ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM –––––––––––––––––––––

NGUYỄN LONG HƢNG

NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG

TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Nghệ thuật trào phúng

trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986 ” với các số liệu, kết quả nghiên

cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ

công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.

Tác giả luận văn

Nguyễn Long Hưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn :

- Ban Giám hiệu, Ban Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học

Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên.

- Các thầy, cô giáo ở Viện Văn học, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội,

Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt

khoá học.

Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn

Bích Thu người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình viết

luận văn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu.

Tác giả luận văn

Nguyễn Long Hưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan………………………………………………………………......i

Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii

Mục lục…………………………………………………………………….....iii

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7

4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................. 7

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 8

6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 8

7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8

Chƣơng 1. VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VÀ SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO

SAU NĂM 1986 ............................................................................................... 9

1.1. Vài nét về văn học trào phúng Việt Nam ................................................... 9

1.1.1. Giới thuyết một số khái niệm .................................................................. 9

1.1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội chủ yếu làm hồi sinh văn học trào phúng

Việt Nam sau 1986 .......................................................................................... 11

1.1.3. Văn học trào phúng trong văn học Việt Nam sau 1986 ........................ 14

1.2. Hiện thực cuộc sống và con người trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986.18

1.2.1. Hiện thực xã hội và con người trong và sau chiến tranh ...................... 19

1.2.2. Hiện thực xã hội và con người trong cuộc sống đời thường ................. 26

1.2.3. Hiện thực xã hội và con người qua thế giới tâm linh, hoang đường ............... 40

Chƣơng 2. NHÂN VẬT, TÌNH HUỐNG VÀ CỐT TRUYỆN MANG

TÍNH TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM

1986 ................................................................................................................. 44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

2.1. Nhân vật trào phúng ................................................................................. 44

2.1.1. Cách đặt tên nhân vật ............................................................................ 45

2.1.2. Khai thác những yếu tố trái tự nhiên: chân dung, hành động, ngôn

ngữ,.. ................................................................................................................ 48

2.2. Tình huống truyện .................................................................................... 52

2.2.1. Tình huống ngẫu nhiên ......................................................................... 53

2.2.2. Tình huống nghịch lí, ngược đời ........................................................... 55

2.2.3. Tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lý của hiện tượng, nhân vật ............. 59

2.3. Cốt truyện ................................................................................................. 63

2.3.1. Cốt truyện đối lập - tương phản ............................................................ 63

2.3.2. Cốt truyện tăng cấp và kết thúc bất ngờ ................................................ 67

2.3.3. Cốt truyện phân mảnh ........................................................................... 70

Chƣơng 3. GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT MANG TÍNH

TRÀO PHÚNG TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986 ... 74

3.1. Giọng điệu trào phúng .............................................................................. 74

3.1.1. Giọng trào phúng - phê phán ................................................................. 74

3.1.2. Giọng trào phúng - xót xa, phẫn uất...................................................... 77

3.1.3. Giọng trào phúng - giễu nhại ................................................................ 82

3.1.4. Giọng trào phúng - triết lý ..................................................................... 84

3.2. Ngôn ngữ trào phúng ............................................................................... 87

3.2.1. Lạ hóa .................................................................................................... 87

3.2.2. Các thủ thuật ngôn ngữ ......................................................................... 89

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong lịch sử hình thành và phát triển của văn học Việt Nam, tuy chưa

bao giờ là một chủ lưu, nhưng văn học trào phúng Việt Nam vẫn bám rễ và

tồn tại qua nhiều thời kì, và trong những thời đại nhất định đã đạt được những

thành tựu đáng trân trọng. Từ truyện cười trong văn học dân gian, thơ văn trào

phúng thời trung đại cho đến sáng tác hiện đại, dù ở thời kì nào những sáng

tác này cũng đều phát huy được sức mạnh và ưu thế vốn có của nó, nói như

C.Mác là dùng tiếng cười để giã từ quá khứ một cách vui vẻ. Cho nên, nghiên

cứu sáng tác trào phúng là nghiên cứu một cách tiếp cận và phản ánh hiện

thực độc đáo.

Từ khi thống nhất đất nước năm 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng

lần thứ VI năm 1986, xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển biến lớn lao

ở nhiều phương diện, cả kinh tế - xã hội lẫn tư duy của con người. Hòa trong

dòng chảy chung đó, văn học cũng có những vận động, đổi mới mà đáng kể

nhất là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân. Ý thức ấy đã thôi thúc các nhà văn tìm

tòi, đổi mới về đề tài cũng như tư tưởng nghệ thuật và cách viết. Giã từ cảm

hứng sử thi với giọng điệu ngợi ca của văn học thời chiến, các tác giả đã đi

sâu vào khám phá đời sống và con người với nhiều biểu hiện phong phú và

phức tạp của nó. Nhiều cảm hứng, giọng điệu vốn tạm thời lắng xuống ở thời

kì trước nay được hồi sinh mạnh mẽ, trong đó không thể không kể đến cảm

hứng trào lộng với giọng điệu hài hước, giễu nhại. Văn học trào phúng lại tiếp

tục dòng chảy và sứ mệnh của nó.

Trong quá trình đổi mới ấy, nhiều cây bút đã dùng tiếng cười như một

phương tiện chủ yếu để phản ánh hiện thực. Có thể kể ra đây như Nguyễn

Khải, Ma Văn Kháng với giọng châm biếm nhẹ nhàng mà chua cay; Tạ Duy

Anh với giọng trào lộng, châm chích; Chu Lai, Lê Lựu với giọng tự trào; Hồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 1

Anh Thái, Thuận với giọng giễu nhại,... Cùng đứng trong hàng ngũ của các

nhà văn trào phúng, Vũ Bão đã định danh mình với cái nhìn biết cười vào

cuộc đời. Hành trình sáng tác của ông tạo nên một dòng cười: dòng cười Vũ

Bão. Vũ Bão có một lối văn châm biếm đặc biệt. Nhiều truyện của ông không

những nổi tiếng ở trong nước mà còn được dịch ra tiếng nước ngoài và được

bạn bè quốc tế đón nhận nồng nhiệt. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có

những công trình nghiên cứu có quy mô về văn chương nói chung và về nghệ

thuật trào phúng nói riêng trong hệ thống sáng tác của Vũ Bão. Đi sâu nghiên

cứu về nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão, chúng tôi mong

muốn góp phần khai phá thêm văn học trào phúng Việt Nam, đồng thời khẳng

định vị trí và tài năng của nhà văn này trong văn học Việt Nam hiện đại.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Nhìn chung, cho đến nay lịch sử nghiên cứu về con người và văn

chương Vũ Bão còn rất sơ sài. Chưa có những công trình nghiên cứu dày dặn,

chuyên sâu mà chủ yếu là những bài phê bình, bài giới thiệu tác phẩm hoặc

những bài phỏng vấn nhà văn đăng trên một số báo in và trang mạng. Tuy

nhiên, qua khảo sát, chúng tôi thấy những bài viết này đã bước đầu đã khắc

họa được chân dung con người cũng như nét độc đáo trong sáng tác của Vũ

Bão. Có thể chia những bài viết này thành hai nhóm: nhóm bài viết, bài phỏng

vấn Vũ Bão và nhóm bài phê bình, giới thiệu về sáng tác của nhà văn.

Ở nhóm bài thứ nhất, các tác giả tập trung khắc họa chân dung con

người Vũ Bão - yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sáng tác. Ngoài đời, Vũ Bão

trước sau luôn được bạn bè, đồng nghiệp coi là một cây cười: Khi nhắc đến

Vũ Bão, người ta nhớ nhất cách nói chuyện hóm hỉnh, cách pha trò có duyên

và tiếng cười luôn nổ giòn như pháo...[14]. Tiếng cười như là thứ duyên nợ

truyền kiếp và trở thành một dấu hiệu nhận biết con người ông: Vũ Bão là

người sinh ra để cười. Mỗi tế bào trong người anh đều muốn được cười. Cười

trong tác phẩm. Cười trong cuộc đời. Cười như một đứa trẻ. Và cười như một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2

ông lão lõi đời giễu tất cả [51]. Với khiếu khôi hài bẩm sinh [63] và cái

“tạng” của một nhà văn có khiếu trào phúng [40], dường như tiếng cười đã

trở thành một thứ căn cước định danh Vũ Bão trong làng văn Việt Nam. Nhà

văn Hồ Anh Thái, một cây bút trào phúng nổi tiếng cũng từng nói: Sinh thời,

dường như lúc nào nhà văn Vũ Bão cũng tìm ra chuyện để cười [45].

Tiếng cười của Vũ Bão là tiếng cười vỡ ra từ hiện thực, quan trọng hơn,

nó gắn liền với sự thật, với một con người bản lĩnh. Trong hành trình đi tìm

sự thật biết cười, khi trả lời phỏng vấn báo điện tử Vietnamnet ngày

10/02/2004, nhà văn quan niệm: Cuộc đời người cầm bút, - theo ông - thở

bằng lá phổi của mình, đi bằng đôi chân của mình, nhìn đời bằng đôi mắt của

mình, suy nghĩ lẽ đời bằng cái đầu của mình và không bao giờ chịu viết bằng

ngòi bút đã bị bẻ cong [28]. Cuộc sống có bao cái đáng cười, nhưng có cái

đáng cười lại thuộc về những “vùng nhạy cảm” mà không phải nhà văn nào

cũng dám phóng bút. Nói về sự cười trong văn chương, Vũ Bão tâm sự:

Người đời cười những chuyện vô lý mà có thật trong cuộc đời, cười những

chuyện nhảm nhí, nhố nhăng của thiên hạ. Những chuyện đó diễn ra hằng

ngày, nhưng quan trọng là có ai dám phê phán nó hay không, và tôi đã thẳng

thắn viết ra những điều đó.(...) Tôi thấy cuộc đời có nhiều chuyện đáng cười,

có khi còn hay hơn những chuyện cười đã in trên báo hay viết thành sách. Tôi

vui miệng kể cho bạn bè nghe những câu chuyện tự sáng tác, họ cười, tôi thử

viết truyện ngắn, bạn đọc cười [68]. Phát hiện sự nhạy cảm với cái hài của Vũ

Bão, nhà nghiên cứu Hoài Nam đã nhận định: Dường như ở bất cứ lĩnh vực

nào của đời sống, ở bất cứ nơi nào có sự trái khoáy của việc lẫn lộn giữa cái

thật và cái giả, cái đẹp và cái xấu, cái tử tế và cái nhem nhếch, cái hợp lý và

cái phi lý... là Vũ Bão đều xuất hiện và cất tiếng cười (...). Tác giả bài viết

cũng nhận thấy tiếng cười hài hước của Vũ Bão là tiếng cười gắn chặt với đời

sống, phản ảnh trực tiếp đời sống, mang đậm hơi thở đời sống [41]. Với ông,

tiếng cười trong văn chương không phải là để thể hiện thái độ hằn học, ác ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3

hay chửi đổng [41], mà tiếng cười cất lên là để châm biếm những thói tật tràn

lan trong xã hội, không phân biệt tầng lớp, địa vị, ngành nghề, vùng đất [69],

để bảo vệ cái thiện, cái chân, chống lại cái ác, cái nguỵ [68]. Ào ào như thế

(như cái tên Vũ Bão - người viết), ông cuốn ta đi cùng các câu chuyện của

mình, sôi nổi, rất nhiều hài hước, giàu tình cảm, và không ngại ngùng [13].

Xuất phát từ đời sống, tiếng cười của Vũ Bão lại trở về với đời sống để thanh

lọc tâm hồn con người, giúp họ sống tốt hơn, sống đẹp hơn. Tóm lại, từ những

ý kiến đánh giá của các tác giả và lời phát biểu của nhà văn nói trên, có thể

thấy Vũ Bão không chỉ là một con người hài hước, tôn trọng sự thật, mà còn

là người biết đi tìm sự thật biết cười [41].

Trong nhóm bài viết thứ hai, các tác giả chủ yếu tập trung đánh giá sự

ảnh hưởng, những nét độc đáo, bước đầu ghi nhận những thành công và vị trí

của Vũ Bão trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trào phúng nói

riêng.

Nhận xét về mối quan hệ của truyện ngắn Vũ Bão với văn học dân

gian, Bùi Việt Thắng khẳng định sự ảnh hưởng của truyện tiếu lâm dân gian

đối với tác phẩm của ông: Thi pháp truyện ngắn hiện đại cho chúng ta nhận

biết về tính chất phong phú của hình thức thể loại “nhỏ” trong sự tiếp biến

truyện kể dân gian: truyện tiếu lâm có chỗ đứng đặc biệt trong truyện ngắn

Nguyễn Công Hoan, Vũ Bão... [58]. Có tác giả còn cho rằng, Vũ Bão có một

lối văn châm biếm đặc biệt, được xem như là hậu duệ của nhà văn lớn

Nguyễn Công Hoan [28].

Ở bài viết đánh giá về đội ngũ nhà văn Việt Nam viết truyện ngắn đương

đại, Lê Dục Tú đã khẳng định: Với sự kết hợp tư duy sắc sảo nhanh nhạy của

một nhà báo và sự mẫn cảm, tinh tế của một nhà văn, truyện của Vũ Bão vẫn

tiếp tục chinh phục bạn đọc ở giọng điệu giễu nhại, tự trào của lối văn trào

lộng với tiếng cười nhân bản, hồn hậu, ở khả năng sử dụng đắc địa ngôn ngữ

dân dã, đời thường và cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên [52]. Các tác phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 4

của Vũ Bão mang đậm nét hoạt kê, giọng điệu trào phúng, giễu cợt [69]. Vũ

Thị Thường cũng nhận định: Vũ Bão là một cây bút trào lộng, lối viết dí dỏm,

súc tích (...) lôi cuốn người đọc từ đầu chí cuối [63]. Ở khía cạnh khác, Hoàng

Định còn cho rằng, tiếng cười trong tác phẩm của Vũ Bão không đơn thuần để

giải trí: Vũ Bão có lối viết hóm hỉnh, dễ đọc, nhưng đằng sau câu chữ là những

tầng ý sâu sắc [18]. Đó là những tác phẩm giản dị, gần gũi, hài hước, dí dỏm

song lại ẩn chứa nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu xa, khó quên [32].

Một số tác giả khác lại chỉ ra nét riêng trong sáng tác của nhà văn. Khi

dịch tác phẩm của Vũ Bão, dịch giả người Nhật Kato Sakae nhận định:

Truyện của ông ấy có cách viết rất trẻ, lại mới lạ [43]. Trong các tác phẩm

của ông, tinh thần hài hước lúc nào cũng vượt trội, và tinh thần hài hước này

lúc nào cũng tràn đầy trong tác phẩm của Vũ Bão. “Người vãi linh hồn”,

“Người chưa có chiến công”, “Người không có tên trong từ điển”... là những

tập sách khiến Vũ Bão không lẫn vào ai [40]. Tác giả Hoài Nam, trong bài

viết Vũ Bão và tiếng cười triết luận cũng có nhận xét tương tự: Tiếng cười

hài hước của Vũ Bão là thứ tiếng cười rất đặc biệt, thậm chí không giống ai.

Nó là tiếng cười “xả láng”. Nó là tiếng cười phanh phui, quất roi vào cái giả

cái xấu cái đáng ghét trong đời sống. Nó là tiếng cười có ý nghĩa điều chỉnh

xã hội v.v... Trên cơ sở đó, người viết còn chỉ ra chất trí tuệ, tầm vóc tiếng

cười trong truyện ngắn trào phúng của Vũ Bão:...ở một số trường hợp, tiếng

cười hài hước của Vũ Bão đã chạm tới những vấn đề triết luận, và mang tầm

của triết luận [41]. Đó không còn là tiếng cười để giễu cợt, phê phán. Cao

hơn thế, nó khiến người ta nghĩ về những vấn đề rộng lớn hơn, mang tính qui

luật của đời sống. Đặc biệt hơn, tác giả Bùi Ngọc Tấn còn phát hiện hành

trình văn chương của Vũ Bão như một dòng chảy lạ mà không nhiều cây bút

có được: Một mình anh làm nên một dòng riêng. Anh ra đi, bè bạn mất một

tiếng cười, văn học mất một dòng cười. Dòng cười Vũ Bão [51]. Những cái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 5

nhìn như thế đã vẽ được bức tranh toàn cảnh về văn chương cũng như bước

đầu tiếp cận phong cách của nhà văn quê lúa Thái Bình.

Trong khi hầu hết các bài viết cho rằng giọng điệu trong sáng tác của

Vũ Bão là giọng trào lộng, hài hước thì một số tác giả khác lại phát hiện ra

rằng phía bên kia của giọng trào lộng lại là giọng buồn xót xa: văn của ông

rất hoạt, đọc rất gây cười, rất lôi cuốn, chuyện như đùa, như giỡn, như chơi,

để đọc xong rồi, cười rồi thì thấy thấm cùng nhà văn một nỗi buồn trầm lặng

[44]. Nhiều tác phẩm của ông khi dí dỏm, lúc sảng khoái, lúc giễu nhại,

nhưng dư vị để lại thật chua xót, tiếc nuối [67]. Đồng tình với ý kiến trên, tác

giả Trần Thị Hạnh trong bài viết Tiếng cười trong “Utopi - một miếng để

đời” của Vũ Bão cho rằng: Chất humour thấm đẫm từng trang sách, từng câu

chuyện, cái cười của Vũ Bão trong tiểu thuyết này khi dí dỏm, lúc sảng khoái,

lúc giễu nhại nhưng đằng sau đó chất chứa một sự suy ngẫm, có cả tiếng thở

dài trước những ngổn ngang bề bộn chưa được dọn dẹp trên thế giới này

[23]. Mặt khác, có tác giả còn phát hiện rằng ngay cả cái hài trong sáng tác

của ông cũng không hề đơn điệu mà rất đa dạng, nhiều cung bậc: Ông dí dỏm

trong tiểu thuyết “Sắp cưới”, “Thời gian không đợi”, “Gọi ai lần cuối”...

Ông cười sảng khoái và cả chua chát trong truyện ngắn “Người vãi linh

hồn”, “Người chưa có chiến công”, “Người không có tên trong từ điển”,

“Phó tiến sĩ không hữu nghị”... Ông trào phúng sắc bén trong những thiên

phóng sự và hóm hỉnh trong những kịch bản phim “Phút thứ 89”, “Những

ngôi sao nhỏ”…[32]

Tóm lại, các tác giả bài viết không chỉ phác họa chân dung “người

cười” Vũ Bão mà còn khẳng định tính chất hài hước, trào lộng là một đặc

điểm nổi bật, bao trùm trong các sáng tác của ông. Những đánh giá này đồng

thời cũng chỉ ra những nét độc đáo trong văn chương Vũ Bão: đó là những

sáng tác trào lộng giàu ý nghĩa, giọng hài hước đa thanh, đa sắc thái. Tuy

nhiên, những ý kiến trên đây mới chỉ dừng lại ở mức khái quát những nét lớn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 6

Tiếng cười trong tác phẩm Vũ Bão cũng chưa được các tác giả tìm hiểu một

cách hệ thống, có chiều sâu; đồng thời chưa chỉ ra được ý nghĩa xã hội và

thẩm mỹ của nó. Bên cạnh đó, các phương tiện, bút pháp thể hiện tiếng cười

trong tác phẩm của ông như nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần

thuật, giọng điệu, ngôn ngữ… cũng chưa được chú ý khai thác. Chính vì thế,

một công trình có tính chất tổng kết, đánh giá trên cơ sở phân tích các tác

phẩm cụ thể để có những kết luận về nghệ thuật trào phúng trong các sáng tác

của Vũ Bão là một việc làm cần thiết đối với người nghiên cứu văn chương

Vũ Bão nói riêng và văn học sau 1986 nói chung.

Từ những đánh giá, nhận xét mang tính gợi mở và định hướng trên đây,

chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác

của Vũ Bão sau năm 1986 với mong muốn đánh giá một cách toàn diện và

có hệ thống đặc điểm nói trên ở sáng tác Vũ Bão.

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Tập Truyện ngắn chọn lọc Vũ Bão - Nxb Hội nhà văn, 2007

- Tiểu thuyết Utopi - một miếng để đời - Nxb Hội nhà văn, 2007

- Hồi kí Rễ bèo chân sóng - Nxb Hà Nội, 2010

4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI:

4.1. Mục đích của đề tài:

- Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu tiếng cười

và nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Chất trào

phúng ấy được thể hiện qua cách nhìn hiện thực đời sống và con người cũng

như qua các phương tiện nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn.

- Nghiên cứu nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của Vũ Bão, luận

văn khẳng định những đóng góp của nhà văn trong việc khám phá và miêu tả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 7

hiện thực đời sống xã hội và con người cũng như những đổi mới về tư duy,

bút pháp của nhà văn trong văn học Việt Nam hiện đại.

4.2. Nhiệm vụ của đề tài

- Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết về trào phúng trong văn học.

- Đặt sáng tác của Vũ Bão vào xu hướng hồi sinh và phát triển văn học

trào phúng Việt Nam từ sau 1986.

- Tìm hiểu sự thể hiện cụ thể của tiếng cười trong cái nhìn hiện thực và

con người ở sáng tác của Vũ Bão và các phương thức nghệ thuật đặc trưng

của tác giả để thể hiện tiếng cười ấy.

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp thống kê, phân loại.

- Phương pháp lịch sử.

- Các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh,...

6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

- Khám phá những đặc sắc của nghệ thuật trào phúng trong sáng tác của

nhà văn Vũ Bão sau năm 1986 trên những phương diện cơ bản của thi pháp

học.

- Đề tài hoàn thành góp phần làm sáng tỏ thêm bức tranh chung về văn

học trào phúng trong văn học Việt Nam hiện đại sau 1986.

7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và kết luận. Trong

đó, phần nội dung gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Văn học trào phúng và sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986.

Chƣơng 2: Nhân vật, tình huống và cốt truyện trong sáng tác của Vũ

Bão sau năm 1986.

Chƣơng 3: Giọng điệu và ngôn ngữ trong sáng tác của Vũ Bão sau

năm 1986.

Sau cùng là phần Thư mục tham khảo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 8

Chƣơng 1

VĂN HỌC TRÀO PHÚNG

VÀ SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986

1.1. VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC TRÀO PHÚNG VIỆT NAM

1.1.1. Giới thuyết một số khái niệm

Trào phúng là sự khái quát chung cho những tác phẩm nghệ thuật

(không cứ gì văn chương) lấy tiếng cười làm phương tiện để biểu hiện thái độ

gì đó, nhằm vào một đối tượng nhất định. Nhìn từ phương diện văn học, Từ

điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ

biên định nghĩa: “Trào phúng là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và

đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của

tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử

dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi

thời, độc ác trong xã hội” [22, tr.306]. Trào phúng bao gồm nhiều dạng như

khôi hài, châm biếm, đả kích mà sự phân biệt các dạng này là ở mức độ và

tính chất cùng với phương thức thể hiện. Theo nghĩa từ nguyên, trào phúng là

dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác, song trong lĩnh

vực văn học, trào phúng gắn liền với cái hài.

Cái hài là một kiểu nhận thức gắn với tiếng cười khi phát hiện ra những

mâu thuẫn nào đó của sự vật hiện tượng ở góc độ thẩm mỹ. Cái hài bao hàm

một ý nghĩa xã hội gắn liền với sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. Nó là

sự phê phán mang tính cảm xúc sáng tạo tích cực và có sức công phá mãnh

liệt đối với những cái xấu xa, lỗi thời. Sức mạnh phê phán của nó vừa có tính

phủ định lại vừa mang ý nghĩa khẳng định. Ghécxen đã cho rằng cái cười có ý

nghĩa thẩm mỹ là một công cụ. Ông viết: “Tiếng cười là một công cụ phá hoại

hùng mạnh nhất. Nó đánh và thiêu cháy như sét. Do tiếng cười mà những thần

tượng bị sụp đổ”. Vì lẽ đó, cái hài “là vũ khí trong đấu tranh xã hội, giải quyết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 9

những xung đột, những mâu thuẫn luôn hướng con người đến với cái tốt, cái

đẹp với niềm tin và khát vọng sống một cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn” [57]. Hai

yếu tố tạo nên cái hài là đối tượng trào phúng - bản chất mang tính hài của đối

tượng; và chủ thể trào phúng - người phát hiện mâu thuẫn của đối tượng và sử

dụng các phương tiện, phương thức phản ánh độc đáo để tăng hiệu quả của

tiếng cười.

Như vậy, cái hài là yếu tố hàng đầu không thể vắng mặt trong văn học

trào phúng. Nếu như truyện cười nghiêng về mua vui, giải trí thì truyện trào

phúng đồng thời còn là một thứ vũ khí mạnh mẽ. Tiếng cười trong văn học

trào phúng nhằm lật tung và đưa ra ánh sáng bản chất của đối tượng: đó là

những cái tiêu cực, giả dối, lệch chuẩn,... làm tha hóa con người và cản trở sự

tiến bộ của xã hội. Nó là tiếng cười của chân lý, chính nghĩa; tiếng cười giúp

con người tự hoàn thiện mình, như Secnưxepxki nói: “Khi cười cái xấu,

chúng ta trở nên cao hơn nó” [34, tr.9].

Tuy nhiên, việc xác định đối tượng trào phúng cũng là một yêu cầu

quan trọng thể hiện tầm tư tưởng, nhân cách, sự nhạy cảm và cả bản lĩnh của

nhà văn. Một tác phẩm trào phúng thực sự trở thành văn trào phúng và đạt

được mục đích của nó thì nó phải hoàn toàn nhận thức một cách rõ ràng đối

tượng mà mình chĩa mũi nhọn vào. Không đạt được điều này, tiếng cười dễ

trở nên rẻ rúng, lạc lõng, thậm chí còn là độc ác. “Nghệ thuật chân chính

không dạy người ta cười cái mũi bị vẹo mà dạy người ta cười một tâm hồn

lệch lạc” [34, tr.9]. Một nhà văn chân chính bao giờ cũng đứng về phía lẽ phải

và tiến bộ; nhận thức được chân, thiện, mĩ để từ đó tấn công vào cái xấu. Đó

là những cái xấu về đạo đức, nhân cách, lối sống,... là những cái xấu mà

không biết mình xấu, là cái xấu đội lốt cái đẹp, nhân danh cái đẹp.

Liên quan đến trào phúng còn có các thuật ngữ gần gũi như giễu nhại,

trào lộng. Giễu nhại là sự nhắc lại, mô phỏng, một lời nói, một cử chỉ hay nét

phong cách, giọng điệu của đối tượng nhại nhằm làm bật lên cái đáng cười,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 10

cái tầm thường, xấu xa, kệch cỡm đáng phê phán của chúng. Đặc điểm nổi bật

của giễu nhại là luôn có sự bắt chước một cách cố ý các đặc điểm của đối

tượng giễu nhại nhằm tạo ra sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng, nội dung

và hình thức, bên trong và bên ngoài… hướng người đọc đến nhận thức cái

khiếm khuyết, cái lỗi thời, lạc hậu, phản tiến bộ của đời sống xã hội và trong

bản thân con người để cùng nhau nhận thức lại, hoàn thiện bản thân và thúc

đẩy tiến bộ xã hội.

Trào lộng, theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là cười nhạo cợt

chơi. Trào lộng là cười có tính chất hài hước để đùa cợt, chế giễu. Xét về mức

độ thì trào lộng thường nhẹ nhàng hơn châm biếm, phê phán. Tuy nhiên, ở

một số trường hợp, trào lộng vẫn có thể mang ý nghĩa của châm biếm, phê

phán.

1.1.2. Những tiền đề lịch sử, xã hội chủ yếu làm hồi sinh văn học

trào phúng Việt Nam sau 1986

Một cách khái quát, có thể nói văn học trào phúng Việt Nam với tiếng

cười trào lộng, châm biếm đã trở thành truyền thống và luôn song hành với sự

ra đời, vận động và phát triển của văn học dân tộc và trở thành nguồn cảm

hứng không bao giờ tắt trong trường kì lịch sử. Trong văn học truyền miệng,

tiếng cười cất lên ở nhiều thể loại như truyện cười dân gian, ca dao hài hước,

chèo, tuồng cổ,... chủ yếu nhằm chế giễu, châm biếm những thói hư tật xấu,

phê phán bộ máy thống trị và thể hiện tinh thần lạc quan của quần chúng nhân

dân. Trong văn học viết, từ thời trung đại cho đến hiện đại, yếu tố trào phúng,

tuy có những thăng trầm do hoàn cảnh lịch sử, vẫn hòa vào dòng chảy văn

chương nước nhà. Có thể kể ra đây như: Nguyễn Sĩ Cố (thế kỉ XIII) người

được cho là khởi nguồn văn học viết trào phúng với hai tác phẩm Tụng giá

Tây Yết ở đền Tản Viên và Tụng giá Tây chinh Yết Uy Hiển Vương từ hài

hước, đùa cợt thần linh. Đó là Nguyễn Biểu, Lê Thánh Tông (thế kỉ XIV -

XV), là Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỉ XVI - XVII), là Hồ Xuân Hương,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 11

Nguyễn Công Trứ (thế kỉ XVIII - nửa đầu XIX), là Nguyễn Khuyến, Trần Tế

Xương (nửa cuối thế kỉ XIX), là Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan (nửa

đầu thế kỉ XX). Đặc biệt, sau năm 1975 văn học trào phúng bắt đầu phát triển

mạnh mẽ, tạo nên dấu ấn đậm nét và trở thành một trong những giọng điệu

chủ đạo của văn học giai đoạn này. Tiếng cười và nghệ thuật trào phúng đã

trở thành phương thức phản ánh của nhiều nhà văn: Nguyễn Khắc Trường với

Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Bắc Sơn với Luật đời và cha con; Võ

Văn Trực với Vết sẹo và cái đầu hói; Tô Hoài với Ba người khác; Hồ Anh

Thái với Tự sự 265 ngày và Mười lẻ một đêm; Vũ Bão với Utopi - một miếng

để đời và nhiều truyện ngắn;... Có thể nói, tiếng cười trào phúng đã trở thành

truyền thống có tính bền vững trong văn học Việt Nam. Sự xuất hiện của văn

học trào phúng trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1986 là sự tiếp nối tất yếu

của truyền thống ấy.

Ở phương diện lịch sử - xã hội, chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975

đưa lịch sử dân tộc chuyển sang một trang mới. Sau những năm tháng chiến

tranh ác liệt, cả dân tộc bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Nhưng

những hậu quả của chiến tranh và mô hình bao cấp không còn phù hợp đã đặt

ra nhu cầu cấp thiết hơn bao giờ hết, đó là nhu cầu đổi mới. Trước yêu cầu

lịch sử đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã xác định: “Đối

với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là

vấn đề có ý nghĩa sống còn, phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, chúng

ta mới có thể vượt qua khó khăn…” [65, tr.64]. Sự biến chuyển đó của lịch sử

và kéo theo là sự thay đổi của hoàn cảnh lịch sử - xã hội dần dần làm thay đổi

diện mạo đời sống cũng như tâm lí, tư duy của con người. Chính sách mở cửa

cùng với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, sự hội nhập kinh tế

quốc tế, sự giao lưu văn hoá trong khu vực và trên thế giới từng ngày làm đất

nước thay da đổi thịt. Nhưng cũng chính từ đó, bên cạnh việc đem đến những

cơ hội, hoàn cảnh mới cũng làm nảy sinh nhiều thách thức. Những quan hệ xã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 12

hội mới xuất hiện; sự va chạm giữa cái cũ và cái mới, tiến bộ và lạc hậu, giữa

giá trị truyền thống và hiện đại; sự suy thoái về đạo đức lối sống; những biểu

hiện mới của tính cách con người... tạo nên một bức tranh đa sắc màu. Khác

hẳn thời kì trước 1975, khi mà xã hội và tâm lí con người còn tương đối thuần

nhất, thì đến bây giờ cuộc sống mới, bên cạnh nhiều giá trị tốt đẹp cũng natr

sinh không ít điều tồi tệ, xấu xa: sự giả dối, rởm đời, lừa lọc, phản trắc; những

suy đồi, tha hóa về đạo đức, nhân tâm,... Ngay trong mỗi con người, cái thiện

và cái ác, cái cao cả và thấp hèn, cái tốt và cái xấu, cái bi và cái hài,... cùng

đan xen, tồn tại. Tất cả những biểu hiện phong phú, phức tạp đó của đời sống

đã trở thành chất liệu sáng tạo cho nền văn học mới nói chung và văn học trào

phúng nói riêng.

Mặt khác, từ sau 1986 quan điểm chỉ đạo văn nghệ thông thoáng và cởi

mở của Đảng “đã thổi một luồng gió lớn vào đời sống văn học nghệ thuật

nước nhà, mở ra một thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam trong tinh thần

đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật” [36, tr.11]. Tiền đề đó làm cho ý

thức cá nhân, vốn xuất hiện từ những năm 30 của thế kỉ XX, tạm ẩn mình

trong những năm tháng chiến tranh, lại có dịp hồi sinh. Ý thức ấy cùng với

tinh thần nhìn thẳng vào sự thật cho phép con người thể hiện chính kiến, quan

điểm của mình về mọi vấn đề trong đời sống xã hội một cách thẳng thắn,

trung thực; giúp nhà văn dám xông xáo vào mọi ngõ ngách của đời sống, khắc

họa một cách chân thực, sinh động bản chất của con người và xã hội.

Bên cạnh đó, khi văn học khám phá con người ở muôn mặt cuộc sống

đời thường thì những giá trị tinh thần, khát vọng cá nhân luôn được đề cao.

Nhu cầu thể hiện cá tính, vai trò của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể;

nhu cầu được thư giãn, được giải toả và được đánh giá, bình phẩm về các hiện

tượng đời sống mà văn học phản ánh cũng trở nên bức thiết hơn. Những yếu

tố trên đã mở đường cho tiếng cười đi vào những trang sách.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 13

Trong bối cảnh như thế, nhiều cảm hứng, giọng điệu vốn trước đây bị

coi nhẹ nay đã sống lại trên những trang viết, trong đó phải kể đến bộ phận

văn học trào phúng với cảm hứng trào lộng, phê phán, đúng như T.S Nguyễn

Thị Bình đã nhận định: “Trong công cuộc đổi mới đất nước sau chiến tranh, ý

thức cá nhân được giải phóng, ý thức cá tính được đề cao trong văn chương

đã là cơ sở cho tiếng cười nở rộ” [12, tr.29].

1.1.3. Văn học trào phúng trong văn học Việt Nam sau 1986

Kể từ sau năm 1975 đến trước 1986, đặc biệt là từ sau năm 1986, sự

chuyển mình của lịch sử - xã hội đã kéo theo sự hồi sinh của văn học trào

phúng Việt Nam. Nhiều cây bút đã tìm thấy ở tiếng cười một cách thức, một

phương tiện phản ánh thực tại đầy tiềm năng và có sức hấp dẫn lớn đối với độc

giả. Thay vì những vấn đề lớn lao, trọng đại của dân tộc, đất nước như giai

đoạn trước, văn học nói chung và văn học trào phúng nói riêng đi sâu khám phá

muôn mặt đời thường của con người cá nhân. Nhiều vấn đề của đời sống được

đưa lên trang giấy. Trong thế hệ những nhà văn đàn anh, Nguyễn Minh Châu

được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Mỗi truyện ngắn của ông

luôn ẩn giấu những suy tư, trăn trở về cuộc đời, về nhân tình thế thái. Đó có thể

là giọng cười đùa hóm hỉnh, là cái “cười ra nước mắt”, cũng có khi lại là giọng

châm biếm phẫn nộ. Trong một số tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đi vào những

căn bệnh trầm kha của xã hội mà biểu hiện rõ nhất là những sự phi lý cứ ngang

nhiên tồn tại trong cuộc sống. Ở Phiên chợ Giát, đó là cuộc đối thoại ngầm của

lão Khúng và người lãnh đạo huyện chỉ chăm chăm “cách cái mạng” của người

dân quê muôn đời nghèo khổ. Khúng “nín lặng nghe một cách cung kính” ông

chủ tịch giảng giải về “hai con đường” mà chỉ chực thốt lên: “tôi gần mười đứa

con, vào hợp tác xã để mà chết đói à?”. Ông chủ tịch là nhà cách mạng luôn

thường trực bầu máu nóng “lúc nào cũng như cái chảo nước đang sôi, hễ thích

làm gì là làm, bất chấp tất cả” nhưng với lão Khúng thì: “công trường với chả

công triếc… toàn là một lũ ăn cắp”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 14

Trong Thời xa vắng in năm 1986, Lê Lựu đã dẫn người đọc trở về với

một thời đầy bi hài. Cái làng Hạ Vị của Giang Minh Sài dẫu đã lên đến hợp

tác xã cấp cao, trải qua những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, có đủ

cả bộ máy đảng, chính quyền nhưng vẫn chỉ là một hình ảnh thu nhỏ của một

vương quốc “rất ngố”, “rất nhắng”. Sự ấu trĩ của những người nắm quyền lực,

nắm sinh mạng kẻ khác đã giết chết con người cá nhân, những mơ ước khát

vọng và tài năng của không ít người trong đó có Giang Minh Sài. Tiếng cười

xen lẫn dư vị chua cay mà tác phẩm tạo ra được khai thác ở những “chuyện

thật như đùa” ngay trong hiện thực đời sống đất nước sau chiến tranh, vốn

trước nay “vẫn bị dồn nén, che giấu cẩn thận”.

Với Lê Minh Khuê, một cây bút nữ khá nổi bật thì cảm hứng trào lộng

chỉ thấp thoáng trong một số tác phẩm ban đầu, càng về sau càng trở nên mạnh

mẽ và đậm nét. Bằng cảm quan của mình, tác giả đã tập trung giễu nhại sự tha

hoá và lối sống thực dụng của con người thời hiện đại, những bất ổn của cơ chế

xã hội, những quan niệm lệch lạc, ấu trĩ của con người. Tất cả được nhà văn

trình bày bằng một giọng văn hài hước, châm biếm theo kiểu: đường về làng

trồng nhiều cây bạch đàn, con mương thẳng theo hàng cây. Hai cái quán

karaokê đứng cạnh mấy đống rơm… bố mẹ Na cũng xây cái hộp vuông như cái

bánh chưng, bên trên nhọn hoắt những tháp của người Ả rập... (Làng xi măng).

Nhà văn giễu sự mù quáng của con người trước đồng tiền đến mức tự biến

mình thành một kiểu con vật - người (Anh lính Tony.D); giễu chủ nghĩa bình

quân, chủ nghĩa lý lịch, chủ nghĩa thành phần (Ga xép) và cũng chẳng ngại

ngần châm biếm loại người “cỗ máy”, công cụ (Thân phận cu li).

Đến Nguyễn Huy Thiệp, dường như tiếng cười trào phúng trở thành nét

nổi bật trong các sáng tác của nhà văn. Hàng loạt truyện ngắn như Tướng về

hưu, Những người thợ xẻ, Sang sông, Không có vua… được tác giả viết bằng

cảm hứng giễu nhại. Trong Tướng về hưu, tác giả đã sử dụng nhại để “giải

thiêng” những quan niệm anh hùng, thi vị hoá cuộc sống. Chẳng hạn, tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 15

dẫn vào trong truyện cuộc đối thoại ngắn giữa đứa cháu thơ ngây và ông nội

để làm bật lên cái hiện thực trớ trêu của vị tướng giữa đời thường: “Cái Mi

hỏi: Ông đi ra trận hả ông? Cha tôi bảo: Ừ! Cái Vi hỏi: Đường ra trận mùa

này đẹp lắm có phải không ông? Cha tôi chửi: Mẹ mày! Láo!” [61, tr.34]. Ở

đoạn khác, nhà văn lấy suy nghĩ của những đứa trẻ để giễu nhại và xót xa về

lối sống thực dụng đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người: “Cái Mi hỏi: Sao

chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà? Cái Vi hỏi:

Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố? Tôi khóc: Các con không hiểu

đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín. Cái Vi bảo: Con hiểu đấy. Đời người

cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần” [61, tr.29]. Trong truyện

ngắn Sang sông, dường như ngòi bút giễu nhại của tác giả đã hướng về những

vấn đề đạo đức, niềm tin tôn giáo khi cho người đọc chứng kiến hành động

đập vỡ chiếc bình quý của hai tên buôn đồ cổ để cứu đứa bé bị kẹt tay trong

miệng bình. Chính ông giáo, một biểu tượng sống của văn hoá, đạo đức phải

thốt lên: “Trời! Anh ấy dám đập vỡ bình! Thật đúng là một anh hùng! Một

nhà cách mạng! Một nhà cải cách! Chị lái đò giấu nụ cười thầm. Chị biết, vô

phúc cho ai một mình gặp hắn trong đêm” [61, tr.235]. Kẻ cướp có thể trở

thành anh hùng, thậm chí thành Phật nếu chúng ta đối sánh với nhà sư - người

từ đầu đến cuối không hề biểu lộ một lời nói hay hành động nào.

Cùng với Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái nổi lên như là cây bút trào

phúng có những thể nghiệm mới. Tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế

viết về cõi người như một sa mạc mênh mông, hoang vắng của cái ác, dục

vọng và lòng ích kỷ. Tưởng chừng sự trỗi dậy của cái ác mạnh đến nỗi mà tác

giả phải hốt hoảng rung lên hồi chuông cảnh tỉnh. Tập truyện ngắn Tự sự 265

ngày ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn năm 2001 đã gây được sự chú ý của

người đọc về nhiệt tình tìm tòi, tự đổi mới mình không ngừng nghỉ của tác

giả. Qua tác phẩm, người đọc chứng kiến sự thật trong đời sống của tầng lớp

được coi là ưu tú của xã hội. Từ quan chức đến chuyên viên, phục vụ; đủ học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 16

vị, học vấn, thành phần giới chức: Nhà khoa học, nghiên cứu viên, nhà văn,

sử học, võ sư, nghệ sĩ,... Có thể nói, những nhân vật trong Tự sự 265 ngày

được xây dựng như là những mẫu hình đại diện cho một loại trí thức, công

chức “rởm” và sự nhạt nhẽo, vô nghĩa trong việc làm và lối sinh hoạt của họ.

Rất nhiều thói hư, tật xấu, sự bất tài vô tướng của giới công chức trong Tự sự

265 ngày được chỉ ra dù Hồ Anh Thái không có ý bôi đen cuộc sống. Việc

nhận ra và nói thẳng bằng thái độ giễu cợt, trào lộng những thói tật của một

bộ phận người đang có nguy cơ phổ biến trong xã hội là một trong những

đóng góp quan trọng của tác giả ở tập truyện này. Tư tưởng và cách thể

nghiệm này được nhà văn tiếp tục phát huy trong tập truyện ngắn Bốn lối vào

nhà cười và một số truyện ngắn trong tập truyện ngắn Sắp đặt và diễn.

Từ sau năm 1986, sự thay đổi trong quan niệm, cách tiếp cận đời sống

và con người của các nhà văn đã dẫn đến những cách tân về hình thức nghệ

thuật, trong đó có văn xuôi trào phúng. Tiếng cười xuất hiện với nhiều cung

bậc đa dạng, phong phú. Có khi đó là tiếng cười nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng

cũng có khi là tiếng cười châm biếm, đốp chát sâu cay. Ở phương diện xây

dựng cốt truyện, do hướng về đời sống thế sự với con người cá nhân trong

sinh hoạt hàng ngày nên hầu hết nhà văn trào phúng không chú trọng xây

dựng những cốt truyện trong đó chứa đựng những xung đột, mâu thuẫn gay

gắt. Có thể thấy trong nhiều tác phẩm của Tạ Duy Anh, Nguyễn Huy Thiệp,

Hồ Anh Thái, Vũ Bão,... không phải cốt truyện nào cũng có những tình huống

gay cấn với những xung đột quyết liệt, mà chủ yếu là những câu chuyện về

những cái bình thường, nhỏ nhặt diễn ra trong cuộc sống, sinh hoạt hàng

ngày. Nếu có xung đột thì chủ yếu là xung đột bên trong của cá nhân. Thậm

chí ngay cả khi nhà văn đề cập đến chiến tranh trong quá khứ, cũng không

thấy có xung đột một mất một còn giữa ta và địch, mà chỉ đơn giản là những

mỗi quan hệ, chuyện công bằng, chuyện sinh hoạt hàng ngày giữa những

người lính. Ở phía cạnh khác, kết cấu tác phẩm cũng được tổ chức rất linh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 17

hoạt. Sự kiện ít khi được đặt trên một trục tuyến tính mà được tháo gỡ, sắp đặt

thành nhiều dạng thức mới như kiểu cốt truyện theo hành trình số phận, đan

xen giữa quá khứ và hiện tại; lối xây dựng các biểu tượng với các thủ pháp

nghệ thuật mới mẻ như thủ pháp đồng hiện, cắt dán, lồng ghép, liên văn

bản,...

Do đổi mới trong quan niệm về con người nên ở phương diện nhân vật,

các nhà văn trào phúng sau năm 1986 không chú trọng xây dựng các nhân vật

điển hình hoặc kiểu nhân vật lí tưởng, mẫu mực, đơn phiến. Nhân vật trong

các sáng tác của họ chỉ là những con người bình thường, đặt trong sinh hoạt

đời thường với tất cả biểu hiện tự nhiên của nó. Thậm chí có những tác phẩm,

dù viết về người lính và chiến tranh, thì con người ở đây vẫn chủ yếu được

nhìn nhận và đánh giá trong những sinh hoạt thường ngày, trong mối quan hệ

với người khác, chứ không phải trong quan hệ với kẻ thù.

Dù chưa điểm hết những tác giả, tác phẩm trào phúng song có thể thấy

sự phát triển mạnh mẽ của văn học trào phúng là một thực tế không thể phủ

nhận. Với cái nhìn thẳng vào sự thật, khám phá hiện thực ở nhiều chiều kích

khác nhau, bằng tiếng cười, các tác giả đã đem đến cho văn học một diện mạo

mới, sắc thái mới. Qua đó, có thể khẳng định văn học trào phúng là một bộ

phận khá nổi bật trong văn xuôi nước nhà sau 1986.

1.2. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG SÁNG

TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986

Sinh thời, nhà văn Vũ Bão hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Từng là người lính trong thời chiến, rồi trở về làm văn nghệ trong thời bình

nên “vùng thẩm mĩ” trong sáng tác của nhà văn cũng tương đối rộng lớn. Mặt

khác, với tài năng của một người cầm bút, Vũ Bão đã thể hiện những vấn đề

của hiện thực đời sống và con người bằng bút pháp đa dạng, trong đó phải kể

đến những tác phẩm phản ánh trực tiếp đời sống thế tục và những tác phẩm

mang xu hướng tâm linh, hoang đường. Xuất phát từ đặc điểm trên, chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 18

tiến hành tìm hiểu hiện thực xã hội và con người trong trong truyện ngắn Vũ

Bão sau năm 1986 ở ba phạm vi sau: hiện thực xã hội và con người trong và

sau chiến tranh; hiện thực xã hội và con người trong cuộc sống đời thường;

hiện thực xã hội và con người trong thế giới tâm linh, hoang đường.

1.2.1. Hiện thực xã hội và con ngƣời trong và sau chiến tranh

Cái hài, xét về mặt ý nghĩa luôn đối lập với cái bi. Tiếng cười đối lập

với nỗi buồn và nước mắt. Nhưng trong thực tế sáng tác và biểu hiện, cảm

hứng về cái hài dường như gắn liền với cái bi, tạo thành cái gọi là “umua đen”

như các nhà phê bình văn học phương Tây hiện đại đã quan niệm. Đó là kiểu

tiếng cười mang sắc thái bi đát. Tiếng cười trong truyện ngắn Vũ Bão viết về

hiện thực xã hội và con người trong và sau chiến tranh cũng mang sắc thái

như thế. Không giống như cách tiếp cận thường thấy ở những tác phẩm viết

về chiến tranh trước đây - thiên về ngợi ca, về chiến thắng, vinh quang - các

truyện ngắn của Vũ Bão lại chủ yếu xem xét, miêu tả hiện thực và con người

trong những đối cực với cái nhìn đa diện, nhiều chiều trên tinh thần dân chủ,

tôn trọng sự thật. Trong phạm vi hiện thực này, nhân vật của nhà văn thường

là những người lính hoặc những những công dân đặt trong hoàn cảnh chiến

tranh. Nhìn vào những tác phẩm của nhà văn, có thể khái quát thế giới hiện

thực và con người trong và sau chiến tranh ở ba cặp đối lập sau: dũng cảm và

hèn nhát, công bằng và bất công, vinh quang và cay đắng.

* Dũng cảm và hèn nhát:

Khi tổ quốc lâm nguy, không có gì được trân trọng và ngợi ca bằng

lòng yêu nước, bằng tinh thần dám hi sinh vì đồng bào, vì dân tộc. Sáng tác

của Vũ Bão cũng vậy, từ ông già Vân Kiều kiên cường trước đòn chặt tay

chặt chân của kẻ thù cho đến những người lính xả thân nơi chiến trường, tất

cả đều bừng lên một lòng căm thù, một tinh thần, một tư thế tiến công đến

giọt máu và hơi thở cuối cùng. Khe Tre là một truyện ngắn đầy cảm xúc về sự

tàn bạo của kẻ thù, về lòng dũng cảm và niềm tin lớn lao của ông già bản T về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 19

“ba mươi mốt triệu bà con mình đang vùng lên giành một Tổ quốc nguyên

vẹn” [5, tr.64]. Truyền thống tốt đẹp ấy được người con dũng sĩ Vân Kiều tiếp

nối trong trận đánh thù: “Chiếc cán cờ khai sinh từ Khe Tre đã đứng hiên

ngang giữa những ánh chớp nhằng nhằng... Cán cờ đã cắm đúng yếu hầu bọn

giặc. Lửa đạn và những trận bão thép đã tưới tắm cho đoạn tre thân thương ấy

bám chặt lấy khoảnh đất vừa giành được trong tay quân thù” [5, tr.68]. Đó

còn là Người không có tên trong từ điển Trần Trọng Chình đã vượt lên

những mua chuộc của kẻ thù, tự nguyện hi sinh để bảo vệ đồng đội. Dũng

cảm là phẩm chất cần có của mỗi công dân nói chung và người lính nói riêng

khi đất nước bị xâm lăng. Nhưng phải chăng, ai ra trận cũng có được phẩm

chất ấy? Trong truyện Người vãi linh hồn, nhà văn Vũ Bão thể hiện cái nhìn

đời thường về những người lính khi xung trận. Dũng cảm có, hèn nhát có.

Trong làn đạn xối xả của kẻ thù, chính trị viên và cả tiểu đội băng lên nhưng

Vĩnh, một chiến sĩ trong tiểu đội của nhân vật “tôi”, lại hèn nhát nằm bẹp lại.

Trận đánh kết thúc, Vĩnh sợ đến nỗi “vãi linh hồn tóe ra quần”! Trong cái

nhìn đa diện, chân thực như thế, con người trong hiện thực chiến tranh hiện

lên đúng như bản chất của nó, phức tạp và chứa đựng trong nó những đối cực

gay gắt. Và với Vũ Bão, có lẽ đó mới chính là cuộc sống.

* Công bằng và bất công:

Trong khi văn học viết về chiến tranh thường chủ yếu khắc họa cuộc

đấu tranh giữa ta và địch, những hình tượng anh hùng trong quan hệ với kẻ

thù thì Vũ Bão lại chủ yếu nhìn người lính trong các quan hệ với đồng đội.

Nhà văn “không cốt tả thân phận mà thiên về những mối quan hệ của con

người” [8]. Cho nên, hiện thực chiến tranh trong sáng tác của Vũ Bão thường

ít được sử dụng như là hoàn cảnh để thể hiện phẩm chất, lí tưởng cách mạng

của người lính, mà chủ yếu để khắc họa cái tốt, cái xấu của mỗi nhân vật

trong quan hệ với đồng đội của mình. Ở mỗi quan hệ đó, không chỉ đề cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 20

phẩm chất anh hùng của những người lính, nhà văn tập trung phê phán cái sai,

cái tiêu cực, cái phi lí.

Vũ Bão đặc biệt nhạy cảm với vấn đề công bằng trong quan hệ, ứng xử

giữa những người lính, đặc biệt là quan hệ giữa người chỉ huy với những

người lính, giữa cấp trên với cấp dưới. Những người chỉ huy trong sáng tác

của nhà văn có thể vẫn yêu quí những người lính dưới quyền của mình, nhưng

nhiều lúc lại trở thành những cấp trên quan liêu, cậy quyền để áp đặt mệnh

lệnh một cách vô lí. Dù thế, kết thúc câu chuyện bao giờ những người lính

vẫn thuyết phục được cấp trên bằng lí lẽ đúng đắn của họ. “Anh lính của tôi

đại diện cho cái gì hồn nhiên đáng yêu, biết quên mình vì đồng đội, biết làm

cách nào để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ chiến đấu, không màng danh lợi gì

ngoài việc giữ cho đúng, giữ cho vững bản ngã con người mình, dù chỉ là cái

tên cha mẹ đặt hay một lối cảm nghĩ riêng. Anh ta có cái lý của mình.” [8]

Có khi vấn đề công bằng nằm trong câu chuyện đòi lại một cái tên. Mở

đầu Người chưa có chiến công là những cuộc đối thoại để giành lại cái tên

của mình của những người lính trước những người chỉ huy. Tương tự, trong

truyện Người không có tên trong từ điển, Vũ Bão lật mặt tệ quan liêu khi kể

chuyện người ta chỉ nhăm nhăm sửa cái tên của anh lính Chình thành Trình

cho có nghĩa, mà quên bẵng việc phải đối xử công bằng với người luôn đấu

tranh vì lẽ công bằng. Cũng có khi câu chuyện công bằng liên quan đến quyền

lợi của mỗi người lính khi ra trận. Biết rằng mỗi người lính khi ra trận được

nhận 38 mặt hàng, nên Chình yêu cầu tiểu đội trưởng phải phát đủ cho anh

em, vì “tiêu chuẩn của mình thì phải đòi, không có các bố hậu cần lại bốc hơi

tuồn cho con phe ngoài chợ trời (...). Cái gì cũng phải công bằng” [5, tr.172].

Không chỉ thế, viên chỉ huy trong truyện Người chưa có chiến công

còn có cách tuyên dương binh sĩ hết sức phi lí. Trong khi Rãng trả phép đúng

hạn, yêu thương lo lắng cho anh em thì không được khen, người được khen là

Bành, một anh lính vi phạm kỉ luật trả phép muộn. Vì mải chơi nên bị nhỡ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 21

tàu, sợ bị đơn vị kỉ luật, Bành đã phải đi bộ suốt đêm, nhịn đói nhịn khát lần

theo dấu vết trung đoàn, bám hết đại đội này sang đại đội khác để tìm về đơn

vị... Công bằng thì anh ta phải bị kỉ luật, nhưng người chỉ huy đã tôn vinh

hành động ấy như là tấm gương về “ý thức chấp hành kỉ luật”, “tinh thần khắc

phục khó khăn”! Chất hài hước được đẩy lên cao hơn nữa ở tình huống chiến

đấu. Bành chẳng làm gì mà nghiễm nhiên anh ta lại được khen vì có “tinh

thần tiến công cách mạng”. Với những “thành tích” của người khác như thế,

Bành được kết nạp Đảng. Còn Rãnh, vì là “người chưa có chiến công” nên

còn phải tiếp tục phấn đấu!

Trong truyện ngắn của Vũ Bão, vấn đề công bằng và bất công bằng

được đề cập đến ở nhiều cấp độ, không chỉ trong quan hệ giữa cá nhân với cá

nhân, mà hơn thế, trong quan hệ giữa cá nhân với lịch sử. Mà suy cho cùng,

lịch sử cũng là do con người tạo ra. Ở Người vãi linh hồn, trong một trận

đánh quyết định, Vĩnh - một chiến sĩ trong tiểu đội của nhân vật “tôi”, lại hèn

nhát nằm bẹp lại, bỏ quên cả lá cờ của đơn vị. Nếu truyện chỉ dừng lại ở đó

thì thôi chỉ coi như ôn lại kỉ niệm vừa giận, vừa tếu táo của mấy anh lính trẻ.

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của câu chuyện. Một đoàn làm phim về ghi lại

chiến công và cảnh cắm cờ trên đồn Bốt Chè. Tới đây, một loạt tình huống hài

hước xuất hiện. Vĩnh được cử là người cắm cờ chiến thắng lên nóc đồn địch.

Rồi cuốn phim được phổ biến cho toàn thế giới biết; cảnh cắm cờ được in

thành lịch, được in trên những con tem... Hai mươi năm sau, một đạo diễn

nước ngoài đến Việt Nam để phỏng vấn những người lính xuất hiện trong

cuốn phim đó. Sự giả tạo được đẩy lên tột đỉnh khi lại một lần nữa, “người vãi

linh hồn” lại được cử đi trả lời phỏng vấn về trận chiến oai hùng năm xưa.

Chỉ có điều, chuyện anh chàng “vãi ra quần” thì không nói đến. Và cái quần

trong phim cũng không ướt sũng như cái quần năm xưa. Với chuỗi tình huống

trong “Người vãi linh hồn”, Vũ Bão đã cho thấy một sự kiện “bị bẻ queo”. Sự

thực lịch sử đã bị chà đạp từ từ một cách thô bạo. Những người lập công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 22

không bao giờ được biết đến. Những kẻ hèn nhát lại được tôn vinh như những

anh hùng!

Một cách khái quát nhất, vấn đề công bằng và bất công là một trong

những vấn đề trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Vũ Bão. Với con mắt tinh

tường, nhà văn phát hiện và lôi nó ra ánh sáng, bắt nó hiện hình ở nhiều dáng

vẻ, dù là tinh vi nhất. Những trang viết của nhà văn không chỉ góp phần giúp

con người nhận ra những biểu hiện, những trạng thái phi lí, lố bịch, ti tiện,.. mà

còn làm thức tỉnh cả nỗi hổ thẹn lẫn tinh thần dũng cảm của con người, giúp họ

dám đấu tranh với chính bản thân, với cái xấu còn tồn tại trong xã hội.

* Vinh quang và cay đắng:

Trong khi khám phá hiện thực cuộc sống và con người trong chiến

tranh, Vũ Bão không chỉ nhìn thấy những đau thương, mất mát nơi tiền tuyến

mà nhà văn còn phát hiện và đồng cảm với nỗi đau của những số phận nơi

hậu phương. Đó không phải là nỗi đau thân xác mà là nỗi đau tinh thần dai

dẳng của những số phận bất hạnh. Bố con là đàn bà là một truyện ngắn “lạ”

của Vũ Bão. Truyện kể về bốn cô gái trẻ trong khu gia đình của một nhà máy.

Ai cũng mang trong lòng một nỗi đau, nhưng có lẽ Ngoan mới chính là hiện

thân của bi kịch đau đớn, thiệt thòi nhất. Ngoan là “điển hình”, là “nhân tố

mới” để bồi dưỡng thành anh hùng. Chị đã đạt được những thành công chính

trị mà không phải ai cũng có thể làm được. Nhưng cũng chính vì thế chuyện

Ngoan yêu ai, Đảng ủy nhà máy đều “tận tình góp ý kiến” để chị khỏi mất tác

dụng con chim đầu đàn. Giống như một tượng đài chỉ có có thể đứng từ xa

chiêm ngưỡng, không một ai xứng đáng kết hôn với Ngoan. Mọi ngả đường

đi về phía hạnh phúc đã bị đóng chặt với một cô gái “điển hình tiên tiến” như

thế. Nhưng bi kịch không dừng lại ở đó. Đảng ủy trung đoàn kết nghĩa giới

thiệu cho Ngoan một Đảng viên, chiến sĩ quyết thắng. Nhưng hai người vừa

được phép tìm hiểu thì anh ta lên đường đi B. Từ đó Ngoan sống trong cô

đơn, âm thầm ôm nỗi đau không nói nên lời. Chị không dám lấy ai vì phải giữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 23

uy tín của tổ trưởng tổ lao động xã hội chủ nghĩa ba đảm đang có người yêu

đi đánh Mĩ. Sinh mệnh chính trị đã đem đến cho Ngoan niềm hạnh phúc và

vinh quang mà không phải ai cũng có được. Nhưng những lần cần tuyên

truyền cho chính sách hậu phương quân đội, các nhà báo về nhà máy chụp

ảnh Ngoan thì “vinh quang đến với Ngoan lúc ban ngày thì ban đêm Ngoan

đành cắn răng chịu một cái đau không kêu với ai được. Mà năm tháng cứ thế

trôi đi” [5, tr.48]. Những trang viết như thế của Vũ Bão đã đặt ra vấn đề về

mối quan hệ giữa con người cá nhân và con người công dân trong thời đại đó.

Đành rằng trách nhiệm của công dân là chiến đấu, là hi sinh bản thân cho Tổ

quốc. Nhưng bi kịch của Ngoan quả là khó lí giải, bởi chị cũng đã cống hiến

hết mình cho sự nghiệp, và sự cống hiến đó chẵng lẽ phải trả bằng cái “giá”

đắt đến như thế? Với Ngoan hạnh phúc, vinh quang thì trừu tượng, hư ảo, còn

khổ đau là có thật. Qua bi kịch của nhân vật, Vũ Bão đã tái hiện một thời kì

ấu trĩ trong tư duy của con người, khi mà chính quyền can thiệp quá sâu vào

cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân. Chính những điều tưởng là đem lại hạnh

phúc cho người khác có khi lại trở thành nỗi bất hạnh cho cuộc đời họ.

Chiến tranh luôn mang đến đau thương, mất mát cho con người. Nhưng

với Vũ Bão, dường như phụ nữ mới là những người gánh chịu nhiều thiệt thòi

nhất. Khác với Ngoan, nhân vật Ngân trong Nợ đời phải trả là lời phản đối

chiến tranh mạnh mẽ nhất. Ngân tham gia cách mạng, làm công tác địch vận.

Trớ trêu thay, Ngân lại yêu đúng kẻ mà đáng lẽ cần phải vận động về với cách

mạng. Hạnh phúc trong tình yêu, không hề phản bội cách mạng nhưng Ngân

lại phải sống trong cay đắng, bẽ bàng vì cách đối xử của cấp trên, của đồng

đội đối với mình. Trong quan niệm của Vũ Bão, dường như chiến tranh không

có chỗ cho tình yêu.

Sau chiến tranh là hòa bình. Cuộc chiến đi qua mang lại cho bao người

niềm vinh quang, hạnh phúc. Cuộc sống hòa bình dù đã tới, nhưng với ai đó,

vẫn mang đến những nỗi đau không thể nói thành lời. Cầm súng ra trận, rồi bị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 24

thương, lạc đơn vị, vợ con đã nhận giấy báo tử, đến hôm nay khi trở về cố

hương, Châu Nhì bỗng thấy mình trở thành một Bóng ma thiếu quê hương.

Sự xuất hiện của ông trở thành một nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người. Mọi

người từ chối nhận ông vì sự xuất hiện của một người đã chết sẽ gây bao xáo

trộn cho chính quyền, cho vợ con ông. Không ai muốn thay đổi, kể cả những

người thân của ông. Bởi nếu Châu Nhì còn sống, các ông Đảng ủy, Ủy ban

nói thế nào với dân về đồng tiền bát gạo của bà con chi ra để tìm mộ Bùi Hữu

Châu mà lại mang về nắm xương người xa lạ? Thằng Nam con ông sẽ bị gọi

từ Hàn Quốc về. Cái nhà tình nghĩa cũng bị đòi lại. Tiền tuất bao năm cũng sẽ

bị truy thu! Châu Nhì bỗng trở nên lạc lõng ngay trên chính mảnh đất quê

hương mình. Ông ra đi để được tiếp tục “chết”, để yên thân người còn sống.

Với cái nhìn đổi mới, giàu chất nhân văn, Vũ Bão và nhiều nhà văn sau

này đã viết về chiến tranh và số phận người lính như là sự thống nhất không

thể tách rời giữa vinh quang và cay đắng, hạnh phúc và khổ đau, anh hùng và

đời thường. Trong Trời có mắt, bốn người lính xe tăng sau khoảnh khắc vinh

quang và niềm vui chiến thắng, lại trở về với cuộc sống đời thường với bao

bộn bề, phức tạp. Đó là Tập thợ cày chuyên đi mua phân đạm của bọn “mích”

(buôn lậu), hàng ngày thồ cà chua, bắp cải ra chợ bán lấy tiền đong bò gạo

nuôi vợ con. Đó là Toàn, anh lính lái tăng làm bánh đa, làm đậu phụ, làm

miến nuôi gia đình. Đó là Phượng, một ông thợ cắt tóc, nuôi vịt. Là Nguyên

làm nghề bốc xếp, chạy xe lam. Cả bốn con người ấy đều biết rằng “chiến tích

năm xưa chỉ là nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc”. Nhưng nỗi oan về sự lừa

dối, nhận vơ chiến tích của người khác khiến họ thấy nhục nhã suốt hai mươi

năm ròng. Dường như cả xã hội không ai biết hay cố tình không biết nỗi đau

âm thầm nhưng nhức nhối ấy. Không ai lên tiếng, và vì thế cái giả dối cứ mãi

còn đó, dưới ánh sáng mặt trời, trên mảnh đất màu mỡ của sự im lặng: im

lặng vì cố tình, và sau đó là im lặng vì tưởng điều giả dối kia là sự thật, vì

không biết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 25

Từ quan niệm và cách nhìn trên, có thể nói nhà văn Vũ Bão đã dựng lại

một cách sinh động hiện thực về cuộc sống và con người trong và sau chiến

tranh. Đó là một hiện thực đa chiều mà ở đó luôn tồn tại những mặt đối lập,

những vấn đề nhạy cảm không dễ tiếp cận và phản ánh. Đặt vào bối cảnh từ

sau 1986, những trang viết của nhà văn không những thể hiện một tư duy, một

cách tiếp cận trên tinh thần tự do, dân chủ, mà còn bộc lộ được tinh thần tôn

trọng sự thật và bản lĩnh của người cầm bút trong thời đại mới, như có lần Vũ

Bão từng tâm sự: “Thở bằng lá phổi của mình, nhìn đời bằng đôi mắt của

mình, suy nghĩ về lẽ đời bằng cái đầu của mình, đi bằng đôi chân của mình và

không bao giờ viết bằng ngòi bút đã bị bẻ cong” [28].

1.2.2. Hiện thực xã hội và con ngƣời trong cuộc sống đời thƣờng

Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, nước ta bước vào thời kì đổi

mới và chuyển từ mô hình quản lí quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị

trường. Đời sống xã hội và tư duy con người có những thay đổi cơ bản. Cái

xấu, cái tiêu cực xuất hiện đồng hành cùng cái tốt, cái tích cực. Dường như ở

bất cứ lĩnh vực nào của đời sống, ở bất cứ nơi nào có sự trái khoáy, bất

thường, có sự lẫn lộn giữa cái thật và cái giả, cái đẹp và cái xấu, cái tử tế và

cái nhem nhếch, cái hợp lý và cái phi lý... là Vũ Bão đều xuất hiện và cất

tiếng cười.

* Đời sống vật chất và tư tưởng thời hậu bao cấp

Có thể khẳng định rằng, cơ chế quản lí bao cấp có một vai trò vô cùng

quan trọng, hội tụ được sức mạnh tinh thần cũng như vật chất của cả dân tộc

trong những năm kháng chiến chống ngoại xâm. Chiến tranh đi qua, cơ chế ấy

đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó nhưng thực tế nó vẫn tồn tại suốt một

thời gian dài. Sự tồn tại của cơ chế lạc hậu ấy tất yếu dẫn đến những hậu quả

ở nhiều mặt mà tiêu biểu là đời sống vật chất thì hết sức khó khăn; xuất hiện

những mâu thuẫn, xung đột về quan điểm, tư tưởng. Sống ở thời đại đó, Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 26

Bão bám sát hiện thực, dùng tiếng cười để đả phá thành trì của những cái cũ,

cái phản tiến bộ.

Trong Chương cuối của một mối tình, Vũ Bão đã phơi bày thực trạng

cuộc sống sinh hoạt chật vật của một bộ phận công chức quèn thời bao cấp và

hậu bao cấp. Đồng lương ít ỏi, giá nhà thì cao khiến nhiều gia đình phải chui

rúc trong một căn hộ chỉ “đủ diện tích cho vợ chồng con cái nằm”. Có nhà

con cái lớn lên, bố phải nằm giường gấp, hai đứa con trai ngủ một giường,

còn hai đứa con gái ngủ chung với mẹ. Có nhà không dám kê giường, phải rải

chiếu mới đủ chỗ cho cả nhà. Có nhà “chỉ kê được cái giường chín tác dụng:

gậm giường là nhà kho cất bếp dầu, thùng gạo, nồi, xoong; trên giường vừa là

“sân bay Nội Bài” đón tiếp khách quí, vừa là “khách sạn Thắng Lợi” chiêu

đãi ông anh bà chị trong những ngày giỗ Tết, vừa là “câu lạc bộ Ba Đình” cho

mấy ông hàng xóm đánh cờ, bàn chuyện thời sự quốc tế, đồng thời là câu lạc

bộ thiếu nhi cho lũ trẻ chơi tú-lơ-khơ, chơi cá ngựa... Thứ không gian tưởng

như không thể nhỏ hơn nữa ấy khiến cho “mỗi lần về đến nhà, Lộc ghê sợ

như nhìn thấy nhà giam kiểu chuồng cọp Côn Đảo” [5, tr.161-162]. Cách trào

tếu, hài hước của Vũ Bão không chỉ khiến người đọc bật cười, mà còn khiến

người ta nhói lên nỗi xót xa: làm sao có thể xoay xở, sinh sống, làm việc

trong không gian như thế?

Hoàn cảnh lịch sử - xã hội đã chuyển biến thì tư duy, cách nghĩ của con

người cũng có những thay đổi. Với tinh thần tôn trọng sự thật, tác phẩm của

Vũ Bão bám sát hiện thực đó, dũng cảm đề cập đến những xung đột trong

quan điểm giữa cái cũ với cái mới, giữa cái hợp lí và phi lí, giữa lí thuyết và

thực tiễn. Chương cuối của một mối tình là truyện ngắn tiêu biểu cho cuộc

đấu tranh giữa hai quan niệm sống đối lập. Mượn sự mâu thuẫn trong sinh

hoạt của gia đình vợ chồng Lộc, nhà văn chẳng những đã chỉ ra những bất

đồng có thực trong cuộc sống, mà còn gián tiếp bộc lộ quan điểm của mình:

có những cái trước đây rất tốt, rất phù hợp nhưng giờ đã trở nên lạc hậu, phản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 27

tiến bộ, không phù hợp với hoàn cảnh thì cần phải thay đổi. Những mâu thuẫn

đầy hài hước của hai vợ chồng diễn ra hết sức gay gắt đến nỗi họ đưa nhau ra

tòa li dị, đi đến chương cuối của một cuộc tình. Có thể nói, xung đột của vợ

chồng Lộc bắt nguồn từ sự lệch pha giữa hai quan điểm, hai cách nghĩ đã xuất

hiện trong đời sống những năm sau đổi mới. Vợ Lộc tiêu biểu cho thứ tư duy

cũ đơn phiến, một chiều, duy ý chí. Ngược lại, tư duy của Lộc đại diện cho

cách nhìn đa chiều và có tinh thần cởi mở, thông thoáng hơn. Đặt trong xu thế

đổi mới và hòa nhập quốc tế của đất nước khi đó thì quan điểm của Lộc là

quan điểm tiến bộ. Để có thể hòa nhập, người ta phải biết gỡ mình ra khỏi

những trói buộc vô lí, lạc hậu. Có thể đến nay, vấn đề mà Vũ Bão đã đề cập

không còn mới. Nhưng phải nói rằng, ở thời kì sau đổi mới, không thể viết

được như thế nếu người cầm bút thiếu đi một chút bản lĩnh, một chút tâm

huyết với cuộc đời. Bởi vì với Vũ Bão, phía sau tiếng cười luôn là sự tiến bộ.

Cũng cùng một kiểu tư duy phiến diện như vợ Lộc là ông chủ tịch công

đoàn. Đó là một con người đại diện mẫu mực cho tư tưởng “ta tốt, địch xấu”.

Khi Lộc đã chán ngấy người vợ bất đồng quan điểm, muốn xin li hôn thì vị

lãnh đạo lại tìm cách ngăn chặn vì hành động đó làm ảnh hưởng đến tập thể.

Hành động đó chỉ nhất nhất đề cao cái tập thể mà hoàn toàn thủ tiêu đời sống,

nguyện vọng của cá nhân. Cũng trong truyện này, xem xét đoạn đối thoại của

Lộc với ông chủ tịch công đoàn, người đọc không chỉ buồn cười vì những lời

ông nói giống y như đài, mà còn dễ dàng thấy được sự quan liêu, xa cách

quần chúng của một số người lãnh đạo đương thời. Tất cả mọi vấn đề từ vĩ

mô đến vi mô đều được soi chiếu dưới ánh sáng ý thức hệ. Họ nghĩ và làm

theo nếp nghĩ cũ, theo thời thế, lịch sử: Tất cả những gì thuộc về phe địch đều

cần phải tẩy chay, phải diệt trừ tận gốc.

Tuy nhiên, ở đây cần có cái nhìn khách quan theo quan điểm lịch sử để

thấy được rằng, cho đến thời điểm đó - thời điểm đất nước đã hòa bình và

đang bước vào công cuộc đổi mới mạnh mẽ, những gì mà Vũ Bão châm biếm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 28

đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó và trở nên lạc hậu trước xu thế đi lên

của lịch sử. Với nhà văn, những gì đã lỗi thời rơi rớt lại mà còn nhân danh

tiến bộ thì cần phải dùng tiếng cười để tống tiễn chúng. Có thế, cái tốt, cái

tích cực mới có đất sống.

* Những góc tối trong giới công chức

Sau chiến tranh, Vũ Bão từng làm việc ở nhiều cơ quan nhà nước khác

nhau. Trong quá trình đó, nhà văn được tiếp xúc thường xuyên với những

người trí thức, công chức. Như một lẽ tự nhiên, kiểu người đó đi vào trang

văn của ông với muôn hình muôn vẻ. Tiếng cười của Vũ Bão như những mũi

dùi chĩa vào những góc tối của giới trí thức, công chức khiến bao cái tiêu cực,

cái phi lí, xấu xa bị dồn ra ngoài ánh sáng.

Hiện diện nhiều nhất, nổi bật nhất trong truyện ngắn Vũ Bão có lẽ

chính là những vị tiến sĩ, phó tiến sĩ. Ở cái thời mới hòa bình, tiến sĩ, phó tiến

sĩ là những danh xưng khiến người ta ngưỡng mộ, trọng vọng. Nhưng trong

truyện ngắn của Vũ Bão, nhiều bức tranh hài hước được vẽ ra khiến người

đọc vừa cười, vừa ngao ngán, chán ghét. Có lẽ chưa bao giờ chân dung của

một bộ phận những vị phó tiến sĩ thời bao cấp lại hiện lên sắc nét như trong

một số truyện ngắn của Vũ Bão, tiêu biểu là Phó tiến sĩ không hữu nghị.

Ông phó tiến sĩ Chu Hữu Bằng từ hồi đi học đã khiến cả lớp cười bò vì tài văn

chương của mình khi tả chiếc máy bay của địch bị bắn rơi: “Thằng Con Ma

trúng một phát cao xạ hộc một tràng khói ra đằng đít lao phọt xuống cánh

đồng” [5, tr.134]. “Tài năng” ấy tiếp tục lớn lên, như Xuân tóc đỏ của Vũ

Trọng Phụng, luôn gặp “số đỏ” để rồi trở thành vô số cái gọi là phó tiến sĩ:

phó tiến sĩ làm chủ tập thể, phó tiến sĩ bóng đá, phó tiến sĩ học lỏm, phó tiến

sĩ cưa sừng làm nghé, phó tiến sĩ... Danh xưng phó tiến sĩ vốn dành cho

những người học rộng, tài cao, nhưng đi với Chu Hữu Bằng thì học vị ấy lại

lôi tuột ông ta xuống hàng bất tài.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 29

Sự bất tài của mấy vị tiến sĩ, giáo sư còn được nhà văn trào lộng sâu

cay trong truyện ngắn Bút bi hết mực. Được cho một túi hến, vì không có vợ

ở nhà nên nhân vật “tôi” đi hỏi cách chế biến. Đầu tiên là anh bạn phó tiến sĩ

sinh vật học, rồi đến tay cấp dưỡng đại đội giờ làm phó giám đốc khách sạn

Anh Cả Đỏ, ông giáo sư chuyên về làng xã cổ. Cuối cùng, túi hến bốc mùi vì

không ai biết chế biến. Kể chuyện nấu nướng, nhưng Vũ Bão thực ra đang đề

cập đến một thực trạng phổ biến đương thời. Đó là những người có vẻ tài cao

nhưng thực tế lại không biết làm những công việc dường như là đơn giản

nhất. Những khi gặp khó khăn, họ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Với truyện

ngắn này, Vũ Bão đặt vấn đề về khả năng thực của một bộ phận những người

được gọi là tiến sĩ, giáo sư và cách vận hành ở đâu đó của bộ máy công

quyền. Trong cái nhìn của nhà văn, họ dường như chỉ là những cái “bút bi hết

mực” - những công chức kém tài, chỉ giỏi lí thuyết mà không biết thực hành.

Không chỉ có mấy ông tiến sĩ, giáo sư, Vũ Bão còn bàn về “tài năng”

của lớp công chức cấp cao. Trong truyện Ông khóc tôi cũng khóc, nhà văn

châm biếm một loạt những ông Bí thư tỉnh ủy “thương dân”. Nấp sau danh

nghĩa vì dân, mỗi ông đều tìm mọi cách bòn rút, vun vén cá nhân. Nói cách

khác một số kẻ có quyền lực, bề ngoài tỏ ra vì dân, vì nước luôn hô hào làm

những việc to tát phục vụ lợi ích nhân dân nhưng thực chất là những kẻ phá

hoại, tham ô.

Viết về sự bất tài của một bộ phận công chức đương thời, đồng thời Vũ

Bão cũng dường như muốn lí giải nguyên nhân của hiện tượng đó. Trước hết

là kiểu đào tạo “hữu nghị” giữa các quốc gia chung hệ thống đã giúp một

thiểu số người có được “bằng cấp cho”, “danh hiệu xin”. Với bằng cấp, danh

hiệu ấy cộng thêm lòng “nhiệt tình”, họ đẻ ra khối chuyện dở khóc dở cười

(Phó tiến sĩ không hữu nghị).

Tiếp đó là nạn “chạy chọt”. Dưới ngòi bút Vũ Bão, dường như chạy

chọt là vấn nạn diễn ra phổ biến trong xã hội đương thời với nhiều dạng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 30

nhiều vẻ khác nhau. Con đường học hành thời phổ thông của tiến sĩ Bằng

trong Phó tiến sĩ không hữu nghị quả là luôn được “quí nhân phù trợ”. Nhờ

“chiến thuật phong bì”, thằng Bằng vẫn lên mỗi năm một lớp” [5, tr.135]. Còn

bé thì chạy điểm lên lớp. Lớn lên thì chạy tuổi. Khi Bằng học lớp sơ đẳng, rồi

bị rớt lớp trung đẳng, khai sinh của Bằng tụt xuống hai tuổi. Khi cách mạng

thành công, để đi học lớp cốt cán, giấy khai sinh của Bằng lại kéo tuột cái tuổi

vượt khung của ông ta xuống lứa tuổi bẻ gãy sừng trâu. Khi đi nghiên cứu

sinh ở nước ngoài, cấp trên lại “hóa phép” cho ông già 50 thành gã trung niên

35 đúng phom của nước bạn đề ra. [5, tr.118-119].

Cái sự “chạy” còn biểu hiện muôn hình vạn trạng trong Lẽ đời. Một ông

đang làm chức Phó phòng giáo dục một quận, cứ ngày Tết, “người đến biếu xén

cứ đông nghìn nghịt”. Người muốn xin về, kẻ muốn xin đi, người muốn xin học

trái tuyến, kẻ đang bị kiện cáo muốn di tản, sinh viên mới tốt nghiệp đến xin

việc, kẻ có con mới đi học sư phạm nhưng đã đến để “giữ chỗ,...

Trong tiểu thuyết Utopi - một miếng để đời, đi khám bệnh bệnh nhân

muốn nhanh, muốn không đau phải biết “nhét cái phong bì tiền vào túi áo

blouse của cô y tá...”; tham gia giao thông mà phạm lỗi thì phải “làm luật” với

cảnh sát giao thông [6, tr.90]. Dường như ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ lĩnh

vực nào cứ bắt tay vào làm việc gì, người ta nghĩ luôn đến “chạy”! Với Vũ

Bão, đó không phải là một hiện tượng cá biệt mà dường như đã trở thành qui

luật, trở thành “lẽ đời”. Có thể khẳng định rằng, đồng tiền đang làm tha hóa,

mục ruỗng nhân cách con người. Mối nguy ấy còn lớn hơn khi những kẻ đại

diện cho bộ máy nhà nước lại hàng ngày bóp méo những luật lệ, qui tắc đã đề

ra.

Nhưng con đường tạo nên những công chức kém cỏi, bất tài không chỉ

là hệ quả của chạy chọt mà còn do cơ chế đào tạo, bổ nhiệm công chức. Trong

tập truyện, Vũ Bão không dưới một lần nói về những “công thức” bí ẩn nhưng

lại có rất nhiều người hiểu. Đó là công thức “COCC” - Con Ông Cháu Cha [5,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 31

tr.262], là công thức “5C” - Con Cháu Các Cụ Cả [5, tr.135]. Một tệ nạn mà

được đặt thành công thức thì có nghĩa là nó đã trở thành một thứ luật bất

thành văn. Mà là “luật” thì người ta phải tuân theo, phải chấp nhận cho dù nó

phi lí, bất công, cản trở sự tiến bộ của xã hội. Có lẽ chưa khi nào, nạn cậy

quyền cậy thế và cách bổ nhiệm con người trong cơ quan nhà nước lại trở nên

hài hước một cách xót xa như trong truyện Nhà trẻ không có bô của Vũ Bão.

Để khỏi lạc lõng với bước tiến vọt của thế giới trong thời đại công nghệ thông

tin, Viện nghiên cứu sao Hỏa thành lập Trung tâm thông tin. Nhân vật “tôi”,

vì am hiểu ngoại ngữ nên được cử làm giám đốc. Nhưng hỡi ôi, những cán bộ

có khả năng lại không được bổ nhiệm mà thay vào đó toàn là những COCC

dốt nát, giỏi chơi mà biếng làm, thậm chí còn cậy thế cha ông mình lừa cả

giám đốc. Rồi trung tâm bị yêu cầu tinh giản 10% biên chế. Không một

COCC nào phải ra đi, chỉ có hai công nhân từ chính thức bị chuyển sang làm

hợp đồng cho Viện! Bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười diễn ra giữa ông giám

đốc và đám nhân viên rồi để cuối cùng, vị lãnh đạo ấy nghiệm ra một điều

rằng: Các ông bà ấy bận đại sự quốc gia nên mới phải giao các cô các cậu cho

ông canh giữ. Hóa ra nhà nước có nhà trẻ có bô, giờ lại có cả “nhà trẻ không

có bô”!

Những chỗ tốt, các ông cốp giữ cho con cháu, nơi vất vả họ tìm cách

đẩy người lao động nghèo vào. Sáu anh công nhân làng Chè trong Utopi - một

miếng để đời, xin đi làm công nhân. Được đưa đón rất chu đáo, nhưng cuối

cùng, họ ngã ngửa người ra vì hầu hết cán bộ, kể cả kĩ sư, cán bộ trung cấp và

công nhân đều đi tác nghiệp trên rừng. Chứ nếu như ngon ăn thì các ông ở

viện đã đưa con em cháu chắt của mình vào rồi, làm gì đến lượt mấy anh trai

làng này? Câu chuyện của nhà văn đã phơi bày một thực trạng tồi tệ nhưng rất

phổ biến, thậm chí cho đến cả ngày nay. Đó là nạn những kẻ có quyền chức

cậy thế để nhồi nhét con cháu mình vào cơ quan nhà nước, bất chấp chúng có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 32

đủ năng lực hay không. Và như thế, những kẻ bất tài cứ ung dung bước vào

cơ quan nhà nước, còn những người thấp cổ bé họng thì bấp bênh, điêu đứng.

Cũng là vấn đề nhân sự, con người trong bộ máy cơ quan nhà nước,

nhưng ở một góc nhìn khác Vũ Bão hướng đến một bộ phận công chức đã đến

tuổi nghỉ hưu nhưng tham quyền cố vị, tư lợi cá nhân nên cứ khư khư giữ ghế,

tìm mọi cách để được ở lại. Đó là tiến sĩ Chu Hữu Bằng “sức yếu tuổi già”

được cụ vụ trưởng “tuổi già sức yếu” cất nhắc khi đã quá tuổi nghỉ hưu mấy

năm. Đó là những kẻ cố trì hoãn về hưu để chờ đứa con sắp ra trường thế

chân. Chúng là những cỗ máy bị Hao mòn vô hình và đã quá thời gian vận

hành. Nhưng “nhiều kẻ hám chức hám quyền không bao giờ nhìn thấy hoặc

cứ vờ như không nhìn thấy.” [5, tr.131].

Lách sâu vào mảng tối của giới công chức, ngòi bút Vũ Bão còn lôi ra

ánh sáng căn bệnh trầm kha của bộ máy cơ quan nhà nước. Đó là bệnh chạy

theo thành tích, bệnh hình thức. Nhà văn dành nhiều trang viết, thậm chí còn

dành cả một truyện ngắn để quất roi tệ nạn này. Trong Ông khóc tôi cũng

khóc, ông bí thư huyện ủy Sông Ninh vì thương dân cứ phải lên Hà Nội ăn

nhờ ở đậu chờ xem bóng đá, vì muốn đội bóng huyện nhà thăng hạng A1, vì

muốn “làm bằng được một việc hữu ích ghi dấu ấn trong lòng nhân dân”

trước khi về hưu, nên bao mưu ma chước quỉ, bao trò nhảm nhí được tung ra

để thực hiện bằng được “nhiệm vụ chính trị”! Rốt cuộc, đội bóng Sông Ninh

cũng lên hạng A1 sau khi ông ta đổ ra bao tiền của để mua chuộc, chạy chọt

trọng tài và các đội bóng khác. Và thành tích ấy trước tiên là thành tích của

ông bí thư, sau là thành tích của tỉnh nhà! Bóc đi lớp vỏ của hiện tượng, Vũ

Bão đã chỉ ra rằng, không có thành tích của một tập thể chung chung, về bản

chất đó vẫn là thành tích của một vài cá nhân chóp bu mà thôi. Để có được

thành tích ấy cho mình, một bộ phận những kẻ biến chất đã tiêu phí tiền của,

công sức của nhân dân, của đất nước. Tỉnh táo để nhìn nhận thì đó vẫn là một

kiểu tư lợi, “tham ô”, nhưng là kiểu tham ô công khai dưới danh nghĩa tập thể.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 33

Trong Chương cuối của một mối tình, Vũ Bão còn cho thấy bệnh

thành tích không chỉ xuất hiện ở tầng trên tỉnh, ở cấp cao và những người lãnh

đạo, quản lí mà nó còn hiện diện ở ngay những đơn vị hành chính nhỏ nhất

như phố, phường. Một gia đình vợ chồng bất hòa, đòi li hôn mà vẫn được

nhận danh hiệu Gia đình văn hóa. Nói cách khác, từ cao xuống thấp nơi đâu

cũng có thể nhận ra những triệu chứng của căn bệnh.

Cũng trong truyện ngắn Ông khóc tôi cũng khóc, không chỉ lật tẩy

bệnh thành tích mà nhiều lần nhà văn còn miêu tả một cách hài hước biểu

hiện của cái gọi là bệnh hình thức, máy móc, thụ động của cấp dưới và quyền

lực của lãnh đạo cấp trên. Trong đại hội Đảng bộ, ông bí thư trịnh trọng đọc

báo cáo, ở dưới “Bốn trăm đại biểu (...) cùng đồng loạt lật sang trang khác.

Bốn trăm trang giấy đồng loạt kêu roạt một tiếng như tiếng súng AK lên đạn”.

Các đại biểu còn đang ngỡ ngàng chưa hiểu sao ông bí thư lại đưa cả chuyện

bóng đá vào báo cáo chính trị thì ông ta đã tự vỗ tay hưởng ứng chính mình.

“Thế là cả bốn trăm đại biểu vội vàng vỗ tay bôm bốp” [5, tr.86]. Điều đáng

cười là người ta đang vỗ tay về một điều mà mình chưa hiểu. Không chỉ thế,

bản báo cáo của ông giám đốc sở thể dục thể thao Sông Ninh, trong suốt bốn

kì Đại hội phần phương hướng nhiệm vụ đều có đúng sáu mươi tư chữ: “Ông

thầm tin rằng từ nay đến ngày kết thúc thời kì quá độ, phần phương hướng

nhiệm vụ trong các bản báo cáo chính trị chỉ cần sáu mươi bốn chữ ấy là quá

đủ rồi” [5, tr.84]. Vũ Bão đã phơi bày góc tối của của hoạt động báo cáo, tổng

kết trong hệ thống cơ quan nhà nước. Đó là con đẻ của chủ nghĩa hình thức,

thói làm ăn gian dối, vô trách nhiệm. Tính chất hình thức, thụ động và cách

sinh hoạt thiếu dân chủ ấy không chỉ đúng với thời của Vũ Bão mà dường

như vẫn còn hiện diện đâu đó trong xã hội hiện nay.

Trong nhiều truyện ngắn khác, Vũ Bão còn thường xuyên đề cập đến

đến cơ chế xin - cho và những hệ lụy của nó. Cơ chế xin - cho là một trong

những tàn dư còn sót lại của thời kỳ bao cấp. Nét đặc trưng quan trọng nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 34

của cơ chế này là quyền tự do ý chí to lớn của người cho và vị thế thấp kém

của người xin, một vị thế bắt ở trần phải ở trần; cho may-ô mới được phần

may-ô. Công bằng mà nói, cơ chế xin - cho, cũng như mọi loại cơ chế, đều có

hoàn cảnh lịch sử riêng của nó. Với một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xin -

cho, cũng như bao cấp, đều là cần thiết và đúng đắn. Vấn đề chỉ là: nó “đúng

đắn” quá lâu, và trong điều kiện mới, khi những ràng buộc chặt chẽ về pháp

lý, về tư tưởng và đạo đức không còn, cơ chế xin - cho đang là một thứ máy

cái đẻ ra tiêu cực. Một tay bút có bút danh là Anh Hiên (Nợ đời) có bố vợ là

giám đốc sở Tài chính, chuyên xét duyệt kinh phí cho các cơ quan trong tỉnh.

Anh ta “mót” vào hội nhà văn Việt Nam quá liền viết như bổ củi rồi quẳng

vào báo nhà. Dù chỉ là những tác phẩm tầm cỡ “èng èng” nhưng tòa soạn

buộc phải in bởi vì nếu không, “nó chỉ máy bố vợ nó một tiếng là từ hội Văn

nghệ đến cả Tòa soạn báo Văn nghệ đừng hòng có tiền mở trại sáng tác, họp

hội nghị các văn nghệ sĩ trẻ, mở lớp bồi dưỡng sáng tác nữa” [5, tr.75]. Sau

đó Anh Hiên còn nhờ bố vợ duyệt “kinh phí hỗ trợ nhà văn trẻ” để in bằng

được tập truyện ngắn Mối tình đầu. Cái hài hước được đẩy đến đỉnh điểm khi

tác phẩm của anh ta được chuyển thể thành phim! Một nhà văn chẳng có tài

cán gì nhưng cuối cùng lại được “lăng-xê” một cách nhiệt tình, được tỉnh cho

xuất bản tác phẩm chỉ vì anh ta có bố vợ làm to!

Cơ chế xin - cho ấy còn tạo ra một kiểu tâm lí, một kiểu làm việc “độc

đáo” cho công chức, cơ quan nhà nước. Khi ông giám đốc Trung tâm thông

tin của Viện nghiên cứu vũ trụ (Nhà trẻ không có bô) yêu cầu con một “ông

cốp” phải viết kiểm điểm vì gian dối trong công việc thì bị ông Viện trưởng

gọi lên làm công tác tư tưởng: “Cậu thẳng thắn như thế là đúng nhưng trong

cuộc sống nhiều khi chúng ta phải uyển chuyển. Cậu chỉ biết đến công việc.

Điều quan trọng đó cũng tốt thôi nhưng cậu phải biết thêm bố nó trực tiếp phụ

trách vụ đối ngoại của ủy ban chinh phục vũ trụ. Mỗi suất đi Tây của anh em

ta đều phải qua tay bố nó kí ruồi vào góc tờ trình” (…). Mẹ nó phụ trách ngân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 35

hàng. Tiền mặt cơ quan ta rút lẹ như thế là nhờ mẹ nó đấy” [5, tr.269-270].

Rồi khi có chủ trương tinh giản biên chế, ông Giám đốc trung tâm cũng bị phê

bình khi định tinh giản một người mà bố cô ta là em ruột ông Viện trưởng, mẹ

cô ta là người duyệt cấp phát vật tư cho Viện. “Uyển chuyển”, tức là dù bất cứ

giá nào cũng phải lấy lòng, đừng đụng chạm vào cấp trên. Phải biết né, biết

tránh nếu không anh không thể xin được những cái mình cần. Anh muốn được

“cho” thì anh phải tìm cách “xin”. Người ta đút lót để đạt được những điều

mình muốn. Trong cái thời ấy, những người có quyền lực ở trên có thể ban

phát và “cho” những ai biết “xin”. Những kẻ dưới, muốn “xin” được phải biết

điều! Trong truyện ngắn Vũ Bão, cái cơ chế ấy dường như không phụ thuộc

vào bất cứ cái gì khác ngoài ý chí của người có quyền. Như một bà mẹ mắn

đẻ, cơ chế xin - cho, tâm lí “uyển chuyển” ấy là nguồn gốc sinh ra bao nhiêu

tiêu cực, phi lí, bất công, làm biến dạng những qui định, phép tắc cần có trong

hoạt động của bộ máy nhà nước.

Tóm lại, ở phạm vi phản ánh này, hình tượng trung tâm trong truyện

ngắn của Vũ Bão là những trí thức, công chức, những người có quyền lực.

Không ra ngoài tư tưởng xuyên suốt, những truyện về những vị lãnh đạo,

những vị tiến sĩ, phó tiến sĩ của nhà văn đều hướng mũi nhọn phê phán vào

những thói tật, vào cơ chế tiêu cực, lỗi thời của lịch sử. Cơ chế ấy tạo ra

những kẻ vô dụng, bất tài, cản trở sự tiến bộ của xã hội.

* Những mặt trái của hoạt động xuất bản, văn hóa - văn nghệ, thể

dục thể thao:

Từng công tác trong ngành văn hóa - văn nghệ và thể dục thể thao (điện

ảnh, báo chí) nên Vũ Bão có điều kiện va chạm, thấu hiểu nội tình cũng như

cái tốt, cái xấu, cái tích cực, tiêu cực của nó. Ở vùng thẩm mĩ này, bằng tiếng

cười, nhà văn không chỉ tô đậm những gương mặt méo mó, phản tiến bộ mà

còn thể hiện tinh thần tiến công vào cái xấu đang tồn tại trong hoạt động xuất

bản, văn hóa, thể thao nước nhà.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 36

Trước hết đó là cơ chế vận hành của một số tờ báo, nhà xuất bản. Có

thể nói trong truyện ngắn Vũ Bão, những cơ quan đó như là một kiểu cơ quan

- công cụ phục vụ lợi ích của một số cá nhân. Một tờ báo văn nghệ - đại diện

cho tài năng, sự sáng tạo của cả giới nghệ sĩ tỉnh đó, lại trở thành phương tiện

để quảng cáo cho một vài cá nhân, vì anh ta có quyền, có “quan hệ”. Trong

Nợ đời, cả một chuỗi cơ quan văn hóa cứ đăng, cứ in, cứ dựng thành phim

những cái mà bản thân họ cũng coi chẳng ra gì. Bởi có thế, họ mới có “lộc”,

dù chỉ là “lộc còm”! Có tờ báo thì “cứ lấp đủ bài là ra”, khi thiếu bài thì “lôi

những bản thảo thương tích dày mình bị các tòa soạn trên Hà Nội quăng đi

quật lại” ra để đăng chống cháy [5, tr.71-72]. Rồi những đài phát thanh,

truyền hình thì phát những chương trình “chỉ nghe một đoạn là biết cả câu

chuyện” [5, tr.157]... Những sản phẩm nhạt nhẽo như thế lâu ngày trở thành

món “đặc sản”, nói như Vũ Bão, là loại “phở mậu dịch, kịch truyền hình”.

Trong một truyện ngắn khác, truyện Hao mòn vô hình, Vũ Bão lại xé

toạc tấm màn hoa mĩ bề ngoài để phê phán thói vô trách nhiệm của những

người làm công tác văn hóa. Vì “mót” ra mắt quốc dân đồng bào nên tiến sĩ

Chu Hữu Bằng xung phong nhận bình luận về bộ phim 80 tập nhưng mới

chiếu được 10 tập. Như một người đàn bà không có thai mà vẫn trèo lên bàn

đẻ, ông tiến sĩ nói toàn những lời nhảm nhí mà ông ta “thuổng” được của

người khác khiến năm ấy người ta trao cho ông ta một giải Gà Rù - giải

thưởng dành cho những sản phẩm văn hóa tồi tệ nhất. Sau vụ phát biểu “trứ

danh” ấy, vì muốn đi nước ngoài để kiếm tí “màu”, tiến sĩ Bằng cho in một

loạt đặc san Màn ảnh thế giới rồi “mơi” tùy viên văn hóa các Đại sứ quán bao

cho một vài chuyến đi để nghiên cứu nền điện ảnh nước họ. Khổ nỗi, khi đặc

san được in, người ta phát hiện ra bao nhiêu sai sót buồn cười: nào là ảnh

người này nhưng là tên người kia, tiểu sử ông này “cắm cằm” bà khác, tên

hãng mĩ phẩm lại cứ tưởng tên diễn viên, rồi chân diễn viên dài đến 1,4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 37

mét,… Những hiện tượng trên không chỉ phản ánh sự cẩu thả, hơn nữa còn hé

lộ sự dốt nát của một bộ phận những người làm văn nghệ đương thời.

Báo chí là công cụ có tính chất định hướng với người đọc. Cho nên,

những gì được đăng tải cần chính xác và có sự thống nhất, tránh trường hợp

nay thế này, mai đã thế khác khiến độc giải không biết tin vào đâu. Lí sự

người đời là một truyện ngắn đầy tính chất “lí sự” của Vũ Bão về báo chí.

Thảnh, một chiến sĩ hậu cần, theo nghiên cứu của bác sĩ Văn Đình Điển trên

báo Đời sống đã bắt ốc sên về chế biến thành món ăn cho đơn vị, vì đó là thứ

thực phẩm rất bổ dưỡng. Đùng một cái, cũng trên báo Đời sống, phó tiến sĩ

Mai Thị Dịch lại viết một bài phê phán việc ăn ốc sên là có hại vì nó chứa

nhiều chất độc. Sự cố này Thảnh bị dừng việc kết nạp Đảng vì tội liều lĩnh

nấu ốc sên cho anh em ăn. Giữa lúc bế tắc, báo Đời sống lại đăng một bài

khẳng định của giáo sư Trung Văn Dung: “Nếu tẩy sạch dãi ốc sên đi thì ăn ít

ốc sên vẫn không sợ độc”. Tiếng cười cất lên cũng là lúc người ta nhận thấy

cái ba phải, vô trách nhiệm của báo chí; thấy được trình độ, sự vênh lệch về

kiến thức của mấy nhà khoa học.

Thể thao cũng là khu vực mà Vũ Bão hay hướng ngòi bút tới. Trong

truyện của nhà văn, phía sau những trận đấu là bao nhiêu toan tính, nhưng

không phải là toan tính kĩ thuật, chiến thuật mà là làm thế nào để khuất phục

đối thủ mà không cần tài năng? Ông khóc tôi cũng khóc kể về con đường

thăng hạng của đội bóng huyện Sông Hinh. Đó là con đường được trải bằng

tiền, bằng xe đạp, complet, bằng ăn chơi, du lịch… Vấn đề tiêu cực trong thi

đấu thể thao mà Vũ Bão đề cập là sản phẩm của cơ chế thị trường, của tư duy

đồng tiền. Ở đó không còn chỗ cho những giá trị thực, mọi thành tích thể thao

có thể làm cho người ta nghi ngờ.

Sự tha hóa về nhân cách, đạo đức của một bộ phận vận động viên nổi

tiếng cũng được Vũ Bão đề cập đến trong truyện ngắn Bó cỏ dưới mõm

ngựa. Đây là một truyện ngắn viết về lối sinh hoạt trác táng của một nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 38

được gọi là ngôi sao thể thao. Là một tài năng bóng đá, Lê Doãn được rất

nhiều người hâm mộ, đặc biệt là các cô gái. Lợi dụng điều đó, ngay cả khi đã

có vợ, Doãn vẫn thường xuyên chơi bời, ăn ngủ với các cổ động viên nữ hâm

mộ mình. Thậm chí với cả những người đàn bà lớn tuổi, Doãn cũng không từ

chối. Phung phí sức lực vào những cuộc tình chớp nhoáng, phong độ của

Doãn ngày càng sa sút đến nỗi trước đây trận bóng nào anh cũng ghi được

bàn thắng, mà bây giờ không thể ghi thêm bất cứ bàn nào. Với truyện ngắn

này, Vũ Bão không những phê phán đạo đức, lối sống của một bộ phận những

cầu thủ đã được công chúng tôn vinh, mà còn như muốn phát biểu một triết lí

về cái được, cái mất trong cuộc đời: Đời không cho không ai cái gì, anh được

cái này thì anh phải trả bằng cái khác.

Ngòi bút Vũ Bão cũng phanh phui những góc tối trong lĩnh vực dịch

thuật, phê bình văn học. Đây là những hoạt động đòi hỏi sự nghiêm túc, khoa

học. Ấy vật mà những nhân vật trong truyện ngắn Vũ Bão lại trở nên hết sức

lố bịch, đáng cười. Mấy cô cậu “COCC” con ông cháu cha trình độ ngoại ngữ

vốn “chỉ đủ để chạy hàng hay ăn chơi nhảy múa” (Nhà trẻ không có bô),

được nhét vào cơ quan yêu cầu biết dịch thuật. Thế là bao nhiêu bài cần dịch

hoặc là cô cậu dịch sai bét, hoặc là cô cậu đi thuê người dịch. Phó tiến sĩ Bằng

(Phó tiến sĩ không hữu nghị) vốn chỉ biết tiếng Nga. Vì nhiều người cũng đi

Nga về và biết tiếng Nga nên những bài viết của Bằng không còn độc quyền

nữa. Thế là mỗi khi có nước nào đó có sự kiện lớn, ông ta bèn nhờ bạn bè

lùng các loại sách người Nga viết về nước ấy gửi về. Nhân ngày kỉ niệm nước

Mê-la-tăng-ca nổi lên giành độc lập, Bằng dịch và in một tập thơ Mê-la-tăng-

ca từ một bản tiếng Nga vốn được dịch qua nhiều ngôn ngữ khác. Thế nhưng

ông ta vẫn chú thích dưới tựa đề: “Dịch từ nguyên bản tiếng Mê-la-tăng-ca”.

Từ đây bao chuyện hài hước xuất hiện, làm lộ rõ chân tướng thiếu hiểu biết

nhưng cứ tỏ ra ta đây cái gì cũng biết. Chưa nói đến sự kém hiểu hiểu biết về

ngôn ngữ và văn hóa của các quốc gia khác, Vũ Bão còn châm biếm nạn giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 39

dối, không trung thực trong công tác dịch thuật. Bên cạnh đó, ở truyện này,

nhà văn còn đề cập đến hiện tượng đạo văn của một bộ phận những cây bút

thiếu lương tâm. Ông phó tiến sĩ ấy chỉ giỏi trích dẫn mà chẳng bao giờ nói,

cho nên trong những bài viết của ông ta “chỉ thấy toàn các ông ốp, ép, ki, nhin

nói, chẳng thấy thằng bạn học cùng lớp tôi nói bao giờ”. Thậm chí, tệ hại hơn

Bằng còn “thuổng các bài báo ấy (báo tiếng Nga - NV) rồi mông má lại, kí tên

phó tiến sĩ Chu Hữu Bằng” [5, tr.137-138].

Với mảng hiện thực này, bằng tiếng cười, các tác phẩm của Vũ Bão đã

vẽ những nét lớn về hiện thực xã hội và con người trong cuộc sống đời

thường những năm sau đổi mới. Dù chưa toàn diện nhưng nhìn vào bức tranh

đó có thể cảm nhận được hơi thở của cuộc sống với bao mảng sáng tối, với

những trái khoáy, phi lí, lố bịch,… cần phải loại bỏ khỏi đời sống.

1.2.3. Hiện thực xã hội và con ngƣời qua thế giới tâm linh, hoang đƣờng

Vũ Bão là cây bút luôn bám sát hiện thực đời sống. Điều đó đã rõ.

Nhưng nhiều khi, nhà văn lại đi sâu vào thế giới tâm linh, hoang đường rồi

dùng nó như một phương tiện để thể hiện thế giới hiện thực. Có thể kể ra đây

những tác phẩm như tiểu thuyết Utopi - một miếng để đời, truyện ngắn Giờ

thiêng, Chương cuối của một mối tình.

Trong Utopi - một miếng để đời, Vũ Bão đã sáng tạo ra một thế giới

không tưởng (Utopi gợi liên tưởng đến Utopia, có nghĩa là “không tưởng”,

tên một tác phẩm của Thomas More viết năm 1516, mô tả một xã hội không

có thật). Utopi của Vũ Bão là thủ đô của vương quốc Balôđixtan theo chế độ

quân chủ lập hiến. Thái tử Balôđixtan nhân một lần du lịch nước Nam xứ Á

châu đã được thưởng thức món thịt chó tại một nhà hàng ở thôn Chè, xã Trà

Thủy, huyện Sông Trà, tỉnh Trà Lý và đâm ra mê mẩn. Về nước, thái tử bèn

mời anh thợ thịt chó Phạm Thế Hệ sang xứ Balôđixtan để phổ biến món ăn có

một không hai này. Từ chuyện thịt chó, Vũ Bão tự do phóng bút đến chuyện

quốc gia, dân tộc. Balôđixtan là thủ đô thanh bình, thái tử không muốn làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 40

quốc vương, họp hành ít, lễ hội không vẽ vời, cái gì lợi được cho dân thì làm

cho dân, đem cho dân. Ngày lễ lớn như quốc khánh, Quốc vương và Thủ

tướng vay tiền của ngân hàng để khao nhân dân. Utopi là một đất nước có sự

công bằng trong luật pháp, từ những chuyện nhỏ nhất cũng phải được phân xử

công minh. Vấn đề dân chủ ở đây cũng được Hoàng gia và chính phủ

Balôđixtan đưa ra phân tích và thực hiện đến nơi đến chốn. Ở đất nước ấy,

giới nhà báo được nhà nước cho phép đi ăn xin để lập ra tòa soạn mới; những

cô gái làm tiền lập thành một nghiệp đoàn Thanh Y Hồng Đăng, biểu tình đòi

được trả lương. Con người thì sống rất lịch sự, thân thiện,... Mượn hành trình

khám phá của anh thợ thịt chó làng Chè về một đất nước xa xôi nào đó, Vũ

Bão khiến người đọc liên tưởng đến những vấn đề của đất nước mình: sự vận

hành của các tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy luật pháp, quan hệ giữa người

với người,... Utopi khác xa mà tương đồng với xứ sở mà Phạm Thế Hệ sinh ra

và lớn lên. Trong tương quan đối sánh giữa cái cái có thực và không có thực,

nhiều vấn đề của hiện thực được Vũ Bão đưa ra mổ xẻ trên trang viết. Chất

humour thấm đẫm từng trang sách, từng câu chuyện nhưng đằng sau đó chất

chứa một sự suy ngẫm, một sự so sánh ngầm với mong muốn của nhà văn về

một xã hội tốt đẹp hơn.

Giờ thiêng là câu chuyện về những vị thần làng của nhân vật “tôi”

được kể qua bao thế hệ. Một thằng ăn trộm trâu bị đánh chết, nhưng vì chết

đúng giờ thiêng nên được dân làng lập miếu thờ và triều đình phong sắc Mãnh

tướng uy linh. Theo dòng câu chuyện hoang đường, Vũ Bão đã kể những câu

chuyện thực về đời sống. Đó là chuyện về những người lính ra chiến trường

mất tích và thái độ làm ngơ, vô cảm của cơ quan quản lí trước nỗi đau của

những người thân; chuyện mở chợ cho dân đỡ phải lặn lội mà mãi không

xong; chuyện hàng tổng đuổi cướp “người hò thì đông, người xông ra thì

chẳng có”; chuyện cuộc sống đói rách; chuyện về những bi kịch của người tốt

trong Cải cách ruộng đất; chuyện tham ô đục khoét của quan chức,… Đặc biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 41

hình tượng Mãnh tướng uy linh là một kiểu biểu tượng cho những người cầm

quyền đương thời: xuất thân và con đường ra làm quan thì có vấn đề, khi

nắm quyền thì chỉ biết hưởng thụ; gian dối, thờ ơ, vô trách nhiệm với dân

làng… Đã thế khi bị dân đối chất, vị thần còn sai Thiên lôi đến định trừng trị

kẻ dám có ý kiến. Không chỉ vậy, “Thần làng tôi nhiều vô kể, chỉ mỗi cái bãi

Dứa thôi mà lủng củng đến mấy cái miếu”. Ông thì là anh hoạn lợn đi đến bãi

Dứa bị trúng phong chết đúng giờ thiêng; ông thì là anh lái đò gặp cơn gió

hỗn, ông thì là anh đánh bạc thua trắng tay nên tự tử; ông thì đi ăn cỗ say về

gặp mưa ngã gục, ông thì vác bừa về nhà bị sét đánh. “Công lao gì hơn người

nhưng may mắn chết đúng giờ thiêng thế là thành thần hưởng lộc của dân hết

đời này sang đời khác”. Những ông thần này, khi phải di chuyển vị trí đền,

cũng phân bậc trên dưới để tranh giành nhau những chỗ cao hơn, tốt hơn [5,

tr.146,152]. Phía sau sự hoang đường, Vũ Bão muốn phơi bày con đường

thăng quan tiến chức khuất tất, khó hiểu; sự tranh giành quyền lực, địa vị và

nhiều biểu hiện tiêu cực khác khi nắm quyền của những kẻ vốn bất tài.

Sự phủ nhận với cái xấu trong xã hội hiện tại cũng được thể hiện qua

đoạn cuối truyện ngắn Chương cuối của một mối tình. Vì bị ám ảnh bởi cuộc

sống như địa ngục với vợ, Lộc mơ một giấc mơ được lên thiên đường. Ở đó

không có những gò bó, không tem phiếu, hộ khẩu, không có thủ tục thường

trú tạm trú,… Giấc mơ ấy phần nào thể hiện thái độ phê phán của nhà văn đối

với hiện thực đời thường.

Những tác phẩm dạng này của Vũ Bão, tuy có phần cực đoan nhưng

nhìn kĩ, vẫn có thể thấy được những vấn đề có thật của hiện thực. Ở góc nhìn

đó, người đọc vẫn có thể hình dung được phần nào bức tranh về hiện thực

cuộc sống và con người đương thời.

Tiểu kết

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, Vũ Bão nói: “Tôi viết cái bên

trong mình chứ không phải hiện thực bên ngoài dội vào, ép vào” [8]. Với nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 42

văn, sự thật cần phải được tôn trọng. Người viết phải giữ vững được ngòi bút,

vượt qua mọi tác động từ bên ngoài. Có lẽ vì thế, hiện thực đời sống trong

sáng tác của Vũ Bão nhiều khi chạm đến những vùng nhạy cảm, thử thách

bản lĩnh của người cầm bút.

Trong truyện ngắn Vũ Bão, có hiện thực về cuộc chiến tranh đã đi qua

nhưng chủ yếu là hiện thực những năm sau đổi mới 1986. Theo dòng chảy

của lịch sử, tác phẩm của nhà văn đề cập cả đến những tàn dư của cơ chế bao

cấp cũ với tư duy, cách nghĩ lỗi thời, lạc hậu; cả những mặt tối của cơ chế thị

trường mới với bao nhiêu tệ nạn đáng lên án trong xã hội. Ở phương diện con

người, đặt trong bối cảnh chiến tranh, trong quan hệ với dân tộc đó là những

người lính dũng cảm; trong quan hệ với đồng đội, với cấp trên đó là những

người lính hết lòng vì đồng đội, luôn đấu tranh vì sự công bằng. Đặt trong bối

cảnh cuộc sống đời thường, đó là những người trí thức, công chức, những

người cầm quyền với những hiện tượng tiêu cực, lệch chuẩn.

Xuyên suốt những trang viết, dù là đối tượng nào, dù là những hiện

thực được coi như những vùng cấm mặc định, Vũ Bão đều dùng tiếng cười

nhằm phê phán mạnh mẽ sự giả dối, bất công; những biểu hiện sai trái, xấu xa

còn đâu đó tồn tại trong xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề mà nhà văn nêu lên

không phải là để nói xấu hay bôi đen xã hội, mà chỉ như những nguồn sáng

đánh thức những người có trách nhiệm để từ đó thay đổi đi, tiến bộ hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 43

Chƣơng 2

NHÂN VẬT, TÌNH HUỐNG VÀ CỐT TRUYỆN

MANG TÍNH TRÀO PHÚNG

TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986

2.1. NHÂN VẬT TRÀO PHÚNG

Nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm

bằng phương tiện văn học. Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là

hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng.

Nhân vật “là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu

về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Các thành tố

tạo nên nhân vật gồm: hạt nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các lợi ích

đời sống, thế giới cảm xúc, ý chí, các hình thức ý thức và hành động” [20,

tr.241-242]

Trong tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm tự sự, nhân vật chính là

phương diện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng; là

phương tiện tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng, quan niệm của tác

giả về cuộc đời và con người trong các tác phẩm tự sự và kịch. Theo Giáo sư

Hà Minh Đức thì “nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình

về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của

hiện thực” [19, tr.126]. Nhân vật trào phúng là loại nhân vật mang tính hài.

Xây dựng kiểu nhân vật này, nhà văn phải làm cho người đọc bật lên tiếng

cười về chúng. Trong văn học nói chung, đặc biệt là văn học sau đổi mới,

nhân vật trào phúng không chỉ tạo ra tiếng cười giải trí mà còn gợi lên trong

lòng độc giả những suy ngẫm, làm thay đổi nhận thức cũng như hành động

của họ.

Nhân vật trào phúng trong truyện ngắn Vũ Bão sau 1986 cũng không

nằm ngoài qui luật đó. Nghiên cứu tác phẩm của nhà văn, chúng tôi thấy tuy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 44

không mang tính điển hình như những nhân vật văn học trước 1975, nhưng

những nhân vật của Vũ Bão phần nào khái quát được những mảng hiện thực

và con người đương thời. Để thể hiện được quan niệm và cách nhìn ấy, nhà

văn đã sáng tạo ra những thủ pháp độc đáo, tạo nên hệ thống nhân vật mang

đậm chất trào phúng.

2.1.1. Cách đặt tên nhân vật

Việc đặt tên nhân vật trong văn học luôn mang một dụng ý của tác giả

nhằm biểu đạt một ý nghĩa nào đó của nhân vật trong tác phẩm. Tên nhân vật

là một yếu tố tạo nên hình tượng nhân vật, là một kí hiệu nổi trội trong chỉnh

thể hình tượng nhân vật. Bằng cách đặt tên cho nhân vật, tác giả thể hiện quan

niệm nghệ thuật về con người và xã hội. Với ý nghĩa như vậy, Vũ Bão đã có ý

thức trong việc đặt tên cho nhân vật của mình nhằm qua đó thể hiện cách

nhìn, cách cảm nhận cuộc đời và con người đương thời.

Qua khảo sát và thống kê, chúng tôi thấy nhân vật trong truyện ngắn

Vũ Bão sau năm 1986 được đặt tên, gọi tên như sau:

Đặt tên theo cách thông thường: Ngân, Phạm Thế Hệ (Nợ nần kiếp

trước), Ngoan, Ngát, Nghinh, Mì (Bố con là đàn bà), Luận ,Vĩnh (Người vãi

linh hồn), Lê Doãn (Bó cỏ dưới mõm ngựa), Chu Hữu Bằng (Phó tiến sĩ

không hữu nghị)... Đây là cách đặt tên phổ biến trong truyện ngắn Vũ Bão.

Đặt tên theo chức danh, trình độ: Theo trình độ như vị giáo sư, phó tiến

sĩ sinh vật học (Bút bi hết mực). Theo chức danh như ông giám đốc, ông phó

chủ tịch (Nợ đời), ông bí thư tỉnh ủy (Ông khóc tôi cũng khóc), ông tổ trưởng

dân phố, tay phó vụ trưởng (Hao mòn vô hình), chính trị viên (Người chưa

có chiến công), đại đội trưởng, trung đoàn trưởng (Lý sự người đời)... Có khi

nhà văn còn gán thêm các định ngữ vào chức danh như Phó tiến sĩ không hữu

nghị, phó tiến sĩ đá bóng, phó tiến sĩ chạy tuổi, phó tiến sĩ làm chủ tập thể

(Hao mòn vô hình, Phó tiến sĩ không hữu nghị), phó tiến sĩ Nghêu sò ốc hến

(Bút bi hết mực).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 45

Đặt tên theo kiểu ẩn dụ: Xe Công (Bút bi hết mực), bác sĩ Văn Đình

Điển (nghĩa trang Văn Điển - NV), phó tiến sĩ Mai Thị Dịch (nghĩ trang Mai

Dịch - NV), giáo sư Trung Văn Dung (Lý sự người đời), giáo sư Dép-lốp,

giáo sư Lomcomxki (lôm côm - NV), giáo sư Eritromicin, giáo sư Atnhép

(Hao mòn vô hình).

Trong các nhóm tên trên, trừ cách đặt tên thông thường, các nhóm tên

còn lại đều chứa đựng yếu tố hài hước và hàm chứa trong nó ít nhiều diện

mạo hiện thực và quan niệm của nhà văn về xã hội và con người. Trước hết là

cách đặt tên theo chức vụ, trình độ. Trong truyện ngắn của Vũ Bão, hầu hết

các nhân vật này đều là những người có vai vế, quyền lực trong xã hội.

Những lời nói và việc làm của họ có tác động và ảnh hưởng lớn đến người

khác, đến sự vận hành của cả một hệ thống. Viết về những nhân vật này, tiếng

cười trào phúng thường bật ra ở những thói tật muôn thuở của các “quan” như

tệ đút lót (Lẽ đời); tham ô (Ông khóc tôi cũng khóc); trai gái (Bút bi hết

mực); quan liêu, mệnh lệnh (Người không có tên trong từ điển, Người chưa

có chiến công), cách đối xử bất công với cấp dưới (Người chưa có chiến

công, Lý sự người đời); nạn chạy theo thành tích (Ông khóc tôi cũng khóc);

sự dốt nát của những người được gọi là phó tiến sĩ, giáo sư (Phó tiến sĩ không

hữu nghị, Bút bi hết mực);... Không đặt tên nhân vật bằng danh từ riêng, Vũ

Bão dường như muốn khái quát thực trạng tiêu cực mang tính phổ biến ở một

bộ phận quan chức đương thời. Chất trào phúng được đẩy lên cao hơn nữa khi

nhà văn gắn vào tên nhân vật những định ngữ chỉ tài năng, nhưng thường là

tương phản với khả năng thực tế của nhân vật, tạo thành những cái đuôi hài

hước lật tẩy những cái xấu đáng cười của chúng. Đó là phó tiến sĩ làm chủ tập

thể Chu Hữu Bằng (Hao mòn vô hình) với đề tài “làm chủ tập thể” cứ quay

vòng kiểu gà què ăn quẩn cối xay, nhai đi nhai lại mãi trong bao nhiêu cuộc

hội thảo, từ hội thảo âm nhạc đến hội thảo sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, hội

thảo văn nghệ dân gian,... đến nỗi cái “thân thể” ấy “thương tích đầy mình chi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 46

chít móc câu” [5, tr.120]. Đó là phó tiến sĩ chạy tuổi với hành trình chinh

phục tạo hóa mấy mươi năm. Đó là phó tiến sĩ đá bóng Chu Hữu Bằng với

màn bình luận phim bằng bóng đá hết sức nhảm nhí, ngớ ngẩn... Đó còn là vị

phó tiến sĩ Nghêu sò ốc hến mà không biết nấu nổi món hến (Bút bi hết mực).

Cách đặt định ngữ như thế tạo ấn tượng đậm nét về cái xấu của nhân vật.

Ở một số truyện ngắn khác, Vũ Bão còn có dụng ý rõ nét khi định định

danh nhân vật bằng những cái tên lạ. Trong Bút bi hết mực, nhà văn kể về

một cô gái được mọi người gọi tên là Xe Công. Xe Công có tính đa tình, “ai

đến trước thì đi trước, ai đến sau thì đi sau” [5, tr.253]. Nói chung ai cũng có

thể “sử dụng” Xe Công được. Với liên tưởng độc đáo và cách đặt tên hài hước

như vậy, Vũ Bão muốn nói về nạn sử dụng xe nhà nước - xe công, như xe cá

nhân. Đó là loại xe không của ai, ai cũng có thể đi được. Cũng như vậy, lần

theo hành trình của con ốc sên trong Lý sự người đời, cả chuỗi tiếng cười bật

ra sau những cái tên đậm chất giễu nhại. Đó là những cái tên khiến người ta

nghĩ đến nghĩa trang, đến cái chết: Bác sĩ Văn Đình Điển, phó tiến sĩ Mai Thị

Dịch (Văn Điển và Mai Dịch là hai nghĩa trang nổi tiếng ở Hà Nội). Làm theo

những nghiên cứu khoa học về ốc sên của các vị, người ăn sẽ đến nghĩa trang

một cách nhanh chóng hơn! Chưa hết, trong khi mọi người đang còn ngơ ngác

chưa biết có nên ăn ốc sên hay không thì giáo sư Trung Văn Dung xuất hiện.

Theo vị giáo sư ba phải này thì ốc sên vừa bổ lại vừa độc. Những cái tên như

thế giúp nhà văn hướng tiếng cười vào cách đưa thông tin báo chí và trình độ

của mấy nhà khoa học đương thời.

Trong những truyện ngắn mà nhân vật là những người nước ngoài (chủ

yếu là người Liên Xô trước đây), Vũ Bão cũng vẫn cứ hài hước, tếu táo với

những cái tên bị bỏ mất những âm tiết đầu, chỉ còn lại những âm tiết cộc lốc

buồn cười: Ông ốp, ép, xki, nhin, cụ ski, cụ in, ông ốp, ông ép, bà na, bà va

(Phó tiến sĩ không hữu nghị, Hao mòn vô hình). Cũng có những tên đầy đủ

nhưng nhại theo quân bài tú-lơ-khơ như Atnhép, theo một loại thuốc kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 47

sinh như giáo sư Eritromicin, theo một loại dép như giáo sư Dép-lốp. Tuy

nhiên, đâu đó vẫn thấy hiện diện những cái tên hàm ý phê phán rõ rệt như

giáo sư Lomcomxki (Hao mòn vô hình).

Như vậy có thể nói, bên cạnh những cái tên thuần hài hước, nội dung

xã hội thẩm mỹ qua một số tên nhân vật trong sáng tác của Vũ Bão phần nào

phơi bày thực trạng bi hài, những hiện tượng phi lí, tiêu cực trong đời sống xã

hội và một phần trong bản chất con người đương thời. Nói cách khác, ở một

số trường hợp, Vũ Bão đã “sáng tạo ra những công cụ mặt nạ, gương soi cố ý

phóng to những cái dị dạng, ma quái, trái ngược bình thường vốn có đâu đó

trong đời sống hiện thực để đặt người đọc vào một (những) tình huống phi lý,

giả định để cảnh báo, thức tỉnh người đọc” [56, tr.371].

2.1.2. Khai thác những yếu tố trái tự nhiên trong chân dung, hành

động, ngôn ngữ,…

Để xây dựng một nhân vật trong tác phẩm tự sự, nhà văn không những

phải tìm cho nó một cái tên mà còn gán cho nó một tính cách. Tính cách ấy

chủ yếu được thể hiện qua ngoại hình, qua cử chỉ, hành động cũng như lời

nói, tâm lý nhân vật. Cùng với cách đặt tên, mã hóa nhân vật, Vũ Bão tập

trung khai thác những yếu tố bất thường, trái tự nhiên trong hành động, lời nói

và tâm lý nhân vật nhằm “khéo léo, nhẹ nhàng vạch ra cái mâu thuẫn, tạo ra

cái cười bất ngờ, giúp người ta nhận ra sự trớ trêu của tình huống (ở đây chủ

yếu là nhân vật), mỉm cuời mà phân biệt đúng sai” [30, tr.92].

Tiếng cười trong truyện ngắn Vũ Bão có khi chỉ là một tư thế vô tình

làm lộ vùng “nhạy cảm” của nhân vật trào phúng. Trong Hao mòn vô hình,

Chu Hữu Bằng tập Yoga theo hướng dẫn của giáo sư Dép-lốp, nhưng vì hình

vẽ minh họa bị đặt ngược nên tư thế của ông phó tiến sĩ thật hài hước: “Ông

phó tiến sĩ đang lộn đầu xuống đất, hai chân dựng ngược lên tường, hai bàn

tay chắp trước ngực, ống quần đùi sụp xuống làm thằng trò buộc phải thò cổ

ra nhìn thằng thầy chẳng khác gì Trương Phi râu xồm đứng bên lâu thành toài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 48

người tìm Quan Công mặt đỏ” [5, tr.117-118]. Chỉ là tiếng cười hóm hỉnh

nhưng nhà văn còn nói đến sự thiếu hiểu biết, cách tập máy móc của Chu Hữu

Bằng. Cũng có khi, chất trào phúng được Vũ Bão khắc họa qua những biểu

hiện bất thường bề ngoài. Chiến tranh luôn đòi hỏi ở người lính lòng dũng

cảm và tinh thần dám hi sinh, ấy thế mà sau trận đánh ác liệt anh lính Vĩnh

(Người vãi linh hồn) lại trở về với chiếc quần ướt bởi thứ nước của sự hèn

nhát. Anh ta “vãi linh hồn tóe ra quần” vì sợ [5, tr.192]. Khai thác những yếu

tố như vậy, không chỉ gây cười, Vũ Bão còn khắc họa được tính cách nhân

vật.

Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi thấy rằng Vũ Bão ít gây cười bằng

yếu tố ngoại hình mà chủ yếu tạo chất trào phúng thông qua hành động và

ngôn ngữ của các nhân vật. Trong Bút bi hết mực, Vũ Bão để cho một loạt

những kẻ mang danh phó tiến sĩ sinh vật học, phó giám đốc cấp dưỡng một

khách sạn, giáo sư về làng xã cổ thản nhiên bộc lộ sự kém cỏi, thiếu hiểu biết

của mình qua đối thoại với nhân vật “tôi”. Hỏi cách nếu canh hến, vị phó tiến

sĩ cứ ớ người ra, không biết con hến là con nào. Sau khi nghe tôi tả hình dáng

con hến anh ta gật gù: Thế là hến vốn là dòng trai bị thoái hóa. Anh ta kéo ghế

trèo lên với tay lấy một quyển sách bìa cứng dày cộp, lật lật đến già nửa

quyển rồi tuôn ra một tràng lí thuyết về thể tích so với con trai, về giá trị dinh

dưỡng của con hến. Nhưng chế biến thế nào thì ông lắc đầu. Cử chỉ và hành

động trái tự nhiên ấy làm bật ra tiếng cười phê phán về một ông phó tiến sĩ

kém hiểu biết về những điều đơn giản nhất trong chuyên môn, chỉ khư khư

với mớ lí thuyết, sách vở mà hoàn toàn không hiểu thực tế. Tiếp theo là tay

cấp dưỡng mới được lên ghế phó giám đốc khách sạn “chuyên trị các món Âu

hiện đại” khuyên người ta tìm hiểu cách chế biến canh hến ở “các quán cơm

bụi”. Là ông giáo sư chỉ nghiên cứu tầng vĩ mô nên cũng chẳng hiểu cách nấu

ra sao,... Cuối cùng cô thư viện cũng giống vậy, hỏi sách chế biến món hến thì

cô bê ra một chồng sách về kịch bản điện ảnh, tuồng, kịch nói Nghêu sò ốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 49

hến, thậm chí cả những bài báo, bài phê bình về Nghêu sò ốc hến! Tiếng cười

cất lên cũng là lúc thực tế về trình độ kém cỏi, cách đào tạo nặng về lí thuyết

vốn đang ẩn náu đâu đó trong bóng tối, bị lôi ra ngoài ánh sáng.

Trong đời thực, Vũ Bão là người hoạt ngôn và luôn tếu táo, vui đùa. Có

lẽ vì thế các nhân vật của nhà văn cũng thường xuyên thể hiện chất trào

phúng ở phương diện lời nói. Đó có thể là một câu nói với bề ngoài có vẻ hồn

nhiên mà vô cùng hài hước của anh lính Chình (Người không có tên trong từ

điển). Bị giặc bắt, khi bò về thấy đơn vị đang tổ chức truy điệu mình, Chình

cố ngóc đầu dậy hét lớn: “Tiêu chuẩn mỗi người lính chỉ được truy điệu có

một lần thôi” [5, tr.185]. Người đọc bật cười ở tình huống có một không hai,

ở lời nói đậm chất hài hước về cái sự công bằng. Dường như giữ vững công

bằng là nguyên tắc sống, là bản chất con người Chình.

Ở nhiều truyện ngắn khác, những yếu tố trái tự nhiên trong ngôn ngữ

nhân vật cũng được nhà văn sử dụng thường xuyên. Trong truyện Chương

cuối của một mối tình, đang nẫu ruột vì thương quê mất mùa đói kém mà

chiếc loa truyền thanh cứ xối xả hết nơi này bội thu đến nơi kia thắng lợi, Lộc

bực mình xoay núm công tắc tắt đài rồi buông một câu: “Nghỉ khỏe. Miếng

sắt cũng biết nói dối” [5, tr.155]. Tính chất trái tự nhiên, phi lí của hiện tượng

“miếng sắt” “nói dối” khơi nguồn cho tiếng cười về sự giả dối một cách

ngang nhiên trong công tác tuyên truyền ngày đó. Cùng một kiểu giả dối như

thế, lời khuyên của ông chủ tịch công đoàn trong truyện, khi thì cao siêu, trừu

tượng: “Hạnh phúc của chúng ta là đấu tranh giải phóng nhân loại (...). Đồng

chí hãy bỏ qua những chuyện vặt (chuyện li hôn của Lộc với vợ - NV) trong

gia đình, hướng mọi suy nghĩ vào mục tiêu cao cả”. Khi thì chứa đựng đầy

mâu thuẫn: “Làn gió thơm của tư tưởng tư sản bắt đầu nổi lên rồi đó” [5,

tr.162]. Tư tưởng tư sản được ví với làn gió “thơm” thì tư tưởng của ông đang

tuyên truyền có mùi gì? Tiếng cười bật lên từ mâu thuẫn trong chính lời nói

của ông, và đó cũng là lúc người đọc suy ngẫm: cái mà ông chủ tịch công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 50

đoàn đang hắt hủi cũng hấp dẫn, thơm tho đáng hưởng thụ. Và ông cũng ý

thức được nó “thơm” đấy chứ! Nhưng ông không được phép hưởng thụ. Vì

ông phải phục tùng đường lối, phải vì cái “ta” chung, nghiêm cấm cái “tôi”.

Trong trường hợp này, tiếng cười của Vũ Bão đã phê phán tư duy, cách làm

thiếu dân chủ của một thời, khi mà nhà nước can thiệp quá sâu vào cuộc sống,

đời tư của mỗi cá nhân.

Vũ Bão nhạy cảm với cái rởm, có lẽ vì thế lời nói rởm hay được đặt

vào miệng nhân vật ở mọi tình huống, mọi không gian. Đây là một đoạn lời

thoại của một giáo sư Liên Xô về việc đào tạo phó tiến sĩ cho Việt Nam trong

truyện Hao mòn vô hình: “Ủng hộ cái mới là nhiệm vụ của chúng ta, các

đồng chí hãy tạo điều kiện cho bạn hoàn thành tốt đẹp luận văn góp phần xây

dựng tình hữu nghị lâu đời giữa hai nước anh em” [5, tr.119-120]. Cái trái tự

nhiên trong lời nói của nhân vật thể hiện ở mâu thuẫn giữa chất lượng đào tạo

với “tình hữu nghị” của hai nước anh em. Chính kiểu đào tạo này đã sinh ra

những “phó tiến sĩ hữu nghị”, hiểu trên tinh thần của Vũ Bão, là những phó

tiến sĩ rởm. “Phong cho chúng ta một phó tiến sĩ, người Nga có mất cái gì.

Lương phó tiến sĩ, mình cứ è cổ ra trả, còn họ được thành tích đã đào tạo cho

mình bao nhiêu phó tiến sĩ” [5, tr.137].

Nhân vật trong sáng tác của Vũ Bão còn gây cười cả ở trong suy nghĩ

của nó. Trong Utopi - một miếng để đời, nhà văn đã hài kịch hóa tâm lí của

anh chàng làng Chè khi vào bãi tắm “nuy” ở một nước phương Tây. Tuy động

viên bạn: “Có cóc gì mà sợ. Tao được sang Đức như mày, tao cởi phắt ra hội

nhập xem Tây khác ta ở chỗ nào. Đời người mới có một lần, mày bỏ phí một

chuyến cải thiện mắt như thế cứ gọi là hại bạc triệu”, nhưng chàng ta vẫn đắn

đo để rồi phải tự “làm công tác chính trị cho mình”: “Thằng Hệ kia, sống ở

trên đời cái gì cũng phải trả giá. Mày muốn xem hàng của Tây thì ít ra mày

cũng phải trình làng cái của mày đi đã chứ (...). Mày nghiến răng lại “triển

lãm” một cái nhưng mày lại được thỏa thuê ngắm nghía nhưng trăm cái, toàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 51

là hàng độc, lần đầu tiên mày nhìn thấy trong đời” [6, tr.483-484]. Cũng có

khi, nhà văn hài kịch hóa tâm lí thỏa mãn của một me Tây. Vốn làm nghề gái

điếm cho Tây nên chị ta bị Tây hành hạ, bắt nạt. Đúng dịp Lê Doãn ghi bàn

thắng vào lưới một đội bóng nước ngoài, chị ta sướng quá ôm chầm lấy chàng

cầu thủ: “Cậu ơi, thế là ta thắng Tây. Cả đời chị mua vé mãi lần này mới được

xem ta thắng Tây” [5, tr.105]. Tâm lí hoan hỉ của nhân vật khi “trả thù” được

bọn Tây khiến người đọc vừa bật cười, vừa cảm thông cho những kiếp gái

làng chơi.

Khái quát lại, có thể thấy rằng, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Vũ

Bão không chỉ thể hiện sự sáng tạo, mà qua đó còn thể hiện được thái độ của

nhà văn với hiện thực cuộc sống và con người đương thời. Qua cách đặt tên,

sự phát hiện và miêu tả các biểu hiện của nhân vật, bằng tiếng cười, Vũ Bão

không chỉ dựng lại những chân dung dí dỏm, hài hước mà còn đi sâu vào

những mặt trái của cuộc sống, phát hiện những gì còn mập mờ, phanh phui nó

ra, tống tiễn những gì giả dối, lỗi thời xuống mồ. Hơn hết, qua đó gián tiếp

khẳng định cái đẹp, vun đắp cho cái mới, cái tiến bộ đâm chồi nảy lộc.

2.2. TÌNH HUỐNG TRUYỆN

Theo Nguyễn Minh Châu, “Những người cầm bút có biệt tài có thể

chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc

sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, (...) bắt buộc con người ở

vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín

nhất, thậm chí có khi đó là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một nhân

loại” [60, tr.112]. Như vậy tình huống đóng vai trò vô cùng quan trọng trong

truyện ngắn. Tài năng của người viết trước hết thể hiện ở sự sáng tạo tình

huống. Tình huống sẽ làm nổi bật các số phận, tính cách, từ đó chuyển tải

những vấn đề mà nhà văn muốn gửi gắm đến độc giả.

Trong nghệ thuật trào phúng của văn xuôi tự sự, tình huống trào phúng

là yếu tố nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo tiếng cười, từ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 52

thể hiện hiện thực cũng như quan điểm, tư tưởng của nhà văn. Tình huống là

bối cảnh không gian, thời gian cụ thể để cái hài, cái xấu bộc lộ ra. Tình huống

trào phúng thường chứa đựng trong nó những mẫu thuẫn trái với qui luật

thông thường, những yếu tố phi logic, những nghịch lí, những ngẫu nhiên,...

có khả năng tạo tiếng cười hài hước. Tình huống càng độc đáo, sáng tạo thì

cái hài và tiếng cười toát ra càng lớn và càng có giá trị. Qua khảo sát truyện

ngắn Vũ Bão sau 1986, chúng tôi thấy tình huống trào phúng có thể chia làm

các nhóm sau:

2.2.1. Tình huống ngẫu nhiên

Tình huống ngẫu nhiên là kiểu tình huống mà ở đó sự việc xảy ra đột

ngột, bất ngờ không nằm trong suy nghĩ, dự tính của nhân vật. Kiểu tình

huống này thường ngay lập tức đặt nhân vật vào thử thách, bắt buộc nó phải

phản ứng, hành động hoặc làm thay đổi dự tính ban đầu cũng như suy nghĩ,

hành động của nhân vật. Kiểu tình huống này không phổ biến trong truyện

ngắn Vũ Bão nhưng chúng thể hiện tương đối rõ nét và thường có khả năng

tạo tiếng cười cao.

Lẽ đời là một truyện có dung lượng ngắn, toàn bộ câu chuyện xoay

quanh tình huống một ông phó phòng giáo dục huyện ngẫu nhiên được phát

hiện có tài làm thơ. Thế là con đường công danh rộng mở, ông ta được bố trí để

giữ một chức vụ cao hơn: Hội trưởng Hội văn nghệ của tỉnh. Từ một ông quan

cấp huyện lắm “màu”, một bước ông ta trở thành quan tỉnh, “thừa tiêu chuẩn

vào bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô và khi chết sẽ được chôn ở khu A trong

nghĩa trang của tỉnh” [5, tr.276]. Tưởng rằng gặp may, nhưng khác hẳn với

những cái Tết trước đông nghịt người đến biếu xén, Tết năm ấy nhà ông hội

trưởng Hội văn nghệ tỉnh vắng teo khách vào ra. Ông ta không còn giá trị với

họ nữa. Tình huống là ngẫu nhiên nhưng lại phản ánh sự tất yếu của đời sống.

Bởi lẽ trong cái xã hội mà nạn chạy chọt đang trở nên phổ biến, đồng tiền được

coi là có sức mạnh vạn năng thì thái độ của họ với ông cựu phó phòng là hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 53

quả đương nhiên. Tình huống oái oăm ấy làm bật ra tiếng cười, đồng thời giúp

người đọc vỡ ra nhiều điều về xã hội và con người. Ở phần cuối truyện, thay vì

đón những kẻ nịnh hót, đút lót đầy toan tính, lợi dụng ông hội trưởng cảm động

đón một người bạn đồng ngũ xưa - người bạn năm nào cũng đến nhưng ông

không nhớ nổi vì phải đón quá nhiều khách. Những giọt nước mắt của nhân vật

chính chảy ra vì xúc động bởi tình bạn đích thực hay vì cái bạc bẽo của quan hệ

đồng tiền? Sự kiện ông nhậm chức quan to là may hay là rủi? Với tình huống

ngẫu nhiên rất đơn giản như vậy, Vũ Bão đã tô đậm những mảng tối của quan

hệ dựa trên vật chất, đồng tiền để từ đó đề cao quan hệ dựa trên tình người:

“Cái gì nặng tình bao giờ cũng đọng lại trong ta” [5, tr.278]

Trong kiểu tình huống ngẫu nhiên này, Vũ Bão có cách tổ chức rất linh

hoạt. Nếu như trong Lẽ đời, đó là tình huống bao trùm, chi phối sự vận động

của cốt truyện thì trong Người vãi linh hồn, tình huống ngẫu nhiên được sử

dụng với vai trò như một yếu tố “mồi” để từ đó sinh ra một chuỗi các sự kiện

hài hước sau đó. Các sự kiện này liên kết với sự kiện chính ban đầu để tạo nên

một bức tranh hài toàn cảnh về sự chà đạp lịch sử, sự lừa dối của người đời.

Vĩnh, một anh lính hèn nhát trong trận đánh lịch sử vào đồn Bốt Chè, ngẫu

nhiên lại được chọn làm người cầm cờ trong cuốn phim tái hiện chiến thắng.

Thế là từ đó anh chàng cứ từ từ một cách vững chắc, bước vào vầng hào

quang của lịch sử. Sau hai mươi năm, sự lừa dối đã hoàn thành sứ mệnh của

nó khi hình ảnh minh họa - đồ giả - trong phim ngày nào nghiễm nhiên trở

thành đồ thật trong mắt mọi người. Ở đây, bằng tình huống ngẫu nhiên, Vũ

Bão đã dần lật tẩy thói vô trách nhiệm, bôi đen lịch sử của những người có

trách nhiệm. Với Người vãi linh hồn, lịch sử sẽ “hồi sinh” dù mới chỉ trong

niềm tin của con người.

Giống như cách tổ chức tình huống của Người vãi linh hồn, truyện

ngắn Nợ đời kể về Vọng, vốn là một nhà thơ thuộc dạng làng nhàng. Anh ta

gửi thơ về tòa soạn báo mãi mà không được đăng. Bỗng một hôm cô bạn gái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 54

Vọng mang đến một tờ báo Văn nghệ trong đó có truyện ngắn Mối tình đầu

và cho rằng đó là của anh ta viết nhưng giấu mình. Ngẫu nhiên lại được công

nhận, anh ta nhận bừa truyện ngắn của người khác làm của mình. Tưởng may

hóa ra anh ta gặp rủi. Từ đó là chuỗi ngày khốn khổ của Vọng. Cứ anh chàng

nhà văn kia ra tác phẩm nào là Vọng lại phải nai lưng ra chiêu đãi người yêu

và bạn bè lần ấy. Khổ hơn nữa cho Vọng là ngẫu nhiên ông giám đốc công ty,

vốn bị bệnh mất ngủ, chỉ đọc hai trang truyện của Vọng đã ngủ được. Thấy

hiệu nghiệm hơn cả tâm sen và Xêduxen, ông ta bắt chàng nhà văn bất đắc dĩ

mua mấy chục cuốn sách để ông ta tặng bạn bè. Tình huống ngẫu nhiên và

hành động đánh cắp ấy khiến Vọng phải trả giá bằng bao nhiêu tiền bạc và

bao nỗi bực tức, chán chường. Theo dòng câu chuyện, tiếng cười hả hê cất

lên, chẳng những cười vào tệ sống nhờ, sống dựa vào tài năng của người

khác, mà hơn thế còn hướng tới phê phán một bộ phận những nghệ sĩ kém tài

nhưng háo danh.

Tình huống ngẫu nhiên còn được nhà văn xây dựng trong một số truyện

ngắn khác như: Nhà trẻ không có bô (ông giám đốc đi dịch thuê, ngẫu nhiên

nhận ngay phải bài dịch vốn trước đó ông giao cho nhân viên làm [5, tr.267]);

Ông khóc tôi cũng khóc (bàn thắng ngẫu nhiên do cơn gió, không nằm trong

dàn xếp trước đó [5, tr.95]). Nhìn chung xây dựng kiểu tình huống này, Vũ

Bão thường nhằm lột trần những toan tính, lừa dối trong tính cách nhân vật.

Từ đó gióng lên hồi chuông về sự tha hóa, lối sống chạy theo vật chất của con

người trong xã hội đương thời. Ngoài ra tình huống ngẫu nhiên còn có tác

dụng tạo nên kịch tính, lôi cuốn người đọc tập trung sự chú ý vào sự vận động

của sự kiện và tính cách nhân vật.

2.2.2. Tình huống nghịch lí, ngƣợc đời

Tình huống nghịch lí là những tình huống mà ở đó xuất hiện những

hiện tượng trái khoáy, phi logic, đối lập với lẽ thường được mọi người công

nhận. Cơ chế tạo tiếng cười của kiểu tình huống này là sự xuất hiện của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 55

những cặp tương phản tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, tự nhiên - phản tự nhiên,...

Đây là kiểu tình huống phổ biến trong sáng tác của Vũ Bão.

Với con mắt tinh tường, Vũ Bão đã phát hiện và miêu tả một cách hài

hước những mâu thuẫn trong đời sống và con người. Nhiều nhân vật trong

truyện ngắn của Vũ Bão sau năm 1986 là những người lính. Sứ mệnh của họ

là ra trận, nhưng thật trớ trêu, hành động ra đi vì tổ quốc ấy có khi lại bị coi là

phản bội. Trong truyện ngắn Nợ nần kiếp trước, vì hay ra vào vùng tề như đi

chợ và được tên chỉ huy đồn Bốt Chè mê, Ngần được xin về công tác trong

ban địch vận của huyện. Chị được đánh vào đồn bốt Chè để vận động tên đồn

trưởng ra hàng. Nhưng trớ trêu thay, Ngân đem lòng yêu tên đồn trưởng.

Ngay lập tức, chị bị triệu về, bị coi như Việt gian, thậm chí còn suýt bị thủ

tiêu. Khi tên đồn trưởng bị tiêu diệt, Ngân tìm đến một ngôi chùa sống nốt

phần đời còn lại. Có đến hai tình huống nghịch lí trong truyện. Đó là tình

huống người của ta mà bị coi như kẻ thù và đi đánh địch mà lại yêu địch. Hai

nghịch lí ấy thực ra có quan hệ nhân quả với nhau và có nguồn gốc từ sâu sa

từ chiến tranh. Chiến tranh làm người ta “gãy càng mẻ gáo”, nhưng chiến

tranh cũng dồn người ta về phía con người xã hội - công dân, không được

phép sống với con người cá nhân cùng những nhu cầu tự nhiên và chính đáng

của mình.

Cùng một nỗi đau như thế, nhân vật Châu Nhì trong Bóng ma đói quê

hương bị đẩy vào tình huống vô cùng éo le và đầy nghịch lí đớn đau. Vẫn từ

ô cửa sổ đoàn tàu, nhưng cuộc sống và thái độ của con người giờ đây như

quay ngoắt 180 độ: Hai mươi năm trước, trên chuyến tàu quân vận, binh nhất

Bùi Hữu Châu kéo cánh cửa sổ đoàn tàu vẫy tay chào những cô gái bên ven

đường, những bà mẹ đang tiễn đưa những đứa con thương nhớ của mình vào

chiến trường. Hai mươi năm sau, khi người lính ngày nào trở về, đưa tay kéo

tấm lưới chắn cửa sổ thì “bốp” một phát, hòn đá từ dưới đất ném lên đã trúng

thành tàu. Xã hội đón ông bằng “hòn đá phũ phàng”. Những tưởng được lành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 56

lặn trở về quê hương là niềm hạnh phúc vô biên của người lính và những

người thân của họ. Nhưng thật bẽ bàng, người lính không gây gì nên tội, thậm

chí còn đổ cả xương máu cho tổ quốc ấy lại bị xua đuổi bởi chính những

người thân của mình, ngay trên chính quê hương mình. Còn gì nghịch lí hơn

trong khi dân làng vui mừng kéo đến chia vui thì vợ cũ Châu Nhì lại dửng

dưng, tìm cách che dấu, phủ nhận sự thực. Còn gì nghịch lí hơn nữa khi người

lính ấy chỉ bị thương trong chiến tranh nhưng lại “hi sinh” trong thời bình!

Phải “chết” trong khi vẫn đang sống! Xây dựng những tình huống nghịch lí

như vậy, Vũ Bão chẳng những phê phán tâm lý trọng vật chất, coi nhẹ tình

cảm mà còn phê phán sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt của chính sách hậu

phương quân đội một thời. Tình huống không có tiếng cười hài hước, chỉ có

tiếng cười mỉa mai, xót xa cho thân phận con người trong chiến tranh.

Kiểu tình huống nghịch lí còn được nhà văn Vũ Bão sử dụng trong

nhiều truyện ngắn viết về những công chức “thương dân”, tiêu biểu là truyện

Ông khóc tôi cũng khóc. Sau khi kể về ba vị bí thư các khóa trước, Vũ Bão

mở ra câu chuyện về ông bí thư huyện ủy khóa IV với công cuộc nâng cấp

nền thể thao huyện nhà. Đầu tiên là xây dựng một sân bóng. Nhưng có sân

bóng rồi mà đội bóng chưa đủ tầm. Để hà hơi hóa phép cho đội bóng huyện

nhà lên chiếu A1, ông bí thư cùng một loạt các ban ngành trong huyện tung

tiền ra mua chuộc trọng tài và các đội bóng đối thủ. Một chuỗi nghịch lí được

phơi bày. Đó là nghịch lí về đội bóng kém cỏi lại được thăng hạng; là nghịch

lí giữa mục đích đem lại những trận đấu hay cho quần chúng với thực tế bất

bình của họ trước những gian dối trắng trợn trên sân cỏ: “Quần chúng cứ việc

la ó, một không vẫn cứ là một không” [5, tr.90]; là nghịch lí khi một ông bí

thư dùng tiền của dân một cách bừa bãi để đánh bóng tên tuổi của mình. Có

thể nói, kiểu tình huống này có khả năng thể hiện một cách rõ ràng nhất

những cái phi lí vẫn còn tồn tại đâu đó trong xã hội và những tiêu cực ở một

bộ phận những công chức tha hóa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 57

Xây dựng tình huống nghịch lí, có thể nói là một trong những sở trường

của Vũ Bão. Hầu hết các truyện viết về người lính đều sử dụng kiểu tình huống

này. Đó là tình huống người lập công mà không được công nhận, kẻ bất tài,

làm sai thì lại được tuyên dương, cất nhắc. Trong Người vãi linh hồn, chính trị

viên, nhân vật “tôi” và bao nhiêu người lính khác liều mình xông vào chốn mũi

tên hòn đạn, đổ máu để có được một chiến thắng. Ấy thế mà họ bị người đời

lãng quên. Bao nhiêu vinh quang cuối cùng lại thuộc về một kẻ hèn nhát.

Tương tự như thế, Trời có mắt là một chuỗi dài chồng chất những nghịch lí hài

hước mà xót xa. Chiến công của những người lính xe tăng không những chẳng

mang đến chút vinh quang nào mà còn đẩy họ vào bi kịch đáng xấu hổ: ăn cắp

chiến công của người khác. Trong khi đó, những kẻ cắp thật sự thì cứ thêm sao,

thêm vạch, vẫn sống ung dung bằng chiến công của người khác.

Đó còn là tình huống làm sai, vi phạm kỉ luật thì lại được khen thưởng.

Trong Người chưa có chiến công, Rãng chu đáo, có trách nhiệm bao nhiêu

thì Bành cẩu thả, vô kỉ luật bấy nhiêu. Vì luôn lo xa và chu đáo quá nên mọi

công việc anh làm đều suôn sẻ nhẹ nhàng, không phải nỗ lực dọn cái đống do

chính mình bày ra như Bành. Tiếng cười cất lên mỗi khi anh lính Bành được

khen thưởng. Còn Rãng, ai cũng biết anh làm rất tốt, nhưng vì không có

“chiến công” khắc phục hậu quả như Bành nên anh chưa được khen. Kiểu

mô-tip tình huống này còn xuất hiện trong Lí sự người đời. Thảnh càng tài

năng thì anh càng được tín nhiệm là tiểu đội trưởng. Ngược lại, Lịch càng vi

phạm nhiều lại càng leo lên những vị trí cao hơn. Xây dựng những nghịch lí

trên, nhà văn Vũ Bão hướng ngòi bút phê phán sự bất công rất phổ biến trong

hàng ngũ của những người lính. Sự bất công ấy tiếp sức cho những cái xấu

lên ngôi, còn người tích cực thì chịu thiệt thòi, sự tiến bộ bị cản trở.

Nói tóm lại, kiểu tình huống nghịch lí với sự va chạm của những yếu tố

đối lập trong tình huống làm nảy sinh tiếng cười, giúp nhà văn phản ánh hiện

thực đồng thời thể hiện thái độ, quan điểm của bản thân. Trong kiểu tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 58

huống này, mỗi nghịch lí giống như một câu hỏi của nhà văn dành cho độc

giả: phải làm thế nào để những nghịch lí đó không còn tồn tại? Ở khía cạnh

này, có thể nói, sáng tác của Vũ Bão như là lời cổ vũ đấu tranh cho sự thực,

cho công bằng.

2.2.3. Tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lý của hiện tƣợng, nhân vật

Đây là kiểu tình huống nhà văn đặt đối tượng trào phúng vào những đối

thoại, hành động hay một hoàn cảnh nào đó để từ đó tạo tiếng cười lật tẩy tính

chất vô nghĩa lí của chúng.

Khi còn đi học, phó tiến sĩ tương lai Chu Hữu Bằng (Phó tiến sĩ không

hữu nghị) vốn học dốt. Tháng trước Bằng xếp thứ 49/50, vậy mà tháng này,

cậu ta được xếp những thứ 44. Cả nhà Bằng liên hoan ăn mừng. Thịt gà, chụp

ảnh, chiếu bóng. Một lần khác, Bằng hớn hở khoe với bố mẹ nó được điểm

10. Lại một con gà chết oan. Thế nhưng hiện tượng bề ngoài đó không phản

ánh đúng bản chất thực bên trong, Bằng xếp thứ 44 vì tháng đó có đến bảy

đứa bị điểm bình quân 3,9 nên không có đứa nào bị xếp thứ 50. Bằng được 10

điểm là 10 điểm thể dục, cả lớp cùng được thưởng vì tập đúng và đều. Mâu

thuẫn giữa thật và giả, giữa hiện tượng và bản chất của tình huống đã lật tẩy

cái dốt của Bằng khiến người đọc bật cười.

Trong Hao mòn vô hình, Vũ Bão cũng sử dụng kiểu tình huống này để

châm biếm tài năng của phó tiến sĩ Chu Hữu Bằng. Nghiên cứu sinh về, Chu

Hữu Bằng nổi tiếng với đề tài “làm chủ tập thể”. Ông cứ nhai đi nhai lại mãi

điệp khúc cũ mòn ấy. Mà chẳng nhai thì cũng chẳng có gì để lòe thiên hạ. Thế

nên, khi cụ Vụ trưởng đề bạt Bằng, vì quá chán chường vị phó tiến sĩ ấy nên

các ông tổng giám đốc, các Viện trưởng “đều một mực chắp chân chắp tay

kính cụ rằng với luận án phó tiến sĩ làm chủ tập thể, Chu Hữu bằng xứng đáng

ở một vị trí chiến lược tầm cỡ quốc gia hơn là về chỗ họ làm công việc chỉ ở

tầm chiến thuật” [5;,1 tr.21]. Họ khiếp hãi, họ từ chối đây đẩy “tài năng” của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 59

ông ta. Thái độ ấy gián tiếp lật tẩy sự hám danh nhưng bất tài, của “tiến sĩ

giấy” Chu Hữu Bằng.

Nợ đời cũng là một truyện ngắn phơi bày thói hám danh, không biết

lượng sức mình của một số nhà văn kém tài và tình trạng đăng bài chạy theo

quan hệ, theo lợi nhận của nhà phát hành sách. Gửi tác phẩm về báo Văn nghệ

của tỉnh những mong được đăng, nhưng số báo nào Vọng cũng chỉ thấy dòng

chữ in nhỏ tí xíu trong mục Nhắn bạn phương xa: Chúng tôi đã nhận được

bài, đang nghiên cứu sử dụng... Tòa soạn chờ sáng tác mới của bạn. Đáp lại

sự chờ đợi của tòa soạn, Vọng “lên cơn” lao vào “viết như bổ củi” để nuôi

niềm hi vọng “mình đã gửi đi hai mươi bài, thế nào toà soạn cũng phải chiếu

cố in một bài”. Hành động dã tràng của Vọng không bao giờ thành hiện thực.

Anh chưa đủ tài hay anh không biết rằng “ở đời còn ăn nhau cái tên, cái mác”,

không biết rằng “thời buổi này viết thì phải lách. In bài của cậu thì người ta ăn

cái giải gì?” Nhà xuất bản chỉ in những loại thơ nào mà nó đem lại được tí lộc

còm, cho dù đó là loại thơ “chai lì như vú đàn ông” [5, tr.71]

Trong một truyện khác, truyện Nhà trẻ không có bô, tiếng cười trào

phúng bật ra từ một lời nói hồn nhiên của nhân vật Thanh, một cô bé thuộc

dòng dõi con ông cháu cha đang làm việc trong Trung tâm thông tin của Viện

nghiên cứu Sao Hỏa. Thanh được giám đốc giao dịch một văn bản tiếng Anh.

Phát hiện ra lỗi, vị giám đốc cho gọi cô ta xuống:

“- Chị dịch sai rồi.

Cô bé mắt xanh mỏ đỏ ngơ ngác nhìn tôi:

- Dạ sai thế nào được. Bố cháu đã tra từ điển rồi mới dịch kia mà” [5,

tr.264].

Cái độc đáo của tình huống là ở chỗ, từ một đối tượng nhà văn lôi ra

ánh sáng một đối tượng khác rồi lật tung cái xấu xa đáng cười của tất cả bọn

chúng. Tính chất vô nghĩa lí của hai bố con Thanh đồng thời được bêu ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 60

cùng lúc: một cô nhân viên lười biếng, dốt nát cùng với một ông giáo sư chiều

con, dốt ngoại ngữ.

Viết về quan hệ giữa những người lính và cấp trên của họ, Vũ Bão có

khá nhiều truyện. Những người chỉ huy trong truyện ngắn của nhà văn thường

hiện lên với những biểu hiện bất hợp lí, thậm chí trở nên lố bịch, kém cỏi

trước những người lính cấp dưới. Lí sự người đời viết về một anh đại đội

trưởng, tiếng là người chỉ huy nhưng suy nghĩ, tầm nhìn lại kém cỏi so với

những anh lính trẻ tinh quái. Sáng sớm, đại đội trưởng bí mật đi kiểm tra tiểu

đội nuôi quân, định bụng sẽ giấu súng của của mấy chàng lính rồi cạo cho

mỗi đứa một trận tơi bời khói lửa. Nhưng tiểu đội trưởng Thảnh dường như

đoán trước được ý đồ của cấp trên nên cấp trên vừa đến cửa phòng anh đã

biết. Vị chỉ huy ấy còn chẳng đọc thông báo dán ở bảng tin đại đội nên không

biết ngày nào toàn quân làm việc theo giờ mùa đông. Anh ta buông lời nhắc

cấp dưới để rồi “ngẩn người” trước câu trả lời của Thảnh. Kết thúc cuộc kiểm

tra đột xuất, đại đội trưởng thắc mắc: “....À này mình hỏi cậu: tại sao cậu biết

mình định xuống “đột kích”?” “Báo cáo đại đội trưởng, người lính bao giờ

cũng phải phán đoán cái gì sắp đến với mình” [5, tr.224-227]. Hành động và

lời nói của vị chỉ huy trong tình huống trên, tự bản thân nó đã phơi bày hạn

chế của người chỉ huy đơn vị. Anh ta không hiểu, không nắm bắt được tâm lí

cấp dưới đã đành, xấu hổ hơn còn không nắm bắt được cả lịch làm việc của

đại đội. Thái độ ngơ ngác và lời thú nhận của anh ta trước những người lính

cấp dưới thật buồn cười. Mâu thuẫn đó đặt ra câu hỏi lớn về năng lực điều

hành của những người chỉ huy: Cứ như vậy, anh sẽ chỉ huy ai? Chỉ huy cái

gì?

Người chưa có chiến công cũng là truyện ngắn đi sâu miêu tả quan hệ

giữa những người lính với chỉ huy của họ. Rãng là một người lính cương trực,

thẳng thắn và đặc biệt rất cẩn thận. Cái gì sai, kể cả chỉ huy anh cũng phản ứng.

Đối lập với Rãng là chỉ huy của anh, một người bảo thủ đến lố bịch, trơ trẽn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 61

“- Tên đồng chí là gì?

- Báo cáo thủ trưởng, tên tôi là Giang Văn Rãng.

- Tôi đọc tên đồng chí rồi. Đồng chí chạy đi đâu mà không nghe gọi tên

Dương Văn Dãng?

- Báo cáo thủ trưởng, tên tôi là Giang Văn Rãng - Thủ trưởng chỉ gọi

tên Dương Văn Dãng.

- Rãng hử? Tên là Rãng thì cứ về đại đội 1 cái đã, còn máy móc Dương

với Giang...

- Báo cáo thủ trưởng, bố tôi họ Giang, tôi là con đẻ của bố tôi, vậy tôi

phải họ Giang...

- Làm gì có họ Giang, thôi đồng chí về C1.

- Báo cáo thủ trưởng, ngày xưa ông Giang Văn Minh đi sứ bên nước Tàu...

- Không bàn chuyện ngày xưa (...)” [5, tr.203-204]

Đoạn đối thoại kết thúc khi vị chỉ huy cãi cùn cứng miệng, không vặn

Rãng vào đâu được. Nhưng chàng lính trẻ không lấy đó làm đắc ý, bởi vì với

Rãng đó như là một nhiệm vụ của người lính. Chuyện tưởng là nhỏ hóa ra lại

không nhỏ chút nào: “một thằng lính không giữ được cái tên của mình thì làm

sao giữ vững được cả trận địa” [5, tr.204-205]. Người đọc nể anh lính bao

nhiêu thì lại chế giễu, phê phán người chỉ huy bảo thủ, mệnh lệnh bấy nhiêu.

Có thể nói, kiểu tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lí của nhân vật

trong truyện ngắn Vũ Bão sau 1986 xuất hiện tương đối nhiều và đạt được

hiệu quả nghệ thuật cao. Mỗi khi tình huống xuất hiện, cái xấu bị lộn ngược,

bị lôi ra giữa thanh thiên bạch nhật và hiện hình rõ nét với tất cả những biểu

hiện đáng cười của nó.

Từ việc khảo sát các kiểu tình huống trong truyện ngắn của Vũ Bão sau

năm 1986, chúng tôi thấy cách xây dựng tình huống không chỉ phong phú, đa

dạng mà ngay trong một kiểu tình huống, nhà văn cũng hết sức linh hoạt trong

việc tổ chức, sắp xếp. Song hành cũng với hệ thống tình huống giàu giá trị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 62

nghệ thuật là tiếng cười châm biếm, phê phán những tính cách, những hiện

tượng tiêu cực, những nghịch lí bi hài của xã hội và con người. Không chỉ thể

hiện tài năng của người nghệ sĩ, những tình huống truyện độc đáo còn tạo nên

sự hấp dẫn, lôi cuốn cho những tác phẩm của nhà văn.

2.3. CỐT TRUYỆN

Cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư

tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất

trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch (...).

Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học cốt truyện các

tác phẩm văn học hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống lịch sử, thể hiện

phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn” [22, tr.100]

Trong thể tự sự truyền thống, cốt truyện đóng vai trò quan trọng hàng

đầu làm nòng cốt cho diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách

nhân vật. Tuy nhiên, cốt truyện có tính lịch sử. Trong mỗi giai đoạn, mỗi trào

lưu, xu hướng văn học; trong thi pháp sáng tạo của nhà văn vai trò của cốt

truyện trong tác phẩm tự sự có sự vận động, thay đổi. Trên tinh thần đổi mới,

cốt truyện trong truyện ngắn sau 1986 có những thay đổi đáng kể. Bên cạnh

những kết cấu cốt truyện rõ ràng, mạch lạc với mở đầu kết thúc đúng trình tự

của tự sự truyền thống, đã xuất hiện những kết cấu cốt truyện mới. Kiểu kết

cấu mới này không chỉ thể hiện sự cách tân mà còn phản ánh ách nhìn mới

của nhà văn đối về con người và cuộc sống. Qua khảo sát tập truyện ngắn sau

1986 của nhà văn Vũ Bão, chúng tôi thấy bên cạnh những truyện có lối kết

cấu truyền thống, còn có những tác phẩm có cách kết cấu cốt truyện hiện đại.

Chung qui lại, các sáng tác của Vũ Bão sau 1986 có ba kiểu cấu trúc cốt

truyện chủ yếu sau: cấu trúc đối lập - tương phản, cấu trúc tăng cấp và kết

thúc bất ngờ, cấu trúc phân mảnh.

2.3.1. Cốt truyện đối lập - tƣơng phản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 63

Hạt nhân của trào phúng là mâu thuẫn. Cho nên có thể khẳng định rằng,

cấu trúc đối lập - tương phản là kiểu cốt truyện phổ biến trong văn học trào

phúng. Biểu hiện của kiểu cốt truyện này là nhân vật thường được phân làm

hai tuyến đối lập nhau. Sự xung đột của hai tuyến nhân vật cùng với sự vận

động của cốt truyện là nhân tố tạo tiếng cười hài hước, thể hiện một tư tưởng,

một thái độ nào đó của nhà văn về xã hội và con người.

Trong nhiều truyện viết về người lính, kiểu kết cấu đối lập được Vũ

Bão sử dụng một cách phổ biến và triệt để. Cốt truyện và sự vận động của

truyện chủ yếu được tổ chức trên cơ sở tương phản giữa người chỉ huy và anh

lính dưới quyền. Cá biệt trong một số truyện, đó còn tương phản giữa những

người lính với nhau. Trong Người không có tên trong từ điển, hạt nhân của

cốt truyện là sự mâu thuẫn giữa Chình và người chỉ huy của anh. Một loạt các

sự kiện cấu thành cốt truyện đều được xây dựng theo nguyên tắc tương phản.

Đó là chuyện Chình đòi sửa tên Trình thành Chình trong tờ giấy khen; là

chuyện Chình đòi chiếc bật lửa, mười viên đá, ba cái lưỡi câu, bốn mét dây

cước,... vốn là những tiêu chuẩn mà những người lính trước khi ra trận được

hưởng; là chuyện Chình chất vấn cấp trên về chuyện phát quần áo, chuyện

mấy lon gạo của tiểu đội,... Chuỗi sự kiện này không chỉ tạo nên chuỗi những

mẩu chuyện hài hước, mà còn thể hiện rõ nét tính cách nhân vật và tư tưởng

về sự công bằng của nhà văn.

Cùng một cách tổ chức cốt truyện như vậy, nhưng trong truyện Người

vãi linh hồn, sự tương phản lại chủ yếu được thể hiện trong tương quan giữa

phẩm chất và số phận của những người lính; giữa những người lính và những

người có trách nhiệm, nắm giữ sinh mệnh chính trị của họ. Một mặt, xét trong

quan hệ giữa những người lính, những người dũng cảm, xả thân lập công thì

bị lãng quên, bị bỏ rơi. Ngược lại những kẻ hèn nhát thì lại được ca tụng và

đối xử như những anh hùng. Mặt khác, xét trong quan hệ giữa những người

lính bị hắt hủi với những người có trách nhiệm, Vũ Bão đặt ra câu hỏi lớn về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 64

những người có quyền. Chính họ cần phải lên tiếng, phải bảo vệ những người

lính không tiếc máu xương khi ra trận, bảo vệ sự thật và ngăn chặn sự gian

dối. Tiếng cười bật ra từ sự mâu thuẫn, nhưng đó không phải là tiếng cười hả

hê mà là tiếng cười gợi nhiều xót xa, bẽ bàng.

Tuy nhiên, cách tổ chức cốt truyện theo lối tương phản như vậy được

thể hiện một cách phong phú, đa dạng hơn trong truyện ngắn Người chưa có

chiến công, Lí sự người đời. Cùng một cốt truyện, Vũ Bão khéo léo cài vào

đó những chuỗi sự kiện gắn với các quan hệ. Đó là chuỗi sự kiện trong quan

quan hệ giữa Rãng, Thảnh với người chỉ huy. Trong một loạt hành động và

đối thoại, người chỉ huy càng cậy quyền, quan liêu bao nhiêu thì càng bộc lộ

cái sai, cái hạn chế của mình trước những người lính dưới quyền bấy nhiêu.

Từ chuyện anh lính Rãng trong Người chưa có chiến công đấu tranh với chỉ

huy về cái tên, bảo vệ cách làm đúng và phê phán cách đối xử vô lí, bất công

của người chỉ huy với chiến sĩ cho đến chuyện người chỉ huy trong Lí sự

người đời luôn cho mình là đúng và luôn đuối lí trước cấp dưới, mỗi sự kiện

như một mẩu hài kịch phơi bày rõ nét chân tướng của nhân vật.

Chuỗi sự kiện thứ hai của cốt truyện lại gắn với quan hệ giữa những

người lính với nhau. Cùng đơn vị, trong khi Rãng luôn chu đáo, biết lường

trước nên luôn làm tốt nhiệm vụ, thì Bành lại cẩu thả trong công việc. Vì làm

hỏng, làm sai nên buộc Bành phải sửa, và vì nhiệt tình sửa chữa nên Bành lại

được khen, được coi là có chiến công. Thảnh cũng vậy, anh hoàn thành tốt

nhiều nhiệm vụ nhưng mãi vẫn cứ lẹt đẹt là tiểu đội trưởng, trở thành “mũi

nhọn” để chỉ huy dùng vào những nhiệm vụ khó khăn. Ngược lại, Lịch vì

thường xuyên vi phạm nên bị chỉ huy “đá hất” lên trên cho đỡ ảnh hưởng đến

đơn vị. Anh ta nghiễm nhiên trở thành cán bộ. Với kiểu cốt truyện như thế,

Vũ Bão đã chỉ ra những biểu hiện tiêu cực, bất công. Nhà văn dùng tiếng cười

để lật đổ những cái vốn được coi là những chuẩn mực mà bấy lâu người ta

vẫn tôn sùng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 65

Một trong những truyện ngắn có kiểu cấu trúc tương phản rõ nét nhất

trong truyện ngắn Vũ Bão là Chương cuối của một mối tình. Theo diễn biến

của cốt truyện, tính chất đối lập được thể hiện trong nhiều mối quan hệ. Trước

hết đó là mâu thuẫn trong quan hệ giữa Lộc và vợ. Trong khi Lộc là người

thực tế, có lối sống tự do thì vợ Lộc lại là người luôn gò mình tôn sùng chủ

trương, chính sách bất kể những chủ trương ấy vênh lệch như thế nào với hiện

thực. Vợ Lộc luôn đứng trên lập trường cách mạng, nên những điều đài nói,

chị cho là đúng hết mặc dù thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Còn Lộc thì khác,

anh chỉ tin vào thực tế, tin vào những gì tai nghe mắt thấy. Từ chuyện đài ca

ngợi được mùa đến chuyện nghe nhạc, từ chuyện ghen tuông đến chuyện xem

họa báo, trước sau đều biến thành những cuộc cãi vã nảy lửa giữa hai vợ

chồng. Song hành với chuỗi sự kiện đó là chuỗi tiếng cười hài hước bật ra. Đó

là tiếng cười đầy thâm ý khi Lộc tắt “miếng sắt nói dối”, là tiếng cười đắc ý

khi Lộc xem họa báo in ảnh hoa hậu, là tiếng cười phê phán những chương

trình phát thanh nhàm chán, là tiếng cười cảm thông trước cơn ghen tuông của

người đàn bà,...

Trục tương phản thứ hai của cốt truyện là mẫu thuẫn giữa Lộc với ông

chủ tịch công đoàn, một đại diện của chính quyền khu phố nơi Lộc sinh sống.

Quá chán chường cuộc sống với con “thần nanh mỏ đỏ”, Lộc quyết xin li hôn.

Nhưng nguyện vọng của anh bị từ chối. Bởi vì, như lời ông chủ tịch thì “hai

vợ chồng cùng là đoàn viên, cùng chung lí tưởng”, mâu thuẫn đó có phải là

“mâu thuẫn giai cấp đối kháng đâu”. Để ông chủ tịch phát ngôn, nhà văn giễu

nhại cách giải quyết khô cứng, áp đặt, máy móc của chính quyền với cuộc

sống riêng tư của cá nhân.

Trục tương phản thứ ba trong truyện là mâu thuẫn ngay trong con

người Lộc. Khi được ông chủ tịch công đoàn trẻ tuổi mới nhậm chức động

viên Lộc mạnh dạn li hôn thì đúng lúc đó ông vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ

mời Lộc lên thông báo về việc qui hoạch cán bộ. Lộc sẽ được đề bạt trong nay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 66

mai, cho nên anh không được làm gì để vợ mình “chọc gậy bánh xe” con

đường hoạn lộ. Anh lại thỏa hiệp với chính mình để giữ “ghế”, giữ quạt máy,

xa-lông, cặp da,... mà người ta sẽ cấp cho anh. “Một bên là con đường danh

vọng mở rộng nhưng phải gánh chịu cái án chung thân ở chiếc giường

“chuồng cọp” với con “thần nanh mỏ đỏ”. Một bên là tay trắng với cuộc đời

tự do” [5, tr.165]. Mâu thuẫn trong bản thân Lộc làm bật ra tiếng cười về

những oái oăm trong cuộc sống và về thái độ, cách ứng xử của con người

trong hoàn cảnh như thế.

Bằng cách xây dựng song hành các tuyến đối lập, tương phản, Vũ Bão

không những phơi bày những mâu thuẫn về tư tưởng; phê phán những cách

làm, cách nói, cách nghĩ phi lí, lỗi thời còn tồn tại trong đời sống xã hội, mà

còn tạo nên cái nhìn rõ nét về đối tượng, làm cho tiếng cười trở nên dứt khoát,

mạnh mẽ hơn.

2.3.2. Cốt truyện tăng cấp và kết thúc bất ngờ

Cơ chế hoạt động của kiểu tổ chức cốt truyện này là nhà văn tạo ra

chuỗi các sự kiện nhằm hướng người đọc hình dung đến một kết thúc phù

hợp, logic với diễn biến, nhưng lại kết thúc câu chuyện theo một hướng khác,

gây bất ngờ và tạo được sức hấp dẫn cho câu chuyện.

Thói thường, làm quan càng to thì càng nhiều bổng lộc. Vậy mà trong

Lẽ đời, cái qui luật ấy xem ra có vẻ không đúng. Năm nào cũng thế, mỗi khi

tết đến, ông phó phòng giáo dục huyện nhận được bao nhiêu là quà cáp của

những người đến chạy việc. Năm ấy, ông được làm quan hàng tỉnh, tưởng

rằng tết đến nhà ông phải chật ních người. Nhưng thật bất ngờ, chẳng có ma

nào đến chúc tết ông. Câu chuyện nghe có vẻ phi lí, nhưng ngẫm ra lại hoàn

toàn có lí - cái lí của tư duy tiền bạc, sòng phẳng. Anh giúp tôi, tôi đút lót anh.

Anh cần cho tôi, tôi đến tìm anh. Kết thúc bất ngờ làm người đọc nhếch môi

chua chát cho cái lạnh lùng, bạc bẽo của quan hệ đồng tiền.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 67

Chương cuối của một mối tình cũng là một truyện ngắn tiêu biểu cho

kiểu cốt truyện tăng cấp và kết thúc bất ngờ. Chung sống nhưng hai vợ chồng

Lộc bất đồng quan điểm sâu sắc. Vợ Lộc chỉ tin đài, còn Lộc thì cho rằng đài

toàn nói dối, toàn kể những chuyện nhạt nhẽo chưa nghe hết đã biết kết thúc.

Vợ Lộc chỉ thích nghe kể chuyện cảnh giác, chiến sĩ an ninh kể chuyện còn

Lộc chỉ thích nghe nhạc quốc tế và dò sóng đài nước ngoài. Vợ Lộc coi những

tấm ảnh hoa hậu quốc tế là biểu hiện của “văn hóa đồi trụy” thì Lộc lại ngược

lại. Họ cãi nhau, coi nhau như kẻ thù, sống li thân và đề nghị cả li dị. Người

đọc dễ nhìn thấy kết thúc câu chuyện rằng với một gia đình lục đục, bất hòa

như vậy, gia đình Lộc phải bị phê bình, vợ chồng Lộc phải chia tay. Ấy thế

mà trong dịp tổng kết phong trào thi đua xây dựng phường kiểu mẫu, vợ

chồng Lộc vẫn được công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa mới. Kết thúc

truyện, dù chán chường đến tột độ, Lộc vẫn không muốn chia tay vợ. Như thế,

cái tiêu cực đang núp dưới cái tích cực. Cái danh hiệu đáng cười kia vẫn được

treo trong nhà Lộc để khu phố được treo bảng thành tích có nhiều gia đình

văn hóa mới. Và nỗi bức bối về tinh thần cuối cùng vẫn cứ phải đầu hàng

trước ham muốn công danh, vật chất của chính anh ta.

Chuỗi sự kiện biến giả thành thật trong phần sau truyện ngắn Người vãi

linh hồn cũng là biểu hiện kiểu cốt truyện này. Người ta mô phỏng lại sự kiện

cắm cờ bốt Chè để dựng thành phim. Vĩnh, một anh lính hèn nhát được chọn

làm người cắm cờ. Trong nghệ thuật, đó là chuyện bình thường. Thế nhưng

một chuỗi các sự kiện xảy ra sau đó khiến người đọc bật cười khó hiểu: Tại

bức tường chính giữa ngay cửa phòng truyền thống sư đoàn, chính ủy đã

duyệt cho treo tấm ảnh cắm cờ trên bốt Chè. Rồi nhân dịp kỉ niệm ngày thành

lập Quân đội nhân dân, người ta phỏng theo tấm ảnh đó để vẽ mẫu phát hành

tem. Chưa hết, công ty phát hành sách lại in tấm ảnh đó lên bìa lịch. Hàng

triệu con tem, hàng chục vạn bìa lịch in tấm ảnh Vĩnh phất cờ ấy đã hoàn tất

công việc bôi đen lịch sử. Sự thực lịch sử đã được thay thế bằng thứ ngụy lịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 68

sử. Sau mấy mươi năm, ai cũng tin rằng, cái đồ giả kia chính là đồ thật. Với

kết thúc bất ngờ như vậy, tiếng cười trong truyện không chỉ là tiếng cười phê

phán, mà hơn thế còn là tiếng cười mang tầm khái quát và có tính triết luận

như nhận định của nhà phê bình Hoài Nam: “tiếng cười hài hước của Vũ Bão

đã chạm tới những vấn đề triết luận, và mang tầm của triết luận”. Nói cụ thể

hơn, tiếng cười trong Người vãi linh hồn là tiếng cười khẳng định một thái

độ: sự hoài nghi cần phải có trước lịch sử, thứ lịch sử vẫn được xem như chân

lý tuyệt đối [41].

Bên cạnh những truyện trên, Vũ Bão còn có những truyện mà ở đó, cốt

truyện được tạo thành bởi chuỗi sự kiện tăng tiến, nhưng kết thúc của truyện tuy

chứa đựng yếu tố bất ngờ, vẫn hé lộ hệ quả tất yếu. Yếu tố bất ngờ trong những

truyện như vậy thường mờ nhạt chứ không rõ nét như một số truyện đã đề cập ở

trên. Trong truyện ngắn Bó cỏ dưới mõm ngựa, nhà văn tả lại con đường đi đến

đỉnh vinh quang của cầu thủ bóng đá Lê Doãn. Cứ ra sân là anh ghi bàn thắng.

Người ta vinh danh anh bằng những mĩ từ chứa đầy sự ngưỡng mộ. Dường như,

anh chỉ việc tiến tới bàn thắng thứ 200 để ghi dấu sự nghiệp lừng lẫy của mình.

Nhưng từ khi trở thành một cầu thủ danh tiếng, sự sa đọa đã giết dần Lê Doãn.

Huấn luyện viên, rồi khán giả và cả vợ anh ta mỗi ngày dần nhận ra sự sa sút của

danh thủ ngày nào. Nhưng anh ta không biết, cố tình không chấp nhận sự thật

nghiệt ngã đó, để cuối một trận đấu, Lê Doãn lê bước ra khỏi sân với dòng nước

mắt bẽ bàng. Người đọc cười về lối sống của Lê Doãn, nhưng sau tiếng cười Vũ

Bão dường như còn muốn chuyển tải những thông điệp, qui luật của cuộc sống.

Đó phải chăng là qui luật gieo nhân nào gặp quả ấy; qui luật về sự đào thải; qui

luật về cái tài thường đi liền với cái tật?

Kiểu cốt truyện tăng tiến và kết thúc bất ngờ thường giúp nhà văn tạo

nên những tiếng cười mạnh mẽ, sảng khoái. Tiếng cười cất lên cũng là lúc cái

xấu bị phơi bày một cách rõ ràng, dễ thấy nhất; những qui luật của đời sống

cũng hiện hình một cách sinh động, chân thực nhất. Có thể nói, với kiểu tổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 69

chức cốt truyện trên, truyện của Vũ Bão gần với những truyện tiếu lâm dân

gian như nhận xét của Bùi Việt Thắng: “truyện tiếu lâm có chỗ đứng đặc biệt

trong truyện ngắn (...) Vũ Bão.” [58].

2.3.3. Cốt truyện phân mảnh

Cốt truyện phân mảnh là kiểu cấu trúc phi truyền thống. Ở những

truyện kiểu này, không có mâu thuẫn, xung đột nào được coi là trung tâm, chi

phối đến các nhân vật hoặc thúc đẩy sự vận động của cốt truyện. Truyện được

tổ chức bằng cách sắp xếp những mảnh - những câu chuyện nhỏ đứng cạnh

nhau. Những câu chuyện này thường là cùng chủ đề nhưng nhiều khi không

liên quan đến nhau, không có quan hệ nhân quả xét trong chuỗi sự kiện của

cốt truyện. Chúng có thể tương đồng với nhau về diễn biến, tính chất. Mỗi

mảnh của tác phẩm tương ứng với mỗi mảnh hiện thực đời sống. Đặt những

câu chuyện đó bên cạnh nhau, nhà văn vừa có thể miêu tả những biểu hiện

riêng, độc đáo của đối tượng, vừa có thể khái quát được những vấn đề của xã

hội và con người.

Trong Bút bi hết mực, dễ thấy truyện được tạo thành từ nhiều câu

chuyện nhỏ. Mỗi câu chuyện lại gắn với những nhân vật và tình huống hài

hước khác nhau. Trước tiên là câu chuyện của nhân vật “tôi”. Vốn là người

không biết nấu ăn, nhưng vì thương vợ nên “tôi” hay nhảy vào bếp đỡ đần. Từ

đây, bao chuyện hài hước diễn ra dưới bàn tay nội trợ của “tôi”: nồi thịt kho bị

cháy, mua thịt bò thành thịt lợn sề, nấu cơm bằng nồi cơm điện mà không bật

nút... Trong mắt bà vợ, nhân vật “tôi” tự coi mình là một ông chồng vô tích sự,

không làm được việc gì cho vợ, chẳng khác gì một chiếc “bút bi hết mực”.

Từ chuyện về nhân vật “tôi” và vợ, truyện chuyển sang câu chuyện về

những Đảng viên tham ô, về nhân vật Xe Công. Từ nhân vật này, theo hành

trình đi tìm cách nấu canh hến của nhân vật tôi, Vũ Bão kể những mẩu

chuyện nhỏ về những nhân vật khác. Đó là ông phó tiến sĩ sinh vật học làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 70

trưởng phòng nhuyễn thể ở Viện dinh dưỡng. Ông này học vị rất cao nhưng

mắc bệnh lí thuyết, chỉ chăm chăm vào mớ sách vở; là ông cấp dưỡng khách

sạn, giờ đã là phó giám đốc chỉ biết chế biến món Tây mà không biết chế biến

món ta; là ông giáo sư làng xã cổ chỉ chuyên nghiên cứu tầng vĩ mô mà không

biết tầng “vi mô”; là cô thủ thư máy móc, cứ sách gì liên quan đến hến là cô

ta mang ra hết,... Tuy là những câu chuyện độc lập, nhưng đặt chúng cạnh

nhau, Vũ Bão muốn khái quát một thực trạng đã và đang tồn tại: đó là cách

làm việc máy móc, nặng về sách vở hàn lâm mà thiếu thực hành của một bộ

phận đội ngũ công chức. Đặt trong mạch liên tưởng với câu chuyện về cái vô

tích sự của nhân vật “tôi” ở phần đầu, thực chất những công chức ấy cũng chỉ

là những cái “bút bi hết mực” kém tài, vô dụng.

Cốt truyện Bố con là đàn bà cũng được tạo thành bởi nhiều mảnh, mỗi

mảnh là một số phận. Đó là Ngát với anh chồng có nhu cầu tình dục cao khiến

cô phát sợ. Là Nghinh với anh chồng yếu sinh lí khiến cô lúc nào cũng “rầu

rầu như tàu chuối héo”. Là Ngoan, một cô gái trẻ được coi là nhân tố mới

trong phong trào ba sẵn sàng cần được xây dựng trở thành anh hùng. Là Mì

với tính cách mạnh mẽ, căm thù sự phản bội. Số phận nào cũng chứa trong nó

những bi kịch. Đó là bi kịch của con người cá nhân như Nghinh, Ngát, Mì. Có

thể họ chưa thỏa mãn trong cuộc sống, trong tình yêu nhưng ít nhất họ cũng

có được mái ấm gia đình; cũng đã từng được yêu và bị phản bội. Nhưng bi

kịch của Ngoan lại hoàn toàn khác. Đó là bi kịch của con người tập thể, con

người công dân, bi kịch của con người không được sống là mình. Bốn mảnh

đời tuy chẳng liên quan gì đến nhau nhưng lại hội tụ để cùng khái quát nỗi

đau thân phận, đặc biệt là nỗi đau bị tước đoạt quyền được yêu, được sống với

những nhu cầu chính đáng của con người.

Ông khóc tôi cũng khóc là một truyện ngắn được cấu tạo từ bốn mảnh

ghép về bốn ông bí thư huyện ủy: “Phàm là bí thư tỉnh ủy thì phải thương dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 71

nhưng các ông bí thư tỉnh ủy Sông Ninh mỗi ông lại thương dân một cách

khác nhau.

Ông bí thư tỉnh ủy khóa I thương dân không có điện, đã lên xin trung

ương một nhà máy điện. Công trình vừa cắt băng khánh thành, tỉnh đã cho

một hãng phim nước ngoài thuê nhà máy điện ấy làm bối cảnh để quay trường

đoạn công nhân nổi dậy... Chính vì thế, “nhân dân thành phố Sông Ninh và

bốn xã ngoại thành mới hít mùi bụi than từ ống khói nhà máy thân yêu tuôn

suốt ngày đêm xuống quê hương mình”.

Ông bí thư thứ II thương dân thiếu ngoại tệ mua phân đạm, thuốc trừ

sâu đã phát động cao trào nhặt sắt vụn để xuất khẩu. Một số nhà báo đã phát

hiện có huyện cưa cả cần cẩu, có huyện đã phá sà lan, có huyện còn khiêng cả

tháp pháo trên nóc boong ke đi bán mớ để đổi xe cúp, tivi, viđêô cát sét về

phân phối nội bộ cho các vị chóp bu, mặc cho chúng sinh cấy cày cứ việc

ngâm nhựa sương rồng với mồ hóng để diệt bọ rày.

Ông bí thư thứ III thương dân ngoại thành vào thành phố cứ phải qua

cái cầu cũ kỹ do quân đế quốc sài lang xây dựng từ đại chiến thế giới lần thứ

I, đã ra lệnh xây gấp một chiếc cầu bê tông cỡ lớn. Sau ngày cắt băng khánh

thành, cầu sập làm một máy kéo, một xe Zin, hai lái xe, hai phụ lái và ba

người đi xe đạp lộn cổ xuống sông. Từ đó dân Sông Hinh gọi đó là cây cầu

ma, người ta lại đi cây cầu sắt cũ cho an toàn” [5, tr.81-82].

Ông bí thư hiện tại cũng thương dân, cho xây sân bóng để dân đỡ phải

đi xa. Lại còn “đầu tư” lên hạng cho đội bóng huyện nhà. Nhưng dân thì bức

xúc, la ó. Chỉ có ông ta được ghi thêm vào bảng thành tích cá nhân vì đã làm

rạng rỡ nền thể thao tỉnh nhà.

Bằng bốn mảnh ghép chứa đựng đầy nghịch lí, bốn câu chuyện nhỏ

giúp nhà văn nói lên nhiều vấn đề lớn còn tồn tại trong xã hội đương thời.

Việc mà các ông bí thư làm thật đúng là vì dân. Nhưng đâu có thấy dân được

lợi ích gì, có chăng là hít khói bụi suốt ngày đêm, là thiếu thốn phân bón, là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 72

lộn cổ xuống sông. Người được là các vị chóp bu: được xe cúp, được tivi,

được viđêô cát sét và được nhiều thứ khác! Cái hài, cái đáng cười của các vị

Bí thư bị lộ tẩy chính ở chỗ những mục đích xấu xa lại được che đậy bằng vẻ

bề ngoài tốt đẹp. Đặt trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy vấn đề tham nhũng,

phá hoại của một bộ phận những công chức biến chất mà Vũ Bão đề cập vẫn

còn nguyên tính thời sự.

Có thể nói kiểu cấu trúc cốt truyện có tính mở này tạo cho sáng tác của

Vũ Bão những chuỗi tiếng cười hài hước. Đồng thời giúp nhà văn phản ánh

được sự đa dạng và phức tạp của hiện thực, khái quát được những bức tranh

rộng lớn về xã hội và con người.

Tiểu kết:

Có thể nói, nhân vật, tình huống và cốt truyện là những phương diện

quan trọng tạo nên tiếng cười trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Với

khả năng quan sát, lựa chọn và miêu tả, nhà văn đã dựng lên được những bức

chân dung biếm họa sắc nét và sinh động về con người. Vũ Bão cũng dụng

công, sáng tạo và vận dụng nhiều kiểu tình huống chứa đựng nhiều yếu tố

mâu thuẫn, nghịch dị làm bật lên tiếng cười mang giá trị thẩm mĩ cao. Ở

phương diện cốt truyện, bên cạnh những tác phẩm đi theo lối truyền thống đã

có những tác phẩm mang dấu ấn của sự đổi mới về bút pháp. Sự đa dạng về

cấu trúc cốt truyện đã tạo cho sáng tác của nhà văn khả năng phản ánh và khái

quát những hiện thực rộng lớn về xã hội và con người. Vì thế tiếng cười trào

phúng trở nên đa dạng, giàu sắc thái hơn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 73

Chƣơng 3

GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

MANG TÍNH TRÀO PHÚNG

TRONG SÁNG TÁC CỦA VŨ BÃO SAU NĂM 1986

3.1. GIỌNG ĐIỆU TRÀO PHÚNG

Với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ, giọng điệu được xem là sản

phẩm liên kết giữa các yếu tố nội dung và hình thức tác phẩm văn học, in đậm

dấu ấn riêng của sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Theo Từ điển thuật

ngữ văn học, “giọng điệu là thái độ tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức

của nhà văn đối với hiện tượng được mô tả thể hiện trong lời văn quy định

cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân

sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [22, tr.41]. Nhiều nhà

nghiên cứu cũng thống nhất cho rằng, những tác phẩm có giá trị thường có

sắc thái giọng điệu đa dạng trên cơ sở một giọng điệu cơ bản, chủ đạo. Giọng

điệu góp phần tạo nên phong cách nhà văn và là một yếu tố quan trọng đánh

giá tài năng của từng nhà văn.

Trong tác phẩm trào phúng, giọng điệu luôn gắn với cái hài và thể hiện

cách nhìn thái độ của nhà văn đối với hiện tượng và con người trong đời sống

xã hội. Truyện ngắn của Vũ Bão sau năm 1986 là tập hợp của nhiều giọng

điệu khác nhau, nhưng nhìn một cách tổng thể, chúng tôi thấy nổi bật hơn cả

là những kiểu giọng điệu sau đây:

3.1.1. Giọng trào phúng - phê phán

Không giống như giọng châm biếm sắc bén, quyết liệt của một số nhà

văn hiện đại khác, giọng điệu hài hước của Vũ Bão thường nhẹ nhàng như

ông từng tâm sự: Truyện của tôi “hài hước, nhưng không hề hằn học, ác ý hay

chửi đổng” [41]. Nhưng không vì thế mà tính phê phán trong truyện ngắn của

nhà văn giảm đi. Nó không ồn ào, trực diện kiểu vỗ mặt mà ẩn sau những lời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 74

văn thâm thúy, thấm thía. Tác phẩm của Vũ Bão sau năm 1986 hầu hết không

ít thì nhiều, đều chứa trong nó giọng điệu hài hước phê phán. Dùng tiếng

cười, Vũ Bão lần lượt giật đổ, giải thiêng những tín điều, những thần tượng đã

trở nên lỗi thời, cản trở sự tiến bộ của con người và xã hội.

Giọng điệu hài hước phê phán thường được thể hiện rõ nét nhất trong

những truyện viết về những tệ nạn. Trong nhiều truyện viết về giới công chức,

trí thức, bằng giọng châm biếm, Vũ Bão không ngần ngại vạch trần bản chất

bất tài và đầy thói xấu của chúng. Đó là những cố máy đã hao mòn mà vẫn

bám chặt lấy cái ghế vì mục đích riêng: “Tôi sinh năm 1933, năm này đến

tuổi về hưu nhưng ông giám đốc sở sinh năm 1932 cũng đang thích nằm lì

một năm nữa chờ thằng út tốt nghiệp đại học Nông nghiệp ra trường, ông sẽ

đưa về đây. Ai lại muối mặt đẩy thằng 60 về còn thằng 61 ở lại, cánh báo chí

nhân dịp đó làm một loạt bài chó già giữ xương thì ê mặt với hàng tỉnh. Ông

bèn vận dụng chính sách gì đó để giữ tôi lại (...). Thế là tôi được ở lại” (Bút bi

hết mực) [5, tr.245]. Vì lợi ích cá nhân của một người, “cả một lô theo nhau”

chà đạp lên những qui định của nhà nước. Một cái tiêu cực này làm nảy thêm

ra những tiêu cực khác. Có những lúc, ngòi bút của nhà văn lách sâu vào đời

sống tha hóa của một bộ phận những ông cốp quan hệ bất chính với những cô

thư kí biết khai thác “vốn tự có” [5, tr.252]. Trong truyện Ông khóc tôi cũng

khóc, tả tâm lí ông Cống, giám đốc sở thể dục thể thao sau khi đội bóng

huyện nhà thăng hạng A1, Vũ Bão hài hước: “Các cụ ngày xưa tốn khá nhiều

giấy mực để chứng minh tiền là tờ hóa đơn mua được mọi thứ trên đời trừ

hạnh phúc, tiền là giấy thông hành đi khắp nơi trừ lên thiên đàng. Bằng kinh

nghiệm 40 năm hoạt động của mình, ông Cống cũng chứng minh được rằng,

tiền là tờ hóa đơn có thể mua được mọi thứ kể cả trọng tài, tiền là giấy thông

hành có thể đi khắp nơi, kể cả vòng chung kết” [5, tr.88]. Đặt bên cạnh tiền,

thành tích thể thao bỗng trở thành cuộc chạy đua của vật chất. Mỗi thành tích

là một đống tiền.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 75

Trong Phó tiến sĩ không hữu nghị, Vũ Bão lại châm biếm một hiện

thực khác. Đó là những ông phó tiến sĩ tiếng là sang Nga học tập, nhưng thực

chất chỉ lo tìm cách ở lại đi buôn: “Tôi chắc chắn thằng Bằng sẽ ở lại tiếp tục

hoạt động không mệt mỏi cho tình hữu nghị giữa các dân tộc trên lĩnh vực

trao đổi hàng hóa giữa các nước Đông Nam Á và Cộng hòa liên bang Nga”

[5, tr.145]. Kiểu giọng bỡn cợt, phê phán như thế khiến cho thần tượng tiến sĩ

vốn được người đời trọng vọng bỗng sụp đổ, chỉ còn là một tay buôn không

hơn không kém.

Vẫn là giọng châm biếm với thái độ bình thản, Vũ Bão còn khái quát

những thực trạng nhức nhối, những chuyện đáng cười trong xã hội đương

thời. Đó là cả một trung tâm được lập ra chỉ để phục vụ lợi ích của một số cá

nhân: “ Chẳng qua các ông ấy lập ra cái trung tâm thông tin ấy chỉ để gửi con

cháu trú chân chờ đi nước ngoài chuyến nữa hoặc nhảy sang chỗ khác lắm

màu hơn” (Nhà trẻ không có bô) [5, tr.271]. Đó là những tờ báo tỉnh được ủy

ban nhân dân trợ cấp “cứ lấp đủ bài là ra”, không đếm xỉa gì đến chất lượng

(Nợ đời). Đó là những nhà đài với những tuyên truyền xa rời thực tế, lạc hậu,

công thức, máy móc (Chương cuối của một cuộc tình)...

Ở một số truyện khác, giọng hài hước phê phán được sử dụng như là

một thứ ánh sáng cực mạnh để chiếu vào những góc tối, hạ bệ những những

cái lố bịch, gian dối đang tồn tại, núp trong những vỏ bọc đẹp đẽ bên ngoài.

“Ở bên Anh, làm sao người ta biết được nó (nhân vật Vĩnh - NV) đã vãi linh

hồn trong trận đánh bốt Chè. Cái quần trong phim là cái quần khác đấy”

(Người vãi linh hồn) [5, tr.201]. “Cái quần ướt nước tiểu (có thứ mùi chắc

không thơm tho gì) đã bị tước bỏ hoàn toàn sự tồn tại vật chất của nó. Sự thật

hèn mọn bị tẩy trắng, xem phim, người ta chỉ còn thấy toát lên bừng bừng

phẩm cách anh dũng của người chiến thắng mà thôi. Nói cách khác, cái quần

trong bộ phim tài liệu lịch sử là cái quần giả, và lịch sử ở đây cũng là lịch sử

giả, thứ lịch sử đã bị nhào nặn một cách thô bạo” [41]. Cùng một vấn đề lịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 76

sử, trong Trời có mắt giọng điệu tuy hài hước nhưng đã có phần quyết liệt

hơn: Chiếc xe tăng 390 húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập, “bao nhiêu người đã

nhìn thấy (...) nhưng lại sợ cái gì không biết đành cắm đầu nhận của giả là của

thật rồi làm cho hàng mấy chục triệu người cả tin cứ tưởng cái của giả ấy là

của thật” [5, tr.316]. Bằng giọng điệu hài hước - châm biếm, Vũ Bão đã lật

tẩy và lên án trò “ăn gian nói dối”, sự vô trách nhiệm đối với lịch sử của

những người cầm quyền.

3.1.2. Giọng trào phúng - xót xa, phẫn uất

Về cơ bản, giọng điệu trong truyện ngắn Vũ Bão là giọng phê phán.

Tuy nhiên nhiều khi tuỳ thuộc vào đối tượng phản ánh và thái độ cảm xúc mà

người đọc còn nhận thấy ở Vũ Bão chất giọng chua xót và phẫn uất. Cuộc

sống có nhiều điều đáng cười song cũng không thiếu những điều khiến người

ta cười xong còn sót lại cả dư vị chua chát, xót xa. Nhà văn không chỉ đem

đến cho người đọc một hiện thực như nó đang tồn tại mà còn cố gắng diễn tả

chúng bằng giọng điệu phù hợp.

Trong Rễ bèo chân sóng, ở những đoạn viết về đồng nghiệp, giọng văn

của Vũ Bão rất hài hước, bông đùa mà ngẫm ra lại thấy xót xa. Đó là lúc Vũ

Bão được làm phóng viên đi viết về cải cách ruộng đất gặp Xuân Diệu đang

“bắt rễ xâu chuỗi” ở làng Còng; vốn hâm mộ nhà thơ trữ tình nổi tiếng, thấy

Xuân Diệu “ba cùng” hàng ngày chỉ ăn sắn, khoai... nên có lần Vũ Bão rủ

Xuân Diệu mò đến quán một bà già ở làng bên để tránh những cặp mắt dò xét.

Dù vậy, nhà thơ lớn vẫn sợ phạm kỷ luật “ba cùng” vì tìm quà ăn thêm, dù Vũ

Bão đã bóc sẵn bánh và sẵn sàng nhận “tội” chủ mưu: “Trông anh thật tội, cứ

ngần ngừ không dám vượt khoảng cách tội lỗi từ cái bánh chưng đã bóc trần

trên tay đến cái miệng chuyên ngâm thơ tình”. Ở cái thời đó, ăn một cái bánh

chưng đã là cả một vấn đề! Đáng cười mà chảy nước mắt hơn nữa là khi nhà

thơ lớn nhờ Vũ Bão đưa bài thơ mới sáng tác về đăng báo: “Đấu thằng đầu sỏ

vừa xong/ Gặp kỳ giáp hạt, làng Còng gieo neo/ Trong thôn đa số dân nghèo/

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 77

Sắn ăn thay bữa, ngô nhiều hơn cơm...”. Vũ Bão hỏi nhà thơ Tổng Biên tập

Bùi Hạnh Cẩn: “Sao dạo này nhà thơ Xuân Diệu làm thơ không hay như hồi

“Yêu là chết ở trong lòng một ít” anh nhỉ?” Trả lời: “Anh ấy đang lột xác để

trở thành nhà thơ của công nông binh” [47].

Trong Bố con là đàn bà, kể chuyện chọn chồng cho Ngoan, một cô gái

là điển hình tiên tiến, Vũ Bão viết: “Một anh thanh niên chưa vào Đảng yêu

chị ư? Vợ là Đảng viên, chồng là quần chúng, làm sao giúp đỡ cho vợ tiến bộ

được? Một anh vừa đệ đơn ra tòa xin li hôn ư? Thì anh ấy vì mê Ngoan mà bỏ

vợ, sau này gặp cô gái nào ưng ý hơn cũng đòi bỏ Ngoan. Gia đình lủng củng

như vậy, làm sao Ngoan có thể yên tâm công tác? Một anh là cháu ngoại ba

đời cường hào. Càng không nên. Một anh khác, gia đình chưa chịu vào hợp

tác xã. Gia đình nhà chồng không chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, Ngoan

làm sao trở thành điển hình cho quần chúng học tập được. Một ông góa vợ

đang dắt díu ba đứa trẻ thơ ư? Thế thì Ngoan luấn quấn vào chuyện gia đình,

làm sao cống hiến xứng đáng với vai trò tiên tiến của mình? Khổ thật!” [5,

tr.46-47]. Ngoan là một con người, không những thế cô còn là một cô gái giỏi

giang. Ấy vậy mà Ngoan lại khó tìm được một người “đôi lứa xứng đôi”! Lời

văn của Vũ Bão cứ nâng lên rồi đặt xuống, giống như một lời chất vấn, hơn

thế, là lời phán quyết cho một phận người. “Khổ thật!”, tiếng cười bật ra rồi

chợt lắng xuống nhường chỗ cho nỗi xót xa, tủi hờn của một đời con gái. Với

với người như Ngoan, mãi mãi chỉ là cống hiến, là hi sinh cho lí tưởng mà

thôi. Giống như Ngoan, Ngân trong Nợ đời phải trả cũng là hiện thân của nỗi

đau không nói thành lời. Mượn một khái niệm tôn giáo (duyên, nợ), nhà văn

đã giải thích bi kịch cuộc đời của Ngân. Ngày từ biệt gia đình vào tề làm công

tác địch vận, Ngân ngậm ngùi nói với em trai: “Em còn bé, em lại là con trai,

em không hiểu trong kháng chiến lứa tuổi của chị có cái mất đi là mất hẳn

không cái gì bù đắp lại được” [5, tr.28]. Xem xét trên quan điểm lịch sử, có

thể khẳng định rằng, ở vào cái thời mà cả dân tộc dồn sức người, sức của để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 78

chống ngoại xâm thì mọi sự hi sinh đều đáng biểu dương, ca ngợi. Nhưng khi

chiến tranh đã lùi xa, nhìn lại cuộc chiến với con mắt nhân văn và tinh thần

dân chủ thì rõ ràng là, lối tư duy đề cao cái “ta” ấy một thời đã giết chết

những gì thuộc về con người cá nhân, thủ tiêu quyền tự do yêu đương, quyền

được hưởng hạnh phúc chính đáng của con người.

Trong loạt truyện viết về người lính, tiêu biểu như Bóng ma đói quê

hương, Trời có mắt, Vũ Bão kể về những con người vừa bước ra khỏi cuộc

chiến sinh tử. Trở về sau chiến tranh với thân thể thương tích “gãy càng mẻ

gáo”, họ cười trong nỗi xót xa khi so sánh mình với những người lính phía

bên kia chiến tuyến: “Châu Nhì chỉ nghĩ bao nhiêu sĩ quan quân đội Sài Gòn

có nợ máu với đồng bào sau ngày hết hạn cải tạo vẫn được chính phủ cho đi

Mĩ theo diện H.O thì ông - một thằng lính bị thương lạc đơn vị chẳng hề gây

tội ác” vậy mà khi trở về quê hương lại bị xua đuổi thậm tệ [5, tr.280-281].

Không những thế, những kẻ bị thương cũng có mấy ai có điều kiện để trở về

chiến trường xưa: “Bọn tù binh Pháp còn có tiền mua vé máy bay đến thăm

Điện Biên, bọn thủy quân lục chiến, bọn lính dù, bọn phi công Mĩ thua trận

vẫn còn có tiền mua vé máy bay sang Việt Nam và ngủ khách sạn, ăn nhà

hàng, đến thăm chiến trường xưa, còn cánh đi B đã có mấy ai có tiền đi thăm

những nơi đã mẻ gáo gẫy càng.” [5, tr.285]. Tiếng cười không át nổi nỗi

chạnh lòng xót xa, buồn tủi. Phải chăng, vẫn còn đâu đó cách đối xử chưa

công bằng đối với những người lính một thời xả thân vì nghĩa lớn?

Cũng liên quan đến sự công bằng trong cách đối xử với những người

lính, từ chuyện mấy thằng ăn trộm, ông hoạn lợn, anh lái đò,.. vì chết đúng

Giờ thiêng mà được làm quan, Vũ Bão liên tưởng đến những cái chết của

đồng đội: “Thế còn chúng tôi, những người lính bỏ cửa nhà ra đi đòi một tổ

quốc nguyên vẹn chẳng lẽ không có giờ thiêng nào hay sao? Có chứ, đó là giờ

G trong chiến dịch (...). Có đứa chết phơi xác trước lô cốt giặc, có đứa được

khiêng về hậu cứ mới chết. Bạn bè tôi đều chết đúng giờ thiêng cả đấy chứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 79

nhưng có đứa nào thành thần sinh Bắc tử Nam đâu. Có ai gom xác họ về quê

cha đất tổ nữa đâu” [5, tr.152]. Giọng văn uất ức, xót xa bởi những người hi

sinh xương máu thì bị đối xử tệ bạc, còn những kẻ khác thì ngược lại, sống và

làm những điều khuất tất trên xương máu những người đã ngã xuống.

Không chỉ là cách đối xử, trong Trời có mắt, Vũ Bão đã viết những

dòng cay đắng về thân phận những anh hùng một thời húc đổ cách cổng dinh

Độc Lập. Đó là Toàn “tông thẳng vào” cổng Dinh ngày nào giờ đang “tông”

vào cuộc sống mưu sinh vất vả. Đó là Phượng, “người lính xe tăng một thời

đứng trên tháp pháo lao vun vút trên đường tiến vào dinh Độc Lập, hiên

ngang nhìn mũi xe trườn lên những bao cát chất đống trên nóc công sự của

giặc nay phải đi cãi nhau với người hàng xóm để đòi lại con vịt của mình mải

đuổi con ngóe đã bị lạc đàn”. Mất hết vịt, anh lại “bước vào đội ngũ những

người đè đầu cưỡi cổ thiên hạ” (nghề cắt tóc - NV) [5, tr.137-138].

Nếu như thân phận con người trong chiến tranh tạo nên giọng xót xa thì

những cái nhố nhăng, tiêu cực trong cuộc sống thời bình lại làm cho giọng

điệu trong truyện ngắn Vũ Bão trở nên hài hước mà bẽ bàng, chua chát. Ngay

buổi đi làm đầu tiên, thái độ của đám nhân viên “con cháu các cụ cả” trong

truyện Nhà trẻ không có bô, làm cho vị giám đốc ngán ngẩm đến tận cổ:

“...hai chục cô, cậu, quần áo đủ kiểu nhơn nhơn bước vào phòng, mặt cô nào

cạu ấy cứ câng câng ra vẻ nhờ họ sinh ra đời mới có cái trung tâm này” [5,

tr.261]. Mà không chỉ bọn hậu sinh, ngay cả phụ huynh của chúng cũng có cái

giọng của một kẻ ý thức về địa vị của mình để tự cho mình cái quyền hách

dịch, trịch thượng với người khác. Đây là một đoạn đối thoại của ông giám

đốc “nhà trẻ” với một “quan bà” vô văn hóa:

“Giọng sặc mùi hách dịch của loại phụ nữ một bước lên bà the thé

trong ống nghe:

- Đồng chí giám đốc đã đến chưa?

- Thưa bà, bà cần gặp giám đốc cơ quan nào ạ?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 80

- Giám đốc trung tâm.

- Thưa bà, trung tâm hợp tác quốc tế, trung tâm dịch vụ tổng hợp, trung

tâm...

- Thông tin.” [5, tr.262,263]

Ở những tình huống như vậy, giọng văn của Vũ Bão rất bình tĩnh,

khách quan nhưng ẩn sau đó là nỗi chán chường, bất bình cho nhân tình thế

thái, cho những kẻ chẳng may có địa vị hèn kém trong xã hội.

Làm giám đốc một trung tâm rặt một lũ dốt nát như thế, ông giám đốc

cay đắng nhận ra rằng, “Cộng sự của tôi gồm các cô cậu như thế thì cái chức

giám đốc trung tâm của tôi chẳng khác gì một giáo viên chuyên sửa bài tập

cho học sinh trường ngoại ngữ” [5, tr.266]. Thật hài hước khi mà giám đốc lại

phải làm thay cho nhân viên! Khi nhân viên mắc lỗi, vẫn biết là cần phải kỉ

luật theo đúng phép tắc, nhưng vì sức ép từ trên xuống nên ông giám đốc vẫn

cứ phải diễn “những việc cần làm ngơ” [5, tr.270].

Bên cạnh giọng hài hước - xót xa, có những khi giọng văn của Vũ Bão

trở nên phẫn nộ, bất bình. Trong Trời có mắt, Vũ Bão phơi bày nghịch lí:

Chiếc xe tăng lập công thì bị cất trong kho. Những người lính anh hùng thì trở

về nhà vật lộn với cuộc sống. Còn kẻ cướp công thì cứ thêm sao thêm vạch.

Lịch sử bị bôi đen, còn người có trách nhiệm vẫn im lặng. Sự giả dối tồn tại

đã quá lâu, quá lớn khiến cho những người tôn thờ sự công bằng trở nên bất

bình: “Tại sao dưới chế độ tốt đẹp của chúng ta, cái trò ăn gian nói dối ấy lại

ngang nhiên diễn ra dưới ánh sáng mặt trời” [5, tr.309]. Với Vũ Bão, đây là

những lúc nỗi xót xa dồn tụ quá lớn để rồi bùng lên thành cơn giận dữ. Giọng

văn giống như một lời chất vấn quyết liệt. Chất vấn để vạch mặt giả dối. Chất

vấn để bảo vệ công lí, công bằng.

Nói về giọng văn của Vũ Bão, có người nhận xét rằng: ông “kể chuyện

như đùa, như giỡn, như chơi, để đọc xong rồi, cười rồi thì thấy thấm cùng nhà

văn một nỗi buồn trầm lặng” [44]. Nhận xét đó chỉ ra rằng, văn chương Vũ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 81

Bão không đơn thuần chỉ là tiếng cười. Nó là sự kết hợp của cái hài và cái bi,

là kiểu “umua đen” như quan niệm của các nhà phê bình phương Tây.

3.1.3. Giọng trào phúng - giễu nhại

Giọng giễu nhại là sản phẩm của sự bắt chước một hình thức nào đó có

sẵn từ trước rồi mô phỏng lại theo hướng hài hước. Trong văn chương, nhại là

“nói bằng giọng của kẻ khác, nhưng đưa vào lời nói đó một khuynh hướng

chủ nghĩa đối lập hẳn với khuynh hướng của lời người đó. Giọng thứ hai sau

khi chuyển vào trong lời của người khác thì xung đột thù nghịch với chủ nhân

vốn có của nó và buộc nó phục vụ trực tiếp cho các mục đích đối lập của

mình. Lời nói trở thành vũ đài vật lộn của hai giọng” [38, tr.136]. Giọng điệu

giễu nhại biến những gì ngay ngắn trở thành vênh lệch, trang nghiêm trở

thành suồng sã tạo nên tiếng cười sảng khoái cho người đọc.

Khảo sát truyện ngắn của Vũ Bão sau năm 1986, chúng tôi thấy giọng

điệu nhại xuất hiện với những biểu hiện tương đối đa dạng. Một câu nói vốn

tường minh, nhưng qua giọng nhại của Vũ Bão lại hàm chứa thái độ châm

biếm nạn chạy điểm và sự tha hóa đạo đức của một bộ phận giáo viên: “Số

thằng Bằng có quí nhân phù trợ. Mỗi học kì, bố mẹ nó lại nhà cô giáo vật đầu

vật tai xin cô nâng điểm để hết học kì II nó được lên lớp. Nó leo được lên cấp

II, bố mẹ nó càng phải chi nhiều phong bì cho Ngày các nhà giáo Việt Nam,

ngày Tết, ngày Quốc khánh, ngày Quốc tế phụ nữ vì mỗi lớp có nhiều thầy

cô, mỗi thầy cô chỉ dạy một hai môn và mỗi lớp lại có một giáo viên chủ

nhiệm (…), nhờ chiến thuật phong bì, thằng Bằng vẫn lên mỗi năm một lớp”

[5, tr.133,135]. Cũng có khi nhà văn nhại một câu nói của cổ nhân: “Người

xưa thường ví thời gian như bóng câu qua cửa sổ, nhưng bóng câu của Chu

Hữu Bằng lại nhảy vào nhảy ra cửa sổ không biết bao nhiêu lần” [5, tr.118].

Lời nhại làm nổi hình nổi nét hành động chạy tuổi của ông phó tiến sĩ Chu

Hữu Bằng. Cái hài hước ở đây chính là ở khả năng siêu việt của ông ta: đoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 82

quyền tạo hóa. Bằng cứ trẻ ra rồi lại già đi, rồi lại trẻ ra,.. để được đi công tác,

được đi học tập ở nước ngoài.

Vũ Bão còn nhại cả ý thơ của các nhà văn, nhà thơ. Trong Nợ đời, nhà

văn nhại ý thơ Tố Hữu làm cho lời nói của nhân vật trở nên vừa sáo rỗng vừa

buồn cười: “Anh muốn để trọn cả trái tim cho em không chia bất cứ một phần

tươi đỏ nào đi đâu hết. Hiên sướng mê cả người đắm đuối nhìn Vọng mà

khen: Trời ơi, anh của em văn nghệ quá. Lúc nào anh phải làm bài thơ không

có phần tươi đỏ nào hết tặng em đi” [5, tr.77]. Có khi giọng nhại của Vũ Bão

lại phảng phất giọng điệu châm biếm của Nguyễn Công Hoan: “Phàm là bí

thư tỉnh ủy thì phải thương dân nhưng các ông bí thư tỉnh ủy Sông Ninh mỗi

ông lại thương dân một cách khác nhau” [5, tr.81].

Châm biếm hành động chơi bời trác táng của Lê Doãn (Bó cỏ dưới

mõm ngựa), Vũ Bão nhại nỗi “vất vả” của chàng cầu thủ nhiều tật này. Sau

mỗi cuộc truy hoan, Doãn trở về nhà “nằm thẳng cẳng như thằng chết rồi,

Yến chỉ thương chồng vì theo đuổi sự nghiệp mà phải hi sinh hạnh phúc gia

đình” [5, tr.107]. Cũng “theo đuổi sự nghiệp”, nhưng là sự nghiệp làm tình.

Cũng “hạnh phúc gia đình”, nhưng là chuyện chăn gối vợ chồng. Lối nhại làm

cho lời văn của Vũ Bão tế nhị mà hài hước.

Trong một số truyện, Vũ Bão đề cập đến chủ trương, chính sách của

nhà nước. Những chủ trương ấy có những lúc bị nhà văn nhại, nhưng không

phải là vì nó sai trái, mà do những kẻ thực hiện làm cho nó méo mó đi. Kết

thúc truyện Nhà trẻ không có bô là lời nhại về công tác cán bộ: “Bây giờ

ngẫm nghĩ lại câu: Sự đời nó thế. Cứ bình tĩnh. Hồi sau sẽ rõ, tôi mới bái

phục ông phó vụ trưởng là người cao thủ có tầm suy nghĩ chiến lược về công

tác cán bộ trong thời đại quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” [5, tr.272]. Tiếng

cười cất lên khi người ta hiểu rằng, cái được gọi là “cao thủ” của ông phó vụ

trưởng không có gì khác là phải biết chấp nhận những “cán bộ” bất tài vốn là

“con cháu các cụ cả”. Trong Người chưa có chiến công, Vũ Bão nhại những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 83

kẻ cẩu thả trong công việc mà lại được coi là có chiến công. Những kẻ vừa

làm vừa bày ra để rồi sau đó quay lại hăng hái năng nổ dọn dẹp cái đống bày

ra của chính mình: “... đồng chí Bành đã nêu cao tinh thần tiến công cách

mạng vọt ra khỏi hầm, lăn lộn giữa bãi bom tìm mối đứt. Không có kìm, đồng

chí Bành đã dùng răng tuốt lớp vỏ nhựa nối hai đầu dây, bom đạn đã băm nát

đoạn dây khá dài, cố co hai đầu dây không được, đồng chí đã dùng răng cắn

hai đầu dây, lấy thân mình làm mối nối, đảm bảo liên lạc thông suốt. Các

đồng chí có quyết tâm học tập tinh thần tiến công cách mạng của đồng chí

Bành không nào?” [5, tr.218].

Trong Utopi - một miếng để đời, mượn lời nhân vật người bố, Vũ Bão

nhại một tư tưởng vốn đã xuất hiện từ lâu và đang trở nên lỗi thời: “Mày cứ

nghĩ mà xem, ai uống nước lã mà chạy công, chạy việc cho mày sang Tây

xem tư bản giãy chết văng cả ti vi, tủ lạnh, máy khâu, đầu đĩa, bàn là, xe máy

ra cho mày đóng thùng mang về nước.” [6, tr.10].

Có thể nói, trước một hiện thực con tồn tại những nghịch lí, tiêu cực thì

nhại là một phương thức đắc lực giúp Vũ Bão thể hiện thái độ của mình.

Giọng nhại chẳng những làm cho lời văn trào phúng trở nên phong phú, sinh

động mà còn giúp nhà văn mở rộng phạm vi phản ánh, kể cả những vấn đề,

những hiện tượng nhạy cảm trong đời sống xã hội.

3.1.4. Giọng trào phúng - triết lý

Hiểu một cách khái quát, giọng triết lí chính là những thông điệp,

những suy nghĩ mà nhà văn đúc kết sau mỗi hiện tượng được nói đến trong

tác phẩm. Những triết lí như thế thường hàm chứa những qui luật nào đó của

đời sống trong một hoàn cảnh, một giai đoạn nhất định.

Thông qua cuộc đời, quan hệ và cách ứng xử của nhân vật, nhà văn gửi

gắm những suy ngẫm về cuộc sống và con người. Đó có thể là gửi gắm gián

tiếp thông qua hình tượng, cũng có thể là gửi gắm trực tiếp thông qua những

đoạn trữ tình ngoại đề. Vọng trong Nợ đời, vì lấy văn người khác làm của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 84

mình nên “đời” đã đòi “nợ” anh ta bằng bao nhiêu tiền bạc. “Bây giờ anh mới

hiểu đời chẳng biếu không ai một cái gì. Anh trót dại vốc trộm của đời một

nắm thì đời cũng bắt anh ựa ra trả bằng hết mới thôi. Nếu không thế những

người chân chỉ hạt bột làm ăn thật thà làm gì còn chỗ đứng chân dưới ánh

sáng mặt trời. Trong những món nợ, cái nợ đời bao giờ cũng là cái nợ dai

dẳng nhất, lãi cao nhất và cũng khó trốn nhất. Anh định trốn cửa này, nợ đời

lại đón đầu anh ở cửa khác không cho anh chạy thoát” [5, tr.80]. Giọng triết lí

trong đoạn ngoại đề trên thể hiện quan niệm của Vũ Bão về một chân lí của

cuộc sống: ở đời có vay có trả.

Giọng triết lí trong truyện ngắn Vũ Bão thường xuất hiện ngay sau khi

nhân vật “ngộ” ra điều gì đó. Ý nghĩ của nhân vật và cũng là triết lí có thể

được bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp. Đã có một thời người ta tôn sùng sách,

coi sách là những cuốn cẩm nang vô tận. Nhưng lí thuyết mãi mãi chỉ là màu

xám, còn cây đời mới xanh tươi. Chỉ vì cái tên không có trong từ điển mà

Chình mấy phen bị cấp trên làm khó. Nhưng rồi cuối cùng anh cũng lấy lại

được cái tên của mình. Ở đời có những người “suốt đời sợ sai sách mà chẳng

bao giờ lo sách cũng có lúc sai” [5, tr.168]. Triết lí ấy một lần nữa được đúc

kết khi nhân vật “tôi” trong Bút bi hết mực, sau hành trình vất vả tìm kiếm

cách nấu canh hến đã “ngộ” ra: “Thì ra trên đời này vẫn còn vô vàn thứ

chuyện không hề có trong trang sách nào” [5, tr.258].

Cũng có khi giọng triết lí lại được nhà văn thể hiện gián tiếp thông qua

hình tượng có tính ẩn dụ. “Cái bút bi hết mực muốn viết thành chữ chỉ còn

mỗi một cách phủ thêm tờ giấy than lên trên tờ giấy trắng. Chẳng lẽ cả đời

người tôi vẫn phải sống nhờ người khác hay sao?” [5, tr.259]. Với hình tượng

chiếc bút bi hết mực, Vũ Bão hướng ngòi bút châm biếm loại người mà sự tồn

tại của nó là hoàn toàn vô nghĩa lí. Đó loại người vô dụng, bất tài. Chúng tồn

tại được là nhờ sống dựa, sống kí sinh vào người khác. Cũng giống như thế,

bằng hình tượng một cỗ máy, nhà văn phê phán lớp trí thức được đào tạo một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 85

cách “hữu nghị”, tụt hậu và trở thành những kẻ bất tài: “Chu Hữu Bằng chỉ là

một cố máy mới ra lò nhưng lại được chế tạo theo mẫu thiết kế cổ xưa nên

vừa khai sinh đã bị vô hiệu hóa bởi một cái máy đời mới chế tạo theo mẫu

thiết kế hiện đại, có công suất cao gấp bội. Dù còn nguyên đại nguyên kiện,

cỗ máy cổ xưa chẳng còn có ích cho người đời” [5, tr.130-131]

Đọc truyện ngắn Vũ Bão, chúng tôi thấy đâu đó phảng phất tư tưởng

Phật giáo và yếu tố thần linh. Tuy nhiên những tư tưởng đó không còn thuần

nguyên thủy mà chỉ là cái vỏ bên ngoài để nhà văn phát biểu những triết lí về

cuộc đời. Có thể kể ra đây những truyện như Nợ đời, Nợ nần kiếp trước, Giờ

thiêng, Trời có mắt. Trong truyện Nợ nần kiếp trước, nhân vật Ngân đã lí

giải tình yêu của mình dành cho tên đồn trưởng giặc trên tinh thần triết lí nhà

Phật: “Đấy em xem cái số chị nó thế, việc công việc tư gì cũng dang dở. Em

còn bé em chưa biết, kiếp trước mình nợ ai thì kiếp này mình phải trả nợ. Ai

yêu mình tức là kiếp trước người ta nợ mình, kiếp này họ mới trả. Có người

trả thì phải có người nhận” [5, tr.37-38]. Dường như Vũ Bão đang triết lí về

tình yêu. Nợ và trả nợ. Yêu và được yêu. Đó là những thứ tình cảm bản năng,

hồn nhiên và chính đáng của con người, không một thế lực nào dập tắt được.

Dù bị kỉ luật, Ngân vẫn yêu tên đồn trưởng. Hắn chết, Ngân vào chùa đi tu để

bất tử hóa mối tình ngang trái của mình. Với giọng triết lí, Vũ Bão đã khẳng

định và bảo vệ tình yêu chân chính của con người.

Nói tóm lại, giọng điệu trần thuật của Vũ Bão khá linh hoạt với những

sắc thái đa dạng luôn đan quyện, hoà hợp, bổ sung cho nhau tuỳ thuộc vào đối

tượng phản ánh và thái độ tình cảm của tác giả đối với hiện thực và con

người. Sự đa dạng về sắc thái giọng điệu trong đó nổi bật lên chất giọng lúc

thì phê phán, giễu nhại; khi thì xót xa và đầy chất triết lí. Với chất hài hước

nhẹ nhàng, giọng triết lí trong truyện ngắn Vũ Bão sau 1986 không chỉ thể

hiện được chiều sâu tư tưởng tác phẩm, mà còn làm phong phú thêm giọng

điệu, góp phần tạo nên một “nhà văn hoạt kê đa phong cách” [41].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 86

3.2. NGÔN NGỮ TRÀO PHÚNG

Văn học là nghệ thuật ngôn từ, là loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn

ngữ để sáng tạo ra thế giới nghệ thuật. M. Gorki đã khẳng định: ngôn ngữ là

yếu tố thứ nhất của văn học. Từ điển thuật ngữ văn học cũng viết: “ngôn ngữ

là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học, là một trong những yếu tố quan

trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách tài năng của nhà văn” [22, tr.149].

Nhà văn sử dụng ngôn ngữ để sáng tạo nên thế giới nghệ thuật của mình.

Trong văn học trào phúng, ngôn ngữ trào phúng là hiểu một cách đơn giản là

ngôn ngữ nhằm tạo ra tiếng cười, dùng lời nói để châm biếm, giễu nhại một

vấn đề hoặc một hiện tượng nào đó trong đời sống.

Vũ Bão là một nhà văn trào phúng. Chất trào phúng trong truyện ngắn

của ông trước hết bật ra từ hệ thống các từ ngữ được dùng một cách đắc địa,

dựng lại một cách ấn tượng và đầy hài hước chân tướng nhân vật và bản chất

của hiện tượng trong đời sống xã hội. Với sáng tác của Vũ Bão, chúng tôi

không có tham vọng đi sâu vào việc phân tích hình tượng ngôn ngữ mà chỉ

đưa ra những phát hiện của mình về một số đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ

nghệ thuật của tác giả trong việc thể hiện tiếng cười.

3.2.1. Lạ hóa

Lạ hóa là thủ pháp sử dụng ngôn ngữ không theo những qui tắc thông

thường. Ở đây cái quen thuộc được mô tả như cái xa lạ và kì quặc; cái không

bao giờ thấy được miêu tả như cái thường thấy. Nhà văn bằng cách đặt cạnh

nhau những từ, những cụm từ để tạo nên một cách nói mới, có ý nghĩa khái

quát và sắc thái biểu đạt cao.

Những nhan đề truyện như Bố con là đàn bà, Nhà trẻ không có bô,

Người vãi linh hồn là những nhan đề có tính chất lạ hóa. Ở đây các sự vật

hiện tượng vốn không bao giờ đi với nhau lại được đặt cạnh nhau. Bố con là

đàn bà kể về số phận của Ngoan. Không ai tương xứng, không ai dám lấy

một cô gái điển hình tiên tiến nên Ngoan không có chồng. Cô phải tự kiếm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 87

cho mình một đứa con để rồi một ngày, Ngoan phải trả lời câu hỏi của nó về

người đàn ông sinh ra nó: Bố con là đàn bà. Cái lạ hóa của nhan đề đã khái

quát được nỗi cô đơn và bi kịch thân phận của Ngoan.

Nhà trẻ không có bô cũng là một nhan đề lạ. Lẽ thường nhà trẻ nào

cũng có bô. Vậy mà ở cái Viện nghiên cứu ấy cũng có những đứa trẻ: chúng

cũng phải nhờ vào cha để làm bài tập; cũng phải nhờ vào ông giám đốc chữa

bài như một giáo viên. Nhưng chúng là những đứa trẻ to xác đã đến tuổi

trưởng thành nên biết đi toa-lét mà không cần bô. Nhan đề lạ hóa mà hài hước

đã khái quát được thực trạng một bộ phận công chức bất tài, nhờ quan hệ mà

chui được vào cư quan nhà nước.

Người vãi linh hồn lại là nhan đề khái quát sự hèn nhát, bất công trong

hàng ngũ những người lính. Thực tế không có chuyện vãi linh hồn. Trong

truyện của Vũ Bão là chuyện sợ vãi đái ra quần. Kiểu nhan đề này khiến

người đọc liên tưởng đến nhan đề lạ hóa của truyện ngắn Người trong bao

của nhà văn Nga Sê-khốp.

Thủ pháp lạ hóa cũng được Vũ Bão vận dụng trong ngôn ngữ miêu tả.

Đó là tả trận bóng đá vốn đã được hai bên “mua bán”, sắp đặt: “Cả 22 cầu thủ

Sông Ninh và Tam Đảo đều tận tình thi đấu với những pha bóng quyết liệt,

sôi nổi, hào hứng “y như thật”. Hai đội thay phiên nhau hãm thành và dứt

điểm đợt tấn công bằng những cú sút thắm tình hữu nghị vọt qua xà ngang

hoặc chệch cột dọc...”[5, tr.95]. Hay tả một gia đình, không theo cái khẩu hiệu

“Mỗi gia đình chỉ nên có hai con” mà họ sống theo phương châm: “... mỗi

người con chỉ có hai cặp bố mẹ” [5, tr.274]. Hai cặp bố mẹ ở đây là bố mẹ đẻ

và bố mẹ vợ (chồng).

Nhìn chung trong văn Vũ Bão, thủ pháp lạ hóa không được sử dụng

một cách thường xuyên. Tuy nhiên, những đoạn nào được lạ hóa trong truyện

của nhà văn đều gây nên ở chủ thể tiếp nhận “sự ngạc nhiên và hiếu kì trước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 88

một góc nhìn mới, làm nảy sinh một thái độ tiếp nhận tích cực đối với cái

thực tại đã bị lạ hóa kia” (B. Brecht).

3.2.2. Các thủ thuật ngôn ngữ

Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống các phương thức,

phương tiện tạo hình, biểu hiện; hệ thống qui tắc thông báo bằng tín hiệu

thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật nói chung. Ở phạm vi hẹp,

trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ nghệ thuật là hệ thống phương tiện ngôn

ngữ có vai trò truyền tải thông tin, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của độc giả. Đó

là thứ ngôn ngữ được chọn lọc, gọt giũa; được tổ chức, sắp đặt,... từ ngôn ngữ

thông thường, đạt hiệu quả nghệ thuật và giá trị thẩm mĩ cao. Trong truyện

ngắn của Vũ Bão sau 1986, nhìn chung các thủ thuật ngôn ngữ mang tính hài

có thể qui về một số biểu hiện cơ bản sau:

3.2.2.1. Sử dụng liên tƣởng

Phép liên tưởng là cách sử dụng những từ ngữ chỉ những sự vật có thể

nghĩ đến theo một định hướng nào đó, xuất phát từ những từ ngữ ban đầu,

nhằm tạo ra mối liên kết giữa các phần chứa chúng trong văn bản. Trong sáng

tác của Vũ Bão, đặt các đối tượng này trong mối quan hệ liên tưởng, tác giả

thường phơi bày những biểu hiện kệch cỡm, lệch lạc và tiêu cực trong đời

sống và con người.

Khảo sát đoạn văn sau: “Người xưa thường ví thời gian như bóng câu

qua cửa sổ nhưng bóng câu của Chu Hữu Bằng lại nhảy vào nhảy ra cửa sổ

không biết bao nhiêu lần” [5, tr.119]. Dùng hình ảnh “bóng câu” kết hợp với

cụm từ “nhảy vào nhảy ra”, Vũ Bão không chỉ mô tả một cách sống động

hành động chạy tuổi của nhân vật mà còn hài hước hóa một hiện tượng tiêu

cực trong xã hội. Dùng một qui luật bất biến, nhà văn giễu nhại để nói về cái

khả biến. Quyền lực có thể thay đổi qui luật, đi ngược lại những gì tưởng là

bất biến!

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 89

Tương tự như vậy, Vũ Bão liên tưởng phó tiến sĩ Bằng già nua với các

hảo hớn Châu Phi: “Còn các cô gái Nga thì thương anh chàng suốt ba mươi

năm chinh chiến bị suy dinh dưỡng không còn sức thượng đài như các hảo

hớn Châu Phi cùng lứa tuổi” [5, tr.118]. Trong văn cảnh, các từ chinh chiến,

thượng đài, hảo hớn được dùng để nói về một ông già 50 tuổi tạo nên sự đối

lập giữa các bình diện miêu tả, làm nảy sinh tiếng cười hài hước phê phán.

Trong những trường hợp như này, liên tưởng giúp nhà văn khắc họa một cách

cụ thể, rõ nét đối tượng trào phúng.

Trong hồi kí Rễ bèo chân sóng, bên cạnh những trang viết “hiện thực

nghiêm ngặt”, thỉnh thoảng tác giả lại chêm một hai câu liên hệ chuyện đời

nay để chọc thiên hạ. Ví như sau khi kể chuyện bọn “bâu xấu” chôm chỉa ở

đường phố thời xưa, ông liên hệ đến cái hội “bàn tay chìa” bây giờ đã phát

triển đến các ông béo nung núc, có đủ học hàm học vị, mặc complê, cravát, đi

giày da, xách ca-táp bóng lộn”… tranh giành nhau “hộc” đến những chỗ

béo bở dù đã từng chửi thậm tệ bọn đang chi tiền là kẻ thù không đội trời

chung... Một chỗ khác, ông viết: Hồi ấy chưa có Ban Tư tưởng - Văn hóa,

không có ai định hướng tư tưởng cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ tin vào Sấm

Trạng…[47]. Những liên tưởng như vậy giúp nhà văn không chỉ nói được

chuyện mình mà còn nói được chuyện người, không chỉ nói được chuyện xưa

mà còn nói được chuyện nay.

Thủ pháp liên tưởng cũng thường được sử dụng trong tiểu thuyết Utopi

- một miếng để đời. Khi kể về sự kiện Quốc vương và thủ tướng Baloditxtan

khao dân và tổ chức cho cả nước ăn mừng nhân sự kiện chuyến tàu đầu tiên

của đất nước xuất biên, người kể chuyện đã sử dụng một chuỗi các liên tưởng:

Quốc vương Sangxông Đamua và Thủ tướng Iécctơđê Oanxơmo vay tiền

ngân hàng quốc tế khao dân, “không làm lễ hội đóng khố, đội mũ lông chim

hay mặc áo giáp, đội mũ trụ, tay cầm chùy đi hò hét như hóa dại chỉ tổ cho

mấy tay gọi là cai thầu lễ hội thăn đầu, thăn đuôi còn dân thì cứ mốc mép

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 90

chen chúc nhau đi coi cái trò diễn đi diễn lại trong bao nhiêu lần kỉ niệm

Quốc khánh… (...) Nhân dân được một ngày vui chứ không phải ngồi xếp

chân vòng tròn nghe diễn văn phát dài dòng trên máy thu hình...”. Quốc

vương và Thủ tướng chỉ xuất hiện độ một phút trên màn hình và mỗi Ngài chỉ

nói đúng một câu ngắn gọn: “Có dầu thì sẽ giầu”. “Mọi người đều vui vẻ và

không ai làm khổ lỗ nhĩ và đôi mắt của nhau”. [6, tr.198]. Đoạn văn khiến

người đọc liên tưởng đến những trò diễn đi diễn lại đến nhàm chán trong các

hội lễ; đến hình thức đọc diễn văn dài dòng vẫn thường gặp trong các buổi

mitting. Thấp thoáng sau sự liên tưởng là cái cười hóm hỉnh, thái độ phê phán

những cái tưởng là tôn vinh văn hóa nhưng thực ra lại là phản văn hóa.

Những liên tưởng trong truyện của Vũ Bão nhiều khi rất tự nhiên. Nhân

chuyện quay phim về trận đánh bốt Chè năm nào, trong Người vãi linh hồn,

nhà văn liên tưởng đến những trò gian dối trong công tác tuyên truyền:

“...điện ảnh còn gọi là xi-nê-ma, họ tha hồ diễn nhiều trò ma trước mắt tôi.

Cần quay phim chuồng lợn tập thể làng tôi thì người ta đi khiêng những con

lợn xúc của xã viên về trại lợn. Sợ lũ lợn cắn nhau, người ta xát tỏi vào mồm

chúng. Cần quay phim ao cá điển hình của làng tôi, người ta đi mua hàng xảo

cá chép cỡ xắt ba xắt tư đổ vào thuyền nan cứ làm như họ vừa kéo được mẻ

cá dưới ao lên” [5, tr.197].

Có thể nói nhờ thủ pháp liên tưởng, hiện thực trào phúng được mở

rộng. Nhiều đối tượng vốn không liên quan đến nhau đều có thể qui tụ lại

trong trường liên tưởng, tạo ra chuỗi tiếng cười hài hước.

3.2.2.2. Chơi chữ, nói lái

Khảo sát truyện ngắn Vũ Bão, chúng tôi thấy hiện tượng chơi chữ, nói

lái được nhà văn sử dụng tương đối phổ biến. Sự xuất hiện của thủ pháp này

thường làm bật lên tiếng cười, vừa hài hước vừa giàu tính phê phán. Biết

chuyện hai ông già quá tuổi về hưu vẫn tìm cách nâng đỡ nhau để cùng bám

riết lấy cái ghế, mẹ Đốp ha hả cười: “Cụ vụ trưởng tuổi già sức yếu cất nhắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 91

cụ phó tiến sĩ sức yếu tuổi già” [5, tr.122]. Biết chuyện phó tiến sĩ Bằng già

mà vẫn còn muốn ở lại để đi nước ngoài, mẹ Đốp liền “đốp” ngay một câu:

“Nửa mái đầu đã rụng tóc, mắt đã mờ, răng đã long, bút bi đã hết mực còn

tranh đi ra nước ngoài để ăn cái giải gì. Rồi có ngày đi ngoài ra nước” [5,

tr.131]. Hoặc nhà văn tả một loại chè “Thái Đức”, uống vào chỉ có thức đái cả

đêm [5; 235]. Nói lái giúp Vũ Bão tạo nên những khoảnh khắc hài hước, từ đó

chế giễu, phê phán thói tật của nhân vật.

Có khi Vũ Bão lại chơi chữ bằng cách sử dụng từ đồng âm khác nghĩa:

Ông tổ trưởng dân phố luôn ca ngợi sự bổ dưỡng của khoai lang: “Khoai bổ lắm,

sau bữa cơm các cụ vẫn ăn thêm củ khoai. Bà đừng có “xiên tạc” chính sách

lương thực”, mẹ Đốp liền bật lại: “Nhân sâm nam bổ gì, có mà bổ chửng vàng

mắt ra. Chẳng qua các cụ hưởng tiêu chuẩn cao, xơi nhiều sâm nhung gà cá buộc

phải ăn củ khoai cho nó nhuận tràng” [5, tr.116-117]. Hai từ bổ không chỉ giúp

nhà văn tạo ra những mâu thuẫn, từ đó người đọc hình dung ngay được bản chất

của vấn đề, mà còn phê phán lối nghĩ, lối bao biện đáng cười của ông tổ trưởng,

mà còn phơi bày hiện thực cuộc sống còn nhiều thiếu thốn lúc đó.

Trong một số truyện, Vũ Bão thường tạo tiếng cười bằng cách tạo mới

hoặc cắt xén, viết tắt các danh từ, danh từ riêng tạo nên những cách định danh

hài hước về sự vật, hiện tượng, con người. Đó là giải báo chí Gà Rù [5,

tr.126]; là chiếc nồi cơm điện: “điên nặng” [5, tr.249]; gọi tên sự sợ hãi:

“iarơcu” (ỉa ra quần) [5, tr.191]; gọi tên bọn buôn lậu: “đạo quân “bờ lờ” [5,

tr.31]; gọi tên giai cấp tiểu tư sản: “tạch tạch sè” (TTS: tiểu tư sản) [5, tr.25];

gọi tên cơ quan Thể dục thể thao: “TDTT: tự do tùy tiện” [5, tr.87]. Nhà văn

gọi tên người nước ngoài, có khi chỉ là tếu táo, cười vui như giáo sư Dép Lốp,

giáo sư Eritromicin (tên loại thuốc kháng sinh), giáo sư Atnhép, cụ ski, cụ in,

ông ốp, ông ép, bà na, bà va,..., nhưng có khi lại là một thái độ phê phán kín

đáo như giáo sư Lomcomxki [5, tr.119,128].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 92

Cũng có khi nhà văn dùng lối đọc chệch danh từ tiếng nước ngoài để

đánh giá một tờ báo: thuộc loại “mô đen tắt kinh” [5, tr.71]; phiên âm tả một

anh cán bộ trung đoàn: “đeo súng môde, đi xe “xìte”, viết bút pácke” [5,

tr.36]; phiên âm và sắp xếp với mật độ lớn các yếu tố tên nước ngoài giống

nhau [5, tr.139-140]. Có khi nhà văn đặt vào miệng nhân vật người nước

ngoài cách dùng đại từ nhân xưng nhầm lẫn hài hước: “Vinh quang Việt

Nam! Tôi tự hào chúng mày! [5, tr.193]

Nhìn chung cách chơi chữ, nói lái trong sáng tác của Vũ Bão, một mặt

vừa nối tiếp truyền thống của văn học dân gian, mặt khác vừa mang dấu ấn

của thứ ngôn ngữ hiện đại.

3.2.2.3. Các thủ thuật ngôn ngữ khác

Dùng ẩn dụ là một biện pháp tạo tiếng cười của Vũ Bão. Trong truyện

ngắn Nhà trẻ không có bô, nhà văn đã đặt tên cho các cơ quan theo hình thức

ẩn dụ. Đó là Ủy ban chinh phục vũ trụ, Viện nghiên cứu sao Hỏa. Trong cái

Viện to tát ấy, lại toàn là con cháu các cụ cốp. Sự tương phản giữa một bên là

cái lớn lao, là biểu tượng cho sự tiến bộ với bên kia toàn những kẻ dốt nát,

lười biếng làm bật ra ý nghĩa: Chừng nào còn những kẻ như vậy chui vào cơ

quan nhà nước thì chừng ấy đất nước không thể nào vươn xa, vươn cao được.

Hoán dụ cũng được Vũ Bão sử dụng như là một thủ pháp gây cười.

Trong Utopi - một miếng để đời, nhà văn dùng cách nói to tát, trịnh trọng để

tả hành động khiếm nhã, sự ham muốn bất lịch sự của chàng trai làng Chè khi

lợi dụng để hôn cô gái Liên Xô: đáng lẽ chỉ được hôn vào má đáp lễ (phong

tục của người phương Tây - NV), nhưng vì “mót quá không cầm lòng được,

anh cu hôn đại vào môi cô gái Liên Xô những tưởng thành trì cách mạng vô

sản toàn thế giới cũng đánh chữ đại xá cho tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa.

Anh cu không ngờ cô gái Liên Xô tặng anh một cái tát cháy tai và một lời

nhắc nhở: Dân tộc Việt Nam anh hùng tại sao lại đẻ ra một thằng thối tha như

mày?” [6, tr.47].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 93

Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp tu từ, qua khảo sát chúng tôi thấy

Vũ Bão còn hay sử dụng các từ ngữ thông tục, suồng sã để tạo ra hai loại

tiếng cười. Đó là tiếng cười có tính giải trí và tiếng cười có tính phê phán.

Viết về chuyện anh chàng Lịch tán gái trong Lí sự người đời, Vũ Bão

dùng một loạt từ ngữ độc đáo: “Cô dân quân nào đến đây, thằng Lịch Cưa cứ

lao vào như quạ mổ gấc ấy! (...) Hôm cô Quý gánh rau đến, thằng Lịch mải

mê đấu hót làm cháy cả một chảo đậu phụ. Hôm cô Tâm gánh cá đến, thằng

Lịch lao vào cưa làm chảo cơm bị khê. Hôm qua cô Tú gánh khoai tây đến,

thằng Lịch cứ vờn như mèo vờn chuột ấy làm cháy cả một xoong quân dụng

thịt” [5, tr.223]. Ngôn ngữ như thế chẳng những làm bật lên tiếng cười hài

hước mà còn phần nào diễn tả được cái ham hố, đa tình của anh chàng mê gái.

Có khi Vũ Bão còn mạnh bạo sử dụng những từ suồng sã gợi liên tưởng

đến những cái tế nhị, tạo nên cái cười tếu táo xả xì-trét. Đây là một đoạn

tường thuật bóng đá của ông bình luận viên trong truyện Ông khóc tôi cũng

khóc: “- Vào! - Số 10 Sông Ninh như một cơn gió lốc lao theo bóng dùng

chân trái, không anh dùng chân phải, xin lỗi các bạn nghe đài, anh dùng chân

giữa đẩy bóng vào khung thành kết thúc trận đấu đẹp mắt, sôi nổi quyết định

và hào hứng” [5, tr.97]

Tuy nhiên trong một số truyện, từ ngữ Vũ Bão sử dụng không chỉ gây

cười mà còn hàm chứa rõ nét thái độ của nhà văn đối với đối tượng. Tả cái

ham muốn tột cùng của đối tượng, nhà văn rất hay sử dụng từ mót. Đó là phó

tiến sĩ Chu Hữu Bằng trong Hao mòn vô hình “mót” ra mắt quốc dân đồng

bào” nên dám bình luận về cả những cái mình không biết [5, tr.123]; là nhà

văn Anh Hiên trong Nợ đời phải trả “mót” vào Hội nhà văn Việt Nam quá

liền viết như bổ củi rồi quẳng vào báo nhà” buộc tòa soạn phải in [5, tr.75]; là

một trường phổ thông nọ trong Utopi - một miếng để đời “mót” thành tích

nên cho học sinh lên lớp 100% [6, tr.29]. Nhà văn không dùng từ tương

đương như muốn, thèm, thích,... mà dùng từ mót vốn là từ có tính chất suồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 94

sã, chỉ sử dụng trong trường hợp tế nhị. Cách dùng từ như vậy làm cho ước

mơ vốn cao quí, trang trọng, thiêng liêng bỗng xẹp xuống một cách thảm hại,

làm bật ra tiếng cười phê phán những thói tật của đối tượng trào phúng.

Cách dùng từ như thế cũng được Vũ Bão sử dụng hết sức sinh động khi

miêu tả con đường học hành của nhân vật: “Xóm giữa có một tay tối dạ

nhưng nhờ nhà trường mót cái huân chương nên năm nào cũng phấn đấu một

trăm phần trăm lên lớp, cậu ta đã có người đun lên lớp. Từ lớp một đến lớp

chín thì còn được, nhưng khi vào trường THPT, cậu ta phải nghiến răng leo

lên, không thầy bà nào đun lên được, thế là đành tuột xích” [6, tr.29]. Dùng từ

mót trong thế hô ứng với từ đun, Vũ Bão đã tô đậm hiện thực về bệnh thành

tích trong ngành giáo dục: anh cần thành tích, mà thành tích lại trong tay anh

nên cậu học sinh kia dù dốt vẫn cứ phải lên lớp, từng năm một.

Nói ngược cũng là một cách gây cười của Vũ Bão. Trong Utopi - một

miếng để đời, ông chủ tịch lợi dụng chức quyền quấy rồi tình dục cô cán bộ

Đoàn nên bị kỉ luật khiển trách và rút lên làm phó giám đốc Sở Thể dục thể

thao. Bằng thứ ngôn ngữ kết hợp các mệnh đề đối lập, Vũ Bão hài hước:

“Không biết còn ở nơi nào trên quả đất này lại có chuyện làm hàng vạn người

khổ sở sống cảnh màn trời chiếu đất thì không việc gì, nhưng đến khi chỉ làm

cho một người sướng thì lại bị hạ tầng công tác như ở cái huyện tôi.” [6,

tr.46]. Kiểu ngôn ngữ tréo ngoe ấy diễn tả hết sức hợp lí cách làm vô lí của

những người cầm quyền.

Có thể thấy rằng, ngôn ngữ trong truyện của Vũ Bão được dùng một

cách đắc đụng, thường tập trung xoáy sâu vào vào những điểm đen thuộc về

bản chất của đối tượng. Qua đó, nhà văn không chỉ nhằm dựng lại hiện thực

và chân dung nhân vật đúng như nó vốn có mà còn thể hiện thái độ, tinh thần

tiến công vào cái xấu trong xã hội, thể hiện được cá tính sáng tạo của mình.

Tiểu kết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 95

Qua những phân tích trên đây, chúng tôi nhận thấy sự đa dạng của

giọng điệu đã tạo cho sáng tác của Vũ Bão nhiều sắc thái và mức độ trào

phúng. Tiếng cười vì thế cũng trở nên đa dạng, nhiều cung bậc. Ngôn ngữ

nghệ thuật của Vũ Bão là thứ ngôn ngữ không chỉ có tính truyền thống mà

còn có những nét mới mẻ, hiện đại, mang hơi thở của ngôn ngữ của đời sống.

Đó là thứ ngôn ngữ mang đậm chất hài hước, chứa đựng sự thông minh, hóm

hỉnh nhưng không kém phần thâm thuý sâu xa. Cùng với sự đa dạng của

giọng điệu, ngôn ngữ văn chương của Vũ Bão đã góp phần thể hiện tốt nhất

tiếng cười trào phúng của nhà văn trước những vấn đề còn tồn tại của đời

sống và con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 96

PHẦN KẾT LUẬN

1. Có thể khẳng định rằng, từ sau năm 1975, dưới sự tác động của hoàn

cảnh lịch sử, văn học trào phúng Việt Nam lại có điều kiện nở rộ. Đứng trong

hàng ngũ những nhà văn trào phúng, tuy đời văn còn có những thăng trầm

nhưng Vũ Bão là một trong những cây bút để lại những ấn tượng sâu đậm

trong lòng đồng nghiệp và độc giả, đặc biệt là trong mảng sáng tác viết sau

năm 1986. Tác phẩm của ông hài hước, nhưng không hề hằn học, ác ý hay

chửi đổng, đồng thời cổ vũ cho sự công bằng, cổ vũ cho sự thật, như ông từng

viết: “...là nhà văn, đừng bao giờ chỉ viết một nửa sự thật và đừng bao giờ viết

những chuyện không có thật thành chuyện có thật”.

2. Trong xu hướng đổi mới văn xuôi sau năm 1986, Vũ Bão là một

trong những nhà văn mạnh dạn phơi bày sự thật trần trụi của đời sống đất

nước trong thời kỳ trước và sau đổi mới. Bằng bút pháp trào phúng sắc sảo,

ngòi bút của Vũ Bão đã lật tẩy những cái tiêu cực, những tệ nạn của xã hội,

những nguy cơ làm biến dạng và tha hóa nhân cách luôn tiềm ẩn trong môi

trường sống của con người. Vũ Bão cũng phơi bày sự thật trong những góc

khuất của đời sống công chức, trí thức; những mảng tối của các lĩnh vực văn

hoá, thể thao, giáo dục, văn chương nghệ thuật. Từ cái nhìn chân thực như

thế, nhà văn muốn nên lên quan niệm của mình về thế giới và con người. Thế

giới luôn tồn tại những điều bất công, phi lí, tiêu cực. Những tiêu cực ấy tồn

tại ở nhiều lĩnh vực đời sống, ở nhiều giai đoạn lịch sử và nhiều khi nghiễm

nhiên hiện diện như là cái cần phải có, cái nên có trong dòng chảy cuộc sống.

Trên nền hiện thực đó, con người trong sáng tác của Vũ Bão sau 1986 xuất

hiện với bao thói tật đáng cười. Đó chủ yếu là những công chức, trí thức và

người lính. Dù được đặt trong bối cảnh thời chiến hay thời bình, thế giới nhân

vật của nhà văn, bên cạnh một bộ phận những người bình thường và những

người lính thì chủ yếu là những người có quyền lực, địa vị. Ở chúng hội tụ tất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 97

cả những gì xấu xa, đáng lên án. Nói một cách khái quát, Vũ Bão “châm biếm

những thói tật tràn lan trong xã hội, không phân biệt tầng lớp, địa vị, ngành

nghề, vùng đất”.

3. Quan niệm nghệ thuật như thế đã chi phối phương tiện cũng như thủ

pháp nghệ thuật trong sáng tác của Vũ Bão sau năm 1986. Biểu hiện rõ nhất

là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, tình huống, cốt truyện, giọng điệu và ngôn

ngữ nghệ thuật. Nhân vật trong truyện ngắn Vũ Bão hiện diện trong thế giới

nghệ thuật chủ yếu qua những tên gọi có tính hài hước và nhiều khi là những

ẩn dụ về những tiêu cực trong đời sống xã hội. Với khả năng quan sát, lựa

chọn và miêu tả, nhà văn đã dựng lên được những chân dung hài hước thông

qua những biểu hiện vô cùng phong phú của nó. Nhờ cách xây dựng nhân vật

ấy, nhà văn đã tạo nên trong tác phẩm của mình những bức chân dung biếm

họa sắc nét và sinh động về con người.

Vũ Bão cũng dụng công, sáng tạo và vận dụng nhiều kiểu tình huống.

Với tình huống ngẫu nhiên, Vũ Bão tạo kịch tính nhằm lột trần những toan

tính, lừa dối trong tính cách nhân vật. Bên cạnh đó, việc sử dụng những yếu tố

đối lập, trái khoáy trong tình huống nghịch lí làm nảy sinh tiếng cười, giúp

nhà văn phản ánh hiện thực đồng thời thể hiện thái độ, quan điểm của bản

thân. Bên cạnh đó, sự sáng tạo của nhà văn còn thể hiện ở việc xây dựng kiểu

tình huống lật tẩy tính chất vô nghĩa lí của hiện tượng, nhân vật. Mỗi khi tình

huống xuất hiện, cái xấu bị lộn ngược, bị lôi ra giữa thanh thiên bạch nhật và

hiện hình rõ nét với tất cả những biểu hiện đáng cười của nó.

Ở phương diện cốt truyện, nhiều tác phẩm của Vũ Bão vẫn đi theo lối

truyền thống như kiểu cấu trúc cốt truyện tương phản, cấu trúc tăng cấp và kết

thúc bất ngờ. Ở các kiểu cấu trúc trên, sự tương phản và bất ngờ là hạt nhân

giúp nhà văn vạch trần chân tướng của đối tượng trào phúng. Trong khi đó,

mang dấu ấn của sự đổi mới về bút pháp với cấu trúc cốt truyện phân mảnh,

Vũ Bão đã tạo cho tác phẩm của mình khả năng phản ánh và khái quát những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 98

hiện thực rộng lớn về xã hội và con người. Tiếng cười trào phúng nhờ đó trở

nên đa dạng, giàu sắc thái hơn.

Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của Vũ Bão cũng có sự đổi mới.

Giọng điệu hài hước, phê phán, xót xa và cay đắng triết lý vừa như tách bạch

khi gắn với từng đối tượng trào phúng lại vừa đan quyện, xuyên thấm vào

nhau trong mỗi tác phẩm. Sự kết hợp ấy đã tạo ra chất giọng mới mẻ, linh

hoạt, uyển chuyển nhằm chuyển tải tốt nhất thái độ tình cảm của Vũ Bão đối

với từng đối tượng miêu tả, giúp nhà văn khám phá cuộc sống và con người ở

từng cung bậc ý nghĩa trào phúng khác nhau.

Bên cạnh đó, ngôn ngữ nghệ thuật của Vũ Bão là thứ ngôn ngữ không

chỉ có tính truyền thống mà còn có những nét mới mẻ, hiện đại, mang hơi thở

của ngôn ngữ của đời sống. Đó là thứ ngôn ngữ mang đậm chất hài hước, bề

ngoài có vẻ đơn giản nhưng mà giàu ý nghĩa nghệ thuật và giá trị thẩm mĩ.

Cùng với sự đa dạng của giọng điệu, ngôn ngữ văn chương của Vũ Bão đã

góp phần thể hiện tốt nhất tiếng cười trào phúng của nhà văn trước những vấn

đề còn tồn tại của đời sống và con người.

4. Với bản lĩnh, tài năng và tâm huyết của mình, những sáng tác của Vũ

Bão sau năm 1986 đã tạo nên những tiếng cười có ý nghĩa nhân văn - tiếng

cười với vai trò là vũ khí trong đấu tranh xã hội, phủ nhận cái xấu, khiến con

người biết ý thức, cảnh giác và tự thanh lọc tâm hồn mình, góp phần làm cuộc

sống con người thêm tốt đẹp hơn. Bằng tiếng cười, Vũ Bão không chỉ xứng

đáng ghi tên mình vào đội ngũ những nhà văn trào phúng, mà còn có những

đóng góp nhất định cho văn học trào phúng Việt Nam nói riêng và văn học

Việt Nam hiện đại nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb TP Hồ Chí Minh.

2. Thái Phan Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết

Việt Nam đương đại - Tạp chí khoa học, Đại học Huế, số 60.

3. Lại Nguyên Ân (2001), Chống nạng lên đường, Nxb Hội nhà văn.

4. Xuân Ba (2006), Thôi anh Vũ Bão, mưa gió mà chi,

http://www.tienphong.vn/van-nghe/thoi-anh-vu-bao-mua-gio-ma-chi-

45875.tpo, 2/5/2014

5. Vũ Bão (2007), Truyện ngắn chọn lọc Vũ Bão, Nxb Hội nhà văn.

6. Vũ Bão (2007), Utopi - một miếng để đời, Nxb Hội nhà văn.

7. Vũ Bão (2010), Rễ bèo chân sóng, Nxb Hà Nội.

8. Vũ Bão (2004), Tôi viết cái bên trong mình, http://vietbao.vn/Van-

hoa/Nha-van-Vu-Bao-Toi-viet-cai-ben-trong-minh/40048883/105/,

2/5/2014

9. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại - Tạp

chí văn học số 8/1998.

10. Lê Huy Bắc (2004), Truyện ngắn lý luận tác gia và tác phẩm, tập 2,

NXB Giáo dục.

11. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau 1975 (khảo sát trên những nét lớn), Luận án PTS KH Ngữ

văn, ĐHSP Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Bình (2004), Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau

1975, Tạp chí văn học số 3/2004.

13. bloggoldmund.blogspot.com (2012), Văn như Vũ Bão -

http://bloggoldmund.blogspot.com/2012/10/van-nhu-vu-bao.html,

2/5/2014.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 100

14. Đỗ Bảo Châu (2012), Nhà văn Vũ Bão: Làm mưa, làm bão, làm…

giời, http://www.anninhthudo.vn/Blog-nghe-si/Nha-van-Vu-Bao-Lam-

mua-lam-bao-lam-gioi/450940.antdư, 3/5/2014.

15. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho mét giai đoạn văn

nghệ minh hoạ, Báo Văn nghệ số 49,50/1987.

16. Tường Duy (2009), Nhà văn Vũ Bão: Những “nghịch lý” cuộc đời,

http://vnca.cand.com.vn/vi-VN/tulieuvanhoa/2009/3/53606.cand,

3/5/2014.

17. Đặng Anh Đào (1993), Hình thức mới trong truyện ngắn hôm nay,

Tạp chí Văn nghệ số 3/1993.

18. Hoàng Định (2011), Hồi ký của cố nhà văn Vũ Bão: Rễ bèo chân sóng,

http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Van-hoa/530547/hoi-ky-cua-co-nha-

van-vu-bao-re-beo-chan-song, 3/5/2014.

19. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi

mới, Nxb Sự thật.

20. G.N. Pospelov (Chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb

Giáo dục.

21. Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà (2007),

Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh - Nxb Hội nhà văn.

22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển

thuật ngữ văn học - Nxb Giáo dục.

23. Trần Thị Hạnh, Tiếng cười trong “Utopi một miếng để đời” của Vũ

Bão, http://www.cuabien.vn/knowledge/389-tranthihanh.html, 4/5/2014.

24. Võ Thuý Hải (2003), Nhân vật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới,

Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Thu Hằng (2006), Cảm hứng giễu nhại trong sáng tác của

Phan thị Vàng Anh - Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, ĐHSP Hà

Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 101

26. Nguyễn Thị Thuý Hằng (2000), Tiếng cười trong truyện ngắn Việt

Nam sau 1975, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

27. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường vào văn học, Nxb Giáo

dục.

28. Nguyễn Thị Thu Hiền (2006), Nhà văn Vũ Bão như tôi biết,

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail

&id=3852, 4/5/2014.

29. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.

30. Nguyễn Văn Kha (2006), Con người cá nhân trong truyện Việt Nam

sau 1975 (Bình luận văn học), Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP

Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Sài Gòn.

31. Trần Bảo Hưng (2013), Những chuyện không quên về nhà văn Vũ

Bão, http://giaoducthoidai.vn/nhiet-ke/nhung-chuyen-khong-quen-ve-

nha-van-vu-bao-503.html, 4/5/2014.

32. Lazada.vn (2011), Lời giới thiệu tác phẩm Rễ bèo chân sóng,

http://www.lazada.vn/re-beo-chan-song-vu-bao-37067.html, 4/5/2014.

33. Tôn Phương Lan (2005), Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa học xã

hội.

34. Lê Nguyên Long, Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn của

Sekhop và Nguyễn Công Hoan - Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ Văn.

35. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb

Giáo dục.

36. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt

Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy - Nxb Giáo dục.

37. Lê Lựu (2002), Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn.

38. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.

39. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn - Nxb Giáo dục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 102

40. N.T.N (2011), Vũ Bão - cái nhìn biết cười, http://tuoitre.vn/Van-hoa-

Giai-tri/462831/vu-bao-cai-nhin-biet-cuoi.html, 7/5/2014.

41. Hoài Nam (2011), Vũ Bão và tiếng cười triết luận,

http://chungta.com/nd/tac-pham-van-

hoc/vu_bao_va_tieng_cuoi_triet_luan/default.aspx, 7/5/2014.

42. Hoài Nam (2006), Chất hài hước, nghịch dị trong Mƣời lẻ một đêm,

Báo Người đại biểu nhân dân, số ra ngày 25/4/2006.

43. Hoàng Nghĩa Nam (2005), Dịch giả Nhật mang sách và nhuận bút đến

cho từng nhà văn, http://www.tienphong.vn/van-nghe/dich-gia-nhat-

mang-sach-va-nhuan-but-den-cho-tung-nha-van-23179.tpo, 15/5/2014.

44. Phạm Xuân Nguyên (2007), Tâm huyết đời văn của một người thích

đùa, http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/201628/tam-huyet-doi-van-cua-

mot-nguoi-thich-dua.html, 15/5/2014.

45. H.Nhân (2011), Nhà văn Vũ Bão “tiết lộ chuyện riêng”,

http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-vu-bao-tiet-lo-chuyen-

rieng-n20111110071657224.htm, 15/5/2014.

46. Nhiều tác giả (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên.

47. Nguyễn Khắc Phê (2013), Những trang sách chân thực và trào lộng,

http://www.trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=11307&catid=6, 15/5/2014.

48. Trịnh Thanh Sơn (2006), Nhà văn Vũ Bão như tôi biết,

http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=0&c

n_id=14900, 15/5/2014.

49. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học.

50. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử,

Nxb ĐHSP.

51. Bùi Ngọc Tấn (2010), Vũ Bão: một tiếng cười - một dòng cười,

http://buingoctan.wordpress.com, 25/5/2014.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 103

52. Lê Dục Tú (2012), Đội ngũ nhà văn Việt Nam viết truyện ngắn đương

đại, http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/393772/phe-binh-

van-nghe/doi-ngu-nha-van-viet-nam-viet-truyen-ngan-duong-dai.html,

25/5/2014.

53. Hồ Anh Thái (2006), Tự sự 265 ngày, Nxb Hội nhà văn, (tái bản).

54. Hồ Anh Thái (2006), Mười lẻ một đêm, Nxb Đà Nẵng, (tái bản).

55. Hồ Anh Thái (2004), Cuộc đời giống nh­ một cái nhà cười,

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ho-anh-thai-cuoc-

doi-giong-nhu-mot-nha-cuoi-1880042.html, 25/5/2014.

56. Nguyễn Thị Minh Thái: Con mắt xanh, Nxb Hội nhà văn, 1999

57. Đào Duy Thanh: Cái hài -

http://daoduythanh999.blogspot.com/2010/02/cai-hai.html, 2010

58. Bùi Việt Thắng (2013), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ

tích qua truyện Tấm Cám" của G.S Đinh Gia Khánh và vấn đề nghiên

cứu tiến trình văn học qua thể loại,

http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-

nhin-van-hoa/so-bo-tim-hieu-nhung-van-de-cua-truyen-co-tich-qua-

truyen-tam-cam-cua-gs-dinh-gia-khanh-va-van-de-nghien-cuu-tien-

trinh-van-hoc-qua-the-loai, 25/5/2014.

59. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm con người,

Tạp chí Văn học số 6/1991.

60. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực

tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia.

61. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn

học.

62. Phan Ngọc Thư (2007), Để hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm văn

học Việt Nam hiện đại (tái bản lần thứ 2), Nxb Giáo dục.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 104

63. Vũ Thị Thường, Vài cảm nghĩ khi đọc truyện ngắn Vũ Bão,

tieulun.hopto.org, 3/6/2014.

64. Nguyễn Quang Trung (1997), Tiếng cười Vũ Trọng Phụng qua một số

tác phẩm tiêu biểu, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

65. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb Sự thật.

66. vnexpress.net (2004), Nhà văn Vũ Bão chỉ độ lượng khi viết,

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-vu-bao-

chi-do-luong-khi-viet-1880902.html, 16/5/2014.

67. vanchuongviet.org (2007), Kết quả Giải thưởng hội nhà văn Hà Nội

2007,

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tintuc&action=detail&i

d=1439, 16/5/2014.

68. vnexpress.net (2003), Nhà văn Vũ Bão nói về 'sự cười' trong văn

chương, http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/nha-van-

vu-bao-noi-ve-su-cuoi-trong-van-chuong-1878483.html, 6/5/2014.

69. wikipedia.org, Vũ Bão, http://vi.wikipedia.org/wiki/Vũ_Bão, 6/5/2014.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 105