ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
****************
TỐNG THỊ MINH
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
Luận văn Thạc sĩ Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.Hà Văn Đức
Hà Nội, 2014
0
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 03
1.Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 03
2.Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 05
3.Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10
4.Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 11
5.Cấu trúc luận văn ................................................................................................... 11
CHƢƠNG 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ......................................................................... 12
1.1.Vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ..................... 12
1.1.1.Khái lược về người kể chuyện trong tác phẩm tự sự .................................... 12
1.1.2.Người kể chuyện hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .......... 14
1.1.3.Người kể chuyện tiềm ẩn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ............. 22
1.2.Vấn đề điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ............................... 26
1.2.1. Khái lược về điểm nhìn trong tác phẩm tự sự .............................................. 26
1.2.2. Điểm nhìn bên trong trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ .................... 28
1.2.3. Điểm nhìn bên ngoài trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ................... 31
1.2.4. Sự kết hợp và dịch chuyển điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ ............................................................................................................................ 35
CHƢƠNG 2: QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ ....................................... 37
2.1.Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................... 37
2.2.Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ................................ 42
2.2.1.Sự phong phú của thế giới nhân vật .............................................................. 44
2.2.1.1.Nhân vật bi kịch. ................................................................................... 44
2.2.1.2.Nhân vật tha hóa..................................................................................... 49
2.2.1.3.Nhân vật vượt lên hoàn cảnh.................................................................. 53
2.2.2.Nghệ thuật xây dựng nhân vật ...................................................................... 55
2.2.2.1.Nghệ thuật miêu tả tâm lý ...................................................................... 55
2.2.2.2.Nghệ thuật xây dựng tình huống ............................................................ 61
1
CHƢƠNG 3: KẾT CẤU VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN THỊ THU HUỆ ...................................................................................... 64
3.1.Nghệ thuật tổ chức kết cấu .................................................................................. 64
3.1.1.Kết cấu đảo trật tự thời gian của sự kiện. ...................................................... 66
3.1.2.Kết cấu tâm lý. .............................................................................................. 71
3.1.3.Kết cấu phân mảnh ........................................................................................ 74
3.1.4.Kết cấu mở (kiểu kết thúc để ngỏ) ................................................................ 78
3.2.Giọng điệu trần thuật ........................................................................................... 81
3.2.1.Giọng trữ tình đằm thắm, xót xa ................................................................... 82
3.2.2.Giọng chiêm nghiệm, triết lý ........................................................................ 85
3.2.3.Giọng suồng sã, hài hước, châm biếm .......................................................... 86
3.2.4.Giọng lạnh lùng vô âm sắc ............................................................................ 89
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 96
2
MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1.Năm 1986 được coi là dấu mốc của sự đổi mới toàn diện đất nước. Nền
kinh tế chuyển từ mô hình bao cấp sang kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa – hiện
đại hóa được đẩy mạnh kéo theo đà tăng tốc của quá trình đô thị hóa. Tinh thần dân
chủ được coi trọng, tạo một luồng sinh khí mới ở nhiều lĩnh vực của đời sống, trong
đó có văn học. Là bộ phận nhạy cảm nhất của xã hội, văn học nghệ thuật hưởng
ứng hết sức mạnh mẽ đường lối cách mạng và thực thi ngay tư tưởng đổi mới trong
sáng tác, trong tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch, nhà lý luận phê
bình. Dần dần đến lượt mình, văn học cũng tự biến đổi trong công cuộc đổi mới, có
thêm những tác phẩm mới, có những đặc điểm về phong cách và nội dung khác với
thời kỳ trước, cho phép nói về một giai đoạn mới trong văn học.[41, 16]
Đến lúc này, hiện thực đối với người cầm bút không chỉ là chiến tranh với
những người anh hùng trận mạc. Hiện thực là toàn bộ dòng chảy cuộc sống đời
thường phức tạp, xô bồ, là những con người cá nhân ẩn chứa cả “rồng phượng lẫn
rắn rết”, là những mối quan hệ chằng chịt hay đứt gãy của những số phận nhỏ nhoi.
Sự phong phú, nhiều bí ẩn của đời sống đã khiến nhiều thể loại văn học, đặc biệt là
truyện ngắn phải đổi mới về các phương thức nghệ thuật cấu thành. Trong đó, nghệ
thuật trần thuật đóng vai trò quan trọng làm nên sự mới mẻ của truyện ngắn từ năm
1986 so với thời kỳ trước.
1.2.Từ sau năm 1986, trên văn đàn dân tộc, cùng với sự vững vàng chín chắn
của những nhà văn lớp trước như: Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang
Sáng, Nguyễn Xuân Thiều...là sự xuất hiện của hàng loạt các cây bút mới đầy triển
vọng như: Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan...Đặc
biệt, đây chính là thời kỳ “văn học mang gương mặt nữ” (chữ dùng của Bùi Việt
Thắng), khi sáng lên bên cạnh một Vũ Thị Thường sắc sảo cô đọng, một Nguyễn Thị
Ngọc Tú chân chất mộc mạc, một Lê Minh Khuê giàu chất chiêm nghiệm, một
Nguyễn Thị Ấm với lối viết tài hoa mang chút giễu cợt đầy thiện ý là một Nguyễn
Thị Thu Huệ chao chát dịu dàng và từng trải, một Y Ban đằm thắm và khắc khoải,
một Vàng Anh với lối viết lạnh lùng, trí tuệ và hóm hỉnh, một Lý Lan hồn hậu và sắc
sảo .[46, 35]
Dung nhan của thể loại truyện ngắn đã được tô vẽ bằng những mảng màu của
các cây bút nữ mang phong cách khác nhau. “Găm” lại được trong lòng người đọc
3
là một Y Ban lúc bạo liệt táo tợn, lại có lúc dịu dàng đến bất ngờ; một Phan Thị
Vàng Anh biết lạ hóa những điều quen thuộc, biết làm cho da diết những điều tưởng
chừng nhạt nhẽo; và một Nguyễn Thị Thu Huệ “bụi bặm trong tả chân”, nó toát ra
từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ.
Vừa mới xuất hiện nơi địa hạt văn chương, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sớm
giành được những thành công. Chị giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí
Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992-1994 với hai tác phẩm Hậu thiên đường và
Mùa đông ấm áp.
Từ đó đến nay, cây bút ấy vẫn tiếp tục say sưa với từng trang viết. Sáu tập
truyện ngắn lần lượt ra đời đã cho thấy hoạt động nghệ thuật không ngừng nghỉ của
chị. Mới đây nhất, năm 2012, tập truyện ngắn Thành phố đi vắng đã đạt giải
thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. So với năm tập truyện ngắn trước (Cát đợi, Phù
thủy, Hậu thiên đường, Nào, ta cùng lãng quên, 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ), tập Thành phố đi vắng đã thể hiện một ngã rẽ mới của cây bút này khi thay
đổi về vùng hiện thực, cảm hứng sáng tác và bút pháp nghệ thuật. Do vậy, khi tìm
hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi muốn
khám phá sự chuyển đổi về một phương diện trong hình thức nghệ thuật để thấy
được sự tự đổi mới của cây bút vốn lao động nghệ thuật nghiêm túc và đầy trách
nhiệm này.
1.3.Thực tế, từ trước đến nay, không ít các nhà nghiên cứu, nhà phê bình và
bạn đọc trong cả nước phân tích truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Thế nhưng,
việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các bài báo, bài nghiên cứu nhỏ hoặc lấy truyện
của Nguyễn Thị Thu Huệ để làm dẫn chứng cho các luận văn, luận án mang quy mô
tổng hợp. Vì vậy, các nhà khoa học và bạn đọc mới chỉ dừng lại ở việc phân tích
một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, với những ý kiến khen, chê khác
nhau. Mặt khác, xét riêng về góc độ nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, cho đến nay, chưa có một công trình nào lấy đó làm đề tài nguyên cứu
chuyên sâu. Chính điều này là cơ sở để chúng tôi lựa chọn khai thác truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ từ góc độ nghệ thuật trần thuật.
1.4. Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ, chúng tôi sẽ phân tích những đặc điểm nổi bật trong bút pháp trần thuật, cho
thấy nét riêng trong phong cách nghệ thuật của nhà văn, từ đó chỉ ra những đóng
góp của nữ tác giả đối với truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
4
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966, quê ở xã Thạch Phong, huyện
Thạch Phú, tỉnh Bến Tre, trú quán: Hà Nội. Chị tốt nghiệp Đại học tổng hợp Hà Nội,
khoa Ngữ Văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được nhiều thành công
khi tuổi đời còn khá trẻ:
-Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội-1986
-Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong – 1993
-Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 1992-1994
-Tặng thưởng Hội nhà văn - 1994
-Giải thưởng Hội nhà văn – 2012
Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã cho ra mắt bạn đọc sáu tập truyện ngắn: Cát
đợi, Phù thủy, Hậu thiên đường, Nào, ta cùng lãng quên, 37 truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, Thành phố đi vắng.
Ngay từ thời kỳ đổi mới, khi xuất hiện không lâu trên văn đàn, Nguyễn Thị
Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ
5 (1992-1994) do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức với hai truyện ngắn: Hậu
thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở các giải thưởng, chị tiếp tục
khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị khác.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã và đang cuốn hút người đọc bởi một lối
viết riêng, một phong cách riêng. Ngay từ năm 1993, trong bài viết Khi người ta trẻ
đăng trên báo Văn nghệ số 43, nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã nhận diện Nguyễn
Thị Thu Huệ là một trong các cây bút làm nên sự khởi sắc của truyện ngắn. Ở đó,
nhà văn nữ trẻ cùng với thế hệ của mình đã “mê say được tham dự, được hòa nhập
vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người. Sự hòa nhập ấy là chất men
nồng ủ ấp trong họ bao yêu thương và cả sự phẫn nộ trong cái xấu cái ác đến „thét
lên một tiếng thật to” [37].
Tiếp đó, trong cuốn “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại”, Bùi Việt Thắng lại một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm
và hướng ngòi bút tới là “những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con
người, đặc biệt là người phụ nữ”. “Truyện ngắn Thu Huệ luôn có hai mặt như thế -
vừa bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, vừa táo tợn vừa thanh khiết”.
“Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó toát
ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [36].
5
Năm 2002, trong bài viết Tứ tử trình làng giới thiệu tập Truyện ngắn bốn
cây bút nữ, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã phát hiện trong tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ một đặc tính “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải,
đớn đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực
của ngòi bút nữ có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Đọc Nguyễn Thị Thu Huệ ta
bị cuốn vào trong niềm vui và nỗi buồn bất tận. Đời sống hiện lên trên từng trang
sách của chị bề bộn, ngồn ngang, ấy vậy mà ngẫm kỹ nó đâu vào đấy. Nhà văn
nghiêng viết về con người trong khối mâu thuẫn vừa cố kết dính với gia đình như
một “hang ổ cuối cùng”, lại vừa bị nhiều ngoại lực giằng xé, lôi kéo...”[38]. Lời
nhận xét ấy đã phần nào khái quát toàn bộ tinh thần truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ.
Ngoài ra, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng còn chỉ rõ những phương diện nghệ
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Đó là tình huống tuy hẹp nhưng đặc
sắc, ngôn ngữ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản, thông
tin cao hoạt động trong giọng điệu. Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế trong
văn của Nguyễn Thị Thu Huệ: Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, còn muốn
nói nhiều, nói hết trong truyện.
Nhà nghiên cứu Đoàn Hương cũng có bài Những ngôi sao nước mắt (báo
Văn nghệ trẻ ra ngày 25/3/1996). Ở bài viết này, tác giả cũng chỉ ra một số khía
cạnh cơ bản trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ. Nhà nghiên cứu đánh giá đây
là một cây bút tài hoa với cách viết như “lên đồng” mang khuynh hướng hiện đại.
Mặc dù chưa trở thành một “hiện tượng” của văn học nước nhà song Nguyễn Thị
Thu Huệ đã có đóng góp trên nhiều phương diện và đã cho ra đời một số tác phẩm
có giá trị, được nhiều độc giả yêu thích.
Với bài viết Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được in trên báo
Văn nghệ số 35 ra ngày 21/3/ 2002, tác giả Hồ Sỹ Vịnh đã nhìn nhận và đánh giá
Nguyễn Thị Thu Huệ là một nhà văn “độc đáo tài hoa”. Đồng thời, ông còn cho
rằng: Nếu phong cách nghệ thuật là đại lượng thẩm mỹ, thể hiện sự thống nhất
tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của phương tiện biểu hiện nghệ thuật,
các yếu tố độc đáo lặp đi lặp lại, nói lên cách nhìn, cách cảm trong sáng tạo của một
nhà văn, của một tác phẩm cụ thể...thì ở Thu Huệ người đọc tìm thấy những dấu
hiệu đó.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết khác về Nguyễn Thị Thu Huệ như bài viết của tác giả
6
Lý Hoài Thu đăng trên Tạp chí văn học với tựa đề Những truyện ngắn hay; bài của
Dương Quỳnh Trang: Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút
nữ đăng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 6/1994; Kim Dung với bài Đọc hồi
ức binh nhì và Bến trần gian đăng trên Văn nghệ trẻ ngày 25/3/1996; Xuân Cang
với bài viết Nguyễn Thị Thu Huệ nhà văn của những vận bĩ trong “Tám chữ hà
lạc và quỹ đạo đời người”, Nxb Văn hóa thông tin, (2000)...Các bài viết này đều
đánh giá Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút có tài năng. Tuy nhiên, các bài nghiên
cứu này phần lớn chủ yếu chỉ ra những nét độc đáo về mặt nội dung mà chưa chú
trọng đến nghệ thuật, trong đó, nổi bật là nghệ thuật trần thuật.
Cũng trong xu hướng tương tự, một loạt các luận án, luận văn cũng chú ý đến
Nguyễn Thị Thu Huệ ở góc độ là một đối tượng nghiên cứu nhỏ trong một đề tài
rộng lớn hơn. Cho đến nay, luận án mới nhất đề cập đến Nguyễn Thị Thu Huệ ở góc
độ trần thuật là luận án tiến sĩ của Hoàng Dĩ Đình năm 2012 với đề tài Ngôn ngữ
trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên tư liệu truyện ngắn ba nhà
văn nữ). Trong đó, truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được lấy làm dẫn chứng để
phân tích các đặc điểm chung của trần thuật như điểm nhìn, người kể chuyện, nhân
vật, ngôn ngữ. Công trình không chỉ ra đặc điểm riêng trong nghệ thuật trần thuật
của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Cùng với đó, các luận văn của Lê Thị Tuyết Nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Hoàng Diệu (2010), Tìm hiểu một
số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986-
2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy) của Nguyễn Thanh
Hồng (2009), Quan niệm nhân sinh của người phụ nữ qua các sáng tác văn xuôi
thời kỳ đổi mới qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tư của Bùi Phương Anh năm 2009...đều cho rằng, truyện của Nguyễn Thị
Thu Huệ đều tích hợp các loại hình nhân vật lý tưởng, tha hóa, bi kịch, nhân vật nữ
mang màu sắc nữ quyền...Để xây dựng nhân vật, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng như
các nhà văn khác đều miêu tả ngoại hình, phân tích tâm lý và xây dựng tình huống.
Giọng điệu trong truyện của các nhà văn nữ đều có giọng hài hước, châm biếm, mỉa
mai, trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm...Như vậy, điểm qua có thể thấy, truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ đã được quan tâm nhiều nhưng cây bút này mới chỉ được nhìn
nhận như một bông hoa góp chút hương sắc cho một vườn hoa đẹp mà chưa được
7
phân tích ở góc độ một đối tượng nghiên cứu riêng biệt, nhất là về nghệ thuật trần
thuật.
Không chỉ được nhắc đến nhiều trên các ấn phẩm in, các công trình luận văn,
luận án, Nguyễn Thị Thu Huệ còn là đề tài nhiều sức cuốn hút của bạn đọc trên các
trang mạng điện tử. Ý kiến về tác giả này có thể chia làm giai đoạn, một là nhận xét
về 5 tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã xuất bản từ năm 1992 đến 2004,
bao gồm: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng
lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2004); hai là nhận xét về
tập truyện ngắn mới nhất của chị Thành phố đi vắng (2012).
Đối với 5 tập truyện ngắn trước, người đọc trên các trang mạng đều cho rằng
Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút luôn khắc khoải, mạnh mẽ, da diết với số phận
người phụ nữ chới với và tha thiết trong tình yêu, mái ấm gia đình. Trong bài Một
góc nhìn về văn xuôi nữ đăng trên www.tonvinhvanhoadoc.vn, Trần Thục đã nhận
ra nét riêng biệt về nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Nếu nhân vật của Y Ban
dám lên tiếng đòi quyền hạnh phúc, thì người phụ nữ trong tác phẩm của Nguyễn
Thị Thu Huệ cũng không kém phần táo bạo. Nhân vật nữ của chị khao khát, mong
mỏi có được một tình yêu đích thực, sống hết mình với nó nhưng kết quả lại không
như mong đợi, mà chỉ toàn là bi kịch” [65].
Không chỉ nhạy cảm với những vấn đề về nội dung trong tác phẩn của Nguyễn
Thị Thu Huệ, nhiều người đọc còn đi sâu phân tích nghệ thuật trong truyện của chị.
Lê Na trong bài viết Ngôn ngữ độc thoại trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
đăng trên website www.vanvn.net đã chỉ ra, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
sử dụng ngôn ngữ độc thoại đời thường một cách phổ biến. Việc lựa chọn ngôn ngữ
này xuất phát từ tư duy hướng vào đời tư, bám sát hiện thực đời sống. Nguyễn Thị
Thu Huệ đã đưa vào tác phẩm của mình tiếng nói của đời sống thường nhật, dung
nạp nhiều khẩu ngữ tự nhiên, làm độc giả không mấy khó khăn khi tiếp cận tác
phẩm.
Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tính yêu là một bài viết đáng
chú ý của Nguyên Hương đăng trên www.vanhocviet.org. Viết về phụ nữ hiện đại
với những vấn đề đương đại nhưng Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng lối viết khá
truyền thống. Phần lớn truyện ngắn của chị có kết cấu chặt chẽ, lô-gích, có thể xáo
trộn về thời gian, không gian nhưng vẫn dễ dàng tìm ra trật tự tuyến tính của cốt
truyện. Tính cách nhân vật khá nhất quán, số phận nhân vật thường đặt trong mối
8
quan hệ nhân quả, có thể đoán biết trước. Sự hấp dẫn của truyện ngắn Thu Huệ nằm
ở lối viết đằm thắm, nồng nàn hơi ấm nữ tính. Mỗi truyện như một lời tâm tình, chia
sẻ hướng tới những tri âm. Sôi nổi, nồng nàn, nồng nàn ngay cả trong hoàn cảnh
cay đắng và chua chát nhất là giọng điệu chính chi phối sáng tác Nguyễn Thị Thu
Huệ. Giọng điệu ấy khiến truyện ngắn của chị dù đề cập đến nhiều đổ vỡ, mất mát
nhưng vẫn là sợi dây neo đậu niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu.
Sau 5 tập truyện đầu đã xuất bản, Nguyễn Thị Thu Huệ đã lưu dấu ấn đậm nét,
độc đáo và nữ tính trong lòng người đọc. Thế nhưng, đến tập Thành phố đi vắng,
dư luận lại phân ra hai luồng ý kiến khen chê trái chiều.
Thực hiện cuộc phỏng vấn với nhà văn trên báo Tuổi trẻ, phóng viên Việt
Hoài xa xót: Thành phố còn đây, nhưng tình người đi vắng. Cùng chung nguồn
cảm xúc ấy, Nguyên Hương tinh tế khi nhận thấy, thay vì kiếm tìm tình yêu, tập
truyện là những ưu tư về tình người ngày một cạn kiệt thậm chí biến mất trong đô
thành hiện đại.
Dương Thị Thùy Chi trong bài viết Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh
lùng câu chữ, xa xót tâm can, nhận xét: “Ở Thành phố đi vắng chị sử dụng lối
viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm xúc tối đa, mỗi truyện ngắn như một bản
tường thuật đời sống” [54].
Với bài Nguyễn Thị Thu Huệ trở lại, Khải Ly cho rằng, Thành phố đi vắng
được khắc họa bằng lối kể chuyện mang tính giả tưởng, một lối kể đan xen thật, giả
và mở, không khí lạnh lùng như một cuộc mổ xẻ của nhà pháp y trên con chữ. Thế
nhưng, đây đó vẫn nhận ra một Nguyễn Thị Thu Huệ đầy nữ tính trong các truyện
ngắn: X-Men có mùi trường đua, Của cha, của con và những cành vạn niên
thanh hết sức ưu ái những người con gái bán thân lấy tiền. Trong khi nhiều bạn đọc
nhận chân các giá trị mới của tập truyện Thành phố đi vắng thì một số độc giả khác
lại cho rằng, tập truyện còn nhiều khiếm khuyết.
Khi Thành phố đi vắng đạt giải thưởng của Hội Nhà văn năm 2012, nhà thơ
Đỗ Hoàng cho rằng, Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ: Đơn sơ, nhiều
lỗi, nhạt nhèo/ Cũ càng con cóc lộn lèo văn chương. Trong đó, truyện cũ kỹ và
lộn xộn nhất là truyện X- Men có mùi trường đua, có chất lượng nội dung, nghệ
thuật rất thấp. Truyện Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện này là một mẩu không ra
truyện ngắn, không ra mẩu phóng sự, cảm văn không ra cảm văn. Nhạt nhẽo vô
cùng. Truyện Cú mèo và rượu hoa kể dài lê thê, cũ kỹ, rời rạc, vô cảm, vô hồn,
9
không có gửi gắm một thông điệp gì. Truyện lạnh lùng vô cảm nhất là truyện Trong
lúc ăn một bát phở gia truyền. Về nghệ thuật, Thành phố đi vắng không mang lại
điều gì mới. Tác giả chỉ thay khi hỏi và đối thoại không xuống dòng, viết liền tù tì,
ai hiểu thế nào thì hiểu. Chấm câu lung tung, vô tội vạ. Tóm lại, Thành phố đi vắng
là một tập truyện ngắn chưa đạt trung bình.
Như vậy, khảo sát hình ảnh truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ ở nhiều phương
tiện thông tin, có thể khẳng định: Đã có nhiều ý kiến phê bình, nghiên cứu về những
đổi mới, cách tân về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu
Huệ. Với các quan điểm khác nhau, các bài viết, công trình nghiên cứu dù “khen”,
hay “chê” đều cho thấy Nguyễn Thị Thu Huệ là một cây bút có sức thu hút mạnh
mẽ. Thêm vào đó, rõ ràng, việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật vẫn là khía cạnh
nghiên cứu mới ở một ngòi bút đã trưởng thành và dày dạn kinh nghiệm này.
3.ĐỐI TƢỢNG, MỤC ĐÍCH, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
-Luận văn tập trung tìm hiểu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ để thấy rõ những nét độc đáo của ngòi bút trên các phương
diện: người kể chuyện và điểm nhìn, quan điểm nghệ thuật và thế giới nhân vật, kết
cấu và giọng điệu. Đây là những đặc điểm cho thấy nét đặc sắc riêng của cách trần
thuật được Nguyễn Thị Thu Huệ vận dụng, góp phần làm nổi bật phong cách nghệ
thuật của nhà văn, đồng thời khẳng định đóng góp truyện ngắn của chị trong dòng
chảy của văn học Việt Nam hiện đại.
- Luận văn tập trung phân tích sáu tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ:
Cát đợi (Nxb Hà Nội, 1992), Hậu thiên đường (Nxb Hội Nhà văn, 1993), Phù thủy
(Nxb Văn học, 1995), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ (Nxb Văn học, 2004); Thành phố đi vắng (Nxb Trẻ, 2012). Do 5 tập
truyện đầu xuất bản có sự lặp lại các truyện nên chúng tôi đã tổng hợp được 45
truyện ngắn được in. Riêng tập Thành phố đi vắng gồm 16 truyện ngắn. Như vậy,
có tất cả 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ được nghiên cứu trong luận văn
này.
- Với đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ,
chúng tôi sẽ so sánh giữa bút pháp trần thuật ở 45 truyện ngắn trong 5 tập truyện
đầu với 16 truyện ngắn trong tập truyện mới đây Thành phố đi vắng để chỉ ra sự
chuyển biến trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ. Đây cũng là cách
tự làm mới mình của chị, cho thấy chị luôn luôn sáng tạo và không chịu cũ mòn.
10
4.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương
pháp sau:
4.1.Phƣơng pháp thống kê:
-Ở luận văn này, Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
sẽ khai thác khía cạnh người kể chuyện và điểm nhìn trong 61 truyện ngắn. Với
phương pháp thống kê, chúng tôi sẽ xác định được tỷ lệ vận dụng các loại người kể
chuyện và điểm nhìn, từ đó, chỉ ra dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
4.2.Phƣơng pháp so sánh:
Để chỉ ra sự khác biệt trong bút pháp trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ với
các nhà văn khác, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh. Đặc biệt, bởi hành trình
sáng tác của chị có sự gián đoạn và thay đổi, vì vậy, phương pháp so sánh sẽ giúp
người viết khám phá những chuyển biến về phương thức nghệ thuật từ khi cầm bút
đến nay.
4.3. Phƣơng pháp loại hình:
Truyện ngắn với những đặc trưng của nó, vốn đã riêng biệt về hình thức so với
các loại hình văn chương khác như tiểu thuyết, tự truyện...Truyện ngắn hiện đại lại
mang trong mình những nét độc đáo khác. Do vậy, chúng tôi dùng phương pháp loại
hình để làm sáng rõ cách trần thuật trong thể loại truyện ngắn của riêng nhà văn nữ.
4.4.Phƣơng pháp phân tích tổng hợp:
Nghệ thuật trần thuật vốn là vấn đề tổng hợp, tích hợp nhiều biểu hiện khác
nhau như điểm nhìn, người kể chuyện, nhân vật, giọng điệu, kết cấu. Phương pháp
phân tích tổng hợp giúp chúng tôi thấy được sự thống nhất của các phương diện này
để khái quát nên đặc trưng riêng trong ngòi bút trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ.
5.CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của luận văn được
tổ chức thành ba chương:
-Chương 1: Người kể chuyện và điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ
-Chương 2: Quan điểm nghệ thuật và thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ
-Chương 3: Kết cấu và giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.
11
CHƢƠNG 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
1.1.Vấn đề ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
1.1.1. Khái lƣợc về ngƣời kể chuyện trong tác phẩm tự sự
Gérard Genette (sinh năm 1930 – một nhà tự sự học hàng đầu của Pháp. Trong
bộ ba “Phương thức tu từ” (FiguresI, 1966; Figures II, 1969, Figures III, 1972),
Genette đi sâu vào các yếu tố tạo thành chất văn học của tự sự. Theo tác giả này,
cấu trúc ngôn bản tự sự do ba lớp tạo thành: cốt truyện (histoire), truyện hay câu
chuyện (récit) và tự sự hay kể chuyện (narration).
Một hàm nghĩa nổi bật nhất, quan trọng nhất và cũng được chú ý nhiều nhất
của tự sự là nó đảm nhiệm bằng miệng hoặc chữ viết công việc trình bày về một hay
một chuỗi sự kiện/sự tình. Rõ ràng với nghĩa như thế, tự sự là chỉ hành động trần
thuật. Không có hành động trần thuật thì không có trần thuật, có khi thậm chí không
có nội dung trần thuật. Có hành động trần thuật thì phải có chủ thể trần thuật – đó là
người trần thuật (người kể chuyện). Genette quan niệm, không thể có những tự sự
không có người trần thuật. “Nếu không có người trần thuật, tự sự sẽ không thể thực
hiện được và đó sẽ là một hành động vô trần thuật, vì thế, nó dứt khoát là một trần
thuật không có hành động giao tiếp” [10].
Nhận định của Genette đã khẳng định vai trò quan trọng của người trần thuật –
người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Đây là vai đã để lại nhiều dấu vết trong quá
trình sản sinh ngôn ngữ trần thuật. Nó có thể dễ dàng nhận ra qua các yếu tố như
thời gian trần thuật, cấp bậc trần thuật và ngôi.
Genette đã phân loại người trần thuật – chủ thể của trần thuật dựa trên ngôi/
nhân xưng trong tác phẩm văn học. Theo đó, có thể chia ra hai loại người trần thuật:
(1) Người trần thuật không xuất hiện trong truyện là người trần thuật dị câu chuyện
(tức người trần thuật ngoài câu chuyện). (2) Người trần thuật xuất hiện trong truyện
với tư cách một nhân vật của truyện là người trần thuật đồng câu chuyện (tức người
trần thuật trong câu chuyện). Xét về mặt ngôn ngữ, người trần thuật đồng câu
chuyện thường xưng “tôi” khi kể.
Căn cứ vào vị trí hoặc cấp bậc trần thuật và trình độ tham gia vào truyện của
người trần thuật, có thể chia ra các loại hình người trần thuật khác nhau như:
-Người trần thuật bên ngoài – Người trần thuật bên trong
12
-Người trần thuật hiện diện – Người trần thuật tiềm ẩn
- Người trần thuật đáng tin cậy – Người trần thuật đáng nghi ngờ
Với việc phân chia như vậy, ở luận văn này, chúng tôi phân tích vấn đề người
kể chuyện (người trần thuật) trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ dựa trên
phương diện: Người trần thuật hiện diện và người trần thuật tiềm ẩn.
Người trần thuật hiện diện (overt narrator) chính là người trần thuật đồng câu
chuyện. Người trần thuật xuất hiện trong câu chuyện là một nhân vật tham gia vào
trong truyện. Vai này không chỉ đảm nhiệm chức vụ trần thuật mà còn là một nhân
vật của sự kiện đang được kể, có những hoạt động trong truyện và giao lưu với các
nhân vật khác. Thông thường, kiểu người trần thuật này xuất hiện trong truyện
thường xưng “tôi”, kể về những sự kiện có liên quan đến bản thân mình có mặt
trong ấy. Vì vậy, việc trần thuật của kiểu người trần thuật này thường để lại ấn
tượng chân thực cho người tiếp nhận trần thuật và hình ảnh của người trần thuật
cũng trở nên sinh động hơn.
Lợi thế của người trần thuật hiện diện là người trần thuật có bản ngã cá nhân,
có khi “đột nhập” vào truyện đánh giá một cách công khai về các sự kiện và nhân
vật khác. Tuy nhiên, hạn chế của người trần thuật này là do kể bằng lăng kính cá
nhân nên không thể bao quát hết những nội dung trần thuật vượt qua sự từng trải cá
nhân, vì vậy, truyện mang nặng tính chủ quan.
Xét về phạm vi hoạt động và mức độ hoạt động của người kể chuyện hiện diện,
có thể chia ra hai loại: Người kể chuyện đứng bên trong truyện đóng vai nhân vật
chính và Người kể chuyện đứng bên trong truyện đóng vai người quan sát.
Ngược lại với người kể chuyện hiện diện, người kể chuyện tiềm ẩn (covert
narrator) hay còn gọi là người trần thuật dị câu chuyện, người trần thuật ngôi thứ ba
thường không để lại vết tích trong văn bản. Người kể của truyện biết hết nhưng
không xuất hiện, để câu chuyện tự triển khai theo logic tự thân, nhân vật tự hoạt
động. Cũng có khi, người kể chuyện không trực tiếp xuất hiện mà như đứng kín đáo
ở một chỗ nào đấy, chứng kiến hết mọi chuyện xảy ra và kể lại. Đó cũng là lý do để
trong bài viết của mình về Sự biến mất của chủ thể phát ngôn và vấn đề người
trần thuật, trích trong cuốn Logic học về các thể loại văn học, Kate Hamburger đã
huyền thoại hóa “người kể chuyện như thượng đế”. Ông trích dẫn ý của J.Petersen
khi so sánh người trần thuật với người chủ trò đứng trên sàn diễn giữa các nhân vật
của ông ta và chỉ dẫn cho chúng về vị trí, động tác, ngữ điệu. Giống như là họa sỹ
13
sử dụng màu và bút vẽ làm công cụ để tạo nên những kiệt tác nghệ thuật bất hủ,
người kể chuyện cũng điều khiển nhân vật, sự kiện, chi tiết, để làm nên một tác
phẩm tự sự đặc sắc và sinh động.
Honore de Balzac - ngôi sao chói lọi của văn đàn Pháp tác giả đã sáng tác Tấn
trò đời bất hủ đã không bỏ sót một hoàn cảnh nào, một giới xã hội nào của thời đại
ông. Những Raphaen de Valangtanh, Đơ Raxtinhac, Poline… được kể lại một cách
đầy đủ trọn vẹn, đã hình thành cả một thế giới nghìn lẻ một đêm của phương Tây.
Và ai là người mô tả cái thế giới ấy trong tiểu thuyết của Balzac? Ai là người trần
thuật thông hiểu hết mọi việc, có mặt ở khắp mọi nơi cùng một lúc, ai là người cùng
một lúc nhìn thấy cả mặt phải lẫn mặt trái của các sự vật, ai biết đồng thời cả hiện
tại, quá khứ lẫn tương lai của các cuộc phiêu lưu trong Tấn trò đời? Theo A.Robble
- Grillet: đó chỉ có thể là Thượng đế. Không ai có thể nhìn thấy được thượng đế,
nhưng người ta vẫn tin rằng có Thượng đế ở trên đời. Cũng vậy, không thấy xuất
hiện cụ thể người trần thuật ngôi thứ ba trong tác phẩm tự sự, song người đọc vẫn
nhận thấy có một người trần thuật ẩn tàng. Vì ẩn tàng nên có khi người trần thuật ở
ngôi thứ ba phải mượn điểm nhìn của nhân vật trong truyện để kể. Người kể chuyện
đã hòa vào nhân vật đến mức ta khó phân biệt giọng kể của anh ta với giọng kể của
nhân vật, và vì thế, giọng nhân vật thường nổi trội hơn.
Nếu như người trần thuật hiện diện đem lại ý nghĩa màu sắc chủ quan thì
người trần thuật tiềm ẩn đem lại ý nghĩa khách quan tối đa. Dung lượng phản ánh
trong truyện cũng không bị hạn chế. Với ưu thế riêng, người kể chuyện tiềm ẩn dễ
dàng thâm nhập vào đời sống nội tâm và các mối quan hệ của nhân vật, tạo cảm
giác trực tiếp, gần gũi với thế giới nhân vật, khiến ta có cảm giác không phải đang
nghe kể mà là đang trực tiếp chứng kiến. Tuy vậy, cách kể này vẫn mắc phải hạn
chế, đó là vấn đề mà nhà văn trực tiếp thực hiện điểm nhìn thì tính thuyết phục
không cao.
Ở truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, cả hai loại hình người kể chuyện diện
diện và người kể chuyện tiềm ẩn đều phát huy vai trò của nó để làm nên sức cuốn
hút của những câu chuyện giàu sinh khí đời sống hiện đại.
1.1.2.Ngƣời kể chuyện hiện diện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách
“ứng xử” với câu chuyện: chuyện được trần thuật ở góc độ nào, theo lời kể của ai?
Tự sự truyền thống đa số được kể từ người kể chuyện ngôi thứ ba, thông tỏ
mạch truyện và số phận của nhân vật. Quyền phán truyền chân lý vì vậy thuộc về
14
nhà văn – người duy nhất biết trước tất cả và luôn luôn đúng. (Nguyễn Thị Bình).
Người kể chuyện luôn đứng cao hơn bạn đọc. Anh ta không bao giờ kể với thái độ
do dự hay hoài nghi, anh ta tuyệt đối tin vào mình và tuyệt đối không để cho người
khác “cãi lại”. Hiện thực trong tác phẩm là hiện thực “hoàn kết”. Cấu trúc trần thuật
như vậy nhiều khi tạo ra cái nhìn áp đặt, thiếu dân chủ trong mối quan hệ nhà văn
và bạn đọc.
Trần thuật hiện đại đã mở ra một chân trời mới cho sáng tạo nghệ thuật. Người
kể chuyện được xây dựng chân dung mang tính cá thể rõ nét, là “tôi” trong câu
chuyện đang diễn biến phức tạp đa chiều. Chính những cái “tôi” đang kể đã đem lại
chiều sâu không cùng cho thể loại truyện ngắn vốn hạn chế về dung lượng.
Sống trong không khí của thời đổi mới, trong sự tự do sáng tạo nghệ thuật,
Nguyễn Thị Thu Huệ cùng với nhiều nhà văn nữ khác đã “tự ăn mình” khi khai thác
sâu sắc cái tôi nội cảm, cái tôi nữ giới nhiều đa cảm, đa đoan. Truyện của Nguyễn
Thị Thu Huệ xuất hiện nhiều cái tôi đang kể chuyện. Người kể chuyện ngôi thứ nhất
hiện diện với đầy đủ đường nét về khuôn dạng, tâm hồn đến cuộc đời đã cho thấy ý
thức cá nhân mạnh mẽ trong phương thức trần thuật của chị.
Khảo sát 61 truyện ngắn trong 6 tập truyện đã xuất bản, chúng tôi nhận thấy
có 28/61 truyện ngắn được trần thuật theo lời kể của nhân vật xưng “tôi”, chiếm
46 % tổng số truyện. Trong đó, ở 5 tập truyện đầu, có 24/45 truyện có người kể
chuyện xưng “tôi”. Tỷ lệ này ở tập Thành phố đi vắng là 4/16 truyện.
Xét về sự ra đời của các tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, dựa trên
các sắc thái về vùng hiện thực, nhân vật, vấn đề đặt ra trong truyện, có thế nhận
thấy một Nguyễn Thị Thu Huệ đã thay đổi bút pháp trần thuật từ 45 truyện ngắn
đầu đến 16 truyện ngắn gần đây nhất. Người kể chuyện xưng “tôi” trong tác phẩm
của chị tuy có sự tương đồng về mật độ xuất hiện ở hai giai đoạn sáng tác nhưng
bản chất của mỗi cái tôi kể chuyện ấy lại có sự khác biệt rõ nét.
Người kể chuyện hiện diện trong 24 truyện ngắn thuộc 5 tập truyện đầu đã
định hình những chân dung khá đủ đầy về hình dạng, tính cách.
Đó là “tôi” – một người phụ nữ sau bao năm vẫn giữ cho mình một tình yêu
huyền thoại với một người đàn ông đã có vợ. Thỉnh thoảng, “tôi” lại bay vào Sài
Gòn để gặp anh, chỉ chốc lát thôi nhưng tình yêu hời hợt từ phía người đàn ông kia
đủ sức mạnh để khiến “tôi” hàng năm tìm kiếm (Huyền thoại). Trong Nước mắt
đàn ông – người xưng “tôi” là đứa cháu kể về cậu ruột của mình. Dẫu giàu có
15
nhưng ông lại luôn đau đớn vì phải sống trong một gia đình không hạnh phúc với
một người vợ ghê gớm đến quá quắt, những đứa con ăn chơi và chỉ biết tiêu tiền.
Tình yêu của riêng ông với người phụ nữ khác đã không đủ cho ông sức mạnh để
giữ người ấy ở bên mình. Nước mắt ông rơi khi con chó – kỷ niệm duy nhất của
người yêu trao lại bị vợ ông giết, ăn uống hỉ hả. Sự trống rỗng, cô đơn bủa vây lấy
con người chỉ còn biết thả hồn mình vào cánh buồm đỏ cô đơn trôi trên hồ khi
giông bão. Hậu thiên đường là cái tôi của người mẹ tự kể về cuộc đời của mình sau
những chuỗi dài được sống trong thiên đường ở tuổi hai mươi tư đã rơi xuống một
hậu thiên đường tăm tối, quạnh hiu. Mười sáu năm trước, chị cũng yêu say đắm,
trao thân cho người đó để rồi bẽ bàng nhận ra mình chỉ là cái ô giữa trời mưa, người
đàn ông tán tận kia vào trú trong chiếc ô đó, vui say thỏa thích rồi bỏ đi, chỉ còn lại
mình chị cô đơn trống vắng. Khi con gái lớn lên, chị vẫn say sưa trong những đêm
nhảy đầm, để rồi chợt nhận ra, con gái mình đã lớn. Đau khổ hơn, khi thấy “con gái
tôi thành đàn bà thật rồi”. Nó giống mẹ ngày xưa, đang ngây ngất trong vòng tay
của người đàn ông đã có vợ, đi đêm thường xuyên và nở nụ cười hạnh phúc trong
cái nôi thiên đường mà không hề hay biết “hậu thiên đường” sẽ là vô vàn cạm bẫy,
chông gai, là vựa thẳm hố sâu, là muôn vàn nanh độc đang chầu chực nuốt chửng cô
vào đó. Cái “tôi” kể chuyện muốn cứu con, lôi con ra khỏi cái thiên đường địa ngục
đó nhưng không kịp: Cái “tôi” ấy đã chết trên đường đi tìm con. Câu chuyện xót xa
với muôn vàn cung bậc của đớn đau, vây bủa trái tim người mẹ đã được trần thuật
lại đầy chân thực và cảm động.
24 truyện ngắn trong 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ được kể theo
ngôi thứ nhất đã hoàn toàn phát huy ưu thế khi người kể chuyện là những cái tôi
người phụ nữ kể về chuyện của cá nhân mình. 13 truyện được kể bởi những cái tôi
phụ nữ đa sầu, đa cảm, đa đoan. Đó có thể là những người phụ nữ đã trải qua bao
thăng trầm của cuộc sống, bao xa xót của cuộc đời, bao đổ vỡ trong tình yêu và
cũng từng nồng nàn khát khao hạnh phúc như trong Người đi tìm giấc mơ, Người
xưa, Hình bóng cuộc đời, Đêm dịu dàng, Hậu thiên đường.
Mở đầu truyện ngắn Người đi tìm giấc mơ là lời kể của nhân vật “tôi” – một
người con gái nghèo sống đơn độc với bà, chấp nhận lấy một người đàn ông tật
nguyền nhưng giàu có, mong đổi đời. Do không sinh được con nên cô bị nhà chồng
đuổi đi. “Tôi đi ra đường, trên người là chiếc áo mỏng dính, gần rách. Chiếc quần
tôi mặc co lại vì ngắn và cũ. Tôi chẳng có gì ngoài hai thứ đó. Tôi đi”. Những lời
16
kể đầu tiên đã giúp người đọc hình dung về một người tàn tạ, nghèo khổ đi vô định
hướng. Ngoại hình nhân vật đã tạo ấn tượng mạnh để tiếp nối vào mạch kể về số
phận đắng cay. Tất cả quá khứ đều hiện về trong tâm trí người đàn bà tội nghiệp:
„Những cái tát, những trận phang gậy vào người gần hai năm nay tôi đã quen”.
Người thân duy nhất của cô là người bà, nhưng “Đêm ấy. Tại tôi nên bà chết”.
Hành trình đi của tôi mà những người xung quanh gọi là “kẻ điên” đã đến nơi “Bờ
sông cao. Khô khốc. Dưới kia. Nước sông Hồng đỏ đặc phù sa. Tôi thường tưởng
tượng ra một ngày nào đó mình sẽ ở trên thiên đường và tự hỏi: Nếu chết linh hồn
mình sẽ đi đâu khỏi cái xác thối rữa?”. Kết thúc truyện là hình ảnh cô đang ngủ và
tiếp tục mơ về những điều tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Người kể chuyện xưng “tôi” – đồng thời là nhân vật chính trong chuyện, hầu
hết là những phụ nữ bất hạnh trong tình yêu. Cái tôi kể chuyện và cái tôi từng trải
đã hòa nhập làm một trong những trang văn chất chứa nỗi niềm. Không phải ngẫu
nhiên mà nhà phê hình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ luôn có hai mặt như thế - vừa bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm,
vừa táo tợn, vừa thanh khiết”. Cái bụi bặm hiện lên qua lời kể của người mẹ trong
Hậu thiên đường về những va vấp của tuổi trẻ để đến 16 năm sau chị phải sống
trong đơn côi lạnh lẽo. Sự tả chân đã đem lại cho người đọc cảm giác vỡ mộng khi
người kể chuyện xưng “em” trong Một chiều mưa đang hụt hẫng, tan nát vì phát
hiện vị cứu tinh của mình đang ngồi cạnh một người con gái khác. “Cô ta tóc rất
ngắn, còn ngắn hơn cả tóc em, xinh và tươi rói. Em chết lặng”. Lời kể của nhân vật
xưng “tôi” cũng thắm đượm vẻ trữ tình đằm thắm khi kể về những mong ước,
những khát khao tình yêu và hạnh phúc rất con gái: “Tôi luôn ao ước được đi chơi
với anh. Tất cả những lần chúng tôi rong ruổi trên các con đường. Lúc sáng tinh
mơ. Lúc nhập nhoạng tối. Tôi đều thấy các con đường, các hàng cây thật đáng yêu
và tuyệt đẹp. Cũng như bây giờ. Suốt thời gian đã qua của tôi chưa bao giờ trăng
đẹp như thế” (Còn lại một vầng trăng).
Những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ thanh khiết khi kể về những cái
tôi – những người con gái, những người phụ nữ còn rất trẻ tự kể về mình. Trong 13
truyện có người kể chuyện là nhân vật nữ xưng “tôi” thì có 7 truyện được trần thuật
từ người kể chuyện là những cô gái trẻ tuổi, trẻ lòng, đầy mộng mơ và ước vọng về
tình yêu. Đó là cô bé sắp tròn mười tám tuổi vào ngày mai, mơ thấy người mẹ bỏ
hai bố con theo tình cũ. Đôi giày đỏ mẹ chưa kịp đi khi vội vã theo người ta trong
17
dịp sinh nhật con, mẹ tặng lại cho con (Đôi giày đỏ). Trong Biển ấm, người kể
chuyện là cô gái mới hai mươi tuổi, dám tự tìm đến với người yêu – người đàn ông
hơn cô mười hai tuổi. Đất Quảng Ninh với những hầm than là thế giới của anh. Với
cô lúc ấy tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi “tôi” nhìn chúng bằng ánh mắt
kẻ đang yêu. “Tôi” trong Còn lại một vầng trăng cũng hồn nhiên bày tỏ niềm hạnh
phúc của mình: “Tôi biết mơ mộng từ ngày yêu anh. Biết nhớ mong, dỗi hờn từ ngày
có anh. Và đêm nay. Biết trăng đẹp vì đi bên anh”. Hoàng hôn màu cỏ úa lại là
cảm nhận của người kể chuyện xưng „tôi” trong một buổi chiều chia tay cuối cấp ba
đong đầy bao kỷ niệm. Thành phố không mùa đông là câu chuyện của cô gái trẻ
ngỡ ngàng biết tin cha mẹ chia tay nhau, cô theo người bạn lên công viên...để khuây
khỏa những nỗi buồn vẫn nghẹn thắt con tim. Cát đợi là lời kể của người con gái đã
trao thân mình ở một vũng cát bên bờ biển khi đang ở độ tuổi học trò. Trong Một
chiều mưa, “em” đứng dưới gốc dâu da con con có mấy chùm hoa trắng như hoa
sấu để đợi anh mà không thấy anh đến. Chợt gặp anh tình tứ với người con gái khác,
“em” mới biết mình bị mắc lừa một kẻ Sở Khanh.
Không đi vào những chuyện quá lớn lao, nhân vật con gái – đàn bà trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tự kể về câu chuyện nhỏ bé rất riêng của mình.
Là tình yêu trong sáng nguyên sơ nhưng bị lừa lọc bởi những người đàn ông
từng trải. Là khát khao hạnh phúc vừa trẻ con, vừa ngây thơ lại rất đỗi đàn bà.
Là sai lầm vì bồng bột và cả tin. Tất cả những trái ngang, những mộng mơ,
những hụt hẫng và đau đớn sâu kín nhất của người phụ nữ đều được những nhân
vật xưng “tôi” tỏ bày trên trang viết. Truyện thiên vể kể, tâm sự nên lời văn
thấm đẫm cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Đối thoại trong truyện ít. Những sự
kiện, biến cố xảy ra chỉ là “cái cớ” để người kể chuyện bộc lộ tâm trạng và suy
tư cá nhân. Có lẽ vì thế mà ở một số truyện, người đọc có cảm giác đọc truyện
như đang bước vào những trang nhật ký của người phụ nữ đầy chân thực, chân
thành, cảm động. Nói lúc này, Nguyễn Thị Thu Huệ đang “rút ruột” ra để viết
cũng không sai. Nữ giới – viêt văn là họ “tự ăn mình”.
Trong 24 truyện ngắn được trần thuật từ ngôi thứ nhất tập hợp từ 5 tập truyện
trước, ngoài 13 truyện được kể bằng lời nhân vật nữ, còn 11 truyện có người kể
chuyện xưng “tôi” là nhân vật nam. Trong đó, người kể chuyện đứng bên trong
truyện đóng vai nhân vật chính xuất hiện ở 5 truyện (Người đàn bà ám khói, Sơ-ri
đắng, Ám ảnh, Minu xinh đẹp, Những đêm thắp nắng). Người kể chuyện đứng
18
bên trong truyện đóng vai người quan sát xuất hiện ở 6 truyện (Nước mắt đàn ông,
Dĩ vãng, Chị tôi, Một chuyến đi, Cõi mê, Màu ngả sắc đỏ).
Với vai trò là một nhân vật chính của truyện, người kể chuyện là một nhân vật
nam xưng “tôi” thường kể về những câu chuyện của bản thân có liên quan đến nhân
vật khác là người phụ nữ. Đối thoại trong truyện được xây dựng nhiều hơn nhằm
bộc lộ suy nghĩ và tính cách, bản chất của người đàn ông. Người đàn bà ám khói là
hình ảnh của người tình cũ trong mắt người kể chuyện là “tôi” khi gặp lại trong một
đám tang. Người kể chuyện bộc lộ là một kẻ nghiệt ngã, vô tình, sĩ diện và tàn nhẫn.
Sơ-ri đắng là cảm nhận của người kể chuyện xưng “tôi” khi giữ mãi tình yêu với
người con gái đã chết vì một kẻ vô lại, vô tình. Trong Những đêm thắp nắng –
nhân vật “tôi” kể về câu chuyện của chính mình khi bị một phụ nữ có gia đình bội
bạc và dối trá ngay trước mặt. Riêng hai truyện Ám ảnh và Minu xinh đẹp, người
kể chuyện lại kể về câu chuyện khác, không phải là tình yêu. Ám ảnh là câu chuyện
của chàng trai tên Thành mơ về người cha tàn nhẫn, hắt hủi mẹ để đi với người tình,
anh vừa qua tuổi vị thành niên đã bắn chết hai mẹ con người tình của bố. Anh bị kết
tội tử hình, lúc chết chỉ kịp gọi hai tiếng “Mẹ ơi”. Minu xinh đẹp được kể bằng lời
của nhân vật xưng “tôi” – một thiếu tá đã về hưu, mong đổi đời nhờ nuôi chó nhưng
thất bại. Những nhân vật này góp phần khắc họa thế giới đàn ông đa dạng trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ.
Đối với hình tượng người kể chuyện xưng “tôi” chỉ đóng vai trò là người quan
sát, 6 truyện được trần thuật lại một cách tương đối khách quan. Trong Nước mắt
đàn ông, “tôi” – một đứa cháu ruột kể về nỗi đau riêng của cậu mình khi không
hạnh phúc trong cuộc sống gia đình, khi người yêu bỏ đi và vật chứng của tình yêu
bị giết bởi chính tay người vợ. Dĩ vãng được kể bằng nhân vật “tôi” – một anh lính
đến thăm thủ trưởng của mình – ông Xung đang sống trong cô đơn tột độ. Nhờ
người kể chuyện là người chứng kiến ở hai khoảng đời của nhân vật chính nên
những thay đổi của nhân vật chính được trần thuật lại rất chi tiết, cụ thể. Chị tôi là
câu chuyện của người kể chuyện xưng “tôi” – một sinh viên đại học sống nhờ đồng
tiền buôn thuốc lá dạo của chị ở bến tàu. Chị chết vì tại nạn lúc qua đường, để lại
nỗi ân hận và thương xót vô bờ trong lòng “tôi”. Người kể chuyện hiện diện trong
Một chuyến đi là chàng trai vừa tròn 18 tuổi, kể về người cậu đi bộ đội, lúc trở về
đã là thương binh. Cõi mê là câu chuyện về người cô bị điên được một người đàn
ông khỏe mạnh, bình thường cưới làm vợ. Người trần thuật trong truyện là đứa cháu
19
ruột của cô. Người kể chuyện xưng “tôi” trong Màu ngà sắc đỏ là một người đã
cứu vớt một người con gái tên Hạnh phải nạo phá thai vì yêu Hưởng. Câu chuyện
chủ yếu diễn ra trong đối thoại giữa tôi và Hưởng, từ đó những vấn đề của câu
chuyện tình yêu tình yêu riêng tư, bản chất của người đàn ông làm Hạnh khổ lộ diện.
“Tôi” đóng vai trò là người cật vấn, nói lên tiếng nói của cá nhân nhưng cũng là băn
khoăn và cảm nhận của số đông khi biết chuyện này. Thương Hạnh và trách móc,
giận người đàn ông bao nhiêu, “tôi” càng hỏi dồn dập bấy nhiêu. Lúc đầu, cán cân
đối thoại nghiêng về “tôi” vì tôi là là kẻ nắm bằng chứng, “tôi” đã làm một hành
động cao thượng là cứu Hạnh. Hưởng lúc này là kẻ tội đồ. Thế nhưng dần dần, qua
sự kể lể giải thích của Hưởng, cán cân ấy lại nghiêng về phía người đàn ông đã có
vợ và vô trách nhiệm với người tình. “Tôi” từ bực bội đã chuyển sang thương cảm
cho anh.
Khảo sát một loạt hình ảnh người kể chuyện xưng “tôi” với vai trò là nhân
chứng ở 5 tập truyện đầu, dễ nhận thấy, những cái tôi trần thuật này dù chỉ là kể lại
câu chuyện theo sự chứng kiến của mình nhưng với cách nhìn riêng đầy nhân bản,
với sự rung động chân thực nên câu chuyện vẫn cuốn hút người đọc. Người kể
chuyện xưng “tôi” vẫn bộc lộ, suy nghĩ của mình về nhân vật chính và câu chuyện
mà anh ta được chứng kiến, vì vậy truyện được kể lại không phải chỉ là cái vỏ sự
kiện mà còn chứa đựng nhiều tâm tư, nỗi niềm của nhân vật chính do nhân vật này
có giao tiếp với người kể chuyện. Người kể chuyện hiện diện tinh tế, đồng cảm và
chân thành với mỗi câu chuyện kể ra, vì vậy mà người kể chuyện ngôi thứ nhất
đóng vai trò quan sát cũng cho thấy tính cá nhân hóa của mình.
Sau 5 tập truyện đầu ra đời, đến năm 2012, tập Thành phố đi vắng mới ra mắt
độc giả. Cách viết khác về một vùng hiện thực mới đã khiến năm truyện được trần
thuật theo ngôi thứ nhất mang một màu sắc khác. Cũng là những cái tôi kể về câu
chuyện của mình hoặc của người khác nhưng thay vì kể những câu chuyện là tình
yêu, là khát khao, là mong ước một gia đình, một sự giàu sang hay giản đơn là sống
cho tốt, nhân hậu và đơn giản thì người kể chuyện ở 4 truyện trong Thành phố đi
vắng lại kể những chuyện trong cuộc sống chốn thị thành đang trôi như con thoi,
trong đó, con người hoạt động nhanh, suy nghĩ nhanh, ít khi có thời gian ngừng lại
để mộng mơ hay ngẫm nghĩ sâu xa về một điều gì đó. Không còn những trang văn
rất nữ tính, rất đàn bà, không còn những cái tôi phụ nữ chia sẻ về mọi ngõ nẻo trong
tâm hồn mình. Những cái tôi kể chuyện tham gia vào câu chuyện, hoạt động bề
20
ngoài như nhiều nhân vật khác, rất ít suy tư, rất ít cảm xúc và rất ít khi rung động.
“Tôi” kể về những việc mình làm và những việc người khác làm thản nhiên, có khi
lạnh lùng và lạnh nhạt. Đó có phải là chân dung của con người ngày nay? Con
người hiện đại? Hời hợt và vô cảm?
Rồi cũng tới nơi thôi – tiêu đề truyện được lấy từ lời nói của nhân vật bố cục
chặt – một người đàn ông ở một một mình nơi miền núi sương lạnh. “Tôi” – người
phụ nữ chốn thị thành, vì nhớ ông mà tìm lên, cùng tâm sự những chuyện chẳng đâu
vào đâu. Rồi ông bỏ đi nơi khác vì không chịu nổi nỗi nhớ nhân vật “tôi” vu vơ xâm
chiếm.
Câu chuyện đại chiến được trần thuật lại từ người kể chuyện xưng “tôi” có
biệt danh ở nhà là “lười”. Ở nhà, “tôi” đảm nhận cho cá, mèo, chó của anh trai ăn.
Rồi anh rủ “tôi” đi xem phim Xích Bích với ba người bạn gái khác. Sau đó, “tôi” đi
du học ở Thụy Điển. Anh trai lấy chị Hường – người phụ nữ có máy chạy tim trong
lồng ngực vì nếu anh không, ai lấy chị ấy.
Không thể kết thúc qua lời kể của nhân vật “tôi”, bức tranh của một gia đình
rạn vỡ về tình cảm và đạo đức được khắc họa một cách sinh động. Chỉ vì nhà có bọ
chét mà không ai dám dọn. Họ quan tâm đến bọ chét nhiều hơn là bệnh tật của
người mẹ già nay đã phó thác cho người giúp việc. Bán nhà, mỗi người một nơi,
người cô đơn, người phát điên là hậu quả tất yếu của sự đứt đoạn sợi dây liên kết
gia đình.Vợ chồng, tiền bạc và sự nguội lạnh tình người tự nó kéo con người ra xa
nhau, tự đưa con người vào bi kịch.
Thu xếp cuối đời là đối thoại giữa “tôi” và Hoa trong phòng xông hơi về
những thường nhật trong cuộc sống bộn bề. Không còn những đoạn độc thoại nội
tâm kéo dài, không còn những tâm sự thiết tha, da diết mà không kém phần chua
xót, tất cả bức tranh cuộc sống hiện lên rõ ràng như một cuốn phim thời sự. Trong 4
truyện ngắn ở tập Thành phố đi vắng, không còn dạng người trần thuật xưng “tôi”
tự kể về mình với những trở trăn, những yêu thương, những ước ao, mong đợi, hụt
hẫng, tuyệt vọng, đớn đau. Người trần thuật – hiện diện là nhân vật tham gia vào
câu chuyện chỉ đóng vai trò đồng đẳng với những nhân vật khác. Trần thuật về
mình, về gia đình mình nhưng chủ yếu đi vào sự kiện, biến cố mà ít bày tỏ suy nghĩ
và cảm xúc cá nhân, nếu có bảy tỏ thì cũng không sâu sắc. Người kể chuyện lúc này
góp phần xây dựng chân dung của đời sống đô thị phồn hoa, lạnh lẽo, nhạt nhẽo
tình người, thậm chí trơ lì cảm xúc.
21
Như vậy, phân tích 28 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ được trần thuật từ
người kể chuyện ngôi thứ nhất, có thể nhận thấy sự khác biệt trong người kể chuyện
xưng “tôi” ở 45 truyện đầu và 16 truyện sau. Người kể chuyện đã làm tốt vai trò của
mình trong việc kể chuyện với từng bối cảnh khác nhau.
1.1.3. Ngƣời kể chuyện tiềm ẩn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Khác với người kể chuyện là một nhân vật trong truyện, xuất hiện trực tiếp,
được nói năng, chia sẻ mọi vấn đề thuộc về mình, người kể chuyện ngôi thứ ba –
người kể chuyện tiềm ẩn chỉ thực hiện hành vi kể lại. Lúc này, người kể chuyện ẩn
đi, đứng đằng sau nhân vật và các sự kiện để kể, bằng cách đẩy nhân vật ra trước
độc giả. Vì thế, trước mắt độc giả, không thấy người nói, chỉ thấy hiện thực được
trình bày.
Khảo sát 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, kết quả cho thấy: người kể
chuyện tiềm ẩn chiếm số lượng tương đương với người kể chuyện xưng “tôi” (33/61
truyện, chiếm 54%).
Ở 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ, truyện kể có người kể chuyện
tiềm ẩn gồm 21/45 truyện (chiếm 46,6%). Trong 21 truyện ngắn này, người kể
chuyện thường mượn điểm nhìn nhân vật để kể chuyện. Chính vì thế, người kể
chuyện tiềm ẩn đã hòa vào nhân vật khiến mỗi trang văn dường như là lời của nhân vật
đang tự kể về mình. Bằng sự nhạy cảm của một ngòi bút nữ có thế mạnh rất riêng khi
viết về những câu chuyện liên quan đến nữ giới, Nguyễn Thị Thu Huệ “thất thường,
lóe sáng và tý chút đỏng đảnh” ấy đã đưa người đọc vào một đời sống hiện thực giàu
cảm xúc, nghĩ suy của người phụ nữ về tình yêu, về hôn nhân, hạnh phúc.
“Đừng đi anh.Hãy tin em.Hãy tha lỗi cho em. Em yêu anh!” Lời của người
con gái tên Hoài với trạng thái đang nức nở, ánh nước loang loáng hiện ra trên
khuôn mặt có những nét rất đẹp nhưng thoáng vẻ nhầu nhò đã mở đầu truyện Xin
hãy tin em rất tự nhiên mà xúc động. Người kể chuyện ngôi thứ ba đã mượn điểm
nhìn của Hoài để kể về đời sống và tính cách của cô ấy. Hoài – một cô sinh viên
vốn cá tính “uống hàng lít rượu trắng không say, hút thuốc lào không mệt mỏi, nhảy
đầm thâu đêm và đánh đu với những người đàn ông nào chịu được cô”. Hoài chỉ
thay đổi khi tình yêu với Thắng – chàng kỹ sư vô tuyến điện cứ lớn dần. Trong lần
đầu về ra mắt gia đình Thắng đúng dịp sinh nhật mẹ anh, Hoài đã bộc lộ bản chất
thớt-trơ vốn đã giấu kỹ hơn một năm nay. Tình yêu tan vỡ. Hoài cố níu kéo. Nhưng
22
anh không tin cô, vì “Tôi định lấy vợ chứ không định lấy…đĩ”. Rốt cuộc, cô lại trở
về bên chén rượu.
Cũng tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể, người kể chuyện tiềm ẩn trong
Phù thủy đã dễ dàng thâm nhập vào đời sống của một cô bé mười hai tuổi. Cô bé
sống trong một gia đình bố mẹ sắp ly hôn, ngày nào cũng cãi nhau và đánh mắng
con. Trong mắt họ, cô là yêu tinh, là con quái thai. Tất cả mọi suy nghĩ của cô bé về
bố mẹ thay đổi khi ban đêm, cô phát hiện ra họ ngủ với nhau êm đềm. Họ chính là
phù thủy.
Hiện rõ trên trang truyện không còn là cái tôi đang kể chuyện, Nguyễn Thị
Thu Huệ đã trao quyền cho nhân vật để nhân vật dường như tự kể, tự sẻ chia. Người
kể chuyện đã ẩn tàng sau trang viết, để trong Cầu thang, Trân như đang trải lòng về
cuộc sống mỏi mệt, xô bồ. Ngày nào cô cũng cố leo lên sáu mươi tám bậc cầu thang
để đến với người yêu, leo đủ bảy tầng gác để tới phòng làm việc. Tâm lý của cô chỉ
hồi sinh khi anh bạn đồng nghiệp đặt một chiếc hôn lên môi cô.
Với lối trần thuật từ người kể chuyện ngôi thứ ba, những dòng chảy cảm xúc
của nhân vật vẫn được tuôn chảy dạt dào trên câu chữ. Đây là thế mạnh của Nguyễn
Thị Thu Huệ khi chị viết về những mảnh đời, những người phụ nữ say đắm hay
tuyệt vọng trong tình yêu, đổ vỡ trong cuộc sống gia đình.
Sao – nhân vật chính trong truyện Giai nhân được khắc họa dường như bằng
chính lời của cô. Cô sống trong một không gian nhộn nhạo, nơi là đám tang khói
hương nghi ngút, nơi là quán bún chả với khói thịt mỡ bốc lên. Cô – một người phụ
nữ luôn chiến thắng trong những cuộc tình, thích tự do, giờ đây mới thấm thía cái
cảm giác cô đơn của một giai nhân không còn được ai để ý tới. Cô nức lên: “Khốn
nạn. Sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tôi thì cô đơn thế này. Ai đến với tôi
bây giờ. Chẳng lẽ. Cuộc đời của tôi. Một người đàn bà 38 tuổi thế này mãi
sao?”.Trong những dòng độc thoại nội tâm này, người kể chuyện tiềm ẩn đã im bặt, để
không gian nghệ thuật trong truyện là không gian riêng cái tôi đang cảm xúc tột độ.
Không còn bóng dáng người kể chuyện trong những dòng văn miêu tả suy
nghĩ của nhân vật một cách trực tiếp và sâu sắc như thế này: “Mại nghĩ - Ai lại có
thể ngủ với một người đàn ông chỉ gặp nhau loáng thoáng trong những cuộc họp
công ty. Ngày mai, ngày kia và sau này nữa, mỗi lần gặp Hưng, mình sẽ thế nào?
Và nhỡ mình yêu Hưng thì sao?” Cái tôi nội cảm của nhân vật như những con sóng
trào lên, cuộn xuống, khi mạnh mẽ khi bấy yếu, khi sôi nổi nồng nàn, khi dịu dàng
23
trầm lặng. Người kể chuyện tiềm ẩn đã phát huy vai trò khi tạo cảm giác cho người
đọc về một cuộc sống mà ở đó, chính con người không ngại giãi bày, tâm sự, sẻ
chia, như muốn kiếm tìm một sự đồng cảm trong chuỗi bất hạnh của thân phận.
Trong tập Thành phố đi vắng, người kể chuyện ngôi thứ ba đặc biệt chiếm ưu
thế. Trong 16 truyện ngắn có 12 truyện được trần thuật người kể chuyện tiềm ẩn,
chiếm 75%. Nếu như trong 5 tập truyện đầu, người kể chuyện ngôi thứ ba thường
mượn điểm nhìn của nhân vật chính để tự kể về câu chuyện của cá nhân nhân vật ấy
cùng đủ đầy những suy nghĩ phức tạp, những rung động tế vi trong tâm hồn thì
người kể chuyện tiềm ẩn ở 12 truyện mới đây lại mang một khuôn hình khác. Ở đây,
chúng tôi phân chia người kể chuyện trong 12 truyện thành 2 loại: người kể chuyện
tiềm ẩn dựa vào điểm nhìn của nhân vật đẻ kể (Một đời sống khác, Trong lúc ăn
một bát phở gia truyền, Coi như không biết, Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện
này, Chủ nhật được xem phim hoạt hình, Với tay là đến, Của cha của Con
những cành vạn niên thanh, Thành phố đi vắng); người kể chuyện tiềm ẩn dựa
vào điểm nhìn của chính mình (X-Men có mùi trường đua, Sống gửi thác về,
Phòng chiếu phim số 9, Cú mèo và rượu hoa).
Dù cùng sử dụng chung người kể chuyện tiềm ẩn dựa vào điểm nhìn của nhân
vật nhưng ở hai thời điểm sáng tác khác nhau, truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ lại
mang những sắc màu riêng biệt. Không còn những trang viết mà ở đó nhân vật giãi
bày những góc khuất ẩn sâu trong tâm hồn, những rung động thầm kín, những ước
ao bỏng cháy về tình yêu hôn nhân, hạnh phúc. Thay vào đó, người kể chuyện tiềm
ẩn lại mượn điểm nhìn nhân vật để kể về cuộc sống bộn bề, đầy ắp sự kiện, dồn dập
hành động, chằng chịt các mối quan hệ nhưng lại thiếu tình người. Chính bản thân
nhân vật được người kể chuyện đặt điểm nhìn để kể cũng là những con người hiện
đại thiếu sâu sắc trong cuộc sống. Truyện chỉ kể những cơn đau đầu do những giấc
mơ vặt vãnh của Mai (Một đời sống khác), chuyện một cô gái vừa ăn phở vừa
chứng kiến cảnh bát vỡ, rồi sợ hãi một đám thanh niên có vẻ cướp giật mà mấy
ngày sau cô biết trong bọn chúng có kẻ giết người (Trong lúc ăn một bát phở gia
truyền). Một cô gái xa thành phố ba năm, khi quay trở lại, tất cả như đông máu
(Thành phố đi vắng).
Trong tập Thành phố đi vắng, bên cạnh những câu chuyện quá lạnh lùng, vẫn
có những trang viết rưng rưng tình người – tình đời dẫu muôn vàn đắng cay. Người
kể chuyện ngôi thứ ba kể những chuyện đầy xúc động. Của cha của Con những
24
cành vạn niên thanh kể về cuộc sống của hai cha con sau khi mẹ bỏ đi, cha đã
trồng cây vạn niên thanh để giữ cho con có một khoảng trời riêng thoáng đãng,
cũng là giữ cho tâm hồn con khỏi hoen ố vì những cảnh người lớn bên nhà hàng
xóm đêm đêm. Nhưng mọi cố gắng của cha đều thất bại khi con gái đã làm chuyện
ấy với người hàng xóm khi cha đi chở khách, bị chém trọng thương, liệt nửa người
vĩnh viễn.
Vẫn viết về tình yêu nhưng tình yêu trong tập truyện Thành phố đi vắng cay
đắng hơn, chát chúa hơn. Người kể chuyện không còn kể những lời lãng mạn, trong
sáng, những ước mơ thanh khiết, những rung động tế vi, những hi vọng về hạnh
phúc với cuộc sống màu hồng như trong 5 tập truyện đầu. Đến truyện Coi như
không biết, tình yêu là sự éo le của anh tiến sỹ với cô gái điếm, cô chết còn anh thì
hóa điên. Chúng ta cần suy nghĩ về chuyện này – mượn câu nói của nhân vật làm
tựa đề của truyện, tác phẩm kể về mối tình không hôn thú của hai người sau tám
năm. Thỉnh thoảng, Hân bỏ đi rồi lại trở về bên anh. Lần này, đã một tháng, anh
chưa về. Cô ra đi vĩnh viễn vì anh không còn là anh nữa.
Khắc họa tâm trạng con người trong những hoàn cảnh éo le luôn là thế mạnh
của Nguyễn Thị Thu Huệ. Người kể chuyện tiềm ẩn đã nhập vào nhân vật Đại
Dương – một chàng nghiện để kể về chuyến thăm quê cuối cùng trước khi vào trại.
Tất cả những kỷ niệm của tuổi thơ, về cha mẹ, về biển cả bao la ùa về trong tâm trí,
khơi gợi trong con bao nhớ nhung tiếc nuối lẫn đớn đau trên hành trình đến với
những tháng ngày khủng khiếp nhất của cuộc đời. Cha mẹ tin con được đi du học,
rồi sẽ trở về nên được hồi sinh. Còn con, trong trại, quá khứ và ước mơ tưởng như
chỉ cần với tay là đến.
Nếu như 8 truyện được trần thuật từ người kể chuyện ngôi thứ ba sử dụng
điểm nhìn của nhân vật để kể đã gieo vào lòng người đọc những câu chuyện của cá
nhân xúc động, về tình yêu và đời sống, về mỗi mảnh đời có những bất hạnh riêng
thì 4 truyện có người kể chuyện tiềm ẩn sử dụng điểm nhìn của chính mình lại
mang đến cảm giác lạnh lùng, thậm chí là ghê rợn. X-Men có mùi trường đua kể về
mối tình của một cô cave với X-men – vừa nuôi chó, vừa giết người. Kẻ giết người
nói đến cái chết, đến chuyện giết nhẹ như không: “Anh giết đấy”. Cũng nói đến
chuyện giết người, Phòng chiếu phim số 9 gây cảm giác lạnh buốt sống lưng như
đọc truyện trinh thám, pha chút ma quái. Một đôi trai gái yêu nhau đi xem phim rồi
đột nhiên chàng trai bị đâm chết bởi một nhát dao, cô gái biến mất.
25
Cú mèo và rượu hoa cũng do người kể chuyện tiềm ẩn kể theo điểm nhìn của
chính mình. Truyện được kể rất phức tạp, trải dài trên một biên độ thời gian rộng, từ
lúc ông Nhân còn trẻ đến lúc cuối đời. Để hoàn thành câu chuyện dài và nhiều sự
kiện này, người kể chuyện phải sử dụng điểm nhìn của chính mình mới thông tỏ
mọi sự việc và trần thuật một cách khách quan. Tương tự, trong câu chuyện về gia
đình Tân – Luyến (Sống gửi thác về), người kể chuyện đã soi chiếu vào mọi ngóc
ngách trong đời sống thường ngày của nhân vật để khắc họa một bức tranh cuộc
sống nhàm chán, vô vị, u tối.
Như vậy, qua việc phân tích vấn đề người kể chuyện trong truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ, có thể khẳng định nhà văn nữ đã rất linh hoạt khi kể chuyện.
Người kể chuyện hiện diện và người kể chuyện tiềm ẩn đều được xây dựng phù hợp
với mỗi cốt truyện, kết cấu, nhân vật. Do vậy, từ mối tình sáng trong của tuổi trẻ
đến những tình yêu éo le của những người đã có quá nhiều trải nghiệm, từ những
tâm sự rất bình dị, bình thường đến những chuyện khủng khiếp nhất như giết người
đều được trần thuật sinh động. Những luồng cảm xúc của độc giả khi hạnh phúc, ấm
áp, khi đau khổ, sợ hãi, ghê lạnh...đều đến nhờ cách kể của tác giả. Người kể
chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã thực sự đem lại cho tác phẩm
một cái nhìn và sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp hay lập trường xã
hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con người và đời sống trong
tác phẩm thêm phong phú, nhiều bối cảnh.
1.2.Vấn đề điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
1.2.1.Khái lƣợc về điểm nhìn trong tác phẩm tự sự
Điểm nhìn đóng vai trò rất quan trọng trong sáng tác văn học bởi đó chính là
vị trí, là kỹ thuật chọn chỗ đứng, là xuất phát điểm để nhà văn quan sát hiện thực.
Đây là một khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt trong văn học Anh, Mỹ.
Theo M.H.Abrahams, điểm nhìn chỉ ra “cách thức mà một câu chuyện được kể đến
– một hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả
được giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành động. Sự sắp đặt và những
sự kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu” [14, 44].
Bakhtin khi bàn về tiểu thuyết Doxtoiepxki đã xem điểm nhìn như là “cái lập
trường mà xuất phát từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được miêu tả hay sự
kiện được thông báo” [7].
“Không thể có trần thuật nếu không có điểm nhìn bởi nó thể hiện sự chú ý
quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của
26
sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một
cái nhìn mới đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ sự thay đổi
điểm nhìn” [3, 141].
Trong tiến trình lịch sử văn học, tự sự truyền thống đa số được triển khai từ
cái nhìn tương đối ổn định, cái nhìn “biết trước”. Do vậy, hiện thực trong tác phẩm
là hiện thực “hoàn kết”. Cấu trúc trần thuật như vậy nhiều khi tạo ra cái nhìn áp đặt,
thiếu dân chủ trong mối quan hệ nhà văn và bạn đọc.
Văn học Việt Nam sau năm 1975, trần thuật đã có nhiều thay đổi. Ý thức đối
thoại gia tăng. Tác phẩm văn học tồn tại nhiều tiếng nói, trong đó có tiếng nói của
tác giả, tiếng nói của nhân vật, tiếng nói bên trong, tiếng nói bên ngoài, thậm chí,
tạo cơ hội cho người đọc lên tiếng. Ý thức tạo dựng điểm nhìn, dịch chuyển điểm
nhìn, tạo dựng mối tương tác giữa điểm nhìn của nhân vật và điểm nhìn tác giả...đã
mở ra sự phám phá bất ngờ, lý thú về con người.
Đặc biệt, từ sau đổi mới, điểm nhìn được đa dạng hóa một cách mạnh mẽ. Sức
hấp dẫn của cách tổ chức điểm nhìn nhiều khi là “khối vuông rubic” của hiện thực,
của lòng người đọc phơi lộ nhiều chiều kích. Nó thể hiện nhu cầu khám phá bản
chất cuộc sống một cách sâu sắc, thận trọng và nhu cầu bình đẳng giữa nhà văn và
độc giả.
Về việc phân loại điểm nhìn trần thuật, dựa trên các khía cạnh khác nhau, mỗi
nhà nghiên cứu lại có sự phân chia khác biệt. Theo GS.Phương Lựu trong cuốn Lý
luận văn học, điểm nhìn được phân chia dựa trên hai bình diện:
*Xét về bình diện trường nhìn nhân vật: Trần thuật được chia thành hai loại:
trường nhình tác giả và trường nhìn nhân vật. Trong đó, trường nhìn tác giả là người
trần thuật đứng ngoài câu chuyện để quan sát đối tượng. Kiểu trần thuật này mang
tính khách quan tối đa cho lời trần thuật. Trường nhìn nhân vật: Người trần thuật
nhìn sự vật, hiện tượng theo quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trần thuật
theo điểm nhìn nhân vật mang đậm sắc thái tâm lý, chất trữ tình hoặc châm biếm do
sự chi phối bởi địa vị, hiểu biết, lập trường của nhân vật.
*Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong và điểm
nhìn bên ngoài:
-Điểm nhìn bên trong: Người trần thuật nhìn thấy đối tượng qua lăng kính của
một tâm trạng cụ thể, dễ dàng tái hiện diễn biến trong tâm hồn nhân vật.
-Điểm nhìn bên ngoài: Chủ thể trần thuật giữ cái nhìn khách quan từ vị trí bên
ngoài có khoảng cách nhất định với đối tượng trần thuật.
27
GS.Trần Đình Sử thì chia điểm nhìn trần thuật thành 5 loại: Điểm nhìn của
người trần thuật, tác giả hay của nhân vật trần thuật; điểm nhìn không gian, thời
gian; Điểm nhìn bên trong, bên ngoài; điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc; điểm
nhìn ngôn từ.
Genette phân chia thành 3 loại điểm nhìn: Điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên
ngoài, điểm nhìn toàn tri.
Tất cả các sự phân biệt về điểm nhìn trần thuật hoàn toàn mang tính tương đối.
Trong nghệ thuật kể chuyện, có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu
đến cuối, có những tác phẩm phối hợp nhiều kiểu điểm nhìn, luân chuyển các kiểu
điểm nhìn. Chính sự kết hợp và dịch chuyển các loại điểm nhìn đã mở rộng chiều
kích của hiện thực, khắc họa rõ nét những mảng màu của đời sống và những diễn
biến trong tâm hồn con người. Trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi
sẽ phân tích điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài, sự dịch chuyển hai loại
điểm nhìn này để thấy được nét độc đáo riêng ở những trang viết đậm chất nữ tính
và cũng rất thức thời.
1.2.2.Điểm nhìn bên trong trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Theo lý thuyết tự sự học, truyện có điểm nhìn bên trong khi người kể chuyện
là nhân vật ngay trong câu chuyện hoặc người kể chuyện không phải là nhân vật
trong câu chuyện nhưng người kể chuyện tiềm ẩn ấy lại tựa vào điểm nhìn của nhân
vật để kể. Trong văn học hiện đại, điểm nhìn bên trong chiếm đa số. Đây là hệ quả
của sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật, khi văn học vốn từ con người tập thể
chuyển thành con người cá thể, quan tâm nhiều hơn đến chủ thể sáng tạo và sự sống
cá nhân.
Vốn nhạy cảm và bắt kịp rất nhanh với tinh thần đổi mới, Nguyễn Thị Thu
Huệ đã viết truyện với điểm nhìn bên trong là chủ yếu. Trong 61 truyện ngắn của
chị thì có 57 truyện được trần thuật từ điểm nhìn bên trong (chiếm 93,4%). Điều
này chứng tỏ nỗ lực của nhà văn khi cố gắng đưa thế giới nội tâm của nhân vật lên
trang viết.
Điểm nhìn bên trong bộc lộ rõ nhất khi người kể chuyện xưng “tôi” tự kể về
câu chuyện của cá nhân mình. Cũng như Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu...Nguyễn Thị Thu Huệ rất “mạnh” khi viết về cái
tôi của người phụ nữ luôn chân thành, đắm đuối trong tình yêu. Cát đợi hoàn toàn
được bao bọc bởi điểm nhìn của người con gái đã trao cái quý nhất của đời mình
28
cho người con trai khi đang ở tuổi học trò. Tiếp đó, cô lại đến với tình yêu mới. Từ
điểm nhìn bên trong nhân vật “tôi”, những bước chân bước đi trên cát, cái ánh mắt
tìm kiếm và chờ đợi dấu vết của tình yêu trên cát ngày hôm qua hiện rõ trên từng
câu chữ. “Chiếc giường trong đêm tân hôn” – “tôi hồi hộp chờ mong sẽ thấy cái
hõm nơi tôi nằm xuống”, nơi “tôi” dự định sẽ trồng một cây dương kỷ niệm đã bị
sóng cuốn trôi. “Tôi” rơi vào trạng thái cô đơn và nghĩ mình hạnh phúc vì “yêu và
được yêu”. Bi kịch lần thứ hai lại đến, vì “Đêm nay. Tôi sẽ sửa lại ban thờ. Một ban
thờ không có bản liên khúc đánh số. Một ban thờ mới. Thờ anh”.
Bằng điểm nhìn bên trong, Còn lại một vầng trăng đem lại cho hai đọc trên
trường cảm xúc của nhân vật xưng “tôi” – một cô gái trẻ vừa đắm chìm trong tình
yêu, vừa đau đớn khi mất cha. “Bố ra đi trong sự đau khổ và tuyệt vọng của mẹ.
Còn tôi, tôi không khóc. Tôi thấy lòng trống rỗng. 20 tuổi nhưng đây là lần đầu tiên
tôi chứng kiến cái chết”.
Lời kể của nhân vật là lời tâm sự của chính cá nhân, là lời độc thoại nội tâm tự
mình nói với mình. Chính những lời thể hiện nội tâm của nhân vật với cách miêu tả
đặc trưng đã bộc lộ rõ điểm nhìn bên trong.
Xét trên bình diện ngôn ngữ, những hành vi bên trong của nhân vật như: cảm
thấy, thấy, hiểu, biết… hay các trạng thái nội tâm xuất hiện với tần số cao trong tác
phẩm.
Trong Cầu thang, khi điểm nhìn của người kể chuyện đã nhập vào điểm nhìn
của nhân vật Trân, câu chuyện về cô được kể bởi chính nhân vật này. Trong truyện,
xuất hiện dày đặc những động từ cảm – nghĩ: “Còn nhớ…/Họ đâu biết là cô được
cảm thấy mình là mình nhất khi đi ở những bậc cầu thang./ Lúc Trân tưởng anh ăn
cơm thì đến bậc 81 cầu thang gỗ, Trân nghe thấy anh hát vống lên một bài gì đó…/
Cô lại thấy ở anh điều gì đó để chạy xuống 68 bậc thang và mong chờ ngày mai”.
Không chỉ sử dụng các động từ chỉ cảm nghĩ, truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ
được trần thuật từ điểm nhìn bên trong còn mô tả trực tiếp những hành vi hay trạng
thái bên trong của nhân vật. Ví dụ: “Trân rùng mình, nhìn sang người đàn ông.
Chợt thấy gần vô cùng mà cũng xa quá. Môi cô bỗng khô ran, chỉ muốn nứt ra vì
bỏng. Cô thấy nóng toàn thân. Rồi cô chợt chùng người xuống khi đôi môi người
đàn ông đặt lên môi cô, cũng nóng bỏng và cuống quít”.
Những câu văn miêu tả trực tiếp nội tâm của nhân vật luôn giúp người đọc
hiểu tường tận những cảm xúc, cảm giác mà nhân vật đang trải qua. Cách miêu tả
29
trạng thái nội tâm như thế này của truyện được kể theo điểm nhìn bên trong là xuất
phát từ điểm nhìn cận cảnh, giúp người đọc thấy được thế giới tâm trạng của nhân
vật một cách cụ thể, trực tiếp như đang nhìn được nhìn trực tiếp chứ không phải như
đang tả lại, thuật lại. Nói cách khác, lời văn miêu tả thế giới nội tâm nhân vật đã bộc
lộ trực tiếp cái thế giới bên trong ấy của nhân vật.
Trong 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ, toàn bộ 45 truyện đều được
trần thuật theo điểm nhìn bên trong. Truyện của chị trong giai đoạn này không thiên
về kể sự kiện, hành động, người kể vừa kể vừa tả mà lại thiên về tả nhiều hơn. Sự
kiện chỉ là cái cớ để nhân vật bộ lộ suy nghĩ, cảm xúc cá nhân. Các hình thức bình
luận đánh giá luôn đi kèm khiến cho lời văn kể dài, tỉ mỉ, chi tiết mà lại viết ít sự
kiện được miêu tả. Điều này nhằm khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật.
Phù thủy là truyện ngắn được kể từ điểm nhìn bên trong của nhân vật “nó” –
một cô bé mới 12 tuổi. Bố mẹ đang lo thủ tục ly hôn, ban ngày thì chửi nhau thậm
tệ, nhưng một đêm, nó phát hiện mẹ ngủ yên bình bên bố không một mảnh vải che
thân. Sự kiện này là tiêu điểm để kéo theo một loạt suy nghĩ của nó: “Không thể
hiểu nổi. Nó quay về giường và nhìn thấy bên chiếc gối của nó, là gối của mẹ. Ngay
ngắn và đúng vị trí như thể nó ở đấy bao nhiêu năm nay. Người lớn, hình như họ có
quyền mình làm bất cứ một việc gì ngoài những thứ họ quy định thì đều phải trả lời
về nó một cách rành mạch, không thì ăn đòn ngay”.
Nguyễn Thị Thu Huệ đã dành ba trang viết để khắc họa suy nghĩ của con bé
về cha mẹ nó, về người lớn, từ khi nó nhận định: “Họ chính là phù thủy”. Đầu óc
non nớt của con bé quá bất ngờ khi phát hiện ra những điều “kì dị” của cuộc sống
đối với nó. “Bỗng nhiên nó thấy cuộc sống này thật bí ẩn. Con người như những
bóng ma mà không hiểu ngày hay đêm họ hiện nguyên hình. Không thể hiểu nổi.
Người lớn. Đấy là cả một thế giới. Thế giới của phù thủy”.
Những suy nghĩ của nhân vật trải dài trên trang truyện. Tâm hồn con người –
từ nhân vật già như người bác trong Nƣớc mắt đàn ông, những người phụ nữ đã
từng trải qua va vấp trong tình đời như người mẹ trong Hậu thiên đường đến
những cô gái tuổi đời còn rất trẻ như trong Rượu cúc, Biển ấm, Đôi giày đỏ...đều
được Nguyễn Thị Thu Huệ khắc họa một cách phong phú và tinh tế. Điểm nhìn bên
trong là phương thức quan trọng giúp nhà văn khơi mở và tạo tác những thế giới cá
nhân lắm suy tư, đa cảm.
Đến Thành phố đi vắng, 16 truyện thì có 12 truyện được trần thuật từ điểm
nhìn bên trong. Cũng là những cái tôi tự kể chuyện hoặc người kể chuyện tựa vào
30
điểm nhìn của nhân vật để kể nhưng tác phẩm lại thiên về kể nhiều hơn. Sự kiện và
hành động cũng dày hơn so với năm tập truyện đầu.
Một đời sống khác được kể từ điểm nhìn của nhân vật Mai. Mai hay bị những
giấc mơ hành hạ. Cô kể lại một giấc mơ về bố: “Đêm qua. Rõ ràng là bố cô đi cùng
cô, trên một con đường nhỏ, hai bên là những ruộng lúa chín, có ruộng đã gặt, ai
đó đã đốt những bụi rơm nên khói xông cay mắt. Bố vừa đi, nghiêng ngả dáng gầy,
như người đi trên dây trong rạp xiếc, để không rơi xuống ruộng. Mai lại đi cạnh bố,
chân đạp lên những thân rạ cứng dưới ruộng lúa đã cắt. Bố cười. Nói rất nhiều.
Mai cũng vậy. Có nhiều người quen đi dưới ruộng cùng Mai. Cũng có người đi trên
đường như bố”. Đoạn văn ngắn có mười câu (tính theo dấu hiệu là mỗi câu kết thúc
bằng một dấu chấm) thì có chín hành động. Lời văn theo điểm nhìn bên trong hoàn
toàn là lời miêu tả hành động, tuyệt nhiên “im bặt” cảm xúc.
Với điểm nhìn bên trong, trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ,
sự kiện được trần thuật có khi là trọng tâm của lời kể. Thành phố đi vắng được kể
theo điểm nhìn bên trong của cô gái xa thành phố ba năm, khi trở lại, tất cả đã đổi
thay. Tình người biến mất, thành phố xô bồ, không gian lạnh lẽo, con người như
những cỗ máy di động. Lời văn được miêu tả theo điểm nhìn bên trong cho thấy
cảm giác của nhân vật nhưng luôn đi kèm với đó là một hiện thực – một hành động
rất phũ phàng của một kẻ khác: “Cô chồm người, muốn bay qua khung cửa. Người
nóng bừng rồi run rẩy vì lạnh. Người đàn bà ôm con chó đi trên vỉa hè, lúc ẩn lúc
hiện cạnh những gốc cây to, đen thẫm. Rồi biến mất”. Lúc này, sự kiện thậm chí
còn gây ấn tượng mạnh với người đọc hơn là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật chính.
Sự thay đổi trong tính chất điểm nhìn từ 5 tập truyện đầu đến tập truyện sau
(Thành phố đi vắng) phản ánh đúng mục đích trần thuật của nhà văn. Sau một thời
gian khá dài viết về giới mình, về những sự lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống, lấy tâm
trạng, tâm hồn của con người là tâm điểm trần thuật, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xoay
sang tô đậm một trạng thái của đời sống hiện đại hôm nay: con người hoạt động
nhiều, sống gấp hơn nhưng cạn kiệt tình người. Chỉ còn trên trang viết là lớp vỏ của
sự kiện xô bồ, trống rỗng.
1.2.3.Điểm nhìn bên ngoài trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Không đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật, không nhằm đưa lên trang
giấy những câu văn chứa đựng những nụ cười hạnh phúc hay nước mắt đắng cay,
khơi gợi trong lòng người đọc cả tình thương, tình yêu lẫn giận hờn, trách móc,
điểm nhìn bên ngoài chỉ cốt đưa thông tin nhằm phơi bày trạng thái đời sống, xã hội.
31
Với mục đích ấy, điểm nhìn bên ngoài luôn tạo khoảng cách giữa người trần
thuật và nhân vật. Các nhân vật, sự kiện hiện lên với vẻ bề ngoài mà không có sự
phân tích nội tâm bên trong. Bản chất, suy nghĩ của con người chỉ được hiện diện
qua lời nói, hành động, cử chỉ trong các mối quan hệ.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Thị Thu Huệ lựa chọn điểm nhìn trần
thuật bên ngoài cho 4 truyện ngắn (X-Men có mùi trường đua, Sống gửi thác về,
Phòng chiếu phim số 9, Cú mèo và rượu hoa) trong tập Thành phố đi vắng.
Thành phố đi vắng là một bản tường thuật về đời sống hiện đại. Thay vì khắc họa
những chân dung con người trên hành trình kiếm tìm tình yêu và hạnh phúc, tập
truyện là những ưu tư về tình người ngày một cạn kiệt, thậm chí biến mất trong đời
sống thị thành. Tình người băng giá, sự vô cảm, nỗi bất an và cái chết trở thành
những ám ảnh sâu sắc. Với lối viết khách quan, trung tính, tiết chế cảm cảm xúc tối
đa, nhà văn chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là trần thuật trung thành, không tham dự,
không mách nước người đọc. Bởi vậy, lựa chọn điểm nhìn bên ngoài để trần thuật
hoàn toàn phù hợp với cách viết đảm bảo tính khách quan của sự kiện, từ đó, thể
hiện sự trơ lì của xã hội.
Với điểm nhìn bên ngoài, tác giả giống một nhà quay phim, hướng ống kính
vào những mảng đời sống khác nhau, cặm cụi, tỉ mỉ ghi hình. Mỗi truyện ngắn đưa
người đọc tiếp cận gần nhất với đời sống đô thị cùng những vấn đề phức tạp của nó.
X-men có mùi trường đua là sự song hành của cái ác và sự tầm thường. Với
bối cảnh miền biển, cô cave đặc biệt yêu anh mê trò đua chó – tên là X-men. Hơn
bốn trang mở đầu truyện ngắn, tác giả trần thuật lại hoàn toàn một cảnh đua chó. X-
men và nàng xuất hiện khi say sưa với đàn chó đua nhau chạy. Con người trong
không gian này là nhân vật phụ, chó là nhân vật chính, là tâm điểm của đám đông,
là tất cả sự hy vọng và niềm say mê của con người.
Kể về nàng – một cô cave, điểm nhìn bên ngoài không soi chiếu tâm hồn, vì
thực chất nàng là người sống bản năng và buông thả, suy nghĩ đơn giản và chỉ biết
hưởng thụ cho ngày hôm nay: “Nàng cao 1m7, tóc suôn dài, đọc sách tâm lý tình
cảm nhiều, đọc báo hàng ngày, xem ti vi các chương trình thời sự, phóng sự, nàng
có giá riêng. Khóc than hay tạo dựng bất cứ một lý lịch ái ố mĩ miều nào, giá cũng
chẳng tăng”. Nàng về ở với X-Men vì nàng nghĩ anh “sạch sẽ”, vì “mùi của anh
giống mùi sâm” (trong khi X-Men tự nhận anh sặc mùi chó). Sống với X-Men, nàng
chỉ biết X-Men là huấn luyện viên đua chó, nàng mê “mùi hương cà phê cháy đậm
32
đặc” của anh mà không biết rằng: X-Men là kẻ giết người. Chuyện giết người được
nhắc đến – chưa bao giờ lại nhẹ nhàng và thản nhiên đến vậy. Vụ giết người thứ
nhất là khi xuất hiện một cái xác phụ nữ khỏa thân trôi trên biển. Nàng sợ hãi, còn
“X-Men nhìn xoáy vào nàng, thì thầm: Anh giết đấy”. Lời tự thú dửng dưng tột độ
này không khiến nàng tin. Đến lần thứ hai, X-Men đã giết người yêu cũ của nàng vì
hắn đòi giết nàng. X-Men thừa nhận: “Anh cũng giết rồi.
Có nghĩa không phải anh giết một lần mà là nhiều lần?
Không nhớ nhiều thế nào. Mà này, anh phải làm gì, hay nói thế nào, em mới
chịu tin, là anh đã giết cô gái trôi ngoài biển ấy nhỉ?”
Truyện kết thúc bằng một đối thoại ngắn của hai nhân vật. Một bên nghi hoặc,
một bên cố chứng minh là mình đã giết người. Điểm nhìn bên ngoài giúp việc trần
thuật lại đối thoại một cách quá lạnh lùng. Nói đến cái chết, đến tội ác, đến việc kết
liễu một sinh mạng con người mà nhẹ như không, như bông đùa, khiến người đọc
“lạnh sống lưng”. Truyện ám ảnh vì đem lại cảm giác ai cũng có nguy cơ thành nạn
nhân của cái ác.
Cũng viết về cái chết, về một vụ giết người, Phòng chiếu phim số 9 còn gây
cảm giác ớn lạnh, rùng rợn, sợ hãi khi có những chi tiết kinh dị, ma quái. Điểm nhìn
bên ngoài đem tới một lối kể lạnh tanh, không cảm xúc. Không miêu tả tâm trạng,
lời văn hoàn toàn chỉ miêu tả bề ngoài và hành động của nhân vật. Một vụ giết
người trực tiếp, một xác chết vừa bị giết, một hồn ma quẩn quanh, một người phụ
nữ hóa điên, một ông chủ lao đầu vào xe con trai mà chết...Điểm nhìn bên ngoài
giúp người kể chuyện làm một việc duy nhất là trần thuật lại chi tiết, sự kiện, ngoài
ra, không mảy may miêu tả cảm xúc cá nhân. Truyện kết thúc, vẫn đọng lại trong
lòng người đọc câu hỏi về hung thủ đã giết chàng trai, về vai trò của hai ông bà già
với ánh mắt tối sâu hun hút. Tất cả diễn ra như một cuốn phim sống động mà điểm
nhìn bên ngoài đã trao cho người kể chuyện quyền năng được tỏ tường mọi việc ở
một góc quan sát nào đó và chỉ kể lại câu chuyện ở một phần nổi nào đó của một
tảng băng chìm.
Trong xã hội hiện đại, con người nhiều khi sống như cái máy cũ mòn, ngày
này lặp lại ngày kia nhàm chán. Sống gửi thác về là chuyện của gia đình nhà Tân –
Luyến với thằng con trai Thái Dương. Cuộc sống của gia đình này trôi theo vòng
quay giống hệt nhau. Biến động lớn nhất là Luyến chết vì ung thư gan. Cái chết của
một con người vốn sinh ra làm ngọn lửa giữ ấm cho gia đình không ai lường trước
33
được như một điểm thắt trên chiếc đồng hồ cát để rồi mọi thứ hoàn toàn đảo lộn
cuộc sống của “hai thằng đàn ông trong nhà” – một lớn một bé mà nếu chỉ nghe
cách xưng hô thì không ai biết ai là cha, ai là con. Một sự thiếu vắng đến tội nghiệp,
cùng với ảnh hưởng của cái văn minh từ chiếc ti vi, máy tính mà ông ngoại mang về
đã làm con người sống như những cỗ máy vô tri. Hành động bản năng, không hề
suy nghĩ, không cảm xúc, con người dật dờ như những cái bóng. Con người cá nhân
ở đây, đến cái “tôi”, cái “cá thể” cũng không tồn tại. Trang truyện chỉ còn là sự
sống của những thân xác vô cảm. Điểm nhìn bên ngoài trong truyện ngắn đã góp
phần khắc họa chân dung đời sống nhạt nhòa.
Bằng điểm nhìn bên ngoài, truyện Cú mèo và rượu hoa đem đến cho người
đọc một câu chuyện nhiều bi kịch. Đó là người đàn ông tên Nhân vô tâm bỏ vợ con
đi suốt mười năm để theo đuổi sự nghiệp riêng, người vợ ở nhà hóa dại trong căn
nhà 200 mét vuông bốn bề gió thổi để rồi “lao từ trên lan can lầu hai xuống sân
chết ngay, hai mắt mở trừng trừng không làm sao mà kéo cho lại”. Tái giá với chị
Túy – người đàn bà có chồng chết vì “nhè đất mà phi xuống”, ông Nhân lại bị vợ
chặt đứt gân chân để theo bồ. Hai người em trở về, cô vợ có một mắt “cú mèo”, rồi
cũng chết rũ trên cây. Một cô gái bị điên vì bị xương người rơi trúng đầu. Hàng loạt
những nhân vật, chi tiết, sự kiện được trần thuật lại bằng điểm nhìn bên ngoài, gợi
không khí truyện ma quái. Chính điểm nhìn bên ngoài đã giúp độc giả cảm nhận
được hiệu lực mạnh mẽ của ngôn từ chuyển đổi rất nhanh những chi tiết, những sự
kiện bị nén lại. Truyện ngắn như một file nén (zip), dồn chặt thông tin và chỉ cảm
hết được thông báo của nó khi người đọc giải nén (unzip) bằng cảm thụ của chính
mình. Một thứ không gian mê cung rối rắm và phức hợp, một cảm xúc vô tính, trơ lì,
phập phồng bất an trải trên mỗi trang truyện.
Khác với điểm nhìn bên trong lấy lời nói bên trong để bộc lộ tâm lý, tính cách
của nhân vật, điểm nhìn bên ngoài thường thể hiện ở những lời nói bên ngoài và các
hành động vật lý được kể lại. Sử dụng điểm nhìn bên ngoài không có nghĩa là nhà
văn không am hiểu đời sống nội tâm của nhân vật. Vì nhân vật hành động nhiều
nhưng nghĩ ít, trơ lì, vô cảm nên điểm nhìn bên ngoài là phương tiện đắc lực để tác
giả khắc họa một đời sống hiện đại hào nhoáng nhưng “cái tình trong cỏ cây, vạn
vật, trong không gian, trong chính cái đám đông ngày càng đông lại dần mất. Sự vô
cảm bao trùm. Mức độ tàn nhẫn của con người ngày càng tăng. Người tốt trở nên
34
nhỏ bé, đôi khi cô độc. Dần dần, chính những người tốt cũng phải vô cảm để sống
cho yên” [58].
1.2.4.Sự kết hợp và dịch chuyển điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ
Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách
ứng xử với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các điểm nhìn nghệ thuật. Có điểm
nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn của tác giả, điểm nhìn nhân vật,
điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian...Các loại điểm nhìn này có thể kết hợp
trong cùng một truyện ngắn. Sự dịch chuyển điểm nhìn cho thấy cách tiếp cận hiện
thực đa chiều của nhà văn và sự khéo léo tổ chức truyện của người cầm bút.
Trong 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu huệ, nhiều truyện có sự dịch
chuyển hai loại điểm nhìn bên trong và bên ngoài. Hậu thiên đường là nỗi lòng của
người mẹ bất hạnh từng trải qua cõi thiên đường ở tuổi 24, giờ đây khi con gái 16
tuổi, cũng bước chân vào thiên đường ấy. Trải suốt toàn truyện là suy nghĩ, tâm sự
của người đà bà từng vô tâm mà không để ý đến sự phát triển của con. Điểm nhìn
bên trong đã phơi tỏ những suy nghĩ và cảm xúc chồng xếp trong lòng nhân vật về
sai lầm của tuổi trẻ, về con gái. Lật dở từng trang nhật ký của con, người mẹ mới
cay đắng nhận ra “Con tôi rồi sao giờ tôi mới biết điều đó”. Cho đến khi sự thật
được lộ rõ thì chị mới ngỡ ngàng và đau đớn khôn cùng: “Tôi lặng người nhìn
nó...Xong rồi, con gái tôi thành đàn bà thật rồi”.
Điểm nhìn của nhân vật “tôi” – người kể chuyện – người mẹ đã soi chiếu
những lớp sóng lòng cuộn dâng: “Tôi cảm giác như mình đang bắt đầu đứng ở cuối
con đường, nhìn thấy con mình đang dẫm chân lên những nơi mà tôi đã đi qua,
nhưng không sao ngăn nó lại được”. Dòng lệ chảy trên gò má đã hằn in dấu vết của
thời gian, chị đau đớn tưởng tượng ra cảnh con gái nước mắt nhòe nhoẹt trên mi –
“anh ấy bỏ con rồi”, “con sắp chết rồi mẹ ơi”. Trong tâm lý hoảng loạn, người mẹ
đi tìm con: “Con ơi, con ở đâu? Ai cứu con tôi bây giờ? Ai giúp tôi lôi nó ra khỏi
cái thiên đường địa ngục đó bây giờ? Tôi phải làm gì đây hả trời? Không phải con
đang chập chững ở miệng vực thẳm nữa mà con đang ở trong vực rồi” – người mẹ
kêu lên những tiếng ân hận, vô vọng cuối đời của mình.
Người mẹ chết, điểm nhìn của bên trong của nhân vật “tôi” chấm dứt vai trò,
nhưng truyện còn chưa dừng lại. Điểm nhìn đến cuối truyện đã chuyển sang điểm
nhìn bên ngoài. Lời văn trần thuật lạnh lùng, vô cảm. Điểm nhìn bên ngoài đã hoàn
35
thành nhiệm vụ báo tử của “tôi”, dẫn dắt tiếp câu chuyện của người con gái. Sự dịch
chuyển từ điểm nhìn bên trong sang điểm nhìn bên ngoài đã làm tăng thêm tính bi
kịch của truyện.
Cũng với kiểu dịch chuyển điểm nhìn từ bên trong ra bên ngoài, Người đi tìm
giấc mơ – câu chuyện của người con gái nghèo ôm giấc mơ đổi đời nhờ lấy chồng
giàu nhưng bị tật nguyền, tác giả đã đưa lên trang viết nhưng lời kể của nhân vật
“tôi” từ khi sinh ra đến lúc lấy chồng, bị gia đình chồng đuổi đi vì không sinh được
con, lang thang, thành một người điên trong mắt mọi người. Điểm nhìn bên trong đã
giúp người đọc cảm nhận rõ khát khao hạnh phúc của cô, ước mơ của một người
con gái nghèo cho đến nỗi đau thể xác và tinh thần mà “tôi” phải chịu đựng. Kết
thúc tác phẩm, điểm nhìn của người kể chuyện xưng “tôi” chấm dứt, điểm nhìn bên
ngoài thay thế để miêu tả rõ hình ảnh của “tôi” đang ngủ: “Ở một con đường nhỏ
bên bờ đê, người ta nhìn thấy một người đàn bà còn trẻ. Mặt hiền từ phẳng lặng
nằm ngủ. Trên người không một mảnh vải che. Hai bầu vú là hai bông hoa. Phía
dưới là cái lá sen đã khô.
Hình như cô đang mơ. Những người tò mò nhìn thấy đôi lúc miệng cô lại
nhoẻn cười”.
Điểm nhìn bên ngoài giúp độc giả hình dung về chân dung một người phụ nữ
trẻ đang đón nhận một giấc ngủ yên mình với giấc mơ đẹp đẽ. Cảm nhận này đã
được tác giả trao cho người đọc tự rung cảm và nghĩ suy. Sự khách quan trong trần
thuật được đảm bảo nhờ điểm nhìn bên ngoài đã thay thế cho điểm nhìn bên trong.
Sự dịch chuyển điểm nhìn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ cho thấy
tính sáng tạo của nhà văn. Phá cách hơn so với văn học truyền thống vốn được trần
thuật từ điểm nhìn tương đối ổn định – cái nhìn “biết trước”, Nguyễn Thị Thu Huệ
đã sử dụng cả đa dạng các loại điểm nhìn. Việc phối hợp và di chuyển các loại điểm
nhìn này giúp cho nhà văn có điều kiện trổ nhiều ô cửa để khám phá đời sống từ
những góc độ khác nhau. Theo đó, tác giả có điều kiện để đào sâu cả tầng vô thức
cũng như những biến đổi trong tâm trạng đầy tinh vi của nhân vật. Từ phương diện
nào đó, có thể nói, sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn cũng là một cách
thức để tạo nên tính phức điệu của truyện ngắn hiện đại.
36
CHƢƠNG 2: QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
2.1.Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ
“Văn chương luôn làm ấm lòng tôi. Với tôi, văn chương chưa bao giờ là
những điều thần bí, chỉ đơn giản đó là một phần cuộc sống mà ai đã trót mang
nặng kiếp người đều lấy đó để cất bớt đi gánh nặng đa mang” [56] – Nguyễn Thị
Thu Huệ đã bộc bạch như vậy khi chia sẻ về nghiệp văn của mình.
Nguyễn Thị Thu Huệ là cái tên mà mẹ chị - nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú đặt
cho con theo nhân vật chính trong cuốn Cô giáo Huệ của bà. Chị có khiếu văn
chương từ nhỏ, nhưng chị lại mê hội họa hơn cả và thích trở thành họa sĩ. Chị kể:
“Mình không nghĩ sau này sẽ là nhà văn, thế hệ bọn mình lúc đó hồn nhiên lắm,
không bao giờ có ước mơ trở thành người nổi tiếng, giàu sang gì đâu” [55].
Vừa tốt nghiệp khoa Văn Đại học Tổng hợp, chị giấu bố mẹ đăng hai truyện
ngắn Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên báo Văn nghệ khiến văn đàn xôn
xao một thời. Nhưng con đường trở thành nhà văn bị ngắt quãng bởi đám cưới sớm
hơn dự định khi chị mới hai mươi tuổi.
Sau hai năm ở nhà trông con, chị quyết định vào làm tại tạp chí Văn hóa nghệ
thuật với chân biên tập viên sân khấu. Cuộc sống nhàn hạ cứ thế trôi đi nếu không
có một lần chị thấy mẹ buồn. Mẹ tủi thân vì thấy nhiều người bằng tuổi con mình đã
có tiếng tăm, còn con mình dường như quên hẳn văn chương. Vậy là chị viết, “viết
như điên”. Cứ mỗi chiều, sau khi cơm nước xong, chị đạp xe lên cơ quan, mượn
chiếc máy chữ và lạch cạch gõ đến tận khuya. “Lúc đó tôi đã viết như lên đồng, ý
tưởng tuôn trào không kịp nghĩ” [55]. Những truyện ngắn Hậu thiên đường, Cõi
mê, Phù thủy, Cát đợi...ra đời trong hoàn cảnh đó.
Rồi chị chuyển sang làm tại hãng phim truyền hình Việt Nam. Ba tập truyện
ngắn ra mắt và truyện Của để dành đã được chuyển thể thành phim, sau đó là Nước
mắt đàn ông cũng đến với khán giả và đạt huy chương vàng liên hoan phim truyền
hình. Sự nghiệp của Nguyễn Thị Thu Huệ cứ thế tiến lên. Hiện nay, chị là Phó Ban
Thư ký biên tập VTV, Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu kịch bản phim xã hội hóa của
VTV, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, phụ trách Trung tâm bản
quyền tác giả văn hóa hãng phim Hội Nhà văn, Giám đốc kênh truyền hình VTC9
Let‟s Việt. Bận rộn với hàng loạt vai trò khác nhau nhưng niềm đam mê mà Nguyễn
37
Thị Thu Huệ dành cho văn chương vẫn chẳng thể nào vơi cạn. Chị bảo, “văn
chương là tri kỷ rồi nên không thể bỏ nhau được” [52].
Hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu Huệ sáng tác không nhiều. Toàn
bộ truyện ngắn của chị được tập hợp trong 6 tập truyện: Cát đợi (1992), Hậu thiên
đường (1993), Phù thủy (1995), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ (2004), Thành phố đi vắng (2012). Với 61 truyện ngắn, chị
đã tạo được một phong cách riêng. Giải thưởng đến với chị như một cái duyên đối
với người phụ nữ nhiều may mắn và tài năng này.
Trong quá trình hoạt động nghệ thuật, Nguyễn Thị Thu Huệ đã không ngừng
cố gắng, không ngừng trăn trở và viết. Không ít lần, chị trả lời phỏng vấn của báo
chí, bày tỏ những nghĩ suy, quan niệm của mình về văn chương nghệ thuât. Chị cho
rằng: “Nhà văn dù viết gì đi nữa thì cũng là trên cái nền của thực tế đời sống mà họ
trải nghiệm”. Trước những áp lực của đời sống mà tốc độ đang làm thay đổi tâm
tính con người, khi con người không còn tin vào cái thiện, cái đẹp, cái tử tế thì
“nhiệm vụ của nhà văn, theo tôi, là gọi lại nhưng niềm tin đã mất ấy nơi con người”
[52].
Theo Nguyễn Thị Thu Huệ “với một nhà văn có tài và chuyên nghiệp thì điều
gì xảy ra xung quanh, họ cũng biết cách để đưa vào tác phẩm của mình”. Chị nói:
“Tôi không bao giờ nghĩ to tát chuyện có nhà văn có bừng sáng lên bằng một vài
truyện ngắn hay cuốn tiểu thuyết ,mấy bài thơ rồi tắt vì điều này điều nọ...Cuộc
sống bao giờ cũng ngồn ngộn chất liệu ,một chuyện nhỏ xíu” như người ta đánh
bạc cả triệu đô rồi bị bắt, rồi bị xử, theo tôi, đánh bạc nhưng không ai hỏi là người
đấy lấy tiền đâu mà đánh bạc,truy nguồn gốc thu nhập...cho đến những chuyện lớn
lao hơn như cây cầu Văn Thánh suốt ngày sửa bằng nghìn tỷ...Nếu gọi để cần có
những tác phẩm để đời tôi thấy chất liệu thời nào cũng nhiều . Thời chiến tranh có
chất liệu thời chiến tranh. Thời bình có chất liệu thời bình. [...] Vậy thì cái gì làm
ra một tác phẩm lớn? Tôi thấy, duy nhất, để có một tác phẩm lớn, chỉ cần một điều.
Là có nhà văn lớn. Vậy thôi. Khi có một nhà văn lớn, với vốn hiểu biết về vấn đề họ
định viết như lịch sử, chiến tranh, môi trường hay thế giới động vật cộng thêm một
cái nền căn bản là sự suy luận mọi chuyện qua đời sống chính cá nhân họ, những
thăng trầm, được mất...họ cũng biết sẽ làm gì, bỏ gì, tưởng tượng ra những gì từ
hiện thực cuộc sống.”[62].
38
“Chất văn”- Cái hồn cốt làm nên tác phẩm văn chương, theo Nguyễn Thị Thu
Huệ: “Nếu văn chương nói về vấn đề thời đại mà chất văn không có, tác phẩm sẽ
mang tính ký sự. Ngược lại, văn chương điệu đà quá sẽ giống như môt nồi nước phở
không có xương hầm, chỉ có vị phở, váng mỡ, cũng chỉ đánh lừa người ăn một bát
mà thôi” [56].
Quan niệm về vấn đề cách tân trong văn học, Nguyễn Thị Thu Huệ hiểu một
cách giản dị: “Cách tân - với tôi - là làm sao người ta đọc xong một tác phẩm phải
thấy thích trong lúc đọc. Đọc xong, nhớ được một nhân vật, hay nhớ nguyên một cốt
truyện, hoặc một chi tiết... Tóm lại, cách tân là cách mà nhà văn và tác phẩm của
mình đến được với người đọc. Còn cách tân kiểu gì là tùy vào quan niệm và tài
năng của người viết đó” [62]. Với quan điểm này thì Nguyễn Thị Thu Huệ đã thực
hiện việc cách tân thành công vì người đọc vẫn nhớ, vẫn bị ám ảnh về một con bé
gọi cha mẹ mình là phù thủy, về Mại yêu đến mấy lần mà vẫn nhẹ dạ và thiết tha, về
một X-Men vừa nuôi chó vừa giết người, một thành phố trơ lì và cạn ráo tình
người...
Trong hành trình sáng tác văn học của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ tự chia ra
hai giai đoạn sáng tác. “Giai đoạn thứ nhất là lúc mọi thứ bùng nổ ra bên ngoài.
Giai đoạn thứ hai là mọi thứ được nuốt vào trong, có cái gì cay đắng, thấm thía
hơn”. Âm hưởng buồn phủ trùm cả hai giai đoạn, thế nên: “Ngày trước, những câu
chuyện của đời sống đến với tôi và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của một người
trẻ, trong một xã hội ít bất an, đâu đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ, đời sống
của đám đông, của những thân phận bị trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm tồn tại
trong những cơn sóng táp thẳng, khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và tôi đã
kể những chuyện qua lăng kính của tôi, những ngày tháng này. Lạnh lùng ở câu chữ,
nhưng xa xót trong tâm can. Tuy vậy, tôi chưa mất hẳn niềm tin vào con người. Rải
rác ở đâu đó vẫn còn những người đau đáu làm điều tốt, làm ra những thứ có ích
cho cộng đồng”. [54].
Chị chiêm nghiệm: “Khi người ta hai mươi tuổi – ba mươi tuổi, người ta có
thể làm mọi điều mình muốn, nhưng khi bốn mươi – năm mươi tuổi, dù có sẵn sàng
hành động đến đâu đi nữa, nhưng mình lại bị mệt chẳng hạn, vậy là đành phải dừng,
dù ta không muốn”. Chị bảo “người như tôi từng trải qua ba thời kỳ, thời bao cấp,
thời đổi mới và cho đến bây giờ thì có thể thấy rõ sự thay đổi đó. Mình thấy cái gì
cũng hơn trước. Mình bị ức chế, bị ngộp. Nó thấm vào mình như không khí, như hơi
39
thở vậy”. Chính cảm giác rõ nét về sự thay đổi, sự ngột ngạt trong đời sống hiện tại
đã bắt dẫn ngòi bút Nguyễn Thị Thu Huệ viết nên Thành phố đi vắng. Đây là
thành quả sau năm năm chị vắng bóng trên văn đàn.
Năm năm trôi qua là quãng thời gian chị di chuyển nhiều, thay đổi môi trường
sống, biết đời sống nhiều hơn với muôn mặt của nó. “Từ cảm giác bình yên cả ngày
chỉ nghe đi nghe lại một bản nhạc, hay ngồi mãi ở một quán cà phê góc đường của
một thành phố vừa xa, vừa lạ, nhưng yêu nó tới thắt ruột khi chia tay” [51]. Sâu sắc
với đời sống, tinh tế và nhạy cảm với mọi sự kiện đời sống xô bồ đang chảy trôi nên
Nguyễn Thị Thu Huệ tâm sự, chị luôn bị ám ảnh về những dòng chảy đang xoay
chuyển thế hệ người Việt theo hướng xấu đi, đang đi xuống. “Sự thanh cao, phẩm
chất đáng quý của người Việt một là dần bé lại, bị đè nén trước sự trần trụi và thô
tục, sự suy cấp đạo đức, bế tắc không lối thoát. Sự bất an, đời sống khó khăn, đơn
điệu, những thói quen sinh hoạt văn hóa cộng đồng ít dần làm người ta mất cảm
xúc… Những giá trị tốt đẹp bị triệt tiêu từ từ, thay bằng sự hào nhoáng phô trương
của trang phục, đồ dùng tỷ lệ nghịch với văn hóa sống…”[54].
Chị nói rằng, khi người ta không còn trẻ, khi cái hồn nhiên đã khác, “bao phủ
xung quanh mình là cảm giác bất lực trước cuộc sống, mình không còn chủ động
trong mọi điều nữa. Hoàn cảnh nó lôi kéo mình đi theo. Và các thang bậc của
cuộc sống đều tăng lên” [50]. Chính bối cảnh bộn bè, nhộn nhạo ấy lại là mảnh đất
để nhà văn đặt bút, bởi như nhận định của chị: “Đây là thời điểm có nhiều thứ để
viết. Không phải là về chiến tranh, về chuyện đói hay không đói, mà đây là giai
đoạn khốc liệt. Không giống như kiểu khốc liệt của chiến tranh, khốc liệt bây giờ
rất khác. Tôi không có tham vọng viết về những gì tôi không biết. Tôi không viết về
chiến tranh được vì lúc ấy tôi còn bé quá, cho nên tôi chỉ có tham vọng viết về đời
sống này”[50].
Viết về đời sống đang chảy trôi gấp gáp, đang thay đổi trong từng khoảnh
khắc, trong mỗi cá nhân đến cả cộng đồng nên ngòi bút Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo
dựng một Thành phố đi vắng trong văn học. Vì “tôi luôn loay hoay với những câu
chuyện về sự đánh tráo các giá trị” nên truyện Không thể kết thúc ra đời”. Từ tác
phẩm này, chị gửi tới thông điệp: “Xã hội nói chung và mỗi người dân nói riêng
cần lên án, chống lại sự đánh tráo bởi sớm hay muộn, sẽ phải trả giá cho những
việc làm tàn nhẫn đó” [57]. Ở X-Men có mùi trường đua, “tôi nghĩ, người dù
xuống tận đáy xã hội vẫn không tin cái ác nằm chung giường với mình”.
40
Thành phố đi vắng là truyện được nữ nhà văn dồn nhiều bút lực hơn cả. Kết
thúc truyện ngắn rất buồn, “nhân vật nữ chính đã tìm chỗ cho mình ở nghĩa trang,
cô chết vì quá nóng”, quá nồng nhiệt với đời sống, trong khi thành phố nơi cô từng
sống, từng yêu, từng ấm áp bỗng trở nên tàn nhẫn, lạnh lẽo sau vài năm không gặp
lại. Có thể nói, cái chết của nữ nhân vật là sự phản kháng tới cùng của tác giả trước
những thay đỏi tiêu cực của xã hội. Chị giải thích nguồn gốc truyện dữ dội như sau:
“Tôi nghiệm ra rằng thế hệ mới ra đời rất giỏi, nhiều người tài. Các bạn trẻ nạp
cho mình kiến thức chuyên môn rất tốt, bằng cấp cao, thông minh, nhanh
nhẹn, nhưng các bạn lại lạnh lùng, thực dụng. Trong công việc rất cần những người
như thế, nhưng về mặt xã hội, đấy lại là những người lạnh lùng. Đó là những điều
tôi nói trong Thành phố đi vắng. Sẽ đến như thế, đến một đời sống vô cảm. Người
ta đầy đủ sung sướng nhưng sẽ vô cảm hơn” [50].
Nguyễn Thị Thu Huệ ví “Thành phố đi vắng là một con đường, chạy song
song với con đường hàng ngày tôi đi, một cõi riêng và giờ tôi rủ bạn đọc đi với tôi
con đường riêng đó” [51]. Đi chung con đường riêng của chị, người đọc mới nhận
ra trong Thành phố đi vắng, nhân vật nữ thường gánh vác cuộc đời không bằng
phẳng. Đây chính là điểm gặp gỡ với 5 tập truyện ngắn trước đó. Với Nguyễn Thị
Thu Huệ, “khoảng trời trong văn của tôi gói gọn trong cuộc đời các nhân vật.
Những người con gái háo hức bước chân vào tình yêu, những người đàn bà sống
với ngổn ngang trăm mối tơ vò trong bi kịch tâm hồn không lối thoát. Họ là những
con người của thời hiện đại, của những năm tháng mà lối sống bản năng, những
khát vọng hướng thiện, hạnh phúc, khổ đau đôi khi chỉ chênh nhau mỏng manh như
sợi tóc” [56]. Viết về phái mình, thấu hiểu phụ nữ hơn ai hết nên chị cắt nghĩa một
cách rõ ràng: “Nói gì thì nói, phụ nữ Việt Nam có tài giỏi đến đâu, hiện đại đến đâu
vẫn phải tồn tại trong một môi trường chung, thở bầu không khí chung, có thể có
những bứt phá, nhưng không thay đổi được điều gì lớn lao.[...] Phụ nữ hết mang
nặng đẻ đau lo toan bởi bao ràng buộc, bởi họ hàng, những quan hệ...và người phụ
nữ Việt Nam lại càng chịu nhiều áp lực” [51].
Một người phụ nữ viết văn phải đảm đương nhiều chức phận. Nguyễn Thị Thu
Huệ luôn bị giằng xé giữa những khái niệm hết mình. Hết mình với công việc hay
hết mình với chức phận người phụ nữ trong gia đình? Vẫn coi văn chương như một
yếu tố không thể thiếu trong cuộc đời mình, chị “thực hiện những chuyến đi xa để
tìm cho nhân vật của mình một tính cách chỉ có được trong văn chương. Bởi với
41
bao chức phận đời thường đang níu giữ, phải kiên gan tới đâu người ta mới dám
lên đường” [56].
Xưa kia, nhà thơ Hàn Mặc Tử từng có câu: “Người thơ phong vận như thơ ấy”.
Văn chương của Nguyễn Thị Thu Huệ phản ánh rõ nét con người chị, nhiều tư lự,
nhiều nỗi hoài cổ, nhiều tiếc thương cho mình giữa bốn bề lạc lõng. Với quan điểm
về xã hội và văn chương sâu sắc, Nguyễn Thị Thu Huệ đã viết nên những trang văn
thấm đẫm chất đời, buồn đến tê tái. Hơn hai mươi năm cầm bút, Nguyễn Thị Thu
Huệ luôn là cây bút nữ không/chưa mệt mỏi trên hành trình sáng tạo.
2.2.Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
Nhà văn M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng. Nhân vật
là hình thù con người mặc cái áo ấy”. Nhân vật đóng vai trò trung tâm, không thể
thiếu đối với bất kỳ một tác phẩm văn học nào bởi đó là linh hồn, sức sống của tác
phẩm, là nơi nhà văn gửi gắm tư tưởng, chủ đề của mình. “Nhân vật văn học là hình
tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của
con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi
là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc
điểm giống con người...Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính
ước lệ, không bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng
nhân vật với những đường nét rất gần với nguyên mẫu có thật” [3, 241-242].
Có thể khẳng định, khi viết một tác phẩm, yếu tố hàng đầu luôn được nhà văn
quan tâm là thế giới nhân vật. Nó trở thành một trong những yếu tố quan trọng
thuộc về nội dung cũng như hình thức của tác phẩm. Bởi lẽ, để thể hiện nội dung
hay gửi gắm một triết lý, tư tưởng thì không thể thiếu phương tiện truyền tải, trong
đó có nhân vật. Nhân vật là cái loa phát ngôn cho mọi tư tưởng của thời đại. Đối với
truyện ngắn, nhân vật đóng vai trò chủ chốt vì đây là thể loại mà nhà văn “suy nghĩ
về cuộc sống qua các hình thức duy nhất của nhân vật và cũng dựa vào nhân vật để
biểu hiện cái tư tưởng tiến bộ của mình. Nhân vật là sứ giả truyền đi cái thế giới
quan, cái nhân sinh quan của mình” [28, 228].
Trong cuốn Bình luận truyện ngắn, nhà phê bình Bùi Việt Thắng từng nhận
xét: “Truyện ngắn sống bằng nhân vật, những chi tiết có ý nghĩa khi góp phần tạo
nên nhân vật [35, 126]. Truyện ngắn với những đặc thù riêng của thể loại thường đi
sâu khai thác một khía cạnh của nhân vật, một trạng thái, một tình huống mà ở đó
làm nổi sắc nhất vấn đề mà nhà văn muốn truyền tải. So sánh với tiểu thuyết “nếu
42
nhân vật của tiểu thuyết có khuynh hướng vươn tới một hình thức tròn đầy viên mãn,
được tiếp diễn trong sự liên tục của thời gian thì nhân vật truyện ngắn bị bắt buộc
phải tồn tại trong thời gian ngắn ngủi, không liên tục, chúng tồn tại trong sự đứt
đoạn” [15, 162]. Nếu coi tiểu thuyết là một bức tranh mô tả về cả cuộc đời thì
truyện ngắn là một lớp cắt ngang, chớp lấy khoản khắc sáng rõ nhất trong tâm hồn,
tính cách nhân vật để tập trung khắc họa. Chỉ cần vài chi tiết tiêu biểu, những tình
huống đặc sắc nhưng diện mạo của nhân vật đã hiện lên vô cùng sắc nét.
Tuy nhiên, truyện ngắn cũng có “những phá cách” của nó. Đó là những truyện
mang hơi hướng tiểu thuyết. Những nhân vật cũng được khắc họa khá rõ nét và đầy
đủ như AQ trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn, nhân vật Thuấn trong Tướng về
hưu của Nguyễn Huy Thiệp...Đây là đặc điểm tạo cho truyện ngắn có tầm cao hơn
về tư tưởng nội dung. Nó không còn là một thể loại nhỏ nữa mà có sức nặng ngang
hàng với tiểu thuyết.
Như vậy, nhân vật văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ, mặt khác, nó
là sản phẩm tinh thần của thời đại. Xây dựng nhân vật trong văn học chính là việc
miêu tả con người của nhà văn. Nhân vật dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của
đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định. B.Bréch nhận xét rằng: “Các nhân vật
của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của con người
sống mà là hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tác giả” [32]. Đó là phương
diện quyết định phần lớn cốt truyện, lựa chọn chi tiết, ngôn ngữ biểu đạt, kết cấu...
Trong văn học Việt Nam, từ năm 1986, văn xuôi khởi sắc đặc biệt là ở thể loại
truyện ngắn: “Tư duy trừu tượng thâm nhập vào những thể loại nhỏ và vừa này tạo
cho chúng sức chứa đựng lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả
năng thể loại đến độ ngạc nhiên...truyện ngắn lên ngôi trở thành mũi nhọn của văn
xuôi hiện nay. Sự hàm xúc cô đọng, sự khai thác theo chiều sâu số phận và nội tâm
con người, tính tập trung và chủ đề và triết lý, những gợi mở, đối thoại tạo cho
truyện ngắn một chất liệu mới vượt ra ngoài cái khung chật hẹp của thể loại”. [2].
Cùng với sự phát triển của văn học là sự thay đổi về diện mạo cũng như tính
cách của nhân vật. Bước vào giai đoạn sau 1986, con người cá nhân đời thường trở
thành trung tâm của đời sống văn học. Con người được nhìn ở nhiều vị thế, trong
tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con
người với gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những
người khác và với chính mình...Con người cũng được văn học soi chiếu, phám phá
43
ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm
và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con
người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát.
Chính trong giai đoạn đổi mới mạnh mẽ này, Nguyễn Thị Thu Huệ xuất hiện.
Những sáng tác của chị thể hiện những khám phá tự giác hướng vào chiều sâu bản
thể con người. Cũng như Y Ban, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh...Nguyễn Thị
Thu Huệ nghiêng về thể hiện số phận bi kịch của người phụ nữ.
Bước sang thế kỷ XXI, cuộc sống trở nên năng động hơn, nhiều cuộc va chạm,
giao thoa về văn hóa giữa các quốc gia diễn ra, ảnh hưởng đến lối sống của toàn xã
hội, lối viết của nhà văn và cả tư duy tiếp nhận của độc giả. Điều đó có nghĩa văn
chương hướng vào một quỹ đạo mới với nhiều sự thay đổi rõ rệt. Con người trong
văn học đương đại được nhìn ở nhiều vị thế. Thế nhưng, sự phát triển nhanh của
cơn lốc thị trường đã làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Con người được đặt trong
nhiều trạng huống mới của xã hội, có khi, trơ mòn đi, tắt diệt cảm xúc, sống bản
năng, hóa điên, cô đơn như kẻ lạc loài...Phản ánh chân thực đời sống, nhân vật
trong văn học đương đại nói chung và trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ nói
riêng đều có sự chuyển biến rõ rệt.
Xét về phương diện nghệ thuật trần thuật, trên cấp bậc trần thuật của văn bản
tự sự, nhân vật trước hết và luôn là trung tâm của trần thuật, là đối tượng được tiêu
điểm hóa với mức độ rất cao. Người trần thuật miêu tả ngoại hình, tính cách nhân
vật, phán xét, đánh giá và bình luận hành động của nhân vật trong bất kỳ truyện
được kể ở ngôi thứ I hay ngôi thứ III. Trong mối quan hệ với tập thể nhân vật, một
trong những nhân vật đó cũng có thể đồng thời là người trần thuật, hoặc là người
tiêu điểm hóa, hoặc là người được tiêu điểm hóa. Vì vậy, trong luận văn này, chúng
tôi phân tích vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, cũng đồng
thời để chỉ ra nét riêng trong ngòi bút trần thuật của chị giữa nhiều cây bút khác
trong giai đoạn từ 1986 đến nay.
2.2.1.Sự phong phú của thế giới nhân vật
2.2.1.1.Nhân vật bi kịch
Cảm hứng bi kịch được coi là “một trong những dấu hiệu của sự chuyển đổi”.
Nó cho thấy khả năng tiếp cận hiện thực ở cả miền khuất lấp, những cảng ngộ đáng
thương của con người. Có thể nói, trong văn học giai đoạn hiện nay, số phận cá
nhân – thân phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu. Nhà văn đi sâu vào
44
thế giới bên trong từng con người, thực hiện cuộc hành hương vô tận, cuộc tìm
kiếm khó nhọc bên trong thế giới riêng của con người.
Vốn “luôn gần với cái lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống”, nhà văn nữ “đã đưa
tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách”. Vì thế, “văn chương của phái đẹp
hiện nay sắc và sâu khi khai thác đề tài thế sự đời tư với nội dung nhân tình thế thái
bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt, riết róng mà đồng cảm, chia sẻ những thân
phận, những con người sống quanh mình” [39]. Hướng ngòi bút vào đề tài thế sự
đời tư nên những nhà văn như Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích
Thúy...đã xót xa, đau đớn cũng những mảnh đời chịu nhiều bi kịch. Trong 61 truyện
ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, nhân vật bi kịch xuất hiện nhiều lần.
Nguyễn Thị Thu Huệ thường viêt về bi kịch của những người con gái còn trẻ
tuổi, trẻ lòng, những người phụ nữ đã từng trải trong cuộc sống thường chịu nhiều
đau khổ trong tình yêu và hôn nhân. Họ thất bại trong tình yêu, hôn nhân không
hạnh phúc, vì vậy, những trở trăn day dứt, những đau xót chua cay cứ bàng bạc trên
từng câu chữ.
Những cô gái mới lớn háo hức vào đời là nhân vật tạo nên sự “ngây thơ” trong
ngòi bút trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ. Sơ-ri đắng, Biển ấm, Hậu thiên
đường, Thiếu phụ chưa chồng...đều kể lại câu chuyện của những cô gái mới mười
tám, đôi mươi háo hức, kỳ vọng vào cuộc sống màu hồng mới lạ với biết bao ước
mơ trong sáng, thi vị. Bằng sự nhiệt tình và đam mê của tuổi trẻ, họ quyết theo đuổi
mục tiêu mà mình đặt ra nhưng không lường trước được những hậu quả, và kết quả
là, họ bị phản bội. Sự tổn thương không chỉ ở tinh thần mà có khi, họ phải trả giá
bằng cả sinh mạng. Mi trong truyện Sơ-ri đắng mười tám tuổi, là sinh viên một
trường đại học có tiếng ở Hà Nội. Mi yêu Khánh – một kẻ Sở Khanh. Cô đâu biết
rằng Khánh đến với cô “như người khát, thấy dòng suối mát giữa rừng, vồ lấy uống.
Uống no rồi bắt đầu rửa chân tay mặt mũi. Và cả tắm lẫn giặt đồ. Xong xuôi, là
đái”. Khi Mi có bầu ba tháng, cô vào Sài Gòn với mẹ cho khuây khỏa và hy vọng
trong lúc vắng mình, Khánh sẽ suy nghĩ lại. Nhưng không. Con người bội bạc kia
chỉ lợi dụng lòng tin và yêu của cô. Sự cả tin, mù quáng đã khiến Mi nhận lấy cái
chết.
Cũng giữ một tình yêu nồng nàn qua những bức thư, cô gái trong Biển ấm vừa
tròn hai mươi tuổi đã đem lòng yêu một người đàn ông hơn cô hai mươi tuổi, vừa
bỏ vợ. Đó là mối tình đầu của cô với những thoáng va chạm, run rẩy đầu tiên. Vì
45
tình yêu, cô đã quyết tâm một mình lặn lội tìm đến nơi anh ở - một vùng khai thác
than ở Quảng Ninh. Con đường tìm đến với người yêu đầy heo hút, cô đơn và sợ hãi,
nhưng bất chấp tất cả, cô vẫn tìm đến với anh để rồi thất vọng và bẽ bàng khi người
đón cô không phải là anh. Những ngày ở bên anh không đẹp đẽ như cô tưởng nên
cô đã hối hận và trở về Hà Nội mà “không còn cái đích là tình yêu trước mặt để vẫy
gọi nữa. Tôi về căn nhà be bé như cái tổ chim che chở cho tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu
gia đình quan trọng thế nào”.
Cũng là cô gái mới lớn hăm hở bước vào đời với bao si mê, nông nổi, hình ảnh
cô con gái trong truyện ngắn Hậu thiên đường với sự va vấp đầu đời là hồi chuông
cảnh tỉnh cho tất cả các bậc làm cha mẹ đã và đang thiếu sự quan tâm, chăm sóc đến
con cái của mình. Mười sáu tuổi, cô có những rung động đầu đời, nếm trải những
giây phút thiên đường và trở thành đàn bà trong tay một người đàn ông đã có vợ.
Tương lai trong mơ tưởng của cô thật đẹp đẽ, nhưng cô đâu biết rằng sẽ phải trả giá
bằng cả quãng đời hậu thiên đường đớn đau trước mặt.
Hậu thiên đường là câu chuyện của những số phận bi kịch truyền kiếp. Đó
không chỉ là bi kịch của con gái mà còn dằn lên nỗi đau của người mẹ - người đàn
bà bất hạnh đã sinh ra đứa con bất hạnh. Chị cũng đã từng mù quáng nơi thiên
đường tình yêu để rồi mười mấy năm sau, chị thù hận cuộc đời, tối tối tìm niềm vui
dưới ánh đèn của vũ trường, “ngoan ngoãn trong tay hết người đàn ông này đến
người đàn ông khác nhưng của ai cụ thể thì không có”. Chị mang trong mình trái
tim của một kẻ tử thương và bị phụ bạc.
Nỗi đau của người đàn bà càng nhức nhối hơn khi chị phát hiện ra con gái
đang đi trên con đường mà chị đã đi. Qua cuốn nhật ký của con, qua thái độ và hình
dạng của con khi đi chơi khuya về, chị rơi vào bể sâu bất lực: “Mười một giờ con về,
sao tóc nó lại rối thế kia, lại nhạt cả phấn son ở má và quầng xanh ở mí mắt. Thôi,
xong rồi con ơi mẹ đã qua những gì mà con đang đến”. Con gái càng ngây dại vì
hạnh phúc bao nhiêu thì người mẹ càng đau khổ bấy nhiêu. Hoảng hốt đi tìm con để
cố kéo con đang rơi vào địa ngục, người mẹ lao ra đường như một kẻ điên. Chị đã
thấy con. Nó đang ở bên người đàn ông già tuổi bà, nhếch nhác trong bộ quần áo
màu ghi. Bàn tay anh ta đang lùng sục sau áo nó. Hình ảnh “bàn tay” được lặp lại
hai lần, nhằm khắc họa đậm nét bàn tay của sự dối trá, thô kệch, lừa lọc đang bóp
nghẹt trái tim ngây thơ, trong sáng của con. Chứng kiến cảnh ấy, tâm hồn người mẹ
bị vò nát. Cái chết là kết cục quá đắt của một đời người chìm sâu trong bi kịch.
46
Nguyễn Thị Thu Huệ đã đưa lên trang viết những kiếp người đàn bà bất hạnh
đến tột cùng. Trong Người đàn bà đi tìm giấc mơ, ba kiếp đàn bà bất hạnh nối tiếp
nhau đã vẽ nên một bức tranh với những mảng màu xám xịt: Bà – mẹ - cháu. Cuộc
đời người mẹ không được miêu tả trực tiếp nhưng được tái hiện qua lời kể của bà và
cháu, cũng hiển hiện chính trong cuộc đời của hai bà cháu.
Mẹ bị bố phụ bạc. Người đàn ông thứ hai lấy mẹ, nửa tháng sau biết mình bị
lừa, liền cuốn gói chạy khỏi mẹ như chạy khỏi một con chuột chết. Người đàn ông
thứ ba trong đời mẹ đã có bốn đứa con riêng. Mẹ đã để lại con cho bà – người đàn
bà khổ hạnh, “nước mắt chảy nhèm, khuôn mặt như quả táo tàu khô kiệt”.
Bà, vai gầy gập xuống, nuôi đứa cháu tám tuổi trong chiếc quán nhỏ nghèo
nàn. Bất hạnh của cuộc đời bà chỉ có thể kêu với trời đất: “Ối giời ơi, cái số kiếp tôi
sao khốn nạn thế này, tôi có hại ai đâu, tôi có làm gì nên tội đâu mà giờ khổ thế
này”.
Cuộc đời ảm đạm của hai bà cháu cứ thế trôi đi nếu không có một “cuộc đổi
đời”: một đám cưới. Giấc mơ hạnh phúc giàu sang tưởng đã gần kề. Nhưng ngược
lại đó là địa ngục. Cái địa ngục đã giết chết bà chỉ vì “một bữa no”. Bà để lại cháu
cô độc giữa bầy người và thú. Cô bị đánh đập, đuổi đi vì không sinh được con. Cô
bị điên, vĩnh viễn chìm vào giấc mơ để tìm lại những cái đã mất và mơ tưởng đến
những điều không bao giờ có.
Số kiếp những nhân vật phụ nữ là những bi kịch đau đớn được trần thuật lại
trong truyện Nguyễn Thị Thu Huệ bằng những lời văn chua xót và kiệt cùng của
cay đắng. Đó thực sự là những câu chuyện đắng chát đến nỗi người đọc phải “nuốt
những ngôi sao nước mắt chảy qua cổ họng”.
Tình yêu và hạnh phúc – chưa bao giờ dễ kiếm tìm trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Nó là những thứ ở rất xa mà con người cố gắng mãi cũng khó
giành được. Nước mắt đã rơi khi người đàn ông giàu có nhưng cô đơn vì mất người
tình, phải sống trong một gia đình tàn ác và thực dụng. Hình ảnh “những trận bão”
được tác giả nhắc lại nhiều lần trong Nước mắt đàn ông đã cho thấy bi kịch của con
người đã trải qua bao cơn bão khủng khiếp của cuộc đời, đã tan nát vì những trận
bão lòng gom góp khổ đau. Ông tựa như một cánh buồm nhỏ nhoi tiếp tục lênh
đênh trong biển đời cô độc.
Người đàn bà ám khói là lời tự thú của người phụ nữ vừa đáng giận, vừa đáng
thương – Vang. Vang gặp lại người tình cũ khi chị đang là thợ khóc mướn. Cuộc
47
đời vốn không dài, với người đàn bà bao giờ cũng ngắn. Vang đã nhận ra: Muộn
mất rồi, thời gian không đợi Vang, thời gian với Vang bây giờ là khắc nghiệt. “Em
nhầm đường. Lúc ấy, em cứ nghĩ rằng cuộc đời dài lắm và luôn tin rằng rút kinh
nghiệm mọi chuyện dễ không. Nhưng rồi mọi thứ trôi qua đánh vèo một cái, em già
lúc nào không biết”. Vang đã lún sâu vào cô đơn, bất hạnh, tầm thường.
Bi kịch trong tâm hồn và nhận thức được Nguyễn Thị Thu Huệ khắc họa sâu
sắc và nhói buốt tâm can. Chị thường xây dựng những nhân vật mang bi kịch thảm
khốc. Bi kịch không chỉ đến với người lớn, với những tâm hồn giàu khao khát yêu
thương mà hạnh phúc nhưng không đạt được mà còn ở những tâm hồn thơ bé. Chỉ
một lần đọc Phù thủy, độc giả cứ bị ám ảnh mãi bởi tiếng thảm khốc sợ hãi, hoảng
loạn của đứa bé trong vô thức: “Cháu muốn làm người”. Chính những ông bố, bà
mẹ ích kỷ đã vô tình hủy hoại tâm hồn trẻ thơ trong sáng. Thế giới hiện thực ma
quái do bố mẹ - phù thủy tạo nên đã làm con bé sợ, nó không muốn trở về: “Không!
Bố mẹ sẽ giết cháu. Không! Nó gào lên”. Nó cô đơn, dần bị loại ra khỏi cộng đồng.
Nụ cười ngơ ngác, tức tưởi của cô bé con trước khi chết khiến trái tim người đọc
như thắt lại. Nó chết mà cứ ngỡ như đang trở thành phù thủy. Nó chết mà chưa kịp
hiểu gì về cuộc đời. Kết cục, nó chỉ còn là một cây củi cháy, đen sì, một hình thù kỳ
dị.
Viết về những cuộc đời, những thân phận người bất hạnh, ngòi bút Nguyễn
Thị Thu Huệ như run lên với bao cung bậc cảm xúc. Nhà văn đã đồng cảm đến tận
cùng với nỗi đau của con người ở chiều sâu tâm hồn thăm thẳm. Tình yêu, hạnh
phúc, sự sẻ chia, quan tâm là đích đến trên hành trình của mỗi con người trong 5 tập
truyện ngắn đầu. Đến tập truyện Thành phố đi vắng, con người lại rơi vào một loại
bi kịch khác khi đi tìm hơi thở của cuộc sống đã tàn phai.
Nhân vật chính của Thành phố đi vắng là một một cô gái sau ba năm ra nước
ngoài trở về thành phố quen thuộc của mình, ngỡ ngàng nhận ra tất cả đã đổi thay.
Từ điểm nhìn vừa khách quan vừa chủ quan này, tác giả đã quan sát và tái dựng
không gian đô thị hiện đại, nhất là đời sống văn hóa tinh thần thị dân. Ở đấy, trong
tư thế của người trở về, cô gái cuống cuồng tìm lại dấu tích của thành phố cũ, cuống
cuồng trong cuộc truy vấn tại sao thành phố của cô không còn. Cảnh vật không đổi
thay, vẫn phố phường, những con đường, hàng cây, nhà hàng, khách sạn,... Tất cả
vẹn nguyên gợi nhắc những kỉ niệm còn tươi rói. Cô gặp lại những con người năm
cũ: bác tài xế xe buýt, cô quản lí nhà hàng, ông bác sĩ,… Họ vẫn nhớ cô là ai nhưng
48
sự thân thiện khi xưa thì hầu như đã mất. Điều gì đã đẩy cô gái vào nỗi hoang mang
cực độ của một người xa lạ với không gian thân thuộc? Đó là sự biến mất của linh
hồn thành phố. Phố vẫn phố, “dài sau mưa, mùi hơi mát, hăng hăng lá cây dập vỡ”,
nhưng con người của phố không còn. Cái thành phố cô từng yêu đắm say vì mùi
người, vì sự náo nhiệt, xô bồ, hỗn tạp nhưng tràn trề sức sống không còn nữa, thay
vào đó là một đô thành hoang lạnh, trơ trơ. Trên mọi nẻo đường kiếm tìm tình
người, cô gái càng tìm càng vô vọng. Cô nhận ra “người vẫn đông, nhưng hết âm
thanh, như những diễn viên phim câm”. Cả thành phố “như người đông máu, vô
cảm dửng dưng”. Mọi âm thanh cuộc sống như biến mất. Đến âm thanh quen thuộc
nhất là tiếng người “lào xào” cũng trở thành nỗi khát khao nhức buốt. Cô gái bơ vơ
trên chính thành phố quen thuộc, từng gắn bó máu thịt với mình...
Kết thúc cuối cùng của chuyến “đi tìm thời gian đã mất” ấy là cô gái đã chết.
Một cái chết của sự cô đơn, sự lạc loài, của sự bị đẩy ra ngoài một cuộc sống trơ lì,
vô cảm. Bi kịch của nhân vật không nói về vấn đề số phận cá nhân nữa mà khắc sâu
thêm về một vấn đề của xã hội: Cuộc sống với những xáo trộn, mất mát và bất an.
Đô thị hiện đại, trẻ trung, năng động nhưng chất chứa trong lòng nó một khuôn mặt
thời gian bị bôi xóa bởi những lãng quên, bị vùi lấp trong chậm rãi ngưng đọng, bị
đe dọa bằng những gam màu loang của sự hủy diệt những giá trị. Thành phố đi
vắng là chuyện về những đôi mắt người như đang ở lưng chừng giữa sự sống và cái
chết, tồn tại nhưng không thật sự hiện hữu. Mà lựa chọn nào cũng hằn lại những
khoảng trống đến hoang mang.
Văn chương Nguyễn Thị Thu Huệ chân thật và sâu sắc. “Đọc truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ ta thấy những trang viết không bình lặng. Những nhân vật của
cô làm cho ta đau đớn, âm thầm trách móc ta và thức tỉnh ta. Những giọt nước mắt
của các nhân vật của cô sẽ không khô đi một cách uổng phí trên những trang giấy
trắng mà độc giả sẽ phải nuốt nó dù ngọt ngào hay cay đắng để mà nhớ nó” [23,
228-229].
2.2.1.2.Nhân vật tha hóa
“Tha hóa” là khái niệm chỉ hiện tượng con người biến chất thành xấu đi. Con
người tha hóa là con người biến đổi thành khác đi, xấu đi, không giữ được gốc thiện,
thiên lương của mình. Nhân vật tha hóa là nhân vật có tính cách và đời sống khá
sinh động, có sự phát triển thiếu cân bằng trong bản tính, biểu hiện ở sự thái quá của
mặt tính cách xấu, thậm chí phi nhân tính.
49
Bằng tư duy nghệ thuật mới về con người, truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ đã ghi nhận sự xuất hiện của kiểu nhân vật tha hóa. Nhìn con người trong nhiều
mặt tốt - xấu, thiện - ác, tác giả đã xây dựng nhân vật bằng một thái độ khách quan,
tỉnh táo để đánh giá sâu sắc hơn về hiện thực và con người.
Những người phụ nữ trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ thường mang một khát
khao rất mãnh liệt. Thế nhưng, vì khát khao quá mạnh, cách suy nghĩ lệch lạc nên
nhân vật đã tự hủy hoại nhân cách bản thân. My trong Thiếu phụ chưa chồng là
hình tượng tiêu biểu cho kiểu nhân vật tha hóa dị dạng về tâm hồn. Cũng như cô bé
Hằng trong tác phẩm Làn môi đồng trinh của Võ Thị Hảo, thể xác và tâm hồn My
có sự đối lập. Nhưng sự đối lập không giống với Hằng. Hằng có một tâm hồn thánh
thiện đối lập với thể xác không toàn vẹn. Còn My, My có một thân xác, một vẻ đẹp
hoàn mỹ đối lập với một tâm hồn cuồng điên, dị biệt.
Ở vào tuổi dậy thì, My có vẻ đẹp căng tràn sức sống: khuôn mặt tròn, hai mắt
to, môi dày và đỏ. My sinh ra ở chốn thôn quê nhưng cô khinh miệt, căm thù đến
tận xương tủy thói nhà quê, cuộc sống của những con người nhà quê. Cô thấy cuộc
sống chốn thôn quê ảm đạm và buồn tẻ, phung phí và vô nghĩa: “Con người sống
lặng lẽ như thể họ bị sinh ra và đầy ải ở kiếp người”, “mặt mũi những thằng đàn
ông giống như suốt đời bị mất trộm, người toàn bùn với đất phát tởm”. Từ suy nghĩ
ấy, My khát khao một cuộc sống phồn hoa, khát khao đổi đời, khát khao lên Hà Nội
bằng mọi cách. Nung nấu ý định này, cô quyết tâm đổi đời. Lần thứ nhất, không
thành. Anh chàng Sở Khanh của đoàn chèo tân cổ đã lừa cô. Cuộc đổi đời không
thành ấy đã khiến My trở thành một cô gái sành sỏi. Sành sỏi trong hiểu biết về đàn
ông. Sành sỏi nhận ra thế mạnh thể xác của người đàn bà.
My lao vào cuộc đổi đời lần thứ hai. Không còn vẻ e dè buổi đầu, lần này, My
chủ động và quyết liệt, táo bạo và tàn nhẫn. Anh Dương – chồng chị Hảo là viễn
cảnh về một cuộc sống đầy hấp dẫn của My: “Anh là một người khác”, vẻ lịch lãm,
cách chiều vợ con của anh đã cuốn hút My. Trong đời, My chưa gặp ai như thế. Từ
ý nghĩ đến hành động ma mãnh vùng lên ôm lấy người Dương trong ngõ đêm thanh
vắng chỉ cách nhau bằng khoảng thời gian từ chiều đến tối. My hành động mau lẹ
như thể đã rút được kinnh nghiệm từ lần trước. Trong cả suy nghĩ lẫn hành động,
My không hề nghĩ đến chị Hảo – người chị đáng thương. My không hề nghĩ đến
tình chị em ruột thịt.
Tâm hồn My ngày càng giá lạnh, tàn nhẫn và trâng tráo kể từ cái tuyên bố lì
lợm: “Em nói cho chị biết là em và anh Dương đã yêu nhau”. My xúc phạm chị:
50
“Tôi sẽ sống với Dương, chị nên thôi đi là vừa, cố đấm ăn xôi làm gì, không đi cắt
cái u đi là thiệt thân đấy”. Cái đêm My phơi bày hết bộ mặt trâng tráo, khốn nạn ấy
“trời đêm đen thẫm, nhằng nhịt những làn chớp” và lời nguyền của chị Hảo: “Đó là
tội loạn luân” có ứng nghiệm xuống cuộc đời My?
Với phương châm “Tôi cóc cần sống vì ai, tôi vì tôi, bởi cũng có ai vì tôi đâu”,
My đã chà đạp lên tất cả. Cô chà đạp lên phẩm giá của chính mình, chà đạp lên tình
chị em ruột thịt, chà đạp lên đạo lý truyền thống...Tất cả để đối lấy “đệm êm, rèm
tím” với một người chồng không giấy giá thú và cả một người tình giàu có – Hoàng.
Thậm chí, cái chết uất nghẹn, buồn tủi của chị gái không làm My xúc động.
Cô an ủi Dương: “Thôi anh đừng buồn, chị Hảo vì bệnh mà chết chứ có phải tại anh
đâu”.
Kết cục, cuộc đời đã không diễn ra như My mong muốn. Lời nguyền của chị
Hảo trong đêm mưa gió đã ứng nghiệm. My đã bị trừng phạt: My sinh ra một đứa
con gái không có bàn tay và thiếu một mắt, nó phải gánh chịu tội lỗi của người mẹ
dâm đãng, tàn nhẫn đến kỳ dị.
Sau bao nhiêu giành giật, trâng tráo, tiền bạc, tình ái, My chỉ là thiếu phụ chưa
chồng. Tất cả đã rời bỏ My. Bi kịch cuộc đời My do chính My tạo ra. My tự làm dị
dạng tâm hồn mình, trái tim mình. Bản chất nhân vật bị tha hóa, bị đẩy ra ngoài
guồng quay của cuộc sống.
Phản ánh một chiều hướng tha hóa khác của con người, trong tập Thành phố
đi vắng, Nguyễn Thị Thu Huệ đã xây dựng những chân dung nhân vật “run rẩy” đi
trong chiều dài và cả chiều sâu cuộc sống nhưng không ai định hình được con
đường sẽ dẫn về đâu. Họ bị tẩy trắng cảm xúc và nhân cách. Họ hoạt động như
những cái máy và trơ lì, vô cảm.
Đó là X-Men trong X-Men có mùi trường đua coi giết người như một công
việc thường nhật, nhắc đế tội ác và cái chết một cách thản nhiên. Đó là bà bác dâu
trong Không thể kết thúc coi tiền bạc hơn tất cả, đã đánh tráo những đồ cổ trong gia
đình thành đồ giả cổ. Không chịu nổi vợ, người chồng đã phải chửi: “Mày là đồ vợ
mất nhân tính, lừa chồng theo thằng bạn thân của tao lại cùng nó cướp cả đồ cổ
năm đời cha ông để lại, mất dạy khốn nạn quá”. Cuối cùng, bác dâu phải trả giá
bằng những năm tháng cuối đời bị liệt, sống thực vật, mất trí nhớ và tay chân bị
tháo cụt dần từng ngón.
Cú mèo và rượu hoa đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi nhân vật vợ
chồng cú mèo từ nước ngoài về đòi chia tài sản. Nhân vật hiện lên như những con
51
vật có hình thù quái dị: “Em dâu ông một mắt thong manh, trắng đục như mắt cá
chết. Mắt còn lại to tròn, hai mí rõ và hàng mi cong vút, dày rậm như mắt con gái,
con ngươi màu tro, giống mắt con cú mèo trong đêm, trừng trạo gằm ghè, khó chịu
lườm Sim, then thét giọng kim rít rít khô như như tiếng máy khoan bê tông”. Họ
sống keo kiệt và tính toán đến nỗi, “phải năm sáu lần nặng nhẹ giật nước một lần
cho khỏi tốn”, nhờ Sim đi chợ mà bắt phải ghi lại hết. Ăn nói rõ là những kẻ vô học,
không có nhân cách, đạo đức. Họ ghê tởm vùng quê nơi họ về, họ gọi đấy là “cái
nơi man rợ”. Họ quen sống trong một không gian “hàng xóm láng giềng may không
quan hệ với ai nên có đi hay về, chẳng đứa nào quan tâm”. Đứa con duy nhất của
họ “ba năm nay chúng tao không nhìn mặt nó” vì họ cho nó vào trại cai nghiện. Hai
con người hay hai con vật, đã mất hết cả tính người nên mới nói: “Vợ chồng tao
kinh nhất là phải dính đến người, Tao ghét nhất người chúng mày ạ”. Vì ghét người,
ghét đồng loại nên vợ chồng cú mèo đã chết trên cành cây trong rừng, tách biệt với
xã hội loài người.
Trong thế giới nhân vật của Thành phố đi vắng, Nguyễn Thị Thu Huệ không
dụng công xây dựng những nhân vật “đầy”, có tính cách, số phận hoàn chỉnh mà chỉ
chú ý trưng ra những trạng thái sống trong một thời điểm nhất định. Ở Thành phố
đi vắng, tác giả trưng ra một thế giới đậm đặc người vô cảm, lạnh lùng. Đây là một
dạng của sự tha hóa, khi cái tốt, cái tình người bị khuất lấp, chỉ còn lại cái ác, cái
xấu, cái trơ lì hiện hữu vây quanh. Người lái xe thân nhiện năm nào nay là một kẻ
vô tình, tàn nhẫn khi phát ra thông điệp: “Ra khỏi xe, không tao giết mày”. Chủ
quán Nhật Shushi chỉ “dạ” khi cô hỏi về những sự đổi thay. Giúp đỡ cô bé bị ngã,
cô gái nhận lại sự đe dọa của người mẹ qua cánh tay cứng như gọng kìm siết đau
nhói, ánh mắt sắc như mũi tên. Ông bác sĩ thản nhiên kết luận cô bị điên vì cô băn
khoăn về những sự đổi khác...Các nhân vật trong Thành phố đi vắng bị cắt rời mọi
mối quan hệ, cùng hợp lại tạo nên một thế giới đậm đặc người vô cảm, lạnh lùng.
Con người khi không còn cảm xúc, không còn tình thương, không còn sự quan tâm
và rung động thì không còn là NGƯỜI trọn vẹn.
Vì con người sống chỉ như những bóng ma, thành phố nhuốm cảm giác tang
tóc, âm phủ nên không gian ấy không có chỗ để cho người giàu cảm xúc, giàu tình
cảm tồn tại. Nhân vật đi tìm “thành phố đi vắng” đã chết. Đây là phản ứng cực đoan
cuối cùng trong truyện, trả lại cho thành phố một vẻ đông máu cố hữu. Cái chết của
cô gái đã hòa cùng cái chết của rất nhiều nhân vật khác trong tập Thành phố đi
vắng (14/16 truyện xuất hiện cái chết). Cái chết như một vết đen bình thản, ngang
52
nhiên phủ bóng lên đô thị hiện đại. Cái chết của không gian, cái chết của con người
làm đầy cái chết đang hiện diện trong lòng đô thị ngày một bất an và băng giá?
Đọc Thành phố đi vắng, có cái gì đó như bất nhẫn trong ngòi bút miêu tả đôi
lúc đến lạnh lùng của nhà văn trong truyện ngắn lấy làm tựa sách, nhưng cũng chính
nhờ vậy mà người đọc thấy thấm thía. Phố đông nhưng người phố cô đơn. Trong cái
đô thị hiện đại ấy, mờ mờ, nhàn nhạt là những nhân vật lát cắt, không điểm bắt đầu,
không kết thúc. Nó khác hẳn với loại nhân vật nhiều cảm xúc, trăn trở trong cuộc
kiếm tìm hạnh phúc đã làm thành đặc trưng cho nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ
ở những tập truyện ngắn trước. Sự tha hóa của con người biểu hiện đậm đặc ở trạng
thái sống vô cảm là tiếng chuông cảnh tỉnh cho con người đang sống hôm nay.
“Cảm nhận về sự vô cảm và/để không vô cảm trước sự vô cảm, có thể chăng, là một
đốm lửa ấm áp, không chỉ cho một “mùa đông” đã qua, mà cho cả bốn mùa của thị
thành đã đang và sẽ nhiều thêm hoang lạnh”.[59]
2.2.1.3.Nhân vật vƣợt lên hoàn cảnh
Trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ thường có những nhân vật không
thắng được hoàn cảnh và số phận. Họ chịu mất mát, thậm chí là “sự tiêu vong”.
Nhưng mặt khác, trong những trang truyện thấm đẫm nỗi đời ấy vẫn có những hình
ảnh con người biết tự đấu tranh trong tâm hồn để vượt lên trên hoàn cảnh, trở về với
bản ngã của chính mình, về với cuộc sống đích thực, giữ lại được nhân cách của bản
thân.
Đam mê với người tình, nhân vật Lan trong Một nửa cuộc đời đã khao khát
những điều mới lạ, đã có lúc quên đi trách nhiệm làm vợ, làm mẹ để say sưa theo
dục vọng riêng. Lối sống ích kỷ mải chạy theo tình cảm mù quáng sẽ biến cô thành
người đàn bà mất nhân cách nếu như không có một biến cố: hình ảnh người chồng
giả làm manơcanh, son môi toe toét, mắt xanh lè, mặc váy cũn cỡn đang làm trò để
dỗ con khiến cô cảm động. Nó đánh thức trong cô trách nhiệm và tình yêu thương
đối với gia đình bé nhỏ mà bấy lâu nay cô đã lãng quên. “Mắt Lan mờ mịt nước” –
cô đã khóc – những giọt nước mắt cảm động trước tình cảm của chồng con dành
cho mình. Đó là những giọt nước mắt chứa đựng sự ân hận muộn màng, cho thấy sự
thức tỉnh của tâm hồn người mẹ, người vợ. Sự nhận thức ấy đã níu Lan lại với gia
đình – một tổ ấm bình yên, thanh thản, chân thành.
53
Cũng đi theo tiếng gọi của tình yêu, người đàn ông trong truyện Lời thì thầm
của mùa xuân đã bỏ gia đình để vào với người yêu. Đêm đầu năm, không kịp
chuyến tàu, ông phải xin nghỉ lại một nhà của ba mẹ con đã mất chồng, mất cha.
Tình cảnh của ba mẹ con đã thức tỉnh tình cảm gia đình trong ông: “Cô biết đêm
qua, nằm trên chiếc giường này của mấy mẹ con cô, nhìn ba mẹ con ôm nhau ngủ,
tôi chỉ muốn có phép màu nhiệm gì đưa tôi về nhà, để quỳ xuống xin lỗi mấy mẹ
con...”. Ông thành thật thú nhận: “Với tôi, đêm qua là chấm hết một giấc mộng, để
cho tôi tỉnh lại. Tôi về nhà cô ạ”. Hành trình ngược trở lại mái ấm của người đàn
ông đã làm sáng lên giây phút thức tỉnh lương tri và tình cảm của người chồng,
người cha. Ông không còn ảo mộng theo một bóng hồng nơi viễn du. Người vợ bao
năm không nói một lời khi Tết nào chồng cũng bỏ đi là người nhân hậu và vị tha hết
mực. Đó là người giữ lửa để gia đình được vẹn tròn và sẵn sàng đón người đàn ông
trở lại.
Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ còn biết vượt lên chính hoàn cảnh vốn
chứa đựng nhiều bi kịch nhất. Có lẽ, không đau đớn và tủi hổ nào bằng khi một
người phụ nữ trẻ bị cưỡng hiếp bởi sếp của mình. Thế nhưng, xót xa hơn, người
chứng kiến cảnh ấy là anh – người yêu của cô - lại là kẻ tiếp tay cho hành vi dâm ô
ấy. Họ cười khả ố và sung sướng với nhau, bỏ mặc một cô gái đang đau đớn và bẽ
bàng. Cô tìm đến cái chết. Ý định về một vụ tự tử trong cô dần tan biến khi cô gặp
một ông già ngồi câu cá. Câu cá xong, ông lại đổ chúng xuống hồ vì “con vật còn
biết yêu cuộc sống...phải cho nó sống”. Lời nói của ông đã khơi dậy lòng yêu cuộc
sống trong cô. Cô bừng tỉnh. Cô khóc. Giọt nước mắt đầy cay đắng, đớn đau nhưng
cũng là giọt nước mắt của một nghị lực mạnh mẽ biết vượt lên trên hoàn cảnh.
Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ chứa đựng một sức sống
tiềm tàng nhờ nghị lực sống và khát vọng tình yêu, hạnh phúc cháy bỏng. Ước mơ
về hạnh phúc, tình yêu không được trọn vẹn trong cuộc hôn nhân hiện tại, người
phụ nữ trong Người đi tìm giấc mơ đã tự thắp lên ngọn lửa của niềm tin để tiếp tục
sống: nàng sống bằng những giấc mơ. Nàng mơ khi còn bà – một chỗ dựa mỏng
manh nhưng tin tưởng. Nàng mơ khi bị đuổi ra khỏi nhà và hóa điên, khi trong tay
chẳng còn gì, nàng vẫn không thôi khao khát. May mắn hơn nàng, người cô trong
Cõi mê đã tìm được hạnh phúc trong cuộc đời thực. Người cô dở dở điên điên lại
54
được một người đàn ông khỏe mạnh, bình thường yêu thương che chở vì cô không
mưu tính gì, cô nhân hậu và trong sáng quá đỗi. Chính tính thiện của con người sẽ
giúp họ tìm được hạnh phúc.
Nhân vật trong truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ biết vượt lên trên hoàn cảnh
cũng đồng thời là những con người có lương tâm và tự biết thức tỉnh, tự biết quay
đầu lại để tìm lại bến bờ của hạnh phúc trước khi đi quá xa. Họ có nghị lực, có khát
khao bỏng cháy và một sức sống tiềm tàng. Hoàn cảnh dẫu éo le và bi kịch nhưng
vấn không vùi dập được con người. Họ vẫn sống, vẫn ước mơ và thậm chí, tìm
được hạnh phúc cho riêng mình. Những trang viết của Nguyễn Thị Thu Huệ làm ấm
lòng người bởi những câu chuyện đầy tính nhân văn như thế.
2.2.2.Nghệ thuật xây dựng nhân vật
2.2.2.1.Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt ở những tác phẩm văn học hiện
đại thì miêu tả tâm lý đóng vai trò vô cùng quan trọng, bởi lẽ, tâm lý là phần làm
nên phần hồn của nhân vật. Nhà văn giỏi là người có khả năng phân tích tâm lý để
đưa lên trang viết những chân dung nhân vật có nội tâm sâu sắc.
Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã đi sâu phám phá thế giới bí ẩn của tâm hồn
con người. Nhà văn bên cạnh việc miêu tả hành động còn đi sâu tái hiện những
trạng thái và quá trình diễn biến tâm lý vốn rất đa dạng, phức tạp trong thế giới nội
tâm của nhân vật. Tâm lý nhân vật không chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày,
khái quát một vấn đề, một nội dung xã hội nào đó mà nó thực sự trở thành đối tượng
và mục đích sáng tác của văn học. Do vậy, một yêu cầu thiết yếu của sáng tạo nghệ
thuật là “phải chú ý nhiều đến tâm lý nhân vật, cố len lỏi vào thế giới bên trong của
nhân vật ấy, xem nó nói năng, nghĩ ngợi, hành động, cử chỉ thế nào cho đúng” (Bùi
Hiển).
Không phải ngẫu nhiên mà đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, nhà
nghiên cứu Đoàn Hương nhận xét: “Nhớ lại, tôi thấy gương mặt của Huệ giống như
những trang viết của cô: trẻ trung xinh đẹp mà lại có những nét già dặn, từng trải.
Gương mặt ấy biểu lộ một cá tính mãnh liệt nhưng lại yếu đuối. Tôi nói như vậy vì
sau này khi đọc văn của Thu Huệ, tôi không khỏi ngạc nhiên vì nó giống cô quá
thế” [22]. Những trang văn của Nguyễn Thị Thu Huệ rất giống với con người chị vì
55
nhà văn nữ đã sáng tạo nên những nhân vật từ cuộc đời thực, những mảnh tâm hồn
nhuốm cả những nghĩ suy của tác giả. Nhà văn đã hòa nhập vào số phận của nhân
vật, với bút pháp sâu lắng tình cảm của trái tim người đàn bà cầm bút để đưa lên
trang viết những diễn biến tâm lý nhân vật vô cùng tinh vi mà mạnh mẽ.
Ở 5 tập truyện ngắn đầu, Nguyễn Thị Thu Huệ thường viết truyện theo dòng
tâm trạng của nhân vật. Trong Cầu thang, Biển ấm, Hậu thiên đường, Cát đợi...tác
giả chú tâm vào “cái mà nhân vật thu nhận được ở bên trong tâm hồn họ, bàng
hoàng những câu đối thoại, những phản ứng hết sức tinh tế”. Bàng bạc trong những
trang truyện là cái “tôi” nhân vật tự kể về mình, tự phơi bày cảm xúc cá nhân: “Giờ
này. Hôm qua. Tôi mê đi trên chiếc giường hạnh phúc, chiếc giường có một không
hai trên thế gian này. Tôi yêu và tôi được yêu. Dù rằng đến phút ấy, tôi vẫn chưa
được gì trọn vẹn của cuộc đời. Luôn luôn cô đơn, khát khao một cái gì cụ thể, nên
chẳng bao giờ có” (Cát đợi). Những cảm xúc, cảm giác được nhà văn miêu tả chính
xác và tinh nhạy bằng những cụm từ khơi sâu vào nội tâm của nhân vật. Nhân vật
trở nên gần gũi và để lại ấn tượng mạnh với người đọc cũng vì những lời văn giàu
tâm sự như thế.
Miêu tả tâm lý với những diễn biến quanh co phức tạp trong tâm hồn nhân vật
là một trong những thế mạnh của ngòi bút Nguyễn Thị Thu Huệ. Truyện của chị ở 5
tập đầu không nhiều sự kiện mà chủ yếu là dòng chảy của tâm trạng. Nhân vật
mang trong mình tất cả những biểu hiện trái ngược, những đột biến tinh thần, những
khát vọng nhân bản, những bí mật riêng tư...Tâm lý của cô bé trong truyện Phù
thủy bị đặt trong một thế giới nghịch dị. Cái tự nhiên và phi tự nhiên đều được tái
hiện qua tâm hồn của một cô bé con mười hai tuổi. Không biết tự bao giờ, nó đã
sống trong sự lạnh giá, cô đơn. Nó nhận từ bố mẹ những cái tạt ngang mặt, họ gọi
nó là con khốn nạn, con quái đản. Một biến cố đã xảy ra. Ban đêm, khi bừng tỉnh
giấc, nó thấy bố và mẹ ngủ cùng nhau. Trên người bố và mẹ không có một mảnh vải
che. Lần đầu tiên nó nhìn thấy cơ thể đàn ông...Từ đó, nó sống trong bao nhiêu sự
đối lập, những câu hỏi cứ vây chặt lấy nó. Ban ngày là cãi vã chửi nhau, sắp đâm
đơn li dị. Ban đêm thì khác hẳn “đôi môi mẹ ban ngày khô nứt, đêm lại mềm mại
một màu hồng phơn phớt”. Nò dằn vặt với bao nhiêu ý nghĩ trong tâm hồn non nớt.
Nó chỉ có thể tự giải thích cho mình rằng ngày và đêm là hai thế giới.
Biến cố thứ hai xảy ra trong tâm hồn cô bé. Buổi sáng, lúc nó đi giặt, cổ áo
khoét rộng làm lộ toàn bộ khuôn ngực nó, một người đàn ông đã nhìn thấy và trầm
56
trồ khen ngợi...Mọi thứ dồn dập đến với nó. Những trò phù thủy của bố mẹ không
làm nó tò mò mà nó sợ. Hình ảnh người đàn ông bên giếng nước cộng với hình ảnh
của bố tối hôm kia khắc sâu vào thế giới vô thức của nó, đem đến giấc mơ nó biến
thành khỉ. Lúc này, phần sâu kín nhất trong tâm hồn đã vượt khỏi sự kiểm soát của
ý thức mà bộc lộ trong giấc mơ. Trong mơ, nó gào thét: “Cháu muốn làm người”.
Tiếng gào của con bé đã thể hiện nó đã bị vò xé trong thế giới vô thức, tâm hồn nó
bị vò nát nhàu nhĩ. Nó cô đơn, dần bị loại ra khỏi cộng đồng. Chỉ còn nó và thế giới
riêng khủng khiếp. Nó làm trò phù thủy và kết cục, con bé chỉ còn là một cây củi
cháy.
Nguyễn Thị Thu Huệ đã khắc họa một tâm hồn trẻ thơ bị thiếu tình cảm gia
đình, thiếu tình thương của đồng loại, bị bủa vây trong thế giới riêng đến cuồng
loạn. Mạch truyện hoàn toàn vận động theo tâm lý của nhân vật cô bé, khiến những
trang văn như cuốn xiết lấy người đọc bởi những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp
và quá tức tưởi của cô bé - một nạn nhân đáng thương của gia đình và xã hội.
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ cảm động vì đã khắc chạm những tâm
hồn nhân vật nhiều ngã rẽ ở nhiều chiều cảm xúc. Để tăng hiệu quả biểu đạt của
ngôn ngữ, nhà văn thường dùng biện pháp độc thoại nội tâm nhằm bộc lộ tâm trạng
nhân vật. Độc thoại nội tâm là “phát ngôn của nhân vật nói với chính bản thân mình,
trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý bên trong; kiểu độc thoại thầm (hoặc lẩm bẩm),
mô phỏng hoạt động suy nghĩ, cảm xúc của con người trong dòng chảy trực tiếp
của nó” [3, 127]. Những diễn biến trong tâm trạng nhân vật được thể hiện qua suy
nghĩ, cảm xúc cụ thể do nhân vật ấy tự thể hiện, phơi bày.
Bằng độc thoại nội tâm, Nguyễn Thị Thu Huệ đã khắc họa những nhân vật tự
trải lòng về suy nghĩ và cảm xúc riêng. Đó là lời tự nói với mình của Sao trong Giai
nhân: “Khốn nạn. Sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tôi thì cô đơn thế này?
Ai đến với tôi bây giờ. Chẳng lẽ. Cuộc đời của tôi. Một người đàn bà ba mươi tám
tuổi thế này mãi sao? Cứ đợi một cái gì mà chính mình không biết. Bên ngoài cánh
cửa kia. Có thể là thiên thần. Có khi là quỷ dữ. Cái thời mà mình được quyền chọn
lựa qua rồi sao?”. Đó là lời của “em” – một cô gái trẻ khi chứng kiến người yêu
không chung thủy: “Bỗng em đứng khựng lại, tim em đập như muốn vỡ ra. Anh, anh
của em đang ngồi cạnh một người con gái, tóc cô ta rất ngắn, còn ngắn hơn cả tóc
em, xinh và tươi rói” (Một chiều mưa). Qua những lời độc thoại nội tâm của nhân
vật, người đọc có thể hiểu rõ được tâm trạng của nhân vật được trần thuật.
57
Khi diễn tả lại lời độc thoại nội tâm của nhân vật, nhà văn Nguyễn Thị Thu
Huệ hay sử dụng kiểu câu rút gọn. Những câu văn bị tỉnh lược một vài phần, hoặc
chủ ngữ, hoặc vị ngữ. Cũng có thể là một câu vốn đầy đủ thành phần câu mà trong
một tình cảnh nhất định nà đó và để phục vụ cho mục đích trần thuật, câu đó bị ngắt
quãng hành những câu chỉ gồm một từ, một cụm từ hay một đoản ngữ. Sự xuất
hiện loại câu này biểu thị nhiều sắc thái cảm xúc cá nhân của nhân vật trong một
hoàn cảnh bất ngờ nào đó, vì vậy, dù câu từ ngắn gọn nhưng nó lại gợi nhiều dư ba.
Trong Hậu thiên đường, kiểu câu rút gọn được sử dụng để miêu tả tâm lý của
người mẹ - người trần thuật. Nó thể hiện tâm trạng của cái tôi trần thuật. Đó là tâm
trạng bất ngờ, kinh ngạc và khó lý giải trước sự trở về của những ký ức đau lòng xa
xưa, hoặc trước những đổi thay của người con gái: “Bỗng dưng. Chiều nay. Tất cả
ùa về. Đầy ắp ứ như thể có ai đó đã thu gom mọi thứ vào một cái bao tải to tướng,
buộc chặt nút lại. Và nay, đem mở òa ra trước tôi. Đủ đầy, nguyên vẹn.
-Sổ nhật ký. Hóa ra con gái tôi lớn hơn tôi tưởng rất nhiều.
-Người tôi thoắt lạnh thoắt nóng. Rồi bắt đầu run.
-Im lặng. Rồi một lúc, nó khe khẽ trả lời: Vâng ạ!
-Tôi im lặng. Người lạnh ngắt.
-Chỉ có điều, đấy không phải là khuôn mặt đợi chờ mà là khuôn mặt đàn bà.
Người đàn bà 16 tuổi”.
Câu rút gọn thể hiện tình cảm và thái đội bạc phơ, nhạt nhẽo của cái tôi từng
trải đối với cuộc sống và đàn ông:
“-Còn tôi. Lúc ấy. Tôi không hề nhớ rằng hôm nay là sinh nhật nó.
-Hàng tối. Khi ông này, ông nọ đưa tôi về, con gái ra mở cửa...
-Tôi là một cái hiện để họ có thể chạy vào đó, yên tâm tưng tửng chờ cho qua
cơn mưa. Rồi về nhà.
-Hoặc trồng cây gì ăn quả nấy, hay gieo gì gặt nấy. Nhưng tôi. Tôi có gieo gfi
đâu mà sao đời tôi gặt toàn cỏ dại.
Câu rút gọn còn thể hiện tâm trạng khổ đau, hoảng sợ và cuồng điên của người
trần thuật:
“-Mắt tôi bỗng đập vào một rừng hoa. À không, pháo hoa chứ. Còn nhớ. Năm
hai mươi bốn tuổi. Tôi và người tình đầu tiên lạch chiếc xe đạp từng tý một. Giữa
dòng người. Chân chôn chặt dưới đất nhưng ai cũng ngửa cổ lên trời. Để xem pháo
hoa. Từng chum hoa lắc rắc trên bầu trời tím ngắt...Bây giờ. Những chùm hoa lại
58
trở về. Chỉ có điều, nó không rung từ bầu trời màu tím nữa, mà ùa thẳng vào mặt
tôi.
Tôi không biết gì nữa ngoài cảm giác tất cả tan biến hết. Con gái. Người đàn
ông thích ăn xôi buổi sang cho chắc dạ. Những chùm pháo hoa. Tất tật. Chẳng còn
gì ngoài sự hư vô.”
Những câu rút gọn cho ta thấy rõ tâm trạng của người mẹ đã đi đến hai thái
cực đối lập nhau: quá lí tính hoặc mất lí tính. Những câu rút gọn gồm các từ kèm
chỉ thời gian, tính từ chỉ trạng thái, danh từ chỉ phương vị và động ngữ, khiến người
đọc cảm nhận được sự đau khổ, vật vã, ân hận và mặc cảm của nhân vật chính. Câu
rút gọn giúp người tiếp nhận có thể nhìn thấu đáo, chi li từng tý một nội tâm phức
tạp, mâu thuẫn của người trần thuật. Sức truyền cảm mạnh mẽ ở chỗ chúng đều có
hình thức câu ngắn gọn, tạo hiệu quả gọn gàng, tập trung, mạnh mẽ và có tính tiết
tấu mạnh về sắc thái tu từ. Các trường hợp tương tự dễ tìm thấy ở các trang viết
khác của Nguyễn Thị Thu Huệ.
Độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ được thể
hiện ở những lời nhân vật tự nói/kể về mình mà còn bộc lộ ở hình thức đặc biệt
khác – hình thức nhật ký. Xét dưới góc độ trần thuật học, nhật ký trong các văn bản
tự sự có những đặc trưng của nó. Một là: Tính riêng tư của nhật ký đã quyết định nó
chỉ thuộc về người sáng tác ra nó, người trần thuật cũng như người tiêu điểm hóa
của nhật ký chính là người sáng tác ra nó. Hai là: Điểm nhìn của người trần thuật
trong nhật ký đồng nhất với điểm nhìn của tác giả tiềm ẩn, vì vậy, người trần thuật
này đáng tin cậy hơn. Ba là: Trong nhật ký, người trần thuật có thể kể bất kỳ thứ gì
nghe được, cảm nhận được...Trong Hậu thiên đường, qua nhật ký của „con”, người
tiếp nhận trần thuật – người mẹ đã sực tỉnh bao lâu nay mình đã vô tâm, không biết
rằng con đã lớn và con đang yêu. Những dòng chữ con viết là một sự kiện tạo nên
sự thay đổi tâm lý ở người mẹ.
Việc sử dụng độc thoại nội tâm đã giúp Nguyên Thị Thu Huệ khai thác được
sức mạnh tính chất tức thì của dòng tâm tư, khiến dòng suy nghĩ của nhân vật được
hình dung lại ngay trên lối viết. Bởi vậy, không chỉ từ vựng và giọng điệu của nhân
vật được khôi phục mà các ý nghĩa thầm kín, mơ hồ, lộn xộn nhất của nhân vật
cũng được ghi lại. Cách viết bất chấp cú pháp, bất chấp quy ước văn phạm chính là
cố gắng mới mẻ của các nhà văn với mục đích thể hiện trung thành dòng tâm tư, suy
nghĩ của nhân vật. Sử dụng độc thoại nội tâm, nhà văn có điều kiện đi sâu vào thế
59
giới bên trong, mô tả những chuyển động tinh tế của tâm hồn con người cá nhân.
Những suy nghĩ, dằn vặt, những khát khao kiếm tìm, khao khát thương yêu như một
chùm dây xoắn kết, đan bện, đôi khi biến ảo, trùng điệp làm sáng lên những thao
thức rất con người trong trang truyện Nguyễn Thị Thu Huệ.
Ngoài độc thoại nội tâm, nhà văn còn xây dựng những đối thoại nhằm soi tỏ
tâm hồn con người từ nhiều phía. Qua đối thoại, người đọc mới hiểu được tâm tư
của Vang – thợ khóc mướn trong Người đàn bà ám khói. Vang nói chuyện với
người yêu cũ nhưng cũng là tự thú với chính mình về những lầm lạc trong quá khứ
với biết bao nhiêu xót xa, tiếc nuối. Từ những đối thoại không đầu không cuối trong
truyện Người xưa, độc giả hiểu người phụ nữ đã không còn níu lại tình yêu cũ, vì
chị quan niệm: “Đã từng có một mảnh tình chạy qua đời, hãy để nó vào chỗ của nó”.
Nếu như đối thoại trong 5 tập truyện đầu của Nguyễn Thị Thu Huệ là nguyên
cớ để nhân vật bộc lộ nội tâm, chiếm vị trí thứ yếu so với độc thoại thì ở tập truyện
Thành phố đi vắng, đối thoại lại chiếm ưu thế. Độc thoại nội tâm chỉ được đặt vào
những nhân vật giàu suy nghĩ và cảm xúc như cô gái trong Một đời sống khác. Cô
đau đầu đến khốn khổ vì những giấc mơ nhưng lại sống không thể thiếu nó. Độc
thoại nội tâm của cô vang lên khi cô kể về những giấc mơ ấy – về kỷ niệm với
những cảm xúc cứa sắc luôn kéo cô đi đến tận cùng. Độc thoại nội tâm cũng giúp
người đọc cảm nhận rõ những cung bậc cảm xúc của cô gái trong Thành phố đi
vắng phải trải qua. Từ sự bực tức trước thái độ hăm dọa của bác lái xe đến cảm giác
“thèm nghe tiếng người lào xào ngày xưa”, rồi “cơn tủi thân, cô độc giữa chốn
đông người và ý thức những điều mất mát, tốt đẹp đã tuột mất trong đời”, cảm giác
“lạnh” khi chứng kiến sự độc ác của con người khi thản nhiên giết chết một chú chó
con.
Trong khi độc thoại với kiểu lời nửa trực tiếp đã diễn tả vòng xoáy tâm trạng
nhân vật thì đối thoại không ăn khớp lại đẩy nhân vật đến bi kịch cuối cùng: cái chết.
Khi cô gái hỏi dồn dập ông bác sĩ về những sự thay đổi của thành phố thì đáp lại cô
chỉ là thái độ dửng dưng nguội lạnh cùng một kết luận: “Tâm thần giai đoạn 2”. Sự
không hồi đáp của ông bác sĩ đã đẩy cô gái đến tận cùng của sự bế tắc và tuyệt vọng.
Cô đã chết, kết thúc số phận một con người sống sâu sắc và giàu lòng trắc ẩn, trả lại
cho thành phố vẻ đông máu đến kinh người của nó.
Trong tập Thành phố đi vắng, những đối thoại chỉ là những câu nói nhái, lặp
đi lặp lại vô cảm, vô nghĩa, đối thoại phi đối thoại, câu trả lời không mang tính chất
60
trả lời xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm. Trong những đối thoại nhủng nhẳng
không còn gì để giao tiếp, để hiểu nhau trên, ngôn ngữ như một thứ vũ khí để đối
đầu. Đối thoại không phải để con người đến gần nhau hơn mà đẩy nhau ra xa hơn.
Mỗi nhân vật là một thế giới riêng, xa lạ với đồng loại và với chính mình. Con
người mất khả năng giao tiếp. Đó là hình tượng con người được Nguyễn Thị Thu
Huệ cố công xây dựng trong tập truyện gần đây nhất. Nó biểu thị một đời sống thị
dân mới, không đặc trưng bởi sự ồn ào, bát nháo, mà bởi sự cô độc, đơn độc của
con người giữa rừng người. “Một đời sống thị dân mong manh, như đứng bên bờ
vực của sự đổ vỡ, tan biến cùng sự nhạt nhòa của cá thể người, của cả lớp người,
tập đoàn người mà bề ngoài, vẫn tưởng chừng như đang ken chặt bên nhau thành
khối vững bền”.[59].
2.2.2.2.Nghệ thuật xây dựng tình huống
“Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt
của dòng đời” [36, tr227] – “mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những
đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời
của thảo mộc”[36, tr223]. Hạn chế về dung lượng, truyện ngắn tạo dựng cho mình
thế mạnh ở khía cạnh khác: nó chớp lấy những khoảnh khắc đặc trưng nhất, giàu ý
nghĩa nhất để đậm tô, làm bật lên lớp ý nghĩa nhân văn lay động lòng độc giả.
Những khoảnh khắc lóe sáng và có chiều sâu như vậy, người ta gọi đó là tình huống.
Tình huống là yếu tố đóng vai trò quan trọng vào bậc nhất trong sáng tác truyện
ngắn.
Từ xa xưa, nhà Mĩ học nổi tiếng người Đức Hêghen đã dụng công phân tích về
đặc điểm tình huống truyện. Theo đó, có thể hiểu: “tình huống giúp cho những gì
còn nằm trong hình thức chưa phát triển nay bộc lộ và hoạt động tích cực, là một
trạng thái có tính chất riêng biệt, tình huống trở thành xung đột truyện và là bước
trung gian trong quá trình phát triển của truyện” [36].
Nếu coi truyện ngắn là “một trường hợp” như Nguyễn Kiên hay “một vấn đề”
như Nguyễn Công Hoan thì tình huống trong truyện đóng vai trò như một dấu mốc
trung tâm, hạt nhân chưng đọng cái bản nguyên độc đáo và đầy đủ của “trường
hợp” hay “vấn đề” đó.
Văn học là hình bóng của cuộc đời. “Cả cuộc đời phải chen chúc trong vài
phút” (Frank O‟Connor), người viết truyện ngắn phải vận dụng suy nghĩ, tri thức,
vốn sống, sự nhạy cảm thiên bẩm để nhận ra “vài phút” quý giá đó làm chất liệu để
61
xây dựng những tình huống độc đáo. Tạo được tình huống, nhà văn sẽ có cớ, có đà
để khiến nhân vật bộc lộ phần tâm can nhất, phần ẩn náu sâu kín nhất – và có khi
hình ảnh của “đời người, đời nhân loại” từ đó mà được hiện sinh.
Nhà nghiên cứu phê bình Bùi Việt Thắng – người theo dõi sát sao sự phát triển
của thể loại truyện ngắn đã phân chia tình huống truyện thành ba loại dựa trên
phương pháp loại hình: tình huống - tâm trạng (tình huống - tâm lý), tình huống –
kịch và tình huống – tượng trưng. Lấy sự phân chia đó làm hệ quy chiếu khi phân
tích truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi thấy được: chủ yếu truyện ngắn
Nguyễn Thu Huệ có tình huống – tâm lý.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Có những nhà văn lại cố tình đưa
nhân vật của mình vào những va chạm bình thường hàng ngày, những tình thế giao
tiếp hàng ngày, ai cũng đã nhiều lần trải qua và các tình thế xảy ra lại nằm trong
tâm trạng, tính cách nhân vật” [36, 119]. Với loại tình huống này, tác phẩm được
triển khai dựa trên tâm lý của nhân vật với những bức xúc và dằn vặt nội tâm, lấy sự
vận động của nội tâm là cơ sở thúc đẩy cho truyện phát triển.
Nguyễn Thị Thu Huệ đã đặt nhân vật trong những va chạm thường ngày của
cuộc sống, của hoàn cảnh. Những va đập ấy không phải bao giờ cũng to tát, không
phải bao giờ cũng là những biến cố quá lớn lao hay sự kiện trọng đại mà chỉ đơn
thuần là một sự việc nho nhỏ nhưng buộc người ta phải suy nghĩ, trở trăn, dòng tâm
tư từ đó không ngừng vận động.
Người mẹ trong Hậu thiên đường có lẽ vẫn sẽ về khuya, vẫn sẽ có khoảng
cách khá xa và không thấu hiểu cô con gái đang tuổi dậy thì của mình nếu một ngày
kia, chị không đọc được cuốn nhật ký của con. Tình huống này đã đánh thức trong
lòng chị nỗi lo lắng cho con trước những cạm bẫy của cuộc đời – nơi mà chị đã từng
trải qua. Đến khi, phát hiện con đã thành đàn bà, tất cả vỡ òa trong lòng người mẹ:
“Tôi run rẩy đứng lên. Chống chếnh và quay cuồng. Sao lại thế hả con? Con lú lẫn
mất rồi. Tôi phải làm gì bây giờ hả trời? Không phải con đang chấp chừng ở miệng
vực nữa mà đang ở trong lòng vực rồi. Bao giờ thì chìm xuống đáy? Giống như
người điên. Lại giống như kẻ bị mất của...Cuồng điên, tiếc nuối và bất lực. Tôi lao
ra đường”. Chính con đường bất hạnh đau khổ mà người con đang đi, người mẹ
nhận ra lỗi lầm của mình, để rồi “Tôi cảm giác như mình đang bắt đầu đứng ở cuối
con đường, nhìn thấy con mình đang dẫm chân lên những nơi mà tôi đã đi qua,
62
nhưng không sao ngăn nó lại được”. Cái chết là kết cục bi thảm của mẹ và báo hiệu
những chuỗi ngày bi kịch của con.
Quả thật, trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tình huống truyện không có
những mâu thuẫn lên đến mức đỉnh điểm như trong kịch, nhưng nó vẫn buộc nhân
vật phải suy nghĩ, dằn vặt, thậm chí, đẩy nhân vật đến cái chết. Trong Người đi tìm
giấc mơ, vì cô gái không sinh được con cho gia đình nhà chồng nên mới bị đánh
đập tàn nhẫn và đuổi đi, kết thúc một hy vọng đổi đời, làm cô hóa điên và sống nhờ
những giấc mơ không có thật. Truyện Không thể kết thúc có một tình huống khá
hài là trong nhà bỗng xuất hiện lũ bọ chét. Từ đây, những sự việc như đánh tráo đồ
cổ của bác dâu, sự rạn nứt của một gia đình mới được phơi bày rõ rệt. Phòng chiếu
phim số 9 xoay quanh một tình huống là cái chết của chàng trai đang ngồi xem
phim cùng bạn gái. Sống gửi thác về có tình huống là Luyến (người vợ) chết, cuộc
sống của cha con Tân (người chồng) và thằng Đại Dương (con trai) vẫn không thay
đổi. Con người sống vô cảm như những cỗ máy thời hiện đại.
Trong 61 truyện ngắn của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ đã chọn “một khoảnh
khắc cuộc sống với một vài sự việc diễn biến sơ sài và cũng bình thường
thôi...nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ phần tâm can nhất,
cái phần ẩn náu sâu kín nhất. Thậm chí có khi đó là cái khoảng khắc chứa cả một
đời người, một đời nhân loại” [26, 313]. Với những tình huống đời thường giản dị,
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tìm được một phương cách để xây dựng nên những chân
dung nhân vật của đời sống thường nhật hàng ngày, ngay xung quanh chúng ta.
Hiện thực cuộc sống chảy vào trang viết của chị tự nhiên mà xúc động, bắt đầu từ
sự lựa chọn tình huống. Bởi vì, nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Với truyện
ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết, tôi nghĩ rằng đôi khi người ta nghĩ
được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay, thế là coi như xong một nửa” [26,
320].
63
CHƢƠNG 3: KẾT CẤU VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ
3.1.Nghệ thuật tổ chức kết cấu
Theo nhà phê bình Bùi Việt Thắng, kết cấu là một yếu tố của hình thức, vì thế
vai trò của nó được thể hiện trong việc thực hiện nhiệm vụ với các yếu tố của nội
dung như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện, các yếu tố ngoài cốt truyện. Song,
vì “nội dung chẳng là cái gì khác mà là hình thức chuyển hóa thành nội dung, còn
hình thức chẳng là cái gì khác mà chính là nội dung chuyển hóa thành hình thức”
(Heghen), vậy nên, kết cấu xét đến cùng thì tuân thủ theo những yêu cầu tối cao của
nội dung mà nó thể hiện” [36, 99].
Trong tác phẩm văn học, kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong
bố cục tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung
của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng
nhất định. Bởi thế, kết cấu gắn kết chặt chẽ với các thành tố của tác phẩm. Kết cấu
thường có tác động đến các yếu tố thuộc lĩnh vực nội dung như chủ đề, tư tưởng,
tính cách, cốt truyện...Trong nghệ thuật tự sự, kết cấu đảm nhận vai trò tổ chức
không gian, thời gian, điểm nhìn trần thuật, người kể chuyện...Vì vậy, có ý kiến cho
rằng, kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể
hiện nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ thể hiện ở sự tiếp
nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận đoạn, chương mà còn
bao hàm liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết
cấu là phương diện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật, kết cấu phải đảm bảo
chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn
cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn cụ thể của
tác phẩm như là một “chiến lược thẩm mỹ”.
Đối với sáng tác truyện ngắn, việc tìm tòi, sáng tạo xây dựng kết cấu càng trở
nên quan trọng. Bởi lẽ, “nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là
cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở
người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực
có một thứ kỹ thuật tinh xảo – kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kỹ thuật
của người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự
nhiên” [6, 251]. Cùng chung tư tưởng với nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhà văn
Nguyễn Kiên đúc kết: “Truyện ngắn thường chỉ phản ánh một khoảnh khắc, một
64
mẩu nhỏ nào đó của cuộc sống. Nhưng cuộc sống không phải diễn ra trên một mặt
phẳng nên các mẩu nhỏ đó vẫn là một khối – hơn nữa, một khối chuyển động” [36,
100].
Truyện ngắn là một lát cắt của một thân cây thảo mộc trăm năm, là một bức
tranh thu nhỏ của đời sống, là một khoảnh khắc lóe sáng nhất mà nhà văn chớp lấy
để truyền đến bạn đọc, trong đó, nội dung thông tin mà nó dung chứa có sức nén
cực kỳ lớn (có người còn gọi truyện ngắn là tiểu thuyết thu nhỏ). Vì vậy, hơn bất cứ
một thể loại nào khác, truyện ngắn cần một kết cấu chặt chẽ, hiệu quả để truyền tải
đến người đọc nội dung tư tưởng của tác phẩm. Nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng:
“Vấn đề là anh tổ chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như
người ta vẫn thường nói, toàn truyện là một vòng khép kín, không dài quá, không
ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào” [36, 101].
Để tạo nên một kết cấu truyện ngắn mới lạ và hợp lý, tất cả phụ thuộc vào tài
năng của người cầm bút. Đây chính là thước đo năng lực tổ chức, xây dựng tác
phẩm của nhà văn. “Viết truyện ngắn tức là chơi bố cục” (chữ bố cục ở đây hiểu là
kết cấu). “Sáng tác truyện ngắn là một thử thách tài nghệ nhà văn, cũng là một cách
nhà văn tự thể hiện mình, trong độ dài vài đến cả chục trang không thể che chắn
được buộc phải cố gắng tối đa. Trong những tìm tòi nghệ thuật ở thể loại này, nếu
nói không quá thì tìm tòi kết cấu không phải chỉ nằm ở cấp độ chơi mà là cấp chiến
lược quyết định sự thành công tác phẩm ở tầm vĩ mô, có tính chất vạch lối sáng
tạo” [36, 109].
Những nhà văn tài năng luôn biết tìm một kết cấu hợp lý cho tác phẩm. Nghệ
thuật tổ chức kết cấu chính là hành trình đi tìm cho truyện một cách sắp xếp các
chất liệu, khiến câu chuyện được kể một cách thú vị nhất. Khác với các nhà văn cổ
điển thường lựa chọn kết cấu tuyến tính để kể, các nhà văn hiện đại đã vận dụng
nhiều phương pháp khác nhau để tạo nên các kiểu kết cấu khác nhau, như kết cấu
bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm lý,
kết cấu phân mảnh... Trong 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi
nhận thấy nhà văn thường sử dụng các hình thức kết cấu như sau: (1) Kết cấu đảo
trật tự thời gian của sự kiện; (2) Kết cấu tâm lý; (3) Kết cấu phân mảnh; (4) Kết cấu
mở (kiểu kết thúc để ngỏ).
65
3.1.1.Kết cấu đảo trật tự thời gian của sự kiện
Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn Việt Nam thời kỳ sau
1986 đem lại và đạt được nhiều thành tựu trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự
đảo lộn thời gian của sự kiện – tức là nghệ thuật trần thuật không theo trình tự diễn
tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính. Trong các tác phẩm có kết cấu
này, thời gian của sự kiện và thời gian trần thuật không trùng khít.
Thời gian sự kiện hay còn gọi là thời gian lịch sử được coi là sự diễn tiến của
các sự kiện trong tính kế tiếp hay đồng thời nghiêm ngặt của nó như là chúng đã
được hoàn thành xét về mặt chiếu vật, là tính “niên biểu” của các sự kiện hình thành
nên truyện. Thời gian tự sự là thời gian của trật tự các sự kiện đã được phân bố lại
trong truyện do sắp xếp chủ quan của người kể chuyện. Chính độ “vênh” giữa thời
gian sự kiện và thời gian trần thuật đã tạo nên một kiểu kết cấu độc đáo.
Với sự đảo lộn trật tự thời gian sự kiện, truyện có thể bắt đầu ở hiện tại, sau đó,
trần thuật lại quá khứ, có khi lại mường tượng về tương lai. Các lớp thời gian xoay
chuyển liên tục nhằm khắc họa một thế giới riêng: thế giới nghệ thuật. Ở đó, người
đọc có thể cùng với người kể chuyện, nhân vật tham dự vào mọi mảnh đời, mọi
ngóc ngách trong tâm hồn nhân vật, từ hiện tại trở về quá khứ, dịch chuyển từ thế
giới thực sang ảo...Đó cũng chính là khả năng kỳ diệu và to lớn của nghệ thuật, với
những phương tiện cũng hết sức kỳ diệu của nó, có thể thể hiện hiện thực phong
phú của cuộc sống, làm giàu tâm hồn và tri thức của con người, bằng cách cho họ
“sống nhiều cuộc sống khác nhau” qua tác phẩm, khiến họ có “mắt nhìn khắp sáu
cõi, “tấm lòng thấu suốt nghìn đời” (Mộng liên đường).
Trong giai đoạn văn học ở thời kỳ đổi mới, kết cấu đảo lộn trật tự thời gian
của sự kiện trở nên rất phổ biến. Cũng như các nhà văn khác, Nguyễn Thị Thu Huệ
đã vận dụng kết cấu này để tạo nên sức hấp dẫn, độc đáo của mỗi tác phẩm. Quá
khứ - hiện tại – tương lai – những chiều thời gian luôn quấn quện trong từng truyện
ngắn, mở ra một hiện thực nhiều biến động, một thế giới tâm hồn nhiều nhạy cảm,
sâu sắc.
Bảy ngày trong đời là câu chuyện được trần thuật với kết cấu đảo trật tự thời
gian của sự kiện. Tác phẩm kể về tình yêu của Lụa – một cô thôn nữ ngây thơ, dịu
dàng, có một tình yêu trắng trong, thủy chung với Sáng – một người lính bị thương
trở về từ chiến tranh. Truyện bắt đầu bằng mối tình của họ bên bờ biển, những dư vị
ngọt ngào hòa lẫn với dự cảm không hay về tương lai xa xôi, về tình yêu của người
66
lính. Xen trong những lời hứa hẹn yêu thương về cuộc sống vợ chồng của Sáng, ta
thấy cả quá khứ chiến tranh dội về với bom rơi đạn lạc, những lần bị thương, trầy
xước. Rồi Lụa mang thai và sinh con sau lần chia tay với Sáng mà không biết anh đi
đâu. Lụa một mình chịu đựng tất cả sự dèm pha của hàng xóm, sự dằn vặt đau khổ
của cha mẹ, nỗi khổ tâm trong tâm hồn về tình yêu không bến đỗ. Đã nhiều lần cô
muốn tìm đến căn nhà của anh chiến sĩ mù – bạn của Sáng để tìm ra sự thật, để đứa
con gái bé nhỏ của mình có cha. Nhưng danh dự đã ghìm bước chân cô lại ngay
trước ngưỡng cửa, bởi cô biết: “Đàn ông, cái sự quên nhớ của họ đều có ý thức. Họ
đã không muốn cái gì thì đừng cố mà giữ, đâu phải cứ có ba đầu sáu tay phồng
mang trợn mép lên là giữ được? Anh không đến, có nghĩa là anh không muốn. Vậy
Lụa tìm đến để làm gì?” Rồi cuối cùng, Lụa và con gái cũng gặp được Sáng để nhận
ra một sự thật là Sáng không bỏ mẹ con cô để tìm hạnh phúc riêng cho mình, anh
phải một mình chống chọi lại với bệnh tật – di chứng ác liệt của chiến tranh. Tình
yêu chân thành và cao thượng của người lính đã cho ta bài học nhân sinh sâu sắc về
con người và cuộc sống.
Ta có thể logic hóa mạch kể của truyện theo sơ đồ sau:
*Mạch truyện theo trật tự thời gian tuyến tính (thời gian sự kiện của truyện):
Sự kiện 1: Sánh bị thương hồi chiến tranh (1)
Sự kiện 2: Tình cảnh của Sáng hồi chiến tranh: trở thành người vô sản (2)
Sự kiện 3: Sánh rời quân ngũ trở về quê, mất nhà (3)
Sự kiện 4: Sánh gặp và yêu Lụa, hai người có sáu ngày bên nhau, Sánh quyết
định giấu Lụa về sự ra đi của mình (4)
Sự kiện 5: Sánh và Lụa hẹn hò (trước hôm Sánh đi một ngày) (5)
Sự kiện 6: Lụa có thai, Sánh đi từ hôm hẹn chưa về. (6).
Sự kiện 7: Lụa nhớ về lúc Sánh và Lụa nói chuyện về việc sinh con (7)
Sự kiện 8: Lụa nhớ về chuyện Sánh hứa cưới Lụa làm vợ (8)
Sự kiện 9: Bố mẹ Lụa tra hỏi Lụa (9).
Sự kiện 10: Cái thai trong bụng lớn dần nhưng Lụa vẫn quyết định không đi
tìm Sánh mặc cho bố mẹ măng chửi (10)
Sự kiện 11: Lụa sinh con gái, đặt tên là Khánh (11).
Sự kiện 12: Lụa tìm gặp bạn của Sánh (12)
Sự kiện 13: Bạn Sánh đưa mẹ con Lụa đi gặp Sánh (13)
*Mạch truyện được tổ chức lại theo kết cấu đảo trật tự thời gian của sự kiện:
Sự kiện 1
67
(2) (3) (4) (8) (1) (5) (10) (6) (7) (9) (11) (12) (13)
Trong mạch kết cấu của truyện, xen lẫn vào sự gặp gỡ của các nhân vật là
những dòng hồi ức, những sắc thái tâm lý, những sự kiện cuộc đời được tác giả
khéo léo đưa vào nhằm giải thích và hợp lý hóa kết thúc truyện. Trong cuộc hẹn hò
với Lụa, không phải vô cớ khi Sánh nhớ lại những chi tiết về cuộc chiến tranh trong
quá khứ, về sự hi sinh của đồng đội. Chi tiết này nhằm giải thích cho hình ảnh của
Sánh ở phần cuối truyện: “Sánh của cô đang đến gần. Hai chân lệt sệt như không
muốn nhấc lên khỏi mặt đường. Anh nhìn Lụa. Vô hồn. Hình như anh không nhận
ra cô”.
Chi tiết Sánh nhớ lại hoàn cảnh của mình sau chiến tranh: “Anh chợt nhớ ra
tình cảnh của mình. Lá thư của cô út theo đuổi anh suốt chặng đường hành quân.
Hôm qua, thằng Thản cùng quê đã nằm lại trên khoảnh đất cao cao góc rừng. Một
mảnh đạn bay qua và ở lại trong thái dương đã mang đi cuộc sống của nó. Bố anh
mất được hai năm thì bây giờ đến mẹ. Cô em theo chồng về quê sinh sống. Căn nhà
ngói cũ kỹ bán ồi vì anh chưa hẹn ngày về. Đại khái bỗng nhiên bây giờ anh trở
thành người vô sản.” đã giải thích cho sự ra đi không lời giải thích của anh đối với
Lụa.
Sử dụng một hệ thống kết cấu đảo lộn về mặt thời gian, không theo tuyến tính,
nhà văn muốn dồn sức nặng vào phần kết của câu chuyện. Sự ra đi của Sánh mang
theo bao hoài nghi, để lại một người đàn bà đau khổ với một đứa con thơ dại không
biết mặt cha. Toàn bộ câu chuyện là những câu hỏi, những nỗi niềm thắc mắc lớn:
Cha của đứa bé là ai? (Thắc mắc của cha mẹ Lụa); Sánh đi đâu? Tại sao Sánh ra đi
mà không có lý do? (Thắc mắc của Lụa); Sánh là người tốt hay xấu? Người bạn mù
xuất hiện trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào? (Thắc mắc của độc giả). Nguyễn
Thị Thu Huệ đã khiến nhiều đối tượng phải băn khoăn để rồi đến cuối truyện, tất cả
mọi câu hỏi được giải đáp bằng một cái kết có hậu, người đọc mới nhận ra bao điều
về tình nghĩa thủy chung của tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa những người đồng chí,
đồng đội. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, ta mới nhận ra rằng: hạnh
phúc không ở đâu xa, hạnh phúc ở ngay trong mỗi con người, chỉ có điều, ta phải
biết giữ gìn, phải có lòng tin thì hạnh phúc ấy sẽ đến với ta trọn vẹn. Kết cấu đảo
lộn thời gian của sự kiện, xáo trộn trật tự chi tiết nhằm lý giải sâu sắc hiện thực chứ
không chỉ dừng lại ở việc tái hiện đời sống.
68
Quá khứ và hiện tại – hai chiều thời gian luôn di chuyển, đắp đổi trong nhiều
tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ. Quá khứ và hiện tại có thể tương trợ cho nhau
(quá khứ trợ giúp cho sự việc ở hiện tại xảy ra, tiếp diễn), cũng có thể đối chọi nhau
gay gắt. Hai mảng màu quá khứ - hiện tại đối lập nhau tạo nên “khoảng không” cho
những diễn biến tâm lý mang tính bi kịch của nhân vật. Sự sắp xếp hai lớp thời gian
luôn trở đi trở lại với sự va chạm gay gắt đã tạo nên kết cấu theo trật tự tái điệp thời
gian của truyện ngắn Thành phố đi vắng. Ở tác phẩm này, các tổ hợp chập đôi của
thời gian hiện tại – quá khứ, quá khứ - hiện tại cứ dằng díu vào nhau. Đây là cơ sở
dẫn đến tâm lý hỗn loạn, “sốc” của cô gái sau khi trở về thành phố cũ.
Truyện được tổ chức theo trình tự sau:
A: Cô gái lên xe bus số 300, bắt gặp những ánh mắt lạnh lùng của người đối
diện.
B: Ngày ấy. Thường vào cuối tuần, cô và anh nhảy lên bất kỳ chiếc xe bus nào
trước mặt. Mọi người va đập vào nhau, cùng cười. Cô, anh và bác tài luôn vui vẻ
chia sẻ mọi chuyện cùng nhau, bác tài trở thành hướng dẫn viên du lịch cho họ.
C: Từ ngày cô một mình trở lại thành phố, lên xe bus, thấy bác tài nào cũng
lịch sự. Trước lời hỏi thăm của cô, bác không biểu lộ chút xúc cảm, ánh mắt phát đi
thông điệp “Cút ngay”. Cảm giác tang tóc, âm phủ bao trùm xung quanh. Cô băn
khoăn: “Có cái gì ở đây mà mọi người nhìn nhau như những bóng ma?”.
D: Những ngày cuối tuần xưa, anh và cô lang thang dạo phố, thưởng thức
những món ăn bình dị.
E: Giờ đi cả phố, người vẫn đông nhưng hết âm thanh. Phố vốn dài, giờ thêm
lạnh.
F: Cô nhớ đến con phố ngày xưa, cô và anh ôm nhau sà vào hang chè thập
cẩm.
G: Ngày cuối tuần này, thành phố như đông máu, vô cảm dửng dưng. Cô nhớ,
cô them những âm thanh quen thuộc xưa cũ.
H: Cô vào quán Nhật Tusi. Cô hỏi chủ quán về sự thay đổi của thành phố
nhưng đáp lại chỉ là một câu “Dạ”. Cô uống rượu và lao ra đường. Cô gặp một bé
gái bị ngã và đỡ nó dậy. Mẹ con bé dọa nạt cô bằng bàn tay cứng như gọng kìm,
ánh mắt sắc như tên bắn hàm ý đuổi cô đi ra chỗ khác. Cô bật khóc vì cô độc giữa
đám đông, vì những điều tốt đẹp đã vuột mất.
69
I: Cô nhớ đến ngày còn anh ở cùng cô trong phòng khách sạn trông xuống ngã
sáu. Tình yêu đong đầy trong cuộc sống của họ.
K: Ba năm qua rồi, giờ mình cô đứng ở cửa sổ nhìn xuống đường. Lạnh lẽo.
Cô đơn. Cô chứng kiến cảnh con chó bị một cô gái xinh đẹp đá chết.
L: Cô đến gặp bác sĩ để hỏi về sự đổi khác của thành phố. Bác sĩ không hiểu
cô nói gì.
M: Năm ngoái. Cô và anh lang thanh một ngày bên Nàng tiên cá ở Đan Mạch.
N: Bây giờ, ở nơi chốn của mình, sau ba năm quay lại, cô ôm mặt khóc nức nở.
Bác sĩ chẩn đoán cô bị tâm thần giai đoạn 2.
O: Chàng trai Thụy Điển về thành phố tìm cô vì giữ lời hứa hết hạn công việc
sẽ về làm đám cưới.
P: Anh nhớ lại ngày ấy, khoảnh khắc cô bước từ buồng tắm đi ra và ôm lấy
anh.
Q: Anh nhận được mảnh giấy báo nơi thường trú của cô. Đó là nghĩa trang
Bình Yên.
Hệ thống lại các sự kiện này theo hai trục thời gian quá khứ - hiện tại, chúng
tôi có sơ đồ sau:
A -> B -> C -> D -> E -> F -> G -> H -> I -> K -> L -> M -> N -> O -> P -> Q
Quá khứ Hiện tại
Dựa trên sơ đồ này có thể thấy, hiện tại và quá khứ luôn song hành cùng nhau
và đối chọi nhau gay gắt. Quá khứ sinh động, hoạt náo, vui vẻ và ấm áp, hạnh phúc
bao nhiêu thì hiện tại lại lạnh lùng, trơ lì, đe dọa bấy nhiêu. Nhân vật bị đẩy giữa hai
dòng thời gian. Đến hiện tại để tìm lại hình ảnh của quá khứ nhưng hành trình này
chỉ đem lai kết quả là nhân vật trở thành kẻ tâm thần trong mắt của những con
người hiện tại không xúc cảm. Chính sự va chạm mạnh mẽ giữa quá khứ - hiện tại
đã gây nên cái chết của nhân vật ở cuối tác phẩm. Cái chết này là chung cục của con
người thất bại khi đi tìm tình thương, tình yêu, sự rung động, lòng đồng cảm ở nơi
đã “đông máu”, nơi thành phố vẫn hoạt động như cỗ máy nhưng người với người
nhìn nhau với ánh mắt nguội lạnh, không xúc cảm. Mọi mối liên hệ của xã hội bị cắt
đứt đến tàn nhẫn. Cái chết là phản ứng bi kịch cuối cùng của nhân vật vì quá cô đơn,
quá đớn đau, quá sợ hãi trước một đời sống vô cảm, vô hồn.
70
Kết cấu truyện đảo trật tự thời gian sự kiện đã trở thành một “thủ pháp” của
Nguyễn Thị Thu Huệ để mở rộng chiều kích của thời gian và không gian hiện thực,
tạo cơ sở để nhân vật bộc lộ tâm lý, tính cách mang tính cá thể hóa rõ rệt của mình.
3.1.2.Kết cấu tâm lý
Nhà văn Edga.Poe từng ví việc người nghệ sĩ khéo léo xây dựng một truyện
ngắn với việc xây dựng một bức tranh. Nói như vậy, Nguyễn Thị Thu Huệ đã khắc
họa trong nhiều tác phẩm của mình những bức tranh tâm hồn đa dạng, phong phú
với dòng cảm xúc tinh tế và suy nghĩ sâu xa, thông qua một lối kết cấu hiện đại –
kết cấu tâm lý.
Lấy tâm lý, tâm trạng của nhân vật là tâm điểm của tác phẩm, ngòi bút
Nguyễn Thị Thu Huệ đã lách sâu vào tâm hồn nhân vật để đưa lên trang viết những
cảnh huống, tâm trạng, nghĩ suy của con người đầy phức tạp. Kết cấu tâm lý khiến
truyện trôi đi theo dòng cảm nghĩ của nhân vật, khi trong sáng mong manh, khi trĩu
nặng suy tư, khi hạnh phúc ngập tràn, khi khổ đau cuồn cuộn. Nước mắt đàn ông,
Cát đợi, Giai nhân, Biển ẩm, Phù thủy, Với tay là đến...đều có kết cấu tâm lý.
Trong Phù thủy, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử dụng kết cấu tâm lý để mô tả
những suy nghĩ và diễn biến tâm lý của một cô bé con về cuộc sống gia đình cũng
như xã hội. Cô bé ấy mới 12 tuổi và chưa hề được dạy dỗ những kiến thức về tình
yêu, cuộc sống, chỉ mập mờ mọi chuyện thông qua hành động của người lớn là bố
và mẹ nó. Trước sự đổ vỡ của gia đình, nó đã biết rất nhiều chuyện kể cả việc hiểu
được “ngày và đêm là hai thế giới khác nhau, và con người cần phải thích nghi với
hoàn cảnh”. Ban ngày, nó cảm tưởng những cuộc cãi vã của bố mẹ chỉ thiếu chút
nữa là đi đến ẩu đả theo kiểu “cạn tàu ráo máng” nhưng ban đêm họ lại có thể bên
nhau ngủ êm đềm. Con bé tự lý giải sự đối lập ấy: “hình như người lớn có quyền
thích làm tất cả mọi thứ mà không cần giải thích”. Nó luôn thắc mắc và cho rằng
người lớn là phù thủy bởi “Họ chửi nhau bất cứ lúc nào giáp mặt. Vậy mà tại sao
đêm đến mẹ lại có thể sang phòng của bố và ngủ ngon lành thế”. Nó tự đưa ra
những kết luận và thu được kinh nghiệm từ những gì mình chứng kiến. Cuối cùng,
nó chìm đi trong những băn khoăn không lời giải đáp về một thế giới “phù thủy” mà
nó không thể hiểu nổi. Tâm trạng nhân vật được khắc họa theo từng bước diễn biến
của sự logic về tâm lý của một cô bé con: từ sự băn khoăn, thắc mắc đến khi sợ hãi
và cuối cùng là bế tắc.
71
*Băn khoăn: Sau những mệt mỏi vì phải chứng kiến những lời cãi vã của bố
mẹ vào ban ngày, nó bất ngờ phát hiện ra mẹ trốn sang phòng bố và họ ôm nhau
ngủ. Nó nghĩ mình nằm mơ và họ là phù thủy.
*Thắc mắc: Nó quyết định tìm hiểu việc làm đó của bố mẹ nhưng không được.
Nó nằm và suy nghĩ như một người hiểu biết mọi lẽ đời: “Sau này yêu và lấy chồng
mình có sống như bố mẹ không?”
*Sợ hãi: Nó ám ảnh trước lời khen của chú hàng xóm làm cho nó có những
cơn mơ kinh dị. Nó mất ngủ và phát hiện ra bố mẹ lại ngủ với nhau và bàn tính xem
ai sex là người phải nuôi nó. Nó ao ước muốn làm người lớn bởi tha hồ làm mọi
chuyện mà không cần phải giải thích.
*Bế tắc: Nó tìm ra nguyên do của sự phức tạp. Cuộc sống không chỉ có tình
yêu mà còn có vô số những điều phức tạp mà con người không thể lý giải hết. Nó sẽ
làm cho người lớn phải hiểu những điều trẻ con mong muốn. Và sau một tiếng nổ
chập điện vang lên, nó đã thành phù thủy được rồi.
Mạch truyện như trầm xuống theo sự nhận thức dần dần của cô bé. Những ảo
tưởng, những giấc mơ vô thức, những suy đoán phù hợp với tâm lý lứa tuổi cua
nhân vật đã tạo nên không khí riêng cho câu chuyện. Sự khám phá của cô bé lúc này
không đơn giản chỉ là để thỏa mãn tính tò mò mà nó trở thành vấn đề liên quan đến
sự thiếu sót của người lớn khi không trang bị cho trẻ con những kiến thức về đời
sống. Sự vô tâm của cha mẹ đã trở thành một trong những tác nhân dẫn đến cái chết
đau thương của cô bé.
Kết cấu tâm lý xuất hiện khá nhiều trong 45 tác phẩm ở 5 tập truyện đầu của
Nguyễn Thị Thu Huệ, đến tập Thành phố đi vắng, kết cấu tâm lý chỉ được vận
dụng trong 3 truyện ngắn: Một đời sống khác, Coi như không biết, Với tay là đến.
Với kết cấu tâm lý, trong tác phẩm Coi như không biết, Nguyễn Thị Thu Huệ
đã khắc họa câu chuyện tình yêu của một người đàn ông tên “Văn” sắp thành tiến sĩ
với một cô gái điếm thông qua cảm nhận, cái nhìn của người đàn ông. Các mảnh
cảm xúc ngắn được gắn kết với nhau bằng các cụm từ: “Tất cả chết hết rồi/ Xong
em gọi anh ngay/ Cuối cùng em cũng gọi”. Đây là các “tiêu điểm” giúp người đọc
phân định chiều cảm xúc biến động liên tục trong lòng nhân vật.
Văn bị đặt trong trạng thái chờ cuộc gọi của em sau khi em kết thúc xô diễn
trong một hội nghị. Sự căng thẳng, ghen tuông vì đợi chờ dai dẳng đã khiến Văn
thấy Tất cả chết hết rồi. Với Văn, mọi thứ xung quanh vô nghĩa vì ba tiếng trôi qua
72
mà em chưa gọi, “em biến mất”. “Xong em gọi anh ngay” là lời nói của “em” khi
hẹn với Văn, được đay đả lại hai lần, khiến Văn nhớ đến mỗi lần chia tay với em,
quay về nhiệm sở, thấy tức cười vì vô số giáo sư, phó giáo sư không bao giờ đúng
hẹn.
“Cuối cùng em cũng gọi” là thời điểm đánh dấu sự chuyển đổi trạng thái tâm
lý của Văn. Cụm từ xuất hiện lần 1, lúc Văn đang mơ ngủ; xuất hiện lần 2, Văn tỉnh
ngủ, đến nhà em thuê; xuất hiện lần 3, Văn đến cánh cửa được em sơn màu vàng
mở toang, ti vi bật rộn rã; xuất hiện lần 4: Văn thấy em nằm trên vũng sơn dầu
loang đỏ, mệt mỏi; xuất hiện lần 5: em yêu cầu Văn tìm số cái Phượng và coi như
không biết em. Coi như không có chuyện này: chuyện em nợ 35 triệu, không trả
được, chúng đe dọa người em yêu, Văn quyết định tìm cách rút tiền trả nợ cho em
mà vợ không biết; xuất hiện lần 6: Văn về nhà, em theo Phượng đi taxi chạy biến
vào bóng tối. Sáng hôm sau, Văn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.
Cụm từ “Tất cả chết hết rồi” trở lại lần thứ 4 khi thông báo “Văn đã là tiến sĩ”
phát ra. Vợ anh trở về. “Tất cả chết hết rồi” lặp lại lần thứ 5 để thông báo chấm dứt
sự tồn tại của một tình yêu. Cuộc sống của Văn – mất em – coi như đã chết.
Văn nhập viện. Câu chuyện của em vẫn còn trong tâm trí. Em chết vì đi đánh
nhau, vì nợ nần mà nhất quyết không cho Văn trả nợ thay. “Tất cả chết hết rồi” tiếp
tục được nhắc lại hai lần nữa ở phần kết truyện. Cụm từ này hoàn toàn là “phát
ngôn” của tâm hồn Văn. Anh thấy tất cả xung quanh, cả tâm hồn và trái tim mình đã
chết vì tình yêu thánh thiện với cô cave đã chết. Chỉ còn sự cô đơn vây bủa, sự
trống trải. Nụ cười của Văn ở cuối truyện “vu vơ” như của một người đã đánh mất
tâm hồn, chỉ còn lại một thể xác ngơ ngác, sống “thừa” và vô nghĩa.
Cấu trúc của truyện hoàn toàn dựa trên sự biến đổi tâm lý của nhân vật Văn
khi đối diện với từng khoảnh khắc do em tạo ra. Việc tổ chức kết cấu tâm lý dồn
đọng như vậy đã khiến mọi cảm xúc của nhân vật được bộc lộ đa chiều. Với mỗi
thông báo (bằng các cụm từ được điệp lại), nhân vật lại bước sang một trạng thái
khác. Cái tài của Nguyễn Thị Thu Huệ là tạo được diễn biến cốt truyện và tâm lý
nhân vật trong một khoảng thời gian ngắn. Những tình tiết truyện rất nhỏ chỉ làm
nền cho dòng tâm lý nhân vật vận động một cách mạnh mẽ, đến mức, nhân vật
thành trống rỗng khi vừa đạt được thành công trong sự nghiệp nhưng lại mất tình
yêu – cái nguyên cớ thiêng liêng để một con người tồn tại trong cõi đời.
73
Với kết cấu tâm lý, Nguyễn Thị Thu Huệ đã cho thấy, tâm lý, tâm hồn con
người vô cùng phức tạp, đầy góc khuất, đầy ẩn ức. Kết cấu truyện đi theo dòng tâm
lý của nhân vật nên nhiều khi, sự kiện đóng vai trò mờ nhạt, chỉ làm nền cho tư
tưởng không ngừng vận động. Bức tranh tâm hồn của cá nhân, nhờ kết cấu tâm lý
mà được khắc họa trên trang viết, tinh tế và sống động. Nhà văn sâu sắc ở chỗ, viết
về tâm lý con người không chỉ để miêu tả một thế giới trừu tượng, thẳm sâu và vốn
khó hiểu, mà hơn thế nữa, tác giả đã nêu lên những vấn đề về nhân sinh lớn lao hơn:
sống trên đời cần hơn hết tình yêu, sống không thể vô cảm, sống là rung động và
yêu thương. Nếu thiếu những điều đó, con người sống mà như đã chết. Tính nhân
văn trong trang truyện Nguyễn Thị Thu Huệ toát lên ở những bài học giản dị mà sâu
sắc như thế.
3.1.3. Kết cấu phân mảnh
Tác phẩm sẽ được kết cấu theo kiểu nào, đó phụ thuộc vào đối tượng phản ánh
và còn phụ thuộc vào tài năng, phong cách của người nghệ sĩ. Văn học hiện đại với
việc thể hiện cá nhân trong tính “không hoàn tất” của nó đôi khi đã chống lại yêu
cầu về sự chặt chẽ, do vậy, kết cấu gây ảo giác về tính không xác định, tính tự do
hoặc tính ghép mảng. Đó là kết cấu phân mảnh.
Kết cấu phân mảnh được hình thành nhờ những mảnh ghép tương đối độc lập
của cốt truyện. Các mảnh ghép đó được sắp xếp theo nguyên lý của tư duy hội họa
lập thể với những mảng màu xa lạ nhưng vẫn thể hiện một ý nghĩa hoàn chỉnh. Tính
phân mảnh là một trong những yếu tố tạo nên sắc thái đa âm của tác phẩm. Theo
nhà phê bình Văn Giá: “Nghệ thuật lắp ghép chỉ thực hiện với mục đích duy nhất là
phá vỡ hình thức văn bản truyện trùng khít với trật tự thời gian tuyến tính của cốt
truyện. Còn tính phân mảnh đi xa hơn, nó còn chủ trương đập vỡ các mảnh văn bản
trần thuật thành những mảnh vụn rời rạc, xô lệch không theo một trật tự nhân quả
rõ rệt nào và tương ứng với mỗi mảnh vụn ấy là mỗi mảnh hiện thực đời sống được
biểu hiện”.[12].
Kết cấu phân mảnh đã xuất hiện trong một số truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ như X-Men có mùi trường đua, Phòng chiếu phim số 9, Cú mèo và rượu hoa.
Với loại kết cấu này, nữ tác giả đã đưa những mảnh ghép của mỗi nhân vật để hoàn
thành một tuyến truyện, nhằm biểu hiện một trạng thái đời sống hiện đại xô bồ, lệch
lạc, tốt – xấu, sáng - tối lẫn lộn, khó phân biệt rõ ràng.
74
Trong X-Men có mùi trường đua, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sắp xếp các mảnh
về sự kiện và nhân vật đan cài, tưởng chừng khó bắt nhập lại hài hòa trong một cấu
trúc truyện có hơi hướng hiện đại:
Dựa trên sự phân chia của tác giả về mặt hình thức văn bản, các phần của
truyện được phân định qua các dấu “***”, chúng tôi chia truyện thành 6 phần,
tương ứng với mỗi mảnh ghép hình thành nên truyện. Ở mỗi phần, chúng tôi chia
các sự kiện được trần thuật và đánh số lần lượt (1), (2), (3),...
-Phần 1: (1) Chặng đua chó thứ 6, đám đông hò reo cổ vũ. X-Men và nàng cổ
vũ cho con Hoàng Gia bị thương. Nàng không ngừng nói về món thịt chó.(2) Trên
khán đài, ba chiếc ti vi đang chiếu về cuộc thi Duyên dáng Quý bà.
-Phần 2: (3) Giới thiệu về nhân vật nàng: nàng là gái điếm, X-Men là khách
của nàng. Nàng có học thức, xinh đẹp và hành nghề sòng phẳng, văn minh.
-Phần 3: (4) Nàng và X-Men qua đêm cùng nhau. Nàng hít mùi cà phê cháy
đậm đặc của X-Men, điều chưa từng xảy ra với một đứa làm gái. Nàng bối rối vì
mùi lạ này sau 13 năm chia tay với chồng cũ.
(5) Ngoài biển, phát hiện xác người phụ nữ khỏa thân nổi lên mặt nước. Có
người nhận ra cô gái chết vì bị chó cắn.
-Phần 4: (6) Nàng trở vào phòng ôm chặt lấy X-Men, khóc và kể chuyện có
người chết ngoài biển. X-Men thừa nhận: “Anh giết đấy”.
-Phần 5: (7) Nàng về ở với X-Men trong ngôi nhà có trang trại nuôi chó.
(8) Một đêm, nàng kể chuyện có một kẻ dọa giết nàng vì nàng không gặp hắn
lần hai. X-Men thông báo: “Anh cũng giết rồi”.
-Phần 5: (9) Đối thoại giữa nàng và X-Men: Nàng hỏi lại tỏ vẻ không tin anh
giết người. X-Men khẳng định hành vi giết người của mình.
Xét về sự logic của sự kiện, các phần của truyện tỏ ra khá mạch lạc và “ăn
khớp với nhau”. Tuy nhiên, giữa các sự kiện của mỗi phần lại có mối ràng buộc “hờ
hững”. Sự kiện (1) và (2) không liên quan đến nhau nhưng lại được trần thuật đan
xen, tạo nên một không khí nhộn nhạo, vô văn hóa trong một cuộc đua chó. Sự kiện
(3) (4) cùng nói về bản thân nhân vật “nàng” nhưng không có mối quan hệ với sự
kiện (5), thế nhưng, chúng lại dẫn đến sự kiện (6). Từ sự kiện (7), tác phẩm chuyển
không gian khác. Sự kiện (8) và (9) lại cho thấy X-Men ngoài là tay nuôi chó, còn
là một kẻ giết người. Cuộc đối thoại hai câu cuối cùng của tác phẩm của phần số 5
chỉ để khẳng định: Khó có thể phân biệt được đâu là một kẻ giết người lão luyện.
75
Tội ác hiện diện thản nhiên đến nỗi người dù xuống tận đáy xã hội vẫn không tin cái
ác nằm chung giường với mình. Kẻ thực hiện tội ác vô cảm, dửng dưng, lạnh lùng
với nỗi đau của đồng loại. Niềm say mê của hắn chỉ là những con chó trên đường
đua với cái nghĩa địa chó bên nhà. Các mảnh ghép của sự kiện phân định rõ ràng, có
khi thiếu liên kết và có phần bất ngờ, vô lý, nhưng tựu chung lại, nó hoàn thành một
câu chuyện với điều tốt – xấu, thiện – ác có ranh giới quá mong manh.
Cũng với kết cấu phân mảnh, Cú mèo và rượu hoa được tổ chức với nhiều
mảnh truyện phức tạp hơn. Tác phẩm mở ra mảnh truyện về Mừng và Sim – hai
người ở nhà ông Nhân đang bán thịt nai cho khách (1). Tiếp đến là mảnh truyện về
cha con ông Nhân: Ông đi du học Nga, vợ ông ở nhà chờ chồng hóa điên loạn, lao
từ lan can cầu thang tầng hai xuống sân chết, con trai ông – thằng Tâm sống vất
vưởng, gầy còm Về nước, ông Nhân lấy vợ lẽ - tên Túy. Túy cặp bồ, chặt đứt gân
chân ông rồi bỏ đi, khiến ông bị liệt. Mỗi lần đau chân, Sim cho ông uống rượu
thuốc ngát mùi hoa (2).
Cuộc sống của gia đình ông Nhân bị xáo trộn khi vợ chồng người em ở nước
ngoài về để chia tài sản. Đây là mảnh truyện mang màu sắc kinh dị vì người em dâu
có đôi mắt cú mèo, “luôn trừng trạo gằm ghè, khó chịu lườm Sim, then thét giọng
kim rít rít khô như tiếng máy khoan bê tông”. Họ rời đi với câu nói: “Vợ chồng tao
kinh nhất là phải dính đến người. Tao ghét người nhất chúng mày ạ”. (3)
Năm năm trôi qua, Tâm đã bớt điên, còn ông Nhân thì mắt đã mờ. Mảnh
truyện khác được lắp ghép là gia đình họ tiếp một đoàn địa chất, trong đó có một cô
gái luôn mồm muốn phá núi. Khi phá núi đến ngày thứ sáu, ông Nhân mệt, sắp hấp
hối, trăn trối lại với vợ chồng Mừng –Sim. Đúng lúc đó, ngoài cửa, có đoàn mang
cô gái hôm trước đến nhà, đang bị điên loạn nhờ cứu giúp. Sim cho cô uống rượu
hoa, cô gái dần mềm người, nằm im. Đoàn người trao lại cho Mừng – Sim hai bộ
hài cốt đã rơi vào đầu cô gái hóa điên ở trong rừng, nhờ mai táng. Mừng – Sim nhận
ra con mắt cú mèo, mới biết đây là hài cốt của hai vợ chồng cú mèo đã rời đi cách
đây năm năm. Ông Nhân sau đó tỉnh lại. Đoàn địa chất băn khoăn về thứ nước
khiến con người từ điên loạn thành trầm tư, Sim bảo đó là “nước của rừng. Người
xấu uống như uống thuốc độc, chết không kịp nhắm mắt. Người tốt uống, sắp chết
sống lại”.(4)
76
Truyện kết thúc bằng mảnh truyện tường thuật cuộc đối thoại giữa Mừng và
Sim. Họ bàn tán về vợ chồng cú mèo – những kẻ coi tiền hơn cả máu mủ ruột thịt.
Họ cùng uống rượu hoa.(5)
Năm mảnh truyện đầy những chi tiết ly kỳ, khó giải thích: Vì sao vợ chồng cú
mèo lại chết? Vì sao đống xương lại vắt vẻo trên cành cây và rơi trúng đầu cô gái,
khiến cô hóa điên? Rượu hoa là rượu gì mà khiến người điên hóa trầm tư? Lúc ông
Nhân sắp chết, khi có bộ hài cốt của người em xuất hiện, cô gái được cứu thì ông
Nhân lại khỏe lại? Tất cả là điều bí ẩn. Chính tính chất phân mảnh của truyện đã
góp phần làm nên sự bất ngờ, kỳ lạ của truyện.
Trong những tác phẩm của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ đã đem những mảnh
truyện tưởng rất “xa nhau”, “không liên quan” để lắp ghép thành một bức tranh đa
mảng màu. Nó nhộn nhạo, bí ẩn như chính cuộc sống vốn xô bồ và đầy ắp những
điều không thể giải thích nổi. Cái tốt, cái thiện, cái minh bạch và trong sáng đã chìm
khuất để dành chỗ cho cái ác, giả dối, cái chết, sự điên, thay thế và đe dọa đến tính
mạng, nhân cách con người. Mỗi mảnh truyện được phân ra là mỗi khía cạnh của
hiện thực được biểu hiện. Cái đậm đặc và đa dạng của đời sống xuất hiện trong
trang viết của Nguyễn Thị Thu Huệ là nhờ lối kết cấu phân mảnh.
Thế nhưng, xét ở khía cạnh khác, kết cấu phân mảnh lại bộc lộ hạn chế trong
việc liên kết các sự kiện, vấn đề đặt ra trong truyện. Truyện khó hiểu cũng là vì thế.
Phòng chiếu phim số 9 được tạo dựng từ những mảnh truyện về các nhân vật
không có mối quan hệ với nhau. Tác phẩm được kết cấu như sau:
(1) Đôi thanh niên trẻ đẹp vào rạp chiếu phim, ngồi ở phòng số 9,
vẻ mặt rạng ngời hạnh phúc.
(2) Tạp vụ, soát vé vạ vật ở phòng khai báo của Công an Phường.
Họ chứng kiến cảnh ông bà già xay đậu tương thành nước rồi đổ ra cống. Họ
trò chuyện về vụ cô gái giết chàng trai ở phòng chiếu số 9.
(3) Chàng thanh niên vị giết vì vết dao đâm trúng ngực. Cô gái
biến mất, chỉ còn lại những tấm ảnh hai người chụp chung.Tạp vụ và Soát vé
phát hiện ra cái chết này.
(4) Phòng chiếu phim số 9 đóng cửa. Tạp vụ và Soát vé bỏ việc.
Không ai nhận xác về chon cất.
(5) Ba tháng sau, tại nghĩa trang mai táng chàng thanh niên, ông bà
già xay đậu tương đến chặt cỏ bên mộ chàng.
77
(6) Rạp chiếu phim mở cửa trở lại, Chủ nhân của nó, vợ chủ rạp
hồi trước khi nhìn mắt anh thanh niên bị chết bỗng cười điên loạn. Vong trẻ
luôn luẩn quẩn ở rạp. Ba ngày sau bán rạp, con trưởng đi xe đâm chết bố.
(7) Tạp vụ và Soát vé cũ đến phòng số 9 xem phim, gặp ông bà già
cũng ngồi xem ở hàng ghế cuối cùng. Tạp vụ và Soát vé đến hỏi công an về
vụ giết người. Khuôn mặt về người đàn bà gần 60 tuổi xuất hiện trong bức
ảnh của người cán bộ. Trẻ con gọi bà là “Bà Tiên gốc đa”.
(8) Ông bà già nhìn sang Soát vé, “mắt ai cũng hun hút sâu như
những đường nối dài”.
Liệt kê các tình tiết của truyện, người đọc như rơi vào một “mê cung” không
lối thoát. Tạp vụ và Soát vé là nhân vật kết nối các nhân vật khác: Vừa chứng kiến
vụ giết người, vừa thấy những biểu hiện rất lạ của hai ông bà già. Nhưng mảnh
truyện về ông bà già kỳ lạ với những hành động kỳ quặc, đặc biệt là ánh mắt hun
hút tối kia có liên quan gì đến cái chết của chàng trai? Mảnh truyện của vợ chồng
chủ rạp, kẻ điên, người chết cũng được lồng ghép trong truyện. Những mảnh truyện
về các nhân vật đều đặt ra câu hỏi lớn trong lòng người đọc. Tất cả đều không có
câu trả lời.
Chính sự mơ hồ, không rõ ràng ở kết cấu truyện phân mảnh đã khiến một số
truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ đem lại cảm giác “không thỏa mãn” ở người đọc.
Đọc đến hết truyện, người ta vẫn không rõ về bản chất con người như X-Men (trong
X-men có mùi trường đua), ông bà già (trong Phòng chiếu phim số 9), ông Nhân
(trong Cú mèo và rượu hoa). Sự việc trở nên khó hiểu đến khó chịu vì tất cả vẫn
chìm vào bí ẩn (như trong Phòng chiếu phim số 9).
3.1.4.Kết cấu mở (kiểu kết thúc để ngỏ)
Nhà văn Nga D. Phuocmatop nhận xét: “Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là
thuộc về đoạn cuối”. Nhà văn Tsekhop nhấn mạnh: “Theo tôi, viết truyện ngắn, cốt
nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận”. Ở Việt Nam, nhà văn Đỗ Chu từng
chia sẻ: “Còn như việc kết thúc một truyện ngắn, đó là hành động dễ gây xúc động
đột ngột. Ta rất sung sướng nếu cảm thấy vừa khép kín một cái gì hình thành. Và ta
sẽ buồn bã biết bao nhiêu nếu chợt nhận ra mình đã lầm lẫn. Ở phút dừng lại, có
thể biết những gì mình viết ra đã thành công đến đâu. Cái thú của người viết truyện
ngắn có khi còn nằm ngay ở chỗ đó nữa” [36].
78
Cái kết của một tác phẩm văn học luôn dồn đọng nhiều ý nghĩa tư tưởng của
tác phẩm hơn cả. Đối với thể loại truyện ngắn, nhất là truyện ngắn hiện đại, khi mà
cuộc sống có nhiều chuyện xảy ra có bắt đầu nhưng không có kết thúc thì kết cấu
của truyện cũng có sự thay đổi. “Hình thức kết cấu của truyện ngắn hôm nay phần
lớn vượt ra khỏi kết cấu của truyện ngắn truyền thống...có kết cấu tự do hơn...Kết
thúc truyện ngắn hôm nay là kiểu kết thúc để ngỏ”[24]
Có thể nói, từ truyện ngắn truyền thống (trung đại) đến truyện ngắn thời hiện
đại đã có sự chuyển đổi đáng chú ý từ cách kết thúc đóng đến cách kết thúc mở.
“Thật ra, kết thúc tác phẩm là chỗ bộc lộ rất rõ mâu thuẫn giữa yêu cầu thể loại
(tác phẩm nào cũng phải kết thúc) và thực tế đời sống mà tác phẩm lấy làm chất
liệu (đời sống vốn liên tục không bao giờ kết thúc)”[4]. Kết cấu mở là hướng tìm tòi
để kết hợp hài hòa hơn những mặt mâu thuẫn ấy, phù hợp với quan niệm: nơi tác
phẩm kết thúc là nơi cuộc sống chưa dừng lại, vẫn còn tiếp diễn, thậm chí mới bắt
đầu. Được coi là nốt nhấn của truyện ngắn đương đại, với độ mở rất lớn, kết cấu mở
tạo ra khả năng đồng sáng tạo cho độc giả.
Kết cấu mở là cách tổ chức các sự kiện, chi tiết ở phần kết trong thế phát triển
“chưa hoàn thành” của hiện thực. Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn dư âm và
khoảng để ngỏ trong lòng người đọc. Truyện ngắn có thể không có kết thúc hoặc
kết thúc chưa đưa ra một kết luận, một cách giải quyết thỏa đáng sau cùng. Ở truyện
ngắn theo kết cấu mở, nhà văn có vai trò đặt vấn đề, gợi mở những cách tiếp cận,
đánh giá...độc giả trở thành người đồng sáng tạo với tác giả, từ đó, mỗi câu chuyện
sẽ đi trọn một cuộc hành trình của nó trong nhận thức, tư tưởng của bạn đọc. Để tạo
nên những khoảng trống cho cái kết tác phẩm, nhà văn thường sáng tạo những chi
tiết bất ngờ vào cuối truyện, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc. Truyện có khi đã lùi
xa nhưng cái kết vẫn còn lại mãi trong tâm trí độc giả.
Kết cấu mở đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ của truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ, đặc biệt là những truyện có cấu trúc lỏng, truyện theo dòng tâm trạng.
Hậu thiên đường của nữ tác giả kết thúc đầy nghiệt ngã: một người mẹ hết lòng
yêu thương con bị tai nạn chết, còn cô con gái mười sáu tuổi đang say mê bên một
người đàn ông đã có vợ. Tác giả không nói gì nhiều, không bình luận gì thêm, chỉ
ngắn gọn trong vài dòng chữ: “Cô gái vội đặt tách cà phê xuống, nhưng người đàn
ông cũng vừa tợp xong tác cà phê của mình và choàng tay ôm lấy cô gái. Cô nhắm
nghiền mắt, say lịm đi, không kịp nhìn lên màn hình”. Phải chăng đó là điều may
79
mắn cuối cùng của cô trước khi bước vào...hậu thiên đường?. Lúc mẹ chết là lúc
con đang đê mê trong hạnh phúc. Cái kết thúc quá đau đớn này không chấm dứt mọi
điều cay đắng, nó mở ra một bi kịch khác nữa đến với cuộc đời con gái: Hậu thiên
đường. Hậu thiên đường ấy người mẹ đã đừng trải qua và đã phải trả giá bằng cả
quãng đời được sống. Còn với con, hậu thiên đường còn khủng khiếp hơn vạn lần vì
sau những phút giây đắm đuối với người tình, con sẽ biết mẹ đã chết khi đi tìm con?
Rồi những tháng ngày u mê bên người đàn ông nhếch nhác mặc chiếc áo màu gạch,
bẩn thỉu, hôi hám, hai đứa con nhỏ và lấy cả tiền của cô bé khờ khạo chỉ để mua hai
bánh xà phòng...sẽ kéo dài được bao lâu? Hậu quả của mối tình ấy là gì? Liệu con
có như mẹ, một mình nuôi một đứa con không biết mặt cha và mãi mãi lẻ bóng
trong cuộc đời? Tất cả những âu lo và chua xót này của độc giả được gợi ra từ cái
kết mở của tác phẩm.
Nguyễn Thị Thu Huệ luôn tôn trọng độc giả khi chị chú tâm không muốn
mình là người biết trước, là người dẫn dắt truyện mà muốn đồng sáng tạo với người
đọc, để mỗi người đọc là một người nghệ sĩ, tự chiêm nghiệm, tự đoán định cái
tương lai sau cái kết bỏ lửng ấy.
Cũng viết về mối quan hệ trong gia đình, Của Cha, của Con những cành vạn
niên thanh là câu chuyện của hai cha con sống ở một căn nhà nhỏ ven song, mẹ đã
bỏ đi sau khi cha nợ nần chồng chất, phải bán căn biệt thự để trả nợ. Cha làm xe ôm
nuôi Con gái ăn học. Bên hàng xóm và nhà Cha cùng chung nhau một khoảng sân
nhỏ của nhà Cha. Để Con gái đỡ nhìn thấy những cảnh âu yếm đêm đêm của Hàng
xóm, cha trồng cây vạn niên thanh. Nhưng Cha không hề biết, nhiều đêm, con gái
đứng trong bóng tối trừng trừng nhìn nhà hàng xóm làm chuyện người lớn. Một
đêm, Cha đi chở khách khuya, mười ngày sau Cha không về vì bị chém do đánh
ghen nhầm. Trong thời gian ấy, Hàng xóm đã trèo qua tường, làm gẫy mấy cành
vạn niên thanh để sang làm chuyện người lớn với Con gái. Biết tin cha nằm viện,
Con gái vào thăm nom cha. Truyện kết thúc bằng cảnh, đêm khuya, lúc ở nhà, con
gái tỉnh ngủ. “Hàng xóm đang vén những lá cây to như cái quạt, nhẹ nhàng lên đến
cầu thang bậc cuối cùng, rồi đu sang bên kia. Khi Hàng xóm tụt hẳn xuống sân nhà,
nghe tiếng huỵch nặng. Tán vạn niên thanh trở lại im lìm. Chỉ khi nào trời nổi gió
to, những cái lá mới rung lên”. Hàng động lén lút của Hàng xóm cùng hình ảnh
cành vạn niên thanh đã kết thúc tác phẩm. Hàng xóm lén lút trèo sang với Con gái
giống như Sở Khanh năm nào đừng lừa lọc Thúy Kiều. Không có Cha bên cạnh, chỉ
80
có những cành vạn niên thanh cha trồng để “giữ” cho tâm hồn Con, nhưng, cây có
làm được gì đâu? Chỉ biết rung lên khi có gió to. Con gái không biết mình bị lợi
dụng khi mới mười lăm tuổi? Tương lai của con sẽ đi về đâu khi không có Cha định
hướng, chở che, bảo vệ? Hàng loạt những câu hỏi đầy chua chát và lo lắng đặt ra
sau cái kết mở tưởng chừng rất nhẹ nhàng ấy.
Cuộc sống luôn chảy trôi, có những chuyện cứ tiếp diễn mãi, dài dặc mà
không chấm dứt, vì cuộc đời mỗi người dài lắm! Truyện ngắn là mặt cắt của dòng
đời, chỉ chọn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời để trần thuật lại, vì thế, lối kết cấu
mở giúp truyện ngắn gợi được nhiều điều hơn từ cái hình thức bé nhỏ của nó.
Thực ra, “cách kết thúc nào trong truyện ngắn cũng đều nhằm tái hiện nghệ
thuật dòng chảy phức tạp của đời sống vốn luôn nhiều “chuyện”. Điều quan trọng
hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận
thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu
sẽ chiến thắng” [36, 98]. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã để lại những ấn
tượng sâu sắc về muôn mặt của đời sống cùng những xúc cảm đa dạng về con người
hôm nay. Bởi lẽ, khi người ta biết lo cho nhân vật bị lợi dụng hay sa ngã, thương
cho một kiếp người điên dại vì bị hắt hủi, căm ghét những loại người xảo trá vị hơi
tiền, phân biệt được thật – giả, trắng – đen...là người ta biết nhận chân những giá trị
đích thực của đời sống cần gìn giữ. Làm được điều này, những trang văn của
Nguyễn Thị Thu Huệ đã và đang lưu dấu trong lòng độc giả như một món ăn tinh
thần quý báu của cuộc sống hiện thời.
3.2.Giọng điệu trần thuật
“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi
tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thâm sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [14, 134]. Là một trong những yếu tố thuộc
phạm vi hình thức của tác phẩm văn học, giọng điệu là một phương diện quan trọng
của nghệ thuật trần thuật bởi nó “không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà
văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học mà còn là yếu tố có
vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [34,
355]. Đây là yếu tố có vai trò nối kết những biểu hiện đa dạng của một lời văn thành
một mạch. Các yếu tố tư tưởng hay hình tượng trong tác phẩm chỉ được cảm nhận
đầy đủ trong phạm vi một giọng điệu nào đó. Người đọc có thể nhận ra giọng điệu
81
thông qua sắc thái biểu cảm của ngôn từ và tinh thần chung của toàn bộ lời văn.
Giọng điệu là yếu tố thể hiện rõ ràng nhất cái nhìn nghệ thuật của nhà văn đối với
hiện thực, do vậy, những chuyển đổi trong giọng điệu là dấu hiệu cách tân nghệ
thuật quan trọng của mỗi nhà văn qua từng chặng đường sáng tác.
Cơ sở của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Có thể thấy, mỗi thời
đại, mỗi giai đoạn văn học đều có giọng điệu riêng. Trước 1975, với cảm hứng ngợi
ca, tuyên truyền cổ vũ tinh thần toàn dân, toàn quân tham gia cống hiến vì mục đích
lớn lao của toàn dân tộc, văn học mang một âm hưởng chung là sôi nổi, vui tươi, lạc
quan. Nhưng bắt đầu từ năm 1986, khi cái nhìn chuyển từ lĩnh vực lịch sử sang đời
tư thế sự thì văn học, đặc biệt là văn xuôi đã bắt đầu có những nét riêng về giọng
điệu. Đặc biệt, mỗi tác phẩm thường không chỉ có một giọng điệu đơn nhất mà có
sự đan xen nhiều giọng điệu khác nhau. Đó là tính đa thanh trong giọng điệu trần
thuật. Sự đan xen của nhiều giọng điệu khác nhau trong một tác phẩm không chỉ
diễn tả một cách đầy đủ các cung bậc của đời sống mà nó còn thể hiện rõ tinh thần
đối thoại trong văn học.
Trong thời kỳ “văn học mang gương mặt nữ” – ngày càng trắc ẩn và khoan
dung, ngày càng tinh tế và đằm thắm, Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo cho mình một
dấu ấn riêng – “chao chát và dịu dàng, thơ ngây và từng trải, đớn đau và tin tưởng
cứ trộn lẫn trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực của ngòi bút có
duyên trong lĩnh vực truyện ngắn” (Bùi Việt Thắng). Khi Thành phố đi vắng xuất
hiện, người ta nhận thấy một Nguyễn Thị Thu Huệ đã đổi thay giọng điệu. Đây
chính là dấu hiệu rõ nhất và trước tiên trong sự tìm tòi, đổi mới hình thức nghệ thuật.
3.2.1.Giọng trữ tình đằm thắm, xót xa
“Cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung tần số với cảm xúc nữ tính, sự lóe
sáng, sự thất vọng, tính thời khắc, sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng”
[30]. Chất nữ tính của giới nữ đã khiến Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên giọng trữ tình
đằm thắm trong trang truyện của mình.
Ở nhiều tác phẩm của chị, cái nhẹ nhàng, thủ thỉ của chất trữ tình dường như
thấm trong từng câu từng chữ, cất lên từ những lời tâm sự, trong những ước mơ bay
bổng, những hoài niệm quá khứ của nhân vật. Thông thường, giọng điệu này
thường tìm thấy ở dạng truyện tự bạch, người kể chuyện xưng “tôi” và tự kể về
cuộc đời mình, bộc bạch nỗi lòng của mình. Trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu
Huệ, không kể là truyện được kể từ ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba mà tùy thuộc vào
82
nội dung câu chuyện, tác phẩm có thể dung chứa giọng điệu trữ tình, và tùy thuộc
vào dòng cảm xúc của nhân vật mà nó mang lại sự dịu dàng đằm thắm hay xót xa,
da diết. Chẳng hạn, lời văn thấm vẻ dịu dàng khi khắc họa tâm trạng một người con
gái trẻ trong tình yêu: “Anh im lặng. Vòng tay ra sau nắm tay tôi. Bàn tay anh ấm
áp, to và cứng. Lòng tôi tràn hạnh phúc. Tôi biết mơ mộng từ ngày yêu anh. Biết
nhớ mong, dỗi hờn từ ngày có anh. Và đêm nay. Biết trăng đẹp vì đi bên anh” (Còn
lại một vầng trăng). Giọng văn khi xa xót, da diết khi một người phụ nữ đẹp mãi cô
đơn: “Chẳng lẽ. Cuộc đời của tôi. Một người đàn bà ba mươi tám tuổi thế này mãi
sao? Cứ đợi một cái gì mà chính mình không biết. Bên ngoài cánh cửa kia. Có thể
là thiên thần. Có khi là quỷ dữ. Cái thời mà mình được quyền chọn lựa qua rồi
sao?” (Giai nhân).
Giọng trữ tình trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ thường bắt nguồn từ những
dòng tâm sự, những cảm xúc chủ quan của người phụ nữ khi trải lòng về cuộc sống
với những mối tình không trọn vẹn, với những khát khao hạnh phúc đong đầy. Biển
ấm, Giai nhân, Hậu thiên đường, Mại, Một nửa cuộc đời, Thiếu phụ chưa chồng,
Bảy ngày trong đời...đều chứa đựng giọng văn trữ tình đằm thắm. Ở những truyện
này, nhịp điệu trần thuật thong thả, chậm rãi, những sự kiện vốn đã ít song lại bị
nhấn chìm bởi cảm xúc, tâm trạng của nhân vật: “Có người ví tình yêu ào nhanh
như cơn bão. Anh đến với tôi chẳng phải mưa dông, chớp giật. Anh êm đềm thấm
vào tôi như hơi thở” (Cát đợi). “Những người đàn ông đi qua đời tôi như thể bất
chợt họ gặp cơn mưa rào mà họ thì không mang vải nhựa để che. Tôi là một cái
hiên rộng để họ có thể chạy vào đó, yên tâm, tưng tửng chờ cho qua cơn mưa”
(Hậu thiên đường). Những dòng tâm sự này, Nguyễn Thị Thu Huệ đã viết bằng
chính xúc cảm bản năng nên lời văn đầy thấm thía, chân thực. Đọc những truyện
viết về người phụ nữ trong 5 tập truyện đầu, người đọc đã định hình một Nguyễn
Thị Thu Huệ dịu dàng, đa cảm với trái tim giàu tình yêu thương.
Nguyễn Thị Thu Huệ hay viết về quá khứ và những giấc mơ. Hai khoảnh khắc
này thường gợi nhiều xúc cảm hơn cả. Giọng điệu trữ tình đằm thắm đã khiến
những kỷ niệm của tuổi thơ hiện lên với biết bao dấu yêu: “Dương nhìn thấy bố
đang dong thuyền về buổi chiều nhuộm nắng. Thấy mẹ cắp chiếc thúng nhỏ chạy ra
đựng mực tươi về luộc chấm mắm tôm tươi. Dương thấy hết. Tất cả thật gần. Như
thể chỉ cần với tay là có. Bố. Mẹ. Tuổi thơ đẹp đẽ, đơn giản trong ngần” (Với tay là
đến). Giấc mơ về tình yêu và hạnh phúc cũng đậm chất thơ: “Rồi một đêm. Tôi mơ
83
thấy mình đi ra biển. Biển đêm đỏ rực dưới ánh trăng cuối tháng, cong vút và điêu
bạc lắt lẻo giữa trời. Người ấy hiện ra, chạy bằng đôi chân trắng muốt, nhỏ xíu như
chân đứa trẻ lên tám. Tôi chạy lao vào người chàng. Chân chàng lún xuống cát. Rồi
chàng hôn tôi”. (Người đi tìm giấc mơ). Giọng điệu trữ tình đằm thắm đã một mặt
khơi sâu vào cảm xúc chủ quan của nhân vật, một mặt lại khơi gợi ở người đọc
những khoảnh khắc rung động tâm hồn giữa dòng chảy hỗn độn của cuộc sống.
Chất trữ tình trong giọng văn của chị còn toát lên ở những đoạn miêu tả thiên
nhiên dưới sự rung động tinh tế của tâm hồn nhân vật. Lời văn cất lên êm dịu, mượt
mà như những câu thơ: “Tháng năm. Những chùm phượng đỏ vít cong cành trên
các ngõ phố. Không gian ing ing tiếng ve gợi cảm giác hồi hộp và sôi động. Nàng
đứng nơi góc phố chờ chàng. Đường Nguyễn Du. Nắng tràn lan thừa thãi xối xuống
các hàng cây. Mặt hồ sóng sánh nước màu ráng nắng” (Tình yêu ơi, ở đâu?). Dưới
con mắt của cô gái lần đầu biết yêu, ánh trăng bỗng trở nên kỳ diệu và thiêng liêng
đến lạ: “Suốt thời gian đã qua của tôi chưa bao giờ trăng đẹp như thế. Tôi sợ phải
về. Tôi sợ phải chia tay với anh. Với ánh trăng kia. Tôi sợ trong đời tôi không bao
giờ được tắm mình trong một thiên nhiên như thế này” (Còn lại một vầng trăng).
Thiên nhiên là minh chứng cho một cuộc tình đã qua: “Tôi bỏ giày, rón rén kiếm
tìm trên cát, dấu vết ngày hôm qua, chiếc giường trong đêm tân hôn. Tôi hồi hộp
chờ mong sẽ thấy cái hõm nơi tôi nằm xuống” (Cát đợi). Thiên nhiên ghi dấu kỷ
niệm của một tình yêu thơ trẻ, để khi trở lại, “tôi” vẫn thấy ấm êm: “Đêm đến. Tôi
đi ra biển. Khoảng rừng ngày xưa chúng tôi ngồi với nhau giờ người ta san phẳng
và xây nhà rồi. [...] Tôi im lìm nhìn biển đen thẫm trước mặt. Mùa đông năm nay đi
về hướng nào chẳng biết. Tháng mười một nhưng nắng vẫn hoe vàng. Tôi chỉ mặc
một chiếc áo thun mà không bị lạnh. Ai đó bảo rằng biển ấm vào mùa đông và mát
vào mùa hè. Biển muôn đời đáng yêu và dễ gần” (Biển ấm). Như vậy, thiên nhiên
luôn hiện lên trong mối quan hệ mật thiết với con người, đóng vai trò quan trọng
trong thế giới tâm hồn của nhân vật.
Có thể nói, giọng trữ tình đằm thắm, khi xa xót đã tạo cho trang truyện của
Nguyễn Thị Thu Huệ một vẻ mềm mại, đầy nữ tính. Nó là những rung động trước
một vẻ đẹp, là những tâm tình được thổ lộ giãi bày, là sự sẻ chia cảm thông với
những éo le bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Tất cả đều được “dẫn
dắt bởi mẫn cảm bản năng” tuyệt diệu của nữ nhà văn, làm nên giai điệu nền nã mà
âm vang trong lòng người đọc.
84
3.2.2.Giọng chiêm nghiệm, triết lý
Khi con người đã từng trải, lại đa sầu, đa cảm, sống nặng với những ký ức –
họ sẽ sớm có những chiêm nghiệm về cuộc đời. Với vốn sống phong phú, lại tiếp
cận hiện thực từ những vấn đề của cuộc sống đời thường nên Nguyễn Thị Thu Huệ
thường đưa những chiêm nghiệm về nhân sinh thế sự vào trong tác phẩm. Vì vậy,
truyện của chị có giọng chiêm nghiệm, triết lý.
Nguyễn Thị Thu Huệ hay triết lý về cuộc đời và thân phận con người. “Cuộc
đời vừa nhạt vừa tanh” (Đôi giày đỏ). “Đời phần lớn là buồn. Ngày nọ rồi tới ngày
kia. Mỗi ngày được thêu dệt nên bởi những nỗi buồn con con nhiều khi vô cớ”
(Thiếu phụ chưa chồng). Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ,
hầu hết các nhân vật dù được miêu tả trọn vẹn một cuộc đời, một số phận hay chỉ
miêu tả một khoảnh khắc thì chúng vẫn là những cuộc đời, những thời điểm của nỗi
đau, bất hạnh.
Không ngừng trăn trở về con người và cách sống của con người trong xã hội,
nhà văn từng tự hỏi: “Con người là cái quái gì nhỉ. Sinh ra trên đời. Hạnh phúc và
đau khổ. Ăn và ngủ. Kiếm tiền và tiêu tiền. Tất cả. Để làm gì?”. Để rồi, chị biết
rằng, “Ở đời, người ta cứ sống được là vì họ có ảo vọng và ngộ nhận” (Minu xinh
đẹp). Đời là bể khổ, thế nên, có lúc, nhà văn phải thốt lên: “Con người khổ thế
không biết. Suốt cuộc đời từ lúc sinh ra đến lúc chết đi cứ như ở trong một cuộc
chạy thi. Ai cũng bị cuốn vào đó mà không biết. Người khỏe chạy nhanh, người yếu
chạy chậm” (Minu xinh đẹp).
Chị từng nhận xét về con người:”Con người có những khả năng thật kỳ lạ. Họ
cứ tự thi vị hóa những cái tầm thường và tầm thường những cái cao siêu nếu như
nó ảnh hưởng đến họ” (Hoàng hôn màu cỏ úa). Nhà văn còn bày tỏ quan niệm về
cách sống: “Không ai chịu sống qua kinh nghiệm của người đi trước. Lại cứ thích
bằng kinh nghiệm của chính mình. Thích tự mình rút ra điều phải làm. Có khi phải
ân hận và trả giá suốt đời” (Còn lại một vầng trăng). Và chị băn khoăn: “Tại sao,
khi phán đoán một việc ác, người ta chỉ nghĩ bằng lòng ác, mà không bằng lòng
nhân?” (Dĩ vãng). Để rồi sau đó, chị lại gửi lời nhắn nhủ của mình vào nhân vật
cao tuổi nói với hậu thế: “Có vay, có trả, đừng ác độc, trời thương, cháu ạ” (Người
đi tìm giấc mơ). Sống trên đời, con người phải biết trân trọng cuộc sống bởi “Cuộc
sống là vô giá” (Giai nhân). Sống luôn phải có lòng vị tha, nhân hậu: “Tội ác
không được trả thù bằng tội ác” (Ám ảnh). Sống phải suy nghĩ chín chắn và trách
85
nhiệm vì “Có những sai lầm phải xin lõi bằng sự chết” (Một trăm linh tám cây
bằng lăng).
Không chỉ bày tỏ những chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời và nhân sinh,
Nguyễn Thị Thu Huệ còn có những triết lý giản dị mà sâu sắc về tình yêu. Chị quan
niệm: “Đàn bà khi yêu không bao giờ có tuổi” (Minu xinh đẹp). “Lấy người yêu
mình chứ đừng lấy người mình yêu” (Thiếu phụ chưa chồng). Có những lúc, quan
niệm về tình yêu được đưa ra đơn giản, hài hước nhưng khá thấm thía: “Trong tình
yêu có những lúc phải giành lấy cái để gọi như chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng thì
thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi). Còn đây là lời khuyên của mẹ với người
con gái trong Tình yêu ơi, ở đâu?: “Ta phải chọn cái ít xấu nhất trong mọi cái xấu
là được, con ạ. Người ta ai cũng chịu đựng nhau cả, có điều không phải lúc nào
cũng nói ra”. Nguyễn Thị Thu Huệ thường suy tôn giá trị tinh thần và tình yêu của
chị cũng mang sắc thái đó: “Người đàn ông đã có vợ thường tìm thấy trong tình yêu
mới là tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác” (Biển ấm) hay “Chỉ cố
yêu ai đó bằng tinh thần thôi chứ đừng vì thể xác, chóng chán lắm em bé ạ” (Cầu
thang). Có những bài học được rút ra qua những trải nghiệm của bản thân: “Thiên
đường, hình như ai trong đời cũng từng đặt chân tới đó. Chỉ khác nhau là thiên
đường của họ là cái gì và đem lại hạnh phúc cho họ ra sao” (Hậu thiên đường).
Tác giả để cho nhân vật của mình nói lên lời khuyên về tình yêu: “Hỡi con người.
Ai đó. Giống tôi. Đã từng có một mảnh tình chạy qua trong đời, hãy để nó vào chỗ
của nó. Đừng lôi nó ra mà soi, mà ngắm làm gì” (Người xưa).
Chính những đúc kết, suy tư trong tác phẩm đã tạo nên giọng điệu chiêm
nghiệm, triết lý của ngòi bút Nguyễn Thị Thu Huệ. Những quan niệm, triết lý mà
chị đưa ra có thể không hoàn toàn phù hợp với số đông nhưng đó là một phần có
thực trong cuộc đời mà chúng ta không dễ gì phủ nhận, Bởi lẽ, trước mỗi triết lý,
mỗi chiêm nghiệm là cả một sự nếm trải những điều không suôn sẻ. Sau mỗi triết lý
là những suy nghĩ, trăn trở nghiêm túc về cuộc sống. Rõ ràng bằng giọng điệu này,
nhà văn đã bộc lộ được nhân sinh quan và thế giới quan, bộc lộ được thái độ của
người cầm bút trước hiện thực. Nó không chỉ làm tăng sức khái quát cho hình tượng
nghệ thuật mà còn tạo ra chiều sâu cần thiết cho tác phẩm.
3.2.3.Giọng suồng sã, hài hƣớc, châm biếm
Bên cạnh một Nguyễn Thị Thu Huệ đa cảm dịu dàng đằm thắm, một Nguyễn
Thị Thu Huệ giàu suy tư về cuộc đời và con người, người đọc còn cảm nhận một nữ
86
nhà văn thẳng thắn và gai góc khi tiếp cận hiện thực. Hiện thực đang chảy trôi từng
giờ, mỗi khoảnh khắc qua đi, mỗi lời nói, hành động của con người trong cuộc sống
dường như đều là chất liệu để nhà văn xây dựng tác phẩm. Chính vì vậy, giọng
suồng sã của những lời nói tự nhiên hàng ngày được Nguyễn Thị Thu Huệ đưa
thẳng vào trong tác phẩm, khiến câu chuyện sinh động, tự nhiên như một bức tranh
phản ánh chân thực, rõ nét muôn mặt của đời sống.
Tác giả không ngại ngần ghi lại hoàn chỉnh lời nói tục tĩu của bà chủ quán phở:
“Để bố mày tìm cái sổ ghi lần trước đã. Cân chúng mày điêu bỏ mẹ, lần nào cũng
hao” (Trong lúc ăn một bát phở gia truyền). Cảnh hai cô gái nhảy từ một chiếc xe
ôm xuống, chân dài, một cô có vài nốt muỗi đốt còn cô kia dính cái sẹo do bỏng pô
xe máy. Cô bị muỗi đốt nói với cô bỏng pô: “Tám giờ tao có sâu, mày chiến đấu
một mình, OK?” “Vô tư đi, nàm bát bún đã, đói dã họng”. (Chúng ta cần suy nghĩ
về chuyện này).
Những đối thoại đời thường, những sinh hoạt vẫn diễn ra được khắc họa lại
sinh động đã cho thấy một cuộc sống chân thật đến xô bồ chốn thị thành. Giọng
suồng sã cho thấy nhà văn đã nhìn thẳng vào hiện thực, phản ánh trung thực, chính
điều này làm nên sự sinh động cho mỗi trang văn.
Với giọng điệu hài hước, châm biếm, mỉa mai lúc nhẹ nhàng, lúc gay gắt,
quyết liệt, tác giả đã biểu hiện thái độ đầy lo lắng, trăn trở trước những cái lố lăng,
kệch cỡm, sự tha hóa và biến dạng của nhân tính con người đã, đang hàng ngày,
hàng giờ diễn ra trong cuộc sống.
Nguyễn Thị Thu Huệ thường để cho nhân vật của mình có lối diễn đạt hài
hước. Trước mỗi vấn đề của đời sống, dù là chuyện vui hay chuyện buồn, nhân vật
của chị cũng có một lối nói riêng rất hóm hỉnh. Trong Minu xinh đẹp, để miêu tả
một gia đình nghèo nuôi chó Nhật ở thời buổi kinh tế thị trường, nhà văn đã tập
trung vào những hình ảnh khiến người đọc không khỏi bật cười vì sự đối lập lố bịch:
“Từ ngày có “hai cây” về ở, nếp sống gia đình tôi thay đổi hẳn. Cửa lúc nào cũng
đóng im ỉm sợ “hai cây” chạy mất”. Con chó giờ đây là cả gia tài, vì thế bao nhiêu
sức lực, tâm huyết, gia đình đều dồn vào nó: “Tôi hồi hộp nhìn Minu lặc lè nặng
nhọc đi lại trong nhà còn hơn vợ tôi ngày xưa mang bầu thằng cả”. Chú chó được
cưng chiều nhất nhà bởi nó không phải là con vật bình thường: Nó là hai cây vàng
bốn số chín – số tiền mà nhân vật tôi có nằm mơ cũng không nghĩ được một phần
đôi như thế. Giọng hài hước châm biếm giúp cho câu chuyện thật sinh động và hấp
87
dẫn. Nó khiến cho người đọc phải bật cười trước những tình huống bi hài, dở khóc
dở cười xung quanh chuyện nuôi chó. Hài hước nhất là sự kiện tuần lấy giống cho
Minu: “Cả gia đình tôi coi trọng sự kiện đó còn hơn sự kiện vùng vịnh hay tổng
thống của một nước nào đó mất chức”. Chỉ vì một tuần lấy giống của con chó đã
biến gia đình trở nên nghiêm trang, biến một thiếu tá quân đội về hưu sống nguyên
tắc và kỷ luật thành phờ phạc và vay nợ đầm đìa. Vợ chồng con cái mâu thuẫn với
nhau cũng vì con chó. Đọc truyện ngắn, người đọc có những giây phút thật thoải
mái bởi cách miêu tả tinh tế và giọng điệu rất linh hoạt của Nguyễn Thị Thu Huệ,
nhưng đằng sau những câu nói rất hóm hỉnh, những chi tiết rất nực cười ấy, người
đọc lại tự đúc rút những bài học sâu sắc. Thông qua hình ảnh con chó Minu, tác giả
muốn phản ánh cái lố lăng, kệch cỡm làm đảo lộn các giá trị trong xã hội. Một con
chó được quan tâm, coi trọng hơn cả con người. Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt trở
thành vũ khí đắc lực khi tác giả miêu tả và phê phán những thói rởm, sự kệch cỡm
trong xã hội.
Giọng hài hước là yếu tố chính đem đến cái hài cho tác phẩm. Truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ có khi còn khiến độc giả bật cười vì những chân dung nhân
vật, lời nói mang yếu tố hài hước thú vị. Trong Sống gửi thác về, tác giả xoay
quanh cuộc sống của vợ chồng Tân - Luyến. Họ lấy nhau vì một cái cắn vào môi:
“Dí cái môi của mình vào môi Luyến, hai cái môi dầy, ướt nhẹp, loang mùi húng lìu
thịt rán ăn hồi chiều, lắc phải lắc trái như con lắc đồng hồ, thế là phải nhờ đến
răng. Cắn cho một cái. Luyến sinh ra thằng Đại Dương: “Luyến trở dạ. Thằng cu
Dương phọt ra”. Luyến chăm con đến nỗi, chỉ đưa thằng Đại Dương đi cắt bao quy
đầu mà “hôm ấy, cả làng một phen kinh hãi. Đương sự hét. Mẹ đương sự hét. Bố
đương sự hét”. Cả nhà đi ăn tiệm, sợ con lạnh giữa trời đang nắng, “Luyến cuống
cuồng tháo khăn voan hồng nơi cổ mình, trùm thẳng lên đầu thằng Dương, như một
cái lồng bàn úp, rồi bốn đầu khăn túm lại làm hai túm, cho khỏi bay”. Cuộc sống
của gia đình Luyến chỉ đảo lộn khi cha của Luyến – một nhà ngoại giao về nước,
cho con tiền để hết trách nhiệm. Máy tính được mua nhưng “Từ ngày có nó, hai bố
con thằng Dương xung khắc như quân thù quân hằn. Tranh nhau chơi điện tử, mua
bán máu ảo bằng tiền thật bắn nhau đến hết máu thì mua tiếp”. Luyến chết vì bị
bệnh gan, cái nếp sống của gia đình ấy vẫn không hề thay đổi. Có khác đi là người
ngồi ở vị trí của Luyến bây giờ là bạn gái của Dương về ở chung nhà. Không khí
gia đình hiện đại hơn một tý vì hai cái máy tính: “Anh một. Em một. Bên em thì Mỹ
88
Tâm tóc nâu môi trầm thời xưa hát sùng sục lửa. Bên anh Duy Mạnh thất tình, não
nề đau thương trước nhà người yêu xúng xính đồ cưới về với chồng giàu, không cờ
bạc, nghiện hút”.
Lời văn kể chuyện cứ thản nhiên trôi đi, mang theo tiếng cười trên khóe môi
độc giả. Người đọc cười về mỗi nhân vật “hài”, mỗi hành động, cử chỉ, lời nói trong
gia đình Tân – Luyến. Thế nhưng, đằng sau cái giọng điệu hài hước ấy, người đọc
vẫn nhận thấy một nỗi buồn đan xen cảm giác bất lực trước cuộc sống khi thấy con
người tự hủy hoại bản thân, hủy hoại ngày tháng sống quý giá của mình vì những
điều vụn vặt, tầm thường, đôi khi là hèn hạ. Xã hội ngày càng phân hóa đẳng cấp và
náo loạn về văn hóa, đảo lộn về đạo đức… Những ám ảnh đó thấm vào người viết
mỗi ngày. Đúng như nhà hài kịch người Pháp Molie đã nói:
Tiếng vui cười mạnh chắc, rất buồn và rất sâu
Đến nỗi mới cười xong, ta thấy cần phải khóc.
3.2.4.Giọng lạnh lùng vô âm sắc
Ai đã từng quen với một Nguyễn Thị Thu Huệ sắc sảo mà đằm thắm, dữ dội
mà nồng say với những trang viết đậm đà nữ tính, chắc sẽ thật khó để nhận ra vẫn
Thu Huệ ấy trong Thành phố đi vắng, tập truyện ngắn mới nhất của chị. Không còn
là các vấn đề của phụ nữ, tình yêu, lòng người, rất nhiều truyện trong tập truyện mới
này đã chú tâm khai thác các vấn đề của đời sống đô thị đương đại. Và chính ở chỗ
ấy, Nguyễn Thị Thu Huệ đã đem đến cho người đọc một giọng điệu mới: Giọng
lạnh lùng vô âm sắc.
Giọng điệu này quán xuyết hầu hết tập truyện Thành phố đi vắng, biểu lộ ở
lớp ngôn từ không gợi cảm xúc. Ngôn ngữ trần thuật lại sự kiện vui hay buồn, sự
sống hay cái chết đều giữ ở độ “vô âm sắc” nghĩa là luôn luôn luôn trung tính,
không bộc lộ bất kỳ một sắc thái cảm xúc nào – điều rất khác so với Nguyễn Thị
Thu Huệ trước đây. Giống một nhà quay phim, nhà văn hướng ống kính vào những
mảng đời sống khác nhau, cặm cụi, tỉ mỉ ghi hình. Không tham dự, không phán
quyết, không dự đoán, mỗi truyện ngắn đưa độc giả tiếp cận gần nhất với đời sống
đô thị đương đại cùng những vấn đề của nó.
“-Hôm qua xe bus của thằng cháu tôi, đỗ một chỗ đợi, có bà tự lao vào đuôi
xe, nằm trong đấy. Đúng lúc thằng bé nổ máy chạy đi thế là cán nát bươm. Chết gì
như tự tử ấy…
89
-Tối qua…có con bé giận mẹ, cầm dao trong túi quần đi tự tử…Nó điên lên,
rút ngay dao đâm bị thương mấy người rồi nhảy xuống lao đầu vào ô tô tải.
-Giá rau muống lên rồi, mà rau thì toàn hóa chất, đàn vịt nhà tôi, mới hôm kia
lăn ra chết vì ngộ độc rau muống sống…
-Cô gái nói xong, tiến tới con chó. Bằng một động tác nhanh như tia chớp xẹt
ngang trời đêm, đá một phát thẳng vào giữa mồm con chó…nó nằm vật ra đất, cổ
ngộ sang bên…”
Chết do nhảy cầu tự vẫn. Chết do đổ xăng vào người rồi đốt. Chọc nhau trong
quán nhậu là vớ dao đâm chết người. Chết do lật xe, cả một đống người không nhận
ra ai nữa… Các sự kiện đều nhuốm màu tai ương và chết chóc dù ở quá khứ hay
hiện tại, được nhắc đến một cách bất ngờ và thản nhiên, lạnh lùng, không chút cảm
thương, day dứt.
Không chỉ nhắc đến chuyện chết, nhà văn còn chỉ đích danh kẻ gây ra cái chết,
thực hiện hành vi giết người. Trong X-Men có mùi trường đua, cô gái điếm từng cả
trăm lần đi khách, gặp X-Men và về chung sống với X- Men, gặp mấy vụ giết người,
X-Men đều thừa nhận: “Anh giết đấy”. Tai ương và cái chết được kẻ giết người
nhắc tới với giọng lạnh tanh nhẹ bỗng như hút thuốc vậy.
Một đôi trai gái khác hay lui tới Phòng chiếu phim số 9 khiến tạp vụ phải
khen: “Đẹp đôi thế không biết . Cả năm nay một tuần gặp đến ba lần, lúc nào cũng
thấy anh chị vui vẻ, thích xem phim. Nhìn anh chị em phát them”. Vậy rồi tan buổi
chiếu soát vé đã phát hiện ra: “Hai mắt trong suốt mở to nhìn người đối diện. Ngực
trái là con dao làm bằng xác máy bay, thép trắng xanh có khắc số 1975 bằng tay,
cắm sâu và dòng máu nhỏ đạm đặc thâm đông trên nền áo trắng, chảu xuống đùi,
đọng thành vũng dưới mặt sàn trải thảm…” - một cái chết còn tươi ròng được đặc
tả rất chi tiết, khách quan nhưng không hề có một câu chữ nào của sự thương cảm.
Giọng vô sắc, trung tính xuyên suốt các truyện ngắn của Thành phố đi vắng
không phải thể hiện nhà văn đã “cạn tình”. Đây là một thủ pháp nghệ thuật để nhà
văn khắc họa một “thành phố đông máu”, đã thiếu vắng tình người, một xã hội trơ lì,
không còn nhúc nhích, không còn chuyển động, mọi sự vật, con người như những
cô thể bất động chẳng ngọ nguậy, chẳng còn gắn kết được với nhau. Cảm giác trơ lỳ,
vô sắc, dửng dưng trước mọi biến cố xung quanh, kể cả cái chết gợi lên từ truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ vốn là đặc điểm lớn nhất của thời ta đang sống.
90
Điều này xuất phát từ cách nhìn hiện thực của nữ nhà văn: “Ngày trước,
những câu chuyện của đời sống đến với tôi, và tôi kể lại chúng theo cách nhìn của
một người trẻ, trong một xã hội ít bất an, đâu đó còn nhiều góc bình yên. Bây giờ,
đời sống của đám đông, của những thân phận bị trồi lên trụt xuống quẫy đạp nhằm
tồn tại trong những cơn sóng táp thẳng, khiến tôi chao đảo, buồn bã và đau đớn. Và
tôi đã kể những chuyện qua lăng kính của tôi, những ngày tháng này. Lạnh lùng ở
câu chữ, nhưng xa xót trong tâm can”. [54].
Sự chuyển đổi về giọng điệu trần thuật cho thấy sự thay đổi về phong cách
nghệ thuật của nhà văn. Không còn ngòi bút mang sắc thái tự truyện, là chất nữ tính,
đàn bà tính bàng bạc trong mỗi trang văn, Nguyễn Thị Thu Huệ đã tự làm mới, làm
giàu mình, tự đột xuất mình lên, đa phong cách hóa bản thân, mở rộng tầm ảnh
hưởng của mình. Đây chính là nỗ lực của nhà văn trên hành trình dấn thân vào một
lãnh địa văn chương mới. Cũng như nữ văn sĩ Canada Alice Munro, “nữ hoàng của
nghệ thuật truyện ngắn đương đại”, đạt giải Nobel văn học 2013, Nguyễn Thị Thu
Huệ đã “viết truyện ngắn khai quật những hang động vô cùng tận ẩn náu bên trong
mình và những kiếp người bình thường nhất xung quanh mình” [60].
91
KẾT LUẬN
1.Nguyễn Thị Thu Huệ - người đàn bà đẹp viết văn đã làm nên sự đa sắc của
bức tranh văn xuôi Việt Nam sau 1986. Gần hai thập kỷ trôi qua, với 6 tập truyện
ngắn, Nguyễn Thị Thu Huệ đã nỗ lực định hình một phong cách, kiến tạo một “văn
cách”, một cái tôi riêng khác, không trộn lẫn. Trong 5 tập truyện đầu, những câu
chuyện về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc của những cô gái mới lớn, những người
đàn bà đa đoan đã trở thành những miền ám ảnh, thao thức thường trực trong
Nguyễn Thị Thu Huệ. Chị kể về những mảnh đời ấy với chất nữ tính, sự cảm thông
sâu sắc.
Bẵng đi một thời gian dài, Nguyễn Thị Thu Huệ cho ra đời Thành phố đi
vắng (tập truyện thứ sáu). Người đọc ngỡ ngàng vì một Nguyễn Thị Thu Huệ hoàn
toàn khác. Không còn những số phận phụ nữ đau khổ về tình yêu, miệt mài đi tìm
hạnh phúc và khát sống, không còn những câu chữ run rẩy vì những cảm nhận tế vi
trong tâm hồn. Thành phố đi vắng là sự ồn ào phố thị, sự trơ lì cảm xúc, vô cảm vô
hồn. Ở đó, người đọc bị lôi cuốn vào một không gian không phải ba chiều quen
thuộc mà nhiều chiều. Ở đó đường thẳng dường như đã bẻ cong, mặt người như
biến dạng và thời gian như ngưng đọng.
Với sự sáng tạo mới của mình, giải thưởng lại một lần nữa đến với chị. Dù
nhiều luồng dư luận trái chiều khi tiếp nhận Thành phố đi vắng song điều đó đã
khẳng định: Những câu chữ Nguyễn Thị Thu Huệ viết ra đã đi trọn một hành trình,
từ “văn bản” trở thành một tác phẩm nghệ thuật, lưu dấu ấn đậm nét trong lòng
người đọc.
2. Sự thay đổi vùng hiện thực và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn chính là cơ
sở của sự thay đổi trong bút pháp trần thuật. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi đã đi sâu phân tích vấn đề người
kể chuyện và điểm nhìn trong 61 truyện ngắn. Qua đó nhận thấy, người kể chuyện
hiện diện và người kể chuyện tiềm ẩn chiếm số lượng tương đối ngang nhau. Trong
đó, người kể chuyện hiện diện là những cái “tôi” tự kể về mình, bộc bạch những
cảm xúc, suy nghĩ cá nhân liên quan đến hạnh phúc, tình yêu, hôn nhân. Đến tập
truyện Thành phố đi vắng, những cái tôi ấy lại thiên về kể những sự kiện xảy ra
trong chốn thị thành, khiến con người trơ mòn đi, lạnh lùng hơn.
Người kể chuyện tiềm ẩn trong truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ thường xuất
hiện ở hai dạng: Người kể chuyện tiềm ẩn tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể và
92
người kể chuyện kể theo điểm nhìn của chính mình. Trong 45 truyện ở 5 tập truyện
đầu, có 21 truyện ngắn được người kể chuyện thường mượn điểm nhìn nhân vật để
kể chuyện. Ở đây, người kể chuyện tiềm ẩn đã hòa vào nhân vật khiến mỗi trang
văn dường như là lời của nhân vật đang tự kể về về câu chuyện của cá nhân nhân
vật ấy cùng đủ đầy những suy nghĩ phức tạp, những rung động tế vi trong tâm hồn.
Trong tập Thành phố đi vắng, người kể chuyện ngôi thứ ba đặc biệt chiếm ưu thế.
Trong 16 truyện ngắn có 12 truyện được trần thuật người kể chuyện tiềm ẩn, chiếm
75%. 8 truyện có người kể chuyện tiềm ẩn mượn điểm nhìn nhân vật để kể về cuộc
sống bộn bề, đầy ắp sự kiện, dồn dập hành động, chằng chịt các mối quan hệ nhưng
lại thiếu tình người. Chính bản thân nhân vật được người kể chuyện đặt điểm nhìn
để kể cũng là những con người hiện đại thiếu sâu sắc trong cuộc sống. 4 truyện có
người kể chuyện tiềm ẩn sử dụng điểm nhìn của chính mình mang đến cảm giác
lạnh lùng, thậm chí là ghê rợn cho người đọc khi kể về những mảng hiện thực quá
kinh dị, trần trụi.
Về vấn đề điểm nhìn trần thuật, chúng tôi phân tích điểm nhìn bên trong, điểm
nhìn bên ngoài và sự chuyển dịch của hai loại điểm nhìn ấy trong truyện ngắn của
Nguyễn Thị Thu Huệ. Trong 61 truyện ngắn của chị thì có 57 truyện được trần thuật
từ điểm nhìn bên trong (chiếm 93,4%). Truyện của chị trong giai đoạn này không
thiên về kể sự kiện, hành động, người kể vừa kể vừa tả mà lại thiên về tả nhiều hơn.
Sự kiện chỉ là cái cớ để nhân vật bộ lộ suy nghĩ, cảm xúc cá nhân. Đến Thành phố
đi vắng, 16 truyện thì có 12 truyện được trần thuật từ điểm nhìn bên trong. Cũng là
những cái tôi tự kể chuyện hoặc người kể chuyện tựa vào điểm nhìn của nhân vật để
kể nhưng tác phẩm lại thiên về kể nhiều hơn. Sự kiện và hành động cũng dày hơn so
với 5 tập truyện đầu.
Điểm nhìn bên ngoài quán xuyến 4 truyện ngắn trong tập Thành phố đi vắng.
Với điểm nhìn này, tác giả giống một nhà quay phim, hướng ống kính vào những
mảng đời sống khác nhau, cặm cụi, tỉ mỉ ghi hình. Mỗi truyện ngắn đưa người đọc
tiếp cận gần nhất với đời sống đô thị cùng những vấn đề phức tạp của nó.
Hai loại điểm nhìn bên trong và bên ngoài có sự dịch chuyển cho nhau trong
một số truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, cho thấy cách tiếp cận hiện thực đa
chiều của nhà văn và sự khéo léo tổ chức truyện của người cầm bút. Việc phối hợp
và di chuyển các loại điểm nhìn này giúp cho nhà văn có điều kiện trổ nhiều ô cửa
để khám phá đời sống từ những góc độ khác nhau. Theo đó, tác giả có điều kiện để
93
đào sâu cả tầng vô thức cũng như những biến đổi tâm trạng đầy tinh vi của nhân vật.
Từ phương diện nào đó, có thể nói, sự đan xen và dịch chuyển liên tục điểm nhìn
cũng là một cách thức để tạo nên tính phức điệu của truyện ngắn hiện đại.
3.Một trong những yếu tố chi phối bút pháp trần thuật của Nguyễn Thị Thu
Huệ là quan điểm nghệ thuật của nhà văn. Chị có nhiều quan niệm riêng về nhà văn,
cách viết và sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt, nói về những thay đổi trong cách viết, tác
giả đã chia sẻ những suy nghĩ về hiện thực, đời sống hiện thời – cái nguyên cớ tạo
nên sự khác biệt của Thành phố đi vắng so với 5 tập truyện trước đó. Sự thay đổi
mạnh mẽ này đã tạo nên một thế giới nhân vật đa dạng.
Nhân vật vốn là trung tâm của trần thuật, là đối tượng được tiêu điểm hóa với
mức độ rất cao. Phân tích nhân vật trong truyện ngắn của chị, chúng tôi nghiên cứu
ở ba loại hình nhân vật: Nhân vật bi kịch, nhân vật tha hóa và nhân vật vượt lên
hoàn cảnh. Để xây dựng những chân dung nhân vật này, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử
dụng biện pháp miêu tả tâm lý và xây dựng tình huống truyện.
4.Một trong những yếu tố độc đáo trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị
Thu Huệ là nghệ thuật tổ chức kết cấu. Trong 61 truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ, chúng tôi nhận thấy nhà văn thường sử dụng các hình thức kết cấu như sau: (1)
Kết cấu đảo trật tự thời gian của sự kiện; (2) Kết cấu tâm lý; (3) Kết cấu phân mảnh;
(4) Kết cấu mở (kiểu kết thúc để ngỏ).
Giọng điệu là một phương diện quan trọng của nghệ thuật trần thuật bởi nó
không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiện
quan trọng của tác phẩm văn học mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố
khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể. Trong thời kỳ “văn học mang
gương mặt nữ” – ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế và đằm thắm,
Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo cho mình một dấu ấn riêng với giọng điệu trữ tình đằm
thắm, xót xa, giọng chiêm nghiệm, triết lý, giọng suồng sã, hài hước, châm biếm.
Đến tập truyện Thành phố đi vắng, người ta vẫn thấy những giọng điệu này xuất
hiện nhưng mờ nhạt hơn. Ở tập truyện này xuất hiện một giọng điệu mới: giọng
lạnh lùng vô âm sắc. Sự chuyển đổi về giọng điệu trần thuật cho thấy sự thay đổi về
phong cách nghệ thuật của nhà văn.
5. Như vậy, nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy đổi mới trong ngòi bút của chị. Dẫu còn những hạn
chế nhưng tác phẩm của chị đã khẳng định sự nghiêm túc và tài năng trong sáng tạo
94
nghệ thuật của nữ nhà văn. Sẽ tiếp tục “viết truyện ngắn khai quật những hang động
vô cùng tận ẩn náu bên trong mình và những kiếp người bình thường nhất xung
quanh mình”, Nguyễn Thị Thu Huệ sẽ tiếp tục đa phong cách hóa bản thân, mở
rộng tầm ảnh hưởng của mình. Thành công sẽ đến với những nhà văn có thực tài,
không ngại khó, ngại khổ, chịu khó tìm tòi để tìm ra cái mới trong dòng đời luôn
chảy trôi.
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ ĐƢỢC IN THÀNH SÁCH
HOẶC CÔNG BỐ TRÊN CÁC BÁO, TẠP CHÍ, BÁO VIẾT
1. Bùi Phương Anh, Quan niệm nhân sinh của người phụ nữ qua các sáng tác văn
xuôi thời kỳ đổi mới qua sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tư, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKHXH&NVHN, 2009.
2. Vũ Tuấn Anh, Văn học Việt Nam hiện đại – nhận định và thẩm định, Nxb Khoa
học xã hội, 2001.
3. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN, 2003.
4. Lại Nguyên Ân, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, 1994
5. Xuân Cang, “Tám chữ hà lạc và quỹ đạo đời người”, Nxb Văn hóa thông tin,
(2000).
6. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb KHXH, H, 1994.
7. Doxtoiepxki, Thi pháp tiểu thuyết.
8. Kim Dung, Đọc hồi ức binh nhì và Bến trần gian, Văn nghệ trẻ ngày 25/3/1996.
9. Phan Cự Đệ, Truyện ngắn Việt Nam Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb Giáo
dục, 2007.
10. Hoàng Dĩ Đình, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (trên
tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ), Luận án Tiến sĩ, ĐHQGHN, 2012.
11. Hà Minh Đức, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003.
12. Văn Giá, Thử nhận diện tiểu thuyết ngắn Việt Nam gần đây, Báo Văn nghệ, số
26, năm 2006.
13. Kate Hamburger, Logic học về các thể loại văn học, NXB ĐHQGHN, 2004.
14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXb
Giáo dục, 2006 - 2007.
15. Đào Duy Hiệp, Thơ và truyện và cuộc đời, Nxb Hội Nhà văn, 2001
16. Nguyễn Thanh Hồng, Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn
của một số cây bút nữ thời kỳ 1986-2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư, Đỗ Bích Thúy), Luận văn Thạc sĩ, ĐHKHXH&NVHN, 2009.
17. Nguyễn Thị Thu Huệ, Cát đợi, tập truyện ngắn, NXb Hà Nội, 1992.
18. Nguyễn Thị Thu Huệ, Hậu thiên đường, tập truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn
19. Nguyễn Thị Thu Huệ, Nào ta cùng lãng quên, Nxb Hội nhà văn, 2003.
96
20. Nguyễn Thị Thu Huệ, 37 truyện ngắn, Nxb Văn học, 2006.
21. Nguyễn Thị Thu Huệ, Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ, 2013.
22. Đoàn Hương, Những ngôi sao nước mắt, Báo Văn nghệ trẻ ngày 25/3/1996.
23. Đoàn Thị Đặng Hương, Văn chương và đời, Nxb Thanh niên Hà Nội, 2000.
24. Lê Thị Hường, Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay, Tạp chí Văn học sô
4.1995
25. Khoa ngữ văn, Kỷ yếu hội thảo khoa học những nhà nghiên cứu ngữ văn trẻ,
Trường ĐHSPHN, 11/2004.
26. Tôn Phương Lan, Trang giấy trước đèn, Nxb Văn hóa xã hội, 2002.
27. Nguyễn Văn Long (cb), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2, Nxb Đại
học Sư phạm,
28. Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003.
29. Phương Lựu, Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ, Tạp chí Tác phẩm mới, số
3/1998.
30. Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn, Đi tìm nguyễn Huy Thiệp. Nxb Văn
hóa thông tin, HN, 2002
31. Phan Thị Thanh Phong. Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Luận văn thạc
sĩ.ĐHKHXHVNV. H. 2008.
32. G.N.Pôxpêlôp, Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục
33. Nhiều tác giả, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN, 1998.
34. Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Những vấn đề thi pháp
Đôtxtôiepxki, Nxb Giáo dục, 1998.
35. Bùi Việt Thắng, Bình luận truyện ngắn. Nxb Văn học-H.1999.
36. Bùi Việt Thắng, Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb DdaHQGHN,
2000
37. Bùi Việt Thắng, Tản mạn về những truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ, Báo
văn nghệ số 43 (23/10/1993)
38. Bùi Việt Thắng, Tứ tử trình làng, bài giới thiệu cuốn Truyện ngắn bốn cây bút
nữ, Nxb Văn học, 2002.
39. Bích Thu, Văn xuôi phái đẹp, Tạp chí sông Hương số 145 tháng 3/2011
40. Lý Hoài Thu, Những truyện ngắn hay, Tạp chí văn học.
41. Lê Ngọc Trà. Thách thức của sáng tạo, thách thức của văn hóa. Nxb Thanh niên.
97
42. Trần Lê Hoa Tranh. Vài nét về văn học nữ đương đại Trung Quốc. Tạp chí
Nghiên cứu văn học. 10/2009.
43. Dương Quỳnh Trang. Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút
nữ . Tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 6/1994.
44. Truyện ngắn 5 tác giả nữ, Nxb Thời đại, 2011.
45. Lê Thị Tuyết, Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc
Tư và Đỗ Hoàng Diệu, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKHXH&NVHN, 2010.
46. Lê Thị Hương Thủy. Truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới (qua
sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan). Luận
văn thạc sĩ.ĐHKHXHVNV. H. 2004.
47. Hồ Sỹ Vịnh. Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Báo Văn nghệ số 35
ngày 21/3/ 2002.
II.NHỮNG BÀI VIẾT TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
48. Đỗ Hoàng, Thành phố đi vắng của Nguyễn Thị Thu Huệ - gỉai thưởng HNV:
Đơn sơ, nhiều lỗi, nhạt nhèo/ Cũ càng con cóc lộn lèo văn chương.
http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2013/03/thanh-pho-i-vang-cua-nguyen-thi-
thu-hue.html
49.Nguyên Hương: Nguyễn Thị Thu Huệ - Nhà văn của nồng ấm tình yêu
http://www.vanhocviet.org/phe-binh-van-chuong/chuyen-de-nha-van/-chn-dung-nh-
vn/-nguyn-hng-nguyn-th-thu-hu---nh-vn-ca-nng-m-tnh-y
50.Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ – Đủ sung sướng nhưng sẽ vô cảm
http://www.elle.vn/quan-diem-cong-dong/nha-van-nguyen-thi-thu-hue-nguoi-ta-
day-du-sung-suong-nhung-se-vo-cam-hon
51.Nhà văn Thu Huệ: Tôi chỉ ghét kiểu người đê tiện, biến thái thôi…
http://baophunuthudo.vn/sites/epaper/PNTD/Detail.aspx?ArtId=13611&CatId=171
52.Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Gọi lại niềm tin đã mất
http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/diendan/2011/11/56546.cand
53. Không gian đời tư trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
http://baolamdong.vn/vhnt/201401/khong-gian-doi-tu-trong-truyen-ngan-nguyen-
thi-thu-hue-2301555/
54. Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ: Lạnh lùng câu chữ, xa xót tâm can
http://www.baomoi.com/Nha-van-Nguyen-Thi-Thu-Hue-Lanh-lung-cau-chu-xa-
xot-tam-can/152/11450953.epi
98
55. Nguyễn Thị Thu Huệ - chuyện văn, chuyện đời
http://vietbao.vn/Van-hoa/Nguyen-Thi-Thu-Hue-chuyen-van-chuyen-
doi/10729000/181/
56. Nguyễn Thị Thu Huệ - người đẹp viết văn
http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=10878#.UygKpc7QwRs
57. Nguyễn Thị Thu Huệ: 'Người tốt đang co ro'
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-thi-thu-hue-nguoi-tot-
dang-co-ro-2134932.html
58. Nhà văn Nguyễn Thị thu Huệ: Thành phố còn đây, nhưng tình người đi vắng
http://tusach.tuoitre.vn/ArticleView.aspx?ArticleID=489078
59. Mộc Nguyên, Đọc tập truyện ngắn "Thành phố đi vắng" của Nguyễn Thị Thu
Huệ: Thành phố KHÔNG đi vắng
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=6077
60. Văn xuôi nữ - làm mới hay tự đánh mất “đặc sản tâm hồn”?
http://www.baohatinh.vn/m/van-hoc/van-xuoi-nu-lam-moi-hay-tu-danh-mat-dac-
san-tam-hon/74820
61. 'Xã hội trơ lì' trong Thành phố đi vắng
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/culture_social/2013/03/130304_thu_hue_book_re
view.shtml
62. Nguyễn Thị Thu Huệ: Nhìn đâu cũng thấy vấn đề của văn chương.
http://www.vannghesongcuulong.org.vn/modules.php?name=News&op=viewst&si
d=734
63.Lê Na, Ngôn ngữ độc thoại trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ
http://vanvn.net/news/11/395-ngon-ngu-doc-thoai-trong-truyen-ngan-nguyen-thi-
thu-hue.html
64.Giang Thanh, Lời cảnh báo từ “Hậu thiên đường”
http://phaply.net.vn/van-hoa-phap-ly/loi-canh-bao-tu-%E2%80%9Chau-thien-
duong%E2%80%9D.html
65.Trần Thục, Một góc nhìn về văn xuôi nữ
http://tonvinhvanhoadoc.vn/van-hoc-viet-nam/doi-song-van-hoc/6562-mot-goc-
nhin-ve-van-xuoi-nu.html