giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách
mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền
lãnh đạo trong Mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng.
Mấu chốt để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong mặt trận là hoàn chỉnh đường
lối cách mạng và không ngừng củng cố khối liên minh công nông.
148
Đảng cũng là một tổ chức chính trị trong Mặt trận, nhưng mặt trận thừa nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng, vì Đảng có đường lối chính trị đúng, gồm những người
giác ngộ chính trị sâu sắc, tự nguyện, hết lòng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, tiền phong gương mẫu trong mọi phong trào cách
mạng của quần chúng; vì Đảng biết tạo ra sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, biết phối
hợp hành động giữa Đảng và các thành viên khác trong Mặt trận. Để bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc
là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết
một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và việc làm
sai trái của các thành viên trong Mặt trận.
Bên cạnh đó, cần kết hợp tốt việc không ngừng tăng cường nền tảng liên
minh công nông với mở rộng MTDTTN. Tăng cường, củng cố khối liên minh công
nông đã bao hàm được yêu cầu không ngừng mở rộng hàng ngũ Mặt trận. Song,
trong thực tế đã có những lúc do chỉ nhấn mạnh nguyên tắc liên minh công nông, đề
cao nhiệm vụ dân chủ nên dễ phạm khuyết điểm, cô độc hẹp hòi, làm cho Mặt trận
bị co hẹp lại. Do vậy, phải luôn chú trọng kết hợp tốt hai yêu cầu tăng cường vai trò
nền tảng đi đôi với mở rộng hàng ngũ Mặt trận.
Liên minh công nông không chỉ là nguyên tắc mà còn là chiến lược của cách
mạng và của MTDTTN. Nhưng việc thực hiện cũng đòi hỏi sự kết hợp giữa chiến
lược với sách lược mềm dẻo, linh hoạt, tinh tế. Tăng cường khối liên minh công
nông nhằm giữ vững tính giai cấp của Mặt trận là cần thiết nhưng không thể xem
nhẹ tính dân tộc, đòi hỏi phải luôn có sự điều hòa cân đối về lợi ích. Do vậy, trong
cơ cấu tổ chức chính quyền, các tổ chức, đoàn thể, đặc biệt là trong Mặt trận phải
thể hiện được cả tính liên minh giai cấp và liên minh dân tộc.
Ba là, xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh
Muốn có chính sách Mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù
cụ thể, trước mắt. Điều đó đòi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn quan
chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể chỉ nêu ra kẻ thù
chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai đoạn, có khi
trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập trung được toàn bộ lực
149
lượng cách mạng đánh đổ chúng.
Trong thời kỳ 1945-1946, công tác Mặt trận lúc này hết sức phức tạp, nhưng
phong phú và sáng tạo. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ
thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để
có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp, tạm thời hoà hoãn với kẻ thù này,
phân hoá, cô lập kẻ thù kia, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù cùng một
lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta
đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài
người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong
nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Bốn là, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ Mặt trận
- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống đế quốc xâm lược và
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn
kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai cấp trong mặt trận đều thống
nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp công nhân, lợi ích chung của dân
tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí. Nhưng đối với các giai cấp khác, thì lợi
ích riêng của giai cấp và lợi ích chung của dân tôc có mặt nhất trí và có mặt không
nhất trí. Cương lĩnh chung của Mặt trận đã thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích
của toàn dân tộc với lợi ích của từng giai cấp. Nếu chúng ta vượt ra khỏi giới hạn
mục tiêu đó là đã phạm phải sai lầm tả khuynh. Ngược lại nếu như ta không đấu
tranh kiên quyết để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra thì phạm phải
sai lầm hữu khuynh. Do đó, chúng ta cần xác định rõ ràng mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp để tránh phạm phải những sai lầm không đáng có trong quá trình xây
dựng Mặt trận.
- Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần chúng
cơ bản.
Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản chất
giai cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là công nông.
150
Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có uy
tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần chúng cơ
bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần chúng cơ
bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên.
Đảng đã chỉ rõ, phải tranh thủ tầng lớp trên có ảnh hưởng đối với quần chúng ở vùng
dân tộc ít người. Mấu chốt của vấn đề đoàn kết các dân tộc anh em là phải thực hiện
chính sách bình đẳng dân tộc, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp
vùng thấp về kinh tế và vǎn hoá, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
lao động, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc.
- Mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh
Mặt trận là một tổ chức tập hợp rộng rãi các giai cấp, tầng lớp xã hội có
những mâu thuẫn về lợi ích và khác nhau cả về nhu cầu, sở thích, nguyện vọng.
Việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp có vai trò tham
gia của tổ chức mặt trận. Để tăng cường đoàn kết, giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ
Mặt trận, tạo ra sự thống nhất hành động trên nguyên tắc, thương lượng dân chủ,
bàn bạc để tìm ra tiếng nói chung một cách chân tình, thân ái. Đấu tranh trong nội
bộ Mặt trận cần theo đúng phương châm có tình, có lý, có lợi, đúng mức. Thực hiện
đoàn kết, đấu tranh và đấu tranh để đi đến đoàn kết cao hơn.
4. Những điều rút ra trên đây cho thấy, quá trình hình thành, phát triển
MTDTTN trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã để lại cho chúng ta nhiều
kinh nghiệm quý báu, có thể vận dụng vào sự nghiệp tăng cường, mở rộng đoàn kết,
phát huy vai trò của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay. Nếu như trong giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, MTDTTN đã trở thành một yếu tố quan trọng
như một “pháp bảo” góp phần hoàn thành nhiệm vụ cơ bản của cách mạng giải
phóng dân tộc thì trong điều kiện hòa bình xây dựng đất nước ngày nay, MTDTTN
cũng đã, đang và sẽ là một yếu tố quan trọng để đưa sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đến thành công, thực hiện được mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương khóa I (9/1945 - 2/1951), Phông số 11, Mục lục
số 01, Đơn vị bảo quản 94, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng.
2. Ban Chấp hành Trung ương khóa I (9/1945 - 2/1951), Phông số 11, Mục lục
số 02, Đơn vị bảo quản 824, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương
Đảng.
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh
cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1978), Văn kiện Đảng 1945 - 1954,
Tập I, Nxb Hà Nội.
5. Ban Thống nhất Trung ương (1954 - 1975), Phông số 28, Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản 250, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
6. Ban Thống nhất Trung ương (1954 - 1975), Phông số 28, Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản 253, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
7. Ban Thống nhất Trung ương (1954 - 1975), Phông số 28, Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản 448, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
8. Ban Thống nhất Trung ương (1954 - 1975), Phông số 28, Mục lục số 01, Đơn
vị bảo quản 434, lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
9. Ban Tuyên huấn Việt Minh - Liên Việt chiến khu VI (1949), Sự hình thành và
phát triển của Mặt trận Việt Minh, Tổng bộ Việt Minh xuất bản.
10. Nguyễn Đình Bin chủ biên (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Công Bình (1963), Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Bình chủ biên (2004), Mặt trận Dân tộc giải phóng, Chính phủ
cách mạng lâm thời tại Hội nghị Pari về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
152
Hà Nội.
13. Đặng Đình Ca (1984), Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 -
1954, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
14. Nguyễn Duy Chinh (1979), Mặt trận ngoại giao thời chống Mỹ cứu nước
(1965-1975), Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Trường Chinh (1975), Về công tác Mặt trận hiện nay, Nxb Sự thật.
16. Trường Chinh (1946), “Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam ra đời”, Báo Sự
thật, (38)
17. C. Mác - Ăngghen (1983), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nxb Hà Nội.
18. C. Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. C. Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. (1967) Cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, Nxb
Sự thật.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Những nghị quyết cơ bản dẫn đến thắng lợi
của cách mạng tháng Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 9, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 16, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 23, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
153
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 29, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 26, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
35. Trần Bạch Đằng chủ biên (1993), Chung một bóng cờ (Về Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Trần Văn Giàu (1966), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 2, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
37. Trần Văn Giàu (1968), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 3, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
38. Lê Mậu Hãn (1992), “Hồ Chí Minh hoàn thiện về đường lối chính trị và tổ
chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất”, Tạp chí nghiên cứu
lịch sử, (2).
39. Lê Mậu Hãn chủ biên (2003), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Bích Hạnh, Nguyễn Văn Khoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết và Mặt trận đoàn kết dân tộc, Nxb Lao động.
41. Trần Hậu (2011), Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - Quá khứ và hiện tại,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Hoài (1973), “Từ mặt trận dân tộc giải phóng đến Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử,
(153).
154
43. Hà Minh Hồng chủ biên (2010), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam (1960 - 1977), Nxb Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.
44. Hoàng Hùng (1959), “Bàn thêm về bài “Tìm hiểu quá trình hình thành Mặt
trận dân tộc thống nhất” của Văn Tạo”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, (5).
45. Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Văn Khánh (1991), “Nhận thức và thực tiễn của vấn
đề xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, (2).
46. Đoàn Khuê, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Quan (1996), Tổng kết cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
47. Đinh Xuân Lâm (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục.
48. Phan Huy Lê (1997), “Nghiên cứu học thuyết quân sự Việt Nam phải đặt
trong tiến trình lịch sử, văn hóa Việt Nam với những đặc điểm cụ thể của
nó”, Tìm hiểu học thuyết quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
49. Nguyễn Đình Lễ (1991), “Mặt trận Việt Minh, thành quả của sự hoàn chính và
phát triển đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương”, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, (2).
50. Liên khu ủy IV, Phông số 49, Mục lục số 01, Đơn vị bảo quản 178, lưu tại
Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
51. Trần Huy Liệu (1964), “Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
trong cuộc chiến tranh yêu nước chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai ở Miền
Nam nước ta hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, (69).
52. (1960), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
53. (2010) Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
58. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1966), Về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1972), Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự thật, Hà Nội.
64. Huỳnh Tấn Phát (1985), Mấy vấn đề về công tác Mặt trận trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, Nxb Sự thật.
65. Philip Đơvile (1993), Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb TP Hồ Chí Minh.
66. Văn Tạo (1991), “Vài kinh nghiệm rút ra từ thời Việt Minh - Liên Việt”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, (2).
67. Văn Tân (1971), “Quá trình tiến hành công tác Mặt trận của Đảng ta”, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, (139).
68. Nguyễn Thành (1991), Mặt trận Việt Minh, Nxb Sự thật.
69. Tôn Đức Thắng (1977), Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự thật, Hà Nội.
70. Viễn Trình (1957), Mặt trận dân tộc thống nhất là gì?, Nxb Sự thật.
71. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng về
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II (1945 - 1977), Tài liệu lưu
hành nội bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Lịch sử Mặt trận Dân
tộc thống nhất Việt Nam, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1991), Lược sử Mặt trận dân
tộc thống nhất, Nxb Sự thật, Hà Nội.
74. (1977), “Vài nét tư liệu về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam”, Báo cứu
quốc, (28).
75. (1986) Văn kiện của Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp, tập I, II, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
76. (1960) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tập I, Ban
chấp hành Trung ương Đảng xuất bản.
156
77. (1976) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tập I, Ban
chấp hành Trung ương Đảng xuất bản.
78. (1990) Văn kiện Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất từ năm 1930 - 1970,
Nxb Hà Nội.
79. Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện Lịch sử Đảng, tập III, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội.
80. Viện Lịch sử Đảng (1998), Những sự kiện hoạt động của Trung ương cục
miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1961 - 1975), Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
81. Nguyễn Như Ý chủ biên (1996), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo
dục.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. ĐIỀU LỆ VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH [72, tr.599-601]
1. Tên: Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).
2. Tôn chỉ: Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các
đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật - Pháp, làm cho Việt
Nam hoàn toàn độc lập dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Điều kiện vào Việt Minh: Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái,
đoàn thể nào của người Việt Nam hay các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt
Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục
đích, tôn chỉ và chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Minh thông qua,
thời được gia nhập Việt Minh.
4. Nhiệm vụ các đoàn thể trong Việt Minh: Đoàn thể nào trong Việt Minh cũng
phải:
a. Trung thành với mục đích, tôn chỉ của Việt Minh;
b. Làm cho Việt Minh chóng phát triển;
c. Đóng nguyệt phí (cho Tổng bộ);
5. Quyền hạn các đoàn thể trong Việt Minh: Các đoàn thể có chân trong Việt
Minh đều có quyền:
a. Đề nghị, chất vấn, thảo luận và biểu quyết;
b. Cử đại biểu vào các ban phụ trách của Việt Minh.
6. Nguyên tắc tổ chức Việt Minh: Việt Minh tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập
trung, nghĩa là: cơ quan chỉ đạo của Việt Minh cấp nào đều do đại biểu của các
đoàn thể Việt Minh ở cấp ấy hợp thành; trong các ủy ban Việt Minh, khi biểu quyết
thì số ít phải theo số nhiều, khi thực hành thì ủy ban Việt Minh cấp dưới phải theo
ủy ban Việt Minh cấp trên.
7. Hệ thống tổ chức Việt Minh:
a. Làng hay xã có ban chấp hành của Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở
làng hay xã cử ra.
b. Tổng, huyện, (hay phủ, châu, quận) tỉnh, kỳ, cấp nào có ban chấp ủy của Việt
Minh cấp ấy. Việt Minh toàn quốc có Tổng bộ.
c. Ban chấp ủy Việt Minh cấp nào đều do đại biểu các đoàn thể Việt Minh cấp
ấy lập ra.
d. Các ban chấp ủy Việt Minh nếu quá số 4 người thì phải bầu ra ban thường vụ
để làm công việc hàng ngày.
đ. Mỗi cơ quan chấp hành phải cử ra một người chủ nhiệm để chỉ đạo công
việc hàng ngày và một người phó chủ nhiệm để giúp việc.
e. Các ban chấp hành từ làng tới huyện mỗi tháng khai hội hai lần; ban chấp
hành tỉnh (hay tỉnh bộ) mỗi tháng khai hội một lần. Ban chấp hành kỳ (hay kỳ bộ)
ba tháng một lần. Nếu có việc cần kíp thì chủ nhiệm các cấp có quyền triệu tập hội
nghị bất thường.
g. Các cấp bộ từ làng tới phủ sáu tháng cử lại một lần; tỉnh, kỳ mỗi năm cử lại
một lần. Tổng bộ mười tám tháng cử lại một lần.
8. Kỷ luật: Những đại biểu các đoàn thể trong các cấp chỉ đạo của Việt Minh, nếu
phạm lỗi, lần thứ nhất phê bình, lần thứ hai cảnh cáo, lần thứ ba khai trừ ra ngoài cơ
quan chỉ đạo. Trước khi khai trừ phải thông tri cho đoàn thể của người đại biểu
phạm lỗi ấy biết để cử người khác lên thay.
9. Tài chính: Kinh phí của Việt Minh do nguyệt phí của các đoàn thể trong Việt
Minh đóng góp. Khi cần mở lạc quyên.
10. Sửa đổi Điều lệ: Bản điều lệ này chỉ có Đại hội toàn quốc của Việt Minh mới
có quyền sửa đổi.
Phụ lục 2. ĐIỀU LỆ CỦA HỘI LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM
[72, tr.602-606]
ĐIỀU LỆ
Điều 1: Tên: Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt).
Điều 2: Mục đích của Hội: Hội Liên Việt là mặt trận đoàn kết tất cả các đoàn thể và
các đồng bào yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, xu hướng
chính trị, để tranh đấu cho nước Việt Nam được:
ĐỘC LẬP - THỐNG NHẤT
DÂN CHỦ - PHÚ CƯỜNG
Điều 3: Trụ sở: Trụ sở Trung ương của Hội Liên Việt đặt tại…
Điều 4: Điều kiện vào Hội:
a. Mỗi đoàn thể, các đảng phái chính trị, các hội, các đoàn…muốn vào Hội Liên
Việt thì phải công nhận chương trình, Điều lệ của Hội, viết thư cho Ban Trung ương
của Hội kèm theo một bản chương trình, Điều lệ của đoàn thể mình. Nếu được ban
Trung ương của Hội tán thành thì sẽ được thừa nhận. Những người trong đoàn thể
đã gia nhập Hội đương nhiên là hội viên của Hội.
b. Một cá nhân muốn vào Hội phải là người có quốc tịch Việt Nam, 18 tuổi trở
lên, công nhận chương trình, điều lệ của Hội, có một hội viên cũ giới thiệu, nếu
được ban chấp ủy địa phương bằng lòng thì được nhận là hội viên.
Điều 5: Nguyên tắc tổ chức của Hội: Các ban chấp ủy cấp dưới phải phục tùng các
ban chấp ủy cấp trên. Khi biểu quyết thiểu số phải phục tùng đa số.
Điều 6: Tổ chức lâm thời
a. Cách bầu các ban chấp ủy - Toàn thể hội viên cấp xã họp hội nghị và cử ban
chấp xã gồm 5 người.
Các ban chấp ủy xã cử đại biểu họp hội nghị huyện, bầu ban chấp ủy huyện gồm
7 đến 9 người.
Các ban chấp ủy huyện cử đại biểu họp hội nghị tỉnh, bầu ban chấp ủy tỉnh gồm 9
đến 11 người.
Các ban chấp ủy tỉnh cử đại biểu họp hội nghị khu, bầu ban chấp ủy khu gồm 11
đến 15 người.
Các ban chấp ủy các khu cử đại biểu họp hội nghị toàn quốc, bầu ban chấp ủy
Trung ương gồm 25 người.
Chú ý: Những đại biểu cấp dưới lên họp hội nghị cấp trên có thể ở trong các ban
chấp ủy cấp dưới hay ở ngoài ban chấp ủy. Người nào đã ở ban chấp ủy cấp dưới và
được cử vào ban chấp ủy cấp trên thì từ chức ban chấp ủy cấp dưới để làm việc
trong ban chấp ủy cấp trên.
b. Thời hạn khai hội của các ban chấp ủy: Ban chấp ủy xã họp ít nhất nửa tháng
một lần.
Ban chấp ủy huyện và tỉnh họp ít nhất mỗi tháng một lần.
Ban chấp ủy khu họp ít nhất hai tháng một lần.
Ban chấp ủy Trung ương họp ít nhất ba tháng một lần.
c. Các ban Thường vụ: Ban chấp ủy các cấp đều cử ban thường vụ để điều khiển
công việc hàng ngày.
Thường vụ xã và huyện có 3 người: trưởng ban, thư ký và thủ quỹ.
Thường vụ tỉnh và khu có 5 người: trưởng ban, phó trưởng ban, thư ký, thủ quỹ
và ủy viên giám sát.
Thường vụ trung ương có 5 người: hội trưởng, phó hội trưởng, tổng tư ký, thủ
quỹ và ủy viên giám sát.
Các tiểu ban: Tùy theo sự cần thiết các ban chấp ủy có thể lập ra tiểu ban để
giúp việc. Nhân viên tiểu ban một phần lớn nên chọn ở ngoài Ban chấp ủy.
Điều 7: Tổ chức chính thức
Trong thời hạn một năm, tổ chức lâm thời trên đây phải chuyển thành chính
thức theo thể cách dưới đây:
Toàn thể hội viên các xã cử đại biểu, họp đại hội huyện; đại hội huyện cử đại
biểu họp đại hội tỉnh; đại hội tỉnh cử đại biểu họp đại hội khu; đại hội khu cử đại
biểu họp đại hội toàn quốc.
Đại hội toàn quốc bầu Ban chấp ủy Trung ương chính thức 25 người.
Đại biểu các khu trở về họp hội nghị khu bầu Ban chấp ủy khu chính thức.
Đại biểu các tỉnh trở về họp hội nghị tỉnh bầu Ban chấp ủy tỉnh chính thức.
Đại biểu các huyện trở về họp hội nghị huyện bầu Ban chấp ủy huyện chính
thức.
Toàn thể hội viên xã bầu Ban chấp ủy xã chính thức.
Khi một đại biểu đã được bầu vào một ban chấp ủy cấp trên thì không có thể
có chân trong một ban chấp ủy cấp dưới.
Các ban chấp ủy chính thức về số người, sinh hoạt và tổ chức, không có gì
khác ban chấp ủy lâm thời.
Nhiệm kỳ của các ban chấp ủy chính thức như sau:
a. Ở cấp xã và huyện 1 năm
b. Tỉnh, khu 1 năm rưỡi
c. Trung ương 2 năm.
Điều 8: Quỹ Hội sẽ có:
a. Số tiền hội phí hàng năm của các hội viên đóng góp (mỗi hội viên 1 đồng).
b. Tiền lạc quyên và tiền thu trong những công cuộc do Hội tổ chức ra.
Điều 9: Nghĩa vụ hội viên
Các hội viên phải hết lòng thực hành chương trình và tuân theo điều lệ của Hội,
phải hết sức thực hiện khẩu hiệu: QUỐC GIA TRÊN HẾT, TỔ QUỐC TRÊN HẾT.
Điều 10: Quyền hạn hội viên
Hội viên được mọi quyền đề nghị, thảo luận, biểu quyết các công việc của Hội,
được bầu cử và ứng cử các cơ quan chấp hành của Hội.
Điều 11: Kỷ luật của Hội
Đoàn thể và hội viên nào hành động trái với chương trình, điều lệ Hội, phạm
đến quyền lợi quốc gia dân tộc thì tùy theo lỗi nặng nhẹ sẽ bị phê bình, cảnh cáo
hay khai trừ.
Điều 12: Đại hội toàn quốc
Đại hội toàn quốc là cơ quan có quyền hành cao hơn hết của Hội, hai năm họp
một lần. Tùy theo sự cần thiết, Ban chấp ủy Trung ương có quyền triệu tập Hội nghị
toàn quốc bất thường.
Điều 13: Sửa đổi điều lệ
Chỉ có Đại hội toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ này.
Phụ lục 3.
ĐIỀU LỆ CỦA MẶT TRẬN LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM (LIÊN
VIỆT)
[72, tr.608-613]
Chương 1
TÔN CHỈ VÀ MỤC ĐÍCH
Điều 1: Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Mặt trận Liên Việt, tức là
Mặt trận Dân tộc thống nhất của Việt Nam, chủ trương đoàn kết hết thảy các đảng
phái, các đoàn thể và mọi cá nhân yêu nước không phân biệt gái trai, già trẻ, giai
cấp, chủng tộc, tôn giáo, xu hướng chính trị, để cùng nhau thực hiện những mục
đích sau đây:
1. Tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh bại bọn can thiệp Mỹ, trừng trị Việt
gian phản quốc.
2. Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
3. Phối hợp đấu tranh với mọi lực lượng bảo vệ hòa bình thế giới đặng xây
dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, và góp
sức cùng nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình lâu dài.
Chương II
ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP
Điều 2: Các tổ chức (đảng phái, đoàn thể có tính chất chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội) và cá nhân yêu nước đều được gia nhập Mặt trận.
Điều 3: Một đoàn thể muốn gia nhập Mặt trận, phải thừa nhận chính cương, điều lệ
của Mặt trận.
a. Những đoàn thể có hệ thống tổ chức đến cấp nào thì do Ủy ban Liên Việt cấp
ủy cộng sau khi được Ủy ban Liên Việt cấp trên chuẩn y.
b. Những đoàn thể có hệ thống tổ chức toàn quốc do Ủy ban toàn quốc của Mặt
trận công nhận.
Điều 4: Cá nhân muốn gia nhập Mặt trận thì phải là công dân Việt Nam, công nhận
Chính cương, Điều lệ của Mặt trận, có một hội viên cũ giới thiệu và được Ủy ban
Liên Việt địa phương công nhận.
Chương III
NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA HỘI VIÊN
(Đoàn thể và cá nhân)
Điều 5: Nhiệm vụ
a. Tuân theo Điều lệ của Mặt trận.
b. Thi hành chính sách của Mặt trận.
c. Củng cố và phát triển Mặt trận.
d. Đóng niên liễm cho Mặt trận.
Điều 6: Quyền hạn
a. Có quyền đề nghị, phê bình, chất vấn, thảo luận, biểu quyết các công việc
của Mặt trận.
b. Có quyền bầu cử và quyền ứng cử vào các ủy ban của Mặt trận.
Chương IV
HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Điều 7: Mặt trận tổ chức theo nguyên tắc liên hiệp và dân chủ tập trung:
Các ủy ban Liên Việt cấp nào do Hội nghị Mặt trận cấp ấy cử ra. a.
Các hội viên đoàn thể và hội viên cá nhân đều phải thi hành nghị quyết b.
của Mặt trận.
Cấp dưới phải phục tùng nghị quyết của cấp trên. c.
Thiểu số phục tùng đa số. d.
Điều 8: Hệ thống tổ chức của Mặt trận có 5 cấp: xã hay khu phố, huyện hay thị xã,
tỉnh hay thành, khu hay xứ, toàn quốc.
Điều 9: Ủy ban Mặt trận các cấp gọi tắt là Ủy ban Liên Việt (Ủy ban Liên Việt xã,
hay khu phố; Ủy ban Liên Việt huyện hay thị xã; Ủy ban Liên Việt tỉnh hay thành;
Ủy ban Liên Việt khu hay xứ; Ủy ban Liên Việt toàn quốc).
Điều 10: Ủy ban Liên Việt các cấp khi hết nhiệm kỳ, phải triệu tập hội nghị đề cử
Ủy ban mới. Đại biểu của Hội nghị một phần do các ban chấp hành các đoàn thể
cấp ngang cử đến và một phần do các Ủy ban Liên Việt cấp dưới liền đấy cử lên. Số
đại biểu do Ủy ban Liên Việt có nhiệm vụ triệu tập quy định, căn cứ vào sự quan
trọng của từng địa phương và các đoàn thể hội viên. Ủy ban Mặt trận do đại biểu
các đoàn thể thỏa thuận với nhau rồi giới thiệu danh sách để hội nghị công nhận.
Thành phần Ủy ban gồm có đại biểu các đoàn thể và các thân sĩ tiêu biểu được khối
đoàn kết toàn dân.
Điều 11: Nhiệm kỳ của các Ủy ban Liên Việt:
- Xã, khu phố 1 năm
- Huyện, thị xã 1 năm
- Tỉnh, thành 1 năm rưỡi
- Khu, xứ 1 năm rưỡi
- Toàn quốc 3 năm
Điều 12: Trừ những trường hợp bất thường, thời hạn của các Ủy ban Liên Việt như
sau:
- Xã, khu phố 1 tháng 1 lần
- Huyện, thị xã 3 tháng 1 lần
- Tỉnh, thành 3 tháng 1 lần
- Khu, xứ 6 tháng 1 lần
- Toàn quốc 6 tháng 1 lần
Điều 13: Ủy ban Liên Việt các cấp cử Chủ tịch, Phó Chủ tịch và một số ủy viên
thường trực lập thành Ban Thường trực của Ủy ban. Ban Thường trực có nhiệm vụ
triệu tập hội nghị thường kỳ và bất thường của Ủy ban và thay mặt Ủy ban giải
quyết công việc hàng ngày.
Điều 14: Những hội viên cá nhân của Mặt trận tùy hoàn cảnh địa phương, có thể tổ
chức thành tổ gọi là Tổ Liên Việt do một ủy viên của Ủy ban Liên Việt xã, khu phố
hay cơ quan phụ trách.
Chương V
KHEN THƯỞNG VÀ THI HÀNH KỶ LUẬT
Điều 15: Các hội viên đoàn thể, hội viên cá nhân và các Ủy ban Mặt trận có thành
tích kháng chiến, kiến quốc xứng đáng, được Mặt trận khen thưởng hoặc được Mặt
trận đề nghị với chính quyền khen thưởng.
Điều 16: Những đoàn thể hoặc hội viên cá nhân phạm lỗi thì Mặt trận thi hành kỷ
luật bằng cách phê bình, cảnh cáo, khai trừ tùy theo lỗi nặng, nhẹ.
Điều 17: Hội viên cá nhân của Mặt trận cấp nào phạm lỗi thì do Ủy ban Liên Việt
cấp trực tiếp thi hành kỷ luật. Mỗi cấp bộ hoặc một hội viên thuộc một đoàn thể
trong Mặt trận phạm lỗi thì giao cho đoàn thể ấy thi hành kỷ luật.
Điều 18: Khi cả một đoàn thể bị khai trừ ra khỏi Mặt trận, đoàn thể ấy thống nhất
đến cấp nào thì do Ủy ban Liên Việt cấp ấy thi hành kỷ luật sau khi được Ủy ban
Liên Việt cấp trên chuẩn y. Nếu đoàn thể ấy thống nhất đến toàn quốc thì việc thi
hành kỷ luật do Ủy ban Liên Việt toàn quốc quyết định.
Điều 19: Những đoàn thể hay hội viên cá nhân bị thi hành kỷ luật nếu không đồng ý
được quyền kháng nghị lên Ủy ban Liên Việt cấp trên.
Chương VI
TÀI CHÍNH
Điều 20: Tài chính của Mặt trận do các hội viên đóng góp và ủng hộ. Các hội viên
(đoàn thể và cá nhân) phải đóng niên liễm cho Mặt trận. Thể lệ đóng niên liễm do
Ủy ban Liên Việt toàn quốc quy định.
Chương VII
SỬA ĐỔI ĐIỀU LỆ
Điều 21: Điều lệ này chỉ có Đại hội Mặt trận Liên Việt toàn quốc mới có quyền sửa
đổi.
Phụ lục 4.
ĐIỀU LỆ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM (1955)
[72, tr.617-621]
Chương I: TÊN - TÔN CHỈ - MỤC ĐÍCH
Điều 1: Tên: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Điều 2: Tôn chỉ và mục đích: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đoàn kết rộng rãi các
đảng phái, các đoàn thể nhân dân, các quân đội, các nhân sĩ, các tôn giáo, các chủng
tộc, các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ngoài nước, không phân biệt
thành phần xã hội, xu hướng chính trị, không phân biệt già trẻ, gái trai, để:
- Củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ
trong cả nước. Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh.
Góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
- Làm thất bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng đang
phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Việt Nam.
Chương II: ĐIỀU KIỆN VÀO MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ QUYỀN HẠN,
NHIỆM VỤ CỦA HỘI VIÊN
Điều 3: Điều kiện vào Mặt trận
Các đảng phái, các đoàn thể nhân dân và các cá nhân yêu nước, hễ công nhận cương
lĩnh, điều lệ và thi hành các chính sách của Mặt trận đều được gia nhập Mặt trận.
Điều 4: Các đảng phái, các đoàn thể nhân dân ở cấp nào thì tham gia nhập Mặt trận
cấp ấy sau khi được Uỷ ban Mặt trận cấp ấy công nhận và được Uỷ ban Mặt trận
cấp trên đồng ý.
Điều 5: Nhiệm vụ của hội viên
a. Tôn trọng điều lệ; tuyên truyền cương lĩnh, nghị quyết và các chính sách
của Mặt trận.
b. Thi hành chính sách và tham gia các hoạt động của Mặt trận
Điều 6: Quyền hạn của hội viên
Mỗi hội viên đều có quyền thảo luận, quyết định, đề nghị, hỏi han và phê bình công
việc của Mặt trận, ứng cử và bầu cử các cơ quan chấp hành của Mặt trận.
Điều 7: Hệ thống tổ chức
a. Từ cấp Trung ương đến các cấp huyện, thị trấn, quận (của một thành phố),
cấp nào có Ủy ban Mặt trận của cấp ấy, do Đại hội đại biểu của cấp ấy cử ra để
chấp hành nghị quyết của Mặt trận.
b. Ở xí nghiệp, xã, cơ quan, công sở, trường học, doanh trại, đường phố thì
không cử ra Ủy ban Mặt trận, mà công đoàn, nông hội, các tổ chức thanh niên, phụ
nữ, học sinh và sinh viên, các đơn vị bộ đội là tổ chức cơ sở của Mặt trận có trách
nhiệm thi hành nghị quyết của Mặt trận. Ngoài ra ở xã và đường phố còn có hình
thức Mặt trận rộng rãi là những hội nghị đại biểu các giới do các Ủy ban Mặt trận ở
huyện, thị trấn, quận, hoặc một tổ chức cơ sở của Mặt trận ở nơi đó được cấp trên
ủy nhiệm triệu tập, để bàn định cách thi hành những nghị quyết của Mặt trận trong
các tầng lớp xã hội đông đảo.
c. Ủy ban Mặt trận các cấp cử ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch và một số ủy viên,
thành lập Ban Thường trực của Mặt trận để giải quyết công việc hàng ngày và triệu
tập hội nghị thường kỳ hoặc bất thường của Ủy ban Mặt trận. Ban Thường trực cử
ra Ban Thư ký để làm việc hàng ngày.
d. Đại hội đại biểu toàn quốc của Mặt trận quy định chủ trương và chính sách
chung của Mặt trận trong cả nước. Đại hội đại biểu Mặt trận các cấp dựa trên tình
hình thực tế của địa phương mà quyết định kế hoạch chấp hành những chủ trương,
chính sách ấy trong địa phương mình.
Điều 8: Nhiệm kỳ của Ủy ban Mặt trận các cấp
a. Ủy ban Mặt trận toàn quốc 3 năm cử lại một lần;
b. Ủy ban Mặt trận khu 2 năm cử lại một lần
c. Ủy ban Mặt trận tỉnh, thành 18 tháng cử lại một lần
d. Ủy ban Mặt trận huyện 1 năm cử lại một lần
Chương IV: CÁCH LÀM VIỆC CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
Điều 10: Cách làm việc trong Mặt trận dựa trên 5 nguyên tắc sau đây:
1. Thương lượng:
Các vấn đề quan hệ đến quốc kế dân sinh, các tổ chức trong Mặt trận đều cùng nhau
bàn bạc làm cho các hội viên đều nhận rõ, thỏa thuận và nhất trí hành động.
2. Dân chủ:
Tất cả hội viên trong Mặt trận đều có quyền phát biểu ý kiến, bày tỏ sáng kiến của
mình về các vấn đề ích nước lợi dân. Trong các cuộc hội nghị của Mặt trận, sau khi
đã bàn bạc dân chủ và đã nghị quyết rồi, tất cả hội viên của Mặt trận đều phải thi
hành.
3. Thống nhất hành động:
Sau khi Mặt trận nghị quyết về một vấn đề gì, các đảng phái, các đoàn thể và tất cả
các hội viên của Mặt trận sẽ động viên quần chúng để cùng làm, thực hiện sự thống
nhất hành động giữa các tổ chức trong Mặt trận và thống nhất hành động với những
người ngoài Mặt trận.
4. Tôn trọng tính chất độc lập của các tổ chức:
Trên cơ sở tôn trọng và thi hành đúng đắn cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận, các
đoàn thể trong Mặt trận không can thiệp vào nội bộ của các đoàn thể.
5. Thân ái hợp tác, phê bình và tự phê bình, giúp đỡ nhau cũng tiến bộ:
Để thi hành đúng cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận, các đảng phái, các đoàn thể và
các hội viên của Mặt trận đều thân ái hợp tác với nhau, dung phê bình và tự phê
bình thành thật và thân ái giúp nhau cùng tiến bộ.
Chương V: KỶ LUẬT
Những hội viên nào (đoàn thể hoặc cá nhân) phạm những điều sau đây:
- Làm mất danh dự của Mặt trận.
- Chống lại tôn chỉ, mục đích của Mặt trận, làm trái điều lệ của Mặt trận, thì
tùy lỗi nặng nhẹ mà bị phê bình, cảnh cáo hoặc khai trừ khỏi Mặt trận.
Chương VI: TÀI CHÍNH
Điều 11: Tài chính của Mặt trận do các hội viên của Mặt trận đóng góp. (Đại hội sẽ
giao cho Uỷ ban Mặt trận toàn quốc nghiên cứu và quyết định thể lệ đóng góp của
các hội viên Mặt trận).
Chương VII: SỬA ĐỔI ĐIỀU LỆ
Điều 12: Điều lệ này chỉ có Đại hội đại biểu toàn quốc của Mặt trận Tổ quốc mới
có quyền sửa đổi.
Phụ lục 5.
DANH SÁCH ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN DÂN TỘC
GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM [35, tr.963-965]
I. ĐOÀN CHỦ TỊCH
1. Chủ tịch: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ
2. Phó Chủ tịch:
- Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Tổng Thư ký Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam,
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định.
- Bác sĩ Phùng Văn Cung.
- Ông Võ Chí Công, đại diện Đảng Nhân dân cách mạng Việt Nam.
- Ông Y Bih Alêô, dân tộc Êđê, Chủ tịch Uỷ ban phong trào tự trị các dân tộc Tây
Nguyên.
- Đại đức Thôm Mê Thê Nhem, dân tộc Khơme
- Ông Trần Nam Trung, đại diện các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền
Nam Việt Nam.
3. Uỷ viên:
- Ông Phan Xuân Thái (tức Phan Văn Đáng), Chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải
phóng miền Nam Việt Nam.
- Ông Nguyễn Hữu Thế, Chủ tịch Hội nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam.
- Ông Trần Bạch Đằng, Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên giải phóng miền Nam
Việt Nam.
- Bà Nguyễn Thị Định, Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt
Nam.
- Ông Trần Bửu Kiếm, Chủ tịch Hội Liên hiệp sinh viên giải phóng miền Nam Việt
Nam.
- Hòa thượng Thích Thiện Hào, đại diện những người Phật giáo yêu nước miền
Nam Việt Nam.
- Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi, đại diện những người Cao Đài yêu nước miền
Nam Việt Nam.
- Ông Đặng Trần Thi (tức Bùi San), Phó Chủ tịch Liên hiệp công đoàn giải phóng
miền Nam Việt Nam.
II. BAN THƯ KÝ:
1. Tổng Thư ký: Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.
2. Phó Tổng Thư ký:
- Giáo sư Lê Văn Huấn, Chủ tịch Hội nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam.
- Dược sĩ Hồ Thu.
3. Uỷ viên:
- Ông Ung Ngọc Ky, Phó Tổng Thư ký Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam.
- Ông Hồ Xuân Sơn (tức Hồ Văn Lộc), nhà báo.
III. ỦY VIÊN:
- Thầy giảng Joseph Mari Hồ Huệ Bá, đại diện những người Công giáo kính chúa
yêu nước miền Nam Việt Nam.
- Bà Nguyễn Thị Bình tự Yến Sa, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng
miền Nam Việt Nam.
- Ông Rơ Chôm Briu, dân tộc Giarai, Phó Chủ tịch Uỷ ban Phong trào tự trị các dân
tộc Tây Nguyên.
- Ông Lê Quang Chánh, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cộng hòa
Inđônêxia.
- Dược sĩ Mã Thị Chu.
- Ông Huỳnh Cương, trí thức Khơme.
- Nữ bác sĩ Nguyễn Thùy Dương, tức Dương Quỳnh Hoa.
- Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Tổng Thư ký Đảng xã hội cấp tiến miền Nam Việt
Nam.
- Kỹ sư Lâm Kiết Khánh, tức Trần Văn Được, đại diện Việt kiều yêu nước ở
Cămpuchia.
- Trung tá Võ Văn Môn, nhân sĩ Bình Xuyên.
- Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ.
- Ông Võ Oanh, nhà báo, nhân sĩ.
- Linh mục Chu Phát, tức linh mục Nguyễn Trinh Đoàn (nay là chánh xứ giáo xứ
Phước Lâm, hạt Phước Lễ, giáo phận Xuân lộc).
- Bà Lê Thị Riêng, Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam
Việt Nam.
- Ông Sát, dân tộc Bana, Phó Chủ tịch Uỷ ban phong trào tự trị các dân tộc Tây
Nguyên.
- Ông Hoàng Bích Sơn, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại CuBa.
- Ông Như Sơn, tức Michel Văn Vỹ, nhân sĩ Sài Gòn.
- Ông Huỳnh Văn Tâm, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Angiêri.
- Kỹ sư Lê Văn Thả.
- Ông Nguyễn Thạch, tức Đinh Xáng, nhà kinh doanh công nghiệp Sài Gòn.
- Ông Trần Văn Thành, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa.
- Ông Lê Văn Thịnh tức Lê Toàn Thư, đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng tại Cu
Ba.
- Giáo sư Nguyễn Ngọc Thưởng, Phó Tổng Thư ký Đảng xã hội cấp tiến miền Nam
Việt Nam.
- Ông Nguyễn Văn Tiến, Trưởng phái đoàn thường trực Ủỷ ban trung ương Mặt
trận Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, sau là trưởng phái đoàn đại diện đặc biệt Cộng
hòa miền Nam Việt Nam tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, Chủ tịch Hội văn nghệ giải phóng miền Nam Việt
Nam.
- Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước.
- Ông Vũ Tùng, Chủ tịch Hội nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam.
- Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tứ, tức Nguyễn Hữu Ba (Huế).
- Hòa thượng Thích Hưng Từ, tự Hồng Liêm.
- Ông Huỳnh Thiện Từ, đại diện những người yêu nước trong phật giáo Hòa Hảo.
Phụ lục 6.
CHƯƠNG TRÌNH CHÍNH TRỊ CỦA LIÊN MINH CÁC LỰC LƯỢNG
DÂN TỘC, DÂN CHỦ VÀ HÒA BÌNH VIỆT NAM [8, tr.1-9]
Hiệp định Geneve năm 1954 về Việt Nam đã chính thức công nhận độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam tự hào với thắng lợi của dân tộc đã thoát được vĩnh viễn
cuộc đời nô lệ và hưởng được hòa bình, yên vui sau mười năm khói lửa.
Nhưng chính phủ Hoa Kỳ lại không tôn trọng Hiệp định Geneve và ngày
càng can thiệp sâu vào tình hình miền Nam Việt Nam. Họ dựng lên chính quyền
Ngô Đình Diệm để dùng chính quyền bán nước tay sai ấy thực hiện âm mưu thực
dân kiểu mới của Hoa Kỳ và một chính sách độc tài, tàn bạo chưa từng thấy, đàn áp
phong trào yêu nước và dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Nhưng thất bại trước ý chí độc lập, kiên cường và quyết tâm sắt đá của nhân
dân ta, Mỹ đã phải dùng đến chính sách võ lực ngày càng trắng trợn, thô bạo, từ chỗ
chỉ đưa vào những “cố vấn” đến chỗ ồ ạt đổ vào miền Nam hơn nửa triệu quân viễn
chinh Mỹ cùng với một số lực lượng đồng minh của họ, tiến hành trực tiếp chiến
tranh xâm lược miền Nam đồng thời dội bom phá hoại miền Bắc.
Chiến tranh xâm lược của Mỹ không ngừng leo thang và kéo dài đã gây ra
biết bao đau thương tang tóc cho nhân dân miền Nam, tàn phá nghiêm trọng đất
nước Việt Nam, khiến cho đời sống của đồng bào miền Nam vô cùng khó khăn,
điêu đứng.
Các chính quyền Sài Gòn do Mỹ nặn ra để phục vụ âm mưu xâm lược của họ
nên từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hương
hiện nay đều là bọn bán nước hại dân, công cụ của ngoại bang; chúng đã bán rẻ chủ
quyền của dân tộc, bán rẻ sinh mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam, đẩy đồng
bào ta vào cảnh lầm than nô lệ.
Quyết không khuất phục trước bạo lực, đồng bào miền Nam đã nêu cao tinh
thần anh dũng tuyệt trần, đoàn kết muôn người như một, kiên quyết đứng lên đấu
tranh giành lại các quyền dân tộc thiêng liêng, quyền độc lập làm chủ lấy vận mạng
của mình. Nhân dân ta, từ nông thôn đến thành thị, từ rừng núi đến đồng bằng đã
nêu cao quyết tâm, lần lượt đánh bại mọi kết hoạch xâm lược của kẻ thù, giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Và từ đầu xuân năm nay bước vào giai đoạn mới
của cuộc chiến đấu, quân đội cách mạng và nhân dân miền Nam đã vùng lên với
một khí thế chưa từng có, tấn công địch khắp nơi, đồng loạt và dồn dập, đánh địch
tận trong các thành phố và căn cứ kiên cố nhất của chúng, ngay cả thủ đô Sài Gòn,
trung tâm quân sự, chính trị đầu não của đế quốc Mỹ và chính quyền bù nhìn tay
sai.
Lực lượng võ trang cách mạng và nhân dân đã giành được những thắng lợi to
lớn đầy ý nghĩa quan trọng tạo ra một tình thế vô cùng thuận lợi để tiến lên đánh bại
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ chính quyền tay sai, đem lại hòa
bình và độc lập vinh quang cho dân tộc.
Nhưng càng thất bại, Mỹ càng bộc lộ bản chất xâm lược ngoan cố, hung hãn
và chính quyền Sài Gòn càng phơi trần bộ mặt bán nước thối tha tàn bạo. Chúng
càng chà đạp trắng trợn lên nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, nên mặt trận
tranh đấu chống Mỹ và bù nhìn tay sai ở đô thị ngày càng được mở rộng, tập hợp
đông đảo các tầng lớp đồng bào từ công nhân lao động đến học sinh, sinh viên, trí
thức, tư sản, ngay cả những người trong hàng ngũ công chức, sỹ quan và binh lính
thuộc chính quyền tay sai.
Nguyện vọng cơ bản và bức thiết nhất của đồng bào hiện nay là độc lập, chủ
quyền dân tộc, tự do dân chủ, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hòa bình, trung lập và
ấm no hạnh phúc, tiến tới thống nhất nước nhà.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam ra đời trong
tình hình mới từ đầu xuân đến nay với những chủ trương, đường lối phù hợp yêu
cầu, nguyện vọng của đồng bào nên được sự hưởng ứng và tham gia nhiệt tình của
các lực lượng và các nhân yêu nước thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi khuynh hướng
chính trị và màu sắc, tôn giáo, tự nguyện đứng lên góp phần vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam trong bản
Tuyên ngôn cứu nước đã khẳng định lập trường của mình là “đoàn kết mọi lực
lượng và các nhân yêu nước, kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ toàn bộ chế độ
bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc
giành độc lập, dân chủ và hòa bình.
Kiên định trên lập trường ấy, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hòa bình Việt Nam long trọng công bố Chương trình chính trị của mình nhằm đề ra
những chính sách và chủ trương cụ thể trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc, xây
dưng một miền Nam độc lập, tự do, dân chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng tạo
điều kiện từng bước tiến lên hòa bình thống nhất nước nhà.
Chương trình chính trị gồm có những điểm chính sau đây:
I – CỨU QUỐC
Đoàn kết mọi lực lượng và cá nhân yêu nước, kiên quyết chống chiến tranh
xâm lược, đánh đổ chế độ bù nhìn tay sai, thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc,
giành độc lập, dân chủ và hòa bình.
1. – Cứu quốc là sự nghiệp của toàn dân, và sức mạnh bảo đảm thắng lợi là
sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ
và hòa bình Việt Nam chủ trương đoàn kết mọi lực lượng và cá nhân yêu nước;
không phân biệt xu hướng chính kiến, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, thành phần
xã hội, đoàn kết trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập và chủ quyền dân tộc hiện
nay cũng như trong giai đoạn kiến thiết đất nước sau này.
2. – Nhân dân miền Nam Việt Nam tha thiết mong muốn hòa bình, nhưng là
hòa bình trong danh dự và tự do. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa
bình Việt Nam chủ trương giành lại độc lập, chủ quyền của Việt Nam đòi chính phủ
Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh, rút khỏi miền Nam Việt Nam, phá bỏ các căn cứ
quân sự Hoa Kỳ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam như Hiệp định Geneve
năm 1954 về Việt Nam đã quy định. Nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ của miền Nam Việt Nam cần được các chính phủ trên thế giới
thừa nhận và tôn trọng, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt
Nam sẵn sàng bàn bạc với chánh phủ Hoa Kỳ về các vấn đề trên đây.
3. – Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, một lực lượng yêu
nước đã có những cống hiến to lớn trong sự nghiệp động viên, tổ chức và lãnh đạo
cuộc chiến đấu chống ngoại xâm trong những năm qua, không thể vắng mặt trong
việc giải quyết những vấn đề ở miền Nam Việt Nam. Liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam chủ trương tiếp xúc, bàn bạc với Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam để cùng nhau giành lại độc lập dân tộc, lập lại
hòa bình và kiến thiết đất nước, đem lại đời sống tự do và hạnh phúc cho toàn dân.
4. – Trên cơ sở liên hiệp hành động giữa các lực lượng và cá nhân yêu nước
cũng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc, kể cả những cá nhân yêu nước trong
chính quyền và quân đội tay sai, lập một chính phủ liên hiệp dân tộc, dân chủ, rộng
rãi gồm những đại biểu của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái
và tổ chức chính trị tiến bộ, các nhân sĩ yêu nước…, nhằm thực hiện độc lập, dân
chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng cho miền Nam Việt Nam.
II – KIẾN QUỐC
Kiến tạo Nam Việt Nam thành một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ, hòa
bình, trung lập và thịnh vượng.
Sau khi giành lại độc lập, chủ quyền và hòa bình cho xứ sở, Liên minh các
lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam chủ trương luôn đoàn kết với các
lực lượng và cá nhân yêu nước để hàn gắn những vết thương chiến tranh, kiến thiết
đất nước, xây dựng miền Nam Việt Nam thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền,
tự do, dân chủ, hòa bình, trung lập và thịnh vượng.
A – ĐỐI NỘI
1. – Chế độ chính trị:
Xóa bỏ mọi vết tích của chế độ thực dân cũ và mới ở Nam Việt Nam, đánh
đổ toàn bộ chế độ bù nhìn tay sai, giải tán các “Thượng nghị viện”, “Hạ nghị viện”,
do bầu cử gian lận và bịp bợm, dựng lên, hủy bỏ hiến pháp của “Quốc hội lập hiến”
trước đây, không thừa nhận mọi hiệp ước phi pháp, bất bình đẳng, phản lại quyền
lợi dân tộc và hòa bình thế giới do chính quyền bù nhìn miền Nam Việt Nam ký kết
với Mỹ và các nước ngoài, hủy bỏ mọi luật lệ phản dân hại nước của bù nhìn miền
Nam Việt Nam ký kết với Mỹ và các nước ngoài, hủy bỏ mọi luật lệ phản dân hại
nước của bù nhìn đã ban hành, mọi sắc luật, nghị định, ban hành của bù nhìn xâm
phạm vô lý và trái phép đến sinh mạng, tài sản, phẩm giá và mọi quyền lợi khác của
người dân.
- Xây dựng chế độ cộng hòa thật sự dân chủ và tự do, tổ chức tổng tuyển cử
đúng theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín, để
bầu ra một Quốc hội lập hiến đại diện thật sự nhân dân. Quốc hội sẽ xây dựng một
Hiến pháp dân chủ phản ánh đầy đủ nguyện vọng và quyền lợi của toàn dân, Hiến
pháp sẽ ấn định điều kiện thiết lập và tổ chức một bộ máy chính quyền lành mạnh,
thật sự dân chủ và thể hiện tính chất liên hiệp dân tộc rộng rãi.
- Tất cả mọi công dân đều được bình đẳng về mọi phương diện. Nhân dân
được hưởng đầy đủ các quyền tự do, dân chủ thực sự: tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do xuất dương….
Không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào. Tôn trọng quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, nhà ở, thư tín. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm của nghị sĩ quốc hội.
- Trả lại tự do cho tất cả mọi người vì hoạt động yêu nước hoặc vì có khuynh
hướng đối lập mà bị chính quyền Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt Nam giam giữ dù
dưới hình thức nào. Mọi người vì chính sách khủng bố, đàn áp của chính quyền tay
sai mà phải bị đày ải hay trốn tránh ra nước ngoài có quyền trở về nước, xét lại
những bản án thường phạm không thích đáng để ân xá hay giảm án.
- Thực hiện nam nữ bình đẳng, về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.
- Thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo, không có phân biệt đối xử. Chống
mọi âm mưu chia rẽ của đế quốc và tay sai.
- Bảo vệ và giúp tu sửa chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đình miếu bị bom
đạn của địch phá hoại.
- Thực hiện chính sách đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng
đồng quốc gia Việt Nam.
- Chăm sóc quyền lợi kiều bào ở nước ngoài, khuyến khích tạo điều kiện cho
kiều bào được hồi hương tham gia kiến thiết đất nước.
- Tôn trọng quyền lợi chính đáng của ngoại kiều ở miền Nam Việt Nam.
- Hủy bỏ chính sách đồng hóa Hoa Kiều bằng áp lực của Mỹ và bù nhìn.
Tất cả các đơn vị hoặc cá nhân các sỹ quan, binh lính, cảnh sát, nhân viên
công chức thuộc chính quyền bù nhìn miền Nam có hành động yêu nước tham gia
vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược Mỹ, chống chế độ bù nhìn tay sai,
bằng mọi hình thức (khởi nghĩa, binh biến, bỏ hàng ngũ địch mang võ khí về với
nhân dân, đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh vì độc lập, dân chủ, hòa bình của nhân
dân Việt Nam hoặc không làm được những việc trên mà chỉ không thi hành mệnh
lệnh của địch, có hại cho nhân dân đều được hoan nghênh và tùy theo mức độ hành
động của họ mà được ghi công khen thưởng và ưu đãi. Những người có tội ác với
nhân dân nhưng biết ăn năn hối cải, thật tâm trở về với nhân dân sẽ được khoan
hồng, nếu lập công chuộc tội thì tùy theo công mà được đãi ngộ đúng mức. Sau khi
giành được độc lập, những ai muốn tiếp tục công tác trong bộ máy chính quyền mới
thì đều được nhận và không có phân biệt đối xử.
2. – Chế độ kinh tế:
Xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào đế quốc Mỹ
hay bất cứ nước nào.
Sau khi vãn hồi hòa bình, hết sức chăm lo hàn gắn những vết thương do
chiến tranh gây ra, giải quyết nạn thất nghiệp, khôi phục đời sống bình thường của
nhân dân, trên cơ sở phát triển mạnh kinh tế làm cho nước nhà thịnh vượng.
- Tôn trọng và bảo vệ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất và các tài sản khác
của công dân.
- Chú trọng tạo điều kiện để phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, thi
hành chính sách tín dụng giúp vốn cho nông dân làm mùa, nâng cao kỹ thuật, phát
triển thủy lợi, thực hiện chính sách giá cả, khuyến khích sản xuất nông nghiệp và
giải quyết tốt đẹp việc tiêu thụ nông phẩm.
- Thực hiện một chương trình cải cách điền địa công bằng và hợp lý, tạo cơ
sở để phát triển nông nghiệp.
Thực hiện giảm tô.
Trên cơ sở thương lượng, từ một mức diện tích nhất định nào đó trở lên, nhà
nước sẽ mua lại ruộng đất của điền chủ, chia cho nông dân không có hoặc không đủ
ruộng đất để sống. Thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất mà Mặt trận dân tộc giải
phóng vì yêu cầu của kháng chiến đã chia cho nông dân. Về đất điền chủ vắng mặt
mà Mặt trận dân tộc giải phóng đã giao cho nông dân, sẽ xét thái độ chính trị của
điền chủ để có cách giải quyết thỏa đáng.
Tôn trọng quyền sở hữu chính đáng về ruộng đất của nhà chung, nhà chùa và
thánh thất.
Nâng đỡ việc kinh doanh các đồn điền trồng cây công nghiệp và cây ăn trái.
- Phục hồi và phát triển kỹ nghệ tiểu công nghệ và thương mại.
- Thực hiện chính sách tự do kinh doanh có ích cho nước, có lợi cho dân, hết
sức khuyến khích các kinh doanh công thương nghiệp và giao thông vận tải nhằm
làm cho dân giàu, nước mạnh.
- Xóa bỏ độc quyền lũng đoạn.
- Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng nội hóa.
- Xây dựng chế độ tiền tệ ổn định và độc lập.
- Thực hiện một chính sách thuế công bằng.
- Mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước.
- Thực hiện trao đổi kinh tế với miền Bắc để hai miền hỗ trợ lẫn nhau, giúp
nhau phát triển.
- Mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài, kêu gọi sự giúp đỡ về kinh tế,
về vốn, kỹ thuật và chuyên gia của tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị
và xã hội, theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, không có điều kiện ràng
buộc, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Nam Việt Nam.
- Trong sự phát triển nền kinh tế, chú ý chăm sóc đời sống công nhân, lao
động, viên chức, ban hành luật lao động, ban hành quy chế đảm bảo quyền lợi của
công chức, cải thiện điều kiện sinh sống ở các xóm lao động, thực hiện chính sách
người tư sản và người lao động cùng có lợi.
3. – Chính sách về văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật và y tế.
- Xóa bỏ mọi ảnh hưởng của nền văn hóa đồi trụy, sa đọa, lai căng.
- Xây dựng một nền văn hóa, giáo dục dân tộc tiến bộ, nỗ lực phát huy
truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc lâu đời của ta, giữ gìn và phát huy
thuần phong mỹ tục.
- Ra sức nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân: giải quyết nạn mù chữ, mở
thêm trường các cấp, mở lớp bổ túc văn hóa và nghề nghiệp, tạo điều kiện tiến lên
thực hiện cương bách giáo dục.
- Phát triển khoa học kỹ thuật phục vụ đời sống, phục vụ công cuộc kiến
thiết, bảo vệ đất nước.
- Cải cách toàn diện chế độ học tập và thi cử.
- Dùng tiếng Việt làm chuyên ngữ ở mọi ngành đại học.
- Chăm lo đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Bảo đảm cho sinh viên tốt nghiệp có việc làm.
- Miễn thuế cho các trường tư để giảm học phí cho học sinh, sinh viên, miễn
học phí và cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo.
- Giúp đỡ trí thức các ngành hoạt động khoa học, kỹ thuật, văn hóa, các văn
nghệ sĩ có điều kiện mở rộng nghiên cứu sáng tác, phát minh, cải thiện chế độ xuất
dương du học nhằm phục vụ kiến thiết cơ sở.
- Chăm lo sức khỏe của nhân dân, phát triển công tác y tế, chỉnh đốn bệnh
viện đã có, mở thêm bệnh viện, nhà bảo sanh ở đô thị và nông thôn, để phục vụ
rộng rãi đông đảo đồng bào quần chúng và đồng thời đẩy mạnh phong trào vệ sinh
phòng bệnh, thực hiện đời sống mới trong nhân dân.
- Thực hiện quan hệ văn hóa với miền Bắc, kiến lập quan hệ văn hóa với
nước ngoài.
g. - Chính sách về cứu tế xã hội
- Hết sức chăm lo phúc lợi xã hội.
- Săn sóc đời sống và sức khỏe của người già, phụ nữ, thương bệnh binh, trẻ
em mồ côi, người tàn tật v.v…
- Bài trừ mọi tệ nạn xã hội làm hại đến nhân phẩm và sức khỏe của phụ nữ.
- Cứu tế những đồng bào bị nạn trong chiến tranh kể cả những gia đình
nghèo khổ của binh sĩ thuộc quân đội bù nhìn.
B – ĐỐI NGOẠI
- Thi hành chính sách ngoại giao hòa bình không liên kết với phe khối nào,
không đứng trong liên minh quân sự nào.
- Đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các quốc gia không phân biệt chế độ
chính trị trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, chung sống hòa bình.
- Đặc biệt coi trọng tình thân hữu với các nước láng giềng Căm - bốt và Ai -
lao, phát triển quan hệ hữu nghị với các nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á, châu Phi
và châu Mỹ latinh.
- Tích cực góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh ở khu vực Đông Nam Á và
thế giới.
- Mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài và kêu gọi sự giúp đỡ về kinh
tế theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, không có điều kiện ràng buộc,
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Nam Việt Nam.
- Thiết lập quan hệ văn hóa với các nước ngoài.
III – VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT
Chính phủ hai miền Nam Bắc cùng nhau thương lượng để tiến tới hòa bình
thống nhất Tổ quốc.
Thống nhất nước nhà là nguyện vọng tha thiết và là nghĩa vụ thiêng liêng của
dân ta.
Hiện nay trên thực tế nước ta có hai chế độ chính trị khác nhau ở hai miền
Nam Bắc. Sự thống nhất nước nhà không thể giải quyết một sớm một chiều được,
do đó hai miền Nam Bắc cần có sự bàn bạc, thương lượng với nhau trên cơ sở bình
đẳng và tôn trọng đặc điểm của mỗi miền để tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
- Trong khi nước nhà chưa thống nhất, cần phải có sự quan hệ giữa hai miền
về mặt kinh tế, văn hoá thư tín, đi lại v.v…
- Đồng bào Nam Việt Nam tập kết ra ngoài Bắc và đồng bào miền Bắc di cư
vào Nam đều được tự do hồi hương hay ở lại tùy theo sở nguyện của mình.
- Những nhà kinh doanh và sản xuất ở hai miền được tự do đi lại buôn bán,
trao đổi nguyên liệu và hàng hóa giữa hai miền làm cho nền kinh tế của nước Việt
Nam phát triển nhanh chóng và trở nên thịnh vượng.
- Trao đổi những tài liệu về giáo dục, về khoa học kỹ thuật và văn học nghệ
thuật giữa hai miền.
- Cử những phái đoàn giáo sư, cán bộ khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật
giữa hai miền để cùng nhau trao đổi kinh nghiệm và phát triển giáo dục, khoa học
kỹ thuật và văn hóa.
- Sinh viên ở hai miền được tự do xin vào các ngành đại học của mỗi miền
theo sở nguyện của mình.
Nhân dân miền Nam Việt Nam ta đang trong đại họa ngoại xâm.
Vì chiến tranh hủy diệt vô cùng tàn khốc của chính phủ Hoa Kỳ bao nhiêu
xương máu đồng bào ta đã đổ, bao ruộng vườn, nhà cửa của đồng bào ta đã bị tàn
phá, bao cảnh người sống trong tủi nhục, lầm than.
Đất nước ta đang chìm ngập trong máu lửa, từ nông thôn đến thành thị.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương, không một ai không biết đau lòng và căm hận
kẻ thù đang gây bao tội ác chồng chất, gieo bao tang thương cho xứ sở.
Truyền thống dân tộc ta là truyền thống bất khuất, anh hùng luôn luôn biết
sát cánh chung vai trong những ngày lâm nguy của Tổ quốc.
Hội nghị bô lão Diên Hồng vẫn còn vang dội trong tâm não những người yêu
nước thương nòi.
Tiếp nối truyền thống ấy, nhân dân miền Nam ta đã đoàn kết và đánh lui ý
chí xâm lược của quân thù, dồn chúng vào thế bại vong, vào nguy cơ sụp đổ.
Nhưng càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan.
Mặc dù bị nhiều thất bại nặng nề liên tiếp, chính phủ Hoa Kỳ vẫn chưa chịu
kịp thời rút ra những bài học thực tế để tìm giải pháp thỏa đáng chấm dứt chiến
tranh, ngược lại còn lao sâu hơn vào con đường tội lỗi, sử dụng thêm nhiều phương
tiện giết người độc ác, dã man chưa từng thấy, trong thế cùng đường tuyệt vọng.
Đồng bào ta càng cần siết chặt hơn nữa hàng ngũ, xông lên, phất cao ngọn cờ đoàn
kết chiến thắng.
Trong yêu cầu ấy và giữa những giờ phút lịch sử nghiêm trọng hôm nay,
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam long trọng công bố
Chương trình chính trị của mình để làm cơ sở mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết
toàn dân; tăng cường hơn nữa đội ngũ những người yêu nước, thực hiện mặt trận
dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ, cứu nước để đánh đòn quyết định vào kẻ thù
xâm lược.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam trong giai
đoạn đấu tranh quyết liệt hiện nay, luôn luôn kề vai sát cánh với Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam để cùng nhau hoàn thành sự nghiệp cứu nước vinh
quang, giành độc lập, tự do và hòa bình cho dân tộc.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam tha thiết kêu
gọi mọi đồng bào tại các thành thị và vùng còn bị địch khủng bố ở miền Nam, kêu
gọi anh chị em trí thức, thanh niên, sinh viên, học sinh, chị em phụ nữ, anh chị em
công nhân lao động và nông dân, các nhà công thương, đồng bào các tôn giáo, các
nhân sĩ kêu gọi các lực lượng và tổ chức yêu nước tiến bộ, tất cả hãy mở rộng và
tăng cường tình đoàn kết lẫn nhau, tay trong tay, vai kề vai, muôn người như một,
phát huy thế thắng, thế mạnh của dân tộc, triều dâng sóng cuộn tiến lên đánh thắng
hoàn toàn xâm lược Mỹ, đánh đổ toàn bộ chế độ bù nhìn tay sai, giành lại độc lập,
chủ quyền dân tộc, các quyền tự do dân chủ, đem lại hòa bình và hạnh phúc cho
toàn dân.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam kêu gọi toàn
thể công chức, sĩ quan, binh lính thuộc chính quyền bù nhìn tay sai hãy nhận rõ con
đường chính nghĩa tất thắng vinh quang của dân tộc chống xâm lược Mỹ, con
đường nhục nhã, tương lai đen tối, không lối thoát của số phận bù nhìn tay sai, ý
thức sáng suốt nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân Việt Nam, hãy dứt khoát quay về
đứng trong hàng ngũ dân tộc, để cứu mình, cứu nhà, cứu nước, góp phần cùng toàn
dân xây dựng xứ sở. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt
Nam, từ ngày ra đời đến nay, đã không ngừng cùng đồng bào trong nước và ngoài
nước tích cực tham gia, nồng nhiệt hưởng ứng và được các tổ chức đoàn thể nhân
dân tiến bộ trên toàn thế giới triệt để ủng hộ. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hòa bình nguyện xứng đáng với lòng tin yêu của đồng bào, quyết gánh vác
và hoàn thành vai trò lịch sử của mình, nguyện đem hết sức góp phần tích cực vào
sự nghiệp chánh nghĩa của toàn dân.
Siết chặt hàng ngũ muôn người như một dưới ngọn cờ dân tộc chống Mỹ cứu
nước, toàn thể đồng bào ta hãy anh dũng tiến lên.
Miền Nam Việt Nam, ngày 31 tháng 7 năm 1968
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam