ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
gggg
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRỊNH THỊ THU HẰNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
TRÙNG QUANG TÂM SỬ CỦA PHAN BỘI CHÂU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2012
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TRỊNH THỊ THU HẰNG
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT
TRÙNG QUANG TÂM SỬ CỦA PHAN BỘI CHÂU
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS Nguyễn Hữu Sơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Phan Bội Châu (1867-1940)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa
được công bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trịnh Thị Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn,
Phòng quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên –
Đại học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho em học tập.
Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn, người
trong suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên để em hoàn thành
luận văn này.
Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã hỗ trợ,
động viên và cùng tôi vượt qua bao khó khăn trong quá trình vừa làm vừa học.
Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trịnh Thị Thu Hằng
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục ............................................................................................................. i
MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
NỘI DUNG .........................................................................................................9
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM VÀ VẬN
DỤNG LÍ THUYẾT TỰ SỰ TRONG NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM ..........9
1.1. Về tác giả - tác phẩm Trùng Quang tâm sử ............................................. 9
1.1.1. Vấn đề xác định tác giả ..................................................................... 9
1.1.2.. Về tác giả Phan Bội Châu .............................................................. 10
1.1.3. Vấn đề xác định tên gọi của tác Phẩm ............................................ 16
1.2. Việc vận dụng lý thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm .................... 18
1.2.1. Khái lược về tự sự học .................................................................... 18
1.2.2. Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử với hướng nghiên cứu tự sự học 21
Chƣơng 2. CÁC PHƢƠNG DIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT TRÙNG QUANG TÂM SỬ ................................ 25
2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật ................................................................. 25
2.1.1. Điểm nhìn từ bên ngoài - điểm nhìn chi phối thế giới nghệ thuật
Trùng Quang tâm sử .................................................................................. 25
2.1.2. Cái nhìn của tác giả về quá khứ và mối quan hệ với hiện tại ......... 28
2.2. Tổ chức nhịp điệu trần thuật .................................................................. 32
2.2.1. Phối hợp các thành phần mang tính động và tĩnh trong trần thuật . 32
2.2.2. Tổ chức các yếu tố thời gian ........................................................... 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.3. Nghệ thuật kết cấu ................................................................................. 38
ii
Chƣơng 3. HƢ CẤU – MỘT YẾU TỐ ĐẶC SẮC TRONG CẤU
TRÚC TỰ SỰ CỦA TRÙNG QUANG TÂM SỬ ......................................... 41
3.1. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử ............................................................ 41
3.1.1. Hư cấu nghệ thuật và mối quan hệ với tính chân thực lịch sử ........ 41
3.1.2. Về hai khuynh hướng lịch sử hoá tiểu thuyết và tiểu thuyết hóa
lịch sử ........................................................................................................ 48
3.2. Nghệ thuật hư cấu trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử .................... 50
3..2.1. Hư cấu nhân vật .............................................................................. 50
3.2.2. Hư cấu sự kiện ................................................................................. 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 73
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trùng Quang tâm sử hay còn gọi là Hậu Trần dật sử là cuốn tiểu
thuyết bằng Hán văn của nhà văn, nhà chí sĩ Việt Nam Phan Bội Châu, được
viết theo thể chương hồi. Tác phẩm phản ánh những biến cố, thăng trầm của
một giai đoạn trong suốt chiều dài của tiến trình lịch sử Việt Nam, gắn liền
với người anh hùng Trần Quý Khoáng, đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên
chống quân Minh xâm lược đời Hậu Trần – thể hiện khát vọng độc lập, tự do,
bình đẳng, đồng thời, khẳng định sức mạnh hào hùng, vô địch của truyền
thống đoàn kết chống lại ách thống trị của ngoại bang.
1.2. cuốn tiểu thuyết ra đời đã có những đóng góp to lớn về nội dung
và nghệ thuật vào nền văn học trung đại Việt Nam nói chung và văn xuôi
Việt Nam nói riêng. Trùng Quang tâm sử đã đánh dấu một bước phát triển
và hoàn thiện của thể loại tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam, bằng
lối văn mới mẻ, trong sáng. Cùng với sự du nhập của văn học phương Tây
qua “cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”
(chữ dùng của Hoài Thanh) của xã hội Việt Nam thời kỳ bấy giờ, những
thành công của thể loại tiểu thuyết này, đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại các giai đoạn tiếp sau.
1.3. Trùng Quang tâm sử chứa đựng một hệ thống nghệ thuật đa dạng,
tiêu biểu hơn cả là nghệ thuật tự sự được tác giả thể hiện rất thành công trong
quá trình xây dựng tác phẩm.
Trùng Quang tâm sử là một tác phẩm đặc sắc của Phan Bội Châu về
nhiều phương diện. Nhưng trên thực tế, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên
sâu về tác phẩm này. Đặc biệt là phương diện nghệ thuật tự sự của tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thiển nghĩ, chỉ có thể hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo và toàn diện về cuộc
2
đời, sự nghiệp của Phan Bội Châu và tác phẩm Trùng Quang tâm sử một khi
việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề này được chú trọng đúng mức.
2. Lịch sử vấn đề
Trùng Quang tâm sử có giá trị nhiều mặt về lịch sử cũng như văn học,
nhưng từ ngày được “sinh ra”, “nó đã ngủ một giấc dài, có hơn nửa thế kỷ” –
lời của Đặng Thai Mai [76,217]. Trong những năm gần đây, khi mảng tiểu
thuyết lịch sử bắt đầu được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, Trùng
Quang tâm sử đã và đang thu hút được sự chú ý nhiều hơn. Nhưng nhìn
chung, các nhà nghiên cứu chỉ mới đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể như: kết
cấu, ngôn ngữ, nhân vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật... Do
vậy, còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục được giải quyết. Có thể dẫn
chứng một vài ví dụ như sau:
Về tác giả của Trùng Quang tâm sử, lúc đầu vẫn còn nhiều nghi ngờ,
nhưng qua nhiều phân tích, khảo cứu các cứ liệu khoa học, cuối cùng Đào
Duy Anh đã đi đến kết luận qua lời “Tựa” trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập
(tập 4): “đó là một bản tiểu thuyết do Phan Bội Châu sáng tác” [75,9]. Trong
hoàn cảnh lịch sử chính trị lúc bấy giờ, dựa vào nội dung cũng như hình thức
thể hiện, có thể khẳng định Phan Bội Châu chính là tác giả của Trùng Quang
tâm sử. Bởi lẽ, bút pháp của tác phẩm đã không còn giống cách viết của các
tiểu thuyết chương hồi ngày trước như Hoàng Lê nhất thống chí, An Nam
nhất thống chí… Mặt khác khi đọc tác phẩm này, như Đặng Thai Mai nhận
định: “người ta phải nghĩ đến, phải nhớ đến lối văn của Lương Khải Siêu và
các đồng chí của Lương trong các tập “tân thư” Trung Quốc [75,12].
Về thời gian ra đời và bắt đầu được đăng của Trùng Quang tâm sử,
trong cuốn Trùng Quang tâm sử (tiểu thuyết), Ngô Văn Bách dịch, Tôn
Quang Phiệt hiệu đính (xuất bản năm 1971), theo Đặng Thai Mai qua bài viết
“Cùng bạn đọc”, tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử: “được đăng từ số 8 (tháng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1 – 1921) đến số 132 (tháng 4 – 1925), ở đầu bài có ghi: “Trùng Quang tâm
3
sử, bG trước, Hiến Hán dịch” [7,8] trên Binh sự tạp chí ở Hàng Châu, Trung
Quốc. Nhưng chữ Bg có nghĩa là gì thì chưa có một đáp án chính xác. Cũng
có thể đó là một “thủ thuật” để gây nên sự tò mò, chú ý ở người đọc, hoặc để
che mắt bọn thực dân Pháp. Xét về mặt nghệ thuật, Phan Bội Châu đã có
nhiều sáng tạo hơn, tuy nhiên, văn chương của ông ít nhiều vẫn còn ảnh
hưởng tiểu thuyết chương hồi cổ điển, đúng như Đặng Thai Mai nhận xét:
“văn tự sự thỉnh thoảng được viền mép với những “mẫu” phong cảnh trong
những câu văn, thể biền ngẫu mỗi đoạn vài ba chục chữ, như ta đã từng đọc
trong các truyện Tây du Tam quốc”[7,18]. Trong bài viết “Cùng bạn đọc” của
cuốn Phan Bội Châu toàn tập (tập 4), Đặng Thai Mai đồng ý với Đào Duy
Anh cho rằng: Nó được viết vào khoảng trước hoặc sau năm 1900 một hoặc
hai năm. Mặc dù tập “dật sử” chưa thoát khỏi khuôn sáo của văn chương “nhà
trường”, có những câu văn biền ngẫu, với nhiều đoạn miêu tả phong cảnh,
nhưng tác phẩm đã có những nét mới, ảnh hưởng của văn chương tân thư. Có
nghĩa là, cụ Phan đã sử dụng ngôn ngữ hiện đại của nước ngoài để bộc lộ tư
tưởng, tình cảm của mình.
Trong bài nghiên cứu “Về tác phẩm của Phan Bội Châu; Trùng Quang
tâm sử hay Hậu Trần dật sử?”, Chương Thâu lại cho rằng ý kiến của Đặng
Thai Mai về năm ra đời của Trùng Quang tâm sử là chưa chính xác. Đúng
như tác giả bài viết nhận xét: “văn cụ hồi này rất nặng nề phong khí của kinh
truyện. theo lối bát cổ, biền ngẫu lắm điển cố sâu xa, cú, từ đối nhau chan
chát” [75,24-25]. Ngoài chủ trương hành động của nghĩa quân Trùng Quang
cũng gần giống với Duy Tân hội nên Chương Thâu khẳng định: “quyển Trùng
Quang tâm sử phải viết sau khi có Duy Tân hội” [75,26]. Hơn nữa, trong
Trùng Quang tâm sử, Phan Bội Châu lại đề cập đến những vấn đề “bình
đẳng”, “dân chủ” và vai trò của người phụ nữ được sánh ngang hàng với nam
giới, thậm chí được coi trọng. Trong khi đó, Phan Bội Châu trước và sau khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
xuất dương vẫn còn mang nặng tư tưởng quân chủ, chưa thoát ra khỏi đạo
4
“trọng thần, hiếu tử”. Vì thế, Chương Thâu xác định, cụ Phan viết Trùng
Quang tâm sử vào những năm 1917 – 1918, là thời kỳ cụ bắt gặp tư tưởng của
cách mạng tháng 10 Nga lan sang Trung Quốc.
Qua đó, có thể thấy rằng, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về thời
gian ra đời của Trùng Quang tâm sử, nhưng điều đó không ảnh hưởng nhiều
đến những giá trị đích thực mà tác phẩm mang lại cho nền văn học trung đại
Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Mặc dù thuộc thể loại
tiểu thuyết chương hồi, nhưng theo nhận xét của Chương Thâu, Trùng Quang tâm
sử là: “một tác phẩm dày với lối văn mới mẻ, trong sáng, phóng bút…” [8,32].
Về thời gian tìm ra tác phẩm, theo Từ điển Văn học, văn bản Trùng
Quang tâm sử lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1957 qua một bản chép
tay được Trần Lê Hữu dịch và xuất bản, với tên gọi là Hậu Trần dật sử (pho
sử xót lại của thời Hậu Trần). Trong khi đó, theo lời “Tựa” của cuốn Trùng
Quang tâm sử, không trung duyên (tiểu thuyết luận đề) – xuất bản năm 2005:
năm 1954, trong những tài liệu của Trường sư phạm thu được ở Nghệ An sau
phong trào phát động quần chúng nhân dân đấu tranh kháng thuế, các nhà
nghiên cứu tìm thấy một quyển sách chữ Hán viết tay, không có đề mục gồm
96 trang khổ 21 x 28 cm, tất cả chừng hơn 4 vạn 5 nghìn lời. Và theo Đào
Duy Anh: “thể theo ý của tác giả nhằm biểu dương những anh hùng vô danh
trong cuộc vận động khôi phục nhà Trần, mà lịch sử đã lãng quên chưa chép
hết, chúng tôi nghĩ đặt tên nhan đề cho tập truyện này là Hậu Trần dật sử
…kể ra đã “tạm ổn” và hợp tình, hợp lý rồi. Nhưng đó chỉ là vấn đề “tạm” vì
chưa tìm đúng tên húy của nó mà thôi. Chính ra tên thật của nó là Trùng
Quang tâm sử” [8,27]. Như vậy, Hậu Trần dật sử cũng chính là Trùng Quang
tâm sử, “tâm sử của trại Trùng Quang hay là tâm sử của đời Trùng Quang.
Chữ tâm sử vừa có ý nghĩa tiểu thuyết vừa có ý nghĩa lịch sử” [8,27]. Bởi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trùng Quang tâm sử đã thực sự làm sống lại một thời kỳ hào hùng của dân
5
tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, đồng thời, góp phần quan trọng tạo nên giá
trị sự nghiệp thơ văn của Phan Bội Châu.
Trong bài nghiên cứu “Về cuốn Trùng Quang tâm sử”, Đặng Thai Mai
đề cập đến nhiều yếu tố tưởng tượng chiếm vị trí quan trọng trong tác phẩm,
cùng với những chi tiết “phản lịch sử" độc đáo, giàu sáng tạo, mục đích giúp
độc giả hiểu rằng, khi nói đến giặc Ngô cũng chính là nhằm vào thực dân
Pháp. cuốn tiểu thuyết như một chứng cứ quan trọng phản ánh hiện thực cuộc
sống của nhân dân ta dưới ách áp bức, bóc lột, đàn áp dã man của kẻ thù xâm
lược cuối thế kỷ XIX đầu XX. Nhưng theo tác giả bài viết: “Trùng Quang tâm
sử không hề có ý vị một pho lệ sử” [74,217]. Khi tổ quốc bị xâm lăng, mọi
người Việt Nam yêu nước đều một lòng một dạ đứng lên đánh đuổi kẻ thù mà
không “ngồi rên rỉ” với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách” – nhận
định của Đặng Thai Mai [74,217]. Ông cho rằng, dù chưa thoát ra khỏi khuôn
sáo của những câu chuyện anh hùng trong Tam quốc chí hay Thủy hử nhưng
cấu tứ của tác phẩm vẫn có những nét độc đáo riêng. Câu chuyện diễn ra
mang đậm tính Việt Nam: “đều được gọi theo lối Việt Nam chép bằng chữ
Nôm: ông Chân, cô Chí, chú Cữu, cu Chìm, anh Phúc” [75,218]. Tất cả đều là
những anh hùng thảo dã vô danh, đứng bên cạnh nhau, bình đẳng nhau, không
phân biệt nam, nữ. Vì thế, tác giả bài nghiên cứu đã đưa ra luận điểm: “Trùng
Quang tâm sử là một cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa luận đề về cách mạng Việt
Nam. Phan Bội Châu là người đầu tiên chú trọng đến địa vị người phụ nữ, đến
lực lượng thanh niên trong công cuộc cách mạng dân tộc. Cũng là người đầu
tiên đã nhận rõ ý nghĩa toàn dân của cách mạng Việt Nam và đã nêu rõ sự cần
thiết đoàn kết toàn dân để hoàn thành cách mạng dân tộc” [75,219]. Kết thúc
bài nghiên cứu, Đặng Thai Mai cho rằng: “công cuộc dẹp giặc để lấy lại nước
nhà, khi chúng ta khép tập sách lại, vẫn còn bỏ dở, chưa phải là đã đi tới
thắng lợi … và tập sách này cũng không phải là tập tiểu sử của “những anh
hùng thất bại”… đúng hơn, đây là câu chuyện của những người “anh hùng vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
danh” [75,222].
6
Trên tạp chí văn học số 9 (1999), Bùi Văn Lợi có bài: “Mối quan hệ
giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX”. Có thể hiểu vấn đề chính tác giả đề cập ở đây là,
trong tiểu thuyết lịch sử, việc sử dụng các yếu tố lịch sử làm cốt yếu nhưng
theo quan điểm của tác giả bài viết: “một trong những đặc điểm quan trọng
nhất là người nghệ sĩ phải làm sống lại những tài liệu lịch sử bằng trí tưởng
tượng, bằng quyền hư cấu và sáng tạo nghệ thuật của mình” [44,83].
Trên tạp chí văn học số 5 (1979), Nguyễn Phương Chi với bài viết:
“Trùng Quang tâm sử hay là hình ảnh cuộc kháng chiến chống Trung Quốc
xâm lược của quân dân nhà Hậu Trần qua con mắt một sĩ phu chống Pháp” đã
có ý kiến rằng, việc đánh giá tác phẩm Trùng Quang tâm sử không nằm trong
phạm vi hẹp. Không phải chỉ là việc thông qua câu chuyện của những nhân
vật anh hùng ngày xưa để nói đến những con người ở đầu thế kỷ XX, mà vấn
đề cụ Phan đặt ra trong tác phẩm chứa đựng rất nhiều chi tiết “phản lịch sử”
mang dụng ý của tác giả. Cũng không chỉ là câu chuyện viết về giặc Ngô
nhằm ám chỉ thực dân Pháp. Nó phản ánh những vấn đề chung như tác giả
Nguyễn Phương Chi đã nói: “đó là quy luật về sự vùng dậy tất yếu của đất
nước và con người Việt Nam mỗi khi bị đô hộ, áp bức. Và đấy mới là cái cốt
lõi của hiện thực, cái quy định giá trị hiện thực, giá trị lâu dài của tác phẩm”
[14,123]. Thông qua số phận của từng nhân vật, hiện thực phát lộ từng mảng
rõ nét hơn, chi tiết hơn về thực trạng đen tối và khắc nghiệt bao trùm xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong đó, mỗi số phận được khắc
họa vừa cụ thể, vừa có tính chất điển hình, kết hợp hài hòa giữa hiện thực trữ
tình và trí tưởng tượng phong phú của tác giả, đem lại giá trị hiện thực chân
chính cho Trùng Quang tâm sử.
Theo tác giả bài viết, câu chuyện mà cụ Phan nêu trong tác phẩm cũng
là một bản án đanh thép tố cáo chế độ thực dân đương thời. Sợi dây xích màu
đỏ tạo nên mối liên hệ giữa hai thời kỳ cách xa nhau này là những đặc điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tương đồng về mặt lịch sử giữa hai thời đại. Hiện thực của Trùng Quang tâm sử,
7
theo Nguyễn Phương Chi là: “hiện thực kết tinh đậm đặc về xã hội Việt Nam
bị xâm chiếm, đô hộ từ hàng ngàn năm với những cảnh ngộ, những số phận,
những sự đọa đầy luôn luôn được lặp đi lặp lại” [14,125]. Nguyễn Phương
Chi còn phát hiện ra những tính cách điển hình trong tác phẩm cũng là những
tính cách tiêu biểu của con người Việt Nam khi đối mặt với những kẻ thù xâm
lược. Đó là những con người anh hùng được Phan Bội Châu khắc họa với tất
cả sự sảng khoái và lòng ngưỡng mộ. Nghệ thuật sử dụng kết cấu hướng tâm
trong tác phẩm thể hiện rõ ý đồ tác giả là, muốn đưa hoàn cảnh riêng của các
nhân vật vào hoàn cảnh chung để nhân vật có điều kiện bộc lộ tính cách ở mức
độ cao nhất. cho nên, thế giới nhân vật của Phan Bội Châu vừa phong phú, vừa
mang những nét chung nhất của con người Việt Nam yêu nước.
Phan Bội Châu đã xây dựng nên một hệ thống những anh hùng thảo dã,
vô danh nhưng không bao giờ mờ nhạt, bị động, xuất hiện xuyên suốt từ đầu
đến cuối tác phẩm.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát tác phẩm Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, bên cạnh
đó tham khảo bộ Đại Việt sử kí toàn thư để so sánh.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi sử dụng phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương phá p thố ng kê.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn tham khảo một số bài nghiên cứu của các nhà phê bình nhằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làm rõ những vấn đề liên quan đến tác giả, tác phẩm Trùng Quang tâm sử.
8
Khảo sát những biện pháp nghệ thuật đã được sử dụng trong tác phẩm để thấy
được tư tưởng nghệ thuật của tác giả đồng thời khẳng định những thành tựu
mà tác phẩm đã đóng góp cho thể loại tiểu thuyết chương hồi.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề về tác giả - tác phẩm và việc vận dụng lí
thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm
Chƣơng 2: Các phƣơng diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết
Trùng Quang tâm sử
Chƣơng 3: Hƣ cấu – Một yếu tố đặc sắc trong cấu trúc tự sự của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trùng Quang tâm sử
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM VÀ VẬN DỤNG
LÍ THUYẾT TỰ SỰ TRONG NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM
1.1. Về tác giả - tác phẩm Trùng Quang tâm sử
1.1.1. Vấn đề xác định tác giả
Theo lời “Tựa” trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập (tập 4) Đào Duy
Anh nhận định rằng đây là công trình sáng tác của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.
Trong tình thế chiến tranh và trong hoàn cảnh học thuật tư tưởng nước
ta lúc bấy giờ, căn cứ vào nội dung tập sách cũng như căn cứ vào hình thức
văn chương đây chỉ có thể là do ngòi bút của Phan Sào Nam viết ra. Trong
long mạch tiểu thuyết lịch sử, bút pháp của tác phẩm đã xa hẳn lối viết của
các tập truyện dài ngày xưa như Hoàng Lê nhất thống chí, hay An Nam nhất
thống chí. Tác giả tập tiểu thuyết này có phần chắc là đã đọc, đã nghiền ngẫm
nhiều lối văn Tân dân tùng bá. Và, hồi đó, nếu có một nhà văn Việt Nam có
thể nói là nắm tương đối vững được văn pháp tân thư của Trung Quốc, thì
người ấy chính là Phan Bội Châu. Rồi nếu như ta theo dõi sân khấu hoạt động
các nhân vật của cuốn tiểu thuyết này, từ tỉnh thành Nghệ An, từ Nghi Lộc,
Hưng Nguyên, lên Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, xuống Yên Thành,
Phủ Diễn, rồi ngược Phủ Qùy, Phủ Tương, và đi đường “thượng đạo” vào đến
mạn Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, thì lại càng thấy rõ rằng: bấy nhiêu
địa hạt với những thị trấn quen thuộc khác như Chợ Rộ, Chợ Chế, Chợ Rạng,
Chợ Dừa, Chi Nê, Chợ Ròn v.v…, cũng là những trạm nghỉ chân của ông
đầu sứ San, hay ông Giải San (tức Phan Bội Châu) trên con đường “bôn tẩu
quốc sự” vào khoảng 1898 – 1902. Ngay cả vấn đề chiến thuật chiến lược
theo sự bố trí trong tập tiểu thuyết này nữa nếu ta đem so sánh với kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoạch Cách mạng của Phan tiên sinh hồi đó, thì sự phản ánh lại càng rõ rệt
10
hơn nữa. Cho nên, giả thuyết của giáo sư Đào Duy Anh đã được xây dựng
trên một cơ sở lí luận khá chắc.
Người hoài nghi vẫn có thể đặt lại vấn đề. Nhưng, cũng như Giáo sư
Đào Duy Anh đã nói, ngẫm nghĩ kĩ về ý vị văn chương cũng như về nội dung
tư tưởng của tác phẩm, thì ta chỉ có thể nghĩ đến Phan Bội Châu chứ không có
thể tưởng tượng đến một người nào khác. Bây giờ nếu như có người cật vấn
vẫn hoài nghi về tên tác giả cho rằng phỏng thuyết trên kia chỉ là xây dựng
trên ấn tượng thì ta có thể để hai chữ “vô danh” khi nói về tên tác giả. Nhưng
xét một cách khái quát ý kiến cho rằng Phan Bội Châu là tác giả của Trùng
Quang tâm sử ngày càng được củng cố và đáng tin cậy.
1.1.2.. Về tác giả Phan Bội Châu
1.1.2..1. Con người
Phan Bội Châu sinh ngày 26 – 12 – 1867 ở làng Sa Lam, xã Đông Liệt
huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Quê chính là Đan Nhiệm cách Sa Lam độ vài cây
số, nằm sát bên bờ tả ngạn sông Lam. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến
hạng thấp “lấy nghiên làm ruộng, lấy bút làm cày”. Phan Bội Châu được thừa
hưởng nhiều mặt tích cực từ cha mẹ. Cụ thân sinh Nguyễn Thị Nhàn là người hiền
lành phúc hậu và rất thương người. Bà thường dậy cho Phan Bội Châu thuộc lòng
một số bài thơ trong Kinh Thi, là người có ảnh hưởng lớn đến nhân cách và con
người Phan sau này.
Cùng với những yếu tố về gia đình, Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng
nhiều của quê hương xứ Nghệ, nơi có truyền thống anh hùng, truyền thống văn
hóa, đã từng sản sinh ra rất nhiều nhân tài cho đất nước.
Những yếu tố về gia đình, về quê hương cùng với thiên chức bẩm sinh đặc
biệt thông minh nổi tiếng “thần đồng” khiến cho tài năng văn học của cậu bé San
nảy nở và phát triển từ rất sớm. Tập “Phan Bội Châu niên biểu” cho biết: Sáu tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
theo cha đi học có ba ngày đọc thuộc lòng quyển “Tam tự kinh”, bảy tuổi đã hiểu
11
được Kinh truyện và viết “Phan tiên sinh luận ngữ”, tám tuổi đã thông thạo các
kiểu văn cử tử, mười ba tuổi đỗ đầu huyện , mười sáu tuổi đỗ đầu xứ, ba mươi tuổi
đỗ giải Nguyên trường Nghệ An với vinh dự độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa cử
Việt Nam: “Bảng một tên lừng lẫy tiếng làng văn ”.
Phan Bội Châu ra đời đúng vào năm lục tỉnh Nam kì mất trọn vào tay Pháp
(1867) “tiếng khóc chào đời như đã báo trước cho tôi rằng: mày sẽ phải làm một
người dân mất nước” (Phan Bội Châu niên biểu). Lớn lên trong cảnh đất nước bị
giặc chiếm, làng quê bị tàn phá, cả một xã hội đang bị phân hóa kịch liệt chìm
ngập dưới ngọn sóng tư bản chủ nghĩa. Tình đối với quê hương đất nước, chí căm
hờn đối với “dị tộc xâm lăng” bị kích thích đến tột độ. Phan Bội Châu nói mình có
“bầu máu nóng” đó chính là lòng yêu nước và ý chí cứu nước dậy lên từ thuở còn
thơ. Thực ra cái bản tính chẳng do trời phú mà do ảnh hưởng của truyền thống dân
tộc và quê hương. Những tình cảm sôi nổi bồng bột nhưng vô cùng quý giá đó là
bước khởi đầu dẫn dắt Phan Bội Châu vào con đường cách mạng. Lòng yêu nước
đã khiến Phan Bội Châu từ một nhà nho thành một chiến sĩ yêu nước kiên cường
bất khuất, sẵn sàng tiếp thu và làm theo cái mới.
1.1.2..2. Cuộc đời
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu có thể chia làm ba
thời kì, tương ứng với ba giai đoạn sáng tác của ông:
Trƣớc khi ra nƣớc ngoài
Là thời kì “ẩn nhẫn nấp náu tu dưỡng ngấm ngầm”. Thời kì này, Phan Bội
Châu ở nhà dạy học và nuôi cha già. Ngoài thời gian dạy học Phan Bội Châu còn
bí mật liên kết với bạn bè, tìm đồng chí đọc tân thư tân văn, binh thư binh pháp.
Lúc này, Phan Bội Châu viết văn chương cử tử, tuy vậy vẫn bộc lộ hoài bão của
một người thanh niên đầy nhiệt huyết với dân với nước, có ý chí bất chấp mọi khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khăn nguy hiểm.
12
“Nước non Hồng Lạc còn đây mãi
Mặt mũi anh hùng khá chịu ri
Giang sơn còn vẽ mặt nam nhi
Sinh thời thời thế phải xoay nên thời thế.
Phùng xuân hội may ra thì cũng dễ
Nắm địa cầu một tí con con
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà
Hai vai gánh vác sơn hà"
(chơi xuân)
Thời kì hoạt động ở nƣớc ngoài (1905 – 1925)
Thời gian này ông tổ chức và phát triển phong trào Đông Du cho học sinh
đi du học ở nước ngoài để làm nòng cốt cách mạng. Ông giao thiệp với các nhà
chính trị nổi tiếng của cách mạng tư sản Trung Quốc, Nhật…Ông viết văn viết thơ
tuyên truyền khích lệ phong trào cách mạng ở trong nước.
Thơ Phan Bội Châu thời kì này hào hứng sôi nổi nhất với nhiều tác
phẩm như: Việt Nam vong quốc sử; Việt Nam quốc sử khảo, Hải ngoại huyết
thư, Ai cáo Nam kì phụ lão thư, các truyện và đặc biệt là tiểu thuyết “Trùng
Quang tâm sử”… tất cả đều được viết bằng chữ Hán, ghi lại nhiều chuyển
biến về tư tưởng của Phan Bội Châu.
Năm 1925, trên đường về Quảng Châu Phan Bội Châu bị bắt, kết thúc “Hai
mươi năm lẻ” hoạt động tích cực ở nước ngoài. Đánh giá tích cực về giai đoạn này
Giáo sư Đặng Thai Mai có viết: “Thời kì 1905 – 1925 là quãng đời oanh liệt và vẻ
vang trong thân thế nhà chiến sĩ. Hai mươi năm ròng rã không một cuộc vận động
yêu nước nào mà không thấm nhuần ít nhiều tinh thần của Phan Bội Châu. Trong
phần tư đầu thế kỉ ba chữ Phan Bội Châu là dấu hiệu cao cả tập hợp mọi lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lượng chống thực dân Pháp ở trong nước và ngoài nước và cũng là thể hiện đẹp
13
đẽ , tiêu biểu cho tinh thần quật cường của cả dân tộc. Giữa những ngày tháng
đau luôn luôn nhìn thấy trong ba chữ tên đó một tia hy vọng”.
Thời kì làm “Ông già Bến Ngự”:
Khi bắt Phan Bội Châu thực dân Pháp có âm mưu thủ tiêu nhưng bị lộ,
chúng phải đem ra xử án công khai. Ông bị kết án tù khổ sai chung thân. Khi án
này công bố, cả nước dấy lên phong trào đòi tha Phan Bội Châu. Trước sức mạnh
của cả dân tộc, thực dân Pháp phải “tha bổng”. Chúng bắt ông về cư trú ở Huế.
Nhân dân xây dựng cho ông một ngôi nhà dưới núi Ngự, bên bờ sông Hương. Từ
lúc bị bắt giam cho đến khi mất, Phan Bội Châu phải sống trong cảnh của người tù
giam lỏng – một cuộc sống khá thê lương, buồn tẻ và hiu quạnh:
Đêm nghe con Vá chào ông Trộm
Ngày lắng thằng Nghi kể chuyện tù
Những năm tháng cuối đời, dù sống trong hoàn cảnh người tù bị giam
lỏng, tấm lòng nhà chí sĩ họ Phan vẫn chất chứa bao nỗi niềm ưu ái, vẫn đặt kì
vọng vào đồng bào. Trước lúc ra đi. Phan Bội Châu vẫn không quên lời nhắn
nhủ tâm huyết với thế hệ trẻ:
Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau!
(Từ giã bạn bè lần cuối cùng).
Ngày 29 – 10 – 1940 Phan Bội Châu qua đời. Đám tang rất vắng vẻ bởi sự
kiểm soát ngặt nghèo của bọn thực dân. Dẫu vậy, tên tuổi của một nhà chí sĩ yêu
nước, một con người hoạt động hăng say chiến đấu vì nước vì dân, một nhà văn
nhà thơ lớn của dân tộc vẫn còn sống mãi với thời gian, vẫn sống mãi trong trái
tim người dân Việt Nam. Cuộc đời 73 năm của Phan Bội Châu là cuộc đời hoạt
động cho cách mạng. Cuộc đời của một con người hăng say với lý tưởng cứu
nước. Từ tuổi thơ còn cắp sách đến trường cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
điều luôn luôn nung nấu trong tâm can ông là giết giặc cứu dân. Ông đã cống hiến
14
cả đời mình cho sự nghiệp dân tộc. Lý tưởng sống, lẽ sống của ông là hy sinh cho
độc lập tự do của dân tộc. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ông phải vật
lộn với bao vất vả, khó khăn, cay đắng, tủi cực. Bao nhiêu lần thất bại chua
cay, ông vẫn không nản chí. Ý chí ấy thật đáng khâm phục. Trong Niên biểu
ông xót xa thừa nhận rằng: “Lịch sử đời tôi là lịch sử một trăm thất bại mà
không một thành công”. Tấm lòng ông luôn luôn hướng về tổ quốc với một
niềm mong mỏi đất nước được độc lập, dân tộc được tự do. Tổ quốc ở trong
ông gần như là máu thịt. Ông đau lòng trước cảnh:
Nước mất nhà tan nỗi thiết tha.
Dòng sông man mác máu hồng pha.
Gươm đao tởm nhắc ba tuồng cũ.
Màu khói buồn trông bốn mặt xa.
Xương vỏ sống còn đau lũ bé.
Sọ đầu vứt uổng khóc tay già.
Ngọn lửa căm hờn bùng cháy trong tâm thức thuở thiếu niên cho đến
lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn còn day dứt khôn nguôi. Phan Bôị Châu là người
cảm nhận rất sâu nỗi đau, nỗi nhục của người dân mất nước. ông sẵn sàng
“đem máu đổi lấy tự do”. Trong tim ông vẫn khắc sâu tư tưởng lòng quyết
tâm “thù sâu chắc có ngày rồi trả”. Để thực hiện được lý tưởng đó Phan Bội
Châu sẵn sàng làm tất cả. Ông từng nói “suốt đời đã mưu tính việc gì cốt
nhằm mục đích giành được thắng lợi trong phút cuối cùng dù đó có phải thay
đổi thủ đoạn, phương châm cũng không ngần ngại”
Bình sinh, Phan Bội Châu vốn là một người chiến sĩ. Không bao giờ
ông có ý định xây dựng cho mình sự nghiệp văn chương. Hai câu thơ của
Viên Mai mà ông rất thích:
Túc dạ bất vong duy trúc bạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lập thân tối hạ thị văn chương.
15
(Khuya sớm vẫn mong ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy văn chương).
Khi bước vào hoạt động cách mạng Phan Bội Châu xác định cho mình làm
người chiến sĩ. Qua thực tế, Phan Bội Châu cũng như những người làm cách
mạng nhận ra rằng văn học là một vũ khi đấu tranh. Ghecxen nói: “Khi một dân
tộc mất quyền nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam,
lập ra Chính phủ độc lập. tự do dân chủ, chỉ văn học là diễn đàn duy nhất mà ở
đó họ có thể nói lên tất cả lòng căm phẫn và lương tri của mình”. Đối với Phan
Bội Châu, càng hoạt động cách mạng, ông càng nhận thấy rõ văn học là một loại
vũ khí lợi hại. Con đường đến với văn chương của Phan Bội Châu rất khác biệt:
Từ nhà nho yêu nước đến người chiến sĩ cách mạng; từ chiến sĩ cách mạng trở
thành nhà văn, nhà thơ.
Phan Bội Châu là người có ý thức sâu sắc đầy đủ, hệ thống, có kết quả nhất
trong việc dùng văn chương phục vụ nhiệm vụ chính trị của thời đại.
Tóm lại: Nhắc đến Phan Bội Châu, chúng ta nhắc đến tên một nhà chí sĩ –
người đã châm ngọn đuốc soi đường cho cả một thế hệ thanh niên đi theo tiếng
gọi non sông những năm đầu thế kỷ - điều đó cũng đã đủ để tự hào. Nhắc đến
Phan Bội Châu, ta còn nhắc đến tên một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã
để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn học khá lớn – những bài thơ “dậy sóng” có
tác động không nhỏ đến tâm hồn, ý chí người dân Việt Nam trong những năm
kháng chiến chống Pháp, cho đến ngày nay vẫn gây xúc động lớn trong lòng
người đọc. Phan Bội Châu không những được nhân dân Việt Nam yêu quý, kính
phục mà còn được nhân dân thế giới biết đến và ngưỡng mộ.
Phan Bội Châu mãi mãi xứng đáng với danh hiệu: “Bậc anh hùng, vị thiên
sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc, được hai mươi triệu con người trong cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước tôn sùng” – (Nguyễn Ái Quốc).
16
1.1.3. Vấn đề xác định tên gọi của tác Phẩm
Trùng Quang tâm sử là một tập tiểu thuyết bằng Hán văn được viết vào
khoảng đầu thế kỷ XX. Đa phần các nhà nghiên cứu cho rằng nó được ra đời vào
khoảng thời gian từ 1905 đến 1913. Lần đầu tiên được đăng trên tờ Binh sự tạp
chí ở Hàng Châu, Trung Quốc từ tháng 1- 1921 đến tháng 4 – 1925. Từ lúc ra
đời nó đã ngủ một giấc dài hơn ba mươi năm, đến năm 1957 cuốn tiểu thuyết
này mới được dịch và xuất bản (xuất bản lần I mang tên “Hậu Trần dật sử” –
Trần Lê Hữu dịch – nhà xuất bản văn hóa – 1957; lần II mang tên “Trùng Quang
tâm sử” – Nguyễn Văn Bách dịch – nhà xuất bản văn học – 1971).
Về tên sách, ngày nay cũng khó mà biết được chính xác. Cũng có thể là
sau khi viết ra, vì một lí do này hay lí do kia, tác giả chưa hề đặt tên cho tác
phẩm. Điều chắc chắn là đằng sau câu chuyện vận động “bình Ngô” này,dụng
ý của người viết sách là kêu gọi đồng bào chống Pháp. Câu chuyện cũ bao
hàm ý nghĩa hoàn toàn mới.
Cái tên “Hậu Trần dật sử” mà Đặng Thai Mai và Đào Duy Anh đưa
ra cũng có thể cho là “ổn”. Nhưng đó chỉ là vấn đề “tạm” vì chưa tìm
đúng tên húy của nó.
Theo ý kiến của Chương Thâu tác phẩm có tên Trùng Quang tâm sử,
“tâm sử” của đất Trùng Quang hay là “tâm sử” của đời Trùng Quang. Chữ
“tâm sử” vừa có ý nghĩa tiểu thuyết vừa có ý nghĩa lịch sử. Nội dung quyển
sách cho ta biết nhiều những chuyện lịch sử có thật đời Hậu Trần, xoay chung
quanh chữ “Trùng Quang” này.
“Phía cực tây huyện Thanh Chương, giáp nước Lào, nhìn xuống là
sông Lam, dựa vào vách núi Giăng Màn, trong chỗ rừng sâu xanh thẳm, có
vài trăm khoảng sơn điền. Bốn mùa có khe nước chảy, phân tán thành câu,
cừ. Ở trên có nhà trại, lớn nhỏ hơn trăm gian. Đấy là trại của ông Khoáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đất ấy trước là một thôn của người Lào. Tiên thế ông Khoáng hiển đạt ở đời
17
Trần, nhà Trần mất, đem cả bộ thuộc hơn vài mươi người dời xuống phía
nam châu Hoan, đuổi người Lào chiếm lấy đất. Vì quân nhà Minh đuổi bắt
riết, nên ông Khoáng cũng trốn đến ở đấy. Các hào kiệt lục lâm thường nhờ
làm chỗ trốn tránh. Ông Khoáng là người trưởng giả, trung hậu, nên người
xa gần bất kì Mường hay Chợ đều ham đi lại giao thiệp. Thường lấy thóc gạo
đổi lâm sản, rồi chở lâm sản xuống chợ bán lấy tiền, hàng năm thu được rất
nhiều, cho nên trong trại súc tích cũng đầy đủ. Ông khoáng thường nghĩ đến
quốc sỉ, nuôi chí lớn, cho nên những người hảo hán đến thường được tiếp đãi
rất hậu. Các thổ hào đều gọi ông Khoáng là ông Cả. Khi Kiên và Xí muốn mở
hội nghị bí mật, trước hết đến mời ông Khoáng, ông rất mừng, đến ngay. Bèn
cử ông làm chủ trại. Miếng đất khô ráo này trở thành một nước độc lập nhỏ.
Vì vậy nên đặt tên là trại “Trùng Quang”.[75,50].
Qua đoạn trích trên đây, chúng ta biết được tổ chức và hoạt động của
các ông Khoáng, ông Xí… rất ứng hợp với sự thực lịch sử lúc bấy giờ. Mùa
đông năm 1407 Giản Định đế nhà Hậu Trần nổi lên ở Nghệ An. Tri châu Hóa
Châu là Đặng Tất và An phủ sứ Thăng Hoa là Nguyễn Cảnh Chân đem quân
địa phương về theo. Lúc đó, nhà Minh sai tướng giặc Mộc Thạnh đem 4 vạn
quân từ Vân Nam sang, bị quân ta đánh thua phải bỏ chạy. Giản Định đế
muốn thừa thắng kéo quân ra Bắc, nhưng Đặng Tất lại muốn tìm bắt dư chúng
của giặc để trừ hậu họa, rồi sau hợp với các đạo quân Thuận Hóa, Tân Bình,
Nghệ An, Diễm Châu và Thanh Hóa kéo ra Đông Đô triệt nốt quân Minh.
Chưa kịp thì bọn giặc đã đón được tướng Mộc Thạnh về Đông Đô.Giản Định
nghe lời dèm pha cho rằng Đặng Tất cố ý trì hoãn không chịu tiến công cho
nên đem bắt giết Quốc công Đặng Tất và Tham mưu Nguyễn Cảnh Chân. Về
sau, Đặng Dung con Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị con Nguyễn Cảnh Chân
bèn kéo quân từ Thuận Hóa rước Trần Quý Khoáng là cháu Giản Định đế tức
là Trần Nghệ Tôn vào Chi La ở đất Nghệ An lên ngôi vua, lấy hiệu là Trùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Quang, nên ngày sau sử chép là Trùng Quang đế.
18
Cái tên gọi “Trùng Quang” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cuốn
tiểu thuyết này. “Nghĩa quân ở trại Trùng Quang xứ Nghệ An” hoặc “trại lớn
ở đất Nghệ An của quân chúng tôi, đất lành khí tốt, lâu ngày đã trở nên đông
đúc, nhân dân đều ham đến ở” hoặc “nhân lấy tên trại Trùng Quang mà tôn
ông Khoáng lên làm vua Trùng Quang”... Cái tên Trùng Quang có tính chất
lịch sử. Cho nên chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn quyển Hậu
Trần dật sử hiện đang lưu hành chính là quyển Trùng Quang tâm sử.
Phan Bội Châu mãi mãi xứng đáng với danh hiệu: “Bậc anh hùng, vị
thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc, được hai mươi triệu con người trong
cả nước tôn sùng” – (Nguyễn Ái Quốc).
1.2. Việc vận dụng lý thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm
Trùng Quang tâm sử
1.2.1. Khái lược về tự sự học
Roland Bathes có nói đại ý tự sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài
người. Nói theo cách khác, khi lịch sử được ý thức thì ta đã có tự sự (câu nói
quen thuộc của phương Tây – History is a story / L Histoire estunrecit). Thế
nhưng nghiên cứu tự chỉ thực sự trở thành một khoa học độc lập dưới ảnh
hưởng trực tiếp của trường phái cấu trúc luận Pháp trong khoảng thập niên 60
thế kỉ trước. Do vậy, có cách gọi tự sự học cấu trúc luận. Năm 1966, tạp chí
“Giao tế" xuất bản tại Pari đã dành hẳn kì số 8 cho chuyên san Nghiên cứu kí
hiệu học – phân tích cấu trúc tác phẩm tự sự. giới thiệu tập trung lí luận căn
bản của tự sự học. Và phải đến năm 1969, Tezvetan Todorov, một trong
những đại biểu lớn của cấu trúc Luận Pháp mới chính thức khai sinh danh
xưng tự sự học (Narratilogie – tiếng Pháp) khi xuất bản công trình Ngữ pháp
chuyện mƣời ngày cái mà Todorov gọi là ngữ pháp ở kết cấu tự sự của tác phẩm.
Tự sự học kinh điển thường được hiểu là tự sự học giai đoạn những
năm 60 kéo dần đến khoảng những năm 80 của thế kỉ trước. Tuy thực sự đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trở thành một trào lưu nghiên cứu có tính quốc tế, nhưng vai trò tiên phong
19
vẫn thuộc về các học giả Pháp. Rất nhiều khái niệm nền tảng cũng như một số
mô thức lý thuyết của tự sự học kinh điển bắt nguồn từ Cấu trúc luận Pháp.
Trong khoảng thập niên 70 đến 80 tự sự học bắt đầu thịnh hành ở Mĩ thế
nhưng chủ yếu vẫn là ứng dụng và phát huy các mô thức lý luận của Pháp. Tự
sự học tạo nên một không gian lý tưởng cho đối thoại và hòa nhập giữa truyền
thống phê bình Mĩ và lí luận văn học châu Âu. Có thể nêu vài ví dụ về đóng
góp cho tự sự học hiện đại của các học giả Mĩ. Chẳng hạn, Gerald Prince là
người tiên phong đề xuất khái niệm “đối tượng tiếp nhận tự sự” hoặc “người
thụ thuật”naratee. Khái niệm này được chấp nhận rộng rãi và được xem như
là một bổ xung cho mô thức tự sự học pháp. “người thụ thuật” là đối tượng
hướng tới của người trần thuật, nó là một nhân tố kết cấu đối ứng với người
trần thuật, không liên quan đến ngữ cảnh lịch sử xã hội mà cũng có thể không
lý tưởng có khả năng “trùng khít” với độc giả lí tưởng. Seymour Chatman đề
nghị phân biệt cái gọi là trường tri cảm có tính cách như một bộ thấm lọc
(filter) thông tin trần thuật của nhân vật với cái gọi là tầm nhìn tự sự
(focalization). Thế nhưng Mĩ chỉ thực sự trở thành trung tâm của nghiên cứu
tự sự học quốc tế vào khoảng những năm 90 trở về sau. Khi đó tự sự học
bước sang giai đoạn hậu kinh điển. So với Mĩ, tự sự học ở Anh thường vẫn
được coi là “chậm tiến”. Hai ấn phẩm lớn về tự sự học của Anh năm 2005,
Bách khoa toàn thư lí luận tự sự (Routledge xuất bản) và Chỉ nam lí luận tự
sự (Nxb Blackwell) trên thực tế từ chủ biên cho đến các tác giả biên soạn chủ
yếu đều mời từ Mĩ. Ngay từ năm 2000, Brian Richardson, một nhà tự sự học
đã dự đoán trên tạp chí Văn thể (style) của Mĩ. Lí luận tự sự đang đạt tới một
tầm cao mới toàn diện hơn. Lí luận tự sự rất có khả năng sẽ chiếm địa vị trung
tâm trong nghiên cứu văn học khi mà những hệ hình (paradigm) phê bình vốn
từng có một vị trí chủ đạo bắt đầu suy yếu đi cùng lúc mô thức (model) phê
bình mới (chí ít cũng không giống như cũ) đang thịnh hành dần lên”. Cái mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Richardson gọi là lí luận tự sự ở đây chính là tự sự hậu kinh điển xuất hiện
20
như bước kế tiếp của giai đoạn tự sự học kinh điển cấu trúc luận. Tự sự học
kinh điển cấu trúc luận Pháp kích thích tự sự học hậu kinh điển Mĩ cũng
giống như sau đó không lâu giải cấu trúc luận Pháp lại gợi ý cho công cuộc
giải tự sự học (ananarratology) ở Mĩ. Ở Trung Quốc, lý thuyết tự sự học
phương Tây bắt đầu được giới thiệu từ những năm 80 thế kỷ trước. Cuối thập
niên 80, nghiên cứu tự sự học tại Trung Quốc đã đạt đến cao trào. Phần lớn
các tác phẩm tự sự học quan trọng của tự sự học kinh điển xuất bản trong thập
niên 70,80 của phương Tây đều được dịch ra tiếng Trung. Thế nhưng tính đến
những năm gần đây, tự sự học Trung Quốc không kể dịch thuật hay trước tác
nhìn chung vẫn đang còn dừng ở phạm vi tự sự học kinh điển. Lí luận tự sự
học hậu kinh điển thập niên 80 trở về sau chưa được giới thiệu rộng rãi.
Ở Việt Nam, ngay từ buổi đầu giới thiệu và dịch thuật tự sự, việc xác
định thuật ngữ, chọn dùng khái niệm tương đương đòi hỏi những cố gắng nhất
định. Trong tình hình mà một số thuật ngữ quan trọng như tự sự, tự sự học
cũng như trần thuật, văn bản, diễn ngôn, thoại ngữ… mà hiện nay ta dùng đều
là những từ Hán Việt thì việc tham khảo các học giả Trung Quốc là việc có
ích. Giáo sư Trần Đình Sử có nói: “chúng ta cần xây dựng cho mình một hệ
thống tiếng Việt về tự sự học”. Liên hệ đến Trung Quốc ông nói thêm “Ngay
thuật Narratology người Trung Quốc hiện nay vẫn có hai cách dịch. tự sự học
và tự thuật học(tự = kể, thuật = kể). Khái niệm “tự thuật học” dùng tương
đồng với “tự sự học”, nhưng trọng tâm có phần khác nhau “tự thuật học”
nghiêng về nghiên cứu cả hai: hành vi lời kể và cấu trúc sự kiện”. Nếu chúng
ta đọc kĩ bài Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn
học ở Việt Nam (đồng thời tham khảo mục từ Trần thuật trong 150 thuật ngữ
văn học cũng của ông) thì sẽ cảm thấy trần thuật học mà ông chủ trương phải
tương đương với không phải là tự thuật học Trung Quốc mà là tự sự học của
họ. Lại Nguyên Ân đề nghị cách gọi trần thuật học. Ông viết: “Trần thuật học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(narratologie, naratology) được đề xuất cuối những năm 60 do việc xem xét
21
lại học thuyết Chủ nghĩa cấu trúc từ quan điểm lý thuyết giao tiếp về bản chất
của nghệ thuật và các dạng thức tồn tại của nó. Do vậy trần thuật học đứng
giữa một phía là Chủ nghĩa cấu trúc và một phía khác là Mĩ học tiếp nhận.
Như vậy điều cần lưu ý là Trần thuật học ở phương Tây là một trường phái,
một khuynh hướng học thuật chứ không đơn thuần chỉ là bộ môn nghiên cứu
Tháng 11 năm 2003, một hội thảo quốc tế về tự sự học chức tại đại học
Hamburg (Đức) với chủ đề: vận dụng các khái niệm tự sự học truyền thống
vào nghiên cứu các loại văn bản phi văn học. Một học giả Trung Quốc đã
dịch cuốn Naratologies (Dvid Herman biên soạn, ohio State UP, 1999) Là
Tân tự sự học (Mã Hải Lương, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 2002) với hàm
ý đây là giai đoạn mới của tự sự học – giai đoạn tự sự học hậu kinh điển. Tuy
nhiên cũng có ý kiến cho rằng giữa Naratology và Naratologies không phải là
một tiến hóa mà chỉ là những diễn biến. Điều chắc chắn là tự sự học hậu kinh
điển (postclassicall naratologies) đã mở rộng đối tượng nghiên cứu, nó không
tự giới hạn tầm mắt ở bản thân “văn bản” tự sự. Chính vì thế từ những năm
1990 trở về sau có người gọi nó là tự sự học chủ nghĩa ngữ cảnh.
Các học giả Trung Quốc nhìn chung ngày càng nghiêng về sử dụng
thuật ngữ tự sự học. Trong dịch thuật dường như họ chủ trương các tác phẩm
đầu đề có viết từ Naratology thì dịch thành tự sự học. Trường hợp số nhiều
Narratologies thì dịch thành tân tự sự học. Những cuốn nghiên cứu về
narrative nói chung cũng được dịch thành tự sự học. Chẳng hạn Reading
Narrative của J. Hillis Mille được dịch là Giải độc tự sự, postmodern
Narrative Theory của Mark Currie được dịch là Hậu hiện đại tự sự…
1.2.2. Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử với hướng nghiên cứu tự sự học
So với phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam ra đời và phát triển muộn.
Nếu ở Châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kì xã hội cổ đại tan rã và phát
triển rực rỡ ở thế kỷ XIX thì ở Việt Nam đến thế kỷ X – XII mới xuất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những truyện văn xuôi dưới dạng các thần phả (Việt điện u linh – Lý Tế
22
Xuyên) hoặc ghi chép các tiểu thuyết dân gian (Lĩnh nam trích quái – Trần
Thế Pháp). Sang thế kỷ XV – XVIII với các tác phẩm “Thánh Tông di thảo”
của Lê Thánh Tông, “Truyền kỳ mạm lục” của Nguyễn Dữ, “Truyền kỳ tân
phả” của Đoàn Thị Điểm… mới xuất hiện những truyện viết về đời tư của
những người bình thường, nhất là phụ nữ. Đến “Hoàng Lê nhất thống chí”
(đầu thế kỷ XIX) mới có quy mô tiểu thuyết: 17 hồi, hơn 300 nhân vật, bao
quát khoảng thời gian khá dài (từ 1767 – 1802) có nhiều chi tiết về các mặt
của đời sống. Về nội dung thể loại, tuy có yếu tố đời tư và thế sự nhưng tính
chất của sử thi vẫn là chủ yếu vì gắn với sự hưng vong của triều đại, đất nước
trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Tuy nhiên xét về nhiều mặt nó vẫn thuộc
phạm trù tiểu thuyết phương Đông. Ngoài giá trị lịch sử và xã hội học “Hoàng
Lê nhất thống chí” được coi là pho tiểu thuyết lịch sử đầu tiên có giá trị văn
học đặc sắc. Cùng với “Thượng Kinh ký sự” (Lê Hữu Trác), “Vũ trung tùy
bút” (Phạm Đình Hổ), “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm tiêu biểu nhất,
có giá trị hiện thực lớn nhất trong số các tác phẩm văn xuôi thế kỷ XVIII,
phải sang giai đoạn văn học thế kỷ XX đến 1945 ta mới có những tiểu thuyết
hiện đại. Những năm 20 là thời kỳ chuẩn bị hình thành một nền tiểu thuyết
mới – tiểu thuyết Việt Nam hiện đại – quan niệm thể loại văn học ở đây bao
gồm cả hai yếu tố: Nội dung và hình thức. Tiểu thuyết phải phản ánh được tư
tưởng, tình cảm của những giai cấp, những tầng lớp người hiện đại trong xã
hội, phải đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa đối với thời đại chúng ta. Tiểu
thuyết có thể lấy các vấn đề quá khứ của dân tộc. Nhưng các vấn đề ấy được
nhìn nhận và đánh giá theo quan điểm hiện đại. Tức là tiểu thuyết hiện đại
phải có một kết cấu mới, phải điển hình hóa mới (khác với truyện nôm và tiểu
thuyết chương hồi của thế kỷ XVIII và XIX), một lối ngôn ngữ mới (không
phải là thứ văn chương biền ngẫu đầy điển tính nặng nề) và quan điểm thẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mỹ mới.
23
Theo cách nhìn này thì những năm 20, chúng ta đã có những mầm
mống đầu tiên của một nền tiểu thuyết mới. Những năm đầu thế kỷ, bên cạnh
khuynh hướng tiểu thuyết hợp pháp được lưu hành công khai còn có tiểu
thuyết cách mạng phải lưu hành bí mật trong quần chúng. Trong thời kỳ 1900
– 1930, tiểu thuyết lịch sử tuy viết về quá khứ của dân tộc nhưng lại mang
một ý nghĩa rất hiện đại “chúng ta đã hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã
qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và chỉ ra trong tương lai của ta”
(Bielinxki). Đó là các nhiệm vụ của nhà văn nhà thơ, khi họ khai thác đề tài
lịch sử. Phản ánh trung thành những nhân vật và thời đại quá khứ - đó là
nguyên tắc sáng tác thể loại tiểu thuyết lịch sử.
Từ những nội dung nêu trên ta soi rọi vào tiểu thuyết Trùng Quang tâm
sử để thấy được đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử và phi lịch sử ở chỗ nào.
Trùng Quang tâm sử ra đời trong những năm đầu thế kỷ XX. Thời gian ra đời
của tác phẩm chưa được xác định một cách cụ thể. Đây là câu chuyện khởi
nghĩa chống quân Minh của một số anh hùng hào kiệt ở Nghệ An lấy danh
nghĩa nhà Trần để mưu khôi phục đất nước. Đây đồng thời cũng là một cuốn
tiểu thuyết lịch sử có tính luận đề cách mạng. Trên câu chuyện của quá khứ
của lịch sử người viết lại luôn luôn hướng về hiện đại. Bởi mục đích chính là
kêu gọi đồng bào trong nước đứng lên làm cách mạng. “Hỡi quốc dân ta! Hỡi
đồng bào ta! Dậy mà nghe tôi kể chuyện đời xưa (…)Ôi! Chuyện tổ tiên ta có
quan hệ với ta, mật thiết biết chừng nào (…) Tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa
giận, giết giặc rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô lấy lại quyền chủ nhân đất nước
vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta (…).Hai mươi chương sách đều
là những màn cảnh sinh động thổ lộ hết nỗi đắng cay nhục nhã của cả một dân
tộc đang oằn mình dưới gót lũ xâm lăng. Chuyện đời xưa nhưng hễ có dịp là
tác giả lại nhắc lại. Như vậy đối chiếu với những nguyên tắc sáng tác của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những nhà văn hiện thực chủ nghĩa thì trong tiểu thuyết lịch sử của mình, tác
24
giả đã phản ánh trung thành những nhân vật và thời đại quá khứ. Phan Bội
Châu đã hiện đại hóa thời đại và nhân vật của mình. Những đoạn nói về đời
sống trụy lạc, tủi hổ hết chỗ nói của các cô gái điếm, hay về chuyện một làng
công giáo góp trâu góp của cho trại Trùng Quang đều không phù hợp với lịch
sử nước ta những năm đầu thế kỷ XV. Đó là còn chưa tính đến một lối ngôn
ngữ hiện đại được sử dụng trong tác phẩm. “phàm đảng cách mạng, thì chỉ
nên nhớ trong lòng, không nên chép ra giấy, vì viết ra như vậy không lợi cho
các đồng chí” [75,39]. Hay là “Mục đích cuối cùng của kẻ đại trượng phu là
phải làm cách mạng”[75,38]. Cuộc họp mặt của bốn mươi chín vị anh hùng
vào một đêm trăng trong khu rừng Cát Ngạn để trù tính chuyện chống Minh
(thế kỷ XV) mà lại phảng phất cái không khí của cuộc hội nghị bí mật của
Duy Tân hội (1904) và của Việt Nam Quang Phục hội (1912) ở đầu thế kỷ
này. Cuốn tiểu thuyết lịch sử này đã phản ánh một số mặt đời sống thực tế của
nhân dân ta những năm đầu thế kỷ. Chương trình hoạt động của những người
yêu nước trong hội Trùng Quang cũng na ná như chương trình cách mạng của
Duy Tân hội. Và những người nữ anh hùng trong cuốn tiểu thuyết này cũng
có thể làm ta liên tưởng đến những nữ đồng chí của Phan Bội Châu như Bạch
Liên, Ấu Triệu… Đó là còn chưa kể đến những vùng quê hương xứ Nghệ của
Phan Bội Châu. Như vậy việc hiện đại hóa lịch sử không phải là do vô thức
mà do dụng tình của tác giả có như vậy thì qua những câu chuyện “dớ dẩn”
độc giả mới dễ nhận biết là khi tập sách kể chuyện xưa – nói đến giặc Ngô ở
thế kỷ XV nhưng thực chất là nhằm vào ngày nay mà mục tiêu là giặc Pháp.
Như vậy xét về mặt hình thức, Trùng Quang tâm sử là một cuốn tiểu
thuyết lịch sử (kể chuyện của quá khứ, lối kết cấu chương hồi …). Song xét ở
phương diện nội dung tác phẩm lại mang tính phi lịch sử (thời đại, nhân vật
được hiện đại hóa, quan điểm tư tưởng hoàn toàn mới … ). Sự kết hợp giữa
nội dung và hình thức, giữa cũ và mới, truyền thống và hiện đại làm nên sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độc đáo của tác phẩm.
25
Chƣơng 2
CÁC PHƢƠNG DIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TIỂU THUYẾT TRÙNG QUANG TÂM SỬ
2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật
2.1.1. Điểm nhìn từ bên ngoài - điểm nhìn chi phối thế giới nghệ thuật
Trùng Quang tâm sử
Không thể hiểu sâu sắc tác phẩm văn học nếu ta không tìm hiểu điểm
nhìn nghệ thuật bởi lẽ, để miêu tả, trần thuật, nhà văn buộc phải xác định, lựa
chọn điểm nhìn hợp lý. Trong văn học, điểm nhìn trần thuật được hiểu là vị trí
người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. Người ta có
thể nói đến điểm nhìn qua các bình diện vật lý, bình diện tâm lý (điểm nhìn
bên trong hay điểm nhìn bên ngoài, giới tính, lứa tuổi… ), qua trường nhìn
(của tác giả hay của nhân vật)… Trong tác phẩm, việc tổ chức điểm nhìn trần
thuật bao giờ cũng mang tính sáng tạo cao độ. Trên thực tế, có rất nhiều
trường hợp giá trị của tác phẩm bắt đầu từ việc nhà văn cung cấp cho người
đọc một cách nhìn mới về cuộc đời.
“Điểm nhìn” là một khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt ở
Anh và Mĩ. Theo M. H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học – A
Glossary of librature terms), điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một
câu chuyện được kể đến .
Nhìn “từ bên ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài) đây là điểm nhìn
của người kể chuyện khi anh ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ không rõ
tâm lý nhân vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác.
Trùng Quang tâm sử là một tập tiểu thuyết. Yếu tố tưởng tượng có một
tác dụng, một địa vị rõ rệt trong công trình cấu tạo. Nhưng đây không phải bộ
tiểu thuyết lịch sử, nhằm mục đích khêu gợi bầu không khí hay xây dựng lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc sống xã hội của thời kì đã qua. Đây cũng không phải một tập phưu lưu kí
26
với những đoạn lạc bất ngờ, những tình cảnh hồi hộp. Lại càng không phải là
một tập tiểu thuyết tâm lý với những tâm trạng phức tạp trong một khung
cảnh nhất định về không gian, thời gian. Trái lại trong động tác, trong lời nói,
trong thái độ sống, trong quan niệm nhân sinh của các nhân vật và ngay trong
địa điểm và thời gian hoạt động của bấy nhiêu con người, bạn đọc sẽ luôn
“vấp” phải những tiết mục “phản lịch sử” khá ngộ nghĩnh. Nhưng chúng ta
vẫn thấy rằng: bấy nhiêu “lầm lỗi” không phải là vô ý thức, mà chính là dụng
tình của tác giả. Tác giả biết rằng: có như thế, mới dành cho người đọc những
câu chuyện “dớ dẩn” để tủm tỉm một nụ cười hiểu nhau; có như thế, mới ám
thị cho độc giả biết là, khi tập sách nói đến “giặc Ngô”, mũi súng vẫn nhe
nhắm vào thực dân Pháp mà bắn.
Cuốn tiểu thuyết này là một “tờ chứng”. Khung cảnh lịch sử ở đây
là đời sống của nhân dân Việt Nam trong thời kì mất nước vào khoảng
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Sự phiền hà trong thủ đoạn vơ vét của dị
tộc cướp nước thuế nặng sưu cao, làm cho nông thôn xơ xác, khốn cùng,
chính sách đàn áp dã man đối với những người yêu nước, yêu tự do, bộ
máy hành chính của kẻ thống trị với những quyền hành không giới hạn, tư
thế hống hách của bọn quan lại cai trị, thái độ bỉ ổi của lũ người cầu cạnh
bôn xu, đều là những màn cảnh sinh động, thổ lộ hết nỗi nhục nhã, đau
đớn của cả một dân tộc đang quằn quại dưới gót giày tàn bạo của quân
thù. Nhưng hễ có dịp là tác giả lại nhắc nhở cho ta đừng xem câu chuyện
này như một chuyện ngày xưa. Ngay từ mấy lời mở đầu, sau khi nhắc lại
công cuộc chống nhà Minh của “tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa giận”…, “lấy
lại quyền chủ nhân đất nước vốn có từ xưa”, thì tác giả nói thêm ngay:
“Về sau, đến năm Hàm Nghi nguyên niên thì lại mất”.
Đoạn kể chuyện ông Kiên lừa bọn lính ngục cứu anh Tinh, anh Lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
và anh Phấn ra khỏi nhà ngục (tiết II) kết thúc với mấy câu: “Ở nước ta,
27
500 năm trước đây,thuật chụp ảnh chưa có, nhân tâm còn chất phác, nghề
mật thám hãy đơn sơ. Nếu như ngày nay, dưới con mắt của lũ chó săn, e
cũng chả có đường trốn thoát…”[75,38]. Trong khi giới thiệu lý lịch bà
Triệu, một nữ đảng viên (tiết X) và nói đến đời sống trụy lạc, tủi hổ hết
chỗ nói của các cô gái điếm (chế độ này làm gì đã có từ hồi thế kỷ XV ?)
tác giả chua thêm hai dòng chữ nhỏ : “Nghe nói ngày nay ở Nam Kỳ, lớp
gái điếm hạng bét cũng phải nếm mùi cay đắng ấy !”
Nhưng tập Trùng Quang tâm sử không hề có ý vị một pho “lệ sử”.
Thế hệ thanh niên nhà nho yêu nước đầu thế kỷ này không phải chỉ là
những con người ngồi rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ
rách”. Họ đã quyết đem tâm huyết, đem tính mạng mà chuộc lại non sông
Tổ quốc. Từ ngày 17 tuổi, cậu thanh niên Phan Văn San đã viết bài Bình
Tây thu Bắc (Dẹp giặc Tây, lấy lại Bắc Kỳ). Bắt tay vào việc tổ chức hội
Duy Tân, Phan tiên sinh, lãnh tụ “phái kịch liệt”, đã có lúc trù tính kế
hoạch (cũng như các tay anh hùng trong cuốn chuyện này) định đánh lấy
tỉnh thành Nghệ để làm căn cứ đầu tiên cho cuộc vận động phục quốc. Tập
chuyện có tính chất tiểu thuyết địa phương, đặc biệt xứ Nghệ. Những nhân
vật chính là người Nghệ. Trường sở hoạt động chính của họ là ở Nghệ. Địa
điểm xuất phát của nghĩa quân là miền trên xứ Nghệ và công cuộc phục
quốc cũng mới “làm” được đến tỉnh Nghệ mà thôi.
Từ khi được hoàn thành, tác phẩm đã ngủ một giấc dài hơn nửa thế kỷ.
Điều đó không có gì là khó hiểu. Khi nước nhà đã mất quyền tự chủ, thì một
tác phẩm có đả động đến nỗi đau khổ căm hờn, hi vọng giải phóng của những
người mất nước, là được liệt ngay vào loại “yêu thư yêu ngôn”. Pháp luật thực
dân lợi dụng bọn phong kiến làm nanh vuốt thanh trừ loại văn đó, truy tố, hãm
hại những con người đã viết ra những “tập xích nguy hiểm” như vậy.
Tuy vậy, tất cả thủ đoạn áp bức, khủng bố đó vẫn không tiêu diệt được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tinh thần nhân đạo của những tác phẩm ưu tú. Và cũng chính vì có nội dung
28
lành mạnh nên cuốn “dật sử” này được người ta chép lấy và giữ lại cho đến
ngày nay, để được phiên dịch ra tiếng Việt và giới thiệu với độc giả.
2.1.2. Cái nhìn của tác giả về quá khứ và mối quan hệ với hiện tại
“Trùng Quang Tâm Sử” ra đời trong những năm đầu thế kỷ XX. Theo
lời “tựa” đã nói, đây là một câu chuyện lịch sử nước nhà, lâu ngày thất lạc
(dật sử) mà tác giả góp nhặt và kể lại theo tập “dã sử chữ Thổ”.
Lấy cảm hứng từ cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. “Nước
ta, về cuối đời nhà Trần, vì họ Nhuận Hồ làm bậy, giặc Ngô xâm chiếm đất
nước hơn mười năm. Đất đai và nhân dân tự do của chúng ta, phầm lớn bị dị
tộc giày xéo. Buổi ấy, cha con, anh em của tổ tiên ta bị khốn khổ trong nhà
ngục, sống kiếp trâu ngựa, tôi đòi. Những nỗi đau khổ nhục nhã đã trải qua,
còn có phần bằng mười tình cảnh chúng ta ngày nay nữa kia”[75,34].
“Trùng Quang Tâm Sử” ra đời vào khoảng thời gian 1905 đến 1913.
Đây là một câu chuyện khởi nghĩa chống quân Minh (đầu thế kỷ XV) của một
anh hùng hào kiệt ở Nghệ An lấy danh nghĩa nhà Trần để mưu khôi phục đất
nước. Đây đồng thời cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử có tính luận đề cách
mạng. Trên câu chuyện của quá khứ, của lịch sử người viết lại luôn hướng về
hiện tại. Bởi mục đích chính là kêu gọi đồng bào trong nước đứng lên làm
cách mạng. “Hỡi quốc dân ta! Hỡi đồng bào ta! Dậy mà nghe tôi kể chuyện
đời xưa (…) Ôi! Chuyện tổ tiên ta, có quan hệ với ta, mật thiết biết chừng nào
(…) tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa giận, giết giặc rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô,
lấy lại quyền chủ nhân đất nước vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta.
Về sau đến năm Hàm Nghi nguyên niên triều nhà Nguyễn thì lại mất.
Đến nay, đọc bài Bình Ngô đại cáo, xem sử sách nhà Lê, còn cảm thấy
cây cỏ đều thiêng, non sông mở mặt. Ôi, sao mà thịnh vậy! Công lao của tổ
tiên chúng ta rực rỡ biết dường nào, oanh liệt biết dường nào[75,33].
Hai mươi chương sách đều là những màn cảnh sinh động thổ lộ hết nỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đắng cay nhục nhã của một dân tộc đang oằn mình dưới gót lũ xâm lăng.
29
Chuyện của đời xưa nhưng hễ có dịp là tác giả đọc, Như vậy, đối chiếu với
những nguyên tắc sáng tác của những nhà văn hiện thực chủ nghĩa thì trong
tiểu thuyết lịch sử của mình Phan Bội Châu đã hiện đại hóa thời đại và nhân
vật của mình. Những đoạn nói về cuộc sống trụy lạc, tủi hổ hết chỗ nói của
các cô gái điếm, hay chuyện một làng công giáo góp trâu, góp của cho trại
Trùng Quang đều không phù hợp với lịch sử nước ta những năm đầu thế kỷ
XV. Đó là chưa tính đến một lối ngôn ngữ hết sức hiện đại được sử dụng
trong tác phẩm. Chẳng hạn: “phàm đảng cách mạng chỉ nên ghi nhớ trong
lòng. Không nên chép ra giấy, vì viết ra như vậy nhỡ lộ không có lợi cho các
đồng chí”[75,39] hay là “Mục đích cuối cùng của bậc đai trượng phu là phải
làm cách mạng” … Cuộc họp của bốn mươi chín vị anh hùng vào một đêm
trăng trong khu rừng Cát Ngạn để trù tính chuyện chống Minh (thế kỷ XV)
mà lại phảng phất cái không khí của cuộc hội nghị bí mật Duy Tân hội (1904)
và của Việt Nam Quang Phục hội (1912) ở đầu thế kỷ này. Ta thấy, người viết
không hề băn khoăn chuyện này ông đã phát huy cao độ tính hư cấu sáng tạo
của người viết tiểu thuyết lịch sử. Ông đã cố tình hiện đại hóa nhân vật, hiện
đại hóa thời đại để luôn luôn nhắc nhở đồng bào ta luôn nhớ đến cái thực tại
đau đớn của dân tộc dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Đây thực sự là
dụng ý chân thật mà tác giả gửi gắm qua tập sách. Cuốn tiểu thuyết lịch sử
này, thực ra đã phản ánh một số mặt của đời sống thực tế của nhân dân ta
những năm đầu thế kỷ. Chương trình hoạt động của những người yêu nước
trong hội Trùng Quang cũng na ná như chương trình cách mạng của Duy Tân
hội và những nữ anh hùng trong cuốn tiểu thuyết này cũng có thể làm ta liên
tưởng đến những nữ đồng chí của Phan Bội Châu như Bạch Liên, Ấu Triệu…
Đó là chưa kể đến những vùng quen thuộc trên quê hương xứ Nghệ của Phan
Bội Châu. Như vậy thì việc hiện đại hóa lịch sử không phải do vô thức mà do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dụng tình của tác giả cố tình vi phạm khuyết điểm để phục vụ cho nhu cầu
30
chính trị nhất định (trong hoàn cảnh thực dân Pháp thống trị nước ta). Có như
vậy thì qua những câu chuyện “dớ dẩn”, độc giả mới dễ nhận biết là khi tập
sách kể chuyện xưa – nói đến giặc Ngô ở thế kỷ XV nhưng thực chất là nhằm
vào ngày nay mà mục tiêu là giặc Pháp.
Cuốn tiểu thuyết là một “tờ chứng”. Khung cảnh lịch sử của nhân dân
trong thời kì mất nước vào khoảng cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Cuộc sống
nhân dân lầm than, cơ cực dưới ách thống trị của ngoại xâm nhân dân mất hết
quyền tự do, dân chủ, chủ quyền, cương vực lãnh thổ của đất nước lung lay.
Trùng Quang tâm sử là một tiểu thuyết có ý nghĩa luận đề, một luận đề
về cách mạng Việt Nam. Kể chuyện cũ để nói chuyện mới: “tổ tiên ta đã nuôi
chí, chứa giận, giết giặc, rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô, lấy lại quyền chủ nhân
đất nước vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta. Về sau đến năm Hàm
Nghi nguyên niên triều nhà Nguyễn thì lại mất.
Đến nay, đọc bài Bình Ngô Đại cáo, xem sử sách nhà Lê, còn cảm thấy
cày cỏ đều thiêng, non sông mở mặt,... công lao của tổ tiên chúng ta rực rỡ
biết chừng nào, oanh liệt biết chừng nào!”
Tập “Dật sử đời Hậu Trần” này không hề có ý vị một pho “lệ sử”. Thế
hệ thanh niên nhà nho yêu nước đầu thế kỉ này không phải chỉ là những con
người ngồi rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách”. Họ quyết
đem tâm huyết, đem tính mạng mà chuộc lại non sông tổ quốc.
Công việc cứu quốc là công việc của toàn dân. Con người cứu quốc là
con người anh hùng. “Xã hội đúc nên anh hùng, anh hùng tạo nên thời thế. Vì
có nhân mà được quả. Rồi có quả lại sinh ra nhân”. Con người anh hùng đời
Hậu Trần trong tập sách này không phải hoàn toàn là dòng dõi quý tộc mà là
những con người chịu nhiều bất hạnh.
Ông Xí (là Cường Quốc công Lê Xí sau này) cũng như các bậc nông
dân, các chị phụ nữ, các ông thợ rèn trong tiểu thuyết đã cảm thấy rõ nỗi chua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cay, đau khổ của những “người không nước”, vì đất họ cày, nghề nghiệp họ
31
làm, dưới thời kì đô hộ, đã bị người ngoài tước đoạt. Anh Phúc, anh Thắng,
hai ngụy binh đi về với hàng ngũ cách mạng vì họ đã mắt nhìn thấy rằng: cái
“mạng người An Nam không bằng con ngựa của tên quan cai trị”.
Như vậy, xét về mặt hình thức, “Trùng Quang tâm sử” là một cuốn tiểu
thuyết lịch sử (thời đại, nhân vật được hiện đại hóa, quan điểm tư tưởng hoàn
toàn mới…). Sự kết hợp giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, giữa
cũ và mới, truyền thống và hiện đại làm nên sự độc đáo của tác phẩm. Câu
chuyện cuối Trần chỉ là cái cớ để tác giả nói chuyện thời đại, chuyện đất nước
đang nằm trong vòng kìm kẹp của thực dân Pháp. Mục đích của tác giả là
thức tỉnh nỗi đau, nỗi nhục mất nước trong nhân dân và từ đó cổ vũ, động
viên, khuyến khích nhân dân đứng lên làm cách mạng. Cũng qua câu chuyện
này Phan Bội Châu thể hiện quan điểm về dân sinh, dân chủ trong hoạt động
cách mạng nói riêng và trong xã hội nói chung cũng như quan điểm anh hùng
hết sức mới mẻ, tiến bộ.
Công cuộc dẹp giặc để lấy lại nước nhà, khi chúng ta khép tập sách lại
vẫn còn bỏ dở, chưa phải là đã đi tới thắng lợi. Tác giả lại còn nhắc đến kết
cục thất bại của vua Trùng Quang (Trần Quý Khoáng) phải chăng từ ngày
mới bắt tay vào việc cụ Phan Sào Nam đã có cái dự cảm là rồi đây cũng sẽ đi
tới kết cục “nhất sự cánh vô thành”? là đời cụ sẽ “chỉ là một đời thất bại”?
Nhưng cũng nên nói rằng: tác giả tập “dật sử” cũng là người tin tưởng hơn ai
hết vào tiền đồ của tổ quốc. Trong đoạn cuối của tập này, tác giả cũng đã báo
trước tin thắng lợi của Lê Hoàng. Thông qua câu chuyện tác giả muốn đánh
thức đồng bào “Dậy! Dậy! Dậy” Ba chữ mở đầu cho tập sách và cũng là ba
chữ kết thúc.
Đây là ý nghĩa luận đề - luận đề về cách mạng Việt Nam những năm
đầu thế kỷ mà Phan Bội Châu muốn đề cập đến trong tiểu thuyết này. Có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói lịch sử thời kỳ này là bước tiếp theo của tiểu thuyết truyền thống và là cơ
32
sở cho tiểu thuyết hiện đại phát triển rực rỡ trong thời kỳ sau (những năm
1930 – 1945 trở đi) “Trùng Quang tâm sử” là tiểu thuyết bản lề mang tính
thắt nút cho tiểu thuyêt cũ thời trung đại và mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại.
Một trong những người đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là
Phan Bội Châu. Chúng ta phải nghi nhận đóng góp to lớn của Phan Bội Châu
về phương diện này.
2.2. Tổ chức nhịp điệu trần thuật
2.2.1. Phối hợp các thành phần mang tính động và tĩnh trong trần thuật
Nhịp điệu trần thuật là một nội dung trong lý thuyết về tự sự nói chung.
Nhịp điệu trần thuật liên quan tới vấn đề kết cấu văn bản ngôn từ. Kết cấu văn
bản cùng với kết cấu hình tượng làm cho việc kể chuyện phải đạt được yêu
cầu tạo hình và biểu hiện, để có khả năng tái hiện bức tranh đời sống và thể
hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả một cách tối đa
Trong tác phẩm tự sự, các sự kiện (các cuộc gặp gỡ, hành động, biến cố
có khả năng làm cho nhân vật hành động và biến đổi về suy nghĩ, cảm xúc,
nhận thức, thậm chí cả số phận) như những thành phần cơ bản của cốt truyện,
thay thế lẫn nhau một cách năng động, thể hiện dòng chảy của đời sống hiện
thực, góp phần làm cho cốt truyện phát triển có thể gọi các sự kiện là thành
phần mang tính chất động trong cốt truyện. Sự kết tiếp của chúng làm cho câu
chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Song việc trần thuật cốt truyện không chỉ dừng lại ở những sự kiện, ,mà
còn chú ý tới các thành phần khác, mang tính chất tĩnh tại như các đoạn giới
thiệu tiểu sử nhân vật, miêu tả chân dung ngoại cảnh (đồ vật, môi trường thiên
nhiên), tái hiện tâm trạng, các đoạn đối thoại, độc thoại, bình luận trực tiếp
của các tác giả, các đoạn trữ tình ngoại đề, các câu chuyện được kể xen vào,...
Sự phối hợp luân phiên xen kẽ các thành phần mang tính động và tĩnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong trần thuật sẽ tạo nên nhịp điệu trần thuật.
33
Sự luân phiên các thành phần đó có thể nhanh hoặc chậm, tuỳ thuộc
vào bức tranh tạo hình và biểu hiện của thế giới được miêu tả. Như vậy nhịp
điệu trần thuật trước tiên thể hiện qua tốc độ trần thuật.
Nhịp điệu trần thuật có thể lúc chậm rãi, đều đều, lúc lại nhanh chóng,
gấp gáp.
Nếu như người kể tập trung vào các sự kiện, nghĩa là chú ý tới thành
phần mang tính động thì tốc độ trần thuật sẽ nhanh. Còn nếu dừng lâu ở các
thành phần tĩnh tại, mở rộng miêu tả, bình luận với các câu chuyện xen vào
thì tốc độ trần thuật trở nên chậm rãi.
Tập Hậu Trần dật sử kể về quá trình thành lập, phát triển và đi đến
thắng lợi của nghĩa quân trại Trùng Quang, tác phẩm được chia thành hai
mươi ba tiết, mỗi tiết lại gắn với những sự kiện và địa điểm cụ thể, mỗi tiết
thể hiện những yếu tố của nhịp điệu trần thuật như xen kẽ các thành phần
động và tĩnh, tốc độ trần thuật, những trọng tâm, điểm nhấn, điểm dừng và sự
lặp lại như những chủ âm cảm xúc.
Những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên được miêu tả với nhịp
điệu chậm rãi. “Mặt trời sáng sớm mới nhô trên mặt biển, sương mai còn
đọng giọt xuống cây rừng. Trời về mùa đông gió rét như cắt”. “Chập tối,
chim bay về tổ, cành lá la đà, ngọn đèn to lớn kia đã lơ lửng trên bầu trời, toả
ánh sáng xuống mặt sân sơn trại”.
Hay những đoạn miêu tả nhân vật, những cuộc hội họp tố cáo tội ác kẻ thù,
được miêu tả với nhịp điệu chậm rãi; những đoạn kể về số phận các nhân vật.
Trong cuộc họp của các anh hùng sơn trại mọi người đều cố gắng đến
sớm, duy chỉ có anh Phấn đến muộn. “Mọi người chờ đợi hơn nửa tiếng đồng
hồ, thì ở ngoài cửa trại nghe có tiếng chân thình thịch, bỗng thấy bóng hai
người hiện ra, đi trước là một chàng thanh niên vạm vỡ, theo sau là một cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gái đẹp, trạc chừng 18,19 tuổi”. Khi hai người bước vào không khí buổi họp
34
lúc đầu rất căng thẳng, ai cũng trách tại sao Phấn đến muộn, sao lại cho phụ
nữ đi cùng nhất là trong buổi họp quan trọng có tính chất quyết định như đêm
nay “Mọi người đều bực lắm, kẻ cười, kẻ mắng, kẻ mỉa mai xôn xao cả hội
trường”. Không khí hội trường trở nên im lặng khi nghe Chí kể về số phận bất
hạnh của mình và gia đình… Những đoạn được viết với nhịp nhanh: cuộc tiến
công của nghĩa quân Trùng Quang khi đánh chiếm thành, khí thế chiến đấu,
quyết tâm đấu tranh của quân dân Trùng Quang, những cuộc gặp gỡ, những
biến cố trong số phận các nhân vật nói riêng và đông đảo nhân dân Trùng
Quang nói chung.
Nhịp điệu trần thuật được sử dụng rất thành công trong đoạn văn đã tạo
ra những hiệu quả nhất định, lúc căng thẳng, gay cấn, lúc lại chậm rãi của
như những phút thư giãn cho người đọc khi vừa trải qua những trận chiến ác
liệt… điều này làm cho tác phẩm không nhàm chán mà tạo lên hứng thú cho
độc giả.
2.2.2. Tổ chức các yếu tố thời gian
Thời gian là khái niệm chỉ sự tồn tại của vật chất, gắn với sự việc, hoạt
động, thời gian luôn hoạt động không ngừng, không quay ngược lại và không
tồn tại riêng biệt.
Nếu thời gian cơ học được đo bằng ngày, giờ, phút… mang tính chính
xác, không thay đổi thông qua cảm nhận của con người, thời gian có thể là
“khoảng”, “chừng” hoặc cùng một đơn vị thời gian cơ học nhưng qua cảm
quan của con người nó có thể dài, ngắn, nhanh, chậm khác nhau.
Theo A. J. A. Gurevich khái niệm thời gian “thể hiện đầy đủ cảm quan
và thế giới của thời đại, hành vi của con người ý thức của nó, nhịp của cuộc
sống, thái độ với sự vật.
Khái niệm thời gian không chỉ mang tính vật lý, cơ học mà còn mang
tính chủ quan của con người. Thời gian chỉ có thể đo được, cảm nhận được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chứ không thể nắm bắt và nhìn thấy được.
35
Theo Trần Đình Sử, thời gian nghệ thuật là một yếu tố nghệ thuật của
tác phẩm “vừa là phương diện của đề tài, vừa là một trong những nguyên tắc
cơ bản để tổ chức tác phẩm.
Theo từ điển thuật ngữ văn học “thời gian nghệ thuật là hình thức tồn
tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó… khác với thời
gian khách quan được đo bằng đồng hồ, lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén
một khoảnh khắc dài, cái chốc lát thành cái vô tận. Thời gian nghệ thuật được
đo bằng đồng hồ, lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá
khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảnh khắc dài
trong chốc lát, có thể kéo dài cái chốc lát thành cái vô tận. Thời gian nghệ
thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các
hình tượng nghệ thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện
thì thời gian trôi nhanh, khi nào chững lại để miêu tả chi tiết thì thời gian
dừng lại”.
Nhìn chung, thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật mang
nhiều tính chủ quan, ước lệ, thể hiện – cảm quan của tác giả về thế giới và con
người. Thời gian trong tác phẩm thể hiện tính thẩm mĩ trong cách cảm nhận
cuộc sống và tư tưởng tác giả.
Thời gian nghệ thuật không đồng nhất với thời gian khách quan được
đưa vào tác phẩm, thời gian nghệ thuật được nhào nặn sáng tạo cho phù hợp
với ý đồ sáng tác. loại thể và phong cách tác giả. Điều này tạo sự đa dạng,
sinh động cho thời gian trong tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm được tổ chức chặt chẽ là yếu tố
không thể thiếu trong cấu trúc tác phẩm, đồng thời giúp cho việc liên kết các
yếu tố trong tác phẩm được chặt chẽ hơn.
Thời gian nghệ thuật có đầy đủ các đặc trưng của thời gian, cũng vận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
động theo 3 chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng thời gian nghệ thuật
36
không nhất thiết phải tuân theo sự nghiêm ngặt của thời gian tự nhiên mà nó
có thể dài, ngắn, nhanh, chậm tùy theo cảm nhận của tác giả. Có khi trăm năm
chỉ như thoáng chốc, như giấc mộng. Nhưng cũng có khi một giờ, một phút,
thậm chí một giây lại dài vô tận. Thời gian dồn nén hay kéo căng ra là do ý đồ
của tác giả khi miêu tả, khắc họa.
Nếu Vạn Hạnh Quốc sư quan niệm “thân như điện ảnh hữu hoàn vô”
(có nghĩa là “thân như bóng chớp có rồi không”) đời người là chốc lát, thoáng
qua, thế nhưng qua sự miêu tả của Nguyễn Du một đêm lại rất dài “Đêm thu
đằng đẵng nhặt cài then mây”.
Trong tác phẩm có thể bỏ qua một hoặc hai trong ba chiều vận động
của thời gian khách quan. Nếu thời gian tự nhiên luôn vận động phát triển
không ngừng thì trong tác phẩm có thể làm sống lại quá khứ hoặc hướng tới
tương lai. trong tác phẩm có thể cùng tồn tại ba dạng thời gian: quá khứ, hiện
tại, tương lai.
Mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác phẩm văn học có sự biểu hiện thời gian
nghệ thuật khác nhau, thể hiện sự đa dạng của yếu tố nghệ thuật này.
Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người
trong từng thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển. Nó thể hiện sự cảm thụ
độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới, làm
cho người đọc hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm
vào quá khứ. Thiếu sự cảm thụ, tưởng tượng của người đọc, thời gian nghệ
thuật không xuất hiện. Như vậy, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
tác giả bằng phương tiện nghệ thuật. Nó thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo
của người nghệ sĩ.
Vấn đề thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có hai mặt cơ bản
quan niệm thời gian của nhà văn và tổ chức thời gian của tác giả trong của tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phẩm. Nó có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghệ thuật của nhà văn. Tổ chức
37
thời gian chính là cách xử lý thời gian, trong tác phẩm văn học của nhà văn để
tạo ra thời gian nghệ thuật theo ý đồ của tác giả.
Như vậy có thể nói, thời gian trong tác phẩm văn học là sự cảm nhận
của tác giả, nó đi vào nghệ thuật cùng cuộc sống được phản ánh, là ý thức
nghệ thuật của nghệ thuật.Nhưng thời gian nghệ thuật không phải là một khái
niệm trừu tượng mà là một hình tượng nghệ thuật sinh động, nó không chỉ là
cái dùng để phản ánh mà còn là cái được phản ánh. Do đó thời gian nghệ thuật
vừa mang những đặc tính của thời gian hiện thực, thời gian khách quan – tức là
nó có nhịp độ, có chiều hướng , có thể xác định được bằng các đại lượng… vừa
là một hình tượng nghệ thuật bởi nó có tính chất ước lệ nhất định.
Tổ chức các yếu tố thời gian đó là việc xử lí mối quan hệ giữa thời
gian thực tế và thời gian trần thuật. Thời gian thực tế diễn ra theo tuyến tính,
theo trình tự, liên tục, đều đặn. Thời gian trần thuật có chỗ đảo trình tự, đứt
đoạn, trình bày song song, lúc nhanh lúc chậm, có lúc dừng lại, đi vào một
mạch rẽ nào đó. Thời gian trần thuật tạo ra nhịp điệu trần thuật so với độ dài
thời gian thực tế.
Tại các thời điểm trên trục thời gian tuyến tính tác giả sẽ tạo ra vô vàn
các móc nối để phát triển, đan cài các chi tiết, hình ảnh, cảm giác, suy nghĩ.
Trên những trục thời gian ấy, một quãng thời gian trần thuật (dù ở quá khứ
hay hiện tại dù dài hay ngắn) được coi như một trường đoạn nhịp thời gian cơ
bản mà mỗi trường đoạn ấy đều có những trọng tâm, điểm nhấn (thường là
một biến cố đặc biệt làm xao động cảm xúc và hoàn cảnh hiện tại của nhân
vật) và phút lặng (kéo dài các đoạn tả cảnh, bình luận) và sự lặp lại mang tính
định kỳ như một chủ âm.
Thời gian thực tế trong tác phẩm là hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ
XIV – XV được đặt trong mối tương phản với thời gian trong quá khứ – thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kì vàng son của dân tộc. Thời gian trần thuật “kể chuyện đời xưa” có sự móc
38
nối với thời gian hiện tại vì tổ tiên ta anh hùng thì hậu nhân của chúng ta cũng
phải anh hùng.
Chứng kiến tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của Chí và Triệu
tác giả liên tưởng về một thời oai hùng của bà Trưng, bà Triệu “Đồng bào ta,
nhân dân ta, ai là không thù giết giặc Ngô. Chúng nó giày xéo lên quyền tự
do của đồng bào chúng ta, như bánh xe lăn trên bùn. Những hoa tươi rực rỡ,
tiền nhân ta để lại cho chúng ta thì tay chúng bẻ, những quả đẹp ngon lành
tiền nhân ta dành cho chúng ta, thì miệng chúng ăn. Những của tinh hoa phú
quý báu chúng đều cướp làm của chúng. Còn nhân dân chúng ta, thì chỉ làm
bò kéo xe chở phân, dọn rác cho chúng mà thôi”[75,46].
Chiến thắng của nghĩa quân Trùng Quang có nguyên nhân sâu xa từ
truyền thống yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm và tinh thần đoàn kết của dân
tộc. Đây là cội nguồn của thành công không chỉ trong cuộc chiến với giặc
ngoại xâm mà còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng một trật tự xã hội
mới tươi đẹp cho dân tộc.
Như vậy, qua mối tương quan giữa hiện thực và quá khứ ta thấy rõ
thông qua công cuộc bình Ngô này tác giả muốn đánh thức tinh thần đấu
tranh của dân tộc đang sống kiếp lầm than.
2.3. Nghệ thuật kết cấu
Kết cấu được hiểu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác
phẩm(…) không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên
ngoài giữa những bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm (…) bao gồm: tổ
chức hệ thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật; nghệ
thuật tổ chức những liên kết cụ thể các thành phần của cốt truyện… sao cho
toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật”. Như vậy, kết
cấu tác phẩm là toàn bộ quá trình tổ chức tác phẩm để đạt được mục đích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phản ánh sáng tạo của mỗi nhà văn. Kết cấu trong tác phẩm không bao giờ
39
tách rời nội dung cuộc sống, tư tưởng, tình cảm. Kết cấu là một thành tố
mang tính tổng hợp.
Mặt khác, kết cấu còn là phương tiện khái quát nghệ thuật. Một vấn đề
quan trọng ta đã gặp trong nhiều tác phẩm: nhà văn không chỉ xây dựng các
hình tượng nghệ thuật mà thông qua hình tượng để gửi gắm những bức thông
điệp với cuộc đời. Nhà văn có thể không được lưu tâm, tên tuổi của anh ta mờ
nhạt dần nhưng hình tượng tiêu biểu, những vấn đề then chốt thì luôn có sức
sống và giá trị thẩm mĩ. Chính vì tính khái quát của tác phẩm mà mỗi nhà văn
đều đầu tư chăm chút để làm sao vấn đề chính yếu trong bức thông điệp tư
tưởng của mình được nổi lên hàng đầu. Nói như vậy nghĩa là mỗi kết cấu là
một quá trình vật lộn của nhà văn trước cuộc đời. Quá trình này in vào đó sự
thao thức, suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo.
Như vậy, thứ tự trước sau của các chi tiết không phải là ngẫu nhiên mà
đòi hỏi nhà văn phải tư duy, lựa chọn, sắp xếp. Do vậy, kết cấu phản ánh quá
trình tư duy của nhà văn, sự suy nghĩ của nhà văn: Tư tưởng của mỗi tác giả
bao giờ cũng được thể hiện trong kết cấu và qua kết cấu.
Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử được chia thành hai mươi hai tiết, mỗi
tiết đều chứa đựng những sự kiện cụ thể, có mối liên hệ với nhau tạo nên tính
chỉnh thể về nội dung và hình thức của tác phẩm. Các nhân vật xuất hiện gắn
với những sự kiện cụ thể.
Tiết thứ nhất giới thiệu “ một người rất anh hùng hiện đang làm nghề
rất nhỏ mọn” đó chính là ông Xí từ nhỏ đã có chí khí, căm thù giặc Ngô
xâm lược, lớn lên lại càng hào hiệp ham làm việc nghĩa, tiếp theo là sự xuất
hiện của thiên tài cao học rộng, đảm lược nhiều cứu ba từ nhân bị bắt vì tội
“ngạo với giầy”
Quân Trùng Quang khi đã có cơ sở vững chắc thì lực lượng tham gia
ngày càng đông đảo, tổ chức các trận đánh ngày càng quy mô và thu được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiều thắng lợi.
40
Đầu tiên là hành động giết chết Tuần Kiểm của Xí và Lực, đây là tên
quan ngỗ ngược coi thường tính mạng của người dân An Nam.
Khi các kiên nhi trong trại đã thạo nghề võ nghĩa quân tiến đánh hai
châu Tương Quỳ, Lương Sơn, Thanh Chương giành thắng lợi.... đến việc
chém chết thừa tuyên sứ, sau khi thu phục được thành Nghệ An, tôn ông
Khoáng lên làm vua Trùng Quang, thực hiện những chính sách tiến bộ.
Các sự kiện trong tác phẩm được kể lại theo trình tự thời gian có mở
đầu, diễn biến và kết thúc tạo nên tính chỉnh thể cho tác phẩm. Thông qua
việc tìm hiểu tác phẩm độc giả phần nào đã được sống trong không khí hào
hùng của thế hệ đã qua, góp phần làm phong phú hơn vốn kiến thức lịch sử
dân tộc, đây là thành công rất lớn của tác phẩm trong hoàn cảnh lịch sử nước
nhà dần bị thế hệ trẻ quên lãng như hiện nay, tác phẩm đã đạt tới yêu cầu mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đảng ta đề ra đó là dân ta phải biết sử ta.
41
Chƣơng 3
HƢ CẤU – MỘT YẾU TỐ ĐẶC SẮC TRONG CẤU TRÚC TỰ SỰ
CỦA TRÙNG QUANG TÂM SỬ
3.1. Hƣ cấu trong tiểu thuyết lịch sử
3.1.1. Hư cấu nghệ thuật và mối quan hệ với tính chân thực lịch sử
Hư cấu là phương thức xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng
tạo ra những giá trị mới, những yếu tố mới, như sự kiện, cảnh vật. nhân vật
trong một tác phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây là yếu tố không thể
thiếu của sáng tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ đời
sống nhưng không sao chép nguyên nó. Từ những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ
chức, nhào nặn, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét và
điển hình hơn, tuỳ thuộc chủ đề tác phẩm.
Trước hết nếu các chi tiết được phản ánh trung thực gần như sao chép
sự thật đã, đang xảy ra trong đời sống thực thì cùng lắm đấy chỉ là cuốn biên
niên sử, chứ không phải là một tác phẩm văn học nghệ thuật. Bởi lẽ một thuộc
tính cơ bản nằm ngay trong bản chất cấu thành của tác phẩm văn học nghệ
thuật là sự tưởng tượng chủ quan của người nghệ sĩ. Một mặt người nghệ sĩ
tôn trọng đến mức tối đa sự thật lịch sử và mặt khác bằng cảm xúc, tài năng
cá nhân anh ta phải sáng tạo ra một thế giới thứ hai – Thế giới văn học nghệ
thuật. Nhưng như vậy không có nghĩa nhà văn sao chép nguyên si những sự
kiện đã xảy ra trong đời sống thực.
Khi nói đến sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ cũng có nghĩa là
thừa nhận tính không đồng nhất giữa sự thật lịch sử đã từng tồn tại trong đời
sống thực và các chi tiết, sự kiện đó được phản ánh trong tác phẩm văn học
nghệ thuật. Người nghệ sĩ có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mờ đi một vài chi tiết nào đó phục vụ cho ý tưởng sáng tạo của mình. một
42
chi tiết hay một nhân vật nào đó được thêm vào không nhất thiết là có thật,
ngược lại nó có thể hoàn toàn được tạo nên bởi sự tưởng tượng chủ quan của
người nghệ sĩ cốt sao không trở thành kẻ hoàn toàn xa lạ với cái lịch sử đã
từng tồn tại trong đời sống thực. Hơn thế việc bớt đi hay thêm và các chi
tiết, nhân vật nào đó phải nhằm mục đích tái hiện lại lịch sử ở một cấp độ
cao hơn cái sự thật mà mọi người đã từng biết từ sự trải nghiệm cá nhân hay
từ những cuốn biên niên sử.
Tính không đồng nhất giữa sự thật đã từng tồn tại như nó vốn có trong
đời sống và những chi tiết phản ánh sự thật trong tác phẩm văn học nghệ thuật
chính là hư cấu nghệ thuật – một đặc tính của sáng tạo văn học nghệ thuật.
Trùng Quang tâm sử viết về một đề tài lịch sử. Nhưng đó không phải là
một quyển tiểu thuyết lịch sử: thực tế lịch sử không được tôn trọng. Với dụng
ý thay đổi chủ đề câu chuyện, tác giả đã chỉnh lí cả lịch sử để trình bày một
quan điểm chính trị diễn tả một ước mơ chính trị của mình. Tác giả nhập hai
cuộc khởi nghĩa chống Minh của Trần Quý Khoáng và của Lê Lợi làm một,
biến mưu đồ chống Minh, khôi phục ngôi vua của Trần Quý Khoáng, Đặng
Tất, Nguyễn Cảnh Chân thành một cuộc khởi nghĩa của nhân dân để giành
độc lập, giống với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và mang màu sắc chính trị của
phong trào Duy Tân hội đầu thế kỉ XX. Theo tác giả, đây là câu chuyện dã sử
kể theo lời các ông già đọc sách chữ Thổ, chứ không phải theo chính sử chép
bằng chữ hán, lấy địa điểm khởi nghĩa là vùng Nghệ Tĩnh, hai cuộc khởi
nghĩa đó về thời gian gần nhau và có liên quan với nhau. Nhưng đây không
phải là một sự nhầm lẫn. Phan Bội Châu đã thanh minh vì sao mình kể
chuyện khác chính sử, nhưng đó không phải là sự thực. Chọn thời điểm từ lúc
nhen nhóm cuộc khởi nghĩa cho đến khi thu phục được thành Nghệ An, trước
lúc kéo quân ra Bắc, xảy ra trận Bô Cô, giảm nhẹ vai trò của Đặng Tất và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Cảnh Chân, Trần Quý Khoáng, đem Nguyễn Xí người anh hùng
43
trong cuộc khởi nghĩa Lê Lợi giữ vai trò quan trọng và thêm vào rất nhiều
nhân vật hư cấu, tác giả có dụng ý trình bày cuộc khởi nghĩa khôi phục đất
nước theo tư tưởng chính trị khác chính sử: điều kiện toàn dân giành độc lập,
vai trò quyết định trong cuộc khởi nghĩa là nhân dân chứ không phải hoàng
tộc và quan lại. Những người giác ngộ, tự nguyện cứu nước, những người anh
hùng vô danh có vai trò quan trọng không thua kém gì những quý tộc quan lại
được sử sách ghi tên sự đổi thay đó làm cho Trùng Quang tâm sử khác tiểu
thuyết chương hồi truyền thống.
Chuyện thực lịch sử nói về một người thuộc tôn thất nhà Trần là Trần
Quý Khoáng đánh giặc để khôi phục ngôi vua. Trong tiểu thuyết, các đảng
hữu cùng “tôn ông Khoáng lên làm vua” “nối nghiệp nhà Trần”, nhưng trong
Trùng Quang tâm sử không có tư tưởng chính thống. Không ai nhắc đến
quyền nối ngôi của con cháu họ Trần. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở trại Trùng
Quang không có người trung nghĩa mà chỉ có những người yêu nước và căm
thù giặc. Nguyễn Cảnh Chân tuy có nhiều công lao nhưng không phải là một
ông quan trung nghĩa mà thay hẳn vai trò thành là một nhà nho vì căm thù
giặc mà bất đắc chí, “có ruộng có trâu đều bán hết để cúng cho ma rượu” ,
gặp ông Ký rồi mới tham gia nghĩa quân. Cuốn tiểu thuyết không mở đầu
bằng việc bàn về lẽ phế hưng trị loạn mà cũng không kết thúc ở chỗ Trần Quý
Khoáng, Đặng Dung bị bắt, cơ nghiệp nhà Trần tan tành hẳn.
Trại Trùng Quang là một thứ nước “tự do lâm thời” , trong khi đất nước
đã bị giặc chiếm đóng. Nhưng đó cũng là sơn trại có địa thế hiểm yếu.
Thế nhưng con đường đưa các anh hùng hảo hán đến đó thì lại khác
Thủy hử. Phan Bội Châu cực tả sự tàn ác của cảnh áp bức dân tộc. Dưới sự
thống trị của quân Minh, người nông dân đem hết số thóc thu nhập cả năm
cũng không đủ nộp thuế. Mỗi người tráng đinh phải nộp ít nhất là 70 đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mới lấy được giấy bảo đảm (một thứ thuế thân như hồi Pháp thuộc). Nếu
44
không bán trâu thì không làm gì có đủ tiền đó, anh Lực phải tính nước tự tử
để khỏi phải lấy giấy bảo đảm lưu lại trâu cho vợ con làm ăn, “chết đi để
giữ gìn tính mạng cho cả nhà”. Người dân mất nước không chỉ có khổ mà
nhục. Bọn quan lại nhà Minh khinh bỉ dân nước Nam hết chỗ nói. Tên
Thừa Tuyên sứ bắt mọi người đi qua cổng chợ phải “cúi đầu làm lễ” đôi
giày “đại biểu cho mệnh lệnh của Hoàng đế”, ai không lạy thì bị hạ ngục
về tội làm loạn”. Tên thống soái lại còn ngạo ngược hơn. Trong một bữa
tiệc “hắn tụt quần chổng đít trước mặt công chúng” hạ lệnh ban thưởng
hàm cửu phẩm ( ! ) và miễn giấy bảo đảm cho “người nước Nam” nào giơ
miệng hôn đít quan soái”, thế mà không ít người vẫn phải làm theo. Cảnh
đốt phá, chém giết, hãm hiếp xảy ra khắp nơi. Anh Hạnh đem thóc đi chợ
bán để cưới vợ vì không chịu để thóc mình cho ngựa quan ăn rồi lại đánh
chết ngựa, nên anh đã suýt phải đền mạng, áp lực dân tộc đã làm cho quý
tộc, hào trưởng, nhà nho, nông dân, dân chài, dân thợ, phường săn, cả nam
cả nữ, cả Kinh cả Lào trước sau đến trại tụ nghĩa.
Sơn trại là một thứ “triều đình riêng một góc trời”, một lối tổ chức quen
thuộc của các cuộc khởi nghĩa nông dân; gắn với sơn trại là chủ nghĩa sơn
đầu, là những người anh hùng hảo hán lục lâm. Những hắc điếm dò la và giết
khách qua đường, những vụ đón đường đòi tiền mãi lộ, những cuộc đánh
cướp quy mô lớn mà ta thường thấy trong Thủy hử là phương thức sống của
những người vì áp lực phong kiến, vì không chịu bó buộc mà bỏ nhà trốn
tránh lên sơn trại. Phan Bội Châu có ý thức lên án lối sinh hoạt đó. Trong
Trùng Quang tâm sử ông Xí phá ngục cứu bạn xong cũng phải “trốn vào núi”
sống cuộc đời lục lâm. Ông Võ sau khi đánh đắm thuyền giặc, phải trốn tránh,
tuy không làm nghề lục lâm nhưng vì giỏi võ nghệ “được bọn cướp tôn làm
thầy, nếu không được ông cho phép thì không dám cướp bóc” , những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
như ông Xí, ông Võ đã nhận ra “hò hét ở nơi rừng xanh chỉ là kế nương thân
45
tạm thời”. Vì “mục đích cuối cùng của người đại trượng phu là phải làm cách
mạng” , họ đã bỏ nghề lục lâm mà cùng nhau cứu nước. Nhưng trong hoạt
động của sơn trại còn có cả cảnh “vào lúc nửa đêm…quân cướp (tức là người
của trại Trùng Quang giả trang” đốt lửa xông vào, lửa sáng rực đến hơn một
dặm. Người to lớn đi đầu, tay cầm một con dao năm chĩa, phá cửa vào tìm
người phó cả… Bọn cướp cầm dao trong tay múa tít như hoa bay, không ai
dám lại gần… quát lên một tiếng “tránh” vang lên như sấm. Những người
đến cứu đều khiếp sợ ngã lăn ra” [75,51] Lương thực cho một số người ngày
càng đông lên ở sơn trại và chi phí cho hoạt động cứu nước là một vấn đề rất
khó giải quyết. “Võ và Xí đều là những người dũng cảm tuyệt vời, mỗi khi
rảnh việc thường dẫn năm sáu người trai tráng sang các phủ huyện khác ăn
cướp tiền của bọn quan giặc”, nhưng kế đó không thể là lâu dài. Trại phải tổ
chức khu cầy cấy, chăn nuôi để tích trữ lương thực, lại phải tổ chức quan liệu,
thương điếm trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược để thu lợi làm
kinh phí. Các anh hùng hảo hán biết tránh việc giết người bừa bãi , trong sơn
trại cũ ng không có cảnh tiệc tùng chè chén linh đình. Mọi người trong sơn trại
đều theo gương ông Khoáng lao động làm ăn, “đàn ông thì chăm lo việc bên
ngoài, đàn bà thì trông coi việc ở trong, đốt săng lấy ruộng vải bong và gia
súc càng ngày càng nhiều”. Quan tâm đến vấn đề lao động sản xuất, kinh
doanh công nông thương, gây cơ sở kinh tế cho sơn trại là một chủ trương
chống lại chủ nghĩa sơn đầu. Tư tưởng “lấy nhân nghĩa để chiến đấu”, không
phiền nhiều đến dân” “tuyệt đối không nên cướp bóc của nhân dân”, là tư
tưởng quán xuyến trong truyện.
Trại Trùng Quang là một sơn trại nhưng là một sơn trại tự đặt cho
mình nhiệm vụ lo toan cho cả nước. Nó không nhằm mục tiêu là sự thịnh
vượng chỉ của sơn trại, là hùng cứ một phương, mà vạch một chương trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khôi phục đất nước gồm ba thời kì: thời kì vận động, thời kì tiến hành và
46
thời kì kiến thiết. Công việc sau khi đất nước đã được khôi phục sẽ do
những người nối tiếp đảm đương. Nhằm mục tiêu vận động nhân dân khôi
phục đất nước, những người lãnh đạo sơn trại đã hình dung một kế hoạch
xây dựng lực lượng quân sự, một kế hoạch tác chiến, đã bàn đến đường lối
chính sách đối với các tầng lớp, các địa phương… các phương sách đề ra
chưa có gì thật mới mẻ. Mưu kế cũng chưa vượt được những chuyện chính
kỳ, hư thực, mai phục, hỏa công, trá hàng… mà ta đã biết trong Tam quốc,
Thủy hử. Nhưng hành động tính toán có quy mô toàn quốc và có sự tham
gia của toàn dân, sơn trại tự coi là một “đảng”, một “đoàn thể” vận động
cách mạng chứ không phải là một triều đình trong núi.
Trong trại Trùng Quang không có cảnh phân chia ngôi thứ, theo tinh
thần đó 49 người đến dự lễ khai trại tuyên bố: “chúng ta bất luận thế nào đều
nhằm mục đích duy nhất là quang phục tổ quốc”, “nếu ai tán thành việc giết
giặc thì đều là anh em”,, “anh em chúng ta có 50 người nhưng phải coi như
thể một người vậy.. Tuy mọi người trong trại phải “đồng tâm đồng đức”
nhưng công việc phải có “chuyên trách” toàn trại bầu ra ba người lãnh đạo
chính: trại chủ, mưu chủ và chiến chủ. Tuy trại chủ vẫn ra mệnh lệnh đảm
đương việc giao thiệp nhưng mọi người “phụ trách công việc gì đều do công
chúng ủy nhiệm”, ai “không xứng chức” làm hỏng việc “anh em đều có quyền
trách phạt” tuy cũng gọi là “anh em” nhưng tinh thần quan hệ trong trại là
tinh thần dân chủ bình đẳng. Đó là tinh thần đồng chí trong tổ chức Đảng –
như mọi người thường nhắc – chứ không phải là tình anh em kết nghĩa có trên
có dưới như giữa các hảo hán giang hồ. Ngay từ khi bầu, ông Kiên đã bài bác
tinh thần “chia cách ngôi thứ”. Ngôi trại chủ của ông Khoáng là vấn đề cần
chú ý. Ông là tôn thất nhà Trần, tham gia tổ chức trại ngay từ đầu, nhưng
không tỏ ra có tài cán gì đặc biệt. ông đã đem tài sản dâng cho đảng hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
động, đã làm gương và đôn đốc mọi người lao động xây dựng sơn trại, giúp
47
đỡ cho những người xung quanh. Nhưng các công việc của sơn trại hầu hết
đều do ông Kiên, ông Xí, cô Chí đề xuất và tiến hành. Có khi và ngay cả
trong ngày lễ tuyên thệ khai trại, ý kiến ông Khoáng cũng tầm thường, bị gạt
đi, không được chấp nhận, vị trí của ông Khoáng trong trại Trùng Quang làm
ta nghĩ tới vị trí của Cường Để và thái độ của Phan Bội Châu đối với Cường
Để trong Duy Tân hội. Qua cách mô tả trại Trùng Quang, ta có thể thấy dụng
ý đem tư tưởng dân chủ và bình đẳng, toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp chung của
một đoàn thể cách mạng khắc phục tư tưởng vua tôi trên dưới kiểu phong kiến
và xu hướng sơn đầu lục lâm của nông dân khởi nghĩa với dụng ý một cuộc
vận động chính trị giải phóng dân tộc thế kỉ XX, Phan Bội Châu đã thay đổi
phương thức và tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa không được
nhen nhóm từ chỗ một tướng lĩnh có sẵn lực lượng quân đội chọn một người
trong hoàng tộc, lấy danh nghĩa người đó đưa hịch hiệu triệu các phủ huyện
như thực tế cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, nghĩa là không phát triển trên cơ sở
quan hệ chủ tớ của chế độ phong kiến. Trong Trùng Quang tâm sử, cuộc khởi
nghĩa bắt đầu bằng con đường giác ngộ từng cá nhân vận động nhân dân đứng
lên chống giặc. Các nghĩa sĩ không sống tập trung ở sơn trại mà phân tán hoạt
động trong nhà dân. Trại không phải là đồn lũy mà chỉ là địa điểm bí mật, các
nghĩa sĩ đến sơn trại bằng nhiều con đường nhưng tất cả đều tự giác, tự
nguyện hy sinh vì chính nghĩa. Cũng có người phải trốn tránh, vì cưỡng bức,
vì bị bắt đến, hoặc đầu hàng mà ra nhập hàng ngũ sơn trại, nhưng tất cả, khi
bước chân vào trại thì đều đã nhận thức được như ông Võ về nghĩa quốc gia,
đồng bào “hi sinh những cái tự tư tự lợi của bản thân, để hết lòng hết sức bảo
vệ tổ quốc”. Hoạt động của trại không dính líu đến việc cướp bóc, quấy nhiễu
người lương thiện nên không ai phải băn khoăn vì tình thế bắt buộc, về tính
chất bất hợp pháp của mình làm.
Tuy cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị cách khác nhưng chiến tranh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giải phóng thì lại tiến hành giống như trước cho nên những nhân vật chủ yếu
48
của sơn trại vẫn mang hình dáng cũ. Tổ chức không phải triều đình nhưng trại
chủ, mưu chủ, chiến chủ vẫn còn diện mạo và tính cách như minh chủ, tướng
văn, tướng võ như trong tiểu thuyêt cổ. Trong thời đại phong kiến, anh hùng
của giai cấp thống trị và anh hùng nông dân là hai loại đối lập nhưng cả hai
cũng có những nét giống nhau.
Cả hai đều có hai mẫu điển hình: minh chúa, tướng văn, tướng võ.
Người đại ca trong các sơn trại nông dân khởi nghĩa, được anh hùng hảo hán
quý trọng cũng vì họ là người rộng lượng, có đức, quý tài giống như các minh
chúa phong kiến. Trong lớp đầu mục thế nào cũng có ít người đóng vai quân
sư và ít người võ nghệ cao cường đóng vai hổ tướng, chỗ khác nhau là tính
cách: một bên là trung nghĩa, một bên là hào hiệp, một bên là thận trọng giữ
lễ vua tôi một bên không ràng buộc. Nhưng việc tập hợp của đạo đức minh
chủ, tài mưu lược của quân sư, sức mạnh muôn người khôn địch của hổ tướng
thì vẫn là giống nhau.
3.1.2. Về hai khuynh hướng lịch sử hoá tiểu thuyết và tiểu thuyết hóa
lịch sử
Tiểu thuyết vốn đề cao tính hư cấu, sáng tạo chủ quan, còn lịch sử lại
đòi hỏi sự chính xác, khách quan khi lưu giữ những dữ liệu liên quan đến số
phận của một dân tộc. Tiểu thuyết hóa lịch sử tức là nhà văn biến những tư
liệu chính xác của lịch sử thành tiểu thuyết, thành những sản phẩm hư cấu,
tưởng tượng của cá nhân nghệ sĩ. Khi đó, lịch sử trở thành chất liệu thậm chí
là phương tiện để nhà văn viết tiểu thuyết. Nhiều khi nhà văn chỉ mượn lịch
sử làm đường viền trang trí chứ không phản ánh trung thực một thời kì lịch sử
cụ thể. Nói như nhà văn Alexandre Dumas, lịch sử chỉ như cái đinh đóng vào
tường để người viết có thể tùy thích treo vào đó những bức họa của riêng
mình. đó là thứ lịch sử đã được nhào nặn, thiết kế lại. Và nhà văn viết tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thuyết lịch sử là sáng tạo một lịch sử khác, đến lượt người đọc, họ cũng
49
hưởng thụ lịch sử theo cách riêng của mình. Với khuynh hướng sáng tạo lịch
sử này, nhà văn có thể phán xét cả lịch sử, chưng cất lại lịch sử. Đọc những
cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết theo khuynh hướng này, ấn tượng về lịch sử
dù vẫn tồn tại, và vẫn cần thiết như một không gian toàn thể nhưng đã không
còn ở bình diện thứ nhất mà nổi lên trước hết là ấn tượng của tiểu thuyết với
bao vấn đề thế sự, đời thường cùng những sáng tạo mới mẻ, riêng biệt. Theo
Bakhtin đó là ấn tượng về cái “hiện tại chưa hoàn thành” hiện tại ấy trở thành
đối tượng ưu tiên của tiểu thuyết để người viết tiểu thuyết “có thể miêu tả
những sự việc có thật trong đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can
thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với
các địch thủ văn học của mình”. Tính dân tộc vốn là yếu tính của tiểu thuyết
có dịp được thể hiện trong mọi cấp độ nội dung và hình thức của tác phẩm.
Độc giả không thể tìm thấy trong tiểu thuyết lịch sử những phán xét duy nhất
đúng về các chân lý mà là những giả thuyết về đời sống của nhà văn.
Trùng Quang tâm sử (pho sử lòng thời Trùng Quang) tiểu thuyết lịch
sử của nhà văn Phan Bội Châu lấy đề tài từ cuộc khởi nghĩa chống Minh của
Trần Quý Khoáng con cháu nhà Trần đầu thế kỉ XV. Nội dung tác phẩm xoay
quanh những hoạt động của Hội Trùng Quang từ lúc mới tập hợp lực lượng
cho đến khi xây dựng được thanh thế, tiến hành hoạt động có tổ chức nhằm
đánh đuổi giặc minh xâm lược, trong địa bàn tỉnh Nghệ An: bắt đầu là việc
đột nhập trại giam, giải thoát tù, cướp xe lương của địch, giết những tên giặc
đầu sỏ, hoạt động tuyên truyền giác ngộ quần chúng, mở rộng căn cứ,... Tiến
xa hơn nữa là những trận đánh quy mô vào sào huyệt của địch.Tác phẩm kết
thúc bằng việc vua Trùng Quang lên ngôi sau chiến thắng giải phóng hoàn
toàn tỉnh Nghệ An. Qua 20 nhân vật, Trùng Quang tâm sử đã dựng lại bức
tranh sinh động về thảm cảnh một dân tộc đang quằn quại dưới gót giày đế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chế Trung Hoa với những cảnh cướp bóc tù đày, chết chóc với những âm
50
mưu và thủ đoạn “diệt chủng” thâm độc của bọn dị tộc cướp nước. Song nổi
bật nhất vẫn là cao trào giải phóng dân tộc với sức vùng dậy quật cường của
các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong khoảng cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV. Phan Bội Châu đã xây dựng hình mẫu người anh hùng Việt Nam với đủ
mọi tầng lớp, mọi thành phần: sĩ, nông, công, thương,... đang hăng hái tham
gia vào công cuộc cứu nước cứu nhà. Đó là những anh hùng thảo dã vô
danh, tuy không được sử sách nhắc đến nhưng thực tế lại đóng một vai trò
có ý nghĩa quyết định trong các phong trào yêu nước như ông Võ, cô Chí, cô
Triệu hay anh Trầm, anh Thanh,... Tất cả đều là những con người bình dị
song cũng rất ngoan cường, thông minh, tài trí và cũng tràn trề tinh thần yêu
nước, dám xả thân vì nghĩa lớn.
Trùng Quang tâm sử được viết trong quá trình hoạt động của nhà chí
sĩ yêu nước họ Phan, nhằm mục đích mượn câu chuyện “bình Ngô” của tổ
tiên để kí thác câu chuyện của chính thời đại mình. tác giả muốn qua tác
phẩm thức tỉnh trong nhân dân tinh thần yêu nước ý chí chiến đấu, gọi họ
lên đường chống Pháp, tham gia vào hoạt động của Việt Nam Quang Phục
hội. Ngoài ra Phan Bội Châu còn trình bày các luận điểm về “dân tộc”,
“dân quyền”,.... về nghĩa “chủng tộc”, nghĩa “đồng bào”,... mà ông tiếp thu
được từ luồng gió mạnh của phương Đông lúc bấy giờ. Vì thế, có thể xem
Trùng Quang tâm sử vừa là cuốn tiểu thuyết lịch sử vừa là cuốn tiểu thuyết
luận đề của cách mạng Việt Nam.
3.2. Nghệ thuật hƣ cấu trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử
3..2.1. Hư cấu nhân vật
Văn học có chức năng phản ánh hiện thực khách quan của đời sống,
đưa hiện thực đời sống bên ngoài vào trong tác phẩm, hay nói cách khác,
hiện thực cuộc sống chính là cái lõi chính yếu của một tác phẩm văn chương,
nó là nền tảng cho sự phát triển các sự kiện liên quan đến nhân vật. Xét cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cùng “bất kì nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một cơ sở hiện thực
51
nhất định. Bất kì một nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một môi trường sống
nào đó. Bất kì một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề trong
cuộc sống. Nhà văn lựa chọn và áp dụng phương pháp sáng tạo nào đó là
do thế giới quan của họ quyết định” [48,63-64]. Chính vì thế, hiện thực
như là một thuộc tính của văn học, tác phẩm nào dù ít hay nhiều cũng có
tính hiện thực. Nó được coi là nền tảng, là bàn đạp cần thiết và vững chắc
tạo nên sự thành công trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả.
Diễn biến của thời cuộc được nhà văn phản ánh một cách sinh động, phong
phú trong tác phẩm, thế nhưng, giữa hiện thực đời sống khách quan và hiện
thực tác phẩm lại không đồng nhất mà chỉ có sự thống nhất với nhau. Bởi
thế giới khách quan khi đi vào tác phẩm thông qua lăng kính của nhà văn,
được nhà văn sáng tạo lại. Và trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, cả hai
thế giới hiện thực thường có những điểm tương đồng nhất định do nó được
xây dựng trên nền tảng của những sự kiện, nhân vật lịch sử, chứ không
phải là những nhân vật hiện đại. Trong bài viết “Tiểu thuyết Trùng Quang
tâm sử nghĩ về đề tài chống Trung Quốc xâm lược qua một số sáng tác hiện
nay”, tác giả Nguyễn Phương Chi cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử tuyệt đối
không cho phép nhà văn xây dựng lịch sử trên những mẫu của bản thân hiện
nay mà trên những mẫu của bản thân lịch sử, cốt chuyện phải phù hợp với xu
thế lịch sử, nhân vật phải mang đặc điểm của thời đại sinh ra nó,và ngôn ngữ
đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại cũng phải có tính chất lịch sử” [15,113].
Do vậy, khi xây dựng nhân vật từ những nguyên mẫu lịch sử, vấn đề
mà tác giả quan tâm là việc phản ánh lịch sử trong tác phẩm. Với tài năng
bậc thầy, trong tác phẩm Trùng Quang tâm sử, các nhân vật lịch sử có thật
như: Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy (Nguyễn Xí), Đặng Dung, Đặng Tất,
Nguyễn Cảnh Chân … đã được Phan Bội Châu tạo thành những hình tượng
nghệ thuật độc đáo, sinh động, đầy lôi cuốn, hấp dẫn. Ở đây, nét tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đồng giữa nhân vật lịch sử có thật và nhân vật trong tác phẩm văn học được
52
thể hiện qua việc tác giả giữ lại tên tuổi, nguồn gốc xuất thân, sự kiên gắn
liền với nhân vật và vai trò, vị trí của nhân vật trong giai đoạn lịch sử ấy.
Và giữa hai thế giới nhân vật này có thể thống nhất nhưng không đồng nhất
với nhau, bởi lẽ, tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của tác giả và nhân
vật đóng vai trò trung tâm của tác phẩm, là nơi gủi gắm những tâm tư, tình
cảm riêng của bả thân tác giả.
Mặt khác, tiểu thuyết lịch sử lấy nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử làm
nền tảng nhưng tác giả chỉ tái hiên nó bằng chí tưởng tượng, hư cấu và
năng lực sáng tạo nghệ thuật của mình. Trong bài viết: “Mối quan hệ giữa
tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tiến sĩ Bùi Văn Lợi có ý kiến: “Nghiên cứu lịch
sử là rất cần thiết đối với người nghệ sĩ vì anh ta có nhiệm vụ phải phản
ánh trung thành một hiện thực lịch sử và làm sống lại những nhân vật lịch
sử vừa sinh động vừa có tác dụng lôi cuốn người đọc. Thế nhưng sự nghiên
cứu ấy không thay thế sự tưởng tượng, hư cấu và sáng tạo của nhà văn”
[44,83]. Như vậy, các yếu tố hư cấu, tưởng tượng đóng vai trò quan trọng
của nhà văn trong quá trình tạo nên tác phẩm. Nhờ nó mà các nhân vật
thoát li khỏi sự gò bó của nhân vật lịch sử có thật, nhân vật lịch sử biến hóa
một cách linh hoạt khi đi vào quỹ đạo của tác phẩm văn học. Đối với một
tiểu thuyết lịch sử, tài năng hư cấu, tưởng tượng của nhà văn được coi là
đặc trưng của thể loại, thể hiện tư duy sáng tạo của nhà văn. Có thể tác giả
không cần thể hiện đúng toàn bộ các sự kiện lịch sử gắn với nhân vật mà
đôi khi chỉ cân một chi tiết trong đời sống, thậm chí là những chi tiết “phản
lịch sử”. Trong cuốn Nhà văn và tác phẩm văn học, Giáo sư Hà Minh Đức
cho rằng: “Có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần có một vài khoảnh khắc trong đời
sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đưa vào tác phẩm những điều phi
lịch sử không quan trọng thậm chí trong một chừng mực nào đó, có quyền
không vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đúng đắn, lý tưởng mà thôi” [23,27].
53
Như vậy, đối với các tiểu thuyết lịch sử, vấn đề cốt lõi ở đây không
phải là các sự kiên lịch sử có thật mà đó là nhân vật. Các nhà văn chú trọng
đến việc xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật sinh động, làm sống
lại những nhân vật trong lịch sử. Trùng Quang tâm sử là một tác phẩm viết
về lịch sử cuộc khởi nghĩa chống quân minh xâm lược ở thế kỉ XV, với
những tên tuổi nổi tiếng như:Nguyễn Cảnh Chân, Lê Lợi, Trần Quý
Khoáng, Đặng Dung, Đặng Tất …
Từ những nguyên mẫu ấy, chỉ với một vài chi tiết điển hình qua một
số sự kiện lịch sử, Phan Bội Châu xây dựng họ thành một hình tượng nghệ
thuật đặc sắc và độc đáo, mỗi nhân vật mang một diện mạo riêng, một đời
sống riêng.
Trùng Quang tâm sử là tác phẩm đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện
đại đã xây dựng được hệ thống nhân vật khá hoàn chỉnh, chặt chẽ với một loạt
những người thuộc tầng lớp, thành phần dân tộc, nghề nghiệp khác nhau : sĩ,
nông, công, thương, già trẻ, gái trai… tạo nên bức tranh đa màu sắc, nhiều
hình khối về thế giới nhân vật. Tất cả những nhân vật trong tác phẩm đều
được xây dựng với tính cách, ngoại hình, thành phần xuất thân khá rõ nét.
Trong đó, một số nhân vật đã trở thành nhân vật điển hình tiêu biểu.
Nhân vật Trần Quý Khoáng là một người có lòng yêu nước nồng nàn,
tha thiết, mong muốn được giải phóng đất nước khỏi ách xâm lược của giặc
Minh, đem lại tự do, no ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, mặc dù, sự
nghiệp dở dang, nguyện vọng không thành nhưng ông vẫn được nhân dân
hết lòng yêu mến, kính trọng, danh lưu muôn thuở.
Trong lịch sử Việt Nam, ông là vị vua thứ hai của thời Hậu Trần, húy
là Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách.Ông là con của Trang Định
vương Trần Ngạc, cháu nội của Trần Nghệ Tông, gọi Giản Định Đế bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chú. Khi vua Trần Ngỗi nghe lời gièm pha của Nguyễn Qũy và Nguyễn
54
Mộng Trang giết chết Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất. con của Nguyễn
Cảnh Chân là Cảnh Dị, con Đặng Tất là Dung “đều tức vì cha chết oan, mới
đem quân Thuận Hóa đón Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng đến Nghệ
An lập lên làm vua.” [37,774]. Trần Quý Khoáng lên ngôi lấy niên hiệu là
Trùng Quang. Thời kỳ lên ngôi của ông chính là thời kỳ nhà Minh xâm lược
nước ta.
Trần Quý Khoáng là người trọng nghĩa khí, trọng người tài, phân biệt
rõ đúng sai, kẻ có tội, người có công, đồng thời còn là người tin vào các điều
kì diệu, thần bí. Khi mẹ của Trần Ngỗi cùng với bọn quan thần âm mưu tạo
phản, ông biết nhưng chỉ xử tội những kẻ có liên quan còn lại đều tha cả.
chẳng hạn như đối với Trần Ngỗi “Trùng Quang Đế đổi mặc áo thường
xuống thuyền đó rước. Khi ấy trời đất đương tối sầm, thốt nhiên mây vàng
rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh ngạc cho là điềm lạ. Bèn tôn Hưng
Khánh Đế làm thượng hoàng, cùng nhau hết sức đánh giặc” [37,775].
Với vai trò là người nắm trong tay vận mệnh của đất nước, Trần Quý
Khoáng cùng với các trung thần quyết tâm đánh đuổi quân Minh xâm lăng ra
khỏi bờ cõi. Mặc dù, cuộc khởi nghĩa diễn ra trong tình thế vô cùng bất lợi
khi một số thổ quan đã bị quân Minh mua chuộc bằng việc cấp đất quay trở
lại tiếp tay cho giặc nhưng vua Trùng Quang cùng với các bề tôi đã dũng
cảm chiến đấu hết mình khiến cho quân Minh nhiều phen rơi vào tình thế khó
khăn. Trong Đại Việt sử kí toàn thư, các tác giả đã minh chứng cho điều này:
- Mùa hạ, tháng 5, vua đem bọn Nguyễn Cảnh Dị tiến quân đến La
Châu, Hạ Hồng, đánh phá được quân của Đô đốc Giang Hạo, thừa thắng
đuổi theo, tiến quân đến Bình Than, đốt phá gần hết thuyền trại của quân
Minh [37,778].
- Tháng 9, vua và bọn Nguyễn Súy chia đường tiến đến cửa biển, bắt
được người thổ quan là là chỉ huy Nguyễn Chính ở Bài Lâm, chém bêu đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rồi về [37,787].
55
Dốc hết mình cho cuộc khởi nghĩa, tìm mọi cách để khôi phục lại
giang sơn, thậm chí Trần Quý Khoáng đã cho dâng những sản vật quý cho
quân Minh “Tháng 3, vua lại trở lại Nghệ An, quân nhân mười phần thì còn
độ 3,4 phần… Vua chạy về Châu Hóa, sai Đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ
cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An” [37,788] nhằm tránh
nạn binh đao cho đất nước, thể hiện truyền thống hòa hiếu của dân tộc,
nhưng cuối cùng vẫn phải thất bại: “Vua chạy sang nước Lão Qua. Phụ sai
người tìm bắt được, đưa đến quân môn. Người Thuận Hóa đều hàng. Thế là
nhà Trần mất” [37,790]. Vua Trùng Quang bị Trương Phụ bắt giải về Yên
Kinh. Trên đường đi, ông đã nhảy xuống nước tự vẫn. “Vua gặp thì loạn lạc,
gắng chí mưu việc khôi phục, nhưng vì trời không giúp nhà Trần, nuốt hận
mà chết. Thương thay!” [37,778].
Từ nguyên mẫu Trần Quý Khoáng trong sự thực lịch sử, bằng tài năng
tưởng tượng, hư cấu của mình, Phan Bội Châu đã xây dựng lên Trần Quý
Khoáng – một hình tượng văn học đầy sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc
có một cái nhìn mới hơn về nhân vật, tạo nên mối quan tâm nhiều hơn của
các nhà sử học đối với nhân vật.
Trong Trùng Quang tâm sử, Phan Bội Châu không giới thiệu đầy đủ,
chi tiết về nguồn gốc xuất thân Trần Quý Khoáng như trong lịch sử mà chỉ
đề cập một cách sơ lược: “Phía Tây huyện Thanh Chương, giáp nước Lào,
nhìn xuống sông Lam, …có vài trăm khoảnh sơn điền… Đấy là trại của ông
Khoáng… Tiên thế ông Khoáng hiển đạt ở thời Trần, nhà Trần mất, đem cả
bộ thuộc hơn vài mươi người dời xuống phía Nam châu Hoan, đuổi người
Lào chiếm lấy đất. Vì quân nhà Minh đuổi bắt riết,nên ông Khoáng cũng
trốn đến ở chỗ ấy” [75,50]. Đồng thời, từ một con người có tính cách quyết
đoán, có thể giết chết ai có ý đồ tạo phản, đa nghi (ông nghi ngờ Hưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Khánh Đế phản bội nên cho người truy đuổi bắt để trị tội) như trong Đại
56
Việt sử kí toàn thư, thì trong Trùng Quang tâm sử Trần Quý Khoáng trở
thành con người bình thường, dân dã, hiền lành, sống chan hòa cùng cộng
đồng, những người nông dân chân chất, được mọi người hết sức yêu mến, nể
trọng: “Ông Khoáng là người trưởng giả, trung hậu, nên người xa gần bất
kỳ Mường hay Chợ, đều ham đi lại giao thiệp. Thường lấy thóc gạo đổi lâm
sản, rồi chở lâm sản xuống chợ bán lấy tiền, hằng năm thu được rất nhiều,
cho nên trong trại súc tích cũng đầy đủ” [75,50].
Nếu như trong lịch sử, Trần Quý Khoáng là một người anh hùng vĩ
đại, một ông vua có nhiều công lao to lớn trong công cuộc đấu tranh chống
quân Minh xâm lược thì trong tác phẩm Trùng Quang tâm sử Trần Quý
Khoáng thoạt tưởng rất mờ nhạt: “Sức tôi được đến đâu tôi xin làm đến đấy”
[75,48], “ Tôi có sơn trại vài mươi gian, sơn điền vài nghìn mẫu. Tiên nhân
tôi mấy đời làm hùng trưởng ở đấy. Chỗ ấy tai mắt chó săn chim mồi của
giặc Ngô không đến được, tôi xin dâng cho đảng để làm chỗ đứng chân tạm
thời. Những thóc lúa còn lại, nếu nay đem bán, cũng còn được vài vạn quan tiền,
một nửa làm sở phí khởi sự, một nửa làm lương cũng được nửa năm” [75,49].
Với tư cách là một thổ hào của địa phương và điều kiện thuận lợi sẵn
có, ông được mọi người cử làm trại chủ, ông chỉ đóng góp cho cuộc khởi
nghĩa bằng cách dùng sơn trại của mình làm nơi đứng chân của đảng và
lương thực, thực phẩm…Nhưng đó là sự cống hiến có giá trị và ý nghĩa vô
cùng lớn lao.Phải chăng cái nguyên lý “có thực mới vực được đạo”, “thực
túc binh cường” đã được Trần Quý Khoáng đúc kết và ý thức sâu sắc từ lịch
sử đấu tranh giữ nước của cha ông ta.
Về phương diện sử dụng con người: “Ông Khoáng thường nghĩ đến
quốc sỉ, nuôi chí lớn, cho nên những người hảo hán đến thường được tiếp
đãi rất hậu” [75,49]. Nói chung những người có nghĩa khí đều được ông tôn
trọng và chiêu mộ. Có cơ sở vật chất và các điều kiện thuận lợi khác nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nếu không có kế sách tập hợp được lực lượng, đặc biệt là những người có
57
tâm có tài – một nhân tố có tính chất quyết định, thì chắc chắn cuộc kháng
chiến khó có thể đạt được thắng lợi cần thiết. Không chỉ đảm bảo cung cấp
binh lương, Trần Quý Khoáng khiến cho : “nhân dân bốn phía đều khen là
trại Phúc Đức. Tiếng nhân nghĩa của ông Khoáng từ đây đồn khắp gần xa”
[75,84]. Trong chừng mực nào đó, có thể xem đó là kế sách chiêu hiền đãi
sĩ, thu phục nhân tâm của Trần Quý Khoáng thể hiện tầm nhìn xa của một vị
vua anh minh. Và đó cũng là những bài học kinh nghiệm lịch sử sâu sắc của
dân tộc ta trong suốt quá trình đấu tranh sau này.
Không dàn trải, không lan man; không ngồn ngộn, đầy ắp những chi
tiết, sự kiện như lịch sử, chỉ điểm xuyết qua một vài hành động nổi bật của
Trần Quý Khoáng, nhưng Phan Bội Châu “đẩy” nhân vật lên vị trí tầm cao.
Chưa cần đề cập đến yếu tố hoàng tộc ở đây, nghĩa cử đó, những cống hiến
to lớn đó chỉ có thể có ở một ông vua luôn đau đáu một nỗi niềm vì nhân
dân, vì nước, với khát vọng, hoài bão lớn lao là đất nước được giải phóng
khỏi giày xéo của kẻ thù…
Với những cống hiến xứng đáng đó, sau khi đánh đuổi được quân
Minh giành lại được độc lập đất nước, ông được mọi người suy tôn lên làm
vua để nối nghiệp nhà Trần: “Vua Trùng Quang lên ngôi, đưa quân ra Bắc,
nhiều lần đánh cho đại tướng Trương Phụ phải thua. Hai hạt Thanh Hóa nội
ngoại dần dần đều thu phục được. Non sông đã có cơ sống lại trong khoảng
chốc lát. Thế mà ông đã gần nên, lại bị thua trận hết sạch sành sanh” [75,127].
Công cuộc chống giặc ngoại xâm của Trần Quý Khoáng thất bại. Đó
là một sự thật lịch sử. Nhưng qua tác phẩm Trùng Quang tâm sử, bằng tài
năng của mình Phan Bội Châu đã khắc họa hình tượng nhân vật Trần Quý
Khoáng sinh động, mới mẻ, với nhiều cống hiến to lớn cho đất nước, cho
dân tộc, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm quý báu để lại cho đời sau…
Nhân vật Nguyễn Xí (Nguyễn Súy) cũng là một trong những nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh ở thế kỷ XV được
58
Phan Bội Châu xây dựng thành một hình tượng văn học trong Trùng Quang
tâm sử. Nếu như Trần Quý Khoáng được Phan Bội Châu thể hiện vai trò, vị
trí tầm cao của một ông vua, thì ở Nguyễn Xí, tác giả lại tập trung khắc họa
đậm nét hơn về chân dung của một võ tướng, với những chiến công trong
cuộc khởi nghĩa, có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng.
Trong lịch sử, Nguyễn Xí vốn xuất thân trong gia đình làm nghề
muối, khi ông lên chín tuổi thì cha mẹ qua đời, trở thành một đứa trẻ mồ côi.
Nguyễn Xí được Lê Lợi đón về nuôi và dạy dỗ lên người. Nguyễn Xí là một
người có tài, chẳng hạn như ông đã điều khiển được đàn chó, dạy cho chúng
đi đứng, học ăn… Chính vì thế, ông được Lê Lợi yêu mến và nhiều lần khen
ngợi sẽ là một người có tài về quân sự. Trong thời kỳ vua Trùng Quang lên
ngôi, ông được phong chức vị là Thái phó, sau khi nhà Trần mất, ông phục
vụ cho nhà Lê và được vua Lê ban cho chức vị là Cương Quốc công.
Trong Trùng Quang tâm sử, tài năng của Nguyễn Xí được Phan Bội
Châu đề cao hơn: “Ở ngoài tỉnh thành Nghệ An,, dọc theo sông Cấm, đi ra
phía Bắc, có một người gánh hai thùng nước mắm, dọc đường vừa đi vừa rao,
tiếng sang sảng như chuông đồng, dội xa hơn mười dặm. Nghe tiếng rao, ai
cũng biết đấy là một người rất anh hùng hiện đang làm nghề rất nhỏ mọn…
Chính là ông Xí” [75,34]. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Xí đã thể hiện một phẩm chất
và khí phách khác người. Khi nghe cha kể về sự tàn bạo, ngang ngược của
quân giặc thì Nguyễn Xí cảm thấy tức giận đến mức: “mặt đỏ bừng bừng, tóc
dựng ngược, thét lớn lên rằng: thề giết chết quân giặc ấy”, “để cứu nông dan
chúng ta” [75,35]. Sớm ý thức được nỗi khổ nhục, lầm than của nhân dân
dưới ách xâm lăng của giặc Ngô nên Xí không còn chú tâm vào chuyện học
hành, sách vở mà lại say mê luyện tập võ nghệ, hay tụ tập những đứa trẻ trong
làng để chơi trò đánh trận giả. Càng lớn lên, Xí càng trở nên hào hiệp, tham
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gia nhiều việc nghĩa nên càng trở nên nổi tiếng hơn.
59
Phan Bội Châu đã miêu tả tính cách, hành động phi thường của nguyễn
Xí theo một logic nhất quán từ lúc còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Điều
này thể hiện một quan niệm mới mẻ về người anh hùng của Phan Bội Châu:
yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và cống hiến cuộc đời mình cho sự
nghiệp của nhân dân, đất nước.
Sau khi được vua Trần Quý Khoáng tấn phong giữ chức Thái Phó,
Nguyễn Xí đã cùng với nhà vua và các đại thần trong triều bao phen sống chết
với giặc. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi lại những sự kiện, những chiến công
của Cương Quốc công Nguyễn Xí khá chi tiết:
- Khi Giản Định Đế giết Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất, để tránh
tình trạng phân tán lực lượng, vua sai Nguyễn Xí bắt Giản Định Đế mang về,
lúc này “Giản Định Đế giữ thành Ngự Thiên, chống nhau với quân Minh, bọn
Súy họp quân đánh úp bắt được” [37,774].
- Tháng 9 năm 1411, Nguyễn Xí cùng với Trùng Quang đế bắt
được tên chỉ huy địch là Nguyễn Chính, chém chết hắn bêu đầu.
- Tháng 6 năm 1412, Nguyễn Xí cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Đặng
Dung gặp quân Minh ở Nghệ An, “chưa phân thắng phụ, thì Súy và Cảnh Dị
vượt biển chạy” [37,785].
- Tháng giêng năm 1413, Nguyễn Xí cùng vua và các quân sư
khác đem quân ra biển đến Vân Đồn để thăm dò tình hình của quân Minh và
tìm kiếm lương thực cung cấp cho binh lính.
- Mùa đông, tháng 10 năm 1413, khi Trương Phụ sai người đi dò
xét tình hình quân của vua Trùng Quang và chăn ở thượng lưu thì “Nguyễn
Súy sai 3 người thích khách đội cỏ thuận dòng xuống đến thuyền của Phụ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một người trèo lên đầu thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Trương Phụ
60
biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người lại cho tiền bạc”
[37,789].
Nhưng Nguyễn Xí cũng không tránh khỏi những sai lầm trong đường
lối quân sự dẫn đến sự thất bại của cuộc khởi nghĩa. Chẳng hạn như, mùa hạ,
tháng 6 (1412), khi Trương Phụ đem quân đánh vào Nghệ An, Súy cùng với
Cảnh Dị bỏ chạy, làm cho Dung thân cô thế cô, không có quân viện trợ, bèn
ra biển trốn đi…
Đến tháng 11 năm 1413, nhà Trần hoàn toàn rơi vào tay nhà Minh.
Nguyễn Xí bị đuổi chạy đến miền đất Xiêm man và bị Trương Phụ bắt. Trên
đường bị giải về Yên Kinh, quyết không hàng giặc nhưng cũng không chọn
cách kết thúc như vua Trùng Quang, ông tìm kế làm thân (bằng cách hằng
ngày đánh cờ) với tên giám thủ và khi có điều kiện thuận lợi bèn lấy bàn cờ
đánh chết hắn rồi mới tự vẫn.
Có thể thấy, hình tượng Nguyễn Xí trong lịch sử được ghi chép lại với
nhiều công trạng, lắm mưu nhiều kế ngay cả khi nằm trong tay kẻ thù. Thế
nhưng, trong Trùng Quang tâm sử, hành động của Nguyễn Xí được Phan
Bội Châu mô tả phảng phất hơi hướng của những người anh hùng “thảo
dã”Lương Sơn Bạc trong tác phẩm Thủy hử của Thi Nại Am. chẳng hạn bạn
bị bắt thì dẫn anh em đến phá nhà ngục, cứu người ra và lẩn tránh vào trong
núi, vui lòng sống một cuộc sống ẩn dật và tập trung hào kiệt khắp nơi chờ
thời cơ thuận lợi tiến hành khởi nghĩa. Đây là một chi tiết không có thật
trong cuộc đời của Cương quốc công Nguyễn Xí. Qua đó, Phan Bội Châu đã
mang đến cho nhân vật một sinh khí mới, một cách nhìn mới: “tôi chả giỏi
gì, tôi chỉ là một người vũ phu có sức khỏe, phàm gặp những việc nước lửa
tên đạn, tôi xin đi trước mọi người để báo anh em. Anh em bảo tôi đi đâu là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tôi đi ngay” [75,48]
61
Nguyễn Xí còn tỏ rõ tài năng thu phục lòng người. Như cùng với Vân
tham gia một vụ “cướp người”, thấy một thanh niên tên là cu Chìm tự tử, Xí
đã cứu được và động viên cu Chìm làm việc cho nghĩa quân hoặc giả như
trường hợp Xí thuyết phục hai người thợ rèn trong cuộc “cướp người”…
Công trạng là vậy nhưng do vua Trùng Quang mất vì nạn nước, rồi
nhà Trần mất, nên cuối cùng Nguyễn Xí: “bèn làm bực vĩ nhân đệ nhất của
triều Lê” [75,129].
Bằng tài năng dụng ngôn ngữ của Phan Bội Châu, Nguyễn Xí trong
Trùng Quang tâm sử từ nguyên mẫu lịch sử trở thành một hình tượng nghệ
thuật có những nét độc đáo riêng, có tính cách, phẩm chất đáng trọng và
những hành động phi thường. Nhân vật Nguyễn Xí được vận động theo tư
duy sáng tạo nghệ thuật của nhà văn một cách khách quan, nhưng không
giảm đi tính chân thực của nhân vật trong lịch sử.
Nhân vật Ông Võ xuất thân từ người làng chài, có sức khỏe và tài bơi
lội phi thường “làm nghề chèo đò, chở thuyền như bay. Làm được bao nhiêu
tiền đều mua rượu uống, cậy sức tự hùng,… những việc người ta không dám
làm, mà nhờ ông làm, ông đi trước ngay không tính toán gì hết” [75,68-69].
Nhưng khi gặp được anh Tinh giảng giải động viên, ông đã như tìm thấy lý
tưởng mới, ánh sáng mới, cuộc đời mới, ông thốt lên rằng: “Tôi bây giờ mới
thoát thai mà đẻ vào cõi người”.
Hay những người làm thợ thủ công, cụ thể là thợ rèn như anh Vân, anh
Mục (làng Cát Ngạn) vốn là người lao động vất vả, xuất thân từ tầng lớp dưới
luôn mang phẩm chất sẵn có của người nông dân Việt Nam: cần cù, chăm chỉ,
yêu nước và tinh thần cách mạng khi có người mở đường dẫn lối.
Trùng Quang tâm sử cũng xây dựng rất thành công những người anh
hùng là thanh niên, phụ nữ. Thanh niên đầu thế kỷ không phải là những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách”. Họ quyết đem tâm
62
huyết, tính mạng của mình để chuộc lại non sông, điển hình như: anh Phấn,
anh Tinh, anh Phúc, anh Hạnh, anh Thắng, anh Kiên… mỗi nhân vật đều có
hoàn cảnh riêng, số phận riêng nhưng điểm chung là lòng căm thùa giặc, yêu
nước và muốn đánh giặc cứu nước.
Cũng xuất thân là nông dân lao động vất vả, một nắng hai sương, anh
Hạnh “trạc chừng 20 tuổi, mặt đen như sắt”. Là một thanh niên khỏe mạnh,
chăm chỉ mà thành quả lao động sau bao ngày vất vả làm lụng chỉ là những
gánh lúa: “Nhịn ăn bán đi, những mong để đưa về gây dựng gia thất. Hạnh
phúc đời tôi bắt đầu ở đấy. Tưởng bán được lúa, có tiền, rồi đây tôi sẽ có vợ,
có con, cha mẹ tôi sẽ có con dâu, có cháu” [75,58]. Thật không may anh lại
gặp quan Tuần Kiểm, bị lính giữ lại đòi lấy lúa cho ngựa của quan ăn. Anh
không chịu. trong lúc nóng giận anh đã đánh chết ngựa. Hậu quả là chúng bắt
anh đền ngựa, trong ba ngày không có anh sẽ bị giết, đúng là giữa phúc và
họa chỉ cách nhau trong gang tấc, tưởng rằng sắp có vợ, có hạnh phúc gia
đình vậy mà anh lại phải cận kề ngay cái chết. Người nông dân ngay cả là
người thanh niên sức dài vai rộng, chăm chỉ khỏe mạnh cũng bị quân giặc ức
hiếp quá quắt, không còn công lý gì nữa. Chính trong hoàn cảnh như vậy càng
khiến cho người thanh niên này sục sôi lòng căn thù lũ giặc cướp nước.
Ba anh em: anh Tinh,anh Phấn, anh Lực được xuất hiện trong hoàn
cảnh khá độc đáo khi “quốc gia chúng ta bị bạo lực đè ép, tính mệnh bị rẻ
rúng như cỏ rác, chó lợn”. Tên Thừa tuyên sứ ở Nghệ An cho người treo một
đôi giày trước cửa chợ bắt dân ta đi qua phải làm lễ ba quỳ chín khấu vì đôi
giày này là đại biểu của Ngô hoàng. Bao nhiêu người chịu nhục, duy chỉ có ba
anh em Tinh, Phấn, Lực không chịu khuất phục quỳ trước giày nên bị bắt,
mắc tội làm giặc chờ ngày xét xử. Nếu như hầu hết dân ta đều không dám
chống lại sự bất công, vô lý mà giặc đưa ra, vì sợ uy thế, quyền lực và sự tàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ác của chúng. Thì trong bóng đêm mù mịt ấy xuất hiện ba đốm sáng bỗng
63
bùng cháy mạnh mẽ như sự phản kháng lại sự kỳ thị, xúc phạm của giặc đối
với dân tộc ta. Không chỉ đè nén, bóc lột dân ta về mặt vật chất như “sưu cao,
thuế nặng” mà chúng còn nghĩ ra những thủ đoạn ép buộc, xúc phạm dân ta
về mặt tinh thần khiến cho dân ta khổ sở đủ đường.
Bên cạnh những trang nam nhi thời loạn người thanh niên yêu nước
đầy nghĩa khí, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu còn mang đến ba hình
tượng người phụ nữ anh hùng khiến bao người ngưỡng mộ thán phục.
Chí, Liên, Triệu – ba người phụ nữ điển hình đại diện cho giới phụ
nữ bước vào Trùng Quang tâm sử mang theo vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp
lý tưởng của thời đại. Những trang đầu của cuốn tiểu thuyết đã đưa đến với
độc giả hình ảnh cô Chí trên con đường tìm đến với cách mạng. Để thực
hiện được lý tưởng, Chí đã tự đi tìm những người đồng cừu. Con đường đi
của Chí không hề đơn giản. Biết bao khó khăn, trở ngại ngăn cản bước
chân cô. Nhưng người con gái ấy đã vượt qua tất cả, cô đã từng giả dạng
làm người ăn mày, bôi lấm lem mặt mũi để tìm người có chí. Tìm được
người có chí rồi, vẫn chưa hết thử thách đối với cô. Khi Đảng Trùng Quang
chưa tin mình, Chí đã đập đầu vào đá, máu chảy lênh láng để tỏ rõ chí khí
và lòng nhiệt thành của mình đối với lý tưởng. Trước hành động coi cái
chết nhẹ như lông hồng của Chí và nhất là sau khi nghe Phấn kể về lại lịch
của đời cô, bốn mươi chín thành viên của hội Trùng Quang đều giơ tay
nhất trí “xin mời vào Đảng!”.Từ ngày nhập hội, Chí đã tỏ rõ lòng mình
bằng cách hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Bất kể việc gì dù lớn
hay nhỏ, dù dễ dàng hay khó khăn. Không có lòng say mê thực sự, người ta
khó có thể làm được điều đó. Từng bước một Chí, Liên, Triệu đã khẳng
định vai trò, ý nghĩa của mình trong xã hội. Nam hay nữ đều là chủ nhân
của đất nước, mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau nếu nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
có cái chí khí, sự quyết tâm và lòng nhiệt thành đối với lý tưởng thì phụ nữ
64
cũng có, thậm chí chẳng thua kém gì nam giới nữa kia “chị em ta may được
làm người tai mắt đầu óc hỏi có kém gì đàn ông? Những sự nghiệp anh
hùng có phải chỉ một mình đàn ông làm được mà thôi đâu? (…). Người ta
chỉ sợ không có chí nếu có chí khí thì đàn bà chẳng thua gì đàn ông”. Bằng
lời nói, và quan trọng hơn bằng hành động, bằng những công việc cụ thể
của mình, họ đã khiến những người khác giới xóa nhòa danh giới cuối cùng
của sự phân biệt nam nữ. Việc gì đàn ông làm được thì họ cũng làm được.
Ta thấy Chí lăn lộn vất vả cùng Tinh đi khắp nơi làm vận động viên, tìm
người có tài và thuyết phục họ vào Đảng. Cô Chí căm thù giặc vì chúng
khiến gia đình cô khuynh gia bại sản, cha bị bắt oan và chết thảm, cô
không còn ai thân thích. Cô Chí theo gót bà Triệu xưa, không cam tâm làm
tì thiếp cho giặc Ngô, bỏ nhà đi tìm bạo đồng cừu báo thù cho cha, rửa
nhục cho nước nhà. Cô bôi mặt giả làm người ăn xin rách rưới đi khắp nơi
tìm đồng chí, lúc chưa được tin tưởng cô phẫn nộ: “Tôi vẫn tưởng trong
đời này, không có ai là người đáng làm bạn. Nghe nói các ông đây đều là
anh hùng, tôi cho rằng con mắt hẳn không kém, nên tôi mới đánh bạo đến
đây. Nay đã vậy thì tôi xin chết ở đây. Đàn người lúc nhúc kia, đều là tôi tớ
của chó Ngô, tôi còn biết sống với ai nữa. Liền đập đầu vào đá”[75,41]. Cô
luôn có quyết tâm bằng mọi cách phải lấy được đầu tên Thừa tuyên sứ để trả
thù nhà mà lớn hơn là đền nợ nước.
Hay cô Triệu và cô Liên cũng là những nữ anh hùng mang trong mình
lòng căm thù giặc khát khao cứu nước. Cô Triệu là cô hát đào nổi tiếng sớm
chứng kiến nỗi nhục của các chị em cùng cảnh, từ đó mà tìm cách thoát khỏi
nơi ô nhục. Được tham gia vào hội Trùng Quang cô lập tức trở thành cánh tay
đắc lực, không nề hà khó khăn sẵn sàng tạo mọi điều kiện cho hoạt động của
Đảng cả về vật chất, địa điểm hoạt động chỉ mong rửa nhục cho chị em phụ
nữ nói riêng và nhân dân ta nói chung. Cô Triệu mong “được cái phúc tày trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là nhìn thấy kết cục ghê gớm của giặc Ngô thì tôi chết mới nhắm mắt được”.
65
Cô Liên là con nhà gia thế, gia đình tan nát vì quân giặc, một thân một mình
khoác áo cà sa nhưng vẫn nung nấu “mối thù nhà nợ nước”.
Những nhân vật nữ anh hùng như cô Chí, cô Triệu, cô Liên đều là
người sống có lý tưởng, có ý chí đấu tranh, một tấm lòng nhiệt thành vô bờ
bến, không chịu cúi đầu cam chịu nhẫn nhục. Với tấm lòng nhiệt thành, theo
Phan Bội Châu chính là “đầu mối của chủ nghĩa anh hùng”. Trong con người
ba nữ anh hùng này đã có sự kết hợp vẻ đẹp hết sức độc đáo, riêng biệt của
nhân vật nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu. Qua đây tác giả muốn gửi gắm
một quan điểm rằng: tất cả mọi người không kể già hay trẻ, gái hay trai đều
có thể là anh hùng. Nước Nam sẽ chẳng thiếu những anh hùng mà trước đây
bị coi là “liễu yếu đào tơ” chỉ biết an phận với chữ “tòng”. Như những cánh
chim xổ lồng, giới nữ sẽ được tung cánh trên bầu trời cao rộng để khẳng định
sức mạnh, vai trò của mình trong xã hội mà chính họ đã thể hiện được rất rõ
tầm quan trọng của mình.
Lí tưởng yêu nước của người dân Việt Nam được xuất phát một cách tự
nhiên khi bản thân phải chịu cảnh áp bức hoặc chứng kiến tận mắt tội ác dã
man của giặc. Ông Chân vì chứng kiến cảnh bất bình khi lũ giặc coi rẻ tính
mạng dân ta, coi mạng người không bằng con ngựa. Từ đó ông luôn dồn nén
lòng căm thù giặc thành lý tưởng yêu nước thể hiện qua hành động cứu nước
cụ thể. Ông Chân sẵn sàng lập mưu và dâng con lợn nhà mình để thực hiện ý
đồ giết tên quan Tuần kiểm. Hay ông Võ cũng có lòng căm thù giặc sẵn sàng
đổi tính mạng mình để lấy tự do, khảng khái nói rằng: “Quân Ngô là kẻ thù
chúng ta. Các người nếu làm được việc ấy thì dù có mượn đầu tôi, tôi cũng
cắt cho mà mượn”.
Trước những tội ác dã man của giặc, người Việt Nam phải nhất loạt
đứng lên đánh đuổi kẻ thù. Phan Bội Châu đã khái quát nỗi nhục mất nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một cách điển hình, trong văn học Việt Nam đến giai đoạn này chưa có một
66
tác phẩm nào lại thấm đẫm nỗi nhục mất nước như vậy, theo lời của cô Triệu:
“con chó của nước mạnh còn sung sướng hơn con người nước yếu”.
Phan Bội Châu coi yêu nước thương nòi là một phẩm chất tự nhiên của
con người, phân biệt con người với con vật. Vì vậy, tất cả các nhân vật chính
diện trong “Trùng Qung tâm sử” đều lấy lý tưởng cứu nước làm lý tưởng
sống, làm động lực thúc đẩy mọi hành động yêu nước của chình mình. Bất kể
ai yêu nước thì đều thấu hiểu nỗi nhục mất nước, cảnh quê hương mình bị dày
xéo, nhân dân đồng bào mình bị làm nhục, đau khổ. Nỗi nhục mất nước ấ y
một khi được thấu hiểu từ lòng yêu nước thì không có lý gì nó lại không vùng
lên đấu tranh tìm cách rửa nhục, đánh đuổi giặc ngoại xâm giành lại sự công
bằng cho dân mình.
Trong quan điểm về lí tưởng anh hùng yêu nước của Phan Bội Châu đã
có nhiều diển tiến bộ hơn Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và Lục
mơ của quần chúng nhân dân, nhưng sức mạnh của Từ Hải hầu như không
ảnh hưởng, liên quan trực tiếp tới quần chúng. Còn Lục Vân Tiên tuy có quan
hệ gần gũi hơn với quần chúng như: Tiểu Đồng, ông Quán, ông Ngư, ông
Tiều nhang hành động vẫn mang tính cá nhân. Vậy nên có ý kiến đánh giá:
“Nếu Từ Hải, Lục Vân Tiên hiện ra giữa cuộc đời như một ngôi sao sáng giữa
đêm tối không sao, thì những anh hùng của Phan Bội Châu là những ngôi sao
sáng hơn nằm giữa bầu trời đầy sao” (tạp chí văn học số 12 – 1967). Đọc
“Trùng Quang tâm sử” ta thấy ai cũng say xưa cố gắng hoạt động vì sự
nghiệp cứu nước nhà. Nhiều con người, nhiều trái tim, nhiều khối óc nhưng
tất cả đều có mục đích chung. Nói như ông Xí: “Ngày nay dòng họ khác đang
giày vò đất nước ta rất lầm than khổ cực, thì mục đích cuối của bậc trượng
phu là phải làm cách mạng”.
Khi Tổ quốc cần người anh hùng sẵn sàng hi sinh thân mình không một
chút băn khoăn do dự “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đối với họ niềm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hạnh phúc là được cống hiến cho đất nước cho cuộc đời, ngay cả khi họ chưa
67
biết gì về nghĩa “quốc gia”, “đồng bào”. Đến khi được giác ngộ thì những
anh hùng này càng nhiệt tình hăng hái dẫu có phải “cắt đầu” thì họ cũng cắt
cho mà mượn”. Thậm chí có người trước đây chưa hiểu vai trò của việc cứu
nướ c nhưng khi được tuyên truyền, giác ngộ thì họ sẵn sàng đi theo làm cách
mạng, như lời của anh Vân thợ rèn làng Cát Ngạn “Thợ làng chúng tôi đều
người thôn quê, thẳng thắn, gan dạ, xem quân giặc như rắn rết. Nếu có chỗ
để theo mệnh lệnh thì kêu một tiếng họ sẽ đến hết, có phải một mình tôi đâu”
[75,57]. Khi đã hiểu được trách nhiệm lớn lao đối với đất nước thì họ hăng
hái thực hiện chỉ mong sao “rửa được nhục cho giang sơn, gây được hạnh
phúc cho nhân dân”.
Lí tưởng yêu nước luôn là kim chỉ nam để định hướng cho những
người yêu nước trong mọi hành động. Lòng nhiệt tình đã thôi thúc họ cứu
nướ c là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất người anh hùng cứu nước. Điều này
hoàn toàn đúng bởi không có lòng nhiệt tình hăng hái thì làm sao dẫn tới
thành công? Tuy nhiên nhiệt tình hăng hái mà mù quáng thì cũng là con
đường ngắn nhất dẫn đến thất bại. Và con đường hoạt động cách mạng của
Phan Bội Châu cũng đi theo lối đó ông đề cao lòng nhiệt tình mà quên đi các
yếu tố khác, đặc biệt là sai lầm khi không có phương pháp cách mạng đúng
đắn nên kết quả là sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã thất bại. Đúng
như Đặng Thai Mai đã nhận định: “Phan Bội Châu có một quả tim yêu nước
nồng cháy nhưng vì thiếu một khối óc sáng suốt tương xứng để dẫn đường
cho nên vẫn thất bại”.
Dù thất bại dở dang nhưng chất men yêu nước nồng cháy trong Phan
Bội Châu không bao giờ tắt , hơn nữa nó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu cho thế hệ sau. Tiêu biểu là lòng yêu nước của Phan Bội Châu đã tác
động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm và con đường hoạt động cách mạng lớp
con cháu tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó Phan Bội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Châu để lại bức tranh khá trọn vẹn về vẻ đẹp, tính cách, phẩm chất người anh
68
hùng yêu nước đầu thế kỷ XX, ngòi bút của ông đã kết tinh được những gì
tinh hoa nhất giai đoạn đương thời qua tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử.
3.2.2. Hư cấu sự kiện
Phan Bội Châu viết tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử nhằm tập trung
miêu tả cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Trần Quý Khoáng thời Hậu
Trần, nhằm chống lại sự tàn bạo, hà khắc của quân Minh. Tác phẩm đã phản
ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Có những sự kiện lịch sử
mang tính chất “chính sử” như: sự kiện quân Minh xâm lược nước ta đánh
chiếm các tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa và Thăng Hoa, đáng thành Thuận
Hóa, đánh thành Ngệ An. Một số sự kiện mang tính chất “dã sử” như: Nguyễn
Xí giả vờ làm con bạc để bắt tên quan huyện Đông Thành; Nguyễn Cảnh
Chân, Nguyễn Xí cùng với nghĩa quân Trùng Quang mở tiệm rượu, lập mưu
kế bắt tên quan hộ giải,…
Tác giả tập trung miêu tả các sự kiện lịch sử liên quan đến trận chiến.
Thông qua đó làm nổi bật tài năng sử lý các tình huống cũng như về mưu lượ c
quân sự nhằm đề cao vai trò của các nhân vật như: ông Xí, ông Chân, ông
Khoáng, cô Triệu, cô Liên, cô Chí , ông Võ, ông Kiên,…
Chẳng hạn như trận đánh chiếm hai châu Tương Qùy được tác giả
miêu tả khá ấn tượng, độc giả có thể hình dung rõ một quang cảnh, không khí
hết sức khẩn trương, hồi hộp và những tình huống bất ngờ, thú vị. Nhờ sự
lãnh đạo, sắp xếp tài tình của ông Châu, quân ta chuẩn bị đầy đủ lực lượng,
tập hợp tướng sĩ, binh khí, trang bị, phương tiện để chiến đấu nhưng lại giả
làm thương buôn. Kế sách tài tình đó đã khiến cho quân địch không kịp trở
tay và kết quả là quân ta dành được thắng lợi, chiếm được châu Tương Qùy,
đánh úp cả hai huyện Thanh Chương và Hương Sơn. Lần lượt những thành
trì của quân Minh đều rơi vào tay quân ta, còn những thổ binh của các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
huyện giết chết tất cả bọn quan lại, về với nghĩa quân Trùng Quang.
69
Trong nghệ thuật miêu tả các sự kiện, Phan Bội Châu đặc biệt chú ý
miêu tả không khí căng thẳng, gấp gáp, quang cảnh khẩn trương của những
trận chiến. Không khí ấy được hình thành từ cả hai bên trước khi giao
chiến. Quân ta chiếm xong thành Thuận Hóa, chuẩn bị tiến đánh Hoàng
Sơn. Bọn Xí đem đại quân tiến về phía Hoành Sơn, cử Chân làm tham mưu
trưởng. Với vai trò của mình, ông Chân cho tiến hành xây thành đắp lũy
kiên cố để chiến đấu: “Ở nơi của quan thì sắp đá làm lũy dài, hai bên tả
hữu … thì xây hai dinh lớn làm hai cánh tả hữu … cách ngoài cửa quan
chừng mười dặm đắp một lũy nhỏ, có lầu vọng viễn” [75,109]. Những đội
tinh binh hùng hậu được sắp xếp, cắt đặt nhiệm vụ của từng người một
cách chặt chẽ, hợp lý. Ngoài ra, ông còn cử ra một đội quân nhử giặc, lấy
thua làm chính. Với ba vạn cả người lẫn ngựa, quân minh tưởng lực lượng
quân ta ít và yếu nên khinh thường, nóng nảy, ra sức truy đuổi và đã rơi
vào bẫy của nghĩa quân Trùng Quang. Thời cơ ngàn vàng đã đến, quân ta:
“xông ra, đánh trống, reo hò, hăm hở xông tới, khi mạnh gấp trăm phần”
[75,113]. Không khí hỗn loạn đó làm quân Ngô vô cùng hoang mang,
không biết quân ta ít hay nhiều, tạo điều kiện cho quân ta bao vây toàn bộ
quân địch. Mưu kế hết sức uyển chuyển, linh hoạt, sáng suốt của ông Chân
và tài chỉ huy quân sự của ông Xí, cùng với sự đồng tâm hiệp lực của toàn
nghĩa quân đã làm cho quân Minh thất bại một cách thảm hại : “Quân giặc
hoảng hốt, tranh nhau cướp đường mà chạy … Quân giặc hồn bay phách
rụng, vứt bỏ giáo gươm, giày xéo lên nhau mà chết. Thây xác bừa bãi, máu
me đỏ đường lênh láng. Lương thực và khí giới của giặc bỏ lại đầy hang lấp
suối, đội quân của Chân thu nhặt không biết bao nhiêu mà kể”[75,113].
Bên cạnh Nguyễn Cảnh Chân – một nhà quân sự tài ba, còn có sự
góp sức của các dũng tướng Nguyễn Xí, Đặng Dung cùng với nghĩa quân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trong những tình huống khó khăn của nghĩa quân Trùng Quang, Chân, Xí,
70
Khoáng, Võ,… tỏa sáng tài năng quân sự thiên bẩm; Đặng Tất, Đặng Dung
dốc sức, dốc lòng; cô Chí, cô Triệu, ông kiên… tràn đầy nhiệ t huyết .
Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử là một “tờ chứng” khung cảnh lịch
sử đời sống của nhân dân Việt Nam trong thời kì mất nước vào khoảng
cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Qua hai mươi chương sách, đều là những
màn cảnh sinh động, thổ lộ hết mọi nỗi nhục nhã đau đớn của cả một dân
tộc đang quằn quại dưới gót giầy tàn bạo của quân thù. Nhưng tập “tâm
sử”, này không hề có ý vị một pho “lệ sử”. Thế hệ thanh niên nhà nho yêu
nước đầu thế kỷ này không phải chỉ là những con người ngồi rên rỉ với
“tình non nước” trước cảnh “bức dư đồ rách”. Họ đã quyết đem tâm huyết,
đem tính mạng mà chuộc lại non sông Tổ quốc. Truyền thống yêu nước,
căm thù giặc ngoại xâm của dân tộc ta như “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc “…nòi giống anh hùng, hậu thân anh hùng chính là
chúng ta…” sau khi nhắc lại công cuộc chống nhà Minh của “tổ tiên ta
nuôi chí căm hờn, diệt thù rửa nhục…" khôi phục lại quyền chủ nhân sẵn
có từ lâu, thì tác giả nói thêm ngay: “để lại giang sơn cho chúng ta ngày
nay” và “chúng ta sao có thể quên được”.
Không dừng lại ở việc nhắc lại những truyền thống quý báu vốn có
từ lâu đời Phan Bội Châu còn đề cập đến rất nhiều vấn đề mới mẻ, tiến bộ
như vai trò của người phụ nữ, dân chủ, dân quyền, mối quan hệ giữa thời
đại và người anh hùng…
Lấy đề tài từ những sự kiện có thật trong lịch sử dân tộc được nhà văn
thêm bớt, hư cấu nhằm phục vụ mục đích chính trị của mình. Trong tác
phẩm ta bắt gặp rất nhiều nét tương đồng với hiện thực lịch sử như tên
nhân vật, địa điểm hoạt động, chương trình cách mạng…
Về chương trình của các nhà cách mạng trong công cuộc vận động
chống quân Minh ở đây cũng na ná như chương trình cách mạng của Phan
Sào Nam khi ông chuẩn bị sáng lập ra Duy Tân Hội. Để thấy rõ vấn đề này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ta cùng so sánh một số đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm với kế hoạch
71
cách mạng của Phan Bộ i Châu , giữa sự kiện cuối cùng qua câu chuyện
“bình Ngô” của tổ tiên để kí thác câu chuyện của thời đại .
“Chúng ta bất luận thế nào, cốt lấy quang phục Tổ Quốc làm mục đích
duy nhất. Thời kì đầu sẽ là thời kì vận động, sau đó là thời kì tiến hành, cuối
cùng là thời kì kiến thiết. Thời kì cuối này là sau khi quang phục thành công.
Khi đó sẽ có người kế chúng ta lo liệu. Chúng ta chỉ duy hết sức lo toan làm
hai thời kì trên, xin anh em chỉ giáo cho” [75,47-48]. “… Bây giờ trước tiên
cần phải sắp xếp ngay hai việc:1. Địa điểm nhóm họp; 2. Các món kinh phí
để khởi sự” [75,48-49].
“… Chúng ta chỉ biết hết nghĩa vụ với Tổ quốc, giống nòi, ngoài ra
không có gì gọi là danh vị cả. Nhưng đã kết một đoàn thể, tất phải có một
người tổng đại diện mới được. Khoáng đời đời làm thổ hào, lại dòng dõi nhà
vua, mọi người đều trông ngóng vào, xin cử ông Khoáng làm trại chủ, gặp có
sự cần phải giao thiệp, hay mệnh lệnh gì trạ i chủ đương lấy” [75,49].
Đối chiếu với ba kế hoạch lớn của Phan Bội Châu, Ngư Hải và các
đồng chí đã bí mật trù tính và những tay tráng kiện ở sơn lâm, xướng khởi
nghĩa binh, mục đích đánh giặc, mà thủ đoạn là bạo động.
2. Tìm lấy một người trong hoàng thân lập làm minh chủ, rồi ngầm liên
kết với những người có thế lực lúc bấy giờ để họ giúp đỡ, lại tập hợp các
người trung nghĩa ở Trung, Bắc Kì, cùng nhau khởi sự.
3. Thi hành hai kế hoạch trên nếu lúc nào cần đến ngoại viện, thì phái
người xuất dương cầu viện. Mục đích cốt sao khôi phục được nước Việt Nam,
lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác cả”.
Xét toàn bộ chương trình hoạt động, chúng ta thấy quả thật na ná giống
nhau. Phan Bội Châu đã làm sống lại không khí sục sôi, khí thế tiến công của
cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô của nghĩa quân Trùng Quang, với nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
diễn biến bất ngờ, hấp dẫn. Tác giả đã để ngòi bút của mình tự do miêu tả các
72
sự kiện cuốn theo dòng cảm xúc trào dâng mãnh liệt, mang lại cho người đọc
những cảm giác sảng khoái, hào hứng.
KẾT LUẬN
1. Trùng Quang tâm sử là cuốn tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ
Hán của Phan Bội Châu. Cuốn tiểu thuyết ra đời khi cánh cửa văn học trung
đại Việt Nam bắt đầu đóng lại. Phan Bội Châu đã dựng lại bức tranh toàn
cảnh nước ta trong giai đoan quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV. Đây là thời
kỳ Trần Quý Khoáng lãnh đạo nhân dân chống quân Minh xâm lược thời Hậu
Trần. Với tài năng sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã đem đến cho người đọc
những giây phút hồi hộp, gay cấn. Thông qua đó tác giả đã thổi vào độc giả
ngọn lửa yêu nước truyền thống và niềm tự hào dân tộc trong quá trình đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị mà cuốn tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử
mang lại đã khẳng định sự hoàn thiện và phát triển vượt bậc của thể loại tiểu
thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam nói riêng và văn học trung đại nói chung.
2. Điểm đặc biệt trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử là lấy sự kiện
lịch sử và các nhân vật lịch sử làm lõi trung tâm. Nhưng bằng tài năng sáng
tạo nghệ thuật hư cấu và tưởng tượng Phan Bội Châu đã làm cho các sự kiện
trong lịch sử trở nên sống động hơn, linh hoạt và lôi cuốn hơn. Đồng thời
Phan Bội Châu đã khai thác những yếu tố mà trong lịch sử ít chú ý như những
yếu tố về ngoại hình, tính cách, hành động, ngôn ngữ,. Chính sự khác biệt này,
đã làm cho tác phẩm trở thành một thứ men say quyến rũ các thế hệ độc giả.
3. Để tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục cao đối với độc giả, Phan Bội
Châu đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc trong quá trình xây dựng
tác phẩm đặc biệt là nghệ thuật tự sự với những thành phần như không gian,
thời gian, sự kiện, nhân vật… nhờ đó, tạo nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.
4. Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mở ra những phương diện mới, từ đây ta có cơ sở để nghiên cứu nghệ thuật tự
73
sự trong tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam (Hoàng Lê nhất thống chí,
An Nam nhất thống chí…)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1996), “Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương pháp
luận nghiên cứu”, Tạp chí Văn học, (2)
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
3. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển
chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái “kỳ” trong tổ chức nghệ thuật Tam quốc chí diễn
nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, (3).
5. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc”,Nghiên cứu Văn học, (9).
6. Lưu Văn Bổng (2004), “Tình hình viết văn học sử so sánh ở một số nước
những năm gần đây”, Nghiên cứu Văn học, (9).
7. Phan Bội Châu (1971), Trùng Quang tâm sử (tiểu thuyết) (Ngô Văn Bách
dịch, Tôn Quang Phiệt hiệu đính, Đặng Thai Mai giới thiệu), Nxb Văn học
Hà Nội.
8. Phan Bội Châu (2005), Trùng Quang tâm sử, không trung duyên (Tiểu
thuyết luận đề) (Trần Lê Hữu – Trần Minh Châu dịch), Nxb Nghệ An -
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
9. Phạm Tú Châu (1979), “Đọc lại Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí Văn
học, (2).
10. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn học, (2).
74
11. Phạm Tú Châu (1997), “Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết
Hán Nôm ở nước ta”, sách: Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Huệ Chi (1967), “Phan Bội Châu, nhà văn”, Tạp chí Văn học, (12)
13. . Nguyễn Huệ Chi – Vũ Thanh (1996), “Những đóng góp của Nguyễn Tử
Siêu cho loại hình tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỷ”, Tạp chí Văn
học, (5)
14. Nguyễn Phương Chi (1979), “Trùng Quang tâm sử hay là hình ảnh cuộc
kháng chiến chống Trung Quốc xâm lược của quân dân nhà Hậu Trần qua
con mắt một sĩ phu chống Pháp”, Tạp chí Văn học, (5).
15. Nguyễn Phương Chi (1980), “ Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử nghĩ về đề
tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lược qua một số sáng tác hiện ”, Tạp
chí Văn học, (4).
16. Nguyễn Đình Chú (1967), “ Tìm hiểu quan niệm anh hùng của Phan Bội
Châu, Tạp chí Văn học, (12)
17. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống
chí”, Tạp chí Văn học, (4).
18. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
19. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung
Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Phan Cự Đệ (1974), T iểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
22. Biện Minh Điền (2005), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung
đại Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, (4).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
23. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75
24. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Trọng Đức (1965), “Về tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học, (2).
26. Trọng Đức (1968), “Hình tượng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm
văn học cổ Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (1).
27. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết
chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, (6).
28. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học (tái bản) , Nxb Giáo dục, Hà Nội.
30. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
đến tiểu thuyêt cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.
31. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, (4).
32. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - ký – tiểu thuyết
chương hồi”. Tạp chí Hán Nôm. (3).
33. Đoàn Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn
hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông”, Tạp chí Văn học, (3).
34. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Đặng Thanh Lê (1984), “Một nhân cách lịch sử và sự phản ánh giai đoạn
trưởng thành của ý thức dân tộc thời kì trung đại”, Tạp chí Văn học, (6).
36. Đặng Thanh Lê (1992), “Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong
mối quan hệ với khu vực”, Tạp chí Văn hoc, (1).
37. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư (tái bản), Tập 1 (Cau Huy Giu
dịch), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
38. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư (Tái bản), Tập 2 (Cau Huy Giu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
76
39. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ
XIX, (Tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Bùi Văn Lợi (1996), “Nguyễn Tử Siêu và những đóng góp của ông cho
văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX ở loại hình tiểu thuyết lịch sử”, Thông
báo khoa học của các trường đại học.
41. Bùi Văn Lợi (1997), “Nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người
của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945”, Thông báo khoa
học, (5), Trường đại học sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội.
42. Bùi Văn Lợi (1997), “Đóng góp của tiểu thuyết lịch sử Trùng Quang tâm
sử vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX”, Thông
báo khoa học, (2), Trường Đại học sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội.
43. Bùi Văn Lợi (1998), “Về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX”, Thông tin khoa học xã hội, (1), Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia.
44. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu
nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí
Văn học (9)
45. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1987), Lý luận văn học, Tập
3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Phương Lựu (Chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học sư
phạm Hà Nội.
46. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ ba), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
47. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
48. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học (tái bản lần thứ ba), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49. Đặng Thai Mai (1958), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
77
50. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, tập 3,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Trần nghĩa (chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập
1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
53. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân
loại”, Tạp chí Hán Nôm, (3).
54. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ
thuật”, Tạp chí Hán Nôm, (4).
55. Phạm thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Tái bản),
Tập 1, Nxb Đồng Tháp.
56. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
57. Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
58. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
59. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc – qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
60. Tôn Quang Phiệt (1967), “Một vài kỷ niệm về Phan Bội Châu”, Tạp chí
Văn học, (5).
61. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các
bước tiếp nối phát triển”, Tạp chí Văn học, (5).
62. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân tộc”, Tạp chí Văn học, (6).
78
63.Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung
đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (7)
64. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Loại hình tác phẩm “Thiền uyển tập anh” (tái
bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Hữu Sơn (2004), “Thiền uyển tập anh – Tác phẩm mở đầu loại
hình văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại”, Sách: Tự sự học – một số
vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
66. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “ Đặc điểm loại hình tác gia Văn học trung đại”
Tạp chí khoa học xã hội, (3).
68. Trần Đình Sử (Chủ biên) (1987), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
71. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, tập 1, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
72. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, tập 2, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
73. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
74. Trần Thị Băng Thanh – Lại Văn Hùng (Chủ biên) (2005), Tìm hiểu quan
niệm và sự hình thành dòng văn trongViệt Nam (thế kỷ VIII – nửa đầu thế
kỷ XIX), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
75. Chương Thâu (Sưu tầm và biên soạn) (2001), Phan Bội Châu toàn tập
(Tập 4), Nxb Thuận Hóa - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.
76. Chương Thâu - Trần Ngọc Vương (giới thiệu và tuyển chọn) (2003), Phan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bội Châu – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
79
77. Nguyễn Đình Thi (2005), “Về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp
chí Văn học, (6).
78. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX,
những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thông tin, Hà Nội.