BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VĂN CHIẾN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN VĂN CHIẾN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG VĂN NHƯ
HÀ NỘI - 2014
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt
Giá trị sản xuất GTSX
Ngân sách nhà nước NSNN
Nhà xuất bản Nxb
Xây dựng cơ bản XDCB
MỤC LỤC
Tran
g 3
MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VỀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG
ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH
10
1.1. XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng ngân sách
10
1.2. nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản Thực trạng hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong
đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố
Hà Nội 31
Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH
48
XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả sử dụng Ngân 2.1.
sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận
48
Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử 2.2.
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ
bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 55 79 80 85
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong
dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực
hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước; Đầu tư XDCB là kênh đầu tư gắn với việc sử dụng lượng vốn lớn để
xây dựng các công trình hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nâng
cao đời sống dân sinh, tạo ra những điều kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc.
Trên tinh thần đó, việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB nếu không đạt
hiệu quả cao thì không chỉ lãng phí NSNN, mà còn làm chậm tiến trình phát
triển kinh tế xã hội và ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu
khác.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Thanh Xuân lần thứ III
xác định “Công tác đầu tư XDCB là khâu đột phá trong lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội” [32, tr.27]. Nhiều năm qua, cùng với ngân sách Thành phố
cấp, Quận Thanh Xuân đã sử dụng một lượng ngân sách không nhỏ để đầu
tư xây dựng, cải tạo trường học, hình thành nhiều tuyến đường giao thông,
khu đô thị mới,… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, từng
bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và tạo nên vẻ đẹp mới
của Quận ngày càng khang trang, hiện đại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, việc sử dụng NSNN cho đầu tư XDCB trên địa bàn Quận còn có biểu
hiện kém hiệu quả. Cùng với thực trạng trên, theo dự báo, những năm tới,
nhu cầu đầu tư XDCB trên địa bàn Quận còn nhiều, trong khi xu hướng
nguồn NSNN dành cho đầu tư XDCB chững lại do ảnh hưởng tiêu cực từ
suy thoái kinh tế thế giới. Theo trên, Quận Thanh Xuân đang đứng trước
thách thức không nhỏ về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, tạo lập hạ tầng
4
kinh tế, xã hội tiếp tục phát triển.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở cấp quận, huyện
nói chung, Hà Nội nói riêng đã được nhiều tác giả bàn luận đến ở các khía
cạnh khác nhau.
Dưới góc độ luận văn, luận án. Tháng 6 năm 2009, Hoàng Vũ Diệu
Thúy đã bảo vệ thành công đề tài luận văn thạc sỹ "Nghiên cứu một số giải
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình" tại Trường Đại
học Xây dựng. Trong đề tài này, tác giả đã hệ thống hóa, phân tích khá sâu về
đầu tư, đầu tư XDCB, nghiên cứu thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Về mặt lôgic hình thức, đối tượng nghiên cứu trong
đề tài của Hoàng Vũ Diệu Thúy rất gần với đề tài luận văn thạc sỹ của tác giả.
Tuy nhiên, Hoàng Vũ Diệu Thúy không nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị.
Thêm vào đó, thành phố Đồng Hới của tỉnh Quảng Bình có điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội không giống với Thanh Xuân - một quận trẻ của Thủ đô Hà Nội.
Cùng với Hoàng Vũ Diệu Thúy có thể kể đến một tác giả khác là
Nguyễn Hoàng Lê với đề tài luận văn cao học “Thực trạng và các giải pháp
nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ những năm vừa
qua”. Tác giả luận văn đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về đầu tư
xây dựng cơ bản bắt đầu từ việc phân tích, làm rõ các khái niệm về xây dựng
5
cơ bản và đầu tư xây dựng cơ bản, đặc điểm chung của đầu tư xây dựng cơ
bản, các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản đến việc chỉ ra các chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả đầu tư XDCB. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đã đánh giá thực
trạng về đầu tư XDCB ở tỉnh Phú Thọ trong những năm qua và đề xuất những
giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư XDCB ở tỉnh Phú Thọ trong những
năm tới. Tất cả các nghiên cứu trên đây của Nguyễn Hoàng Lê thể hiện khá rõ
góc độ nghiên cứu chuyên sâu về ngành mà chưa đứng trên giác độ kinh tế
chính trị. Việc phân định nguồn vốn đầu tư được tác giả quan niệm gồm: vốn
cho thiết kế, lắp đặt, xây dựng, … mà chưa đề cập trực tiếp đến nguồn vốn là
NSNN. Hơn thế nữa, Phú Thọ là một tỉnh trung du có nhiều nét khác biệt so
với Thanh Xuân là một quận của Hà Nội về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội,
quan điểm đầu tư – những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và nâng
cao hiệu quả đầu tư XDCB nói chung, từ nguồn vốn là NSNN nói riêng.
Cũng dưới góc độ luận văn, luận án. Tác giả Trần Ngọc Dũng đã bàn
đến “Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam”; Nguyễn Thị Hạnh với “Thực
trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Đô”. Tại Hội nghị Sinh viên
Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010, tác giả Lê Minh
Tuấn đã công bố kết quả đề tài “Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thẩm
định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Agribank Quận Cẩm Lệ - Thành
phố Đà Nẵng” … tất cả các công trình khoa học này đều có liên quan đến đề
tài luận văn của tác giả nhưng chỉ trong một phạm vị hẹp đó là vấn đề thẩm
định dự án đầu tư – một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả và nâng cao hiệu quả
đầu tư các dự án nói chung – giống như đề tài “Quản lý nhà nước đối với các
dự án đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN ở cấp huyện thuộc Hà Nội” của
6
tác giả Vũ Khắc Phương và một số đề tài khác chỉ đề cập đến góc độ quản lý
nhà nước hay một góc độ nhỏ nào đó đối với đầu tư XDCB từ NSNN.
Dưới góc độ các bài báo khoa học. Tháng 1/2007, Tạp chí Cộng sản
điện tử có đăng bài của tác giả Nguyễn Sinh Hùng bàn về “Quản lý và sử
dụng NSNN trong tiến trình cải cách tài chính công”. Trong bài viết này, tác
giả đã nêu bật một số vấn đề mới xung quanh hoạt động quản lý NSNN và sử
dụng NSNN trong tiến trình cải cách tài chính công. Mặc dù có điểm tương
đồng với đề tài luận văn của tác giả là cùng nghiên cứu về NSNN nhưng có
thể thấy nghiên cứu của Nguyễn Sinh Hùng nghiêng nhiều về góc độ tài
chính, kế toán trên phương diện cả nền kinh tế chứ không phải là kinh tế
chính trị, trong khuôn khổ một quận của thành phố như đề tài luận văn đề cập.
Cùng với Nguyễn Sinh Hùng có thể kể đến Phan Hùng với “Sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư XDCB” đăng trên Báo Nhân dân điện tử ở địa chỉ
http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/cung-suy-ngam/item/11805702-.html.
Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến hiệu quả của việc sử dụng các nguồn
vốn nói chung trong đầu tư XDCB mà không bàn trực tiếp đến nguồn vốn là
NSNN và trên một địa phương cụ thể. Cùng với hướng nghiên cứu của Phan
Hùng nhưng cụ thể hơn là việc sử dụng nguồn vốn là NSNN, tác giả Nguyễn
Văn Cảnh đưa ra quan niệm về hiệu quả sử dụng NSNN, đề xuất các giải
pháp về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc chi NSNN và trách nhiệm cá nhân đối với
các quyết định sử dụng NSNN trong bài viết “Nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN”. Tuy nhiên, cần thấy rằng, Nguyễn Văn Cảnh đã bàn đến hiệu quả sử
dụng NSNN trong các hoạt động nói chung mà không nghiêng nhiều về hoạt
động đầu tư, đặc biệt là đầu tư XDCB.
Cùng với các công trình nêu trên, còn có một số công trình khác cũng
bàn đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề sử dụng NSNN, hay hiệu quả
đầu tư XDCB, tiêu biểu như: Thu Hằng với “Khắc phục triệt để tình trạng
7
lãng phí lớn do chủ trương đầu tư không đúng”; Minh Khánh bàn về “Tăng
cường quản lý, sử dụng NSNN”; Công Hưng và “Hiệu quả đầu tư XDCB
Khánh Vĩnh”; Bộ Tài chính với“Sử dụng NSNN còn lãng phí và thất thoát”
hay “Chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu tư XDCB” ở
http://old.voer.edu.vn/module/khoa-hoc-xa-hoi/cac-chi-tieu-phan-anh-hieu-
qua-dau-tu-xay-dung-co-ban.html;... Ở Thu Hằng, với cách đặt vấn đề là khắc
phục triệt để tình trạng lãng phí lớn do đầu tư không đúng đã nêu bật một thực
trạng xã hội hiện nay trong vấn đề đầu tư, trong đó có đầu tư XDCB là đầu tư
không đúng hướng, không đúng lúc, không đúng nơi, không đúng nhu cầu …
thì tất yếu dẫn đến lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp. Tác giả Minh Khánh có
hướng nghiên cứu khác với Thu Hằng ở chỗ bàn đến mục tiêu quản lý, sử
dụng NSNN phải đạt hiệu quả cao cho dù lượng NSNN đó được dùng vào bất
kỳ hoạt động nào chứ không phải là bàn riêng về sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB. Bài viết “Chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu tư XDCB” đã bàn đến một
cách chung nhất về hiệu quả đầu tư XDCB nhưng không đề cập cụ thể đến
nguồn vốn là NSNN và trên một địa phương cụ thể.
Những dẫn luận trên đây cho thấy, mặc dù có nhiều công trình đã được
công bố có liên quan đến đề tài luận văn nhưng chưa có bài viết hay công
trình nào bàn đến một cách trực tiếp về vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB, từ đó đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, dự báo xu
hướng, đề ra quan điểm và các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
8
- Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Là hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, khảo sát, điều tra việc sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB trong không gian là Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội với
nguồn NSNN mà Quận được giao và những dự án đầu tư XDCB do Quận thực
hiện trong thời gian chủ yếu là 5 năm gần đây (2008-2014).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà
nước xung quanh hoạt động sử dụng NSNN và đầu tư XDCB.
*Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Kinh tế
Chính trị Mác Lênin, đặc biệt là trừu tượng hóa khoa học và các phương pháp
khác như phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Cụ thể hóa thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc
9
sử dụng NSNN để đầu tư phát triển, cụ thể là đầu tư XDCB trên địa bàn cấp
quận, huyện. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn Kinh
tế Chính trị Mác Lênin.
- Nêu những ý kiến phản biện, đề xuất, gợi ý cho Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội nghiên cứu, tham khảo về việc nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
gồm 2 chương, 4 tiết.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong
đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản
Một số vấn đề về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện, phát triển của kinh tế
hàng hóa và sự ra đời của nhà nước. Hiện nay, thuật ngữ "Ngân sách nhà
nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia.
Song quan niệm về NSNN lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định
nghĩa về NSNN tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Thông thường, nói đến NSNN, người ta hiểu đó là bản dự trù thu, chi
tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một
năm) thể hiện những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước huy
động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau; Một khoản tiền hay một quỹ
tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành từ các nguồn thu trong xã hội
và được chi tiêu vào các hoạt động để đảm bảo thực hiện chức năng của nhà
nước trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu lượng thu nhiều hơn chi thì
gọi là bội thu NSNN và ngược lại là bội chi hay thâm hụt NSNN. Với mỗi
quốc gia, tùy vào từng điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển mà lượng
NSNN cần duy trì có sự khác nhau, từ đó các khoản thu, chi và mức độ thu
chi của từng khoản được xác định. Các quốc gia chậm phát triển và đang phát
triển, còn nghèo đói thì NSNN thường ở tình trạng thâm hụt. Tuy nhiên, ở các
nước phát triển cũng không phải không có những thời điểm bội chi NSNN do
các yêu cầu phát triển hay những nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra. Bội thu hay
11
bội chi NSNN chưa phải là điều đáng quan tâm bằng nguyên nhân hay những
lý do dẫn đến tình trạng đó.
Từ các phân tích trên đây cho thấy, theo quan niệm chung nhất, NSNN
là một phạm trù kinh tế, một thành phần trong hệ thống tài chính, được hình
thành từ các khoản thu, chi bằng tiền của mỗi quốc gia, trong một khoảng
thời gian nhất định. Đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm
những khoản tiền nhà nước huy động vào ngân sách còn chi NSNN là khoản
tiền được nhà nước tiêu dùng vào các hoạt động đầu tư, phát triển trong
khuôn khổ được xác định bởi luật pháp. Về mặt bản chất, thu, chi NSNN là hệ
thống những quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội phát sinh trong quá
trình nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành quỹ tiền tệ tập
trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thu NSNN là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với
chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các
lợi ích kinh tế xuất phát từ sự tồn tại của bộ máy nhà nước và yêu cầu thực
hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà nước. Nội dung các
khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ không hoàn lại (Các khoản vay mang tính chất
hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại thì không tính vào thu NSNN);
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, thu NSNN phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu sau:
- Trình độ phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người càng cao thì càng có
khả năng động viên để hình thành nguồn NSNN lớn và ngược lại.
12
- Bản chất nhà nước. Dưới góc độ thu NSNN, nhà nước của giai cấp bóc
lột thường hướng tới việc hình thành một khoản tiền lớn trên cơ sở mở rộng đối
tượng thu và mức thu, tập trung chủ yếu vào người lao động và có dấu hiệu tận
thu. Điều này khác với nhà nước XHCN, duy trì thu ngân sách trên cơ sở đảm
bảo tối đa lợi ích của người lao động.
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Trong mỗi
thời kỳ nhất định, mỗi quốc gia luôn đặt ra các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội. Nếu các mục tiêu này càng nhiều thì NSNN càng phải lớn. Từ đó, phải
động viên, tăng nguồn thu, thậm chí phải đi vay để hình thành ngân sách.
- Tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh,
kém hiệu quả thì cần nguồn ngân sách lớn để nuôi nó nên phải tăng thu ngân
sách và ngược lại. Với bộ phận thu NSNN, nếu gọn, nhẹ, chặt chẽ, hiệu quả
thì NSNN không bị thất thu, lượng thu được cho NSNN lớn.
Chi NSNN là việc tiêu dùng NSNN. Thực chất, chi NSNN là việc phân
phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước
theo những nguyên tắc nhất định. Chi NSNN là quá trình phân phối lại các
nguồn tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử
dụng. Do đó, chi NSNN là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định
hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc
thuộc chức năng của nhà nước.
Chi NSNN thông qua quá trình phân phối và quá trình sử dụng. Quá
trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại
quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là trực tiếp chi dùng khoản
tiền cấp phát từ NSNN mà không phải trải qua việc hình thành các loại quỹ
trước khi đưa vào sử dụng. Chi NSNN có các đặc điểm sau:
- Chi NSNN gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ. Nhà nước của
13
giai cấp bóc lột thường không hướng việc chi NSNN vào các hoạt động mang
lại lợi ích chủ yếu cho đại bộ phận nhân dân, người lao động và toàn xã hội
như hoạt động chi NSNN của nhà nước XHCN. Nếu các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội được đặt ra nhiều thì các khoản chi theo đó mà tăng lên;
- Các khoản chi của NSNN được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô và
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu;
- Chi NSNN gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp lí cao;
- Các khoản chi của NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù
thuộc lĩnh vực tiền tệ như: giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương,…
Nội dung của các khoản chi NSNN có thể phân theo các tiêu chí khác
nhau. Theo chức năng, nhiệm vụ, chi NSNN gồm chi tích lũy và chi tiêu dùng.
Chi tích lũy là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền
kinh tế, tăng trưởng kinh tế, chi cho đầu tư phát triển, trong đó phần lớn là chi
cho XDCB, khấu hao tài sản xã hội. Chi tiêu dùng là các khoản chi không tạo
ra sản phẩm vật chất để xã hội sử dụng trong tương lai (chi bảo đảm xã hội),
bao gồm các khoản chi cho giáo dục, y tế, công tác dân số, khoa học và công
nghệ, văn hóa, thông tin đại chúng, thể thao, lương hưu và trợ cấp xã hội, các
khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, quản
lý hành chính, an ninh, quốc phòng, dự trữ tài chính, trả nợ vay nước ngoài,
lãi vay nước ngoài và các khoản chi khác. Theo đó, chi NSNN cho đầu tư
XDCB là một trong những khoản chi tích lũy.
Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý, các khoản chi
NSNN gồm: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi dự trữ, chi trả nợ.
Trong đó, nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của nhà nước; Nhóm chi đầu tư phát triển là các khoản chi
dài hạn nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế; Nhóm chi dự trữ là những khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ nhà
14
nước và quỹ dự trữ tài chính; Nhóm chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản
chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay
nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế. Dưới góc độ
này, chi NSNN cho đầu tư XDCB là khoản chi cho đầu tư phát triển.
Chi NSNN phải tuân theo nguyên tắc gắn chặt các khoản thu để bố trí
các khoản chi để tránh bội chi NSNN, gây lạm phát, mất cân bằng cho sự phát
triển xã hội; Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các
khoản chi tiêu của NSNN; Tập trung có trọng điểm; Phân biệt rõ mục tiêu,
nhiệm vụ các khoản chi và phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất…
Từ bản chất của thu, chi NSNN nhận thấy:
- NSNN được tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định, gắn chặt với
quyền lực kinh tế, chính trị và việc thực hiện các chức năng của nhà nước.
- Hoạt động NSNN là phân phối lại các nguồn tài chính thể hiện ở thu
và chi của nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
- NSNN luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, chứa đựng những lợi ích
trong đó có lợi ích chung của toàn xã hội.
- NSNN có đặc điểm của quỹ tiền tệ nhưng nó là một quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước, được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng trước
khi được chi dùng cho những mục đích đã định.
Ở Việt Nam, “Luật NSNN” được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
quy định rõ: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Theo đó, NSNN của Việt Nam cũng được hình thành từ các khoản thu
như ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Điểm khác biệt lớn nhất của NSNN ở
Việt Nam so với NSNN của các nước khác, đặc biệt là các nước tư bản là
ngân sách này được hình thành và phát triển, được quản lý, chi tiêu hướng tới
15
đảm bảo lợi ích cao nhất cho toàn dân chứ không phải vì lợi ích thiểu số hay
riêng giai cấp lãnh đạo nhà nước. Mục tiêu cao nhất của việc hình thành và
phát triển NSNN ở nước ta là để đáp ứng yêu cầu đưa đất nước tiến lên
CNXH, trước mắt là thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc. Riêng đối với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, NSNN đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế,
điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh, giữ vững vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến
đến thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu đó, NSNN ở nước ta bao gồm ngân sách Trung ương
và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở Trung ương.
Ngân sách địa phương là ngân sách của các đơn vị hành chính các cấp có hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân.
Mục tiêu của việc hình thành và phát triển NSNN đã quy định việc chi
NSNN ở nước ta phải tuân thủ 6 nguyên tắc sau:
Một là, bố trí các khoản chi gắn chặt các khoản thu để tránh thâm hụt
ngân sách, đảm bảo giữ vững ổn định của nền kinh tế.
Hai là, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các
khoản chi tiêu của NSNN.
Ba là, theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các
khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội.
Bốn là, tập trung có trọng điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bổ
NSNN phải tập trung vào các chương trình trọng điểm, các ngành mũi nhọn
của nền kinh tế, các vấn đề cấp thiết nhất của đời sống nhân dân.
Năm là, phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp
theo quy định của luật để phối hợp chi NSNN.
Sáu là, phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái.
16
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia. Ở nước ta cũng vậy, NSNN là công cụ được nhà nước
sử dụng để tác động đến toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại. Quá trình tác động được thực hiện trên cơ sở 2 kênh:
Dùng khoản thu, mức thu để điều tiết và sử dụng khoản chi, mức chi để trực
tiếp làm thay đổi các hoạt động kinh tế, xã hội. Trong các đối tượng mà
NSNN tác động đến có hoạt động đầu tư XDCB.
Ngân sách quận, huyện, thị xã (gọi chung là ngân sách cấp huyện) là
một bộ phận của NSNN địa phương. Nguồn thu gồm:
* Các khoản thu ngân sách quận, huyện, thị xã hưởng 100%
- Thuế tài nguyên từ các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ sản xuất;
- Thu khác từ khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp từ các nông trường, trạm trại quốc
doanh nhà nước quản lý;
- Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Tiền cho thuê mặt đất, mặt nước các doanh nghiệp nhà nước và khu
vực ngoài quốc doanh;
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực
tiếp cho quận, huyện theo quy định của pháp luật;
- Các khoản phí, lệ phí (phần nộp ngân sách theo quy định) do các cơ
quan, đơn vị thuộc quận, huyện tổ chức thu (không kể phí xăng dầu, lệ phí
trước bạ, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải);
- Thu phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực do các đơn vị quận,
huyện phạt xử lý;
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước
trực tiếp cho quận, huyện;
- Thu sự nghiệp, phần nộp ngân sách theo quy định của các đơn vị do
quận, huyện quản lý;
17
- Thu kết dư ngân sách quận, huyện;
- Thu bổ sung ngân sách cấp trên;
- Thu chuyển nguồn từ ngân sách quận, huyện năm trước sang năm sau;
- Tiền bán tài sản cấp huyện quản lý;
- Thu hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất thuộc cấp huyện quản lý;
- Tiền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô diện tích dưới 5000 m 2,
không tiếp giáp với mặt đường, phố.
- Các khoản thu khác của ngân sách quận, huyện theo pháp luật.
* Các khoản thu của ngân sách quận, huyện, thị xã hưởng theo tỷ lệ
phần trăm (%) gồm:
- Thuế thu nhập cá nhân (không bao gồm thuế thu nhập cá nhân thu từ
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp qua
kho bạc nhà nước).
- Lệ phí trước bạ xe máy, ô tô, tàu thuyền và tài sản khác.
- Thuế giá trị gia tăng thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không kể
thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa, dịch vụ thu từ khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh (không kể thuế TTĐB hàng nhập khẩu).
- Tiền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô diện tích từ 5000m2 trở
lên; hoặc đất dưới 5000m2 tiếp giáp với đường, phố; không bao gồm tiền sử
dụng đất các dự án di dời theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngân sách thành phố hưởng 100% và đất nhỏ lẻ, xen kẹt có quy mô
dưới 5000m2 không tiếp giáp đường, phố điều tiết 100% cho ngân sách quận,
huyện, thị xã.
- Thuế môn bài thu từ các hộ, cá nhân kinh doanh (thu trên địa bàn phường).
- Lệ phí trước bạ nhà đất (thu trên địa bàn phường).
18
* Chi ngân sách quận, huyện, thị xã cho đầu tư phát triển.
Ngân sách quận, huyện, thị xã chi đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp
các công trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu
hồi vốn, không có khả năng xã hội hóa thuộc lĩnh vực phân cấp cho quận,
huyện, thị xã trên địa bàn. Cụ thể các lĩnh vực đầu tư phát triển thuộc nhiệm
vụ chi của ngân sách cấp huyện, bao gồm:
- Đầu tư lĩnh vực thủy lợi
Đầu tư các công trình thủy lợi, có đặc điểm, tính chất, quy mô như sau:
+ Đầu tư các hồ chứa nước có dung tích từ 500.000 m3 trở xuống; hoặc
có chiều cao đập từ 12 m trở xuống, phục vụ trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư các đập dâng có chiều cao đập từ 10m trở xuống, phục vụ tưới
trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư các trạm bơm điện phục vụ trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư hệ thống kênh tưới tiêu phục vụ phạm vi 1 xã.
- Đầu tư lĩnh vực đê điều: các tuyến đê từ cấp IV trở xuống, các tuyến
đê bao, đê bối của các sông nội địa thuộc địa bàn (không bao gồm các tuyến
đê bao, đê bối của các sông Hồng, sông Đà, sông Đuống).
- Đầu tư lĩnh vực Lâm nghiệp: các công trình bảo vệ phát triển rừng
phòng hộ, rừng sản xuất trên địa bàn (trừ phần thuộc Thành phố đầu tư quản lý).
- Đầu tư công trình công viên, hồ nước
Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công viên và hồ nước còn lại trên địa
bàn (trừ các công viên, hồ thành phố quản lý).
- Đầu tư lĩnh vực giao thông
Khối quận đầu tư các đường ngõ phố, ngõ xóm và đường nội bộ khu
dân cư; hè đường phố trên địa bàn (trừ các tuyến quan trọng do Thành phố
đầu tư cả hè và đường).
- Đầu tư công trình bến xe ô tô, bãi đỗ xe: Bãi dừng, đỗ xe tại các khu
dân cư, trung tâm thương mại và khu vực công cộng khác trên địa bàn, các bãi
19
đỗ xe tạm thời trong khu vực nội thành, nội thị, bãi đỗ xe tạm thời khu vực
ngoại thành và trong khuôn viên thuộc quyền sở hữu, quản lý của các tổ chức,
đơn vị theo địa bàn hành chính.
- Đầu tư xây dựng các bãi, bến cảng thủy
- Đầu tư công trình, dự án chiếu sáng công cộng
- Đầu tư công trình vệ sinh môi trường
Đầu tư các bãi chôn lấp rác, đất thải cấp huyện và khu tập kết rác tại
các xã trên địa bàn; đầu tư bãi chôn lấp rác thải trên địa bàn phục vụ việc xử
lý chất thải trong địa bàn 1 quận/huyện; Đầu tư các công trình, dự án khắc
phục ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trong phạm vi 1 xã, phường, thị trấn.
- Đầu tư công trình thoát nước
Quận đầu tư công trình thoát nước ngõ, ngách và trong khu vực dân cư
không tiếp giáp đường Thành phố quản lý; Huyện đầu tư các công trình thoát
nước còn lại trên địa bàn (ngoài các công trình Thành phố quản lý);
- Đầu tư lĩnh vực Văn hóa - Thể thao:
Đầu tư các nhà văn hóa, các trung tâm văn hóa thể thao, nhà thi đấu thể
thao, nhà văn hóa thanh - thiếu nhi cấp huyện; nhà văn hóa xã, phường; nhà
văn hóa thôn, xóm, khu dân cư, khu vui chơi cộng đồng; Đầu tư bảo tồn, tôn
tạo các di tích trên địa bàn (ngoài 12 di tích Thành phố quản lý).
- Đầu tư lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và Y tế
Đầu tư xây dựng các trường mầm non (trừ trường thuộc Thành phố
quản lý); tiểu học, trung học cơ sở (trừ các trường Thành phố quản lý); xây
dựng trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã; trung tâm dạy nghề
trên địa bàn; trung tâm tin học, ngoại ngữ, giáo dục cộng đồng và giáo dục
thường xuyên do cấp huyện quản lý; Đầu tư các trung tâm Y tế quận, huyện,
thị xã (gồm cả phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế phường, xã); Trung
tâm dân số kế hoạch hóa gia đình cấp quận, huyện, thị xã.
20
- Đầu tư lĩnh vực Quản lý nhà nước:
Cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc các cơ quan hành chính, đảng, đoàn
thể quận, huyện, thị xã; Đầu tư xây dựng mới, cải tạo hạ tầng kỹ thuật và trụ
sở làm việc các cơ quan hành chính, đảng, đoàn thể cấp xã; trụ sở hoặc nơi
làm việc của công an và quân sự xã.
- Đầu tư công trình phục vụ tang lễ: Các nghĩa trang nhân dân, nghĩa
trang liệt sỹ, đài tưởng niệm, đài liệt sỹ cấp huyện và xã.
- Đầu tư lĩnh vực môi trường; Các công trình, dự án khắc phục ô nhiễm
môi trường ảnh hưởng trong phạm vi 1 xã, phường, thị trấn.
- Đầu tư lĩnh vực Thông tin và truyền thông: Các công trình, dự án
phục vụ hoạt động phát thanh, truyền thanh cấp huyện, xã.
- Đầu tư công trình ứng dụng Khoa học công nghệ và công nghệ thông
tin: Các công trình công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu và xây dựng cổng thông
tin cấp huyện, xã.
- Đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu đất đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất
nhỏ lẻ, xen kẹt có diện tích dưới 5000m2 không tiếp giáp với đường phố; hạ tầng
kỹ thuật khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng các dự án cấp huyện.
- Các khoản chi đầu tư phát triển khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân
sách cấp huyện, cấp xã theo quy định của pháp luật.
* Các khoản chi thường xuyên
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế; đảm bảo
xã hội; văn hóa thông tin, thể dục thể thao; ứng dụng khoa học, công nghệ do
quận, huyện quản lý: Giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở công lập
và sự nghiệp giáo dục khác; Dạy nghề, đào tạo nghề, bồi dưỡng kiến thức chính
trị do Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện mở và các hình thức bồi
dưỡng, đào tạo khác; Các hoạt động về công tác y tế (vệ sinh phòng bệnh dịch,
vệ sinh an toàn thực phẩm); kế hoạch hóa gia đình và trẻ em theo phân cấp;
21
Các trại xã hội do quận, huyện quản lý; cứu tế xã hội; phòng chống các tệ nạn
xã hội và các hoạt động xã hội khác theo phân cấp; Nhà văn hóa, các cơ sở
văn hóa và các hoạt động văn hóa khác do cấp huyện quản lý; Quản lý, bảo vệ
các di tích lịch sử - văn hóa theo phân cấp; Đài phát thanh và các hoạt động thông
tin, tuyên truyền khác của quận, huyện; Bồi dưỡng, huấn luyện vận động viên
các đội tuyển cấp quận, huyện, trong thời gian tập trung thi đấu, hoạt động
của các trung tâm thể dục, thể thao do quận, huyện quản lý; Chi ứng dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ; Các sự nghiệp văn hóa, xã hội khác.
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do quận, huyện quản lý
Sự nghiệp giao thông: Quản lý, duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa, nâng
cấp đường giao thông và các công trình giao thông do quận, huyện quản lý
theo phân cấp; Sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và thủy lợi do
quận, huyện quản lý; chuyển đổi cơ cấu kinh tế phục vụ phát triển mô hình
nông thôn mới; chi bảo vệ, phòng chống cháy rừng; phòng chống lụt bão và
các nhiệm vụ khác về nông - lâm - ngư nghiệp theo phân cấp của Thành phố.
Sự nghiệp thị chính: Quản lý, duy tu bảo sưỡng và sửa chữa nâng cấp
hệ thống đèn chiếu sáng công cộng, công trình thoát nước, vỉa hè, ngõ, ngách;
quản lý các hồ, công viên, cây xanh; đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa
chính theo phân cấp; Hoạt động quản lý hệ thống các chợ, các trung tâm
thương mại theo phân cấp.
- Các hoạt động sự nghiệp về môi trường theo phân cấp gồm: Thu gom,
vận chuyển rác thải; hút bụi, tưới nước rửa đường theo trên địa bàn và các
nhiệm vụ khác về môi trường.
- Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
của cấp quận, huyện.
- Hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể cấp quận, huyện, thị xã.
22
- Hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và thực hiện chính sách xã hội đối với các đối
tượng do quận, huyện, thị xã quản lý;
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
- Chi bổ sung cho ngân sách xã, phường, thị trấn;
- Chuyển từ ngân sách quận, huyện, thị xã năm trước sang năm sau.
Một số vấn đề về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư là từ để chỉ việc đem công sức, trí tuệ, tiền bạc làm một việc gì
nhằm đem lại kết quả, lợi ích nhất định. Dưới góc độ kinh tế, đầu tư là hoạt
động sử dụng các nguồn lực (vốn, tài nguyên) trong 1 thời gian nhất định để
thu được lợi nhuận kinh tế hoặc lợi ích xã hội. Theo cách hiểu chung nhất,
đầu tư là bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp
bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách vốn tự có, liên doanh, hoặc vay
dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hoá,
mở rộng doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận hay phát triển phúc lợi công cộng.
Theo đó, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì
những tiềm lực sẵn có hoặc tạo thêm tiềm lực mới để mở rộng quy mô hoạt
động sản xuất, dịch vụ, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Theo Luật Đầu tư năm 2005, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các
loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của pháp luật. Hoạt động đầu tư gắn liền với hai
đặc trưng là tính sinh lãi và tính rủi ro. Mục đích của việc đầu tư là sinh lãi,
nghĩa là tạo ra những lợi ích lớn hơn trong tương lai từ nguồn vốn đầu tư ban
đầu. Mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư tuỳ thuộc vào loại hình đầu tư và
trong những điều kiện nhất định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, vốn đầu tư là các tài sản hợp
pháp của cá nhân hoặc tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp đưa vào các hoạt động
23
sản xuất, kinh doanh, phát triển xã hội. Các tài sản hợp pháp gồm: Cổ phần,
cổ phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác; Trái phiếu, khoản nợ và các hình thức
vay nợ khác; Các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng chìa khóa trao
tay, hợp đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc
doanh thu; Các quyền đòi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp đồng; Công
nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ; Các
quyền chuyển nhượng, bao gồm cả các quyền đối với thăm dò và khai thác tài
nguyên; Bất động sản; quyền đối với bất động sản, bao gồm cả quyền cho thuê,
chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh; Các khoản lợi tức phát sinh
từ hoạt động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi cổ phần, cổ tức, tiền bản quyền
và các loại phí; Các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác theo quy định của
pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chủ sở hữu vốn đầu
tư hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử
dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư được gọi là nhà đầu tư, có thể là nhà
nước, doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân.
Tùy theo cách phân loại, có nhiều hình thức đầu tư. Thông thường,
người ta quan niệm có hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Ở hình
thức đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia quản lý hoạt động đầu tư
còn đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại,
có thể coi các hình thức đầu tư gồm: Đầu tư tài chính, đầu tư tài sản vật chất
và nguồn nhân lực, đầu tư thương mại, đầu tư xây dựng. Trong đó, đầu tư tài
chính là các hoạt động đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh khác, ngoài hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích mở rộng cơ hội
24
thu lợi nhuận cao và hạn chế rủi ro trong kinh doanh; Đầu tư tài sản vật chất
và nguồn nhân lực là loại đầu tư nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất, kinh doanh hoặc các hoạt động xã hội;
Đầu tư thương mại là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và khi bán; Đầu tư xây dựng là hoạt động bỏ vốn vào việc xây
dựng, mua sắm nhà xưởng, thiết bị, máy móc, nhà ở, bệnh viện, trường học, cầu
đường, bến cảng, sân bay… bao gồm việc xây dựng các xí nghiệp, công trình
mới, khôi phục, cải tạo, mở rộng các xí nghiệp, công trình sẵn có (không kể các
chi phí sửa chữa, kể cả sửa chữa lớn các tài sản cố định). Theo trên, trong đầu tư
xây dựng có một bộ phận đặc biệt đó là kênh đầu tư vào các công trình có tính
chất xây dựng như: Công trình giao thông, thủy lợi, thủy điện, cầu cảng, xây
dựng nhà cửa, công sở, nhà máy để phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế và các
công trình phúc lợi xã hội như nhà văn hóa, công viên, rạp chiếu phim....
nhằm mang lại lợi ích, phục vụ cho các ngành và nhiều người trong xã hội,
được gọi là đầu tư XDCB. Do tính chất của đầu tư XDCB là đầu tư cho nhiều
người, cho xã hội nên thông thường chủ đầu tư của kênh đầu tư này là nhà
nước với vốn đầu tư là từ nguồn NSNN. Tuy nhiên, cũng có thể chủ đầu tư là
nhà nước nhưng vốn đầu tư là vốn kết hợp giữa nhà nước với tập thể hoặc cá
nhân trên cơ sở nhà nước và nhân dân cùng làm.
Như vậy, đầu tư XDCB chỉ là một kênh trong đầu tư xây dựng, là việc
chủ đầu tư bỏ vốn vào các công trình có tính chất xây dựng để tạo ra những
điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống. Đối với
nước ta, đầu tư XDCB là đầu tư xây dựng các công trình để hướng tới mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống dân sinh, tạo ra những điều
kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc. Đầu tư XDCB tác động đến tổng cung và
tổng cầu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế vĩ mô, từ cơ cấu ngành, vùng đến cơ cấu
25
thành phần kinh tế; Tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiê ̣p hóa, hiê ̣n đại hóa đất
nước; chủ đô ̣ng hô ̣i nhâ ̣p kinh tế quốc tế; tạo tiền đề áp dụng nhanh các thành
tựu của khoa học và công nghệ vào thực tiễn cuộc sống và thực hiện các mục
tiêu phát triển bền vững.
1.1.2. Hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng
cơ bản
Theo từ điển Tiếng Việt “Sử dụng là lấy làm phương tiện để phục vụ
nhu cầu, mục đích nào đó”. Theo đó, có thể hiểu sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB là việc các cơ quan nhà nước lấy công cụ NSNN làm phương tiện để
hình thành và phân phối quỹ NSNN cho việc xây dựng, tu bổ các công trình
như đường xá, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, di tích lịch sử... nhằm tạo
ra những điều kiện vật chất, kỹ thuật tốt hơn cho phát triển kinh tế, xã hội,
tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
Sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB có các đặc điểm sau:
Một là, gắn với việc tạo ra và phân phối một lượng tiền lớn, khả năng
thu hồi thấp hoặc không thể thu hồi trực tiếp, thời gian sử dụng và thu hồi vốn
lâu dài, dễ bị thất thoát, lãng phí. Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư cho phát
triển, một khoản chi cho tích lũy, xây dựng và thực hiện mỗi dự án đầu tư
XDCB thường rất tốn kém do đó sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB luôn
gắn với việc tạo ra và sử dụng một khối lượng tiền lớn cho dù đó là việc là
của Trung ương hay của các địa phương. Thực tiễn đã chứng minh sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB là việc tạo ra và sử dụng khoản tiền lớn nhưng khả
năng thu hồi thấp hoặc không thể thu hồi trực tiếp, thời gian thu hồi lâu dài,
dễ bị thất thoát, lãng phí.
Hai là, Số lượng vốn được cấp thẩm quyền quyết định; được Nhà nước
cấp phát theo chương trình, dự án từ khi chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án đến
khi hoàn thành bàn giao công trình đưa vào sử dụng; tiến hành thu hồi vốn
26
trong những dự án cụ thể, theo hợp đồng quy phạm pháp luật sau khi các công
trình được đưa vào sử dụng.
Ba là, Có nhiều ngành, cấp cùng quản lý vốn theo các quy định của
Luật NSNN, quy định của pháp luật về quản lý đầu tư, quản lý chi phí xây
dựng dự án, công trình. Cụ thể, ngoài “Luật Ngân sách nhà nước”, hoạt động
sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB phải tuân theo 29 điều của 4 luật: Xây
dựng, Đấu thầu, Bảo vệ môi trường và Doanh nghiệp.
Bốn là, Chủ đầu tư không phải là người sở hữu vốn đầu tư đích thực
mặc dù đầu tư XDCB hướng tới giải quyết nhiều mục tiêu mang tính xã hội. Các
tổ chức chính quyền, đoàn thể thay mặt nhà nước đóng vai trò chủ đầu tư,
người sở hữu vốn đích thực NSNN là toàn xã hội. Thực tế cho thấy, các dự án
đầu tư nói chung, đầu tư XDCB nói riêng thường nhằm đến nhiều mục tiêu.
Ngoài việc có thể thực hiện các mục tiêu kinh tế, dự án đầu tư XDCB còn
hướng tới các mục tiêu chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hoá, xã hội... Theo
đó, lợi ích xã hội của dự án đầu tư XDCB còn bao gồm những sự thay đổi về
điều kiện sống, điều kiện lao động, về môi trường, về hưởng thụ văn hoá,
phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng của con người.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhu cầu sử dụng vốn
NSNN cho đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, trong đó đầu tư XDCB, từ trung
ương đến các địa phương, đặc biệt là cấp quận, huyện của các thành phố luôn
được đặt ra, thường cao hơn so với khả năng của nền kinh tế và khả năng của
các địa phương. Thêm vào đó, việc thất thoát, lãng phí NSNN trong đầu tư
XDCB khá phổ biến và tình trạng các công trình đầu tư XDCB sau khi hoàn
thành đi vào khai thác, sử dụng chưa đạt hiệu quả cao đã đặt ra vấn đề nâng
cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Trong kinh tế học, một trong những lý thuyết trung tâm được đề cập
đến và ứng dụng rộng rãi là “hiệu quả Pareto” hay còn gọi là tối ưu Pareto.
Thuật ngữ này được đặt theo tên của một nhà kinh tế học người Ý nghiên cứu
27
về hiệu quả kinh tế và phân phối thu nhập. Theo Vilfredo Pareto, nếu một
hệ thống kinh tế đạt được hiệu quả Pareto, không một cá nhân nào có cuộc
sống tốt lên mà không khiến một người khác có cuộc sống xấu đi. Theo đó,
cần tránh các tình trạng không đạt được hiệu quả Pareto. Vì thế, hiệu quả
Pareto là một tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá các hệ thống kinh tế và
các chính sách chính trị. Theo cách hiểu chung nhất “hiệu quả” là chỉ tiêu so
sánh giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được xét trong một khoảng thời gian.
Kết quả được nói đến ở đây có thể là định tính, định lượng thể hiện dưới các
góc độ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng… hoặc đồng
thời. Ở một góc độ nào đó, “hiệu quả” được định nghĩa là đạt được một kết
quả giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất.
Đối với việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, muốn hiểu được hiệu
quả của nó cần phải xem xét đến hàng loạt các vấn đề. Trước hết, NSNN với
tư cách là một công cụ thực hiện việc điều tiết, trong đó có điều tiết XDCB.
Việc quyết định các nguồn thu, mức thu NSNN có ảnh hưởng đến độ lớn của
quỹ tiền tệ với vai trò là NSNN và từ nguồn vốn đó việc chi cho các hoạt
động, trong đó có đầu tư XDCB được ấn định. Khi các khoản thu và mức thu
tăng, NSNN tăng, lợi ích của cá nhân và tập thể bị ảnh hưởng, khi đó, nhà
nước dễ thực hiện đầu tư XDCB nhưng chỉ bằng nguồn NSNN và sẽ gặp khó
khăn trong XDCB với tính chất nhà nước và nhân dân cùng làm. Thứ hai,
NSNN với tư cách là một khoản tiền thì hiệu quả của nó trong đầu tư XDCB
được khẳng định trên cơ sở so sánh giữa lượng tiền tệ với tính chất là chi phí,
vốn đầu vào và việc hoàn thành các mục tiêu mà dự án đầu tư XDCB đặt ra.
Từ các phân tích trên đây cho thấy, hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu
tư XDCB là tiêu chí phản ánh việc các cơ quan nhà nước thông qua hoạt
động thu, chi ngân sách để thực hiện các mục tiêu XDCB, tạo ra những lợi
ích về mặt kinh tế, chính trị, xã hội cho đất nước hoặc địa phương.
28
Theo trên, để có sự đánh giá chính xác về hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB, cần chú ý các vấn đề sau:
Một là: Kết hợp chặt chẽ các lợi ích khi xem xét đánh giá hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Các lợi ích xung quanh cuộc sống của con
người, xã hội nói chung, hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB nói
riêng gồm: lợi ích về mặt kinh tế, lợi ích về mặt xã hội, lợi ích của cá nhân,
tập thể và xã hội. Vì thế, quá trình đánh giá về hiệu quả sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB cần có sự kết hợp chặt chẽ các lợi ích. Kết hợp lợi ích kinh tế
và lợi ích xã hội sẽ dẫn đến một hiệu quả kinh tế xã hội. Lợi ích kinh tế biểu
hiện cụ thể về sự thay đổi khối lượng, chất lượng và cơ cấu sản phẩm, sự thay
đổi cán cân thương mại ở mức lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản
xuất... Lợi ích xã hội của XDCB là thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên,
ngoài ra còn thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu
chính trị, mục tiêu an ninh quốc phòng, mục tiêu văn hoá xã hội, môi trường...
Khi xem xét hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB cần phải đánh giá
một cách kỹ lưỡng, toàn diện để quyết định ưu tiên lợi ích kinh tế hay lợi ích
xã hội. Trong nhiều trường hợp có sự xung đột xảy ra giữa lợi ích kinh tế và
xã hội thì lợi ích xã hội sẽ được ưu tiên hơn.
Hai là: Hiệu quả sử dụng NSNN cần được xem xét toàn diện trong suốt
cả quá trình đầu tư hoàn chỉnh. Quá trình đầu tư hoàn chỉnh một dự án đầu tư
gồm giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện dự án đầu tư XDCB và
giai đoạn đưa công trình vào khai thác sử dụng. Mỗi giai đoạn có đặc điểm,
tính chất khác nhau nên có vai trò tác dụng khác nhau đối với hiệu quả sử
dụng NSNN. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện dự án đầu tư là những
giai đoạn chí phí về NSNN rất lớn, nhưng chưa tạo ra sản phẩm, chưa thu lợi
ích từ các dự án. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN của 2
giai đoạn này cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng của các sản phẩm
khảo sát, thiết kế, lập dự toán..., nâng cao chất lượng sản phẩm XDCB, đảm
29
bảo thời gian thi công, giảm thiểu những thất thoát lãng phí trong XDCB.
Trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác sử dụng tức là mục tiêu cuối
cùng của dự án được thực hiện, các lợi ích về mặt kinh tế, xã hội từ dự án
được khẳng định và những chi phí chủ yếu lúc này là chi phí vận hành, bảo
dưỡng. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong giai đoạn này cần phải tập
trung vào việc thực hiện tốt tổ chức quản lý quá trình khai thác, sử dụng. Vì
vậy, việc đánh giá hiệu quả NSNN cần phải được xem xét toàn diện ở cả ba
giai đoạn của quá trình đầu tư hoàn chỉnh.
Từ quan niệm và các phân tích trên, có thể khẳng định các tiêu chí cơ
bản để đánh giá hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB như sau:
Một là, tổng lượng NSNN thu được và khoản thu để chi cho đầu tư
XDCB cùng với lượng NSNN thực tế chi cho đầu tư XDCB hàng năm.
Tổng lượng NSNN thu được để chi cho đầu tư XDCB. Tiêu chí này
được xác trên cơ sở coi NSNN là công cụ quản lý, điều tiết kinh tế xã hội của
nhà nước. Bằng việc đề ra các khoản thu, mức thu NSNN để chi cho XDCB
người ta thấy được việc sử dụng NSNN cho đầu tư XDCB có hiệu quả hay
không. Nếu đạt được tổng lượng thu NSNN để chi cho đầu tư XDCB càng lớn
mà không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, đời sống nhân dân vẫn được cải thiện thì việc sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB có khả năng đạt hiệu quả cao và ngược lại.
Hai là, số lượng các công trình XDCB được thực hiện từ NSNN, tỷ lệ
lượng vốn trung bình trên mỗi công trình và quy mô công trình. Nếu số lượng
các công trình tăng nhanh hơn lượng vốn NSNN, tỷ lệ vốn trung bình trên
mỗi công trình tăng chậm, xuất hiện của nhiều công trình đầu tư có quy mô
lớn thì việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB có dấu hiệu tốt và ngược lại.
Ba là, Những giá trị vật chất và tinh thần mà hoạt động đầu tư XDCB
mang lại cho địa phương và vùng lân cận sau khi công trình XDCB đưa vào
khai thác sử dụng. Cụ thể là, tốc độ phát triển kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi
30
về hạ tầng cơ sở cho các hoạt động sản xuất kinh doanh; giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân;
lòng tin của dân đối với Đảng, nhà nước, chính quyền…
Ngoài các tiêu chí trên, đánh giá hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB còn căn cứ vào các tiêu chí khác như: Thời gian thi công, thời gian
hoàn vốn, giá trị thực của công trình so với giá trị quyết toán NSNN, tình
trạng khai thác, sử dụng và các chi phí bảo quản, vận hành, sửa chữa thực tế
trong quá trình khai thác, sử dụng công trình, tuổi thọ của công trình,…
Hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB liên quan đến nhiều chủ
thể như nhà nước và các tổ chức kinh tế, các cá nhân, liên quan đến nhiều
khâu, bước với các thủ tục, quy định… theo đó, việc sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB sẽ phụ thuộc nhiều yếu tố. Trước hết, NSNN được xem xét
dưới góc độ đó là một công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế,
trong một thời điểm nhất định, với một trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB phụ thuộc vào mức độ phù
hợp của các văn bản pháp quy với thực tiễn cuộc sống và cách thức tổ chức
bộ máy để đảm bảo cho các hoạt động thu, chi. Thứ hai, dưới góc độ NSNN
là một quỹ tiền tệ, hiệu quả sử dụng nó cho đầu tư XDCB phụ thuộc vào:
Công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư, các chính sách kinh tế,.. giống như
các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nói chung (sơ đồ 1).
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Công tác quy hoạch và kế hoạch đầu tư Chính sách kinh tế Công tác tổ chức, quản lý đầu tư xây dựng Tổ chức khai thác sử dụng các dự án đầu tư
Sơ đồ 1: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
31
Sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB phụ thuộc nhiều yếu tố đã dẫn đến
một hệ quả tất yếu là rất khó đạt được hiệu quả cao trong hoạt động này, nhất
là khi các yếu tố ảnh hưởng tới nó không đạt sự phù hợp, tương thích và đảm
bảo tính chặt chẽ đến mức cần thiết. Thực tế cho thấy, những bất cập trong cơ
chế chính sách, tác động của mặt trái kinh tế thị trường, những thất thoát
trong đầu tư XDCB … đã làm cho hiệu quả sử dụng NSNN nói chung, trong
đầu tư XDCB ở nước ta nói riêng còn thấp. Với hiệu quả thực tế như thế thì
đó là một sự lãng phí rất lớn, làm mất cơ hội đầu tư cho các ngành, lĩnh vực
khác, làm chậm quá trình phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của xã hội bởi như trên đã trình bày, đầu tư XDCB là khoản đầu tư lớn,
lâu thu hồi. Với lý do đó, phải nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB nói chung, Quận Thanh Xuân thuộc Thành phố Hà Nội nói riêng.
1.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư
xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
1.2.1. Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội và việc sử dụng ngân
sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Quận Thanh Xuân.
Quận Thanh Xuân nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô Hà Nội, phía
Bắc giáp quận Đống Đa và Cầu Giấy, phía Đông giáp quận Hai Bà Trưng và
Hoàng Mai, phía Nam giáp huyện Thanh Trì, phía Tây giáp huyện Từ Liêm và
Quận Hà Đông. Quận Thanh Xuân, được thành lập ngày 22 tháng 11 năm 1996,
trên cơ sở 5 phường (Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Kim Giang,
Phương Liệt) cùng với 78,1 ha diện tích, 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn
Trãi; 98,4 ha diện tích, 5.506 nhân khẩu phường Khương Thượng thuộc quận
Đống Đa; xã Nhân Chính huyện Từ Liêm và xã Khương Đình huyện Thanh
Trìhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_Xu%C3%A2n - cite_note-1#cite_note-1. Trong cơ
cấu tổ chức hành chính, Thanh Xuân có 11 phường: Hạ Đình, Kim Giang,
Khương Đình, Khương Mai, Khương Trung, Nhân Chính, Phương Liệt, Thanh
32
Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung và Thượng Đình.
Thanh Xuân có diện tích tự nhiên là 908 hécta, dân số năm 1997 là
117.863 người, năm 2005 là 204.775 người, năm 2014 là trên 266.000 người.
Dân số của Quận chủ yếu là công nhân, hưu trí, mất sức, lực lượng vũ trang,
sinh viên, thợ thủ công, người lao động. Một bộ phận khác là nông dân thuộc
hai xã của huyện Từ Liêm và Thanh Trì trước đây, nay chuyển thành ba
phường của quận Thanh Xuân (Nhân Chính, Khương Đình, Hạ Đình). Thanh
Xuân là một trong những quận có nhiều di tích lịch sử văn hóa của Thủ đô, có
6 trường đại học, một số trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề
và viện nghiên cứu khoa học. Diện tích tự nhiên lớn, dân số tập trung đông là
những yếu tố làm tăng nhu cầu đầu tư XDCB của Quận. Ở những phường có
đặt trụ sở của các cơ sở giáo dục đào tạo, nghiên cứu có thế mạnh trong việc
thiết lập các mối quan hệ hợp tác, phát huy, tận dụng tiềm năng trí tuệ, kinh
nghiệm của đội ngũ trí thức, chuyên gia, của cơ sở vật chất, kỹ thuật ở các
đơn vị này cho sự nghiệp xây dựng, phát triển phường và quận, trong đó có
vấn đề sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Đảng bộ Quận, hiện có 56 tổ chức cơ sở Đảng (34 Đảng bộ và 32 Chi
bộ) trong đó, khối phường có 11, doanh nghiệp nhà nước có 03, doanh nghiệp
cổ phần có 21, khối hành chính sự nghiệp là 18, lực lượng vũ trang là 02 và
khối ngoài doanh nghiệp nhà nước là 01. Tổng số đảng viên của toàn Quận là
14.863 đồng chí, trong đó có 12.484 đồng chí thuộc khối phường, 177 đồng chí
thuộc khối doanh nghiệp nhà nước, 976 đồng chí thuộc khối doanh nghiệp cổ
phần, 715 đồng chí thuộc khối hành chính sự nghiệp và 362 đảng viên thuộc
lực lượng vũ trang. Nhìn chung, các tổ chức cơ sở đảng trong Quận hoạt động
tốt, đảm bảo được các nguyên tắc sinh hoạt đảng. Toàn quận có 690 tổ dân
phố, 11 tổ chức Mặt trận Tổ quốc với 187 Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư,
33
11 tổ chức Đoàn Thanh niên với 169 chi đoàn và 1.112 đoàn viên; 11 tổ chức
Hội Phụ nữ phường với 121 chi hội, 139 tổ phụ nữ và 13.096 hội viên; 11 tổ
chức Hội Cựu chiến binh với 207 chi hội, 514 tổ hội và 4.800 hội viên; 3 tổ
chức Hội Nông dân với 17 chi hội và 918 hội viên. Ở cấp phường, hệ thống
chính quyền gồm: Đảng bộ, Hội đồng Nhân dân, UBND, Mặt trận Tổ quốc,
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Cựu
chiến binh các phường. Ngoài ra, phường Nhân Chính, Khương Đình, Hạ Đình
còn có thêm Hội Nông dân được hình thành từ các xã trước đây.
Với các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể được tổ chức chặt chẽ, đảng
viên có mặt ở các lĩnh vực hoạt động, quận Thanh Xuân có điều kiện tốt để thực
hiện việc giám sát chặt chẽ hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Cùng với sự phát triển của thành phố, quận Thanh Xuân có tốc độ đô
thị hóa nhanh, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội được tập trung đầu tư, bộ mặt
đô thị ngày càng khang trang. Nhiều tuyến đường giao thông mới được hình
thành như đường Lê Văn Lương, Hoàng Minh Giám, Hồng Liên... Hai nút
giao thông trọng điểm được xây dựng ở Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở. Nhiều nhà
cao tầng, khu đô thị mới mọc lên tạo nên vẻ đẹp mới, hiện đại như: khu Trung
Hòa - Nhân Chính, khu Làng Sinh viên Hacinco, khu nhà cao tầng Thanh
Xuân Bắc, Phương Liệt... Thanh Xuân tập trung nhiều cơ sở công nghiệp lớn
với 84 doanh nghiệp nhà nước, 2.652 doanh nghiệp ngoài nhà nước, hàng
năm đóng góp gần 1.500 tỷ đồng cho cho ngân sách. Năm 2005, tỷ trọng công
nghiệp chiếm 75% tổng giá trị sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Sự phát triển
về kinh tế, xã hội những năm qua đã giúp Quận tăng cường nguồn thu cho
NSNN, cải thiện chi NSNN cho đầu tư XDCB nhưng cũng đặt ra những yêu
cầu mới về đẩy mạnh đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN, tạo nền tảng cho sự
phát triển của những năm tiếp theo. Với đặc điểm có nhiều doanh nghiệp,
34
Quận và các phường có nhiều thuận lợi trong việc phối hợp với các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước để cùng thực hiện các dự án
đầu tư XDCB. Tuy nhiên, để làm được việc đó, với chức năng quản lý nhà
nước ở địa phương, các phường phải tạo môi trường thuận lợi, đảm bảo giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn để phát triển sản
xuất kinh doanh, phải quan tâm giải quyết vấn đề quản lý lao động nhập cư,
nhà ở, việc học tập của con em người lao động nhập cư, an toàn giao thông,
môi trường và tệ nạn xã hội.
Về sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản
Sử dụng NSNN với tính chất là một công cụ để quản lý, điều tiết
XDCB ở Quận Thanh Xuân được mô tả qua bảng 1.
Bảng 1: Ngân sách nhà nước với tính chất là một công cụ của nhà
Đơn vị tính: Tỷ đồng
nước trong đầu tư xây dựng cơ bản.
TT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
1 43,6 131 241 1.742 2.338 1.967 1.752,1 Thu ngân sách
32,6 69 116 533 560 596,6 731.8 Riêng từ sự nghiệp kinh tế
- - - - - 626,6 248,1 Thu để chi cho đầu tư XDCB
2 Chi ngân sách 68,5 94 130 285 477,4 548,2 562,7
3 Đầu tư XDCB 53,9 57,4 64,8 146,8 241,1 198,6 226,6
Từ NS T. phố 29,5 37,7 31,5 21,6 74,5 17,5
Từ NS Quận 24,4 19,6 33,3 125 124,1 209,1
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu 44, 51,68,69
35
Sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB với tính chất NSNN là một khoản
tiền đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân được khái quát như sau:
Từ 2005 đến 2010, Thanh Xuân đã sử dụng trên 343,4 tỷ đồng NSNN
để đầu tư, triển khai 335 dự án, trong đó xây mới, cải tạo, nâng cấp 313 công
trình đường giao thông ngõ xóm, thoát nước, trường học, trạm y tế nhà văn
hóa, cơ sở thể thao, nhà hội họp, di tích lịch sử văn hóa, trụ sở làm việc của
các cơ quan quận, phường. Đến 2010, có 236 dự án đã hoàn thành, đưa vào sử
dụng, gắn biển 18/25 công trình chào mừng kỷ niệm 1000 năm Thăng Long -
Hà Nội; đã phối hợp với Thành phố xây dựng hệ thống chiếu sáng, cung cấp
nước sạch cho nhân dân [37, tr.28]; Đã xây dựng thêm 06 trường công lập, cải
tạo, nâng cấp đầu tư trang thiết bị dạy học cho 23 trường; hoàn thành cơ bản
xây dựng giai đoạn 2 Trung tâm văn hóa thể thao quận; xây dựng 06 nhà văn
hóa phường, 89 nhà hội họp, 21 sân chơi, tu bổ 11 đình, chùa đáp ứng nhu
cầu về văn hóa tâm linh cho nhân dân [37, tr.33].
Năm 2011, nguồn vốn NSNN của Thanh Xuân được giao 236 tỷ 100
triệu đồng cho đầu tư XDCB nhưng công việc hoàn thành quyết toán là 241 tỷ
100 triệu đồng [32]. Các con số này của năm 2012, 2013 là 342 tỷ 681 triệu
đồng, giải ngân đến 31/12/2012 là 198 tỷ 637 triệu đồng, bằng 58% kế hoạch
vốn giao đầu năm và 199 tỷ 914 triệu đồng, giải ngân đến 31/12/2013 đạt 157
tỷ 382 triệu đồng bằng 79% kế hoạch vốn giao, cả năm 2013 đạt 226,6 tỷ
[33]. Với lượng vốn trên, từ 2011 đến 2013, theo báo cáo 3 năm thực hiện Đề
án số 02-ĐA/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010 về tăng cường công tác quản lý
và phát triển hạ tầng đô thị, quản lý đất đai và đảm bảo vệ sinh môi trường
quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015 của Quận ủy Thanh Xuân, Quận đã
đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới: Trường THCS Việt An, Trường
THCS Khương Mai, Nhà trẻ Tuổi Thần tiên, Nhà Trẻ Ao vườn nở, Mầm non
Tràng An, cải tạo Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trường tiểu học Phương
36
Liệt, Trường mầm non Khương Đình và Trường THCS Nguyễn Trãi…đến
nay, 21 trường trên địa bàn Quận đạt chuẩn quốc gia (Chiếm tỷ lệ 53,8%, cao
hơn tỷ lệ chung toàn thành phố là 11%); đầu tư xây dựng 11/11 cơ sở y tế cấp
phường; Phối hợp, sử dụng nguồn vốn xã hội hóa để tu tạo Chùa Quan Nhân
(Phường Nhân Chính), Đình Phương Liệt và Chùa Linh Quang (Phường
Phương Liệt), Chùa Tam Huyền và di tích danh nhân văn hóa Đặng Trần Côn
(Phường Hạ Đình), Đình Khương Trung (Phường Khương Trung), Chùa
Phụng Lộc (Phường Khương Đình); Xây dựng Trụ sở UBND Phường Thanh
Xuân Trung, cải tạo nâng cấp trụ sở UBND Phường Hạ Đình; Cải tạo hồ Đầm
Hồng (Khương Trung 1), hồ Đầm Chuối, hồ Phương Liệt 2 (Hồ Rùa), hồ Hạ
Đình và phối hợp duy tu, nạo vét các đoạn sông; Chuẩn bị ngân sách Quận để
xây dựng các tuyến đường: Đường vào 3 trường, đường Nguyễn Tuân, đường
Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra, các tuyến đường: Đường vào cụm 2 Trường Tiểu
học và THCS Hạ Đình, đường tổ 27A- 27B phường Hạ Đình, đường ngõ 342
đường Khương Đình, đường thoát nước ven hồ Hạ Đình sẽ hoàn thành và đưa
vào sử dụng trong quý IV năm 2014 [34].
1.2.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư
xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
* Về thành tựu
Theo tiêu chí: Tổng lượng NSNN thu được và khoản thu để chi cho đầu
tư XDCB cùng với lượng NSNN thực tế chi cho đầu tư XDCB hàng năm thì
Quận đã sử dụng có hiệu quả NSNN với tính chất là một công cụ để tăng
cường hoạt động đầu tư XDCB
Theo bảng 1, tổng thu NSNN trên địa bàn Quận từ 2001 đến 2013 có
xu hướng tăng liên tục từ 43,6 tỷ năm 2001 lên 131 tỷ năm 2005, 241 tỷ năm
2006, 1.742 tỷ năm 2010, 2.338 tỷ năm 2011, 1.967 tỷ năm 2012 và 1.752,1
tỷ năm 2013. Trong tổng thu NSNN, từ 2012, Quận đã tách riêng khoản thu
37
để chi cho đầu tư XDCB. Con số này đạt được các năm 2012 là 626,6 tỷ đồng
và năm 2013 là 248,1 tỷ đồng. Với nguồn thu liên tục được cải thiện, tổng chi
cũng vì thế mà tăng lên, kéo theo chi thực tế NSNN cho đầu tư XDCB cả về
kế hoạch thành phố giao và thực tế quyết toán thực hiện cũng tăng lên nhanh
chóng từ 53,9 tỷ năm 2001 lên 64,8 tỷ năm 2006 và các con số tương ứng từ
2010 đến 2013 là 146,8 - 241,1 - 198,6 và 226,6 tỷ. Trong thống kê các năm
gần đây, năm 2011 có số thu NSNN và chi cho đầu tư XDCB là cao nhất. Vấn
đề đáng lưu ý là ngân sách Thành phố cấp cho đầu tư XDCB ngày càng chiếm
tỷ trọng nhỏ trong tổng NSNN mà Quận đã sử dụng để đầu tư. Điều này minh
chứng Quận đã sử dụng có hiệu quả NSNN với tính chất là một công cụ để
tăng cường hoạt động đầu tư XDCB.
Theo tiêu chí: Số lượng các công trình XDCB được thực hiện từ NSNN,
tỷ lệ lượng vốn trung bình trên mỗi công trình và quy mô công trình thì NSNN
với tính chất là một khoản tiền trong đầu tư XDCB đang được sử dụng có
hiệu quả ngày càng cao tính từ 2011 đến nay.
Bảng 2 chỉ ra lượng chi thực tế NSNN cho đầu tư XDCB tương ứng với
số lượng công trình được triển khai và tỷ lệ vốn trung bình trên mỗi công trình.
Bảng 2. Tỷ lệ NSNN và số lượng các công trình XDCB
TT Chỉ tiêu Giai đoạn 2005 – 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
1 343,4 241,1 198,6 226,6 NSNN chi thực tế cho đầu tư XDCB (tỷ đồng)
2 Số công trình được xây dựng 335 82 73 95
3 Tỷ lệ (Tỷ đồng/dự án) 1,025 2,94 2,72 2,385
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu tham khảo số 44 và 51
Theo đó, trước năm 2010, vốn NSNN trên mỗi công trình chỉ khoảng trên
1 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ đó là các dự án đầu tư XDCB có quy mô nhỏ là
38
chủ yếu, chỉ cuối năm 2010 mới bắt đầu xuất hiện các dự án lớn, thường là
những dự án đầu tư XDCB có lợi ích nhiều mặt trên các góc độ phát triển kinh
tế xã hội, nâng cao đời sống dân sinh và tăng cường củng cố quốc phòng, an
ninh. Từ 2011 đến nay, vốn NSNN cho mỗi công trình đều trên 02 tỷ đồng
nhưng có xu hướng giảm. Điều này cho thấy, từ 2011 đến nay có nhiều dự án
đầu tư XDCB từ NSNN có quy mô lớn đã được thực hiện và hiện tại, các dự án
lớn về đầu tư XDCB đã cơ bản hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng để thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần giữ vững
an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quận.
Theo tiêu chí: Những giá trị vật chất và tinh thần mà hoạt động đầu tư
XDCB mang lại cho địa phương và vùng lân cận sau khi công trình XDCB
đưa vào khai thác sử dụng thì việc sử dụng NSNN đã và đang phát huy tác
động tích cực đối với phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân trong
Quận thông qua các công trình được xây dựng từ NSNN.
Chỉ tính từ 2006 đến 2010, cùng với các hoạt động khác, sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB từ đã giúp cho Thanh Xuân liên tục đạt được tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16,4% năm
(tăng 2,2% so với chỉ tiêu Đại hội 2000 -2005 đề ra), giá trị thương mại, dịch
vụ tăng 14% năm (tăng 2,3% so với chỉ tiêu Đại hội 2000 -2005 đề ra). Kinh
tế phát triển đúng định hướng cơ cấu công nghiệp - dịch vụ, trong đó, giá trị
sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 50%, kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn,
đóng vai trò chủ đạo (chiếm 56,6%). Năm 2010, kinh tế tư nhân chiếm 42,18%
đóng góp ngày càng nhiều vào giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
thu NSNN tăng bình quân 17,5% năm vượt xa chỉ tiêu kế hoạch [22].
Theo đánh giá của Quận ủy Thanh Xuân, Trung tâm văn hóa, Trung
tâm thể dục thể thao Quận được xây dựng, hoàn thành giai đoạn 2, đưa vào sử
dụng, bước đầu khai thác có hiệu quả, phục vụ cho các hoạt động văn hóa, thể
thao của Quận, đáp ứng một phần nhu cầu về văn hóa, thể thao của nhân dân
39
trong Quận. Các khu dân cư đã được đầu tư xây dựng nhà sinh hoạt cộng
đồng với quy mô phù hợp, nhiều sân chơi tại các khu dân cư được đầu tư và
cải tạo, từng bước đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của nhân dân,
lòng tin của dân đối với Đảng, nhà nước, chính quyền ngày càng được củng
cố, tăng cường [31].
* Hạn chế
- Ngân sách nhà nước chưa được sử dụng đúng với tính chất là công
cụ để quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó có việc thu để chi cho đầu tư
XDCB
Theo tiêu chí 1 thì với con số thu NSNN để chi cho đầu tư XDCB năm
2013 có sự giảm mạnh, chỉ đạt 248,1 tỷ đồng, bằng 50 % chỉ tiêu đã đề ra.
Điều này chỉ có thể giải thích ở việc dự báo về tình hình phát triển kinh tế xã
hội trên địa bàn Quận chưa đúng nên đã đặt ra chỉ tiêu quá cao hoặc việc thu
NSNN để chi cho đầu tư XDCB chưa được thực hiện triệt để, còn thất thoát,
làm ảnh hưởng đến đầu tư XDCB trên địa bàn Quận. Từ đó cho thấy việc sử
dụng NSNN cho đầu tư XDCB của Quận cũng còn những bất cập.
- Ngân sách nhà nước chưa được sử dụng có hiệu quả ở tất cả các
công trình XDCB. Thực tế cũng như báo cáo của các tổ chức đảng, chính
quyền cho thấy sự thiếu tập trung, chưa dứt điểm trong thực hiện đầu tư ở một
số công trình dẫn đến tình trạng NSNN đầu tư lớn cho nhiều công trình nhưng
không ít công trình không có khả năng thực hiện như Đề án số 02 năm 2010
của Quận ủy đã đề ra [29]. Điều này được minh chứng qua tổng hợp sau:
Bảng 3: Tình hình thực hiện các dự án đầu tư XDCB ở Thanh Xuân
STT Nhóm công trình Đã hoàn thành Số dự án đề xuất theo Đề án 02 của Quận ủy
1 2 Hạ tầng xã hội Y tế 8 2 3 0
40
3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Văn hóa thể thao, di tích lịch sử Các trung tâm thương mại Nhà tái định cư Nhà ở cán bộ công nhân viên Quận Cải tạo các khu chung cư cũ Trụ sở cơ quan, đơn vị Giao thông Công trình hạ tầng khác Các công trình xã hội hóa Cải tạo các hồ 8 3 2 4 3 4 12 5 9 5 5 0 0 0 0 2 4 4 0 0
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu tham khảo 50
Theo các tiêu chí khác thì hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB
trên địa bàn Quận chưa đạt được kết quả cao, toàn diện. Trong báo cáo của
các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể đều có chung đánh giá về chất lượng
công tác quản lý dự án chưa cao, việc lựa chọn nhà thầu chưa thật sự có năng
lực dẫn đến chất lượng hồ sơ thấp, phải điều chỉnh nhiều lần; Về tình trạng
chậm tiến độ thi công ở một số công trình như: khu nhà phục vụ tái định cư
X1, X2 phường Hạ Đình đã khiến cho việc đưa các công trình này vào khai
thác, sử dụng chưa đúng kế hoạch, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội và
đời sống nhân dân. Các công trình cấp bách về y tế, cải tạo nhà chung cư cũ...
không có khả năng thực hiện được trước năm 2015 trong khi một số nhà hội
họp ở các phường đã khánh thành, bàn giao nhưng sử dụng chưa được thường
xuyên hoặc được sử dụng sai mục đích. Nhiều công trình có mức đề nghị
quyết toán cao hơn hàng tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2013, theo báo cáo của
UBND Quận, tính đến ngày 30/11/2013, Quận Thanh Xuân đã quyết toán 58
công trình XDCB với số tiền là 97 tỷ 108 triệu đồng, giảm trừ so với số tiền
chủ đầu tư đề nghị quyết toán 8 tỷ 393 triệu đồng [49]. Thực tế cũng cho thấy,
nhiều công trình có chất lượng thi công thấp, sau khi hoàn thành, đưa vào
khai thác, sử dụng nhanh bị hỏng, xuống cấp, chi phí bảo trì, sửa chữa cao.
* Nguyên nhân chủ yếu
- Do có sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Thành
41
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, sự giúp đỡ của
các ban ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể Thành phố; hệ thống cơ chế
chính sách của nhà nước trong đầu tư XDCB ngày càng hoàn thiện và tình
hình phát triển kinh tế xã hội nhiều năm quan trên địa bàn Quận. Đây là
nguyên nhân khách quan của thành tựu. Thực tế cho thấy, mọi hoạt động của
Thanh Xuân đều nằm trong sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân và có liên quan đến các ban ngành, tổ chức chính
trị, xã hội của Thành phố Hà Nội. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Thành
ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và sự giúp đỡ
của các ban ngành, tổ chức chính trị, xã hội có liên quan đã góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện mở rộng nguồn thu để tăng thu nhằm
chi cho đầu tư XDCB đã nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB của Quận Thanh Xuân
Hệ thống cơ chế chính sách do nhà nước ban bành có ảnh hưởng rất
đáng kể đến hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận. Sự thay đổi
cơ chế chính sách của nhà nước trong mọi lĩnh vực, trực tiếp là đầu tư XDCB
cho phù hợp với thực tiễn đã tạo ra sự thông thoáng cho các hoạt động trên
địa bàn Quận để hướng đến nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB trên cả phương diện NSNN là một công cụ và một khoản tiền.
Thanh Xuân là một địa bàn rộng có nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh và
các khu công nghiệp. Có thể nói rằng, những năm qua, các hoạt động kinh tế
trên địa bàn Quận diễn ra rất sôi động, nhất là ở những nơi có dự án lớn của
nhà nước và tư nhân. Vấn đề này cho phép cải thiện, tăng nguồn thu của
NSNN trong đó có thu để chi cho đầu tư XDCB.
- Sự năng động, sáng tạo, đoàn kết nhất trí của Quận ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban Nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội Quận Thanh Xuân
và sự ủng hộ, đồng tình của các tầng lớp nhân dân trong Quận. Trên tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ XV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thanh
42
phố Hà Nội, từ 2010 đến nay, Quận ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam Quận Thanh Xuân đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện, định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nhiệm vụ trong đó
có việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
Quận ủy, Ủy ban nhân dân Quận và các tổ chức chính trị xã hội của
Quận đã dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề sử dụng NSNN cũng như hiệu
quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Thanh Xuân. Trong
nhiều văn bản quan trọng của Quận ủy, Hội đồng nhân dân Quận, Ủy ban
nhân dân Quận và các tổ chức chính trị xã hội của Quận đã đề cập đến các
khía cạnh của vấn đề sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
Sự năng động, sáng tạo của Quận được thể hiện ở chỗ từ Nghị quyết Đại hội
đại biểu Đảng bộ Quận Thanh Xuân lần thứ IV (nhiệm kỳ 2010-2015), số 02
ngày 9 tháng 9 năm 2010, Quận ủy Thanh Xuân đã xây dựng các chương
trình, kế hoạch hành động và đề án để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
đại biểu Quận. Tiêu biểu như: Chương trình số 01-Ctr/QU ngày 4 tháng 11
năm 2010 của Quận ủy Thanh Xuân về công tác xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị Quận Thanh Xuân, giai đoạn 2010-2015; Chương trình số
02-Ctr/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010 về phát triển kinh tế xã hội quận Thanh
Xuân giai đoạn 2010-2015; Kế hoạch số 13-KH/QU ngày 15 / 4/ 2011 của
Đảng bộ quận Thanh Xuân thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
Thành phố Hà Nội lần thứ XV (Nhiệm kỳ 2010-2015); Đề án số 01-ĐA/QU
ngày 4/11/2010 về đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường tinh thần trách
nhiệm và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức quận
Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015; Đề án số 02-ĐA/QU ngày 4/11/2010 về
tăng cường công tác quản lý và phát triển hạ tầng đô thị, quản lý đất đai và
đảm bảo vệ sinh môi trường quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015... Để
đánh giá những mặt công tác, trong đó có việc sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB, năm 2014, Quận đã sơ kết việc thực hiện 3 chương trình, 2 đề án.
Những thành công về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận
43
Thanh Xuân có sự ủng hộ, đóng góp công sức đáng kể của các tầng lớp nhân
dân. Trong toàn Quận, việc duy trì quy chế dân chủ được đảm bảo khá tốt.
Nhân dân đã đóng góp ý kiến về sử dụng NSNN; đã đề xuất, góp vốn xây dựng
nhiều công trình XDCB có ý nghĩa bức thiết đối với đời sống chính trị, tinh
thần của nhân dân và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc
phòng. Nhân dân cũng là người giám sát hoạt động của các tổ chức chính
quyền, đoàn thể đảm bảo cho sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các hoạt
động trong đó có đầu tư XDCB từ NSNN đi đúng hướng, đảm bảo hiệu quả.
- Nguyên nhân khách quan của hạn chế là do cơ chế thực hiện đầu tư
còn chồng chéo dẫn đến vai trò, trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong các
khâu, bước chưa rõ ràng, khó quy trách nhiệm.
Xét mô hình tổ chức quản lý dự án đầu tư XDCB từ vốn NSNN (sơ đồ 2).
44
Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội
Sở Xây dựng Hà Nội
Ủy ban nhân dân quận Thanh Xuân
Sở Kế hoạch &đầu tư Hà Nội
Chñ ®Çu t
Phòng Quản lý đô thị Quận Thanh Xuân
Sở Tài chính Hà Nội Phòng Tài chính - kế hoạch Quận Thanh Xuân
Kho bạc Nhà nước Hà Nội
Các nhà tư vấn, nhà thầu xây dựng
Các phòng, ban chuyên môn Q.Thanh Xuân
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức quản lý dự án đầu tư XDCB từ vốn NSNN
Mô hình này cho thấy, tổ chức quản lý dự án đầu tư XDCB từ NSNN
khá chặt chẽ nhưng có phần phức tạp và chồng chéo. Để thực hiện một dự án
đầu tư XDCB từ NSNN nói chung, ở Quận nói riêng phải qua nhiều khâu,
bước như nghiên cứu lập dự án, thẩm định, phê duyệt, đấu thầu thi công. Điều
đó dường như là chặt chẽ nhưng cũng có nghĩa là các dự án đầu tư XDCB từ
NSNN do nhiều người cùng chịu trách nhiệm nên khi hoạt động này có vấn
đề thì khó quy trách nhiệm cụ thể. Thực tế chỉ ra rằng, việc chậm tiến độ thi
công công trình hay chất lượng công trình thấp hơn mục tiêu dự án... như đã
- Nguyên nhân chủ quan của hạn chế là thẩm định, phê duyệt và tổ
chức thực hiện và nghiệm thu dự án đầu tư XDCB từ vốn NSNN có mặt chưa
45
tốt; nhận thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân về sử dụng NSNN trong đầu
tư XDCB chưa đúng.
Thực tế cũng cho thấy, nhiều dự án đầu tư XDCB có tính cấp bách, đã
được đặt ra, phê duyệt nhưng không thể thực hiện được trong nhiệm kỳ 2010-
2015, bị yêu cầu hoặc đã thanh quyết toán vượt chỉ tiêu ngân sách ban đầu
cũng như các dự án đã hoàn thành nhưng còn ít được khai thác, sử dụng
thường xuyên làm cho hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB có mặt
chưa cao có cùng một nguyên nhân cơ bản là chất lượng thẩm định dự án
chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh đó, một số công trình đầu tư XDCB từ NSNN
trên địa bàn Quận không đảm bảo chất lượng công tác nghiệm thu công trình.
Hiện tượng nghiệm thu không đúng với thực tế khối lượng thi công khi cấp
phát, quyết toán mới phát hiện ra; tình trạng nghiệm thu không đúng khối
lượng, định mức, đơn giá, chủng loại vật tư, vật liệu đang phổ biến; nghiệm
thu chủ yếu trên giấy tờ và theo dự toán ban đầu được duyệt... đã làm tăng giá
trị công trình, gây thất thoát lãng phí vốn NSNN có nguyên nhân là do trình
độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ trực tiếp làm công
tác này chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Hiện tại, trong suy nghĩ của một bộ phận cán bộ, nhân dân NSNN là
thứ đi xin được, thứ của xã hội, nhà nước, xin về được cho Quận, các phường
thuộc Quận càng nhiều càng tốt. Thực tiễn đang diễn ra cách hiểu để xin được
NSNN nói chung, cho XDCB nói riêng phải tìm ra công việc, tìm ra dự án
đầu tư và cứ có việc, có dự án là xin và cho được. Thêm vào đó, quan niệm về
xin, cho NSNN không ảnh hưởng đến ai hay tổ chức nào cũng làm cho một số
cá nhân, tập thể tìm cách trốn tránh các khoản thu. Cũng trong suy nghĩ của
một bộ phận cán bộ, nhân dân, mọi đầu tư XDCB cho Quận, các phường đều
không thừa và càng có nhiều dự án đầu tư thì Quận, phường càng có nhiều cơ
hội chỉnh trang bộ mặt và phát triển toàn diện. Với lý do đầu tư XDCB là đầu
46
tư cho nhiều người, nhân dân cùng hưởng nên không có lý do gì không đề
xuất các dự án đầu tư XDCB cho Quận và phường bởi đó là thực hiện chủ
trương “lấy dân làm gốc”! Cách suy nghĩ trên đây là nguyên nhân dẫn đến
những dự án đầu tư XDCB chưa thật sự đảm bảo tính cấp thiết để khi hoàn
thành thì tần xuất khai thác, sử dụng thấp, thậm chí sử dụng sai mục đích và
những dự án đầu tư XDCB chỉ đạt chất lượng thi công ở mức độ thấp, chậm
tiến độ hay đề nghị quyết toán cao hơn giá trị thực… bởi chất lượng XDCB
thấp thì công trình nhanh xuống cấp, hỏng lúc đó sẽ được đầu tư sửa chữa,
nâng cấp; tiến độ thi công chậm thì có thể xin điều chỉnh vốn dự án tăng thêm
với lý do lạm phát, giá nhân công, vật tư tăng… nếu không khắc ngay các
biểu hiện trên thì khó nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Từ đánh giá về thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân trên đây đã đặt
ra những vấn đề cần giải quyết như sau:
Một là: Phải khắc phục những mặt còn hạn chế, tiếp tục nâng cao hiệu
qủa sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân. Sở dĩ thế là vì
nhu cầu đầu tư XDCB của Thanh Xuân những năm tới còn rất lớn, nếu hiệu
quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB có mặt còn thấp như hiện nay thì rất
khó đáp ứng được nguồn vốn đầu tư cho XDCB để phát triển.
Hai là: Tập trung khắc phục các nguyên nhân chủ quan, chủ yếu dẫn
đến hạn chế trong sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân.
Các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong sử dụng NSNN có nhiều và khó có
thể khắc phục tất cả các nguyên nhân đó, nhất là các nguyên nhân khách
quan. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, cần tập trung khắc phục các nguyên
nhân chủ quan, chủ yếu dẫn đến những hạn chế để tạo cơ sở lâu dài, bền vững
cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn
Quận Thanh Xuân trong tương lai.
*
47
* *
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế, toàn bộ các khoản thu, chi
của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước; Đầu tư XDCB là một kênh trong đầu tư xây dựng, là
việc chủ đầu tư bỏ vốn vào các công trình có tính chất xây dựng để tạo ra
những điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống.
Đầu tư XDCB có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã
hội, nâng coa đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng của nước ta
nói chung, Quận Thanh Xuân nói riêng.
Hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB được đánh giá qua các
tiêu chí: Tổng lượng NSNN thu được và khoản thu để chi cho đầu tư XDCB
cùng với lượng NSNN thực tế chi cho đầu tư XDCB hàng năm; Số lượng các
công trình XDCB được thực hiện từ NSNN, tỷ lệ lượng vốn trung bình trên
mỗi công trình và quy mô công trình; Những giá trị vật chất và tinh thần mà
hoạt động đầu tư XDCB mang lại cho địa phương và vùng lân cận sau khi
công trình XDCB đưa vào khai thác sử dụng.
Quận Thanh Xuân nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Thủ đô Hà Nội.
Những năm qua, Quận đã chủ động bố trí kế hoạch sử dụng vốn NSNN trong
đầu tư XDCB, tập trung vào các công trình trường học, hạ tầng kỹ thuật,…
Hàng năm, nguồn vốn NSNN chi cho đầu tư XDCB luôn chiếm tỷ lệ cao trong
tổng chi NSNN của Quận. Trên cơ sở các tiêu chí, hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB của Quận đạt khá cao, là một trong các địa phương thành
công về xã hội hoá đầu tư XDCB. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những dự
án được phê duyệt chưa thật sự hợp lý về tính cấp thiết, kinh phí, chậm tiến độ,
gây thất thoát, lãng phí ... dẫn đến hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB
48
trên địa bàn Quận có mặt chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên. Nguyên nhân chủ yếu, chủ quan của mặt hạn chế là do nhận thức về việc
sử dụng NSNN, công tác quy hoạch XDCB và trách nhiệm của các chủ thể sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận có mặt chưa tốt.
49
Chương 2
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH XUÂN, HÀ NỘI
2.1. Quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Thanh Xuân
lần thứ IV (nhiệm kỳ 2010-2015), 5 năm 2010-2015 Thanh Xuân phải đạt được
nhiều chỉ tiêu về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, trong đó, ảnh hưởng trực
tiếp đến việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB là các chỉ tiêu sau:
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12-13% năm; dịch vụ tăng 14-15%
năm; Thu ngân sách vượt mức từ 3 đến 5% kế hoạch Thành phố giao.
- 100% hộ dân được dùng nước sạch và 75% tổ dân phố, khu dân cư
đạt tiêu chuẩn văn hóa; 80% trường mầm non, 90% trường tiểu học, 70%
trường trung học cơ sở đạt chuẩn quốc gia.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các tuyến đường giao thông trục chính:
đường vành đai 2.5, đường Vương Thừa Vũ, Tôn Thất Tùng kéo dài, đường
vỉa hè và ven sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, các tuyến đường nội bộ liên
khu vực dân cư, các chung cư cao tầng Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Kim
Giang, hoàn thành dự án nhà tái định cư X1-X2 Hạ Đình, A1-A2 Kim Giang.
- Hoàn thành cơ bản xây dựng hệ thống trường học, thoát nước, cung
cấp nước sinh hoạt, điện chiếu sáng, điện sinh hoạt.
- Đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp, hoàn chỉnh hệ thống đường ngõ
xóm, chợ dân sinh, cơ sở thương mại, dịch vụ, điểm vui chơi, nhà hội họp,
sân luyện tập thể thao các khu dân cư.
- Xây dựng thêm 02 nhà văn hóa phường Thanh Xuân Bắc, Nhân
Chính và tôn tạo các khu di tích lịch sử cách mạng cùng với một số dự án đầu
tư XDCB khác nếu có điều kiện để triển khai.
50
Để đạt được các chỉ tiêu kinh tế xã hội nêu trên, tiếp tục đẩy mạnh đầu
tư XDCB ở Thanh Xuân là hết sức quan trọng. Trong tình trạng huy động các
nguồn vốn khác còn nhiều khó khăn thì cần phải xác định vốn từ NSNN vẫn
là cơ bản, xuyên suốt và đóng vai trò quyết định đối với XDCB của Quận.
Trên tinh thần đó, XDCB ở Thanh Xuân những năm tới gắn với việc tạo ra,
sử dụng lượng NSNN khá lớn và quan điểm về nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân những năm tới như sau:
2.1.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư
xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội là nghĩa vụ và
trách nhiệm của các chủ thể có liên quan và nhân dân Quận
Cả ở góc độ lý luận và thực tiễn cho thấy, một hoạt động liên quan đến
nhiều chủ thể thì việc nâng cao hiệu quả của hoạt động đó không chỉ giới hạn
ở các chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động, mà còn ở những người khác và
trong suốt quá trình diễn ra hoạt động đó.
Thực tế cho thấy, nếu đứng dưới góc độ kinh tế chính trị khi coi NSNN
là một công cụ để nhà nước thực hiện việc quản lý điều tiết nền kinh tế thì
việc huy động và sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB còn liên quan đến nhiều
chủ thể, trong đó, đáng chú ý là các chủ thể liên quan đến hoạt động thu, chi ở
mục 1.1.1 cả ở góc độ lý luận chung và những quy định riêng cho cấp quận,
huyện. Nếu hoạt động thu NSNN không xác định được mức độ hợp lý thì thu
NSNN, trong đó có thu để chi cho đầu tư XDCB có thể làm giảm khả năng
sản xuất kinh doanh hoặc giảm khả năng của các chủ thể tham gia vào các
hoạt động thu thì lúc đó, việc sử dụng NSNN nói chung, trong đầu tư XDCB
nói riêng không thể có hiệu quả cao, mặc dù có thể đạt chỉ tiêu thu NSNN.
Dưới góc độ xem xét các giai đoạn của dự án đầu tư XDCB có thể thấy,
hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB có liên quan trực tiếp đến các
chủ thể, cơ quan như ở sơ đồ 3. Vì vậy, nếu xác định việc nâng cao hiệu quả
sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB là trách nhiệm của chủ đầu tư, Ủy ban
51
Nhân dân Quận hay cơ quan thẩm định dự án ... thì đúng nhưng chưa đủ và
khó có thể thực hiện được.
52
Giai ®o¹n I: ChuÈn bÞ ®Çu t
Nghiªn cøu c¬ héi ®Çu t
ThÈm ®Þnh dù ¸n vµ quyÕt ®Þnh ®Çu t
Nghiªn cøu dù ¸n kh¶ thi
Nghiªn cøu dù ¸n tiÒn kh¶ thi
Giai ®o¹n Thùc hiÖn II: ®Çu t
§Êu thÇu, thu¬ng l îng, ký kÕt H§: XD, l¾p ®Æt TB
Kh¶o s¸t, kÕ, lËp dù thiÕt to¸n
Thi c«ng x©y dùng, l¾p ®Æt thiÕt bÞ, ®µo t¹o, CGCN
Ch¹y nghiÖm thö, quyÕt thu, to¸n
Giai ®o¹n III: KÕt thóc, ® a vµo vËn hµnh, khai th¸c dù ¸n
Sơ đồ 3: Các giai đoạn của dự án đầu tư xây dựng cơ bản
53
Theo đó, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB là
nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hoạt động thu, chi
ngân sách nhà nước, các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và nhân dân trên địa
bàn Quận, đứng đầu là các cơ quan nhà nước. Để thực hiện quan điểm này,
cần có các văn bản pháp quy quy định rõ trách nhiệm của mỗi chủ thể, cơ
quan, đơn vị, tổ chức Đảng, Nhà nước trên các góc độ, ở các giai đoạn của dự
án đầu tư XDCB từ nguồn vốn là NSNN. Mỗi người dân của Quận cần thực
hiện đúng nghĩa vụ nộp NSNN, thực hành giám sát, phản biện hoạt động thu,
chi NSNN nói chung, trong đầu tư XDCB nói riêng, thực hành bảo quản, khai
thác, sử dụng đúng mục đích các công trình được đầu tư từ NSNN. Các chủ
thể, cơ quan, đơn vị thực hành triển khai các giai đoạn của dự án thông qua
việc quyết định sử dụng NSNN để đầu tư và khai thác, sử dụng các dự án đầu
tư XDCB từ nguồn ngân sách đó sẽ đóng vai trò quyết định đến hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
2.1.2. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân Quận vừa là cơ sở, nền tảng, vừa là mục đích của nâng cao hiệu
quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản
Từ bảng 3, có thể dự báo nhu cầu về sử dụng NSNN cho đầu tư
XDCB của Quận còn rất lớn, đặc biệt là với những dự án XDCB có tính cấp
bách với đời sống nhân dân nhưng không có khả năng thực hiện được trước
năm 2015. Vấn đề này được thể hiện ở số lượng các dự án được hoàn thành
so với chỉ tiêu đề ra còn khá thấp, cá biệt các dự án về y tế, nhà tái định cư,
nhà ở cán bộ công nhân viên Quận, cải tạo các khu chung cư cũ chưa có dự án
nào được hoàn thành. Tình hình huy động các nguồn vốn khác ngoài NSNN
cho đầu tư XDCB mặc dù được quan tâm thực hiện nhưng kết quả huy động
chưa được chưa nhiều. Trong những năm tới, đầu tư XDCB của Quận vẫn chủ
54
yếu dựa vào NSNN nên Thanh Xuân phải huy động và sử dụng lượng NSNN
lớn mới có thể hoàn thành mục tiêu XDCB đã đề ra.
Về mặt lý luận, khi huy động nguồn vốn lớn mà có liên quan tới nhiều
chủ thể thì có thể dễ thực hiện nhưng thực tế khả năng huy động NSNN cho
đầu tư XDCB ở Quận đang diễn biến ngược lại. Thuế là nguồn thu chủ yếu
của NSNN nhưng trong bối cảnh ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh không thuận lợi đã đặt ra yêu cầu phải giảm
mức thu, diện thu để duy trì khả năng tồn tại của các doanh nghiệp hay khả
năng của các chủ thể tham gia vào nguồn thu NSNN. Điều đó cũng có nghĩa
là việc huy động nguồn NSNN đáp ứng nhu cầu đầu tư XDCB như trên là rất
khó khăn. Thêm vào đó, chi NSNN cho đầu tư XDCB có liên quan đến nhiều
chủ thể thì vấn đề thất thoát lãng phí, dẫn đến hiệu quả thấp là khó tránh khỏi.
Những phân tích trên cho thấy, để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu
cao và khả năng huy động thấp của NSNN cho đầu tư XDCB đang đặt ra hiện
nay cần thực hiện quan điểm coi phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân Quận vừa là cơ sở, nền tảng, vừa là mục đích của
nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Quán triệt quan điểm
này sẽ giải quyết được bài toán trước mắt và lâu dài về nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân Quận là để duy trì, nuôi dưỡng, phát triển nguồn
thu, tăng cường khả năng tham gia và tinh thần trách nhiệm của các chủ thể,
cơ quan, đơn vị vào hoạt động nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB. Ngược lại, khi hiệu quả sử dụng NSNN được nâng lên nghĩa là nguồn
NSNN để chi cũng như số lượng các dự án đầu tư XDCB được tăng lên, thất
thoát lãng phí ít, các dự án đầu tư được khai thác sử dụng trong thời gian dài sẽ
phát huy tác dụng đối với các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống dân sinh, tạo ra những điều kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn
Quận. Quan điểm này đặt ra yêu cầu phải coi trọng việc nâng cao hiệu quả sử
55
dụng NSNN trong đầu tư XDCB cả dưới góc độ coi NSNN như một công cụ
quản lý điều tiết kinh tế và khối lượng tiền tệ; rà soát, xác định lại nguồn thu,
mức thu và nguồn chi, mức chi NSNN cho đầu tư XDCB; dân chủ, công khai
các thông tin về đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN để tạo ra sự đồng thuận cao
về sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB của các
cấp chính quyền, các tổ chức kinh tế, cơ quan, đơn vị, nhân dân toàn Quận; Phát
triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn
Quận để tăng nguồn thu từ thuế để tăng chi, trong đó có chi cho XDCB.
2.1.3. Giải quyết tốt nhu cầu trước mắt và lâu dài về xây dựng cơ bản
để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng
cơ bản trên địa bàn Quận
Các dự án đầu tư XDCB tăng nhanh nhưng chưa có nhiều dự án mới và
quy mô lớn mà chỉ tập trung chủ yếu vào các dự án đầu tư XDCB đáp ứng các
nhu cầu trước mắt của nhân dân. Các dự án này còn tồn đọng khá nhiều nên
những năm tới, lượng NSNN phải chủ yếu tập trung vào các công trình đang
thực hiện, đã đề ra nhưng chưa thực hiện được và duy tu, bảo dưỡng, sửa
chữa các công trình đang khai thác sử dụng. Ở góc độ này, có thể nhận định,
sẽ khó có những công trình mới và quy mô lớn ở Thanh Xuân trong thời gian
tới được triển khai thực hiện và điều đó cũng có nghĩa là NSNN của Quận sẽ
chủ yếu dành vào việc hoàn thành các công trình đang xây dựng, đã được
duyệt nhưng chưa triển khai được và duy trì, bảo dưỡng, sửa chữa các công
trình đang khai thác sử dụng. Thực tế này sẽ tạo ra những khó khăn đáng kể
cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB bởi các dự án
chậm tiến độ, đã được duyệt nhưng chưa triển khai thực hiện được đang chịu
tác động rất lớn của yếu tố trượt giá trong khi các dự án duy tu, bảo dưỡng,
sửa chữa lại rất khó tránh khỏi thất thoát, lãng phí bởi việc tính toán chính xác
khối lượng công việc thực ở các dự án này không phải là điều đơn giản. Tuy
nhiên, ở góc độ khác, cần phải thấy rằng, hiện trạng XDCB ở Thanh Xuân
còn nhiều bất cập. Nhiều khu tập thể đã xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống
56
đường xá bị cải tạo thường xuyên, bộ mặt đô thị của Thanh Xuân ở những
khu tập thể này không còn tương đồng với các khu đô thị hiện đại mới được
xây dựng. Những phân tích trên cho thấy, Quận Thanh Xuân không phải
không có nhu cầu về những dự án mới và lớn, có tính cơ bản, lâu dài, cần
triển khai thực hiện như việc xây dựng mới các khu tập thể, làm lại hệ thống
đường xá, điện... Trong điều kiện việc huy động và sử dụng NSNN cho đầu tư
XDCB bị hạn chế bởi tình hình phát triển kinh tế xã hội, nếu không có các
chủ trương, biện pháp phù hợp thì những dự án lớn, có tính lâu dài khó có khả
năng triển khai được trong vài năm tới do số lượng các dự án nhỏ, có tính cấp
thiết trước mắt, chưa hoàn thành còn khá nhiều và chỉ cần hoàn thành các dự
án đã đề ra, đang thực hiện cũng đã tốn lượng NSNN không nhỏ, thậm chí
vượt xa khả năng nguồn NSNN mà Quận có thể huy động được. Thêm vào
đó, nếu không sớm tính đến các dự án có tính cơ bản, lâu dài thì dễ dẫn đến
lãng phí do việc triển khai các dự án cơ bản, lâu dài có thể sẽ loại bỏ các dự
án trước đó, cho dù vừa được xây dựng. Thực trạng trên đòi hỏi Thanh Xuân
phải kết hợp giải quyết nhu cầu trước mắt và lâu dài về sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB trên địa bàn Quận. Quán triệt quan điểm trên sẽ hạn chế được
các dự án đầu tư XDCB chưa thật sự cần thiết, chưa đúng về quy mô, thời gian,
địa điểm, thực hành tiết kiệm NSNN để hướng tới nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB. Cần có kế hoạch đầu tư XDCB từ NSNN xác định
rõ nhu cầu trước mắt và lâu dài về XDCB trên cơ sở cân đối với nguồn NSNN
có thể huy động; Xác định quy mô đầu tư và thời gian thực hiện, đặc biệt là đối
với các dự án XDCB có tính chất trọng điểm cần ưu tiên đầu tư.
2.1.4. Huy động sức mạnh tổng hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng
ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Quận
Nếu chỉ dựa vào NSNN, việc hoàn thành các mục tiêu đầu tư XDCB ở
Thanh Xuân những năm tới là rất khó khăn. Nhận thức được vấn đề trên,
những năm qua, Quận đã có nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể để đẩy nhanh
tiến độ xã hội hóa nguồn vốn trong đầu tư XDCB và bước đầu thành công.
57
Nguồn vốn từ NSNN đóng vai trò là “vốn mồi” để thu hút các nguồn vốn
khác đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Tuy
nhiên, bảng 3 cho thấy, từ 2011 đến nay, Quận đặt ra 9 dự án xã hội hóa
nguồn vốn nhưng hiện tại sau gần 4 năm thực hiện vẫn chưa có dự án nào
được hoàn thành. Thực tế này cho thấy, vấn đề xã hội hóa nguồn vốn đầu tư
XDCB chưa tương xứng với tiềm năng của Quận và có chiều hướng ngày
càng khó thực hiện hơn. Để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu đẩy nhanh tiến
độ xã hội hóa nguồn vốn đầu tư XDCB với khả năng xã hội hóa thực tế nguồn
vốn này cần phải thực hiện quan điểm huy động sức mạnh tổng hợp để nâng
cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Ở quan điểm này đòi hỏi
phải có các chủ trương, biện pháp phù hợp để nguồn vốn xã hội hóa có mặt
trong tất cả các dự án đầu tư XDCB đã và đang triển khai, không chỉ ở các dự
án trọng điểm thật sự có ý nghĩa về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, mà còn ở
các công trình phù hợp với khả năng đầu tư trong NSNN của Quận. Quan
điểm này cũng yêu cầu các cấp chính quyền, mỗi tổ chức kinh tế, cơ quan,
đơn vị, cá nhân trên địa bàn Quận đều phải thấy rõ đầu tư XDCB là tạo ra cơ
hội, tiền đề phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và công việc đó
không thể chỉ dựa vào NSNN. Mỗi cán bộ, người dân của Quận đều có nghĩa
vụ và trách nhiệm tham gia đóng góp trực tiếp và gián tiếp công sức, tiền của,
trí tuệ cho việc đầu tư XDCB và nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu
tư XDCB. Cơ quan chính quyền, chủ đầu tư cần phối hợp chặt chẽ, có cơ chế
khuyến khích người dân, tổ chức, cơ quan, đơn vị tham gia các hoạt động
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên cơ sở minh
bạch nguồn vốn NSNN, khẳng định ý nghĩa về mặt kinh tế, chính trị, xã hội
của dự án đầu tư và công khai sự đóng góp của cán bộ, nhân dân cho các công
trình đầu tư XDCB. Trước các dự án đầu tư XDCB từ NSNN dự kiến sẽ triển
khai, cần lấy ý kiến đóng góp của nhân dân và các cơ quan, đơn vị trước khi
tiến hành các giai đoạn của dự án.
58
2.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân
sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân
2.2.1. Nâng cao nhận thức về sử dụng ngân sách nhà nước, tăng
cường các biện pháp chống thất thu để tăng chi, triệt để thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí và nâng cao chất lượng nghiệm thu công trình đầu tư
xây dựng cơ bản
Cơ sở của nhóm giải pháp này là xuất phát từ các hạn chế và nguyên
nhân chủ quan, chủ yếu dẫn đến những hạn chế đã nêu ở mục 1.2.2 Đánh giá
hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận
Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
Có thể thấy, xung quanh việc hình thành NSNN và sử dụng NSNN với
tính chất là một công cụ quản lý, điều tiết kinh tế xã hội hay một khoản tiền
dùng để đầu tư thực hiện các mục tiêu phát triển còn có nhận thức chưa đúng.
Cả lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, nhận thức luôn đi trước hành động,
không có nhận thức đúng không thể có hành động đúng. Cho nên, để nâng
cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, cần có nhận thức đúng về
NSNN và sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Nâng cao nhận thức đúng đắn của cán bộ, nhân dân Quận về sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB là việc sử dụng lời nói, việc làm tác động đến
nhận thức của mỗi cán bộ, người dân giúp cho họ có được sự nhận thức đúng
đắn về việc hình thành và sử dụng NSNN trong đó có việc đầu tư cho XDCB;
giúp cho mỗi cán bộ, người dân không chỉ tự nguyện đóng góp vào NSNN để
cải thiện nguồn chi cho đầu tư XDCB, mà còn có trách nhiệm giám sát việc
chi NSNN, trong đó có chi cho đầu tư XDCB cũng như khai thác, sử dụng
một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất các công trình có được từ vốn NSNN.
Để nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân Quận theo các yêu cầu
trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nhất là trên các phương tiện thông
tin đại chúng về sự cần thiết phải hình thành NSNN, trách nhiệm của mỗi
59
công dân, cơ quan, đơn vị trong việc hình thành, sử dụng NSNN. Công tác
tuyên truyền phải làm cho cán bộ, nhân dân thống nhất nhận thức về hình
thành và sử dụng có hiệu quả NSNN trong đó có đầu tư XDCB là trách nhiệm
của tất cả cán bộ, nhân dân. Bên cạnh đó, cũng cần làm cho mỗi cán bộ, người
dân hiểu rõ thực hành tiết kiệm trong chi NSNN nói chung, chi cho đầu tư
XDCB nói riêng và khai thác, sử dụng với tần xuất cao, đúng công năng, ít
chi phí duy trì các công trình được xây dựng từ NSNN là góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Cùng với việc tuyên truyền, cần
công khai tài chính, minh bạch hóa các khoản chi cho đầu tư XDCB để nhân
dân giám sát, phát hiện các hiện tượng tiêu cực trong sử dụng NSNN để đầu
tư XDCB. Đối với những vi phạm về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB hay
sử dụng sai mục đích các công trình XDCB đã được đầu tư đều phải được xử
nghiêm để đủ sức giáo dục, răn đe.
Để làm được những việc trên đây, Quận ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng
nhân dân Quận cần dựa vào các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức
đoàn thể, các cơ quan, đơn vị, sức mạnh của các tổ chức Đảng, chính quyền và
đoàn thể trên địa bàn Quận để thực hiện tuyên truyền đến mọi người dân.
Những năm qua, tình hình thu NSNN trên địa bàn Quận luôn có sự cải
thiện đáng kể. Quận đã khắc phục mọi khó khăn, tích cực phấn đấu để hoàn
thành nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước có năm vượt khá so với dự toán. Tuy
nhiên, ngoài lý do tiến độ thu NSNN gần đây đạt thấp là hệ quả của khó khăn
chung của nền kinh tế thì thu NSNN, kể cả thu NSNN để chi cho XDCB vẫn
có biểu hiện thất thoát, chưa tương xứng với tiềm năng. Để khắc phục vấn đề
này, Quận cần chú ý đến một số vấn đề sau:
Một là: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, huy động
tối đa các nguồn lực cho phát triển để có điều kiện tốt nhất động viên ngân
sách nhà nước.
60
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh là bằng những biện pháp cụ thể
để tạo nên môi trường kinh doanh thông thoáng, các thị trường vận hành và
phát triển lành mạnh, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp,…
nhằm thu hút các nhà đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất,
kinh doanh từ đó, thực hiện động viên NSNN, góp phần tăng cường nguồn
chi, trong đó có chi cho đầu tư XDCB. Để làm được vấn đề này, Quận cần
tránh phiền hà cho các nhà đầu tư; đề cao văn hóa giáo tiếp nơi công sở giữa
cán bộ công quyền với nhân dân và các tổ chức kinh tế.
Hai là: Tạo bước chuyển quan trọng trong bố trí, sử dụng ngân sách
nhà nước theo hướng tập trung, chống dàn trải đối với các dự án đầu tư xây
dựng cơ bản.
Địa bàn Quận còn nhu cầu đầu tư XDCB khá lớn trong khi NSNN chưa
thật sự đáp ứng được. Theo đó cần bố trí đủ vốn theo tiến độ đối với các công
trình, dự án quan trọng đang thực hiện. Các phường chủ động bố trí NSNN để
sớm trả dứt điểm nợ XDCB; xem xét, đình hoãn những dự án không hiệu quả;
không bố trí NSNN cho những dự án không đủ thủ tục đầu tư; không phê duyệt
dự án nếu không xác định được nguồn vốn thực hiện. Trong quá trình tổ chức
thực hiện, cần quản lý chặt chẽ, không để phát sinh nợ mới, bảo đảm lành
mạnh tài chính, ngân sách. Cùng với nâng cao việc sử dụng NSNN trong đầu
tư XDCB, cần coi trọng thực hiện các giải pháp tiết kiệm 10% chi thường
xuyên; sử dụng 50% nguồn tăng thu ngân sách để đáp ứng tốt hơn nhu cầu
XDCB.
Ba là: Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội cho
phát triển các hoạt động sự nghiệp.
Để thực hiện giải pháp trên cần nghiên cứu về chế độ tài chính áp dụng
cho đơn vị sự nghiệp có thu; nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi chế độ thu (mức
thu, cơ chế quản lý, sử dụng nguồn thu...), một số phí, lệ phí quan trọng (học
61
phí, viện phí...) nhằm giao đầy đủ hơn quyền chủ động, tự chủ cho đơn vị sự
nghiệp cả về nhiệm vụ, tổ chức và ngân sách tạo động lực phát triển; mở rộng
khoán kinh phí hành chính và biên chế đối với cơ quan quản lý nhà nước
trong toàn Quận; Bố trí ngân sách để hỗ trợ thực hiện các biện pháp ưu đãi về
thuế, tín dụng, giao và cho thuê đất nhằm đẩy mạnh xã hội hóa đối với các
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; khuyến khích các tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư các lĩnh vực này trên địa bàn Quận.
Bốn là: Đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý tài
chính nhà nước; tăng cường công tác thanh tra kiểm tra tài chính.
Một trong những nội dung quan trọng trong cải cách hành chính nhà
nước mà Đảng, nhà nước ta đặc biệt quan tâm là cải cách thủ tục hành chính.
Thủ tướng Chính phủ có quyết định phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án đơn
giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực sử dụng NSNN. Thực hiện kế
hoạch của Chính phủ, trên lĩnh vực sử dụng NSNN cho đầu tư XDCB các Bộ,
ngành và các địa phương đã đạt được những kết quả sau: rà soát, sửa đổi và
bãi bỏ nhiều thủ tục bất hợp lý trong quản lý dự án đầu tư XDCB, trong lập và
phân bổ kế hoạch vốn đầu tư, trong kiểm soát thanh toán vốn đầu tư XDCB từ
NSNN…; đơn giản hóa nhiều quy trình và thủ tục hành chính, nhất là trong
thanh toán vốn đầu tư; thực hiện công khai hóa các thủ tục hành chính, quy
chế làm việc của các cơ quan hành chính để người dân biết thực hiện và giám
sát; đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết các thủ
tục hành chính. Cùng với quá trình mở rộng, việc nâng cao chất lượng và
hoàn thiện cơ chế “một cửa”, hình thành cơ chế “một cửa liên thông” cũng
được nghiên cứu áp dụng; áp dụng công nghệ thông tin trong việc giải quyết
các thủ tục hành chính. Các thủ tục hành chính được đăng tải công khai trên
các trang điện tử của các bộ, ngành và của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Bên cạnh những quy định về tinh thần trách nhiệm, Chính phủ đã
62
chú ý đến các chế độ đãi ngộ cho những cán bộ, công chức trực tiếp tham gia
giải quyết các thủ tục hành chính cho tổ chức, doanh nghiệp và công dân, như
có chế độ phụ cấp cho cán bộ, công chức làm việc ở bộ phận “một cửa”.
Những cải cách liên tục và quyết liệt về thủ tục hành chính trong thời
gian vừa qua bước đầu đã làm thay đổi mối quan hệ giữa cơ quan hành chính
với tổ chức, doanh nghiệp và công dân. Những cải cách về thủ tục hành chính
theo hướng phục vụ tốt hơn, nâng cao tính công khai, minh bạch của nền hành
chính đã cải thiện tích cực môi trường kinh doanh trong nước, giảm chi phí
thời gian, tiền bạc của doanh nghiệp và người dân.
Mặc dù các hoạt động cải cách đã đạt được các kết quả khả quan,
nhưng đối chiếu với những yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường, mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các thủ tục hành chính vẫn có
nhiều tồn tại, hạn chế: Vẫn còn tồn tại nhiều quy định, những giấy phép bất
hợp lý. Nhiều bộ, ngành, địa phương vẫn chưa nhận thức được tầm quan
trọng phải loại bỏ các quy định, thủ tục bất hợp lý; thủ tục vẫn còn nhiều phức
tạp, không rõ, không nhất quán. Việc áp dụng công nghệ thông tin vẫn còn
những bất cập do hệ thống thông tin của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chưa
hoàn chỉnh. Sự phối hợp giữa việc tin học hóa, xây dựng chính phủ điện tử
với quá trình thực hiện cải cách hành chính chưa có sự phối hợp chặt chẽ.
Để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện Hội nhập quốc tế sâu rộng cần tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động cải cách về thủ tục hành chính tốt hơn trong thời gian tới.
Trong đó cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, công bố công khai các thủ tục (các biểu mẫu, các loại giấy
tờ) và quy trình giải quyết công việc, thời gian giải quyết… để tổ chức, nhân
dân biết và thực hiện thuận lợi, đồng thời giúp cho việc đấu tranh phòng
chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả; hoàn thiện cơ chế “một cửa”, “một
63
cửa liên thông” tại các cơ quan hành chính nhà nước.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin trong sử dụng NSNN trong đầu
tư xây dựng cơ bản của các cơ quan cần phân bổ kế hoạch dự toán NSNN,
trong cấp phát thanh toán, quyết toán vốn đầu tư, nhằm bảo đảm thông tin về
những thủ tục hành chính đến tổ chức, doanh nghiệp một cách nhanh nhất, rõ
ràng, công khai, đồng thời tạo cơ sở tiến tới mở rộng việc thực hiện cung cấp
các thủ tục hành chính qua mạng điện tử.
Thứ ba, nâng cao năng lực, trình độ giải quyết công việc của cán bộ
công chức sử dụng ngân sách nhà nước. Nâng cao thái độ, tinh thần trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong việc giải quyết công việc theo tinh thần
phục vụ người dân. Đồng thời có chế độ thỏa đáng cho những người chịu
trách nhiệm giải quyết các thủ tục hành chính để khuyến khích họ giải quyết
các thủ tục hành chính nhanh gọn, không gây phiền hà; xử lý nghiêm những
công chức, cơ quan hành chính các cấp tùy tiện đặt ra các quy định trái pháp
luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền nhiễu cho người dân.
Tăng cường thanh tra, giám sát, kiểm tra việc thực hiện NSNN cho đầu
tư XDCB trên địa bàn cấp Quận cần tập trung cụ thể hóa cơ chế giám sát cô ̣ng
đồng để tạo điều kiê ̣n cho viê ̣c tổ chức thực hiê ̣n ở cơ sở và đơn giản hóa;
công khai hóa các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuâ ̣t trong XDCB của từng loại công
trình, dự án và nâng cao năng lực, hiệu quả công tác của lực lượng giám sát,
kiểm tra, thanh tra.
Kỹ thuâ ̣t và kinh tế trong hoạt đô ̣ng XDCB liên quan đến nhiều quy
chuẩn, tiêu chuẩn và định mức xây dựng có tính chất chuyên môn cao. Mă ̣t
khác, do năng lực dân trí của cô ̣ng đồng chi phối, nên không phải bất cứ mô ̣t
cô ̣ng đồng ở địa bàn dân cư nào cũng có thể tiếp câ ̣n các quy trình quy phạm
này. Do đó, để cho công tác giám sát cô ̣ng đồng có hiê ̣u quả, yêu cầu phải
đơn giản hóa các chuẩn mực kinh tế kỹ thuâ ̣t theo hướng phổ thông hóa.
64
Đồng thời, vận dụng các tiêu chuẩn vào văn hoá địa phương từng vùng, để tạo
điều kiê ̣n cho nhân dân dễ dàng tiếp cận đồng thời cũng để cho minh bạch
trong giám sát, các tiêu thức về kinh tế và kỹ thuâ ̣t của công trình, dự án sau
khi được đơn giản, phổ thông hóa phải được công khai hóa bằng áp phích tại
vị trí xây dựng công trình xây dựng.
Nếu có quy định mà không có sự giám sát, kiểm tra và thanh tra thì
việc thực thi không nghiêm. Nhưng các sai phạm thường được che giấu bởi
nhiều thủ đoạn tinh vi vì thế nếu không điều tra thì không thể phát hiện được.
Do vậy muốn sử dụng có hiệu quả trong sử dụng NSNN cần phải nâng cao công
tác thanh tra, giám sát, kiểm tra để ngăn chặn và phát hiện những sai phạm, đưa
ra ánh sáng những kẻ cố ý làm trái quy định, pháp luật gây ra tình trạng thất
thoát, lãng phí hiện nay, thu hồi tài sản bị thất thoát. Các biện pháp cụ thể là: Bổ
sung thêm nhiều cán bộ có năng lực và trình độ vào lực lượng thanh tra và
điều tra; trang bị thêm thiết bị kỹ thuật và tăng kinh phí cho lực lượng thanh
tra, điều tra. Mở rộng phạm vi quyền hạn cho lực lương thanh tra, điều tra.
Lực lượng thanh tra, điều tra phải độc lập để đảm bảo tính khách quan công
bằng. Thưởng và phạt phân minh với những thành tích và khuyết điểm trong
công tác. Cần áp dụng các giải pháp liên quan đến cá nhân ở trên đối với lực
lượng thanh tra, điều tra. Xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này đối với
sự gia tăng số vụ và mức độ thất thoát. Khi đã có đơn tố giác, đã có biểu hiện,
dư luận về sai phạm, thất thoát ở dự án nào thì lực lượng thanh tra , điều tra
phải sớm xác định và làm rõ, phải làm cho đến nơi đến trốn để rõ trắng đen và
đưa vụ việc ra ánh sáng, để có tác dụng răn đe và quan trọng là thu hồi tài sản
của Nhà nước bị thất thoát.
Nhà nước cần mở tài khoản kế toán riêng để theo dõi và quản lý tập
trung tất cả tài sản bị thất thoát thu hồi qua kết quả kiểm tra, thanh tra và điều
tra. Số tiền thất thoát là rất lớn, vì vậy số tiền thu hồi sẽ rất lớn, Nhà nước có
thể dùng một phần số tiền thu hồi để chi cho việc đầu tư năng cao năng lực
65
lực lượng thanh tra, điều tra, chi cho việc bảo vệ nhân chứng. Bổ sung kinh
phí cho hoạt đọng thanh tra, điều tra… Vì vậy có thể sẽ phát hiện nhiều hơn
những dự án có thất thoát và thu hồi được nhiều hơn số tiền bị thất thoát.
Tập trung giám sát đầu tư với tất cả các dự án đang ở giai đoạn chuẩn
bị triển khai hoặc đã triển khai để đánh giá hiệu quả đầu tư, phát hiện những
sai sót trong tính toán có thể dẫn đến lãng phí, từ đó có biện pháp điều chỉnh
kịp thời làm giảm hoặc tránh để xảy ra lãng phí.
Tập trung thanh tra tất cả các dự án đang và đã triển khai để phát hiện
những sai phạm quy định, thủ tục triển khai, những sơ hở trong quản lý có thể
dẫn đến lãng phí, thát thoát từ đó có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời ngăn
chặn hoặc tránh xảy ra lãng phí thất thoát.
Thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán, kiểm tra
tài chính, tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với các hoạt động thu nộp
NSNN cũng như các hoạt động sử dụng NSNN. Mặt khác, cần xử lý đầy đủ,
kịp thời đối với những cá nhân tập thể vi phạm theo kết luận của các cơ quan
có thẩm quyền về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Thực hiện công khai kết quả
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và kết quả xử lý. Thực hiện chế độ trách nhiệm
đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, sử dụng NSNN
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những khoản chi sai chế độ, thất thoát
lãng phí ở đơn vị được giao phụ trách. Nghiên cứu việc công bố công khai
NSNN, các hoạt động dự toán ngân sách, các tổ chức, hoạt động được NSNN
hỗ trợ, các dự án XDCB có sử dụng vốn NSNN, các quỹ có nguồn từ NSNN,
các quỹ có nguồn đóng góp của nhân dân để tăng cường giám sát của các đoàn
thể xã hội, người lao động và nhân dân. Thực hiện rà soát, quy định rõ thủ tục,
quy trình, thời gian thực hiện và chế độ trách nhiệm của từng bộ phận cán bộ
trong việc thực hiện thu, chi ngân sách, hoàn thuế. Các cơ quan tài chính, thuế
định kỳ đối thoại với các doanh nghiệp để kịp thời phát hiện, giải quyết những
khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển để tăng thu NSNN.
66
Triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Quận.
Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, việc tăng cường tiết kiệm,
chống lãng phí, nhất là trong sử dụng NSNN có ý nghĩa quan trọng, góp phần
dành nguồn vốn cho đầu tư phát triển, an sinh xã hội và các nhiệm vụ quan
trọng, trong đó có đầu tư XDCB. Như trên đã nói, nhu cầu đầu tư XDCB ở
quận Thanh Xuân những năm tới cần nguồn NSNN không nhỏ, trong khi việc
xã hội hóa đầu tư XDCB có chiều hướng khó khăn, vốn chủ yếu là NSNN. Vì
thế, để đảm bảo hoàn thành mục tiêu đầu tư XDCB, bên cạnh việc đẩy mạnh
thu NSNN, Thanh Xuân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí khi sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB. Đối với các công trình mới, cần làm tốt quy trình
xây dựng, thẩm định dự án, tổ chức đấu thầu thi công, giám sát thi công đảm
bảo thời gian và chất lượng công trình, thanh quyết toán nhanh để đưa vào
khai thác sử dụng. Đối với các dự án duy tu, bảo dưỡng công trình cũ, cần
làm tốt công tác thẩm định hiện trạng công trình, dự toán NSNN sát với thực
tế, giám sát chặt chẽ việc thi công và nghiệm thu đảm bảo các chỉ tiêu, yêu
cầu kỹ thuật. Riêng với vấn đề giám sát thi công, ở cả hai loại công trình đều
phải có sự quan tâm đặc biệt.
Nâng cao chất lượng công tác nghiệm thu công trình. Chất lượng công
trình có ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả đầu tư, đặc biệt là đầu tư XDCB từ
NSNN. Những năm gần đây, chất lượng nghiệm thu công trình luôn là vấn đề
nóng. Vì thế, cần công khai quy trình, thủ tục nghiệm thu, công khai quy trình
thanh, quyết toán vốn đầu tư công trình hoàn thành; khuyến khích chủ đầu tư
mời các tổ chức kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo quyết toán các công
trình hoàn thành trước khi thẩm tra, phê duyệt quyết toán; Nghiên cứu áp
dụng và tăng tỷ lệ % tạm giữ chờ quyết toán đối với các dự án đầu tư XDCB
để tiện cho việc điều chỉnh tăng, giảm chi phí, tiết kiệm thời gian nghiệm thu,
quyết toán công nợ của chủ đầu tư với các nhà thầu.
67
Để thực hiện được tốt các vấn đề nêu trên, Đảng bộ Quận, Đảng bộ các
phường, các đơn vị hành chính, kinh tế, sự nghiệp trên địa bàn Quận cần thực
hiện tốt Luật Ngân sách Nhà nước; Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí
và Luật Phòng chống tham nhũng; Luật Quản lý thuế và các luật thuế; Luật
đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật đất đai... Tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ,
công khai minh bạch trong quản lý tài chính, ngân sách. Tạo quyền chủ động
và đề cao vai trò trách nhiệm của các cấp ngân sách, người đứng đầu các đơn
vị trong quản lý điều hành tài chính ngân sách. Đồng thời, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền pháp luật về thuế mới, cải cách thủ tục hành chính, đổi mới quy
trình theo hướng đề cao trách nhiệm của các đối tượng nộp thuế gắn với kiểm
tra, thanh tra, xử lý nghiêm sai phạm.
2.2.2. Chuẩn hóa quy hoạch phát triển Quận Thanh
Xuân làm cơ sở xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ
bản và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư xây
dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở Quận Thanh Xuân
Cơ sở của giải pháp này là xuất phát từ mối quan hệ giữa quy hoạch
phát triển với kế hoạch đầu tư các dự án và tầm quan trọng của việc thẩm định
các dự án với việc nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư nói chung, các dự
án đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng.
Đầu tư XDCB là loại hình đầu tư thường gắn với nguồn vốn lớn bởi nó
liên quan đến việc xây dựng mới, tu bổ các công trình. Quy hoạch chồng
chéo, không đảm bảo tính khoa học, không phù hợp với thực tiễn yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch thiếu sự liên kết không gian trong nội
Quận hay giữa Quận với các quận khác của Thành phố, việc đặt các công
trình chưa đúng vị trí, hay xác định mức độ, phạm vi công trình không phù
hợp với thực tiễn để phải làm đi làm lại, gây lãng phí ... là nguyên nhân dẫn
đến hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB không cao. Nhận thức được
vấn đề này, Thành phố đã chỉ đạo các quận, trong đó có Thanh Xuân xây
68
dựng quy hoạch phát triển Quận đến năm 2020. Tuy nhiên, thực tiễn đã thay
đổi khiến quy hoạch này có những điểm chưa phù hợp với thực trạng phát
triển nên cần phải chuẩn hóa lại quy hoạch. Quá trình chuẩn hóa quy hoạch
phát triển Quận Thanh Xuân cần bám chắc vào hê ̣ thống pháp luâ ̣t liên quan
đến quản lý NSNN, quản lý đầu tư XDCB; hệ thống chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng (quy hoạch xây dựng
chung và quy hoạch xây dựng chi tiết); hê ̣ thống chính sách và các công cụ
kế hoạch, chương trình, dự án để triển khai các mục tiêu kinh tế xã hội…
Chuẩn hóa quy hoạch phát triển Quận Thanh Xuân gồm các nội dung
sau: Quận rà soát lại quy hoạch phát triển đến năm 2020 trên cơ sở hệ thống
các văn bản pháp quy về mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đã đặt ra và tình
hình thực tế thực hiện các mục tiêu này; Dự kiến chuẩn hóa quy hoạch phát
triển trên cơ sở những mục tiêu nhiệm vụ kinh tế, xã hội cần đạt được trong
thời gian tới; Tổ chức hội thảo khoa học, lấy ý kiến nhân dân về quy hoạch
phát triển Quận Thanh Xuân đến 2020, tầm nhìn 2030; Tổng hợp ý kiến, tiến
hành điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và công bố quy hoạch.
Chuẩn hóa quy hoạch phát triển Quận Thanh Xuân không chỉ giúp cho
Thanh Xuân có diện mạo mới, xứng tầm với các quận, huyện khác của Thành
phố, mà còn là cơ sở quan trọng để tiến hành xây dựng kế hoạch đầu tư
XDCB từ NSNN - Một văn bản pháp quy thể hiện trình tự, thời gian thực hiện
và các nội dung khác có liên quan đến dự án đầu tư XDCB từ NSNN và lượng
NSNN dành cho mỗi công trình XDCB.
Theo đó, trong kế hoạch đầu tư XDCB, các dự án đầu tư XDCB từ
NSNN sẽ được xác định lại và rõ hơn các lợi ích về mặt kinh tế, chính trị văn
hóa, xã hội, mức độ ưu tiên thực hiện so với các dự án khác. Để đảm bảo một
cách chắc chắn vấn đề này, Quận phải bám chắc vào hệ thống các văn bản
pháp quy, xem xét cụ thể tình hình thực tiễn về NSNN, nhu cầu đầu tư XDCB
69
để đảm bảo tính khoa học trong sử dụng NSNN đầu tư XDCB trên địa bàn
Quận. Như thế, hoạt động đầu tư XDCB từ NSNN sẽ được tiến hành một
cách bài bản, tránh được sự lãng phí, trùng lắp, chậm tiến độ, không hiệu quả
của các dự án đầu tư XDCB, từ đó đáp ứng được nhu cầu đầu tư XDCB ở
Thanh Xuân trong khi nguồn vốn từ NSNN có phần còn hạn hẹp.
Kế hoạch đầu tư XDCB là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thẩm
định, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư XDCB từ NSNN, hướng
tới nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan
toàn diện các nội dung cơ bản của dự án để ra quyết định đầu tư. Các nội
dung cơ bản của dự án gồm: Tính hiệu quả, tính khả thi và sự phù hợp của dự
án. Quá trình thẩm định phải khẳng định được sự hợp lý, khoa học của sự cần
thiết phải đầu tư; các yếu tố đầu vào của dự án; quy mô, công suất, công nghệ,
thời gian, tiến độ thực hiện dự án; phân tích tài chính, tổng mức đầu tư, hiệu
quả kinh tế - xã hội của dự án; sự phù hợp của dự án với quy hoạch. Thực tế
cho thấy, các dự án đầu tư XDCB trên địa bàn Quận bị chậm tiến độ, được đề
ra nhưng không thể thực hiện được trong nhiệm kỳ 2010-2015, bị yêu cầu
hoặc đã thanh quyết toán vượt chỉ tiêu ngân sách ban đầu, đã hoàn thành
nhưng còn ít được khai thác, sử dụng thường xuyên có nhiều nguyên nhân,
trong đó, nguyên nhân cơ bản là chất lượng thẩm định chưa đạt yêu cầu do
thiếu những cơ sở pháp lý quan trọng, do chưa tuân thủ quy trình, các khâu,
bước trong thẩm định dự án đầu tư XDCB.
Để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án đầu tư XDCB, đội ngũ cán bộ
làm công tác thẩm định cần chú ý đến các vấn đề sau:
Một là, Quá trình thẩm định phải căn cứ vào quy định hiện hành của
nhà nước về sử dụng NSNN, về quản lý đầu tư XDCB. Các quy định này thể
hiện ở các văn bản như: Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26/11/2003;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng
70
cơ bản ngày số 38/2009/QH12 ngày 19/6/2009; Nghị định số 112/2009/NĐ-
CP ngày 14/12/2009 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công
trình; Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06/02/2013 của Chính phủ về việc
quản lý chất lượng xây dựng công trình; Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày
12/02/2009 và Nghị định số 83/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của Chính phủ
về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày
15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn
ngân sách Nhà nước và vốn Trái phiếu Chính phủ; Chỉ thị 14/CT-TTg ngày
28/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ
đọng xây dựng cơ bản từ nguồn Nhà nước, Trái phiếu Chính phủ;...
Hai là, Quá trình thẩm định phải tuân theo theo quy trình. Cụ thể là
tiếp nhận hồ sơ dự án - lấy ý kiến của các cơ quan về thiết kế cơ sở và các nội
dung liên quan của dự án - tổng hợp, nghiên cứu ý kiến để hoàn chỉnh nội
dung thẩm định dự án, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình
thẩm định luôn phải tuân thủ các quy định của nhà nước về sử dụng NSNN,
về quản lý đầu tư XDCB, không được xử lý theo cảm tính, cảm quan của
mình. Các cơ quan được lấy ý kiến có trách nhiệm: Xem xét về thiết kế cơ sở
và các nội dung liên quan của dự án theo chức năng quản lý ngành, lĩnh vực.
Nội dung tham gia ý kiến phải thể hiện rõ ràng quan điểm (đồng ý, hoặc
không đồng ý và yêu cầu hoàn chỉnh bổ sung). Trường hợp hồ sơ dự án
XDCB chưa bảo đảm tính khả thi và hiệu quả đầu tư thì cơ quan thẩm định
thông báo kết quả thẩm định để chủ đầu tư hoàn chỉnh hồ sơ.
Ba là, Quá trình thẩm định phải khẳng định được các tiêu chí: Tính
hiệu quả, tính khả thi và sự phù hợp của dự án đầu tư XDCB. Tính hiệu quả
của dự án liên quan đến các vấn đề: Sự cần thiết đầu tư; các yếu tố đầu vào
của dự án; quy mô, công suất, công nghệ, thời gian, tiến độ thực hiện dự án;
phân tích tài chính, tổng mức đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án. Tính
khả thi của dự án bao gồm: sự phù hợp của dự án với với quy hoạch; nhu cầu
71
sử dụng đất, tài nguyên (nếu có); khả năng giải phóng mặt bằng, khả năng
huy động vốn đáp ứng tiến độ của dự án; kinh nghiệm quản lý của chủ đầu tư;
khả năng hoàn trả vốn vay; giải pháp phòng cháy, chữa cháy; các yếu tố ảnh
hưởng đến dự án như quốc phòng, an ninh, môi trường và các quy định khác
của pháp luật có liên quan. Sự phù hợp của dự án là tiêu chí tương đối phức
tạp. Nó thể hiện ở sự phù hợp của thiết kế cơ sở với quy hoạch chi tiết xây
dựng; tổng mặt bằng được phê duyệt; phương án tuyến công trình được chọn
đối với công trình xây dựng theo tuyến; vị trí, quy mô xây dựng và các chỉ
tiêu quy hoạch đã được chấp thuận đối với công trình xây dựng tại khu vực
chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng được phê duyệt; Sự phù hợp của việc kết
nối với hạ tầng kỹ thuật của khu vực; Sự hợp lý của phương án công nghệ,
dây chuyền công nghệ đối với công trình có yêu cầu công nghệ; Việc áp dụng
các quy chuẩn, tiêu chuẩn về xây dựng, môi trường, phòng cháy, chữa cháy;
Điều kiện năng lực hoạt động xây dựng của tổ chức tư vấn, năng lực hành
nghề của cá nhân lập thiết kế cơ sở theo quy định.
Bốn là, Quá trình thẩm định phải đảm bảo được yếu tố thời gian, kinh
phí và có kết luận, kiến nghị rõ ràng. Theo quy định, thời gian tối đa cho việc
thẩm định 01 dự án không quá 90 ngày làm việc đối với dự án quan trọng
quốc gia; dự án nhóm A không quá 40 ngày làm việc; dự án nhóm B không
quá 30 ngày làm việc; dự án nhóm C không quá 20 ngày làm việc. Kinh phí
cho thẩm định dự án được quy định theo tiêu chuẩn nhà nước về chi phí thẩm
định dự án. Sau khi thẩm định dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải chỉ ra những
mặt được và chưa được của dự án, từ đó rút ra kết luận và kiến nghị, tham
mưu cho người có thẩm quyền đưa ra quyết định cuối cùng.
Năm là, Công tác thẩm định phải thật sự chú ý xem xét một cách toàn
diện và sâu sắc các mặt kỹ thuật, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng, bảo vệ môi trường và đặc biệt coi trọng yếu tố con người trong
72
các dự án đầu tư XDCB bằng nguồn vốn là NSNN. Sở dĩ cần coi trọng yếu tố
con người ở đây là do đầu tư XDCB là đầu tư xây dựng các dự án có tính chất
công trình với mục tiêu cho nhiều người sử dụng, hưởng thụ. Trên tinh thần
đó, con người, vừa là chủ thể, vừa là khách thể có nhận thức trong các hoạt
động phát triển kinh tế xã hội nói chung, đầu tư XDCB nói riêng nên phản
ứng của con người sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các hoạt động
XDCB. Điều này đòi hỏi các chính sách, nhất là chính sách về kinh tế phải
quan tâm đúng mức đến con người lao động, đồng thời cũng có những chế tài
xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi vi phạm pháp luật của con người.
Mối quan hệ giữa con người và các hoạt động sử dụng NSNN trong đầu
tư XDCB chỉ ra rằng việc nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN sẽ hướng tới nâng
cao chất lượng cuộc sống con người và ngược lại chất lượng cuộc sống được
nâng cao sẽ trở thành yếu tố tác động tích cực đến thu ngân sách nhà nước, tạo
tiền đề vật chất tốt hơn cho đầu tư XDCB. Việc chú trọng yếu tố con người trong
thẩm định các dự án đầu tư XDCB thể hiện ở việc xem xét các khía cạnh cải
thiện mức sống của nhân dân trong các dự án đầu tư XDCB như đầu tư cơ sở hạ
tầng, nhà ở, môi trường sống và làm việc, chăm sóc y tế, đầu tư XDCB cho các
chương trình xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài...
Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư XDCB ở Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp thiết thực nâng cao phẩm
chất chính trị, trình độ đội ngũ cán bộ thẩm định dự án, cụ thể như sau:
Làm tốt công tác tuyển chọn cán bộ thẩm định dự án; tạo điều kiện để cán
bộ tham gia các khóa đào tạo nâng cao hoặc tự học để nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chuyên môn;
chú ý tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, đề cao
trách nhiệm để cán bộ luôn luôn tận tâm với công việc, yêu nghề, tích cực
tìm tòi, nghiên cứu đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
73
thẩm định dự án đầu tư XDCB; Có cơ chế, chính sách để cán bộ thẩm định
dự án thường xuyên cập nhật, nắm bắt các quy định của pháp luật về quản
lý đầu tư xây dựng có liên quan; có đủ các điều kiện để nghiên cứu, tham
mưu đề xuất các giải pháp quản lý và hướng dẫn thực hiện các quy định
pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng; thực hiện các chuyên đề nghiên cứu
và hướng dẫn nghiệp vụ công tác chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư;
Trong quá trình xử lý hồ sơ dự án, tăng cường công tác kiểm tra hiện
trường để phát hiện kịp thời những bất cập trong hồ sơ thiết kế, có biện
pháp xử lý nhằm nâng cao chất lượng của báo cáo thẩm định.
2.2.3. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà
nước và hoạt động giám sát của nhân dân, xác định rõ trách nhiệm của
các chủ thể trong sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ
bản trên địa bàn Quận
Cơ sở của giải pháp này là xuất phát từ yếu tố cơ chế, chính sách ảnh
hưởng tới hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân
nói chung, cả nước nói riêng. Sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB là hoạt
động có liên quan đến việc hình thành và tiêu dùng lượng tiền tệ lớn do mồ
hôi, công sức của nhân dân đóng góp. Như trên đã trình bày, hiện nay, việc sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB còn có những bất cập, thất thoát, lãng phí,
hiệu quả có mặt chưa cao, đồng thời với vấn đề đó là nhu cầu đầu tư XDCB
của Quận còn lớn nhưng lượng NSNN do Thành phố cấp cho đầu tư XDCB
có xu hướng giảm. Vấn đề nêu trên đòi hỏi để nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý của nhà nước và hoạt động giám sát của nhân dân, nâng cao trách nhiệm
của các chủ thể trong sử dụng NSNN để đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc sử dụng NSNN vào
các hoạt động đầu tư XDCB là việc Đảng phải thật sự bao quát hơn, lãnh đạo,
74
chỉ đạo tốt hơn đối với hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Quan
điểm, tư tưởng của Đảng về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB phải được
thể hiện rõ nét trong các nghị quyết lãnh đạo, trong công tác cán bộ, công tác
kiểm tra giám sát của các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ. Để tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB cần phải
đề cao vai trò trách nhiệm của mỗi đảng viên trong Đảng bộ Quận; tích cực
thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, nhất là đảng
viên trẻ; đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI ”Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy, đảng bộ, chi bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo để nâng cao năng lực,
sức chiến đấu của Đảng bộ Quận. Về công tác cán bộ, cần chú trọng công tác
tuyển dụng, đào tạo, đào tạo lại và tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ có liên quan đến hoạt động sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, nhất
là các ban quản lý dự án. Để làm việc đó, cần rà soát, phân loại, sắp xếp lại
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước của Quận, các phường từ đó lên phương
án bổ sung, đưa đi đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Song song với củng cố,
kiện toàn cán bộ, cần đổi mới cơ chế hoạt động đối với các ban quản lý dự án
từ đơn vị hành chính sự nghiệp sang đơn vị tự chủ hạch toán; đảm bảo các
chủ đầu tư, các ban quản lý dự án phải đủ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm,
hiệu lực, hiệu quả quản lý theo quy định của pháp luật về xây dựng. Các ban
quản lý dự án đã hoàn thành công trình, hoặc không đủ năng lực hoạt động thì
tiến hành giải thể hoặc sát nhập. Tại mỗi Ban quản lý dự án cần bố trí những
cán bộ chuyên môn có trình độ phù hợp, đề cao việc thực hiện quy trình, quy
chế cụ thể trong công việc để nâng cao trách nhiệm của từng thành viên. Mỗi
một cán bộ trong các ban quản lý phải không ngừng học tập nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Theo
75
các Nghị định mới của Chính phủ về đầu tư XDCB, các dự án thuộc cấp xã,
phường phải giao cho các xã, phường làm chủ đầu tư. Vì thế, cần trang bị
kiến thức về xây dựng một cách bài bản và bồi dưỡng nâng cao năng lực quản
lý nhà nước về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB để chủ đầu tư thực hiện
tốt hơn vấn đề huy động, sử dụng vốn NSNN, thuê tư vấn cũng như giám sát
công trình, hướng tới nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Để tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân về việc sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB, vấn đề rất quan trọng là thực hiện dân chủ, công
khai, minh bạch trong đầu tư XDCB. Công khai, minh bạch quá trình đầu tư
từ công tác quy hoạch, kế hoạch, vốn đầu tư (vốn kế hoạch tập trung, vốn sự
nghiệp), danh mục dự án công trình đầu tư; thông tin hoạt động đấu thầu của
các dự án, chống khép kín, bảo đảm tính cạnh tranh trong đấu thầu. Các cơ
quan, đơn vị có dự án, công trình xây dựng phải công bố công khai quy
hoạch, thiết kế, dự toán, đơn vị trúng thầu, tiến độ, thời gian thực hiện, kế
hoạch vốn đầu tư để cán bộ, công nhân viên cơ quan, nhân dân địa phương
giám sát quá trình đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị. Công khai, minh bạch
còn thể hiện ở việc công khai thông tin về phòng, chống tham nhũng, lãng phí
về đầu tư XDCB trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là cơ quan,
đơn vị có sai phạm trong thực hiện quản lý đầu tư XDCB. Công khai thông
tin tham nhũng, lãng phí phải đi kèm với tăng cường giám sát của cơ quan
dân cử và nhân dân để phát hiện tham nhũng, lãng phí. Các tổ chức, đơn vị
trong toàn Quận cần chú ý động viên cán bộ, nhân dân tố giác tham nhũng,
lãng phí và khi có đơn, thư tố giác cần tổ chức kiểm tra, thanh tra, điều tra,
kết luận kịp thời và xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm, kiên quyết
không để lọt người, lọt tội.
Có nhiều chủ thể liên quan đến NSNN và hoạt động đầu tư XDCB nên
để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB phải xác định rõ
76
trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hoạt động này. Bên cạnh đó,
trước những tồn tại, bất cập của việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận
Thanh Xuân nhưng khó quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân, các cơ quan, đơn vị
đã cho thấy càng phải phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các chủ thể liên
quan đến sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB nếu muốn nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận Thanh Xuân.
Một là, đối với chủ đầu tư.
Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn bộ về quản lý dự án trên các mặt
chất lượng, chi phí, tiến độ, an toàn lao động, vệ sinh môi trường và vấn đề
khai thác, sử dụng công trình sau khi hoàn thành. Để làm được tốt trách
nhiệm này, chủ đầu tư phải nghiêm túc thực hiện các quy định của luật Xây
dựng, luật Đấu thầu, luật Ngân sách nhà nước trong tất cả các khâu của quá
trình đầu tư, từ khâu lập dự án đến quyết toán ngân sách; Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong tất cả các khâu của quá trình
đầu tư các dự án, công trình bằng nguồn vốn ngân sách, nhằm ngăn chặn kịp
thời các tiêu cực trong việc thi công xây dựng, nhất là những công trình trọng
điểm, công trình lớn để làm cơ sở đánh giá hiệu quả đầu tư; Phối kết hợp công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại - tố cáo với công tác phòng ngừa và đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí trong sử dụng NSNN để đầu tư XDCB;
Tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hành
vi tham nhũng, lãng phí; Các phường, đơn vị, chủ đầu tư phải tự kiểm tra và
chịu trách nhiệm về kết quả tự kiểm tra việc chấp hành pháp luật về quản lý
đầu tư XDCB đối với dự án, công trình do Quận và các phường trong Quận
thực hiện. Chủ đầu tư có trách nhiệm lựa chọn được giám đốc điều hành dự
án là người có đủ điều kiện về phẩm chất, năng lực, phù hợp với từng loại và
cấp công trình theo qui định của nhà nước; phải thường xuyên tổ chức kiểm
77
tra, giám sát chặt chẽ tiến độ thi công, việc chấp hành quy trình, quy phạm,
kiểm định chất lượng xây dựng các công trình nhằm nâng cao chất lượng xây
dựng công trình và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong hoạt động xây
dựng. Bên cạnh đó, chủ đầu tư cần tổ chức tốt công tác đấu thầu, tăng nhanh
tỷ lệ dự án đấu thầu rộng rãi ở các khâu tư vấn, thi công và quản lý, giám sát;
đảm bảo thực hiện đúng, đủ các quy định của pháp luật về công tác đấu thầu,
nhằm hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng nhận thầu nhưng triển khai
không hiệu quả hoặc giao thầu lại cho các nhà thầu không đủ điều kiện, năng
lực thi công xây dựng công trình; chỉ định thầu không đúng quy định, chia
nhỏ dự án để chỉ định thầu. Để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB, chủ đầu tư phải khắc phục được tình trạng đấu thầu hình thức,
chống phá giá trong đấu thầu; các tiêu chí trong hồ sơ mời thầu phải rõ
ràng, chuẩn mực, tránh tình trạng chủ đầu tư và đơn vị tư vấn cố tình lập hồ
sơ mời thầu chỉ có một số ít nhà thầu đáp ứng được.
Chủ đầu tư cần có giải pháp quản lý chặt chẽ giá vật tư, vật liệu và việc
áp dụng các định mức. Hiện nay công tác quản lý giá vật tư, vật liệu xây dựng
trên địa bàn còn nhiều bất cập. Một số công việc có định mức áp dụng chưa
phù hợp với thực tế. Hàng quý vẫn có thông báo giá vật tư, vật liệu của Liên
sở Tài chính - Xây dựng nhưng chưa kịp thời và chưa đầy đủ các chủng loại
trên thị trường. Vì vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc kéo dài tiến độ dự
án. Do giá vật tư vật liệu thường xuyên thay đổi nên làm thay đổi giá trị xây
dựng công trình, các nhà thầu chờ phê duyệt điều chỉnh dự toán công trình
cho phù hợp với thực tế mới tiếp tục thi công nên chậm tiến độ.
Hai là, đối với Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân Quận.
Ủy ban nhân dân Quận có trách nhiệm trong việc tổ chức tư vấn về
sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB. Các tổ chức này chịu trách nhiệm
hoàn toàn trước chủ đầu tư, trước pháp luật về thiết kế và chất lượng công
78
tác tư vấn. Ủy ban Nhân dân Quận có trách nhiệm thu hồi đăng ký hành
nghề tư vấn của các đơn vị không đảm bảo năng lực, trình độ, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch để thu hút tạo điều kiện huy động
các đơn vị tư vấn có trình độ cao vào hoạt động đầu tư XDCB trên địa bàn
Quận. Trên cơ sở định mức, đơn giá theo quy định của nhà nước, Ủy ban
nhân dân Quận có quyền kiểm soát hệ thống đơn giá, công tác xây dựng,
bổ sung các định mức còn thiếu trong thực tế, đặc biệt là phần hoàn thiện
của nhóm công việc cao cấp để các đơn vị thực hiện được hiệu quả, chính
xác trong lĩnh vực xây dựng.
Hội đồng nhân dân Quận có vai trò, trách nhiệm trong việc quyết toán
thu, chi NSNN; phân bổ dự toán NSNN; quyết định các chủ trương và biện
pháp thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn; yêu cầu UBND Quận và các
phường lập dự toán NSNN, danh mục đầu tư, phương án phân bổ điều chỉnh
ngân sách đối với các dự án XDCB thuộc cấp mình quản lý, kiểm tra nghị
quyết của Hội đồng nhân dân các phường và giao nhiệm vụ cho từng cơ quan
đơn vị trực thuộc có liên quan đến sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB.
Ba là, đối với các cơ quan thẩm định dự án
Nâng cao chất lượng trong hoạt động thẩm định, phê duyệt dự án đầu
tư, thiết kế, lập dự toán, giám sát thi công, nghiệm thu, thanh toán các hạng
mục công trình; áp dụng quy chế tuyển chọn cơ quan tư vấn, thẩm định dự án
trên cơ sở cạnh tranh rộng rãi; Tăng cường thẩm định về năng lực, kinh
nghiệm của nhà thầu thi công cũng như đơn vị tư vấn quản lý, giám sát. Xác
định rõ trách nhiệm của chủ quản đầu tư, chủ đầu tư, tư vấn thiết kế; thẩm
định dự án; cá nhân, đơn vị tổ chức thi công.
Bốn là, với các cấp, các ngành có liên quan.
Cần nghiên cứu xây dựng, thực hiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan
quản lý nhà nước trên địa bàn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng theo hướng
79
“liên thông”, rà soát, loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết trong
quá trình thực hiện thủ tục đầu tư XDCB từ NSNN.
Để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đối với việc sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB, nhà nước cần cần xây dựng và hoàn thiện hê ̣
thống văn bản pháp luâ ̣t về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn
cấp quận, huyện. Hê ̣ thống văn bản gồm: Luật, Nghị định, Thông tư liên bô ̣
và Thông tư của các bô ̣ chuyên ngành hướng dẫn, tổ chức thực hiê ̣n Nghị
định; Quyết định ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuâ ̣t và nghiê ̣p vụ chuyên
ngành liên quan để thực hiê ̣n Nghị định ở cấp quận, huyện để tránh sự chồng
chéo. Bên cạnh việc xây dựng và ban hành hệ thống văn bản nêu trên, nhà
nước cần xây dựng quy trình quản lý NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn
cấp quận, huyện. Các quy trình gồm: Quy trình lập kế hoạch và phân bổ
NSNN cho đầu tư XDCB; Quy trình quản lý vận hành dự án, công trình sử
dụng NSNN trên địa bàn cấp quận, huyện; Quy trình kiểm soát, thanh toán
NSNN cho đầu tư XDCB. Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, bộ ngành cần
chú ý vấn đề sau:
Quốc hội: Ban hành các văn bản pháp luật về quy hoạch, xây dựng, quản
lý đầu tư, quản lý NSNN và các lĩnh vực khác liên quan đến đầu tư (Luật
NSNN, Luật đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật đất đai...) ở cấp quận, huyện ngoài
việc đưa ra các quyết định về thu chi NSNN, phân bổ NSNN cho các ngành, địa
phương theo tình hình thực tế và giám sát việc thực hiện, phê chuẩn các quyết
toán, cũng như có quyền thông qua các dự án công trình trọng điểm quốc gia
như hiện nay.
Chính phủ: Theo nguyên tắc chung, Chính phủ là cơ quan ban hành các
dự án luật, pháp lệnh, văn bản quy phạm pháp luật, dự toán NSNN và phương
án phân bổ ngân sách trung ương, báo cáo tình hình thực hiện NSNN, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, dự án công trình quan trọng cho Quốc
80
hội. Thủ tướng ra các quyết định đầu tư đối với các dự án đã được Quốc hội
thông qua, chỉ định các gói thầu đối với các dự án mang tính chất bí mật quốc
gia, cấp bách, an ninh và an toàn năng lượng. Tuy nhiên, nguyên tắc trên đây
khi được áp dụng ở cấp quận, huyện có những bất cập. Vì thế, Chính phủ cần
chỉ đạo cho các cơ quan cụ thể hóa hơn vấn đề này.
Các Bộ Xây dựng, Tài chính, Kế hoạch đầu tư rà soát, hoàn thiện cơ
chế chính sách về quản lý xây dựng, quy hoạch xây dựng, về huy động quản
lý các nguồn vốn đầu tư, cơ chế chính sách về đầu tư, quản lý Nhà nước về
đầu tư.... Các bộ ngành khác có liên quan góp phần vào quá trình quản lý nhà
nước theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
81
*
* *
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đang đặt ra việc sử dụng lượng ngân
sách nhà nước rất lớn trong đầu tư XDCB ở quận Thanh Xuân. Thực tế này
đang đặt ra 4 quan điểm: Một là, Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà
nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
là nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan và nhân dân Quận;
Hai là, Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân Quận vừa là cơ sở, nền tảng, vừa là mục đích của nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản; Ba là, Giải quyết tốt
nhu cầu trước mắt và lâu dài về xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Quận;
Bốn là, Huy động sức mạnh tổng hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách
nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Quận.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, cần thực
hiện tốt ba nhóm giải pháp: Nâng cao nhận thức về sử dụng ngân sách nhà
nước, tăng cường các biện pháp chống thất thu để tăng chi, triệt để thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao chất lượng nghiệm thu công trình đầu
tư xây dựng cơ bản; Chuẩn hóa quy hoạch phát triển Quận Thanh Xuân làm
cơ sở xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và nâng cao chất lượng thẩm
định dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở Quận Thanh Xuân;
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước và hoạt động
giám sát của nhân dân, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong sử dụng
ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Quận.
Vị trí, vai trò của các quan điểm và giải pháp không ngang bằng nhau,
thể hiện những góc cạnh khác nhau của vấn đề. Các quan điểm cơ bản phải
được quán triệt đúng và đầy đủ, các giải pháp chủ yếu phải được thực hiện
đồng bộ mới có thể tạo ra chuyển biến mới về nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
82
KẾT LUẬN
1. Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước
trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của nhà nước. Đầu tư XDCB là một kênh trong đầu tư xây dựng, là việc chủ
đầu tư bỏ vốn vào các công trình có tính chất xây dựng để tạo ra những điều
kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế, xã hội, tăng
cường củng cố quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB là việc các cơ quan nhà nước lấy công cụ NSNN làm phương
tiện để hình thành và phân phối quỹ NSNN cho việc xây dựng, tu bổ các công
trình như đường xá, trường học, bệnh viện, nhà văn hóa, di tích lịch sử.
2. Hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB là tiêu chí phản ánh
việc các cơ quan nhà nước thông qua hoạt động thu, chi ngân sách để thực
hiện các mục tiêu XDCB, tạo ra những lợi ích về mặt kinh tế, chính trị, xã hội
cho đất nước hoặc địa phương. Hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB được đánh giá qua 3 tiêu chí cơ bản.
3. Thanh Xuân là quận nằm ở Tây Nam Thành phố Hà Nội. Những năm
qua, được Thành phố Hà Nội cấp, cho phép sử dụng lượng NSNN khá lớn cho
đầu tư XDCB. Theo các tiêu chí đánh giá, việc sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB ở Quận đạt được thành tựu khá tốt, có thành công nhất định trong xã hội
hoá vốn đầu tư XDCB. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB trên địa bàn Quận có mặt chưa cao.
4. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân. Những năm tới, nhu cầu sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB còn rất lớn, để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB, Quận Thanh Xuân cần thực hiện đồng thời 4 quan điểm cơ
bản và 3 nhóm giải pháp chủ yếu. Các giải pháp cần được thực hiện một cách
đồng bộ, trong đó, giải pháp mang tính quyết định là chuẩn hóa quy hoạch
phát triển làm cơ sở xây dựng kế hoạch đầu tư XDCB và nâng cao chất lượng
thẩm định dự án đầu tư XDCB từ NSNN ở Quận Thanh Xuân./.
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2006), Cẩm nang kiểm soát chi NSNN, Nxb Bộ Tài chính, Hà Nội.
2. Bô ̣ Xây dựng (2005), Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thi hành,
Nxb Xây dựng, Hà Nô ̣i.
3. Bộ Xây dựng (2006), Luật đấu thầu, Luật xây dựng và Nghị định hướng
dẫn thi hành, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
4. Bộ Xây dựng (2009), Thông tư số 03/2009/TT-BXD ngày 26/3/2009
Quy định chi tiết một số nội dung của Nghị định số 12/2009/NĐ-
CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số
12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình.
6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Nghị định số
112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 về quản lý chi phí đầu tư xây dựng
công trình.
7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Chỉ thị 1792/
CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản
lý đầu tư từ vốn ngân sách Nhà nước và vốn Trái phiếu Chính phủ.
8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Chỉ thị
14/CT-TTg ngày 28/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách
Nhà nước, vốn Trái phiếu Chính phủ.
9. Trần Ngọc Dũng, Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án
đầu tư tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ, Hà Nội.
10. Đảng bộ Quận Thanh Xuân (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
Quận Thanh Xuân lần thứ IV (nhiệm kỳ 2010-2015).
84
11. Đảng bộ Thành phố Hà Nội (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
Thành phố Hà Nội lần thứ XV, Nxb Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
13. Học viê ̣n Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Kinh tế
chính trị Mác – Lê nin , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Học viê ̣c Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Quản lý
kinh tế, Nxb Lý luâ ̣n chính trị, Hà Nội.
15. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
16. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2003), Nghị quyết số
43/2003/NQ-HĐ về phân cấp quản lý ngân sách và định mức phân bổ
ngân sách thành phố Hà Nội (giai đoạn 2004-2007).
17. Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội (2006), Nghị quyết số
08/2006/NQ-HĐ về phân cấp quản lý ngân sách và định mức phân bổ
ngân sách thành phố Hà Nội (giai đoạn 2007-2010).
18. Kho bạc Nhà nước (2007), Quyết định 1116/QĐ-KBNN ngày 24/08/2007
của Tổng giám đốc kho bạc nhà nước về việc ban hành quy chế thực
hiện một cửa trong kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước.
19. Kho bạc Nhà nước (2007), Quy trình kiểm soát thanh toán vốn đầu tư và
vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng trong nước qua hệ thống
KBNN (kèm theo Quyết định 297/QĐ-KBNN ngày 18/05/2007 của
Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước).
20. Nhà Xuất bản Lao động (2009), Hướng dẫn thủ tục hành chính trong lĩnh
vực xây dựng và những quy định mới nhất về đầu tư XDCB, Nxb Lao
động, Hà Nội.
21. Nguyễn Bạch Nguyệt (2008) Giáo trình Lập Dự án Đầu tư, Nxb Đại học
Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
85
22. Từ Quang Phương (chủ biên) (2007), Giáo trình Kinh tế Đầu tư, Nxb Đại
học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
23. Quận Thanh Xuân (2013), Thông báo số 188 ngày 6/12/2013 về “Công tác
xây dựng chính quyền năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014.
24. Quận Thanh Xuân (2013), Báo cáo số 189-BC/MTTX ngày 9/12/2013
tổng hợp ý kiến phản biện xã hội về những giái pháp phát triển kinh tế
xã hội, giảm chỉ tiêu hộ nghèo năm 2014 của Quận Thanh Xuân.
25. Quận Thanh Xuân (2013), Báo cáo số 120-BC/HĐND ngày 10/12/2013
Tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri với Kỳ họp thức 9 - HĐND
Quận khóa IV, nhiệm kỳ 2011 - 2016.
26. Quận uỷ Thanh Xuân (2010), Báo cáo kết quả thực hiện các mặt công tác
năm 2009, nhiệm vụ trọng tâm năm 2010.
27. Quận uỷ Thanh Xuân (2010), Báo cáo kết quả thực hiện các mặt công tác
6 tháng đầu năm, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2010.
28. Quận ủy Thanh Xuân (2011), Kế hoạch hành động số 13-KH/QU ngày 15
tháng 4 năm 2011 của Đảng bộ quận Thanh Xuân thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XV (Nhiệm kỳ 2010-2015).
29. Quận ủy Thanh Xuân (2010), Chương trình số 02-Ctr/QU ngày 4 tháng
11 năm 2010 về phát triển kinh tế xã hội quận Thanh Xuân giai đoạn
2010-2015.
30. Quận ủy Thanh Xuân (2010), Đề án số 01-ĐA/QU ngày 4 tháng 11 năm
2010 về đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường tinh thần trách
nhiệm và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015.
31. Quận ủy Thanh Xuân (2010), Đề án số 02-ĐA/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010
về tăng cường công tác quản lý và phát triển hạ tầng đô thị, quản lý đất đai
và đảm bảo vệ sinh môi trường quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015.
32. Quận ủy Thanh Xuân (2011), Báo cáo tổng kết năm 2011, trọng tâm công
tác năm 2012.
86
33. Quận ủy Thanh Xuân (2012), Báo cáo tổng kết năm 2012, trọng tâm công
tác năm 2013.
34. Quận ủy Thanh Xuân (2013), Báo cáo tổng kết năm 2013, trọng tâm công
tác năm 2014.
35. Quận ủy Thanh Xuân (2010), Báo cáo sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện
Chương trình số 01-Ctr/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010 của Quận ủy
Thanh Xuân về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị Quận
Thanh Xuân, giai đoạn 2010-2015.
36. Quận ủy Thanh Xuân (2010), Báo cáo sơ kết thực hiện Chương trình số
02-Ctr/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010 của Quận ủy Thanh Xuân về
phát triển kinh tế xã hội quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015.
37. Quận ủy Thanh Xuân, Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Đề án số
02-ĐA/QU ngày 4 tháng 11 năm 2010 về “Tăng cường công tác quản
lý và phát triển hạ tầng đô thị, quản lý đất đai và đảm bảo vệ sinh môi
trường quận Thanh Xuân giai đoạn 2010-2015”.
38. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Ngân
sách Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật đầu tư,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ
bản số 38/2009/QH12.
41. Lê Hùng Sơn (2005), “Một số bất cập về quản lý đầu tư và xây dựng hiện
nay”, Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc gia, số (12).
42. Lê Hùng Sơn (2005), “Nhận diện thất thoát lãng phí trong đầu tư xây
dựng thông qua kiểm soát TTNSNN ”, Tạp chí Tài chính, số (8).
43. Lê Văn Tề (1996), Từ điển kinh tế Tài chính - Ngân hàng, Nxb Chính trị
quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
87
44. Lê Như Thanh (2009), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ,
quyền và quyền lợi của công chức trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ.
45. Hoàng Vũ Diệu Thúy, Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa
bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, Luận văn Thạc sĩ.
46. Tổng hội Xây dựng Việt Nam (2006), Công bố danh sách “đen” những
dự án lãng phí đất đai, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
47. Nguyễn Ngọc Trân (2004), “Lãng phí, thất thoát bắt nguồn từ đâu?”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 12/11/2004.
48. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2002), Giáo trình Quản lý kinh tế,
Nxb Lao đô ̣ng xã hô ̣i, Hà Nô ̣i.
49. Lê Minh Tuấn (2010) Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định
dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Agribank Quận Cẩm Lệ -
Thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Đà Nẵng.
50. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004), Giáo trình kinh tế đầu tư, Nxb
Thống kê, Hà Nô ̣i.
51. Trần Đình Ty (2005), Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân
sách Nhà nước, Nxb Lao đô ̣ng, Hà Nội.
52. Ủy ban nhân dân Quận Thanh Xuân (2013), Báo cáo số 177 ngày
10/12/2013 về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng năm 2013; phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2014.
53. Ủy ban nhân dân Quận Thanh Xuân (2013), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2013, phương hướng
nhiệm vụ trọng tâm năm 2014.
88
PHỤ LỤC
Phụ lục số 1
CÁC TUYẾN PHỐ CỦA QUẬN THANH XUÂN
STT TÊN PHỐ STT TÊN PHỐ
Bùi Xương Trạch 1 24 Nguyễn Huy Tưởng
Chính Kinh 2 25 Nguyễn Ngọc Nại
Cù Chính Lan 3 26 Nguyễn Quý Đức
Cự Lộc 4 27 Nguyễn Thị Định
Định Công 5 28 Nguyễn Thị Thập
Giải Phóng 6 29 Nguyễn Trãi
Giáp Nhất 7 30 Nguyễn Tuân
Hạ Đình 8 31 Nguyễn Văn Trỗi
9 Hoàng Đạo Thành 32 Nguyễn Viết Xuân
10 Hoàng Đạo Thúy 33 Nguyễn Xiển
11 Hoàng Minh Giám 34 Nhân Hòa
12 Hoàng Ngân 35 Phan Đình Giót
13 Hoàng Văn Thái 36 Phương Liệt
14 Khuất Duy Tiến 37 Quan Nhân
15 Khương Đình 38 Tố Hữu
16 Khương Hạ 39 Tô Vĩnh Diện
17 Khương Trung 40 Trần Điền
18 Kim Giang 41 Triều Khúc
19 Lê Trọng Tấn 42 Trường Chinh
20 Lê Văn Lương 43 Vọng
21 Lê Văn Thiêm 44 Vũ Hữu
22 Lương Thế Vinh 45 Vũ Tông Phan
23 Ngụy Như Kon Tum 46 Vũ Trọng Phụng
47 Vương Thừa Vũ
89
Phụ lục số 2
QUY HOẠCH QUẬN THANH XUÂN ĐẾN 2020
90
Phụ lục số 3
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2001 -2005; DỰ KIẾN 2010 -2015
KINH TẾ
Giai đoạn 2001-2005 Giai đoạn 2006- 21010 Chỉ tiêu 2010 - 2015
TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Chỉ tiêu
Thực hiện so với chỉ tiêu đại hội II (%)
Tốc độ tăng bình quân/ năm (%)
Tốc độ tăng bình quân/ năm (%)
Thực hiện so với chỉ tiêu đại hội II (%)
Chỉ tiêu đại hội II Thực hiện năm 2001 Thực hiện năm 2005 Thực hiện năm 2006 Thực hiện năm 20010 Chỉ tiêu đại hội III So với chỉ tiêu đại hội III
11.588
I Chỉ tiêu kinh tế
24.586 19,19
1 5.385 10.219 13,7
1.1 3 1 0 0 - 19,17 - 32,91
1.2 4.273 8.121 13,7 9.523 20.548 20,4 GTSX (giá cố định năm 1994) GTSX ngành nông lâm thủy sản GTSX ngành công nghiệp, xây dựng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng
Tăng 14- 14.5%
2.631 6.285 23,1 9,6 7.031 16,4 2,0 GTSX ngành công nghiệp Tỷ đồng Tăng 13 - 14 13.42 9 Tăng 12 -13 % Giảm 2%
nghiệp 6.071 2.026 2.071 5.295 24,7
749 1.161 138 645 44,6 13 -7 Công quốc doanh Công nghiệp ngoài quốc doanh
1.3 GTSX dịch vụ 1.109 2.097 15,2 6.,2 2.065 4.038 14 2,3 Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tăng 8 – 10 % Tăng 14- 15 % Tăng 14- 15 % Giảm 5% Giảm 1.75% Tăng 20% Tăng 11.5- 12%
2 % 100 100 100 100 Cơ cấu GTSX theo ngành (giá thực )
91
2.1 Nông lâm thủy sản 2.2 Công nghiệp xây dựng Công nghiệp
2.3 Ngành dịch vụ % % % % 0.05 79.35 48.86 20.6 0.0 78 53.9 22 0.0 79.7 50.6 20.3 0.0 84.6 44.1 15.4
3 % 100 100 100 100
% 63.6 62.83 62.39 56.06
3.2 % 29.1 31.1 34.68 42.18
43.652
3.3 % 7.3 6.06 2.93 1.76 Cơ cấu GTSX theo thành phần kinh tế 3.1 Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tăng>3% so với thành phố giao
Tăng>3 % so với thành phố giao
4 Thu ngân sách 131 134.8 241 868 17.5 14.5 Tỷ đồng
69 22.3 116 533 Trong đó: thu từ sự nghiệp kinh tế
12.2%
5 Chi ngân sách 94 39% 130 285 84% 32.66 2 6850 4
6 Đầu tư xây dựng 53.9 57.4 64.8 146.8
29.54 37.7 21% 31.5 21.6
24.4 19.6 3.4% 33.3 125.2
Vốn XDCB tập trung ngân sách thành phố Vốn đầu tư ngân sách Số km đường được cải tạo
11.81 6.2 7.5 8.5 Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng
92
VĂN HÓA XÃ HỘI
Giai đoạn 2001-2005 Giai đoạn 2005 – 2010 và chỉ tiêu 2010 - 2015
Chỉ tiêu Đơn vị tính Đạt % So với chỉ tiêu đại hội 3
Chỉ tiêu đại hội II Thực hiện năm 2001 Thực hiện năm 2005 Chỉ tiêu đại hội III Thực hiện năm 2006 Thực hiện năm 20010 Đại hội 4 quyết định
Chỉ tiêu văn hóa – xã hội
1. Dân số trẻ em
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên <10,3 1,07 1,05 <1,05 <1,05 100% Giảm 0.005 % 1,045- 1,05
- Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 14,5 11,98 <10 8,33 9,0 111% <7,5 Giảm 2.5% %
2.Xã hội – việc làm
3,0 3,272 4,100 4,0 3,067 5,100 122,5% 5500- 6000 Tăng 37,5-50 % - Số lao động được giải quyết việc làm Nghìn người
Hộ 30 166 30 30% 25 45 100% 30% Giữ nguyên - Giảm hộ nghèo
3.Giáo dục đào đạo
100 100 100 100 100% 100 Giữ nguyên 100 - Tỷ lệ trẻ em vào lớp 1 %
100 100 100 100 101% 100 Tăng 1% 99 % - Hoàn thành chương trình cấp Tiểu học
98,13 99,73 100 100 101% 100 Tăng 1% 99 % Xét công nhận tốt nghiệp THCS
93
- Số trường được xây mới Trường 3 1 5-6 0 100% >3 6
- Số trường được cải tạo Trường 9 8 15-16 06 143.7% 10 23 Giảm 33.3- 37.5%
4. Văn hóa – thể thao
% 90 90,9 85 85 100% 85 Giữ nguyên 85 Tỷ lệ gia đình đạt gia đình văn hóa
% 26,00 26-30 100% >35 Tăng 5-9% 28 - Tỷ lệ người luyện tập thể thao thường xuyên
Số nhà văn hóa xây mới Nhà 1 0 2-3 6 200% 5 Tăng 66- 150%
94
Phụ lục số 4 KẾT QUẢ CÔNG TÁC QUỐC PHÒNG – QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG
TT Nội dung nhiệm vụ ĐV tính Đạt Thực hiện đến 2010 ĐH IV quyết định % so với ĐH III ĐH III quyết định Thực hiện 6 tháng 2010
1 5.916 100 59.510 Tăng 5% 11.132 Duy trì lực lượng vũ trang trực sẵn sàng chiến đấu
2 100 02 Tổ chức luyện tập, diễn tập chiến đấu - Cơ quan: 17 - Phường: 11/11 Cơ quan: 20 Phường:11/11 Cơ quan quân sự tăng 15% Số lượt đ/ c Số lượt đv/ chỉ tiêu
3 100 01 Bản/chỉ tiêu Cơ quan: 24/24 ĐV cở: 478/478 Cơ quan: 24/24 ĐV cở: 478/478 Đơn vị cở tăng 7%
4 Người/đv 2838/93 3354/102 Tăng 10% 105
5 Người/đv 13.342 3249/100 Tăng 411/7 14.276 Tăng 15% 107
6 Người 4184 127 4184 100 3.754/108 Tăng 325/8 16.416 Đạt 100 kế hoạch trên giao
7 Học sinh 145562 142650 98.6 154062 Tăng 8%
7991
8 Cán bộ 6376 6504 13008 Tăng 100% 102 Xây dựng bổ sung các văn kiện chiến đấu trong khu vực phòng thủ Xây dựng củng cố, phát triển lực lượng dân quân tự vệ Huấn luyện dân quân tự vệ Huấn luyện kiểm tra quân nhân dự bị Giáo dục kiến thức quốc phòng cho học sinh Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh các đối tượng
9 Tuyển thanh niên nhập ngũ 90 639/639 100 TN/chỉ tiêu Đạt 100% KH trên giao
95
16 10 117 100 129 Tăng 10%
11 205 310 Tăng 55%
244 12 Thanh niên Triệu đồng Địa chỉ 317 130 365 Tăng 15%
13 Đơn vị 329 395 Tăng 15%
05 14 Danh hiệu 05 100 05 Đạt 100%
05 15 Danh hiệu 05 100 05 Đạt 100%
16 Lượt 685 774 Tăng 10%
100 100
17 18 % Số vụ 100 0 100% 0
19 Danh hiệu GK ĐVQT+BK:9 100 ĐVQT+BK:12 Tăng 13%
Tuyển sinh quân sự vào các trường quân đội Tặng quà đối tượng chính sách Phối hợp giới thiệu việc làm Tổng số các đơn vị đợt danh hiệu quyết thắng Đảng bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh Cơ quan quân sự đạt vững mạnh toàn diện Cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang quận được khen thưởng Đảm bảo an toàn Vi phạm kỷ luật Thành tích lực lượng vũ trang quận được khen thưởng
96
Phụ lục số 5 CHẤT LƯỢNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
2005 2006 2007 2008 2009 Số Chỉ tiêu Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ TT Tổng số Tổng số Tổng số Chỉ tiêu giai đoạn 2010- 2015 Tổng số Tỷ lệ (%) Tổng số (%) (%) (%) (%)
A Tổng số cơ sở Đảng 62 63 61 61 58
100 100 100 100 100 1 62 63 61 61 58 Tổng số cơ sở Đảng được đánh giá
Kết quả đánh giá:
Trong sạch vững mạnh 51 82,25 52 82,53 51 48 83,60 41 78,68 80% 70,96
10 16,12 10 15,87 10 09 16,39 09 14,75 20% 15,52 Trong đó: Trong sạch vững mạnh tiêu biểu
Hoàn thành tốt nhiệm vụ 03 03 4,91
7,32 + Hoàn thành nhiệm vụ 10 16,12 10 15,87 07 08 11,47 13 13,11 22,41
01 1,58 03 02 4,91 01 3,27 1,72 + Yếu kém
2
Tổng số tổ chức cơ sở Đảng chưa được đánh giá chất lượng
B 439 454 454 484 451 Tổng số chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở
97
439 100 454 100 452 99,55 483 99,79 450 99,78 Số chi bộ đã được đánh giá chất lượng
Kết quả đánh giá:
Trong sạch, vững mạnh 383 87,24 397 87,44 416 92,03 373 77,22 387 86,0
151 34,39 107 23,56 92 20,35 15,22 128 33,07 75 Trong đó: Trong sạch vững mạnh tiêu biểu
Hoàn thành tốt nhiệm vụ 88 18,21 54 42,19
+ Hoàn thành nhiệm vụ 56 12,75 56 12,33 35 7,74 21 4,34 10 18,52
+ Yếu, kém 01 0,22 01 0,22 01 0,20 01 0,22
98
Phụ lục số số 6 CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN
2005 2006 2007 2008 2009
Chỉ tiêu Số TT Tổng số Tổng số Tổng số Tổng số Tỷ lệ (%) Tổng số Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Chỉ tiêu giai đoạn 2010- 2015
9.965 10.585 11.260 11.988 12.425
Số đảng viên có đến thời điểm đánh giá chất lượng
795 7,97 1.089 10,28 1.375 12,21 1.331 11,10 1.549 12,47
Chia ra: + đảng viên được đánh giá chất lượng
38 0,38 136 1,28 1,22 195 1,62 103 0,83 + Đảng viên chưa được đánh giá chất lượng 13 8
9.132 91,64 9.360 88,42 9.747 86,56 10.462 87,27 10.773 86,70 + Đảng viên đã được đánh giá chất lượng
Phân tích kết quả đảng viên đã được đánh giá chất lượng
>97%
1.347 14,75 1.470 15,70 1.225 11,54 1.512 14,45 1.781 16,53 A
Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
5.835 63,89 6.228 66,53 6.924 71,03 7.948 75,97 8.171 75,85 B Đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ
C Đảng viên đủ tư cách 1.942 21,26 1.650 17,62 1.589 16,30 976 9,32 801 4,48
99
hoàn thành nhiệm vụ
Trong đó: Đủ tư cách nhưng có mặt còn hạn chế
480 1.484 1.340 880 801 Chia ra: + Còn hạn chế về năng lực
118 160 245 88 +Còn khuyết điểm trong công tác sinh hoạt Đảng
04 06 04 03
+ Là người đứng đầu trong đơn vị mà đơn vị chưa hoàn thành nhiệm vụ
D 08 0,08 12 0,12 09 0,09 26 0,24 20 0,19
Đảng viên vi phạm tư cách hoặc không hoàn thành nhiệm vụ
02 03 03 15 15
Chia ra: + Vi phạm các hình thức kỷ luật trong năm
04 04 01 11 3 + Không hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn
+ Không chấp hành sự phân công
02 05 05 4
+ Qua kiểm điểm đánh giá phát hiện vi phạm tư cách đảng viên
Phụ lục số 7
100
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ, PHÂN LOẠI CÁN BỘ THUỘC DIỆN
BAN THƯỜNG VỤ QUẬN ỦY QUẢN LÝ
Kết quả phân loại
Năm Tổng số Hoàn thành nhiệm vụ Chưa hoàn thành nhiệm vụ Đã phân loại Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Tống số Tỷ lệ (%) Tổng số Tỷ lệ (%) Tổng số Tỷ lệ (%)
2005 234 234 180 50 21,4 4 1,7 76,9
2006 242 22 195 46 19,0 1 0,4 80,6
2007 257 252 199 49 19,4 4 1,6 79,0
2008 237 237 172 60 25,3 5 1,6 72,6
2009 222 222 182 40 18,0 0 0,0 82,0