ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

gggg

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TRỊNH THỊ THU HẰNG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT

TRÙNG QUANG TÂM SỬ CỦA PHAN BỘI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2012

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TRỊNH THỊ THU HẰNG

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT

TRÙNG QUANG TÂM SỬ CỦA PHAN BỘI CHÂU

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS Nguyễn Hữu Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phan Bội Châu (1867-1940)

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.

Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa

được công bố trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trịnh Thị Thu Hằng

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn,

Phòng quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên –

Đại học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho em học tập.

Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn, người

trong suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên để em hoàn thành

luận văn này.

Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã hỗ trợ,

động viên và cùng tôi vượt qua bao khó khăn trong quá trình vừa làm vừa học.

Thái Nguyên, ngày 23 tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trịnh Thị Thu Hằng

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục ............................................................................................................. i

MỞ ĐẦU ............................................................................................................1

NỘI DUNG .........................................................................................................9

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM VÀ VẬN

DỤNG LÍ THUYẾT TỰ SỰ TRONG NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM ..........9

1.1. Về tác giả - tác phẩm Trùng Quang tâm sử ............................................. 9

1.1.1. Vấn đề xác định tác giả ..................................................................... 9

1.1.2.. Về tác giả Phan Bội Châu .............................................................. 10

1.1.3. Vấn đề xác định tên gọi của tác Phẩm ............................................ 16

1.2. Việc vận dụng lý thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm .................... 18

1.2.1. Khái lược về tự sự học .................................................................... 18

1.2.2. Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử với hướng nghiên cứu tự sự học 21

Chƣơng 2. CÁC PHƢƠNG DIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TIỂU THUYẾT TRÙNG QUANG TÂM SỬ ................................ 25

2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật ................................................................. 25

2.1.1. Điểm nhìn từ bên ngoài - điểm nhìn chi phối thế giới nghệ thuật

Trùng Quang tâm sử .................................................................................. 25

2.1.2. Cái nhìn của tác giả về quá khứ và mối quan hệ với hiện tại ......... 28

2.2. Tổ chức nhịp điệu trần thuật .................................................................. 32

2.2.1. Phối hợp các thành phần mang tính động và tĩnh trong trần thuật . 32

2.2.2. Tổ chức các yếu tố thời gian ........................................................... 34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.3. Nghệ thuật kết cấu ................................................................................. 38

ii

Chƣơng 3. HƢ CẤU – MỘT YẾU TỐ ĐẶC SẮC TRONG CẤU

TRÚC TỰ SỰ CỦA TRÙNG QUANG TÂM SỬ ......................................... 41

3.1. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử ............................................................ 41

3.1.1. Hư cấu nghệ thuật và mối quan hệ với tính chân thực lịch sử ........ 41

3.1.2. Về hai khuynh hướng lịch sử hoá tiểu thuyết và tiểu thuyết hóa

lịch sử ........................................................................................................ 48

3.2. Nghệ thuật hư cấu trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử .................... 50

3..2.1. Hư cấu nhân vật .............................................................................. 50

3.2.2. Hư cấu sự kiện ................................................................................. 68

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 73

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trùng Quang tâm sử hay còn gọi là Hậu Trần dật sử là cuốn tiểu

thuyết bằng Hán văn của nhà văn, nhà chí sĩ Việt Nam Phan Bội Châu, được

viết theo thể chương hồi. Tác phẩm phản ánh những biến cố, thăng trầm của

một giai đoạn trong suốt chiều dài của tiến trình lịch sử Việt Nam, gắn liền

với người anh hùng Trần Quý Khoáng, đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên

chống quân Minh xâm lược đời Hậu Trần – thể hiện khát vọng độc lập, tự do,

bình đẳng, đồng thời, khẳng định sức mạnh hào hùng, vô địch của truyền

thống đoàn kết chống lại ách thống trị của ngoại bang.

1.2. cuốn tiểu thuyết ra đời đã có những đóng góp to lớn về nội dung

và nghệ thuật vào nền văn học trung đại Việt Nam nói chung và văn xuôi

Việt Nam nói riêng. Trùng Quang tâm sử đã đánh dấu một bước phát triển

và hoàn thiện của thể loại tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam, bằng

lối văn mới mẻ, trong sáng. Cùng với sự du nhập của văn học phương Tây

qua “cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”

(chữ dùng của Hoài Thanh) của xã hội Việt Nam thời kỳ bấy giờ, những

thành công của thể loại tiểu thuyết này, đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện của

tiểu thuyết Việt Nam hiện đại các giai đoạn tiếp sau.

1.3. Trùng Quang tâm sử chứa đựng một hệ thống nghệ thuật đa dạng,

tiêu biểu hơn cả là nghệ thuật tự sự được tác giả thể hiện rất thành công trong

quá trình xây dựng tác phẩm.

Trùng Quang tâm sử là một tác phẩm đặc sắc của Phan Bội Châu về

nhiều phương diện. Nhưng trên thực tế, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên

sâu về tác phẩm này. Đặc biệt là phương diện nghệ thuật tự sự của tác phẩm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thiển nghĩ, chỉ có thể hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo và toàn diện về cuộc

2

đời, sự nghiệp của Phan Bội Châu và tác phẩm Trùng Quang tâm sử một khi

việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề này được chú trọng đúng mức.

2. Lịch sử vấn đề

Trùng Quang tâm sử có giá trị nhiều mặt về lịch sử cũng như văn học,

nhưng từ ngày được “sinh ra”, “nó đã ngủ một giấc dài, có hơn nửa thế kỷ” –

lời của Đặng Thai Mai [76,217]. Trong những năm gần đây, khi mảng tiểu

thuyết lịch sử bắt đầu được các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, Trùng

Quang tâm sử đã và đang thu hút được sự chú ý nhiều hơn. Nhưng nhìn

chung, các nhà nghiên cứu chỉ mới đi sâu vào từng khía cạnh cụ thể như: kết

cấu, ngôn ngữ, nhân vật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật... Do

vậy, còn nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục được giải quyết. Có thể dẫn

chứng một vài ví dụ như sau:

Về tác giả của Trùng Quang tâm sử, lúc đầu vẫn còn nhiều nghi ngờ,

nhưng qua nhiều phân tích, khảo cứu các cứ liệu khoa học, cuối cùng Đào

Duy Anh đã đi đến kết luận qua lời “Tựa” trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập

(tập 4): “đó là một bản tiểu thuyết do Phan Bội Châu sáng tác” [75,9]. Trong

hoàn cảnh lịch sử chính trị lúc bấy giờ, dựa vào nội dung cũng như hình thức

thể hiện, có thể khẳng định Phan Bội Châu chính là tác giả của Trùng Quang

tâm sử. Bởi lẽ, bút pháp của tác phẩm đã không còn giống cách viết của các

tiểu thuyết chương hồi ngày trước như Hoàng Lê nhất thống chí, An Nam

nhất thống chí… Mặt khác khi đọc tác phẩm này, như Đặng Thai Mai nhận

định: “người ta phải nghĩ đến, phải nhớ đến lối văn của Lương Khải Siêu và

các đồng chí của Lương trong các tập “tân thư” Trung Quốc [75,12].

Về thời gian ra đời và bắt đầu được đăng của Trùng Quang tâm sử,

trong cuốn Trùng Quang tâm sử (tiểu thuyết), Ngô Văn Bách dịch, Tôn

Quang Phiệt hiệu đính (xuất bản năm 1971), theo Đặng Thai Mai qua bài viết

“Cùng bạn đọc”, tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử: “được đăng từ số 8 (tháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1 – 1921) đến số 132 (tháng 4 – 1925), ở đầu bài có ghi: “Trùng Quang tâm

3

sử, bG trước, Hiến Hán dịch” [7,8] trên Binh sự tạp chí ở Hàng Châu, Trung

Quốc. Nhưng chữ Bg có nghĩa là gì thì chưa có một đáp án chính xác. Cũng

có thể đó là một “thủ thuật” để gây nên sự tò mò, chú ý ở người đọc, hoặc để

che mắt bọn thực dân Pháp. Xét về mặt nghệ thuật, Phan Bội Châu đã có

nhiều sáng tạo hơn, tuy nhiên, văn chương của ông ít nhiều vẫn còn ảnh

hưởng tiểu thuyết chương hồi cổ điển, đúng như Đặng Thai Mai nhận xét:

“văn tự sự thỉnh thoảng được viền mép với những “mẫu” phong cảnh trong

những câu văn, thể biền ngẫu mỗi đoạn vài ba chục chữ, như ta đã từng đọc

trong các truyện Tây du Tam quốc”[7,18]. Trong bài viết “Cùng bạn đọc” của

cuốn Phan Bội Châu toàn tập (tập 4), Đặng Thai Mai đồng ý với Đào Duy

Anh cho rằng: Nó được viết vào khoảng trước hoặc sau năm 1900 một hoặc

hai năm. Mặc dù tập “dật sử” chưa thoát khỏi khuôn sáo của văn chương “nhà

trường”, có những câu văn biền ngẫu, với nhiều đoạn miêu tả phong cảnh,

nhưng tác phẩm đã có những nét mới, ảnh hưởng của văn chương tân thư. Có

nghĩa là, cụ Phan đã sử dụng ngôn ngữ hiện đại của nước ngoài để bộc lộ tư

tưởng, tình cảm của mình.

Trong bài nghiên cứu “Về tác phẩm của Phan Bội Châu; Trùng Quang

tâm sử hay Hậu Trần dật sử?”, Chương Thâu lại cho rằng ý kiến của Đặng

Thai Mai về năm ra đời của Trùng Quang tâm sử là chưa chính xác. Đúng

như tác giả bài viết nhận xét: “văn cụ hồi này rất nặng nề phong khí của kinh

truyện. theo lối bát cổ, biền ngẫu lắm điển cố sâu xa, cú, từ đối nhau chan

chát” [75,24-25]. Ngoài chủ trương hành động của nghĩa quân Trùng Quang

cũng gần giống với Duy Tân hội nên Chương Thâu khẳng định: “quyển Trùng

Quang tâm sử phải viết sau khi có Duy Tân hội” [75,26]. Hơn nữa, trong

Trùng Quang tâm sử, Phan Bội Châu lại đề cập đến những vấn đề “bình

đẳng”, “dân chủ” và vai trò của người phụ nữ được sánh ngang hàng với nam

giới, thậm chí được coi trọng. Trong khi đó, Phan Bội Châu trước và sau khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xuất dương vẫn còn mang nặng tư tưởng quân chủ, chưa thoát ra khỏi đạo

4

“trọng thần, hiếu tử”. Vì thế, Chương Thâu xác định, cụ Phan viết Trùng

Quang tâm sử vào những năm 1917 – 1918, là thời kỳ cụ bắt gặp tư tưởng của

cách mạng tháng 10 Nga lan sang Trung Quốc.

Qua đó, có thể thấy rằng, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về thời

gian ra đời của Trùng Quang tâm sử, nhưng điều đó không ảnh hưởng nhiều

đến những giá trị đích thực mà tác phẩm mang lại cho nền văn học trung đại

Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Mặc dù thuộc thể loại

tiểu thuyết chương hồi, nhưng theo nhận xét của Chương Thâu, Trùng Quang tâm

sử là: “một tác phẩm dày với lối văn mới mẻ, trong sáng, phóng bút…” [8,32].

Về thời gian tìm ra tác phẩm, theo Từ điển Văn học, văn bản Trùng

Quang tâm sử lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1957 qua một bản chép

tay được Trần Lê Hữu dịch và xuất bản, với tên gọi là Hậu Trần dật sử (pho

sử xót lại của thời Hậu Trần). Trong khi đó, theo lời “Tựa” của cuốn Trùng

Quang tâm sử, không trung duyên (tiểu thuyết luận đề) – xuất bản năm 2005:

năm 1954, trong những tài liệu của Trường sư phạm thu được ở Nghệ An sau

phong trào phát động quần chúng nhân dân đấu tranh kháng thuế, các nhà

nghiên cứu tìm thấy một quyển sách chữ Hán viết tay, không có đề mục gồm

96 trang khổ 21 x 28 cm, tất cả chừng hơn 4 vạn 5 nghìn lời. Và theo Đào

Duy Anh: “thể theo ý của tác giả nhằm biểu dương những anh hùng vô danh

trong cuộc vận động khôi phục nhà Trần, mà lịch sử đã lãng quên chưa chép

hết, chúng tôi nghĩ đặt tên nhan đề cho tập truyện này là Hậu Trần dật sử

…kể ra đã “tạm ổn” và hợp tình, hợp lý rồi. Nhưng đó chỉ là vấn đề “tạm” vì

chưa tìm đúng tên húy của nó mà thôi. Chính ra tên thật của nó là Trùng

Quang tâm sử” [8,27]. Như vậy, Hậu Trần dật sử cũng chính là Trùng Quang

tâm sử, “tâm sử của trại Trùng Quang hay là tâm sử của đời Trùng Quang.

Chữ tâm sử vừa có ý nghĩa tiểu thuyết vừa có ý nghĩa lịch sử” [8,27]. Bởi,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trùng Quang tâm sử đã thực sự làm sống lại một thời kỳ hào hùng của dân

5

tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, đồng thời, góp phần quan trọng tạo nên giá

trị sự nghiệp thơ văn của Phan Bội Châu.

Trong bài nghiên cứu “Về cuốn Trùng Quang tâm sử”, Đặng Thai Mai

đề cập đến nhiều yếu tố tưởng tượng chiếm vị trí quan trọng trong tác phẩm,

cùng với những chi tiết “phản lịch sử" độc đáo, giàu sáng tạo, mục đích giúp

độc giả hiểu rằng, khi nói đến giặc Ngô cũng chính là nhằm vào thực dân

Pháp. cuốn tiểu thuyết như một chứng cứ quan trọng phản ánh hiện thực cuộc

sống của nhân dân ta dưới ách áp bức, bóc lột, đàn áp dã man của kẻ thù xâm

lược cuối thế kỷ XIX đầu XX. Nhưng theo tác giả bài viết: “Trùng Quang tâm

sử không hề có ý vị một pho lệ sử” [74,217]. Khi tổ quốc bị xâm lăng, mọi

người Việt Nam yêu nước đều một lòng một dạ đứng lên đánh đuổi kẻ thù mà

không “ngồi rên rỉ” với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách” – nhận

định của Đặng Thai Mai [74,217]. Ông cho rằng, dù chưa thoát ra khỏi khuôn

sáo của những câu chuyện anh hùng trong Tam quốc chí hay Thủy hử nhưng

cấu tứ của tác phẩm vẫn có những nét độc đáo riêng. Câu chuyện diễn ra

mang đậm tính Việt Nam: “đều được gọi theo lối Việt Nam chép bằng chữ

Nôm: ông Chân, cô Chí, chú Cữu, cu Chìm, anh Phúc” [75,218]. Tất cả đều là

những anh hùng thảo dã vô danh, đứng bên cạnh nhau, bình đẳng nhau, không

phân biệt nam, nữ. Vì thế, tác giả bài nghiên cứu đã đưa ra luận điểm: “Trùng

Quang tâm sử là một cuốn tiểu thuyết có ý nghĩa luận đề về cách mạng Việt

Nam. Phan Bội Châu là người đầu tiên chú trọng đến địa vị người phụ nữ, đến

lực lượng thanh niên trong công cuộc cách mạng dân tộc. Cũng là người đầu

tiên đã nhận rõ ý nghĩa toàn dân của cách mạng Việt Nam và đã nêu rõ sự cần

thiết đoàn kết toàn dân để hoàn thành cách mạng dân tộc” [75,219]. Kết thúc

bài nghiên cứu, Đặng Thai Mai cho rằng: “công cuộc dẹp giặc để lấy lại nước

nhà, khi chúng ta khép tập sách lại, vẫn còn bỏ dở, chưa phải là đã đi tới

thắng lợi … và tập sách này cũng không phải là tập tiểu sử của “những anh

hùng thất bại”… đúng hơn, đây là câu chuyện của những người “anh hùng vô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

danh” [75,222].

6

Trên tạp chí văn học số 9 (1999), Bùi Văn Lợi có bài: “Mối quan hệ

giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX”. Có thể hiểu vấn đề chính tác giả đề cập ở đây là,

trong tiểu thuyết lịch sử, việc sử dụng các yếu tố lịch sử làm cốt yếu nhưng

theo quan điểm của tác giả bài viết: “một trong những đặc điểm quan trọng

nhất là người nghệ sĩ phải làm sống lại những tài liệu lịch sử bằng trí tưởng

tượng, bằng quyền hư cấu và sáng tạo nghệ thuật của mình” [44,83].

Trên tạp chí văn học số 5 (1979), Nguyễn Phương Chi với bài viết:

“Trùng Quang tâm sử hay là hình ảnh cuộc kháng chiến chống Trung Quốc

xâm lược của quân dân nhà Hậu Trần qua con mắt một sĩ phu chống Pháp” đã

có ý kiến rằng, việc đánh giá tác phẩm Trùng Quang tâm sử không nằm trong

phạm vi hẹp. Không phải chỉ là việc thông qua câu chuyện của những nhân

vật anh hùng ngày xưa để nói đến những con người ở đầu thế kỷ XX, mà vấn

đề cụ Phan đặt ra trong tác phẩm chứa đựng rất nhiều chi tiết “phản lịch sử”

mang dụng ý của tác giả. Cũng không chỉ là câu chuyện viết về giặc Ngô

nhằm ám chỉ thực dân Pháp. Nó phản ánh những vấn đề chung như tác giả

Nguyễn Phương Chi đã nói: “đó là quy luật về sự vùng dậy tất yếu của đất

nước và con người Việt Nam mỗi khi bị đô hộ, áp bức. Và đấy mới là cái cốt

lõi của hiện thực, cái quy định giá trị hiện thực, giá trị lâu dài của tác phẩm”

[14,123]. Thông qua số phận của từng nhân vật, hiện thực phát lộ từng mảng

rõ nét hơn, chi tiết hơn về thực trạng đen tối và khắc nghiệt bao trùm xã hội

Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong đó, mỗi số phận được khắc

họa vừa cụ thể, vừa có tính chất điển hình, kết hợp hài hòa giữa hiện thực trữ

tình và trí tưởng tượng phong phú của tác giả, đem lại giá trị hiện thực chân

chính cho Trùng Quang tâm sử.

Theo tác giả bài viết, câu chuyện mà cụ Phan nêu trong tác phẩm cũng

là một bản án đanh thép tố cáo chế độ thực dân đương thời. Sợi dây xích màu

đỏ tạo nên mối liên hệ giữa hai thời kỳ cách xa nhau này là những đặc điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tương đồng về mặt lịch sử giữa hai thời đại. Hiện thực của Trùng Quang tâm sử,

7

theo Nguyễn Phương Chi là: “hiện thực kết tinh đậm đặc về xã hội Việt Nam

bị xâm chiếm, đô hộ từ hàng ngàn năm với những cảnh ngộ, những số phận,

những sự đọa đầy luôn luôn được lặp đi lặp lại” [14,125]. Nguyễn Phương

Chi còn phát hiện ra những tính cách điển hình trong tác phẩm cũng là những

tính cách tiêu biểu của con người Việt Nam khi đối mặt với những kẻ thù xâm

lược. Đó là những con người anh hùng được Phan Bội Châu khắc họa với tất

cả sự sảng khoái và lòng ngưỡng mộ. Nghệ thuật sử dụng kết cấu hướng tâm

trong tác phẩm thể hiện rõ ý đồ tác giả là, muốn đưa hoàn cảnh riêng của các

nhân vật vào hoàn cảnh chung để nhân vật có điều kiện bộc lộ tính cách ở mức

độ cao nhất. cho nên, thế giới nhân vật của Phan Bội Châu vừa phong phú, vừa

mang những nét chung nhất của con người Việt Nam yêu nước.

Phan Bội Châu đã xây dựng nên một hệ thống những anh hùng thảo dã,

vô danh nhưng không bao giờ mờ nhạt, bị động, xuất hiện xuyên suốt từ đầu

đến cuối tác phẩm.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Là nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Khảo sát tác phẩm Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu, bên cạnh

đó tham khảo bộ Đại Việt sử kí toàn thư để so sánh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tôi sử dụng phương pháp sau:

- Phương pháp phân tích.

- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp tổng hợp.

- Phương phá p thố ng kê.

5. Đóng góp của luận văn

Luận văn tham khảo một số bài nghiên cứu của các nhà phê bình nhằm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm rõ những vấn đề liên quan đến tác giả, tác phẩm Trùng Quang tâm sử.

8

Khảo sát những biện pháp nghệ thuật đã được sử dụng trong tác phẩm để thấy

được tư tưởng nghệ thuật của tác giả đồng thời khẳng định những thành tựu

mà tác phẩm đã đóng góp cho thể loại tiểu thuyết chương hồi.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung

gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Những vấn đề về tác giả - tác phẩm và việc vận dụng lí

thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm

Chƣơng 2: Các phƣơng diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết

Trùng Quang tâm sử

Chƣơng 3: Hƣ cấu – Một yếu tố đặc sắc trong cấu trúc tự sự của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trùng Quang tâm sử

9

NỘI DUNG

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM VÀ VẬN DỤNG

LÍ THUYẾT TỰ SỰ TRONG NGHIÊN CỨU TÁC PHẨM

1.1. Về tác giả - tác phẩm Trùng Quang tâm sử

1.1.1. Vấn đề xác định tác giả

Theo lời “Tựa” trong cuốn Phan Bội Châu toàn tập (tập 4) Đào Duy

Anh nhận định rằng đây là công trình sáng tác của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

Trong tình thế chiến tranh và trong hoàn cảnh học thuật tư tưởng nước

ta lúc bấy giờ, căn cứ vào nội dung tập sách cũng như căn cứ vào hình thức

văn chương đây chỉ có thể là do ngòi bút của Phan Sào Nam viết ra. Trong

long mạch tiểu thuyết lịch sử, bút pháp của tác phẩm đã xa hẳn lối viết của

các tập truyện dài ngày xưa như Hoàng Lê nhất thống chí, hay An Nam nhất

thống chí. Tác giả tập tiểu thuyết này có phần chắc là đã đọc, đã nghiền ngẫm

nhiều lối văn Tân dân tùng bá. Và, hồi đó, nếu có một nhà văn Việt Nam có

thể nói là nắm tương đối vững được văn pháp tân thư của Trung Quốc, thì

người ấy chính là Phan Bội Châu. Rồi nếu như ta theo dõi sân khấu hoạt động

các nhân vật của cuốn tiểu thuyết này, từ tỉnh thành Nghệ An, từ Nghi Lộc,

Hưng Nguyên, lên Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, xuống Yên Thành,

Phủ Diễn, rồi ngược Phủ Qùy, Phủ Tương, và đi đường “thượng đạo” vào đến

mạn Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, thì lại càng thấy rõ rằng: bấy nhiêu

địa hạt với những thị trấn quen thuộc khác như Chợ Rộ, Chợ Chế, Chợ Rạng,

Chợ Dừa, Chi Nê, Chợ Ròn v.v…, cũng là những trạm nghỉ chân của ông

đầu sứ San, hay ông Giải San (tức Phan Bội Châu) trên con đường “bôn tẩu

quốc sự” vào khoảng 1898 – 1902. Ngay cả vấn đề chiến thuật chiến lược

theo sự bố trí trong tập tiểu thuyết này nữa nếu ta đem so sánh với kế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoạch Cách mạng của Phan tiên sinh hồi đó, thì sự phản ánh lại càng rõ rệt

10

hơn nữa. Cho nên, giả thuyết của giáo sư Đào Duy Anh đã được xây dựng

trên một cơ sở lí luận khá chắc.

Người hoài nghi vẫn có thể đặt lại vấn đề. Nhưng, cũng như Giáo sư

Đào Duy Anh đã nói, ngẫm nghĩ kĩ về ý vị văn chương cũng như về nội dung

tư tưởng của tác phẩm, thì ta chỉ có thể nghĩ đến Phan Bội Châu chứ không có

thể tưởng tượng đến một người nào khác. Bây giờ nếu như có người cật vấn

vẫn hoài nghi về tên tác giả cho rằng phỏng thuyết trên kia chỉ là xây dựng

trên ấn tượng thì ta có thể để hai chữ “vô danh” khi nói về tên tác giả. Nhưng

xét một cách khái quát ý kiến cho rằng Phan Bội Châu là tác giả của Trùng

Quang tâm sử ngày càng được củng cố và đáng tin cậy.

1.1.2.. Về tác giả Phan Bội Châu

1.1.2..1. Con người

Phan Bội Châu sinh ngày 26 – 12 – 1867 ở làng Sa Lam, xã Đông Liệt

huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Quê chính là Đan Nhiệm cách Sa Lam độ vài cây

số, nằm sát bên bờ tả ngạn sông Lam. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến

hạng thấp “lấy nghiên làm ruộng, lấy bút làm cày”. Phan Bội Châu được thừa

hưởng nhiều mặt tích cực từ cha mẹ. Cụ thân sinh Nguyễn Thị Nhàn là người hiền

lành phúc hậu và rất thương người. Bà thường dậy cho Phan Bội Châu thuộc lòng

một số bài thơ trong Kinh Thi, là người có ảnh hưởng lớn đến nhân cách và con

người Phan sau này.

Cùng với những yếu tố về gia đình, Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng

nhiều của quê hương xứ Nghệ, nơi có truyền thống anh hùng, truyền thống văn

hóa, đã từng sản sinh ra rất nhiều nhân tài cho đất nước.

Những yếu tố về gia đình, về quê hương cùng với thiên chức bẩm sinh đặc

biệt thông minh nổi tiếng “thần đồng” khiến cho tài năng văn học của cậu bé San

nảy nở và phát triển từ rất sớm. Tập “Phan Bội Châu niên biểu” cho biết: Sáu tuổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

theo cha đi học có ba ngày đọc thuộc lòng quyển “Tam tự kinh”, bảy tuổi đã hiểu

11

được Kinh truyện và viết “Phan tiên sinh luận ngữ”, tám tuổi đã thông thạo các

kiểu văn cử tử, mười ba tuổi đỗ đầu huyện , mười sáu tuổi đỗ đầu xứ, ba mươi tuổi

đỗ giải Nguyên trường Nghệ An với vinh dự độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa cử

Việt Nam: “Bảng một tên lừng lẫy tiếng làng văn ”.

Phan Bội Châu ra đời đúng vào năm lục tỉnh Nam kì mất trọn vào tay Pháp

(1867) “tiếng khóc chào đời như đã báo trước cho tôi rằng: mày sẽ phải làm một

người dân mất nước” (Phan Bội Châu niên biểu). Lớn lên trong cảnh đất nước bị

giặc chiếm, làng quê bị tàn phá, cả một xã hội đang bị phân hóa kịch liệt chìm

ngập dưới ngọn sóng tư bản chủ nghĩa. Tình đối với quê hương đất nước, chí căm

hờn đối với “dị tộc xâm lăng” bị kích thích đến tột độ. Phan Bội Châu nói mình có

“bầu máu nóng” đó chính là lòng yêu nước và ý chí cứu nước dậy lên từ thuở còn

thơ. Thực ra cái bản tính chẳng do trời phú mà do ảnh hưởng của truyền thống dân

tộc và quê hương. Những tình cảm sôi nổi bồng bột nhưng vô cùng quý giá đó là

bước khởi đầu dẫn dắt Phan Bội Châu vào con đường cách mạng. Lòng yêu nước

đã khiến Phan Bội Châu từ một nhà nho thành một chiến sĩ yêu nước kiên cường

bất khuất, sẵn sàng tiếp thu và làm theo cái mới.

1.1.2..2. Cuộc đời

Cuộc đời hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu có thể chia làm ba

thời kì, tương ứng với ba giai đoạn sáng tác của ông:

Trƣớc khi ra nƣớc ngoài

Là thời kì “ẩn nhẫn nấp náu tu dưỡng ngấm ngầm”. Thời kì này, Phan Bội

Châu ở nhà dạy học và nuôi cha già. Ngoài thời gian dạy học Phan Bội Châu còn

bí mật liên kết với bạn bè, tìm đồng chí đọc tân thư tân văn, binh thư binh pháp.

Lúc này, Phan Bội Châu viết văn chương cử tử, tuy vậy vẫn bộc lộ hoài bão của

một người thanh niên đầy nhiệt huyết với dân với nước, có ý chí bất chấp mọi khó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khăn nguy hiểm.

12

“Nước non Hồng Lạc còn đây mãi

Mặt mũi anh hùng khá chịu ri

Giang sơn còn vẽ mặt nam nhi

Sinh thời thời thế phải xoay nên thời thế.

Phùng xuân hội may ra thì cũng dễ

Nắm địa cầu một tí con con

Đạp toang hai cánh càn khôn

Đem xuân vẽ lại cho non nước nhà

Hai vai gánh vác sơn hà"

(chơi xuân)

Thời kì hoạt động ở nƣớc ngoài (1905 – 1925)

Thời gian này ông tổ chức và phát triển phong trào Đông Du cho học sinh

đi du học ở nước ngoài để làm nòng cốt cách mạng. Ông giao thiệp với các nhà

chính trị nổi tiếng của cách mạng tư sản Trung Quốc, Nhật…Ông viết văn viết thơ

tuyên truyền khích lệ phong trào cách mạng ở trong nước.

Thơ Phan Bội Châu thời kì này hào hứng sôi nổi nhất với nhiều tác

phẩm như: Việt Nam vong quốc sử; Việt Nam quốc sử khảo, Hải ngoại huyết

thư, Ai cáo Nam kì phụ lão thư, các truyện và đặc biệt là tiểu thuyết “Trùng

Quang tâm sử”… tất cả đều được viết bằng chữ Hán, ghi lại nhiều chuyển

biến về tư tưởng của Phan Bội Châu.

Năm 1925, trên đường về Quảng Châu Phan Bội Châu bị bắt, kết thúc “Hai

mươi năm lẻ” hoạt động tích cực ở nước ngoài. Đánh giá tích cực về giai đoạn này

Giáo sư Đặng Thai Mai có viết: “Thời kì 1905 – 1925 là quãng đời oanh liệt và vẻ

vang trong thân thế nhà chiến sĩ. Hai mươi năm ròng rã không một cuộc vận động

yêu nước nào mà không thấm nhuần ít nhiều tinh thần của Phan Bội Châu. Trong

phần tư đầu thế kỉ ba chữ Phan Bội Châu là dấu hiệu cao cả tập hợp mọi lực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lượng chống thực dân Pháp ở trong nước và ngoài nước và cũng là thể hiện đẹp

13

đẽ , tiêu biểu cho tinh thần quật cường của cả dân tộc. Giữa những ngày tháng

đau luôn luôn nhìn thấy trong ba chữ tên đó một tia hy vọng”.

Thời kì làm “Ông già Bến Ngự”:

Khi bắt Phan Bội Châu thực dân Pháp có âm mưu thủ tiêu nhưng bị lộ,

chúng phải đem ra xử án công khai. Ông bị kết án tù khổ sai chung thân. Khi án

này công bố, cả nước dấy lên phong trào đòi tha Phan Bội Châu. Trước sức mạnh

của cả dân tộc, thực dân Pháp phải “tha bổng”. Chúng bắt ông về cư trú ở Huế.

Nhân dân xây dựng cho ông một ngôi nhà dưới núi Ngự, bên bờ sông Hương. Từ

lúc bị bắt giam cho đến khi mất, Phan Bội Châu phải sống trong cảnh của người tù

giam lỏng – một cuộc sống khá thê lương, buồn tẻ và hiu quạnh:

Đêm nghe con Vá chào ông Trộm

Ngày lắng thằng Nghi kể chuyện tù

Những năm tháng cuối đời, dù sống trong hoàn cảnh người tù bị giam

lỏng, tấm lòng nhà chí sĩ họ Phan vẫn chất chứa bao nỗi niềm ưu ái, vẫn đặt kì

vọng vào đồng bào. Trước lúc ra đi. Phan Bội Châu vẫn không quên lời nhắn

nhủ tâm huyết với thế hệ trẻ:

Nay đương lúc tử thần chờ trước cửa

Có vài lời ghi nhớ về sau

Chúc phường hậu tử tiến mau!

(Từ giã bạn bè lần cuối cùng).

Ngày 29 – 10 – 1940 Phan Bội Châu qua đời. Đám tang rất vắng vẻ bởi sự

kiểm soát ngặt nghèo của bọn thực dân. Dẫu vậy, tên tuổi của một nhà chí sĩ yêu

nước, một con người hoạt động hăng say chiến đấu vì nước vì dân, một nhà văn

nhà thơ lớn của dân tộc vẫn còn sống mãi với thời gian, vẫn sống mãi trong trái

tim người dân Việt Nam. Cuộc đời 73 năm của Phan Bội Châu là cuộc đời hoạt

động cho cách mạng. Cuộc đời của một con người hăng say với lý tưởng cứu

nước. Từ tuổi thơ còn cắp sách đến trường cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

điều luôn luôn nung nấu trong tâm can ông là giết giặc cứu dân. Ông đã cống hiến

14

cả đời mình cho sự nghiệp dân tộc. Lý tưởng sống, lẽ sống của ông là hy sinh cho

độc lập tự do của dân tộc. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ông phải vật

lộn với bao vất vả, khó khăn, cay đắng, tủi cực. Bao nhiêu lần thất bại chua

cay, ông vẫn không nản chí. Ý chí ấy thật đáng khâm phục. Trong Niên biểu

ông xót xa thừa nhận rằng: “Lịch sử đời tôi là lịch sử một trăm thất bại mà

không một thành công”. Tấm lòng ông luôn luôn hướng về tổ quốc với một

niềm mong mỏi đất nước được độc lập, dân tộc được tự do. Tổ quốc ở trong

ông gần như là máu thịt. Ông đau lòng trước cảnh:

Nước mất nhà tan nỗi thiết tha.

Dòng sông man mác máu hồng pha.

Gươm đao tởm nhắc ba tuồng cũ.

Màu khói buồn trông bốn mặt xa.

Xương vỏ sống còn đau lũ bé.

Sọ đầu vứt uổng khóc tay già.

Ngọn lửa căm hờn bùng cháy trong tâm thức thuở thiếu niên cho đến

lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn còn day dứt khôn nguôi. Phan Bôị Châu là người

cảm nhận rất sâu nỗi đau, nỗi nhục của người dân mất nước. ông sẵn sàng

“đem máu đổi lấy tự do”. Trong tim ông vẫn khắc sâu tư tưởng lòng quyết

tâm “thù sâu chắc có ngày rồi trả”. Để thực hiện được lý tưởng đó Phan Bội

Châu sẵn sàng làm tất cả. Ông từng nói “suốt đời đã mưu tính việc gì cốt

nhằm mục đích giành được thắng lợi trong phút cuối cùng dù đó có phải thay

đổi thủ đoạn, phương châm cũng không ngần ngại”

Bình sinh, Phan Bội Châu vốn là một người chiến sĩ. Không bao giờ

ông có ý định xây dựng cho mình sự nghiệp văn chương. Hai câu thơ của

Viên Mai mà ông rất thích:

Túc dạ bất vong duy trúc bạch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lập thân tối hạ thị văn chương.

15

(Khuya sớm vẫn mong ghi sử sách

Lập thân hèn nhất ấy văn chương).

Khi bước vào hoạt động cách mạng Phan Bội Châu xác định cho mình làm

người chiến sĩ. Qua thực tế, Phan Bội Châu cũng như những người làm cách

mạng nhận ra rằng văn học là một vũ khi đấu tranh. Ghecxen nói: “Khi một dân

tộc mất quyền nhờ ngoại viện để đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam,

lập ra Chính phủ độc lập. tự do dân chủ, chỉ văn học là diễn đàn duy nhất mà ở

đó họ có thể nói lên tất cả lòng căm phẫn và lương tri của mình”. Đối với Phan

Bội Châu, càng hoạt động cách mạng, ông càng nhận thấy rõ văn học là một loại

vũ khí lợi hại. Con đường đến với văn chương của Phan Bội Châu rất khác biệt:

Từ nhà nho yêu nước đến người chiến sĩ cách mạng; từ chiến sĩ cách mạng trở

thành nhà văn, nhà thơ.

Phan Bội Châu là người có ý thức sâu sắc đầy đủ, hệ thống, có kết quả nhất

trong việc dùng văn chương phục vụ nhiệm vụ chính trị của thời đại.

Tóm lại: Nhắc đến Phan Bội Châu, chúng ta nhắc đến tên một nhà chí sĩ –

người đã châm ngọn đuốc soi đường cho cả một thế hệ thanh niên đi theo tiếng

gọi non sông những năm đầu thế kỷ - điều đó cũng đã đủ để tự hào. Nhắc đến

Phan Bội Châu, ta còn nhắc đến tên một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã

để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn học khá lớn – những bài thơ “dậy sóng” có

tác động không nhỏ đến tâm hồn, ý chí người dân Việt Nam trong những năm

kháng chiến chống Pháp, cho đến ngày nay vẫn gây xúc động lớn trong lòng

người đọc. Phan Bội Châu không những được nhân dân Việt Nam yêu quý, kính

phục mà còn được nhân dân thế giới biết đến và ngưỡng mộ.

Phan Bội Châu mãi mãi xứng đáng với danh hiệu: “Bậc anh hùng, vị thiên

sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc, được hai mươi triệu con người trong cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nước tôn sùng” – (Nguyễn Ái Quốc).

16

1.1.3. Vấn đề xác định tên gọi của tác Phẩm

Trùng Quang tâm sử là một tập tiểu thuyết bằng Hán văn được viết vào

khoảng đầu thế kỷ XX. Đa phần các nhà nghiên cứu cho rằng nó được ra đời vào

khoảng thời gian từ 1905 đến 1913. Lần đầu tiên được đăng trên tờ Binh sự tạp

chí ở Hàng Châu, Trung Quốc từ tháng 1- 1921 đến tháng 4 – 1925. Từ lúc ra

đời nó đã ngủ một giấc dài hơn ba mươi năm, đến năm 1957 cuốn tiểu thuyết

này mới được dịch và xuất bản (xuất bản lần I mang tên “Hậu Trần dật sử” –

Trần Lê Hữu dịch – nhà xuất bản văn hóa – 1957; lần II mang tên “Trùng Quang

tâm sử” – Nguyễn Văn Bách dịch – nhà xuất bản văn học – 1971).

Về tên sách, ngày nay cũng khó mà biết được chính xác. Cũng có thể là

sau khi viết ra, vì một lí do này hay lí do kia, tác giả chưa hề đặt tên cho tác

phẩm. Điều chắc chắn là đằng sau câu chuyện vận động “bình Ngô” này,dụng

ý của người viết sách là kêu gọi đồng bào chống Pháp. Câu chuyện cũ bao

hàm ý nghĩa hoàn toàn mới.

Cái tên “Hậu Trần dật sử” mà Đặng Thai Mai và Đào Duy Anh đưa

ra cũng có thể cho là “ổn”. Nhưng đó chỉ là vấn đề “tạm” vì chưa tìm

đúng tên húy của nó.

Theo ý kiến của Chương Thâu tác phẩm có tên Trùng Quang tâm sử,

“tâm sử” của đất Trùng Quang hay là “tâm sử” của đời Trùng Quang. Chữ

“tâm sử” vừa có ý nghĩa tiểu thuyết vừa có ý nghĩa lịch sử. Nội dung quyển

sách cho ta biết nhiều những chuyện lịch sử có thật đời Hậu Trần, xoay chung

quanh chữ “Trùng Quang” này.

“Phía cực tây huyện Thanh Chương, giáp nước Lào, nhìn xuống là

sông Lam, dựa vào vách núi Giăng Màn, trong chỗ rừng sâu xanh thẳm, có

vài trăm khoảng sơn điền. Bốn mùa có khe nước chảy, phân tán thành câu,

cừ. Ở trên có nhà trại, lớn nhỏ hơn trăm gian. Đấy là trại của ông Khoáng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đất ấy trước là một thôn của người Lào. Tiên thế ông Khoáng hiển đạt ở đời

17

Trần, nhà Trần mất, đem cả bộ thuộc hơn vài mươi người dời xuống phía

nam châu Hoan, đuổi người Lào chiếm lấy đất. Vì quân nhà Minh đuổi bắt

riết, nên ông Khoáng cũng trốn đến ở đấy. Các hào kiệt lục lâm thường nhờ

làm chỗ trốn tránh. Ông Khoáng là người trưởng giả, trung hậu, nên người

xa gần bất kì Mường hay Chợ đều ham đi lại giao thiệp. Thường lấy thóc gạo

đổi lâm sản, rồi chở lâm sản xuống chợ bán lấy tiền, hàng năm thu được rất

nhiều, cho nên trong trại súc tích cũng đầy đủ. Ông khoáng thường nghĩ đến

quốc sỉ, nuôi chí lớn, cho nên những người hảo hán đến thường được tiếp đãi

rất hậu. Các thổ hào đều gọi ông Khoáng là ông Cả. Khi Kiên và Xí muốn mở

hội nghị bí mật, trước hết đến mời ông Khoáng, ông rất mừng, đến ngay. Bèn

cử ông làm chủ trại. Miếng đất khô ráo này trở thành một nước độc lập nhỏ.

Vì vậy nên đặt tên là trại “Trùng Quang”.[75,50].

Qua đoạn trích trên đây, chúng ta biết được tổ chức và hoạt động của

các ông Khoáng, ông Xí… rất ứng hợp với sự thực lịch sử lúc bấy giờ. Mùa

đông năm 1407 Giản Định đế nhà Hậu Trần nổi lên ở Nghệ An. Tri châu Hóa

Châu là Đặng Tất và An phủ sứ Thăng Hoa là Nguyễn Cảnh Chân đem quân

địa phương về theo. Lúc đó, nhà Minh sai tướng giặc Mộc Thạnh đem 4 vạn

quân từ Vân Nam sang, bị quân ta đánh thua phải bỏ chạy. Giản Định đế

muốn thừa thắng kéo quân ra Bắc, nhưng Đặng Tất lại muốn tìm bắt dư chúng

của giặc để trừ hậu họa, rồi sau hợp với các đạo quân Thuận Hóa, Tân Bình,

Nghệ An, Diễm Châu và Thanh Hóa kéo ra Đông Đô triệt nốt quân Minh.

Chưa kịp thì bọn giặc đã đón được tướng Mộc Thạnh về Đông Đô.Giản Định

nghe lời dèm pha cho rằng Đặng Tất cố ý trì hoãn không chịu tiến công cho

nên đem bắt giết Quốc công Đặng Tất và Tham mưu Nguyễn Cảnh Chân. Về

sau, Đặng Dung con Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Dị con Nguyễn Cảnh Chân

bèn kéo quân từ Thuận Hóa rước Trần Quý Khoáng là cháu Giản Định đế tức

là Trần Nghệ Tôn vào Chi La ở đất Nghệ An lên ngôi vua, lấy hiệu là Trùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Quang, nên ngày sau sử chép là Trùng Quang đế.

18

Cái tên gọi “Trùng Quang” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong cuốn

tiểu thuyết này. “Nghĩa quân ở trại Trùng Quang xứ Nghệ An” hoặc “trại lớn

ở đất Nghệ An của quân chúng tôi, đất lành khí tốt, lâu ngày đã trở nên đông

đúc, nhân dân đều ham đến ở” hoặc “nhân lấy tên trại Trùng Quang mà tôn

ông Khoáng lên làm vua Trùng Quang”... Cái tên Trùng Quang có tính chất

lịch sử. Cho nên chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn quyển Hậu

Trần dật sử hiện đang lưu hành chính là quyển Trùng Quang tâm sử.

Phan Bội Châu mãi mãi xứng đáng với danh hiệu: “Bậc anh hùng, vị

thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc, được hai mươi triệu con người trong

cả nước tôn sùng” – (Nguyễn Ái Quốc).

1.2. Việc vận dụng lý thuyết tự sự trong nghiên cứu tác phẩm

Trùng Quang tâm sử

1.2.1. Khái lược về tự sự học

Roland Bathes có nói đại ý tự sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài

người. Nói theo cách khác, khi lịch sử được ý thức thì ta đã có tự sự (câu nói

quen thuộc của phương Tây – History is a story / L Histoire estunrecit). Thế

nhưng nghiên cứu tự chỉ thực sự trở thành một khoa học độc lập dưới ảnh

hưởng trực tiếp của trường phái cấu trúc luận Pháp trong khoảng thập niên 60

thế kỉ trước. Do vậy, có cách gọi tự sự học cấu trúc luận. Năm 1966, tạp chí

“Giao tế" xuất bản tại Pari đã dành hẳn kì số 8 cho chuyên san Nghiên cứu kí

hiệu học – phân tích cấu trúc tác phẩm tự sự. giới thiệu tập trung lí luận căn

bản của tự sự học. Và phải đến năm 1969, Tezvetan Todorov, một trong

những đại biểu lớn của cấu trúc Luận Pháp mới chính thức khai sinh danh

xưng tự sự học (Narratilogie – tiếng Pháp) khi xuất bản công trình Ngữ pháp

chuyện mƣời ngày cái mà Todorov gọi là ngữ pháp ở kết cấu tự sự của tác phẩm.

Tự sự học kinh điển thường được hiểu là tự sự học giai đoạn những

năm 60 kéo dần đến khoảng những năm 80 của thế kỉ trước. Tuy thực sự đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trở thành một trào lưu nghiên cứu có tính quốc tế, nhưng vai trò tiên phong

19

vẫn thuộc về các học giả Pháp. Rất nhiều khái niệm nền tảng cũng như một số

mô thức lý thuyết của tự sự học kinh điển bắt nguồn từ Cấu trúc luận Pháp.

Trong khoảng thập niên 70 đến 80 tự sự học bắt đầu thịnh hành ở Mĩ thế

nhưng chủ yếu vẫn là ứng dụng và phát huy các mô thức lý luận của Pháp. Tự

sự học tạo nên một không gian lý tưởng cho đối thoại và hòa nhập giữa truyền

thống phê bình Mĩ và lí luận văn học châu Âu. Có thể nêu vài ví dụ về đóng

góp cho tự sự học hiện đại của các học giả Mĩ. Chẳng hạn, Gerald Prince là

người tiên phong đề xuất khái niệm “đối tượng tiếp nhận tự sự” hoặc “người

thụ thuật”naratee. Khái niệm này được chấp nhận rộng rãi và được xem như

là một bổ xung cho mô thức tự sự học pháp. “người thụ thuật” là đối tượng

hướng tới của người trần thuật, nó là một nhân tố kết cấu đối ứng với người

trần thuật, không liên quan đến ngữ cảnh lịch sử xã hội mà cũng có thể không

lý tưởng có khả năng “trùng khít” với độc giả lí tưởng. Seymour Chatman đề

nghị phân biệt cái gọi là trường tri cảm có tính cách như một bộ thấm lọc

(filter) thông tin trần thuật của nhân vật với cái gọi là tầm nhìn tự sự

(focalization). Thế nhưng Mĩ chỉ thực sự trở thành trung tâm của nghiên cứu

tự sự học quốc tế vào khoảng những năm 90 trở về sau. Khi đó tự sự học

bước sang giai đoạn hậu kinh điển. So với Mĩ, tự sự học ở Anh thường vẫn

được coi là “chậm tiến”. Hai ấn phẩm lớn về tự sự học của Anh năm 2005,

Bách khoa toàn thư lí luận tự sự (Routledge xuất bản) và Chỉ nam lí luận tự

sự (Nxb Blackwell) trên thực tế từ chủ biên cho đến các tác giả biên soạn chủ

yếu đều mời từ Mĩ. Ngay từ năm 2000, Brian Richardson, một nhà tự sự học

đã dự đoán trên tạp chí Văn thể (style) của Mĩ. Lí luận tự sự đang đạt tới một

tầm cao mới toàn diện hơn. Lí luận tự sự rất có khả năng sẽ chiếm địa vị trung

tâm trong nghiên cứu văn học khi mà những hệ hình (paradigm) phê bình vốn

từng có một vị trí chủ đạo bắt đầu suy yếu đi cùng lúc mô thức (model) phê

bình mới (chí ít cũng không giống như cũ) đang thịnh hành dần lên”. Cái mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Richardson gọi là lí luận tự sự ở đây chính là tự sự hậu kinh điển xuất hiện

20

như bước kế tiếp của giai đoạn tự sự học kinh điển cấu trúc luận. Tự sự học

kinh điển cấu trúc luận Pháp kích thích tự sự học hậu kinh điển Mĩ cũng

giống như sau đó không lâu giải cấu trúc luận Pháp lại gợi ý cho công cuộc

giải tự sự học (ananarratology) ở Mĩ. Ở Trung Quốc, lý thuyết tự sự học

phương Tây bắt đầu được giới thiệu từ những năm 80 thế kỷ trước. Cuối thập

niên 80, nghiên cứu tự sự học tại Trung Quốc đã đạt đến cao trào. Phần lớn

các tác phẩm tự sự học quan trọng của tự sự học kinh điển xuất bản trong thập

niên 70,80 của phương Tây đều được dịch ra tiếng Trung. Thế nhưng tính đến

những năm gần đây, tự sự học Trung Quốc không kể dịch thuật hay trước tác

nhìn chung vẫn đang còn dừng ở phạm vi tự sự học kinh điển. Lí luận tự sự

học hậu kinh điển thập niên 80 trở về sau chưa được giới thiệu rộng rãi.

Ở Việt Nam, ngay từ buổi đầu giới thiệu và dịch thuật tự sự, việc xác

định thuật ngữ, chọn dùng khái niệm tương đương đòi hỏi những cố gắng nhất

định. Trong tình hình mà một số thuật ngữ quan trọng như tự sự, tự sự học

cũng như trần thuật, văn bản, diễn ngôn, thoại ngữ… mà hiện nay ta dùng đều

là những từ Hán Việt thì việc tham khảo các học giả Trung Quốc là việc có

ích. Giáo sư Trần Đình Sử có nói: “chúng ta cần xây dựng cho mình một hệ

thống tiếng Việt về tự sự học”. Liên hệ đến Trung Quốc ông nói thêm “Ngay

thuật Narratology người Trung Quốc hiện nay vẫn có hai cách dịch. tự sự học

và tự thuật học(tự = kể, thuật = kể). Khái niệm “tự thuật học” dùng tương

đồng với “tự sự học”, nhưng trọng tâm có phần khác nhau “tự thuật học”

nghiêng về nghiên cứu cả hai: hành vi lời kể và cấu trúc sự kiện”. Nếu chúng

ta đọc kĩ bài Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn

học ở Việt Nam (đồng thời tham khảo mục từ Trần thuật trong 150 thuật ngữ

văn học cũng của ông) thì sẽ cảm thấy trần thuật học mà ông chủ trương phải

tương đương với không phải là tự thuật học Trung Quốc mà là tự sự học của

họ. Lại Nguyên Ân đề nghị cách gọi trần thuật học. Ông viết: “Trần thuật học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(narratologie, naratology) được đề xuất cuối những năm 60 do việc xem xét

21

lại học thuyết Chủ nghĩa cấu trúc từ quan điểm lý thuyết giao tiếp về bản chất

của nghệ thuật và các dạng thức tồn tại của nó. Do vậy trần thuật học đứng

giữa một phía là Chủ nghĩa cấu trúc và một phía khác là Mĩ học tiếp nhận.

Như vậy điều cần lưu ý là Trần thuật học ở phương Tây là một trường phái,

một khuynh hướng học thuật chứ không đơn thuần chỉ là bộ môn nghiên cứu

Tháng 11 năm 2003, một hội thảo quốc tế về tự sự học chức tại đại học

Hamburg (Đức) với chủ đề: vận dụng các khái niệm tự sự học truyền thống

vào nghiên cứu các loại văn bản phi văn học. Một học giả Trung Quốc đã

dịch cuốn Naratologies (Dvid Herman biên soạn, ohio State UP, 1999) Là

Tân tự sự học (Mã Hải Lương, Bắc Kinh đại học xuất bản xã, 2002) với hàm

ý đây là giai đoạn mới của tự sự học – giai đoạn tự sự học hậu kinh điển. Tuy

nhiên cũng có ý kiến cho rằng giữa Naratology và Naratologies không phải là

một tiến hóa mà chỉ là những diễn biến. Điều chắc chắn là tự sự học hậu kinh

điển (postclassicall naratologies) đã mở rộng đối tượng nghiên cứu, nó không

tự giới hạn tầm mắt ở bản thân “văn bản” tự sự. Chính vì thế từ những năm

1990 trở về sau có người gọi nó là tự sự học chủ nghĩa ngữ cảnh.

Các học giả Trung Quốc nhìn chung ngày càng nghiêng về sử dụng

thuật ngữ tự sự học. Trong dịch thuật dường như họ chủ trương các tác phẩm

đầu đề có viết từ Naratology thì dịch thành tự sự học. Trường hợp số nhiều

Narratologies thì dịch thành tân tự sự học. Những cuốn nghiên cứu về

narrative nói chung cũng được dịch thành tự sự học. Chẳng hạn Reading

Narrative của J. Hillis Mille được dịch là Giải độc tự sự, postmodern

Narrative Theory của Mark Currie được dịch là Hậu hiện đại tự sự…

1.2.2. Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử với hướng nghiên cứu tự sự học

So với phương Tây, tiểu thuyết Việt Nam ra đời và phát triển muộn.

Nếu ở Châu Âu, tiểu thuyết xuất hiện vào thời kì xã hội cổ đại tan rã và phát

triển rực rỡ ở thế kỷ XIX thì ở Việt Nam đến thế kỷ X – XII mới xuất hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những truyện văn xuôi dưới dạng các thần phả (Việt điện u linh – Lý Tế

22

Xuyên) hoặc ghi chép các tiểu thuyết dân gian (Lĩnh nam trích quái – Trần

Thế Pháp). Sang thế kỷ XV – XVIII với các tác phẩm “Thánh Tông di thảo”

của Lê Thánh Tông, “Truyền kỳ mạm lục” của Nguyễn Dữ, “Truyền kỳ tân

phả” của Đoàn Thị Điểm… mới xuất hiện những truyện viết về đời tư của

những người bình thường, nhất là phụ nữ. Đến “Hoàng Lê nhất thống chí”

(đầu thế kỷ XIX) mới có quy mô tiểu thuyết: 17 hồi, hơn 300 nhân vật, bao

quát khoảng thời gian khá dài (từ 1767 – 1802) có nhiều chi tiết về các mặt

của đời sống. Về nội dung thể loại, tuy có yếu tố đời tư và thế sự nhưng tính

chất của sử thi vẫn là chủ yếu vì gắn với sự hưng vong của triều đại, đất nước

trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Tuy nhiên xét về nhiều mặt nó vẫn thuộc

phạm trù tiểu thuyết phương Đông. Ngoài giá trị lịch sử và xã hội học “Hoàng

Lê nhất thống chí” được coi là pho tiểu thuyết lịch sử đầu tiên có giá trị văn

học đặc sắc. Cùng với “Thượng Kinh ký sự” (Lê Hữu Trác), “Vũ trung tùy

bút” (Phạm Đình Hổ), “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm tiêu biểu nhất,

có giá trị hiện thực lớn nhất trong số các tác phẩm văn xuôi thế kỷ XVIII,

phải sang giai đoạn văn học thế kỷ XX đến 1945 ta mới có những tiểu thuyết

hiện đại. Những năm 20 là thời kỳ chuẩn bị hình thành một nền tiểu thuyết

mới – tiểu thuyết Việt Nam hiện đại – quan niệm thể loại văn học ở đây bao

gồm cả hai yếu tố: Nội dung và hình thức. Tiểu thuyết phải phản ánh được tư

tưởng, tình cảm của những giai cấp, những tầng lớp người hiện đại trong xã

hội, phải đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa đối với thời đại chúng ta. Tiểu

thuyết có thể lấy các vấn đề quá khứ của dân tộc. Nhưng các vấn đề ấy được

nhìn nhận và đánh giá theo quan điểm hiện đại. Tức là tiểu thuyết hiện đại

phải có một kết cấu mới, phải điển hình hóa mới (khác với truyện nôm và tiểu

thuyết chương hồi của thế kỷ XVIII và XIX), một lối ngôn ngữ mới (không

phải là thứ văn chương biền ngẫu đầy điển tính nặng nề) và quan điểm thẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mỹ mới.

23

Theo cách nhìn này thì những năm 20, chúng ta đã có những mầm

mống đầu tiên của một nền tiểu thuyết mới. Những năm đầu thế kỷ, bên cạnh

khuynh hướng tiểu thuyết hợp pháp được lưu hành công khai còn có tiểu

thuyết cách mạng phải lưu hành bí mật trong quần chúng. Trong thời kỳ 1900

– 1930, tiểu thuyết lịch sử tuy viết về quá khứ của dân tộc nhưng lại mang

một ý nghĩa rất hiện đại “chúng ta đã hỏi và chúng ta chất vấn những cái đã

qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và chỉ ra trong tương lai của ta”

(Bielinxki). Đó là các nhiệm vụ của nhà văn nhà thơ, khi họ khai thác đề tài

lịch sử. Phản ánh trung thành những nhân vật và thời đại quá khứ - đó là

nguyên tắc sáng tác thể loại tiểu thuyết lịch sử.

Từ những nội dung nêu trên ta soi rọi vào tiểu thuyết Trùng Quang tâm

sử để thấy được đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử và phi lịch sử ở chỗ nào.

Trùng Quang tâm sử ra đời trong những năm đầu thế kỷ XX. Thời gian ra đời

của tác phẩm chưa được xác định một cách cụ thể. Đây là câu chuyện khởi

nghĩa chống quân Minh của một số anh hùng hào kiệt ở Nghệ An lấy danh

nghĩa nhà Trần để mưu khôi phục đất nước. Đây đồng thời cũng là một cuốn

tiểu thuyết lịch sử có tính luận đề cách mạng. Trên câu chuyện của quá khứ

của lịch sử người viết lại luôn luôn hướng về hiện đại. Bởi mục đích chính là

kêu gọi đồng bào trong nước đứng lên làm cách mạng. “Hỡi quốc dân ta! Hỡi

đồng bào ta! Dậy mà nghe tôi kể chuyện đời xưa (…)Ôi! Chuyện tổ tiên ta có

quan hệ với ta, mật thiết biết chừng nào (…) Tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa

giận, giết giặc rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô lấy lại quyền chủ nhân đất nước

vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta (…).Hai mươi chương sách đều

là những màn cảnh sinh động thổ lộ hết nỗi đắng cay nhục nhã của cả một dân

tộc đang oằn mình dưới gót lũ xâm lăng. Chuyện đời xưa nhưng hễ có dịp là

tác giả lại nhắc lại. Như vậy đối chiếu với những nguyên tắc sáng tác của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những nhà văn hiện thực chủ nghĩa thì trong tiểu thuyết lịch sử của mình, tác

24

giả đã phản ánh trung thành những nhân vật và thời đại quá khứ. Phan Bội

Châu đã hiện đại hóa thời đại và nhân vật của mình. Những đoạn nói về đời

sống trụy lạc, tủi hổ hết chỗ nói của các cô gái điếm, hay về chuyện một làng

công giáo góp trâu góp của cho trại Trùng Quang đều không phù hợp với lịch

sử nước ta những năm đầu thế kỷ XV. Đó là còn chưa tính đến một lối ngôn

ngữ hiện đại được sử dụng trong tác phẩm. “phàm đảng cách mạng, thì chỉ

nên nhớ trong lòng, không nên chép ra giấy, vì viết ra như vậy không lợi cho

các đồng chí” [75,39]. Hay là “Mục đích cuối cùng của kẻ đại trượng phu là

phải làm cách mạng”[75,38]. Cuộc họp mặt của bốn mươi chín vị anh hùng

vào một đêm trăng trong khu rừng Cát Ngạn để trù tính chuyện chống Minh

(thế kỷ XV) mà lại phảng phất cái không khí của cuộc hội nghị bí mật của

Duy Tân hội (1904) và của Việt Nam Quang Phục hội (1912) ở đầu thế kỷ

này. Cuốn tiểu thuyết lịch sử này đã phản ánh một số mặt đời sống thực tế của

nhân dân ta những năm đầu thế kỷ. Chương trình hoạt động của những người

yêu nước trong hội Trùng Quang cũng na ná như chương trình cách mạng của

Duy Tân hội. Và những người nữ anh hùng trong cuốn tiểu thuyết này cũng

có thể làm ta liên tưởng đến những nữ đồng chí của Phan Bội Châu như Bạch

Liên, Ấu Triệu… Đó là còn chưa kể đến những vùng quê hương xứ Nghệ của

Phan Bội Châu. Như vậy việc hiện đại hóa lịch sử không phải là do vô thức

mà do dụng tình của tác giả có như vậy thì qua những câu chuyện “dớ dẩn”

độc giả mới dễ nhận biết là khi tập sách kể chuyện xưa – nói đến giặc Ngô ở

thế kỷ XV nhưng thực chất là nhằm vào ngày nay mà mục tiêu là giặc Pháp.

Như vậy xét về mặt hình thức, Trùng Quang tâm sử là một cuốn tiểu

thuyết lịch sử (kể chuyện của quá khứ, lối kết cấu chương hồi …). Song xét ở

phương diện nội dung tác phẩm lại mang tính phi lịch sử (thời đại, nhân vật

được hiện đại hóa, quan điểm tư tưởng hoàn toàn mới … ). Sự kết hợp giữa

nội dung và hình thức, giữa cũ và mới, truyền thống và hiện đại làm nên sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

độc đáo của tác phẩm.

25

Chƣơng 2

CÁC PHƢƠNG DIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ

TRONG TIỂU THUYẾT TRÙNG QUANG TÂM SỬ

2.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật

2.1.1. Điểm nhìn từ bên ngoài - điểm nhìn chi phối thế giới nghệ thuật

Trùng Quang tâm sử

Không thể hiểu sâu sắc tác phẩm văn học nếu ta không tìm hiểu điểm

nhìn nghệ thuật bởi lẽ, để miêu tả, trần thuật, nhà văn buộc phải xác định, lựa

chọn điểm nhìn hợp lý. Trong văn học, điểm nhìn trần thuật được hiểu là vị trí

người trần thuật quan sát, cảm thụ và miêu tả, đánh giá đối tượng. Người ta có

thể nói đến điểm nhìn qua các bình diện vật lý, bình diện tâm lý (điểm nhìn

bên trong hay điểm nhìn bên ngoài, giới tính, lứa tuổi… ), qua trường nhìn

(của tác giả hay của nhân vật)… Trong tác phẩm, việc tổ chức điểm nhìn trần

thuật bao giờ cũng mang tính sáng tạo cao độ. Trên thực tế, có rất nhiều

trường hợp giá trị của tác phẩm bắt đầu từ việc nhà văn cung cấp cho người

đọc một cách nhìn mới về cuộc đời.

“Điểm nhìn” là một khái niệm đã được đề cập khá sớm, đặc biệt ở

Anh và Mĩ. Theo M. H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học – A

Glossary of librature terms), điểm nhìn chỉ ra “những cách thức mà một

câu chuyện được kể đến .

Nhìn “từ bên ngoài” (gắn với điểm nhìn bên ngoài) đây là điểm nhìn

của người kể chuyện khi anh ta đứng ngoài, chỉ kể “chuyện” chứ không rõ

tâm lý nhân vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác.

Trùng Quang tâm sử là một tập tiểu thuyết. Yếu tố tưởng tượng có một

tác dụng, một địa vị rõ rệt trong công trình cấu tạo. Nhưng đây không phải bộ

tiểu thuyết lịch sử, nhằm mục đích khêu gợi bầu không khí hay xây dựng lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cuộc sống xã hội của thời kì đã qua. Đây cũng không phải một tập phưu lưu kí

26

với những đoạn lạc bất ngờ, những tình cảnh hồi hộp. Lại càng không phải là

một tập tiểu thuyết tâm lý với những tâm trạng phức tạp trong một khung

cảnh nhất định về không gian, thời gian. Trái lại trong động tác, trong lời nói,

trong thái độ sống, trong quan niệm nhân sinh của các nhân vật và ngay trong

địa điểm và thời gian hoạt động của bấy nhiêu con người, bạn đọc sẽ luôn

“vấp” phải những tiết mục “phản lịch sử” khá ngộ nghĩnh. Nhưng chúng ta

vẫn thấy rằng: bấy nhiêu “lầm lỗi” không phải là vô ý thức, mà chính là dụng

tình của tác giả. Tác giả biết rằng: có như thế, mới dành cho người đọc những

câu chuyện “dớ dẩn” để tủm tỉm một nụ cười hiểu nhau; có như thế, mới ám

thị cho độc giả biết là, khi tập sách nói đến “giặc Ngô”, mũi súng vẫn nhe

nhắm vào thực dân Pháp mà bắn.

Cuốn tiểu thuyết này là một “tờ chứng”. Khung cảnh lịch sử ở đây

là đời sống của nhân dân Việt Nam trong thời kì mất nước vào khoảng

cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Sự phiền hà trong thủ đoạn vơ vét của dị

tộc cướp nước thuế nặng sưu cao, làm cho nông thôn xơ xác, khốn cùng,

chính sách đàn áp dã man đối với những người yêu nước, yêu tự do, bộ

máy hành chính của kẻ thống trị với những quyền hành không giới hạn, tư

thế hống hách của bọn quan lại cai trị, thái độ bỉ ổi của lũ người cầu cạnh

bôn xu, đều là những màn cảnh sinh động, thổ lộ hết nỗi nhục nhã, đau

đớn của cả một dân tộc đang quằn quại dưới gót giày tàn bạo của quân

thù. Nhưng hễ có dịp là tác giả lại nhắc nhở cho ta đừng xem câu chuyện

này như một chuyện ngày xưa. Ngay từ mấy lời mở đầu, sau khi nhắc lại

công cuộc chống nhà Minh của “tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa giận”…, “lấy

lại quyền chủ nhân đất nước vốn có từ xưa”, thì tác giả nói thêm ngay:

“Về sau, đến năm Hàm Nghi nguyên niên thì lại mất”.

Đoạn kể chuyện ông Kiên lừa bọn lính ngục cứu anh Tinh, anh Lực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và anh Phấn ra khỏi nhà ngục (tiết II) kết thúc với mấy câu: “Ở nước ta,

27

500 năm trước đây,thuật chụp ảnh chưa có, nhân tâm còn chất phác, nghề

mật thám hãy đơn sơ. Nếu như ngày nay, dưới con mắt của lũ chó săn, e

cũng chả có đường trốn thoát…”[75,38]. Trong khi giới thiệu lý lịch bà

Triệu, một nữ đảng viên (tiết X) và nói đến đời sống trụy lạc, tủi hổ hết

chỗ nói của các cô gái điếm (chế độ này làm gì đã có từ hồi thế kỷ XV ?)

tác giả chua thêm hai dòng chữ nhỏ : “Nghe nói ngày nay ở Nam Kỳ, lớp

gái điếm hạng bét cũng phải nếm mùi cay đắng ấy !”

Nhưng tập Trùng Quang tâm sử không hề có ý vị một pho “lệ sử”.

Thế hệ thanh niên nhà nho yêu nước đầu thế kỷ này không phải chỉ là

những con người ngồi rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ

rách”. Họ đã quyết đem tâm huyết, đem tính mạng mà chuộc lại non sông

Tổ quốc. Từ ngày 17 tuổi, cậu thanh niên Phan Văn San đã viết bài Bình

Tây thu Bắc (Dẹp giặc Tây, lấy lại Bắc Kỳ). Bắt tay vào việc tổ chức hội

Duy Tân, Phan tiên sinh, lãnh tụ “phái kịch liệt”, đã có lúc trù tính kế

hoạch (cũng như các tay anh hùng trong cuốn chuyện này) định đánh lấy

tỉnh thành Nghệ để làm căn cứ đầu tiên cho cuộc vận động phục quốc. Tập

chuyện có tính chất tiểu thuyết địa phương, đặc biệt xứ Nghệ. Những nhân

vật chính là người Nghệ. Trường sở hoạt động chính của họ là ở Nghệ. Địa

điểm xuất phát của nghĩa quân là miền trên xứ Nghệ và công cuộc phục

quốc cũng mới “làm” được đến tỉnh Nghệ mà thôi.

Từ khi được hoàn thành, tác phẩm đã ngủ một giấc dài hơn nửa thế kỷ.

Điều đó không có gì là khó hiểu. Khi nước nhà đã mất quyền tự chủ, thì một

tác phẩm có đả động đến nỗi đau khổ căm hờn, hi vọng giải phóng của những

người mất nước, là được liệt ngay vào loại “yêu thư yêu ngôn”. Pháp luật thực

dân lợi dụng bọn phong kiến làm nanh vuốt thanh trừ loại văn đó, truy tố, hãm

hại những con người đã viết ra những “tập xích nguy hiểm” như vậy.

Tuy vậy, tất cả thủ đoạn áp bức, khủng bố đó vẫn không tiêu diệt được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tinh thần nhân đạo của những tác phẩm ưu tú. Và cũng chính vì có nội dung

28

lành mạnh nên cuốn “dật sử” này được người ta chép lấy và giữ lại cho đến

ngày nay, để được phiên dịch ra tiếng Việt và giới thiệu với độc giả.

2.1.2. Cái nhìn của tác giả về quá khứ và mối quan hệ với hiện tại

“Trùng Quang Tâm Sử” ra đời trong những năm đầu thế kỷ XX. Theo

lời “tựa” đã nói, đây là một câu chuyện lịch sử nước nhà, lâu ngày thất lạc

(dật sử) mà tác giả góp nhặt và kể lại theo tập “dã sử chữ Thổ”.

Lấy cảm hứng từ cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. “Nước

ta, về cuối đời nhà Trần, vì họ Nhuận Hồ làm bậy, giặc Ngô xâm chiếm đất

nước hơn mười năm. Đất đai và nhân dân tự do của chúng ta, phầm lớn bị dị

tộc giày xéo. Buổi ấy, cha con, anh em của tổ tiên ta bị khốn khổ trong nhà

ngục, sống kiếp trâu ngựa, tôi đòi. Những nỗi đau khổ nhục nhã đã trải qua,

còn có phần bằng mười tình cảnh chúng ta ngày nay nữa kia”[75,34].

“Trùng Quang Tâm Sử” ra đời vào khoảng thời gian 1905 đến 1913.

Đây là một câu chuyện khởi nghĩa chống quân Minh (đầu thế kỷ XV) của một

anh hùng hào kiệt ở Nghệ An lấy danh nghĩa nhà Trần để mưu khôi phục đất

nước. Đây đồng thời cũng là cuốn tiểu thuyết lịch sử có tính luận đề cách

mạng. Trên câu chuyện của quá khứ, của lịch sử người viết lại luôn hướng về

hiện tại. Bởi mục đích chính là kêu gọi đồng bào trong nước đứng lên làm

cách mạng. “Hỡi quốc dân ta! Hỡi đồng bào ta! Dậy mà nghe tôi kể chuyện

đời xưa (…) Ôi! Chuyện tổ tiên ta, có quan hệ với ta, mật thiết biết chừng nào

(…) tổ tiên ta đã nuôi chí, chứa giận, giết giặc rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô,

lấy lại quyền chủ nhân đất nước vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta.

Về sau đến năm Hàm Nghi nguyên niên triều nhà Nguyễn thì lại mất.

Đến nay, đọc bài Bình Ngô đại cáo, xem sử sách nhà Lê, còn cảm thấy

cây cỏ đều thiêng, non sông mở mặt. Ôi, sao mà thịnh vậy! Công lao của tổ

tiên chúng ta rực rỡ biết dường nào, oanh liệt biết dường nào[75,33].

Hai mươi chương sách đều là những màn cảnh sinh động thổ lộ hết nỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đắng cay nhục nhã của một dân tộc đang oằn mình dưới gót lũ xâm lăng.

29

Chuyện của đời xưa nhưng hễ có dịp là tác giả đọc, Như vậy, đối chiếu với

những nguyên tắc sáng tác của những nhà văn hiện thực chủ nghĩa thì trong

tiểu thuyết lịch sử của mình Phan Bội Châu đã hiện đại hóa thời đại và nhân

vật của mình. Những đoạn nói về cuộc sống trụy lạc, tủi hổ hết chỗ nói của

các cô gái điếm, hay chuyện một làng công giáo góp trâu, góp của cho trại

Trùng Quang đều không phù hợp với lịch sử nước ta những năm đầu thế kỷ

XV. Đó là chưa tính đến một lối ngôn ngữ hết sức hiện đại được sử dụng

trong tác phẩm. Chẳng hạn: “phàm đảng cách mạng chỉ nên ghi nhớ trong

lòng. Không nên chép ra giấy, vì viết ra như vậy nhỡ lộ không có lợi cho các

đồng chí”[75,39] hay là “Mục đích cuối cùng của bậc đai trượng phu là phải

làm cách mạng” … Cuộc họp của bốn mươi chín vị anh hùng vào một đêm

trăng trong khu rừng Cát Ngạn để trù tính chuyện chống Minh (thế kỷ XV)

mà lại phảng phất cái không khí của cuộc hội nghị bí mật Duy Tân hội (1904)

và của Việt Nam Quang Phục hội (1912) ở đầu thế kỷ này. Ta thấy, người viết

không hề băn khoăn chuyện này ông đã phát huy cao độ tính hư cấu sáng tạo

của người viết tiểu thuyết lịch sử. Ông đã cố tình hiện đại hóa nhân vật, hiện

đại hóa thời đại để luôn luôn nhắc nhở đồng bào ta luôn nhớ đến cái thực tại

đau đớn của dân tộc dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Đây thực sự là

dụng ý chân thật mà tác giả gửi gắm qua tập sách. Cuốn tiểu thuyết lịch sử

này, thực ra đã phản ánh một số mặt của đời sống thực tế của nhân dân ta

những năm đầu thế kỷ. Chương trình hoạt động của những người yêu nước

trong hội Trùng Quang cũng na ná như chương trình cách mạng của Duy Tân

hội và những nữ anh hùng trong cuốn tiểu thuyết này cũng có thể làm ta liên

tưởng đến những nữ đồng chí của Phan Bội Châu như Bạch Liên, Ấu Triệu…

Đó là chưa kể đến những vùng quen thuộc trên quê hương xứ Nghệ của Phan

Bội Châu. Như vậy thì việc hiện đại hóa lịch sử không phải do vô thức mà do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dụng tình của tác giả cố tình vi phạm khuyết điểm để phục vụ cho nhu cầu

30

chính trị nhất định (trong hoàn cảnh thực dân Pháp thống trị nước ta). Có như

vậy thì qua những câu chuyện “dớ dẩn”, độc giả mới dễ nhận biết là khi tập

sách kể chuyện xưa – nói đến giặc Ngô ở thế kỷ XV nhưng thực chất là nhằm

vào ngày nay mà mục tiêu là giặc Pháp.

Cuốn tiểu thuyết là một “tờ chứng”. Khung cảnh lịch sử của nhân dân

trong thời kì mất nước vào khoảng cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Cuộc sống

nhân dân lầm than, cơ cực dưới ách thống trị của ngoại xâm nhân dân mất hết

quyền tự do, dân chủ, chủ quyền, cương vực lãnh thổ của đất nước lung lay.

Trùng Quang tâm sử là một tiểu thuyết có ý nghĩa luận đề, một luận đề

về cách mạng Việt Nam. Kể chuyện cũ để nói chuyện mới: “tổ tiên ta đã nuôi

chí, chứa giận, giết giặc, rửa hờn, đuổi hết giặc Ngô, lấy lại quyền chủ nhân

đất nước vốn có từ xưa, để lại cho con cháu chúng ta. Về sau đến năm Hàm

Nghi nguyên niên triều nhà Nguyễn thì lại mất.

Đến nay, đọc bài Bình Ngô Đại cáo, xem sử sách nhà Lê, còn cảm thấy

cày cỏ đều thiêng, non sông mở mặt,... công lao của tổ tiên chúng ta rực rỡ

biết chừng nào, oanh liệt biết chừng nào!”

Tập “Dật sử đời Hậu Trần” này không hề có ý vị một pho “lệ sử”. Thế

hệ thanh niên nhà nho yêu nước đầu thế kỉ này không phải chỉ là những con

người ngồi rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách”. Họ quyết

đem tâm huyết, đem tính mạng mà chuộc lại non sông tổ quốc.

Công việc cứu quốc là công việc của toàn dân. Con người cứu quốc là

con người anh hùng. “Xã hội đúc nên anh hùng, anh hùng tạo nên thời thế. Vì

có nhân mà được quả. Rồi có quả lại sinh ra nhân”. Con người anh hùng đời

Hậu Trần trong tập sách này không phải hoàn toàn là dòng dõi quý tộc mà là

những con người chịu nhiều bất hạnh.

Ông Xí (là Cường Quốc công Lê Xí sau này) cũng như các bậc nông

dân, các chị phụ nữ, các ông thợ rèn trong tiểu thuyết đã cảm thấy rõ nỗi chua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cay, đau khổ của những “người không nước”, vì đất họ cày, nghề nghiệp họ

31

làm, dưới thời kì đô hộ, đã bị người ngoài tước đoạt. Anh Phúc, anh Thắng,

hai ngụy binh đi về với hàng ngũ cách mạng vì họ đã mắt nhìn thấy rằng: cái

“mạng người An Nam không bằng con ngựa của tên quan cai trị”.

Như vậy, xét về mặt hình thức, “Trùng Quang tâm sử” là một cuốn tiểu

thuyết lịch sử (thời đại, nhân vật được hiện đại hóa, quan điểm tư tưởng hoàn

toàn mới…). Sự kết hợp giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, giữa

cũ và mới, truyền thống và hiện đại làm nên sự độc đáo của tác phẩm. Câu

chuyện cuối Trần chỉ là cái cớ để tác giả nói chuyện thời đại, chuyện đất nước

đang nằm trong vòng kìm kẹp của thực dân Pháp. Mục đích của tác giả là

thức tỉnh nỗi đau, nỗi nhục mất nước trong nhân dân và từ đó cổ vũ, động

viên, khuyến khích nhân dân đứng lên làm cách mạng. Cũng qua câu chuyện

này Phan Bội Châu thể hiện quan điểm về dân sinh, dân chủ trong hoạt động

cách mạng nói riêng và trong xã hội nói chung cũng như quan điểm anh hùng

hết sức mới mẻ, tiến bộ.

Công cuộc dẹp giặc để lấy lại nước nhà, khi chúng ta khép tập sách lại

vẫn còn bỏ dở, chưa phải là đã đi tới thắng lợi. Tác giả lại còn nhắc đến kết

cục thất bại của vua Trùng Quang (Trần Quý Khoáng) phải chăng từ ngày

mới bắt tay vào việc cụ Phan Sào Nam đã có cái dự cảm là rồi đây cũng sẽ đi

tới kết cục “nhất sự cánh vô thành”? là đời cụ sẽ “chỉ là một đời thất bại”?

Nhưng cũng nên nói rằng: tác giả tập “dật sử” cũng là người tin tưởng hơn ai

hết vào tiền đồ của tổ quốc. Trong đoạn cuối của tập này, tác giả cũng đã báo

trước tin thắng lợi của Lê Hoàng. Thông qua câu chuyện tác giả muốn đánh

thức đồng bào “Dậy! Dậy! Dậy” Ba chữ mở đầu cho tập sách và cũng là ba

chữ kết thúc.

Đây là ý nghĩa luận đề - luận đề về cách mạng Việt Nam những năm

đầu thế kỷ mà Phan Bội Châu muốn đề cập đến trong tiểu thuyết này. Có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói lịch sử thời kỳ này là bước tiếp theo của tiểu thuyết truyền thống và là cơ

32

sở cho tiểu thuyết hiện đại phát triển rực rỡ trong thời kỳ sau (những năm

1930 – 1945 trở đi) “Trùng Quang tâm sử” là tiểu thuyết bản lề mang tính

thắt nút cho tiểu thuyêt cũ thời trung đại và mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại.

Một trong những người đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là

Phan Bội Châu. Chúng ta phải nghi nhận đóng góp to lớn của Phan Bội Châu

về phương diện này.

2.2. Tổ chức nhịp điệu trần thuật

2.2.1. Phối hợp các thành phần mang tính động và tĩnh trong trần thuật

Nhịp điệu trần thuật là một nội dung trong lý thuyết về tự sự nói chung.

Nhịp điệu trần thuật liên quan tới vấn đề kết cấu văn bản ngôn từ. Kết cấu văn

bản cùng với kết cấu hình tượng làm cho việc kể chuyện phải đạt được yêu

cầu tạo hình và biểu hiện, để có khả năng tái hiện bức tranh đời sống và thể

hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả một cách tối đa

Trong tác phẩm tự sự, các sự kiện (các cuộc gặp gỡ, hành động, biến cố

có khả năng làm cho nhân vật hành động và biến đổi về suy nghĩ, cảm xúc,

nhận thức, thậm chí cả số phận) như những thành phần cơ bản của cốt truyện,

thay thế lẫn nhau một cách năng động, thể hiện dòng chảy của đời sống hiện

thực, góp phần làm cho cốt truyện phát triển có thể gọi các sự kiện là thành

phần mang tính chất động trong cốt truyện. Sự kết tiếp của chúng làm cho câu

chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc.

Song việc trần thuật cốt truyện không chỉ dừng lại ở những sự kiện, ,mà

còn chú ý tới các thành phần khác, mang tính chất tĩnh tại như các đoạn giới

thiệu tiểu sử nhân vật, miêu tả chân dung ngoại cảnh (đồ vật, môi trường thiên

nhiên), tái hiện tâm trạng, các đoạn đối thoại, độc thoại, bình luận trực tiếp

của các tác giả, các đoạn trữ tình ngoại đề, các câu chuyện được kể xen vào,...

Sự phối hợp luân phiên xen kẽ các thành phần mang tính động và tĩnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong trần thuật sẽ tạo nên nhịp điệu trần thuật.

33

Sự luân phiên các thành phần đó có thể nhanh hoặc chậm, tuỳ thuộc

vào bức tranh tạo hình và biểu hiện của thế giới được miêu tả. Như vậy nhịp

điệu trần thuật trước tiên thể hiện qua tốc độ trần thuật.

Nhịp điệu trần thuật có thể lúc chậm rãi, đều đều, lúc lại nhanh chóng,

gấp gáp.

Nếu như người kể tập trung vào các sự kiện, nghĩa là chú ý tới thành

phần mang tính động thì tốc độ trần thuật sẽ nhanh. Còn nếu dừng lâu ở các

thành phần tĩnh tại, mở rộng miêu tả, bình luận với các câu chuyện xen vào

thì tốc độ trần thuật trở nên chậm rãi.

Tập Hậu Trần dật sử kể về quá trình thành lập, phát triển và đi đến

thắng lợi của nghĩa quân trại Trùng Quang, tác phẩm được chia thành hai

mươi ba tiết, mỗi tiết lại gắn với những sự kiện và địa điểm cụ thể, mỗi tiết

thể hiện những yếu tố của nhịp điệu trần thuật như xen kẽ các thành phần

động và tĩnh, tốc độ trần thuật, những trọng tâm, điểm nhấn, điểm dừng và sự

lặp lại như những chủ âm cảm xúc.

Những đoạn miêu tả khung cảnh thiên nhiên được miêu tả với nhịp

điệu chậm rãi. “Mặt trời sáng sớm mới nhô trên mặt biển, sương mai còn

đọng giọt xuống cây rừng. Trời về mùa đông gió rét như cắt”. “Chập tối,

chim bay về tổ, cành lá la đà, ngọn đèn to lớn kia đã lơ lửng trên bầu trời, toả

ánh sáng xuống mặt sân sơn trại”.

Hay những đoạn miêu tả nhân vật, những cuộc hội họp tố cáo tội ác kẻ thù,

được miêu tả với nhịp điệu chậm rãi; những đoạn kể về số phận các nhân vật.

Trong cuộc họp của các anh hùng sơn trại mọi người đều cố gắng đến

sớm, duy chỉ có anh Phấn đến muộn. “Mọi người chờ đợi hơn nửa tiếng đồng

hồ, thì ở ngoài cửa trại nghe có tiếng chân thình thịch, bỗng thấy bóng hai

người hiện ra, đi trước là một chàng thanh niên vạm vỡ, theo sau là một cô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gái đẹp, trạc chừng 18,19 tuổi”. Khi hai người bước vào không khí buổi họp

34

lúc đầu rất căng thẳng, ai cũng trách tại sao Phấn đến muộn, sao lại cho phụ

nữ đi cùng nhất là trong buổi họp quan trọng có tính chất quyết định như đêm

nay “Mọi người đều bực lắm, kẻ cười, kẻ mắng, kẻ mỉa mai xôn xao cả hội

trường”. Không khí hội trường trở nên im lặng khi nghe Chí kể về số phận bất

hạnh của mình và gia đình… Những đoạn được viết với nhịp nhanh: cuộc tiến

công của nghĩa quân Trùng Quang khi đánh chiếm thành, khí thế chiến đấu,

quyết tâm đấu tranh của quân dân Trùng Quang, những cuộc gặp gỡ, những

biến cố trong số phận các nhân vật nói riêng và đông đảo nhân dân Trùng

Quang nói chung.

Nhịp điệu trần thuật được sử dụng rất thành công trong đoạn văn đã tạo

ra những hiệu quả nhất định, lúc căng thẳng, gay cấn, lúc lại chậm rãi của

như những phút thư giãn cho người đọc khi vừa trải qua những trận chiến ác

liệt… điều này làm cho tác phẩm không nhàm chán mà tạo lên hứng thú cho

độc giả.

2.2.2. Tổ chức các yếu tố thời gian

Thời gian là khái niệm chỉ sự tồn tại của vật chất, gắn với sự việc, hoạt

động, thời gian luôn hoạt động không ngừng, không quay ngược lại và không

tồn tại riêng biệt.

Nếu thời gian cơ học được đo bằng ngày, giờ, phút… mang tính chính

xác, không thay đổi thông qua cảm nhận của con người, thời gian có thể là

“khoảng”, “chừng” hoặc cùng một đơn vị thời gian cơ học nhưng qua cảm

quan của con người nó có thể dài, ngắn, nhanh, chậm khác nhau.

Theo A. J. A. Gurevich khái niệm thời gian “thể hiện đầy đủ cảm quan

và thế giới của thời đại, hành vi của con người ý thức của nó, nhịp của cuộc

sống, thái độ với sự vật.

Khái niệm thời gian không chỉ mang tính vật lý, cơ học mà còn mang

tính chủ quan của con người. Thời gian chỉ có thể đo được, cảm nhận được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chứ không thể nắm bắt và nhìn thấy được.

35

Theo Trần Đình Sử, thời gian nghệ thuật là một yếu tố nghệ thuật của

tác phẩm “vừa là phương diện của đề tài, vừa là một trong những nguyên tắc

cơ bản để tổ chức tác phẩm.

Theo từ điển thuật ngữ văn học “thời gian nghệ thuật là hình thức tồn

tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó… khác với thời

gian khách quan được đo bằng đồng hồ, lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo

ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén

một khoảnh khắc dài, cái chốc lát thành cái vô tận. Thời gian nghệ thuật được

đo bằng đồng hồ, lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá

khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một khoảnh khắc dài

trong chốc lát, có thể kéo dài cái chốc lát thành cái vô tận. Thời gian nghệ

thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các

hình tượng nghệ thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện

thì thời gian trôi nhanh, khi nào chững lại để miêu tả chi tiết thì thời gian

dừng lại”.

Nhìn chung, thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật mang

nhiều tính chủ quan, ước lệ, thể hiện – cảm quan của tác giả về thế giới và con

người. Thời gian trong tác phẩm thể hiện tính thẩm mĩ trong cách cảm nhận

cuộc sống và tư tưởng tác giả.

Thời gian nghệ thuật không đồng nhất với thời gian khách quan được

đưa vào tác phẩm, thời gian nghệ thuật được nhào nặn sáng tạo cho phù hợp

với ý đồ sáng tác. loại thể và phong cách tác giả. Điều này tạo sự đa dạng,

sinh động cho thời gian trong tác phẩm.

Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm được tổ chức chặt chẽ là yếu tố

không thể thiếu trong cấu trúc tác phẩm, đồng thời giúp cho việc liên kết các

yếu tố trong tác phẩm được chặt chẽ hơn.

Thời gian nghệ thuật có đầy đủ các đặc trưng của thời gian, cũng vận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

động theo 3 chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng thời gian nghệ thuật

36

không nhất thiết phải tuân theo sự nghiêm ngặt của thời gian tự nhiên mà nó

có thể dài, ngắn, nhanh, chậm tùy theo cảm nhận của tác giả. Có khi trăm năm

chỉ như thoáng chốc, như giấc mộng. Nhưng cũng có khi một giờ, một phút,

thậm chí một giây lại dài vô tận. Thời gian dồn nén hay kéo căng ra là do ý đồ

của tác giả khi miêu tả, khắc họa.

Nếu Vạn Hạnh Quốc sư quan niệm “thân như điện ảnh hữu hoàn vô”

(có nghĩa là “thân như bóng chớp có rồi không”) đời người là chốc lát, thoáng

qua, thế nhưng qua sự miêu tả của Nguyễn Du một đêm lại rất dài “Đêm thu

đằng đẵng nhặt cài then mây”.

Trong tác phẩm có thể bỏ qua một hoặc hai trong ba chiều vận động

của thời gian khách quan. Nếu thời gian tự nhiên luôn vận động phát triển

không ngừng thì trong tác phẩm có thể làm sống lại quá khứ hoặc hướng tới

tương lai. trong tác phẩm có thể cùng tồn tại ba dạng thời gian: quá khứ, hiện

tại, tương lai.

Mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác phẩm văn học có sự biểu hiện thời gian

nghệ thuật khác nhau, thể hiện sự đa dạng của yếu tố nghệ thuật này.

Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người

trong từng thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển. Nó thể hiện sự cảm thụ

độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới, làm

cho người đọc hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm chìm

vào quá khứ. Thiếu sự cảm thụ, tưởng tượng của người đọc, thời gian nghệ

thuật không xuất hiện. Như vậy, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của

tác giả bằng phương tiện nghệ thuật. Nó thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo

của người nghệ sĩ.

Vấn đề thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có hai mặt cơ bản

quan niệm thời gian của nhà văn và tổ chức thời gian của tác giả trong của tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm. Nó có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghệ thuật của nhà văn. Tổ chức

37

thời gian chính là cách xử lý thời gian, trong tác phẩm văn học của nhà văn để

tạo ra thời gian nghệ thuật theo ý đồ của tác giả.

Như vậy có thể nói, thời gian trong tác phẩm văn học là sự cảm nhận

của tác giả, nó đi vào nghệ thuật cùng cuộc sống được phản ánh, là ý thức

nghệ thuật của nghệ thuật.Nhưng thời gian nghệ thuật không phải là một khái

niệm trừu tượng mà là một hình tượng nghệ thuật sinh động, nó không chỉ là

cái dùng để phản ánh mà còn là cái được phản ánh. Do đó thời gian nghệ thuật

vừa mang những đặc tính của thời gian hiện thực, thời gian khách quan – tức là

nó có nhịp độ, có chiều hướng , có thể xác định được bằng các đại lượng… vừa

là một hình tượng nghệ thuật bởi nó có tính chất ước lệ nhất định.

Tổ chức các yếu tố thời gian đó là việc xử lí mối quan hệ giữa thời

gian thực tế và thời gian trần thuật. Thời gian thực tế diễn ra theo tuyến tính,

theo trình tự, liên tục, đều đặn. Thời gian trần thuật có chỗ đảo trình tự, đứt

đoạn, trình bày song song, lúc nhanh lúc chậm, có lúc dừng lại, đi vào một

mạch rẽ nào đó. Thời gian trần thuật tạo ra nhịp điệu trần thuật so với độ dài

thời gian thực tế.

Tại các thời điểm trên trục thời gian tuyến tính tác giả sẽ tạo ra vô vàn

các móc nối để phát triển, đan cài các chi tiết, hình ảnh, cảm giác, suy nghĩ.

Trên những trục thời gian ấy, một quãng thời gian trần thuật (dù ở quá khứ

hay hiện tại dù dài hay ngắn) được coi như một trường đoạn nhịp thời gian cơ

bản mà mỗi trường đoạn ấy đều có những trọng tâm, điểm nhấn (thường là

một biến cố đặc biệt làm xao động cảm xúc và hoàn cảnh hiện tại của nhân

vật) và phút lặng (kéo dài các đoạn tả cảnh, bình luận) và sự lặp lại mang tính

định kỳ như một chủ âm.

Thời gian thực tế trong tác phẩm là hiện thực xã hội Việt Nam thế kỉ

XIV – XV được đặt trong mối tương phản với thời gian trong quá khứ – thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kì vàng son của dân tộc. Thời gian trần thuật “kể chuyện đời xưa” có sự móc

38

nối với thời gian hiện tại vì tổ tiên ta anh hùng thì hậu nhân của chúng ta cũng

phải anh hùng.

Chứng kiến tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của Chí và Triệu

tác giả liên tưởng về một thời oai hùng của bà Trưng, bà Triệu “Đồng bào ta,

nhân dân ta, ai là không thù giết giặc Ngô. Chúng nó giày xéo lên quyền tự

do của đồng bào chúng ta, như bánh xe lăn trên bùn. Những hoa tươi rực rỡ,

tiền nhân ta để lại cho chúng ta thì tay chúng bẻ, những quả đẹp ngon lành

tiền nhân ta dành cho chúng ta, thì miệng chúng ăn. Những của tinh hoa phú

quý báu chúng đều cướp làm của chúng. Còn nhân dân chúng ta, thì chỉ làm

bò kéo xe chở phân, dọn rác cho chúng mà thôi”[75,46].

Chiến thắng của nghĩa quân Trùng Quang có nguyên nhân sâu xa từ

truyền thống yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm và tinh thần đoàn kết của dân

tộc. Đây là cội nguồn của thành công không chỉ trong cuộc chiến với giặc

ngoại xâm mà còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng một trật tự xã hội

mới tươi đẹp cho dân tộc.

Như vậy, qua mối tương quan giữa hiện thực và quá khứ ta thấy rõ

thông qua công cuộc bình Ngô này tác giả muốn đánh thức tinh thần đấu

tranh của dân tộc đang sống kiếp lầm than.

2.3. Nghệ thuật kết cấu

Kết cấu được hiểu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác

phẩm(…) không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên

ngoài giữa những bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên

trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm (…) bao gồm: tổ

chức hệ thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật; nghệ

thuật tổ chức những liên kết cụ thể các thành phần của cốt truyện… sao cho

toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật”. Như vậy, kết

cấu tác phẩm là toàn bộ quá trình tổ chức tác phẩm để đạt được mục đích

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phản ánh sáng tạo của mỗi nhà văn. Kết cấu trong tác phẩm không bao giờ

39

tách rời nội dung cuộc sống, tư tưởng, tình cảm. Kết cấu là một thành tố

mang tính tổng hợp.

Mặt khác, kết cấu còn là phương tiện khái quát nghệ thuật. Một vấn đề

quan trọng ta đã gặp trong nhiều tác phẩm: nhà văn không chỉ xây dựng các

hình tượng nghệ thuật mà thông qua hình tượng để gửi gắm những bức thông

điệp với cuộc đời. Nhà văn có thể không được lưu tâm, tên tuổi của anh ta mờ

nhạt dần nhưng hình tượng tiêu biểu, những vấn đề then chốt thì luôn có sức

sống và giá trị thẩm mĩ. Chính vì tính khái quát của tác phẩm mà mỗi nhà văn

đều đầu tư chăm chút để làm sao vấn đề chính yếu trong bức thông điệp tư

tưởng của mình được nổi lên hàng đầu. Nói như vậy nghĩa là mỗi kết cấu là

một quá trình vật lộn của nhà văn trước cuộc đời. Quá trình này in vào đó sự

thao thức, suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo.

Như vậy, thứ tự trước sau của các chi tiết không phải là ngẫu nhiên mà

đòi hỏi nhà văn phải tư duy, lựa chọn, sắp xếp. Do vậy, kết cấu phản ánh quá

trình tư duy của nhà văn, sự suy nghĩ của nhà văn: Tư tưởng của mỗi tác giả

bao giờ cũng được thể hiện trong kết cấu và qua kết cấu.

Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử được chia thành hai mươi hai tiết, mỗi

tiết đều chứa đựng những sự kiện cụ thể, có mối liên hệ với nhau tạo nên tính

chỉnh thể về nội dung và hình thức của tác phẩm. Các nhân vật xuất hiện gắn

với những sự kiện cụ thể.

Tiết thứ nhất giới thiệu “ một người rất anh hùng hiện đang làm nghề

rất nhỏ mọn” đó chính là ông Xí từ nhỏ đã có chí khí, căm thù giặc Ngô

xâm lược, lớn lên lại càng hào hiệp ham làm việc nghĩa, tiếp theo là sự xuất

hiện của thiên tài cao học rộng, đảm lược nhiều cứu ba từ nhân bị bắt vì tội

“ngạo với giầy”

Quân Trùng Quang khi đã có cơ sở vững chắc thì lực lượng tham gia

ngày càng đông đảo, tổ chức các trận đánh ngày càng quy mô và thu được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiều thắng lợi.

40

Đầu tiên là hành động giết chết Tuần Kiểm của Xí và Lực, đây là tên

quan ngỗ ngược coi thường tính mạng của người dân An Nam.

Khi các kiên nhi trong trại đã thạo nghề võ nghĩa quân tiến đánh hai

châu Tương Quỳ, Lương Sơn, Thanh Chương giành thắng lợi.... đến việc

chém chết thừa tuyên sứ, sau khi thu phục được thành Nghệ An, tôn ông

Khoáng lên làm vua Trùng Quang, thực hiện những chính sách tiến bộ.

Các sự kiện trong tác phẩm được kể lại theo trình tự thời gian có mở

đầu, diễn biến và kết thúc tạo nên tính chỉnh thể cho tác phẩm. Thông qua

việc tìm hiểu tác phẩm độc giả phần nào đã được sống trong không khí hào

hùng của thế hệ đã qua, góp phần làm phong phú hơn vốn kiến thức lịch sử

dân tộc, đây là thành công rất lớn của tác phẩm trong hoàn cảnh lịch sử nước

nhà dần bị thế hệ trẻ quên lãng như hiện nay, tác phẩm đã đạt tới yêu cầu mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đảng ta đề ra đó là dân ta phải biết sử ta.

41

Chƣơng 3

HƢ CẤU – MỘT YẾU TỐ ĐẶC SẮC TRONG CẤU TRÚC TỰ SỰ

CỦA TRÙNG QUANG TÂM SỬ

3.1. Hƣ cấu trong tiểu thuyết lịch sử

3.1.1. Hư cấu nghệ thuật và mối quan hệ với tính chân thực lịch sử

Hư cấu là phương thức xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng

tạo ra những giá trị mới, những yếu tố mới, như sự kiện, cảnh vật. nhân vật

trong một tác phẩm theo sự tưởng tượng của tác giả. Đây là yếu tố không thể

thiếu của sáng tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ đời

sống nhưng không sao chép nguyên nó. Từ những chất liệu thực tế, nghệ sĩ tổ

chức, nhào nặn, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật sinh động, rõ nét và

điển hình hơn, tuỳ thuộc chủ đề tác phẩm.

Trước hết nếu các chi tiết được phản ánh trung thực gần như sao chép

sự thật đã, đang xảy ra trong đời sống thực thì cùng lắm đấy chỉ là cuốn biên

niên sử, chứ không phải là một tác phẩm văn học nghệ thuật. Bởi lẽ một thuộc

tính cơ bản nằm ngay trong bản chất cấu thành của tác phẩm văn học nghệ

thuật là sự tưởng tượng chủ quan của người nghệ sĩ. Một mặt người nghệ sĩ

tôn trọng đến mức tối đa sự thật lịch sử và mặt khác bằng cảm xúc, tài năng

cá nhân anh ta phải sáng tạo ra một thế giới thứ hai – Thế giới văn học nghệ

thuật. Nhưng như vậy không có nghĩa nhà văn sao chép nguyên si những sự

kiện đã xảy ra trong đời sống thực.

Khi nói đến sự tưởng tượng chủ quan của nghệ sĩ cũng có nghĩa là

thừa nhận tính không đồng nhất giữa sự thật lịch sử đã từng tồn tại trong đời

sống thực và các chi tiết, sự kiện đó được phản ánh trong tác phẩm văn học

nghệ thuật. Người nghệ sĩ có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mờ đi một vài chi tiết nào đó phục vụ cho ý tưởng sáng tạo của mình. một

42

chi tiết hay một nhân vật nào đó được thêm vào không nhất thiết là có thật,

ngược lại nó có thể hoàn toàn được tạo nên bởi sự tưởng tượng chủ quan của

người nghệ sĩ cốt sao không trở thành kẻ hoàn toàn xa lạ với cái lịch sử đã

từng tồn tại trong đời sống thực. Hơn thế việc bớt đi hay thêm và các chi

tiết, nhân vật nào đó phải nhằm mục đích tái hiện lại lịch sử ở một cấp độ

cao hơn cái sự thật mà mọi người đã từng biết từ sự trải nghiệm cá nhân hay

từ những cuốn biên niên sử.

Tính không đồng nhất giữa sự thật đã từng tồn tại như nó vốn có trong

đời sống và những chi tiết phản ánh sự thật trong tác phẩm văn học nghệ thuật

chính là hư cấu nghệ thuật – một đặc tính của sáng tạo văn học nghệ thuật.

Trùng Quang tâm sử viết về một đề tài lịch sử. Nhưng đó không phải là

một quyển tiểu thuyết lịch sử: thực tế lịch sử không được tôn trọng. Với dụng

ý thay đổi chủ đề câu chuyện, tác giả đã chỉnh lí cả lịch sử để trình bày một

quan điểm chính trị diễn tả một ước mơ chính trị của mình. Tác giả nhập hai

cuộc khởi nghĩa chống Minh của Trần Quý Khoáng và của Lê Lợi làm một,

biến mưu đồ chống Minh, khôi phục ngôi vua của Trần Quý Khoáng, Đặng

Tất, Nguyễn Cảnh Chân thành một cuộc khởi nghĩa của nhân dân để giành

độc lập, giống với cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi và mang màu sắc chính trị của

phong trào Duy Tân hội đầu thế kỉ XX. Theo tác giả, đây là câu chuyện dã sử

kể theo lời các ông già đọc sách chữ Thổ, chứ không phải theo chính sử chép

bằng chữ hán, lấy địa điểm khởi nghĩa là vùng Nghệ Tĩnh, hai cuộc khởi

nghĩa đó về thời gian gần nhau và có liên quan với nhau. Nhưng đây không

phải là một sự nhầm lẫn. Phan Bội Châu đã thanh minh vì sao mình kể

chuyện khác chính sử, nhưng đó không phải là sự thực. Chọn thời điểm từ lúc

nhen nhóm cuộc khởi nghĩa cho đến khi thu phục được thành Nghệ An, trước

lúc kéo quân ra Bắc, xảy ra trận Bô Cô, giảm nhẹ vai trò của Đặng Tất và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Cảnh Chân, Trần Quý Khoáng, đem Nguyễn Xí người anh hùng

43

trong cuộc khởi nghĩa Lê Lợi giữ vai trò quan trọng và thêm vào rất nhiều

nhân vật hư cấu, tác giả có dụng ý trình bày cuộc khởi nghĩa khôi phục đất

nước theo tư tưởng chính trị khác chính sử: điều kiện toàn dân giành độc lập,

vai trò quyết định trong cuộc khởi nghĩa là nhân dân chứ không phải hoàng

tộc và quan lại. Những người giác ngộ, tự nguyện cứu nước, những người anh

hùng vô danh có vai trò quan trọng không thua kém gì những quý tộc quan lại

được sử sách ghi tên sự đổi thay đó làm cho Trùng Quang tâm sử khác tiểu

thuyết chương hồi truyền thống.

Chuyện thực lịch sử nói về một người thuộc tôn thất nhà Trần là Trần

Quý Khoáng đánh giặc để khôi phục ngôi vua. Trong tiểu thuyết, các đảng

hữu cùng “tôn ông Khoáng lên làm vua” “nối nghiệp nhà Trần”, nhưng trong

Trùng Quang tâm sử không có tư tưởng chính thống. Không ai nhắc đến

quyền nối ngôi của con cháu họ Trần. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu ở trại Trùng

Quang không có người trung nghĩa mà chỉ có những người yêu nước và căm

thù giặc. Nguyễn Cảnh Chân tuy có nhiều công lao nhưng không phải là một

ông quan trung nghĩa mà thay hẳn vai trò thành là một nhà nho vì căm thù

giặc mà bất đắc chí, “có ruộng có trâu đều bán hết để cúng cho ma rượu” ,

gặp ông Ký rồi mới tham gia nghĩa quân. Cuốn tiểu thuyết không mở đầu

bằng việc bàn về lẽ phế hưng trị loạn mà cũng không kết thúc ở chỗ Trần Quý

Khoáng, Đặng Dung bị bắt, cơ nghiệp nhà Trần tan tành hẳn.

Trại Trùng Quang là một thứ nước “tự do lâm thời” , trong khi đất nước

đã bị giặc chiếm đóng. Nhưng đó cũng là sơn trại có địa thế hiểm yếu.

Thế nhưng con đường đưa các anh hùng hảo hán đến đó thì lại khác

Thủy hử. Phan Bội Châu cực tả sự tàn ác của cảnh áp bức dân tộc. Dưới sự

thống trị của quân Minh, người nông dân đem hết số thóc thu nhập cả năm

cũng không đủ nộp thuế. Mỗi người tráng đinh phải nộp ít nhất là 70 đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mới lấy được giấy bảo đảm (một thứ thuế thân như hồi Pháp thuộc). Nếu

44

không bán trâu thì không làm gì có đủ tiền đó, anh Lực phải tính nước tự tử

để khỏi phải lấy giấy bảo đảm lưu lại trâu cho vợ con làm ăn, “chết đi để

giữ gìn tính mạng cho cả nhà”. Người dân mất nước không chỉ có khổ mà

nhục. Bọn quan lại nhà Minh khinh bỉ dân nước Nam hết chỗ nói. Tên

Thừa Tuyên sứ bắt mọi người đi qua cổng chợ phải “cúi đầu làm lễ” đôi

giày “đại biểu cho mệnh lệnh của Hoàng đế”, ai không lạy thì bị hạ ngục

về tội làm loạn”. Tên thống soái lại còn ngạo ngược hơn. Trong một bữa

tiệc “hắn tụt quần chổng đít trước mặt công chúng” hạ lệnh ban thưởng

hàm cửu phẩm ( ! ) và miễn giấy bảo đảm cho “người nước Nam” nào giơ

miệng hôn đít quan soái”, thế mà không ít người vẫn phải làm theo. Cảnh

đốt phá, chém giết, hãm hiếp xảy ra khắp nơi. Anh Hạnh đem thóc đi chợ

bán để cưới vợ vì không chịu để thóc mình cho ngựa quan ăn rồi lại đánh

chết ngựa, nên anh đã suýt phải đền mạng, áp lực dân tộc đã làm cho quý

tộc, hào trưởng, nhà nho, nông dân, dân chài, dân thợ, phường săn, cả nam

cả nữ, cả Kinh cả Lào trước sau đến trại tụ nghĩa.

Sơn trại là một thứ “triều đình riêng một góc trời”, một lối tổ chức quen

thuộc của các cuộc khởi nghĩa nông dân; gắn với sơn trại là chủ nghĩa sơn

đầu, là những người anh hùng hảo hán lục lâm. Những hắc điếm dò la và giết

khách qua đường, những vụ đón đường đòi tiền mãi lộ, những cuộc đánh

cướp quy mô lớn mà ta thường thấy trong Thủy hử là phương thức sống của

những người vì áp lực phong kiến, vì không chịu bó buộc mà bỏ nhà trốn

tránh lên sơn trại. Phan Bội Châu có ý thức lên án lối sinh hoạt đó. Trong

Trùng Quang tâm sử ông Xí phá ngục cứu bạn xong cũng phải “trốn vào núi”

sống cuộc đời lục lâm. Ông Võ sau khi đánh đắm thuyền giặc, phải trốn tránh,

tuy không làm nghề lục lâm nhưng vì giỏi võ nghệ “được bọn cướp tôn làm

thầy, nếu không được ông cho phép thì không dám cướp bóc” , những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như ông Xí, ông Võ đã nhận ra “hò hét ở nơi rừng xanh chỉ là kế nương thân

45

tạm thời”. Vì “mục đích cuối cùng của người đại trượng phu là phải làm cách

mạng” , họ đã bỏ nghề lục lâm mà cùng nhau cứu nước. Nhưng trong hoạt

động của sơn trại còn có cả cảnh “vào lúc nửa đêm…quân cướp (tức là người

của trại Trùng Quang giả trang” đốt lửa xông vào, lửa sáng rực đến hơn một

dặm. Người to lớn đi đầu, tay cầm một con dao năm chĩa, phá cửa vào tìm

người phó cả… Bọn cướp cầm dao trong tay múa tít như hoa bay, không ai

dám lại gần… quát lên một tiếng “tránh” vang lên như sấm. Những người

đến cứu đều khiếp sợ ngã lăn ra” [75,51] Lương thực cho một số người ngày

càng đông lên ở sơn trại và chi phí cho hoạt động cứu nước là một vấn đề rất

khó giải quyết. “Võ và Xí đều là những người dũng cảm tuyệt vời, mỗi khi

rảnh việc thường dẫn năm sáu người trai tráng sang các phủ huyện khác ăn

cướp tiền của bọn quan giặc”, nhưng kế đó không thể là lâu dài. Trại phải tổ

chức khu cầy cấy, chăn nuôi để tích trữ lương thực, lại phải tổ chức quan liệu,

thương điếm trao đổi hàng hóa giữa miền xuôi và miền ngược để thu lợi làm

kinh phí. Các anh hùng hảo hán biết tránh việc giết người bừa bãi , trong sơn

trại cũ ng không có cảnh tiệc tùng chè chén linh đình. Mọi người trong sơn trại

đều theo gương ông Khoáng lao động làm ăn, “đàn ông thì chăm lo việc bên

ngoài, đàn bà thì trông coi việc ở trong, đốt săng lấy ruộng vải bong và gia

súc càng ngày càng nhiều”. Quan tâm đến vấn đề lao động sản xuất, kinh

doanh công nông thương, gây cơ sở kinh tế cho sơn trại là một chủ trương

chống lại chủ nghĩa sơn đầu. Tư tưởng “lấy nhân nghĩa để chiến đấu”, không

phiền nhiều đến dân” “tuyệt đối không nên cướp bóc của nhân dân”, là tư

tưởng quán xuyến trong truyện.

Trại Trùng Quang là một sơn trại nhưng là một sơn trại tự đặt cho

mình nhiệm vụ lo toan cho cả nước. Nó không nhằm mục tiêu là sự thịnh

vượng chỉ của sơn trại, là hùng cứ một phương, mà vạch một chương trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khôi phục đất nước gồm ba thời kì: thời kì vận động, thời kì tiến hành và

46

thời kì kiến thiết. Công việc sau khi đất nước đã được khôi phục sẽ do

những người nối tiếp đảm đương. Nhằm mục tiêu vận động nhân dân khôi

phục đất nước, những người lãnh đạo sơn trại đã hình dung một kế hoạch

xây dựng lực lượng quân sự, một kế hoạch tác chiến, đã bàn đến đường lối

chính sách đối với các tầng lớp, các địa phương… các phương sách đề ra

chưa có gì thật mới mẻ. Mưu kế cũng chưa vượt được những chuyện chính

kỳ, hư thực, mai phục, hỏa công, trá hàng… mà ta đã biết trong Tam quốc,

Thủy hử. Nhưng hành động tính toán có quy mô toàn quốc và có sự tham

gia của toàn dân, sơn trại tự coi là một “đảng”, một “đoàn thể” vận động

cách mạng chứ không phải là một triều đình trong núi.

Trong trại Trùng Quang không có cảnh phân chia ngôi thứ, theo tinh

thần đó 49 người đến dự lễ khai trại tuyên bố: “chúng ta bất luận thế nào đều

nhằm mục đích duy nhất là quang phục tổ quốc”, “nếu ai tán thành việc giết

giặc thì đều là anh em”,, “anh em chúng ta có 50 người nhưng phải coi như

thể một người vậy.. Tuy mọi người trong trại phải “đồng tâm đồng đức”

nhưng công việc phải có “chuyên trách” toàn trại bầu ra ba người lãnh đạo

chính: trại chủ, mưu chủ và chiến chủ. Tuy trại chủ vẫn ra mệnh lệnh đảm

đương việc giao thiệp nhưng mọi người “phụ trách công việc gì đều do công

chúng ủy nhiệm”, ai “không xứng chức” làm hỏng việc “anh em đều có quyền

trách phạt” tuy cũng gọi là “anh em” nhưng tinh thần quan hệ trong trại là

tinh thần dân chủ bình đẳng. Đó là tinh thần đồng chí trong tổ chức Đảng –

như mọi người thường nhắc – chứ không phải là tình anh em kết nghĩa có trên

có dưới như giữa các hảo hán giang hồ. Ngay từ khi bầu, ông Kiên đã bài bác

tinh thần “chia cách ngôi thứ”. Ngôi trại chủ của ông Khoáng là vấn đề cần

chú ý. Ông là tôn thất nhà Trần, tham gia tổ chức trại ngay từ đầu, nhưng

không tỏ ra có tài cán gì đặc biệt. ông đã đem tài sản dâng cho đảng hoạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

động, đã làm gương và đôn đốc mọi người lao động xây dựng sơn trại, giúp

47

đỡ cho những người xung quanh. Nhưng các công việc của sơn trại hầu hết

đều do ông Kiên, ông Xí, cô Chí đề xuất và tiến hành. Có khi và ngay cả

trong ngày lễ tuyên thệ khai trại, ý kiến ông Khoáng cũng tầm thường, bị gạt

đi, không được chấp nhận, vị trí của ông Khoáng trong trại Trùng Quang làm

ta nghĩ tới vị trí của Cường Để và thái độ của Phan Bội Châu đối với Cường

Để trong Duy Tân hội. Qua cách mô tả trại Trùng Quang, ta có thể thấy dụng

ý đem tư tưởng dân chủ và bình đẳng, toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp chung của

một đoàn thể cách mạng khắc phục tư tưởng vua tôi trên dưới kiểu phong kiến

và xu hướng sơn đầu lục lâm của nông dân khởi nghĩa với dụng ý một cuộc

vận động chính trị giải phóng dân tộc thế kỉ XX, Phan Bội Châu đã thay đổi

phương thức và tiến trình chuẩn bị khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa không được

nhen nhóm từ chỗ một tướng lĩnh có sẵn lực lượng quân đội chọn một người

trong hoàng tộc, lấy danh nghĩa người đó đưa hịch hiệu triệu các phủ huyện

như thực tế cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, nghĩa là không phát triển trên cơ sở

quan hệ chủ tớ của chế độ phong kiến. Trong Trùng Quang tâm sử, cuộc khởi

nghĩa bắt đầu bằng con đường giác ngộ từng cá nhân vận động nhân dân đứng

lên chống giặc. Các nghĩa sĩ không sống tập trung ở sơn trại mà phân tán hoạt

động trong nhà dân. Trại không phải là đồn lũy mà chỉ là địa điểm bí mật, các

nghĩa sĩ đến sơn trại bằng nhiều con đường nhưng tất cả đều tự giác, tự

nguyện hy sinh vì chính nghĩa. Cũng có người phải trốn tránh, vì cưỡng bức,

vì bị bắt đến, hoặc đầu hàng mà ra nhập hàng ngũ sơn trại, nhưng tất cả, khi

bước chân vào trại thì đều đã nhận thức được như ông Võ về nghĩa quốc gia,

đồng bào “hi sinh những cái tự tư tự lợi của bản thân, để hết lòng hết sức bảo

vệ tổ quốc”. Hoạt động của trại không dính líu đến việc cướp bóc, quấy nhiễu

người lương thiện nên không ai phải băn khoăn vì tình thế bắt buộc, về tính

chất bất hợp pháp của mình làm.

Tuy cuộc khởi nghĩa đã được chuẩn bị cách khác nhưng chiến tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giải phóng thì lại tiến hành giống như trước cho nên những nhân vật chủ yếu

48

của sơn trại vẫn mang hình dáng cũ. Tổ chức không phải triều đình nhưng trại

chủ, mưu chủ, chiến chủ vẫn còn diện mạo và tính cách như minh chủ, tướng

văn, tướng võ như trong tiểu thuyêt cổ. Trong thời đại phong kiến, anh hùng

của giai cấp thống trị và anh hùng nông dân là hai loại đối lập nhưng cả hai

cũng có những nét giống nhau.

Cả hai đều có hai mẫu điển hình: minh chúa, tướng văn, tướng võ.

Người đại ca trong các sơn trại nông dân khởi nghĩa, được anh hùng hảo hán

quý trọng cũng vì họ là người rộng lượng, có đức, quý tài giống như các minh

chúa phong kiến. Trong lớp đầu mục thế nào cũng có ít người đóng vai quân

sư và ít người võ nghệ cao cường đóng vai hổ tướng, chỗ khác nhau là tính

cách: một bên là trung nghĩa, một bên là hào hiệp, một bên là thận trọng giữ

lễ vua tôi một bên không ràng buộc. Nhưng việc tập hợp của đạo đức minh

chủ, tài mưu lược của quân sư, sức mạnh muôn người khôn địch của hổ tướng

thì vẫn là giống nhau.

3.1.2. Về hai khuynh hướng lịch sử hoá tiểu thuyết và tiểu thuyết hóa

lịch sử

Tiểu thuyết vốn đề cao tính hư cấu, sáng tạo chủ quan, còn lịch sử lại

đòi hỏi sự chính xác, khách quan khi lưu giữ những dữ liệu liên quan đến số

phận của một dân tộc. Tiểu thuyết hóa lịch sử tức là nhà văn biến những tư

liệu chính xác của lịch sử thành tiểu thuyết, thành những sản phẩm hư cấu,

tưởng tượng của cá nhân nghệ sĩ. Khi đó, lịch sử trở thành chất liệu thậm chí

là phương tiện để nhà văn viết tiểu thuyết. Nhiều khi nhà văn chỉ mượn lịch

sử làm đường viền trang trí chứ không phản ánh trung thực một thời kì lịch sử

cụ thể. Nói như nhà văn Alexandre Dumas, lịch sử chỉ như cái đinh đóng vào

tường để người viết có thể tùy thích treo vào đó những bức họa của riêng

mình. đó là thứ lịch sử đã được nhào nặn, thiết kế lại. Và nhà văn viết tiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuyết lịch sử là sáng tạo một lịch sử khác, đến lượt người đọc, họ cũng

49

hưởng thụ lịch sử theo cách riêng của mình. Với khuynh hướng sáng tạo lịch

sử này, nhà văn có thể phán xét cả lịch sử, chưng cất lại lịch sử. Đọc những

cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết theo khuynh hướng này, ấn tượng về lịch sử

dù vẫn tồn tại, và vẫn cần thiết như một không gian toàn thể nhưng đã không

còn ở bình diện thứ nhất mà nổi lên trước hết là ấn tượng của tiểu thuyết với

bao vấn đề thế sự, đời thường cùng những sáng tạo mới mẻ, riêng biệt. Theo

Bakhtin đó là ấn tượng về cái “hiện tại chưa hoàn thành” hiện tại ấy trở thành

đối tượng ưu tiên của tiểu thuyết để người viết tiểu thuyết “có thể miêu tả

những sự việc có thật trong đời mình hoặc nói ám chỉ đến chúng, có thể can

thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật, có thể bút chiến công khai với

các địch thủ văn học của mình”. Tính dân tộc vốn là yếu tính của tiểu thuyết

có dịp được thể hiện trong mọi cấp độ nội dung và hình thức của tác phẩm.

Độc giả không thể tìm thấy trong tiểu thuyết lịch sử những phán xét duy nhất

đúng về các chân lý mà là những giả thuyết về đời sống của nhà văn.

Trùng Quang tâm sử (pho sử lòng thời Trùng Quang) tiểu thuyết lịch

sử của nhà văn Phan Bội Châu lấy đề tài từ cuộc khởi nghĩa chống Minh của

Trần Quý Khoáng con cháu nhà Trần đầu thế kỉ XV. Nội dung tác phẩm xoay

quanh những hoạt động của Hội Trùng Quang từ lúc mới tập hợp lực lượng

cho đến khi xây dựng được thanh thế, tiến hành hoạt động có tổ chức nhằm

đánh đuổi giặc minh xâm lược, trong địa bàn tỉnh Nghệ An: bắt đầu là việc

đột nhập trại giam, giải thoát tù, cướp xe lương của địch, giết những tên giặc

đầu sỏ, hoạt động tuyên truyền giác ngộ quần chúng, mở rộng căn cứ,... Tiến

xa hơn nữa là những trận đánh quy mô vào sào huyệt của địch.Tác phẩm kết

thúc bằng việc vua Trùng Quang lên ngôi sau chiến thắng giải phóng hoàn

toàn tỉnh Nghệ An. Qua 20 nhân vật, Trùng Quang tâm sử đã dựng lại bức

tranh sinh động về thảm cảnh một dân tộc đang quằn quại dưới gót giày đế

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chế Trung Hoa với những cảnh cướp bóc tù đày, chết chóc với những âm

50

mưu và thủ đoạn “diệt chủng” thâm độc của bọn dị tộc cướp nước. Song nổi

bật nhất vẫn là cao trào giải phóng dân tộc với sức vùng dậy quật cường của

các tầng lớp nhân dân Việt Nam trong khoảng cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ

XV. Phan Bội Châu đã xây dựng hình mẫu người anh hùng Việt Nam với đủ

mọi tầng lớp, mọi thành phần: sĩ, nông, công, thương,... đang hăng hái tham

gia vào công cuộc cứu nước cứu nhà. Đó là những anh hùng thảo dã vô

danh, tuy không được sử sách nhắc đến nhưng thực tế lại đóng một vai trò

có ý nghĩa quyết định trong các phong trào yêu nước như ông Võ, cô Chí, cô

Triệu hay anh Trầm, anh Thanh,... Tất cả đều là những con người bình dị

song cũng rất ngoan cường, thông minh, tài trí và cũng tràn trề tinh thần yêu

nước, dám xả thân vì nghĩa lớn.

Trùng Quang tâm sử được viết trong quá trình hoạt động của nhà chí

sĩ yêu nước họ Phan, nhằm mục đích mượn câu chuyện “bình Ngô” của tổ

tiên để kí thác câu chuyện của chính thời đại mình. tác giả muốn qua tác

phẩm thức tỉnh trong nhân dân tinh thần yêu nước ý chí chiến đấu, gọi họ

lên đường chống Pháp, tham gia vào hoạt động của Việt Nam Quang Phục

hội. Ngoài ra Phan Bội Châu còn trình bày các luận điểm về “dân tộc”,

“dân quyền”,.... về nghĩa “chủng tộc”, nghĩa “đồng bào”,... mà ông tiếp thu

được từ luồng gió mạnh của phương Đông lúc bấy giờ. Vì thế, có thể xem

Trùng Quang tâm sử vừa là cuốn tiểu thuyết lịch sử vừa là cuốn tiểu thuyết

luận đề của cách mạng Việt Nam.

3.2. Nghệ thuật hƣ cấu trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử

3..2.1. Hư cấu nhân vật

Văn học có chức năng phản ánh hiện thực khách quan của đời sống,

đưa hiện thực đời sống bên ngoài vào trong tác phẩm, hay nói cách khác,

hiện thực cuộc sống chính là cái lõi chính yếu của một tác phẩm văn chương,

nó là nền tảng cho sự phát triển các sự kiện liên quan đến nhân vật. Xét cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cùng “bất kì nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một cơ sở hiện thực

51

nhất định. Bất kì một nghệ sĩ nào cũng thoát thai từ một môi trường sống

nào đó. Bất kì một tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề trong

cuộc sống. Nhà văn lựa chọn và áp dụng phương pháp sáng tạo nào đó là

do thế giới quan của họ quyết định” [48,63-64]. Chính vì thế, hiện thực

như là một thuộc tính của văn học, tác phẩm nào dù ít hay nhiều cũng có

tính hiện thực. Nó được coi là nền tảng, là bàn đạp cần thiết và vững chắc

tạo nên sự thành công trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của tác giả.

Diễn biến của thời cuộc được nhà văn phản ánh một cách sinh động, phong

phú trong tác phẩm, thế nhưng, giữa hiện thực đời sống khách quan và hiện

thực tác phẩm lại không đồng nhất mà chỉ có sự thống nhất với nhau. Bởi

thế giới khách quan khi đi vào tác phẩm thông qua lăng kính của nhà văn,

được nhà văn sáng tạo lại. Và trong các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, cả hai

thế giới hiện thực thường có những điểm tương đồng nhất định do nó được

xây dựng trên nền tảng của những sự kiện, nhân vật lịch sử, chứ không

phải là những nhân vật hiện đại. Trong bài viết “Tiểu thuyết Trùng Quang

tâm sử nghĩ về đề tài chống Trung Quốc xâm lược qua một số sáng tác hiện

nay”, tác giả Nguyễn Phương Chi cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử tuyệt đối

không cho phép nhà văn xây dựng lịch sử trên những mẫu của bản thân hiện

nay mà trên những mẫu của bản thân lịch sử, cốt chuyện phải phù hợp với xu

thế lịch sử, nhân vật phải mang đặc điểm của thời đại sinh ra nó,và ngôn ngữ

đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại cũng phải có tính chất lịch sử” [15,113].

Do vậy, khi xây dựng nhân vật từ những nguyên mẫu lịch sử, vấn đề

mà tác giả quan tâm là việc phản ánh lịch sử trong tác phẩm. Với tài năng

bậc thầy, trong tác phẩm Trùng Quang tâm sử, các nhân vật lịch sử có thật

như: Trần Quý Khoáng, Nguyễn Súy (Nguyễn Xí), Đặng Dung, Đặng Tất,

Nguyễn Cảnh Chân … đã được Phan Bội Châu tạo thành những hình tượng

nghệ thuật độc đáo, sinh động, đầy lôi cuốn, hấp dẫn. Ở đây, nét tương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đồng giữa nhân vật lịch sử có thật và nhân vật trong tác phẩm văn học được

52

thể hiện qua việc tác giả giữ lại tên tuổi, nguồn gốc xuất thân, sự kiên gắn

liền với nhân vật và vai trò, vị trí của nhân vật trong giai đoạn lịch sử ấy.

Và giữa hai thế giới nhân vật này có thể thống nhất nhưng không đồng nhất

với nhau, bởi lẽ, tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của tác giả và nhân

vật đóng vai trò trung tâm của tác phẩm, là nơi gủi gắm những tâm tư, tình

cảm riêng của bả thân tác giả.

Mặt khác, tiểu thuyết lịch sử lấy nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử làm

nền tảng nhưng tác giả chỉ tái hiên nó bằng chí tưởng tượng, hư cấu và

năng lực sáng tạo nghệ thuật của mình. Trong bài viết: “Mối quan hệ giữa

tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt

Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tiến sĩ Bùi Văn Lợi có ý kiến: “Nghiên cứu lịch

sử là rất cần thiết đối với người nghệ sĩ vì anh ta có nhiệm vụ phải phản

ánh trung thành một hiện thực lịch sử và làm sống lại những nhân vật lịch

sử vừa sinh động vừa có tác dụng lôi cuốn người đọc. Thế nhưng sự nghiên

cứu ấy không thay thế sự tưởng tượng, hư cấu và sáng tạo của nhà văn”

[44,83]. Như vậy, các yếu tố hư cấu, tưởng tượng đóng vai trò quan trọng

của nhà văn trong quá trình tạo nên tác phẩm. Nhờ nó mà các nhân vật

thoát li khỏi sự gò bó của nhân vật lịch sử có thật, nhân vật lịch sử biến hóa

một cách linh hoạt khi đi vào quỹ đạo của tác phẩm văn học. Đối với một

tiểu thuyết lịch sử, tài năng hư cấu, tưởng tượng của nhà văn được coi là

đặc trưng của thể loại, thể hiện tư duy sáng tạo của nhà văn. Có thể tác giả

không cần thể hiện đúng toàn bộ các sự kiện lịch sử gắn với nhân vật mà

đôi khi chỉ cân một chi tiết trong đời sống, thậm chí là những chi tiết “phản

lịch sử”. Trong cuốn Nhà văn và tác phẩm văn học, Giáo sư Hà Minh Đức

cho rằng: “Có khi nhà nghệ sĩ chỉ cần có một vài khoảnh khắc trong đời

sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đưa vào tác phẩm những điều phi

lịch sử không quan trọng thậm chí trong một chừng mực nào đó, có quyền

không vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ cần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đúng đắn, lý tưởng mà thôi” [23,27].

53

Như vậy, đối với các tiểu thuyết lịch sử, vấn đề cốt lõi ở đây không

phải là các sự kiên lịch sử có thật mà đó là nhân vật. Các nhà văn chú trọng

đến việc xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật sinh động, làm sống

lại những nhân vật trong lịch sử. Trùng Quang tâm sử là một tác phẩm viết

về lịch sử cuộc khởi nghĩa chống quân minh xâm lược ở thế kỉ XV, với

những tên tuổi nổi tiếng như:Nguyễn Cảnh Chân, Lê Lợi, Trần Quý

Khoáng, Đặng Dung, Đặng Tất …

Từ những nguyên mẫu ấy, chỉ với một vài chi tiết điển hình qua một

số sự kiện lịch sử, Phan Bội Châu xây dựng họ thành một hình tượng nghệ

thuật đặc sắc và độc đáo, mỗi nhân vật mang một diện mạo riêng, một đời

sống riêng.

Trùng Quang tâm sử là tác phẩm đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện

đại đã xây dựng được hệ thống nhân vật khá hoàn chỉnh, chặt chẽ với một loạt

những người thuộc tầng lớp, thành phần dân tộc, nghề nghiệp khác nhau : sĩ,

nông, công, thương, già trẻ, gái trai… tạo nên bức tranh đa màu sắc, nhiều

hình khối về thế giới nhân vật. Tất cả những nhân vật trong tác phẩm đều

được xây dựng với tính cách, ngoại hình, thành phần xuất thân khá rõ nét.

Trong đó, một số nhân vật đã trở thành nhân vật điển hình tiêu biểu.

Nhân vật Trần Quý Khoáng là một người có lòng yêu nước nồng nàn,

tha thiết, mong muốn được giải phóng đất nước khỏi ách xâm lược của giặc

Minh, đem lại tự do, no ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, mặc dù, sự

nghiệp dở dang, nguyện vọng không thành nhưng ông vẫn được nhân dân

hết lòng yêu mến, kính trọng, danh lưu muôn thuở.

Trong lịch sử Việt Nam, ông là vị vua thứ hai của thời Hậu Trần, húy

là Trần Quý Khoáng hay Trần Quý Khoách.Ông là con của Trang Định

vương Trần Ngạc, cháu nội của Trần Nghệ Tông, gọi Giản Định Đế bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chú. Khi vua Trần Ngỗi nghe lời gièm pha của Nguyễn Qũy và Nguyễn

54

Mộng Trang giết chết Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất. con của Nguyễn

Cảnh Chân là Cảnh Dị, con Đặng Tất là Dung “đều tức vì cha chết oan, mới

đem quân Thuận Hóa đón Nhập nội thị trung Trần Quý Khoáng đến Nghệ

An lập lên làm vua.” [37,774]. Trần Quý Khoáng lên ngôi lấy niên hiệu là

Trùng Quang. Thời kỳ lên ngôi của ông chính là thời kỳ nhà Minh xâm lược

nước ta.

Trần Quý Khoáng là người trọng nghĩa khí, trọng người tài, phân biệt

rõ đúng sai, kẻ có tội, người có công, đồng thời còn là người tin vào các điều

kì diệu, thần bí. Khi mẹ của Trần Ngỗi cùng với bọn quan thần âm mưu tạo

phản, ông biết nhưng chỉ xử tội những kẻ có liên quan còn lại đều tha cả.

chẳng hạn như đối với Trần Ngỗi “Trùng Quang Đế đổi mặc áo thường

xuống thuyền đó rước. Khi ấy trời đất đương tối sầm, thốt nhiên mây vàng

rực rỡ hiện ra, mọi người đều kinh ngạc cho là điềm lạ. Bèn tôn Hưng

Khánh Đế làm thượng hoàng, cùng nhau hết sức đánh giặc” [37,775].

Với vai trò là người nắm trong tay vận mệnh của đất nước, Trần Quý

Khoáng cùng với các trung thần quyết tâm đánh đuổi quân Minh xâm lăng ra

khỏi bờ cõi. Mặc dù, cuộc khởi nghĩa diễn ra trong tình thế vô cùng bất lợi

khi một số thổ quan đã bị quân Minh mua chuộc bằng việc cấp đất quay trở

lại tiếp tay cho giặc nhưng vua Trùng Quang cùng với các bề tôi đã dũng

cảm chiến đấu hết mình khiến cho quân Minh nhiều phen rơi vào tình thế khó

khăn. Trong Đại Việt sử kí toàn thư, các tác giả đã minh chứng cho điều này:

- Mùa hạ, tháng 5, vua đem bọn Nguyễn Cảnh Dị tiến quân đến La

Châu, Hạ Hồng, đánh phá được quân của Đô đốc Giang Hạo, thừa thắng

đuổi theo, tiến quân đến Bình Than, đốt phá gần hết thuyền trại của quân

Minh [37,778].

- Tháng 9, vua và bọn Nguyễn Súy chia đường tiến đến cửa biển, bắt

được người thổ quan là là chỉ huy Nguyễn Chính ở Bài Lâm, chém bêu đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rồi về [37,787].

55

Dốc hết mình cho cuộc khởi nghĩa, tìm mọi cách để khôi phục lại

giang sơn, thậm chí Trần Quý Khoáng đã cho dâng những sản vật quý cho

quân Minh “Tháng 3, vua lại trở lại Nghệ An, quân nhân mười phần thì còn

độ 3,4 phần… Vua chạy về Châu Hóa, sai Đài quan là Nguyễn Biểu làm sứ

cầu phong, mang sản vật địa phương đến Nghệ An” [37,788] nhằm tránh

nạn binh đao cho đất nước, thể hiện truyền thống hòa hiếu của dân tộc,

nhưng cuối cùng vẫn phải thất bại: “Vua chạy sang nước Lão Qua. Phụ sai

người tìm bắt được, đưa đến quân môn. Người Thuận Hóa đều hàng. Thế là

nhà Trần mất” [37,790]. Vua Trùng Quang bị Trương Phụ bắt giải về Yên

Kinh. Trên đường đi, ông đã nhảy xuống nước tự vẫn. “Vua gặp thì loạn lạc,

gắng chí mưu việc khôi phục, nhưng vì trời không giúp nhà Trần, nuốt hận

mà chết. Thương thay!” [37,778].

Từ nguyên mẫu Trần Quý Khoáng trong sự thực lịch sử, bằng tài năng

tưởng tượng, hư cấu của mình, Phan Bội Châu đã xây dựng lên Trần Quý

Khoáng – một hình tượng văn học đầy sinh động, hấp dẫn, giúp người đọc

có một cái nhìn mới hơn về nhân vật, tạo nên mối quan tâm nhiều hơn của

các nhà sử học đối với nhân vật.

Trong Trùng Quang tâm sử, Phan Bội Châu không giới thiệu đầy đủ,

chi tiết về nguồn gốc xuất thân Trần Quý Khoáng như trong lịch sử mà chỉ

đề cập một cách sơ lược: “Phía Tây huyện Thanh Chương, giáp nước Lào,

nhìn xuống sông Lam, …có vài trăm khoảnh sơn điền… Đấy là trại của ông

Khoáng… Tiên thế ông Khoáng hiển đạt ở thời Trần, nhà Trần mất, đem cả

bộ thuộc hơn vài mươi người dời xuống phía Nam châu Hoan, đuổi người

Lào chiếm lấy đất. Vì quân nhà Minh đuổi bắt riết,nên ông Khoáng cũng

trốn đến ở chỗ ấy” [75,50]. Đồng thời, từ một con người có tính cách quyết

đoán, có thể giết chết ai có ý đồ tạo phản, đa nghi (ông nghi ngờ Hưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Khánh Đế phản bội nên cho người truy đuổi bắt để trị tội) như trong Đại

56

Việt sử kí toàn thư, thì trong Trùng Quang tâm sử Trần Quý Khoáng trở

thành con người bình thường, dân dã, hiền lành, sống chan hòa cùng cộng

đồng, những người nông dân chân chất, được mọi người hết sức yêu mến, nể

trọng: “Ông Khoáng là người trưởng giả, trung hậu, nên người xa gần bất

kỳ Mường hay Chợ, đều ham đi lại giao thiệp. Thường lấy thóc gạo đổi lâm

sản, rồi chở lâm sản xuống chợ bán lấy tiền, hằng năm thu được rất nhiều,

cho nên trong trại súc tích cũng đầy đủ” [75,50].

Nếu như trong lịch sử, Trần Quý Khoáng là một người anh hùng vĩ

đại, một ông vua có nhiều công lao to lớn trong công cuộc đấu tranh chống

quân Minh xâm lược thì trong tác phẩm Trùng Quang tâm sử Trần Quý

Khoáng thoạt tưởng rất mờ nhạt: “Sức tôi được đến đâu tôi xin làm đến đấy”

[75,48], “ Tôi có sơn trại vài mươi gian, sơn điền vài nghìn mẫu. Tiên nhân

tôi mấy đời làm hùng trưởng ở đấy. Chỗ ấy tai mắt chó săn chim mồi của

giặc Ngô không đến được, tôi xin dâng cho đảng để làm chỗ đứng chân tạm

thời. Những thóc lúa còn lại, nếu nay đem bán, cũng còn được vài vạn quan tiền,

một nửa làm sở phí khởi sự, một nửa làm lương cũng được nửa năm” [75,49].

Với tư cách là một thổ hào của địa phương và điều kiện thuận lợi sẵn

có, ông được mọi người cử làm trại chủ, ông chỉ đóng góp cho cuộc khởi

nghĩa bằng cách dùng sơn trại của mình làm nơi đứng chân của đảng và

lương thực, thực phẩm…Nhưng đó là sự cống hiến có giá trị và ý nghĩa vô

cùng lớn lao.Phải chăng cái nguyên lý “có thực mới vực được đạo”, “thực

túc binh cường” đã được Trần Quý Khoáng đúc kết và ý thức sâu sắc từ lịch

sử đấu tranh giữ nước của cha ông ta.

Về phương diện sử dụng con người: “Ông Khoáng thường nghĩ đến

quốc sỉ, nuôi chí lớn, cho nên những người hảo hán đến thường được tiếp

đãi rất hậu” [75,49]. Nói chung những người có nghĩa khí đều được ông tôn

trọng và chiêu mộ. Có cơ sở vật chất và các điều kiện thuận lợi khác nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nếu không có kế sách tập hợp được lực lượng, đặc biệt là những người có

57

tâm có tài – một nhân tố có tính chất quyết định, thì chắc chắn cuộc kháng

chiến khó có thể đạt được thắng lợi cần thiết. Không chỉ đảm bảo cung cấp

binh lương, Trần Quý Khoáng khiến cho : “nhân dân bốn phía đều khen là

trại Phúc Đức. Tiếng nhân nghĩa của ông Khoáng từ đây đồn khắp gần xa”

[75,84]. Trong chừng mực nào đó, có thể xem đó là kế sách chiêu hiền đãi

sĩ, thu phục nhân tâm của Trần Quý Khoáng thể hiện tầm nhìn xa của một vị

vua anh minh. Và đó cũng là những bài học kinh nghiệm lịch sử sâu sắc của

dân tộc ta trong suốt quá trình đấu tranh sau này.

Không dàn trải, không lan man; không ngồn ngộn, đầy ắp những chi

tiết, sự kiện như lịch sử, chỉ điểm xuyết qua một vài hành động nổi bật của

Trần Quý Khoáng, nhưng Phan Bội Châu “đẩy” nhân vật lên vị trí tầm cao.

Chưa cần đề cập đến yếu tố hoàng tộc ở đây, nghĩa cử đó, những cống hiến

to lớn đó chỉ có thể có ở một ông vua luôn đau đáu một nỗi niềm vì nhân

dân, vì nước, với khát vọng, hoài bão lớn lao là đất nước được giải phóng

khỏi giày xéo của kẻ thù…

Với những cống hiến xứng đáng đó, sau khi đánh đuổi được quân

Minh giành lại được độc lập đất nước, ông được mọi người suy tôn lên làm

vua để nối nghiệp nhà Trần: “Vua Trùng Quang lên ngôi, đưa quân ra Bắc,

nhiều lần đánh cho đại tướng Trương Phụ phải thua. Hai hạt Thanh Hóa nội

ngoại dần dần đều thu phục được. Non sông đã có cơ sống lại trong khoảng

chốc lát. Thế mà ông đã gần nên, lại bị thua trận hết sạch sành sanh” [75,127].

Công cuộc chống giặc ngoại xâm của Trần Quý Khoáng thất bại. Đó

là một sự thật lịch sử. Nhưng qua tác phẩm Trùng Quang tâm sử, bằng tài

năng của mình Phan Bội Châu đã khắc họa hình tượng nhân vật Trần Quý

Khoáng sinh động, mới mẻ, với nhiều cống hiến to lớn cho đất nước, cho

dân tộc, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm quý báu để lại cho đời sau…

Nhân vật Nguyễn Xí (Nguyễn Súy) cũng là một trong những nhân vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh ở thế kỷ XV được

58

Phan Bội Châu xây dựng thành một hình tượng văn học trong Trùng Quang

tâm sử. Nếu như Trần Quý Khoáng được Phan Bội Châu thể hiện vai trò, vị

trí tầm cao của một ông vua, thì ở Nguyễn Xí, tác giả lại tập trung khắc họa

đậm nét hơn về chân dung của một võ tướng, với những chiến công trong

cuộc khởi nghĩa, có sức hấp dẫn, lôi cuốn riêng.

Trong lịch sử, Nguyễn Xí vốn xuất thân trong gia đình làm nghề

muối, khi ông lên chín tuổi thì cha mẹ qua đời, trở thành một đứa trẻ mồ côi.

Nguyễn Xí được Lê Lợi đón về nuôi và dạy dỗ lên người. Nguyễn Xí là một

người có tài, chẳng hạn như ông đã điều khiển được đàn chó, dạy cho chúng

đi đứng, học ăn… Chính vì thế, ông được Lê Lợi yêu mến và nhiều lần khen

ngợi sẽ là một người có tài về quân sự. Trong thời kỳ vua Trùng Quang lên

ngôi, ông được phong chức vị là Thái phó, sau khi nhà Trần mất, ông phục

vụ cho nhà Lê và được vua Lê ban cho chức vị là Cương Quốc công.

Trong Trùng Quang tâm sử, tài năng của Nguyễn Xí được Phan Bội

Châu đề cao hơn: “Ở ngoài tỉnh thành Nghệ An,, dọc theo sông Cấm, đi ra

phía Bắc, có một người gánh hai thùng nước mắm, dọc đường vừa đi vừa rao,

tiếng sang sảng như chuông đồng, dội xa hơn mười dặm. Nghe tiếng rao, ai

cũng biết đấy là một người rất anh hùng hiện đang làm nghề rất nhỏ mọn…

Chính là ông Xí” [75,34]. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Xí đã thể hiện một phẩm chất

và khí phách khác người. Khi nghe cha kể về sự tàn bạo, ngang ngược của

quân giặc thì Nguyễn Xí cảm thấy tức giận đến mức: “mặt đỏ bừng bừng, tóc

dựng ngược, thét lớn lên rằng: thề giết chết quân giặc ấy”, “để cứu nông dan

chúng ta” [75,35]. Sớm ý thức được nỗi khổ nhục, lầm than của nhân dân

dưới ách xâm lăng của giặc Ngô nên Xí không còn chú tâm vào chuyện học

hành, sách vở mà lại say mê luyện tập võ nghệ, hay tụ tập những đứa trẻ trong

làng để chơi trò đánh trận giả. Càng lớn lên, Xí càng trở nên hào hiệp, tham

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gia nhiều việc nghĩa nên càng trở nên nổi tiếng hơn.

59

Phan Bội Châu đã miêu tả tính cách, hành động phi thường của nguyễn

Xí theo một logic nhất quán từ lúc còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Điều

này thể hiện một quan niệm mới mẻ về người anh hùng của Phan Bội Châu:

yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và cống hiến cuộc đời mình cho sự

nghiệp của nhân dân, đất nước.

Sau khi được vua Trần Quý Khoáng tấn phong giữ chức Thái Phó,

Nguyễn Xí đã cùng với nhà vua và các đại thần trong triều bao phen sống chết

với giặc. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi lại những sự kiện, những chiến công

của Cương Quốc công Nguyễn Xí khá chi tiết:

- Khi Giản Định Đế giết Nguyễn Cảnh Chân và Đặng Tất, để tránh

tình trạng phân tán lực lượng, vua sai Nguyễn Xí bắt Giản Định Đế mang về,

lúc này “Giản Định Đế giữ thành Ngự Thiên, chống nhau với quân Minh, bọn

Súy họp quân đánh úp bắt được” [37,774].

- Tháng 9 năm 1411, Nguyễn Xí cùng với Trùng Quang đế bắt

được tên chỉ huy địch là Nguyễn Chính, chém chết hắn bêu đầu.

- Tháng 6 năm 1412, Nguyễn Xí cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Đặng

Dung gặp quân Minh ở Nghệ An, “chưa phân thắng phụ, thì Súy và Cảnh Dị

vượt biển chạy” [37,785].

- Tháng giêng năm 1413, Nguyễn Xí cùng vua và các quân sư

khác đem quân ra biển đến Vân Đồn để thăm dò tình hình của quân Minh và

tìm kiếm lương thực cung cấp cho binh lính.

- Mùa đông, tháng 10 năm 1413, khi Trương Phụ sai người đi dò

xét tình hình quân của vua Trùng Quang và chăn ở thượng lưu thì “Nguyễn

Súy sai 3 người thích khách đội cỏ thuận dòng xuống đến thuyền của Phụ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một người trèo lên đầu thuyền, hai người trèo lên đuôi thuyền. Trương Phụ

60

biết, bắt được hai người, giết một người, thả một người lại cho tiền bạc”

[37,789].

Nhưng Nguyễn Xí cũng không tránh khỏi những sai lầm trong đường

lối quân sự dẫn đến sự thất bại của cuộc khởi nghĩa. Chẳng hạn như, mùa hạ,

tháng 6 (1412), khi Trương Phụ đem quân đánh vào Nghệ An, Súy cùng với

Cảnh Dị bỏ chạy, làm cho Dung thân cô thế cô, không có quân viện trợ, bèn

ra biển trốn đi…

Đến tháng 11 năm 1413, nhà Trần hoàn toàn rơi vào tay nhà Minh.

Nguyễn Xí bị đuổi chạy đến miền đất Xiêm man và bị Trương Phụ bắt. Trên

đường bị giải về Yên Kinh, quyết không hàng giặc nhưng cũng không chọn

cách kết thúc như vua Trùng Quang, ông tìm kế làm thân (bằng cách hằng

ngày đánh cờ) với tên giám thủ và khi có điều kiện thuận lợi bèn lấy bàn cờ

đánh chết hắn rồi mới tự vẫn.

Có thể thấy, hình tượng Nguyễn Xí trong lịch sử được ghi chép lại với

nhiều công trạng, lắm mưu nhiều kế ngay cả khi nằm trong tay kẻ thù. Thế

nhưng, trong Trùng Quang tâm sử, hành động của Nguyễn Xí được Phan

Bội Châu mô tả phảng phất hơi hướng của những người anh hùng “thảo

dã”Lương Sơn Bạc trong tác phẩm Thủy hử của Thi Nại Am. chẳng hạn bạn

bị bắt thì dẫn anh em đến phá nhà ngục, cứu người ra và lẩn tránh vào trong

núi, vui lòng sống một cuộc sống ẩn dật và tập trung hào kiệt khắp nơi chờ

thời cơ thuận lợi tiến hành khởi nghĩa. Đây là một chi tiết không có thật

trong cuộc đời của Cương quốc công Nguyễn Xí. Qua đó, Phan Bội Châu đã

mang đến cho nhân vật một sinh khí mới, một cách nhìn mới: “tôi chả giỏi

gì, tôi chỉ là một người vũ phu có sức khỏe, phàm gặp những việc nước lửa

tên đạn, tôi xin đi trước mọi người để báo anh em. Anh em bảo tôi đi đâu là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tôi đi ngay” [75,48]

61

Nguyễn Xí còn tỏ rõ tài năng thu phục lòng người. Như cùng với Vân

tham gia một vụ “cướp người”, thấy một thanh niên tên là cu Chìm tự tử, Xí

đã cứu được và động viên cu Chìm làm việc cho nghĩa quân hoặc giả như

trường hợp Xí thuyết phục hai người thợ rèn trong cuộc “cướp người”…

Công trạng là vậy nhưng do vua Trùng Quang mất vì nạn nước, rồi

nhà Trần mất, nên cuối cùng Nguyễn Xí: “bèn làm bực vĩ nhân đệ nhất của

triều Lê” [75,129].

Bằng tài năng dụng ngôn ngữ của Phan Bội Châu, Nguyễn Xí trong

Trùng Quang tâm sử từ nguyên mẫu lịch sử trở thành một hình tượng nghệ

thuật có những nét độc đáo riêng, có tính cách, phẩm chất đáng trọng và

những hành động phi thường. Nhân vật Nguyễn Xí được vận động theo tư

duy sáng tạo nghệ thuật của nhà văn một cách khách quan, nhưng không

giảm đi tính chân thực của nhân vật trong lịch sử.

Nhân vật Ông Võ xuất thân từ người làng chài, có sức khỏe và tài bơi

lội phi thường “làm nghề chèo đò, chở thuyền như bay. Làm được bao nhiêu

tiền đều mua rượu uống, cậy sức tự hùng,… những việc người ta không dám

làm, mà nhờ ông làm, ông đi trước ngay không tính toán gì hết” [75,68-69].

Nhưng khi gặp được anh Tinh giảng giải động viên, ông đã như tìm thấy lý

tưởng mới, ánh sáng mới, cuộc đời mới, ông thốt lên rằng: “Tôi bây giờ mới

thoát thai mà đẻ vào cõi người”.

Hay những người làm thợ thủ công, cụ thể là thợ rèn như anh Vân, anh

Mục (làng Cát Ngạn) vốn là người lao động vất vả, xuất thân từ tầng lớp dưới

luôn mang phẩm chất sẵn có của người nông dân Việt Nam: cần cù, chăm chỉ,

yêu nước và tinh thần cách mạng khi có người mở đường dẫn lối.

Trùng Quang tâm sử cũng xây dựng rất thành công những người anh

hùng là thanh niên, phụ nữ. Thanh niên đầu thế kỷ không phải là những người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

rên rỉ với “tình non nước” trước cảnh “bức địa đồ rách”. Họ quyết đem tâm

62

huyết, tính mạng của mình để chuộc lại non sông, điển hình như: anh Phấn,

anh Tinh, anh Phúc, anh Hạnh, anh Thắng, anh Kiên… mỗi nhân vật đều có

hoàn cảnh riêng, số phận riêng nhưng điểm chung là lòng căm thùa giặc, yêu

nước và muốn đánh giặc cứu nước.

Cũng xuất thân là nông dân lao động vất vả, một nắng hai sương, anh

Hạnh “trạc chừng 20 tuổi, mặt đen như sắt”. Là một thanh niên khỏe mạnh,

chăm chỉ mà thành quả lao động sau bao ngày vất vả làm lụng chỉ là những

gánh lúa: “Nhịn ăn bán đi, những mong để đưa về gây dựng gia thất. Hạnh

phúc đời tôi bắt đầu ở đấy. Tưởng bán được lúa, có tiền, rồi đây tôi sẽ có vợ,

có con, cha mẹ tôi sẽ có con dâu, có cháu” [75,58]. Thật không may anh lại

gặp quan Tuần Kiểm, bị lính giữ lại đòi lấy lúa cho ngựa của quan ăn. Anh

không chịu. trong lúc nóng giận anh đã đánh chết ngựa. Hậu quả là chúng bắt

anh đền ngựa, trong ba ngày không có anh sẽ bị giết, đúng là giữa phúc và

họa chỉ cách nhau trong gang tấc, tưởng rằng sắp có vợ, có hạnh phúc gia

đình vậy mà anh lại phải cận kề ngay cái chết. Người nông dân ngay cả là

người thanh niên sức dài vai rộng, chăm chỉ khỏe mạnh cũng bị quân giặc ức

hiếp quá quắt, không còn công lý gì nữa. Chính trong hoàn cảnh như vậy càng

khiến cho người thanh niên này sục sôi lòng căn thù lũ giặc cướp nước.

Ba anh em: anh Tinh,anh Phấn, anh Lực được xuất hiện trong hoàn

cảnh khá độc đáo khi “quốc gia chúng ta bị bạo lực đè ép, tính mệnh bị rẻ

rúng như cỏ rác, chó lợn”. Tên Thừa tuyên sứ ở Nghệ An cho người treo một

đôi giày trước cửa chợ bắt dân ta đi qua phải làm lễ ba quỳ chín khấu vì đôi

giày này là đại biểu của Ngô hoàng. Bao nhiêu người chịu nhục, duy chỉ có ba

anh em Tinh, Phấn, Lực không chịu khuất phục quỳ trước giày nên bị bắt,

mắc tội làm giặc chờ ngày xét xử. Nếu như hầu hết dân ta đều không dám

chống lại sự bất công, vô lý mà giặc đưa ra, vì sợ uy thế, quyền lực và sự tàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ác của chúng. Thì trong bóng đêm mù mịt ấy xuất hiện ba đốm sáng bỗng

63

bùng cháy mạnh mẽ như sự phản kháng lại sự kỳ thị, xúc phạm của giặc đối

với dân tộc ta. Không chỉ đè nén, bóc lột dân ta về mặt vật chất như “sưu cao,

thuế nặng” mà chúng còn nghĩ ra những thủ đoạn ép buộc, xúc phạm dân ta

về mặt tinh thần khiến cho dân ta khổ sở đủ đường.

Bên cạnh những trang nam nhi thời loạn người thanh niên yêu nước

đầy nghĩa khí, Trùng Quang tâm sử của Phan Bội Châu còn mang đến ba hình

tượng người phụ nữ anh hùng khiến bao người ngưỡng mộ thán phục.

Chí, Liên, Triệu – ba người phụ nữ điển hình đại diện cho giới phụ

nữ bước vào Trùng Quang tâm sử mang theo vẻ đẹp truyền thống và vẻ đẹp

lý tưởng của thời đại. Những trang đầu của cuốn tiểu thuyết đã đưa đến với

độc giả hình ảnh cô Chí trên con đường tìm đến với cách mạng. Để thực

hiện được lý tưởng, Chí đã tự đi tìm những người đồng cừu. Con đường đi

của Chí không hề đơn giản. Biết bao khó khăn, trở ngại ngăn cản bước

chân cô. Nhưng người con gái ấy đã vượt qua tất cả, cô đã từng giả dạng

làm người ăn mày, bôi lấm lem mặt mũi để tìm người có chí. Tìm được

người có chí rồi, vẫn chưa hết thử thách đối với cô. Khi Đảng Trùng Quang

chưa tin mình, Chí đã đập đầu vào đá, máu chảy lênh láng để tỏ rõ chí khí

và lòng nhiệt thành của mình đối với lý tưởng. Trước hành động coi cái

chết nhẹ như lông hồng của Chí và nhất là sau khi nghe Phấn kể về lại lịch

của đời cô, bốn mươi chín thành viên của hội Trùng Quang đều giơ tay

nhất trí “xin mời vào Đảng!”.Từ ngày nhập hội, Chí đã tỏ rõ lòng mình

bằng cách hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Bất kể việc gì dù lớn

hay nhỏ, dù dễ dàng hay khó khăn. Không có lòng say mê thực sự, người ta

khó có thể làm được điều đó. Từng bước một Chí, Liên, Triệu đã khẳng

định vai trò, ý nghĩa của mình trong xã hội. Nam hay nữ đều là chủ nhân

của đất nước, mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau nếu nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

có cái chí khí, sự quyết tâm và lòng nhiệt thành đối với lý tưởng thì phụ nữ

64

cũng có, thậm chí chẳng thua kém gì nam giới nữa kia “chị em ta may được

làm người tai mắt đầu óc hỏi có kém gì đàn ông? Những sự nghiệp anh

hùng có phải chỉ một mình đàn ông làm được mà thôi đâu? (…). Người ta

chỉ sợ không có chí nếu có chí khí thì đàn bà chẳng thua gì đàn ông”. Bằng

lời nói, và quan trọng hơn bằng hành động, bằng những công việc cụ thể

của mình, họ đã khiến những người khác giới xóa nhòa danh giới cuối cùng

của sự phân biệt nam nữ. Việc gì đàn ông làm được thì họ cũng làm được.

Ta thấy Chí lăn lộn vất vả cùng Tinh đi khắp nơi làm vận động viên, tìm

người có tài và thuyết phục họ vào Đảng. Cô Chí căm thù giặc vì chúng

khiến gia đình cô khuynh gia bại sản, cha bị bắt oan và chết thảm, cô

không còn ai thân thích. Cô Chí theo gót bà Triệu xưa, không cam tâm làm

tì thiếp cho giặc Ngô, bỏ nhà đi tìm bạo đồng cừu báo thù cho cha, rửa

nhục cho nước nhà. Cô bôi mặt giả làm người ăn xin rách rưới đi khắp nơi

tìm đồng chí, lúc chưa được tin tưởng cô phẫn nộ: “Tôi vẫn tưởng trong

đời này, không có ai là người đáng làm bạn. Nghe nói các ông đây đều là

anh hùng, tôi cho rằng con mắt hẳn không kém, nên tôi mới đánh bạo đến

đây. Nay đã vậy thì tôi xin chết ở đây. Đàn người lúc nhúc kia, đều là tôi tớ

của chó Ngô, tôi còn biết sống với ai nữa. Liền đập đầu vào đá”[75,41]. Cô

luôn có quyết tâm bằng mọi cách phải lấy được đầu tên Thừa tuyên sứ để trả

thù nhà mà lớn hơn là đền nợ nước.

Hay cô Triệu và cô Liên cũng là những nữ anh hùng mang trong mình

lòng căm thù giặc khát khao cứu nước. Cô Triệu là cô hát đào nổi tiếng sớm

chứng kiến nỗi nhục của các chị em cùng cảnh, từ đó mà tìm cách thoát khỏi

nơi ô nhục. Được tham gia vào hội Trùng Quang cô lập tức trở thành cánh tay

đắc lực, không nề hà khó khăn sẵn sàng tạo mọi điều kiện cho hoạt động của

Đảng cả về vật chất, địa điểm hoạt động chỉ mong rửa nhục cho chị em phụ

nữ nói riêng và nhân dân ta nói chung. Cô Triệu mong “được cái phúc tày trời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là nhìn thấy kết cục ghê gớm của giặc Ngô thì tôi chết mới nhắm mắt được”.

65

Cô Liên là con nhà gia thế, gia đình tan nát vì quân giặc, một thân một mình

khoác áo cà sa nhưng vẫn nung nấu “mối thù nhà nợ nước”.

Những nhân vật nữ anh hùng như cô Chí, cô Triệu, cô Liên đều là

người sống có lý tưởng, có ý chí đấu tranh, một tấm lòng nhiệt thành vô bờ

bến, không chịu cúi đầu cam chịu nhẫn nhục. Với tấm lòng nhiệt thành, theo

Phan Bội Châu chính là “đầu mối của chủ nghĩa anh hùng”. Trong con người

ba nữ anh hùng này đã có sự kết hợp vẻ đẹp hết sức độc đáo, riêng biệt của

nhân vật nữ trong sáng tác của Phan Bội Châu. Qua đây tác giả muốn gửi gắm

một quan điểm rằng: tất cả mọi người không kể già hay trẻ, gái hay trai đều

có thể là anh hùng. Nước Nam sẽ chẳng thiếu những anh hùng mà trước đây

bị coi là “liễu yếu đào tơ” chỉ biết an phận với chữ “tòng”. Như những cánh

chim xổ lồng, giới nữ sẽ được tung cánh trên bầu trời cao rộng để khẳng định

sức mạnh, vai trò của mình trong xã hội mà chính họ đã thể hiện được rất rõ

tầm quan trọng của mình.

Lí tưởng yêu nước của người dân Việt Nam được xuất phát một cách tự

nhiên khi bản thân phải chịu cảnh áp bức hoặc chứng kiến tận mắt tội ác dã

man của giặc. Ông Chân vì chứng kiến cảnh bất bình khi lũ giặc coi rẻ tính

mạng dân ta, coi mạng người không bằng con ngựa. Từ đó ông luôn dồn nén

lòng căm thù giặc thành lý tưởng yêu nước thể hiện qua hành động cứu nước

cụ thể. Ông Chân sẵn sàng lập mưu và dâng con lợn nhà mình để thực hiện ý

đồ giết tên quan Tuần kiểm. Hay ông Võ cũng có lòng căm thù giặc sẵn sàng

đổi tính mạng mình để lấy tự do, khảng khái nói rằng: “Quân Ngô là kẻ thù

chúng ta. Các người nếu làm được việc ấy thì dù có mượn đầu tôi, tôi cũng

cắt cho mà mượn”.

Trước những tội ác dã man của giặc, người Việt Nam phải nhất loạt

đứng lên đánh đuổi kẻ thù. Phan Bội Châu đã khái quát nỗi nhục mất nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một cách điển hình, trong văn học Việt Nam đến giai đoạn này chưa có một

66

tác phẩm nào lại thấm đẫm nỗi nhục mất nước như vậy, theo lời của cô Triệu:

“con chó của nước mạnh còn sung sướng hơn con người nước yếu”.

Phan Bội Châu coi yêu nước thương nòi là một phẩm chất tự nhiên của

con người, phân biệt con người với con vật. Vì vậy, tất cả các nhân vật chính

diện trong “Trùng Qung tâm sử” đều lấy lý tưởng cứu nước làm lý tưởng

sống, làm động lực thúc đẩy mọi hành động yêu nước của chình mình. Bất kể

ai yêu nước thì đều thấu hiểu nỗi nhục mất nước, cảnh quê hương mình bị dày

xéo, nhân dân đồng bào mình bị làm nhục, đau khổ. Nỗi nhục mất nước ấ y

một khi được thấu hiểu từ lòng yêu nước thì không có lý gì nó lại không vùng

lên đấu tranh tìm cách rửa nhục, đánh đuổi giặc ngoại xâm giành lại sự công

bằng cho dân mình.

Trong quan điểm về lí tưởng anh hùng yêu nước của Phan Bội Châu đã

có nhiều diển tiến bộ hơn Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và Lục

mơ của quần chúng nhân dân, nhưng sức mạnh của Từ Hải hầu như không

ảnh hưởng, liên quan trực tiếp tới quần chúng. Còn Lục Vân Tiên tuy có quan

hệ gần gũi hơn với quần chúng như: Tiểu Đồng, ông Quán, ông Ngư, ông

Tiều nhang hành động vẫn mang tính cá nhân. Vậy nên có ý kiến đánh giá:

“Nếu Từ Hải, Lục Vân Tiên hiện ra giữa cuộc đời như một ngôi sao sáng giữa

đêm tối không sao, thì những anh hùng của Phan Bội Châu là những ngôi sao

sáng hơn nằm giữa bầu trời đầy sao” (tạp chí văn học số 12 – 1967). Đọc

“Trùng Quang tâm sử” ta thấy ai cũng say xưa cố gắng hoạt động vì sự

nghiệp cứu nước nhà. Nhiều con người, nhiều trái tim, nhiều khối óc nhưng

tất cả đều có mục đích chung. Nói như ông Xí: “Ngày nay dòng họ khác đang

giày vò đất nước ta rất lầm than khổ cực, thì mục đích cuối của bậc trượng

phu là phải làm cách mạng”.

Khi Tổ quốc cần người anh hùng sẵn sàng hi sinh thân mình không một

chút băn khoăn do dự “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đối với họ niềm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hạnh phúc là được cống hiến cho đất nước cho cuộc đời, ngay cả khi họ chưa

67

biết gì về nghĩa “quốc gia”, “đồng bào”. Đến khi được giác ngộ thì những

anh hùng này càng nhiệt tình hăng hái dẫu có phải “cắt đầu” thì họ cũng cắt

cho mà mượn”. Thậm chí có người trước đây chưa hiểu vai trò của việc cứu

nướ c nhưng khi được tuyên truyền, giác ngộ thì họ sẵn sàng đi theo làm cách

mạng, như lời của anh Vân thợ rèn làng Cát Ngạn “Thợ làng chúng tôi đều

người thôn quê, thẳng thắn, gan dạ, xem quân giặc như rắn rết. Nếu có chỗ

để theo mệnh lệnh thì kêu một tiếng họ sẽ đến hết, có phải một mình tôi đâu”

[75,57]. Khi đã hiểu được trách nhiệm lớn lao đối với đất nước thì họ hăng

hái thực hiện chỉ mong sao “rửa được nhục cho giang sơn, gây được hạnh

phúc cho nhân dân”.

Lí tưởng yêu nước luôn là kim chỉ nam để định hướng cho những

người yêu nước trong mọi hành động. Lòng nhiệt tình đã thôi thúc họ cứu

nướ c là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất người anh hùng cứu nước. Điều này

hoàn toàn đúng bởi không có lòng nhiệt tình hăng hái thì làm sao dẫn tới

thành công? Tuy nhiên nhiệt tình hăng hái mà mù quáng thì cũng là con

đường ngắn nhất dẫn đến thất bại. Và con đường hoạt động cách mạng của

Phan Bội Châu cũng đi theo lối đó ông đề cao lòng nhiệt tình mà quên đi các

yếu tố khác, đặc biệt là sai lầm khi không có phương pháp cách mạng đúng

đắn nên kết quả là sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã thất bại. Đúng

như Đặng Thai Mai đã nhận định: “Phan Bội Châu có một quả tim yêu nước

nồng cháy nhưng vì thiếu một khối óc sáng suốt tương xứng để dẫn đường

cho nên vẫn thất bại”.

Dù thất bại dở dang nhưng chất men yêu nước nồng cháy trong Phan

Bội Châu không bao giờ tắt , hơn nữa nó đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm

quý báu cho thế hệ sau. Tiêu biểu là lòng yêu nước của Phan Bội Châu đã tác

động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm và con đường hoạt động cách mạng lớp

con cháu tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó Phan Bội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Châu để lại bức tranh khá trọn vẹn về vẻ đẹp, tính cách, phẩm chất người anh

68

hùng yêu nước đầu thế kỷ XX, ngòi bút của ông đã kết tinh được những gì

tinh hoa nhất giai đoạn đương thời qua tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử.

3.2.2. Hư cấu sự kiện

Phan Bội Châu viết tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử nhằm tập trung

miêu tả cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Trần Quý Khoáng thời Hậu

Trần, nhằm chống lại sự tàn bạo, hà khắc của quân Minh. Tác phẩm đã phản

ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước. Có những sự kiện lịch sử

mang tính chất “chính sử” như: sự kiện quân Minh xâm lược nước ta đánh

chiếm các tỉnh Quảng Bình, Thuận Hóa và Thăng Hoa, đáng thành Thuận

Hóa, đánh thành Ngệ An. Một số sự kiện mang tính chất “dã sử” như: Nguyễn

Xí giả vờ làm con bạc để bắt tên quan huyện Đông Thành; Nguyễn Cảnh

Chân, Nguyễn Xí cùng với nghĩa quân Trùng Quang mở tiệm rượu, lập mưu

kế bắt tên quan hộ giải,…

Tác giả tập trung miêu tả các sự kiện lịch sử liên quan đến trận chiến.

Thông qua đó làm nổi bật tài năng sử lý các tình huống cũng như về mưu lượ c

quân sự nhằm đề cao vai trò của các nhân vật như: ông Xí, ông Chân, ông

Khoáng, cô Triệu, cô Liên, cô Chí , ông Võ, ông Kiên,…

Chẳng hạn như trận đánh chiếm hai châu Tương Qùy được tác giả

miêu tả khá ấn tượng, độc giả có thể hình dung rõ một quang cảnh, không khí

hết sức khẩn trương, hồi hộp và những tình huống bất ngờ, thú vị. Nhờ sự

lãnh đạo, sắp xếp tài tình của ông Châu, quân ta chuẩn bị đầy đủ lực lượng,

tập hợp tướng sĩ, binh khí, trang bị, phương tiện để chiến đấu nhưng lại giả

làm thương buôn. Kế sách tài tình đó đã khiến cho quân địch không kịp trở

tay và kết quả là quân ta dành được thắng lợi, chiếm được châu Tương Qùy,

đánh úp cả hai huyện Thanh Chương và Hương Sơn. Lần lượt những thành

trì của quân Minh đều rơi vào tay quân ta, còn những thổ binh của các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

huyện giết chết tất cả bọn quan lại, về với nghĩa quân Trùng Quang.

69

Trong nghệ thuật miêu tả các sự kiện, Phan Bội Châu đặc biệt chú ý

miêu tả không khí căng thẳng, gấp gáp, quang cảnh khẩn trương của những

trận chiến. Không khí ấy được hình thành từ cả hai bên trước khi giao

chiến. Quân ta chiếm xong thành Thuận Hóa, chuẩn bị tiến đánh Hoàng

Sơn. Bọn Xí đem đại quân tiến về phía Hoành Sơn, cử Chân làm tham mưu

trưởng. Với vai trò của mình, ông Chân cho tiến hành xây thành đắp lũy

kiên cố để chiến đấu: “Ở nơi của quan thì sắp đá làm lũy dài, hai bên tả

hữu … thì xây hai dinh lớn làm hai cánh tả hữu … cách ngoài cửa quan

chừng mười dặm đắp một lũy nhỏ, có lầu vọng viễn” [75,109]. Những đội

tinh binh hùng hậu được sắp xếp, cắt đặt nhiệm vụ của từng người một

cách chặt chẽ, hợp lý. Ngoài ra, ông còn cử ra một đội quân nhử giặc, lấy

thua làm chính. Với ba vạn cả người lẫn ngựa, quân minh tưởng lực lượng

quân ta ít và yếu nên khinh thường, nóng nảy, ra sức truy đuổi và đã rơi

vào bẫy của nghĩa quân Trùng Quang. Thời cơ ngàn vàng đã đến, quân ta:

“xông ra, đánh trống, reo hò, hăm hở xông tới, khi mạnh gấp trăm phần”

[75,113]. Không khí hỗn loạn đó làm quân Ngô vô cùng hoang mang,

không biết quân ta ít hay nhiều, tạo điều kiện cho quân ta bao vây toàn bộ

quân địch. Mưu kế hết sức uyển chuyển, linh hoạt, sáng suốt của ông Chân

và tài chỉ huy quân sự của ông Xí, cùng với sự đồng tâm hiệp lực của toàn

nghĩa quân đã làm cho quân Minh thất bại một cách thảm hại : “Quân giặc

hoảng hốt, tranh nhau cướp đường mà chạy … Quân giặc hồn bay phách

rụng, vứt bỏ giáo gươm, giày xéo lên nhau mà chết. Thây xác bừa bãi, máu

me đỏ đường lênh láng. Lương thực và khí giới của giặc bỏ lại đầy hang lấp

suối, đội quân của Chân thu nhặt không biết bao nhiêu mà kể”[75,113].

Bên cạnh Nguyễn Cảnh Chân – một nhà quân sự tài ba, còn có sự

góp sức của các dũng tướng Nguyễn Xí, Đặng Dung cùng với nghĩa quân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trong những tình huống khó khăn của nghĩa quân Trùng Quang, Chân, Xí,

70

Khoáng, Võ,… tỏa sáng tài năng quân sự thiên bẩm; Đặng Tất, Đặng Dung

dốc sức, dốc lòng; cô Chí, cô Triệu, ông kiên… tràn đầy nhiệ t huyết .

Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử là một “tờ chứng” khung cảnh lịch

sử đời sống của nhân dân Việt Nam trong thời kì mất nước vào khoảng

cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV. Qua hai mươi chương sách, đều là những

màn cảnh sinh động, thổ lộ hết mọi nỗi nhục nhã đau đớn của cả một dân

tộc đang quằn quại dưới gót giầy tàn bạo của quân thù. Nhưng tập “tâm

sử”, này không hề có ý vị một pho “lệ sử”. Thế hệ thanh niên nhà nho yêu

nước đầu thế kỷ này không phải chỉ là những con người ngồi rên rỉ với

“tình non nước” trước cảnh “bức dư đồ rách”. Họ đã quyết đem tâm huyết,

đem tính mạng mà chuộc lại non sông Tổ quốc. Truyền thống yêu nước,

căm thù giặc ngoại xâm của dân tộc ta như “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt chiều

dài lịch sử của dân tộc “…nòi giống anh hùng, hậu thân anh hùng chính là

chúng ta…” sau khi nhắc lại công cuộc chống nhà Minh của “tổ tiên ta

nuôi chí căm hờn, diệt thù rửa nhục…" khôi phục lại quyền chủ nhân sẵn

có từ lâu, thì tác giả nói thêm ngay: “để lại giang sơn cho chúng ta ngày

nay” và “chúng ta sao có thể quên được”.

Không dừng lại ở việc nhắc lại những truyền thống quý báu vốn có

từ lâu đời Phan Bội Châu còn đề cập đến rất nhiều vấn đề mới mẻ, tiến bộ

như vai trò của người phụ nữ, dân chủ, dân quyền, mối quan hệ giữa thời

đại và người anh hùng…

Lấy đề tài từ những sự kiện có thật trong lịch sử dân tộc được nhà văn

thêm bớt, hư cấu nhằm phục vụ mục đích chính trị của mình. Trong tác

phẩm ta bắt gặp rất nhiều nét tương đồng với hiện thực lịch sử như tên

nhân vật, địa điểm hoạt động, chương trình cách mạng…

Về chương trình của các nhà cách mạng trong công cuộc vận động

chống quân Minh ở đây cũng na ná như chương trình cách mạng của Phan

Sào Nam khi ông chuẩn bị sáng lập ra Duy Tân Hội. Để thấy rõ vấn đề này

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ta cùng so sánh một số đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm với kế hoạch

71

cách mạng của Phan Bộ i Châu , giữa sự kiện cuối cùng qua câu chuyện

“bình Ngô” của tổ tiên để kí thác câu chuyện của thời đại .

“Chúng ta bất luận thế nào, cốt lấy quang phục Tổ Quốc làm mục đích

duy nhất. Thời kì đầu sẽ là thời kì vận động, sau đó là thời kì tiến hành, cuối

cùng là thời kì kiến thiết. Thời kì cuối này là sau khi quang phục thành công.

Khi đó sẽ có người kế chúng ta lo liệu. Chúng ta chỉ duy hết sức lo toan làm

hai thời kì trên, xin anh em chỉ giáo cho” [75,47-48]. “… Bây giờ trước tiên

cần phải sắp xếp ngay hai việc:1. Địa điểm nhóm họp; 2. Các món kinh phí

để khởi sự” [75,48-49].

“… Chúng ta chỉ biết hết nghĩa vụ với Tổ quốc, giống nòi, ngoài ra

không có gì gọi là danh vị cả. Nhưng đã kết một đoàn thể, tất phải có một

người tổng đại diện mới được. Khoáng đời đời làm thổ hào, lại dòng dõi nhà

vua, mọi người đều trông ngóng vào, xin cử ông Khoáng làm trại chủ, gặp có

sự cần phải giao thiệp, hay mệnh lệnh gì trạ i chủ đương lấy” [75,49].

Đối chiếu với ba kế hoạch lớn của Phan Bội Châu, Ngư Hải và các

đồng chí đã bí mật trù tính và những tay tráng kiện ở sơn lâm, xướng khởi

nghĩa binh, mục đích đánh giặc, mà thủ đoạn là bạo động.

2. Tìm lấy một người trong hoàng thân lập làm minh chủ, rồi ngầm liên

kết với những người có thế lực lúc bấy giờ để họ giúp đỡ, lại tập hợp các

người trung nghĩa ở Trung, Bắc Kì, cùng nhau khởi sự.

3. Thi hành hai kế hoạch trên nếu lúc nào cần đến ngoại viện, thì phái

người xuất dương cầu viện. Mục đích cốt sao khôi phục được nước Việt Nam,

lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác cả”.

Xét toàn bộ chương trình hoạt động, chúng ta thấy quả thật na ná giống

nhau. Phan Bội Châu đã làm sống lại không khí sục sôi, khí thế tiến công của

cuộc khởi nghĩa chống quân Ngô của nghĩa quân Trùng Quang, với nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

diễn biến bất ngờ, hấp dẫn. Tác giả đã để ngòi bút của mình tự do miêu tả các

72

sự kiện cuốn theo dòng cảm xúc trào dâng mãnh liệt, mang lại cho người đọc

những cảm giác sảng khoái, hào hứng.

KẾT LUẬN

1. Trùng Quang tâm sử là cuốn tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ

Hán của Phan Bội Châu. Cuốn tiểu thuyết ra đời khi cánh cửa văn học trung

đại Việt Nam bắt đầu đóng lại. Phan Bội Châu đã dựng lại bức tranh toàn

cảnh nước ta trong giai đoan quân Minh xâm lược ở thế kỷ XV. Đây là thời

kỳ Trần Quý Khoáng lãnh đạo nhân dân chống quân Minh xâm lược thời Hậu

Trần. Với tài năng sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã đem đến cho người đọc

những giây phút hồi hộp, gay cấn. Thông qua đó tác giả đã thổi vào độc giả

ngọn lửa yêu nước truyền thống và niềm tự hào dân tộc trong quá trình đấu

tranh bảo vệ Tổ quốc. Những giá trị mà cuốn tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử

mang lại đã khẳng định sự hoàn thiện và phát triển vượt bậc của thể loại tiểu

thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam nói riêng và văn học trung đại nói chung.

2. Điểm đặc biệt trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử là lấy sự kiện

lịch sử và các nhân vật lịch sử làm lõi trung tâm. Nhưng bằng tài năng sáng

tạo nghệ thuật hư cấu và tưởng tượng Phan Bội Châu đã làm cho các sự kiện

trong lịch sử trở nên sống động hơn, linh hoạt và lôi cuốn hơn. Đồng thời

Phan Bội Châu đã khai thác những yếu tố mà trong lịch sử ít chú ý như những

yếu tố về ngoại hình, tính cách, hành động, ngôn ngữ,. Chính sự khác biệt này,

đã làm cho tác phẩm trở thành một thứ men say quyến rũ các thế hệ độc giả.

3. Để tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục cao đối với độc giả, Phan Bội

Châu đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật đặc sắc trong quá trình xây dựng

tác phẩm đặc biệt là nghệ thuật tự sự với những thành phần như không gian,

thời gian, sự kiện, nhân vật… nhờ đó, tạo nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.

4. Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mở ra những phương diện mới, từ đây ta có cơ sở để nghiên cứu nghệ thuật tự

73

sự trong tiểu thuyết chương hồi chữ Hán Việt Nam (Hoàng Lê nhất thống chí,

An Nam nhất thống chí…)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1996), “Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương pháp

luận nghiên cứu”, Tạp chí Văn học, (2)

2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học (tái bản), Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

3. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển

chọn và dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái “kỳ” trong tổ chức nghệ thuật Tam quốc chí diễn

nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, (3).

5. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển

Trung Quốc”,Nghiên cứu Văn học, (9).

6. Lưu Văn Bổng (2004), “Tình hình viết văn học sử so sánh ở một số nước

những năm gần đây”, Nghiên cứu Văn học, (9).

7. Phan Bội Châu (1971), Trùng Quang tâm sử (tiểu thuyết) (Ngô Văn Bách

dịch, Tôn Quang Phiệt hiệu đính, Đặng Thai Mai giới thiệu), Nxb Văn học

Hà Nội.

8. Phan Bội Châu (2005), Trùng Quang tâm sử, không trung duyên (Tiểu

thuyết luận đề) (Trần Lê Hữu – Trần Minh Châu dịch), Nxb Nghệ An -

Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.

9. Phạm Tú Châu (1979), “Đọc lại Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí Văn

học, (2).

10. Phạm Tú Châu (1981), “Đọc văn bản Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn học, (2).

74

11. Phạm Tú Châu (1997), “Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết

Hán Nôm ở nước ta”, sách: Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Nguyễn Huệ Chi (1967), “Phan Bội Châu, nhà văn”, Tạp chí Văn học, (12)

13. . Nguyễn Huệ Chi – Vũ Thanh (1996), “Những đóng góp của Nguyễn Tử

Siêu cho loại hình tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỷ”, Tạp chí Văn

học, (5)

14. Nguyễn Phương Chi (1979), “Trùng Quang tâm sử hay là hình ảnh cuộc

kháng chiến chống Trung Quốc xâm lược của quân dân nhà Hậu Trần qua

con mắt một sĩ phu chống Pháp”, Tạp chí Văn học, (5).

15. Nguyễn Phương Chi (1980), “ Tiểu thuyết Trùng Quang tâm sử nghĩ về đề

tài lịch sử chống Trung Quốc xâm lược qua một số sáng tác hiện ”, Tạp

chí Văn học, (4).

16. Nguyễn Đình Chú (1967), “ Tìm hiểu quan niệm anh hùng của Phan Bội

Châu, Tạp chí Văn học, (12)

17. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống

chí”, Tạp chí Văn học, (4).

18. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

19. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung

Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Phan Cự Đệ (1974), T iểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

22. Biện Minh Điền (2005), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung

đại Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, (4).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

23. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

75

24. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Trọng Đức (1965), “Về tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học, (2).

26. Trọng Đức (1968), “Hình tượng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm

văn học cổ Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (1).

27. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết

chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Nghiên cứu Văn học, (6).

28. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ

điển thuật ngữ văn học (tái bản) , Nxb Giáo dục, Hà Nội.

30. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc

đến tiểu thuyêt cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.

31. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học

Việt Nam thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Văn học, (4).

32. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - ký – tiểu thuyết

chương hồi”. Tạp chí Hán Nôm. (3).

33. Đoàn Hương (1996), “Thử giải mã văn học Việt Nam theo tinh thần văn

hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông”, Tạp chí Văn học, (3).

34. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,

Nxb Văn học, Hà Nội.

35. Đặng Thanh Lê (1984), “Một nhân cách lịch sử và sự phản ánh giai đoạn

trưởng thành của ý thức dân tộc thời kì trung đại”, Tạp chí Văn học, (6).

36. Đặng Thanh Lê (1992), “Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong

mối quan hệ với khu vực”, Tạp chí Văn hoc, (1).

37. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư (tái bản), Tập 1 (Cau Huy Giu

dịch), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

38. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư (Tái bản), Tập 2 (Cau Huy Giu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dịch), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

76

39. Nguyễn Lộc (2005), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ

XIX, (Tái bản), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Bùi Văn Lợi (1996), “Nguyễn Tử Siêu và những đóng góp của ông cho

văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX ở loại hình tiểu thuyết lịch sử”, Thông

báo khoa học của các trường đại học.

41. Bùi Văn Lợi (1997), “Nét độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người

của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945”, Thông báo khoa

học, (5), Trường đại học sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội.

42. Bùi Văn Lợi (1997), “Đóng góp của tiểu thuyết lịch sử Trùng Quang tâm

sử vào quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX”, Thông

báo khoa học, (2), Trường Đại học sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Bùi Văn Lợi (1998), “Về tiểu thuyết lịch sử ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX”, Thông tin khoa học xã hội, (1), Trung tâm khoa học xã hội và nhân

văn quốc gia.

44. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu

nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí

Văn học (9)

45. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1987), Lý luận văn học, Tập

3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Phương Lựu (Chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Tập 1, Nxb Đại học sư

phạm Hà Nội.

46. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ ba), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

47. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung

đại Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

48. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học (tái bản lần thứ ba), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

49. Đặng Thai Mai (1958), Văn thơ Phan Bội Châu, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

77

50. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, tập 3,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Trần nghĩa (chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tập

1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

53. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, danh mục và phân

loại”, Tạp chí Hán Nôm, (3).

54. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ

thuật”, Tạp chí Hán Nôm, (4).

55. Phạm thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Tái bản),

Tập 1, Nxb Đồng Tháp.

56. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

57. Vương Trí Nhàn (sưu tầm, biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

58. Vương Trí Nhàn (2003), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt

Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

59. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học

Trung Quốc – qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

60. Tôn Quang Phiệt (1967), “Một vài kỷ niệm về Phan Bội Châu”, Tạp chí

Văn học, (5).

61. Nguyễn Hữu Sơn (1988), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các

bước tiếp nối phát triển”, Tạp chí Văn học, (5).

62. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ điển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân tộc”, Tạp chí Văn học, (6).

78

63.Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung

đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (7)

64. Nguyễn Hữu Sơn (2003), Loại hình tác phẩm “Thiền uyển tập anh” (tái

bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Hữu Sơn (2004), “Thiền uyển tập anh – Tác phẩm mở đầu loại

hình văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại”, Sách: Tự sự học – một số

vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

66. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – quan niệm con

người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

67. Nguyễn Hữu Sơn (2011), “ Đặc điểm loại hình tác gia Văn học trung đại”

Tạp chí khoa học xã hội, (3).

68. Trần Đình Sử (Chủ biên) (1987), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

69. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

70. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

71. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, tập 1, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

72. Trần Đình Sử (2007), Tự sự học, tập 2, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

73. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

74. Trần Thị Băng Thanh – Lại Văn Hùng (Chủ biên) (2005), Tìm hiểu quan

niệm và sự hình thành dòng văn trongViệt Nam (thế kỷ VIII – nửa đầu thế

kỷ XIX), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

75. Chương Thâu (Sưu tầm và biên soạn) (2001), Phan Bội Châu toàn tập

(Tập 4), Nxb Thuận Hóa - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.

76. Chương Thâu - Trần Ngọc Vương (giới thiệu và tuyển chọn) (2003), Phan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bội Châu – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

79

77. Nguyễn Đình Thi (2005), “Về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí”, Tạp

chí Văn học, (6).

78. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

79. Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX,

những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

80. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thông tin, Hà Nội.