ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHÙNG THỊ MY

NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI ÔNG BÀ, BỐ MẸ VÀ SỰ SINH TRƯỞNG CỦA LỢN CON ĐẾN 60 NGÀY TUỔI NUÔI TẠI TRUNG TÂM GIỐNG CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI VÀ THỦY SẢN TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHÙNG THỊ MY

NĂNG SUẤT SINH SẢN CỦA LỢN NÁI ÔNG BÀ, BỐ MẸ VÀ SỰ SINH TRƯỞNG CỦA LỢN CON ĐẾN 60 NGÀY TUỔI NUÔI TẠI TRUNG TÂM GIỐNG CÂY TRỒNG, VẬT NUÔI VÀ THỦY SẢN TỈNH HÒA BÌNH

Ngành: Chăn nuôi

Mã ngành: 8.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI

Người hướng dẫn khoa học: TS. HỒ THỊ BÍCH NGỌC

THÁI NGUYÊN - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các tài

liệu tham khảo trích dẫn trong luận văn đều có nguồn gốc xuất xứ thực tế và đã

được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả

Phùng Thị My

ii

LỜI CẢM ƠN

Được sự đồng ý của Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm - Đại học

Thái Nguyên, lãnh đạo phòng đào tạo, bộ phận quản lý Sau đại học, và sự nhất trí

của giáo viên hướng dẫn tôi đã thực hiện nghiên cứu đề tài: “Năng suất sinh sản

của lợn nái ông bà, bố mẹ và sự sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi nuôi

tại trung tâm giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản tỉnh Hòa Bình”.

Trong quá trình học tập, nghiên cứu, thực hiện đề tài tôi đã nhận được sự

giúp đỡ nhiệt tình của Ban lãnh đạo nhà trường, bộ phận quản lý đào tạo Sau

đại học, khoa chăn nuôi thú y, giáo viên hướng dẫn cùng các bạn đồng nghiệp.

Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Đại học Nông

Lâm - Đại học Thái Nguyên, bộ phận quản lý đào tạo Sau đại học, các thầy cô khoa

chăn nuôi thú y đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn khoa

học: TS. Hồ Thị Bích Ngọc đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong

quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các cán bộ làm việc tại Trung tâm

giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản tỉnh Hòa Bình đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho

tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin kính chúc các thầy cô lãnh đạo Nhà trường và toàn thể thầy cô giáo

trong bộ phận quản lý đào tạo Sau đại học, khoa chăn nuôi thú y sức khỏe, hạnh

phúc và thành đạt, chúc các bạn học viên mạnh khỏe, học tập và thành công trong

cuộc sống.

Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên khuyến khích, tạo

mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Phùng Thị My

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... v

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ vi

DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................ vii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

2. Mục tiêu của đề tài .................................................................................................. 2

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài ................................................... 2

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 4

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài .................................................................................... 4

1.1.1. Một vài đặc điểm của giống lợn Landrase, Yorkshire, Duroc .......................... 4

1.1.2. Tính trạng số lượng và các yếu tố ảnh hưởng ................................................... 5

1.1.3. Lai giống và ưu thế lai ...................................................................................... 7

1.1.4. Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái ..................................................................... 10

1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái .............................. 14

1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng của lợn con và các yếu tố ảnh hưởng .......................... 19

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ........................................................ 20

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................ 20

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 22

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 25

2.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................... 25

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................................... 25

2.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 25

2.3.1. Năng suất sinh sản của đàn nái ông bà ............................................................ 25

2.3.2. Năng suất sinh sản của đàn nái bố mẹ ............................................................ 25

2.3.3. Sinh trưởng của lợn con thương phẩm ............................................................ 26

2.3.4. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản ........................ 26

iv

2.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi.............................................. 26

2.4.1. Phương pháp đánh giá năng suất trên đàn nái sinh sản.................................. 26

2.4.2. Sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi ..................................................... 28

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu ............................................................................... 29

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .................................. 30

3.1. Năng suất sinh sản đàn nái ông bà ..................................................................... 30

3.1.1. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Landrace (♀L x ♂L) và Duroc

(♀Du x ♂Du ) ........................................................................................................... 30

3.1.2. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Landrace (♀L x ♂L) qua các lứa đẻ ....... 36

3.1.3. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Duroc (♀Du x ♂ Du) qua các

lứa đẻ ......................................................................................................................... 40

3.2. Năng suất sinh sản của đàn nái bố mẹ ............................................................... 43

3.2.1. Năng suất sinh sản của nái F1(YL) được phối với đực Duroc và đực PiDu75 ...... 43

3.2.2. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc và đực Pidu

75 qua các lứa đẻ ........................................................................................................ 49

3.2.3. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực PiDu 75 qua các

lứa đẻ ......................................................................................................................... 52

3.3. Các chỉ tiêu khảo sát trên sự sinh trưởng của lợn con ....................................... 56

3.3.1. Sinh trưởng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ của đàn nái bố mẹ ............. 56

3.3.2. Sinh trưởng của lợn con sau cai sữa của đàn nái bố mẹ ................................. 57

3.4. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản ........................... 59

3.4.1. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái ông bà ....... 59

3.4.2. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái bố mẹ ............ 64

3.4.3. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái bố mẹ ............ 66

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ..................................................................................... 68

1. Kết luận ................................................................................................................. 68

2. Đề nghị .................................................................................................................. 69

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 70

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN VĂN ....... 80

v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

cs Cộng sự

CS Cai sữa

CPTA Chi phí thức ăn

Du Duroc

KL Khối lượng

KLTĐ Khối lượng tuyệt đối

KHKT Khoa học kỹ thuật

L Landrace

Nxb Nhà xuất bản

Pi Pietrain

TA Thức ăn

TTTA Tiêu tốn thức ăn

TKL Tăng khối lượng

TL Tỷ lệ

TG Thời gian

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

SS Sơ sinh

SCĐR Số con đẻ ra

SCCS Số con cai sữa

Pss Khối lượng sơ sinh

Pcs Khối lượng cai sữa

Y Yorkshire

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Một số kết quả nghiên cứu về hệ số di truyền của các tính trạng

sinh sản .................................................................................................. 16

Bảng 1.2. Hệ số tương quan kiểu gien tính trạng năng suất sinh sản của lợn ....... 16

Bảng 3.1. Năng suất sinh sản đàn ông bà ♀L x ♂L và ♀Du x ♂Du ..................... 30

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến năng suất sinh sản của lợn nái ông bà

giống Landrace ....................................................................................... 36

Bảng 3.3. Năng suất sinh sản của lợn nái ông bà giống Duroc qua 5 lứa đẻ ......... 40

Bảng 3.4. Năng suất sinh sản của nái F1(YL) được phối với đực Duroc và đực

PiDu75 ................................................................................................... 43

Bảng 3.5. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc

qua 5 lứa đẻ .......................................................................................... 49

Bảng 3.6. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến năng suất sinh sản của nái bố mẹ

F1(YL) phối với đực PiDu 75 ................................................................ 53

Bảng 3.7. Sinh trưởng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ của đàn bố mẹ ......... 57

Bảng 3.8. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa đến 60 ngày

tuổi đàn bố mẹ ........................................................................................ 57

Bảng 3.9. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản

của lợn nái ông bà (♀Landrace × ♂ Landrace) .................................... 60

Bảng 3.10. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản

của lợn nái ông bà (♀Du × ♂Du) ......................................................... 62

Bảng 3.11. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của

lợn nái bố mẹ .......................................................................................... 64

Bảng 3.12. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của

lợn nái bố mẹ .......................................................................................... 66

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1:Số con/ổ của lợn nái ông bà L x L và Du x Du.........................................31

Hình 3.2: Khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con của lợn nái ông bà

L x L và Du x Du ................................................................................... 33

Hình 3.3: Số con trên ổ qua các lứa đẻ của lợn nái ông bà Landrase .................... 37

Hình 3.4: Khối lượng sơ sinh/con và Khối lượng cai sữa/con qua các lứa đẻ

của lợn nái ông bà Landrase .................................................................. 38

Hình 3.5: Số con/ổ của lợn nái ông bà Duroc qua các lứa đẻ ................................... 41

Hình 3.6: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1(YL) x Du và F1 x Pidu75 .................... 44

Hình 3.7: Khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con của lợn nái Bố mẹ

F1 x Du và F1 x Pidu 75 ........................................................................ 47

Hình 3.8: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1 x Duroc qua các lứa đẻ ............................ 50

Hình 3.9: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1 x Pidu75 qua các lứa đẻ .......................... 54

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, chăn nuôi lợn là ngành chiếm vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu

ngành chăn nuôi nước ta. Chăn nuôi lợn không những đáp ứng nhu cầu trong nước

mà còn phục vụ xuất khẩu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng

10/2017, tổng đàn lợn trên 27,4 triệu con, giảm khoảng 5,7%, tổng sản lượng thịt

lợn hơi xuất chuồng đạt 3,73 triệu tấn, tăng 1,9 % so với cùng kỳ năm 2016. Tính

đến tháng 12/2018 đàn lợn tăng 3,2%; sản lượng thịt lợn đạt 3,8 triệu tấn, tăng 2,2%

(quý IV đạt 1.072,2 nghìn tấn, tăng 7,1%). Tính đến thời điểm 26/12/2018, cả nước

không còn dịch tai xanh trên lợn; Dịch lở mồm long móng còn ở Bắc Ninh, Hà Nội.

Đầu năm 2019, dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng tổng số lợn phải tiêu hủy

trên cả nước là 2,82 triệu con, chiếm 10% tổng đàn. Tổng đàn lợn của cả nước

tháng 6 giảm 10,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6

tháng đạt 1.801,2 nghìn tấn, giảm 4,7% (quý II đạt 796,8 nghìn tấn, giảm 12,4%)

(Cục Thống kê, 2019). Bên cạnh những lý do khách quan do dịch bệnh làm giảm

năng suất của ngành chăn nuôi lợn thì so với các nước trong khu vực và trên thế

giới năng suất và chất lượng giống lợn của chúng ta vẫn còn thấp, nguyên nhân do

chất lượng nguồn gen, công nghệ chọn lọc và nhân giống. Tại các quốc gia có

ngành chăn nuôi lợn phát triển hàng đầu thế giới như Đan Mạch chỉ cần duy trì đàn

trên 1 triệu con giống vẫn có thể sản xuất gần 28 triệu lợn thịt hàng năm. Theo công

bố của Danbred (2014) cho biết lợn Landrace và Yorkshire có khả năng sinh sản rất

tốt, các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của cá thể tốt nhất đạt được như sau: Số

con cai sữa/nái/năm đạt 38,4 con; Số con sơ sinh sống/ổ đạt 18 con; Số con cai

sữa/ổ đạt 16,1 con; Số ngày cai sữa là 28 ngày thì khối lượng cai sữa/con đạt 7,0 kg.

Hòa Bình là một tỉnh miền núi, kinh tế còn khó khăn nên ngành chăn nuôi

lợn còn kém phát triển, chủ yếu là chăn nuôi nhỏ lẻ, nguồn gốc không rõ ràng.

Trước thực trạng đó, Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Hòa Bình đã nhập đàn lợn ông

bà và bố mẹ từ Trạm nghiên cứu và phát triển giống lợn hạt nhân Tam Điệp tỉnh

Ninh Bình. Đàn lợn ông bà và bố mẹ nhập về sẽ góp phần cải thiện năng suất và

chất lượng đàn lợn giống của Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Hòa Bình, từ đó cải

2

thiện năng suất và chất lượng đàn lợn giống trong tỉnh thông qua việc chuyển giao

con giống vào sản xuất.

Đánh giá được năng suất sinh sản của lợn nái ông bà và bố mẹ trong điều kiện

nuôi dưỡng tại Trung tâm giống vật nuôi tỉnh Hòa Bình là rất cần thiết. Vì thế, tôi

tiến hành thực hiện đề tài "Năng suất sinh sản của lợn nái ông bà, bố mẹ và sự

sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi nuôi tại trung tâm giống vật nuôi tỉnh

Hòa Bình".

2. Mục tiêu của đề tài

* Mục tiêu chung: Đánh giá năng suất sinh sản của đàn lợn nái nuôi tại Trung

tâm giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản tỉnh Hòa Bình, nhằm đề xuất ý kiến góp

phần nâng cao chất lượng cũng như cải thiện con giống trên địa bàn tỉnh.

* Mục tiêu cụ thể:

- Đánh giá được khả năng sinh sản của đàn nái ông bà thông qua công thức

lai ♀Landrace x ♂Landrace và ♀Duroc x ♂Duroc.

- Đánh giá được khả năng sinh sản của đàn nái bố mẹ thông qua công thức lai

♀F1 (YL) x ♂PiDu75, ♀F1 (YL) x ♂Duroc

- Đánh giá được khả năng sinh trưởng của lợn con từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi của

2 công thức lai: ♀F1 (YL) x ♂PiDu75, ♀F1 (YL) x ♂Duroc.

- Đánh giá được tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của

nái ông bà, bố mẹ.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3.1. Ý nghĩa khoa học

Cung cấp tư liệu giúp đánh giá được năng suất sinh sản của đàn nái ông bà,

bố mẹ và khả năng sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi được sinh ra từ đàn nái

bố mẹ khi nuôi tại trại giống lợn ngoại, Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi và thủy

sản tỉnh Hòa Bình.

3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

- Đánh giá được khả năng sinh sản của nái ông bà thông qua công thức lai:

♀L x ♂L, ♀Du x ♂Du.

3

- Đánh giá được khả năng sinh sản của nái bố mẹ thông qua công thức lai:

♀F1(YL) x ♂Pidu 75, ♀F1 (YL) x ♂Duroc.

- Đánh giá được sự sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi của các công

thức lai: ♀F1 (YL) x ♂Du và ♀F1(YL) x ♂Pidu75.

- Đánh giá được tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của

nái ông bà, bố mẹ.

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

1.1.1. Một vài đặc điểm của giống lợn Landrase, Yorkshire, Duroc

* Lợn Landrase

- Lợn Landrace có nguồn gốc từ Đan Mạch, được nuôi phổ biến ở các

nước châu Âu, được tạo thành do lai tạo giữa giống lợn Youtland (Đức) với lợn

Yorkshire (Anh). Lợn Landrace được nhập vào Việt Nam từ năm 1970 từ Cuba,

là một trong những giống lợn được sử dụng trong chương trình nạc hoá đàn lợn

ở Việt Nam.

- Lợn Landrace (LR) có hình như quả tên lửa, lông da trắng tuyền, mõm dài

thẳng, hai tai to ngả về phía trước che cả mắt, mình lép, bốn chân hơi yếu, đẻ sai

(trừ LR Bỉ), tỷ lệ nạc cao, nhưng thích nghi kém hơn Yorkshire trong điều kiện

nóng ẩm.

* Lợn Yorkshire

- Lợn Yorshire được chọn lọc, nhân giống tại vùng Yorkshire - nước Anh từ

thế kỷ 19 và hiện nay được nuôi ở khắp nơi trên thế giới. Khả năng thích nghi của

lợn Yorshire tốt hơn các giống khác. Ở nước ta, lợn Yorkshire được nhập vào từ

năm 1920 ở miền Nam để tạo ra giống lợn Thuộc Nhiêu Nam Bộ. Đến năm 1964,

lợn được nhập vào miền Bắc thông qua Liên Xô cũ. Năm 1978, nước ta nhập lợn

Yorkshire từ Cuba. Những năm sau 1990, nhiều dòng lợn Yorkshire được nhập vào

Việt Nam từ nhiều nước khác nhau.

- Lợn Yorkshire có lông trắng tuyền, tai đứng (có nhóm giống tai hơi

nghiêng), trán rộng, ngực rộng, ngoại hình thể chất chắc chắn, nuôi con khéo, chịu

được kham khổ, chất lượng thịt tốt, khả năng chống chịu stress cao. Khối lượng

trưởng thành của con đực đạt 300-400 kg, con cái khoảng 230-300kg.

* Lợn Duroc

Lợn Duroc có nguồn gốc từ miền Đông nước Mỹ và vùng Corn Belt. Dòng

Duroc được tạo ra ở vùng New York năm 1823, bởi Isaac Frink. Giống Duroc-

Jersey có nguồn của hai dòng khác biệt Jersey đỏ của New Jersey và Duroc của

5

New York. Còn dòng Jersey đỏ được tạo ra vào năm 1850 vùng New Jersey bởi

Clark Pettit. Chủ yếu được nuôi ở vùng New Jersey và vùng New York, nước Mỹ.

Đây là giống có nguồn gốc từ Mỹ, nhưng hiện nay đã hiện diện khắp nơi trên

thế giới vì chúng cho năng suất cao và tỷ lệ nạc khá lớn, ít mở. Lợn Duroc được coi

là giống lợn tốt trên thế giới hiện nay và được nuôi rất phổ biến ở nhiều nơi, đặc

biệt nuôi theo hướng nạc và sử dụng thịt nướng. Tuy nhiên, nuôi Lợn Duroc cần có

chế độ dinh dưỡng cao và chăm sỏc tốt mới đạt được kết quả tốt nhất.

Duroc có khả năng sinh sản tương đối cao. Trung bình đạt 1,7 – 1,8 lứa/năm.

Mỗi lứa đẻ từ 9 đến 11 con, heo con trung bình đạt 1,2 – 1,3 kg, Pcs 12 – 15 kg. Sức

tiết sữa của lợn đạt 5 – 8 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của heo tốt. Tuy nhiên khả

năng sinh sản của nái không cao, đẻ khoảng 7-9 con/lứa, nuôi con kém. Lợn nái đẻ

mỗi năm 1,8 lứa, mỗi lứa 8 – chín con, nái tiết sữa kém, nuôi con kém, nhu cầu dinh

dưỡng cao, sức kháng bệnh kém.

1.1.2. Tính trạng số lượng và các yếu tố ảnh hưởng

Các tính trạng sản xuất của vật nuôi là các tính trạng số lượng do nhiều gen

điều khiển, mỗi gen đóng góp một mức độ khác nhau vào cấu thành năng suất của

con vật. Giá trị kiểu hình của các tính trạng sản xuất có sự phân bố liên tục và chịu

tác động nhiều bởi yếu tố ngoại cảnh.

Giá trị kiểu hình (P) của bất kỳ tính trạng số lượng nào cũng có thể phân chia

thành giá trị kiểu gen (G) và sai lệch môi trường (E). Giá trị kiểu hình (P) được biểu

thị như sau:

P = G + E

P: Giá trị kiểu hình (Phenotypic value).

G: Giá trị kiểu gen (Genotypic value).

E: Sai lệch môi trường (Enviromental deviation).

Giá trị kiểu gen (G) của tính trạng số lượng do nhiều cặp gen qui định. Giá trị

kiểu gen bao gồm các thành phần khác nhau: giá trị cộng gộp A (Additive value) hoặc

giá trị giống (Breeding value), sai lệch trội D (Dominance deviation) và sai lệch tương

tác gen hoặc sai lệch át gen I (Interaction deviation hoặc Epistatic deviation).

G = A + D + I

6

Giá trị cộng gộp (A): Bố mẹ chỉ truyền cho con cái các gen của chúng chứ

không phải truyền kiểu gen cho thế hệ sau. Để đo lường giá trị truyền đạt từ bố mẹ

sang đời con phải có một giá trị đo lường có quan hệ với gen chứ không phải có liên

quan với kiểu gen.Trong một tập hợp các gen qui định một tính trạng số lượng nào

đó thì mỗi gen đều có một hiệu ứng nhất định đối với tính trạng số lượng đó. Tổng

các hiệu ứng mà các gen nó mang (tổng các hiệu ứng được thực hiện với từng cặp

gen ở mỗi locus và trên tất cả các locus) được gọi là giá trị cộng gộp hay còn gọi là

giá trị giống của cá thể.

Giá trị giống là thành phần quan trọng của kiểu gen vì nó cố định và có thể di

truyền được cho thế hệ sau. Do đó, nó là nguyên nhân chính gây ra sự giống nhau

giữa các con vật thân thuộc, nghĩa là nó là yếu tố chủ yếu sinh ra đặc tính di truyền

của quần thể và sự đáp ứng của quần thể với sự chọn lọc. Hơn nữa, đó là thành phần

duy nhất mà người ta có thể xác định được từ sự đo đạc các tính trạng đó ở quần thể.

Tác động của các gen được gọi là cộng gộp khi giá trị kiểu hình của kiểu gen

dị hợp luôn là trung gian so với kiểu hình của hai kiểu gen đồng hợp, bố mẹ luôn

truyền một nửa giá trị cộng gộp của mỗi tính trạng của chúng cho đời con. Tiềm

năng di truyền do tác động cộng gộp của gen bố và mẹ tạo nên gọi là giá trị di

truyền của con vật hay giá trị giống. Chọn lọc căn cứ vào giá trị giống nghĩa là chọn

lọc khả năng di truyền cho đời sau.

Sai lệch trội (D): là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại giữa các

cặp alen ở cùng một locus, đặc biệt là các cặp alen dị hợp tử (Đặng Hữu Lanh và cs,

1999). Sai lệch trội cũng là một phần thuộc tính của quần thể. Sai lệch trội có thể là:

trội hoàn toàn: AA=Aa >aa; siêu trội: Aa >AA>aa và trội không hoàn toàn: AA

>Aa > aa. Quan hệ trội của bố mẹ không truyền được sang con cái.

Sai lệch át gen (I): là sai lệch được sản sinh ra do sự tác động qua lại giữa các

gen thuộc các locus khác nhau. Sai lệch át gen không có khả năng di truyền cho thế

hệ sau.

Sai lệch môi trường (E) được thể hiện thông qua sai lệch môi trường chung

(Eg) và sai lệch môi trường riêng (Es).

Sai lệch môi trường chung (Eg): là sai lệch do loại môi trường tác động lên

toàn bộ con vật trong suốt đời của nó.

7

Sai lệch môi trường riêng (Es): là sai lệch do loại môi trường chỉ tác động lên

một số con vật trong một giai đoạn nào đó trong đời sống của chúng.

Như vậy, kiểu hình của một cá thể được cấu tạo từ hai locus trở lên có giá trị

kiểu hình chi tiết như sau:

P = A + D + I + Eg + Es

Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới tính trạng số lượng cho thấy,

muốn nâng cao năng suất vật nuôi cần phải:

- Tác động về mặt di truyền (G) bao gồm:

+ Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc.

+ Tác động vào các hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng cách lai giống.

- Tác động về mặt môi trường (E) bằng cách cải tiến điều kiện chăn nuôi:

thức ăn, chuồng trại, quản lý, thú y,...

1.1.3. Lai giống và ưu thế lai

Lai giống là cho giao phối giữa những động vật thuộc hai hay nhiều giống

khác nhau. Lai khác dòng là cho giao phối giữa những động vật thuộc các dòng

khác nhau trong cùng một giống. Mặc dù lai khác giống xa nhau về huyết thống hơn

lai các dòng, song hiệu ứng di truyền của cả hai kiểu lai lại tương tự nhau (Nguyễn

Hải Quân và cs., 1995).

Ưu thế lai là từ ngữ biểu thị sức sống của con lai vượt trội hơn cha mẹ. Khi

cha mẹ là những cá thể không có quan hệ huyết thống. Ưu thế lai không chỉ thể hiện

ở sức chịu đựng mà còn bao gồm cả ưu thế về sức sống, tốc độ sinh trưởng, khả

năng cho sữa, khả năng sinh sản và tỷ lệ chết.

Có thể giải thích ưu thế lai bằng các giả thiết sau:

- Thuyết trội: Giả thiết này cho rằng mỗi bên cha mẹ có những cặp gen trội

đồng hợp tử khác nhau. Khi tạp giao ở thế hệ F1 sẽ có các gen trội ở tất cả các locus.

Nếu bố có kiểu gen AABBCCddeeff và mẹ có kiểu gen aabbccDDEEFF thì thế hệ

F1 có kiểu gen là: AaBbCcDdEeFf.

Do tính trạng số lượng được quyết định bởi nhiều gen, nên xác suất xuất hiện

một kiểu gen đồng hợp hoàn toàn là thấp. Ngoài ra, vì sự liên kết giữa các gen trội

và gen lặn trên cùng một nhiễm sắc thể, nên xác suất tổ hợp được kiểu gen tốt nhất

8

cũng thấp. Hiện tượng này và thuyết trội đã được bổ sung thông qua giả thiết sự liên

kết của các gen.

- Thuyết siêu trội: Mỗi alen trong một locus sẽ thực hiện chức năng riêng của

mình. Ở trạng thái dị hợp tử thì cả hai chức năng này đồng thời được biểu lộ. Mỗi

gen có khả năng tổng hợp riêng, quá trình này được thực hiện trong những điều kiện

môi trường khác nhau. Do vậy, kiểu gen dị hợp tử sẽ có khả năng thích nghi tốt hơn

với những thay đổi của môi trường.

Ưu thế lai có thể do hiện tượng siêu trội của một locus, hiện tượng trội tổ hợp

nhiều locus hoặc do các nguyên nhân khác gây ra. Khả năng thích ứng với môi trường

của các thể dị hợp tử tạo nên hiện tượng siêu trội là cơ sở của ưu thế lai.

- Tương tác gen: Tương tác gen trong cùng một locus dẫn tới hiện tượng trội

không hoàn toàn. Tương tác giữa các gen trong cùng các locus khác nhau, bao gồm

vô số các kiểu tương tác phức tạp, đa dạng, phù hợp với tính chất phức tạp, đa dạng

của sinh vật.

Cơ sở thống kê của ưu thế lai

Cơ sở thống kê của ưu thế lai do Falconer đưa ra từ năm 1964. Ưu thế lai ở

F1: H F1 = dy2, trong đó d là giá trị của kiểu gen dị hợp, y là sai khác về tần số gen

giữa hai quần thể bố, mẹ. Ưu thế lai sinh ra bởi ảnh hưởng đồng thời của tất cả các

giá trị riêng rẽ của từng locus:

HF1 = ∑dy2

Như vậy, ưu thế lai ở F1 phụ thuộc vào giá trị của các kiểu gen dị hợp và sự

khác biệt giữa hai quần thể.

Cơ sở thống kê này cho phép tính toán được ưu thế lai ở các thế hệ lai khác

nhau. Ưu thế lai ở F2: H F2 = 1/2dy 2, Do đó H F2 = 1/2 H F1.

Thay đổi trung bình từ F1 đến F2 cũng được coi là hiện tượng suy hoá cận

huyết. Theo Falconer (1993), ưu thế lai ở F1, F2 có thể phức tạp do ảnh hưởng của

mẹ. Chẳng hạn, tính trạng số con trong ổ của lợn, ưu thế lai quan sát được ở F1

không có đóng góp của mẹ ở F2, mặc dù ưu thế lai mất đi một nửa nhưng lại có ảnh

hưởng ưu thế lai của mẹ, do mẹ là con lai của F1.

9

Ảnh hưởng của mẹ bao gồm tất cả những đóng góp, những ảnh hưởng tốt

xấu do kiểu hình mẹ gây ra đối với kiểu hình của đời con. ảnh hưởng của mẹ đối

với kiểu hình của đời con có thể do sự khác nhau về di truyền, về ngoại cảnh hoặc

sự phối hợp giữa di truyền và ngoại cảnh. ảnh hưởng của mẹ có thể được thực hiện

trong quá thụ tinh, có chửa, tiết sữa và nuôi con. Các ảnh hưởng này chỉ có thể xuất

hiện tức thời, song cũng có thể kéo dài suốt đời của con vật và được thể hiện ở

nhiều cơ chế sinh học khác nhau. Theo Đặng Vũ Bình (2002), có 5 loại ảnh hưởng

của mẹ:

- Ảnh hưởng của nguyên sinh chất nhưng không phải là ADN ngoài nhân.

- Ảnh hưởng của nguyên sinh chất do ADN ngoài nhân.

- Ảnh hưởng của mẹ trong giai đoạn trước khi đẻ.

- Ảnh hưởng của mẹ thông qua sự truyền kháng thể từ mẹ sang con.

- Ảnh hưởng của mẹ sau khi sinh.

Theo Dickerson (1974), khi lai giữa hai giống con lai chỉ có ưu thế lai cá thể.

Khi lai 3 giống, nếu dùng đực của giống thuần giao phối với nái lai, con lai có cả ưu

thế lai cá thể và ưu thế lai của mẹ, do mẹ là con lai F1. Nếu dùng đực lai giao phối

với nái của giống thứ 3, con lai có ưu thế lai cá thể và ưu thế lai của bố, do bố là con

lai F1. Trong lai 4 giống, con lai có cả ưu thế lai cá thể, cả ưu thế lai của mẹ và ưu

thế lai của bố.

Tính ưu thế lai đối với một số tính trạng nhất định từ các giá trị trung bình

của đời con và giá trị trung bình của bố mẹ theo công thức sau:

Trong đó, H: ưu thế lai, BA: F1 (bố B, mẹ A), AB: F1 (bố A, mẹ B), AA: bố

A, mẹ A, BB: bố B, mẹ B.

Các yếu tố ảnh hưởng đến ưu thế lai

- Công thức lai

Ưu thế lai đặc trưng cho mỗi công thức lai. Theo Trần Đình Miên và cs.

(1994), mức độ ưu thế lai đạt được có tính cách riêng biệt cho từng cặp lai cụ thể.

10

Theo Trần Kim Anh (2001), ưu thế lai của mẹ có lợi cho đời con, ưu thế

lai của lợn nái ảnh hưởng đến số con /ổ và tốc độ sinh trưởng của lợn con. Ưu thế

lai cá thể ảnh hưởng đến sinh trưởng và sức sống của lợn con, đặc biệt ở giai đoạn

sau cai sữa. Ưu thế lai của bố thể hiện tính hăng của con đực, kết quả phối giống, tỷ

lệ thụ thai. Khi lai hai giống, số lợn con cai sữa/nái/năm tăng 5 - 10%, khi lai 3

giống hoặc lai trở ngược số lợn con cai sữa /nái /năm tăng tới 10 - 15%, số con cai

sữa/ổ nhiều hơn 1,0 - 1,5 con và khối lượng cai sữa/con tăng được 1 kg ở 28 ngày

tuổi so với giống thuần (Colin, 1998).

- Tính trạng

Ưu thế lai phụ thuộc vào tính trạng, có những tính trạng có khả năng di truyền

cao nhưng cũng có những tính trạng có khả năng di truyền thấp. Những tính trạng

liên quan đến khả năng nuôi sống và khả năng sinh sản có ưu thế lai cao nhất. Các

tính trạng có hệ số di truyền thấp thường có ưu thế lai cao, vì vậy để cải tiến các tính

trạng này, so với chọn lọc, lai giống là một biện pháp nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Một số tính trạng ở lợn có ưu thế lai khác nhau; số con đẻ ra/ổ có ưu thế lai

cá thể là 2%, ưu thế lai của mẹ là 8%; số con cai sữa có ưu thế lai cá thể 9%, ưu thế

lai của mẹ là 11%; khối lượng cả ổ ở 21 ngày tuổi có ưu thế lai cá thể 12%; ưu thế

lai của mẹ 18% (Richard, 2000).

- Sự khác biệt giữa bố và mẹ

Ưu thế lai phụ thuộc vào sự khác biệt giữa hai giống đem lai, hai giống càng

khác biệt với nhau về di truyền bao nhiêu thì ưu thế lai thu được khi lai giữa chúng

càng lớn bấy nhiêu.

Các giống càng xa nhau về điều kiện địa lý thì ưu thế lai càng cao. Ưu thế

lai của một tính trạng nhất định phụ thuộc đáng kể vào ngoại cảnh. Có nhiều yếu

tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến gia súc, cũng như ảnh hưởng đến biểu hiện của ưu

thế lai.

1.1.4. Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái

Hiệu quả của chăn nuôi lợn nái sinh sản được đánh giá bằng số lợn con cai sữa

/nái/ năm và tổng khối lượng lợn con cai sữa. Hai chỉ tiêu này phụ thuộc vào tuổi

thành thục về tính, thể vóc, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra, số lứa đẻ/ năm, tỷ lệ nuôi

sống con theo mẹ, sản lượng sữa của mẹ, kỹ thuật nuôi dưỡng, chăm sóc. Do đó để

11

tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản thì phải cải tiến nâng cao số

lợn con cai sữa, khối lượng lợn con lúc cai sữa. Đồng thời cũng phải làm giảm

khoảng cách giữa hai lứa đẻ bằng cách cai sữa sớm lợn con và làm giảm số ngày

động dục lại sau cai sữa của lợn mẹ ở những lứa sau.

Các tính trạng phản ánh năng suất sinh sản có hệ số di truyền thấp. Để đánh giá

một cách đúng đắn năng suất sinh sản của lợn cái cần phải xác định được các chỉ tiêu

cơ bản, quan trọng, lấy đó làm cơ sở, thước đo để định ra thời gian sử dụng lợn cái hiệu

quả. Các chỉ tiêu này cần phải được tính chung trong toàn bộ thời gian sử dụng lợn cái

từ lứa đẻ đầu tiên đến lứa đẻ cuối cùng. Một số ý kiến về vấn đề này như:

Vandersteen (1986) cho rằng các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu cho

phép đánh giá lợn nái bao gồm: tuổi động dục lần đầu, tỷ lệ thụ thai, số con/ổ, thời

gian động dục trở lại. Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy các tính trạng năng

suất sinh sản có hệ số di truyền thấp.

Kết quả các nghiên cứu khác cho rằng, các chỉ tiêu ảnh hưởng đến số lượng

lợn con cai sữa của 1 nái/1 năm là: tính đẻ nhiều con (số lợn sơ sinh), tỷ lệ chết của

lợn con từ sơ sinh đến cai sữa, thời gian bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu và thời gian từ cai

sữa đến khi thụ thai lứa sau.

Gordon (2004) cho rằng: trong các trại chăn nuôi hiện đại, số lợn con cai sữa

do một nái sản xuất trong một năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất năng suất sinh

sản của lợn nái.

Theo Ducos và cs. (1996), các thành phần đóng góp vào chỉ tiêu số con còn

sống khi cai sữa gồm: Số trứng rụng, tỷ lệ sống khi sơ sinh và tỷ lệ lợn con sống tới

lúc cai sữa.

Kết quả các nghiên cứu khác cho rằng, các chỉ tiêu ảnh hưởng đến số lượng

lợn con cai sữa/nái/năm là: số lợn sơ sinh, tỷ lệ chết của lợn con từ sơ sinh đến cai

sữa, thời gian bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu và thời gian từ cai sữa đến khi thụ thai lứa sau.

Theo Marby và cs. (1997), các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu của lợn

nái bao gồm: Số con sơ sinh/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng toàn ổ ở 21 ngày tuổi

và số lứa đẻ/nái/năm. Các tính trạng này ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của người

chăn nuôi lợn nái.

Gordon (2004) cho rằng, trong các trang trại chăn nuôi hiện đại, số lượng

12

con cai sữa do một nái sản xuất trong 1 năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất khả

năng sinh sản của lợn nái.

Theo Nguyễn Khắc Tích (1993), khả năng sinh sản của lợn nái chủ yếu được

đánh giá dựa vào chỉ tiêu số lợn con cai sữa/nái/năm. Chỉ tiêu này lại phụ thuộc vào

2 yếu tố là số con đẻ ra và số lứa đẻ/nái/năm.

Theo Van der Steen (1986), sức sinh sản của lợn nái bao gồm các chỉ tiêu về

tuổi động dục lần đầu, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra /ổ và thời gian từ khi cai sữa đến

động dục lại, phối giống có kết quả.

Ở Việt Nam, Tiêu chuẩn nhà nước về lợn giống (TCVN 1980 – 1981 –

TCVN 1982 – 1981) đề ra 4 chỉ tiêu giám định lợn nái tại các cơ sở giống nhà nước

là: Số con sơ sinh sống/ổ, khối lượng toàn ổ lúc 21 ngày, khối lượng toàn ổ lúc 60

ngày, tuổi đẻ lứa đầu đối với lợn nái đẻ lứa 1 hoặc khoảng cách lứa đẻ đối với nái

đẻ từ lứa thứ 2 trở đi.

Theo Nguyễn Khắc Tích (2002), khả năng sinh sản của lợn nái chủ yếu được

đánh giá dựa vào chỉ tiêu số lợn con cai sữa/nái/năm. Chỉ tiêu này lại phụ thuộc vào

2 yếu tố là số con sơ sinh và số lứa đẻ/nái/năm.

Số con đẻ ra còn sống là số con còn sống sau khi lợn mẹ đẻ xong con cuối

cùng. Chỉ tiêu này cho biết khả năng đẻ nhiều hay ít của lợn nái, kỹ thuật chăm sóc

lợn nái chửa, kỹ thuật thụ tinh của người chăn nuôi. Số lợn con cai sữa là chỉ tiêu rất

quan trọng đánh giá trình độ chăn nuôi lợn nái sinh sản, quyết định năng suất và ảnh

hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh tế của quá trình chăn nuôi. Thời gian cai sữa tuỳ

thuộc vào trình độ chăn nuôi bao gồm kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh thú y,

phòng bệnh, khả năng tiết sữa của lợn mẹ và khả năng phòng bệnh của lợn con. Mặt

khác, số lợn con cai sữa còn phụ thuộc vào số con để nuôi, tỷ lệ nuôi sống từ sơ

sinh đến cai sữa. Lợn con trước cai sữa thường bị chết với các nguyên nhân và tỷ lệ

khác nhau như di truyền, nhiễm khuẩn, mẹ đè, thiếu sữa, dinh dưỡng kém hay

những nguyên nhân khác.

Số lứa đẻ/nái/năm chịu ảnh hưởng quan trọng của thời gian nuôi con và số

ngày bị hao hụt của lợn nái. Hiện nay, thời gian nuôi con được rút ngắn, trung bình

là 21-25 ngày. Sau khi mang thai, đẻ và nuôi con, lợn mẹ thay đổi về khối lượng,

nếu gầy sút quá sẽ ảnh hưởng tới thời gian động dục trở lại sau cai sữa và ảnh

13

hưởng tới năng suất của lứa tiếp theo. Do đó, trong quá trình nuôi dưỡng, lợn mẹ

cần được quan tâm để hạn chế đến mức thấp nhất sự hao hụt thể trạng, rút ngắn tối

đa thời gian động dục lại sau cai sữa. Điều này sẽ giúp rút ngắn khoảng cách lứa đẻ

và nâng cao số lứa đẻ/nái/năm. Như vậy, có rất nhiều ý kiến đưa ra các chỉ tiêu khác

nhau trong việc đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Tuy nhiên, quá trình đánh

giá và chọn lọc nên tập trung vào các chỉ tiêu chính là: số con sơ sinh sống/ổ, số con

cai sữa/ổ và khoảng cách giữa 2 lứa đẻ.

Năng suất sinh sản của lợn nái được cấu thành bởi nhiều yếu tố, do đó cũng

có nhiều chỉ tiêu để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Nhưng người ta thường

quan tâm đến 1 số chỉ tiêu quan trọng về năng suất mà qua đó có thể đánh giá được

khả năng cũng như năng suất sinh sản của lợn nái. Các chỉ tiêu đánh giá năng suất

sinh sản của lợn nái:

- Tuổi động dục lần đầu (ngày): là thời gian từ sơ sinh đến khi lợn cái hậu bị

động dục lần đầu. Tùy theo từng giống và điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng khác

nhau mà tuổi dộng dục khác nhau. Lợn ngoại có tuổi động dục muộn hơn lợn nội,

chăm sóc, nuôi dưỡng không hợp lý thì tuổi động dục cũng muộn hơn chăm sóc và

nuôi dưỡng hợp lý.

- Tuổi phối giống lần đầu (ngày): thông thường người ta phối giống lần đầu

vào lần động dục thứ 2 hoặc thứ 3 vì ở lần động dục đầu cơ thể phát triển chưa đầy

đủ, chưa tích lũy đủ dinh dưỡng nuôi bào thai và trứng rụng ít, chưa đều nên thường

bỏ qua không phối giống.

- Tuổi đẻ lứa đầu (ngày): là tuổi khi lợn nái đẻ lứa thứ nhất. Tuổi đẻ lứa đầu

nói lên tuổi thành thục về tính, thể vóc đảm bảo về khối lượng của lợn nái khi đưa

vào phối giống.

- Số con đẻ ra/ổ (con): là tổng số con đẻ ra trong 1 ổ bao gồm cả số con đẻ ra

sống và số con đẻ ra chết.

- Số con đẻ ra sống/ổ (con): Là số con đẻ ra sống được đến khi lợn mẹ đẻ ra

con cuối cùng. Đây là chỉ tiêu thể hiện khả năng đẻ sai hay đẻ ít con của giống đồng

thời đánh giá được kỹ thuật chăm sóc lợn nái trong thời gian mang thai và kỹ thuật

phối giống.

14

- Số con đẻ ra chết/ổ (con): Có thể là thai chết, thai non, thai gỗ, chết trong

quá trình đỡ đẻ, chết trong khoảng thời gian từ khi đẻ con đầu tiên đến con cuối

cùng (thường được tính trong vòng 24 giờ).

- Khối lượng sơ sinh toàn ổ (kg): Là khối lượng cân sau khi lợn con đẻ ra, lau

khô, cắt rốn, bấm răng nanh và chưa cho bú sữa đầu. Đây là chỉ tiêu nói lên khả

năng nuôi dưỡng thai của lợn mẹ, kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc, quản lý và phòng

bệnh cho lợn nái chửa của cơ sở chăn nuôi. Khối lượng sơ sinh cao hay thấp ảnh

hưởng đến các giai noãn sau này.

- Số con 21 ngày tuổi (con): Đánh giá chất lượng sữa và khả năng nuôi con

khéo của lợn mẹ.

- Số con cai sữa/ổ (con): Đây là chỉ tiêu đánh giá rất quan trọng trong chăn

nuôi lợn nái sinh sản, vì số con cai sữa/ổ cao thì số con cai sữa/nái/năm cao, như

vậy hiệu quả chăn nuôi sẽ cao hơn. Chỉ tiêu này cho biết chất lượng của giống, trình

độ chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như quy trình vệ sinh, phòng bệnh dịch của các nhà

chăn nuôi.

- Khối lượng cai sữa/ổ (kg): Đánh giá khả năng tăng trọng của lợn con, khả

năng tiết sữa của lợn mẹ và kỹ thuật cho ăn của người chăn nuôi. Đây là chỉ tiêu cơ

bản và quan trọng nhất đối với người chăn nuôi, khối lượng cai sữa toàn ổ ảnh

hưởng đến khối lượng khi xuất bán.

- Thời gian động dục trở lại sau cai sữa (ngày): Là thời gian từ lúc cai sữa đến

lúc động dục trở lại. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào giống lợn, thể trạng, chế độ dinh

dưỡng trong giai đoạn nuôi con và sau cai sữa.

- Khoảng cách 2 lứa đẻ (ngày): Khoảng cách 2 lứa đẻ = thời gian nuôi con +

thời gian chờ phối + thời gian mang thai. Trong đó, thời gian mang thai thường cố

định hoặc biến đổi rất nhỏ nên khoảng cách hai lứa đẻ phụ thuộc vào thời gian nuôi

con và thời gian chờ phối.

1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái

Năng suất sinh sản của lợn nái có mối liên quan chặt chẽ và phụ thuộc vào 2

yếu tố: di truyền và ngoại cảnh. Yếu tố di truyền phụ thuộc vào đặc tính con giống,

các giống lợn khác nhau thì có tính năng sản xuất khác nhau. Yếu tố ngoại cảnh bao

gồm thức ăn dinh dưỡng, vệ sinh thú y, chuồng trại. Mặt khác năng suất sinh sản của

15

lợn nái được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu như: số trứng rụng, tỷ lệ thụ thai, số con đẻ ra

còn sống, số con cai sữa/lứa, thời gian chờ phối... Các chỉ tiêu này có hệ số di truyền

thấp nên chúng chịu sự tác động mạnh mẽ của các điều kiện ngoại cảnh.

* Yếu tố di truyền

Giống là yếu tố di truyền ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất sinh sản của

lợn nái. Các giống khác nhau có năng suất sinh sản khác nhau. Điều này đã được

nhiều tác giả trong và ngoài nước công bố. Theo Legault (trích từ Rothschild và cs.,

1998), căn cứ vào khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt, các giống lợn được chia

làm bốn nhóm chính như sau:

- Các giống đa dụng như Yorkshire, Landrace và một số dòng nguyên chủng

được xếp vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá.

- Các giống chuyên dụng "dòng bố" như Pietrain, Landrace của Bỉ, Hampshire,

Poland China có khả năng sinh sản trung bình nhưng khả năng sản xuất thịt cao.

- Các giống chuyên dụng "dòng mẹ", đặc biệt một số giống chuyên sản của

Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có khả năng sinh sản đặc biệt cao

nhưng khả năng cho thịt kém.

- Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và sức sản

xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với môi trường.

- Các giống "dòng bố" thường có khả năng sinh sản thấp hơn so với các giống

đa dụng, ngoài ra chúng có chiều hướng hơi kém về khả năng nuôi con, tỷ lệ lợn

con chết trước khi cai sữa của các giống này cao hơn so với Landrace và Large

white (Blasco và cs.,1995).

Sự thành thục về tính ở các giống lợn khác nhau là khác nhau. Các giống lợn

có tầm vóc, khối lượng nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn các giống lợn có

tầm vóc, khối lượng lớn. Sự thành thục về tính ở lợn cái là thời điểm rụng trứng lần

đầu tiên và xảy ra lúc 3 - 4 tháng tuổi đối với các giống lợn thành thục sớm như các

giống lợn nội và 6 - 7 tháng tuổi đối với hầu hết các giống lợn ngoại phổ biến ở các

nước phát triển. Một số nghiên cứu trên đàn lợn Landrace và Yorkshire đều cho

rằng yếu tố Giống ảnh hưởng đến các tính trạng như: số con đẻ ra, số con sơ sinh

sống, số con để nuôi và số con cai sữa, khoảng cách lứa đẻ và khối lượng toàn ổ giai

16

đoạn sơ sinh, cai sữa (Tạ Thị Bích Duyên, 2003). Trong khi đó, tác giả Đặng Vũ Bình

(1999) khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới các tính trạng năng suất sinh sản

trong một lứa đẻ của lợn nái ngoại (Landrace và Yorkshire) được nuôi tại Xí nghiệp

lợn giống Mỹ Văn thì cho kết quả giống chỉ ảnh hưởng tới số con để nuôi (P<0,05).

Các chỉ tiêu về khả năng sinh sản thường có hệ số di truyền thấp nên năng suất

sinh sản chịu ảnh hưởng lớn bởi tác động của các yếu tố môi trường. Một số kết quả

nghiên cứu được thể hiện ở bảng 1.1:

Bảng 1.1. Một số kết quả nghiên cứu về hệ số di truyền

của các tính trạng sinh sản

Chỉ tiêu Hệ số di truyền ( h2)

Tuổi đẻ lứa đầu 0,27

Số con đẻ ra/ổ 0,13

Số con cai sữa/ổ 0,12

Khối lượng sơ sinh/con 0,21

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ 0,08

- Các chỉ tiêu sinh sản lại có mối quan hệ với nhau, hệ số tương quan di truyền giữa

các chỉ tiêu sinh sản ở lợn theo các tác giả khác nhau được trình bày ở bảng 1.2:

Bảng 1.2. Hệ số tương quan kiểu gien tính trạng

năng suất sinh sản của lợn

Hệ số tương quan kiểu gen

Số con sơ sinh và số con sơ sinh còn sống 0,88 Số con sơ sinh sống và số con 21 ngày tuổi 0,89 Số con sơ sinh sống và số con cai sữa 0,83

0,83 - -

0,97 - 0,85

0,94 0,57 -

0,92 - 0,81

17

* Yếu tố ngoại cảnh

Ngoài ảnh hưởng của yếu tố di truyền thì yếu tố ngoại cảnh cũng ảnh hưởng

rất rõ ràng đến năng suất sinh sản của lợn nái. Cụ thể bao gồm:

- Ảnh hưởng của dinh dưỡng

Thức ăn là nguồn cung cấp dinh dưỡng, năng lượng, đóng vai trò quyết định

trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Dinh dưỡng là yếu tố hết sức

quan trọng đảm bảo khả năng sinh sản của lợn nái. Trong giai đoạn chửa và nuôi

con, nếu lợn nái được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cả về số lượng và chất lượng,

kết quả sinh sản sẽ tốt. Chế độ dinh dưỡng tốt sẽ cải thiện được số trứng rụng và tỷ

lệ thụ thai. Lợn nái ăn gấp đôi lượng thức ăn ở giai đoạn trước khi phối giống và ở

ngày phối giống so với bình thường có tác dụng làm tăng số trứng rụng và số con đẻ

ra/ổ. Nuôi dưỡng tốt lợn nái trước khi động dục có thể làm tăng số lượng trứng

rụng, tăng số phôi sống.

Mục tiêu của việc nuôi dưỡng lợn nái là sao cho số ngày không sản xuất ít,

khối lượng cơ thể tăng phù hợp trong thời kỳ có chửa và khối lượng cơ thể thích

hợp trong thời kỳ nuôi con. Vì vậy, cần phải đưa ra khẩu phần ăn khoa học để làm

tăng sữa. Khẩu phần ăn thiếu lysine và protein làm bao noãn phát triển kém, khả

năng thành thục của tế bào trứng giảm, số con sơ sinh và số con sơ sinh sống/ổ

giảm, tỷ lệ hao hụt của lợn mẹ tăng và khả năng sinh trưởng tối đa của lợn con giảm

(Yang và cs., 2000). Tuy nhiên, mức protein quá cao trong khẩu phần cũng đều

không tốt cho lợn nái chửa và nái nuôi con.

- Ảnh hưởng của tuổi phối giống lần đầu và khối lượng phối giống lần đầu

Tuổi đẻ lứa đầu quá sớm hay quá muộn, khối lượng phối giống lần đầu quá

thấp hay quá cao đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái. Khi lợn hậu bị

được đưa vào khai thác quá sớm, cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, nên số trứng

rụng ít, tỷ lệ thụ thai kém. Hơn nữa vấn đề này còn ảnh hưởng đến sự phát triển thể

chất, thể vóc sau này. Còn nếu lợn hậu bị được đưa vào khai thác quá muộn, hiệu

quả kinh tế sẽ giảm.

- Ảnh hưởng của tuổi và lứa đẻ

Tuổi và lứa đẻ đều là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số con sơ sinh/ổ. Số

con sơ sinh liên quan với số trứng rụng. Trong lần động dục đầu, số trứng rụng

18

thường thấp nhất, tăng đến 3 tế bào trứng ở chu kỳ động dục thứ 2 và đạt tương đối

cao ở chu kỳ động dục thứ 3. Như thế thường ở lứa đẻ 1và 2 số con sơ sinh/ổ ít hơn

so với các lứa tiếp theo. Sau đó, từ lứa 2 trở đi, số con sơ sinh/ổ sẽ tăng dần cho đến

lứa 6, lứa thứ 7 thì bắt đầu giảm dần. Trong sản xuất, người ta thường chú ý giữ

vững số con sơ sinh/ổ từ lứa 6 trở đi bằng kỹ thuật chăn nuôi, quản lý, chăm sóc sao

cho lợn mẹ không tăng cân quá mà cũng không gầy sút quá.

- Ảnh hưởng của tỷ lệ thụ tinh và thụ thai

Tỷ lệ thụ tinh của các trứng rụng trong chu kỳ động dục của lợn nái chủ yếu

phụ thuộc vào thời điểm phối giống. Trong điều kiện bình thường, tỷ lệ thụ tinh là

90 - 100% nếu số trứng rụng ở mức bình thường và tỷ lệ thụ tinh sẽ không ảnh

hưởng gì tới sự phát triển của các trứng đã được thụ tinh. Người ta đã chứng minh

rằng, nếu số trứng rụng quá mức bình thường thì tỷ lệ trứng phát triển bình thường

ngay sau khi thụ tinh sẽ giảm đi, tức là tỷ lệ lợn con đẻ ra/số trứng rụng sẽ giảm khi

số trứng rụng tăng lên. Thời điểm phối giống thích hợp nhất không phải có khoảng

cách dài mà chỉ ở một biên độ thời gian nhất định. Thời gian động dục kéo dài 5 -7

ngày, nhưng thời gian chịu đực chỉ khoảng 2,5 ngày. Muốn nâng tỷ lệ thụ thai phải

nắm được thời điểm rụng trứng và quãng thời gian trứng rụng. Nguyễn Thiện

(1998), đã xác định thời điểm rụng trứng và thụ tinh thích hợp nhất: phối giống tại

các thời điểm: 18, 24, 30, 36 và 42 giờ kể từ khi con vật bắt đầu chịu đực cho tỷ lệ

thụ thai lần lượt là 80%, 100%, 100%, 80%, 70% và số con đẻ ra tương ứng là:

8,20; 11,80; 10,50; 9,80; 7,80 con. Tác giả đã kết luận: thời điểm phối giống thích

hợp nhất vào lúc 24-30 giờ tính từ giờ chịu đực đầu tiên, dao động từ 15 - 45 giờ.

Để có kết quả cao, cần phối giống cho lợn nái bằng phương thức phối kép (2 lần),

lần sau cách lần trước 10-12 giờ trong ngày hoặc cuối ngày hôm trước và đầu ngày

hôm sau.

Phương pháp phối giống cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai. Có 2 phương pháp

phối giống là nhảy trực tiếp và thụ tinh nhân tạo.

- Ảnh hưởng của thời gian nuôi con

Thời gian nuôi con dài hay ngắn ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng cách giữa hai

lứa đẻ. Thời gian bú sữa dài, số con để nuôi trong ổ cao, thời gian động dục trở lại

sau cai sữa dài, khoảng cách từ khi đẻ đến khi phối giống trở lại dài là những

19

nguyên nhân kéo dài khoảng cách lứa đẻ. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu

quả kinh tế trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, do làm giảm số lứa đẻ/nái/năm.

Thường lợn nái cai sữa ở 28-35 ngày, thời gian động dục lại 4-5 ngày có thể phối

giống thì thành tích sinh sản tốt (Colin, 1998).

- Số con cai sữa/ổ: Năng suất của đàn lợn giống được xác định bởi số con cai

sữa/nái/năm. Vì vậy, số lợn con cai sữa/nái/năm là tính trạng sinh sản quan trọng. Số

con cai sữa/nái/năm có thể giảm, do một số trứng rụng không được thụ tinh, một số thai

chết khi chửa và đẻ, một số lợn con chết trong giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa.

- Sức sống của lợn con

Năng suất sinh sản của nái không chỉ phụ thuộc vào sức sản xuất của chúng

mà còn phụ thuộc vào lợn con. Vì kết quả cuối cùng của năng suất sinh sản là số

con sơ sinh sống, số con sống đến cai sữa, khối lượng cai sữa và số lứa đẻ/năm có

liên quan trực tiếp đến lợn con. Lợn con mới sinh có hệ tiêu hoá chưa phát triển.

pH dịch dạ dày còn cao hơn 3,5.Trong dịch dạ dày chưa có HCl tự do, nên chưa

ngăn cản được các loại vi khuẩn xâm nhập và cũng chưa tiêu hoá được những loại

thức ăn khó tiêu. Khả năng điều tiết thân nhiệt kém, các phản xạ có điều kiện mới

được thiết lập, hệ thống miễn dịch chưa phát triển nên khả năng chống lại các tác

nhân gây bệnh hoàn toàn phụ thuộc vào kháng thể do lợn mẹ cung cấp qua sữa đầu.

1.1.6. Đặc điểm sinh trưởng của lợn con và các yếu tố ảnh hưởng

* Đặc điểm sinh trưởng

Lợn con có khả năng sinh trưởng rất mạnh, thể hiện bằng khả năng tăng khối

lượng của cơ thể. Sau khi đẻ ra 1 tuần khối lượng lợn con gấp 2 lần khối lượng sơ

sinh, đến khi cai sữa ở 60 ngày tuổi gấp 10- 15 lần. Khối lượng cai sữa chịu ảnh

hưởng và có liên quan chặt chẽ với khối lượng sơ sinh. Khối lượng sơ sinh càng cao

thì khả năng khối lượng cai sữa càng lớn. Trong chăn nuôi lợn nái chửa, việc chăm

sóc nuôi dưỡng tốt để có khối lượng sơ sinh cao là cần thiết, làm tiền đề cho khối

lượng cai sữa. Tốc độ sinh trưởng của lợn con lớn nhất ở 21 ngày tuổi, sau đó giảm

dần và giảm nhanh hơn cho đến 60 ngày tuổi. Điều này phù hợp với quy luật tiết sữa

của lợn mẹ (cao nhất về số lượng và chất lượng ở 21 ngày sau đẻ, giảm dần đến 45

ngày sau đó giảm rất nhanh). Mặt khác sau 21 ngày tuổi, lượng sắt trong máu lợn con

rất thấp do lượng dự trữ trong gan đã hết làm cho lợn con mắc bệnh thiếu máu, ảnh

20

hưởng đến khả năng sinh trưởng phát dục của lợn. Để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu

cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng mà dinh dưỡng từ sữa mẹ giảm, cần tập

cho lợn con ăn sớm vào giai đoạn từ 7 - 10 ngày tuổi. Việc này có tác dụng rất lớn

trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, vừa đảm bảo đáp ứng dinh dưỡng cho con vừa làm

giảm sự hao mòn của lợn mẹ, đồng thời làm cho lợn con quen dần với các loại thức

ăn sau này.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn con

- Khối lượng lợn con sơ sinh còn sống (kg): Là tổng khối lượng của lợn con sơ

sinh còn sống theo dõi trong 24 giờ sau khi lợn nái đẻ xong con cuối cùng.

- Khối lượng cai sữa/lứa (kg): Là tổng khối lượng của tất cả lợn con còn sống

ở thời điểm cai sữa mẹ nuôi riêng của 1 lứa đẻ.

- Bình quân tăng khối lượng của lợn con (g/con/ngày).

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Giống lợn Y và L đã và đang phát triển mạnh hầu hết ở các nước (trừ nước,

tôn giáo không sử dụng thịt lợn), cùng với sự phát triển đó là những tiến bộ trong

công tác nghiên cứu, chọn lọc giống đã cải thiện được tính năng sản xuất của chúng.

Đó là nguyên liệu để sản xuất con lai và là nguồn cung cấp giống lợn thương phẩm

lớn cho xã hội.

Để nâng cao hiệu quả kinh tế từ chăn nuôi lợn và đáp ứng nhu cầu của người

tiêu dùng các nhà chọn giống trên thế giới đã sử dụng các phương pháp lai, tạo ưu

thế lai nhằm tạo ra con lai thương phẩm nhiều máu có năng suất và tỷ lệ nạc cao.

Nhiều giống lợn cao sản đã được sử dụng làm nguyên liệu cho các công thức lai

như Y, L, Pi, Du…

Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, lai giống là một trong những biện pháp quan

trọng để sản xuất lợn thịt có năng suất chất lượng cao ở nhiều nước trên thế giới.

Lúc đầu mới chỉ áp dụng các tổ hợp lai kinh tế đơn giản như lai giữa hai giống lợn,

về sau có nhiều tổ hợp lai kinh tế phức tạp 3, 4, 5 giống lợn và cao hơn nữa là các

chương trình lai tạo lợn hybrid.

21

Hiện có nhiều công trình nghiên cứu ở trên nhiều nước về tính năng sản xuất

của các giống lợn nhằm nâng cao khả năng sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm,

phục vụ lợi ích kinh tế của người chăn nuôi và người tiêu dùng.

White và cs. (1991), nghiên cứu trên lợn Yorkshire cho thấy: tuổi động dục

lần đầu là 201 ngày (số mẫu nghiên cứu là 444), số con sơ sinh sống của 20 ổ ở lứa

1 trung bình là 7,2 con/ổ.

Nghiên cứu của Koketsu và cs. (1997), cho biết tuổi phối giống lần đầu của

lợn Landrace và Yorkshire là 237 và 249 ngày; số con sơ sinh/ổ là 12 và 12,22 con;

số con sơ sinh sống/ổ ở cả hai giống Landrace và Yorkshire là 11,3 con.

Gerasimov và cs. (1997) qua nghiên cứu cho thấy lai hai, ba giống đều có tác

dụng nâng cao các chỉ tiêu sinh sản như: số con đẻ ra/lứa, tỷ lệ nuôi sống và khối

lượng ở 60 ngày tuổi/con. Lai hai giống làm tăng số con đẻ ra/lứa so với giống

thuần (10,9 so với 10,1 con), tăng khối lượng sơ sinh và khối lượng sơ sinh và khối

lượng khi cai sữa.

Xue và cs. (1997) nhận thấy lai ba giống Du×(LW×L) có tốc sinh trưởng,

chất lượng thân thịt tốt. Do đó việc sử dụng lai hai, ba giống là phổ biến để nâng

cao khả năng sinh sản và sản xuất lợn thịt thương phẩm

Để nâng cao chất lượng đàn lợn thịt, Trung Quốc đã nhập một số giống lợn

có khả năng sản xuất cao, phẩm chất thịt tốt như lợn Yorkshire, Duroc, Hampshire,

Landrace cho phối với lợn nái Meishan của Trung Quốc, vì vậy đã làm tăng khả

năng sinh sản của lợn nái, đạt trung bình 12,5 con/ổ. Lợn vỗ béo đạt khối lượng 90

kg lúc 180 ngày tuổi, tiêu tốn 3,4kg thức ăn/1kg tăng khối lượng, độ dày mỡ lưng

trung bình là 26mm và đạt tỷ lệ thịt nạc trên 48% (Đỗ Thị Tỵ, 1994).

Lai giống là biện pháp quan trọng nhằm nâng cao khả năng sinh sản và cho

thịt trong chăn nuôi lợn ở Ba Lan. Tuz và cs. (2000), nhận thấy lai ba giống đạt

được số con/lứa ở 1, 21, 42 ngày tuổi cũng như khối lượng sơ sinh/con cao hơn hẳn

so với giống thuần. Sử dụng nái lai để phối với lợn đực thứ ba có hiệu quả nâng cao

khối lượng khi cai sữa và khả năng tăng trọng khi nuôi thịt (Kamyk và cs., 1998).

Các nghiên cứu của Gerasimov và cs. (1997), cho biết lai ba giống đều có tác

dụng nâng cao các chỉ tiêu sinh sản như: số con đẻ ra/ổ, tỷ lệ nuôi sống và khối

lượng ở 60 ngày tuổi/con. Gerasimov và cs. (2000) cho biết nái lai có chất lượng tốt

22

về sản xuất sữa, khối lượng sơ sinh, con lai sinh trưởng tốt và có năng suất thịt xẻ

cao. Việc sử dụng lai ba giống là phổ biến để nâng cao khả năng sinh sản và sản

xuất lợn thịt thương phẩm. Việc sử dụng nái lai (L×Y) phối với lợn Du để sản xuất

con lai ba giống, sử dụng nái lai (L×Y) phối với lợn đực lai (P×Du) để sản xuất con

lai 4 giống khá phổ biến tại Bỉ (Leroy và cs., 1996).

Theo Vangen và cs. (1997), trong số 1,2 triệu lợn giết mổ hàng năm tại Nauy

thì lợn lai chiếm trên 60%. Nái lai (L×Y) có tỷ lệ đẻ, số con đẻ ra /lứa cao hơn lợn

nái thuần L, nái lai (L×Y) được sử dụng nhiều trong các công thức lai (Gaustad-Aas

và cs., 2004).

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở nước ta phần lớn các tác giả tập trung vào nghiên cứu khả năng sản xuất,

đặc điểm sinh học, quy trình nuôi dưỡng, các công thức lai kinh tế giữa lợn nội và

lợn ngoại, lợn ngoại và lợn ngoại ở các cơ sở giống Nhà nước với quy mô lớn.

Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về các giống lợn nhập nội vào nước ta đặc

biệt là nghiên cứu về con lai giữa 2 giống L và Y, tạo ra F1 (LY), F1 (YxL), giữa

F1 (LY), F1 (YxL) lai với đực Pi, Du, PiDu. tạo ra con thương phẩm cho năng suất,

chất lượng thịt cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

Nghiên cứu của Đinh Văn Chỉnh và cs. (1995), trên nái Landrace và

Yorkshire nuôi tại Trung tâm giống gia súc Hà Tây cho kết quả như sau: tuổi phối

giống lần đầu của Landrace và Yorkshire là 254,11 và 282 ngày; tuổi đẻ lứa đầu là

367,1 và 396,3 ngày; số con sơ sinh sống/ổ là 8,2 và 8,3 con; khối lượng sơ sinh/ổ

là 9,12 và 10,89 kg; khối lượng 21 ngày/ổ là 40,7 và 42,1 kg; khối lượng 21

ngày/con là 5,1 và 5,2 kg.

Kết quả nghiên cứu của Phùng Thị Vân (1998), về khả năng sinh sản của

giống lợn Landrace cho biết: trên 140 ổ đẻ có số con sơ sinh sống/ổ đạt 8,66 con với

khối lượng trung bình 1,42 kg/con. Số con sơ sinh/ổ đạt cao nhất ở dòng lợn Landrace

của Nhật (9,02 con), nhưng khối lượng sơ sinh/con thấp nhất (1,29 kg).

Phan Xuân Hảo và cs. (2001), cho biết lợn Landrace và Yorkshire có tuổi

động dục lần đầu là 197,36 và 203,39 ngày; tuổi phối giống lần đầu là 264,71 và

251,74 ngày; tuổi đẻ lứa đầu là 367,91 và 374,49 ngày; lứa đầu có số con sơ sinh/ổ

23

là 10,05 và 9,6 con; số con 21 ngày/ổ là 8,95 và 8,44 con; khối lượng cai sữa/con là

5,38 và 5,35 kg.

Lê Đình Phùng và cs. (2011), thông báo lợn Landrace, Yorkshire và F1

(Landrace x Yorkshire) có tuổi phối lần đầu tương ứng là 269,6; 269 và 275,7 ngày;

tuổi đẻ lứa đầu là 385,2; 384,2 và 391,6 ngày; số con sơ sinh/ổ là 10,9; 11,2; 11.3

con; số con cai sữa/ổ là 9,8; 9,8 và 10,3 con; khối lượng sơ sinh/con là 1,44; 1,41;

1,38 kg; khối lượng cai sữa/con là 6,25; 6,14; 6,03 kg; thời gian cai sữa là 24,7;

24,4 và 23,8 ngày; tỷ lệ sống đến cai sữa đạt 89,8; 86,3; 89,3%.

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2005) cho

biết năng suất sinh sản của lợn nái lai F1(LY) phối giống với lợn đực Pi và Du có số

con đẻ ra/ổ lần lượt là 10,6 và 10,34 con, số con đẻ ra còn sống/ổ tương ứng là

10,34 và 10,02 con, số con để nuôi/ổ tương ứng là 10,05 và 9,63 con, số con 21

ngày tuổi/ổ 9,70 và 9,23 con, khối lượng sơ sinh/ổ 15,46 và 14,91 kg, khối lượng

cai sữa/ổ 69,94 và 67,65 kg.

Kết quả nghiên cứu của Phan Xuân Hảo (2006) cho biết khoảng cách lứa đẻ

ở L, Y, F1(LY) tương ứng là: 158,49; 160,11 và 159,02 ngày và số con cai sữa/ổ

cũng lần lượt là 9,45; 9,16 và 9,32 con.

Các kết quả của Trương Hữu Dũng và cs. (2004) cho thấy tổ hợp lai giữa hai

giống Y, L và ngược lại, ba giống Y, L và Du đạt mức tăng KL và tỷ lệ nạc cao.

Con lai (LY) đạt mức tăng KL từ 650,90 đến 667,70 g/ngày và tỷ lệ nạc từ 57,69

đến 60,00%; con lai (YxL) đạt mức tăng KL từ 601,50 đến 624,40 g/ngày, tỷ lệ nạc

từ 56,24 đến 56,80%. Con lai ba giống Du x (LY) đạt mức tăng KL từ 617,80 đến

694,10 g/ngày và tỷ lệ nạc từ 57,00 đến 61,81%; con lai ba giống Du x (YxL) đạt

mức tăng KL từ 628,40 đến 683,10 g/ngày và tỷ lệ nạc từ 56,86 đến 58,71%.

Theo Từ Quang Hiển và Lương Nguyệt Bích (2005), lợn nái F1(YL) nuôi tại

tỉnh Thái Nguyên có số con sơ sinh còn sống/lứa là 9,02 con, khối lượng sơ

sinh/con: 1,31 kg, số lứa đẻ/năm là 1,93 lứa.

Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2006) cho biết năng suất sinh sản của

lợn nái F1(LY) phối với lợn đực Pi và Du có số con 21 ngày tuổi/ổ lần lượt là 9,7 và

9,23 con; khối lượng cai sữa /ổ 69,94 và 67,65 kg.

24

Nguyễn Thị Huệ (2009) cho biết nái F1(LY), F1(YL) phối với đực PiDu có

số con đẻ/ổ lần lượt là 10,80 và 11,09 con với khối lượng sơ sinh/ổ tương ứng 14,73

và 15,55 kg; số con cai sữa/ổ lần lượt 9,71 và 10,17 con với khối lượng cai sữa

tương ứng 63,44 và 67,13 kg.

Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn (2010) thông báo PiDu x F1(LY) có số

con cai sữa/ổ: 10,15 con; tăng khối lượng: 735,33 g/con/ngày; TTTĂ/kg tăng khối

lượng: 2,48 kg; tỷ lệ nạc: 60,93%; dày mỡ lưng là 19,12 mm.

25

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đàn nái ông bà gồm:

- Lợn nái giống Landrace: phối với đực giống Landrace: (15 con từ lứa 1 đến

lứa 6)

- Lợn nái giống Duroc: phối với đực giống Duroc (5 con từ lứa 1 đến lứa 5)

Đàn nái bố mẹ gồm:

- Lợn nái lai F1(YL): phối với đực giống Duroc (15 con từ lứa 1 đến lứa 5)

- Lợn nái lai F1(YL): phối với đực giống PiDu75 (15 con từ lứa 1 đến lứa 5)

2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Đề tài được thực hiện tại Trại giống lợn ngoại, Trung tâm giống cây trồng,

vật nuôi và thủy sản tỉnh Hòa Bình

Thời gian từ tháng 7 năm 2018 đến tháng 6 năm 2019

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Năng suất sinh sản của đàn nái ông bà

- Lợn nái Landrace (15 con từ lứa 1 đến lứa 6) và nái Duroc (5 con từ lứa 1

đến lứa 5) đảm bảo nguyên tắc đồng đều về nuôi dưỡng, chăm sóc, phương thức phối

giống, quy trình vệ sinh thú y phòng bệnh.

- Chế độ nuôi dưỡng: Tiêu chuẩn ăn cho lợn nái theo tiêu chuẩn dinh dưỡng

thức ăn hỗn hợp của lợn nái (TCVN 1547 - 1994).

- Theo dõi và thu thập các số liệu về năng suất sinh sản của các con lợn nái

Landrace phối với đực giống Landrace qua sổ giống của trại và số liệu trong thời

gian nghiên cứu.

2.3.2. Năng suất sinh sản của đàn nái bố mẹ

- Lợn nái F1 (30 con từ lứa 1 đến lứa 6) đảm bảo nguyên tắc đồng đều về nuôi

dưỡng, chăm sóc, phương thức phối giống, quy trình vệ sinh thú y phòng bệnh.

- Chế độ nuôi dưỡng: Tiêu chuẩn ăn cho lợn nái theo tiêu chuẩn dinh dưỡng

thức ăn hỗn hợp của lợn nái (TCVN 1547 - 1994).

26

- Theo dõi và thu thập các số liệu về năng suất sinh sản của các con lợn nái

F1(YL) phối với đực giống Duroc và Pidu75 qua sổ giống của trại và số liệu trong

thời gian nghiên cứu.

2.3.3. Sinh trưởng của lợn con thương phẩm

Lợn con thương phẩm được sinh ra từ đàn bố mẹ được đảm bảo nguyên tắc

đồng đều về độ tuổi, thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng.

Theo dõi và thu thập các số liệu của 80 lợn con về các chỉ tiêu: khối lượng sơ

sinh, Khối lượng cai sữa, Thời gian cai sữa, Khối lượng 60 ngày tuổi, sinh trưởng

của lợn con theo mẹ và tăng khối lượng trên ngày.

2.3.4. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản

- Đánh giá Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của

nái ông bà: ♀L x ♂L, ♀Du x ♂Du.

- Đánh giá Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của

nái bố mẹ: ♀F1(YL) x ♂Pidu 75, ♀F1 (YL) x ♂Duroc.

2.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi

2.4.1. Phương pháp đánh giá năng suất trên đàn nái sinh sản

a) Phương pháp thu thập số liệu

Số liệu được thu thập và theo dõi trực tiếp: Để đánh giá khả năng sinh sản

của đàn lợn nái ở trung tâm, chúng tôi căn cứ vào hệ thống sổ sách theo dõi của

trung tâm tại thời gian trước và bản thân trực tiếp theo dõi tại cơ sở từ tháng 7 năm

2018 đến tháng 6 năm 2019. Lợn nái được nuôi theo phương thức công nghiệp,

chuồng trại đảm bảo yêu cầu thiết kế kỹ thuật, đảm bảo nguyên tắc đồng đều về các

yếu tố dinh dưỡng, chế độ chăm sóc, quy trình vệ sinh thú y phòng bệnh.

- Thức ăn sử dụng cho lợn nái ở các giai đoạn là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh

của công ty C.P Việt Nam

b) Các chỉ tiêu theo dõi, đánh giá

Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)

Số con đẻ ra/ổ (con)

Số con đẻ ra sống/ổ (con)

27

Số con để nuôi/ổ (con)

Số con cai sữa/ổ (con)

Khối lượng sơ sinh/con (Kg)

Khối lượng cai sữa/con (Kg)

Thời gian cai sữa (ngày)

TL sống đến cai sữa (%)

Thời gian phối giống lại sau cai sữa (ngày)

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

Hệ số lứa đẻ (lứa/năm)

Số con cai sữa/nái/năm (con)

c) Phương pháp xác định các chỉ tiêu đánh giá

Tuổi đẻ lứa đầu (ngày): Là tuổi tại thời điểm lợn đẻ lứa đầu.

Số con đẻ ra/ổ (con): là tổng số con đẻ ra trong 1 ổ bao gồm cả số con đẻ ra

sống và số con đẻ ra chết

Số con đẻ ra sống/ổ (con): là số con đẻ ra sống được đến khi lợn mẹ đẻ ra con

cuối cùng

Số con để nuôi/ổ (con): là số con để lại nuôi của ổ đẻ.

Số con cai sữa/ổ (con): Là tất cả số con còn sống đến cai sữa

Khối lượng sơ sinh/con (kg): Là khối lượng lợn con được cân ngay sau khi đẻ

ra, đã được cắt rốn, lau khô, bấm số tai và trước khi cho bú lần đầu tiên.

Khối lượng cai sữa/con (kg): Cân khối lượng lợn lúc cai sữa

Thời gian cai sữa (ngày): là số ngày từ khi lợn con được sinh ra đến khi lợn

con được cai sữa.

TL sống đến cai sữa (%):

Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa =  100 Số con còn sống đến cai sữa Số con sơ sinh còn sống để lại nuôi

Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày): là thời gian từ lúc cai sữa đến lúc

động dục trở lại.

28

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày): Được tính ngày đẻ lứa trước với thời gian

nuôi con, thời gian động dục lại sau đẻ, thời gian mang thai và đến khi đẻ lứa sau.

Hệ số lứa đẻ (lứa/năm): là số lứa đẻ của lợn nái tính trong một năm

Hệ số lứa đẻ = 365 Khoảng cách lứa đẻ

Số con cai sữa/nái/năm: là số con còn sống đến cai sữa của một nái trong một năm.

Theo dõi khối lượng thức ăn: Lượng thức ăn tiêu thụ: Hàng ngày theo dõi

lượng thức ăn của từng ô chuồng thí nghiệm. Ghi chép sổ sách để tính lượng thức

ăn tiêu thụ. Lượng thức ăn được sử dụng bao gồm: Thức ăn lợn nái ở các thời điểm

(thời kỳ chửa + thời kỳ nuôi con + thức ăn lợn con).

Tính tiêu tốn thức ăn theo các công thức sau:

TTTA/kg lợn con CS = Lượng TĂ sử dụng x (lợn nái + lợn con đến khi CS) Số kg lợn con CS

2.4.2. Sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi

Tiến hành theo dõi sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi ở 02 công thức:

♀F1(YL) x ♂PiDu75, ♀F1(YL) x ♂Du.

a) Bố trí thí nghiệm:

* Giai đoạn lợn con theo mẹ

Dùng phương pháp phân lô so sánh, theo dõi 80 con lợn con theo mẹ của 2

công thức từ lúc sinh đến 21 ngày tuổi. Mỗi công thức 40 lợn con theo mẹ, được

đánh dấu để tiếp tục theo dõi ở giai đoạn sau cai sữa. Lợn nái nuôi con, lợn con theo

mẹ ở mỗi lô được đảm bảo nguyên tắc đồng đều về độ tuổi, thức ăn, chế độ chăm

sóc nuôi dưỡng.

* Giai đoạn lợn con sau cai sữa đến 60 ngày tuổi

Dùng phương pháp phân lô so sánh, nuôi thí nghiệm 72 con lợn con sau cai

sữa (Lợn con được cai sữa sau 21 ngày theo mẹ) cho 2 công thức lai, mỗi công thức

36 con. Lợn con ở mỗi lô đảm bảo các nguyên tắc đồng đều về số lượng, tính biệt,

độ tuổi, thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng, tiêm phòng, tẩy giun sán vệ sinh phòng dịch

như nhau.

b) Phương pháp đánh giá khả năng sinh trưởng

Cân lợn khi bắt đầu thí nghiệm và kết thúc thí nghiệm vào buổi sáng trước

khi cho lợn ăn, dùng cân có độ chính xác 0,1kg, cân lần lượt từng con.

29

Tính tăng khối lượng trung bình trong thời gian nuôi (g/con/ngày)

A = W2- W1 T2 - T1

A : Tăng khối lượng tuyệt đối của lợn con (g/con/ngày)

W1: Khối lượng ứng với thời gian T1

W2: Khối lượng ứng với thời gian T2

Tính tiêu tốn thức ăn theo các công thức sau:

TTTA/kg TKL = Lượng TĂ tiêu thụ trong thời gian theo dõi Tổng khối lượng tăng trong thời gian theo dõi

2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu

Số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng phần

mềm minitab16, Microsoft Excel 2007.

30

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Năng suất sinh sản đàn nái ông bà

3.1.1. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Landrace (♀L x ♂L) và Duroc

(♀Du x ♂Du )

Kết quả theo dõi năng suất sinh sản của đàn nái ông bà giống Landrace phối

với đực giống Landrace, nái giống Duroc phối với đực giống Duroc tại Trung tâm

giống Cây trồng, Vật nuôi và Thủy sản tỉnh Hòa Bình được trình bày qua bảng 3.1.

Bảng 3.1. Năng suất sinh sản đàn ông bà ♀L x ♂L và ♀Du x ♂Du

p ♀L x ♂L (n= 15 con) ♀Du x ♂Du (n= 5 con) Chỉ tiêu theo dõi

Mean SE Mean SE

Tuổi đẻ lứa đầu (ngày) 387,20 3,76 369,00 2,02 0,065

Số con đẻ ra/ổ (con) 9,61 0,27 8,33 0,30 0,005

Số con đẻ ra sống/ổ (con) 8,82 0,27 7,86 0,25 0,051

Số con để nuôi/ổ (con) 8,32 0,28 7,35 0,26 0,078

Số con cai sữa/ổ (con) 7,80 0,26 6,97 0,22 0,172

Khối lượng sơ sinh/con (kg) 1,26 0,01 1,32 0,013 0,018

Khối lượng cai sữa/con (kg) 6,91 0,101 8,16 0,13 0,000

Thời gian cai sữa (ngày) 25,28 0,24 24,67 0,33 0,221

TL sống đến cai sữa (%) 92,73 1,65 94,69 2,81 0,366

6,92 0,26 6,79 0,23 0,885 Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày) 169,07 1,68 166,69 3,65 0,236

Hệ số lứa đẻ (lứa/năm) 2,15 0,02 2,19 0,044 0,962

Số con cai sữa/nái/năm 16,39 0,74 14,54 0,72 0,005

31

Tuổi đẻ lứa đầu

Tuổi đẻ lứa đầu có mối quan hệ mật thiết với tuổi động dục lần đầu, tuổi phối

giống lần đầu, tỉ lệ phối giống có chửa lứa đầu và thời gian mang thai. Do vậy, tuổi

đẻ lứa đầu được quyết định bởi tuổi phối giống lần đầu. Tuổi đẻ lứa đầu của nái L và

Du trong theo dõi của chúng tôi nằm trong khoảng tương ứng từ 369,00 - 387,20

ngày, sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P >0,05) đối với 2 giống. Kết quả

nghiên cứu này cũng phù hợp với thông báo của tác giả Phạm Văn Thái (2010) cho

biết tuổi đẻ lứa đầu của lợn nái Landrace dao động 374,13 - 397,04 ngày.

Khả năng sinh sản của lợn nái không chỉ được đánh giá qua các chỉ tiêu sinh

sản trên lợn mẹ mà còn được đánh giá thông qua các chỉ tiêu trên đàn con của nó.

Chỉ tiêu về số con sơ sinh và số con sơ sinh sống phản ánh chất lượng tinh của lợn

đực, khả năng bộ máy sinh dục của lợn nái, kỹ thuật phát hiện động dục, thụ tinh,

kỹ thuật chăm sóc lợn nái mang thai cũng như khả năng đề kháng với các yếu tố

ngoại cảnh của lợn nái.

Số con sơ sinh sống/ổ, số con để nuôi và số con cai sữa/ổ của 2 giống được

biểu hiện trên Hình 3.1:

Hình 3.1: Số con/ổ của lợn nái ông bà L x L và Du x Du

32

Số con đẻ ra/ổ:

Số con đẻ ra/ổ là chỉ tiêu quan trọng phản ánh số trứng rụng được thụ thai, sự

phát triển của phôi thai, cũng như kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái mang thai và

hiệu quả phối giống. Kết quả cho thấy số con đẻ ra/ổ của lợn Landrace là 9,61 con.

Theo nghiên cứu của Đặng Vũ Bình (1999), số con đẻ ra/ổ của lợn Landrace là 9,86

con. Theo thông báo của Đinh Văn Chỉnh và cs. (1995), số con đẻ ra/ổ của lợn

Landrace là 9,55 con. Như vậy kết quả của chúng tôi thu được thấp hơn so với kết

quả của Đặng Vũ Bình (1999) và cao hơn với thông báo của Đinh Văn Chỉnh và cs

(1995). Điều này cho thấy kỹ thuật phối giống; chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng nái

mang thai tại trung tâm hiện nay chưa được tốt.

Ở lợn nái ông bà giống Duroc phối với đực Duroc có số con đẻ ra/ổ là 8,33.

Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Phạm Hữu Doanh và cs. (1995)

khi nghiên cứu đặc điểm sinh học và tính năng sản xuất của một số giống lợn ngoại

trong đó số con đẻ ra của lợn nái Duroc là 9,1 con/ổ. Theo Orzechowska và cs.

(1999) nghiên cứu ở Hà Lan trên giống lợn Duroc cho thấy số con sơ sinh tương

ứng là 10,00/ổ.

Số con đẻ ra sống/ổ:

Số con đẻ ra còn sống đến 24 giờ/ổ là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức sống

của thai, khả năng nuôi thai khéo của lợn mẹ trong giai đoạn mang thai, kỹ thuật chăm

sóc nuôi dưỡng đối với lợn nái mang thai cũng như kỹ thuật phối giống và công tác trợ

sản. Chỉ tiêu này có tương quan di truyền thuận và chặt chẽ với số con cai sữa. Do vậy,

nó sẽ quyết định đến việc nâng cao số con cai sữa/ổ. Theo kết quả thu được của nghiên

cứu này thì số con còn sống/ổ của lợn Landrace là 8,82 con. So sánh với kết quả của

các nghiên cứu khác: Đặng Vũ Bình (1999) cho biết lợn Landrace có số con đẻ ra sống

là 9,86 con. Kết quả nghiên cứu của Phùng Thị Vân (1998) cho biết lợn Landrace có số

con đẻ ra sống là 8,66 con. Phan Xuân Hảo và cs.(2002) cho biết lợn Landrace có số

con đẻ ra sống là 10,3 con. Như vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn và

tương đương kết quả nghiên cứu của các tác giả đã nêu trên.

Kết quả theo dõi của chúng tôi cho thấy, số con đẻ ra còn sống/ổ của lợn nái

ông bà giống Duroc khi phối với đực Duroc là 7,86 con/ổ. Qua kết quả cho thấy có

hao hụt số lợn con sơ sinh.

33

Số con để nuôi/ổ:

Trong ổ lợn sinh ra, số con sơ sinh càng cao, số con sinh ra bình thường

sống càng cao thì số con để nuôi càng lớn. Quy luật này cũng đúng trên đàn lợn

nái nuôi tại trung tâm. Bảng trên cho thấy số con để nuôi ở lợn nái Landrace là

8,32 con và ở lợn nái Duroc là 7,35 con. Sự khác nhau của chỉ tiêu này ở hai giống

không có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Kết quả này cao hơn công bố của Đặng

Vũ Bình (1999), trên lợn nái Landrace là 7,95 con và thấp hơn công bố của Ngô

Nhân (2007), trên đàn lợn nái ngoại nuôi tại huyện Cưm’gar, tỉnh Đắk Lắk,

lợn Landrace có số con để nuôi/ổ là 9,66 con.

Số con cai sữa/ổ:

Số con cai sữa ngoài sự phụ thuộc vào số con để lại nuôi, thời tiết, khí hậu,

quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng của cơ sở chăn nuôi đó. Từ bảng trên, nhận thấy số

con cai sữa của đàn lợn nái Landrace là 7,80 con. So sánh với kết quả nghiên cứu

của Nguyễn Khắc Tích (2002) là 8,15 con; Đặng Vũ Bình (1999) là 8,68 con. Như

vậy kết quả của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.

Kết quả về chỉ tiêu này của lợn nái ông bà giống Duroc khi phối với đực

giống Duroc của chúng tôi là 6,97 con/ổ. Nghiên cứu ở Hà Lan trên giống lợn

Duroc cho thấy số con cai sữa là 9,40/ổ. Theo Shurson và cs. (1992) số con còn

sống đến cai sữa của lợn nái Duroc là 7,05 con/ổ. Như vậy kết quả của chúng tôi

thấp hơn của cả hai tác giả trên.

Hình 3.2: Khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con của lợn nái

ông bà L x L và Du x Du

34

Khối lượng sơ sinh/con:

Đây là chỉ tiêu phản ánh qui trình nuôi dưỡng lợn mẹ trong thời gian mang

thai, đồng thời nó cũng thể hiện mức khẩu phần ăn và chế độ chăm sóc nuôi dưỡng

của cơ sở chăn nuôi đối với lợn nái khi mang thai.

Kết quả chúng tôi thu được ở bảng 3.1 cho thấy khối lượng sơ sinh trung

bình/con của lợn nái Landrace là 1,26kg. Kết quả thu được của chúng tôi thấp hơn

kết quả nghiên cứu của Ngô Nhân (2007), trên lợn ngoại nuôi tại tỉnh Đắk Lắk.

Khối lượng sơ sinh lợn con của lợn nái 2 giống Landrace là 1,44 kg. Khối lượng

sơ sinh trung bình/con của lợn nái Duroc là 1,32kg, kết quả nghiên cứu của Phạm

Hữu Doanh và cs. (1995) cho biết khối lượng sơ sinh/con là 1,33 kg/con, kết quả

nghiên cứu của chúng tôi tương đương.

Khối lượng cai sữa/con:

Khối lượng cai sữa/con là chỉ tiêu đánh giá mức độ tăng khối lượng của lợn

con trong giai đoạn theo mẹ và khả năng nuôi con của lợn nái. Chỉ tiêu này phụ

thuộc vào thời gian cai sữa và khả năng tiết sữa của lợn mẹ, khối lượng cai sữa càng

cao thì tăng khối lượng ở giai đoạn giết thịt càng lớn. Bảng 3.1 cho thấy khối lượng

cai sữa/con của lợn nái ông bà giống Landrace là 6,91 kg/con. So sánh với kết quả

nghiên cứu của Đinh Văn Chỉnh và cs. (1995) là 5,22 kg/con Phan Xuân Hảo

(2002) là 5,84 kg/con. Như vậy, kết quả của chúng tôi cao hơn so với kết quả của

Đinh Văn Chỉnh và Phan Xuân Hảo. Chỉ tiêu này ở lợn nái Du là 8,16 kg/con, kết

quả này sai khác có ý nghĩa thống kê (P <0,05) với giống L.

Thời gian cai sữa: Thời gian cai sữa của lợn nái Landrace là 25,28 ngày, lợn

nái Duroc là 24,67 ngày phù hợp với quy trình chăn nuôi của trung tâm.

Thời gian cai sữa là tính trạng phụ thuộc lớn vào khâu tổ chức quản lý chăn

nuôi. Nếu cai sữa lợn con quá sớm, lợn nái sẽ bị rối loạn sinh lý sinh sản và số

lượng lợn con sẽ giảm ở lứa tiếp theo (Tummaruk và cs., 2000). Thời gian cho con

bú phải dài để tử cung hồi phục hoàn toàn trước khi cai sữa. Về mặt mô học, tử

cung của lợn nái sẽ được hồi phục hoàn toàn vào lúc 21 ngày sau khi đẻ (Palmer và

cs., 1965). Tuy nhiên, nếu cai sữa quá muộn sẽ làm giảm hệ số lứa đẻ. Vì thế, trong

chăn nuôi lợn công nghiệp hiện nay, thời gian cai sữa lợn con thường dao động từ

21 đến 24 ngày. Trong khi thời gian mang thai là một đặc điểm sinh lý đặc trưng

35

cho loài, thời gian cai sữa phụ thuộc lớn vào khâu tổ chức quản lý thì thời gian phối

giống lại sau cai sữa là yếu tố quyết định đến khoảng cách lứa đẻ, vì thế ảnh hưởng lớn

đến năng suất sinh sản của lợn nái. Đây cũng là một trong những chỉ tiêu phản ánh sức

khỏe của cơ quan sinh dục của lợn nái nói riêng và khả năng đề kháng với các tác động

của ngoại cảnh của lợn nái nói chung. Việc chậm hoặc không động dục lại sau cai sữa

là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến loại thải sớm ở lợn nái.

Tỷ lệ nuôi sống đến khi cai sữa/ổ:

Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa của lợn nái ông bà giống Landrace đạt 92,73%,

kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Phùng Thị Vân (2000), tỷ lệ này là

89,88%; còn Đinh Văn Chỉnh (2001) thông báo tỷ lệ nuôi sống ở Landrace là

92,97% là tương đương. Điều đó chứng tỏ rằng ngoài yếu tố khéo nuôi con của mẹ

thì việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái và lợn con trong giai đoạn nuôi con ảnh

hưởng đến tỷ lệ nuôi sống.

Tỷ lệ này ở lợn nái ông bà giống Duroc phối với đực giống Duroc 94,69%.

Theo Shurson và cs. (1992) tỷ lệ này là 82,40%, kết quả này thấp hơn theo dõi của

chúng tôi.

Thời gian động dục lại sau cai sữa:

Kết quả cho thấy số thời gian động dục lại sau cai sữa của lợn nái ông bà

giống Landrace là 6,92 ngày. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng và

Đặng Vũ Bình (2005) là 6,20 ngày, như vậy kết quả của chúng tôi cao hơn của

Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2005). Kết quả này ngắn hơn so với công bố

của Phan Xuân Hảo và Hoàng Thị Thúy (2009) trên lợn nái thuần L, Y (8,6–9,5

ngày). Ở lợn Du chỉ tiêu này là 6,79 ngày. Việc rút ngắn thời gian nuôi con và thời

gian chờ phối góp phần rút ngắn khoảng cách giữa hai lứa đẻ, từ đó nâng cao hiệu

quả sử dụng lợn nái

Khoảng cách lứa đẻ:

Chỉ tiêu này càng ngắn sẽ làm tăng số lứa đẻ/nái/năm, nhưng nó lại phụ

thuộc nhiều vào tuổi cai sữa lợn con và thời gian phối giống trở lại. Kết quả ở bảng

3.1 cho thấy: khoảng cách lứa đẻ của lợn nái ông bà giống Landrace qua theo dõi

của chúng tôi là 169,07 ngày, phù hợp theo công bố của Walkiewicz (2000) (166,34

- 179,22 ngày). Chỉ tiêu này ở lợn nái Du là 166,69 ngày. Như vậy, trong cùng điều

36

kiện nuôi dưỡng chăm sóc và quản lý thì cả 2 giống có khoảng cách lứa đẻ tương tự

nhau, sự sai khác này không có ý nghĩa về thống kê (P >0,05).

Kết quả này phù hợp với mục tiêu đề ra của trung tâm.

3.1.2. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Landrace (♀L x ♂L) qua các

lứa đẻ

Bảng 3.2. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến năng suất sinh sản của lợn nái ông bà

giống Landrace

Lứa đẻ Tính trạng n P I II III IV V VI

15 8,66 9,10 9,28 10,62 11,00 9,00 0,176 Số con đẻ ra/ổ (con)

15 7,80 8,28 8,33 9,50 10,00 9,00 0,220 Số con đẻ ra sống/ổ (con)

15 7,30 7,66 7,71 9,25 10,00 8,00 0,064 Số con để nuôi/ổ (con)

15 6,83 7,17 7,40 8,37 9,00 8,00 0,063 Số con cai sữa/ổ (con)

15 1,19 1,21 1,26 1,27 1,30 1,29 0,138 Khối lượng sơ sinh/con (kg)

15 6,41 6,84 6,93 7,06 7,30 6,90 0,259 Khối lượng cai sữa/con (kg)

15 28,00a 25,75b 25,14bc 24,00de 24,80d 24,00 0,035 Thời gian cai sữa (ngày)

93,60 95,97 90,49 90,00 15 93,56 100,00 0,451 TL sống đến cai sữa (%)

15 8,00 8,00 6,40 7,00 6,14 6,00 0,663 Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

15 - 172,13 171,00 168,67 168,57 165,00 0,886 Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

Việc nghiên cứu về khả năng sinh sản của lợn qua các lứa đẻ là rất quan

trọng giúp người chăn nuôi thấy được năng suất biến động của lợn qua các lứa đẻ từ

37

đó nắm được mức độ sinh sản tốt xấu của từng nái để có biện pháp chọn lọc hay

loại thải hợp lý và kịp thời.

Năng suất sinh sản của lợn nái không những phụ thuộc vào giống mà còn

phụ thuộc vào lứa đẻ. Ở những lứa đẻ khác nhau sẽ cho kết quả về năng suất sinh

sản là khác nhau. Để thấy rõ ảnh hưởng của các lứa đẻ đến năng suất sinh sản của

lợn nái, chúng tôi theo dõi từ lứa đẻ 1 đến lứa đẻ 6 trên đàn nái ông bà L. Kết quả

được trình bày ở bảng 3.2:

Hình 3.3: Số con trên ổ qua các lứa đẻ của lợn nái ông bà Landrase

Từ hình 3.3 ta thấy:

Số con đẻ ra/ổ của đàn nái ông bà L tăng từ lứa 1 (8,66 con) đến lứa 5

(11,00 con) sau đó giảm ở lứa 6. Nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và cs. (2005) trên

đàn nái L,Y thuần qua 4 lứa đẻ cho biết có xu hướng tăng dần từ lứa 1 đến lứa 4.

Kết quả theo dõi của chúng tôi là phù hợp.

Chỉ tiêu này cho biết khả năng đẻ nhiều hay ít của lợn nái, kỹ thuật chăm sóc

lợn nái chửa, kỹ thuật thụ tinh của người chăn nuôi.

Số con đẻ ra còn sống/ổ: nhìn vào kết quả ta thấy tăng dần từ lứa 1 là

7,80 con đến 10,00 con, giảm nhẹ ở lứa 6 là 9,00 con. Theo kết quả của Phan

Xuân Hảo (2006) số con đẻ ra còn sống/ổ của lợn L ở lứa 1 là 9,77 con đến lứa

5 là 10,50 con. Như vậy, kết quả trong theo dõi này là cao hơn so với kết quả

nghiên cứu của chúng tôi.

38

Số con cai sữa/ổ: thấp nhất ở lứa 1 là 6,83 con, tăng dần từ lứa 2 đến lứa 5

(9,00 con). Sự sai khác này không có ý nghĩa thống kê (P >0,05).

Như vậy, chỉ tiêu về số con của đàn nái ông bà L có khuynh hướng tăng dần

từ lứa đẻ 1, cao nhất ở lứa đẻ 4 và 5. Kết quả theo dõi của chúng tôi tương đương

thông báo của Từ Quang Hiển và Lương Bích Nguyệt (2005), Phan Xuân Hảo

(2006)... cho rằng số con/lứa tăng dần từ lứa 1 và cao nhất ở lứa 4 và 5 sau đó giảm

dần. Điều này phù hợp với quy luật sinh sản tự nhiên ở lợn nái qua các lứa đẻ.

Dan và Summer (1995) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ đẻ và số

con sơ sinh/lứa ở 3 trại lợn Bắc và Trung của bang Queensland (Úc) và 3 trại ở

miền Nam Việt Nam đều cho rằng các chỉ tiêu này tăng dần từ lứa 1 đến lứa 4 và 5.

Khối lượng sơ sinh/con và khối lượng cai sữa/con:

Hình 3.4: Khối lượng sơ sinh/con và Khối lượng cai sữa/con qua các lứa đẻ của

lợn nái ông bà Landrase

Đây là chỉ tiêu quan trọng để chọn lọc và đánh giá về khả năng sinh trưởng

của lợn con về sau. Khối lượng cai sữa cao thì lợn sẽ sinh trưởng và phát triển tốt

hơn. Khối lượng cai sữa phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, khả năng tiết sữa

của lợn mẹ, chế độ nuôi dưỡng lợn nái trong giai đoạn nuôi con, thời gian cai sữa,

chế độ tập ăn cho lợn con trước cai sữa...Chỉ tiêu này là nền tảng và xuất phát điểm

cho khả năng tăng khối lượng sau này.

39

Nhìn vào bảng ta thấy, khối lượng sơ sinh và khối lượng cai sữa của đàn nái

ông bà L tăng từ lứa 1 đến lứa 5. Thấp nhất ở lứa 1 tương ứng là 1,19 và 6,41kg, đạt

cao nhất ở lứa đẻ thứ 5 tương ứng là 1,28 và 7,30kg. Kết quả của chúng tôi cao hơn

nghiên cứu của Tạ Thị Bích Duyên (2003) nghiên cứu trên L thuần có khối lượng

cai sữa/con 8 lứa đẻ dao động từ 5,07 - 5,48kg/con.

Kết quả năng suất sinh sản của đàn nái ông bà L qua 6 lứa đẻ nuôi tại trung

tâm giống vật nuôi Hòa Bình cho thấy: chỉ tiêu về số con tăng dần ở các lứa đẻ sau

là phù hợp với đặc điểm sinh lý sinh sản tự nhiên của loài lợn. Chỉ tiêu về khối

lượng con cũng tăng dần qua các lứa đẻ. Điều đó cũng nói lên khâu chăm sóc và

nuôi dưỡng lợn nái mang thai, lợn mẹ nuôi con, lợn con theo mẹ, tập ăn sớm cho

lợn con của trung tâm khá tốt góp phần nâng cao chỉ tiêu tăng khối lượng/con.

Thời gian cai sữa:

Thời gian cai sữa của lợn nái Landrace sau mỗi lứa đẻ dao động từ 24 - 28

ngày, tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh ở từng thời điểm.

Tỷ lệ nuôi sống đến khi cai sữa:

Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng thích ứng của lợn con khi đang giai đoạn

bú sữa, theo mẹ. Chỉ tiêu này rất biến động nếu chăm sóc không tốt, điều kiện thời

tiết khí hậu thay đổi đột ngột. Mặt khác tỷ lệ này nói lên khả năng khéo nuôi con

của lợn mẹ và hiệu quả trong chăn nuôi.

Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa qua các lứa đẻ của lợn nái ông bà giống

Landrace đạt từ 90,00 - 100,00%. Kết quả này thấp hơn đối với nái Landrace theo

công bố của Ngô Nhân (2007), trên đàn lợn nuôi tại huyện Cưm’gar tỉnh Đắk

Lắk là 99,55%

Thời gian động dục lại sau cai sữa:

Thời gian phối giống sau cai sữa ở đàn lợn nái nuôi tại trung tâm là chỉ

tiêu phản ánh quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc và quản lý đàn lợn, chỉ tiêu này có

ý nghĩa rất quan trọng trong việc rút ngắn khoảng cách lứa đẻ, tăng năng suất và

hiệu quả chăn nuôi.

Kết quả cho thấy số thời gian động dục lại sau cai sữa qua các lứa đẻ của lợn

nái ông bà giống Landrace dao động từ 6 - 8 ngày, tương ứng công bố của Đặng

Vũ Bình (2005), trên đàn lợn ngoại nói chung là 6,20 ngày.

40

Khoảng cách lứa đẻ:

Chỉ tiêu này càng ngắn sẽ làm tăng số lứa đẻ/nái/năm, nhưng nó lại phụ

thuộc nhiều vào tuổi cai sữa lợn con và thời gian phối giống trở lại. Kết quả ở bảng

3.2 cho thấy: khoảng cách lứa đẻ của lợn nái ông bà giống Landrace qua các lứa đẻ

dao động từ 165,00 -172,13 ngày. Kết quả này cao hơn so với công bố của Ngô

Nhân (2007), trên đàn lợn nái ngoại được nuôi ở huyện Cưm’gar, tỉnh Đắk Lắk. Tại

đây đàn lợn nái Landrace có khoảng cách lứa đẻ là là 151,19 ngày

Sự tăng giảm thành tích sinh sản của đàn nái là phù hợp với quy luật phát

triển của lợn nái nói chung, góp phần giúp người chăn nuôi nâng cao được hiệu quả

kinh tế trong chăn nuôi. Nắm được quy luật này, người chăn nuôi hoàn toàn có thể

chủ động trong việc loại thải đàn nái khi thấy năng suất sinh sản có chiều hướng

giảm. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong

chăn nuôi lợn nái ngoại.

3.1.3. Năng suất sinh sản của nái ông bà giống Duroc (♀Du x ♂ Du) qua các

lứa đẻ

Bảng 3.3. Năng suất sinh sản của lợn nái ông bà giống Duroc qua 5 lứa đẻ

Lứa đẻ p Tính trạng n I II III IV V

Số con đẻ ra/ổ (con) 7,40f 8,40d 9,00abc 9,67ab 9,69a 0,011 5

Số con đẻ ra sống/ổ (con) 7,20cdf 7,60cd 7,67c 8,33ab 8,51a 0,008 5

Số con để nuôi/ổ (con) 6,80 7,20 7,33 7,67 7,75 0,213 5

Số con cai sữa/ổ (con) 6,20 6,80 7,00 7,33 7,50 0,336 5

Khối lượng sơ sinh/con (kg) 1,26 1,29 1,35 1,37 1,35 0,526 5

Khối lượng cai sữa/con (kg) 8,10 8,10 8,17 8,20 8,22 0,880 5

Thời gian cai sữa (ngày) 25,67 25,00 24,80 24,40 23,50 0,346 5

TL sống đến cai sữa (%) 91,18 94,44 95,50 95,57 96,77 0,357 5

8,00 7,00 6,40 6,33 6,20 0,208 5 Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

- 176,50 167,25 162,00 161,00 0,665 5 Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

41

Năng suất sinh sản của lợn nái Du theo lứa đẻ được trình bày ở bảng 3.3. Lứa

đẻ ảnh hưởng đến hầu hết các tính trạng sinh sản được nghiên cứu của lợn nái Du.

Thời gian cai sữa ngoài phụ thuộc vào công tác tổ chức quản lý còn phụ thuộc vào

tốc độ phát triển của lợn con, tốc độ phát triển của lợn con lại phụ thuộc nhiều vào

khả năng tiết sữa của lợn mẹ. Theo Koketsu và cs. (2017), trong suốt thời gian nuôi

con, lợn nái đẻ lứa thứ nhất có khả năng thu nhận thức ăn thấp hơn so với khi đẻ các

lứa sau. Điều này có thể ảnh hưởng xấu tới khả năng cho sữa của lợn mẹ và dẫn đến

tăng trưởng của lợn con thấp hoặc kéo dài thời gian nuôi con của lợn mẹ. Lợn nái

đẻ lứa thứ nhất cũng có thời gian từ cai sữa đến phối lại dài hơn do chúng có hệ

thống nội tiết chưa phát triển hoàn thiện và có khả năng thu nhận thức ăn thấp hơn

trong suốt thời gian nuôi con dẫn đến giảm sự bài tiết gonadotropin và dẫn đến hạn

chế sự phát triển của các nang trứng trong buồng trứng.

Số con đẻ ra sống/ổ (con): Đây được coi là chỉ tiêu đánh giá sức sống của thai

cũng như kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái; vì nó liên quan chặt chẽ với số con

cai sữa. Do đó việc nâng cao số con sơ sinh sống/ổ sẽ làm nâng cao số con cai sữa.

Bảng 3.3 cho thấy số con sơ sinh/ổ của nái ông bà Du khi phối với đực Du qua các

lứa đẻ lần lượt là 7,40, 8,40; 9,00; 9,67 và 9,69 con/ổ, sự sai khác này có ý nghĩa

thống kê (P < 0,05).

Hình 3.5: Số con/ổ của lợn nái ông bà Duroc qua các lứa đẻ

42

Số con để nuôi/ổ (con). Theo kết quả ở bảng 3.3 cho thấy số con để nuôi/ổ

của nái ông bà Du đạt kết quả cao nhất ở lứa 5 (7,75 con), thấp nhất lứa 1 (6,80 con)

sự sai khác không có ý nghĩa thống kê (P >0,05).

Số con cai sữa/ổ cao nhất lứa 5 (7,50 con/ổ), thấp nhất ở lứa 1 (6,20 con/ổ).

Sự sai khác của các lứa đẻ là không có ý nghĩa thống kê (P >0,05).

Số con sơ sinh sống/ổ, số con để nuôi/ổ và số con cai sữa/ổ là những chỉ

tiêu quan trọng để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Các chỉ tiêu này

không những chịu ảnh hưởng của điều kiện chăm sóc, mà lứa đẻ khác nhau

cũng khác nhau.

Khối lượng sơ sinh/con liên quan đến khả năng nuôi thai của con mẹ, số con

đẻ ra, ảnh hưởng đến tốc độ tăng khối lượng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ và

tách mẹ đồng thời cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ hao hụt của lợn con. Kết quả cho thấy

khối lượng sơ sinh trung bình/con cao nhất đạt 1,37 kg/con ở lứa 4 còn lứa 1 thấp

nhất đạt 1,26 kg/con.

Khối lượng cai sữa/con là chỉ tiêu đánh giá mức độ tăng khối lượng của lợn

con trong giai đoạn theo mẹ và khả năng nuôi con của lợn nái. Chỉ tiêu này phụ

thuộc vào thời gian cai sữa và khả năng tiết sữa của lợn mẹ, khối lượng cai sữa càng

cao thì tăng khối lượng ở giai đoạn giết thịt càng lớn. Bảng 3.3 cho thấy khối lượng

cai sữa/con đạt cao nhất ở lứa 5 là 8,22 kg/con, thấp nhất ở lứa 1 và 2 đạt

8,1kg/con. Sự sai khác giữa các lứa không có ý nghĩa thống kê (P >0,05).

Thời gian cai sữa: Thời gian cai sữa của lợn nái Du sau mỗi lứa đẻ dao động

từ 23,50 – 25,67 ngày, tùy thuộc vào điều kiện ngoại cảnh ở từng thời điểm.

Tỷ lệ nuôi sống đến khi cai sữa/ổ:

Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa qua các lứa đẻ của lợn nái ông bà giống Du đạt từ

91,18 – 96,77%. Điều đó chứng tỏ rằng ngoài yếu tố khéo nuôi con của mẹ thì việc

chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái và lợn con trong giai đoạn nuôi con cần được chú trọng vì

chỉ tiêu này có hệ số di truyền thấp, bị ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố ngoại cảnh.

Thời gian động dục lại sau cai sữa:

Kết quả cho thấy số thời gian động dục lại sau cai sữa qua các lứa đẻ của lợn

nái ông bà giống Du dao động từ 6,20 – 8,00 ngày.

43

Khoảng cách lứa đẻ:

Khoảng cách hai lứa đẻ là chỉ tiêu có hệ số di truyền rất thấp h2 = 0,08

(Rydhmer, 1995). Chỉ tiêu này ảnh hưởng lớn đến số lứa đẻ của lợn trong năm và

tất nhiên ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn mẹ, ảnh hưởng rõ rệt đến

hiệu quả kinh tế của người chăn nuôi. Mong nuốn của người chăn nuôi là rút ngắn

khoảng cách hai lứa đẻ, tăng số lượng lợn con được cai sữa trong lứa và trong năm.

Kết quả ở bảng 3.3 cho thấy: khoảng cách lứa đẻ của lợn nái ông bà giống

Du qua các lứa đẻ dao động từ 161,00 -176,50 ngày.

3.2. Năng suất sinh sản của đàn nái bố mẹ

3.2.1. Năng suất sinh sản của nái F1(YL) được phối với đực Duroc và đực PiDu75

Bảng 3.4. Năng suất sinh sản của nái F1(YL) được phối

với đực Duroc và đực PiDu75

Tuổi đẻ lứa đầu (ngày)

♀YL x ♂ Du ♀YL x♂ PiDu75 Chỉ tiêu theo dõi n p Mean SE Mean SE

Số con đẻ ra/ổ (con)

15 351,4 1,19 352,0 1,44 0,260

Số con đẻ ra sống/ổ (con)

15 11,47 0,37 11,78 0,34 0,642

Số con để nuôi/ổ (con)

15 11,07 0,37 11,50 0,25 0,622

Số con cai sữa/ổ (con)

15 10,79 0,35 10,99 0,22 0,749

Khối lượng sơ sinh/con (kg)

15 9,44 0,28 10,21 0,22 0,066

Khối lượng cai sữa/con (kg)

1,38 0,02 1,39 0,02 0,759 15

Thời gian cai sữa (ngày)

7,45 0,07 7,75 0,07 0,769 15

TL sống đến cai sữa (%)

15 25,68 0,32 25,07 0,27 0,054

Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

15 93,40 1,56 92,92 1,82 0,116

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

15 6,62 0,22 7,07 0,27 0,175

Hệ số lứa đẻ (lứa/năm)

15 162,17 2,04 163,35 1,42 0,110

Số con cai sữa/nái/năm

15 2,29 0,03 2,16 0,018 0,394

15 22,66 0,65 19,03 0,64 0,669

44

Tuổi đẻ lứa đầu:

Tuổi đẻ lần đầu liên quan chặt chẽ tới tuổi phối giống lần đầu, phối

giống tốt, tỷ lệ thụ thai cao, tuổi đẻ lứa đầu càng ngắn. Ngược lại, phối giống

không tốt tỷ lệ thụ thai thấp, phải phối lại ở các chu kỳ sau sẽ kéo dài tuổi đẻ lứa

đầu. Chỉ tiêu này có ảnh hưởng đến tuổi đời sử dụng của lợn nái, vì thế ngoài

việc chú ý đến tuổi phối lần đầu, người chăn nuôi cũng cần quan tâm đến chăm

sóc, nuôi dưỡng, quản lý những lợn nái đã được phối giống có chửa. Hạn chế

ít nhất những tác động có hại đến lợn để lợn không bị xảy thai, thai không chết

non, chết lưu và quá trình sinh sản bình thường.

Qua bảng 3.4 cho thấy: tuổi đẻ lần đầu của đàn lợn nái F1 (YL) tại trung

tâm dao động là 351,4 – 352,0 ngày.

Hình 3.6: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1(YL) x Du và F1 x Pidu75

Số con sinh ra/ổ (con):

Bảng 3.4 cho thấy số con đẻ ra/ổ của nái bố mẹ lai F1(YL) khi phối với đực

Duroc và PiDu 75 lần lượt là 11,47 và 11,78 con/ổ.

Kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Bình và cs. (2005) về số con sinh ra/ổ của

lợn nái F1(LY) là 11,65 con. Kết quả nghiên cứu của Lê Thanh Hải và cs. (2001)

cho thấy, số con sinh ra/ổ ở nái lai F1(LY) đạt 10,83 con. Nguyễn Văn Thắng và

Đặng Vũ Bình (2005) cho biết, số con sinh ra/ổ ở lợn nái lai F1(LY) phối với lợn

đực Duroc đạt 10,34 con. Theo kết quả nghiên cứu của Phan Xuân Hảo (2006) năng

45

suất sinh sản chung của nái Landrace, Yorkshire, F1(LY) có tổng số con sơ sinh/ổ

lần lượt là 10,91; 10,64 và 10,97 con. Như vậy, kết quả của chúng tôi là cao hơn

kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.

Điều này cho thấy lợn nái lai YL có khả năng thích nghi và khi phối với

đực Du và PiDu 75 cho năng suất sinh sản như nhau trong điều kiện sản xuất của

trung tâm. Kết quả thí nghiệm cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Văn

Thắng và Đặng Vũ Bình (2006). Trần Văn Phùng (2005) cũng cho rằng đây là chỉ

tiêu kinh tế quan trọng, nói lên khả năng đẻ nhiều hay ít con của giống, kỹ thuật thụ

tinh và kỹ thuật chăm sóc lợn nái mang thai.

Nguyễn Thiện và Đào Đức Thà (2007) cho rằng số lợn con sơ sinh/ổ nhiều

chứng tỏ trạng thái hoạt động của buồng trứng tốt, tình trạng sinh lý của cơ thể mẹ

(động dục, mang thai, đẻ) bình thường.

Số con sơ sinh còn sống sau 24h/ổ (con):

Bảng 3.4 cho thấy số con sơ sinh/ổ của nái bố mẹ lai F1(YL) khi phối với

đực Duroc, PiDu 75 tương ứng là 11,07 con và 11,50 con. Theo Nguyễn Văn Thắng

và cs. (2005) số con sơ sinh sống/ổ của nái lai F1(LY) phối với đực Duroc là: 10,34

con. Kết quả nghiên cứu của Phan Xuân Hảo (2006) về số con sơ sinh sống/ổ của

nái lai F1(LY) là 10,41 con. Theo Nguyễn Văn Đức (2000) nái lai F1(LY) có số con

sơ sinh sống/ổ là 9,66 con, (YL) là 9,67 con. Đinh Văn Chỉnh và cs. (1999) cho

thấy nái lai F1(LY) có số con sơ sinh còn sống/ổ là 9,87 con. Như vậy, kết quả

nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn

Thắng; Phan Xuân Hảo; Đinh Văn Chỉnh và Nguyễn Văn Đức.

Số con để nuôi/ổ:

Theo kết quả ở bảng 3.4, số con để nuôi/ổ của nái bố mẹ lai F1(YL) khi phối

với đực Duroc, PiDu 75 lần lượt là 10,79 và 10,99 con. Theo Nguyễn Văn Thắng và

Đặng Vũ Bình (2006) số con để nuôi là 9,46 con/ổ. Theo Phùng Thị Vân và cs.

(2002) số con để nuôi/ổ của công thức lai Du(LY) là 10,00 con/ổ. Theo Nguyễn

Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2005) số con để nuôi/ổ ở công thức lai Du(LY) đạt

9,63 con/ổ. Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn kết quả nghiên

cứu của Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình; Phùng Thị Vân đã công bố. Tuy

46

nhiên kết quả này so với tiêu chuẩn khuyến cáo của công ty CP Việt Nam về chỉ

tiêu này (11,5 con) là vẫn còn thấp.

Số con đẻ ra còn sống/ổ và số con để nuôi/ổ của lợn con ở nái YL khi phối với

đực Du và PiDu khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P >0,05). Qua đó thấy được

năng suất sinh sản của lợn nái giống YL tốt. Số lợn con chết lúc sơ sinh, số thai non, số

thai gỗ là những nguyên nhân làm giảm số lợn con sơ sinh sống đến 24 giờ trên một

lứa đẻ (Nguyễn Thiện, 2008). Theo Nguyễn Thị Viễn và cs (2007) thì lợn nái giống YL

thể hiện được đặc tính của giống về sinh sản và biểu hiện tính làm mẹ cao.

Số con cai sữa/ổ:

Bảng 3.4 cho thấy: số con cai sữa/ổ của nái bố mẹ lai F1(YL) khi phối với

đực Duroc, PiDu 75 lần lượt là 9,44 con và 10,21 con/ổ, khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (P >0,05). Số con cai sữa của lợn nái F1(YL) khi phối với đực Du cao hơn

khi phối với đực PiDu75. Kết quả này là phù hợp vì số con sơ sinh và số con sơ sinh

sống của lợn nái F1(YL) cũng đạt cao hơn khi được phối với dòng đực PiDu 75 so

với khi được phối đực Du. Chỉ tiêu này của lợn nái F1(YL) tương đương chỉ tiêu

công bố của nhiều tác giả trên lợn nái F1(L×Y) với số lợn con cai sữa/ổ dao động từ

8,58 đến 10,9 con: Lê Đình Phùng, Đậu Thị Tương, (2012), Đoàn Văn Soạn, Đặng

Vũ Bình, (2011); Lê Đình Phùng và cs. (2016).

Theo Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình. (2005) số con 21 ngày tuổi của

lợn nái lai F1(LY) khi phối với đực Duroc là: 9,23 con/ổ. Theo Phan Xuân Hảo

(2006) số con 21 ngày tuổi/ổ của lợn nái lai F1(LY) là 9,35 con/ổ. Theo Đinh Văn

Chỉnh và cs.(1999) nái lai F1(LY) có số con cai sữa/ ổ là 8,80 con/ổ. Như vậy, kết

quả theo dõi của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn

Thắng và Phan Xuân Hảo, nhưng cao hơn kết quả của Đinh Văn Chỉnh.

Khối lượng sơ sinh trung bình/con (kg):

Chỉ tiêu về khối lượng sơ sinh của lợn con thể hiện khả năng nuôi dưỡng thai

của lợn mẹ. Trong nghiên cứu này, khối lượng lợn con sơ sinh của lợn nái bố mẹ lai

F1(YL) khi phối với đực Duroc là 1,38 kg, PiDu 75 là 1,39 kg, khác biệt không có ý

nghĩa thống kê (P >0,05). Kết quả này tương đồng với kết quả của một số nghiên

47

cứu khác trên lợn nái F1(L×Y) khi phối với các dòng đực khác nhau. Nguyễn Văn

Thắng và Đặng Vũ Bình (2006), cho biết khối lượng lợn con sơ sinh của lợn nái

F1(L×Y) phối với lợn đực Duroc và Pietrain đạt từ 1,39 đến 1,42 kg/con. Nguyễn

Văn Thắng và Vũ Đình Tôn (2010) cho biết chỉ tiêu này của lợn nái F1(L×Y) khi

phối với các đực giống L, Du và F1(Pi×Du) là 1,37 đến 1,41 kg/con.

Khối lượng cai sữa trung bình/con:

Qua bảng 3.4 cho thấy, khối lượng cai sữa trung bình/con của nái bố mẹ lai

F1(YL) khi phối với đực Duroc, PiDu 75 là 7,45 kg/con và 7,75 kg/con, khác biệt

không có ý nghĩa thống kê (P >0,05). Điều này phù hợp với số con cai sữa của công

thức lai nái F1(L×Y) phối với lợn đực PiDu 75 lớn hơn vì hai tính trạng này có mối

tương quan nghịch với nhau. Từ kết quả theo dõi cho thấy, khối lượng trung bình

lợn con cai sữa /con ở công thức lai Duroc×(YL) đạt mục tiêu của trung tâm.

Theo Phan Xuân Hảo (2006) khối lượng cai sữa trung bình/con của nái lai

F1(LY) là 5,67 kg. Theo Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình. (2005) khối lượng

cai sữa trung bình/con của nái lai F1(LY) khi phối với Duroc là 7,39 kg. Như vậy,

kết quả nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn kết quả nghiên cứu của Phan Xuân Hảo

và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thắng.

Hình 3.7: Khối lượng sơ sinh/con, khối lượng cai sữa/con của lợn nái

Bố mẹ F1 x Du và F1 x Pidu 75

48

Tỷ lệ nuôi sống đến khi cai sữa:

Kết quả theo dõi của chỉ tiêu này ở hai công thức lai giữa F1(YL) x Du

và F1(YL) x PiDu lần lượt là: 93,40% và 92,92%, khác biệt không có ý nghĩa

thống kê (P >0,05).

Thời gian cai sữa:

Bảng 3.4 cho thấy thời gian cai sữa lợn con của nái bố mẹ F1(YL) khi phối với

đực Duroc, PiDu 75 là 25,68 ngày và 25,07 ngày, khác biệt không có ý nghĩa thống kê

(P >0,05). Theo Phan Xuân Hảo (2006) thời gian cai sữa của lợn nái lai F1(LY) là 23,05

ngày và Nguyễn Văn Thắng và Đặng Vũ Bình (2005) cũng cho biết thời gian cai sữa đối

với lợn nái lai F1(LY) khi phối với lợn đực Duroc là 28,58 ngày.

Lê Đình Phùng và Đậu Thị Tương (2012); Nguyễn Ngọc Phục và cs. (2009)

nghiên cứu trên cùng đối tượng lợn nái F1 (L×Y) và F1 (Y×L) cho biết thời gian cai

sữa lợn con dao động từ 22,9 đến 24,4 ngày. Thời gian cai sữa lợn con trong nghiên

cứu này cao hơn với thời gian cai sữa lợn con của lợn nái F1(L×Y) và F1(Y×L) trong

nghiên cứu của Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2011) với 21,5 ngày.

Thời gian chờ phối:

Thời gian từ chờ phối của nái lai F1(YL) khi phối với đực Duroc, PiDu 75 là

6,62 ngày và 7,07 ngày. Kết quả này tương đồng với kết quả của một số công bố

khác với 6,54–7,47 ngày trên lợn nái F1(Y×L) (Phan Xuân Hảo và Hoàng Thị Thúy

(2009); Lê Đình Phùng và Nguyễn Trường Thi (2009)).

Kết quả của nghiên cứu của Hovorka (1985) cho biết thời gian cai sữa dưới

23 ngày phải cần có 7 đến 8 ngày để nái động dục trở lại. Tuy nhiên, kết quả theo

dõi của chúng tôi là sớm hơn. Điều đó cho thấy kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn

nái trong thời gian nuôi con là tương đối tốt. Kết quả này góp phần rút ngắn được

khoảng cách giữa hai lứa đẻ, tăng số lứa đẻ/nái/năm.

Khoảng cách lứa đẻ:

Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy, khoảng cách lứa đẻ của nái lai F1(YL) khi phối

với đực Duroc, PiDu 75 là 162,17 ngày và 163,35 ngày.

49

Theo kết quả nghiên cứu của Kosovac và cs. (1997), khoảng cách lứa đẻ ở

lợn nái F1(LY) là 154,60 ngày. Kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Chỉnh (1999) về

khoảng cách lứa đẻ của lợn nái lai F1(LY) là: 164,40 ngày. Như vậy, kết quả nghiên

cứu của chúng tôi về khoảng cách lứa đẻ là cao hơn kết quả nghiên cứu của

Kosovac và cs. (1997) và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Chỉnh .

Từ kết quả về khoảng cách lứa đẻ của nái bố mẹ F1(YL) phối giống với đực

Duroc Đài Loan và đực PiDu 75, số lứa đẻ/nái/năm của 2 công thức phối giống này

đạt 2,29 và 2,16 lứa/năm. Kết quả này phù hợp với mục tiêu đề ra của trung tâm. Số

con cai sữa/nái/năm của 2 công thức phối giống này đạt tương ứng là 22,66 và

19,03 con/năm.

3.2.2. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc và đực Pidu 75

qua các lứa đẻ

Năng suất sinh sản của lợn nái không những phụ thuộc vào giống mà còn

phụ thuộc vào lứa đẻ. Ở những lứa đẻ khác nhau sẽ cho kết quả về năng suất sinh

sản là khác nhau.

Năng suất sinh sản của lợn nái F1(YL) phối với đực Duroc qua 5 lứa đẻ được

trình bày ở bảng 3.5:

Bảng 3.5. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc qua 5 lứa đẻ

Lứa đẻ

Tính trạng

n

p

V

Số con đẻ ra/ổ (con)

15

Số con đẻ ra sống/ổ (con)

15

Số con để nuôi/ổ (con)

15

Số con cai sữa/ổ (con)

15

Khối lượng sơ sinh/con (Kg)

15

III II I 12,20ab 11,14abc 9,30d 11,56 11,00 8,80 8,80f 11,00abcd 11,20ab 10,80ab 10,50abc 8,00f 1,4 1,38 1,27

IV 12,55a 12,00 11,79a 10,00d 1,42

12,17abc 0,000 0,801 12,00 11,16abc 0,001 11,09a 0,002 1,41

0,074

Khối lượng cai sữa/con (Kg)

15

7,27

7,36

7,53

7,62

7,46

0,823

Thời gian cai sữa (ngày)

15

26

26,5

25,6

25,3

25

0,224

TL sống đến cai sữa (%)

15

90,91

95,45

96,43

84,82

99,37 0,145

15

7,5

7,11

6,4

6,5

5,6

0,536

Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

15

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

-

172

164,6

159,56

152,5

0,000

50

Hình 3.8: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1 x Duroc qua các lứa đẻ

Số con sinh ra/ổ:

Bảng 3.5 cho thấy: số con sinh ra/ổ của công thức lai Du x F1(YL) dao động

9,3 - 12,55 con/ổ. Chỉ tiêu này có giá trị đạt thấp nhất ở lứa 1, tăng dần từ lứa 1 đến

lứa 4, giảm nhẹ ở lứa 5. Có sự thay đổi về số con sinh ra như vậy là do chỉ tiêu này

phụ thuộc vào số bào thai phát triển, thời điểm phát hiện động dục và kỹ thuật phối

giống. Theo quy luật chung, lợn nái đẻ lứa 1 cơ thể còn chưa phát triển hoàn chỉnh

cả về thể vóc và tính dục nên số trứng rụng ít, khả năng mang thai và làm mẹ kém.

Từ lứa thứ 2 trở đi số trứng rụng sẽ tăng dần lên theo tuổi đẻ, đạt cao nhất và ổn định

từ lứa đẻ thứ 3 đến thứ 5, sau đó có thể giảm dần. Trong kết quả theo dõi của chúng

tôi, lứa đẻ 1 có kết quả thấp nhất và so sánh với các lứa 2,3,4 có sự sai khác rõ rệt và

có ý nghĩa thống kê (P <0,05); chỉ tiêu này từ lứa 2 đến lứa 5 đều không có ý nghĩa

thống kê (P >0,05) . Qua đây có thể nhận thấy: số con sơ sinh trong ổ của công thức

lai giữa Du x F1(YL) đạt thấp nhất ở lứa 1, các lứa 2 - 5 đạt giá trị cao hơn và không

sai khác có ý nghĩa thống kê giữa các lứa đẻ từ thứ 2 - 5.

Số con sơ sinh còn sống/ổ:

Kết quả theo dõi tương ứng từ lứa 1 đến lứa 5 của công thức lai Du x F1(YL)

là 8,80; 11,00; 11,56; 12,00 và 12,00. Chỉ tiêu này có giá trị thấp nhất ở lứa thứ 1,

51

cao dần ở lứa 2 đến lứa 5. Giá trị trung bình về số con sơ sinh còn sống ở lứa 1 thấp

nhất là do lúc này lợn mẹ mới đẻ lứa đầu, bộ máy sinh sản chưa phát triển đầy đủ đã

ảnh hưởng tới sức sống của bào thai, sức khoẻ của lợn mẹ khi đẻ có thể làm tăng số

lợn con chết trong lúc sinh ra.

Số con để nuôi:

Kết quả thu được của công thức lai Du x F1(YL) qua 5 lứa tương ứng là

8,80; 11,00; 11,20; 11,79 và 11,16 con. Chỉ tiêu này bao gồm những con sống khỏe

mạnh sau sinh, có khối lượng lớn hơn 1 kg và không có con nào bị dị tật bẩm sinh.

Từ kết quả trên cho thấy chỉ tiêu này đạt thấp nhất ở lứa 1, cao dần từ lứa 2. Giữa số

con sơ sinh còn sống sau 24h và số con để nuôi là gần như tương đương nhau, như

vậy đàn con sinh ra có sự đồng đều cao, số con dị tật là ít.

Số con cai sữa/ổ:

Chỉ tiêu này của công thức lai Du x F1(YL) qua 5 lứa tương ứng là 8,00;

10,50 ; 10,80; 10,00; và 11,09 con/ổ. Số con cai sữa/ổ ở lứa 1 thấp nhất và thấp hơn

rõ rệt so với các lứa còn lại (P<0,05). Lứa đẻ 2 tăng dần và đạt cao nhất ở lứa đẻ

thứ 4; đến lứa đẻ 5 chỉ tiêu này giảm nhẹ.

Khối lượng sơ sinh trung bình/con:

Kết quả theo dõi khối lượng sơ sinh trung bình ở công thức lai Du x F1(YL)

lần lượt từ lứa 1 đến lứa 5 như sau: 1,27; 1,38; 1,40; 1,42; và 1,41 kg. Như vậy,

khối lượng sơ sinh trung bình/con thấp nhất ở lứa 1. Tại lứa đẻ 4 khối lượng sơ sinh

trung bình/con là cao nhất, cao hơn các lứa 1,2 và 3 nhưng sai khác này không có ý

nghĩa thống kê (P>0,05). Chênh lệch giữa các lứa đẻ về chỉ tiêu này không thể hiện

rõ nét như đối với các chỉ tiêu về số con/lứa hoặc khối lượng toàn ổ lợn con sơ sinh.

Khối lượng trung bình lợn con cai sữa/con:

Kết quả khối lượng trung bình lợn con cai sữa của công thức lai Du x

F1(YL) lần lượt là 7,27; 7,36; 7,53; 7,62 và 67,46 kg/con. Không có sự khác biệt

nhiều về khối lượng trung bình lợn con cai sữa giữa 5 lứa đẻ (P>0,05).

52

Thời gian cai sữa:

Kết quả chỉ tiêu này qua 5 lứa của công thức lai Du x F1(YL) tương ứng là

lứa 1: 26,00 ngày; lứa 2: 26,50 ngày; lứa 3: 25,60 ngày; lứa 4: 25,30 ngày; lứa 5 là

25,00 ngày. Lứa 2 có thời gian cai sữa dài nhất, tuy nhiên so sánh với các lứa không

có sự sai khác nhiều về thời gian cai sữa (P>0,05). Thời gian cai sữa liên quan đến

thời gian nuôi. Để đảm bảo khối lượng cai sữa cho lợn con, người chăn nuôi phải

kéo dài thời gian nuôi con của lợn mẹ.

Thời gian chờ phối:

Thời gian chờ phối của công thức lai giữa Du x F1(YL) lần lượt là: 5,60; 6,50;

6,40; 7,11 và 7,50 ngày. Thời gian này chịu ảnh hưởng của thời gian nuôi con, số con

cai sữa, công tác điều trị nái sau đẻ và việc chăm sóc nuôi dưỡng nái sau cai sữa.

Khoảng cách lứa đẻ:

Trong nghiên cứu này, thời gian cai sữa và thời gian phối giống lại sau cai

sữa của lợn nái F1(YL) có xu hướng giảm dần theo lứa đẻ nhưng không có ý nghĩa

thống kê (P > 0,05). Điều này đã góp phần giảm dần khoảng cách giữa 2 lứa đẻ và

nâng cao hệ số lứa đẻ của lợn nái F1(YL) ở các lứa đẻ về sau. Khoảng cách lứa đẻ

đã giảm từ 172,00 ngày ở lứa thứ nhất đến lứa thứ hai xuống 152,50 ngày ở lứa thứ

5 (P > 0,05). Nguyễn Hoài Nam và Nguyễn Văn Thanh (2018) nghiên cứu về ảnh

hưởng của lứa đẻ đến một số chỉ tiêu năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) đã

công bố không có sự sai khác về thời gian nuôi con giữa các lứa đẻ từ lứa thứ nhất

đến lứa trên 6 với thời gian nuôi con dao động từ 22,0 đến 22,4 ngày. Cũng theo

nghiên cứu này, không có sự sai khác về thời gian từ cai sữa đến động dục trở lại

giữa lứa thứ nhất so với lứa thứ hai đến lứa thứ 6 nhưng các lứa >6 lại có khoảng

thời gian này ngắn hơn so với lứa thứ nhất và lứa thứ hai đến lứa thứ 6 (5,0 ngày so

với 6,2–6,3 ngày).

3.2.3. Năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL) phối với đực PiDu 75 qua các

lứa đẻ

Kết quả theo dõi các chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái F1(L×Y) phối

với đực PiDu qua các lứa đẻ được trình bày ở bảng 3.6.

53

Bảng 3.6. Ảnh hưởng của lứa đẻ đến năng suất sinh sản của nái bố mẹ F1(YL)

phối với đực PiDu 75

Số con đẻ ra/ổ (con)

15 9,50d 11,56bc

Lứa đẻ p Tính trạng n I II III IV V

Số con đẻ ra sống/ổ (con)

15 9,30f 11,48bcd 11,5abc 12,50ab 12,70a 0,008

Số con để nuôi/ổ (con)

15 9,20f 10,66bcd 11,28abc 11,83ab 12,00a 0,004

Số con cai sữa/ổ (con)

8,8f

9,5d

10,9abc

10,17ab

15

11,67a 0,049

Khối lượng sơ sinh/con (kg) 15 1,37

11,83b 13,00a 13,00a 0,001

Khối lượng cai sữa/con (kg) 15 7,45

1,38 1,39 1,41 1,4 0,892

Thời gian cai sữa (ngày)

15

7,62 7,78 7.91 7,97 0,741

TL sống đến cai sữa (%)

15 95,65

27 25,33 24,8 24,33 23,89 0,273

15

89,12 96,63 85,97 97,25 0,176

Thời gian động dục lại sau cai sữa (ngày)

8 7,56 7,17 6,6 6 0,429

Khoảng cách giữa 2 lứa đẻ (ngày)

15 - 171,17 167,67 159,56 155 0,794

Số con đẻ ra/ổ là tổng số con đẻ ra còn sống, số con chết khi sinh ra và số con

chết lưu. Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh số trứng rụng được thụ thai, sự phát

triển của phôi thai, cũng như kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái mang thai và hiệu

quả phối giống. Kết quả ở bảng 3.6 cho thấy số con đẻ ra/ổ cao nhất lứa 4 và 5 (13,00

con/ổ), tiếp đến là lứa 3 (11,83 con/ổ) và sau cùng là lứa 1 (9,50 con/ổ). Sự sai khác

của cả 5 lứa có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Theo Anderson và Melammy (1972, trích từ Ian Gordon, 1997) cho biết số

con đẻ ra/ổ tăng từ lứa đẻ 1 đến lứa đẻ thứ 4, ở lứa đẻ thứ tám trở đi, số lợn con mới

đẻ bị chết tăng lên. Như vậy, kết quả theo dõi của chúng tôi là phù hợp với quy luật

biến thiên qua các lứa đẻ: giá trị của chỉ tiêu đạt thấp nhất ở lứa thứ nhất rồi tăng

dần lên và tương đối ổn định ở mức cao ở các lứa 3, 4, 5.

54

Hình 3.9: Số con/ổ của lợn nái bố mẹ F1 x Pidu75 qua các lứa đẻ

Số con còn sống/ổ (con): Là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sức sống của thai,

khả năng nuôi thai khéo của lợn mẹ trong giai đoạn mang thai, kỹ thuật chăm sóc nuôi

dưỡng đối với lợn nái mang thai cũng như kĩ thuật phối giống và công tác trợ sản. Chỉ

tiêu này có tương quan di truyền thuận và chặt chẽ với số con cai sữa, do vậy mà nó

quyết định đến việc nâng cao số con cai sữa/ổ. Theo kết quả thu được trên bảng 3.7 thì

số con còn sống/ổ đạt cao nhất ở lứa 5 (12,70 con/ổ), thấp nhất ở lứa 1 (9,30 con/ổ), các

lứa 2 - 4 dao động từ 11,48 – 11,50 con/ổ. Sự sai khác giữa các lứa đẻ không có ý

nghĩa thống kê (p>0,05).

Số con để nuôi/ổ (con). Số con để lại nuôi phụ thuộc vào số con đẻ ra còn sống/ổ,

độ đồng đều của đàn lúc sơ sinh và khả năng tiết sữa nuôi con của lợn mẹ.

Theo kết quả ở bảng 3.6 cho thấy số con để nuôi/ổ của nái lai F1(L×Y) khi

phối với đực PiDu qua các lứa lần lượt là: 9,20; 10,66; 11,28, 11,83 và 12 con/ổ.

Như vậy là lứa 5 đạt kết quả cao nhất và thấp nhất ở lứa 1, sự sai khác này có

ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Số con cai sữa/ổ cao nhất ở lứa 5 (11,67 con/ổ), thấp nhất ở lứa 1 (8,80

con/ổ). Sự sai khác này qua các lứa đẻ là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Số con sơ sinh sống/ổ, số con để nuôi/ổ và số con cai sữa/ổ là những chỉ tiêu

quan trọng để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Các chỉ tiêu này không

những chịu ảnh hưởng của điều kiện chăm sóc, mà trong cùng một điều kiện thì ở

các giống, dòng khác nhau cũng khác nhau.

55

Khối lượng sơ sinh/con liên quan đến khả năng nuôi thai của con mẹ, số con

đẻ ra, ảnh hưởng đến tốc độ tăng khối lượng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ và

tách mẹ đồng thời cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ hao hụt của lợn con. Kết quả cho thấy

khối lượng sơ sinh trung bình/con cao nhất đạt 1,41 kg/con ở lứa 4, còn lứa 1 thấp

nhất đạt 1,37 kg/con.

Lợn đẻ lứa đầu tiên thường có số con đẻ ra, khối lượng sơ sinh nhỏ hơn so

với những lứa đẻ sau (Colin, 1998). Như vậy, kết quả theo dõi của chúng tôi là phù

hợp với quy luật biến thiên qua các lứa đẻ: giá trị của chỉ tiêu đạt thấp nhất ở lứa

thứ nhất rồi tăng dần lên và tương đối ổn định ở mức cao ở các lứa 3, 4, 5.

Khối lượng cai sữa/con là chỉ tiêu đánh giá mức độ tăng khối lượng của lợn

con trong giai đoạn theo mẹ và khả năng nuôi con của lợn nái. Chỉ tiêu này phụ

thuộc vào thời gian cai sữa và khả năng tiết sữa của lợn mẹ, khối lượng cai sữa càng

cao thì tăng khối lượng ở giai đoạn giết thịt càng lớn. Bảng 3.7 cho thấy khối lượng

cai sữa/con đạt cao nhất ở lứa 5 là 7,91 kg/con, tiếp đến là lứa 4 đạt 7,97 kg/con và

thấp nhất là lứa 1 đạt 7,45 kg/con. Sự sai khác giữa các lứa đẻ là không có ý nghĩa

thống kê (p>0,05).

Qua kết quả theo dõi khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa ở các giống lợn

khác nhau trong cùng điều điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau nhưng chúng

biểu hiện ở mức độ khác nhau.

Thời gian cai sữa:

Kết quả chỉ tiêu này qua 5 lứa của công thức lai PiDu 75 x F1(YL) tương

ứng là lứa 1: 27,00 ngày; lứa 2: 25,33 ngày; lứa 3: 24,80 ngày; lứa 4: 24,33 ngày;

lứa 5 là 23,89 ngày. Lứa 5 có thời gian cai sữa sớm nhất, tuy nhiên so sánh với các

lứa 1 và 2 không có sự sai khác nhiều về thời gian cai sữa (p>0,05). Thời gian cai

sữa liên quan đến thời gian nuôi. Do tác động của yếu tố ngoại cảnh khiến cho phản

xạ tiết sữa của lợn mẹ kém. Do đó, để đảm bảo khối lượng cai sữa cho lợn con,

người chăn nuôi phải kéo dài thời gian nuôi con của lợn mẹ.

Thời gian chờ phối:

Thời gian chờ phối của công thức lai giữa PiDu 75 x F1(YL) lần lượt là:

6,00; 6,60; 7,17; 7,56 và 8,00 ngày. Thời gian này chịu ảnh hưởng của thời gian

56

nuôi con, số con cai sữa, công tác điều trị nái sau đẻ và việc chăm sóc nuôi dưỡng

nái sau cai sữa.

Khoảng cách lứa đẻ:

Trong nghiên cứu này, thời gian cai sữa và thời gian phối giống lại sau cai

sữa của lợn nái F1(YL) có xu hướng giảm dần theo lứa đẻ. Khoảng cách lứa đẻ đã

giảm từ 171,17 ngày ở lứa thứ nhất đến lứa thứ hai xuống 155,00 ngày ở lứa thứ 5

nhưng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Lê Đình Phùng và cs. (2016) công bố

thời gian phối giống lại thành công sau cai sữa của lợn nái F1(L×Y) có xu hướng

giảm dần ở các lứa sau. Một số nghiên cứu ngoài nước cho biết thời gian phối giống

lại sau cai sữa của lợn nái ở lứa thứ nhất, và thứ hai có xu hướng dài hơn so với các

lứa đẻ sau (Leite và cs., 2011). Kết quả nghiên cứu này tương đồng với các kết quả

nghiên cứu của Cavalcante Neto và cs. (2008), Stanimir Dimitrov và cs.(2018). Sự

khác biệt này có thể là do hệ thống chăm sóc nuôi dưỡng và tổ chức quản lý giữa

các nghiên cứu là khác nhau.

3.3. Các chỉ tiêu khảo sát trên sự sinh trưởng của lợn con

3.3.1. Sinh trưởng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ của đàn nái bố mẹ

Một trong những giải pháp nâng cao năng suất lợn nái là sử dụng nhiều

giống lợn lai tạo với nhau, nhằm tạo ưu thế lai cao nhất cho nái sinh sản. Trong đó,

lai hai giống lợn ngoại giữa Landrace, Yorkshire và ngược lại đã tạo con lai

(Landrace x Yorkshire và Yorkshire x Landrace) được xem là có ưu thế lai cao về

nhiều chỉ tiêu sinh sản, trở thành một tiến bộ trong thực tế sản xuất. Người ta sử

dụng đực Duroc, đực PiDu 75 phối với lợn cái lai (Yorkshire x Landrace hay

Landrace x Yorkshire) tạo con lai ba hoặc bốn giống nuôi mau lớn, chịu đựng

stress, lợn cho nhiều thịt nạc, phẩm chất thịt tốt. (Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình,

2010; Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh, 2010).

57

Bảng 3.7. Sinh trưởng của lợn con trong giai đoạn theo mẹ của đàn bố mẹ

♀F1(YL) x ♂Du (n= 40 con) p ♀F1(YL) x ♂PiDu75 (n= 40 con)

SE

Tổ hợp lai Chỉ tiêu Khối lượng sơ sinh (kg/con) Mean 1,38 SE 0,009 Mean 1,39 0,012 0,398

Khối lượng cai sữa (kg/con) 7,45 0,083 7,75 0,116 0,051

Thời gian cai sữa (ngày) 25,68 0,244 25,07 0,315 0,775

Sinh trưởng của lợn con theo mẹ 236,37b 0,004 253,63a 0,006 0,001 (g/ngày)

Khối lượng lợn con lúc sơ sinh (kg/con) của công thức F1(YL) x Du và

F1(YL) x PiDu 75 khác nhau không có ý nghĩa (p>0,05) nhưng khối lượng lúc

cai sữa khác nhau có ý nghĩa (p<0,05).

Kết quả bảng 3.7 cho thấy sinh trưởng của lợn con ở tổ hợp lai với Duroc,

PiDu 75, lần lượt là 236,37 và 253,63 g/ngày. Như vậy ta thấy ở tổ hợp lai F1(YL)

phối với đực PiDu 75 có tốc độ sinh trưởng trong giai đoạn theo mẹ cao hơn so với

tổ hợp lai F1(YL) phối với đực Duroc. Có sự sai khác thống kê giữa tổ hợp lai PiDu

75 ×F1(YL) với tổ hợp lai Duroc× F1(YL) (p<0,001).

Kết quả theo dõi chứng tỏ cường độ sinh trưởng của lợn lai PiDu 75 × YL

cao hơn lợn lai Du×YL.

3.3.2. Sinh trưởng của lợn con sau cai sữa của đàn nái bố mẹ

Bảng 3.8. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của lợn con sau cai sữa đến 60 ngày tuổi đàn bố mẹ

♀F1(YL) x ♂Du (n=36con) p

Tổ hợp lai Chỉ tiêu

Khối lượng cai sữa (kg/con) Mean 7,45b SE 0,083 ♀F1(YL) x ♂PiDu75 (n=36con) SE 0,116 Mean 7,75a 0,000

Khối lượng 60 ngày tuổi (kg/con) 17,99b 0,164 18,61a 0,107 0,002

Tăng khối lượng (g/ngày) 325,83 0,005 322,63 0,003 0,656

Tiêu tốn thức ăn (kg/kg TKL) 1,09b 0,008 1,16a 0,009 0,000

58

- Khối lượng 60 ngày tuổi/con

Khối lượng 60 ngày/con là điểm khởi đầu cho sự sinh trưởng của lợn trong

giai đoạn nuôi thịt. Khối lượng này là nền tảng cho sự phát triển của lợn sau này.

Khối lượng 60 ngày/con ở hai công thức lai PiDu x F1(YL) và Duroc x F1(YL) lần

lượt là 18,61 và 17,99 kg. Gerasimov (1997) cho biết tổ hợp lai ba giống Duroc x

(Poltawa Meat x Russian LW) đạt khối lượng 60 ngày/con là 18,04 kg, tổ hợp lai

hai giống: Russian LW x Poltawa chỉ đạt khối lượng 60 ngày/con là 17,6 kg. Các

tác giả nhận thấy lai ba giống có tác dụng nâng cao khối lượng cai sữa cũng như

khối lượng 60 ngày tuổi. So sánh với kết quả nghiên cứu thì chúng tôi thấy rằng kết

quả nghiên cứu của chúng tôi về chỉ tiêu này là cao hơn.

- Tốc độ tăng khối lượng của lợn con từ cai sữa đến 60 ngày tuổi

Căn cứ kết quả theo dõi ở bảng 3.8 cho thấy tốc độ tăng khối lượng của lợn

con từ cai sữa đến 60 ngày tuổi ở tổ hợp lai PiDu x F1(YL) là 322,63g/ngày, ở tổ

hợp lai Duroc x F1(YL) là 325,83 kg/ngày. Tốc độ tăng khối lượng của tổ hợp lai

Duroc x F1(YL) cao hơn của tổ hợp lai PiDu x F1(YL). Đối với chỉ tiêu tăng KL

sau cai sữa nhiều thông báo trong và ngoài nước cho thấy: tăng khối lượng từ 28-63

ngày tuổi của lợn Large White x Landrace và Landrace x Duroc là 298 g và 340 g

(Heyer và cs., 2005); từ 27 - 67 ngày tuổi trên lợn lai (Large White x Pietrain) x

(Large White x Landrace) là 481,50 g (Gondreta và cs., 2005); từ 28 - 70 ngày tuổi

ở lợn Landrace x F1(LY) ở Anh là 508,0 g (O’Connell và cs., 2005); từ 18 - 53 ngày

tuổi trên lợn lai Duroc x F1(LY) là 467 - 483 g (Zhao và cs., 2007); từ 21 - 60 ngày

tuổi của các tổ hợp lai Duroc x F1(LY), Duroc x F1(YL), L19 x F1(LY), L19 x

F1(YL) lần lượt là: 413,80; 407,29; 422,34 và 383,77g (Phan Văn Hùng, Đặng Vũ

Bình (2008). Như vậy, kết quả theo dõi của chúng tôi nằm trong khoảng biến động so

với các thông báo trước đó. Tuy nhiên sự khác nhau của chỉ tiêu này ở các nghiên

cứu còn phụ thuộc vào tuổi cai sữa và thời gian nuôi sau cai sữa.

- Tiêu tốn thức ăn

Mức độ tiêu tốn thức ăn được thể hiện qua bảng 3.8 con lai PiDu x F1(YL)

là 1,16 kg và của con lai Duroc x F1(YL) là 1,09 kg. So sánh với tiêu tốn thức ăn/kg

59

tăng khối lượng trong giai đoạn sau cai sữa ở lợn lai 3 giống Duroc x F1 (LY) từ

18-53 ngày tuổi là 1,64 - 1,69kg (Zhao và cs., 2007) cho thấy tiêu tốn thức ăn trong

theo dõi chúng tôi là thấp hơn. Qua các chỉ tiêu về TTTĂ/kg tăng KL, nhận thấy

trong theo dõi này khi có sự tham gia của lợn đực PiDu thì tính trạng TTTĂ/kg tăng

KL của con lai được cải thiện hơn so với tổ hợp lai có con đực Duroc tham gia.

Điều này phù hợp với mức tăng khối lượng đạt được ở các tổ hợp lai trong theo dõi

tăng trưởng và có sự vượt trội trong chỉ tiêu này ở con lai PiDu x F1(LxY) so với

con lai Duroc x F1(LxY). Như vậy, để khai thác có hiệu quả cần phải sử dụng tổ

hợp lai giống ngoại vì chúng có mức độ TTTĂ/kg thấp, mang lại hiệu quả kinh tế

cao trong điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam.

3.4. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản

3.4.1. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái ông bà

Các kết quả tính toán hệ số tương quan kiểu hình giữa các tính trạng được

trình bày trong bảng 3.9, 3.10, 3.11 và 3.12.

* Ở đàn nái ông bà (♀Landrace × ♂ Landrace)

Các kết quả tính toán hệ số tương quan kiểu hình giữa các tính trạng được trình

bày trong bảng 3.9.

Chúng tôi nhận thấy: các tính trạng số con/ổ có tương quan thuận và rất chặt chẽ

với nhau với độ tin cậy cao p < 0,0001. Mức độ tương quan giữa số con đẻ ra với các

tính trạng số con còn lại giảm dần theo ngày tuổi của lợn con: mức độ tương quan của

tính trạng số con đẻ ra với số con đẻ ra còn sống, số con để nuôi và số con cai sữa lần

lượt là 0,743; 0,713 và 0,612. Các tính trạng số con đẻ ra còn sống với số con để nuôi

và số con cai sữa đều thể hiện khuynh hướng giống như chỉ tiêu số con đẻ ra.

Như vậy, chọn lọc và nâng cao được số con đẻ ra còn sống/ổ sẽ nâng cao

được số con cai sữa/ổ.

Các tính trạng số con/ổ có mối tương quan thuận với tính trạng khối lượng toàn

ổ ở các thời điểm tương ứng với mức p < 0,0001 và mối quan hệ này là rất chặt chẽ

r = 0,627- 0,976. Hệ số tương quan giữa số con cai sữa với khối lượng toàn ổ cai sữa

là r =0,965. Như vậy, hệ số tương quan giữa các cặp tính trạng số con/ổ với khối

lượng toàn ổ có xu hướng giảm dần theo ngày tuổi của lợn con.

60

1, SCĐR/ổ 2, SCĐRS/ổ

4, Pss/ổ

3, SCĐN/ổ

1, Số con đẻ ra/ổ

2, Số con đẻ ra sống/ổ

3, Số con để nuôi/ổ

5, Pss/con

4, Khối lượng sơ sinh/ổ

6 0

6, SCCS/ổ

7, Pcs/ổ

5, Khối lượng sơ sinh/con

6, Số con cai sữa/ổ

7, Khối lượng cai sữa/ổ

8, Khối lượng cai sữa/con

0,589 <,0001 90 0,679 <,0001 90 0,71 <,0001 90 0,547 <,0001 90

0,879 <,0001 90 0,773 <,0001 90 0,519 <,0001 90 0,790 <,0001 90 0,769 <,0001 90 0,486 <,0001 90

0,743 <,0001 90 0,713 <,0001 90 0,976 <,0001 90 0,402 <,0001 90 0,612 <,0001 90 0,627 <,0001 90 0,439 <,0001 90

0,746 <,0001 90 0,496 <,0001 90 0,849 <,0001 90 0,833 <,0001 90 0,529 <,0001 90

0,714 <,0001 90

0,602 <,0001 90 0,672 <,0001 90 0,681 <,0001 90

0,965 <,0001 90 0,556 <,0001 90

Ghi chú: ở mỗi chỉ tiêu (hàng thứ nhất là hệ số tương quan"r", hàng thứ hai là mức tin cậy "P", hàng thứ ba là dung lượng mẫu"n").

Bảng 3.9. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của lợn nái ông bà (♀Landrace × ♂ Landrace) 8, Pcs/con

61

Ngược lại với cặp tính trạng trên, cặp tính trạng số con/ổ có mối tương quan

nghịch với khối lượng trung bình 1 lợn con ở thời điểm tương ứng và ở mức độ tương

quan thấp hơn. Hệ số tương quan của cặp tính trạng này ở thời điểm sơ sinh (khối

lượng trung bình 1 lợn con sơ sinh với số con đẻ ra sống) r = 0,519; ở thời điểm cai

sữa r = 0,769.

Tương quan giữa cặp tính trạng khối lượng toàn ổ với tính trạng khối lượng

trung bình 1 lợn con ở các thời điểm tương ứng là tương quan thuận. Tương quan ở

mức độ thấp và có mức ý nghĩa thống kê đối với cặp tính trạng này ở thời điểm sơ

sinh (r = 0,589) với p < 0,01; tương quan chặt chẽ với thời điểm cai sữa r = 0,965.

* Ở đàn nái ông bà (♀Duroc × ♂Duroc)

Các kết quả tính toán hệ số tương quan kiểu hình giữa các tính trạng được trình

bày trong bảng 3.10.

Từ bảng 3.10 cho thấy: các tính trạng số con/ổ có tương quan thuận và rất chặt

chẽ với nhau với độ tin cậy cao p < 0,0001. Mức độ tương quan giữa số con đẻ ra với

các tính trạng số con còn lại giảm dần theo ngày tuổi của lợn con: mức độ tương quan

của tính trạng số con đẻ ra với số con đẻ ra còn sống, số con để nuôi và số con cai sữa

lần lượt là 0,564; 0,463và 0,537. Các tính trạng số con đẻ ra còn sống với số con để

nuôi và số con cai sữa đều thể hiện khuynh hướng giống như chỉ tiêu số con đẻ ra.

Như vậy, chọn lọc và nâng cao được số con đẻ ra còn sống/ổ sẽ nâng cao

được số con cai sữa/ổ.

Ngược lại với cặp tính trạng trên, cặp tính trạng số con/ổ có mối tương quan

nghịch với khối lượng trung bình 1 lợn con ở thời điểm tương ứng và ở mức độ

tương quan thấp. Hệ số tương quan của cặp tính trạng này ở thời điểm sơ sinh (khối

lượng trung bình 1 lợn con sơ sinh với số con đẻ ra sống) r = 0,168; ở thời điểm cai

sữa r = -0,187. Như vậy về mặt giá trị của hệ số tương quan giữa tính trạng số con/ổ

với khối lượng trung bình 1 lợn con giảm dần theo ngày tuổi của lợn con.

62

Bảng 3.10. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của lợn nái ông bà (♀Du × ♂Du)

1, SCĐR/ổ 2, SCĐRS/ổ

1, Số con đẻ ra/ổ

2, Số con đẻ ra sống/ổ

3, SCĐN/ổ

3, Số con để nuôi/ổ

5, Pss/con

4, Khối lượng sơ sinh/ổ

6 2

5, Khối lượng sơ sinh/con

6, Số con cai sữa/ổ

7, Khối lượng cai sữa/ổ

8, Khối lượng cai sữa/con

0,375 0,065 25 0,448 0,025 25 0,354 0,082 25

6, SCCS/ổ 0,981 <,0001 25 -0,187 0,371 25

7, Pcs/ổ 0,008 0,971 25

8, Pcs/con

4, Pss/ổ 0,716 <,0001 25 0.538 0,006 25 0,591 0,002 25 0,254 0,221 25

0,531 0,006 25 0,51 0,009 25 0,168 0,422 25 0,655 <,0001 25 0,641 0,001 25 -0,123 0,557 25

0,564 0,003 25 0,463 0,02 25 0,984 <,0001 25 0,582 0,002 25 0,537 0,006 25 0,58 0,002 25 0,204 0,327 25

0,429 0,032 25 0,151 0,472 25 0,832 <,0001 25 0,78 <,0001 25 -0,332 0,105 25 Ghi chú: ở mỗi chỉ tiêu (hàng thứ nhất là hệ số tương quan"r", hàng thứ hai là mức tin cậy "P", hàng thứ ba là dung lượng mẫu"n").

63

Cặp tính trạng khối lượng sơ sinh/con với tính trạng khối lượng cai sữa/con có

mối tương quan dương, tương quan ở mức độ thấp. Hệ số tương quan r = 0,354.

Như vậy, ta có biện pháp chọn lọc khối lượng sơ sinh của lợn con qua đó nâng cao

được cường độ sinh trưởng của lợn con.

* Ở tổ hợp lai (♀F1 (YL) × ♂Du)

Các kết quả tính toán hệ số tương quan kiểu hình giữa các tính trạng được

trình bày trong bảng 3.11.

Từ kết quả bảng 3.11 chúng tôi nhận thấy: các tính trạng số con/ổ có tương

quan thuận và rất chặt chẽ với nhau với độ tin cậy cao p < 0,0001. Mức độ

tương quan giữa số con đẻ ra còn sống với các tính trạng số con còn lại giảm

dần theo ngày tuổi của lợn con: mức độ tương quan của tính trạng số con đẻ ra

còn sống với số con để nuôi và số con cai sữa lần lượt là 0,911 và 0,779. Tính

trạng số con để nuôi và số con cai sữa đều thể hiện khuynh hướng giống như chỉ tiêu

số con đẻ ra sống.

Cặp tính trạng số con/ổ với khối lượng trung bình 1 lợn con ở thời điểm

tương ứng có mức độ tương quan trung bình. Hệ số tương quan của cặp tính trạng

này ở thời điểm sơ sinh (khối lượng trung bình 1 lợn con sơ sinh với số con đẻ ra

sống) r = 0,569 (p < 0,0001); ở thời điểm cai sữa r = 0,500 (p > 0,0001). Như vậy

về mặt giá trị của hệ số tương quan giữa tính trạng số con/ổ với khối lượng trung

bình 1 lợn con giảm dần theo ngày tuổi của lợn con.

Tương quan giữa cặp tính trạng khối lượng sơ sinh/con với tính trạng khối

lượng cai sữa/con có mối tương quan dương, tương quan ở mức độ thấp. Hệ số

tương quan r = 0,500 với (p <0,0001). Như vậy, ta có biện pháp chọn lọc khối

lượng sơ sinh của lợn con qua đó nâng cao được cường độ sinh trưởng của lợn con.

64

3.4.2. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái bố mẹ

Bảng 3.11. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của lợn nái bố mẹ

(♀F1 (YL) × ♂Du)

1, SCĐR/ổ 2, SCĐRS/ổ

1, Số con đẻ ra/ổ

2, Số con đẻ ra sống/ổ

3, SCĐN/ổ

3, Số con để nuôi/ổ

5, Pss/con

4, Khối lượng sơ sinh/ổ

6 4

5, Khối lượng sơ sinh/con

6, Số con cai sữa/ổ

7, Khối lượng cai sữa/ổ

8, Khối lượng cai sữa/con

0,598 <,0001 75 0,336 0,003 75 0,226 0,051 75

6, SCCS/ổ 0,420 <,0001 75 0,161 0,169 75

7, Pcs/ổ 0,381 0,001 75

8, Pcs/con

4, Pss/ổ 0,721 <,0001 75 0,598 <,0001 75 0,428 <,0001 75 0,294 0,011 75

0,911 <,0001 75 0,758 <,0001 75 0,569 <,0001 75 0,779 <,0001 75 0,462 <,0001 75 0,124 0,028 75

0,896 <,0001 75 0,844 <,0001 75 0,836 <,0001 75 0,510 <,0001 75 0,71 <,0001 75 0,509 <,0001 75 0,158 0,175 75

0,761 <,0001 75 0,554 <,0001 75 0,808 <,0001 75 0,414 <,0001 75 0,186 0,111 75 Ghi chú: ở mỗi chỉ tiêu (hàng thứ nhất là hệ số tương quan"r", hàng thứ hai là mức tin cậy "P", hàng thứ ba là dung lượng mẫu"n").

65

* Ở tổ hợp lai (♀F1(YL) × ♂PiDu75)

Các kết quả tính toán hệ số tương quan kiểu hình giữa các tính trạng được

trình bày trong bảng 3.12.

Từ kết quả bảng 3.12 chúng tôi nhận thấy: các tính trạng số con/ổ có tương

quan thuận và rất chặt chẽ với nhau với độ tin cậy cao p < 0,0001. Mức độ

tương quan giữa số con đẻ ra còn sống với các tính trạng số con còn lại giảm

dần theo ngày tuổi của lợn con: mức độ tương quan của tính trạng số con đẻ ra

còn sống với số con để nuôi và số con cai sữa lần lượt là 0,996 và 0,753. Tính

trạng số con để nuôi và số con cai sữa đều thể hiện khuynh hướng giống như chỉ tiêu

số con đẻ ra sống.

Cặp tính trạng số con/ổ với khối lượng trung bình 1 lợn con ở thời điểm

tương ứng có mức độ tương quan thấp. Hệ số tương quan của cặp tính trạng này

ở thời điểm sơ sinh (khối lượng trung bình 1 lợn con sơ sinh với số con đẻ ra

sống) r = 0,144; ở thời điểm cai sữa r = -0,073.

Tương quan giữa cặp tính trạng khối lượng sơ sinh/con với tính trạng khối

lượng cai sữa/con có mối tương quan dương, tương quan ở mức độ thấp. Hệ số

tương quan r = 0,345với (P <0,002). Như vậy, ta có biện pháp chọn lọc khối lượng

sơ sinh của lợn con qua đó nâng cao được cường độ sinh trưởng của lợn con.

66

3.4.3. Tương quan kiểu hình giữa các tính trạng năng suất sinh sản của nái bố mẹ

Bảng 3.12. Hệ số tương quan kiểu hình giữa một số tính trạng năng suất sản của lợn nái bố mẹ

(♀F1(YL) × ♂PiDu75)

1, SCĐR/ổ 2, SCĐRS/ổ

1, Số con đẻ ra/ổ

2, Số con đẻ ra sống/ổ

3, SCĐN/ổ

3, Số con để nuôi/ổ

5, Pss/con

6 6

4, Khối lượng sơ sinh/ổ

5, Khối lượng sơ sinh/con

6, Số con cai sữa/ổ

7, Khối lượng cai sữa/ổ

8, Khối lượng cai sữa/con

0,242 0,037 75 0,258 0,026 75 0,169 0,147 75

6, SCCS/ổ 0,914 <,0001 75 0,452 <,0001 75

7, Pcs/ổ 0,724 <,0001 75

8, Pcs/con

4, Pss/ổ 0,222 0,055 75 0,529 <,0001 75 0,487 <,0001 75 0,218 0,061 75

0,996 <,0001 75 0,566 <,0001 75 0,144 0,218 75 0,753 <,0001 75 0,710 <,0001 75 0,354 0,002 75

0,884 <,0001 75 0,885 <,0001 75 0,6 <,0001 75 0,136 0,245 75 0,726 <,0001 75 0,705 <,0001 75 0,394 <,0001 75

0,572 <,0001 75 0,154 0,187 75 0,754 <,0001 75 0,708 <,0001 75 0,344 0,002 75 Ghi chú: ở mỗi chỉ tiêu (hàng thứ nhất là hệ số tương quan"r", hàng thứ hai là mức tin cậy "P", hàng thứ ba là dung lượng mẫu"n").

67

Theo Blasco và cs. (1993) hệ số tương quan giữa số con đẻ ra còn sống với

khối lượng toàn ổ sơ sinh là r = 0,82. Theo Bereskin và cs. (1981) hệ số tương quan

kiểu hình giữa số con 21 ngày tuổi với khối lượng toàn ổ 21 ngày tuổi là 0,87, còn

theo Strang và cs. (1979) r=0,80. Cũng theo các tác giả nói trên, hệ số tương quan

kiểu hình giữa số con 60 ngày tuổi với khối lượng toàn ổ 60 ngày tuổi chỉ là 0,56,

thậm chí chỉ bằng 0,40. Như vậy có nghĩa là, trong thời kỳ lợn con sống phụ thuộc

chủ yếu bằng sữa mẹ thì mối tương quan giữa số con trong ổ và khối lượng toàn ổ

rất chặt chẽ.

Các kết quả thu được về hệ số tương quan kiểu hình giữa tính trạng số con/ổ

và khối lượng toàn ổ của chúng tôi đã phản ánh được đúng kỹ thuật chăn nuôi lợn

nái và lợn bú sữa ở cơ sở chúng tôi theo dõi. Nói chung, giá trị của các hệ số tương

quan này đều cao hơn so với các kết quả nghiên cứu nói trên.

* Từ kết quả phân tích về hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu năng suất sinh

sản của 4 công thức ở trên chúng tôi có thể đưa ra một số nhận xét như sau:

+ Số con đẻ ra/ổ - số con/ổ ở các giai đoạn tiếp theo và số con/ổ - khối lượng

toàn ổ ở các giai đoạn tương ứng đều có mối tương quan thuận và rất chặt chẽ với

nhau, với mức tin cậy cao. Về mặt giá trị của hệ số tương quan đều giảm dần theo

ngày tuổi.

+ Ngược lại số con/ổ - khối lượng/con ở các giai đoạn tương ứng có mức

tương quan thấp.

Như vậy, việc chọn lọc nâng cao số con để nuôi/ổ, số con cai sữa/ổ, khối

lượng cai sữa/ổ ta dựa vào chỉ tiêu số con đẻ ra còn sống/ổ sẽ có hiệu quả cao.

+ Khối lượng/con - khối lượng/ổ ở các thời điểm tương ứng có mối tương

quan thuận nhưng không chặt chẽ, tương quan ở mức độ thấp.

+ Khối lượng sơ sinh/con - khối lượng cai sữa/con có mối tương quan thuận

nhưng không chặt chẽ, tương quan ở mức độ thấp.

Như vậy, tốc độ phát triển của lợn con từ sơ sinh đến cai sữa ít bị ảnh hưởng

bởi khối lượng sơ sinh/con.

68

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

1. Kết luận

Trên cơ sở các kết quả thu được trong nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra một

số kết luận như sau:

- Năng suất sinh sản của lợn nái ông bà giống Landrace và Duroc

(♀Landrace x ♂Landrace; (♀Du x ♂Du ):

+ Số con đẻ ra sống/ổ lần lượt là: 8,82; 7,86 con.

+ Số con cai sữa/ổ lần lượt là: 7,8; 6,97 con.

+ Khối lượng cai sữa lần lượt là: 6,91; 8,16 kg.

Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái ông bà giống Landrace và Duroc

(♀Landrace x ♂Landrace; (♀Du x ♂Du ) hầu hết đều đạt thấp nhất ở lứa 1, tăng

dần từ lứa đẻ 2 và đạt cao nhất ở lứa thứ 4, sau đó giảm dần từ lứa thứ 5.

- Năng suất sinh sản của lợn nái nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc,

PiDu75:

+ Số con đẻ ra sống/ổ lần lượt là: 11,07 và 11,50 con.

+ Số con cai sữa/ổ lần lượt là: 9,44 và 10,21 con.

+ Khối lượng cai sữa lần lượt là: 7,45 và 7,75kg.

Các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái bố mẹ F1(YL) phối với đực Duroc, PiDu75

hầu hết đều đạt thấp nhất ở lứa 1, tăng dần từ lứa đẻ 2 và đạt cao nhất ở lứa thứ 4,

sau đó giảm dần từ lứa thứ 5.

- Sinh trưởng của lợn con đến 60 ngày tuổi được sinh ra từ đàn nái bố mẹ:

Trong giai đoạn theo mẹ các chỉ tiêu: Khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa,

sinh trưởng ở 2 công thức lai lần lượt là: 1,38; 7,45; 236,37 và 1,39; 7,75; 253,63.

Trong giai đoạn từ sơ sinh đến 60 ngày tuổi các chỉ tiêu: Khối lượng cai sữa,

khối lượng 60 ngày tuổi, tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn ở cả 2 công thức lần lượt

là: 7,45; 17,99, 325,83; 1,09 và 7,75; 18,61; 322,63; 1,66.

- Tương quan kiểu hình giữa các chỉ tiêu sinh sản: Giữa các chỉ tiêu sinh sản có

mối tương quan với nhau, độ lớn của hệ số tương quan tuỳ thuộc vào các chỉ tiêu.

Tương quan giữa số con cai sữa với khối lượng toàn ổ cai sữa cụ thể : nái

Landrace phối với đực Landrace đạt r = 0,965; nái Duroc phối với đực Duroc đạt r =

0,981; nái F1(YL) phối với đực Duroc đạt r = 0,957, phối với đực PiDu75 đạt r = 0,931.

69

Khối lượng sơ sinh/con có tương quan dương với khối lượng cai sữa/con,

tương quan ở mức độ thấp. Cụ thể: nái Landrace phối với đực Landrace đạt r =

0,681; nái Duroc phối với đực Duroc đạt r = 0,354; nái F1(YL) phối với đực Duroc

đạt r = 0,500, phối với đực PiDu75 đạt r = 0,345.

2. Đề nghị

- Tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố quy mô, kiểu chuồng trại đến

các tính trạng năng suất sinh sản của Landrace, Du và F1(YL) để đề ra biện pháp kỹ

thuật làm tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn tại Trung tâm.

- Tiếp tục nghiên cứu đề tài này trên quy mô lớn hơn ở nhiều trang trại ở các

tỉnh khác nhau để có thể đánh giá một cách khách quan, toàn diện và chính xác hơn

về khả năng sản xuất của các công thức lai 3 giống, lai 4 giống.

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu Tiếng Việt:

1. Trần Kim Anh (2001), Sự cần thiết mở rộng ứng dụng hệ thống giống lợn hình tháp

và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi lợn, Chuyên san chăn nuôi lợn, Hội chăn nuôi

Việt Nam, trang 94-112.

2. Đặng Vũ Bình (1999), Phân tích một số nhân tố ảnh hưởng tới các tính trạng năng

suất sinh sản trong một lứa đẻ của lợn nái ngoại, Kết quả nghiên cứu KHKT Khoa

Chăn nuôi thú y (1996 - 1998), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.tr. 5 - 8.

3. Đặng Vũ Bình (2002), Di truyền số lượng và chọn giống vật nuôi, Giáo trình

sau đại học, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Đinh Văn Chỉnh, Đặng Vũ Bình, Trần Xuân Việt, Vũ Ngọc Sơn (1995),

“Năng suất sinh sản của lợn nái Y và L nuôi tại Trung tâm giống gia súc Hà

Tây”, Kết quả nghiên cứu khoa học Khoa Chăn nuôi- Thú y (1991- 1995),

Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.

5. Đinh Văn Chỉnh, Đặng Vũ Bình, Nguyễn Hải Quân, Phan Xuân Hảo, Hoàng

Sĩ An (1999), “Kết quả bước đầu xác định khả năng sinh sản của lợn nái L và

F1(L×Y) có các kiểu gen halothan khác nhau nuôi tại xí nghiệp thức ăn chăn

nuôi An Khánh”, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật khoa Chăn nuôi-Thú

y (1996-1998), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 9-11.

6. Đinh Văn Chỉnh, Phan Xuân Hảo, Đỗ Văn Trung (2001), "Đánh giá khả năng

sinh sản của lợn Landrace và Yorkshire nuôi tại Trung tâm giống vật nuôi

Phú Lãm- Hà Tây", Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật - Khoa chăn nuôi

thú y (1999-2001), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, trang 11.

7. Phạm Hữu Doanh (1995), “Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái lai ngoại và ngoại thuần

chủng”, Tạp chí Chăn nuôi, 02.

8. Tạ Thị Bích Duyên (2003), Xác định một số đặc điểm di truyền, giá trị giống về

khả năng sinh sản của lợn Y và L nuôi tại các cơ sở An Khánh, Thuỵ Phương và

Đông Á, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi.

71

9. Trương Hữu Dũng, PhùngThị Vân, Nguyễn Khánh Quắc (2004), “Khả năng

sinh trưởng và thành phần thịt xẻ của tổ hợp lai Dx(LY) và Dx(YL)", Tạp chí

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (4), tr.471.

10. Nguyễn Văn Đức (2000), “Ưu thế lai thành phần của tính trạng số con sơ

sinh.0 sống/lứa trong các tổ hợp lai giữa lợn MC, L và Y nuôi tại miền Bắc và

Trung Việt Nam”, Kết quả nghiên cứu KHKT 1969-1999, Viện Chăn nuôi, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, Tr. 40-46.

11. Lê Thanh Hải (2001), Nghiên cứu chọn lọc, nhân thuần chủng và xác định

công thức lai thích hợp cho heo cao sản để đạt tỷ lệ nạc từ 50-55%, Báo cáo tổng

hợp đề tài cấp nhà nước KHCN 08-06.

12. Phan Xuân Hảo, Đinh Văn Chỉnh, Vũ Ngọc Sơn (2001), “Đánh giá khả năng

sinh sản và sinh trưởng của lợn nái Landrace và Yorkshire tại trại giống lợn

ngoại Thanh Hưng - Hà Tây”, Kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật khoa

CNTY (1999 -2001), Nxb Nông nghiệp.

13. Phan Xuân Hảo (2002), Xác định một số chỉ tiêu về sinh sản, năng suất và chất

lượng thịt của lợn Landrace và Yorkshire có các kiểu gen Halothane khác nhau,

Luận án tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

14. Phan Xuân Hảo (2006), Đánh giá khả năng sản xuất của lợn ngoại đời bố mẹ và

con lai nuôi thịt, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ.

15. Phan Xuân Hảo, Hoàng Thị Thúy, (2009), Năng suất sinh sản và sinh trưởng của

các tổ hợp lai giữa nái Landrace, Yorkshire và F1(Landrace x Yorkshire) phối

với đực lai giữa Pietrain và Duroc (PiDu),Tạp chí Khoa học và phát triển 7(3),

269-275.

16. Phan Văn Hùng, Đặng Vũ Bình (2008), “Khả năng sản xuất của tổ hợp lai giữa

lợn đực Duroc, L19 với nái F1(LxY) và F1(YxL) nuôi tại Vĩnh Phúc”, Tạp chí

Khoa học và Phát triển (2008), Trường Ðại học Nông Nghiêp I Hà Nội, Tập VI,

số 6: 537-541.

17. Từ Quang Hiển, Lương Bích Nguyệt (2005), Đánh giá khả năng sinh sản của lợn

nái giống Yorkshire và Landrace và nái lai F1(Y x LR)nuôi tại trại chăn nuôi

72

Tân Thái tỉnh Thái Nguyên, Tuyển tập các công trình nghiên cứu khoa học kỹ

thuật về chăn nuôi, tập I (số 6/2005), Nxb NN Hà Nội, tr256-277.

18. Trần Đình Miên, Phan Cự Nhân, Nguyễn Văn Thiện, Trịnh Đình Đạt (1994), Di

truyền chọn giống động vật, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

19. Đặng Hữu Lanh, Trần Đình Miên, Trần Đình Trọng (1999), Cơ sở di truyền

chọn giống động vật, Nxb Giáo dục, tr. 96-101.

20. Ngô Nhân (2007), Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái Yorkshire và

Landrace nuôi trong nông hộ thuộc huyện Cưm’gar - tỉnh Daklak, Luận văn thạc

sĩ Nông nghiệp.

21. Lê Đình Phùng, Nguyễn Trường Thi, (2009), “Khả năng sinh sản của lợn nái lai

F1 (Yorkshire × Landrace) và năng suất của lợn thị lai 3 máu (Duroc ×

Landrace) × (Yorkshire x Landrace)”, Tạp chí khoa học Đại Học Huế, 22(56),

53-60.

22. Lê Đình Phùng, Trương Tấn Huệ (2011), “Năng suất sinh sản của lợn nái cấp

giống ông bà C1230 và C1050 trong hệ thống giống của PIC nuôi tại Quảng

Bình”, Tạp Chí Nông Nghiệp và phát Triển Nông Thôn, 14, 55-62.

23. Lê Đình Phùng, Đậu Thị Tương, (2012), “Năng suất sinh sản của lợn nái F1

(Landrace x Yorkshire) được phối tinh giống Landrace, Yorkshire, Omega,

PIC337 và PIC408 trong chăn nuôi lợn công nghiệp”, Tạp Chí Nông Nghiệp và

phát Triển Nông Thôn, 10, 95-99.

24. Lê Đình Phùng, Văn Ngọc Phong, Phùng Thăng Long, Lê Lan Phương, Hoàng

Ngọc Hảo, Ngô Mậu Dũng, và Phạm Khánh Từ, (2016), “Năng suất sinh sản

của lợn nái F1(L×Y) được phối với PIC280 và PIC399 trong điều kiện chăn nuôi

công nghiệp ở Quảng Bình”, Tạp Chí Hội Chăn Nuôi, 213, 18-25.

25. Nguyễn Ngọc Phục, Lê Thanh Hải, Đinh Hữu Hùng, (2009), “Đánh giá năng

suất sinh sản của lợn nái thuần LR, YS, nái lai F1 (LY/YL), nái VNC22 và khả

năng sinh trưởng, cho thịt của lợn thương phẩm 2, 3 và 4 giống trong điều kiện

chăn nuôi trang trại tại Quảng Bình”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi,

16, 21-26.

73

26. Trần Văn Phùng (2005), Kỹ thuật chăn nuôi lợn nái sinh sản, Nxb Lao Động -

Xã Hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Hải Quân, Đặng Vũ Bình, Đinh Văn Chỉnh, Ngô Thị Đoan Trinh

(1995), Giáo trình chọn giống và nhân giống gia súc, Trường Đại học Nông

nghiệp I- Hà Nội.

28. Đoàn Văn Soạn, Đặng Vũ Bình, (2011), “Khả năng sinh sản của các tổ hợp

lợn lai giữa nái F1 (Landrace x Yorkshire), F1 (Yorkshire x Landrace) với đực

Duroc và L19”, Tạp chí Khoa học và phát triển 9, 614-621.

29. Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2010), “Khả năng sinh trưởng của các tổ

hợp giữa nái lai F1 (Landrace x Yorkshire), F1 (Yorkshire x Landrace) phối

với lợn đực Duroc và Landrace”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, số 5

30. Đỗ Thị Tỵ (1994), “Tình hình chăn nuôi lợn ở Hà Lan”, Thông tin khoa

học kỹ thuật chăn nuôi 2/1994, Viện Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp & Công

nghiệp thực phẩm.

31. Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Bình (2005), “So sánh khả năng sinh sản của

lợn nái lai F1(Landrace × Yorkshire) phối với lợn Đực Duroc và Pietrain”,

Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà nội,

Tập III số 2, tr. 140- 143.

32. Nguyễn Văn Thắng, Đặng Vũ Bình (2006), “Năng suất sinh sản, sinh trưởng,

chất lượng thân thịt của các công thức lai F1(Landrace × Yorkshire) phối với

lợn đực Duroc và Pietrain”, Tạp chí khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Trường

Đại học Nông nghiệp Hà nội, Tập IV số 6, tr. 48- 55.

33. Nguyễn Thiện và Võ Trọng Hốt (2007), Kỹ thuật chăn nuôi và chuồng trại

nuôi lợn, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

34. Nguyễn Thiện (2008), Giống lợn năng suất cao - Kỹ thuật chăn nuôi hiệu quả,

Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

35. Nguyễn Khắc Tích (1993), Kết quả nghiên cứu sử dụng lợn lai ngoại x ngoại

nuôi thịt nhằm cho năng suất cao, tăng tỷ lệ nạc ở các tỉnh phía Bắc, Kết quả

nghiên cứu khoa học CNTY(1991- 1993), Trường Đại học Nông nghiệp I, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, tr.18-19.

74

36. Nguyễn Khắc Tích (2002), Chăn nuôi lợn, Bài giảng cho cao học và nghiên

cứu sinh, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.

37. Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh (2010), “Năng suất sinh sản, sinh trưởng

và chất lượng thân thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái F1 (Landrace x Yorkshire)

với đực giống Duroc và Landrace nuôi tại Bắc Giang”, Tạp chí Khoa học và

Phát triển, số 1.

38. Phạm Văn Thái (2010), “Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái Landrace và

Yorkshire phối với đực PiDu (Pietrain và Duroc) nuôi tại một số trang trại tỉnh

Tuyên Quang”, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp - Trường Đại học Nông nghiệp I

Hà Nội.

39. Nguyễn Thị Viễn, Trần Văn Tịnh, Nguyễn Hữu Tỉnh, Phan Bùi Ngọc Thảo,

Nguyễn Hữu Thao và Đỗ Văn Quang, 2007. Khảo sát năng suất sinh sản heo nái

ngoại của một số trại tư nhân vùng Đông Nam Bộ. Báo cáo đề tài cấp Nhà nước.

40. Phùng Thị Vân (1998), “Kết quả nghiên cứu khoa học chăn nuôi”, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

41. Phùng Thị Vân, Trần Thị Hồng, Hoàng Thị Phi Phượng và Lê Thế Tuấn

(2000), “Nghiên cứu khả năng sinh sản của nái Yorkshire và Landrace, phối

chéo giống. Đặc điểm sinh trưởng và khả năng sinh sản của nái lai F1(LY) và

F1 (YL) lai với đực Duroc”. Báo cáo khoa học, Viện chăn nuôi, Phần chăn

nuôi gia súc 2000 – 2001, tr 96-101.

42. Phùng Thị Vân, Hoàng Hương Trà, Trần Thị Hồng (2002). Nghiên cứu khả

năng, cho thịt của lợn lai và ảnh hưởng của hai chế độ nuôi tới khả năng cho

thịt của lợn ngoại có tỷ lệ nạc trên 52%, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông

thôn- Vụ Khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm, Kết quả nghiên cứu

KHCN trong nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 1996 - 1998, Hà

Nội, tr. 482 - 493.

43. Vũ Đình Tôn và Nguyễn Công Oánh (2010), “Năng suất sinh sản, sinh trưởng

và chất lượng thân thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái F1 (Landrace x

Yorkshire) với đực giống Duroc và Landrace nuôi tại Bắc Giang”, Tạp chí

Khoa học và Phát triển, số 1.

75

II. Tài liệu Tiếng Anh

44. Bereskin B., L. T. Frobish (1981). Some genetics and environmental effects on

sow productivity. Journal of Animal Science. Vol 53 (3). pp 601-610.

45. Blasco A.; Bidanel J. P.; Bolet G.;Haley C. S. and Santacrue M. A. (1993) The

genetics of prenatal survival of pigs and rabbits: a review. Livestock

Production Science 37, pp 1- 21.

46. Blasco A., Binadel J.P and Haley C.S. (1995). Genetic and neonatal survial,

The neonatal pig Development and survial, Valey M.A. (Ed). CAB

International, Wallingford, Oxon, UK, 17-38

47. Cavalcante Neto, A., J.F. Lui, J.L.R. Sarmento, M.N. Ribeiro, J.M.C.

Monteiro, T, and H.Onhati, (2008), Fatores ambientais e estimativa de

herdabilidade para o intervalo de mamecio de fêmea uína, [Environmental

factors and heritability estimate for the weaning-estrus interval in sows],

Revista Brasileira de Zootecni, 37(11), 1953–1958

48. Colin T. Whittemore (1998).The science and practice of pig production,

second Edition, Blackwell Science Ltd, 91-130

49. Dickerson G. E. (1974). Evaluation and utilization of breed differences,

proceedings of working, Sumposium on breed evaluation and crossing

experiments with farm animals, I V O.

50. Ducos A; Bidanel.J.P (1996), “Genetic correlations between production and

reproductive traits measured on the farm, in the Large White and French

Landrace pig breeds”, Journal of animal Breeding genetic, 113, pp. 493-504.

51. Falconer D. S. (1993). Introduction to quantitative genetics, Third Edition

Longman New york, 254- 261

52. Gaustad-Aas A. H., Hofmo P. O., Kardberg K. (2004). The importance of

farrowing to service interval in sows served during lactation or after shorter

lactation than 28 days, Animal Reproduction Science, 81, 289-293.

53. Gondreta. F, Lefaucheur. L, Louveau. I, Lebreta. B, Pichodo. X., Le Cozler.

Y., (2005). Influence of piglet birth weight on postnatal growth performance,

76

tissue lipogenic capacity and muscle histological traits at market weight,

Livestock Production Science, 93, 137-146.

54. Gordon I. (2004). Reproductive technologies in farm animals, CAB

international.

55. Gerasimov V. I., Danlova T. N; Pron E. V. (1997). The results of 2 and 3

breed crossing of pigs, Animal Breeding Abstracts, 65(3). ref., 1395

56. Gerasimov V.I., Pron E. V. (2000). Economically beneficial characteristics of

three breed crosses, Animal Breeding Abstracst, 68(12). ref., 7521.

57. Gerasimov V. I., Danlova T. N; Pron E. V. (1997). The results of 2 and 3

breed crossing of pigs, Animal Breeding Abstracts, 65(3). ref., 1395

58. Kamyk P. (1998). The effect of breed characteristic of meat-type pigs on

carcass and meat quality in F2 crossbreds, Anim Breeding Abstracts, 66(4).

ref., 2575.

59. Kosovac O, Vidovic V, Petrovic M (1997), “Phenotype parameters of

reproductive traits of sows of different genotypes at the first two farrowing”,

Animal Breeding Abstracts, 65 (2), ref, 923.

60. Koketsu J. D. and Annor S. Y. 1997. Genetic and phenotype relationships

between performance test and reproduction traits in Large White. Animal

Science Journal No.62. pp: 531 - 540.

61. Koketsu, Y., S. Tani, R. Lida, (2017), Factors for improving reproductive

performance of sows and herd productivity in commercial breeding herds,

Porcine Health Management, 3(1), 1.

62. Leite, C.D.S., J.F. Lui, L.G. Albuquerque, and D.N.M. Alves, (2011),

Environmental and genetic factors affecting the weaning-estrus interval in

sows, Genetic Molecular Research, 10(4), 2692–2701.

63. Leroy P., G.Monin, J. M.Elsen, J.C. Caritez, A.Talmant, B. Lebret,

L.Lefaucheur, J.Mourot, H. Juin and P.Sellier (1996), “Effect of the RN

genotype on growth and carcass traits in pigs", 47 th Annual meeting of the

EAAP, Lillhammer, Norway, AG 7, 9 (8pp).

77

64. Mabry J. W., Culbertson M. S., Reeves D. (1997). Effect of lactation length on

weaning to first service interval, first service farrowing rate and subsequent

litter size, Animal Breeding Abstracts, 65(6). ref., 2958.

65. O’Connell. N.E, Beattie.V.E, Watt.D.,(2005), “Influence of regrouping

strategy on perfomance, behaviour and carcass parameters in pig”. Livestock

Production science, 97, 107 -115.

66. Richard M. Bourdon (2000). Understanding animal breeding, Second Edition,

by Prentice-Hall, Inc Upper Saddle River, New Jersey 07458, 371-392

67. Rothschild M. F., Bidanel J. P. (1998), “Biology and genetics of

reproduction”, The genetics of the pig, Rothchild M. F. & Ruvinsky A., (Eds),

CAB International.

68. Rydhmer, L; Lundeheim, N. And Johansson, K (1995), Genetic

parameters for reproduction traits in sows and relation to performancetest

measurements, J.Anim. Breed. Genet 112, 33 – 42

69. Stanimir Dimitrov, Vesna Karapetkovska-Hristova, Ljupce Kochoski, Biljana

Trajkovska, Borche Makarijoski, Vesna Prodanovska-Poposka, and Godswill

Ntsomboh-Ntsefong, (2018), The effect of season and parity on the

reproductive performance of sows, MacedonianVeterinary Review, 41(2), i-vi.

70. Strang G. S., Smith (1979). A note on the heritability of litter traits in pigs.

Journal of Animal Production. 28. pp 403-406.

71. Tuz R., Koczanowski J., Klocek C., Migdal W. (2000), “Reproductive

performance of purebred and crossbred sows mated to Duroc  Hampshire

boars”, Animal Breeding Abstracts, 68(8), ref., 4740.

72. Tummaruk, P., N. Lundeheim, S. Einarsson, A.M. Dalin, (2000),

Reproductive Performance of Purebred Swedish Landrace and Swedish Yorkshire Sows: II. Effect of Mating Type, Weaning-to-first-service Interval and Lactation Length, Acta Agriculturae Scandinavica, Section A Animal

Science, 50, 217–224.

73. Vandersteen H.A.M (1986) Production future value of sow productivity

commission on pigs production secsion, V. Free communication.

74. Vangen O., Sehested E. (1997), ‘Swine production and reseach in Norway”,

Animal breeding abstracts, 65(8), ref., 4242.

78

75. Walkiewicz, A., Kasprzyk, A., Babicz, M., Kamyk, P (2000). Reproductive performance of six generations of six generation of Polish L sow at the

breeding centre in Pukarzow. Animal Breeding Abstracts 2000 Vol.68 No.7

ref.4103.

76. Xue J. L., Dial G. D., Schuiteman J., Kramer A., Fisher C., Warsh W. E., Morriso R. B., Squires J. (1997). Evaluation of growth, carcass and compound

concentrations related to boar taint in boars and barrows, Animal Breeding Abstracts, 65(2). ref., 887

77. Zhao. Z, Harper. A. F, Estienne. M. J, Webb. K. E, McElroy. Jr., A. P.and Denbow. D. M, (2007). Growth performance and intestinal morphology

responses in early weaned pigs to supplementation of antibiotic - free diets

with an organic copper complex and spray - dried plasma protein in sanitary and nonsanitary environments, Journal of Animal Science. 85:1302-131.

79

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN VĂN

Hình 1: Chuồng lợn nái

Hình 2: Lợn con theo mẹ (LxL)

80

Hình 3: Lợn con theo mẹ (Du x Du)

Hình 4: Lợn con theo mẹ (F1 x Du)

81

Hình 5: Lợn con theo mẹ (F1 x pidu75)

Ảnh 6: Đực giống Duroc