BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM

‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐

DƯƠNG VĂN TÙNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN TẠI

CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Mã ngành: 60 34 01 02

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 01 NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM

‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐‐

DƯƠNG VĂN TÙNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN TẠI

CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

Mã ngành: 60 34 01 02

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN PHÚ TỤ

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 01 NĂM 2013

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM

Cán bộ hướng dẫn khoa học : PGS.TS Nguyễn Phú Tụ

Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP.

HCM ngày 04 tháng 01 năm 2013.

Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm: (Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị của Hội đồng chấm bảo vệ Luận văn Thạc sĩ)

1. TS. Lưu Thanh Tâm

Chủ tịch

2. TS.Nguyễn Đình Luận

Phản biện 1

3. TS.Phan Ngọc Trung

Phản biện 2

4. TS.Trần Anh Dũng

Uỷ viên

5. TS. Nguyễn Hải Quang

Ủy viên, Thư ký

Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được

sửa chữa (nếu có).

Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV

TRƯỜNG ĐH KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM PHÒNG QLKH - ĐTSĐH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TP. HCM, ngày..… tháng 12 năm 2012

NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ

Giới tính: Nam Họ tên học viên: Dương Văn Tùng

Nơi sinh: Bắc Giang Ngày, tháng, năm sinh: 29/3/1986

MSHV: 1184011228 Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

I- Tên đề tài:

Nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

II- Nhiệm vụ và nội dung:

Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của trị giá hải quan đối với hàng hóa

xuất khẩu, nhập khẩu; Đánh giá công tác quản lý trị giá Hải quan tại Cục hải quan tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu; Đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

III- Ngày giao nhiệm vụ: 30/05/2012

IV- Ngày hoàn thành nhiêmj vụ: 15/12/2012

V- Cán bộ hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Phú Tụ

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH

(Họ tên và chữ ký) (Họ tên và chữ ký)

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã

được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Học viên thực hiện Luận văn

Dương Văn Tùng

ii

LỜI CÁM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Trường Đại học Kỹ thuật công nghệ Tp.Hồ

Chí Minh. Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự động

viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn

Phú Tụ, người đã hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này ngay từ lúc định hình các

nghiên cứu ban đầu cho đến lúc hoàn chỉnh luận văn.

Xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học,

Quý thầy cô giáo Trường Đại học Kỹ thuật công nghệ Tp.Hồ Chí Minh đã tạo điều

kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Xin cám ơn Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình quan sát, phân tích thực trạng cũng như nghiên cứu lý luận công

tác quản lý trị giá hải quan tại đơn vị.

Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những

người đã luôn đồng hành cùng tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên

cứu của mình.

Tác giả luận văn

Dương Văn Tùng

iii

TÓM TẮT

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của trị giá hải quan

đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; quá trình triển khai, áp dụng quản lý trị giá hải

quan ở Việt Nam phù hợp với tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.

Thông qua việc khái quát quy trình kiểm tra trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu, từ đó phân tích thực trạng tình hình thực hiện công tác quản lý trị giá

hải quan tại đơn vị, đánh giá những mặt đạt được cũng như những vấn đề còn tồn tại

trong quá trình thực hiện quy trình kiểm tra trị giá hải quan hiện nay, rút ra những điểm

mạnh cần phát huy và những điểm yếu cần khắc phục trong thời gian tới. Tiến hành

phân tích và dự báo các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài tác động đến hoạt động

quản lý nhà nước về trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để đưa

những đưa ra những biện pháp phát huy điểm mạnh, hạn chế điểm yếu dựa trên việc

tận dụng các cơ hội và “né tránh” rủi ro. Trên cơ sở đó để hình thành và xây dựng các

giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu.

iv

ABSTRACT

The dissertation has focused on the general theoretical problems of customs

value for exported & imported goods; the development progress and the application

of Vietnamese customs value’s management which are in accordance with

accessing World Trade Organization process. Through an overview of the checking

the customs value process at the Customs Department of Ba Ria - Vung Tau

Province, which are analyzing the current status of implementation of the customs

value’s management at my office, evaluating the achieved as well as the outstanding

issues in the implementation process to check the current valuation, drawn to

promote strengths and weaknesses must be addressed in the near future. Analyzing

and forecasting the inside as well as outside factors affecting the activities of state

management of customs value at the Customs Department of Ba Ria - Vung Tau

Province to make the offering measures to promote strengths, limitations and

weaknesses based on the utilization of opportunities and "dodge" risks. On this

basis, I would like to form and develop specific solutions to improve the customs

value’s management at the Customs Department of Ba Ria - Vung Tau Province.

v

MỤC LỤC

Lời cam đoan ................................................................................................................ i

Lời cảm ơn ................................................................ Error! Bookmark not defined.

Tóm tắt ...................................................................... Error! Bookmark not defined.

Abstract ..................................................................... Error! Bookmark not defined.

Mục lục ........................................................................................................................ v

Danh mục các từ viết tắt .......................................................................................... viii

Danh mục các bảng .................................................................................................... ix

Danh mục các hình ...................................................................................................... x

Mở đầu ........................................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 1

3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................... 2

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 2

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 2

6. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu .......................................................................... 2

7. Bố cục của đề tài ..................................................................................................... 3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN ................ 4

1.1. Những vấn đề lý luận chung về trị giá hải quan. ................................................. 4

1.2. Các phương pháp xác định trị giá hải quan .......................................................... 7

1.3. Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO ...................................... 8

1.4. Sự cần thiết phải quản lý trị giá hải quan. .......................................................... 15

1.4.1. Gian lận thương mại qua trị giá hải quan. ....................................................... 15

1.4.2. Sự cần thiết phải chống gian lận trị giá hải quan. ........................................... 16

1.5. Lịch sử xác định trị giá Hải quan ở Việt Nam. .................................................. 20

1.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý trị giá hải quan. ...................... 25

1.6.1. Số lượng tờ khai phải kiểm tra trị giá hải quan. .............................................. 25

1.6.2. Số lượng tờ khai tham vấn giá. ....................................................................... 26

vi

1.6.3. Số tờ khai phải xác định lại trị giá tính thuế và ấn định thuế. ......................... 27

1.7. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải

quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ................................................................................... 27

1.7.1. Những nhân tố thuận lợi .................................................................................. 27

1.7.2. Những nhân tố không thuận lợi ....................................................................... 29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN

TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU ............................................ 32

2.1. Khái quát về Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ......................................... 32

2.1.1. Lịch sử hình thành ........................................................................................... 33

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu .................. 33

2.1.3. Cơ cấu tổ chức. ................................................................................................ 35

2.2. Thực trạng công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu. .................................................................................................................. 37

2.2.1. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.37

2.2.2. Tình hình thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu giai đoạn 2007 – 2011. ....................................................................................... 44

2.2.3. Tình hình công tác quản lý nhà nước về trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu. ................................................................................................... 48

2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà

Rịa – Vũng Tàu. ........................................................................................................ 64

2.3.1. Những mặt đạt được. ....................................................................................... 64

2.3.2. Những vấn đề còn tồn tại. ............................................................................... 68

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI

QUAN TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU ............................... 78

3.1. Phương hướng đặt ra tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. ..................... 78

3.1.1. Phương hướng chung. ..................................................................................... 80

3.1.2. Phương hướng cụ thể. ..................................................................................... 80

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà

Rịa - Vũng Tàu. ......................................................................................................... 82

vii

3.2.1. Rà soát, kiến nghị kiện toàn hệ thống văn bản pháp luật. ............................... 82

3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức nhân sự. .............................................. 83

3.2.3. Tăng cường phối hợp trong nội bộ cũng như với các cơ quan có liên quan. .. 85

3.2.4. Xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp

hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp. ........................................................... 87

3.2.5. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước.. ...................................................... 88

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 95

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 97

viii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

: Tổ chức thương mại thế giới WTO

: Tổ chức hải quan thế giới WCO

ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á

: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại GATT

: Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa C/O

: Tổng cục hải quan TCHQ

GTT22, GTT01 : Hệ thống cơ sở dữ liệu giá

KTSTQ : Kiểm tra sau thông quan

BTC : Bộ Tài chính

CP : Chính phủ

QĐ : Quyết định

NĐ : Nghị định

TT : Thông tư

KTTT : Kiểm tra thu thuế

TGTT : Trị giá tính thuế

USD : Đô la Mỹ

BR-VT : Bà Rịa - Vũng Tàu

UBND : Ủy ban nhân dân

TNDN : Thu nhập doanh nghiệp

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.2. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan hàng xuất khẩu .................................. 38

Bảng 2.3. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu ..................... 40

Bảng 2.4. Kết quả hoạt động của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. ............... 46

Bảng 2.5: Kết quả kiểm tra trị giá hải quan trong thông quan từ năm 2007 đến hết

31/8/2012. .................................................................................................................. 49

Bảng 2.6: Thống kê đối tượng hàng hóa gian lận trị giá hải quan. ........................... 52

Bảng 2.7: Thống kê chủ thể gian lận về trị giá hải quan (từ ngày 01/01/2012 đến

ngày 31/08/2012). ..................................................................................................... 53

Bảng 2.8. Kết quả KTSTQ từ 01/01/2008 đến 31/8/2012 ........................................ 56

x

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1 – Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ................... 36

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của

Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc gia nhập “sân chơi quốc tế” này đã đưa

đến cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức.

Các thành viên của WTO phải thực hiện các cam kết quốc tế nhằm hoàn

thiện hoạt động quản lý nhà nước trong đó có hoạt động quản lý thuế xuất nhập

khẩu, cụ thể là từng bước giảm thuế suất tiến đến gỡ bỏ hàng rào thuế quan. Việt

Nam đã có nhiều có gắng trong việc cải thiện hoạt động quản lý trị giá và thuế xuất

nhập khẩu phù hợp với các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, đến nay công tác quản lý

thuế xuất nhập khẩu mà cụ thể là trị giá hải quan vẫn còn nhiều bất cập như: việc áp

dụng các văn bản quy phạm pháp luật về xác định trị giá, thuế xuất nhập khẩu thay

đổi thường xuyên, tình trạng gian lận thương mại đối với trị giá hải quan vẫn còn

xảy ra khá phố biến... trong lúc nhà nước chưa có biện pháp nào tỏ ra thực sự hiệu

quả để giải quyết vấn các đề này...

Xuất phát từ những lý do đó, việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan

đến trị giá hải quan, đánh giá tình hình quản lý trị giá hải quan tại Cục hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu trong thời gian qua từ đó đề ra giải pháp đồng bộ, mang tính

chiến lược cho hoạt động quản lý trị giá hải quan đang là một đòi hỏi khách quan.

Hy vọng rằng, đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải

quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” sẽ góp phần vào việc giải quyết những vấn đề thực

tiễn nói trên.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của trị giá hải quan đối

với hàng hóa xuất nhập khẩu, những quy định của WTO liên quan, đánh giá công

tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cụ thể trong

giai đoạn từ năm 2007 đến nay, để từ đó đề ra những kiến nghị, giải pháp mang tính

đồng bộ, lâu dài cho công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu trong thời gian tới nhằm chống thất thu Ngân sách Nhà nước và đảm bảo

2

cho hoạt động xuất nhập khẩu tại địa phương được diễn ra minh bạch, cạnh tranh

lành mạnh.

3. Nội dung nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của trị giá hải

quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Đánh giá công tác kiểm tra trị giá hải

quan tại Cục hải quan tỉnh BR - VT từ đó phân tích các nguyên nhân tác động đến

hoạt động quản lý nhà nước về trị giá hải quan tại địa phương; Đề ra các giải pháp

nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh BR - VT.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động quản lý nhà nước về trị giá hải

quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn về mặt không gian là Cục hải quan

Bà Rịa – Vũng Tàu, về mặt thời gian là giai đoạn từ năm 2007 đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như:

phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp luật học so sánh, phương pháp

thống kê, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích tình huống... dựa trên

nguồn thông tin thứ cấp thu thập được từ các báo cáo, sách, báo, tạp chí, internet, …

Các phương pháp này được sử dụng kết hợp, đan xen với nhau để đưa ra những kết

luận phục vụ cho đề tài.

6. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu

Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá,

phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua

biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập

khẩu; thống kê hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trương, biện pháp

quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh,

nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.

Trong những nhiệm vụ đó, việc tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng

hoá xuất khẩu, nhập khẩu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

3

Số thuế phải nộp của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được xác định trên cơ

sở số lượng, trị giá hàng hóa và thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, việc

xác định trị giá hàng hóa là vấn đề quyết định trực tiếp đến số thuế phải nộp của

doanh nghiệp.

Đề tài nghiên cứu về lĩnh vực trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu sẽ cho chúng ta cái nhìn cơ bản về quy trình kiểm tra, xác định trị giá hải

quan, từ đó mạnh dạn đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý trị giá

hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại Cục hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết

cấu thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý trị giá hải quan.

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải

quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

4

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN

1.1. Những vấn đề lý luận chung về trị giá hải quan.

Thuế Hải quan đã ra đời và tồn tại khi những hình thái Nhà nước đầu tiên

xuất hiện. Tại các lãnh địa thời Trung cổ, các thương nhân đã than phiền với nhau

về yếu tố “vô lý” mà họ phải trả cho các Lãnh chúa khi họ mang hàng hóa ra vào

những khu vực do các Lãnh chúa đó quản lý. Theo ghi nhận của Tổ chức Hải quan

Thế giới, các điều khoản đầu tiên về thuế Hải quan xuất hiện vào cuối thể kỷ XIX,

đầu thế kỷ XX tại Mỹ và Châu Âu. Khi đó, người ta quy định phải thu một khoản

thuế Hải quan nhất định đối với một số loại hàng hóa trong thương mại quốc tế.

Thuế Hải quan (hay thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) là một khoản tiền được

tính dựa trên các căn cứ nhất định do đối tượng nộp thuế phải nộp vào Ngân sách

Nhà nước khi tiến hành xuất khẩu hoặc nhập khẩu loại hàng hóa là đối tượng chịu

thuế Hải quan qua biên giới quốc gia.

Thuế Hải quan ngày càng phát triển và có vai trò hết sức quan trọng trong

quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Đặc biệt là những nước đang phát triển, do

nhu cầu cần nguồn lực tài chính phục vụ các dịch vụ công và nhu cầu bảo hộ sản

xuất trong nước, thuế suất thuế Hải quan thường cao và đánh vào hầu hết các mặt

hàng nhập khẩu, theo đó Thuế Hải quan chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng thu ngân

sách, chẳng hạn, ở Pakistran, Thuế Hải quan chiếm từ 30 – 40% tổng thu ngân sách,

ở Việt Nam trong những năm trước đây Thuế Hải quan chiếm 25 – 30% tổng thu

ngân sách…

Trong xu thế hội nhập và giao lưu thương mại toàn cầu, những yếu tố cơ bản

của hệ thống Thuế Hải quan như biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, trị giá hải quan,

xuất xứ hàng hóa đã trở thành những nội dung quan trọng trong thỏa thuận thuế

quan và thương mại giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy, ngày nay từ đầu thế kỷ XX,

các nước kinh tế phát triển Châu Âu đã nỗ lực tìm kiếm một hệ thống các phương

pháp xác định trị giá hải quan áp dụng thống nhất trên phạm vi quốc tế.

5

Khái niệm trị giá hải quan (trị giá tính thuế hàng hóa) đã được hình thành khi

người ta bắt đầu chuyển dần đánh thuế cụ thể theo lượng hàng hóa sang đánh thuế

theo trị giá hàng hóa. Càng ngày, việc tính thuế dựa trên trị giá của hàng hóa càng

phát triển, do vậy việc xác định trị giá hàng hóa một cách tùy tiện không còn phù

hợp nữa, ở các khu vực lãnh thổ, các nước tìm cách xây dựng các cách tính toán giá

trị của hàng hóa để tính thuế. Mặc dù vậy, nhưng đến nay khi nói đến trị giá hải

quan vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, chẳng hạn:

- Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa dùng để tính thuế Hải quan theo giá

trị.

- Trị giá hải quan là trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu.

- Trị giá hải quan là giá thực tế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa để đánh thuế Hải quan theo giá trị

của hàng hóa đó.

- Trị giá hải quan là trị giá phục vụ cho mục đích tính thuế Hải quan và thống

kê Hải quan.

- Theo các chuyên gia Hải quan Nhật Bản thì trị giá hải quan là chỉ số thể

hiện giá trị của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới, ra hoặc vào lãnh thổ

Hải quan, để phục vụ mục đích quản lý nhà nước về Hải quan theo từng thời kỳ.

Qua các ý kiến, quan điểm trên, có thể hiểu thống nhất về trị giá hải quan

như sau: Trị giá hải quan là trị giá của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu dùng cho

mục đích quản lý Nhà nước về Hải quan.

Trị giá hải quan bao gồm trị giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu và trị giá

hải quan của hàng hóa nhập khẩu. Các nước gia nhập Hiệp định trị giá GATT, trị

giá hải quan của hàng hóa xuất khẩu là giá bán hàng hóa tại cửa khẩu xuất, theo hợp

đồng mua bán, không bao gồm các chi phí vận chuyển (F) và bảo hiểm (I) quốc tế.

Còn trị giá hải quan của hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả đến cửa khẩu

nhập đầu tiên và được xác định bằng cách áp dụng tuần tự 6 phương pháp xác định

trị giá theo Hiệp định trị giá GATT/WTO và dừng lại ngay ở phương pháp đã xác

định được trị giá. Trị giá hải quan được xác định cho tất cả các loại hàng hóa do các

6

tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu không phân biệt có hợp đồng hay không có

hợp đồng, nhằm mục đích thương mại hay không nhằm mục đích thương mại, hoạt

động kinh doanh đầu tư hay sản xuất xuất khẩu.

Trị giá hải quan được sử dụng chủ yếu vào nhiều mục đích khác nhau, nhưng

chủ yếu sử dụng vào các mục đích sau:

- Mục đích tính thuế: khởi thủy đầu tiên của việc xác định trị giá hải quan làn

nhằm mục đích tính thuế, vì lẽ đó khi nói đến trị giá hải quan người ta thường đồng

nhất với trị giá tính thuế.

- Mục đích thống kê: Ngoài mục đích tính thuế, trị giá hải quan còn được sử

dụng cho mục đích thống kê, gồm thống kê kim ngạch xuất khẩu và thống kê Hải

quan. Qua hoạt động thống kê mà cụ thể là căn cứ vào các số liệu thống kê Nhà

nước có cơ sở để thực hiện điều chỉnh chính sách quản lý các hoạt động thương

mại, chính sách quản lý hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và chính sách quản lý Nhà

nước về Hải quan cũng như chích sách thuế, qua đó thực hiện các mục tiêu quản lý

của Nhà nước.

- Mục đích quản lý hạn ngạch: Để thực hiện chính sách quản lý mặt hàng và

chính sách thuế đối với một số mặt hàng trong từng giai đoạn phát triển nhất định,

cơ quan quản lý Nhà nước chuyển ngành sử dụng hình thức cấp hạn ngạch, theo đó

thông qua việc xác định trị giá hải quan Nhà nước thực hiện được mục đích quản lý

hạn ngạch.

- Mục đích xử phạt vi phạm các quy định về Hải quan: Trong quá trình thực

hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thường xảy ra việc vi phạm các quy

định về Hải quan như vi phạm các quy định về thủ tục Hải quan, về kiểm tra, giám

sát Hải quan, về chính sách quản lý mặt hàng…, và xét về mặt nguyên tắc các hành

vi vi phạm đó đều phải xử phạt theo quy định của pháp luật hiện hành, trong đó trị

giá hải quan cũng là một trong những căn cứ để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

quyết định hình thức và mức độ xử phạt đối với các hành vi vi phạm về Hải quan.

- V.v…

7

Ở Việt Nam hiện nay, trị giá hải quan được sử dụng phục vụ cho mục đích

tính thuế và mục đích thống kê là chủ yếu. Đây là một nội dung mới so với các quy

định về trị giá của Việt Nam trước đây và bắt đầu áp dụng từ 01/01/2006. Trước đó,

khi đề cập đến trị giá hải quan, người ta chỉ đề cập đến trị giá phục vụ mục đích tính

thuế (trị giá tính thuế) mà không có quy định cụ thuế về cách thức xác định trị giá

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu sử dụng trong lĩnh vực thống kê hải quan.

1.2. Các phương pháp xác định trị giá hải quan

Trên thế giới đã tồn tại rất nhiều hệ thống (phương pháp) xác định trị giá Hải

quan, chẳng hạn:

- Giá thị trường trong các nước hiện hành, đây là phương pháp do Anh đưa

ra vào đầu Thế kỷ XX và được coi là bảo hộ hàng hóa được sản xuất tại Anh và bán

tại các nước thuộc địa. Trị giá tính thuế dựa trên giá bán buôn tại thị trường nước

xuất khẩu. Hệ thống xác định trị giá này được các nước thuộc “đế quốc Anh” áp

dụng, gồm Canada, Úc, Nam Phi và Newzelannd cũng áp dụng phương pháp này

đến ngày 01/07/1982, trước khi Hiệp định Trị giá GATT/WTO được áp dụng.

- Giá thị trường hợp lý, phương pháp này tương tự giá trị thị trường trong

nước hiện hành nhưng nó mang tính linh hoạt hơn trong việc xác định giá nào được

coi là giá thị trường hợp lý và quy định về việc tính trị giá trong cơ quan Hải quan

có thẩm quyền đáng kể. Phương pháp này chủ yếu được áp dụng ở khu vực Thái

Bình Dương mà điển hình là Philippin.

- Hệ thống giá bán của Mỹ, đây là một phương pháp xác định trị giá được áp

dụng đối với số lượng hạn chế các loại hàng hóa nhập khẩu. Trị giá Hải quan dựa

trên sản phẩm cạnh tranh tại Mỹ. Nhà sản xuất trong nước gián tiếp kiểm soát trị giá

được áp dụng cho hàng hóa của đối thủ cạnh tranh của mình.

- Định nghĩa Brussels về trị giá, đây là một phương pháp xác định trị giá

được xây dựng và áp dụng bởi khoảng 30 nước vào những năm 1950 chủ yếu ở

châu Âu trước khi có Hiệp định GATT/WTO. Định nghĩa Brussels quy định trị giá

Hải quan là giá thông thường của hàng hóa đang xác định trị giá. Giá thông thường

này phải được xem xét trong điều kiện cạnh tranh đầy đủ, và có xét đến thời gian

8

bán hàng, địa điểm bán hàng và số lượng, cấp độ thương mại của giao dịch bán

hàng.

- Phương pháp dùng giá tối thiểu, theo phương pháp này cơ quan Hải quan

đưa ra giá tối thiểu cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu mà không phản ánh giá

thực tế của hàng hóa đó. Phương pháp này được áp dụng rất phổ biến ở các nước

kém phát triển vì phương pháp này dễ thực hiện và thu được nhiều thuế. Cơ sở để

ấn định giá tối thiểu thiếu tính khoa học do vậy tao ra những hành vi ứng xử không

tốt của cơ quan Hải quan và nhà nhập khẩu.

- Phương pháp xác định trị giá theo “Giá thực tế”, phương pháp này được áp

dụng ở một số nước kém phát triển ở châu Á. Trị giá Hải quan được dựa trên giá

bán buôn của hàng hóa nhập khẩu khi được bán ở nước nhập khẩu trừ đi 15%. Điều

này có nghĩa là thuế được tính theo trị giá được xác lập tại nước nhập khẩu sau khi

hàng hóa đã được nhập khẩu. Điều này gây khó khăn cho cơ quan Hải quan, khi

một bộ hồ sơ về những giá được chấp nhận trước đó đang được lưu giữ cho phép

nhà nhập khẩu khai báo “Giá thực tế”. Thuế Hải quan được tính trên trị giá đã bao

gồm cả các khoản phí Hải quan và được tính vào giá bán buôn. Giống như phương

pháp dùng giá tối thiểu, phương pháp này cũng tạo ra những hành vi ứng xử không

tốt của cơ quan Hải quan và nhà nhập khẩu.

- Phương pháp xác định trị giá Hải quan theo giá CIF đối với hàng nhập khẩu

{giá CIF = Chi phí mua hàng (C) + Bảo hiểm (I) + Cước phí (F)} và giá FOB đối

với hàng xuất khẩu {giá FOB chính là chi phí mua hàng (C)}.

- Xác định trị giá theo GATT (theo trị giá giao dịch) là giá thực tế đã thanh

toán hoặc sẽ phải thanh toán cho lô hàng nhập khẩu.

1.3. Hiệp định xác định trị giá tính thuế hải quan của WTO

Đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu nhận thức rõ ràng

hơn những nhược điểm của các hệ thống xác định trị giá. Từ những năm 1973 đến

1979, các nước trên thế giới bắt đầu một loạt các cuộc đàm phán mới nhằm đạt

được những thuận lợi trong mở rộng và tự do hóa thương mại quốc tế. Vấn đề xác

định trị giá Hải quan được đặt ra như một trở ngại quan trọng của tiến trình này.

9

Vòng đàm phán này được gọi là Vòng đàm pháp Tokyo, mà kết quả của nó là một

Hiệp định mới về xác định trị giá Hải quan ra đời vào năm 1981.

Năm 1994, Vòng đàm phán Uruguay kết thúc với kết quả là Hiệp định thành

lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đi kèm với việc thành lập Tổ chức thương

mại thế giới là một loạt các Hiệp định chung về nhiều lĩnh vực như thủ tục Hải

quan, quản lý xuất xứ hàng hóa, phân loại và xác định mã số hàng hóa, trị giá Hải

quan của hàng hóa, v.v… ra đời.

Hiệp định về trị giá Hải quan của hàng hóa có tên đầy đủ là Hiệp định về

thực hiện Điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT/WTO

1994, hay còn gọi là Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO. Đối với các nước

thành viên Tổ chức thương mại thế giới, Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO

buộc phải được áp dụng. Đối với những nước muốn trở thành thành viên thì Hiệp

định trở thành một trong những điều kiện tiên quyết đưa ra trong các cuộc đàm phán

đa phương.

Kết cấu và nội dung cơ bản của Hiệp định trị giá GATT/WTO:

Kết cấu của Hiệp định gồm có 24 điều, được chia làm 4 phần, ngoài ra Hiệp

định còn kèm theo 3 Phụ lục và 1 Nghị định thư, cũng được công nhận là phần gắn

liền với Hiệp định. Cụ thể:

Phần thứ nhất: Các quy tắc xác định trị giá, từ Điều 1 đến Điều 17. Phần này

nêu lên 6 phương pháp xác định trị giá Hải quan, được xếp theo trật tự ưu tiên:

- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu.

- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng giống hệt nhập khẩu

- Phương pháp trị giá giao dịch của hàng tương tự nhập khẩu.

- Phương pháp trị giá khấu trừ.

- Phương pháp trị giá tính toán.

- Phương pháp dự phòng.

Phần thứ hai: phần thực hiện Hiệp định, boa gồm cả tư vấn và giải quyết

tranh chấp, từ Điều 18 đến Điều 19.

10

Hiệp định có hai Ủy ban: Ủy ban xác định trị giá Hải quan và Ủy ban kỹ

thuật xác định trị giá Hải quan.

Ủy ban trị giá Hải quan (gọi tắt là Ủy ban) hoạt động dưới sự bảo trợ của

WTO, bao gồm các đại diện của các nước thành viên tham gia Hiệp định, trụ sở của

Hội đồng đóng tại Geneve (Thụy Sỹ). Ủy ban bầu ra Chủ tịch từng nhiệm kỳ và tổ

chức các cuộc họp dưới sự bảo trợ của WTO nhằm tạo ra những cơ hội giúp đỡ các

nước thành viên về những vấn đề liên quan đến công việc xác định trị giá Hải quan

của mỗi nước, nhằm bảo vệ và khuyến khích chính sách thương mại quốc tế phát

triển. Mặt khác, Ủy ban này có thể tác động tới quá trình tham gia thực hiện Hiệp

định cũng như có thể biết được thời điểm ấn định để tham gia của các thành viên.

Tại kỳ họp thứ nhất vào tháng 01/1981, Ủy ban Trị giá đã chấp thuận vị trí

quan sát viên thường trực của Hội đồng Hợp tác Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan

Thế giới) và chức năng, nhiệm vụ đặc biệt của Hội đồng Hợp tác Hải quan do Hiệp

định quy định.

Ủy ban Kỹ thuật xác định Trị giá Hải quan (gọi tắt là Ủy ban kỹ thuật) dưới

sự bảo trợ của WCO, có trụ sở đóng tại Brussels (Bỉ). Ủy ban Kỹ thuật xác định trị

giá Hải quan này bao gồm đại diện Hải quan của các nước đã tham gia ký kết Hiệp

định cũng như của các nước đã tham gia ký kết Hiệp định cũng như của các quan

sát viên và các Tổ chức thương mại Liên Chính phủ. Tại Phụ lục II của Hiệp định

đã nêu rõ Ủy ban Kỹ thuật này được thành lập nhằm đạt được sự đồng nhất trong

việc hướng dẫn, giải thích và áp dụng Hiệp định về mặt kỹ thuật xác định trị giá.

Phần thứ ba: Các xử lý đặc biệt.

Phần II của Hiệp định chỉ có 1 điều (Điều 20) với mục đích cải tiến các

phương pháp xác định trị giá hòa hợp với việc xử lý hàng hóa nhập khẩu công bằng,

bảo vệ lợi ích thương mại cho các nước đang phát triển. Với quy định của Hiệp định

về việc “xử lý khác biệt và xử lý đặc biệt” đối với các nước đang phát triển khi

tham gia Hiệp định thì có thể được tạm hoãn áp dụng các điều khoản của Hiệp định

trong vòng 5 năm và hoãn thực hiện một số quy tắc đặc biệt thêm khoảng 3 năm

nữa (ví dụ có thẻ chậm áp dụng đoạn 2(b)(iv) của Điều 1 và Điều 6).

11

Đồng thời Hiệp định cũng nhất trí rằng các nước đang phát triển có thể nhận

trợ giúp về kỹ thuật trên các mặt:

- Đào tạo cán bộ;

- Trợ giúp các mặt trong quá trình tham gia;

- Trợ giúp thông tin;

- Tư vấn về việc áp dụng các điều khoản của Hiệp định ..v.v..

Phần thứ tư: Các điều khoản cuối cùng

Phần này gồm các điều từ Điều 21 đến Điều 24, quy định các khoản về bảo

lưu, luật pháp quốc gia, kiểm tra lại và Ban thư ký của Hiêp định.

Các Phụ lục và Nghị định thư:

Phụ lục I: Các chú giải từng điều khoản trong Hiệp định.

Phụ lục II: Quy định hoạt động của Ủy ban kỹ thuật về xác định Trị giá Hải

quan.

Phụ lục II: Quy định về quyền bảo lưu.

Nghị định thư: Quy định các điều khoản có liên quan đến các vấn đề đặc biệt

và những yêu cầu đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì để triển khai

thực hiện Hiệp định, nếu chỉ để một văn bản duy nhất về Điều VII của GATT thì

các nước đang phát triển sẽ gặp một số khó khăn. Do vậy, cần phải có một Nghị

định thư đưa ra một số điều khoản đặc biệt để tạo điều kiện cho các nước đang phát

triển như:

- Bỏ điều khoản về trị giá kiểm tra trước.

- Có thể mở rộng phạm vi 5 năm bảo lưu áp dụng Hiệp định.

- Có thể sử dụng bảng giá tối thiểu trên cơ sở hạn chế theo một số điều kiện

nhất định.

- Có thể đảo lộn trình tự áp dụng Điều 4.

- Có thể bảo lưu sử dụng phương pháp khấu trừ.

- Nghiên cứu các vấn đề đại lý bán hàng duy nhất, đại lý phân phối và các

đại lý chuyển nhượng.

- Các quyền hạn của cơ quan Hải quan.

12

- Các giải thích về giá thực tế đã thanh toán hoặc sẽ phải thanh toán.

Nghị định thư đã được các bên ký kết quy định rằng: Khi Hiệp định có hiệu

lực thì các điều khoản của Nghị định thư sẽ được coi như là bộ phận của Hiệp định.

Mục đích của Hiệp định:

Hiệp định trị giá GATT/WTO ra đời tạo ra một chuẩn mực trong việc xác

định trị giá Hải quan với những mục đích cụ thể như sau:

- Tạo ra hệ thống xác định trị giá Hải quan ổn định, công bằng phù hợp với

thực tế thương mại.

- Tạo ra chuẩn mực đơn giản, khách quan, đồng nhất cho tất cả các nước

thành viên.

- Loại trừ việc sử dụng trị giá Hải quan tùy tiện áp đặt.

- Xúc tiến các mục tiêu của Hiệp định chung về thuế và thương mại.

- Xóa bỏ việc coi trị giá Hải quan là công cụ để điều tiết xuất nhập khẩu.

Nguyên tắc của Hiệp định khi xác định Trị giá Hải quan.

- Hệ thống xác định trị giá của hàng hóa nhập khẩu theo mục đích Hải quan

phải hợp lý, thống nhất và độc lập, hệ thống đó phải loại bỏ việc sử dụng trị giá Hải

quan áp đặt hay hư cấu. Điều này cũng có nghĩa là quy trình xác định trị giá không

được sử dụng để làm hàng rào phi thuế quan đối với thương mại. Một trong những

mục tiêu có tính nguyên tắc của WTO là loại bỏ các biện pháp này.

- Cơ sở để xác định trị giá của hàng hóa nhập khẩu theo mục đích Hải quan

phải là trị giá giao dịch, với nghĩa rộng nhất trong chừng mực có thể. Nói một cách

đơn giản nhất, trị giá giao dịch được định nghĩa là giá thực tế đã thanh toán hay sẽ

phải thanh toán cho hàng nhập khẩu cộng thêm với các khoản điều chỉnh. Trị giá

giao dịch được coi là phương pháp chủ yếu để xác định trị giá theo Hiệp định này.

Trị giá giao dịch cho phép các doanh nghiệp dự đoán chính xác số thuế phải nộp đối

với hàng nhập khẩu của họ. Hơn nữa, trị giá giao dịch còn đảm bảo một mức độ

chắc chắn cho các doanh nghiệp, bởi vì trị giá Hải quan của hàng nhập khẩu trước

hết sẽ dựa trên giá thỏa thuận giữa người mua và người bán.

13

Trị giá Hải quan phải được xác định dựa trên những tiêu chí đơn giản bình

đẳng và nhất quán với các thông lệ thương mại. Mặt khác, thủ tục áp dụng trị giá

cần được áp dụng chung không phân biệt nguồn cung cấp. Việc áp dụng một trong

sáu phương pháp đã nêu phải phù hợp với các thông lệ thương mại. Việc áp dụng

Hiệp định này được thực hiện đối với tất cả các nước không phân biệt nước xuất

khẩu có phải là bên ký kết của Hiệp định hay không. Không có bất cứ sự phân biệt

nào giã những người xuất khẩu hay giữa các sản phẩm. Thông qua việc áp dụng các

nguyên tắc này, Hiệp định trị giá được kỳ vọng là sẽ tạo thuận lợi cho thương mại

quốc tế.

- Thủ tục xác định trị giá không được sử dụng để chống phá giá. Biện pháp

chống phá giá đúng đắn phải áp dụng luật về chống phá giá. Việc tùy ý nâng trị giá

tính thuế lên để tăng nguồn thu thuế nhập khẩu theo Hiệp định này là không được

phép. Không được từ chối giá thỏa thuận giữa người mua với người bán chỉ vì lý do

đơn giản: giá đó được coi là “quá thấp”.

- Theo Hiệp định này, trị giá Hải quan cần được xác định căn cứ vào các dữ

liệu và thông lệ thương mại xung quanh việc bán hàng/giao dịch đó. Mọi thông tin

liên quan đễn xác định trị giá hàng nhập khẩu cần được tuyển chọn hoặc thu thập

thông qua phản ánh của các thông lệ thương mại. Cùng với việc tham khảo Chú giải

tổng quát của Hiệp định, Hải quan của mỗi nước tham gia Hiệp định sẽ sử dụng các

thông tin được chuẩn bị một cách nhất quán với các nguyên tắc kế toán phổ biến đã

được chấp nhận (GAAP). Những thông tin sẽ được sử dụng, chẳng hạn như để xác

định các khoản điều chỉnh theo trị giá giao dịch (các khoản trợ giúp), xác định lợi

nhuận thường xuyên và khoản chi phí chung theo phương pháp trị giá suy diễn và

xác định các chi phí nguyên vật liệu, bán thành phẩm, lợi nhuận và chi phí chung

theo phương pháp trị giá tính toán. Những thông tin này phải được chuẩn bị dựa

trên hệ thống chuẩn mực kế toán đã được chấp nhận ở nước nhập khẩu.

Để thực hiện vấn đề này các nước tham gia Hiệp định sẽ sử dụng các thông

tin được chuẩn bị một cách nhất quán với các nguyên tắc kế toán phổ biến đã được

14

chấp nhận ở nước mình. Các thông tin đó thích hợp với các điều khoản đang được

đề cập đến trong Hiệp định.

Điều 8.3 của Hiệp định quy định rằng các khoản cộng thêm vào giá thực tế

đã thanh toán hay se phải thanh toán được thực hiện theo Điều 8 phải căn cứ vào

các dữ liệu khách quan và có thể định lượng được. Điều này có nghĩa là khoản cộng

thêm phải hoàn toàn căn cứ vào các yếu tố cụ thể, không có sự suy diễn các nhân,

các yếu tố đó phải được xác định bằng các con số thực tế. Các số liệu đó không

được dựa trên những phán đoán ước lượng hay kinh nghiệm cá nhân. Quy định này

nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất Hiệp định và loại bỏ việc áp dụng tùy tiện

của Hải quan trước đây. Trong trường hợp thiếu những dữ liệu đó thì các khoản chi

phí cộng thêm sẽ không được tính đến.

Các phương pháp xác định Trị giá Hải quan của Hiệp định

GATT/WTO.

Hiệp định quy định có 6 phương pháp xác định trị giá Hải quan:

- Phương pháp 1: Trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu (Transaction

Value).

- Phương pháp 2: Trị giá giao dịch của hàng hóa giống hệt nhập khẩu

(Identical Goods).

- Phương pháp 3: Trị giá giao dịch của hàng hóa tương tự nhập khẩu (Similar

Goods).

- Phương pháp 4: Trị giá khấu trừ (Deductive Method).

- Phương pháp 5: Trị giá tính toán (Computer Method).

- Phương pháp 6: Phương pháp suy diễn, hay gọi là phương pháp dự phòng

(Fall-back Method).

Các phương pháp này được áp dụng theo trình tự bắt buộc từ phương pháp

thứ nhất đến phương pháp thứ sau. Nếu không thể xác định trị giá tính thuế theo

phương pháp thứ nhất thì phải áp dụng phương pháp thứ hai; Nếu không thể xác

định trị giá tính thuế theo phương pháp thé hai thì phải áp dụng phương pháp thứ

ba, và cứ như vậy, cho đến phương pháp cuối cùng. Tuy nhiên, cũng có một ngoại

15

lệ trong trình tự áp dụng, đó là phương phá thứ tư Trị giá khấu trừ (Deductive

Method) và phương pháp thứ Năm Trị giá tính toán (Computer Method) có thể hoán

đổi vị trí cho nhau. Sở dĩ có thể hoán đổi, bởi việc tính toán, xác định trị giá tính

thuế theo hai phương pháp này hầu hết dựa vào các tài liệu, số liệu, bằng chứng của

doanh nghiệp. Khi đó, chính doanh nghiệp là người biết rõ nhất có thể xác định trị

giá theo phương pháp nào trong số hai phương pháp đó, để đề nghị cơ quan Hải

quan áp dụng phương pháp thích hợp.

1.4. Sự cần thiết phải quản lý trị giá hải quan.

1.4.1. Gian lận thương mại qua trị giá hải quan.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, cùng với xu hướng hội nhập

kinh tế thế giới, gian lận trị giá hải quan ngày càng phát triển cả về số lượng và chất

lượng. Đây được coi là một điểm yếu của hệ thống quản lý Hải quan ở các nước

đang phát triển nói chung, và ở Việt Nam nói riêng.

Gian lận trị giá hải quan là việc doanh nghiệp khai báo không chính xác trị

giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

để được hưởng những lợi ích không chính đáng.

Gian lận qua trị giá hải quan được chia thành hai dạng:

- Khai báo trị giá hải quan thấp hơn trị giá thực của hàng hóa để trốn thuế

đánh vào hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

- Khai báo trị giá hải quan cao hơn trị giá thực của hàng hóa (thường là hàng

hóa nhập khẩu) để làm tăng vốn đầu tư, từ đó chuyển “lậu” lợi nhuận đầu tư ra nước

ngoài.

Cùng với sự đa dạng của các hình thức kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu

hàng hóa, các hình thức gian lận thương mại qua trị giá hải quan cũng ngày càng

phong phú. Tuy nhiên, có thể tạm phân chia các hình thức gian lận thương mại qua

trị giá hải quan như sau:

- Ngụy tạo chứng từ liên quan đến xác định trị giá:

Doanh nghiệp có hai bộ chứng từ cho một đối tượng hàng hóa. Trong đó,

một bộ chứng từ thể hiện chính xác trị giá thực của lô hàng, và bộ chứng từ còn lại

16

thể hiện trị giá “giả mạo” của hàng hóa. Ví dụ như lô hàng có hai hóa đơn (Invoice),

hai vận đơn (Bill of lading - B/L), hai phiếu đóng gói (Packing list)…

Cũng có trường hợp, doanh nghiệp chỉ có một bộ chứng từ của hàng hóa

nhưng thực chất các chứng từ đó chỉ thể hiện một trị giá không thực. Còn trị giá

thực của lô hàng không được lập thành chứng từ cụ thể. Tình huống này thường chỉ

xảy ra khi giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu đã có sự cấu kết, hỗ trợ lẫn

nhau, đặc biệt là khi giữa hai bên có mối quan hệ đặc biệt.

- Thủ tiêu hoặc từ chối cung cấp các chứng từ liên quan đến xác định trị giá:

Chứng từ là những bằng chứng quan trọng xác lập trị giá thực tế của lô hàng

nhập khẩu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp khi xác định trị giá hải quan, người

nhập khẩu không xuất trình, thậm chí thủ tiêu các chứng từ cần thiết để cơ quan Hải

quan không thể kiểm tra hay xác định đúng trị giá của hàng hóa. Ví dụ trường hợp

xác định trị giá bằng phương pháp khấu trừ, người nhập khẩu không xuất trình hóa

đơn bán lại lô hàng tại thị trường trong nước.

- Sử dụng các chứng từ “Dành riêng cho Hải quan” (For Customs purpose

only):

Chứng từ “Dành riêng cho Hải quan” thường xuất hiện trong các trường hợp

nhập khẩu mà người nhập khẩu và người xuất khẩu có quan hệ đặc biệt với nhau,

giữa công ty mẹ và công ty con. Tức là công ty mẹ gửi hàng cho công ty con, không

xảy ra giao dịch mua hàng. Về nguyên tắc, đối với những trường hợp như vậy thì

không được sử dụng phương pháp trị giá giao dịch. Nhưng để “tận dụng cơ hội”,

công ty mẹ có thể xuất một hóa đơn “dành riêng cho khai Hải quan”. Công ty con

sử dụng chính hóa đơn đó để làm thủ tục và khai báo trị giá hải quan của lô hàng.

Sự gia tăng cả về số lượng lẫn tính phức tạp của các hành vi gian lận trị giá

Hải quan đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế, đến sự ổn định của

xã hội cũng như chính trị.

1.4.2. Sự cần thiết phải chống gian lận trị giá hải quan.

Để nhận thức rõ sự cần thiết phải chống sự gian lận trị giá hải quan, trước hết

ta cần phải làm rõ những ảnh hưởng tiêu cực của gian lận trị giá hải quan đến nền

17

kinh tế, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội và hiệu quả quản lý kinh tế xã hội.

Từ đó, chứng minh sự cần thiết và cấp bách phải chống gian lận trị giá hải quan

trong giai đoạn hiện nay.

1.4.2.1. Ảnh hưởng đến nền kinh tế

Gian lận trị giá hải quan nói riêng hay gian lận thương mại nói chung có ảnh

hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế, những thành tựu của công cuộc đổi mới mà đất

nước đang tiến hành. Gian lận trị giá hải quan góp phần tăng nguy cơ kìm hãm tốc

độ phát triển của nền kinh tế, tạo thành một lực cản lớn đối với quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Hàng hoá nhập khẩu bị gian lận về trị giá dẫn đến gian lận về thuế, sẽ làm

mất tính cân bằng trong cạnh tranh thương mại giữa hàng nội và hàng ngoại, đồng

thời làm thất thu thuế xuất, nhập khẩu và các sắc thuế khác khác gây ảnh hưởng đến

quá trình cân đối thu - chi ngân sách của Nhà nước, làm thất thoát ngoại tệ mạnh ra

ngoài biên giới. Thuế quan đánh trên hàng hoá xuất, nhập khẩu, nhằm mục đích làm

tăng giá của hàng nhập khẩu, bảo vệ và kích thích sản xuất nội địa. Vì vậy, hàng

nhập gian lận trị giá (gian lận thuế, trốn thuế) đã phá vỡ cạnh tranh lành mạnh giữa

hàng nội và hàng ngoại nhập.

1.4.2.2. Ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội

Những hậu quả do gian lận trị giá hải quan gây ra đối với nền kinh tế và đối

với nền văn hoá xã hội đã dẫn đến những tác hại về mặt chính trị, gây khó khăn cho

sự quản lý Nhà nước. Hàng gian lận thuế làm cho thị trường hỗn loạn, đời sống kinh

tế của một bộ phận nhân dân gặp khó khăn, tệ nạn xã hội phát triển; công bằng, văn

minh xã hội không được thiết lập; nhà nước thất thu thuế nên không cân đối được

thu - chi ngân sách, một số quỹ phúc lợi bảo hiểm xã hội bị giảm sút….

Gian lận trị giá hải quan vì những khoản lợi nhuận khổng lồ từ việc trốn thuế

đã bất chấp pháp luật, bất chấp chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước với

những thủ đoạn tinh vi để thu lợi nhuận bất chính. Những khoản lợi nhuận này tạo

cho bọn buôn lậu giàu có và ăn chơi sa đoạ, phung phí, trong khi đại bộ phận nhân

dân làm ăn chân chính thì sống khó khăn và nghèo khổ. Chính sự bất công đó đã

18

làm nảy sinh tâm lý coi thường pháp luật, coi thường Nhà nước, kèm theo khủng

hoảng cả hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Một trong những hậu quả nữa của buôn lậu gây ra về mặt chính trị là tác hại

của nó đối với chủ quyền và an ninh quốc gia. Ngày nay, hoà bình, hợp tác để phát

triển đang trở thành xu hướng của thời đại, sức mạnh quân sự đang được thay thế

bằng sức mạnh kinh tế. Với ưu thế về kinh tế khoa học, kỹ thuật, các nước tư bản

phát triển đã và đang thực hiện chiến lược “biên giới mềm” đẩy thế giới vào cuộc

chiến tranh không có khói lửa - chiến tranh kinh tế. Kinh tế thị trường là giải pháp

hữu hiệu để tăng trưởng kinh tế, nên các nước chậm phát triển đều có xu hướng

phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ với nước ngoài để thu hút vốn và

khoa học kỹ thuật tiên tiến. Với chính sách mở cửa thì cuộc chiến tranh giành thị

trường nổ ra không kém phần gay go so với các hình thức chiến tranh khác.

Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa với hình thức xâm lăng mới, đó là “diễn biến

hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”, hàng hoá đến đâu là biên giới đến đó -

dần dần các nước chậm phát triển từng bước phụ thuộc vào kinh tế và cuối cùng

phải phụ thuộc vào chính trị. Trên thực tế, biên giới nhiều quốc gia vẫn còn nguyên

vẹn, bộ máy nhà nước vẫn do những cán bộ trong nước điều hành, nhưng thực chất

độc lập, chủ quyền lãnh thổ bị mất. Vì vậy, bảo vệ an ninh biên giới không chỉ là

việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mà thực chất là bảo vệ các tiềm năng - yếu tố cơ

bản của phát triển kinh tế. Bảo vệ an ninh quốc gia góp phần bảo vệ vững chắc

nguồn nhân lực, vật lực, tài lực là phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự

vững chắc của chế độ chính trị.

1.4.2.3. Ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý kinh tế xã hội

Hơn thế nữa, gian lận trị giá hải quan còn gây ra những hậu quả nghiêm

trọng đối nền kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị, đây là những hậu quả trực tiếp dễ

nhìn nhận. Một hậu quả khác không kém phần nguy hại là hậu quả của gian lận trị

giá hải quan và gian lận thương mại nói chung dưới góc độ cả về vĩ mô và vi mô.

Nó làm cho cơ quan quản lý nhà nước không kiểm soát được tình hình xuất nhập

19

khẩu và liên doanh đầu tư với ngoài; công tác điều hành của cơ quan chức năng gặp

nhiều khó khăn và hoạt động kém hiệu quả.

Xét về góc độ quản lý vĩ mô, gian lận thương mại là một trong những nguyên

nhân làm hàng hoá nội địa bị đình trệ trong khâu phân phối và tiêu dùng, sản xuất

trong nước bị đình đốn. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa không cạnh tranh

nổi trên thị trường, nợ nần chồng chất dẫn đến phá sản, kéo theo sự gia tăng của đội

quân thất nghiệp. Gian lận thương mại còn là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp

dẫn đến dẫn đến các tệ nạn xã hội, đó là tham nhũng, tha hoá, rượu chè, cờ bạc,

trộm cắp…. Do đó, nó làm cho công tác quản lý của Nhà nước thêm khó khăn, phức

tạp. Mặt khác, gian lận thương mại trực tiếp dẫn đến thất thu về thuế xuất, nhập

khẩu và các sắc thuế khác, đây là khoản thu lớn của ngân sách nhà nước. Điều này

ảnh hưởng đến các kế hoạch về kinh tế, tài chính khiến nhà nước mất cân đối về thu

- chi ngân sách. Gian lận thương mại còn phá vỡ sự bình ổn của thị trường, tạo nên

cơn sốt về hàng hoá và giá cả làm cho nhà nước không quản lý được hoạt động xuất

nhập khẩu; việc hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội bị sai lệch…

Những hậu quả của gian lận thương mại đối với quản lý vĩ mô đã trực tiếp và

gián tiếp ảnh hưởng đến quản lý vi mô. Hệ thống pháp luật của ta về quản lý hoạt

động xuất nhập khẩu còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nếu không nói là chồng chéo,

mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, những chủ thể gian lận thương mại đã lợi dụng kẽ

hở, những quy định thiếu chặt chẽ của Nhà nước để thực hiện hành vi gian lận trốn

thuế. Từ đó việc quản lý của cơ quan nhà nước ở cơ sở gặp nhiều khó khăn do sự

lũng đoạn thị trường của hàng ngoại. Giải pháp đấu tranh chống gian lận thương

mại, tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của các ngành chức năng vẫn chưa

được giải quyết tận gốc.

Cũng dưới góc độ quản lý, trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hàng ngoại

nhập với lợi thế về giá rẻ hơn hàng nội do trốn được thuế, chất lượng tốt, mẫu mã

đẹp nên được tiêu thụ mạnh, tạo nên tâm lý ưa dùng hàng ngoại (như hàng điện tử,

gia dụng…) trong nhân dân. Nhưng do nguồn cung hàng hóa, giá cả không ổn định

20

nên gian lận trị giá hải quan cũng là một trong những nguyên nhân gây nên những

cơn sốt về giá cả hàng hoá làm cho thị trường nội địa không thiết lập, lưu thông

hàng hoá bị rối loạn và gây ách tắc cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.

Tóm lại, những ảnh hưởng tiêu cực của gian lận trị giá hải quan: Làm mất ổn

định giá cả thị trường, kìm hãm sản xuất trong nước, ảnh hưởng đến môi trường đầu

tư, gây thất thu cho ngân sách cho Nhà nước, tạo nên sự cạnh tranh không bình

đẳng giữa hàng nội và hàng ngoại, là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực trong xã

hội. Vì vậy, việc phòng chống gian lận trị giá hải quan phải được giải quyết triệt để

và là một trong những nhiệm vụ xung yếu của ngành Hải quan hiện nay.

1.5. Lịch sử xác định trị giá Hải quan ở Việt Nam.

Từ năm 1987 trở về trước, hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu là

hàng viện trợ và hàng đối lưu trong khối SEV, không có thuế nhập khẩu. Vì vậy,

thời kỳ này chưa tồn tại nhu cầu xác định giá tính thuế cho hàng nhập khẩu.

Từ năm 1987, Việt Nam bắt đầu có sự giao lưu thương mại quốc tế nên yêu

cầu về việc tính thuế nhập khẩu cho hàng hóa bắt đầu xuất hiện, thể hiện ở việc

Quốc hội ban hành Luật Thuế xuất nhập khẩu mậu dịch, Biểu thuế cho hàng hóa

xuất nhập khẩu trong khối SEV.

Ban đầu, hàng hóa xuất nhập khẩu mậu dịch ít, chủ yếu chỉ là những loại

hàng hóa do những người đi học tập, công tác ở nước ngoài mang về. Khi đó, Bộ

Tài chính đã tiến hành xây dựng một bảng giá chung, trong đó có những mặt hàng

thường gặp, làm cơ sở cho việc tính thuế. Bảng giá đầu tiên do Bộ Tài chính và Bộ

Công thương (lúc đó có tên là Bộ Thương mại và Du lịch ban hành sử dụng trong

giai đoạn năm 1990-1991).

Năm 1991, do nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, Luật

Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lần đầu tiên chính thức ra đời, có hiệu lực thi hành

từ tháng 4/1992, đánh dấu một bước ngoặt mới trong việc đánh thuế hàng hóa xuất

nhập khẩu nói chung, và hoạt động quản lý giá nói riêng. Đồng thời, tại thời điểm

năm 1991, Danh mục Biểu thuế theo Công ước HS cũng được thực hiện do ngày

21

06/03/1998, Chủ tich nước đã ký Quyết định số 49/QĐ/CTN công bố Việt Nam

chính thức tham gia Công ước HS.

Tại khoản 2, Điều 7, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 quy

định:

- Đối với hàng xuất khẩu, là giá bán tại cửa khẩu xuất, theo hợp đồng.

- Đối với hàng nhập khẩu, là giá mua tại cửa khẩu nhập, kể cả chi phí vận tải,

phí bảo hiểm, theo hợp đồng.

Trong trường hợp hàng xuất khẩu, nhập khẩu theo phương thức khác hoặc

giá bán ghi trên hợp đồng quá thấp so với giá mua, bán thực tế tại cửa khẩu thì giá

tính thuế là giá do Hội đồng bộ trưởng quy định.

Từ quy định trên, các bảng giá tối thiểu lần lượt được xây dựng, là Bảng giá

719 (năm 1993), Bảng giá 624 (năm 1994), Bảng giá 353 (Năm 1994 – Dành riêng

cho hàng phi mậu dịch), Bảng giá 1187/TC/TCT (ngày 18/12/1995), Bảng giá

975/QĐ/TC/TCT (ngày 29/10/1996), Bảng giá 918/QĐ/TC/TCT (ngày

11/11/1997), Bảng giá 590A/QĐ/TC/TCT (ngày 29/04/1998), Bảng giá

68/1998/TC/TCT (ngày 01/07/2000), Bảng giá 164/2000/TC/TCT (ngày

10/10/2000) và Bảng giá 164/2002/TC/TCHQ (ngày 27/12/2002). Bảng giá

164/2002/TC/TCHQ là bảng giá tối thiểu cuối cùng, chính thức chấm dứt hiệu lực

thi hành ngày 31/08/2004, khi Thông tư 87/2004/TT/BTC ra đời, quy định hệ thống

xác định trị giá mới cho hàng hóa nhập khẩu dựa trên hai phương pháp cơ bản như

hiện nay.

Về xác định trị giá tính thuế theo giá tối thiểu, ban đầu, nó chỉ được quy định

dưới dạng các quyết định ban hành bảng giá (Quyết định 1187/TC/TCT, Quyết định

975/1998/TC/TCT). Theo các quyết định này, giá tính thuế cho hàng hóa nhập khẩu

sẽ được xác định theo giá hợp đồng nếu giá hợp đồng cao hơn giá tối thiểu trong

bảng giá. Trường hợp giá hợp đồng thấp hơn bảng giá thì giá tính thuế là giá tối

thiểu. Trường hợp hàng nhập khẩu không có trong bảng giá nhưng thuộc nhóm

hàng được nêu trong danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế thì vẫn áp

22

dụng giá hợp đồng. Đối với các lô hàng khác, Hải quan địa phương căn cứ thực tế

xây dựng và ra các quyết định xây dựng giá để bổ sung vào bảng giá.

Kể từ ngày 11/11/1997, sau khi ban hành Thông tư 82/1997/TT/TCT thì cách

xác định trị giá tính thuế mới được đưa lên thành văn bản pháp quy lớn hơn là các

Thông tư. Thông tư 82 được thay thế bởi Thông tư 08/2000/TT-BTC vào năm 2000.

Trong Thông tư 08 đã đưa vào một số khái niệm mới dựa trên Hiệp định Trị giá Hải

quan WTO như “Giá thực phải trả”, “Các khoản điều chỉnh cộng”… nhưng thực

chất đó vẫn là phương pháp xác định trị giá tính thuế theo giá tối thiểu.

Theo đánh giá của các chuyên gia thì trong bối cảnh thương mại chưa mở

rộng, xác định giá tính thuế theo giá tối thiểu là một công cụ quan trọng để ngăn

ngừa và chống gian lận giá, cũng như bảo đảm số thu ổn định cho ngân sách. Khi

dòng hàng hóa lưu chuyển ngày càng tăng lên thì giá tối thiểu mới bộc lộ hết những

nhược điểm lớn, như: không linh hoạt, nhanh chóng lạc hậu do giá cả thị trường

luôn luôn biến động, là “bình phong” che chắn cho hành vi gian lận giá của một bộ

phận doanh nghiệp làm ăn gian dối, v.v…

Việc nghiên cứu về Hiệp định trị giá Hải quan của Việt Nam bắt đầu từ năm

1994 khi trở thành thành viên của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO). Hàng năm

Việt Nam tham gia các phiên họp thường niên của Ủy ban kỹ thuật về xác định trị

giá Hải quan tại Bỉ. Năm 1998, Việt Nam bắt đầu xây dựng lộ trình thực hiện Hiệp

định trị giá Hải quan để phục vụ mục tiêu gia nhập WTO.

Có thể nói, việc soạn thảo các văn bản pháp quy nhằm thực thi Hiệp định là

công việc khó khăn và quan trọng nhất. Bởi tại Điều 22, Hiệp định trị giá GATT

1994 quy định “Luật pháp, quy chế, các quyết định pháp lý và các quy định hành

chính về áp dụng nói chung có quan hệ đến Hiệp định này do các nước nhập khẩu

có liên quan ban hành thì phải phù hợp với Điều 10 của GATT 1994”. Từ những

năm 1999 công tác xây dựng Nghị định về thực hiện trị giá tính thuế Hải quan được

bắt đầu và đến năm 2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày

06/06/2002 Quy định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu

theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và

23

thương mại. Đây là văn bản pháp lý quy định các nguyên tắc xác định trị giá tính

thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo tinh thần cơ bản của Hiệp định trị

giá GATT/WTO. Nghị định đã quy định quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Hải

quan và quyền lợi, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế; đưa ra các phương pháp xác

định trị giá tính thuế được phép áp dụng một cách minh bạch, nhất quán, tạo thuận

lợi cho thương mại; thông qua việc giao cho cơ quan Hải quan quyền xác định,

quyền kiểm tra trị giá tính thuế sẽ bảo vệ nguồn thu cho ngân sách, chông gian lận

thương mại. Bộ tài chính đã ban hành Thông tư 118/2003/TT-BTC ngày

08/12/2003 Hương dẫn Nghị định 60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 của Chính phụ

Quy định về việc xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu theo nguyên

tắc của Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và thương mại.

Đây là văn bản hướng dẫn cấp Bộ bao quát toàn bộ nội dung của Nghị định. Nội

dung trong Thông tư khá đồng bộ, chi tiết, đặc biệt rất có nhiều ví dụ minh họa nên

dễ hiểu và dễ thực hiện.

Tuy nhiên, theo Nghị định 60 và Thông tư 118, đối tượng áp dụng Hiệp định

trị giá còn hẹp, cụ thể chỉ áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có hợp đồng thương

mại, gồm:

- Hàng hóa nhập khẩu của các doanh nghiệp, các bên hợp doanh thuộc đối

tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam;

- Hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khối liên minh

quốc gia mà Việt Nam đã ký kết thực hiện xác định trị giá tính thuế theo nguyên tắc

của Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (do

Bộ Tài chính thông báo); và các hàng hóa nhập khẩu khác theo quyết định của Thủ

tướng Chính phủ.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý trị giá Hải quan cần phải hoàn

thiện các văn bản pháp luật về trị giá Hải quan, nâng cao tính công khai, minh bạch

của các văn bản pháp luật này. Theo đó, Nghị định số 155/2005/NĐ-CP ngày 15

tháng 12 năm 2005 đã ra đời thay thế Nghị định 60/2002/NĐ-CP. Nghị định này

quy định việc xác định trị giá Hải quan nhằm mục đích tính thuế và thống kê đối với

24

hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và áp dụng đối với tất cả hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu. Các nội dung trong Nghị định được hướng dẫn thực hiện cụ thể tại Thông tư

số 113/2005/TT-BTC ngày 15 tháng 12 năm 2005 của Bộ Tài chính về hướng dẫn

thi hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Qua so sánh, đối chiếu Nghị định 155/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm

2006 của Chính phủ quy định việc xác định trị giá Hải quan đối với hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu với Hiệp định trị giá WTO, cho thấy Nghị định 155/2006/NĐ-CP

và Thông tư 113/2005/TT-BTC đã chuyển tải một cách căn bản và khá đầy đủ các

nội dung của Hiệp định trị giá GATT/WTO. Chỉ còn một số ít vấn đề được đề cập

trong Hiệp định nhưng chưa được thể chế hóa vào pháp luật Việt Nam, do điều kiện

năng lực thực tế cũng như khả năng thực hiện của Việt Nam ở thời điểm hiện tại.

Nhưng theo yêu cầu trong đàm phán, WTO đề nghị Việt Nam cần có một số bổ

sung, chỉnh sửa để chuyển thể nguyên bản về đầy đủ nhất nội dung Hiệp định vào

văn bản pháp quy. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ có Công văn số 1791/TTg-

QHQT ngày 06 tháng 11 năm 2006 về việc giao Bộ Tài chính sửa đổi các văn bản

quy phạm pháp luật về trị giá Hải quan, theo nội dung và thời hạn đã cam kết với

WTO, trước ngày 01 tháng 01 năm 2007. Và kết quả là Nghị định số 40/2007/NĐ-

CP ngày 16 tháng 03 năm 2007 của Chính phủ quy định việc xác định trị giá Hải

quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đã ra đời, thay thế Nghị định

155/2006/NĐ-CP. Để thực hiện Nghị định, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư

40/2008/TT-BTC ngày 21 tháng 05 năm 2008 hướng dẫn việc xác định trị giá Hải

quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy nhiên, đến ngày 15 tháng 12 năm

2010 ban hành Thông tư 205/2010/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 40/2007/NĐ-

CP ngày 16 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá hải

quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, theo đó thay thế Thông tư

40/2008/TT-BTC. Như vậy, cùng là hướng dẫn thực hiện Nghị định số

40/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 3 năm 2007 của Chính phủ nhưng trong mỗi thời

kỳ, Bộ Tài chính lại đưa ra cách hiểu và thực hiện khác nhau trong việc xác định trị

giá Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

25

Hoạt động quản lý trị giá hải quan của Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn với

sự thay đổi cơ bản của hệ thống văn bản pháp luật. Các văn bản hướng dẫn ngày

một hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa thủ tục hải quan và phù hợp với các cam

kết quốc tế.

1.6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác quản lý trị giá hải quan.

Hiệu quả là tiêu chí đánh giá mọi hoạt động nói chung và hoạt động quản lý

trị giá hải quan nói riêng. Đánh giá hiệu quả công tác quản lý trị giá hải quan là

công việc khó khăn và phức tạp, bởi lẽ, hoạt động này là hoạt động quản lý Nhà

nước đặc thù. Hoạt động quản lý trị giá hải quan không trực tiếp tạo ra giá trị vật

chất, tuy nhiên lại ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan Hải quan cũng như hoạt

động sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp. Chính vì thế, kết quả của hoạt động

này được đánh giá không chỉ dựa trên các tiêu chí định lượng mà còn dựa trên các

tiêu chí mang tính chất định tính.

Cũng như bất kỳ sự đánh giá một sự vật, hiện tượng nào đó, việc đánh giá

hiệu quả quản lý trị giá hải quan cũng cần có những tiêu chí nhất định. Việc xác

định hệ thống tiêu chí là luận cứ khoa học để đảm bảo cho việc đánh giá được

khách quan và đúng đắn. Xây dựng một hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả

quản lý trị giá hải quan là công việc chưa có tiền lệ. Hơn nữa, bản thân hoạt động

quản lý trị giá hải quan phụ thuộc vào đặc thù của hoạt động xuất nhập khẩu tại

từng địa phương nên đòi hỏi các tiêu chí đánh giá không thể giống nhau. Tuy nhiên,

tác giả bước đầu phác thảo một số tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác quản lý trị giá

hải quan như sau:

1.6.1. Số lượng tờ khai phải kiểm tra trị giá hải quan.

Theo quy định tại Thông tư 163/2009/TT-BTC, doanh nghiệp không phải kê

khai trị giá hải quan đối với một số trường hợp sau:

- Hàng hóa xuất khẩu;

- Hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng mua bán;

- Hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế, xét miễn thuế theo các quy

định hiện hành;

26

- Hàng hóa nhập khẩu theo loại hình nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất

khẩu;

- Hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế;

- Hàng hóa nhập khẩu thuộc loại hình tạm nhập, tái xuất.

Công chức Hải quan được phân công tiến hành kiểm tra trị giá hải quan dựa

trên các thông tin trong bộ hồ sơ Hải quan với thông tin trên tờ khai trị giá.

Công chức Hải quan không phải kiểm tra trị giá hải quan đối với các trường

hợp không phải kê khai trị giá.

Việc xác định số lượng tờ khai phải kiểm tra trị giá là cơ sở để xác định các

công việc mà cơ quan Hải quan phải thực hiện trong quy trình kiểm tra trị giá hải

quan. Từ đó đánh giá được hiệu quả công tác quản lý trị giá hải quan của cơ quan

Hải quan.

1.6.2. Số lượng tờ khai tham vấn giá.

Trong quá trình kiểm tra trị giá hải quan, nếu có nghi vấn giá khai báo của

doanh nghiệp, cơ quan Hải quan thông báo để doanh nghiệp biết cơ sở, căn cứ nghi

vấn mức giá khai báo, phương pháp, mức giá do cơ quan hải quan xác định.

Nếu doanh nghiệp đồng ý với mức giá và phương pháp do cơ quan Hải quan

xác định thì cơ quan Hải quan ra thông báo xác định trị giá và thực hiện ấn định

thuế theo giá đã xác định.

Nếu không đồng ý với mức giá và phương pháp do cơ quan Hải quan xác

định thì doanh nghiệp được quyền yêu cầu cơ quan Hải quan tổ chức tham vấn để

giải trình về cơ sở, phương pháp khai báo trị giá hải quan của mình.

Trong quá trình tham vấn, nếu doanh nghiệp giải trình được về các cơ sơ,

phương pháp khai báo trị giá hải quan của mình, cơ quan Hải quan chấp nhận giá

khai báo của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không đưa ra được các lý do, căn cứ

chứng minh trị giá khai báo là trung thực, cơ quan Hải quan sẽ xác định trị giá.

Tuy việc tổ chức tham vấn hay xác định trị giá hải quan chỉ là một bước

trong quy trình kiểm tra trị giá, nhưng đây là những công việc hết sức phức tạp, đòi

hỏi cơ quan Hải quan phải chuẩn bị các thông tin kỹ lưỡng làm cơ sở kiểm chứng

27

các thông tin mà doanh nghiệp đưa ra khi tham vấn, đồng thời làm căn cứ khi xác

định trị giá khai báo của doanh nghiệp (nếu có).

Hiện nay, Tổng cục Hải quan dựa trên số liệu tham vấn giá là một trong các

chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác quản lý trị giá hải quan.

1.6.3. Số tờ khai phải xác định lại trị giá tính thuế và ấn định thuế.

Xác định lại trị giá tính thuế là việc công chức kiểm tra trị giá tiến hành sau

khi bác bỏ trị giá khai báo trong trường hợp phát hiện có một trong những mâu

thuẫn về thủ tục, hồ sơ; về nguyên tắc và trình tự áp dụng các phương pháp xác định

trị giá tính thuế hoặc thông qua tham vấn giá mà doanh nghiệp không có đủ căn cứ

giải trình các nghi vấn của cơ quan hải quan đưa ra.

Khi xác định lại trị giá, cơ quan hải quan “xây dựng” mức giá phù hợp làm

căn cứ tính toán, ấn định số thuế phải nộp của doanh nghiệp.

Như vậy, xác định lại trị giá khai báo và ấn định thuế được coi như việc phát

hiện và “bắt giữ” các trường hợp gian lận về trị giá hải quan.

Bằng việc đánh giá chỉ tiêu số lượng tờ khai phải xác định lại trị giá và số

thuế ấn định chúng ta sẽ đánh giá được sơ bộ về tình trạng gian lận trị giá bị cơ

quan hải quan phát hiện.

1.7. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý trị giá hải quan tại

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

1.7.1. Những nhân tố thuận lợi

Từ Cục Hải quan Tỉnh đến các Chi cục hải quan đã triển khai được một hệ

thống quản lý công tác giá tính thuế tuân thủ nội dung Hiệp định trị giá GATT phù

hợp với quản lý hiện đại, đang phát triển đúng hướng phù hợp với yêu cầu phát triển

thương mại, hội nhập và hiện đại hóa hải quan.

Các văn bản pháp quy về công tác giá tính thuế, các văn bản hướng dẫn chỉ

đạo công tác giá tính thuế của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan được triển khai kịp

thời, công tác giá ngày càng hoàn thiện.

Hơn nữa, có thể thấy sau khi áp dụng nguyên tắc kiểm tra giá là quản lý rủi

ro về giá căn cứ vào Danh mục quản lý rủi ro hàng nhập khẩu về giá cấp Tổng cục

28

và Danh mục quản lý rủi ro hàng xuất khẩu, nhập khẩu về giá cấp Cục cũng đảm

bảo việc quản lý giá thông thoáng mà vẫn chặt chẽ. Bên cạnh đó, việc triển khai các

văn bản hướng dẫn thực hiện công tác giá từ Cục đến Chi cục thông suốt, kịp thời

và rõ ràng hơn. Các Chi cục cũng đã chú trọng hơn đến việc hướng dẫn, giải đáp

những khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp liên quan đến những quy định mới

về công tác giá. Do đó, việc chấp hành của doanh nghiệp trong khai báo cũng

nghiêm túc hơn, sát với trị giá giao dịch hơn.

Cục Hải quan tỉnh BR-VT đã rất chú trọng đến công tác đào tạo nhằm nâng

cao nhận thức cho đội ngũ làm công tác giá ngay từ khi bắt đầu thực hiện Thông tư

số 205/2010/TT-BTC. Cục Hải quan tỉnh đã nghiêm túc chọn lựa, xây dựng nên

một đội ngũ cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm, được đào tạo đúng chuyên môn

làm công tác giá tại Chi cục, và ra quyết định công khai danh sách các công chức

chuyên trách làm công tác giá. Mỗi khi có sự điều động luân chuyển giữa các đơn vị

trong Cục thì các công chức mới chuyển đến vẫn được đơn vị tiếp nhận phân công

tiếp tục thực hiện nhiệm vụ làm công tác giá. Với việc xây dựng đội ngũ cán bộ

theo hướng chuyên sâu như vậy, công tác giá đã thật sự đạt được những kết quả

nhất định, có sự thống nhất từ trên xuống dưới, tránh được tình trạng mỗi đơn vị

thực hiện một kiểu như trước đây.

Tại Hải quan tỉnh BR-VT, hệ thống máy móc đang được tăng cường, các

phần mềm nghiệp vụ đang được nghiên cứu điều chỉnh. Hải quan tỉnh BR-VT kết

hợp với các chuyên gia thế giới đang xác lập lộ trình đánh giá lại các cơ sở triển

khai phương pháp trị giá hải quan. Các chương trình nghiên cứu, đánh giá bao gồm:

đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến trị giá hải quan, đánh

giá khả năng hiện đại hóa của Hải quan tỉnh BR-VT, đánh giá về nhân sự cũng như

hệ thống tổ chức quản lý của Hải quan tỉnh BR-VT. Sự đầu tư này sẽ mang lại hiệu

quả trong thời gian tới.

Công tác tuyên truyền về trị giá hải quan đang được triển khai mạnh mẽ

thông qua truyền hình, báo Hải quan, website của Cục Hải quan tỉnh BR-VT, công

29

khai các văn bản điều hành cho các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận, tham khảo để

biết và thực hiện.

Hệ thống kiểm tra sau thông quan – một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, là hậu

phương vững chắc cho áp dụng phương pháp trị giá hải quan đang được đầu tư phát

triển mạnh.

1.7.2. Những nhân tố không thuận lợi

1.7.2.1. Từ phía cơ quan hải quan

Theo báo cáo của Phòng Thuế xuất nhập khẩu - Hải quan tỉnh BR-VT trong

thời gian qua, công tác quản lý trị giá hải quan còn gặp một số khó khăn, vướng

mắc là:

+ Công tác quản lý trị giá hải quan tại một số Chi cục chưa được quan tâm

đúng mức nên vẫn còn tình trạng nhiều sai sót lặp đi lặp lại. Bên cạnh đó, các Chi

cục bố trí cán bộ làm công tác giá chưa theo hướng chuyên sâu nên còn có hiện

tượng cán bộ làm công tác giá bị phân công làm công tác khác.

+ Cán bộ làm công tác quản lý trị giá hải quan ở Chi cục chưa chủ động tự

đào tạo, còn phụ thuộc vào chương trình đào tạo của Cục Hải quan tỉnh. Khi được

đào tạo thì tinh thần, thái độ học tập còn chưa nghiêm túc. Kỹ năng tham vấn, cập

nhật các thông tin mới về biến động giá cả trên thị trường quốc tế của một số cán

bộ, công chức tại đơn vị còn bị hạn chế.

+ Việc sử dụng thông tin giá chủ yếu căn cứ vào Hệ thống tra cứu dữ liệu giá

của Tổng cục Hải quan (chương trình GTT01) một phần là do cán bộ công chức

chưa chủ động thu thập thông tin từ nguồn khác một phần là do các thông tin hỗ trợ

công tác giá còn nghèo nàn.

+ Chương trình GTT01 đang trong quá trình hoàn thiện, dẫn tới hay xảy ra

lỗi trong khi chạy, làm ảnh hưởng tới công tác nghiệp vụ. Hệ thống thông tin dữ

liệu tuy đã được nâng cấp, cập nhật kịp thời và đầy đủ hơn trước đây, nhưng một số

trường hợp vẫn còn thiếu thông tin chi tiết để có thể lựa chọn làm lô hàng giống hệt

hoặc tương tự ảnh hưởng đến việc sử dụng làm căn cứ xác định trị giá tính thuế.

30

+ Các văn bản liên quan đến công tác giá còn chậm, chưa kịp thời, hay thay

đổi, một số nội dung còn chồng chéo, không rõ ràng gây khó khăn cho cán bộ thực

hiện. Còn xảy ra tình trạng cùng một Nghị định của Chính phủ mà Bộ Tài chính

hướng dẫn thực hiện bằng hai Thông tư khác nhau trong từng giai đoạn.

Hội nhập quốc tế cũng phát sinh một số loại hình xuất nhập khẩu mới trong

khi hệ thống quy định của pháp luật còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn

thiện, thường xuyên thay đổi cho phù hợp với thực tiễn và hội nhập kinh tế quốc

tế... Tất cả những thực tế đó khiến cho công tác kiểm tra, giám sát, quản lý của Cục

Hải quan tỉnh BR-VT đối mặt với không ít khó khăn, phức tạp.

Thêm vào đó, sự phối hợp của các đơn vị trong ngành còn chưa thống nhất:

Kiểm tra sau thông quan trong lĩnh vực giá nói riêng cần phải tiến hành một số hoạt

động điều tra, xác minh. Chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của hệ thống

kiểm tra sau thông quan bị hạn chế. Mặc dù lực lượng kiểm soát chống buôn lậu

được trang bị rất nhiều thẩm quyền nhưng hệ thống kiểm tra sau thông quan vẫn

chưa xây dựng được quy chế phối hợp trong thực thi nhiệm vụ.

Quy chế phối hợp với các ngành khác chưa đáp ứng yêu cầu: sự phối hợp

giữa các ngành Kho bạc - Hải quan – Thuế nội địa đã được Bộ Tài chính quy định

tại Thỏa thuận hợp tác tổ chức phối hợp thu Ngân sách nhà nước giữa Kho bạc Nhà

nước, Tổng cục Hải quan và Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn Việt

Nam ký ngày 12/11/2009. Tuy nhiên sự phối hợp cũng chỉ dừng lại ở phạm vi trao

đổi thông tin thu đòi nợ thuế, trong khi nhu cầu cần nâng sự phối hợp lên tầm cao

mới là phối hợp trong thực hiện nghiệp vụ chuyên môn nhằm ngăn chặn các hành vi

gian lận của doanh nghiệp.

Cơ sở công nghệ thông tin còn thiếu và yếu: thiết bị máy móc còn sơ sài,

chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, trang thiết bị hỗ trợ chủ yếu còn mang tính

thủ công, các phần mềm kỹ thuật phục vụ công tác trị giá hiện nay chưa đồng bộ mà

mang tính chắp vá gây khó khăn cho hải quan trong khai thác dữ liệu: phần mềm

quản lý đăng ký tờ khai - hệ thống cơ sở dữ liệu giá GTT01 - phần mềm cập nhật

31

thông tin kiểm hóa – phần mềm thống kê hải quan – phần mềm khai hải quan điện

tử ... hoạt động chưa hoàn toàn tương thích và đồng bộ.

1.7.2.2. Từ phía doanh nghiệp

Hiện nay, Ngành hải quan đang áp dụng cơ chế doanh nghiệp tự kê khai, tự

tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Theo đó, doanh nghiệp sẽ tự áp

mã hàng hóa, thuế suất và xác định giá tính thuế trên cơ sở những quy định pháp

luật. Tuy nhiên, một bộ phận doanh nghiệp chưa am hiểu các phương pháp xác định

trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT nên nhận thức về quyền lợi và nghĩa

vụ còn hạn chế. Đa số các doanh nghiệp chỉ nhận thức về mặt quyền lợi (được áp

giá tính thuế theo trị giá khai báo, không bị áp đặt theo trị giá tối thiểu như trước

kia) nhưng chưa tự giác thực hiện các nghĩa vụ với cơ quan hải quan như: khai báo

trung thực trị giá, cung cấp các thông tin về giá và trả lời các câu hỏi nghi vấn của

cơ quan Hải quan trong quá trình tham vấn. Doanh nghiệp đã gây ra một số trở ngại

làm giảm tiến độ thông quan hàng hóa. Điều này gây khá nhiều khó khăn cho cán

bộ Hải quan khi thực hiện nhiệm vụ.

Doanh nghiệp luôn có xu hướng gian lận và tìm kiếm những kẽ hở, sử dụng

nhiều thủ đoạn gian lận giá tinh vi như khai thấp giá thực tế phải thanh toán, lợi

dụng quy định về hàng khuyến mại, giảm giá để khấu trừ khoản này ra khỏi trị giá

tính thuế hoặc không khai báo một số khoản phải cộng như phí bảo hiểm, tiền bản

quyền, trị giá phần mềm.

Nguyên nhân một phần là do người khai báo không hiểu rõ các quy định

pháp luật hoặc lợi dụng sự lỏng lẻo của pháp luật cố tình khai báo thấp hơn trị giá

thực tế để giảm số thuế phải nộp hoặc khai báo tăng trị giá để tăng số thuế được

hoàn. Doanh nghiệp khai báo không đầy đủ các yếu tố liên quan đến hàng hóa như

các khoản phải cộng bao gồm chi phí bao bì, đóng gói, phí bản quyền, các khoản trợ

giúp tham gia vào quá trình sản xuất… Điều này gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả

công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong

thời gian vừa qua.

32

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI QUAN

TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

2.1. Khái quát về Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có trụ sở tại số 16, đường Lê Lợi,

phường 1, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Tầm nhìn: Xây dựng Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thành lực

lượng chuyên nghiệp cao, có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch,

liêm chính và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ phát

triển kinh tế đất nước.

- Phương châm hoạt động: Chuyên nghiệp - Minh bạch - Hiệu quả

- Tuyên ngôn:

+ Quản lý có hiệu quả các hoạt động xuất nhập khẩu và giao lưu quốc tế, tạo

điều kiện cho thương mại và sản xuất phát triển.

+ Bảo vệ và góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh

tế quốc gia.

+ Bảo đảm nguồn thu cho ngân sách.

+ Chống buôn lậu, gian lận thương mại, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

+ Góp phần bảo vệ chủ quyền kinh tế, an ninh quốc gia và an toàn xã hội.

+ Phục vụ quản lý kinh tế xã hội.

- Mục tiêu:

+ e-Clearance: Thông quan điện tử;

+ e-Manifest: Tiếp nhận thông tin bản lược khai hàng hóa và các chứng từ

liên quan, thực hiện thông quan phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, tiến tới thông

quan trước khi hàng đến;

+ e-Permit: Quản lý và trao đổi thông tin giấy phép, C/O điện tử;

+ e-Payment: Thanh toán thuế điện tử;

33

+ e-Office: Quản lý văn phòng điện tử.

2.1.1. Lịch sử hình thành

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có trụ sở đặt tại số 16, đường Lê Lợi,

Phường 1, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Ngày 12/11/1977 Bộ Ngoại thương có quyết định 1406/BNgT-TCCB thành

lập Chi Cục Hải quan Đồng Nai. Ngày 04/12/1979 Bộ Ngoại thương có Quyết định

1004/BNgT-TCCB về việc thành lập Chi cục Hải quan Đặc khu Vũng Tàu - Côn

Đảo trên cơ sở Chi cục Hải quan Đồng Nai, đơn vị tiền thân của Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay. Với chức năng quản lý nhà nước về Hải quan, những

năm qua Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

làm thủ tục xuất nhập cảnh cho hàng trăm ngàn lượt phương tiện vận tải, thu thuế

xuất khẩu, nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, đảm bảo an

ninh kinh tế.

Khác với các địa phương trên cả nước, Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu còn là nơi duy nhất thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về Hải quan, phục vụ

cho hoạt động thăm dò và khai thác Dầu khí - một ngành công nghiệp mũi nhọn của

đất nước.

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai thực hiện các quy định của Nhà

nước về Hải quan trên địa bàn hoạt động của Cục Hải quan gồm:

+ Thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu, chuyển cửa khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh,

quá cảnh tại các cửa khẩu, các địa điểm kiểm tra tập trung và các địa điểm kiểm tra

khác theo quy định của pháp luật;

+ Thu thập, khai thác, xử lý thông tin nghiệp vụ hải quan theo quy định của

pháp luật và của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan;

34

+ Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để chủ động phòng, chống buôn

lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phòng, chống ma tuý trong phạm

vi địa bàn hoạt động.

Phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, phòng, chống vận

chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, phòng, chống ma tuý ngoài phạm vi địa

bàn hoạt động của Cục Hải quan theo quy định của pháp luật;

+ Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế và các khoản thu khác đối với hàng

hóa xuất khẩu, nhập khẩu;

+ Kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo quy

định của pháp luật;

+ Áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuộc

thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

+ Thống kê nhà nước về hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,

quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh thuộc phạm vi quản

lý của Cục Hải quan theo quy định của pháp luật.

- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục Hải quan trong việc tổ chức triển

khai nhiệm vụ được giao.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về hải quan theo

quy định của pháp luật.

- Xử lý vi phạm hành chính hoặc khởi tố đối với các vụ buôn lậu, vận chuyển

trái phép hàng hóa qua biên giới theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại

đối với các quyết định hành chính của các đơn vị trực thuộc và giải quyết khiếu nại,

tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Kiến nghị những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước

về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh

và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; các quy định của Tổng

cục Hải quan về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nội bộ; báo cáo Tổng cục trưởng

Tổng cục Hải quan những vướng mắc phát sinh, các vấn đề vượt quá thẩm quyền

giải quyết của Cục Hải quan.

35

- Tổ chức triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và phương pháp

quản lý hải quan hiện đại vào hoạt động của Cục Hải quan.

- Phối hợp với các đơn vị trên địa bàn, cơ quan nhà nước và các tổ chức có

liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Tuyên truyền và hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật về hải quan trên

địa bàn.

- Hướng dẫn, giải thích các vấn đề thuộc phạm vi quản lý của Cục Hải quan

theo quy định của pháp luật.

- Hợp tác quốc tế về hải quan theo quy định của pháp luật và theo phân công

hoặc ủy quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan.

- Tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả hoạt động của Cục Hải quan; thực

hiện chế độ báo cáo theo chế độ quy định.

- Quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Cục Hải quan

theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý cán bộ của Bộ Tài chính.

- Quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế; quản lý, sử dụng phương tiện,

trang bị kỹ thuật và kinh phí hoạt động của Cục Hải quan theo quy định của pháp

luật.

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan giao

và theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Cơ cấu tổ chức.

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu gồm 08 phòng tham mưu chức năng

cho Lãnh đạo Cục, 05 Chi cục Hải quan và 03 đơn vị chức năng tương đương (Hình

2.1).

36

Cục trưởng Cục Hải quan Tỉnh

Các Phó Cục trưởng Cục Hải quan Tỉnh

Các đơn vị chức năng tương đương

Các Chi cục Hải quan

- Chi cục kiểm tra sau thông quan. - Đội kiểm soát hải quan. - Trung tâm Dữ liệu và Công nghệ thông tin.

-Chi cục Hải quan Côn Đảo. -Chi cục Hải quan cảng Cát Lở. -Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Phú Mỹ. -Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Cái Mép. -Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng – sân bay Vũng Tàu.

Các Phòng tham mưu chức năng - Phòng Tổ chức cán bộ. - Phòng Thanh tra. - Văn phòng. - Phòng Tài vụ - Quản trị. - Phòng Giám sát quản lý. - Phòng Thuế xuất nhập khẩu. - Phòng quản lý rủi ro. lý vi - Phòng Xử phạm.

Hình 2.1 – Cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

37

2.2. Thực trạng công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu.

2.2.1. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu.

Hiện nay, Cục hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức thực hiện công tác

kiểm tra trị giá hải quan theo quy định tại Thông tư 205/2010/TT-BTC ngày

15/12/2010 của Bộ Tài chính và Quyết định 103/QĐ-TCHQ ngày 24/01/2011 của

Tổng Cục Hải quan. Cụ thể:

2.2.1.1. Kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan:

Việc kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan là việc công chức

Hải quan kiểm tra Hồ sơ hải quan hoặc hồ sơ hải quan điện tử, các tài liệu có liên

quan đến việc xác định trị giá tính thuế của hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc diện

kiểm tra hồ sơ hoặc kiểm tra thực tế hàng hóa.

Việc kiểm tra trị giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện

trên cơ sở kiểm tra các mặt hàng thuộc Danh mục quản lý rủi ro hàng nhập khẩu về

giá cấp Tổng cục (sau đây gọi tắt là Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Tổng

cục), Danh mục quản lý rủi ro hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu về giá cấp Cục (sau

đây gọi tắt là Danh mục rủi ro hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cấp Cục) thông qua

việc kiểm tra Tờ khai trị giá. Theo quy trình thủ tục Hải quan đổi với hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu thương mại hiện hành (Quy trình 1171/QĐ-TCHQ ngày

15/06/2009 của Tổng cục Hải quan), công việc này do bô phận Tiếp nhận hồ sơ

thực hiện (Bước 1 của quy trình thủ tục Hải quan).

* Kiểm tra trị giá Hải quan hàng xuất khẩu:

Công chức Bước 1 tiến hành kiểm tra: Hồ sơ hải quan hoặc hồ sơ hải quan

điện tử, các tài liệu có liên quan đến việc xác định trị giá tính thuế của hàng hóa

xuất khẩu thuộc diện kiểm tra hồ sơ hoặc kiểm tra thực tế hàng hóa.

Công chức tiến hành đối chiếu và so sánh giá mặt hàng xuất khẩu với mức

giá kiểm tra tại Danh mục rủi ro hàng hoá xuất khẩu cấp Cục.

38

Bảng 2.2. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan hàng xuất khẩu

KIỂM TRA TRỊ GIÁ HÀNG XUẤT KHẨU

Không thuộc Danh mục

Giá cao

Đối chiếu với Danh mục rủi ro hàng xuất khẩu cấp Cục

2. Kiểm tra mức giá khai báo

c ụ m h n a D n ơ h p ấ h t á i G

p ợ h g n ô h k ơ s ồ h n ấ v i h g N

-

-

3. Kiểm tra thủ tục, hồ sơ

p á h p p ợ h g n ô h k g n ồ đ p ợ H

Chấp nhận giá khai báo

Kiểm tra sau thông quan

Xác định giá

39

- Trường hợp hàng hóa xuất khẩu không thuộc Danh mục quản lý rủi ro hàng

xuất khẩu cấp Cục hoặc giá khai báo cao hơn mức giá kiểm tra tại Danh mục thì

chấp nhận thông quan theo mức giá khai báo của doanh nghiệp.

- Trường hợp hàng hóa xuất khẩu thuộc Danh mục quản lý rủi ro hàng xuất

khẩu cấp Cục và mức giá khai báo của doanh nghiệp thấp hơn mức giá kiểm tra tại

Danh mục thì công chức Hải quan tiến hành tiếp các bước kiểm tra sau đây:

Kiểm tra tính hợp pháp của hợp đồng mua bán hàng hoá và sự phù hợp về

nội dung giữa hợp đồng mua bán hàng hoá với các nội dung khai báo trên tờ khai

hải quan hoặc tờ khai hải quan điện tử.

Nếu hợp đồng mua bán hàng hoá không hợp pháp hoặc nội dung giữa hợp

đồng mua bán hàng hoá và các nội dung khai báo trên tờ khai hải quan hoặc tờ khai

hải quan điện tử có mâu thuẫn thì công chức Hải quan tiến hành xác định giá và tính

thuế theo Phương pháp trị giá suy luận.

Chấp nhận mức giá khai báo của người khai hải quan, chuyển lực lượng

Kiểm tra sau thông quan đối với trường hợp có nghi vấn hồ sơ không hợp pháp

hoặc mức giá khai báo thấp hơn mức giá tại Danh mục rủi ro hàng hoá xuất khẩu

cấp Cục.

Bằng việc giao cho Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố căn cứ tình

hình quản lý hoạt động xuất khẩu từng thời kỳ và thực tế xuất khẩu hàng hoá để xây

dựng, điều chỉnh Danh mục rủi ro hàng hoá xuất khẩu cấp Cục và mức giá kiểm tra

làm căn cứ kiểm tra trị giá khai báo, đồng thời gửi báo cáo Tổng cục Hải quan. Nhờ

vậy, công tác kiểm tra trị giá hàng hóa xuất khẩu được tiến hành linh hoạt, phù hợp

với hoàn cảnh thực tế của từng địa phương.

* Kiểm tra trị giá Hải quan hàng nhập khẩu:

Việc kiểm tra trị giá tính thuế hàng nhập khẩu được thực hiện trên cơ sở

kiểm tra các mặt hàng thuộc Danh mục quản lý rủi ro hàng nhập khẩu về giá cấp

Tổng cục (sau đây gọi tắt là Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Tổng cục), Danh

mục quản lý rủi ro hàng hoá nhập khẩu về giá cấp Cục (sau đây gọi tắt là Danh mục

rủi ro hàng hoá nhập khẩu cấp Cục).

40

Bảng 2.3. Quy trình kiểm tra trị giá hải quan đối với hàng nhập khẩu

KIỂM TRA TRỊ GIÁ HẢI QUAN HÀNG NHẬP KHẨU

1. Kiểm tra nội dung khai báo: tên hàng, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, đơn vị tính.

2. Kiểm tra tính chính xác của hồ sơ.

3. Kiểm tra các điều kiện áp dụng các phương pháp xác định trị giá

n ấ v i h g N

4. Kiểm tra mức giá khai báo

p ợ h ù h p , ủ đ y ầ đ g n ô h k o á b i a h k N D

ơ s ồ h ề v n ẫ u h t u â M

5.1. Thuộc: - Danh mục QLRR hàng NK cấp Tổng cục; - Danh mục QLRR hàng NK cấp Cục. 5.2. Không thuộc: - Danh mục QLRR hàng NK cấp Tổng cục; - Danh mục QLRR hàng NK cấp Cục.

K h ô n g c ó n g h i v ấ n

6. Thông báo cơ cở nghi vấn trị giá khai báo

N g h i v ấ n v ề h ồ s ơ n h ư n g k h ô n g n g h i n g ờ v ề g i á k h a i b á o

7. Tham vấn giá

CHẤP NHẬN GIÁ KHAI BÁO

a ư đ Q H o d á i g n ậ h n p ấ h c N D

á i g ị r t h n ị đ c á x p á h p g n ơ ư h p c á c g n ụ d p á ự t h n ì r t g n ú đ g n ô h K

h n ì r t i ả i g g n ô h K

n ấ v i h g n c á c c ợ ư đ

CHUYỂN KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN

XÁC ĐỊNH LẠI TRỊ GIÁ KHAI BÁO

41

Công chức kiểm tra trị giá Hải quan đối với tờ khai nhập khẩu ở giai đoạn

trong thông quan phải thực hiện những bước sau:

Thứ nhất, kiểm tra nội dung khai báo về tên hàng, đơn vị tính, nhãn hiệu,

xuất xứ, đơn vị tính:

Khi tiến hành khai báo về trị giá hải quan, nghĩa vụ của người khai hải quan

phải khai báo đầy đủ chi tiết ký mã hiệu, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hoá, phù hợp với

các tiêu chí trên tờ khai trị giá.

Trên cơ sở thông tin khai báo, công chức bước 1 kiểm tra sự đầy đủ của các

tiêu chí này.

Thứ hai, kiểm tra tính chính xác của hồ sơ:

Trị giá Hải quan khai báo trên tờ khai trị giá Hải quan là sự phản ánh trị giá

hàng hóa trên các chứng từ thuộc bộ hồ sơ Hải quan. Vì vậy, công chức kiểm tra

cần kiểm tra kỹ sự phù hợp giữa các chứng từ thuộc bộ hồ sơ Hải quan. Chẳng hạn,

công chức Bước 1 cần lưu ý sự đồng nhất giữa các điều khoản về giá bán, điều kiện

giao hàng, thời gian giao hàng... quy định trên hợp đồng thương mại hóa đơn

thương mại cũng như các điều khoản tương ứng trên các chứng từ khác.

Thứ ba, kiểm tra các điều kiện áp dụng các phương pháp xác định trị giá:

Mỗi một phương pháp xác định trị giá Hải quan đều có các điều kiện nhất

định và chỉ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó thì phương pháp đó mới được áp

dụng. Vì vậy, khi kiểm tra trị giá Hải quan, công chức Bước 1 phải đặc biệt chú ý

đến điều kiện áp dụng các phương pháp xác định trị giá.

Thứ tư, kiểm tra mức giá khai báo:

Kiểm tra mức giá khai báo là việc công chức Bước 1 tiến hành so sánh, đối

chiếu mức giá khai báo với cơ sở dữ liệu giá tại thời điểm kiểm tra trị giá.

Căn cứ kết quả kiểm tra, công chức Bước 1 tiến hành xử lý:

- Trường hợp phát hiện có một trong những mâu thuẫn về thủ tục, hồ sơ; về

nguyên tắc và trình tự áp dụng các phương pháp xác định trị giá tính thuế, công

chức Bước 1 tiến hành bác bỏ trị giá khai báo của doanh nghiệp và xác định trị giá

42

tính thuế, đồng thời tùy theo tính chất, mức độ vi phạm để xử lý theo quy định của

pháp luật.

- Trường hợp không có nghi vấn về mức giá, nhưng có nghi vấn mâu thuẫn

về thủ tục, hồ sơ; nghi vấn giá khai báo cao hơn trên 15% so với mức giá tại cơ sở

dữ liệu giá và có nghi vấn hoặc không có nghi vấn mâu thuẫn về thủ tục hồ sơ thì

công chức chấp nhận giá khai báo của doanh nghiệp, đồng thời chuyển các nghi vấn

sang lực lượng kiểm tra sau thông quan.

- Trường hợp nghi vấn giá khai báo của doanh nghiệp đối với mặt hàng

không thuộc Danh mục rủi ro hàng hóa nhập khẩu cấp Tổng cục, Danh mục rủi ro

hàng hóa nhập khẩu cẩp Cục - giá khai báo thấp hơn so với mức giá tại cơ sở dữ

liệu giá của cơ quan hải quan, công chức Bước 1 chấp nhận giá khai báo của doanh

nghiệp, đồng thời chuyển các nghi vấn sang lực lượng kiểm tra sau thông quan.

- Trường hợp nghi vấn giá khai báo của doanh nghiệp đối với mặt hàng

thuộc Danh mục rủi ro hàng hóa nhập khẩu cấp Tổng cục, Danh mục rủi ro hàng

hóa nhập khẩu cấp Cục, cơ quan Hải quan thông báo để doanh nghiệp biết cơ sở,

căn cứ nghi vấn mức giá khai báo, phương pháp, mức giá do cơ quan hải quan xác

định.

Nếu doanh nghiệp đồng ý với mức giá và phương pháp do cơ quan Hải quan

xác định thì cơ quan Hải quan ra thông báo xác định trị giá và thực hiện ấn định

thuế theo giá đã xác định.

Nếu không đồng ý với mức giá và phương pháp do cơ quan Hải quan xác

định thì doanh nghiệp được quyền yêu cầu cơ quan Hải quan tổ chức tham vấn để

giải trình về cơ sở, phương pháp khai báo trị giá hải quan của mình.

Việc tham vấn được thực hiện bằng hai hình thức: tham vấn trực tiếp và

tham vấn bằng thư điện tử.

Trong quá trình tham vấn, căn cứ hồ sơ, tài liệu và các thông tin dữ liệu đã

chuẩn bị trước, cơ quan hải quan yêu cầu doanh nghiệp trả lời các câu hỏi liên quan

đến việc khai báo các yếu tố của giao dịch nhập khẩu; mức giá khai báo; phương

pháp xác định trị giá tính thuế doanh nghiệp sử dụng. Kết thúc tham vấn, căn cứ nội

43

dung trả lời của doanh nghiệp, các thông tin dữ liệu giá, cơ quan hải quan nêu rõ

“chấp nhận” hoặc “bác bỏ” mức giá khai báo, mức giá tính thuế dự kiến.

Trường hợp bác bỏ mức giá khai báo, cơ quan hải quan tiến hành xác định lại

trị giá tính thuế, ra thông báo trị giá tính thuế đồng thời ấn định số thuế phải nộp.

2.2.1.2. Kiểm tra trị giá Hải quan sau khi thông quan hàng hóa:

Việc kiểm tra trị giá hải quan sau khi thông quan hàng hóa được thực hiện

bởi ba lực lượng: lực lượng phúc tập tại Chi cục Hải quan, lực lượng kiểm tra sau

thông quan và lực lượng điều tra chống buôn lậu.

* Đối với lực lượng phúc tập tại Chi cục Hải quan:

Công chức Hải quan làm công tác phúc tập tại các Chi cục tiến hành kiểm tra

hồ sơ hải quan, mức giá khai báo và các tài liệu có liên quan đến việc xác định trị

giá tính thuế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Nếu phát hiện các mâu thuẫn về

thủ tục, hồ sơ thì bác bỏ mức giá khai báo, xác định trị giá tính thuế. Nếu phát hiện

các nghi vấn về hồ sơ, chứng từ, mức giá khai báo nhưng chưa đủ căn cứ kết luận

hành vi gian lận thì chuyển các nghi vấn sang lực lượng kiểm tra sau thông quan để

tiếp tục xác minh, làm rõ.

* Đối với lực lượng kiểm tra sau thông quan:

Tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhiệm vụ kiểm tra sau thông quan

được giao cho Chi cục Kiểm tra sau thông quan thực hiện.

Chi cục Kiểm tra sau thông quan tiến hành kiểm tra đối với các trường hợp

có nghi vấn về hồ sơ, chứng từ hoặc mức giá khai báo do lực lượng phúc tập

chuyển; do lực lượng kiểm tra tại khâu thông quan chuyển; do lực lượng kiểm tra

sau thông quan phát hiện hoặc do đánh giá mức độ rủi ro theo mặt hàng, ngành

hàng, theo doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu thì tổ chức kiểm tra sau thông quan

tại cơ quan hải quan hoặc trụ sở của doanh nghiệp.

Việc KTSTQ đầy đủ gồm hai giai đoạn nối tiếp nhau (KTSTQ tại trụ sở cơ

quan hải quan và KTSTQ tại trụ sở doanh nghiệp), 12 bước. Cụ thể:

Bước 1. Xác định đối tượng chịu kiểm tra, đối tượng kiểm tra, phạm vi kiểm

tra.

44

Bước 2. Thu thập, phân tích thông tin về đối tượng kiểm tra.

Bước 3. Yêu cầu doanh nghiệp giải trình.

Bước 4. Kiểm tra tại doanh nghiệp

Bước 5. Kết luận kiểm tra sau thông quan, kiểm tra thuế tại trụ sở doanh

nghiệp

Bước 6. Báo cáo kết quả kiểm tra, đề xuất xử lý.

Bước 7. Quyết định ấn định thuế (nếu có).

Bước 8. Lập biên bản vi phạm hành chính (nếu có).

Bước 9. Quyết định xử lý vi phạm hành chính (nếu có).

Bước 10. Giải quyết khiếu nại (nếu có).

Bước 11. Tổ chức rút kinh nghiệm.

Bước 12. Cập nhật thông tin và lưu trữ hồ sơ.

Tuy nhiên, không phải cuộc KTSTQ, kiểm tra thuế nào cũng phải thực hiện

đầy đủ 12 bước này.

Trường hợp kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm, kiểm tra chọn mẫu nếu các vấn

đề kiểm tra đã rõ, có thể kết luận được, không có ý kiến khác nhau giữa cơ quan Hải

quan và Doanh nghiệp thì có thể dừng lại ở bất kỳ bước nào kể từ bước 2.

Trường hợp kiểm tra theo kế hoạch thì thực hiện đầy đủ 12 bước.

* Đối với lực lượng điều tra chống buôn lậu:

Tổ chức kiểm tra, xác minh các vụ việc có dấu hiệu gian lận lớn về trị giá

như: Làm giả hồ sơ, chứng từ; móc ngoặc để đồng loạt hạ thấp hoặc khai khống trị

giá do lực lượng kiểm tra sau thông quan chuyển hoặc những vụ việc gian lận nổi

cộm, có tính chất hệ thống, phạm vi rộng do lực lượng chống buôn lậu phát hiện.

2.2.2. Tình hình thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2007 – 2011.

Với đặc trưng là một đơn vị có quy mô nhỏ, quân số ít, nhưng trong những

năm qua Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu làm thủ tục cho một số lượng lớn

hàng hóa xuất nhập khẩu, đảm bảo tuân thủ đúng chính sách quản lý đối với hoạt

động xuất nhập khẩu và tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ hải quan, luôn hoàn

45

thành xuất xắc nhiệm vụ được cấp trên giao phó. Với những thành tích nêu trên,

nhiều năm liền Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được tặng thưởng Bằng khen

của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban nhân dân Tỉnh, Tổng cục Hải quan. Đặc biệt

hơn nữa, năm 2008, Cục Hải quan Tỉnh đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng

Huân chương lao động hạng ba.

Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai đầy đủ các chương

trình phần mềm của Tổng cục Hải quan, đặc biệt là triển khai thành công Hệ thống

thông quan điện tử được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao, góp phần hỗ trợ tích

cực cho công tác giải quyết thủ tục hải quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu, đảm bảo

thông quan nhanh chóng hàng hóa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp.

Công tác triển khai các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ được Cục Hải quan

Tỉnh duy trì thường xuyên, nghiêm túc. Với việc thường xuyên cử cán bộ tham gia

các lớp hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật mới (như Luật quản lý thuế,

Thông tư 222/2009/TT-BTC, Thông tư 194/2010/TT-BTC, Thông tư 205/2010/TT-

BTC…) do Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức giúp

cho cán bộ công chức trong đơn vị nắm vững các bước trong quy trình nghiệp vụ

hải quan.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công chức được đơn vị tiến

hành thường xuyên nhằm không ngừng nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần

trách nhiệm trong công tác. Tất cả cán bộ công chức trong đơn vị đều an tâm công

tác sẵn sàng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ do cấp trên giao.

Trong quan hệ với cộng đồng doanh nghiệp, Cục Hải quan Tỉnh luôn chủ

động mở các buổi gặp mặt, tham gia các chương trình đối thoại với doanh nghiệp để

phổ biến các văn bản liên quan đến chính sách quản lý xuất nhập khẩu và lắng nghe

ý kiến phản ánh, góp ý với cơ quan hải quan. Qua đó nâng cao ý thức chấp hành

pháp luật của doanh nghiệp. Hạn chế các trường hợp gian lận thương mại xảy ra

trong quá trình giải quyết thủ tục hải quan.

Cùng với xu thế phát triển kinh tế cả nước nói chung, lượng hàng hóa làm

thủ tục hải quan tại Cục Hải quan Tỉnh cũng có sự tăng lên nhanh chóng. Hiện tại

46

đơn vị đang làm thủ tục Hải quan cho các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá với các

mặt hàng chủ yếu là thiết phụ phục vụ hoạt động dầu khí, máy móc, thiết bị tạo tài

sản cố định, ô tô, mô tô, xe gắn máy, nguyên phụ liệu hàng gia công, nguyên phụ

liệu sản xuất hàng xuất khẩu, lúa mỳ, dầu cọ, dầu đậu tương, khô đậu nành, da

thuộc, gang, phôi thép, thép cán nóng, thép tấm …; xuất khẩu các mặt hàng: dầu

thô, thủy hải sản, tháp gió, cấu kiện nhà bằng thép, thép các loại, da bò đã thuộc

thành phẩm, vải giả da các loại, nhựa PU các loại, túi xách các loại, gạch granite...

Lượng tờ khai làm thủ tục tại Cục Hải quan Tỉnh năm nay tăng hơn năm trước, chỉ

tiêu thu, nộp ngân sách nhà nước đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra.

Bảng 2.4. Kết quả hoạt động của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Lượng tờ khai Tình hình thu thuế Kim ngạch xuất nhập khẩu Năm Số lượng Tỷ lệ tăng, giảm (%) Kim ngạch (triệu USD) Tỷ lệ tăng, giảm (%) Tỷ lệ tăng, giảm (%)

2007 2008 2009 2010 2011 24.556 30.593 32.404 42.799 46.300 + 24,58 + 5,92 + 32,08 + 8,18 11.635 24.612 17.000 27.489 23.394 + 111,53 - 30,93 + 61,70 - 14,89 Số thu nộp NSNN (tỷ đồng) 6.828 19.709 12.361 15.996 25.358 + 188,6 - 37,3 + 29,4 + 58,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa -

Vũng Tàu).

Trong vòng 5 năm từ năm 2007 đến 2011, Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu đã làm thủ tục hải quan cho 176.652 tờ khai, nộp ngân sách nhà nước 80.252 tỷ

đồng, lọt vào nhóm 4 Cục Hải quan địa phương có số thu, nộp ngân sách lớn nhất

cả nước. Đây là thành tích vượt bậc trong điều kiện một Cục Hải quan với biên chế

ít (những năm 2007, 2008 số lượng công chức khoảng 180 người, năm 2011 có 267

công chức).

Năm 2007, Cục Hải quan Tỉnh đã làm thủ tục cho 24.556 lượt tờ khai với

tổng kim ngạch 11.635 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước 6.828 tỷ đồng.

Năm 2008 là một năm thành công của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

khi đạt được những kết quả đáng khích lệ đối với các nhiệm vụ được giao. Trong

47

đó, đáng kể nhất là công tác thu nộp ngân sách Nhà nước tăng cao và đạt mức kỷ

lục trong nhiều năm, tăng 188,6% đạt 19.709 tỷ đồng. Tổng kết năm 2008, Cục Hải

quan Tỉnh vươn lên thành đơn vị hải quan có số nộp ngân sách cao thứ 2 trong cả

nước (chỉ xếp sau Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh). Trong năm đã làm thủ

tục cho 30.583 lượt tờ khai với tổng kim ngạch 24.612 triệu USD, tăng 24,58% về

số lượng tờ khai, 111,53% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2007. Để có được

những kết quả này không thể không kể đến sự chỉ đạo, quản lý điều hành sâu sát

của Lãnh đạo Cục, cùng với sự cố gắng phấn đấu trong công tác chuyên môn của

từng công chức, đảm bảo thực hiện đúng các quy định về kỷ cương, kỷ luật hành

chính, văn hóa ứng xử… trong thi hành nhiệm vụ với phương châm “Thuận lợi -

Tận tụy - Chính xác”.

Năm 2009 và năm 2010 là những năm nền kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế

Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng và suy giảm kinh tế toàn

cầu. Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu hoàn thành các chỉ

tiêu được giao từ đầu năm. Cụ thể, năm 2009 tuy số lượng tờ khai vẫn giữ được

mức tăng 5,92% so với cùng kỳ năm 2008 đạt 32.404 tờ khai, tuy nhiên kim ngạch

xuất nhập khẩu và nộp ngân sách giảm tương ứng 30,93% và 37,3% so với cùng kỳ

(kim ngạch xuất nhập khẩu 17.000 triệu USD, nộp ngân sách 12.361 tỷ đồng).

Trong năm 2010, đã tiến hành đăng ký cho 42.799 tờ khai với kim ngạch 27.489

triệu USD, nộp ngân sách 15.996 tỷ đồng, tăng 61,7% về kim ngạch và 29,4 về chỉ

tiêu thu thuế so với cùng kỳ năm 2009.

Năm 2011, Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp tục đẩy mạnh công tác

cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan, trong đó trọng tâm là đơn giản hóa thủ

tục và triển khai mạh mẽ thủ tục hải quan điện tử. Nhờ vậy, đơn vị đã hoàn thành

vượt mức các chỉ tiêu được giao, đặc biệt về chỉ tiêu thu thuế. Trong năm, Cục Hải

quan Tỉnh đã nộp ngân sách 25.358 tỷ đồng, tăng 58,5% so với cùng kỳ, tăng 61%

so với chỉ tiêu được giam, đóng góp 11,9% vào tổng số thu của toàn ngành Hải

quan. Cùng với đó, các Chi cục đã tiến làm thủ tục cho 46.300 tờ khai tăng 8,18%

so với cùng kỳ, đạt kim ngạch 23.394 triệu USD (giảm 14,89% so với cùng kỳ).

48

2.2.3. Tình hình công tác quản lý nhà nước về trị giá hải quan tại Cục

Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2.2.3.1. Công tác kiểm tra trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa

- Vũng Tàu.

Trong thời gian qua, Cục Hải quan tỉnh BR-VT đã thực hiện tốt công tác

quản lý trị giá hải quan. Việc thực hiện công tác này được tiến hành trong hai giai

đoạn: kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan (kiểm tra trong

quá trình thông quan) và kiểm tra trị giá Hải quan sau khi hàng hóa đã thông quan

(kiểm tra sau thông quan).

* Kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan:

Dưới sự chỉ đạo sát sao của các cấp Lãnh đạo Cục Hải quan, công tác kiểm

tra trị giá hải quan tại Cục Hải quan Tỉnh luôn được các đơn vị thực hiện nghiêm

túc, đúng quy định.

Công tác kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan được các Chi

cục thực hiện theo đúng thẩm quyền. Thông qua kiểm tra hồ sơ hải quan, mức giá

khai báo của doanh nghiệp, công chức Bước 1 từng bước “nhận diện” các dấu hiệu

gian lận về trị giá hải quan của doanh nghiệp. Nếu đủ căn cứ để xác định tại trị giá

khai báo, Chi cục Hải quan cửa khẩu sẽ tiến hành ấn định thuế. Nếu chỉ dừng lại ở

mức độ “nghi vấn” trị giá khai báo, công chức Bước 1 thông báo cơ sở nghi vấn và

chuyển sang thực hiện tham vấn. Tùy giai đoạn thực tế, công tác tham vấn được tổ

chức tham vấn tại Phòng Thuế xuất nhập khẩu – Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng

Tàu hoặc do các Chi cục trực tiếp tiến hành theo ủy quyền của Cục Hải quan Tỉnh.

Thông qua việc kiểm tra trị giá trong quá trình thông quan, Cục Hải quan

Tỉnh phát hiện nhiều trường hợp nghi ngờ về trị giá khai báo (không có trường hợp

nào phát hiện mâu thuẫn về thủ tục, hồ sơ; về nguyên tắc và trình tự áp dụng các

phương pháp xác định trị giá tính thuế) và tổ chức tham vấn. Qua đấu tranh, khai

thác các thông tin giải trình của doanh nghiệp, Cục Hải quan Tỉnh đã phát hiện

nhiều trường hợp gian lận về trị giá khai báo, tiến hành xác định lại trị giá và ấn

49

định thuế. Nhờ vậy, đã góp phần hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về hải

quan, tránh tình trạng thất thu thuế nhà nước.

Bảng 2.5: Kết quả kiểm tra trị giá hải quan trong thông quan từ năm 2007 đến hết 31/8/2012.

Năm Số TK kiểm tra trị giá Số tờ khai tham vấn giá

2007 2008 2009 2010 2011 2012 Số thuế điều chỉnh tăng sau tham vấn (đơn vị tính: Đồng) 9.259.217.261 11.754.626.034 7.576.641.467 14.784.439.371 33.812.347.851 7.632.526.250 Trị giá hàng vi phạm (triệu USD) 34,90 44,30 32,41 54,99 68,50 36,69 2.277 2.408 3.214 3.757 4.017 2.053 165 366 237 260 548 144 Số tờ khai bác bỏ trị giá sau tham vấn 62 206 96 129 214 48 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa -

Vũng Tàu).

Từ 01/01/2007 đến 31/8/2012, các công chức Bước 1 tại các Chi cục hải

quan cửa khẩu đã tiến hành kiểm tra trị giá hải quan đối với 17.726 tờ khai. Qua

kiểm tra, đã phát hiện nhiều trường hợp có dấu hiệu nghi vấn, chuyển tham vấn

1.720 tờ khai, bác bỏ giá khai báo đối với 755 tờ khai, ấn định thuế tăng trên 84 tỷ

đồng. Những con số nêu trên đã chứng tỏ hiệu quả của hoạt động tham vấn giá

trong công tác quản lý trị giá hải quan.

Năm 2007 - năm mà hoạt động tham vấn chính thức được luật hóa theo Nghị

định 40/2007/NĐ-CP, Cục Hải quan Tỉnh đã tiến hành tham vấn 165 tờ khai, bác bỏ

trị giá khai báo 62 tờ khai, truy thu hơn 9 tỷ đồng tiền thuế, trị giá hàng vi phạm

34,90 triệu USD. Đây là dấu hiệu cho thấy hiệu quả của công tác tham vấn ngay từ

những ngày đầu triển khai.

Năm 2008, sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư 40/2008/TT-BTC hướng

dẫn thi hành Nghị định 40/2007/NĐ-CP thì hoạt động tham vấn giá dần đi vào

chuyên nghiệp. Công chức hải quan đã có thêm những hướng dẫn cơ bản khi tham

vấn với doanh nghiệp. Nhờ vậy, trong 366 trường hợp tham vấn, Cục Hải quan tỉnh

đã bác bỏ trị giá khai báo đối với 206 trường hợp (chiếm 67%), ấn định tăng 11,75

tỷ đồng tiền thuế, trị giá hàng vi phạm trên 44 triệu USD. Số thuế truy thu sau tham

50

vấn lên đến hơn 11 tỷ, tăng 27% so với cùng kỳ đã khẳng định tác dụng của công

tác kiểm tra trị giá hải quan trong quá trình thông quan.

Năm 2009, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp và cá nhân

có xu hướng tiết kiệm chi tiêu. Hoạt động nhập khẩu chủ yếu đáp ứng nhu cầu phục

vụ sản xuất, các mặt hàng tiêu dùng cũng như các mặt hàng “xa xỉ phẩm” như ô tô,

xe gắn máy giảm đáng kể. Vì vậy, qua kiểm tra trị giá hải quan của 3.214 tờ khai,

cơ quan hải quan nghi ngờ và tiến hành tham vấn đối với 237 tờ khai. Thông qua

tham vấn, Cục Hải quan Tỉnh đã phát hiện 96 trường hợp gian lận trị giá hải quan,

tiến hành truy thu hơn 7,5 tỷ đồng tiền thuế, trị giá hàng vi phạm 32,41 triệu USD.

Tuy số thuế ấn định giảm 35% so với cùng kỳ, nhưng công tác tham vấn vẫn hoàn

thành kế hoạch được giao.

Năm 2010, khi hệ thống các cảng container quốc tế đi vào hoạt động ổn định

đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ phương án làm thủ tục nhập khẩu tại

Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương sang làm thủ tục tại Vũng Tàu

nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển cũng như thời gian đi lại. Trong đó phải kể đến

sự có mặt của Công ty Cổ phần Ô tô Hyundai Thành Công – nhà phân phối độc

quyền xe du lịch Hyundai tại Việt Nam đã khiến hoạt động xuất nhập khẩu tại Cục

Hải quan Tỉnh thêm sôi động. Tuy nhiên, cùng với đó là tình trạng gian lận trị giá

hải quan tăng cao. Lợi dụng mối quan hệ đặc biệt với công ty mẹ, hàng loạt giao

dịch của công ty đã bị cơ quan hải quan đưa vào “tầm ngắm”. Cục Hải quan Tỉnh đã

nghi ngờ và tiến hành tham vấn 260 tờ khai trong đó có một số lượng không nhỏ là

các tờ khai của Công ty Cổ phần Ô tô Hyundai Thành Công. Qua quá trình khai

thác thông tin và đấu tranh trực tiếp khi tham vấn, cơ quan hải quan đã bác bỏ trị giá

khai báo của 129 tờ khai, chiếm tỷ lệ 49,5% số lượng tờ khai tham vấn, truy thu trên

14 tỷ đồng, tăng 95% so với cùng kỳ năm 2009. Như đã trình bày ở trên, hành vi

gian lận trị giá đối với các trường hợp người mua và người bán có mối quan hệ đặc

biệt đang khiến Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu gặp rất nhiều khó khăn trong

51

công tác quản lý trị giá hải quan. Đã có rất nhiều tờ khai nhập khẩu ô tô của Công ty

Cổ phần Ô tô Hyundai Thành Công bị xác định lại trị giá khai báo.

Theo đà phụ hồi kinh tế, năm 2011 đánh dấu sự tăng trưởng trở lại của hoạt

động xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng.

Trong năm, với việc đẩy mạnh công tác hiện đại hóa hải quan, Cục Hải quan Tỉnh

tăng cường triển thủ tục hải quan điện tử, nhờ vậy thời gian thông quan hàng hóa đã

giảm xuống đáng kể, tránh phiền hà cho doanh nghiệp. Trong năm, Cục Hải quan

Tỉnh đã tiến hành kiểm tra trị giá hải quan của 4.017 tờ khai, phát hiện các dấu hiệu

nghi vấn và chuyển tham vấn 548 tờ khai. Đây là năm có số lượng tờ khai tham vấn

nhiều nhất trong những năm vừa qua. Trong số các trường hợp tham vấn thì phần

lớn vẫn rơi vào mặt hàng ô tô, xe máy - đây là những mặt hàng có trị giá lớn, thuế

suất cao nên rủi ro gian lận trị giá cao. Đã có 214 trường hợp doanh nghiệp không

giải trình được các nghi vấn về trị giá của cơ quan hải quan và bị ấn định tăng 33,8

tỷ đồng tiền thuế. Đây là thành công rất lớn của công tác quản lý trị giá hải quan tại

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong điều kiện lực lượng công chức làm

công tác giá còn mỏng như hiện nay.

Tám tháng đầu năm 2012, sau khi Cục Hải quan Tỉnh sửa đổi Danh mục

quản lý rủi ro cấp Cục theo hướng bãi bỏ một số mặt hàng như lúa mỳ sản xuất thức

ăn cho người, lúa mỳ sản xuất thức ăn chăn nuôi... số lượng mặt hàng thuộc Danh

mục quản lý rủi ro cấp Tổng cục và cấp Cục đã giảm xuống. Trong 8 tháng, các

công chức đã tiến hành kiểm tra trị giá của 2.053 tờ khai, nghi ngờ trị giá khai báo

và tiến hành tham vấn 144 tờ khai, trong đó bác bỏ trị giá khai báo 48 tờ khai, ấn

định tăng 7,6 tỷ đồng tiền thuế. Số lượng tờ khai bị bác bỏ trị giá khai báo và số

thuế ấn định ở mức cao – một lần nữa cho thấy sự cần thiết phải quản lý trị giá hải

quan chặt chẽ.

Nhìn chung, số lượng tờ khai xác định lại trị giá tính thuế và số thuế ấn định

qua các năm có sự thay đổi phức tạp. Tuy nhiên, đối tượng hàng hóa gian lận chủ

yếu vẫn tập trung vào các mặt hàng có thuế suất cao (như ô tô, xe máy) hoặc có trị

giá lớn (như ô tô, xe máy, thép, lúa mì...).

52

Bảng 2.6: Thống kê đối tượng hàng hóa gian lận trị giá hải quan

Ô tô Đối tượng hàng hóa gian lận Thép Xe máy Lúa mì Khác

Năm

Số lượng TK Tỷ lệ % Số lượng TK Tỷ lệ % Số lượng TK Tỷ lệ % Số lượng TK Tỷ lệ % Số lượng TK Tỷ lệ % Số lượng tờ khai gian lận

62 206 96 129 214 48 29 46,8 102 49,5 47 49,0 70 54,3 109 50,9 34 70,8 14 22,6 47 22,8 17 17,7 19 14,7 32 15,0 8 16,7 6 9,7 8,7 18 15 15,6 16 12,4 25 11,7 8,3 4 9 14,5 23 11,2 14 14,6 20 15,5 31 14,5 0 0 4 6,5 16 7,8 3 3,1 4 3,1 17 7,9 2 4,2

2007 2008 2009 2010 2011 2012 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Cục Hải quan tỉnh BR - VT).

Thông qua bảng 2.6, dễ dàng nhận thấy đối tượng hàng hóa gian lận phổ biến

nhất là ô tô (chiếm tỷ lệ từ 47% đến 71%). Điều này cũng dễ hiểu do đây là mặt

hàng có trị giá lớn, thuế suất cao. Theo tính toán, tổng các loại thuế nhập khẩu, thuế

tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng ô tô bằng khoảng 275%

đến 300% so với giá nhập khẩu. Đây là “miếng mồi ngon” cho các doanh nghiệp có

ý đồ gian lận về thuế khi chỉ cần khai giảm giá nhập khẩu 1.000USD thì doanh

nghiệp đã trốn được khoảng 3.000USD tiền thuế ở khâu nhập khẩu. Các hành vi

gian lận thường gặp là khai giá thấp đối với các ô tô đã qua sử dụng. Lợi dụng đặc

điểm giá bán của xe đã qua sử dụng không tuân theo bảng giá của các hãng sản

xuất, nhà nhập khẩu thu mua ô tô với chất lượng còn khoảng 90 đến 95%. Khi khai

báo, người khai hải quan khai báo thấp trị giá tính thuế gây khó khăn cho cơ quan

hải quan trong việc so sánh, đối chiếu với hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự.

Đặc biệt, từ năm 2010 đến nay, mặc dù Chính phủ có những biện pháp tích

cực nhằm hạn chế nhập khẩu xe ô tô đã qua sử dụng, tuy nhiên tỷ lệ gian lận đối với

mặt hàng ô tô gia tăng đáng kể. Điều này do sự “tham gia” thị trường nhập khẩu ô

tô của Công ty Cổ phần Ô tô Hyundai Thành Công. Lợi dụng mối quan hệ đặc biệt -

Công ty là đại lý ủy nhiệm duy nhất của Tập đoàn ô tô Hyundai Hàn Quốc tại Việt

Nam - ký kết hợp đồng mua bán ô tô với tiêu chuẩn kỹ thuật riêng, mức giá riêng

53

cho thị trường Việt Nam. Điều này gây cho cơ quan hải quan rất nhiều khó khăn

trong kiểm tra, tham vấn giá.

Cùng với ô tô, xe gắn máy cũng là mặt hàng có tỷ lệ gian lận trị giá cao.

Nguyên nhân chủ yếu do đây là mặt hàng có thuế suất cao (tổng các khoản thuế

phải nộp ở khâu nhập khẩu gấp 1,7 đến 2 lần giá nhập khẩu), trị giá lớn. Tuy nhiên

khác với mặt hàng ô tô, các trường hợp gian lận chủ yếu đối với mặt hàng xe máy

thông qua gian lận các khoản điều chỉnh trừ - cụ thể là khoản giảm giá.

Mặt hàng thép, lúa mì cũng là những mặt hàng thường xuyên có gian lận về

trị giá. Những gian lận này chủ yếu tập trung vào hành vi không khai báo đầy đủ

các khoản phải cộng như phí bảo hiểm, phí vận chuyển, phí bốc dỡ tại cảng; không

khai các khoản tiền đặt cọc.

Các hành vi gian lận trên đây sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo của luận

văn.

Tuy tình hình gian lận thương mại về trị giá hải quan diễn biến phức tạp,

nhưng tập trung chủ yếu vào một số chủ thể.

Bảng 2.7: Thống kê chủ thể gian lận về trị giá hải quan (từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/08/2012)

Chủ thể thực hiện thủ tục hải quan

Công ty Cổ phần Năm Doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH

Số lượng 382 Vi phạm 9 Số lượng 259 Vi phạm 5 Công ty hợp danh Số lượng 14 Vi phạm 0 Số lượng 11 Vi phạm 1 2012

(Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm của Cục Hải quan tỉnh BR - VT).

Trong năm 2010, đã có 666 doanh nghiệp tiến hành làm thủ tục hải quan tại

Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Qua thống kê, nhận thấy hầu hết các công ty

hoạt động theo mô hình công ty TNHH và công ty cổ phần (382 công ty TNHH,

259 công ty cổ phần). Các công ty hợp danh phần lớn phần lớn là các công ty hoạt

động theo hình thức nhà thầu công trình, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây

dựng, ít tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Doanh nghiệp tư nhân trong khu

54

vực tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên ít có hoạt

động xuất nhập khẩu (11 doanh nghiệp).

Trong năm 2012, qua công tác kiểm tra trị giá hải quan đã phát hiện 48

trường hợp gian lận về trị giá. Các hành vi gian lận này do 15 công ty tiến hành,

trong đó chủ yếu vẫn là các công ty hoạt động theo mô hình công ty TNHH và công

ty cổ phần (9 trường hợp vi phạm do công ty TNHH thực hiện và 5 trường hợp do

công ty cổ phần). Do số lượng doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh ít tham

gia hoạt động xuất nhập khẩu, nên qua kiểm tra chỉ có 01 trường hợp doanh nghiệp

tư nhân vi phạm các quy định về trị giá hải quan.

Việc nhận diện được các chủ thể của gian lận trị giá hải quan sẽ làm cơ sở

trong việc cập nhật thông tin về tính tuân thủ pháp luật trị giá hải quan của các công

ty khi Tổng cục Hải quan yêu cầu.

* Kiểm tra trị giá Hải quan sau khi thông quan hàng hóa:

Việc kiểm tra trị giá hải quan sau khi thông quan hàng hóa được thực hiện

bởi ba lực lượng: lực lượng phúc tập tại Chi cục Hải quan, lực lượng kiểm tra sau

thông quan và lực lượng điều tra chống buôn lậu.

- Đối với lực lượng phúc tập tại Chi cục Hải quan:

Công chức Hải quan làm công tác phúc tập tại các Chi cục tiến hành kiểm tra

hồ sơ hải quan, mức giá khai báo và các tài liệu có liên quan đến việc xác định trị

giá tính thuế của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy nhiên, công tác phúc tập là

công tác “kiểm tra lại” các bước nghiệp vụ mà công chức ở các khâu nghiệp vụ

trong quá trình thông quan đã thực hiện. Vì vậy, trên thực tế, việc kiểm tra trị giá ở

bước này hầu hết làm cơ sở để chuyển hồ sơ cho bộ phận KTSTQ tiếp tục xác minh.

- Đối với lực lượng điều tra chống buôn lậu:

Tổ chức kiểm tra, xác minh các vụ việc có dấu hiệu gian lận lớn về trị giá

như: Làm giả hồ sơ, chứng từ; móc ngoặc để đồng loạt hạ thấp hoặc khai khống trị

giá do lực lượng kiểm tra sau thông quan chuyển hoặc những vụ việc gian lận nổi

cộm, có tính chất hệ thống, phạm vi rộng do lực lượng chống buôn lậu phát hiện.

55

Lực lượng chống buôn lậu của Cục Hải quan Tỉnh đã phối hợp hiệu quả với

lực lượng Bộ đội Biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển: tiến hành tổ chức khảo sát

các khu vực trọng điểm để xây dựng kế hoạch phối hợp tuần tra kiểm soát; Phối hợp

trao đổi thông tin về hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên

giới, gian lận thương mại, thông tin về các đường dây, đối tượng đã và đang hoạt

động trên địa bàn quản lý.

Ngoài ra, lực lượng chống buôn lậu của Cục Hải quan Tỉnh đã phối hợp tốt

với lực lượng Quản lý thị trường Tỉnh: tham gia các hội thảo, lớp tập huấn nghiệp

vụ về công tác Sở hữu trí tuệ, chống hàng giả và gian lân thương mại tổ chức trong

địa bàn Tỉnh.

Tuy nhiên, hoạt động chống buôn lậu chưa phát huy được tầm quan trọng

của mình trong công tác quản lý về trị giá hải quan. Trên thực tế, lực lượng này mới

chỉ dừng lại ở hoạt động thu thập thông tin về giá bán tại thị trường nội địa của một

số mặt hàng cung cấp cho lực lượng kiểm tra trị giá trong thông quan.

Điều này cũng đặt ra bài toán cho các cấp lãnh đạo Cục Hải quan Tỉnh trong

thời gian tới nhằm phát huy vai trò của lực lượng điều tra chống buôn lậu trong việc

quản lý trị giá hải quan trên địa bản.

- Đối với lực lượng kiểm tra sau thông quan:

Tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhiệm vụ kiểm tra sau thông quan

được giao cho Chi cục Kiểm tra sau thông quan thực hiện.

Nhằm phát huy vai trò của công tác Kiểm tra sau thông quan hoạt động thực

sự có hiệu quả đúng theo tinh thần của Luật Hải quan sửa đổi, Chi cục Kiểm tra sau

thông quan - Cục Hải quan tỉnh BR-VT đã thường xuyên xây dựng chương trình, kế

hoạch chỉ đạo công tác phúc tập hồ sơ Hải quan tại các Chi cục Hải quan Cửa khẩu,

đồng thời triển khai công tác KTSTQ theo đúng quy định, đẩy mạnh việc kiểm tra,

rà soát thu thập thông tin nhằm phát hiện các trường hợp gian lận thương mại, lên

kế hoạch xác minh dấu hiệu vi phạm cụ thể từng trường hợp và có biện pháp xử lý

phù hợp theo quy định của Pháp luật. Nhờ vậy, trong những năm qua công tác

KTSTQ đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.

56

Bảng 2.8. Kết quả KTSTQ từ 01/01/2008 đến 31/8/2012

KẾT QUẢ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN TỪ NĂM 01/01/2008 ĐẾN 31/8/2012

SỐ CUỘC PHÁT HIỆN VI PHẠM VỀ

SỐ THUẾ ẤN ĐỊNH TĂNG (đơn vị tính: đồng)

SỐ CUỘC KIỂM TRA

TỶ LỆ VI PHẠM VỀ TRỊ GIÁ TRÊN TỔNG SỐ CÁC VI PHẠM (đơn vị tính: %)

TT Năm

THU PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH (đơn vị tính: đồng)

Số cuộc phát hiện vi phạm

Khác

Tổng số

Trị giá

GC,SXXK (ĐM…)

Số lượng

Mã hàng

Trị giá

Lượng hàng

Tổng số

Chính sách (XX…)

Vi phạm về trị giá hải quan

Tại trụ sở DN

Tại trụ sở CQ HQ

1

8

6

2

4

2

2

3,865,153,470

21,000,000

25

50

953,045,234

2008

2

14

14

0

10

10

2,725,641,727

2,725,641,727

17,691,109

100

100

2009

3

12

10

2

7

4

3

2,704,832,983

265,963,671

0

0

2010

4

60

58

2

9

7

2

5,986,266,509

6,784,352,319

5,718,209,259

88

22

2011

5

42

39

3

10

5

4

1

2,575,400,948

2,753,609,963

376,674,845

94

40

2012

9

40

4

45

45

136

127

18

18

0

0

8,561,667,457 18,833,590,462

6,399,538,884

0

TỔNG CỘNG

(Nguồn: Chi cục KTSTQ – Báo cáo các năm)

57

Từ ngày 01/01/2008 đến 31/8/2012, Chi cục KTSTQ đã tiến hành 136 cuộc

kiểm tra, trong đó 127 trường hợp kiểm tra tại cơ quan Hải quan, 9 trường hợp kiểm

tra tại trụ sở doanh nghiệp. Trong quá trình KTSTQ đã phát hiện 40 trường hợp vi

phạm, trong đó chủ yếu là các vi phạm về trị giá hải quan với 18 vụ (chiếm 45% về

số vụ vi phạm). Nhờ đó, chỉ trong vòng hơn 4 năm, Chi cục KTSTQ đã tiến hành ấn

định thuế và truy thu số thuế lên đến hơn 18 tỷ, trong đó truy thu liên quan đến gian

lận về trị giá hải quan là 8,56 tỷ, chiếm 45%. Gian lận về trị giá hải quan bị lực

lượng KTSTQ phát hiện và truy thu chiếm 45% về số lượng lẫn trị giá trên tổng số

các vụ vi phạm chứng tỏ tình hình gian lận thương mại qua giá ngày càng tăng cao.

Riêng trong năm 2008, Chi cục KTSTQ tiến hành kiểm tra 8 cuộc, phát hiện 4

trường hợp có vi phạm, truy thu trên 3,8 tỷ đồng, trong đó vi phạm trong lĩnh vực trị

giá hải quan là 2 vụ, truy thu số tiền thuế trên 950 triệu, chiếm 50% về số vụ và gần

25% về số thuế truy thu.

Năm 2009, qua kiểm tra hồ sơ của 14 doanh nghiệp, Chi cục KTSTQ phát

hiện ra 10 trương hợp gian lận thương mại qua trị giá hải quan, truy thu về cho nhà

nước hơn 2,7 tỷ đồng. Đây là năm thực hiện KTSTQ theo chuyên đề liên quan đến

khoản phải cộng, đặc biệt là các trường hợp không cộng phí bốc dỡ tại cảng vào trị

giá hải quan. Vì vậy, trong năm 2012, các trường hợp gian lận thương mại qua trị

giá hải quan chiếm 100% về số vụ cũng như số thuế.

Riêng trong năm 2010, Chi cục KTSTQ đã tiến hành kiểm tra 10 trường hợp,

phát hiện 7 trường hợp vi phạm, trong đó không có trường hợp nào vi phạm về trị

giá hải quan. Do đây là năm thực hiện kế hoạch kiểm tra việc áp mã số thuế của các

doanh nghiệp nhập khẩu lúa mì nên không kiểm tra các vấn đề liên quan đến trị giá

hải quan.

Từ đầu năm 2011 đến 31/8/2012, qua kiểm tra 97 trường hợp tại cơ quan hải

quan, 5 trường hợp tại trụ sở doanh nghiệp đã phát hiện 19 vụ vi phạm, truy thu hơn

9,5 tỷ đồng, trong đó có 6 trường hợp vi phạm về trị giá hải quan, truy thu hơn 8,5

tỷ đồng. Đây là giai đoạn phát hiện các gian lận về trị giá hải quan với số thuế truy

thu lớn. Cả 6 trường hợp nêu trên đều do Chi cục KTSTQ phát hiện với hành vi

58

không khái các khoản phí bảo hiểm, phí bốc xếp vào trị giá hải quan trong một thời

gian dài với số lượng hàng lớn. Điển hình là trường hợp truy thu đối với Công ty cổ

phần thép Pomina 2 số tiền thuế lên đến hơn 2,3 tỷ đồng; truy thu Tổng công ty

Thép Việt Nam gần 2 tỷ đồng. Những con số trên đây đã minh chứng vai trò quan

trọng của KTSTQ trong công tác quản lý nhà nước về trị giá hải quan.

Nhìn chung, trong những năm qua, nhờ xác định đúng trọng tâm của công

tác KTSTQ cùng với sự cố gắng của đội ngũ công chức, Chi cục KTSTQ đã khẳng

định vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về trị giá hải quan. Ngoài

việc đảm bảo tránh thất thu cho ngân sách nhà nước, công tác KTSTQ còn là khâu

“chốt chặn” của các khâu nghiệp vụ trong thông quan, đồng thời tạo tính răn đe đối

với các doanh nghiệp khác đang có ý định lợi dụng kẽ hở pháp luật để hưởng lợi bất

chính.

2.2.3.2. Các hình thức gian lận trị giá hải quan.

Gian lận trị giá hải quan được chia làm 02 nhóm cơ bản: khai thấp trị giá hải

quan và khai tăng trị giá so với giá thực thanh toán.

* Khai thấp trị giá hải quan nhằm làm giảm số thuế phải nộp:

Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, nước ta luôn được lọt vào nhóm

các nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Đi liền với đó là sự gia tăng

nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu cũng như hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, cùng với sự

gia tăng nhập khẩu là sự gia tăng gian lận trị giá hải quan theo hướng khai thấp trị

giá để giảm số thuế phải nộp. Đây là những gian lận phổ biến mà Cục Hải quan tỉnh

BR-VT đang tập trung để giải quyết trong những năm qua.

Những gian lận này tập trung chủ yếu ở các nhóm hành vi sau đây:

Thứ nhất: Sử dụng chứng từ dành riêng cho cơ quan Hải quan (for customs

purpose only) nhằm khai báo giá nhập khẩu thấp hơn giá thực thanh toán. Doanh

nghiệp và người bán lập thành 02 bộ chứng từ thương mại, trong đó có một bộ ghi

số tiền thấp hơn giá thực tế của hàng hóa. Doanh nghiệp sử dụng bộ chứng từ này

làm cơ sở để khai báo với cơ quan Hải quan và thanh toán qua ngân hàng. Song

song với đó, người nhập khẩu thực hiện việc “chuyển tiền lậu” để chuyển số tiền

59

còn thiếu cho người bán. Như vậy, doanh nghiệp xuất trình được chứng từ “thật” (vì

chứng từ do đích thân người bán phát hành) và phù hợp với các chứng từ thanh toán

qua ngân hàng nên cơ quan hải quan sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm tra

“giá thực thanh toán” đối với các lô hàng này.

Thực tế trong những năm qua, Cục Hải quan tỉnh BR-VT đã tiến hành kiểm

tra và phát hiện nhiều trường hợp sử dụng chứng từ dành riêng cho cơ quan hải

quan, chủ yếu là các lô hàng có trị giá lớn, thuế suất thuế nhập khẩu cao như ô tô,

xe máy... Các hành vi gian lận này chủ yếu được phát hiện khi có sự vào cuộc của

Chi cục KTSTQ hoặc nhờ sự cung cấp giá bán tại nước xuất khẩu.

Thứ hai: Người nhập khẩu không khai báo các khoản phí phải cộng liên

quan đến lô hàng.

Theo quy định tại Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/03/2007 của Chính

phủ quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu,

khoản phải cộng bao gồm: Chi phí hoa hồng bán hàng và phí môi giới; Chi phí bao

bì được coi là đồng nhất với hàng hoá nhập khẩu; Chi phí đóng gói, bao gồm cả chi

phí vật liệu và chi phí nhân công; Tiền bản quyền, phí giấy phép sử dụng các quyền

sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hoá nhập khẩu; Chi phí vận tải, bốc hàng, dỡ hàng,

chuyển hàng có liên quan đến việc vận chuyển hàng nhập khẩu đến cửa khẩu nhập;

Chi phí bảo hiểm để vận chuyển hàng hoá nhập khẩu đến cửa khẩu nhập. Tuy

nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp nhập khẩu không khai báo và xuất trình hóa

đơn thanh toán các loại chi phí này. Qua công tác KTSTQ tại Cục Hải quan tỉnh

BR-VT đã phát hiện nhiều trường hợp gian lận, trong đó phổ biến là hành vi không

khai phí bốc xếp tại cửa khẩu nhập (phí THC – Terminal Handing Charge - Phí xếp

dỡ tại cảng). Chi cục KTSTQ đã tiến hành truy thu thuế và xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực Hải quan đối với các trường hợp vi phạm. Những vi phạm này

thường xảy ra đối với các trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu hàng rời, hàng lỏng

do chi phí bốc xếp đối với loại hàng này cao hơn nhiều lần so với hàng hóa chứa

trong các container.

60

Ngoài ra, nhiều trường hợp nhà nhập khẩu không khai báo tiền bản quyển,

phí giấy phép hoặc không khai báo phần mềm để trốn thuế.

Hiện nay, khi nhập khẩu các dây chuyền công nghệ, đi kèm với những máy

móc hiện đại là những “hệ điều hành”, phần mềm điều khiển hệ thống. Những phần

mềm này là phần không thể tách rời của dây chuyền và thường chiếm tỷ lệ giá trị

không nhỏ trong toàn bộ dây chuyền. Theo quy định thì đây là khoản phải cộng vào

trị giá tính thuế. Tuy nhiên, các phần mềm là sản phẩm vô hình, thường được

chuyển giao và cài đặt qua hệ thống internet nên cơ quan hải quan sẽ khó kiểm soát

được hoạt động nhập khẩu.

Thứ ba: Doanh nghiệp lợi dụng quy định hàng giảm giá, khuyến mãi để khai

giảm trị giá tính thuế đối với các mặt hàng thuộc Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu

cấp Tổng cục, Danh mục rủi ro hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cấp Cục. Theo quy

định tại điểm 2.2.4 khoản 2 Điều 14 Thông tư 205/2010/TT-BTC ngày 15 tháng 12

năm 2010, các trường hợp giảm giá được xem xét là khoản điều chỉnh trừ bao gồm:

giảm giá theo cấp độ thương mại của giao dịch mua bán hàng hóa; giảm giá theo số

lượng hàng hóa mua bán; giảm giá theo hình thức và thời gian thanh toán.

Bằng việc khai báo khoản giảm giá, doanh nghiệp sẽ không phải “đối mặt”

với việc “nghi ngờ” về trị giá hải quan mà vẫn hạ thấp được trị giá. Cụ thể: doanh

nghiệp khai báo trị giá tương đương với mức giá tại Danh mục rủi ro cấp Tổng cục

và cấp Cục đồng thời kê khai khoản chiết khấu, giảm giá 5%. Như vậy, mức giá

khai báo (chưa bao gồm khoản chiết khấu, giảm giá) bằng với mức giá trong Danh

mục rủi ro nên không thuộc đối tượng nghi vấn, nhưng sau khi trừ đi khoản giảm

giá thì trị giá hải quan làm căn cứ tính thuế sẽ thấp hơn. Đây là hành vi gian lận khá

tinh vi và khó quản lý.

Tại Cục Hải quan Tỉnh, trong thời gian qua, nhiều trường hợp khai báo các

khoản triết khấu, giảm giá. Qua kiểm tra các hồ này, hầu hết liên quán đến mặt hàng

ô tô, xe máy nhập khẩu. Doanh nghiệp thường mở hợp đồng nhập khẩu khoảng 100

đến 200 xe máy loại Honda Air Blade, Honda PCX từ Thái Lan hoặc 80 đến 100 xe

mô tô phân khối lớn, hoặc 5 đến 10 xe ô tô... Các trường hợp này, hồ sơ nhập khẩu

61

thường rất chặt chẽ, thực hiện việc thanh toán qua ngân hàng hàng bằng phương

thức L/C hoặc TTR cho toàn bộ hàng hoá nhập khẩu thuộc hợp đồng mua bán. Tại

thời điểm đăng ký tờ khai, doanh nghiệp tính, nộp thuế theo giá chưa được trừ

khoản giảm giá; Nộp hồ sơ đề nghị xem xét được trừ khoản giảm giá khi hoàn thành

việc nhập khẩu và thanh toán cho toàn bộ hàng hoá thuộc hợp đồng. Vì vậy, khi

kiểm tra trị giá hải quan tại khâu đăng ký tờ khai, công chức được phân công

thường chuyển tham vấn để có thể kiểm tra kỹ lưỡng giá khai báo của doanh

nghiệp. Nếu chưa đủ căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo, sau khi kết thúc hợp đồng

nhập khẩu, các Chi cục Hải quan cửa khẩu chuyển hồ sơ về Chi cục KTSTQ để

kiểm tra toàn diện hợp đồng giảm giá của doanh nghiệp. Nhờ việc kiểm tra qua

nhiều bước như vậy nên đã phát hiện nhiều vụ sai phạm, bác bỏ khoản giảm giá,

truy thu hàng trăm triệu đồng cho ngân sách nhà nước.

Thứ tư: Khi khai báo với cơ quan, người nhập khẩu khai thấp trị giá khi

không ghi số tiền đã ứng trước mua hàng hóa vào phần trị giá thanh toán của lô

hàng nhập.

Thông thường trên thực tế, khi mua hàng các nhà xuất khẩu thường yêu cầu

những nhà nhập khẩu ứng trước cho họ một khoản tiền nhất định. Và khi nhà nhập

khẩu thanh toán hết toàn bộ số tiền của lô hàng thì trên hoá đơn thương mại mà nhà

xuất khẩu gửi cho nhà nhập khẩu chỉ ghi số tiền mà nhà nhập khẩu thanh toán sau

này, mà không ghi số tiền mà nhập khẩu đã ứng trước trên hoá đơn thương mại.

Đây là trường hợp gian lận thương mại qua trị giá hải quan mà các doanh nghiệp sử

dụng khá nhiều, đặc biệt tại các Cục Hải quan Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Dương,

Đồng Nai... Tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu hiện đã phát hiện ra một vài

trường hợp nghi vấn, hiện các Chi cục Hải quan cửa khẩu đã lập hồ sơ và chuyển về

Chi cục KTSTQ theo dõi. Dự báo trong tương lai, loại hình gian lận này sẽ có xu

hướng gia tăng, nên tại đơn vị, lãnh đạo Cục Hải quan Tỉnh đã yêu cầu các công

chức ở các bước có liên quan nghiêm túc theo dõi.

Thứ năm: Lợi dụng mối quan hệ đặc biệt với người bán để thực hiện “mua

bán thỏa thuận”.

62

Đây là hành vi gian lận biến tướng của các loại hành vi trên. Bằng mối quan

hệ đặc biệt với người bán - thường là mối quan hệ công ty mẹ - công ty con, đại lý

độc quyền của các công ty nước ngoài, doanh nghiệp nhập khẩu thỏa thuận với

người bán cung cấp hàng hóa có tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho thị trường Việt Nam.

Vì vậy, cơ quan Hải quan sẽ không có căn cứ “hàng giống hệt, tương tự” để làm cơ

sở kiểm tra giá. Ví dụ điển hình là trường hợp của Công ty CP ô tô Hyundai Thành

Công nhập khẩu và phân phối xe ô tô Hyundai tại thị trường Việt Nam. Khi công

chức kiểm tra trị giá hải quan hàng nhập khẩu thì không có dữ liệu giá làm cơ sơ so

sánh, đối chiếu. Khi tiến hành tham vấn, cơ quan hải quan đưa ra giá bán tại nước

xuất khẩu làm cơ sở nghi vấn thì được doanh nghiệp giải thích hàng nhập khẩu của

doanh nghiệp có tiêu chuẩn kỹ thuật thấp hơn như hệ số an toàn, tiêu chuẩn kỹ

thuật, trang bị nội thất thấp hơn so với hàng hóa tại nước xuất khẩu nên giá thấp hơn

là phù hợp. Vì vậy, Cục Hải quan Tỉnh chưa đủ căn cứ để bác bỏ trị giá khai báo

của doanh nghiệp và đền nghị Chi cục KTSTQ tiếp tục theo dõi và lên kế hoạch

kiểm tra trong thời gian tới.

Như chúng ta đã phân tích ở trên xu hướng giân lận khai thấp trị giá hàng

nhập khẩu có xu hướng tăng mạnh trong giai đoạn sắp tới. Tuy vậy việc cải cách

hành chính, minh bạch hóa hệ thống tài chính Việt Nam, văn hóa thanh toán hợp

đồng mua bán hàng hóa qua ngân hàng ngày càng phổ biến, cùng với sự quan tâm

lớn của Chính phủ, Bộ Tài Chính và Tổng cục Hải quan, chất lượng công chức làm

công tác trị giá ngày càng tăng, hệ thống cơ sở pháp lý phục vụ công tác đấu tranh

chống gian lận ngày càng hoàn thiện, công tác thu thập thông tin Hải quan, nghiên

cứu giá thị trường… cơ sở để công tác tham vấn giá hiệu quả hơn. Với một loạt tín

hiệu tích cực, chúng ta tin tưởng rằng Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ sớm

giải quyết được vấn nạn trên.

* Khai tăng trị giá để tăng số thuế được hoàn hoặc tăng trị giá đầu vào:

Hiện nay, hành vi gian lận về trị giá diễn ra hết sức phức tạp và khó kiểm

soát. Không chỉ có hành vi khai trị giá thấp hơn trị giá thanh toán, thực tế còn diễn

ra tình trạng khai trị giá cao hơn trị giá thực tế, đặc biệt với các máy móc tạo tài sản

63

cố định. Điều này có vẻ trái ngược với những gì chúng ta thường nghĩ. Vậy tại sao

doanh nghiệp lại muốn khai trị giá cao hơn trị giá thực tế? “Chìa khoá” của vấn đề

này nằm ở việc tính khấu hao tài sản cố định.

Theo nguyên tắc kế toán, trị giá của tài sản cố định được xác định như sau:

Trị giá tài Trị giá tính Các khoản thuế Các chi phí khác (chi sản cố định = thuế hàng + phải nộp (NK, + phí vận chuyển, chi phí (để xác định nhập khẩu VAT, TTĐB…) vận hành, chạy thử...) khấu hao)

Đối với những lô hàng nhập khẩu là máy móc tạo tài sản cố đinh, doanh

nghiệp khai trị giá cao hơn trị giá thực tế. Nhờ đó, trị giá của “khối tài sản cố định”

đó được nâng cao; tăng số thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng phải nộp (thông

thường, thuế suất thuế thuế nhập khẩu của các loại máy móc bằng 0% nên số thuế

nhập khẩu phải nộp bằng 0). Tùy theo phương pháp tính khấu hao tài sản cố định

của doanh nghiệp, tuy nhiên trị giá tài sản cố định tăng lên thì khoản khấu hao tài

sản cố định sẽ tăng. Theo quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp Luật số

14/2008/QH12 năm 2008 thì khoản khấu hao tài sản cố định, các khoản thuế phải

nộp ở khâu nhập khẩu là chi phí hợp lý và được trừ ra khi xác định thu nhập chịu

thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, với việc khai tăng trị giá tính thuế sẽ dẫn tới

giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.

Hành vi khai tăng trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tạo tài sản cố định còn đặc

biệt nguy hiểm đối với các liên doanh kinh tế mà doanh nghiệp nước ngoài góp vốn

bằng tài sản cố định. Với việc khai tăng trị giá tài sản cố định, doanh nghiệp nước

ngoài sẽ tăng tỷ lệ vốn góp trong liên doanh (mà trên thực tế phần vốn góp đó có giá

trị nhỏ hơn).Vì vậy, khi chia lợi nhuận theo tỷ lệ phần vốn góp, đương nhiên doanh

nghiệp nước ngoài sẽ được chi phần lợi nhuận lớn hơn. Đây chính là hành vi

“chuyển giá” - một hình thức chuyển lợi nhuận ra nước ngoài rất tinh vi mà trong

xu thế phát triển kinh tế hiện nay nước ta cần hết sức cảnh giác và ngăn chặn. Hoặc

giả trường hợp, vì khấu hao tài sản cố định quá lớn (do trị giá tài sản cố định khai

quá cao), doanh nghiệp liên doanh lâm vào tình trạng thua lỗ “giả”. Phía doanh

64

nghiệp nước ngoài sẽ lợi dụng cơ hội này dần mua lại phần vốn góp của doanh

nghiệp nước ngoài, biến công ty liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài.

Hành vi khai sai trị giá đang là vấn đề rất khó quản lý. Từ trước tới nay, công

cụ chủ yếu để cơ quan hải quan xác định căn cứ giá là cơ sở dữ liệu giá hàng hóa đã

nhập khẩu. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu giá hàng hóa đã nhập khẩu là máy móc, thiết bị

tạo tài sản cố định còn rất ít. Đồng thời, đối với các dây chuyền công nghê, máy

móc, thiết bị thì trị giá phụ thuộc vào các yếu tố như tính năng, năm sản xuất, công

nghệ đó của năm nào?... Vì vậy, có thể tên gọi của hàng nhập đầu tư giống nhau,

nhưng việc lấy đó làm giá so sánh thì chưa đủ tính thuyết phục. Chính những điều

này khiến cho cơ quan hải quan Việt Nam nói chung và Cục Hải quan tỉnh BR-VT

nói riêng gặp khó khăn khi xác định trị giá hàng nhập đầu tư.

Ngoài ra, tình trạng khai tăng trị giá giải quan còn tập trung vào các mặt

hàng là nguyên liệu sản xuất của các doanh nghiệp nước ngoài. Tương tự như với

việc nhập khẩu máy móc tạo tài sản cố định, việc khai tăng trị giá nguyên liệu làm

chi phí hợp lý được trừ ra khỏi doanh thu chịu thuế tăng. Điều này sẽ làm thu nhập

chịu thuế giảm, dẫn tới giảm số thuế TNDN phải nộp.

Tình hình gia tăng gian lận thương mại về trị giá hải quan trong thời gian tới

là điều khó tránh khỏi. Nhưng với việc phân tích, đánh giá kỹ các hành vi gian lận

có thể xảy ra sẽ giúp Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đề ra được các phương

án phòng, chống gian lận trị giá hải quan có hiệu quả.

2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải

quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2.3.1. Những mặt đạt được.

Mặc dù về thực chất, công tác quản lý trị giá hải quan theo nguyên tắc của

Hiệp định thực hiện Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và thương mại mới bắt

đầu đi vào thực hiện từ năm 2002 nhưng cũng đã đạt được những kết quả nhất định,

bao gồm:

2.3.1.1. Đối với công tác quản lý hải quan:

- Công tác quản lý trị giá hải quan đã trở thành một trong những nghiệp vụ

65

quản lý nhà nước về hải quan cơ bản, hình thành một khâu mới trong quy trình

nghiệp vụ hải quan.

Trước khi quản lý trị giá hải quan theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện

Điều VII Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, công chức hải quan chỉ

kiểm tra, đối chiếu giá khai báo của doanh nghiệp với Bảng giá tối thiểu.

Kể từ năm 2002 đến nay, công tác quản lý trị giá hải quan đã trở thành một

khâu nghiệp vụ hải quan quen thuộc đối với công chức hải quan. Các công chức hải

quan ở các khẩu nghiệp vụ Tiếp nhận tờ khai, Phúc tập hồ sơ, KTSTQ, Chống buôn

lậu thực hiện chức năng kiểm tra, xác định trị giá theo quy định. Từ đó, công chức

có thể xác định được mức độ chính xác, trung thực của trị giá khai báo.

- Nghiệp vụ quản lý trị giá hải quan tạo cho cơ quan hải quan một kênh

thông tin mới nhằm thu thập thông tin về nhân thân doanh nghiệp.

Thông qua quá trình kiểm tra giá, công chức hải quan có được nhiều tài liệu,

chứng từ, giấy tờ hay số liệu về quá trình xây dựng và phát triển của từng doanh

nghiệp, hiểu biết lịch sử hoạt động của từng đơn vị kinh doanh, biết những điểm

mạnh, điểm yếu của người khai hải quan trong khi khai báo trị giá hoặc khai báo hải

quan. Đây là những thông tin hết sức quan trọng để đánh giá mức độ tin cậy của

doanh nghiệp, hay nói cách khác là đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh

nghiệp, phục vụ áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong quản lý giá nói riêng và quản

lý hải quan nói chung.

- Hoạt động quản lý trị giá hải quan góp phần quan trọng trong việc bảo đảm

thu đúng, thu đủ thuế vào ngân sách nhà nước.

Quản lý trị giá hải quan, về cơ bản là tìm cách xác minh tính trung thực,

chính xác của trị giá khai báo. Trong trường hợp xác định được rằng trị giá khai báo

là không trung thực, không phản ánh đúng thực tế thương mại, không phải là giá

thực thanh toán của hàng hóa mà đó phải là một mức giá khác thì cơ quan hải quan

có thể bác bỏ trị giá khai báo, yêu cầu người khai hải quan xác định lại hoặc công

chức hải quan tự xác định rồi ấn định cho doanh nghiệp. Do vậy, mức thuế thu được

từ doanh nghiệp sẽ không phải là mức thuế mà doanh nghiệp đã tính toán khi khai

66

báo ban đầu. Đó phải là số thuế phản ánh chính xác hơn nghĩa vụ về kinh tế của

doanh nghiệp đối với ngân sách khi tham gia kinh doanh nhập khẩu hàng hóa. Điều

này cũng chính là mục tiêu cơ bản của thu ngân sách, là thu đúng, thu đủ và nuôi

dưỡng nguồn thu.

- Hoạt động quản lý trị giá hải quan thúc đẩy việc thực hiện các cam kết quốc

tế trong lĩnh vực hải quan và việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản lý hải

quan, sử dụng các công cụ quản lý hải quan hiện đại.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế, Việt Nam lần lượt gia nhập nhiều tổ chức

kinh tế đa phương như APEC, WTO, AFTA và ký kết các hiệp định, điều ước hợp

tác song phương và đa phương với các quốc gia, đối tác kinh tế trên thế giới. Kết

quả của quá trình này là Việt Nam cam kết thực hiện hàng loạt các điều ước quốc tế

trong lĩnh vực hải quan như Công ước Kyoto sửa đổi, Hiệp định thành lập khu vực

mậu dịch tự do Asean… Hầu hết các điều ước quốc tế đều hướng đến mục tiêu tạo

thuận lợi cho giao lưu buôn bán quốc tế, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan hải

quan đối với dòng chảy hàng hóa, cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan

giữa các nước…

Kết quả là đến năm 2008, Hải quan Việt Nam đã chính thức trở thành thành

viên tham gia Công ước Kyoto sửa đổi, có hiệu lực áp dụng tại Việt Nam từ năm

2011. Hải quan Việt Nam cũng đã ký kết các văn kiện hợp tác với nhiều cơ quan

Hải quan các nước Nhật Bản, Trung Quốc, Cu Ba, Hàn Quốc, Nga, Hoa Kỳ, v.v…

- Công tác quản lý trị giá hải quan thúc đẩy công chức hải quan học tập nâng

cao trình độ nghiệp vụ hải quan và nghiệp vụ kinh tế khác.

Để có thể chuẩn bị tốt cho một hoạt động quản lý trị giá hải quan, hoặc để

hiểu được thấu đáo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kiểm tra trị giá, bắt

buộc công chức hải quan phải có kế hoạch tự mình nghiên cứu, học tập nâng cao

trình độ, bên cạnh việc tham gia những khóa đào tạo, tập huấn do Ngành cung cấp.

Do vậy, hàng loạt công chức hải quan đang làm việc trong lĩnh vực giá, thuế đã

tham gia các khóa học sau đại học, hoặc học thêm các chuyên ngành bổ trợ khác

như ngoại thương, vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, sở hữu trí tuệ, kế toán doanh

67

nghiệp, kiểm toán…

- Công tác quản lý trị giá hải quan góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp

luật của doanh nghiệp.

Xét trên khía cạnh tuân thủ pháp luật, có hai nguyên nhân khiến doanh

nghiệp không tuân thủ là do không hiểu biết đầy đủ và cố tình tìm cách tận dụng các

khe hở của pháp luật.

Do trị giá hải quan là vấn đề mới, nhiểu nội dung mang tính kỹ thuật và liên

quan nhiều đến chuyên môn kế toán doanh nghiệp, là một chuyên ngành khá phức

tạp, nên có nhiều quy định của pháp luật về xác định trị giá khiến cho người khai

hải quan bị lúng túng, không thông thạo, dẫn đến xác định không chính xác trị giá

của hàng hóa nhập khẩu. Thông qua việc kiểm tra trị giá, công chức hải quan có thể

giải thích đầy đủ hơn để người khai hải quan hiểu được lý do vì sao và phải xác

định trị giá hải quan như thế nào cho đúng. Vì thế, khả năng tuân thủ pháp luật của

doanh nghiệp được nâng lên.

Mặt khác, nếu doanh nghiệp cố tình không tuân thủ thì kiểm tra trị giá hải

quan giá giúp tìm ra những doanh nghiệp xấu, ý thức tuân thủ pháp luật kém, từ đó

có biện pháp xử lý hiệu quả và thích đáng.

2.3.1.2. Đối với hoạt động của cộng đồng kinh doanh:

- Công tác quản lý trị giá hải quan thúc đẩy doanh nghiệp quản lý kinh doanh

chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.

Như đã nêu ở trên, công tác quản lý trị giá hải quan đòi hỏi doanh nghiệp

phải chuẩn bị và xuất trình hàng loạt những chứng từ, tài liệu nhằm bảo vệ tính

trung thực, chính xác của trị giá khai báo. Điều này bắt buộc doanh nghiệp phải có

hệ thống quản lý thông tin, tài liệu thực sự có hiệu quả, từ đó giúp nâng cao chất

lượng quản lý kinh doanh của chính bản thân doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, trải qua các bước kiểm tra trị giá hải quan, doanh nghiệp có

thêm cơ hội tự kiểm tra lại hoạt động kinh doanh của chính bản thân mình, từ đó

phát hiện các khiếm khuyết hoặc nội dung cần điều chỉnh, làm nâng cao hơn hiệu

quả kinh doanh.

68

- Quản lý trị giá hải quan tham gia tích cực vào việc tạo lập môi trường kinh

doanh bình đẳng.

Trong quá trình quản lý trị giá hải quan, cơ quan hải quan phải gặp và làm

việc với nhiều nguồn thông tin khác nhau, kiểm chứng được độ chính xác của các

nguồn thông tin. Quá trình này cũng tạo điều kiện cho chính cộng đồng doanh

nghiệp trực tiếp tham gia vào việc đánh giá chính nội bộ các doanh nghiệp, cô lập

những doanh nghiệp không tốt, khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp thông tin

sạch cho cơ quan Hải quan và do vậy, làm cho chính môi trường bên trong cộng

đồng doanh nghiệp được tốt hơn. Đó là điều kiện rất tốt và là điều kiện cần cho một

môi trường kinh doanh minh bạch và cạnh tranh bình đẳng.

2.3.2. Những vấn đề còn tồn tại.

2.3.2.1. Các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách:

Việc xây dựng pháp luật của nước ta hiện nay tuy được chú ý nhưng vẫn

trong tình trạng vừa thiếu, vừa không rõ ràng nên trong thực hiện thiếu cơ sở pháp

lý và dễ dẫn đến tùy tiện không thống nhất. Nhiều chế định, quy định được ban

hành đã lâu, nay không còn phù hợp, vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Các

văn bản pháp luật liên quan đến công tác quản lý trị giá hải quan do các cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền ban hành cũng chưa cụ thể hóa được những qui định của

luật một cách thống nhất, nhất là nhiều văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo nhau,

gây khó khăn cho những người thừa hành. Mặt khác, chính luật pháp không đồng

bộ hoàn chỉnh cũng sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, chủ quan trong kiểm tra, giám sát

và xử lý; đó là một trong những nguyên nhân dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, dẫn

đến mất lòng tin của nhân dân đối với việc quản lý và điều hành của Nhà nước.

Trên cơ sở hệ thống văn bản pháp quy và hướng dẫn như hiện nay, công tác

quản lý trị giá hải quan gặp phải những khó khăn nhất định về nghiệp vụ và thủ tục,

dẫn đến làm giảm hiệu quả của công việc. Đó là:

- Hệ thống văn bản hướng dẫn về trị giá hải quan chưa có tính ổn định:

Ngày 16/3/2007, Chính phủ chính thức thông qua và ban hành Nghị định

40/2007/NĐ-CP Quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất

69

khẩu, nhập khẩu. Đây là văn bản pháp lý quan trọng khẳng định quyết tâm của

Chính phủ trong việc quản lý trị giá hải quan theo Điều 7 Hiệp định trị giá

GATT/WTO.

Để thống nhất việc thực hiện các quy định của Chính phủ về quản lý trị giá

hải quan, ngày 21/5/2008 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 40/2008/TT-BTC hướng

dẫn Nghị định 40/2007/NĐ-CP về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá

xuất khẩu, nhập khẩu. Theo đó, ngày 04/8/2008, Tổng cục Hải quan ban hành

Quyết định 1636/QĐ-TCHQ ban hành quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế

đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Ngày 17/8/2009, Tổng Cục Hải quan ban hành Quyết định 1636/QĐ-TCHQ

ban hành quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu và thay thế Quyết định 1636/QĐ-TCHQ của Tổng Cục Hải quan ngày

04/8/2008.

Như vậy, chỉ trong vòng 02 năm Tổng Cục Hải quan đã ban hành tới 02 quy

trình kiểm tra, xác định trị giá hải quan. Sự thiếu ổn định trong văn bản hướng dẫn

đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.

Không chỉ dừng lại ở đây, ngày 15/12/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư

205/2010/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 40/2007/NĐ-CP và thay thế Thông tư

40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008.

Để phù hợp với một số quy định mới tại Thông tư 205/2010/TT-BTC, ngày

24/01/2011 Tổng Cục Hải quan ban hành Quyết định 103/QĐ-TCHQ về việc ban

hành quy trình kiểm tra, tham vấn và xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa xuất

khẩu, nhập khẩu trong quá trình làm thủ tục hải quan.

Như vậy, chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm nhưng Bộ Tài chính đã ban hành 02

thông tư, Tổng Cục Hải quan ban hành 03 quy trình về kiểm tra, xác định trị giá

tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Điều này đã gây ra rất nhiều khó

khăn đối với cả cơ quan hải quan lẫn doanh nghiệp trong quá trình thực hiện.

Không những vậy, Thông tư 40 và Thông tư 205 có những “cách hiểu” khác

nhau đối với cùng một vấn đề. Điển hình là xác định khoản phí xếp dỡ tại cảng (phí

70

THC) có được coi là khoản phải cộng hay không. Theo quy định tại Thông tư 40 thì

phí THC là khoản phải cộng; theo Thông tư 205 thì không phải cộng phí THC vào

trị giá tính thuế. Điều này ảnh hưởng nhiều đến kết quả kiểm tra, xác định giá và

gây ra tình trạng khiếu nại, khiếu kiện của doanh nghiệp đối với quyết định truy thu

thuế của cơ quan hải quan.

- Dữ liệu giá tại Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Tổng cục, Danh mục

rủi ro hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cấp Cục chưa được cập nhật chi tiết, kịp thời.

Phần lớn hàng hóa thuộc Danh mục đều là các mặt hàng có trị giá lớn, thuế suất cao

như ô tô, xe máy. Mức giá đối với các mặt hàng này phụ thuộc rất nhiều vào quy

cách, phẩm chất của hàng hóa (hay còn gọi là “option” của xe). Tuy nhiên, trên thực

tế, việc mô tả hàng hóa tại Danh mục chưa chi tiết nên dễ tạo ra kẽ hở để doanh

nghiệp lợi dụng khai thấp giá nhập khẩu.

Mặt khác, giá cả của hàng hóa thường xuyên biến động theo nhu cầu của thị

trường. Chẳng hạn, cùng mặt hàng xe Toyota Highlander model 2012 nhưng giá

bán tại thời điểm đầu năm thường cao hơn giá bán vào cuối năm khoảng vài trăm

USD. Tuy nhiên, việc cập nhật mức giá kiểm tra tại Danh mục thường trải qua

nhiều công đoạn từ đề xuất đến xét duyệt nên thường chậm hơn xu thế thay đổi giá

cả của hàng hóa.

- Hiện nay, chưa có hành lang pháp lý trong công tác “chống chuyển giá”.

Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành (Luật Ðầu tư nước ngoài, Luật

Thuế thu nhập doanh nghiệp) tuy đã có những quy định buộc các Doanh nghiệp khi

thực hiện các quan hệ giao dịch liên kết, phải kê khai và có nghĩa vụ xuất trình đầy

đủ các thông tin, tài liệu và chứng từ, để chứng minh cho việc lựa chọn và áp dụng

phương pháp xác định giá trong giao dịch liên kết là phù hợp với giá thị trường.

Để tăng cường công tác kiểm soát đối với hoạt động chuyển giá, ngày

22/4/2010 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực

hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan

hệ liên kết. Theo đó chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với

sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được chuyển dịch giữa các bên có quan hệ liên kết

71

không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường, nhằm tối thiểu hoá tổng số

thuế phải nộp của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, các quy định nêu trên vẫn giới hạn trong lĩnh vực quản lý của cơ

quan thuế, cơ quan hải quan gặp nhiều khó khăn vướng mắc do chưa có quy định

chế tài xử lý đối với các hành vi gian lận này.

2.3.2.2. Khó khăn về nguồn nhân lực

Như đã trình bày ở trên, số lượng cán bộ, công chức chuyên sâu về thuế - trị

giá, có kiến thức phù hợp để đảm nhận các công việc quản lý trị giá hải quan hiện

nay là chưa đầy đủ.

Hiện nay, Phòng Thuế xuất nhập khẩu là Phòng thực hiện chức năng tham

mưu, giúp việc cho Cục Hải quan tỉnh trong công tác quản lý trị giá hải quan gồm

02 lãnh đạo Phòng và 08 công chức thừa hành. Trong đó, số lượng cán bộ, công

chức chuyên trách về trị giá hải quan là 02 người và 01 lãnh đạo phụ trách. Do vậy,

xét về mặt số lượng thì với nguồn nhân lực như vậy, công việc xây dựng và hướng

dẫn thực hiện chính sách quản lý trị giá, bao gồm hướng dẫn xác định trị giá và

hướng dẫn quản lý trị giá, có thể nói là chưa đủ.

Ngoài ra, tại các Chi cục Hải quan cửa khẩu - là nơi trực tiếp thực hiện các

bước kiểm tra, xác định trị giá hải quan, chiếm tới 90% khối lượng công việc trong

toàn bộ quy trình quản lý trị giá hải quan thì cũng chỉ có 01 hoặc 02 công chức

chuyên trách về trị giá hải quan. Trong khi đó, để có thể thực hiện quản lý trị giá hải

quan có hiệu quả, công chức kiểm tra phải có trình độ hiểu biết tối thiểu về ngoại

thương, giao nhận hàng hóa, vận tải hàng hóa, bảo hiểm hàng hóa quốc tế, kế toán

doanh nghiệp, nghiệp vụ ngân hàng. Trong đó có những loại kiến thức không thuộc

chuyên ngành nghiệp vụ mà công chức được đào tạo trong trường đại học hoặc chỉ

được giới thiệu rất sơ lược thông qua các chương trình đào tạo nghiệp vụ tổng hợp

của ngành Hải quan.

Một yếu tố nữa dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực có trình độ để thực hiện

quản lý trị giá hải quan chính là do chính sách luân chuyển cán bộ tại các địa

phương. Có nhiều trường hợp công chức, sau khi làm việc tại vị trí giá – thuế ở các

72

Chi cục hải quan cửa khẩu một thời gian, thì được chuyển sang làm việc tại vị trí

kiểm tra hàng hóa, hoặc thậm chí là sang bộ phận xử lý, điều tra, thu thập rủi ro…

Có thể nói cách làm như vậy sẽ lãng phí những kinh nghiệm, kiến thức của công

chức tích lũy được sau một thời gian làm giá – thuế, trong khi công chức chuyển

đến vị trí làm việc mới sẽ lại phải nghiên cứu, tích lũy kiến thức mới để phục vụ

cho công việc mới.

2.3.2.3. Khó khăn về thông tin - cơ sở dữ liệu

Toàn bộ thông tin, cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động kiểm tra trị giá hải quan

hiện nay đều gói gọn trong chương trình quản lý giá GTT01.

Chất lượng nguồn thông tin trên hệ thống GTT01 đang là vấn đề đáng lo

ngại hiện nay. Tuy Tổng cục Hải quan đã đưa ra các tiêu chí khi cập nhật trị giá hải

quan vào hệ thông GTT01, nhưng các đơn vị hải quan địa phương vẫn thực hiện

chưa thống nhất các tiêu chí về tên hàng, quy cách, phẩm cấp… Vì vậy, công chức

kiểm tra giá sẽ không xác định được hàng hóa nào được coi là “giống hệt, tương

tự”. Điều này dẫn tới dữ liệu giá nhiều nhưng “không có giá trị sử dụng” để làm căn

cứ đối chiếu, so sánh mức giá khai báo.

Theo quy trình kiểm tra trị giá hải quan hiện nay, khi kiểm tra mức giá khai

báo của hàng nhập khẩu thì công chức đối chiếu với mức giá tại Danh mục rủi ro

hàng nhập khẩu cấp Tổng cục. Trong trường hợp hàng nhập khẩu không thuộc

Danh mục trên, công chức tiếp tục đối chiếu với Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu

cấp Cục. Tuy nhiên, việc xây dựng Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Cục ở từng

địa phương là khác nhau, nên sẽ có những mặt hàng thuộc Danh mục của Cục Hải

quan này nhưng lại không thuộc Danh mục của Cục Hải quan khác. Điều này dễ

dẫn tình trạng khi tra cứu GTT01, công chức tìm được hàng giống hệt, tương tự có

mức giá khai báo tại Cục Hải quan “A” cao hơn nhưng bị xác định là có nghi ngờ

(do thuộc Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu của Cục “A” và thấp hơn mức giá kiểm

tra tại Danh mục này) và giá khai báo tại Cục Hải quan “B” thấp thì không bị nghi

ngờ (do không thuộc Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu của Cục “B”). Điều này sẽ

khiến công chức kiểm tra giá lúng túng trong việc xác định mức giá khai báo có bị

73

đưa vào diện “nghi vấn” hay không.

2.3.2.4. Khó khăn về công cụ kỹ thuật phục vụ quản lý trị giá:

Cụ thể đó là đường truyền dữ liệu và phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu giá.

Đối với đường truyền dữ liệu, chương trình GTT01 hiện sử dụng chung

đường truyền với các chương trình quản lý nghiệp vụ khác như Hệ thống thông

quan điện tử, chương trình văn thư, chương trình quản lý rủi ro… nên việc truyền

và nhận thông tin giá của các chi cục cửa khẩu thường chiếm tối thiểu là 30 phút

đầu và cuối mỗi buổi làm việc. Trong thời gian đó, hoàn toàn việc truy cập thông tin

giá là không thực hiện được.

Đối với phần mềm quản lý, có nhiều chức năng của chương trình buộc phải

có để tận dụng thông tin giá nhưng chương trình hiện nay không có. Ví dụ như

chương trình không kết nối tự động với hệ thống chương trình quản lý rủi ro nên

không đưa ra được những cảnh báo về mức giá. Nhiều thông tin chi tiết của giao

dịch không được theo dõi trên chương trình, như thông tin về cấp độ thương mại,

các mối quan hệ đặc biệt của chủ hàng… Hoặc, hiện nay Hải quan Việt Nam chưa

có chương trình tin học quản lý thông tin về nhân thân doanh nghiệp nên việc phân

loại doanh nghiệp còn hết sức thủ công và không thành hệ thống.

Mặt khác, nguyên tắc sử dụng phần mềm quản lý giá hiện nay dựa trên cơ sở

dữ liệu phân tán ở cấp chi cục. Do vậy, để tạo lập một nguồn thông tin tổng hợp,

bao quát cho tất cả các chi cục hải quan, đòi hỏi phải có quy trình truyền và nhận

thông tin. Nghĩa là hàng ngày, qua kết quả hoạt động, các Chi cục hải quan cập nhật

dữ liệu rồi truyền lên Cục Hải quan tỉnh. Sau đó, bộ phận giá của Cục Hải quan tỉnh

lại truyền gói thông tin tổng hợp trong đơn vị lên Tổng cục. Tại Tổng cục, cán bộ có

trách nhiệm phải làm động tác kết nối các tệp tin truyền lên từ các Cục hải quan địa

phương, tạo thành một gói thông tin chung, rồi mới truyền xuống Cục, rồi từ Cục

đến Chi cục. Chính quy trình truyền nhận này đã làm cho thông tin giá có độ trễ ít

nhất là 1 ngày, làm mất tính chất tức thời của thông tin. Thậm chí, trong những

trường hợp trục trặc kỹ thuật, dữ liệu giá của hơn 1 ngày làm việc tại chi cục không

thể được cập nhật vào cơ sở dữ liệu chung.

74

2.3.2.5. Những khó khăn từ bên ngoài

* Trình độ hiểu biết pháp luật của các doanh nghiệp kinh doanh xuất

nhập khẩu:

Để khai báo trị giá hải quan đúng đòi hỏi người khai hải quan, doanh nghiệp

kinh doanh xuất nhập khẩu phải am hiểu các phương pháp xác định trị giá hải quan.

Nền tảng cung cấp những hiểu biết đó của doanh nghiệp chủ yếu bao gồm: hệ thống

văn bản pháp quy về xác định trị giá hải quan; các chương trình tập huấn, đào tạo

dành cho doanh nghiệp về xác định trị giá hải quan; trình độ nghiệp vụ quản lý kinh

tế của người khai báo trị giá.

Song trên thực tế, cả ba điều kiện nêu trên đều chưa đầy đủ.

- Các văn bản pháp quy về xác định trị giá hải quan đều khá chung chung,

không đi sâu vào chi tiết kỹ thuật và được xây dựng chủ yếu phục vụ cho việc thực

thi pháp luật của cơ quan hải quan (công chức hải quan) hơn là để người khai hải

quan, doanh nghiệp có thể tự mình vận dụng vào thực tế.

Ví dụ: văn bản pháp quy hướng dẫn xác định trị giá chi tiết nhất mà doanh

nghiệp có thể sử dụng để xác định, tính toán và khai báo trị giá là thông tư hướng

dẫn do Bộ Tài chính ban hành. Thế nhưng bản thân quy định về xác định trị giá tại

Thông tư 205/2010/TT-BTC còn mang tính nguyên tắc cao, chưa có hướng dẫn cụ

thể về cách thức xác định từng yếu tố của trị giá, cách thức tìm kiếm thông tin cần

thiết về trị giá ngay trong bộ hồ sơ kinh doanh hàng hóa. Tại phương pháp 1 – xác

định trị giá theo trị giá giao dịch của lô hàng nhập khẩu – quy định phải căn cứ vào

giá thực tế đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán, bao gồm giá hóa đơn, các khoản

thanh toán trực tiếp hoặc gián tiếp khác, các khoản giảm giá, các khoản điều chỉnh.

Song ngoài giá hóa đơn được hiểu là thể hiện trên hợp đồng mua bán hoặc hóa đơn

thương mại, các chỉ số khác không được giải thích nguồn gốc lấy từ đâu.

Rõ ràng là người khai hải quan cần được hướng dẫn đầy đủ bản chất của các

yếu tố trong trị giá hải quan và “địa chỉ” của các chỉ số trong giá thì mới có thể xác

định đúng trị giá theo yêu cầu quản lý trị giá hải quan. Ngược lại, toàn bộ “hiểu

biết” của người khai hải quan về trị giá cần khai báo chỉ là giá hóa đơn theo điều

75

kiện CIF mà thôi.

- Các chương trình tập huấn về trị giá hải quan dành cho cộng đồng doanh

nghiệp hiện do cơ quan hải quan và các hiệp hội kinh doanh cung cấp trên cơ sở hỗ

trợ của cơ quan hải quan. Với số lượng doanh nghiệp đông đảo như hiện nay, và

trong điều kiện mỗi doanh nghiệp đều muốn tự mình xác định trị giá và khai báo thì

khối lượng công việc đào tạo, tập huấn doanh nghiệp về trị giá hải quan trở thành

một thách thức lớn cho bất cứ cơ quan cung cấp dịch vụ đào tạo nào. Vì vậy, số

lượng nhân viên kinh doanh của các doanh nghiệp được trang bị kiến thức về trị giá

hải quan còn quá hạn hẹp so với nhu cầu.

Giải pháp đáng kể cho khó khăn nêu trên chính là phát triển hệ thống đại lý

hải quan - là người có năng lực và kiến thức để khai báo đúng trị giá hải quan, và

khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ khai thuê của các đại lý hải quan.

- Hiện nay có nhiều doanh nghiệp sử dụng nhân viên làm thủ tục xuất nhập

khẩu là người ít được trang bị kiến thức chuyên ngành kinh tế, hải quan. Điều này

dẫn tới tình người khai không hiểu bản chất của các yếu tố trong trị giá nên không

bảo đảm được độ chính xác của những gì mình khai báo.

Như vậy, điều kiện tiên quyết để cơ quan hải quan có được nguồn thông tin

chính xác ngay từ ban đầu quy trình tiếp nhận và kiểm tra trị giá hải quan - dựa vào

khai báo của người khai hải quan - đã không được bảo đảm. Điều này khiến cho độ

tin cậy của trị giá khai báo bị giảm thấp, làm tăng khối lượng công việc kiểm tra -

tham vấn giá của cơ quan hải quan, theo đó làm giảm hiệu quả của hoạt động quản

lý trị giá hải quan.

* Ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập

khẩu:

Bên cạnh những hiểu biết hạn chế về các quy định của pháp luật đối với hoạt

động quản lý trị giá hải quan, ý thức tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp hiện

nay còn ở mức độ khá khiêm tốn.

Lợi dụng sự thông thoáng về khai báo trị giá hải quan, doanh nghiệp tự xác

định và tự khai báo lên tờ khai trị giá, hầu hết các doanh nghiệp đều loại bỏ hoặc

76

tìm cách loại bỏ, không khai các khoản làm gia tăng trị giá hải quan của hàng hóa.

Mặt khác, do pháp luật cho phép tính toán các khoản giảm trừ hợp lý đối với giá

thực thanh toán, như các khoản giảm giá, các chi phí được coi là không nằm trong

trị giá hải quan, nên các doanh nghiệp tận dụng mọi cơ hội làm tăng các yếu tố này

để tính giảm trị giá.

Thực tế đã cho thấy là kể tử năm 2007 đến nay, số lượng các giao dịch được

hưởng giảm giá, chiết khấu đã tăng lên với tốc độ rất nhanh. Điều này không phải là

do trình độ đàm phán giá cả của doanh nghiệp Việt Nam trước các đối tác kinh

doanh nước ngoài tăng lên; hoặc do tình trạng thừa thãi hàng hóa ở nước ngoài, cần

thiết phải giảm giá để tăng khối lượng hàng bán của người sản xuất, mà thực chất

nó thể hiện việc doanh nghiệp lợi dụng, trục lợi từ việc khai báo trị giá hải quan.

Ngoài ra, thực tế cũng ghi nhận, trong đại đa số các trường hợp khai báo tờ

khai trị giá hải quan, gần như không có trường hợp nào khai báo về các khoản điều

chỉnh cộng vào giá thực tế thanh toán (ngoài khoản chi phí vận chuyển và bảo hiểm

hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam).

Bản thân nhiều doanh nghiệp tìm cách che dấu bằng các bằng chứng, chứng

từ về chi phí I – bảo hiểm và F – cước vận tải. Nguyên tắc cơ bản của việc kinh

doanh, cũng là mục tiêu tối thượng của nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận, tối

thiểu hóa chi phí. Nghĩa là người kinh doanh luôn nắm chắc mọi chi phí trong kinh

doanh để tìm cách giảm chi phí đến mức thấp nhất nhằm thu được lợi nhuận cao

nhất. Vì vậy, việc doanh nhân Việt Nam “không biết” chi phí bảo hiểm và vận tải

trong giá mua hàng của chính mình là điều không thực tế. Tuy nhiên, quy định hiện

hành không bắt buộc người khai hải quan phải xuất trình hồ sơ vận tải, bảo hiểm

trong bộ hồ sơ hải quan nên tại trong nhiều trường hợp, cơ quan hải quan không thể

kết thúc tham vấn và có kết luận về giá khai báo do không có đủ thông tin về quá

trình vận tải, bảo hiểm hàng hóa.

* Trình độ hiểu biết pháp luật và sự hợp tác của các bên thứ ba có liên

quan:

Về sơ bộ, những bên thứ ba có liên quan đến mối quan hệ giữa cơ quan hải

77

quan và người kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm: ngân hàng, người vận chuyển,

doanh nghiệp bảo hiểm, các đại lý mua bán hàng hóa, các công ty kiểm toán độc

lập, cơ quan thuế nội địa, và chính các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.

Trong số các đơn vị được kể tên, không phải đơn vị nào cũng hiểu vì sao mình lại

liên quan đến việc kiểm tra trị giá hải quan; vì sao phải cung cấp thông tin cho hải

quan. Đó còn chưa kể đến việc các đơn vị chỉ hợp tác với cơ quan hải quan nếu có

văn bản quy định về sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau.

Điển hình là trường hợp xây dựng quan hệ hợp tác, cung cấp và trao đổi

thông tin giữa cơ quan hải quan và hệ thống ngân hàng. Hiện nay, các ngân hàng đã

được phép cung cấp thông tin một cách có giới hạn cho cơ quan hải quan về việc

thanh toán quốc tế của doanh nghiệp. Đó là kết quả của một quá trình làm việc giữa

Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, trong khi

Luật Hải quan yêu cầu các bên có liên quan cung cấp thông tin thì Luật Ngân hàng

và các tổ chức tín dụng lại đòi hỏi ngân hàng phải giữ bí mật tuyệt đối những thông

tin về giao dịch của khách hàng.

Đó là tình trạng chung cho việc các đơn vị dù muốn hợp tác với cơ quan hải

quan nhưng văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động của chính họ không cho phép.

Rõ ràng là ở cấp độ quản lý vĩ mô cần thiết phải có một cơ chế điều chỉnh việc hợp

tác, hỗ trợ thông tin của các bên thứ ba có liên quan đối với hoạt động kiểm tra,

tham vấn trị giá hải quan mà cơ quan hải quan đang trực tiếp tiến hành.

78

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TRỊ GIÁ HẢI

QUAN TẠI CỤC HẢI QUAN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

3.1. Phương hướng đặt ra tại Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Với mục tiêu “Phấn đấu xây dựng, phát triển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trở

thành tỉnh công nghiệp mạnh về kinh tế biển, với hệ thống thương cảng quốc gia và

quốc tế vào thời kỳ 2010 – 2015; là một trong những trung tâm công nghiệp, dịch

vụ, du lịch, hải sản của khu vực và cả nước; nâng cao rõ rệt chất lượng cuộc sống

của nhân dân; bảo đảm vững chắc về quốc phòng và an ninh”, trong những năm qua

địa phương đã ưu tiên phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành kinh tế biển,

công nghiệp dầu khí, cảng biển.

Tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, đặc biệt là vị trí thuận lợi về tuyến

đường vận chuyển hàng hải quốc tế, cửa biển Vũng Tàu được qui hoạch là khu cảng

biển cửa ngõ quốc tế phía Nam của quốc gia, là trung tâm các tuyến hàng hải của

Việt Nam và thế giới. Cùng với sông Thị Vải dài hơn 21km, đây là con sông rộng,

sâu, rất thuận lợi cho tàu biển hoạt động. Có thể nói, tiềm năng về cảng biển là một

lợi thế to lớn của tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Điều này càng được khẳng định khi Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt qui

hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, trong đó mục tiêu xây

dựng cụm cảng Bà Rịa- Vũng Tàu thành cụm cảng tổng hợp quốc gia, là cảng cửa

ngõ quốc tế của cả nước với qui hoạch cấp I A.

Hiện Bà Rịa- Vũng Tàu đã đưa vào khai thác 21 cảng biển, công suất khoảng

45 triệu tấn/năm, tập trung chủ yếu tại khu vực Thị Vải- Cái Mép. Sản lượng hàng

hóa qua cảng năm 2009 đạt khoảng 31 triệu tấn và 80.000 lượt hành khách, năm

2010 các con số này đều tăng trưởng khá cao cả về hàng hóa và lượt khách đến Bà

Rịa - Vũng Tàu. Việc đưa vào khai thác cảng container SP-PSA và Tân cảng Cái

Mép trong thời gian qua có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định vai trò và vị trí của

cảng biển nước sâu của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đây mở hướng đi mới cho

79

ngành cảng biển Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển. Việc vận chuyển,

trung chuyển hàng hóa từ Việt Nam đến khắp các châu lục trên thế giới trong đó có

châu Âu và Hoa kỳ. Lượng hàng container trước năm 2008 hầu như không có,

nhưng từ khi đưa vào khai thác năm 2009, lượng hàng này qua địa bàn tỉnh đã đạt

khoảng 2 triệu tấn và năm 2010 đạt khoảng 3,5 triệu tấn.

Hiện nay, hệ thống cảng biển của Bà Rịa- Vũng Tàu đang được khai thác và

tiếp tục triển khai xây dựng 12 dự án và 22 dự án cảng biển khác đang thực hiện

bước chuẩn bị đầu tư. Theo ước tính công suất thiết kế cho hệ thống cảng biển của

Bà Rịa – Vũng Tàu ước đạt khoảng 250 triệu tấn, trong đó công suất 19 cảng tổng

hợp, container khoảng 219 triệu tấn và công suất khai thác 36 cảng chuyên dùng

khoảng 31 triệu tấn. Ngoài ra khu cảng tổng hợp Long Sơn đang được qui hoạch

tiềm năng với chiều dài 5km bến cho tàu 80 nghìn DWT sẽ được triển khai trong

nay mai khi có nhu cầu. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phấn đấu đến năm 2020 sẽ cơ bản

hoàn thành toàn bộ hệ thống cảng biển của tỉnh có tổng công suất khoảng 250 triệu

tấn/năm, đáp ứng lượng hàng hóa qua hệ thống cảng của tỉnh khoảng 60 triệu

tấn/năm vào năm 2015, 120 triệu tấn/năm vào năm 2020 và 250 triệu tấn/năm vào

năm 2030.

Việc phát triển hệ thống cảng biển của Bà Rịa – Vũng Tàu cũng thu hút được

lượng vốn đầu tư tương đối lớn, đó là vào khoảng trên 4 tỷ USD sẽ được các nhà

đầu tư trong và ngoài nước rót vào khu vực này, từ đó sẽ tạo cho Bà Rịa - Vũng Tàu

một diện mạo mới, một hướng đi vững chắc cho thế mạnh kinh tế cảng biển của

một địa phương đầy tiềm năng này.

Đi đối với xu thế phát triển mạnh mẽ của hệ thống cảng biển quốc tế là sự

gia tăng đáng kể lượng hàng hóa lưu thông qua địa bàn quản lý của Cục Hải quan

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tăng lên nhanh chóng

cả về số lượng lẫn mức độ phức tạp đặt ra những thách thức không nhỏ trong công

tác quản lý nhà nước về hải quan – công tác quản lý trị giá hải quan cũng không

nằm ngoài xu thế này.

80

Dự báo được tình hình trên, Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã đề ra

những phương hướng phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan.

3.1.1. Phương hướng chung.

- Quyết tâm triển khai kế hoạch cải cách phát triển hiện đại hóa Hải quan Bà

Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2011 - 2015, phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế

của địa phương.

- Đẩy mạnh triển khai, nâng cao chất lượng thủ tục hải quan điện tử cả về

chiều rộng lẫn chiều sâu.

- Triển khai sáng kiến Megaport tại Cục Hải quan Tỉnh, tạo thuận lợi cho

thương mại đối với hàng xuất khẩu bằng container vào Hoa Kỳ, đẩy mạnh cải cách

thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan.

- Hoàn thành tốt nhiệm vụ thu ngân sách trong từng năm.

- Tăng cường các biện pháp thực hiện tốt Tuyên ngôn phục vụ khách hàng.

Chú trọng công tác xây dựng lực lượng Hải quan “Đoàn kết – Kỷ cương – Đổi

mới”.

3.1.2. Phương hướng cụ thể.

- Triển khai nội dung kế hoạch cải cách hiện đại hóa Cục Hải quan Tỉnh giai

đoạn 2011-2015.

Thực hiện tốt các mục tiêu của ngành Hải quan trong kế hoạch cải cách, phát

triển, hiện đại hóa giai đoạn 2011-2015 và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Phấn

đấu xây dựng Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thành một đơn vị hiện đại với

đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp, chuyên sâu, trong sạch, vững mạnh; đơn

giản hóa thủ tục hải quan, đạt chuẩn “Minh bạch – Chuyên nghiệp – Hiệu quả”;

góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại hợp pháp, thu hút đầu từ ngước

ngoài; quản lý Nhà nước về hải quan đúng chính sách và pháp luật.

- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện triển khai thủ tục hải quan điện tử.

Tiếp tục mở rộng triển khai thủ tục hải quan điện tử trên tình thần của Quyết

định số 103/2009/QĐ-TTg phù hợp với lộ trình triển khai của Tổng cục Hải quan

81

trong năm 2012 và những năm tiếp theo, đồng thời gắn kết với việc triển khai các

Đề án thí điểm e-Manifest, e-Payment khi Tổng cục Hải quan triển khai thực hiện

hướng tới thực hiện chính thức.

Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ, phối hợp với các đơn vị có uy tín để

nâng cấp phần mềm theo hướng tiện dụng cho người sử dụng và hạn chế sai sót

trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan điện tử.

Từng bước chuyển đổi hệ thống thông quan điện tử hiện tại theo mô hình hệ

thống xử lý dữ liệu điện tử tập trung tại cấp Cục, theo lộ trình của Tổng cục Hải

quan.

Mở rộng và phát triển mô hình Đại lý thủ tục hải quan, phấn đấu 100%

Doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử thông qua các Đại lý làm thủ tục

hải quan.

Mở rộng thêm loại hình thực hiện thủ tục hải quan điện tử cho các đối tượng

doanh nghiệp tham gia.

Thực hiện thí điểm thông quan điện tử đối với phương tiện vận tải theo

Quyết định số 19/2011/QĐ-TTg ngày 23/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

- Đẩy mạnh việc triển khai hệ thống chỉ số hoạt động hải quan.

Áp dụng và triển khai Hệ thống chỉ số hoạt động hải quan theo kế hoạch

triển khai của Tổng cục Hải quan, tập trung triển khai chỉ số đo thời gian trung bình

giải phóng hàng, chỉ số đánh giá sự hài lòng của khách hàng.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nghiệp vụ hải

quan.

Triển khai tích hợp hệ thống phần mềm theo mô hình xử lý dữ liệu tập trung

cấp Cục như: Tiếp nhận khai hải quan điện tử (e-Declaration); Tiếp nhận thông tin

manifest điện tử (e-Manifest); Thu thuế xuát nhập khẩu điện tử (e-Payment); Giấy

phép điện tử (e-Permit, C/O) phục vụ hải quan điện tử hiện tại và một số hệ thống

phần mềm phục vụ cho công tác chuyên môn của đơn vị.

- Nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro.

82

Phấn đấu đạt kết quả phân luồng tờ khai theo các chỉ tiêu Tổng cục Hải quan

đã đề ra; nâng cao tỷ lệ phát hiện vi phạm. Cập nhật 100% hồ sơ Doanh nghiệp thực

hiện thủ tục hải quan trên địa bàn Tỉnh. Xây dựng bộ tiêu chí phân tích rủi ra cấp

Chi cục, cấp Cục và cập nhật kịp thời vào Hệ thống thông tin quản lý rủi ro.

- Tăng cường công tác kiểm tra sau thông quan.

Trong những năm tiếp theo, tăng cường số cuộc kiểm tra sau thông quan

nhằm chống thất thu và để đánh giá, nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật của Doanh

nghiệp.

- Công tác thu ngân sách Nhà nước.

Quyết tâm thu đạt và vượt chỉ tiêu dự toán ngân sách được giao hàng năm;

phấn đấu thu vượt từ 5 đến 7%; hạn chế mức thấp nhất phát sinh nợ mới, nâng cao

hiệu quả của các biện pháp thu hồi nợ thuế.

- Công tác tổ chức cán bộ và xây dựng lực lượng.

Hình thành đội ngũ lãnh đạo các cấp và đọi ngũ chuyên viên chuyên nghiệp,

đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi kế hoạch cải cách hiện đại hóa Cục Hải quan

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2011-2015.

- Tham gia tổ triển khai thực hiện đề án phát triển Logistic của tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải

quan tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý trị giá hải quan, Cục Hải quan Tỉnh

cần quyết tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp từ Trung ương và địa phương.

3.2.1. Rà soát, kiến nghị kiện toàn hệ thống văn bản pháp luật.

Tăng cường công tác rà soát các văn bản pháp lý, văn bản nghiệp vụ, đặc biệt

là các văn bản liên quan đến hoạt động quản lý trị giá hải quan. Từ đó kiến nghị sửa

đổi, bổ sung đối với các văn bản không phù hợp với tình hình thực tế.

Hoạt động xuất nhập khẩu luôn biến động cùng với sự phát triển của xã hội.

Hệ thống văn bản pháp lý cũng luôn thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Vì

83

vậy, công tác rà soát văn bản cũng phải tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm kịp

thời phản ánh những bất cập lên cơ quan có thẩm quyền.

Đối với các trường hợp phát sinh vướng mắc trong quá trình giải quyết công

việc cần kịp thời báo cáo, đề xuất hướng giải quyết và xin ý kiến chỉ đạo của Cục

Hải quan Tỉnh, Tổng cục Hải quan.

Để thực hiện được việc này, Cục Hải quan Tỉnh cần sớm thành lập Tổ rà soát

văn bản, gồm các thành viên của các Phòng ban làm công tác tham mưu, kết hợp

với các công chức làm công tác nghiệp vụ chuyên môn có kinh nghiệm tại các Chi

cục. Có như vậy thì việc ra soát, cập nhật văn bản mới kịp thời, phù hợp với sự biến

động liên tục của hoạt động xuất nhập khẩu thực tế tại các Chi cục.

Ngoài công tác rà soát văn bản, Cục Hải quan Tỉnh cần thường xuyên cập

nhật tình hình hàng hóa xuất nhập khẩu tại các Chi cục để đề xuất xây dựng Danh

mục hàng hóa quản lý rủi ro về giá cấp Tổng cục và cấp Cục.

Đặc biệt, trong điều kiện hiện tại và tương lai gần, tình hình nhập khẩu các

mặt hàng nông sản như lúa mì, ngô hạt.. vẫn tiếp tục phát triển. Vấn đề đưa ra mức

giá kiểm tra đối với những mặt hàng này cần phải linh hoạt theo sự biến động của

giá cả thị trường quốc tế. Vì vậy, nhiệm vụ của tổ rà soát cần phải thường xuyên cập

nhật giá cả thị trường quốc tế của các mặt hàng này mới mong đạt hiệu quả cao

trong công tác quản lý trị giá hải quan.

3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tổ chức nhân sự.

Để nâng cao chất lượng công tác tổ chức nhân sự, cần thực hiện một số biện

pháp sau:

- Ở khâu tổ chức, bố trí nhân sự, chỉ sắp xếp những người có kiến thức cơ

bản về kinh tế vào bộ phận quản lý trị giá hải quan; tận dụng tối đa kinh nghiệm

công tác của các cán bộ, công chức đã làm việc lâu năm trong lĩnh vực trị giá.

Có thể thấy rõ trị giá hải quan, mặc dù là một nghiệp vụ có tính kỹ thuật cao,

nhưng cũng đòi hỏi công chức Hải quan phải am hiểu hoạt động ngoại thương,

nguyên tắc định giá trong kinh doanh, nguyên tắc xây dựng giá thành sản phẩm

hàng hóa…, hay nói một cách tổng quát là phải có kiến thức về kinh tế, nhất là kinh

84

tế ở cấp độ vi mô.

Trong công tác luân chuyển cán bộ, cần có phương án sắp xếp, sử dụng hiệu

quả các cán bộ, công chức đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực trị giá, để những công

chức này có thể tiếp tục phát huy năng lực trong công tác quản lý trị giá hải quan.

- Thường xuyên tổ chức hoặc cử công thức tham gia các chương trình đào

tạo liên quan đến công tác quản lý trị giá hải quan.

Do đặc thù công việc của Ngành là thường xuyên có sự luân chuyển, hoán

đổi vị trí công việc nên không thể bỏ qua hoạt động đào tạo cán bộ làm công tác

quản lý trị giá hải quan.

Mặt khác, cùng với sự phát triển của các hoạt động ngoại thương, trình độ

“vận dụng luật” để mưu lợi bất chính của một bộ phận doanh nghiệp sẽ ngày càng

phát triển hơn. Vì thế, công chức quản lý trị giá hải quan cũng cần được thường

xuyên nâng cao trình độ, trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau về kỹ năng quản lý

và kiến thức nghiệp vụ trị giá hải quan.

Hoạt động đào tạo và đào tạo lại có thể được thực hiện theo nhiều hình thức

khác nhau, nhưng cần chú trọng nhiều vào đào tạo kỹ năng và nhất là trao đổi, học

tập kinh nghiệm lẫn nhau - đào tạo tại chỗ, tại nơi làm việc.

Ngoài ra, Cục Hải quan Tỉnh cần chủ động tổ chức các chương trình đào tạo

ngắn tại đơn vị nhằm cung cấp cho công chức làm công tác giá có những kinh

nghiệm phát hiện các “dấu hiệu nghi vấn” về trị giá hải quan. Những chương trình

này hướng tới xác định dấu hiệu vi phạm của từng nhóm mặt hàng, trong từng thời

kỳ. Chẳng hạn, đào tạo kỹ năng kiểm tra, nhận diện các khoản phí bảo hiểm, phí

vận chuyển đối với hàng xá, hàng rời; tra cứu dữ liệu giá mặt hàng ô tô đã qua sử

dụng thông qua thu thập thông tin trên internet; các điểm cần lưu ý khi kiểm tra các

hợp đồng có thỏa thuận về điều khoản giảm giá…

Hiện nay, Tổ chức Hải quan thế giới, Tổng cục Hải quan và một số cơ quan

trong và ngoài nước thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo liên quan đến

công tác quản lý trị giá hải quan. Vì vậy, Cục Hải quan Tỉnh cần có phương án sẵn

sàng bố trí các công chức tham gia các chương trình đào tạo này.

85

- Xây dựng kế hoạch bổ sung nhân sự phù hợp với nhu cầu.

Việc bổ sung nhân sự trước tiên nhằm bù đắp cho số cán bộ, công chức về

nghỉ hưu hoặc ra khỏi Ngành Hải quan.

Ngoài ra, cùng với xu thế phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, lực lượng

cán bộ công chức cũng cần tăng lên để đáp ứng nhu cầu công việc.

Vì vậy, Cục Hải quan Tỉnh cần rà soát lại toàn bộ lực lượng cán bộ, công

chức trong đơn vị, từ đó đưa ra dự đoán nhu cầu nhân sự trong tương lai để có kế

hoạch bổ sung phù hợp.

3.2.3. Tăng cường phối hợp trong nội bộ cũng như với các cơ quan có

liên quan.

Việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế trong khâu thông quan đòi hỏi phải

thực hiện theo đúng các quy định của Pháp luật, đồng thời đảm bảo nhanh chóng,

tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Để xác định

trị giá tính thuế hiệu quả hơn, cơ quan hải quan phải cập nhật thông tin và phối hợp

hiệu quả trong nội bộ ngành và với các cơ quan chức năng khác.

- Công tác kiểm tra trị giá tính thuế trong quá trình thông quan với công tác

kiểm tra sau thông quan có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.

Hiện nay, công tác kiểm tra trị giá tính thuế trong quá trình thông quan đòi

hỏi phải được thực hiện một cách nhanh chóng, tạo thuận lợi cho việc làm thủ tục

hải quan của doanh nghiệp, do vậy, sức ép đối với việc kiểm tra trị giá tính thuế ở

khâu đăng ký tờ khai là tương đối lớn. Các cán bộ kiểm tra trị giá tính thuế cần thực

hiện hiệu quả để vừa đảm bảo tiến độ thời gian lại vừa đảm bảo kiểm tra được một

cách tương đối đầy đủ và chính xác trị giá khai báo của doanh nghiệp.

Khâu kiểm tra sau thông quan có thể coi là một giai đoạn nữa của công tác

kiểm tra trị giá tính thuế. Bộ phận kiểm tra sau thông quan trên cơ sở các nghi ngờ

về hồ sơ, chứng từ hoặc mức giá khai báo do bộ phận kiểm tra tại khâu thông quan

hoặc bộ phận phúc tập chuyển và trên cơ sở các quy định về kiểm tra sau thông

quan để tổ chức kiểm tra sau thông quan.

86

Kết thúc các cuộc kiểm tra, Chi cục KTSTQ cần tổng kết, rút kinh nghiệm và

đưa ra các gian lận của doanh nghiệp chuyển lại cho các Chi cục Hải quan để ngăn

chặn các sai phạm tiếp tục tái diễn.

- Phối hợp giữa Cục Hải quan Tỉnh với cơ quan Thuế địa phương trong việc

kiểm tra tính chính xác của các nội dung trên tờ khai Hải quan với các sổ sách,

chứng từ kế toán của doanh nghiệp mà cơ quan thuế thu thập được.

Thông qua công tác phối hợp, trao đổi thông tin với cơ quan Thuế, Cục Hải

quan Tỉnh sẽ nắm được các thông tin liên quan đến các khoản chi phí liên quan đến

việc nhập khẩu hàng hóa, hóa đơn bán hàng đầu ra, hạch toán chi phí – lợi nhuận...

Từ đó, cơ quan hải quan sẽ có thêm căn cứ xác định giá khai báo của doanh nghiệp

có phù hợp với thực tế hay không.

Vì vậy, trong tình hình hoạt động gian lận thương mại về trị giá hải quan

ngày càng gia tăng, đặc biệt là sự phức tạp đối với các giao dịch “đặc biệt” và hoạt

động “chuyển giá” thì việc phối hợp giữa cơ quan Hải quan và cơ quan thuế được

đánh giá là biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý trị giá hải quan.

- Việc phối hợp với Ngân hàng cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định

trị giá. Hiện nay, thanh toán qua ngân hàng là một phương thức tương đối phổ biến

trong các giao dịch ngoại thương. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng, thực hiện những

gian lận trong thanh toán. Bằng việc thu thập các thông tin liên quan đến việc thanh

toán của doanh nghiệp, cơ quan hải quan xác định trị giá khai báo trên tờ khai có

phải là giá “thực thanh toán” hay không. Đây sẽ là những thông tin quan trọng phục

vụ công tác kiểm tra sau thông quan của Cục Hải quan Tỉnh trong thời gian tới.

- Việc phối hợp giữa cơ quan Hải quan và các tổ chức khác, trong đó có công

ty kiểm toán quốc tế độc lập đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý trị

giá hải quan trong thời kỳ mới.

Về bản chất, công tác kiểm tra sau thông quan là việc “kiểm toán” các thông

tin liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.

Với sự giúp đỡ của các công ty kiểm toán, thông qua hoạt động kiểm tra,

kiểm toán tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp

87

thuộc diện nghi vấn, cơ quan Hải quan thông qua báo cáo của cơ quan kiểm toán sẽ

phát hiện ra các hoạt động gian lận thuế của doanh nghiệp.

Vì vậy, việc trao đổi thông tin giữa Cục Hải quan Tỉnh với các cơ quan kiểm

toán sẽ phát huy hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về hải quan nói chung và

quản lý trị giá hải quan nói riêng.

3.2.4. Xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao trình độ hiểu biết và

ý thức chấp hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp.

Để hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu được phát triển thì giữa cơ quan quản lý

và đối tượng bị quản lý phải có sự hợp tác tốt đẹp, hỗ trợ lẫn nhau.

Một thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam thường rất thiếu thông tin về cơ

chế chính sách, lại có tâm lý coi nhẹ nên không chịu tìm hiểu nên rất hay vi phạm

các quy định của pháp luật. Do vậy, mặc dù việc tuyên truyền thông tin để đưa các

chính sách vào thực tiễn là một phương pháp cổ điển nhưng vẫn cần thiết trong bối

cảnh hiện nay. Nhưng các phương thức tuyên truyền như thế nào cho hiệu quả thì

không phải dễ.

Để công tác tuyên truyền pháp luật có hiệu quả, cần kết hợp đa dạng các

phương pháp, cụ thể:

- Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet, mọi người có thể

tìm kiếm mọi thông tin qua mạng. Tuy nhiên, do sự phân tán thông tin, nên không

phải lúc nào chúng ta cũng có thể tìm được những thông tin mình mong muốn. Vì

vậy, Cục Hải quan Tỉnh cần tận dụng tối đa lợi thế của kênh thông tin này để tuyên

truyền pháp luật đến các doanh nghiệp. Bằng việc phát triển website của đơn vị,

công bố công khai hệ thống văn bản pháp luật, các công văn hướng dẫn của Tổng

cục Hải quan cũng như của Cục Hải quan Tỉnh theo từng nhóm chuyên đề nghiệp

vụ sẽ giúp các doanh nghiệp dễ dàng tra cứu và thực hiện.

- Thường xuyên tổ chức hoặc tham gia các hội thảo đối thoại doanh nghiệp

để lắng nghe những khó khăn, vướng mắc cũng như tâm tư nguyện vọng từ phía

cộng đồng doanh nghiệp. Từ đó có thể đưa ra giải pháp tháo gỡ khó khăn, giải đáp

vướng mắc cho doanh nghiệp.

88

- Thành lập Tổ giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệp, thực hiện chức năng

tiếp nhận, phân loại và trả lời, nhằm kịp thời phản ánh thông tin cũng như giải đáp

các vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực thi Pháp luật Hải quan cũng

như các quy định về xác định trị giá tính thuế.

Bên cạnh công tác tuyên truyền, vận động, Cục Hải quan Tỉnh cần có những

chính sách hỗ trợ và ưu tiên cho những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải

quan... Tất cả các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt các quy định của Pháp luật sẽ được

cơ quan Hải quan hỗ trợ khi cần thiết, và có những ưu đãi như: dành nhiều thuận lợi

hơn so với nhóm các doanh nghiệp còn lại khi thực hiện các hoạt động xuất nhập

khẩu hàng hóa, ưu tiên thêm về thời gian giải quyết thủ tục hải quan cũng như giải

đáp vướng mắc... từ đó sẽ từng bước khuyến khích được các tổ chức, cá nhân thực

hiện nghiêm chỉnh Pháp luật.

Và để răn đe hiện tượng gian lận trị giá tính thuế, ngành Hải quan không thể

không có những chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.

Hiện nay, chúng ta đã có văn bản quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực hải quan. Tuy nhiên, do lợi ích đạt được khi thực hiện trót lọt gian lận thuế

quá lớn so với mức xử phạt, các doanh nghiệp vẫn không ngần ngại vi phạm. Do

đó, cần có những hình thức và mức xử phạt cao hơn, số tiền phạt có thể lớn gấp

nhiều lần so với khoản thuế truy thu. Như vậy tính răn đe của các hình thức xử phạt

này mới thật sự hiệu quả.

3.2.5. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước.

3.2.5.1. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về xác định trị giá

hải quan.

* Yêu cầu chung đối với hệ thống văn bản pháp quy và hướng dẫn dưới luật.

Tính hoàn thiện của hệ thống văn bản pháp quy thể hiện ở hai phương diện

là: khả năng áp dụng trực tiếp điều khoản quy định vào thực tế và tính liên thông

giữa các văn bản pháp luật có liên quan. Do vậy, đối với hệ thống văn bản pháp luật

và văn bản dưới luật hướng dẫn về xác định trị giá hải quan cần đạt được một số

yêu cầu. Cụ thể là:

89

- Giảm thiểu số lượng văn bản hướng dẫn, tiến đến khả năng trực tiếp áp

dụng điều luật vào thực xác định trị giá. Điều này sẽ giúp người khai hải quan và

cán bộ hải quan không phải dẫn chiếu đến nhiều văn bản ở nhiều cấp khác nhau,

cùng quy định về một nội dung xác định trị giá. Ngược lại, điều này cũng dẫn đến

một thực tế là các điều khoản luật phải rất chi tiết, cụ thể. Nghĩa là cần phải đưa các

quy định về các phương pháp xác định trị giá hải quan vào các điều khoản Luật Hải

quan và Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan cần tổ chức rà soát lại toàn bộ hệ thống

văn bản có liên quan đến xác định trị giá hải quan (cụ thể là hệ thống văn bản

hướng dẫn áp dụng trong nội bộ Ngành Hải quan về các phương pháp xác định trị

giá hải quan, các quy trình xác định trị giá, các quy trình tham vấn trị giá, v.v…) để

thực hiện chỉnh sửa, bổ sung phù hợp với mục tiêu phản ánh được bức tranh toàn

cảnh về hệ thống quản lý xác định trị giá hải quan của Ngành Hải quan.

- Trong các điều khoản luật và văn bản hướng dẫn, cần có sự dẫn chiếu giữa

các văn bản với nhau để tạo ra sự thống nhất, hỗ trợ.

* Những thay đổi cụ thể:

- Đối với Luật Hải quan cần bổ sung thêm những nội dung sau:

+ Các quy định cơ bản về các phương pháp xác định trị giá hải quan, đồng

thời có dẫn chiếu đến các điều khoản của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về

các phương pháp này. Sự thay đổi này cho thấy sự đồng bộ trong hệ thống văn bản

pháp quy về trị giá hải quan, dẫn đến một cách hiểu thống nhất về hệ thống quản lý

trị giá. Đồng thời, nội dung này cũng đảm bảo sự thống nhất về mặt thuật ngữ, ngôn

ngữ đối với trị giá hải quan trong lĩnh vực thủ tục quản lý hải quan và nghiệp vụ

quản lý thuế.

+ Tương tự, cần bổ sung điều khoản quy định về tham vấn trị giá hải quan

trong Luật Hải quan. Hiện nay, chưa có một văn bản luật nào đề cập đến “tham vấn

trị giá hải quan” mà khái niệm này chỉ bắt đầu xuất hiện ở văn bản cấp Chính phủ

(Nghị định).

Hai nội dung nêu trên sẽ là cơ sở để Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan ban

90

hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về: quy trình xác định trị giá hải quan theo các

phương pháp đã quy định; quy trình tham vấn trị giá hải quan; quy trình kiểm tra trị

giá hải quan; và những quy trình nghiệp vụ khác có liên quan đến lĩnh vực xác định

trị giá và tham vấn trị giá.

- Đối với các văn bản hướng dẫn dưới luật:

+ Quy định các quy tắc cơ bản trong phối hợp giữa cơ quan hải quan với các

cơ quan chức năng có liên quan.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự thiếu hiệu quả trong phối hợp của

cơ quan hải quan với các cơ quan khác trong hoạt động quản lý nhà nước về hải

quan nói chung và quản lý trị giá hải quan nói riêng là do chưa có văn bản pháp lý

quy định về quy chế phối hợp. Vì vậy, cần thiết phải có quy định về phối hợp trong

cung cấp thông tin, xử lý kết quả kiểm tra trị giá hải quan.

+ Xây dựng hành lang pháp lý trong hoạt động “chống chuyển giá” trong

lĩnh vực hải quan. Hiện nay, tại các văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc

kiểm tra, xác định trị giá hải quan là Nghị định 40/2007/NĐ-CP và Thông tư

205/2010/TT-BTC hoàn toàn không có quy định về trường hợp khai tăng trị giá

hàng hóa (vấn đề này được “nhắc” đến tại Quyết định 103/QĐ-TCHQ ngày

24/01/2011 của Tổng cục Hải quan, tuy nhiên cũng không đưa ra biện pháp xử lý

khi phát hiện vi phạm).

Mặt khác, hành vi khai tăng trị giá hải quan thường không trốn thuế phải nộp

ở khâu nhập khẩu, mà chủ yếu ảnh hưởng đến thuế thu nhập doanh nghiệp nên cơ

quan hải quan khó có biện pháp xử lý khi phát hiện.

Vì vậy, yêu cầu xây dựng văn bản theo hướng quy định các dấu hiệu vi

phạm, các biện pháp phối kết hợp giữa cơ quan hải quan và cơ quan thuế địa

phương trong xử lý hành vi “chuyển giá”.

- Đối với các văn bản hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ của Ngành Hải quan:

+ Bổ sung các quy định, hướng dẫn công việc mà công chức hải quan phải

thực hiện khi tiến hành tham vấn hay xác định trị giá hải quan cho hàng hóa.

Một đặc điểm rất dễ thấy ở các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngành Hải quan

91

về trị giá hải quan là tính chung chung, đại diện.

Theo quy định hiện hành thì nếu sau khi tham vấn, trị giá khai báo bị bác bỏ,

công chức Hải quan sẽ nhận nhiệm vụ xác định lại trị giá hải quan cho hàng hóa.

Khi đó, công chức Hải quan cũng sẽ phải áp dụng các phương pháp xác định trị giá

hải quan, và rõ ràng là cũng phải tuân thủ các quy định về trình tự xác định trị giá

hải quan theo từng phương pháp khác nhau. Song, hiện nay, Ngành Hải quan chưa

có văn bản quy định chi tiết trình tự xác định trị giá hải quan, hay quy trình xác định

trị giá hải quan, áp dụng cho từng phương pháp xác định trị giá. Chính vì vậy, việc

vận dụng các phương pháp thay thế để xác định trị giá hải quan sau tham vấn hiện

thời là hết sức tùy tiện, không theo những chuẩn mực do chính các văn bản pháp

quy quy định.

+ Thường xuyên xây dựng, bổ sung danh sách các mặt hàng và mức giá kiểm

tra tại Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Tổng cục làm cơ sở cho các Cục Hải

quan địa phương kiểm tra, đối chiếu khi làm thủ tục hải quan.

Theo quy chế xây dựng, bổ sung Danh mục rủi ro hàng nhập khẩu cấp Tổng

cục, hàng hóa nhập khẩu được xem xét đưa vào Danh mục là các mặt hàng có trị giá

lớn và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi cao; có kim ngạch nhập khẩu lớn, nhập khẩu

thường xuyên; có khả năng gian lận thương mại.

Như vậy, rõ ràng là cần phải rà soát và xây dựng lại hệ thống văn bản hướng

dẫn nghiệp vụ xác định trị giá hải quan thì mới đáp ứng được tiêu chuẩn về sự chính

xác, đầy đủ, thống nhất, bảo đảm tính “thực thi” của văn bản trong xử lý sự vụ hàng

ngày của công chức.

3.2.5.2. Nâng cấp và mở rộng hệ thống cơ sở dữ liệu giá.

Cơ sở dữ liệu giá hiện nay còn thể hiện những hạn chế cơ bản: thiếu tính

phong phú và biệt lập với hệ thống đa chức năng của Ngành. Có nhiều trường hợp,

thậm chí cán bộ hải quan kiểm tra trị giá đang giữ tờ khai trị giá, hoặc tờ khai hải

quan của hàng hoá nhập khẩu trong tay nhưng dữ liệu trên đó lại chưa có trong cơ

sở dữ liệu giá GTT01. Điều này cho thấy: Cơ sở dữ liệu không theo kịp với thực tế

khách quan về hàng hoá nhập khẩu. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên

92

nhân từ việc phân định nhiệm vụ cập nhật thông tin giá. Hiện nay, nhiệm vụ cập

nhật thông tin về giá vào Chương trình GTT01 thuộc công chức bộ phận tiếp nhận

tờ khai. Nhưng vì số lượng tờ khai hải quan phát sinh trong ngày quá lớn, các thao

tác cập nhật thông tin nhiều nên công chức đó không đủ thời gian cập nhật hết các

tờ khai ngay trong ngày. Từ đó dẫn đến số lượng tờ khai không được cập nhật cứ

tích tụ lại, càng ngày càng nhiều hơn.

Đồng thời, hiện nay nhiệm vụ của công chức tiếp nhận tờ khai phải kiểm tra

thuế, giá nên sẽ làm tăng thời gian xử lý hồ sơ tại khâu tiếp nhận, làm chậm thời

gian thông quan. Bởi vì công chức tiếp nhận không chỉ phải cập nhật thông tin vào

hệ thống quản lý đa chức năng của Ngành, mà còn phải cập nhật thông tin vào

Chương trình GTT01. Giải pháp cho khó khăn này chính là: Chương trình GTT01

phải là một bộ phận được tích hợp và đồng bộ hoá vào Chương trình quản lý đa

chức năng trong đó có Hệ thống thông quan điện tử. Khi đó, đối với các tờ khai

không có nghi vấn về giá chỉ cần một lần cập nhật thông tin ở Hệ thống thông quan

điện tử, mọi thông tin cần thiết cho cơ sở dữ liệu giá sẽ được tự động chuyển vào

chương trình (nhánh) quản lý giá. Đối với các tờ khai có nghi vấn về giá thì công

chức sẽ tiếp tục cập nhật vào hệ thống GTT01.

Song, về dài hạn, Tổng cục Hải quan cần xây dựng được một hệ thống quản

lý thông tin chung để đảm bảo những người làm nhiệm vụ quản lý giá, tham vấn giá

có thể truy cập, sử dụng và khai thác thông tin về hàng hoá, người khai hải quan,

chủ hàng… ở mọi khía cạnh cần thiết.

3.2.5.3. Nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ

công tác quản lý trị giá hải quan.

- Nâng cấp chương trình phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu giá theo hướng tích

hợp trực tiếp với chương trình quản lý dữ liệu chung của Ngành. Hiện tại, các dữ

liệu giá được cập nhật bằng cách công chức đặt lệnh chuyển dữ liệu của các tờ khai

hải quan cụ thể từ cơ sở dữ liệu chung về cơ sở dữ liệu giá, tạo thành một cơ sở dữ

liệu riêng của từng chi cục hải quan, sau đó được tổng hợp ở cấp cục, tổng cục

thành cơ sở dữ liệu giá chung, sử dụng chung trong toàn ngành trong một ngày cụ

93

thể. Cơ sở dữ liệu này, ngược lại được chi cục hải quan tải về máy chủ tại chi cục để

sử dụng trong ngày. Do vậy, cơ sở dữ liệu giá hàng ngày thường không có tính tức

thời. Nếu trong cùng một ngày, tại hai chi cục hải quan khác nhau có hàng hóa nhập

khẩu giống hệt nhau, nhưng giá khai báo lại chênh lệch nhau một cách đáng kể thì

công chức hải quan không thể biết, và hệ thống cũng không thể cảnh báo được. Để

bảo đảm khả năng tham chiếu giá giữa chi cục này với chi cục khác tại cùng một

thời điểm thì bắt buộc chương trình quản lý giá phải được xây dựng và sử dụng trên

một cơ sở dữ liệu giá chung, ít nhất là ở cấp cục - vùng và hướng đến cấp tổng cục -

quốc gia.

- Nâng cấp chương trình GTT01 để tăng tốc độ tìm kiếm thông tin. Do cơ sở

dữ liệu giá ngày càng lớn và công cụ tìm kiếm chưa bảo đảm nên nhiều trường hợp,

lệnh tìm kiếm thông tin được diễn ra rất chậm.

- Cải tiến chương trình phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu giá nhằm trang bị

thêm chức năng cảnh báo rủi ro về trị giá. Khi đó, chương trình phải có khả năng

phân tích dữ liệu theo yêu cầu của người sử dụng. Chức năng này sẽ giúp công chức

hải quan tiết kiệm thời gian, thay vì tra cứu, phân loại và phân tích thông tin một

cách thủ công.

- Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ công tác kiểm tra trị giá hải quan.

Để thực hiện được điều này, Tổng cục Hải quan cần sớm ban hành quy trình cập

nhật thông tin vào chương trình GTT01. Trong đó, cần xây dựng bộ tiêu chí về các

thông tin phải khai báo đối với từng loại mặt hàng cụ thể để đảm bảo tính thống

nhất giữa các đơn vị địa phương. Chẳng hạn: đối với máy móc cần khai báo các

thông tin về nhà sản xuất, năm sản xuất, công nghệ đang sử dụng…

3.2.5.4. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp

luật của doanh nghiệp.

- Thực hiện các chương trình đào tạo, nâng cao năng lực cho doanh nghiệp

và các đơn vị đại lý làm thủ tục hải quan. Do người khai hải quan là người có thông

tin đầy đủ về giá nên nếu người khai hải quan được trang bị đầy đủ kiến thức để

khai báo thì số lượng các trường hợp cần tham vấn do những khiếm khuyết, lỗi nhỏ

94

trong khai báo sẽ bị loại trừ, theo đó khối lượng công việc của công chức tham vấn

sẽ được giảm bớt.

Tuy nhiên, trong điều kiện các nguồn lực có hạn mà số lượng doanh nghiệp

cần được đào tạo lại rất lớn thì giải pháp khá hữu hiệu là phát triển hệ thống đại lý

khai thuê hải quan am hiểu các quy định về khai báo trị giá. Khi đó, các nội dung

khai báo sẽ bảo đảm tính chính xác, trung thực và đầy đủ hơn, giúp làm giảm khối

lượng công việc của cơ quan hải quan, và theo đó, Hải quan có thể tập trung thêm

nguồn lực cho việc kiểm tra giá hiệu quả hơn.

- Thường xuyên tuyên truyền, quảng bá thông tin về quản lý trị giá nói

chung, tham vấn trị giá nói riêng trên phương tiện thông tin đại chúng của Ngành

(trang thông tin điện tử Hải quan - website, Báo Hải quan).

- Xây dựng cơ chế phổ biến pháp luật Hải quan, cụ thể là quản lý trị giá và

tham vấn trị giá hải quan, cho cộng đồng doanh nghiệp.

95

KẾT LUẬN

Quản lý trị giá hải quan hiệu quả là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

tiến trình thực hiện tuyên ngôn “Chuyên nghiệp – Minh bạch – Hiệu quả” của

Ngành hải quan Việt Nam nói riêng và mục tiêu chiến lược của Bộ Tài chính nói

chung. Quản lý trị giá hải quan là công cụ quan trọng để cơ quan hải quan đạt được

sự minh bạch, chính xác, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời

tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại mà cụ thể là phòng chống gian lận thương

mại về trị giá, góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hiệu quả đối với nền

kinh tế quốc gia. Hải quan bất kỳ một nước nào cũng có thể áp dụng các nguyên tắc

quản lý trị giá hải quan dù họ hiện đang sử dụng hệ thống tự động hay thủ công.

Trong những năm vừa qua, việc quản lý trị giá hải quan đã được đưa vào quy

trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại. Bên cạnh những

thành công đã đạt được về tăng cường tạo thuận lợi thương mại và nâng cao chất

lượng quản lý hải quan để thực hiện các cam kết quốc tế cũng như các yêu cầu từ

cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước thì vẫn còn nhiều vấn đề trong việc

quản lý trị giá này cần phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng

nhu cầu thực tế diễn ra và hàng loạt thủ đoạn gian lận về trị giá tinh vi hơn.

Luận văn “Nâng cao hiệu quả quản lý trị giá hải quan tại Cục Hải quan tỉnh

Bà Rịa – Vũng Tàu” đề cập tới vấn đề cấp bách này. Luận văn đã hệ thống hóa

những vấn đề lý thuyết chung về thủ tục hải quan, cũng như về quản lý trị giá hải

quan để trên cơ sở đó làm rõ làm rõ cơ sở lý luận về quản lý trị giá hải quan, thực

tiễn quy trình kiểm tra, xác định trị giá hải quan trong thủ tục hải quan điện tử.

Từ những nghiên cứu lý thuyết luận văn đi tới nghiên cứu thực trạng áp dụng quy

trình kiểm tra trị giá hải quan, chỉ ra những kết quả cũng như những tồn tại trong

khung pháp lý, trong quy trình quản lý trị giá hải quan cũng như những tồn tại trong

quá trình vận hành công tác quản lý trị giá trên.

Xuất phát từ những cơ hội và thách thức đối với ngành hải quan cũng như

phương hướng triển khai quản lý trị giá hải quan trong thủ tục hải quan điện tử ở

96

Việt Nam thời gian tới luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản

lý trị giá hải quan trong thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam như hoàn thiện khung

pháp lý, quy trình quản lý trị giá hải quan, quá trình vận hành quy trình quản lý trị

giá hải quan, hệ thống công nghệ thông tin, cơ cấu tổ chức, nâng cao nhận thức,

năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong việc xác định trị giá, kỹ

năng tham vấn v.v...

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Thương Huyền (2009), Giáo trình Trị giá hải quan, Nhà xuất

2. Hoàng Trần Hậu & Nguyễn Thị Thương Huyền (2011), Giáo trình hải

3. Nguyễn Thị Thương Huyền (2009), Tình huống thực hành nghiệp vụ trị

bản Tài chính, Hà Nội. quan cơ bản, Nhà xuất bản Tài chính. giá hải quan, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

4. Quốc hội (2001). Luật Hải quan, 10/2001/L-CTN, Hà Nội. 5. Quốc hội, (2005). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan

năm 2005, Hà Nội.

6. Quốc hội (2005). Luật Thương mại, số 36/2005/QH11. Hà Nội; 7. Quốc hội (2005). Luật thuế xuất nhập khẩu sửa đổi năm 2005, Hà Nội. 8. Chính phủ (2007). Nghị định 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007, Hà Nội. 9. Bộ Tài Chính (2008) Thông tư số 40/2008/TT-BTC ngày 21/5/2008, Hà

10. Bộ Tài chính (2010) Thông tư số 205/2010/TT-BTC ngày 15/12/2010,

Nội. Hà Nội.

11. Bộ Tài chính (2008) Quyết định số 1102/QĐ-BTC ngày 21/5/2008, Hà

Nội.

12. Tổng cục Hải quan (2008) Quyết định số 1636/QĐ-TCHQ ngày

04/8/2008, Hà Nội.

13. Tổng cục Hải quan (2009) Quyết định số 1636/QĐ-TCHQ ngày

17/8/2009, Hà Nội.

14. Tổng cục Hải quan (2011) quyết định số 103/QĐ-TCHQ ngày

24/01/2011, Hà Nội.

15. Tổng cục Hải quan (2009) Quyết định số 1171/QĐ-TCHQ ngày

12. Các website: - Trang web Cục Hải quan tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: www.haiquan.baria-

15/06/2009, Hà Nội. vungtau.gov.vn

- Trang web Tổng cục Hải quan: www.customs.gov.vn - Trang web Bộ Tài Chính: www.mof.gov.vn