®¹i häc quèc gia Hµ Néi
Tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
LƢỜNG THỊ ÁNH NGỌC
NGHỆ THUẬT VIẾT TIỂU SỬ NHÂN VẬT
TRONG THIÊN “NHÂN VẬT CHÍ” – LỊCH TRIỀU
HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ CỦA PHAN HUY CHÚ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Hà Nội – 2015
®¹i häc quèc gia Hµ Néi Tr êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
LƢỜNG THỊ ÁNH NGỌC
NGHỆ THUẬT VIẾT TIỂU SỬ NHÂN VẬT
TRONG THIÊN “NHÂN VẬT CHÍ” – LỊCH TRIỀU
HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ CỦA PHAN HUY CHÚ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01 21
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS NGUYỄN KIM SƠN
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Kim Sơn. Đề tài không trùng lặp với bất cứ công
trình khoa học nào. Những vấn đề trình bày trong luận văn này là kết quả do chúng
tôi nghiên cứu, bảo đảm tính trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trƣớc
những luận điểm khoa học nêu ra trong công trình này.
Tác giả luận văn
Lƣờng Thị Ánh Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt hai năm trong
chƣơng trình đào tạo Thạc sỹ, dƣới sự truyền dạy, hƣớng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc
và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sƣ, Phó giáo sƣ, Tiến sỹ của Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Trƣớc tiên, tôi xin kính gửi đến các thầy,
cô lời cảm ơn sâu sắc về những tri thức và tình cảm mà thầy cô đã dành cho tôi
trong thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Kim Sơn, đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Nhân đây,
tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những bạn bè, đồng nghiệp – những ngƣời đã động
viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi, trong quá trình tiếp cận tƣ liệu để hoàn thành
luận văn.
Hà Nội, ngày 23 tháng 12 năm 2015
Lƣờng Thị Ánh Ngọc
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 3
1.Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 6
4.Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 7
5.Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 8
6. Bố cục của luận văn: ............................................................................... 8 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: TRUYỀN THỐNG CHÉP SỬ PHƢƠNG ĐÔNG VÀ TÁC PHẨM LỊCH TRIỀU HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ ........................................................................ 9
1.1. Truyền thống viết sử và ghi chép lịch sử của các nhà viết sử phƣơng Đông ........................................................................................................... 9
1.2.Tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí và thiên Nhân vật chí ......... 12
1.2.1. Cách hiểu về thể chí và tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí 12
1.2.2. Thiên Nhân vật chí ....................................................................... 20
1.3.Tƣ tƣởng sử học Nho gia của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí : ....................................................................................... 22 CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG VÀ CÁCH PHÂN LOẠI CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG THIÊN NHÂN VẬT CHÍ – LỊCH TRIỀU HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ ....... 26
2.1. Quan điểm chọn nhóm và mục đích phân loại nhân vật trong thiên Nhân vật chí .............................................................................................. 26
2.2. Hệ thống nhân vật .............................................................................. 29
2.2.1 Nhân vật dòng dõi chính thống các đế vương ................................ 29
2.2.2.Nhân vật người phò tá có công lao tài đức .................................... 36
2.2.3. Nhân vật tướng có tiếng và tài giỏi ............................................... 48
2.2.4.Nhân vật nhà nho có đức nghiệp ................................................... 53
2.2.5.Nhân vật Bề tôi tiết nghĩa .............................................................. 61 CHƢƠNG 3: CÁCH THỨC XÂY DỰNG TIỂU SỬ NHÂN VẬT CỦA PHAN HUY CHÚ TRONG THIÊN NHÂN VẬT CHÍ ......................................................................... 66
1
3.1. Xây dựng tiểu sử nhân vật gắn liền với các thủ pháp kể, tả, luận ........ 66
3.2.Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp sử học và bút pháp văn học .. 77
3.2.1. Tư tưởng văn sử triết bất phântrong văn học trung đại ................ 77 3.2.2.Sự thể hiện bút pháp sử học kết hợp văn học trong thiên Nhân vật chí - LTHCLC ........................................................................................ 80
3.3. Sử dụng bút pháp kì ảo để xây dựng tiểu sử nhân vật ......................... 89
3.3.1. Khái quát chung về văn học kỳ ảo ở Phương Đông ...................... 89
3.3.2. Bút pháp kì ảo trong thiên Nhân vật chí ....................................... 91 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 103
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử Việt Nam, Phan Huy Chú là cái tên đƣợc nhắc và đƣợc nhớ
đến nhiều nhƣ là một danh nhân văn hóa, nhà bách khoa thƣ văn sử địa nổi
tiếng. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá trị trong đó, nổi bật nhất
là bộLịch triều hiến chương loại chí(LTHCLC)gồm 49 quyển khảo cứu lịch sử
Việt Nam từ thời kì lập quốc đến cuối triều Lê. Trong Lịch Triều hiến chương
loại chí, nhiều vấn đề khác nhau về văn hóa, lịch sử, xã hội, địa lý…của Việt
Nam đều đƣợc đề cập đến nên khi nghiên cứu tác phẩm, ta có thể nghiên cứu
theo nhiều chiều, nhiều phƣơng diện.
Có thể nói,bên cạnh các tác phẩm văn học sử lớn của dân tộc nhƣ Đại
Việt Sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên hay Hoàng Lê nhất thống chí của các tác
giả họ Ngô thì LTHCLC là tác phẩm tiêu biểu cho sự hỗn hợp của tƣ duy văn
sử bất phân kéo dài và chi phối trong giai đoạn văn học trung đại. Các nhà
Nho học là các sử gia ghi chép lịch sử nhƣng cũng đồng thời là nhà văn, nhà
triết học, nhà tƣ tƣởng, nhà địa lý học… Một tác phẩm sử học nhƣng cũng
đồng thời là tác phẩm văn học, triết học, tôn giáo, địa lý….
Lịch triều hiến chương loại chí đƣợc coi là một bộ bách khoa thƣ, là tập
hợp của nhiều bộ môn khoa học khác nhau nhƣng cũng không nằm ngoài tƣ
duy chung của văn học trung đại. Có nghĩa là tự thân nó cũng mang trong
mình giá trị của nhiều ngành khoa học khác nhau trong đó có văn học. Chính
vì vậy, bên cạnh giá trị về sử học thì giá trị văn học của LTHCLC là một điều
không thể chối cãi. Giá trị này của tác phẩm là một vấn đề quan trọng cần
đƣợc quan tâm, nghiên cứu và đánh giá.
Nhƣ chúng ta đã biết, trong mƣời phần khác nhau của tác phẩm thì Nhân
vật chí là thiên quan trọng, nói về cuộc đời và sự nghiệp của các bậc đế
vƣơng, các danh tƣớng công thần, các nhà nho, các bậc bề tôi tiết nghĩa có
thật trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Hầu hết, khi nghiên cứu thiên này
3
trong tác phẩm, ngƣời ta chỉ nhìn thấy giá trị lịch sử trong cuộc đời của các
nhân vật đƣợc ghi chép lại mà chƣa chú trọng đến cách mà tác giả ghi chép lại
tiểu sử nhân vật nhƣ thế nào? Nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật của tác giả ra
sao? Đây cũng chính là giá trị văn học to lớn chƣa đƣợc nhìn nhận xác đáng.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu giá trị văn chƣơng của Lịch triều hiến chương
loại chí nói chung và của thiên Nhân vật chí nói riêng là điều cần thiết. Nó
cung cấp cho chúng ta những tri thức và cách nhìn mới mẻ về một tác phẩm
đƣợc coi là bộ bách khoa toàn thƣ của lịch sử dân tộc. Chỉ ra nghệ thuật xây
dựng nhân vật của tác giả cũng giúp chúng ta không chỉ thấy đƣợc giá trị về
mặt lịch sử mà còn thấy đƣợc giá trị về mặt văn học cũng nhƣ cách thể hiện
các nhân vật lịch sử của tác giả vừa theo truyền thống chung của sử truyện
nhƣng lại vừa theo cách thức của văn chƣơng. Nghệ thuật ghi chép tiểu sử
nhân vật của tác giả làm cho ranh giới giữa việc chép sử và làm văn chƣơng
trở nên mờ nhạt. Hình tƣợng nhân vật lịch sử và nhân vật văn học đan xen
nhuần nhuyễn, không có sự phân biệt rạch ròi. Trong các thể loại của sử học,
ta thấy ở sử truyện (ghi chép về cuộc đời nhân vật lịch sử)sự giao thoa của cả
hai giá trị lịch sử và giá trị văn chƣơng càng trở nên đậm nét. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu giá trị văn chƣơng của Lịch triều hiến chương loại chí nói
chung và của thiên Nhân vật chí nói riêng là điều cần thiết để chỉ ra giá trị văn
học trong một tác phẩm tích hợp giữa văn và sử này. Đó là những lí do thôi
thúc ngƣời viết chọn đề tài Nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật trong thiên
“Nhân vật chí” - Lịch triều hiến chương loại chí.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phan Huy Chú không chỉ là nhà khoa học nhà nghiên cứu sƣu tầm, biên
khảo mà còn là một trong những hiện tƣợng nổi bật của thế kỷ XVIII - XIX,
do vậy có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu, tham luận với những đề tài thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau xoay quanh con ngƣời và tác phẩm của ông.
Ngay từ những năm 1961 Nhà xuất bản sử học đã in bộ sách Lịch triều
hiến chương loại chí do tổ phiên dịch của viện sử học Việt Nam đã phiên dịch
4
và chú giải toàn bộ tác phẩm này. Tác phẩm đƣợc chia làm 4 tập (gồm 49
quyển). Có thể nói đây là một trong những văn bản có giá trị lớn mà những
ngƣời trong tổ biên dịch lịch sử đã làm đƣợc.
Một số các nhà biên chép soạn sử nhƣ Trần Văn Giáp đã viết những cuốn
sách nhƣ Lược chuyện các tác gia Việt Nam, Tìm hiểu kho sách Hán nôm đã
sử dụng một số tƣ liệu về tác phẩm của Phan Huy Chú và có những lời nhận
xét về ông tuy nhiên những tác phẩm này mang tính khảo lƣợc và khái quát
nên chỉ điểm qua về tác giả và tác phẩm chứ chƣa đi sâu vào nghiên cứu một
vấn đề cụ thể..
Sách Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy của nhà xuất bản Hà Sơn
Bình cũng là một cuốn cần thiết cho việc nghiên cứu về Phan Huy Chú và
Lịch triều hiến chương loại chí .Cuốn sách đã tập hợp những bài viết của các
giáo sƣ, các nhà nghiên cứu về con ngƣời, gia đình dòng họ và những giá trị
của tác phẩm. Cuốn sách tập hợp những bài viết, những bài tham luận ở nhiều
mặt khác nhau do vậy nó chƣa có tính thống nhất, đi sâu vào một vấn đề cụ
thể. Chỉ duy nhất có bài viết của Vũ Tuân Sán là nghiên cứu một cách tổng
quát về thiên Nhân vật chí, nhƣng chỉ dừng lại ở mức đánh giá sơ lƣợc, chƣa
đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật của tác giả.
Dƣơng Quảng Hàm trong cuốn Việt nam văn học sử yếu đã có những
nhận xét chung đánh giá về cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, ngoài ra ông
còn giới thiệu những tác phẩm của Phan Huy Chú và trích lời tựa của Lịch
triều hiến chương loại chí. Nhìn chung ông đã khái quát qua những nét chính
cơ bản về tác phẩm và tác giả song nó mang tính sơ luợc chứ chƣa đi sâu vào
vấn đề cụ thể.
Trong cuốn Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học (NXB Văn
hoá thông tin, 2002), Phƣơng Lựu đã trích dẫn những quan niệm viết văn,
chép sử của nhiều tác gia từ trung đại đến hiện đại trong đó có trích dẫn
những quan niệm về văn cũng nhƣ chép sử của Phan Huy Chú.
5
Nhìn chung còn rất nhiều những cuốn sách, những bài tham luận rải rác
trên các báo hay tạp chí nghiên cứu viết về những vấn đề khác nhau có liên
quan đến tác giả tác phẩm hoặc nghiên cứu một mặt nào đó về giá trị, tƣ
tƣởng, chính trị xã hội hay lịch sử. Nhƣng đa số các tác phẩm, cuốn sách đều
dừng lại ở mức độ khái quát, tổng hợp chứ không đi sâu vào một khía cạnh
trong tác phẩm đồ sộ này.
Lịch triều hiến chương loại chí là tác phẩm có giá trị trong lịch sử dân
tộc. Tuy là bộ sách lớn nhƣng bản chính của tác giả hiện tại cũng không còn,
chỉ còn một số sách chép tay. Sách cũng chƣa đƣợc phổ biến rộng rãi đến
ngƣời đọc, ngƣời nghiên cứu nên các tác phẩm nghiên cứu về bộ sách này
cũng còn rất hạn chế.
Riêng về nhân vật lịch sử trongNhân vật chí chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trƣớc đây chỉ đề cập một vài
khía cạnh của Nhân vật chí, đồng nghĩa nghiên cứu và nhìn nhận Nhân vật chí
dƣới góc độ lịch sử và so sánh lịch sử, nghiên cứu và phân tích Nhân vật chí
mang tính phức tạp và trong mối tƣơng quan so sánh với các sự thật lịch sử
mà chƣa chú trọng đến nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả. Theo nhƣ
ngƣời nghiên cứu đƣợc biết thì đến nay chƣa có công trình nghiên cứu nào đề
cập đến nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật của tác giả. Chính điều này cũng đã
phần nào làm cho công việc nghiên cứu của ngƣời viết gặp nhiều khó khăn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài mà chúng tôi đƣa ra là Nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật trong thiên
“Nhân vật chí”- Lịch triều hiến chương loại chí nên đối tƣợng nghiên cứu
chính của đề tài là phần Nhân vật chí trongLịch triều hiến chương loại chí. Do
không đọc trực tiếp đƣợc nguyên bản chữ Hán nên chúng tôi sử dụng bản dịch
của Nhà xuất bản giáo dục, năm 2007.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những bài viết, bài tham luận, bài nghiên
cứu phê bình có liên quan đến đề tài của luận văn.
6
Luận văn này chủ yếu là nghiên cứu về cách viết tiểu sử nhân vật trong một
thiên của tác phẩm chứ không phải nghiên cứu toàn bộ hệ thống nhân vật
trong toàn bộ tác phẩm nên phạm vi nghiên cứu của chúng tôi đƣợc giới hạn
trong thiên “Nhân vật chí” của Lịch triều hiến chương loại chí.
4.Phƣơng pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, luận văn sẽ sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp khảo sát thống kê: sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời nghiên cứu
có thể khái quát đƣợc những nét cơ bản nhất trong nghệ thuật viết tiểu sử
nhân vật của thiên Nhân vật chí thông qua việc khảo sát hệ thống các nhân vật
đƣợc ghi chép trong tác phẩm.
Phƣơng pháp phân tích nhân vật theo loại hình: Hệ thống nhân vật thiên Nhân
vật chí đƣợc phân chia rõ ràng theo loại hình nhân vật. Chính vì vậy, sử dụng
phƣơng pháp phân tích nhân vật theo loại hình giúp ta thấy rõ đƣợc đặc trƣng
của từng loại hình nhân vật lịch sử, từ đó góp phần làm nổi bật lên đặc trƣng
riêng của từng loại hình nhân vật và nghệ thuật viết tiểu sửtừng loại hình nhân
vật của tác giả.
Phƣơng pháp so sánh: sử dụng phƣơng pháp này, ngƣời viết có thể đối chiếu
nghệ thuật xây dựng tiểu sử nhân vật của tác giả với những ngƣời ghi chép sử
khác, từ đó thấy đƣợc những nét riêng trong cách xây dựng nhân vật và hình
tƣợng nhân vật.
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: đề tài Nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật
mang đậm tính văn chƣơng nhƣng lại không chỉ là vấn đề quan tâm của văn học
với tƣ cách là một đề tài trong văn học, mà nó còn liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhƣ triết học, tôn giáo, lịch sử, tƣ tƣởng...Lịch triều hiến chương loại chí
đƣợc coi là một bộ bách khoa toàn thƣ nên khi nghiên cứu về bất kì phƣơng diện
nào của tác phẩm cũng đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành thì mới có thể
nắm bắt đƣợc ý nghĩa rộng lớn và đích thực của nó. Việc nghiên cứu từ nhiều
góc độ sẽ cho phép ta tiếp cận đƣợc vấn đề cách thấu đáo. Hƣớng tiếp cận liên
7
ngành rất cần thiết để nghiên cứu về cách thức thể hiện con ngƣời trong một loại
hình tác phẩm tích hợp giữa văn học và lịch sử.
Bên cạnh đó bài viết còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ phƣơng
pháp nhân học, phƣơng pháp tiểu sử, phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học... kết
hợp với các thao tác phân tích, bình luận văn học...để giải quyết các vấn đề đƣợc
đƣa ra trong đề tài.
5.Mục đích nghiên cứu
Phan Huy Chú là một trong những nhà sử học nghiên cứu biên khảo sƣu tầm.
Nghiên cứu về Phan Huy Chú và tác phẩm giúp chúng ta tìm hiểu đƣợc giá trị
văn học trong sáng tác của Phan Huy Chú. Giá trị này đặc biệt quan trọng với
những ngƣời nghiên cứu văn học cổ.
Luận văn đã triển khai một cách tiếp cận mới mang tính liên ngành giữa
nghiên cứu văn học và các lĩnh vực khác, triển khai các thao tác và phƣơng
pháp nghiên cứu mới cho việc thể hiện các nhân vật lịch sử vừa theo truyền
thống của sử truyện vừa bằng cách thức của văn chƣơng.
Lần đầu tiên tìm hiểu về nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật trong Lịch triều hiến
chương loại chí.
Tìm tòi, phát hiện ra những giá trị về mặt nghệ thuật trong tác phẩm mà bấy
lâu nay nhiều ngƣời chƣa biết đến.
Làm rõ nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật của Phan Huy Chú.
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc triển khai
thành 3 chƣơng sau đây : Chƣơng 1: Truyền thống chép sử phƣơng Đông và tác phẩm Lịch triều hiến
chương loại chí.
Chƣơng 2: Hệ thống và cách phân loại các nhân vật lịch sử trong thiên Nhân
vật chí - Lịch triều Hiến chương loại chí.
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng tiểu sử nhân vật trong thiên Nhân vật chí -
Lịch triều hiến chương loại chí.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TRUYỀN THỐNG CHÉP SỬ PHƢƠNG ĐÔNG VÀ TÁC PHẨM LỊCH TRIỀU HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ
1.1. Truyền thống viết sử và ghi chép lịch sử của các nhà viết sử phƣơng Đông
Trong kho tàng văn hóa văn học của mỗi quốc gia, lịch sử đƣợc coi là tâm
hồn, là tinh túy của núi sông đất nƣớc. Mỗi bộ sử đều mang một giá trị riêng,
ghi lại những thời khắc quan trọng của chính trị- xã hội đất nƣớc. Lịch sử
không chỉ đơn thuần ghi lại những trận đánh, những cơn biến động lớn của
quốc gia dân tộc, mà ta có thể tìm thấy trong đó cả những nhân vật lịch sử nổi
tiếng, vang danh một thời. Lịch sử là tài liệu gốc để nghiên cứu các ngành
khoa học khác nên việc ghi sử chép sử là một công việc quan trọng đối với
quốc gia, dân tộc. Trong thời kì văn học cổ thì việc ghi chép sử lại càng quan
trọng hơn.
Ở phƣơng Đông nói chung, trong đó có Việt Nam nói riêng, hành trình của
các tác phẩm sử kinh điển có những bƣớc phát triển riêng. Ở Trung Quốc-
một đất nƣớc rộng lớn có truyền thống lịch sử hàng ngàn năm, các bộ chính
sử xuất hiện sớm. Đầu tiên có thể kể đến là Sử ký Tư Mã Thiên - là một tác
phẩm văn học sử đồ sộ, đƣợc xem nhƣ “công trình sử học lớn nhất Trung
Quốc, cũng như là một trong những quyển sử nổi tiếng nhất của thế giới”, tác
phẩm đã đặt nền móng và định hình cho phong cách viết sử tại Trung Hoa.
Đồng thời, đối với nền văn học, Sử Ký cũng đƣợc xem nhƣ chuẩn mực cho lối
miêu tả nhân vật và sự kiện tại Trung Hoa, với bút pháp điêu luyện và tinh tế,
những nhận xét xác đáng và khách quan làm nổi bật tính cách, chân dung
nhân vật cũng nhƣ phản ánh một cách trung thực các sự kiện. Đánh giá về Tƣ
Mã Thiên, Bách Khoa Toàn Thƣ Xô Viết đã vinh danh ông nhƣ là “một trong
những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại”. Khác với những nhà sử học
khác, Tƣ Mã Thiên không chỉ nhắc đến những thời đại, những sự kiện đã qua
9
mà còn viết về chính thời đại mình. Đó là những ghi chép cẩn thận, khách
quan và phải nói là rất dũng cảm vì dám đề cập đến những sự thật mà các nhà
viết sử khác tránh né, cũng chính là động chạm đến triều đại đang cai trị. Cái
tâm của ngƣời viết sử, cộng với vốn kiến thức phong phú tích lũy từ khảo cứu
và những chuyến đi chu du khắp đất nƣớc Trung Hoa rộng lớn, cùng những
tâm sự u uất riêng tƣ và nỗi hàm oan khó rửa - tất cả qua ngòi bút tài hoa của
Tƣ Mã Thiên đã đƣợc thể hiện thành một di sản văn học - sử học có giá trị lớn
lao cho nhiều đời sau.
Bên cạnh Sử ký còn có nhiều tác phẩm khác nhƣ Kinh Xuân Thu của Khổng
Tử viết theo lối biên niên, Tư Trị Thông Giám của Tƣ Mã Quang, Thông
Giám cương mục của Chu Hy…Tất cả đều là những tác phẩm văn sử học nổi
tiếng, chứa đựng hệ tƣ tƣởng Nho gia, có ảnh hƣởng rất lớn đến lối viết sử và
cách viết sử của các sử gia ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, việc ghi chép chính sử xuất hiện muộn hơn. So với các nƣớc
láng giềng nhƣ Triều Tiên, Nhật Bản, đặc biệt là Trung Quốc thì nền sử học
Việt Nam ra đời khá muộn. Theo Tạ Ngọc Liễn, sử học Việt Nam có bề dày
khoảng 7 thế kỷ, tính từ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hƣu(1272) đến thế kỉ XIII,
khi nền sử học chính thức hiện diện. Do quá trình giao lƣu và tiếp biến của
văn hóa, hầu hết các thể tài của sử Việt Nam đều ảnh hƣởng của các thể tài đã
đƣợc lƣu hành ở Trung Quốc. Sách sử Việt Nam tuy xuất hiện muộn, nhƣng
cũng đã đạt đƣợc những thành tựu xuất sắc. Có thể kể đến là Đại Việt sử ký
toàn thư là tập đại thành của nhiều bộ sử do nhiều nhà sử học các đời biên
soạn, từ Lê Văn Hƣu đời Trần qua Phan Tu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh đời
Lê Sơ, đến Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung Hƣng. Tác phẩm ghi chép
lịch sử dân tộc ta từ họ Hồng Bàng đến năm 1675.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục đƣợc vua Tự Đức chỉ đạo biên
soạn vào năm Tự Đức thứ 8 (1856), do Phan Thanh Giản làm tổng tài (chủ
biên). Bộ sách đƣợc hoàn thành vào năm 1859, sau đó trải qua các lần “duyệt
nghị” (1871), “duyệt kiểm” (1872), “phúc kiểm” (1876), “duyệt định” (1878),
10
“kiểm duyệt” (1884), đến năm Kiến Phúc thứ 1 (1884) đƣợc khắc in và ban
hành.Khâm định Việt sử thông giám cương mục đƣợc biên soạn theo thể biên
niên dựa trên cơ sở Đại Việt sử ký toàn thư.
Đại Việt sử ký tục biên là sự tiếp nối của Đại Việt sử ký toàn thư. Bộ sách sử
đƣợc nhiều tác giả biên soạn vào năm 1775 có tham khảo các sách sử của
Trung Quốc cùng các sách sử khác của Việt Nam. Bộ sách đƣợc viết theo thể
“cƣơng mục” của Chu Hi thời Tống, chia ra “cƣơng” (phần tóm tắt gọn và
sáng) và “mục” (việc chép rộng ra cụ thể hơn), theo thứ tự năm, tháng, ngày
ghi chép sự kiện lịch sử, tiểu sử các nhân vật, lời cẩn án giám định một số sự
kiện, nhân vật và niên đại trên cơ sở khảo chứng các sách sử, tƣ liệu của Việt
Nam và Trung Quốc, lời chú thích tên ngƣời, tên đất, chế độ thi cử, tổ chức
hành chính, rải rác có các lời phê của vua Tự Đức. Tài liệu tham khảo của
Cƣơng mục khoảng trên 200 bộ, bao gồm dã sử, thơ văn, các tác phẩm của Lê
Quý Đôn, Phan Huy Chú... cùng các sách sử của Trung Quốc.
Cùng với Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Đại Việt sử ký tiền biên là một trong ba bộ quốc sử lớn của nƣớc ta còn
lại đến ngày nay. Bộ sử 17 tập này đƣợc Sử quản triều Tây Sơn cho khắc in
trên cơ sở công trình biên soạn của sử gia Ngô Thì Sỹ, đƣợc con ông là Ngô
Thì Nhậm tu đính, thực sự là một thành tựu quan trọng về sử học của vƣơng
triều tiến bộ nhƣng quá ngắn ngủi ấy. Đại Việt sử ký tiền biên về phƣơng diện
sử liệu, căn bản dựa theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhƣng giá trị chủ yếu là ở
những bình luận sắc sảo và những vấn đề tác giả nêu lên để đính chính hoặc
đánh giá lại. Tính chất sử luận đậm nét trong ngót năm trăm “lời bàn” của các
sử gia nổi tiếng đời trƣớc nhƣ Lê Văn Hƣu, Phan Phu Tiên, Lê Tung, Ngô Sỹ
Liên và của chính tác giả, ở đó toát lên lòng tự hào dân tộc và lòng yêu nƣớc
sâu sắc.
Hoàng Lê nhất thống chí của dòng họ Ngô Thì cũng là một pho tƣ liệu lịch sử
khá đặc biệt về một giai đoạn mà cho đến nay còn lƣu lại không nhiều trong
sử sách khác. Ngày nay, nhiều ngƣời khi nghiên cứu lịch sử của giai đoạn
11
cuối thế kỉ XVIII vẫn thƣờng tìm tƣ liệu lịch sử trong tác phẩm này. Tác
phẩm có giá trị lớn về mặt văn học cũng nhƣ sử học.
Song hành cùng các tác phẩm lịch sử lớn, thì Lịch Triều hiến chương loại chí
của Phan Huy Chú cũng là một tác phẩm đồ sộ, không chỉ có giá trị về lịch sử
mà còn có cả giá trị về văn học. Đây cũng xứng đáng là bộ sử lớn của nƣớc
nhà đáng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm.
Nhìn chung, tất cả các tác phẩm sử học của Việt Nam đều chứa đựng trong
mình nhiều giá trị, không chỉ có giá trị về sử học mà còn có cả giá trị văn
học. Vì các nhà nho đồng thời cũng là nhà sử học và văn học, họ chịu ảnh
hƣởng của Nho giáo và lối viết sử của Trung Hoa và mang trong mình tƣ duy
chép sử của văn học trung đại, nghĩa là chép sử đồng thời cũng chép văn nên
các tác phẩm sử mang trong mình giá trị văn học. Một tác phẩm sử học nhƣng
lại mang chất văn chƣơng. Các tác phẩm sử học là ví dụ tiêu biểu cho tƣ duy
văn sử bất phân thời trung đại.
1.2.Tác phẩm Lịch triều hiến chƣơng loại chí và thiên Nhân vật chí
1.2.1. Cách hiểu về thể chí và tác phẩm Lịch triều hiến chƣơng loại chí
Muốn hiểu về tác phẩm LTHCLC, trƣớc hết cần hiểu rõ về đặc trƣng thể loại
của tác phẩm hay nói cách khác, hiểu rõ về thể chí. Trong LTHCLC, chữ chí
ở đây đƣợc dùng để chỉ về mặt thể loại của tác phẩm. Chí có nguồn gốc từ thể
tài chính sử Trung Quốc, gồm hai thể loại cơ bản là biên niên(căn cứ vào
ngày tháng năm để ghi chép lại sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian nhất
định). Còn thể ký truyện xuất hiện muộn hơn. Khi ghi chép sử bằng thể này,
các sự kiện phân tán trong các thiên nên không đƣợc miêu tả hoàn chỉnh. Chữ
chí mang nhiều nghĩa khác nhau. Nghĩa đầu tiên của chí là “nghị lực”, “chí
hƣớng”. Trong cách hiểu thứ hai, chữ chí cũng đồng âm với chữ chí chỉ
sự“ghi chép”, “miêu tả”. Chính nghĩa thứ hai này đã chỉ ra thể loại của tác
phẩm. Chữ chí trong sách Chu Lễ đƣợc hiểu là: “Các nhà chép sử ghi
chép(chí) những công việc của quốc gia”. Bản chú giải cổ nhất đầu thời kỳ
12
trung kỷ của Nhan Sƣ Cổ có giải thích “Chí- là bản ghi chép; là bộ sưu tập
các bản ghi chép về những sự kiện nào đấy”. Vì đặc trƣng của thể loại nên
chữ chí đƣợc các nhà chép sử của Trung Quốc sử dụng khá phổ biến trong
quá trình ghi chép của mình về lịch sử xã hội, lịch sử đất nƣớc. Vào thời trung
thế kỷ, Trần Thọ đã gọi cuốn sử chính thức của mình là Tam Quốc chí và sau
ông, còn rất nhiều tác giả những cuốn sử thi viết về đề tài lịch sử, bắt đầu từ
La Quán Trung, ngƣời đã đƣa tên Tam Quốc của nhà sử học Trần Thọ vào
đầu đề cho nên ở những thời kì xuất bản đầu tiên. Bên cạnh đó còn có các tác
phẩm chí khác nhƣ Tống chí truyện, ….
Ở Trung Quốc thời trung đại, chícòn đƣợc hiểu theo cách khác. Chí là một
trong 4 nội dung của Đoạn đại sử là Kỷ, Truyện, Biểu, Chí. Trong đó, chí viết
về một địa phƣơng nào đó bao gồm về mọi mặt, trừ những hoạt động cụ thể
của con ngƣời. Trong Sử thông, xuất hiện các thể loại Thông điển, Thông
khảo, Thông chí mô tả về một số vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa – nhằm bổ
sung cho Thông Giám (vốn chủ yếu bàn về sự hƣng vong của các thời đại,
còn các hiện tƣợng kinh tế, văn hóa, điển chƣơng chế độ nói rất sơ lƣợc). Cụ
thể, Thông điển gồm 9 vấn đề Thực hóa, Tuyển cử, Chức quan, Lễ, Nhạc,
Binh, Hình, Châu Quận, Biên Phòng. Thông khảo chia làm 24 vấn đề, trong
đó 19 vấn đề đã có ở Thông điển nhƣ Điền Phú, Tiền tệ, Hộ khẩu, Chức dịch,
Chính giác, Thị địch, Thổ công, Quốc dụng, Tuyển Cử, Học hiệu, Quan chức,
Giao tự, Tôn miếu, Vƣơng lễ, Nhạc, Binh, Hình, Dƣ địa, Tƣ duệ. Và bổ sung
thêm 5 vấn đề mới (Kinh tịch, Đế hệ, Phong kiến, Tƣợng vật, Vật dị). Còn
Thông chí thì trình bày một hệ thống các vấn đề bao gồm: Lễ, Quan chức,
Tuyển cử, Hình pháp, Thực hóa, Thị tộc, Lục thƣ, Thất âm, Thiên văn, Địa lý,
Đô ấp, Thụy, Khí phục, Nhạc, Nghệ văn, Hiệu thù, Đồ Phổ, Kim thạch, Tai
tƣờng, Côn trùng, Thảo mộc. Nhƣ vậy, chí có hai loại. Một loại thuộc về
chính sử, viết về một triều đại nhất định với nội dung ghi chép mảng loại vấn
đề: điển lệ, chế độ, văn nghệ…ngoài kỉ truyện nói về nhân vật, còn một loại
khác khảo về nhiều lĩnh vực theo diễn trình lịch sử. Lịch triều hiến chương
13
loại chí không nằm trong hai thể loại nói trên mà là một cuốn bách khoa thƣ.
Cũng có thể coi LTHCLC là tổng hợp của Sử thông, vì nó đề cập đến tất cả
các vấn đề mà Thông điển, Thông Khảo, Thông chí đã trình bày. Mƣời chí
trong LTHCLC thực chất là ghi chép vềmƣời lĩnh vực khoa học khác nhau,
trong đó mỗi nội dung đều đƣợc khảo cứu toàn bộ lịch sử hình thành, phát
triển. Chính Phan Huy Chú đã nói trong Phàm lệ: “Sự tích chép ở sách này,
trên từ đời thượng cổ, xuống đến cuối (Hậu) Lê, chứng dẫn đều có điển
tích”[15,tr.22].
Ở nƣớc ta, các tác phẩm sử biên soạn theo thể loại bách khoa thƣ đã có từ Vân
đài loại ngữ.Vân Đài Loại Ngữ đƣợc Lê Quý Đôn hoàn thành vào năm 1773,
lúc ông 47 tuổi. Tác phẩm này đƣợc xem nhƣ một loại “bách khoa thƣ”, đồ sộ
nhất thời Trung đại Việt Nam, tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn
học… sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn
ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội… Vân Đài Loại Ngữ là bộ sách đạt tới
trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bƣớc
tiến bộ vƣợt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến. Nhƣng mặt
hạn chế của Vân đài loại ngữ là những tác giả và những sách sử kể ra đều là
ngƣời Trung Quốc, những sự vật sự việc đƣợc trình bày cũng là của Trung
Quốc nên phần nào đó, bộ sử vẫn chƣa thể coi là chính thống. Phải đến
LTHCLC thì lần đầu tiên văn hiến, điển chƣơng của nƣớc ta mới đƣợc phân
loại và ghi chép một cách đầy đủ theo một tƣ duy khoa học. Ở mỗi chí, Phan
Huy Chú đều chú ý đi từ những điểm khái quát chung nhất đến từng yếu tố
riêng nhỏ hơn. Phần mở đầu của các chí, ngƣời viết sử đều cho biết rõ nội
dung là khảo về lĩnh vực đó trong tiến trình lịch sử.
Ở Việt Nam, chữ chí cũng đƣợc dùng nhiều trong tên các tác phẩm lịch sử và
địa lý. Các tác phẩm tiêu biểu cho thể loại chí nhƣ Việt Nam thế chí của Hồ
Tông Thốc miêu tả lịch sử Việt Nam. Nguyên bản Việt Nam thế chí đã mất,
nhƣng may mắn Lời tựa tác phẩm này đƣợc Phan Huy Chú (1782 – 1840)
chép lại đầy đủ trong thiên Văn tịch chí bộ Lịch triều hiến chương loại chí đồ
14
sộ. Lời tựa này cho ta biết Việt Nam thế chí chép 18 đời vua Hùng & các đời
nhà Triệu; và Hồ Tông Thốc là ngƣời đầu tiên đƣa ra danh xƣng Việt Nam
với ý nghĩa là quốc hiệu; ngƣời đầu tiên có quan điểm độc đáo, đúng đắn về
thời Hồng Bàng (cũng tức là thời Hùng Vƣơng), và mối quan hệ giữa huyền
thoại và lịch sử: “Huống chi đất Việt ta ở vào cõi xa, sự hiểu biết cũng khác,
từ đời Hồng Bàng thời gian xa cách, trong lúc mở mang, sách vở chưa đủ, lễ
nhạc chưa làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có
thì bởi đâu mà xét ra? Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều là lượm lặt
ở tiếng vang, chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký từng đời
mà thôi, còn những sự tích lờ mờ khó xét, tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử
sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nếu
lưu tâm nhận kỹ, có sức suy nghiệm thì ngọc & đá đều sẽ rõ ràng, những hình
tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ…”[15].
Bên cạnh Việt Nam thế chí thì Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng là một tác
phẩm chí ghi chép về đất nƣớc, con ngƣời và đời sống văn hóa của từng địa
phƣơng. Đây đƣợc coi nhƣ là một tác phẩm địa chí đầy đủ đầu tiên của Việt
Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị về mặt nhận thức, văn hóa giáo dục, giá trị
về địa lý, lịch sử. Nguyễn Trãi viết địa chí là để giúp nhà vua và triều đình tìm
hiểu về đất nƣớc, con ngƣời, tài nguyên của dân tộc để thêm một bƣớc khẳng
định dân tộc mình, từ đó xây dựng một quốc gia độc lập toàn diện. Thông qua
những tƣ liệu ghi chép, cuốn sách đã khắc họa diện mạo của nƣớc Đại Việt
cũng nhƣ từng địa phƣơng. Sau phần giới thiệu qua vị trí chung của toàn
quốc, đơn vị hành chính, nhân khẩu, quốc hiệu, quốc đô qua các thời đại,
Nguyễn Trãi đã chép riêng về các đạo thời Lê Sơ. Mỗi đạo có hai phần, phần
trƣớc chép các sông núi đặc biệt của đạo ấy và phần sau nói về diên cách địa
lý, vị trí, cƣơng vực, số phủ, huyện, châu, rồi mới nói đến đất đai sản vật
phong tục tập quán cùng khí chất con ngƣời và các đồ cống tiến cho vua. Sách
đã xác định vị trí địa lý của mỗi địa phƣơng và các địa danh, ghi lại các tên
gọi núi sông đặc biệt cũng nhƣ các đơn vị hành chính và tổng số phủ, huyện,
15
xã để chúng ta có thể so sánh sự thay đổi các đơn vị hành chính mỗi địa
phƣơng, xác định các mốc địa giới trong hiện tại và địa giới trong lịch sử nhất
là vào thế kỉ XV. Dư địa chí thể hiện phƣơng pháp biên soạn chí vừa ngắn
gọn, vừa xúc tích, cô đọng, khắc họa đƣợc diện mạo chung nhất của đất nƣớc
dân tộc vào thế kỉ XV. Đây có thể coi là một bộ quốc chí mẫu mực của dân
tộc, vì từ đó trở đi không ai viết về địa chí mà không quan tâm đến hai chủ đề
lớn là lãnh thổ và giống nòi.
Ngoài ra, thuật ngữ chí đƣợc dùng trong tác phẩm Đại Nam nhất thống chí.
Đây là bộ sách dƣ địa chí (địa lý - lịch sử) Việt Nam, viết bằng chữ Hán do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn thời vua Tự Đức. Có thể coi đây là bộ
sách lớn nhất và quan trọng nhất về địa chí Việt Nam dƣới thời phong kiến.
Nguyên bản bộ sách đƣợc biên soạn dƣới triều Tự Đức, có 28 tập với 31
quyển, chép tay trên bản thƣờng, khổ 28 x 16 cm.Mỗi quyển trong Đại Nam
nhất thống chí chép một tỉnh, bao gồm: Kinh sƣ (Huế), phủ Thừa Thiên, Hà
Nội, Hƣng Yên, Sơn Tây, Hƣng Hóa, Bắc Ninh, Quảng Yên, Tuyên Quang,
Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hải Dƣơng, Nam Định,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định,
Vĩnh Long, Gia Định, Biên Hòa, An Giang, Định Tƣờng, Hà Tuyên, Khánh
Hòa, Bình Thuận, Phú Yên, và Phụ các nƣớc lân cận (Cao Miên, Tiêm La,
Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Nam Chƣởng).
Hoàng lê nhất thống chí cũng là tác phẩm lớn của dòng họ Ngô thì, ghi chép
qua nhiều đời, đƣợc viết với mục đích ghi chép lại sự nghiệp thống nhất của
nhà Lê, điều đó cũng đồng nghĩa với việc có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí
là một quyển sử, nhƣng giá trị của nó lại vƣợt mong muốn ban đầu của tác
giả. Các nhà soạn sử không chỉ ghi chép lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra
trong thực tế của dân tộc vào thế kỉ XVIII mà họ còn xen vào đó cách nhìn và
nhãn quan riêng, những nhận định chủ quan của ngƣời ghi chép sử. Trong quá
trình ghi chép họ đã hóa thân vào nhân vật và sự kiện. Chính điều này đã làm
16
cho tác phẩm vừa đƣợc coi là một bộ sử, nhƣng lại mang đậm chất văn
chƣơng trong đó.
Nhƣ vậy, một đặc điểm dễ nhận thấy trong quá trình ghi chép sử hoặc chí của
các sử gia trƣớc Phan Huy Chú là tất cả các sử gia đều có ý thức khẳng định
chủ quyền độc lập về lãnh thổ đất nƣớc lên đầu. Đặt lịch sử về lãnh thổ, địa lý
của nƣớc nhà lên đầu tiên rồi mới đề cập đến những vấn đề khác của đất nƣớc
nhƣ con ngƣời, lịch sử văn hóa. Điều này thể hiện ở phần “địa chí”(ghi chép
về địa danh, sông núi, lãnh thổ, biên giới Việt Nam). Phan Huy Chú cũng
không nằm ngoài tƣ duy viết sử trên. Tƣ duy này thể hiện khã rõ nét trong tác
phẩm LTHCLC.
Tóm lại: Chí là thể loại có nguồn gốc xuất phát từ Trung Quốc. Do đặc trƣng
của thể loại nhƣ tính khái quát, tổng hợp cao, khả năng phản ánh đƣợc nhiều
mặt và nhiều nội dung khác nhau của xã hội, nên chí đƣợc các biên soạn khảo
cứu lịch sử Việt Nam sử dụng trong việc ghi chép lại lịch sử quốc gia dân tộc.
Phan Huy Chú cũng đã thấy đƣợc ƣu điểm của thể loại này nên trong việc
biên soạn, trƣớc thuật của mình, ông đã coi thể loại này là một phƣơng thức
dùng để chuyên chở tất cả những nội dung rộng lớn mà ông muốn phản ánh
trong công việc ghi chép của mình nhằm làm phong phú thêm vốn văn hóa
lịch sử dân tộc.
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ra đời với tƣ cách là bộ
bách khoa toàn thƣ đầu tiên của Việt Nam, có vị trí quan trọng trong kho tàng
thƣ tịch cổ Việt Nam. Bộ sách đƣợc Phan Huy Chú (1782- 1840) biên soạn
trong 10 năm(1809-1819).
Bộ sách gồm có 49 quyển, chia ra làm 10 bộ môn nghiên cứu:
1. Dƣ địa chí: nói về tình hình địa lý và lịch sử địa lý của nƣớc Việt Nam.
2. Nhân vật chí:nói về tiểu sử của các vua chúa, các quan lại, các nho sĩ,
tƣớng sĩ, ngƣời có tiết nghĩa,có tên tuổi trong lịch sử Việt Nam.
3. Quan chức chí: nói về lịch sử chế độ quan liêu Việt Nam trong lịch sử.
17
4. Lễ nghi chí: nói về nghi vệ, phẩm phục vua chúa, quan lại, các lễ của triều
đình.
5. Khoa mục chí: nói về chế độ khoa cử và những ngƣời thi đỗ từ tiến sĩ trở
lên từ triều Lê trở về trƣớc.
6. Quốc dụng chí: nói về chế độ thuế khóa và chế độ tài chính của các triều
đại trong lịch sử.
7. Hình luật chí: nói về tình hình pháp luật của các triều đại và nhất là tình
hình pháp luật của triều Lê.
8. Binh chế chí: nói về các tổ chức quân sự của nƣớc Việt Nam qua các triều
đại từ triều Lê trở về trƣớc.
9.Văn tịch chí: nói về các sách bằng chữ Nôm hay chữ Hán của Việt Nam từ
triều Lê trở về trƣớc.
10. Bang giao chí: nói về chính sách ngoại giao, nghi lễ ngoại giao, lịch sử
ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Viết bộ sách này, Phan Huy Chú đã tham khảo một khối lƣợng sách rất lớn
trong đó có cả sách sử Việt Nam và sách sử Trung Quốc. Tác giả đã dẫn dụng
tới 213 bộ sách (Liệt kê ở Văn tịch chí)…Ngoài ra ông còn sử dụng các sách
sử Trung Quốc mà theo ông đã kê trong bài “Phàm Lệ” gồm 26 bộ sử Trung
Quốc với hàng ngàn quyển sách. Ông đã dày công nghiên cứu, chắt lọc trong
mớ kiến thức phong phú ấy, từ đó ghi chép, hệ thống hóa lại vào các “chí”
khiến cho bộ sách LTHCLC trở nên đầy đủ và chính xác. Cũng trong Phàm
Lệ, ông viết: “Trong các chí lấy đủ mọi việc, chép cả văn từ. Phàm các chiếu
lệnh, tấu chương của các đời có quan hệ đến cốt yếu của điển chương đều
chép vào hết thảy. Và thơ văn của các danh công, cự nho có thể chép được,
cũng đều tùy loại chép mà không bỏ sót. Ví như quả mùa thu, hoa mùa xuân,
tùy ý cả hai mới khỏi thiên về một bên” [15, tr. 23]
Theo nhƣ sự sắp xếp của 10 bộ môn nghiên cứu trên, Phan Huy Chú đã đặt
địa lý, lãnh thổ của quốc gia lên trƣớc nhất. Một đất nƣớc chỉ thực sự tồn tại
khi có cƣơng vực và lãnh thổ riêng. Nhận thức đƣợc điều này ông đã đặt Dư
18
địa chí lên hàng đầu. Sau đó mới đến các vấn đề khác của quốc gia nhƣ con
ngƣời, lễ nghi, chế độ khoa cử, thuế khóa, tài chính, quân sự, văn học, ngoại
giao.
LTHCLC tuy đƣợc chia làm 10 chí, mỗi chí lại nói về một lĩnh vực khác nhau,
nhƣng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tƣ duy khoa học còn thể hiện
trong nội dung của từng chí. Đầu mỗi chí là lời dẫn mang tính khái quát tổng
hợp, sau đó phân thành từng loại từng điều. Phần mở đầu mỗi chí, Phan Huy
Chú đều phân tích, suy nghĩ và đƣa ra những quan điểm đúng đắn, phê phán
những quan điểm lạc hậu hoặc chƣa đúng trƣớc khi đi vào ghi chép lại các sự
kiện, sự việc hay nhân vật. Với 10 chí trên, các bộ môn của LTHCLC là
những bộ môn đã đƣợc nghiên cứu và phân loại hệ thống rành mạch. Với tƣ
duy khoa học nhƣ trên thì so với Vân đài loại ngữ, cũng là một tác phẩm “loại
thƣ” của Lê Quý Đôn, sách LTHCLC của Phan Huy Chú xác định môn loại
phân minh và chính xác hơn. Trong Dư địa chí, Phan Huy Chú chia ra thành
hai phần quan trọng đó là: sự khác nhau về bờ cõi của các đời và sự khác
nhau về phong thổ của các đạo. Cùng với cách phân tích kèm theo nhiều tƣ
liệu quý giá về địa lý, trích cả thơ văn minh họa, Phan Huy Chú đã vẽ nên
một bức tranh tổng thể và cũng rất chi tiết của nƣớc ta với từng bài, từng phần
theo cấu trúc từ lớn đến nhỏ, từ rộng đến hẹp giúp ngƣời đọc có thể định hình
về địa phận ranh giới của nƣớc ta và sự thay đổi về đất đai lãnh thổ qua từng
đời nhƣ thế nào. Hay trong Văn tịch chí tác phẩm nào có trƣớc đƣợc ông đƣa
lên trƣớc, tác phẩm nào có sau ông đƣa xuống sau theo đúng trật tự thời gian,
niên đại. Điều này giúp cho việc khảo cứu tài liệu văn chƣơng cũng nhƣ sử
học của ngƣời đời sau đƣợc thuận tiện và dễ dàng hơn, tránh đƣợc tình trạng
ngƣời khảo cứu đời sau bị rối rắm, mông lung trong kho tƣ liệu rộng lớn của
dân tộc.
19
1.2.2. Thiên Nhân vật chí
Chữ “Nhân vật” trong thiên Nhân vật chí theo nghĩa của từ này là chỉ những
“nhân tài”, những ngƣời tài đức trong xã hội đã giúp đời sửa tục, làm gƣơng
cho đời sau. Hay nói cách khác đi, đây là thiên ghi chép về tiểu sử của những
ngƣời đã có đóng gớp lớn cho sự nghiệp chung của nƣớc nhà. Phan Huy Chú
rất chú trọng biểu dƣơng những nhân vật xuất sắc trong lịch sử. Trong tất cả
các thiên của LTHCLC, không phải chỉ ở thiên Nhân vật chí mới nói đến các
bậc nhân tài của đất nƣớc mà ngay cả những thiên khác trong tác phẩm,
những nhân vật hiền tài của nƣớc nhà vẫn xuất hiện. Ở từng lĩnh vực khác
nhau họ lại có những đóng góp khác nhau. Trong Dư địa chí, mối quan hệ
giữa con ngƣời và sông núi cũng đƣợc Phan Huy Chú hết sức chú trọng. Khi
viết về Nghệ An, ông cũng ca ngợi: “núi cao sông sâu,phong tục trọng
hậu…Người thì thuần hòa và chăm học… Được khí tốt của sông núi nên sinh
ra nhiều bậc danh hiền.”[15] Về trấn Sơn Nam, thƣợng và hạ : “Văn vật thì
thượng lộ thịnh hơn, của cải thì hạ lộ nhiều hơn, tóm lại đều là đất tụ khí anh
hoa, tục gọi là văn nhã…” [15]. Trong Khoa mục chí, Phan Huy Chú nhắc
nhiều đến những ngƣời có công trong việc xin sửa đổi cách thi cử nhƣ Nhữ
Đình Toản, Ngô Thì Sĩ… Trong Quốc dụng chí cũng vậy, Phan Huy Chú biểu
dƣơng những ngƣời có sáng kiến sửa đổi thuế ngạch nhƣ Nguyễn Công Hãng
hoặc quy định thể thức ngƣời phƣơng Bắc sang khai mỏ ở nƣớc ta nhƣ Ngô
Thì Sĩ. Cũng nhƣ thế trong Văn tịch chí, các tên sách đều kèm theo tên họ và
tiểu sử sơ lƣợc của tác giả. Ông cũng không quên đƣa ra các nhận xét chính
xác về thơ văn của họ, nêu lên đƣợc cái xuất thần làm nên văn chƣơng của
từng bậc danh nho. Các nhà thơ, văn thời trung đại đều đƣợc ông tập hợp lại
và khái quát ví dụ nhƣ Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Trần Nguyên Đán,
Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn…Trong Bang giao chí đã lập danh
sách những ngƣời có công đi sứ, đề cập đến những nhân vật có tài ứng đối
bảo vệ uy tín quốc gia, không cho bọn Phong kiến phƣơng Bắc phạm tới
(Nguyễn Trung Ngạn, Ngô thì Sĩ…) hoặc đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ (Nguyễn Huy Nhuận và Nguyễn Cống Thể). Nhƣ vậy ta có thể thấy, các
20
nhân vật lịch sử (nhân tài) đƣợc nói đến rải rác trong hầu hết các thiên của
LTHCLC chứ không phải chỉ riêng ở Nhân vật chí. Các lĩnh vực khác nhau
của các thiên trong LTHCLC, nhất là các yếu tố chính nhƣ đất đai (lãnh thổ và
tài nguyên) tổ chức chính trị xã hội (pháp luật, tục lệ) và con ngƣời gắn chặt
với nhau. Nhân tố chủ yếu và tiên quyết vẫn là con ngƣời. Khi viết Đại Cáo
bình ngô, Nguyễn Trãi đã khẳng định “Nƣớc Đại Việt ta, thực là một nƣớc
văn hiến” với nghĩa “văn” là sách vở, tƣ liệu, văn hóa nói chung, và “hiến” là
ngƣời tài giỏi, trong đó yếu tố con ngƣời vẫn là quan trọng nhất. Vì có ngƣời
tài giỏi thì các thiết chế xã hội văn hóa nói chung và sách vở nói riêng mới
đƣợc kiến tạo.
Nhƣ vậy có thể thấy, thiên Nhân vật chí có vai trò quan trọng trong kết cấu
của toàn bộ tác phẩm vì đây là chƣơng có liên quan đến toàn bộ các chƣơng
khác. Nó làm rõ tiểu sử và công trạng của các nhân vật trong các chí khác
nhau, làm rõ lý do tại sao các nhân vật này lại đƣợc lƣu danh vào sử sách.
Nhƣ vậy, thiên Nhân vật chí có vai trò trọng tâm, góp phần bổ sung và làm
sáng rõ cho toàn bộ tác phẩm.
Thiên Nhân vật chí nói về tiểu sử của các vua chúa, các quan lại, các nho sĩ,
tƣớng sĩ, ngƣời có tiết nghĩa, có tên tuổi trong lịch sử Việt Nam. Hay nói cách
khác đi, đây chính là thiên viết về tiểu sử của mẫu hình thánh nhân quân tử
trong văn học trung đại. Thánh nhân quân tử là mẫu hình nhân vật lý tƣởng
của nho gia. Tuy nhiên, khái niệm thánh nhân quân tử dùng ở đây không chỉ
đơn thuần là ghi chép về lịch sử của các đế vƣơng, vua chúa mà còn là ghi
chép về các nhân vật lịch sử thuộc các loại “thế gia”, “danh thần”, “danh
nho”, “tiết nghĩa”…bao quát cả những nhân vật nổi danh, có những nét phi
phàm, xuất chúng theo quan niệm trung đại để ngƣời đời sau khảo cứu.
21
1.3.Tƣ tƣởng sử học Nho gia của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chƣơng loại chí :
Nếu nhƣ lịch sử Trung Quốc là lịch sử của từng triều đại, thì quốc sử Việt
Nam vốn là lịch sử quốc gia, bắt đầu từ khởi thủy rồi trải qua các thời kì lịch
sử. Lịch sử văn hóa văn học Việt Nam là lịch sử bị chi phối bởi các hệ tƣ
tƣởng khác nhau hay nói cách khác đó là hệ tƣ tƣởng “Tam giáo đồng
nguyên” Nho- Đạo- Phật cùng song hành tồn tại. Nhƣng thời kì các bộ sử lớn
xuất hiện thì Nho giáo giữ địa vị gần nhƣ thống trị. Các sử gia chịu sự chi
phối của tƣ tƣởng Nho gia nên quan niệm viết sử và cách viết sử cũng chịu
ảnh hƣởng lớn của hệ tƣ tƣởng này. Mỗi nhà viết sử đều có quan niệm và mục
đích ghi chép sử khác nhau.
Ngô Sĩ Liên thì lấy việc ghi chép quốc sử là một điều quan trọng, để tỏ rõ sự
trị hóa lúc thịnh lúc suy, lúc lìa lúc hợp của nƣớc nhà. Chép sử không chỉ
nhằm mục đích đơn thuần là để “cơ vi về dĩ vãng” mà còn để làm gƣơng răn
dạy đời sau. Ngô Sĩ Liên vẫn theo quan điểm truyền thống về lịch sử của các
Nho gia nhƣ một quá trình thịnh suy, hƣng vong, bĩ thái có tính chất chu kì
của các triều đại trị vì và truy tìm nguyên nhân của sự thịnh suy ấy, nhằm rút
ra những bài học đạo đức nhắn gửi cho những ngƣời làm chính trị đời sau.
Quan điểm này từng đƣợc nhấn mạnh trong một số tác phẩm sử Trung Quốc
nhƣ Kinh Xuân Thu của Khổng Tử, Sử ký của Tƣ Mã Thiên, Tư trị Thông
giám của Tƣ Mã Quang. Các nhà sử học của Việt Nam thời kỳ trung đại trong
quá trình ghi chép sử cũng chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng sử học của các Nho gia
Trung Quốc và Phan Huy Chú cũng không phải là trƣờng hợp ngoại lệ.
Phạm Công Trứ thì nêu rõ mục đích của việc ghi chép quốc sử. Chép sử để
ghi chép công việc, chính trị của từng đời. Ghi chép sử để “giữ nghị luận
nghiêm, tô điểm việc chí trị sáng tỏ ngang với mặt trăng, mặt trời”, và hơn
nữa là để răn đe kẻ loạn tặc, phát hiện và phân chia kẻ tốt ngƣời xấu.
Mỗi nhà chép sử đều có quan niệm và mục đích chép sử khác nhau, nhƣng
đều hƣớng đến mục đích chung là treo gƣơng, răn đời, hƣớng đến phản ánh xã
hội phong kiến. Nhiều khi các sử gia đã nhìn nhận nhân vật lịch sử thiếu tính
22
khách quan mà mang màu sắc chủ quan. Mục đích viết sử dù lớn hay nhỏ đều
hƣớng đến sự khen chê, nêu gƣơng đạo đức và chở Đạo. Điều này cũng ảnh
hƣởng không nhỏ đến tƣ duy và quan niệm chép sử của Phan Huy Chú.
Lịch triều hiến chương loại chí đƣợc ông ghi chép để dâng vua nên ngay
trong “Bài tựa” của mình, Phan Huy Chú đã nói đến cái chí “lập ngôn” của
mình: “Tôi, từ nhỏ đi học vẫn thường có cái chí ấy. May nhờ được sách vở
của các đời để lại và sự dạy dỗ của gia đình, nên về điển chương, gọi là có
biết qua đầu mối, nhưng hiềm vì sử sách tản mát chưa kịp sửa chép. Từ khi
vào núi đến giờ mới đóng cửa tạ khách cố sức tìm nhặt, sau khi đọc sách
được nhàn rỗi, thì lại tùy từng loại mà khảo xét và đính chính…”[15,
tr.14].Phan Huy Chú có chí lớn lại đƣợc hun đúc bởi các yếu tố môi trƣờng
dòng họ tốt lành, có ông là tiến sĩ Phan Huy Cận, bố là tiến sĩ Phan Huy Ích,
chú là tiến sĩ Phan Huy Ôn, bác là Tiến sĩ Ngô Thì Nhậm đều là những nhân
vật kiệt xuất và tác gia nổi tiếng. Cái chí lập ngôn của Phan Huy Chú cứ dần
dần lớn trong điều kiện thuận lợi nhƣ vậy. Ông ghi chép lịch sử là để giữ gìn
truyền thống quốc sử của nƣớc nhà. Sự ghi chép xuất phát từ tinh thần tự hào
dân tộc và trên nền tảng sẵn có: “Nước Việt ta, từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần,
phong hội đã mở, đời nào cũng có chế độ của đời ấy. Đến đời nhà Lê,kiến
thiết kĩ càng phép tắc đầy đủ, thanh danh của nước và văn hóa nhân tài đều
thịnh không kém gì Trung Hoa.” [15, tr.13], và ý thức trách nhiệm gìn giữ lịch
sử nƣớc nhà của một ngƣời học giả: “Huống chi từ năm Bính Ngọ có việc
binh đao đến giờ, sách cũ tan nát, chỉ còn được một ít của các cố gia thế tộc
cất giấu đi. Các sách nát vở cũ còn lại biên chép đều lẫn lộn, sai lầm chưa có
đầu mối, có bàn về điển cố của các triều thì lờ mờ không bằng cứ vào đâu.
Vậy thời chép lấy những điều mắt thấy tai nghe ,chia ra từng việc, từng loại
để làm một quyển sách có khuôn phép há chẳng là nhiệm vụ của người học
giả ru?” [15, tr.13]. Trong suy nghĩ của mình, Phan Huy Chú đã nhận thức
đƣợc tình trạng sách vở đƣợc những ngƣời đi trƣớc biên soạn đều đã cũ nát
lẫn lộn, điển cố, điển tích thì lờ mờ không có căn cứ chính xác. Với tinh thần
23
của một nhà Nho, một học giả ông đã tự đặt cho mình trọng trách nặng nề đó
là ghi chép lại những điều mà mình biết, phân loại sách vở khác nhau để
ngƣời đời sau có thể khảo cứu. Đó cũng chính là tinh thần, ý thức, trách
nhiệm của một ngƣời học giả trong việc truyền giữ những giá trị truyền thống
văn hóa lịch sử của nƣớc nhà. Tinh thần học giả này thật đáng để ca ngợi và
noi theo.
Đối với từng thiên khác nhau trong Lịch triều hiến chương loại chí thì mục
đích chép sử của Phan Huy Chú cũng khác nhau. Trong Nhân vật chí, Phan
Huy Chú đã tham khảo thêm cách chép sử của Ban Cố. Ông vừa tham khảo,
lại vừa khắc phục đƣợc những nhƣợc điểm của Ban Cố trong quá trình ghi
chép về nhân vật lịch sử. Mục đích ghi chép các nhân vật lịch sử của Ban Cố
là để phân biệt nhân tài, hơn, kém, cao, thấp... từ đó đƣa ra những thái độ
hành xử riêng. Khi nói về cách chép sử này ông đã viết: “Sở dĩ sử của Ban
(Cố)chép có chín bậc nhân vật là để tỏ rõ sự tích mà phân biệt người hơn kém
khác nhau” [15, tr.219]. Phan Huy Chú cũng phân loại nhân vật thành các
mục Dòng chính thống các đế vương, Người phò tá công lao tài đức, Tướng
có tiếng và tài giỏi, Nhà nho có đức nghiệp, Bề tôi tiết nghĩa với quan niệm
rất rõ ràng : “vua hiền chúa sáng kế tiếp nổi lên, danh khanh lương tá thường
xuất hiện. Các danh tài tuấn kiệt đời đời đều có, hoặc có người ghi công vào
đỉnh vạc, hoặc có người lập công với lưỡi búa cờ mao, có người nổi tiếng ở
làng văn, có người tỏ khí tiết trong lúc cùng, đều là những người có nhiều tài
năng đáng chép, có công nghiệp danh vọng đáng khen, mà trên dưới một
nghìn năm xuất hiện lũ lượt” [15, tr.219]. Cũng là hình thức ghi chép sử nhƣ
Ban Cố, nhƣng nội hàm, ý nghĩa thì đã hoàn toàn khác. Khi ghi chép về tiểu
sử các nhân vật, tác giả không hề có mục đích chép sử để phân biệt ngƣời tài
hơn kém hay địa vị cao thấp giống nhƣ Ban Cố mà sự phân loại của tác giả
chỉ là các nhân vật “khác nhau”,chứ không phải trên / dƣới/cao/thấp. Mỗi
nhân vật đều có công lao, sự đóng góp công trạng cho nƣớc nhà trong từng
lĩnh vực, không ai hơn ai, đều rất đáng để ghi chép.
24
Ở Phan Huy Chú, ngoài tƣ duy khoa học, ta còn thấy một cái nhìn công bằng,
khách quan trong quá trình ghi chép sử. Nếu nhƣ các sử gia khác ghi chép lịch
sử để treo gƣơng và chở Đạo thì Nhân vật chí cũng đã thể hiện mục đích chép
sử của ông đó là nêu gƣơng răn dạy ngƣời đời sau về lòng trung chữ hiếu và
giữ tiết nghĩa “Thu nhặt mà chép ra để là khuôn phép, do đó noi gương mà
bắt chước, thì công việc trị nước giúp đời mới có thể nắm được bản lĩnh...”
[15, tr. 16]. Do đƣợc rèn luyện và học tập theo sách vở nho gia nên quan điểm
chép sử của ông là quan điểm của một nhà nho chính thống. Thu nhặt chép sử
cũng không nằm ngoài mục đích treo gƣơng và truyền bá Đạo thánh hiền để
ngƣời đời sau có thể nhìn vào đó mà học tập.
Nhƣ vậy trong tƣ tƣởng của mình, Phan Huy Chú chép sử không chỉ đơn
thuần để lƣu giữ kho tƣ liệu cho lịch sử nƣớc nhà mà còn để theo đuổi một
luân lý đạo đức chứ không phải để tìm kiếm quy luật vận động khách quan,
thịnh suy của lịch sử. Đây cũng là điều dễ hiểu vì Phan Huy Chú là một nhà
nho chính thống.Tƣ tƣởng Nho gia đã thấm sâu vào đời sống tinh thần của
ông và đã trở thành kim chỉ nam để biên soạn lịch sử. Trong quá trình ghi
chép sử, tƣ tƣởng này thể hiện rất rõ ở những lời bình xét của ông. Phan Huy
Chú đã đứng trên lập trƣờng đạo đức của nho gia nhƣ tam tòng tứ đức, tam
cƣơng ngũ thƣờng…để nhìn nhận và đánh giá các nhân vật lịch sử. Tất cả các
nhân vật lịch sử đƣợc ghi chép nhƣ những vị vua anh minh hay hủ bại, các
bậc bề tôi trung quân ái quốc hay nghịch tặc phản bội cũng đều đƣợc tác giả
nhìn nhận theo ngƣời chuẩn mực của nho giáo. Điều này thể hiện ở những lời
bình luận khen chê sắc sảo của ông về những nhân vật lịch sử ở từng giai
đoạn lịch sử khác nhau.
25
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG VÀ CÁCH PHÂN LOẠI CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRONG THIÊN NHÂN VẬT CHÍ –
LỊCH TRIỀU HIẾN CHƢƠNG LOẠI CHÍ
2.1. Quan điểm chọn nhóm và mục đích phân loại nhân vật trong thiên Nhân vật chí
Trong một quốc gia dân tộc, nhân tài là một phần quan trọng. Một quốc gia có
lãnh thổ riêng, vị thế riêng mà không có nhân tài thì quốc gia đó cũng không
thể phát triển đƣợc. Chính vì thế mà thiên Nhân vật chí đƣợc đặt ngay sau Dư
địa chí. Vì theo ông “có nƣớc thì phải lấy dân làm gốc” ông dành hẳn một
thiên để nói về các nhân vật quan trọng, thiết yếu, chủ chốt của đất nƣớc. Nếu
nhƣ ở các tác phẩm ghi chép lịch sử khác nhƣ Đại Việt sử kí toàn thư, trục
chính của bộ sử xoay quanh các sự kiện có liên quan đến đời sống cung đình,
các nhân vật lịch sử chủ yếu là các bậc vua chúa, quan lại, các bậc trung thần
hay gian thần thì đến Phan Huy Chú, việc ghi chép về nhân vật lịch sử đã có
sự mở rộng. Không chỉ ghi chép lịch sử về các bậc đế vƣơng, các tƣớng hầu
công khanh, các văn thần võ tƣớng mà ông còn ghi chép về các nhân vật
không có địa vị gì nhƣng lại có công trạng và có đạo đức trong xã hội nhƣ các
danh nho, các bậc bề tôi tiết nghĩa.
Thiên Nhân vật chí là sự ghi chép về các nhân vật có thật trong lịch sử nƣớc
nhà. Năm mục mà Phan Huy Chú phân loại có thể sắp xếp thành hai phần lớn
là vua chúa và bề tôi. Mục đích sắp xếp này đã đƣợc Phan Huy CHú viết ngay
trong câu mở đầu của thiên Nhân vật chí: “Nước lấy người làm gốc. Trong đó
nhân phẩm có cao thấp không giống nhau. Trên có vua, quan sửa sang chỉnh
đốn việc nước, dưới có các sĩ phu kẻ xuất người xử. Người hiền hay không có
khác nhau, thì nước trị hay loạn do đó mà có khác. Cho nên bàn đến việc đời
phải phân biệt nhân tài.”[15, tr. 219]. Ghi chép về vua chúa quan lại trƣớc rồi
mới ghi chép đến những danh nho có tiếng và đóng góp cho việc xây dựng đất
nƣớc. Họ đều là những ngƣời trung quân ái quốc, vì tiết nghĩa mà hy sinh.
26
Phan Huy Chú cũng đã thuyết minh cho sự phân loại của mình. Trong lời mở
đầu của Nhân vật chí, ông đã viết: “Dân sinh ra phải có người coi sóc chăn
nuôi, thì vua chúa truyền nối phải xét đến hệ thống”[15, tr.219] Chép vua lên
trƣớc nhất vì vua là ngƣời đứng đầu một quốc gia, vua điều hành cai trị một
đất nƣớc, nƣớc có phát triển hay không còn tùy thuộc vào ngƣời đứng đầu có
phải là vua hiền chúa sáng hay không. Theo quan niệm của các nhà nho xƣa,
vua có hiền, chúa có sáng thì dân mới yên ổn và sung túc, đất nƣớc mới thái
bình thịnh trị. Còn ghi chép về bề tôi ông quan niệm: “Đời nào nổi lên cũng
đều có những người giúp đỡ thì nên ghi chép công lao của các bầy tôi văn
võ” vì chính họ là những cánh tay đắc lực phò vua giúp nƣớc. “ Các người
văn nho tài học và phẩm hạnh nổi tiếng, các trung thần bỏ mình giữ lấy tiết
nghĩa trong khi hoạn nạn đều liên quan đến vận mệnh của đất nước, quan hệ
đến luân thường của người”[15, tr. 219]. Trên thực tế, trong Nhân vật chí,
phần ghi chép về vua chúa, ông ghi chép khá sơ lƣợc về cuộc đời và quá trình
trị vì của họ. Còn khi ghi chép về các bề tôi thì ông lại ghi chép rất rõ. Điều
này xuất phát từ quan niệm trọng nhân tài và quan niệm về việc chép sách nêu
gƣơng. Hơn nữa, ông đã có cái nhìn rất sâu sắc về tình hình biên soạn lịch sử
của nƣớc ta. Các nhân vật lịch sử nhƣ vua chúa, đế vƣơng đã đƣợc nhiều sách
sử chép lại, trƣớc sau đều đầy đủ.Khi cần thiết, có thể khảo cứu từ kho tƣ liệu
quốc sử phong phú. Nhƣng sách sử ghi chép về bề tôi có công trạng với đất
nƣớc lại rất hiếm hoi. Họ đều là những tấm gƣơng sáng có thể đem ra cho
muôn đời sau học tập. Ghi chép lại, vừa là để lƣu giữ tên tuổi của họ, vừa là
để treo gƣơng cho thế hệ sau. Chính vì vậy, ông chú trọng ghi chép về các
nhân vật bề tôi để đời sau có thể noi gƣơng và khảo cứu. Mục đích của Nhân
vật chí đã đƣợc Phan Huy Chú nói rất rõ trong Lời dẫn thứ tự các chí. Theo
ông, “đạo làm người trên phải để tâm về việc trị nước thì mới hay; đạo làm
người dưới phải giữ hết lòng trung thì mới tốt. Làm người học trò phải có ý
nghĩ sâu xa, lúc lâm nạn phải giữ tiết tháo bền vững đều là đạo thường phải
thế, không thể vượt qua” [15, tr. 16]. Vì vậy, ghi chép lại những tấm gƣơng đó
27
là công việc rất cần thiết. “Thu nhặt mà chép ra để làm khuôn phép, do đó noi
gương mà bắt chước, thì công việc trị nước giúp đời có thể nắm được bản
lĩnh.” [15, tr. 16].
Rõ ràng khi viết Nhân vật chí, tác giả đã muốn nêu những tấm gƣơng sáng
trong cuộc sống của tiền nhân để sau này những vua chúa cũng nhƣ mọi kẻ sĩ
lấy đó làm khuôn phép và cố gắng noi theo.
Ông cũng nhìn ra sự thiếu sót của các sử gia đời trƣớc, đó là chỉ ghi chép bản
kỷ(chép các công việc của các đời vua) còn liệt truyện (công việc của các bề
tôi giỏi) thì còn thiếu sót rất nhiều. Trong lịch sử của Đại Việt, ngoài vua hiền
chúa sáng thì các danh tài tuấn kiệt đời đời đều có, có ngƣời lập công ngoài
chiến trƣờng, có ngƣời văn nho, phẩm hạnh nổi tiếng, các trung thần bỏ mình
giữ lấy tiết nghĩa trong hoạn nạn… Tất cả đều đáng đƣợc ghi danh để ngƣời
khảo cổ có thể ghi nhớ và phân biệt. Chính vì vậy, ông chủ trƣơng sắp xếp
các nhân vật lịch sử dựa vào chức vị và công đức. Mỗi nhóm nhân vật đều có
đặc trƣng riêng để phân biệt. Nhân vật vua chúa gắn với quá trình trị vì. Nhân
vật ngƣời phò tá thì gắn với công lao to lớn mà họ làm đƣợc cho quốc gia dân
tộc. Nhân vật tƣớng có tiếng và tài giỏi thì gắn liền với công lao đánh giặc và
dẹp yên giặc dã. Còn nhóm nhân vật danh nho và bề tôi tiết nghĩa thì lại đƣợc
ghi chép cùng với thơ văn hay hành động hy sinh vì tiết nghĩa của họ. Điều
này thể hiện một tƣ duy logic và khoa học trong việc ghi chép sử của Phan
Huy Chú mà ngƣời nghiên cứu có thể khảo cứu và so sánh một cách dễ dàng.
Dựa trên quan điểm này, ông phân chia hệ thống nhân vật thành các mục nhỏ:
Dòng chính thống các đế vương.
Người phò tá công lao có tài đức.
Tướng có tiếng và tài giỏi.
Nhà nho có đức nghiệp.
Bề tôi tiết nghĩa.
Gọi chung là Nhân vật chí.
28
2.2. Hệ thống nhân vật
2.2.1 Nhân vật dòng dõi chính thống các đế vƣơng
Nhân vật lịch sử đƣợc các sử gia quan tâm nhiều nhất là các bậc đế vƣơng.
Đây cũng là hệ thống nhân vật đƣợc ghi chép nhiều nhất trong các tác phẩm
chính sử.
Nhân vật đế vƣơng hay còn gọi với danh xƣng là hoàng đế hay quốc vƣơng,
là những danh hiệu khác đều dùng để chỉ những nhân vật có tầm quan trọng
và ảnh hƣởng lớn đối với vận mệnh của một quốc gia, dân tộc. Họ là những
nhân vật trọng yếu đứng đầu chế độ quân chủ và hầu nhƣ có mặt ở tất cả các
ngôn ngữ, phản ánh tính phổ biến hiển nhiên của loại nhân vật lịch sử này.
Các nền văn minh và sự hình thành hay hủy diệt của một đất nƣớc đều gắn
chặt với tên tuổi của của các bậc đế vƣơng hùng mạnh. Trong lịch sử các chế
độ chuyên chế phƣơng Đông, ngôi vua đã đƣợc khẳng định tất yếu là phải tồn
tại và một khi đã tồn tại là tối thƣợng và bất khả tƣ nghị. Ngôi vua tồn tại hơn
ba nghìn năm ở Trung Quốc, hàng nghìn năm ở Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật
Bản. Vì vậy, nhân vật đế vƣơng hay hoàng đế là một cƣơng vị đặc biệt với
nhân cách đặc biệt, không chỉ chi phối đến lịch sử phát triển của một quốc gia
mà còn có tác động vô cùng to lớn tới lịch sử hình thành và phát triển của các
loại hình nhân cách khác trong xã hội phƣơng Đông nói chung và trong lịch
sử của Việt Nam nói riêng.
Chính vì có vị trí hết sức đặc biệt nhƣ vậy nên sẽ là một thiếu sót lớn khi ghi
chép về nhân vật lịch sử của quốc gia, dân tộc mà lại không ghi chép tiểu sử
của loại hình nhân vật này. Ý thức đƣợc tầm quan trọng đó, nên trong thiên
Nhân vật chí, Phan Huy Chú đã lấy việc ghi chép tiểu sử của các nhân vật
Dòng dõi chính thống các đế vương lên trƣớc nhất rồi mới ghi chép đến lịch
sử của các nhân vật ngƣời phò tá có công lao tài đức, các tƣớng có tiếng và tài
giỏi rồi mới đến nhân vật các nhà nho, bề tôi tiết nghĩa. Đây là sự sắp xếp từ
cao xuống thấp theo công trạng, địa vị và chức phận của mỗi loại hình nhân
29
vật trong xã hội phong kiến. Điều này thể hiện một tƣ duy khoa học, tƣ duy
phân loại và sự “phân biệt nhân tài” để “bàn đến chuyện đời”.
Cũng theo ông, sử ký bao đời nay đều ghi chép đủ cả bản kỷ và liệt truyện.
Nhƣng các sử gia đời trƣớc chỉ chú ý đến ghi chép bản kỷ (chép công việc của
các đời vua) còn liệt truyện (chép công việc của các bề tôi giỏi) còn nhiều
thiếu sót, điều này đã làm cho ngƣời khảo cổ không thể phân biệt rõ. Nên khi
ghi chép về tiểu sử của các bậc vua chúa, Phan Huy Chú chỉ ghi chép một
cách đại cƣơng, sơ lƣợc, còn “chép về ngƣời tài giỏi thì chép rõ cả sử trạng.”
[15, tr.23]. Điều này khác với tƣ duy tinh thần ghi chép lịch sử về nhân vật
trong văn học trung đại nói chung từ trƣớc đến giờ. Trong các bộ sử của văn
học trung đại ghi chép về lịch sử của các triều đại phong kiến nhƣ Đại Việt sử
ký toàn thư, nhân vật lịch sử đƣợc các sử gia quan tâm nhiều nhất là các bậc
đế vƣơng. Trục chính của bộ sử cũng chỉ xoay quanh các triều đại, các sự kiện
lịch sử chủ yếu là các sự kiện có liên quan đến đời sống cung đình đƣợc kể lại
theo nguyên tắc biên niên, có đối chiếu với lịch sử biên niên theo các triều đại
của Trung Quốc. Các nhân vật lịch sử thƣờng là các bậc vua chúa, quan lại,
các bậc trung thần hay gian thần, họ đƣợc kể lại qua sự tái hiện lời nói việc
làm, các quan hệ tƣơng tác qua lại với nhau. Nhƣng cách ghi chép sử của
Phan Huy Chú thì khác. Ông không chú trọng đến ghi chép hay miêu tả hành
động ngôn ngữ của các bậc vua chúa mà khi chép về Dòng chính thống các đế
vương, Nhân vật chí ghi những triều đại nối tiếp nhau, có sự phân biệt dòng
chính thống hay không chính thống (tác giả gọi là Nhuận). Tự hào về bề dày
của lịch sử, về sự đông đảo các danh nhân anh hùng, Phan Huy Chú còn lƣu ý
tới khía cạnh dân tộc của vấn đề này. Trong khi ghi chép lại thế thứ của các
dòng vua, Phan Huy Chú đã dừng lâu và ghi chép khá tỉ mỉ về những ông vua
đƣợc coi là “minh quân” có công dựng nƣớc hoặc giữ nƣớc trong lịch sử.
Còn đối với những ông vua khác thì tác giả chỉ ghi vắn tắt, lƣớt qua.
Đi theo tinh thần ghi chép sử chung của các bậc thần sử trƣớc mình, nhƣng
Phan Huy Chú cũng đã chọn cho mình một cách ghi chép sử riêng, khác biệt
30
với tƣ duy chép sử của văn học trung đại nói chung. Ta thấy ở ông một tƣ duy
lịch sử ngắn gọn, khúc chiết. Khi ghi chép về tiểu sử vua chúa, bên cạnh
những nhân vật gắn liền với mô tip chung của thi pháp trung đại, đa số hình
tƣợng nhân vật đế vƣơng khác, ông không đi sâu miêu tả kĩ ngoại hình, hành
động hay nội tâm tính cách mà ông chỉ ghi chép một cách hết sức tóm tắt về
toàn bộ cuộc đời của các bậc vua chúa. Tuy gọi là ghi chép tóm tắt, nhƣng
ông không hề ghi chép sơ sài mà toàn bộ cuộc đời nhân vật cứ hiện lên theo
từng mốc thời gian và những mốc quan trọng nhất trong cuộc đời của nhân
vật. Ông tuân theo một trình tự nhất định là ghi chép một cách ngắn gọn về
họ, tên, rồi mới đến nơi sinh, nguồn gốc xuất thân và thời gian cai trị, sau khi
mất lấy niên hiệu gì. Không chỉ vậy, ông còn xen kẽ các lời bình, nhận ra
công trạng đƣợc mất của các bậc vua chứ không chỉ đơn thuần là ca ngợi nêu
gƣơng. Đây có thể coi là sự sai lệch form khi miêu tả, ghi chép về một mẫu
hình nhân vật hoàng đế trong văn học cũng nhƣ sử học.
Các đời vua cứ thế nối tiếp nhau theo dòng thời gian. Cuộc đời của những đế
vƣơng thƣờng gắn với những sự kiện lớn của đất nƣớc, dân tộc.
Phần ghi chép này, thông qua việc trình bày những nét lớn về đời sống những
vua chúa, đế vƣơng kèm theo những ghi chú và trình bày quan điểm của
riêng mình, Phan Huy Chú đã phác họa toàn bộ quá trình dựng nƣớc và giữ
nƣớc, từ thời thƣợng cổ, khi lịch sử còn mang nhiều màu sắc truyền thuyết
đến thời cận đại. Mỗi triều đại đƣợc ghi rõ có mấy vua, hoàn cảnh xuất thân,
lên ngôi trị vì bao nhiêu năm, có mấy niên hiệu và đƣợc đối chiếu với niên
hiệu Trung Quốc. Những ghi chép này đều đƣợc rút ra từ chính sử, nhƣ Đại
Việt sử ký toàn thư nên vẫn là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy. Tuy dựa vào chính
sử nhƣng Phan Huy Chú không nhất thiết tuân theo chính sử mà có nhận xét
và quan điểm của riêng mình.
Ông có nhiều quan điểm tiến bộ khi ghi chép và nhận xét về các triều đại trị vì
của các ông vua. Ví dụ điển hình nhất là ông đã không đi theo quan điểm sử
cũ mà gạt bỏ Triệu, không coi nhƣ một triều đại chính thống và đã viết: “Sau
31
khi An Dương Vương mất, nước ta thuộc về họ Triệu. Bắt đầu từ Vũ đến Vệ
Dương Vương, cả thảy 97 năm. Nước ta khi ấy lại thuộc về hai nhà Hán, bắt
đầu từ [Tây Hán]. Vũ đế năm Nguyên Phong thứ nhất [110 tr. C.n] đến
[Đông Hán] Quang Vũ năm Kiến Vũ thứ 15 [ 39 sau C.n] cả thảy 140
năm.”[15, tr. 222]. Nhƣ vậy Phan Huy Chú đã mặc nhiên bác bỏ cách nhìn
của các sử gia Lê Văn Hƣu và Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử kí và Đại Việt sử
kí toàn thư. Nếu nhƣ Lê Văn Hƣu và Ngô Sĩ Liên không coi họ Triệu nhƣ một
triều đại chính thống mà chỉ là quân xâm lƣợc thì Phan Huy Chú lại coi họ
Triệu nhƣ một triều đại chính thống ngang với Đinh, Lê, Lý, Trần.
Cũng với thái độ ghi chép lịch sử nhƣ vậy, Phan Huy Chú dƣới con mắt nhìn
của một nhà nho chính danh, phân biệt những triều đại chính thống và những
triều đại đƣợc dựng lên do cƣớp ngôi không chính đáng làm phần phụ. Theo
quan điểm phong kiến, cƣớp ngôi vua cũng đồng nghĩa với việc bất trung, bất
nghĩa nên những dòng họ cƣớp ngôi không phải là chính thống. Nhà Nhuận
Hồ của Hồ Quý Ly và Hán thƣơng cƣớp ngôi Trần, Nhà Mạc của Mạc Đăng
Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp cƣớp ngôi Lê
đều đƣợc coi là không chính thống. Trong quan điểm nho giáo, hành động
cƣớp ngôi là hành động bất trung của bậc quân thần, đáng bị lên án. Chính vì
vậy, tất cả những ông vua nhà Hồ hay Nhà Mạc đều không đƣợc coi là có
dòng máu thiên tử, lên ngôi không chính thống nên Phan Huy Chú gọi là
Nhuận, nghĩa là dƣ thừa và chỉ là chép “phụ” vào vì theo ông đó là những sự
kiện không thể bỏ sót. Nhƣng ngƣợc lại Phan Huy Chú lại có cách nhìn rộng
rãi với nhà Trịnh. Ông chép ngay sau nhà Lê và coi ngang hàng với nhà Lê.
Ông nêu rõ lí do: “các đời chúa Trịnh giúp vua Lê chuyên giữ quyền chính,
dòng dõi họ cũng nên chép đủ cả.” [15, tr. 259]. Khi ghi chép về chúa Trịnh,
ông ghi chép với một thái độ trân trọng, không chép thẳng tên mà dùng niên
hiệu hay chức tƣớc. Những nhân vật trong dòng dõi chúa Trịnh đƣợc gọi lần
lƣợt với các tên nhƣ “thế tổ”, “thành tổ”, “văn tổ”, hoàng tổ”, “chiêu tổ”,
“Điện đô vƣơng”, “Đoan Nam vƣơng”. Trong con mắt của Phan Huy Chú,
32
dòng họ chúa Trịnh có công phò tá vua Lê, xây dựng đất nƣớc. Tiêu biểu nhất
là Thành tổ Triết Vƣơng “Trong hai mươi năm kinh dinh đất nước, cuối cùng
dẹp được kẻ tiếm nghịch, khôi phục nhà Lê, công trùm thiên hạ, oai lừng khắp
nơi, mới được sắc phong vẻ vang, lễ đãi long trọng. Ông thực sự làm chúa
cầm quyền chính, công lao sự nghiệp danh vọng lừng lẫy.” [15,tr 251]. Không
chỉ vậy dòng họ này còn đƣợc vua ban nhiều ƣu ái. Nhƣ Chiêu tổ khang
Vƣơng “Vua tôn trọng chúa khác thường, tấu sớ không phải đề tên, vào chầu
không phải lạy, lại cho đặt ghế ngồi coi chầu ngay bên tả, đủ các thứ yêu
chuộng… Chúa phò Lê Hy Tông giữ chính quyền 26 năm, thọ 77 tuổi.” [15, tr.
253]. Các nhân vật thuộc dòng dõi chúa Trịnh đều đƣợc Phan Huy Chú ghi
chép lại với thái độ ngợi ca. Dòng chúa Trịnh đƣợc coi ngang hàng với vua
Lê. Ông cho rằng họ này có những đóng góp lớn trong việc trị nƣớc trên hai
thế kỉ cũng không thể bỏ sót.
Một điểm đáng lƣu ý nữa là Phan Huy Chú bắt đầu ghi chép là từ thời Kinh
Dƣơng Vƣơng dựng nƣớc đến Lê Chiêu Thống, tức không chép về nhà
Nguyễn. Không gian cũng hạn chế ở Đàng Ngoài, còn những nhân vật Đàng
Trong (thuộc chúa Nguyễn) thì ông không ghi chép vì theo ông đã nói ở lời
bàn, các chúa đàng Trong đã đƣợc ghi chép đầy đủ và có thể khảo cứu trong
quốc sử nên ông không dám lạm chép:“Còn như các chúa trước của hoàng
triều ta cai trị xứ đàng Trong, huân nghiệp thịnh vượng trong 200 năm; đã có
quốc sử chép, truyền lại muôn đời, tôi đâu dám lạm chép.” [15, tr. 259]. Sách
đƣợc viết dƣới triều Nguyễn vốn không coi trọng dòng họ này nên thái độ của
ông đƣợc coi là thẳng thắn và dũng cảm.
Các bậc đế vƣơng đƣợc ghi chép liên tục và toàn bộ, không phân biệt giỏi
kém, tốt xấu, khác với bề tôi chép ở các phần sau, chỉ nêu những ngƣời có sự
nghiệp, nổi gƣơng sáng cho đời sau. Do đó, đối với các vua chúa, Phan Huy
Chú đã bày tỏ quan điểm và thái độ của riêng mình, bên cạnh những lời biểu
dƣơng là sự phê phán khi cần thiết.Hầu hết nhân vật đế vƣơng, Phan Huy Chú
cũng đều bày tỏ quan điểm, lời nhận xét riêng. Tùy vào hoàn cảnh, ông đều
33
chỉ ra những chỗ đƣợc và mất ở mỗi vị vua. Ông bày tỏ thái độ ca ngợi với
những vị vua hiền trị vì bờ cõi và đất nƣớc yên ổn thái bình. Ông viết về Hiến
Tông Duệ Hoàng Đế : “Vua vẻ người đứng đắn, tuấn tú được cha yêu. Khi đã
lên ngôi, hiệu là Thượng dương động chủ, ngày sinh làm “ Thiên thọ thánh
tiết”, vua noi theo phép tắc đời trước,thích văn học, giữ sự nghiệp sẵn có,
trong nước yên ổn đáng là đời trị”. Hay nhƣ vua Hy Tông Chƣơng Hoàng Đế,
tác giả ca ngợi về đức trị của vua: “ Vua noi giữ nghiệp cũ ngồi yên mà trị.
[Bấy giờ] giường mối hơn trước, thưởng phạt nghiêm minh, công khanh đều
xứng chức, quan lại giữ phép, nhân dân yên nghiệp; bình trị hơn tất cả các
đời trong thời Trung Hưng”. Đời trị vì của Dụ Tông Hòa Hòang Đế thì “Bấy
giờ nối nghiệp thái bình, không biết việc đao binh, trong nước vô sự. Triều
đình đặt nhiều việc pháp độ, kỷ cương rất hẳn hoi đầy đủ, các phương xa đến
cống hiến và Trung Quốc trả lại đất đai. Thực là đời rất thịnh.” [15, tr.248].
Ông cũng mạnh dạn bày tỏ quan điểm thái độ phê phán bên cạnh những lời
biểu dƣơng khi cần thiết. Ông viết về Thái Tông hoàng đế “khi cầm quyền thì
đánh đâu được đấy vũ công lừng lẫy. Lại khuyên dân làm ruộng, tự mình cày
tịch điền, thân oan, đặt luật. Vua trị nước chuyên dùng nhân từ khoan thú, là
vị vua hiền nối được cơ nghiệp. Nhưng vua hành động không theo lễ, khoe
khoang tự đắc nên nhà làm sử còn chê ở chỗ đó” [15, tr.232]. Ông cũng chê
Thần Tông Hoàng đế mê tín dị đoan, quá yêu chuộng đạo Phật mà “thích
điềm lành, bị mê hoặc quá, đánh được giặc mà quy công cho Phật, kẻ dâng
hươu mà cho quan tước. Nói đến chuyện ấy ai cũng chê” [15, tr. 230]. Các
bậc thần sử xem Nho gia là tƣ tƣởng chính thống nên những vị vua say mê
đạo Phật bị họ phê phán kịch liệt. Cả Lê Văn Hƣu và Ngô Sĩ Liên đều nêu
nguyên tắc làm vua là không đƣợc say mê đạo Phật. Ngô Sĩ Liên đã nhận xét
về Lý Thái Tổ “Duy có việc ham thích đạo Phật, đạo Lão là chỗ kém.”[35, tr.
252]
Ngoài những quan điểm tiến bộ trên trong cách ghi chép, ta còn thấy ông có
một cách nhìn chính xác hơn các ghi chép sử khác ở thời gian làm vua của
34
một số nhân vật vua chúa trong các triều đại. Ví dụ nhƣ số năm ở ngôi vua
của Tiền Lý Nam Đế, tác giả đã chép “Ở ngôi đƣợc 8 năm”. Trong khi đó Việt
sử thông giám cương mục chép vua ở ngôi đƣợc 5 năm (544- 548), còn Đại
Việt Sử ký cũng chép Lý Nam Đế ở ngôi đƣợc 7 năm. Sách này đã coi năm Lý
Nam Đế đánh chiếm Long Biên đuổi Tiêu Tƣ là năm đầu (Tân Dậu,541) đến
năm Thiên Đức thứ 4(Đinh Mão, 574) là năm cuối, tổng cộng là 7 năm. Vấn
đề đặt ra cho ngƣời khảo sát lịch sử là; số năm nào là chính xác? Đại việt sử
ký tính thời gian trị vì của Lý Nam Đế bắt đầu từ năm Tân Dậu(541)là đúng,
nhƣng đã sai khi chấm dứt thời gian trị vì vào năm 547(vì Lý Nam Đế vẫn
còn sống và ở động Khuất Lão đến tháng 3 năm Mậu Thìn(548) mới mất. Việt
sử thông giám cương mục rất có lý khi chép năm 548 là năm Thiên Đức thứ 5,
và năm Kỷ tị(549) là năm đầu Triệu Việt Vƣơng nhƣng lại quan niệm sai khi
coi thời gian ở ngôi vua chỉ tính từ khi đặt niên hiệu. Phan Huy Chú đã có
cách nhìn xác đáng hơn, tính năm ngôi vua bắt đầu từ năm 541, sau khi đánh
chiếm đƣợc Long Biên, thủ phủ của bọn cƣớp nƣớc hồi đó, và chấm dứt sau
khi Lý Bí đã mất ở động Khuất Lão năm 548, tổng cộng là 8 năm.
Một trƣờng hợp nữa là số năm cầm quyền của Triệu Quang Phục, Nhân vật
chí ghi 24 năm, còn Đại việt sử ký ghi 23 năm, Việt sử thông giám cương mục
chép 22 năm. Nhƣ vậy có sự mâu thuẫn về thời gian trong hai sách chính sử
này. Nhân vật chí đã coi kỉ nguyên Triệu Việt Vƣơng bắt đầu từ năm Nam đế
lui về Khuất lão, giao cho giữ nƣớc, chống với Bá Tiên, tức năm Bính
Dần(546), nhƣ vậy tính đến năm 570, Triệu Việt Vƣơng gieo mình xuống
biển mất thì thời gian giữ nƣớc đúng là 24 năm.
Ta thấy ở mục Dòng dõi chính thống các đế vương này, chủ yếu Phan Huy
Chú trình bày và ghi chép đầy đủ tiểu sử sự nghiệp của các nhân vật đế
vƣơng. Điều đặc biệt quá trình ghi chép về tiểu sử của các đế vƣơng là, những
vị vua đƣợc Phan Huy Chú chọn lọc ghi chép đều tuân theo một khuôn mẫu
chung là những ngƣời tài giỏi, có công lớn trong việc gây dựng và trị vì đất
nƣớc. Họ đều đặc biệt từ hình dáng đến tài năng tính cách. Tất cả đều có dung
35
mạo khác thƣờng và xuất thân phi phàm, tài năng đức độ. Đây cũng chính là
hình mẫu lý tƣởng của bậc đế vƣơng trong lòng các sử gia. Vì tƣ tƣởng trung
quân, ái quốc đƣợc coi nhƣ một điều bất biến trong lòng họ. Đã là vua thì
nhân cách, tài năng, đức độ phải hơn ngƣời.
Một điều đáng chú ý trong phần ghi chép về loại hình nhân vật đế vƣơng là,
Phan Huy Chú ghi chép tiểu sử nhân vật nhƣng trong mối liên quan mật thiết
với thời đại các đời vua trị vì. Đối với những triều đại không đƣợc coi là
chính thống nhƣ họ Hồ, họ Mạc, Phan Huy Chú cũng ghi chép đầy đủ các
nhân vật vì đó là “sự việc không nên để mất”. Đối với họ Trịnh “giúp vua Lê
chuyên giữ chính quyền, dòng dõi cũng nên chép đủ”.
Dòng dõi chính thống các đế vương chỉ vẻn vẹn mấy chục trang nhƣng đã là
cuốn sử thu nhỏ và súc tích, cung cấp khái quát những tƣ liệu chính xác dễ
tìm về quá trình dựng nƣớc giữ nƣớc của dân tộc ta.
2.2.2.Nhân vật ngƣời phò tá có công lao tài đức
Trong xã hội phong kiến với lịch sử hàng ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc.
Để làm nên sự hƣng thịnh của một triều đại lịch sử không những cần một vị
vua anh minh sáng suốt mà bộ máy quan lại hoạt động tốt cũng là một điều rất
cần thiết. Ghi chép về nhân vật lịch sử, ngoài vua chúa ra thì những ngƣời phò
tá trợ giúp vua cũng cần đƣợc lịch sử nhắc đến và lƣu giữ. Họ là những nhân
vật giữ các trọng trách khác nhau trong triều chính, nhƣng đều cùng chung
một nhiệm vụ là phò tá hay giúp vua cai trị nƣớc nhà, củng cố bộ máy thống
trị. Lúc thời bình, họ giúp vua chăm lo đến đời sống nhân dân, điều hành bộ
máy quân chủ hoạt động bình ổn. Khi nƣớc có nạn chiến tranh giặc giã, họ lại
là ngƣời đƣa ra các sách lƣợc giúp vua chống giặc. Quan trọng hơn, những
nhân vật này là ngƣời dám đứng ra can ngăn vua, hoặc là dâng tấu sớ, hoặc
dùng văn thơ để nhắc nhở lúc vua làm những việc trái với đạo lý luân thƣờng
hay lỗi nghịch ý trời. Có thể nói, họ là những bậc tể phụ có vai trò quan trọng
thứ hai sau nhà vua trong xã hội phong kiến. Họ dùng tận tâm tận lực để phục
vụ cho các đời vua. Phan Huy Chú đã nhận ra tầm quan trọng của những nhân
36
vật lịch sử này và dày công ghi chép lại tiểu sử của họ để noi gƣơng cho đời
sau. Đây cũng là mục số lƣợng nhân vật nhiều hơn cả trong thiên Nhân vật
chí.
Nhân vật Người phò tá công lao tài đức đƣợc chia làm hai phần ở hai quyển
khác nhau. Phần 1, quyển VII, tác giả chép lại Bốn ngƣời đời Lý, mƣời ngƣời
đời Trần, mƣời tám ngƣời đời Lê Sơ, một ngƣời đời Mạc. Phần 2, Quyển VIII
là phần tiếp theo bao gồm ba mƣơi chín ngƣời sau thời Lê Trung Hƣng. Họ
hầu hết là những quan lại có địa vị và quyền thế ở trong triều đình. Họ đều là
những ngƣời theo đạo nho và đọc sách thánh hiền, vì có tài văn võ nên đƣợc
nhà vua trọng dụng. Khi ghi chép tiểu sử về các nhân vật ngƣời phò tá công
lao tài đức, tác giả cho ta biết nhiều chi tiết về họ tên, quê hƣơng, gia thế và
thân thế của nhân vật, sự nghiệp chính trị, văn học, quân sự, đạo đức của từng
ngƣời và sự đánh giá của dƣ luận đƣơng thời. Họ đa phần là những ngƣời có
nhiều tài năng, mƣu lƣợc, có công lao trong việc đi sứ, ngay thẳng với những
bài sớ dâng lên để can gián vua. Ngoài việc ghi chép tiểu sử, lai lịch, xuất
thân và quá trình hoạt động của họ, Phan Huy Chú cũng không quên ghi chép
lại những bài tấu sớ can gián vua và vạch mặt bọn quan lại.Các nhân vật này
đƣợc tác giả ghi chép rất cẩn thận. Từ họ tên, quê quán, tên hiệu là gì, năm
sinh năm mất. Bên cạnh đó, quá trình ra làm quan và cuộc đời của họ.
Lịch sử Việt Nam qua các đời đều có những ngƣời phò tá rất trung thành. Họ
là những bậc quan tể phụ đầu triều, đứng dƣới một ngƣời mà trên vạn ngƣời.
Họ sắp xếp và chăm lo việc chính sự.Đời Lý có các nhân vật đáng chú ý nhƣ
Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành…Lý Đạo Thành ngƣời làng Cổ Pháp, Bắc
Ninh là tôn thất nhà Lý thời Thánh Tông, đƣợc ông yêu mến. Ông làm đến
chức thái sƣ và tham dự vào chính sự trong ngoài triều chính. Ông hết lòng
sắp đặt kế hoạch trong triều, ngoài biên ải. Tô Hiến Thành là nhân vật lúc nhỏ
có tài lƣợc văn vũ, đức trí cùng giỏi. Ông cũng là một vị quan đầu triều, nhận
trọng trách thì dốc hết tâm sức ra làm, khéo xử trong khi biến cố, giữ cho trên
yên và dƣới thuận. Ông đƣợc Phan Huy Chú đánh giá là “không thẹn với
37
phong thể bậc đại thần thời xưa”. Ngoài hai nhân vật này, đời Lý còn có Lê
Bá Ngọc và Lý Kính Tu. Đời Lý tuy có nhiều nhân tài, bề tôi giúp việc cho
vua chúa cũng không phải là ít, song sách sử ghi tên chỉ thấy chức tƣớc chứ
không ghi công trạng. Phan Huy Chú đã chọn lọc trong các nhân vật và chỉ
ghi chép lại những nhân vật thực sự đƣợc ghi rõ công trạng cho quốc gia.
Trong thái độ đối với các nhân vật lịch sử đƣợc ghi chép, ông đặc biệt đánh
giá cao hai đại thần Lý Đạo Thành và Tô Hiến Thành vì “Lý Đạo Thành nhận
việc ký thác vua bé, Tô Hiến Thành phụ chính, lòng trung quân ái quốc phảng
phất giống như của Y Doãn, Chu Công”. Nhƣng ông cũng phê phán những
nhân vật thân giữ chức vụ cao, làm đến chức “sƣ” mà không làm tròn bổn
phận mà làm nhơ nhớp chức phận nhƣ bọn [Mâu] Du Đô, [Lê] Văn Thịnh,
[Lý] Tử Khắc.
Đời Trần có hai nhân vật đáng đƣợc chú ý là Trần Quang Khải, Trần Nguyên
Đán. Cơ đồ vàng son của nhà Lý hơn 200 năm đã bị mục ruỗng và thối nát
không gì cứu vãn đƣợc. Nội chiến xảy ra liên miên, vua Lý không còn khả
năng điều khiển đƣợc đất nƣớc, thậm chí không còn khả năng điều khiển
đƣợc hoạt động của triều đình. Thù trong giặc ngoài đặt đất nƣớc vào tình thế
cấp bách. Vấn đề dựng nƣớc và giữ nƣớc đƣợc đặt ra hơn bao giờ hết. Ở đời
Trần, hào khí Đông A chống giặc cứu nƣớc là hào khí chủ chốt. Do hoàn cảnh
lịch sử có nhiều biến động nên những nhân vật giữ vai trò cốt yếu trong triều
là nhân vật nổi danh, văn võ toàn tài. Phan Huy Chú đã ghi chép lại những
nhân vật giữ trọng trách, có công dẹp thù trong giặc ngoài, ổn định biên
cƣơng. Những cái tên nhƣ Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trƣơng Hán
Siêu, Phạm Sƣ Mạnh, Trần Nguyên Đán…đã đi vào sử sách. Họ là những
ngƣời có công lớn trong sự nghiệp ổn định chính trị và sự vững chắc của nhà
Trần. Không chỉ có tài mƣu lƣợc mà còn có tài văn chƣơng thơ phú. Trần
Quang Khải đƣợc các sử gia đánh giá cao nhất khi nói về công lao thu phục
đất nƣớc. Ông học rộng tài cao, hiểu nhiều các thứ tiếng và đƣợc chọn để sắp
xếp tiếp sứ thần. Trải qua các chức vị khác nhau trong triều, từ Chiêu Minh
38
đại vƣơng, đến tƣớng quốc và Thƣợng tƣớng, ông có công đi đầu trong việc
dẹp yên giặc dã. Trần Nguyên Đán là cháu của Trần Quang Khải, có công
trong việc dẹp giặc cũng là bậc đại thần giữ trọng trách của triều chính. Sau
thấy quyền nƣớc rơi vào tay phản loạn vì bất đắc chí nên lui về cáo lão.
Trƣơng Hán Siêu cũng là vị tƣớng đời Trần. Trải làm các chức vụ khác nhau
nhƣ Học sĩ viện Hàn Lâm, rồi Hành Khiển, thị lang Môn hạ sảnh, Tham tri
chính sự. Năm thứ 13(1353), Chiêm Thành cƣớp Châu Hóa, quan quân thất
lợi, nhờ ông giúp bàn mƣu, trực tiếp cầm quân dẹp yên giặc giã giữ gìn bờ
cõi. Đƣợc đánh giá là văn chƣơng chính sự đều giỏi: “Vua chỉ gọi ông bằng
thầy chứ không gọi bằng tên”.
Những nhân vật phò tá có công lao tài đức đời Trần đƣợc Phan Huy Chú đánh
giá và liệt vào các bậc tể phụ có công với nƣớc nhà, bao gồm cả những ngƣời
trong dòng tôn thất và những ngƣời nho học có văn chƣơng học vấn, đều là
những ngƣời đức tốt tài cao đƣợc trọng dụng. Họ cứng cỏi, quả quyết, có tài
năng khí phách, phong độ tiết tháo, đều là anh tài một đời nên đều đáng đƣợc
lƣu danh sử sách. Phan Huy Chú đã ghi chép lại để treo gƣơng cho đời sau
học tập. Riêng Trần Nguyên Đán, tuy chƣa có công lao rõ rệt nhƣng lại biết
thời cơ và lui về, cũng đƣợc coi là ngƣời hiền và đáng đƣợc chép vào sử sách.
Trong con mắt của một nho gia thì chỉ cần trung thành với một triều đại, làm
tốt tƣ tƣởng trung quân cũng đƣợc coi là một tấm gƣơng đáng học tập.
Đời Lê và Đời Mạc cũng có những danh thần nổi tiếng đƣợc ghi vào sử sách
nhƣ Nguyễn Trãi, Bùi Cầm Hổ, Lƣơng Thế Vinh, Bùi Xƣơng Trạch (Đời
Lê)…Giáp Hải (Đời Mạc). Trong số những nhân vật có công lao với nƣớc
nhà đời Lê và Mạc thì Nguyễn Trãi là một công thần đáng lƣu ý hơn cả. Phan
Huy Chú đã rất chú ý ghi chép lại tỉ mỉ cuộc đời của ông. Cuộc đời ông gắn
với truyền thuyết trong dân gian và đƣợc coi nhƣ ngƣời đƣợc thần nhân cử
xuống phò vua giúp nƣớc. “Đêm hôm trước, Thái Tổ cũng chiêm bao thấy
thần cho một người tài giỏi ra giúp. Khi thấy trạng mạo ông giống như người
ở trong mộng, rất yêu lạ, cho ở ngay bên cạnh dự bàn việc quân.” [15, tr.
39
275]. Trong suốt quá trình phò vua giúp nƣớc, có văn chƣơng mƣu lƣợc, gặp
đƣợc vua, kinh bang tế thế, làm công thần mở nƣớc thứ nhất, đƣợc vua công
nhận là “Ức trai tiên sinh”, ngƣời đời mệnh danh là sao Khuê lấp lánh.
Công thần phò vua giúp nƣớc không chỉ tham dự vào việc triều chính mà họ
còn là những ngƣời có công lao trong việc đi sứ bang giao, giữ mối giao hảo
với các nƣớc lân cận. Phan Huy Chú cũng từng là ngƣời đƣợc cử đi sứ hiểu rõ
trọng trách nặng nề của công việc này nên khi bàn về bang giao, ông đã nhấn
mạnh “Trong việc trị nước, hòa hiếu đối với các nước láng giềng là việc lớn,
mà những khi ứng thù lại rất quan hệ, không thể xem thường” [16]. Nhƣ vậy,
trong lịch sử, việc đi sứ là công việc khó khăn nặng nhọc. Ngƣời đi sứ phải là
những bậc thơ hay phú giỏi, bác cổ thông kim, ứng đối linh hoạt, làm cho
nƣớc ngoài phải kính nể. Bên cạnh đó, họ phải là ngƣời có bản lĩnh, khí phách
dân tộc, lại có ý chí quả quyết và hành động dũng cảm vì bản thân họ đang
gánh trên vai trọng trách nặng nề. Phan Huy Chú đã nhận thấy tầm quan trọng
của các sứ thần trong việc giao hảo gìn giữ hòa bình nên trong nhóm các nhân
vật có công, phò tá vua chúa, ông đã ghi chép lại những nhân vật có công lớn
trong việc đi sứ nhƣ Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Lƣơng Thế Vinh,
Bùi Xƣơng Trạch, Phùng Khắc Khoan…Những ngƣời đƣợc triều đình phong
kiến cử đi sứ hay đón tiếp sứ thần Trung Quốc tại Việt Nam đều là những
ngƣời thông thạo Hán học, giỏi từ phú, trƣớc tác nhiều và khả năng ứng đối
nhanh. Tầm quan trọng của họ là không thể phủ nhận trong việc giữ gìn bờ
cõi yên ổn. Trong phần ghi chép về các nhân vật có công phò tá vua, Phan
Huy Chú đã ghi nhận khá nhiều trƣờng hợp là sứ thần giỏi của nƣớc nhà.
Trƣờng hợp Phùng Khắc Khoan (đời Lê Trung Hƣng) cũng là sứ giỏi. Ông
đƣợc Phan Huy Chú đánh giá là “ngƣời có học thức mƣu lƣợc” đƣợc cho
tham dự việc trong màn trƣớng, trao chức Ký lục ở chỗ ngự dinh, coi quân
bốn vệ. Phùng Khắc Khoan vâng mệnh đi sứ vào năm Đinh Dậu thứ 20
(1597). Nhờ tài ăn nói và cốt cách khảng khái mà ông đã đứng trƣớc Minh
triều, vạch trần nhà Mạc cƣớp ngôi Lê, không ngại ngùng mà chỉ trích nhà
40
Minh cấu kết với gian tà mà nhận lễ, đè nén vua Lê, về bè với gian tà và hại
ngƣời ngay thẳng không đúng với đạo nghĩa thiên hạ. Tuy vậy, ông vẫn đƣợc
ngƣời Minh khen là có nghĩa và cho qua cửa quan vào chầu. Trong việc đi sứ,
Phùng Khắc Khoan đã năm lần bảy lƣợt dùng lời lẽ và thuyết phục nhà Minh,
điều này cũng đã chứng tỏ tài năng và công trạng của ông đối với nƣớc nhà.
Không chỉ vậy lịch sử còn ghi lại trƣờng hợp Phùng Khắc Khoan xƣớng họa
với sứ thần Triều Tiên là khá tiêu biểu cho tiếng nói văn hóa của ngƣời Việt
trên phạm vi quốc tế. Tuy các bài thơ xƣớng họa này đƣợc viết ở nƣớc ngoài
nhƣng là tiếng nói của các bậc sứ thần có tài năng, bản lĩnh, không làm nhục
quân mệnh và mất quốc thể, góp phần xây dựng quan hệ hữu nghị, hòa hiếu
giữa hai quốc gia, dân tộc, củng cố nền độc lập, hòa bình nhƣng khi cần thiết
cũng đấu tranh chống lại tƣ tƣởng Hoa- di, kỳ thị dân tộc của một số quan lại
phƣơng Bắc.
Đoàn Nhữ Hài (Đời Trần) 20 tuổi đã làm đến chức Ngự sử trung tán. Ông
vâng mệnh nhà vua đi sứ nƣớc Chiêm thành. Trong thời gian đi sứ, cũng hết
sức giữ gìn thể diện của quốc gia, không chịu khuất phục quỳ lạy vua nƣớc
Chiêm. Tuy đứng trƣớc mặt vua Chiêm nhƣng lấy nghĩa là lạy tờ chiếu của
vua nƣớc Nam. Điều này làm vua rất hài lòng. Ông đƣợc thăng đến tham tri
chính sự. Năm thứ 12[1304] lại đƣợc trông coi việc Viện khu mật. Điều này
chứng tỏ vua rất trọng dụng tài năng của ông. Khi ghi chép về nhân vật này,
Phan Huy Chú còn trích dẫn cả những câu nói khảng khái của ông. “Tôi từ lúc
mang tờ chiếu của vua nước tôi đến đây, xa vua nước tôi đã lâu. Ngày nay mở
tờ chiếu, như được trông thấy mặt vua nước tôi. Hãy lạy tờ chiếu trước rồi
mới tuyên đọc”.[15, tr.271]. Sứ mệnh, quân mệnh, quốc mệnh chỉ là một.
Ngƣời đi sứ thực hiện mệnh đó một mặt phải duy trì và phát triển đƣợc quan
hệ bang giao hữu nghị, mặt khác phải đảm bảo đƣợc chủ quyền và độc lập
dân tộc. Đã đi sứ thì không ai mơ hồ về điều đó.
Có công trong việc giấy tờ ngoại giao với nƣớc ngoài không thể không kể đến
Lƣơng Thế Vinh(đời Lê). Ông là ngƣời làng Cao Hƣơng, Nam Định, đƣợc
41
mệnh danh là thần đồng. Xung quanh cuộc đời của ông là những câu chuyện
kỳ ảo: “Hoàng thái hậu Quang Thục, có mộng thấy đến chỗ thượng đế,
thượng đế cho một tiên đồng làm con nối và một tiên đồng giúp việc” [15, tr.
285]. Tiên đồng giúp việc ấy là Lƣơng Thế Vinh. Ông đƣợc vua yêu mến và
cho ở bên giúp vua trong việc giấy tờ và giao thiệp với nƣớc ngoài. Những
giấy tờ ông soạn đƣợc nhà Minh của Trung Quốc đánh giá cao và khen ngợi.
Một trƣờng hợp khác cũng rất nổi danh trong việc đi sứ giao hảo với nƣớc lân
cận đó là Nguyễn Trực (Đời Lê). Ông vâng mệnh của nhà vua đi sứ Trung
Quốc, gặp đúng lúc khoa thi, ông tham dự và đỗ Trạng. Lúc bấy giờ, ngƣời
đời hết sức coi trọng và ông đƣợc mệnh danh là trạng nguyên hai nƣớc. Đƣợc
học trò các nơi theo học, ông lo việc tờ bồi với nƣớc Minh, làm tờ mừng vua
Minh lên ngôi và cũng đƣợc nhà Minh hết sức ca ngợi.
Không chỉ giỏi giang trong văn chƣơng khoa cử hay đi sứ mà họ còn là
những ngƣời có tài mƣu lƣợc và cầm quân dẹp giặc giúp vua ổn định triều
chính và giữ yên bờ cõi, danh thơm vẻ vang và đƣợc nhiều ngƣời biết đến,
nhà vua trọng dụng. Những ngƣời có công lớn nhƣ vậy đƣợc Phan Huy Chú
tập trung ghi chép ở đời Lê Trung Hƣng. Nhà Lê trung hƣng (1533–1789) là
một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn sau của nhà Hậu
Lê, đƣợc thành lập sau khi Hoàng đế Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu
thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim đƣợc đƣa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài
nhất so với các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là
thời kỳ lãnh thổ Việt Nam đƣợc mở rộng nhiều lần nhất. Đây là thời kỳ đặc
biệt, có lúc có hai triều đại song song đan xen nhau, cũng là thời kỳ đất nƣớc
có nhiều biến động lớn lao, sôi động nhất trong lịch sử nƣớc Đại Việt. Song
về thực chất, triều Mạc chỉ là phụ triều, không phải là triều đại chính thống
(chính sử đã khẳng định điều đó).
Chúa Trịnh xuất hiện trên vũ đài chính trị nƣớc Đại Việt là tiếp tục sự nghiệp
của tổ tiên vốn có truyền thống giúp nƣớc, nhƣng trong hoàn cảnh điều kiện
hết sức khó khăn; xã hội đang trong cơn biến loạn, điên đảo; triều đình (kể cả
42
nhà hậu Lê và nhà Mạc) đều bất lực. Quan lại nhiễu nhƣơng, dân cực khổ oán
trách, nhƣng vẫn hƣớng về nhà Lê đã suy đồi vì mong muốn có cuộc sống
thái bình, an cƣ lạc nghiệp nhƣ đã từng có ở thời đầu triều Lê sơ đem lại.
Trong nƣớc thì nhƣ vậy, bên ngoài các nƣớc láng giềng lợi dụng tình hình rối
ren nội bộ thừa cơ quấy rối xâm lấn. Đặc biệt là sự thỏa hiệp của nhà Mạc với
phong kiến phƣơng Bắc dẫn đến việc cắt đất vùng biên giới cho Trung Quốc
và lâm vào nguy cơ mất nƣớc. Vì vậy, mục tiêu của ngƣời họ Trịnh là ổn định
tình hình xã hội để giữ vững nền độc lập dân tộc.
Do đặc điểm lịch sử xã hội nên những ngƣời tài, có tƣ tƣởng trung quân ái
quốc, nguyện cùng vua chúa chăm lo việc nƣớc cũng không phải là hiếm. Ở
thời Lê Trung Hƣng, Phan Huy Chú đã ghi chép 39 ngƣời. Tất cả đều tài mƣu
lƣợc và cầm quân đánh giặc. Họ đều có ý thức dùng cái tài ấy để giúp quân
vƣơng ổn định chính sự và mở mang bờ cõi. Vào thời gian đầu, lúc nhà Lê
mới trung hƣng, các bậc hiền tài lần lƣợt ra đời. Trong đó có thể kể đến các
nhân vật quan trọng trong sử sách nhƣ Nguyễn Mậu Tuyên, Phùng Khắc
Khoan, Bùi Bỉnh Uyên, Lƣơng Hữu Khánh, Lê Trạc Tú…Nguyễn Mậu Tuyên
là ngƣời Lôi Dƣơng [Thanh Hóa], thuộc về dòng dõi công thần: “Ông có văn
học, có kiến thức, có tư cách giúp nước, tài đức đều đủ.” Trải qua các chức
quan khác nhau ở trong triều chính là ngƣời có nhiều mƣu kế nên làm tham
mƣu ở màn tƣớng, lập nhiều công lao. Lúc Kinh Đô mới khôi phục, ông giữ
chức tể tƣớng, làm rƣờng cột của nƣớc nhà, chăm lo việc chính sự đâu ra đấy.
Ông làm quan hơn 40 năm. Đối với nhân vật này, Phan Huy Chú khi ghi chép
có thái độ ngợi ca hết mực: “là bậc nguyên lão cầm quyền chính, làm khuôn
phép cho trăm quan, đứng đầu danh thần đời Trung Hưng” [15, tr. 309].
Lƣơng Hữu Khánh là công thần đƣợc ghi chép, công lao gắn liền với việc dẹp
yên biến loạn của Trịnh Cối và quân Nhà Mạc. Ông theo trƣởng quốc công
[Trịnh Tùng], giữ chỗ hiểm yếu, giúp đỡ bên cạnh vua, thề thốt với tƣớng sĩ.
Khi ghi chép về nhân vật này, Phan Huy Chú lại chú ý đến việc miêu tả, tóm
tắt lại trận đánh của ông với quân làm phản. “Giặc chia quân xâm phạm cửa
43
khuyết An Trường, ngày đêm đánh gấp, ông sai quân sĩ đêm cắm thêm mấy
tầng lũy, lấy ván vách của nhân dân che kín, ngoài trát đất bùn, trên cắm
chông. Tới sáng thì làm xong cái thành giả, bề dài hơn 10 dặm nào phảo đài,
nào châu mai, la liệt như bàn cờ. Tướng giặc trông thấy sợ lắm phải rút lui.
Nhờ thế, Tây Đô được yên” [15, tr. 313]. Hay nhƣ Nguyễn Bá Lân, vì là bề tôi
danh vọng trong triều nên đƣợc ra đảm đƣơng chỗ biên trấn. Ông có công lớn
trong việc vỗ về ngƣời Man, dẹp yên trộm cƣớp chốn biên ải, tạo nhiều công
lao, đƣợc thăng tiến đến chức thƣợng thƣ. Phạm Đình Trọng, ngƣời làng
Khinh Dao, Giáp Sơn [Hải Dƣơng], vâng mệnh làm Hiệp trấn thống lĩnh các
quân ở 3 đạo Đông, Nam, Bắc. Có công trong việc dẹp loạn Nguyễn Hữu
Cầu. Lúc xung trận thì khảng khái, quyết đoán, tùy theo tình hình mà định
liệu “Tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không nhận. T
Khi ghi chép về tiểu sử nhân vật ngƣời phò tá có công lao, Phan Huy Chú
không quên trích dẫn những bài chế của vua chúa dành cho những nhân vật
lịch sử này nhằm tăng tính thuyết phục của tác phẩm sử.
Đa số các bài chế là những lời động viên khen ngợi của vua chúa dành cho
các bậc công thần. Họ có thể đƣợc khen ngợi về tài năng, đức độ “Tài năng
dùng làm cột làm tảng [cho nhà nước]; khí độ cao như núi như sao. Trời phú
cho văn chương, tuổi trẻ nổi tiếng khoa giáp. Tỏ khí nghiệp từ lúc làm quan
nhỏ…”(Phạm Đình Trọng). Hay khen về khí tiết, tài năng tác thuật “Lên chức
ngự sử, tham dự chốn đô đài, trong sạch như sương; Lên chức thượng thư
mà làm tể tướng, thường bày mưu lớn…. Cây cả nối dấu thơm, trải ba đời
tiếng tăm lừng lẫy một mình ông kiêm cả “tác và thuật”; Gốc cam đường rủ
bóng, hơn trăm năm mà chính tích như mới, trẫm còn nhớ muôn miệng ngợi
khen” (Nhữ Đình Toản). Bùi Bỉnh Uyên lại đƣợc vua khen tặng vì làm tròn
trọng trách đƣợc giao, thay mặt vua truyền lời : “Sao Bắc Đẩu là then chốt
của trời, để điều hòa nguyên khí; chức thượng thư là họng lưỡi của vua, để
nhận và ban lời vua. Vì mến người Nho học kỳ cựu, nên ban sắc mệnh vẻ
vang…Bác ngươi đem cả nhà về quy thuận, trung nghĩa đầy rẫy triều đình.
44
Còn ngươi: giúp đỡ đánh dẹp khắp bốn phương, trước sau cố gắng tròn một
tiết. Khi làm kinh doãn, khi coi vệ quân, trị kẻ hào cường và giúp quân
mưu…” Tóm lại, khi trích dẫn các bài chế của vua gắn liền với cuộc đời của
nhân vật lịch sử, Phan Huy Chú thông qua đó cũng đã một lần nữa tóm gọn và
khắc họa nét chính của cuộc đời các nhân vật. Làm tỏ rõ hơn công lao đáng
ghi chép vào sách sử của họ.
Các nhân vật đƣợc ghi chép qua các đời còn là những ngƣời có công trong
việc vạch mặt gian thần và dâng sớ một cách thẳng thắn, khuyên nhủ, thuyết
phục vua sửa sang chính sự nhƣ Giáp Hải (Đời Mạc). Ông đã có những lời lẽ
khuyên can hết sức thống thiết: “Xin bệ hạ tự răn, lo sợ; thay đổi việc chính
thối nát. Khi lòng dân đã hòa thì ý trời cũng thuận. Nếu bệ hạ chỉ say đắm về
sự yên vui không chịu răn chừa sửa đổi thì sẽ có ngày đến nguy vong không
sao giữ được”. Mùa thu năm thứ 8 ông lại dâng sớ khuyên nhủ vua: “Xin bệ
hạ giữ đạo “trung”, mưu việc lớn, lấy việc kính trời làm chỗ tựa, lấy khiêm
cung làm đầu, chăm đường chính học, thân bậc chính nhân…bớt lòng dục,
không gần tiếng hay sắc đẹp, không ham của cải, không say sưa về rượu chè,
không đắm đuối về chỗ vui, ngăn kẻ nịnh hót, răn việc du đãng; để cho chính
hóa rộng khắp, dân yên nước thịnh, tiến tới trị bình” [15, tr. 306].
Một số công thần khác lại dâng sớ xin cải cách một số điểm trọng yếu của
việc cai trị nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. Ngô Trí Hòa, Lê
Bật Tứ (Đời Lê Trung Hƣng) xin điều trần 6 việc:
1.Xin sửa đức chính, để cầu mệnh trời giúp.
2.Xin đè nén kẻ quyền hào, để sức nuôi dân.
3.Xin cấm[phú dịch] phiền hà, để đời sống nhân dân được đầy đủ.
4.Xin bớt xa xỉ, để của dân được thừa thãi.
5.Xin dẹp trộm cướp, để dân được ở yên.
6.Xin sửa sang quân chính, để bảo vệ tính mạng cho dân.
Hay nhƣ Lƣơng Đắc Bằng (Đời Lê) cũng dâng Sách trị bình 14 chước cũng là
14 điều khuyên vua nên làm để đời thái bình thịnh trị. Sách của ông đề cập
45
đến tất cả các vấn đề trong một quốc gia nhƣ: tỏ lòng trung, không ham mê
tửu sắc đề làm nguồn gốc cho sự chính tâm. Những vấn đề của quan chức nhƣ
ban chức tƣớc, thƣởng phạt quan lại đều phải công bằng vừa để giữ đạo
cƣơng thƣờng, vừa tránh hối hận về sau. Cần giám sát chặt chẽ quan lại tránh
nhiễu nhƣơng cho dân chúng, mặt khác, quân sự võ bị và hiệu lệnh phải
thống nhất để đoàn kết và thống nhất 4 phƣơng có nhƣ vậy đời mới thịnh trị.
Nguyễn Duy Thì (Đời lê Trung Hƣng) khẳng khái tố cáo những ngƣời thân
giữ trọng trách quan trọng mà lại nhũng nhiễu dân, làm trái lệnh vua. “Những
người thừa hành, chưa thể tất hết đức ý của nhà vua, chỉ chăm bạo ngược,
đua nhau xa xỉ. Cai trị một huyện, cai trị một xã thì khốn khổ cho dân một xã,
những việc nhũng nhiễu hà lạm, việc gì cũng làm; khiến cho dân trong nước,
trai không áo, gái không váy, tiệc hát xướng không có nữa, lễ cưới xin không
đầy đủ, việc nuôi người sống , chôn người chết không biết nhờ vào đâu…” và
ông cho rằng “Vì thế mà cảm động đến trời đất, nên lòng trời không thuận.
Tai nạn nước lụt dâng lên lạ thường, phải chăng là chính sự lúc này có thiếu
sót” [15, tr. 320]. Bằng việc đƣa ra một loạt những bằng chứng về cuộc sống
khổ nạn của muôn dân, Nguyễn Duy Thì đã khéo léo nhắc nhở nhà vua về
việc chính sự đang rối loạn, các quan trong triều đang lợi dụng chức quyền
mà làm trái ý thiên tử khiến cho đất trời cũng phải cảm động mà phẫn nộ. Sự
sửa sang chính sự lúc này là rất cần thiết đối với muôn dân. Ông cũng là
ngƣời đƣợc đời bấy giờ trông cậy và tôn trọng, làm quan to trong triều gần 3
năm. Ghi lại tiểu sử của ông là điều hoàn toàn chính đáng.
Những ngƣời phò tá công việc triều chính đƣợc ghi chép đều là những bậc tể
phụ có tầm nhìn xa trông rộng. Họ là những ngƣời có công lớn trong việc cơ
mƣu, giữ gìn đạo cƣơng thƣờng duy trì trật tự kỉ cƣơng xã hội để đời thái bình
thịnh trị.
Khi ghi chép về nhân vật này, ta thấy ở Phan Huy Chú một lòng tự hào về đất
nƣớc và nhân tài đất nƣớc. Có những nhân vật lịch sử đƣợc ông ghi chép ca
ngợi công đức, ân hƣởng kéo dài đến đời con cháu. Công đức muôn đời thịnh,
46
không chỉ ở trong một thời kì mà còn kéo dài đến nhiều đời nhƣ trƣờng hợp
của Nguyễn Trãi (Đời Lê)… Điều này chứng tỏ ở ông niềm tự hào về địa linh
nhân kiệt của nƣớc Việt Nam. Khẳng định con ngƣời Việt Nam sẽ mãi trƣờng
tồn vĩnh cửu.
Trong khi ghi chép về tiểu sử các nhân vật(nhất là 39 ngƣời sau thời Lê Trung
Hƣng), cuối mỗi đời hay trải qua từng giai đoạn, ngƣời chép sử lại có lời tổng
kết về các đời. Đồng thời có sự đánh giá về công trạng nhiều hay ít của các
nhân vật khác nhau. Mỗi giai đoạn lại có những nhân vật khác nhau đƣợc ghi
chép, công lao của họ ra sao, lý do tại sao nhân vật lịch sử này lại đƣợc ghi
chép rõ ràng, còn nhân vật kia lại chỉ đƣợc coi là chép “phụ” nhƣ Nguyễn
Thiến, Nguyễn Đính, Đỗ Uông, là những ngƣời làm tôi nhà Mạc, sau lại quy
thuận Nhà Lê lúc mới trung hƣng, cũng là những nhân vật làm đến tể tƣớng,
có sự nghiệp tiếng tăm ở đời nên ông cũng chép vào để đời sau tiện tham
khảo. Chứng tỏ tác giả là ngƣời chép sử có cái nhìn công bằng khách quan,chỉ
cần có công với dân với nƣớc là sẽ đƣợc lƣu danh vào sử sách. Hoặc có thể
Phan Huy Chú muốn đƣa ra các nhân vật kiểu ấy- những nhân vật chƣa thực
sự là vĩ đại nhƣng lại dễ noi gƣơng để làm gƣơng cho những nho sĩ quan lại
đƣơng thời, khiến họ sửa mình cho dân chúng đƣợc nhờ cậy. Phan Huy Chú
cũng đã có sự ghi chép và sắp xếp nhân vật một cách rõ ràng, theo từng đời,
từng giai đoạn, có chú thích những chỗ khó hiểu. Điều này làm cho phần ghi
chép về nhân vật ngƣời phò tá có công lao tài đức trở nên rõ ràng không bị rối
rắm và giàu sức thuyết phục, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời nghiên cứu
lịch sử về sau.
Về phần ghi chép những ngƣời phò tá có công lao tài đức, Phan Huy Chú ghi
chép có 69 ngƣời ở các đời khác nhau. Trong phạm vi một luận văn, ngƣời
nghiên cứu không thể liệt kê tiểu sử và cuộc đời của từng ngƣời. Nhƣng có
thể tóm lại, các nhân vật lịch sử đuộc ghi chép trong nhóm này, tuy giữ các
chức vụ khác nhau trong triều đình, nhƣng đều là những ngƣời có đức cao
vọng trọng. Mỗi ngƣời một nhiệm vụ khác nhau. Có ngƣời lo ổn định chính
47
trị, giữ mối rƣờng cột nƣớc nhà, can gián vua chúa tránh phạm phải sai lầm,
kẻ thì cầm quân đánh giặc giữ yên bờ cõi lãnh thổ, lúc thời bình lại tham gia
vào chính sự, mƣu lƣợc, ngƣời thì lo đi sứ bang giao, đối đáp với nƣớc ngoài,
khẳng định quyền độc lập lãnh thổ và giữ thể diện của quốc gia. Khi mất họ
đều đƣợc nhà vua và triều đại phong tặng các danh hiệu khác nhau. Tiếng
thơm để lại muôn đời. Tất cả đều là những công thần có nhiều cống hiến cho
quốc gia, đáng đƣợc sử sách ghi chép lại và làm gƣơng cho muôn đời sau học
tập. Tác giả xếp họ vào một nhóm riêng để khẳng định nƣớc ta đời nào cũng
có những ngƣời tận trung với đất nƣớc, sẵn sàng cùng vua chúa gánh vác
trong trách đại sự quốc gia. Ông đã góp phần vào việc phát triển một quan
điểm của Nguyễn Trãi về dân tộc “ Hào kiệt không bao giờ thiếu” bằng việc
chỉ ra và đánh giá các loại ngƣời tài giỏi khác nhau trong lịch sử, bất kể là
quan văn hay tƣớng võ, trong triều hay ngoài nội, gánh trọng trách nào thì họ
cũng đều hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Họ là nhân tài của đất nƣớc, có
công lớn trong việc phò giúp vua chúa gây dựng sự nghiệp nên đều đáng đƣợc
lƣu danh và ngợi ca.
2.2.3. Nhân vật tƣớng có tiếng và tài giỏi
Đất nƣớc ta từ buổi đầu dựng nƣớc và giữ nƣớc vốn luôn bị các nƣớc lân cận
tìm cách xâm chiếm, cai trị. Một đất nƣớc muốn đƣợc ổn định và yên ổn, bên
cạnh những ngƣời tài giỏi cơ mƣu về chính sự thì rất cần đến các võ tƣớng để
bảo vệ biên ải, chống giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi. Có nhƣ vậy thì chính sự
trong nƣớc mới ổn định và phát triển, đời sống nhân dân mới yên ổn, đất nƣớc
mới thái bình thịnh trị. Chính vì vậy, tƣớng tài giỏi là một phần không thể
thiếu trong một quốc gia và công lao của họ là một điều không thể phủ
nhận,đáng đƣợc nêu gƣơng để ngƣời đời sau noi theo. Ý thức đƣợc vấn đề
này, Phan Huy Chú đã dành một mục Tướng có tiếng và tài giỏi để ghi chép
về nhân vật lịch sử là các vị tƣớng tài giỏi ở các đời. Nhóm nhân vật này gồm
35 ngƣời. Cụ thể là hai ngƣời đời Lý, bốn ngƣời đời Trần, mƣời ngƣời đời Lê
Sơ và 19 ngƣời sau Lê trung hƣng. Bên cạnh việc ghi chép về họ tên, nguồn
48
gốc, lai lịch, năm mất của nhân vật thì tiểu sử của nhân vật tƣớng có tiếng và
tài giỏi đƣợc Phan Huy Chú ghi chép gắn liền với các trận đánh lớn. Họ đa
phần là các tƣớng văn võ toàn tài. Có công trong việc dẹp giặc, giữ yên bờ cõi
và giúp vua mở rộng đất đai. Các đời đều có những tƣớng tài nổi tiếng giúp
vua đánh giặc. Đời Lý có Lê Phụng Hiểu và Lý Thƣờng Kiệt. Hai nhân vật
này đƣợc Phan Huy Chú đánh giá cao hơn cả. “Công dẹp nạn, mở mang bờ
cõi của hai ngƣời rõ rệt đáng ghi, không hổ là bậc tƣớng có tiếng và tài giỏi”.
Đời Lý còn có Đào Cam Mộc giúp vua lên ngôi, Tôn Không Đản đánh giặc,
tuy là có công lao, nhƣng theo tác giả thì mƣu lƣợc không đƣợc rõ rệt, lúc làm
quan chƣa thấy công trạng “cho nên không chép”. Cả Lý Phụng Hiểu và Lý
Thƣờng Kiệt đều có công rõ rệt nhƣng Lý Thƣờng Kiệt là nổi danh hơn cả.
Ông có công trong việc dẹp Tống, cùng Tông Đản lĩnh mƣời vạn quân chia
đƣờng tiến đánh, vây chặt Châu Khâm, Châu Liêm, phá tan quân viện binh
của giặc. Tiếng tăm của ông lừng lẫy đến độ ông đem trọng binh vào đất
ngƣời mà ngƣời Tống sợ không dám đánh. Ông đƣợc coi là một võ công bậc
nhất xƣa nay. Vì ông có nhiều mƣu lƣợc lại trải thờ ba triều nên công lao lớn,
đƣợc các triều sắc phong và dân ở phƣờng ấy thờ làm thần.
Đến đời Trần, nƣớc ta lại một lần nữa bị xâm lƣợc. Lúc này, nổi lên các danh
tƣớng nhƣ Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão… Họ đều là
những nhân vật tƣớng tài giỏi không chỉ ở thời đó mà còn đƣợc lƣu danh đến
tận bây giờ. Ghi chép về các tƣớng này, Phan Huy Chú cũng ghi chép rất tỉ mỉ
về cuộc đời của họ. Họ không chỉ giỏi tài mƣu lƣợc cầm quân đánh giặc mà
còn có tài viết sách, làm thơ. Trần Quốc Tuấn đƣợc đánh giá là có tài kinh
bang tế thế. Học rộng các sách, tài kiêm văn võ. Về mƣu lƣợc, ông có soạn bộ
sách Binh gia diệu lý yếu thu góp binh pháp mọi nhà rồi làm ra đồ bát quái
cửu cung gọi là Vạn Kiếp [tông] bí[ truyền] thư để dạy các tƣớng. Chỉ riêng
điều này đã cho chúng ta thấy tài mƣu lƣợc của vị võ tƣớng này. Công trạng
của ông gắn liền với việc 2 lần dẹp tan quân Nguyên sang xâm lƣợc nƣớc ta.
Lần thứ nhất, ông đánh tan 50 vạn binh nhà Nguyên do Toa Đô và Thoát
49
Hoan cầm đầu. Ông đón chém Toa Đô ở Tây Kiếp, đuổi đánh úp Thoát Hoan
ở Vạn Kiếp.
Lần xâm lƣợc thứ hai, quân Nguyên lại đem 7 vạn quân sang xâm lƣợc nƣớc
ta. Cũng nhờ ông chia cấm binh giữ quan ải, chặn đƣờng đánh và phá đƣợc
thế giặc. Tiếng tăm của ông gắn liền với trận chiến trên sông Bạch Đằng. Tác
giả cũng đã ghi chép lại trận chiến này cho ngƣời đời sau thấy tài cầm quân,
tài mƣu lƣợc của ông. Danh tiếng của ông vang dội bên quân địch và đƣợc
gọi là An Nam Hƣng Đạo Vƣơng. Đó cũng là sắc hiệu mà vua ban cho ông
khi ông mất.
Nói đến các tƣớng đời Trần không thể không kể đến Phạm Ngũ Lão. Ông là
ngƣời ở trong quân đội nhƣng lại thích đọc sách và có chí to tát, tài khí hơn
ngƣời. Ông là ngƣời trị quân có kỉ luật, đối đãi với các tƣớng sĩ nhƣ ngƣời
nhà, cùng đồng cam cộng khổ với quân lính nên tình mật thiết nhƣ cha con.
Công trạng của ông cũng đáng đƣợc ghi nhận với ba lần đánh tan quân Ai Lao
xâm lƣợc, dẹp đƣợc nghịch thần và đập tan quân xâm lƣợc chiêm thành. Ông
lại là ngƣời ham đọc sách, ngâm vịnh có bài thơ “Cảm hoài” nói lên khí thế
đánh giặc đời Trần và chí làm trai đứng trong trời đất. Phan Huy Chú khi ghi
chép về nhân vật này đã ghi lại với thái độ ngợi ca, kính trọng. Ông viết:
“Công nghiệp của ông rực rỡ, thật là tướng giỏi một thời.” Cuối đời Lê, khi
tổng kết về các võ tƣớng đời này, Phan Huy Chú đã có cái nhìn rất sâu sắc.
Ông viết về Trần Quốc Tuấn “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương
không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa trí dũng, dựng lên công lao sự nghiệp
kì vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không
những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim ít
ai bì kịp”. Ông cũng nhận xét về Phạm Ngũ Lão “Không hổ danh là bậc
nguyên thần.” Điều này cho ta thấy ở Phan Huy Chú một tấm lòng quý trọng
nhân tài rƣờng cột của nƣớc nhà, thêm vào đó là thái độ tự hào về nguồn nhân
tài hiếm có mà nƣớc Việt cần giữ gìn.
50
Khi ghi chép nhân vật tƣớng có tiếng đời Lê, Phan Huy Chú đã nhận định
công thần đầu nhà Lê có đến 93 ngƣời, nhƣng ông không thể ghi chép hết nên
đã chọn lọc những nhân vật tiêu biểu có công trạng với đất nƣớc mà ghi chép.
Mƣời tƣớng đời Lê đều là những tƣớng giỏi, cầm quân chƣa một lần bại trận,
làm cho quân giặc kinh hồn bạt vía. Trong số đó có thể kể đến Lê Sát, ngƣời
thôn Bỉ, Lam Sơn, trí dũng hơn ngƣời. Ông theo Thái Tổ khởi binh và có
nhiều chiến công trong việc mở mang bờ cõi nƣớc Nam.Tiểu sử về cuộc đời
của ông gắn liền với các trận đánh. Hầu nhƣ trận nào có ông tham gia cũng
đều giành thắng lợi. Chiến thắng quan trọng nhất trong cuộc đời cầm quân
của ông là cuộc chiến với quân Minh. Phan Huy Chú đã rất chú trọng miêu tả
và ghi chép lại trận đánh này một cách hết sức tỉ mỉ và kĩ càng. Từ cách quân
ta tiến đánh, rút lui nhƣ thế nào và kết quả ra sao. Tất cả đều làm toát lên khí
phách và chân dung của một viên tƣớng tài giỏi. Lê Sát hăng hái lấy việc giúp
vua sửa chính làm trách nhiệm của mình, năng can gián vua nên cũng đƣợc
coi là có công. Nhƣng do là ngƣời võ, tính tình cƣơng trực không hiểu đại thể
nên bị bọn tiểu nhân hãm hại và bị chết không đáng tội.
Trần Nguyên Hãn cũng là một tƣớng giỏi triều Lê đƣợc Phan Huy Chú ghi
chép vào mục tƣớng có tiếng và tài giỏi. Ông ngƣời Lập Thạch[ Phú thọ]. Khi
nhà nhuận Hồ mất ngôi, muôn dân lầm than, ông nuôi chí lớn giúp đời. Đƣợc
Lê Lợi biết đến và trọng dụng tài lƣợc. Ông cùng vua dự bàn mƣu lƣợc và
trực tiếp đem hơn nghìn binh và một con voi đi kinh lƣợc. Ông thu phục đƣợc
mấy vạn quân tinh nhuệ để bổ sung nên thế quân càng lớn giành thắng lợi vẻ
vang trong các trận đánh, giúp vua dẹp giặc và thu đƣợc nhiều chiến lợi
phẩm, nhƣng về sau ông cũng bị bọn tiểu nhân hãm hại và đƣợc cho là chết
không đáng.
Trong các tƣớng đời Lê, ngƣời đƣợc Phan Huy Chú đánh giá cao nhất là Lê
Niệm. Lê Niệm là ngƣời “văn võ đều giỏi, công danh toàn vẹn không ai bằng.
Không những công lao rõ rệt mà phong vận thanh cao, văn chương rộng rãi
thanh nhã, thực là một bề tôi giỏi hơn cả một thời. Ông là dòng dõi nhà làm
51
tướng cho nên chép vào mục “Tướng có tiếng và tài giỏi”mà còn đặc biệt kể
rõ văn chương của ông”. Lê Niệm là ngƣời thôn Dựng Tú, huyện Lƣơng
Giang, cũng là ngƣời có công trong việc dẹp yên giặc giã. Trải qua nhiều trận
đánh, có công lao đối với đất nƣớc. Ông là bậc thế thần có đức vọng, làm tể
tƣớng cầm quân đi đánh giặc, đƣợc nhiều ngƣời kính nể. Ghi chép về Lê
Niệm, Phan Huy Chú còn đặc biệt chú ý ghi chép cả văn chƣơng của ông để
làm sáng rõ đức nghiệp mà ông để lại cho đời.
Đời Lê Trung Hƣng, các tƣớng tài giỏi có tiếng đƣợc Phan Huy Chú ghi chép
lại rất nhiều nhƣ Trịnh Duy Thân, Vũ Văn Uyên, Phạm Đốc, Nguyễn Hữu
Liêu…. Nhƣng đƣợc Phan Huy Chú đánh giá cao hơn cả là Hoàng Ngũ Phúc,
Nguyễn Phan, và Bùi Thế Đạt. Trong lời bình về giai đoạn này, ông đã có
những nhận xét rất xác đáng về nhân vật. Ông ca ngợi ba nhân vật lịch sử trên
“Ba ngƣời đều trải nhiều gian nan, dẹp yên giặc giã, đƣợc ghi công vào cờ
thái thƣờng để huân lao ở phủ chúa trƣớc sau đƣợc trọn phúc; tóm lại đều
không hổ là bậc tƣớng giỏi”.
Trong khi chép về các tƣớng có tiếng và tài giỏi, Phan Huy Chú đã chọn lọc
ra những nhân vật tƣớng có tiếng tăm, gắn với các trận đánh lẫy lừng truyền
vang muôn thuở. Không chỉ có tài cầm quân bày binh bố trận mà những nhân
vật này còn có tài làm văn chƣơng và viết sách. Phan Huy Chú đã đặc biệt
chú ý đến những nhân vật này và ghi chép về họ một cách tỉ mỉ. Ông có thái
độ đặc biệt trân trọng với các anh hùng chống ngoại xâm. Một ngƣời đƣợc coi
là tài đức vẹn toàn phải kết hợp đƣợc nhiều yếu tố khác nhau. Không phải chỉ
là tài cầm quân đánh giặc, hay tài văn chƣơng mà còn phải có sự kết hợp của
cả hai yếu tố nói trên nhƣ Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Lê
Niệm…Những nhân vật nhƣ vậy mới thực sự đáng để ghi chép tỉ mỉ và lƣu
danh vào sử sách và tiện cho thế hệ sau khảo cứu.
Một điểm đáng chú ý là khi ghi chép tiểu sử của các nhân vật tƣớng có tiếng
và tài giỏi, ông không chỉ ghi chép về cuộc đời mà ông còn chú trọng đến việc
miêu tả các trận đánh của họ. Trận đánh diễn ra nhƣ thế nào? Kết quả ra sao?
52
Qua đó làm nổi bật lên cách điều quân khiển tƣớng bày binh bố trận của mỗi
ngƣời. Họ đều là những ngƣời giỏi trong việc dụng binh hay cơ mƣu trí dũng
trong việc cầm quân. Biết ứng phó trƣớc sau tùy vào tình hình thế trận. Ghi
chép về tiểu sử của các tƣớng có tiếng và tài giỏi của nƣớc nhà qua các triều
đại, bên cạnh niềm tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc là lời cảnh
báo của Phan Huy Chú với các thế lực xâm lƣợc nƣớc ngoài. Nƣớc ta vốn có
truyền thống yêu nƣớc, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trải qua các thời kỳ
đều xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, có nhân tài, tƣớng giỏi cầm quân, trên
dƣới đoàn kết một lòng, nên giặc sẽ phải chuốc lấy thất bại đau thƣơng nếu
còn mƣu đồ xâm phạm.
2.2.4.Nhân vật nhà nho có đức nghiệp
Việc nghiên cứu và nhận thức tiến trình phát triển của văn học và lịch sử của
các nƣớc Đông Á nói chung và của Việt Nam nói riêng không thể nào thực
hiện đƣợc nếu thiếu đi các loại học thuyết khác nhau, bởi các học thuyết này
gây ra những tác động mạnh mẽ lên sự phát triển văn học. Đối với Việt Nam,
Nho Giáo, Đạo giáo và Phật giáo có ảnh hƣởng sâu sắc đến tinh thần, đời
sống tƣ tƣởng và đặc biệt là văn học. Hơn bất kì học thuyết nào trong Tam
giáo, Nho giáo có vai trò ảnh hƣởng quyết định đến lịch sử văn học Việt Nam
thời kì trung đại. Nhân vật nhà nho chiếm địa vị quan trọng không chỉ trên
văn đàn mà trong xã hội, ngƣời học đạo nho hay sách thánh hiền cũng đều rất
đƣợc coi trọng. Nhà Nho trong xã hội phong kiến là tầng lớp đứng đầu tứ dân
(sỹ- nông- công- thƣơng). Họ giữ vai trò trung gian giữa giai cấp thống trị và
nhân dân. Chính vì có học thức và thấm nhuần đạo đức của sách thánh hiền
nên khi cần họ cũng là tầng lớp thay mặt cho nhân dân nói lên nguyện vọng
của đại quần chúng. Nhất là khi giai cấp thống trị và đặc biệt là vua chúa rơi
vào con đƣờng ăn chơi xa hoa, trụy lạc không chú ý chăm lo đến đời sống
nhân dân, chính họ sẽ là ngƣời đứng ra nhắc nhở nhà vua tuân theo mệnh trời
mà làm đúng phận sự.
53
Trong văn học trung đại, mẫu hình nhà nho là mẫu hình phổ biến và là loại
hình nhân cách đa dạng nhất. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, mẫu hình nhà
nho cùng với nhân cách của họ đƣợc coi là khuôn vàng thƣớc ngọc của chế
độ.
Phan Huy Chú là một nhà nho chính thống. Dƣới con mắt nhìn của một danh
nho, thông qua các nhân vật, ông đã ca ngợi những đức tính cao cả và đáng
trân trọng của những danh nhân đất nƣớc, đặc biệt là những kẻ sĩ. Nhân vật
nhà nho có đức nghiệp bao gồm một ngƣời đời Trần là Chu An, mƣời ngƣời
đời Lê Sơ, bốn ngƣời đời Mạc, mƣời bốn ngƣời sau Lê trung hƣng.
Xét về mặt văn học, nhân vật nhà nho có ba mẫu hình cơ bản là nhà nho ẩn
dật, nhà nho hành đạo và nhà nho tài tử. Mẫu hình nhà nho ẩn dật có xu
hƣớng xa rời danh vọng, hƣởng thụ lối sống dân dã, vui thú ruộng vƣờn “Cơm
ăn chẳng quản dưa muối/Áo mão nài chi gấm là”(Nguyễn Trãi) hay “Thu ăn
măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”(Nguyễn Bình Khiêm),
chỉ những khi nhà nƣớc thật sự cầu ngƣời tài ra giúp nƣớc thì họ mới xuất
hiện và cùng tham gia bàn luận công việc triều chính. Còn nhà nho hành đạo
thì ngƣợc lại. Họ tích cực tham gia vào công việc triều chính, chăm lo đến đời
sống nhân dân, tích cực hoạt động và mục đích chính của họ là nhân nghĩa
bao trùm, muôn dân yên ổn, đất nƣớc thái bình thịnh trị. Nhà nho tài tử là mẫu
hình nhân cách đặc biệt trong văn học trung đại. Con ngƣời của họ là sự kết
hợp giữa cái “Tài” và cái “Tình”. Họ sống và hành động theo sở thích, không
có gì cấm cản đƣợc họ ngay cả lễ giáo phong kiến khắt khe.
Phan Huy Chú đã ghi chép tiểu sử của những nhân vật danh nho này nhƣng
không có sự phân loại theo ba mẫu hình nhƣ vậy. Cũng nhƣ các nhóm nhân
vật trên, ông cũng ghi chép tuần tự về họ tên và nguồn gốc xuất thân, quê
quán, quá trình thi đỗ làm quan và lui về ở ẩn,năm mất, thời gian làm quan.
Đa số họ là những ngƣời bậc danh nho có cốt cách cao thƣợng, học rộng hiểu
sâu, đức vọng cao ít ai sánh kịp, nhất là Chu An( Đời Trần), rồi sau đó là Lý
54
Tử Tấn, Vũ Quỳnh, Vũ Mộng Nguyên…(Đời Lê), Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần
Văn Bảo…(đời Mạc).
Theo quan niệm Nho gia, một trong những dấu hiệu bộc lộ tài năng thiên phú,
khiến nhân vật ấy khác thƣờng chính là tài thơ văn. Nếu dấu hiệu của hổ báo
là các vằn đốm trên bộ lông, dấu hiệu của con phƣợng là sắc lông sặc sỡ thì
dấu hiệu của thiên tài chính là tài văn chƣơng. Đó là quan niệm phổ biến thời
xƣa về mối quan hệ giữa tài năng văn chƣơng với nhân cách. Do vậy, các mô
típ về tài năng văn chƣơng đƣợc sử dụng rộng rãi trong văn học trung đại.
Ngay cả Phan Huy Chú trong quá trình ghi chép tiểu sử nhân vật cũng chƣa
tách khỏi các mô típ chung này. Chép tiểu sử nhân vật đồng thời cũng chép lại
tài sáng tác thơ văn, khả năng ứng đối nhanh nhẹn, xuất khẩu thành thơ... của
nhân vật lịch sử. Ghi chép lại thơ văn, câu đối cũng là một hình thức để nói
lên những nét phi thƣờng của nhân vật đƣợc ghi chép. Trong thiên Nhân vật
chí, ở phần ghi chép về các bậc danh nho, Phan Huy Chú đồng thời cũng ghi
lại cả thơ văn của nhân vật để nói chí, bộc lộ khát vọng, hoài bão chính trị...
của họ.
Tiểu sử của nhân vật nhà nho đƣợc Phan Huy Chú ghi chép gắn liền với sự
nghiệp Nho học, với những bài thơ, bài phú vịnh cảnh, tỏ lòng, với những bài
sớ, bài án dâng lên vua. Đến khi mất, họ đều đƣợc phong tƣớc vị hoặc đƣợc
ngƣời đời suy tôn.
Ông ghi chép tiểu sử của những danh thần có tài năng và đức nghiệp trong sự
nghiệp Nho học và chấn chỉnh đạo đời, nhƣng về sau bất mãn với triều đình
mà lui về quê nhà ở ẩn, sống cuộc sống đạm bạc. Tiểu sử của một số bậc
danh nho gắn với văn chƣơng và sự nghiệp của họ. Khi viết về các nhà nho
này, nhiều khi tác giả không ghi chép rõ về tính tình hay sự nghiệp đỗ đạt làm
quan, cáo lui ở ẩn của họ mà cuộc đời của họ nhƣ hiện rõ ra trƣớc mắt nhờ
một vài tác phẩm của họ. Ghi chép về những nhà nho có đức nghiệp không
tách rời khỏi sự nghiệp văn chƣơng của họ. Vì chính văn chƣơng là nơi để
nhân vật nhà Nho bày tỏ tính cách và nỗi lòng của thế thái nhân tình của
55
chính mình. Nhƣ trƣờng hợp của danh nho Nguyễn Phong đời Mạc: “Sinh
ra thiên tư thông minh , bảy tuổi biết làm văn” đỗ đạt ra làm quan. Sau lấy cớ
tuổi già và xin về hƣu, vui thú cây cỏ, ao hồ, khóm trúc, núi đá. Ông có bài
thơ Ngụ hứng:
Nhất hồ sơn thủy, nhất mao am,
Thảo mộc ngư long nhất nhị tam
Thiên hạ hữu thiên xuân bất lão,
Song tiền thượng ký giảng Hà Nam.[15,tr. 455]
Nhà nho còn dùng chính tác phẩm của mình để nói lên cái chí lớn ở đời, tấm
lòng trung quân ái quốc nhƣ trƣờng hợp của Vũ Mộng Nguyên (Đời Lê) đƣợc
ngƣời bạn tặng thơ và chỉ qua một bài thơ mà cuộc đời của ôngđã hiện lên rõ
ràng. Các nhà nho khác nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Đời Mạc), Nguyễn Đăng
(Đời Lê Trung Hƣng)… đều dùng tác phẩm của mình để nói chí và nói lên
suy nghĩ của mình.
Phan Huy Chú đã dùng nhiều cách chép sử khác nhau đề ghi chép về tiểu sử
cuộc đời của các bậc danh nho. Bên cạnh dùng thơ văn, Phan Huy Chú còn
ghi chép trích dẫn những lời sớ, lời khải khuyên can vua chúa. Các nhà nho
đƣợc ghi chép là những ngƣời cƣơng trực, kiên nghị, dám can ngăn vua chúa,
dám nói thẳng vì nƣớc vì dân mà không hề sợ hãi hay thiệt hại đến bản
thân.Đồng thời đó cũng là lời gián tiếp nhắc nhở vua chúa về nhiệm vụ của
mình. Phan Huy Chú ghi rất nhiều trƣờng hợp này, có trích dẫn những lời
khải thống thiết.
Tiêu biểu là Trình Thanh đời Lê đã dâng sớ tâu 7 việc :
“1. Thuận khí âm khí dƣơng để triệu hòa khí đến;
2.Phải thân ra tòa Kinh Diên để tôn sùng chính học;
3.Chọn ngƣời nối dõi để vững căn bản của nƣớc;
4.Tiết kiệm của cải để tiêu dùng;
5.Thận trọng chức thú mục để ký thác việc nuôi dân;
6.Thƣờng rèn tập quân lính để việc võ bị đƣợc nghiêm túc;
56
7.Đặt đồn điền để lƣơng thực nơi biên trấn đƣợc nhiều.”
Tất cả 7 điều trên đều đƣợc nhà vua chấp thuận .
Lê Quí Đôn đời Lê Trung Hƣng cũng là một nhà nho nổi tiếng có đức nghiệp.
Trong cuộc đời làm quan của mình, ông cũng đã dâng lên vua nhiều tấu sớ
quan trọng nhƣ bản tấu sớ tâu trình bốn điều về việc trị đạo, yêu cầu về việc
“sửa đổi đường lối bổ quan”, “sửa đổi chức vụ của các quan”, “sửa đổi thuế
khóa và phong tục của dân”. Năm Quý Tỵ [1773] đại hạn, ông nhân đó lại
tâu trình 5 điều, đại lƣợc nói “Phương pháp của cổ nhân để đem lại khí hòa,
dẹp tai biến, cốt ở lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức dân”.
Đoàn Duy Tĩnh (đời Lê Trung Hƣng) uy phong khảng khái, có cốt cách, “khi
ở trong triều giữ khí tiết”, ghét thói hiểm ác, dâng khải tâu hạch tội Huy Cơ
và Trịnh Lệ, Dƣơng Trọng Khiêm làm phản. Vì vậy đƣợc vua tin tƣởng và
thƣởng bạc nén. Ngô Thì Sĩ đời Lê Trung Hƣng, có tổ tiên mấy đời trƣớc theo
nghiệp Nho, cũng có sớ tâu lên vua xin điều trần 4 việc “khảo xét các quan”,
“sửa sang luật lệ kiện tụng”, “truy tôn bậc tiên nho”, “sửa lại thể thức làm
văn”, đƣợc vua hết lời khen ngợi.
Tuy ghi chép lại tiểu sử của những nhà nho có đức nghiệp với nhiều cách
khác nhau, nhƣng có thể quy cách ghi chép của Phan Huy Chú vào mấy điểm
chính. Thứ nhất, họ đều là những ngƣời trung nghĩa vì nƣớc vì dân, lo việc
nƣớc, yêu nhân dân. Tuy không gặp vua chúa anh minh mà phải từ quan về ở
ẩn, nhƣ Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần, không đƣợc chấp nhận,
liền từ quan lui về núi Chí Linh ở ẩn, nhƣng “khi có lễ hội triều lớn thì lại về
Kinh”. Hành động từ quan xa rời vòng danh lợi của Chu An là sự phản kháng
tình trạng vô đạo đức của xã hội phong kiến. Nho giáo tuy quan niệm bề tôi
phải trung với vua nhƣng khi cảm thấy không hợp thời và vua làm những điều
bất chính thì họ sẵn sàng ròi xa quan trƣờng, đứng về phía đạo lý và nhân dân
, đứng về phía đạo đức chân chính ở đời, quay lƣng lại với danh lợi để giữ tiết
và tâm hồn thanh cao. Ông đƣợc Phan Huy Chú coi trọng nhất trong các bậc
danh Nho. “Tìm trong làng nho ở nước Việt ta, từ trước đến nay chỉ có mình
57
ông, các ông khác thực không thể so sánh được”. Tác giả đã đem sự tích của
ông chép lên đầu hàng ngũ các bậc danh nho để làm gƣơng cho các thế hệ
Nho học đời sau. Bên cạnh Chu An, còn nhiều nhà nho khác nhƣ Lý Tử Cấu
(Đời Lê), trần văn bảo (Đời Mạc) Nguyễn Bỉnh Khiêm( Đời Mạc), Lê Quý
Đôn, Ngô thì Sĩ (Đời Lê Trung Hƣng đều là những nhà nho đƣợc trọng vọng
và để lại sự nghiệp lớn cho cuộc đời.
Điểm đáng lƣu ý thứ hai, họ đều là những ngƣời kiên nghị- một đức tính mà
Phan Huy Chú rất coi trọng. Chép về Phạm Trấn( đời Mạc) ông đã chép thêm
cả Đỗ Uông để cho thấy sự khác nhau giữa hai ngƣời gần làng nhau và cùng
đỗ một khoa. Cùng học đạo Nho và sách thánh hiền,nhƣng thi đỗ chức vị khác
nhau, tính tình cũng khác nhau, sự lập chí của hai bên cũng khác nhau. Phạm
Trấn “là ngƣời trầm tĩnh, không tranh giành, lại kiên định” Còn Đỗ Uông thì
“hiếu thắng”. Khi nhà Mạc mất, Uông quy thuận nhà Lê và đƣợc làm quan to
dƣới triều Lê, còn Phạm Trấn lại lui về ở ẩn.Phan Huy Chú coi nhà Mạc là
hoán nghịch mà Phạm Trấn vẫn một mực trung thành. Ông không chê Đỗ
Uông ra làm quan dƣới thời Lê trung hƣng, nhƣng lại chê về cách “lập chí”
nên không chép riêng nhân vật này, chỉ nói tới để làm sáng rõ hơn phẩm chất
của Phạm Trấn.
Đức nghiệp của các nhà Nho còn đƣợc Phan Huy Chú ca ngợi ở khía cạnh
khoáng đạt, không màng danh lợi, xuất xử đúng lúc. Khi thấy làm quan mà
không có điều kiện giúp đời thì vui vẻ rút lui về nhà dạy học, sống hòa thuận
với xóm làng thiên nhiên, không rời bỏ chí hƣớng thanh cao của kẻ sĩ. Tuy lui
về ở ẩn mà họ vẫn nhiệt tình mở trƣờng lớp đào tạo, dạy dỗ cất nhắc thế hệ
sau. Ghi chép tiểu sử của họ, đồng thời Phan Huy Chú cũng ngợi khen những
bậc sĩ phu mở trƣờng dạy học. Những nhân vật trên vì giữ những trọng trách
quan trọng mà thƣờng chú ý bồi dƣỡng đào tạo nhân tài. Nhƣ Chu An đời
Trần “dựng nhà học trên gò lớn giữa đầm để dạy học trò, xa gần nghe tiếng,
đến học rất đông. Học trò ông làm nên khá nhiều, thường có người làm chức
cao trong chính phủ”. Bản thân ông là ngƣời trực tiếp làm Tƣ nghiệp Quốc tử
58
giám, dạy thái tử học. Đạo đức của ông chính là khuôn mẫu đƣơng thời. Xét
về tƣ cách làm thầy, ông cố thái độ cứng cỏi, nghiêm nghị. Các bậc danh thần
nhƣ Phạm Sƣ Mạnh, Lê Bá Quát tuy đã giữ chức vị to triều chính khi diện
kiến thăm hỏi còn quỳ lạy dƣới giƣờng.
Vũ Thạnh đời Lê Trung Hƣng cũng là ngƣời có học vấn rộng rãi, hơn nữa lại
có công thay đổi nền học vấn và thói quen viết văn lúc bấy giờ, thay đổi lối
viết văn tầm chƣơng trích cú, quê kệch vụng về thời bấy giờ thành trôi chảy
nên thời bấy giờ rất chuộng. Ông mở lớp dạy học trò “người đến học có hàng
nghìn.. đỗ đại khoa đến hơn 70 người. Về sau có nhiều người làm quan có
tiếng tăm”.
Lại có những ngƣời cáo quan về quê ở ẩn, lấy việc dạy học làm thú vui nhƣ
Vũ Công Trấn. Vì văn chƣơng nổi tiếng ở đời nên “Học trò theo học rất
nhiều, người thành danh cũng lắm”.
Không chỉ có tài năng văn chƣơng mà những nhà nho đƣợc ghi chép có sự
nghiệp văn chƣơng rất vang dội và thành danh nhờ thi cử đỗ đạt ra làm quan.
Họ ham học và để tâm trƣớc thuật. Phan Huy Chú còn đặt tiêu chuẩn cho tƣ
cách “không hổ bậc danh nho”, ngoài đạo đức nổi tiếng hay khí tiết rõ rệt còn
có “hoặc giỏi về trước thuật, hoặc chuyên về văn, chương”. Bản thân ông
cũng là ngƣời say mê trƣớc thuật nên đã dành cả một “chí” là Văn tịch chí ghi
lại đầy đủ các sách của tiên nho, thƣờng kèm theo tiểu sử vắn tắt của tác giả.
Vì coi trọng tính hiếu học, ham trƣớc tác mà trong Nhân vật chí, tác giả đã hết
sức đề cao Lê Quý Đôn: “Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển
sách. Bình sinh làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc rộng rãi, mà
nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng.” Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm đƣợc coi nhƣ
một cây đại thụ trong văn học trung đại thì đƣợc Phan Huy Chú ca ngợi thơ
văn đƣợc lƣu hành ở đời và có giá trị lƣu truyền đến nghìn năm sau cho hậu
thế. “Đọc qua văn ông dù nghìn năm sau còn tưởng thấy như trăng thanh gió
mát”.
59
Phan Huy Chú đã tra cứu gia phả những dòng họ lớn, đồng thời cũng sử dụng
nhiều điều góp nhặt trong những cuộc tiếp xúc điều tra địa phƣơng. Nhân vật
chí cũng nhƣ các chí khác của LTHCLC khiến chúng ta kinh ngạc về trí óc
bao quát rộng lớn của tác giả. Chính vì thế mà bộ sử triều Nguyễn, Việt sử
thông giám cương mục thƣờng trích dẫn sách LTHCLC, coi nhƣ những sử liệu
đáng tin cậy. Ngƣời ta có thể tìm thấy ở tác phẩm này nhiều tài liệu để bổ
sung cho chính sử mà các tác phẩm sử nhƣ Đại Việt Sử Ký và Lịch sử thông
giám cương mục cũng nhƣ Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Lê Triều ngọc
phả…đều không ghi chép.
Có thể thấy một đặc điểm nổi bật trong quá trình ghi chép về Nhà nho có đức
nghiệp của Phan Huy Chú là ghi chép tiểu sử về quê quán, cuộc đời, quá trình
làm quan hoặc về ở ẩn, thái độ hành xử nhƣng đồng thời ghi chép cả những
sáng tác văn thơ của họ. Trong quá trình ghi chép này, vì chép cả văn chƣơng
nên ông đã vô tình để lại giá trị văn học cho tác phẩm. Chép sử truyện về con
ngƣời là công việc của sử học, nhƣng đồng thời lại mang theo cả giá trị văn
chƣơng. Văn thơ chính là đặc điểm cốt yếu để làm nên đức nghiệp của những
bậc danh nho này. Theo quan niệm chung của Nho giáo thì tài năng văn
chƣơng là yếu tố quyết định trình độ học vấn. Nhà nho chân chính phải năng
văn. Trong xã hội phong kiến ngày xƣa, chiếu chỉ của vua đƣa xuống cũng là
văn chƣơng, tờ bẩm quan lại đƣa lên cũng là văn chƣơng. Cả vua và quan đều
viết văn chƣơng và dùng văn chƣơng để thuyết phục lòng ngƣời. Vì vậy,
không chỉ những bài thơ, mà cả những bản tấu sớ, chiếu chỉ cũng đƣợc viết
dƣới hình thức văn chƣơng. Phan Huy Chú là nhà nho chân chính nên khi ghi
chép về tiểu sử của các danh nho, Phan Huy Chú gắn họ với quá trình thì cử
đỗ đạt và văn chƣơng của họ để chứng tỏ tài năng Nho học, đức độ của nhân
vật. Tất cả những nhân vật danh nho đƣợc ghi chép đều xứng đáng vì họ là
những ngƣời đƣợc học hành, tu dƣỡng theo đạo sách thánh hiền, luôn giữ
đúng lễ nghi khuôn phép của Nho giáo, đáng đƣợc lƣu danh để ngƣời đời sau
học tập.
60
2.2.5.Nhân vật Bề tôi tiết nghĩa
Bao gồm bảy ngƣời đời Trần, bốn mƣơi hai ngƣời đời Lê Sơ, một ngƣời cuối
Lê. Họ đều là những ngƣời bề tôi trung thành với vua. Nhân vật chí và phần
ghi chép về bề tôi tiết nghĩa là những trang sử hào hùng về lòng yêu nƣớc
căm thù giặc, là bài ca bất hủ về tƣ tƣởng trung quân ái quốc. Phan Huy Chú
đã đứng trên quan điểm Nho giáo để nhìn nhận và bình giá các nhân vật lịch
sử. Họ là những ngƣời tôn thờ tƣ tƣởng trung quân. Những nhân vật giũ tiết
nghĩa mà hy sinh vì nạn chúa đƣợc các nhà ghi chép sử đánh giá rất cao và
đƣợc ca ngợi hết lời.
Phần ghi chép về tiểu sử của các nhân vật tiết nghĩa đƣợc Phan Huy Chú ghi
chép một cách ngắn gọn rõ ràng tên tuổi, nguồn gốc xuất thân và nguyên nhân
cái chết của họ. Đa phần đều chết vì lòng tận trung với vƣơng triều. Ngƣời
chép sử coi đó là những tấm gƣơng đạo đức cao sáng đáng đƣợc ghi chép lại
để ngƣời đời sau học tập. Lịch sử Việt Nam trải qua các đời vua chúa đều có
các bậc bề tôi trung thành. Từ đời Trần đến đời Lê đều có ngƣời chết vì giữ
gìn tiết tháo và vì lòng tận trung với nhà vua. Họ lấy cái chết để đền đáp công
ơn của vua. Họ đều vì lòng trung thành với vua, với triều đại mà chết vì nhiều
nguyên nhân khác nhau. Có ngƣời thì cầm quân xung trận rồi bị giặc bắt, dụ
dỗ không đƣợc nên giết nhƣ các bề tôi đời Trần:Trần Bình Trọng, Lê Giốc,
Nguyễn Cảnh Dị... Trần Bình trọng nổi tiếng với câu nói “Thà làm ma nƣớc
Nam, không làm vƣơng đất Bắc.” Đây là câu nói khảng khái, dứt khoát, thể
hiện rõ tinh thần yêu nƣớc của kẻ sĩ, thà chết chứ nhất định không chịu nhận
ân sủng của giặc.Lê Giốc quê ở Thanh Hóa, cũng vì không chịu khuất phục
quỳ lạy giặc, thậm chí còn lớn tiếng mắng mỏ quân giặc “Tao là trọng thần
nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à?”giặc nổi giận giết ông. Nguyễn
Cảnh Dị và Nguyễn Biểu khi bị giặc bắt cũng dùng đạo lý mà lớn tiếng mắng
lại giặc nên bị giặc giết. Trong các bề tôi hy sinh vì đạo nghĩa thì có trƣờng
hợp của Nguyễn Súy là đáng lƣu ý hơn cả. Nguyễn Súy thân làm thái phó ở
triều Trùng Quang, cùng Trùng Quang đƣa quân đi chống giặc Minh. Cuối
61
cùng Trùng Quang vì bị bắt mà mà nhảy xuống nƣớc chết. Ông căm thù giặc
tìm cách giết tên chỉ huy rồi cũng nhảy xuống nƣớc chết cùng với vua.
Mỗi nhân vật đƣợc ghi chép tuy nguyên nhân và hoàn cảnh hy sinh thân mình
có khác nhau, nhƣng đều giống nhau ở nghĩa cử cao đẹp, ở lòng tận trung với
nƣớc, với vua. Họ tuy lúc bình thƣờng là những nhà nho an phận thủ thƣờng,
nhƣng đến khi cần hay nƣớc có biến cố binh đao, họ sẵn sàng chết vì nạn chúa
mà không chút nghĩ suy động lòng. Phan Huy Chú đã có những lời nhận xét
rất thấm thía về những bề tôi này. “Những bề tôi có tiết nghĩa thì đến khi hoạn
nạn mới thấy rõ. Vì lúc thời bình , ai cũng theo thường giữ phận, nên tiết tháo
không phân biệt được. Chỉ khi trong nước có biến cố, kẻ sĩ khảng khái cương
nghị xuất hiện, bỏ mình liều mạng, rồi sau tiếng thơm, nghĩa liệt chói lọi
nghìn thu”[15, tr.480].
Đến đời Lê, những tấm gƣơng nho gia tiết nghĩa lại càng thêm nhiều. Họ
chứng tỏ lòng trung nghĩa bằng cái chết theo nhiều cách khác nhau. Có ngƣời
tự vẫn hay thắt cổ chết nhƣ Vũ Duệ, Ngô Hoán,Dƣơng Trực Nguyên, Lê Tuấn
Mậu, Lê Tuấn Kiệt… Cũng có ngƣời vì tận trung với vua mà tự thắt cổ chết
nhƣ Ngô Hoán, uống thuốc độc để chết nhƣ NguyễnTự Cƣờng, hoặc nhảy
sông tự vẫn nhƣ Thiều Quy Linh. Có những bề tôi vì trung thành với triều
đình nhà Lê, khi nhà Mạc cƣớp ngôi dùng vinh hoa phú quý dụ dỗ nhƣng họ
không chịu nhục ra làm quan mà lui về ở ẩn nhƣ Lê Sạn, Lê Đức Toản, Phạm
Thịnh, Lê Dực, Nguyễn Tử Kiến… Nhƣ đã nói ở trên, dƣới con mắt của một
nhà nho – sử gia, Phan Huy Chú đƣợc nuôi dƣỡng với tƣ tƣởng trung quân
tuyệt đối nên mọi hành động cƣớp ngôi vua nhƣ nhà Mạc cƣớp ngôi nhà Lê
đƣợc coi là bất trung, lỗi nghịch và đáng phê phán. Chính vì vậy, những
ngƣời bề tôi trung thành với nhà Lê không chịu ra làm quan cho nhà Mạc đều
đƣợc Phan Huy Chú coi trọng và ghi chép lại. Theo ông họ đều là những tấm
gƣơng sáng đáng để noi theo, là những bề tôi hết mực trung thành với chế độ,
không chịu khuất phục trƣớc cƣờng quyền, không ham vinh hoa phú quý danh
lợi cốt để giữ lấy tiết nghĩa của mình, đƣợc nhà vua và nhân dân ngợi ca là
62
ngƣời tiết nghĩa. Khi ghi chép tiểu sử của những nhân vật này, Phan Huy Chú
cũng ghi chép một cách ngắn gọn, vắn tắt. Ở đoạn cuối là lời tổng kết và thái
độ của tác giả đối với nhân vật. Đó là thái độ ngợi ca, kính phục vì phẩm hạnh
của những ngƣời bề tôi này, họ sẵn sàng hy sinh bản thân cùng nạn chúa nên
đều đáng đƣợc ca ngợi. Ông viết: “có người chết vì nạn nước ngay ở triều
đình, có người gửi lòng thành ở đai áo, có người uống thuốc độc để vùi hận,
có người nhảy xuống sông để liều mình. Đến như ném đá vào giặc, phỉ nhổ
mặt giặc, khí khái anh hùng lại càng lẫm liệt”. Ghi chép lại tấm gƣơng nhân
vật giữ trọn tiết nghĩa, nhƣng đồng thời tác giả cũng đã bày tỏ thái độ tự hào,
khâm phục và tấm lòng xót thƣơng đối với họ. Họ đều là những ngƣời đáng
ghi chép đển tên tuổi không bị mai một và cũng là để ngƣời đời sau noi theo.
Trong phần ghi chép về Bề tôi tiết nghĩa,những nhân vật cùng chịu nạn với
vua chúa, hoặc là tự sát, hoặc là hy sinh tính mạng để giữ trọn tiết tháo đƣợc
ông chép vào một nhóm riêng. Điều này cho ta thấy Phan Huy Chú, dƣới con
mắt của một nhà Nho viết sử đã đề cao và ca ngợi tƣ tƣởng trung quân ái
quốc. Tƣ tƣởng này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong văn học trung đại nói
chung. Xếp các nhân vật Bề tôi tiết nghĩa vào mục cuối cùng trong Nhân vật
chí chính là sự thể hiện cao độ nhất tƣ tƣởng trung quân ái quốc. Trung với
vua cũng đồng nghĩa là yêu nƣớc, trung quân đồng nghĩa với ái quốc. Nho
giáo nói chung đề cao yếu tố trung nghĩa. Hơn ai hết, Phan Huy Chú là một
nhà nho nên đã rất thấm nhuần tƣ tƣởng trung nghĩa này của đạo Nho, nghĩa
là đã là bề tôi thì phải trung thành với một vua và một triều đại. Làm theo
mệnh vua là làm theo ý trời vì vua đƣợc coi là thiên tử: “Qân xử thần tử, thần
bất tử bất trung”. Hành động chết vì vua đƣợc coi là giữ trọn tiết tháo và đƣợc
nhà Nho ca ngợi. Ghi chép về những nhân vật lịch sử này, Phan Huy Chú đã
thể hiện lòng tự hào về tấm lòng trung quân ái quốc của những nhà Nho chân
chính.
Tự hào là thế, nhƣng Phan Huy Chú cũng không khỏi ngậm ngùi xót xa vì
cƣơng thƣờng đạo lý ngày càng suy giảm, đạo trung quân ái quốc không còn
63
vững bền nhƣ trƣớc nữa. Theo ông, trải qua các đời gây dựng đất nƣớc, từ nhà
Đinh, nhà Lý trở về trƣớc thì những tấm gƣơng bề tôi tiết nghĩa tìm thấy rất it
ỏi, hầu nhƣ là không có ai. Phải đến đời Trần mới tìm đƣợc 6 ngƣời, Đời Lê
thì tấm gƣơng ấy ngày càng nhiều, nhƣng càng về sau lại càng ít đi. Ông viết
:“Đời Lê trước [ Trung hưng] bị ngụy Mạc tiếm ngôi, lúc bấy giờ giữ trọn tiết
nghĩa có đến vài chục người. Kịp đến binh biến cuối nhà Lê chỉ có một ông tri
lại họ Lý là Lý Trần Quán chết vì nạn chúa”.Phan Huy Chú cho rằng nguyên
nhân của việc này chính là do phong tiết đã suy đồi nên đời trƣớc và đời sau
có sự khác xa nhau nhƣ thế. Ông cũng không quên nhắc bài học đối với
những ngƣời trị vì, nắm vận nƣớc trong tay, cần chú ý chỉnh đốn lại tam
cƣơng ngũ thƣờng, duy trì trật tự xã hội: “Nếu cương thường không chỉnh, thì
con người thành thói cẩu thả xu thời mà mất cả cái chí khảng khái chết theo
nạn nước. Cái tệ hại ấy thậm chí như đất lở ngói tan không còn duy trì được
nữa. Việc cuối nhà Lê có thể làm tấm gương soi. Người làm vua sao lại để thế
đạo đến nỗi như thế được”. Đây cũng là những cái nhìn sâu sắc, tiến bộ, đáng
lƣu tâm mà ngƣời làm sử cả trƣớc và sau ông đều không nhận ra.
Tiểu kết
Khi xây dựng tiểu sử của các nhân vật, Phan Huy Chú đều có cách ghi chép
ngắn gọn, rõ ràng, ghi chú đầy đủ họ tên, quê quán, năm sinh năm mất, niên
hiệu. Tùy vào từng loại hình nhân vật, chức vụ và địa vị khác nhau mà tiểu sử
nhân vật đƣợc ghi chép gắn với công trạng, sự nghiệp và sự đóng góp của họ
đối với việc phò vua, giúp nƣớc khác nhau. Họ là những nhân vật chính trị
nên tiểu sử của họ là sự kiện lịch sử gắn với cuộc đời. Ghi chép về nhân vật
đế vƣơng ông vẫn chủ yếu là giới thiệu nhân vật, cụ thể là các vua chúa của
những dòng họ nối tiếp nhau cai trị nƣớc Việt từ thời thƣợng cổ cho đến hết
triều Lê. Còn những dòng họ nhƣ nhà Mạc ông chỉ chép phụ. Thứ tự trình bày
cũng khá rõ ràng, vua chúa chép đủ cả trƣớc sau, bề tôi thì chia ra nhiều loại
ngƣời phụ tá có công lao, các danh tƣớng tài giỏi, nhà nho có đức nghiệp và
ngƣời tiết nghĩa. Chép về vua chúa, ông chép đủ cả những vị vua anh minh lỗi
64
lạc, cả những ngƣời không xứng đáng. Trong quá trình ghi chép có sự nhận
xét đánh giá riêng khen chê khi cần thiết. Sự ghi chép này có ngụ ý riêng, đó
là ông muốn nhấn mạnh tính chất tiếp nối không gián đoạn của lịch sử cai trị
đất nƣớc. Nƣớc Nam đời đời nối tiếp phát triển, không có giai đoạn nào
ngừng trệ hay không có ngƣời đứng đầu. Đối với các bề tôi, ông chỉ chép
những ngƣời có công trạng, tài đức, ngƣời sau có thể học hỏi noi gƣơng. Họ
đều là những bậc hiền tài hiếm có của quốc gia dân tộc. Dù là quan văn hay
quan võ đi chăng nữa, họ cũng đều có công lớn đối với nền hƣng thịnh của
mỗi triều đại. Các nhân vật có thể là những ngƣời trực tiếp nắm giữ quyền
chính trong triều đình, giúp vua cai trị đất nƣớc, bảo vệ bờ cõi, dẹp loạn yên
dân, có thể là những nhà nho có đức nghiệp hay những bề tôi trung nghĩa từng
hy sinh thân mình giữ trọn tiết tháo trong cơn hoạn nạn binh biến. Họ đều là
ngƣời học theo đạo Nho, thấm nhuần tƣ tƣởng của sách thánh hiền, hiểu rõ
tam cƣơng ngũ thƣờng. Đƣợc đào tạo quy củ và từng thi cử đỗ đạt, làm quan
nên họ có tầm ảnh hƣởng sâu rộng trong xã hội, nhất là về mặt tinh thần trong
việc đào tạo nhân tài, trong tƣ cách đạo đức và tài năng trƣớc tác học thuật.
Có thể nói Phan Huy Chú đã có sự phân biệt rạch ròi giữa các nhân vật lịch
sử, xếp họ vào từng nhóm riêng để các nhân vật không bị lẫn lộn vào với
nhau, tiểu sử của từng nhân vật hay từng nhóm nhân vật đƣợc sáng rõ, tiện
cho việc khảo cứu. Mỗi nhóm nhân vật lại có những đặc trƣng riêng trong
cách ghi chép nhƣ : Nhân vật vua chúa thì gắn với quá trình trị vì, nhóm nhân
vật bề tôi lại gắn với công trạng, văn thơ, sự hy sinh hay chịu nạn cùng vua
chúa. Cách phân loại trên dựa theo Thuyết chính danh trong Nho giáo. Chính
danh là làm việc cho ngay thẳng. Mỗi ngƣời khác nhau trong xã hội có địa vị
và bổn phận chính đáng của ngƣời ấy. Trên dƣới, vua tôi, cha con trật tự
phân minh. Mỗi nhóm ngƣời có chức năng, địa vị và bổn phận khác nhau
trong xã hội. Mỗi ngƣời thực hiện tốt chức năng của mình góp phần duy trì
trật tự xã hội. Phan Huy Chú là một nhà nho viết sử nên có sự phân loại nhƣ
trên cũng là điều dễ hiểu.
65
Ở từng mục của Nhân vật chí, cuối mỗi một giai đoạn lịch sử thƣờng có “Lời
án”. Đây cũng chính là lời kết của tác giả qua từng thời kì. Đó cũng là lời
đánh giá tổng quát cả một thời kì lịch sử, cho thấy sự tiến triển qua thời gian,
mối liên hệ mật thiết giữa thời đại và nhân vật. Những nhận xét này thể hiện
một tƣ duy khoa học độc đáo rất đáng chú ý.
Cách chép sử tuy còn sơ lƣợc, mang tính chất phác họa nhƣng lại rõ ràng,
giúp ngƣời khảo cứu lịch sử có thể hình dung rõ chân dung cũng nhƣ cuộc đời
của nhân vật lịch sử có thật, đây cũng là nguồn tƣ liệu đáng quý cho những
nhà nghiên cứu văn sử học.
CHƢƠNG 3: CÁCH THỨC XÂY DỰNG TIỂU SỬ NHÂN VẬT CỦA PHAN HUY CHÚ TRONG THIÊN NHÂN VẬT CHÍ
3.1. Xây dựng tiểu sử nhân vật gắn liền với các thủ pháp kể, tả, luận
Nội dung chính của thiên Nhân vật chí là ghi chép về các nhân vật và cuộc
đời tiểu sử của họ. Chính vì vậy, miêu tả là thủ pháp không thể thiếu trong
quá trình ghi chép. Bên cạnh việc sử dụng yếu tố kì ảo và bút pháp hƣ cấu để
ghi chép về nhân vật, Phan Huy Chú còn sử dụng các bút pháp nhƣ kể
chuyện, xen lẫn với miêu tả và lời bình về các nhân vật. Chính điều này làm
cho thiên Nhân vật chí mang đậm chất văn chƣơng.
Ghi chép về tiểu sử nhân vật, trƣớc hết, Phan Huy Chú kểvềnguồn gốc xuất
thân, lai lịch của họ. Các nhân vật vua chúa thƣờng đƣợc gắn với nguồn gốc
xuất thân phi phàm, gắn với các yếu tố thuộc về truyền thuyết. Nhất là ở giai
đoạn đầu, thời kì Hồng Bàng. Khi ghi chép về các vị vua nhƣ Kinh Dƣơng
Vƣơng, Lạc Long Quân, Hùng Vƣơng, yếu tố kể chuyện đậm đặc. Các câu
chuyện đƣợc kể chủ yếu là những chuyện ly kì,các truyền thuyết có từ xa xƣa
trong dân gian. Phan Huy Chú đã ghi lại tiểu sử của các nhân vật lƣu truyền
trong dân gian nhƣ Lạc Long Quân, Âu Cơ gắn với sự tích Trăm trứng nở ra
trăm con. Hay nhƣ chuyện chiếc nỏ thần của vua An Dƣơng Vƣơng đƣợc rùa
vàng trao tặng.
66
Thời trung đại, nhà sử học đồng thời cũng là nhà văn, ngƣời kể chuyện, ngƣời
truyền đạt. Ghi chép lại câu chuyện họ đồng thời kể lại câu chuyện. Nhà ghi
chép sử coi trọng kể lại câu chuyện có ngọn có ngành, có thời gian, niên đại,
địa điểm, kể cả hành động, lời nói của nhân vật. Nhà sử học khéo sử dụng tài
liệu, các truyền thuyết dân gian, kết hợp với tƣởng tƣợng, cảm thụ, nhận xét,
đánh giá. Họ kết hợp cả ý thức khoa học khách quan, nghiêm cẩn với cả ý
thức văn nghệ linh hoạt, sinh động. Phƣơng pháp ghi chép này đƣợc Phan
Huy Chú vận dụng khá nhuần nhuyễn. Hầu hết các nhân vật đƣợc kể từ lúc
sinh ra đến khi mất đi, quê quán, tên hiệu, quá trình trị vì hay ra làm quan nhƣ
thế nào, công trạng của họ trong lịch sử. Ghi chép về nhân vật nào dù là vua
chúa hay bề tôi cũng đều tuân theo nguyên tắc trên. Nhất là các mục ghi về
các vua chúa hay các bề tôi tiết nghĩa. Tác giả đã kể lại một cách ngắn gọn,
khúc chiết. Tác giả ghi về Thánh Tông Hoàng Đế “ Tên là Hoảng, con trưởng
Thái Tông. Tính vua trung, hiếu , nhân, thứ nhân với người thân, hòa mục với
họ hàng, tôn hiền trọng đạo, thực là một vị vua hiền, nối được nghiệp. Về già
kê cứu lẽ huyền bí của đạo Phật, noi theo phép nhà vua. Vua ở ngôi 21 năm,
nhường ngôi 3 năm, thọ 51 tuổi, đặt niên hiệu hai lần.”[15, tr.232] Hay nhƣ
miêu tả về bề tôi cũng vẫn với cách ghi chép ngắn gọn và giọng điệu kể
chuyện. Ông ghi chép về Nguyễn Văn Kiệt trong mục Bề tôi tiết nghĩa : “Ông
người ở nghĩa xá, huyện Ngự Thiên [ Hưng Yên], đỗ Đồng tiến sĩ khoa Nhâm
Tuất[1502] đời Cảnh Thống, làm đến Thiêm đô ngự sử. Mạc tiếm ngôi, ông
không chịu khuất, được khen là tiết nghĩa.” [15, tr.478] . Còn khi ghi về các
bậc danh nho, công thần hay tƣớng tá thì đồng thời ghi lại cả văn chƣơng của
họ. Họ là kiểu nhà khoa học đặc biệt, vừa ghi chép, vừa miêu tả, đánh giá.
Chính vì vậy, tác phẩm sử học đồng thời cũng là tác phẩm văn học vì đã có
yếu tố chủ quan của tác giả ở trong đó.
Ghi chép lại sự thật lịch sử, nhƣng tác giả đã vận dụng thao tác kể và thuật lại
ngắn gọn tiểu sử nên cuộc đời nhân vật hiện lên liền mạch nhƣ một câu
chuyện. Các chi tiết về tiểu sử cuộc đời không bị bỏ sót. Thao tác kể và thuật
67
trong văn chƣơng đã góp phần đắc lực cho việc thể hiện nhân vật một cách rõ
ràng nhất nhƣng bản thân nó là một thao tác của văn chƣơng nên ghi chép sử
lại bị chi phối của giọng điệu ngƣời kể chuyện, nghĩa là mang tính chủ quan.
Tiểu sử nhân vật nhƣ đƣợc sáng tạo ra và bƣớc ra từ trang văn chứ không phải
là yếu tố của lịch sử. Các bằng chứng về sự thật để minh chứng cho hiện thực
lịch sử hầu nhƣ không đƣợc biết đến. Ngƣời đọc chỉ có thể biết đến nhân vật
qua lời kể và đánh giá của ngƣời viết sử. Chính điều này đã làm cho chất sử
học phần nào bị lu mờ. Thay vào đó là chất sáng tạo của văn chƣơng. Nhƣng
một điều đáng ca ngợi trong nghệ thuật viết sử của Phan Huy Chú là ông đã
kể lại cuộc đời nhân vật một cách khách quan và chân thật, công bằng nhất.
Điều này thể hiện qua sự bình giá nhận xét xen kẽ trong tiểu sử nhân vật.
Ngƣời viết sử là kiểu nhà khoa học đặc biệt. Vừa ghi chép, vừa miêu tả, thuật
lại. Chính vì vậy, tác phẩm sử học đồng thời cũng là tác phẩm văn học vì đã
có yếu tố chủ quan của tác giả ở trong đó.
Miêu tả là một yếu tố quan trọng trong thi pháp văn học trung đại. Miêu tả
cũng là thao tác chính để kể chuyện về một nhân vật lịch sử hay một biến cố
xảy ra trong lịch sử. Nét nổi bật trong bút pháp miêu tả của Phan Huy Chú là
ở chỗ khắc họa chân dung nhân vật qua những chi tiết về ngoại hình, chi tiết
về nguồn gốc xuất thân. Miêu tả ngoại hình trong văn chƣơng trung đại giai
đoạn đầu chịu sự chi phối của mô hình “Tam giáo đồng nguyên”. Nhƣng giai
đạn sau, khi Nho giáo trở thành chính thống, tƣ tƣởngNho giáo lại chi phối
nhiều mặt trong đời sống xã hội nhất là đời sống văn học. Thế giới quan, quan
niệm về cái hay cái đẹp của ngƣời cầm bút cũng bị ảnh hƣởng trực tiếp bởi
Nho giáo. Một đặc điểm dễ nhận thấy trong bút pháp văn chƣơng trung đại
khi xây dựng miêu tả hình tƣợng về con ngƣời là mang tính ƣớc lệ tƣợng
trƣng. Các kiểu mẫu nhân vật khác nhau đƣợc miêu tả khác nhau nhƣng lại
theo một công thức chung theo mô hình nhân cách truyền thống của Phƣơng
Đông. Trong mô hình nhân cách lý tƣởng của ngƣời phƣơng Đông, vua chúa
thƣờng đƣợc so sánh với rồng, phƣợng. Ngƣời quân tử hay anh hùng thì so
68
sánh với cây tùng, cây bách. Còn ngƣời con gái đẹp thì đƣợc so với hoa, với
liễu, tuyết, nguyệt… Tóm lại, miêu tả ngoại hình nhân vật trong văn chƣơng
trung đại, nữ thì đẹp nghiêng nƣớc nghiêng thành, chim sa cá lặn. nam thì hào
hoa phong nhã, bậc anh hùng thì kỳ vĩ phi thƣờng, đầu đội trời chân đạp đất.
Tính chất ƣớc lệ tƣợng trƣng trong văn học trung đại đã ảnh hƣởng rất lớn
đến sự ghi chép về tiểu sử nhân vật trong thiên Nhân Vật chí của Phan Huy
Chú. Tác giả là một nhà nho chính thống, chịu sự chi phối của tƣ tƣởng nho
gia nên chịu ảnh hƣởng của lối viết của nhà nho. Có nghĩa là trong quá trình
ghi chép về nhân vật lịch sử, cũng sử dụng bút pháp ƣớc lệ, tƣợng trƣng để
miêu tả, ghi chép lại những nét cơ bản về ngoại hình.
Khi ghi chép về các vua chúa, đế vƣơng, Phan Huy Chú tập trung vào việc kể
lại những sự việc ly kì gắn với sự ra đời của họ. Các bậc vua chúa ra đời đều
gắn với các sự kiện nhƣ thần báo mộng hay rồng vàng ấp trứng. Điều này
nằm trong ngụ ý của tác giả, góp phần vào việc làm nổi bật những nét phi
thƣờng về ngoại hình. Trần Nho Thìn trong bài viết Thi pháp văn học trung
đại Việt Nam khi viết về bút pháp miêu tả trong văn học trung đại “Có nhiều
hình thức để đặc tả sự phi thường. Đơn giản nhất và phổ biến nhất là liệt kê
một số đặc điểm phi thường về ngoại hình và phẩm chất đạo đức, tinh thần,
những năng lực khác nhau” [57]. Hầu hết các truyện đƣợc ghi chép về nhân
vật vua chúa đều dùng các biện pháp tô đậm màu sắc thần kì, phi thƣờng và
khác thƣờng của loại nhân vật này. Vua chúa đƣợc xếp vào hạng thánh nhân
quân tử nên có sự ra đời hoặc thụ thai kì lạ, có tƣớng mạo khác thƣờng, trí tuệ
vƣợt trội hoặc nhân cách cao thƣợng. Còn những bậc tiểu nhân thì nhân cách
thấp hèn, trần tục.
Nguồn gốc xuất thân đã vậy, ngoại hình nhân vật cũng đƣợc miêu tả theo một
công thức đã đƣợc đƣa ra trƣớc đó. Tất cả những ông vua, những bậc thánh
nhân, quân tử đều có tƣớng mạo, nguồn gốc sinh thành và tƣ chất khác
thƣờng, phúc khí hơn ngƣời. Khi ghi chép về Thái Tông Hoàng Đế, Phan Huy
Chú ghi chép cụ thể “Sinh ra có tướng lạ và nhiều điềm lạ. Khi ông lớn lên,
69
tính khí nhân từ, hiền trí thông minh, thông hiểu đại lược về văn, vũ; bắn
cung cưỡi ngựa, viết chữ, tính toán nghề gì cũng thông thạo”. Hay đƣợc so
sánh với rồng với hổ nhƣ vua Thái Tổ Cao Hoàng Đế “khi sinh có mùi
hương lạ bay khắp làng. Đến lúc lớn, đức độ hơn người, đi như rồng, bước
như hổ, người có kiến thức biết là kẻ phi thường”[15, tr. 237]. Vua Thần Tông
Uyên hoàng đế đƣợc miêu tả chi tiết từ mắt, mũi, miệng, đến tài năng: “Vua
mũi cao, mặt rồng có vẻ khác người, sáng suốt học rộng, thường thích văn
thơ cùng với chúa một nhà hòa vui êm thấm”. Thái Tông Văn Hoàng Đế thì
lại đƣợc ca ngợi về tƣ chất “Tư chất vua sáng suốt tinh khôn; khi cầm quyền
chính: trong ngăn ngừa các cường thần, ngoài dẹp yên các man di. Trọng
đạo, chuộng Nho, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ chính hình ; văn vật
rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền”. Thánh Tông Thuần Hoàng Đế lại đƣợc
ca ngợi và ghi chép nhƣ một ông vua tinh thông tất cả mọi phƣơng diện, toàn
đức toàn tài : “ Tư chất và tính khí vua cao sáng, ham học không biết mỏi, tay
không rời sách : kinh, sử, chư tử, lịch số, toán, chương đều tinh thông, văn
thơ càng giỏi hơn các bề tôi”. Trong phƣơng pháp trị nƣớc thì “vua tôn trọng
Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, khôi phục và mở mang bờ cõi,
văn vũ tài lược hơn cả các đời” [15, tr. 239].
Nhân vật hoàng đế trong các tác phẩm sử hay tác phẩm văn khi đƣợc ghi
chép miêu tả đều có sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo nên có sự phân biệt
rõ ràng trong quá trình ghi chép. Những bậc vua chúa quân tử thì có cốt cách
cao quý, xuất thần,…ngƣợc lại, những lớp ngƣời dƣới, những bậc tiểu nhân
thì hèn kém, trần tục. Ngƣời có ngoại hình cốt cách nhƣ thế nào thì sẽ có
phẩm chất nhƣ thế ấy. Phẩm chất của các bậc đế vƣơng là do tạo hóa ban cho
chứ không phải do rèn luyện hay môi trƣờng hoàn cảnh. Các bậc nho học và
các nhà ghi chép sử hoàn toàn tin rằng họ sinh ra, làm vua là do mệnh trời đã
định sẵn, phía sau họ luôn có các lực lƣợng thần bí nhƣ trời, đất phù trợ.
Một điểm dễ nhận thấy trong quá trình miêu tả của Phan Huy Chú là, những
bậc phi thƣờng thì sẽ không có chân dung thực, giống nhƣ bọn phàm phu tục
70
tử đƣợc. Tác giả đã tránh việc tả chân dung một cách chi tiết, cụ thể theo bút
pháp tả chân. Ngƣời đọc khi tiếp xúc thì chỉ tóm gọn những nét khái quát nhất
về chân dung, tính cách của nhân vật. Nhà chép sử nhấn mạnh đến những chi
tiết liên quan đến nguồn gốc ra đời, thân thể và trí tuệ của nhân vật.
Ngoại hình của những nhân vật phi thƣờng cao quý thƣờng đƣợc nhấn mạnh
về dung mạo. Ta ít khi tìm thấy những thánh nhân quân tử hay những ngƣời
tài giỏi mà dung mạo lại xấu xí, thô kệch. Đa số trong số họ đều thông minh
sáng láng và tuấn tú khác thƣờng,vẻ phi phàm toát lên từ dung mạo. Phan
Huy Chú khi miêu tả về ngoại hình nhân vật cũng chƣa thoát khỏi tƣ duy
miêu tả chung của văn học. Trong Nhân vật chí, không chỉ ngoại hình của vua
chua chúa mà nguồn gốc xuất thân, ngoại hình của các bề tôi tài giỏi cũng
đƣợc miêu tả theo tính chất ƣớc lệ. Miêu tả về các tƣớng võ, ông cũng chú ý
tả sao cho nổi bật lên những nét oai hùng con nhà võ của nhân vật. Tiêu biểu
nhƣ Trần Quốc Tuấn là tƣớng giỏi đời Trần nên dung mạo cũng phải khác
thƣờng để không hổ danh là một danh tƣớng. “Lúc trẻ có người coi tướng nói
rằng ngày sau có thể kinh bang tế thế. Khi Lớn lên, dung mạo hùng vỹ, thông
minh hơn người, học sách , tài kiêm văn võ” [15, tr. 368]. Trịnh Khả ngƣời
làng Thanh Hóa, làm tƣớng dƣới đời Lê đƣợc miêu tả cũng với dung mạo
khác thƣờng, toát lên dáng dấp của một võ tƣớng, thầy xem tƣớng đã khen :
“mình rồng, mắt hổ khỏe nhất ba quân, ngày sau tất cầm cờ mao tiết”.
Còn khi miêu tả về các nhà nho, ông lại chú ý đến dung mạo khôi ngô tuấn tú
toát lên vẻ nho nhã sáng sủa nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm (đời Mạc) “sinh ra mặt
mũi tinh anh, khôi vĩ”. Vũ Công Đạo (Đời Lê trung hƣng) “lúc trẻ nổi tiếng là
anh tuấn, thông minh, học vấn rộng rãi”.
Về nguồn gốc xuất thân, các bậc thánh nhân quân tử đều có nguồn gốc ra đời
kì lạ vì theo quan niệm của ngƣời phƣơng Đông xƣa, nhân cách cao quý là do
trời đất ban tặng, khi vua sinh ra đã mang trong mình dòng máu thiên tử, đƣợc
trời ủy thác xuống hạ thế để chăm lo cho dân. Còn khi miêu tả dáng đi vẻ mặt
của các bậc đế vƣơng họ đều lấy rồng, phƣợng, hổ, báo, hay ánh chớp ra để so
71
sánh. Bên cạnh việc sử dụng mô típ thụ thai thần kì để thần thánh hóa nguồn
gốc xuất thân thì việc miêu tả về ngoại hình, so sánh ngoại hình của nhân vật
với những con vật linh thiêng trong đất trời cũng góp phần nào đó làm nổi
lên khí chất phi phàm của nhân vật. Cách ghi chép miêu tả nhƣ vậy thƣờng
xuất phát từ tâm lý trung quân, coi nhà vua là mẫu mực và trên hết thảy của
nhà Nho.
Do vài trò độc tôn của Nho giáo, mọi vấn đề trong cuộc sống con ngƣời đều
chịu sự ảnh hƣởng của Nho giáo, đặc biệt là đời sống văn học. Nho giáo nhìn
nhận con ngƣời là con ngƣời chức năng trong xã hội, phận làm bề tôi phải
trung với vua, ngƣời bề trên có trách nhiệm chăn dắt dạy dỗ ngƣời bề dƣới,
con cái phải hiếu kính cha mẹ, ông bà tổ tiên…Con ngƣời theo quan niệm của
Nho giáo là con ngƣời đã đƣợc phân biệt đẳng cấp nên mỗi một kiểu ngƣời
trong xã hội sẽ có một công thức miêu tả riêng, do vậy dẫn đến tính ƣớc lệ
tƣợng trƣng.
Ở đây, tính ƣớc lệ tƣợng trƣng đã trở thành công thức chung trong khi miêu
tả. Mĩ nhân nào cũng “mày ngài mắt phượng”, “mặt hoa da phấn”, còn phàm
là những danh nhân văn nho thì nho nhã , giỏi văn thơ và ứng đối, mỗi lần cất
tiếng là một lần “nhả ngọc phun châu”, các nhân vật anh hùng thì khỏe
mạnh cƣờng tráng oai phong lẫm liệt, to lớn phi thƣờng, mƣu trí trên trận
mạc… Nghệ thuật miêu tả ƣớc lệ tƣợng trƣng trong văn học làm cho hình
tƣợng nhân vật trở nên đẹp hơn. Cái đẹp ở đây là đẹp theo chuẩn mực của
Nho gia. Nhƣng vì ƣớc lệ tƣợng trƣng là phƣơng pháp miêu tả con ngƣời một
cách chung nhất nên hình tƣợng nhân vật đƣợc ghi chép cũng chung chung và
trừu tƣợng. Ta sẽ khó mà hình dung đƣợc những đặc điểm riêng về ngoại hình
hay nét tính cách vốn có của nhân vật lịch sử, những nét riêng mất đi chỉ còn
lại những cái chung nhất. Thêm vào đó, nhân vật sẽ trở nên kì vĩ phi phàm,
khác xa với hiện thực lịch sử. Chất hiện thực vốn có của sử học bị lu mờ. Đây
là đặc trƣng điển hình cho thi pháp văn học trung đại. Dù ở thể loại nào đi nữa
vẫn chịu sự chi phối và cách nhìn của đặc trƣng văn hóa xã hội đƣơng thời.
72
Không chỉ miêu tả ngoại hình mà ông còn miêu tả nhân vật qua hành động,
ngôn ngữ đối thoại, đặt nhân vật vào những mối mâu thuẫn từ đó khái quát
lên tính cách nhân vật. Lẽ tất nhiên, đó không phải là những mâu thuẫn cao
trào, kịch tính nhƣ trong các tác phẩm kịch, hay văn xuôi truyện ngắn thời
hiện đại.. đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ và bình thƣờng nhƣng vẫn góp phần
vào việc làm nổi bật lên đƣợc tính cách và khí khái của nhân vật. Ta không
nhận thấy những mối mâu thuẫn hay những tình huống kịch tính mang tính
chất truyện trong phần ghi chép về các nhân vật vua chúa, nhƣng phần ghi
chép về các nhân vật bề tôi điều này lại thể hiện rất rõ. Đó là những biến cố
nhỏ, nhƣng lại là biến cố để cuộc đời nhân vật hiện lên một cách sáng rõ nhất.
Việc trích dẫn các câu nói góp phần làm nổi bật tính cách đặc trƣng, từ đó,
ngƣời khảo cứu có thể hiểu thêm không chỉ về sự nghiệp mà còn cả tính cách
của nhân vật. Trần Bình Trọng nổi tiếng với câu nói “Thà làm ma nước Nam,
không làm vương đất Bắc” Lê giốc thì quát mắng thẳng vào mặt kẻ thù “Tao
là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à” Nguyễn Biểu tố
cáo thẳng tội bất trung của giặc với vua và dân chúng, coi quân giặc là bạo
ngƣợc, sử dụng lời lẽ đanh thép, toát lên khí khái cứng cỏi: “[Chúng mày] bên
trong thì mưu đồ cái kế đánh chiếm, mà bên ngoài thì phô phang là quân
nhân nghĩa. Đã hứa lập con cháu nhà Trần, mà lại đặt quận huyện. Chẳng
những cướp bóc của cải mà còn tàn hại sinh dân. Đúng là quân giặc bạo
ngược”. Rồi ông bị giết. Tất cả đều nổi lên khí khái dũng cảm của bề tôi trung
thành, một bậc thánh nhân quân tử, thà hy sinh vì đạo nghĩa lớn chứ nhất định
không chịu làm tay sai cho giặc. Tƣ tƣởng trung quân đã đƣợc phát huy cao
độ ở những tấm gƣơng này.
Tuy là ghi chép lại lịch sử nhƣng Phan Huy Chú ghi chép với giọng điệu kể
chuyện của văn chƣơng. Cách ghi chép trƣớc hết là ghi việc, có nhiều ghi
nhiều, có ít ghi ít, biết thêm thì ghi thêm.Thao tác chính trong ghi chép của
ông là thuật lại sự vật, sự việc liên quan đến nhân vật. Ông coi mình nhƣ là
một ngƣời kể lại câu chuyện của các danh nhân lịch sử.Nhân vật chí cũng có
73
thể coi nhƣ là truyện sử vì kể lại lai lịch của nhân vật từ đầu đến cuối, kể cả
hậu thân và con cháu của ngƣời ấy. Ghi chép lại cuộc đời đồng thời cũng kể
lại hành động và ngôn ngữ nhân vật. Việc thuật lại hành động, ngôn ngữ nhân
vật góp phần thể hiện tính cách nhân vật. Mỗi hành động khác nhau sẽ phản
ánh tính cách khác nhau. Nhà văn quan tâm đến hành động của nhân vật,
nhƣng các nhà sử học trong quá trình ghi chép về nhân vật cũng đặc biệt chú
trọng đến hành động của nhân vật. Mỗi kiểu nhân vật lại có kiểu hành động
riêng. Nhà chép sử đồng thời ghi chép cả hành động và khái quát lên thành
kiểu ngƣời trong xã hội. Lẽ tất nhiên tác giả không đi sâu vào việc tả kĩ hành
động ngôn ngữ của nhân vật mà chỉ kể thoáng qua bằng một chi tiết hay một
câu nói mà tính cách nhân vật cứ hiện ra một cách rõ ràng. Nhiều khi các nhà
sử học còn dừng lại ở những việc khác thƣờng hay những hành động nhất thời
kì quặc để phác họa tính cách hay làm nổi bật lên tấm gƣơng đạo đức. Nhƣ
Chu An đời Trần nhiều lần dâng sớ xin chém 7 nịnh thần, nhƣng không đƣợc
ông từ quan về quê. Ông là ngƣời nghiêm khắc với học trò nên mỗi lần học
trò đến thăm, dù là ngƣời quyền cao chức trọng thì vẫn phải giữ lễ, quỳ lạy
dƣới giƣờng. Nhƣ vậy, ngƣời đọc sử có thể hình dung ra sự nghiêm khắc và
tính cách của Chu An. Nguyễn Súy thì vác bàn cờ đánh chết kẻ giết vua rồi
gieo mình xuống sông tự vẫn. Hay nhƣ cách kể lại cái chết của những bề tôi
tiết nghĩa. Ông không tả kĩ cái chết ấy diễn ra nhƣ thế nào, thái độ của nhân
vật trƣớc khi chết ra sao mà ông chỉ nói về nguyên nhân chết, chết vì uất ức,
chết vì uống thuốc độc, chết vì chịu nạn cùng chúa… Ông thuật lại lời nói
ngôn ngữ của các nhân vật, điều này làm các nét tính cách của nhân vật hiện
lên rõ nét. Tiểu sử nhân vật đƣợc tái hiện qua lời kểnhƣ một quá trình chứ
không phải là những mẩu chuyện rời rạc. Nhƣ vậy cách chép sử của nhà nho
cũng giống nhƣ cách trần thuật lại câu chuyện của nhà văn. Điều này làm cho
tác phẩm sử nhƣng lại mang đậm tính văn chƣơng.
Nhân vật chí không nằm ngoài quy tắc chung của việc chép sử. Có nghĩa là
cũng chịu sự chi phối và thể hiện tính chất văn- sử bất phân của văn học trung
74
đại. Cuộc đời của các nhân vật, các sự việc đƣợc ghi chép tuần tự theo diễn
tiến thời gian. Tiểu sử nhân vật đƣợc ghi chép từ lúc sinh ra đến khi mất đi.
Tuy nhiên, điều làm nên giá trị văn học của thiên “Nhân vật chí” chính là các
bài thơ, bài văn bằng chữ Hán và chữ Nôm cũng đƣợc tác giả ghi chép cẩn
thận, tinh tế. Xen vào đó là những lời bàn luận, khen chê, ngợi ca của tác giả.
Ghi chép lại cuộc đời nhân vật, nhƣng lời tác giả đƣợc chia làm hai. Lời trần
thuật miêu tả câu chuyện và lời bàn (bình) với hai tƣ cách khác nhau. Một
ngƣời là ngƣời kể chuyện khách quan, “biết hết” và “biết trƣớc”. Một ngƣời
bình luận về mặt đạo đức hoặc nghệ thuật theo một quan điểm hay một cách
nhìn cố hữu. Đây cũng là điểm dễ bắt gặp trong nhiều tác phẩm sử khác nhau.
Điều này cho thấy ảnh hƣởng của bút pháp viết sử và bút pháp phê bình của
văn học. Nó cho thấy ý thức sử học và ý thức phê bình văn học vốn không
tách rời nhau, đi đôi với nhau. Trong LTHCLC, ta dễ dàng bắt gặp lời bình sử
của tác giả. Hầu nhƣ thao tác này tràn ngập trong tác phẩm. Khi viết về một
nhân vật, Phan Huy Chú thƣờng xen vào đó lời khen chê, bình giá nhân vật
của mình dƣới con mắt và quan điểm của nhà nho học. Ông có thể khen chê
một cách thẳng thắn bằng chính lời bình của mình, nhƣng cũng có khi khen
chê một cách kín đáo qua giọng điệu kể lại câu chuyện nhân vật(giọng điệu
trần thuật). Cách nhìn nhận các nhân vật lịch sử nhƣ những vị vua anh minh,
những bề tôi trung thành hay những ngƣời bội phản… cũng là cách nhìn nhận
con ngƣời theo chuẩn mực nho giáo. Các bậc thần sử xem Nho gia là tƣ
tƣởng chính thống nên những vị vua say mê đạo Phật đều bị phê phán kịch
liệt. Cả Lê Văn Hƣu và Ngô Sĩ Liên đều nêu nguyên tắc làm vua là không
đƣợc say mê đạo Phật. Phan Huy Chú là một nhà nho chính thống nên cũng
chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng này. Ông cũng phê phán vua Lý Thái Tổ Đế,
Thần Tông Hoàng Đế, tuy có nhiều đóng góp cho việc xây dựng đất nƣớc,
nhƣng lại ham mê đạo Phật đị đoan, trong dân gian đến một nửa là tăng ni
chùa chiền mọc khắp nơi, đánh đƣợc giặc mà quy công cho Phật, kẻ dâng
hƣơu mà ban quan tƣớc, khiến “đời sau không khỏi phàn nàn”. Thánh Tông
75
Hoàng Đế xây tháp Báo Thiên, làm cung Dâm Đàm nhọc dân tốn của cũng là
đức chƣa tốt hoàn toàn. Thái Tông Hoàng Đế cũng là vị vua hiền, nhƣng
hành động không theo lễ, khoe khoang tự đắc nên nhà làm sử còn chê chỗ đó.
Thánh Tông Thuần Hoàng Đế có công trong khôi phục mở mang bờ cõi,
nhƣng về già lại dâm dục và mắc tật phong thũng. ..
Ta thấy Phan Huy Chú trong quá trình ghi chép về vua chúa khá mạnh dạn
trong việc phê phán, có thái độ định công tội rõ ràng, biểu dƣơng và phê phán
khi cần thiết. Điều này chứng tỏ ở ông một thái độ công bằng và con mắt nhìn
khách quan trong cách bình sử.
Khi chép về nhân vật bề tôi, ta thấy thái độ chủ yếu của Phan Huy Chú là ngợi
ca. Ca ngợi những ngƣời có công lao đối với đất nƣớc, những nhà nho có đức
nghiệp và bề tôi tiết nghĩa trung thành với vua. Đối với từng nhân vật, Phan
Huy Chú thƣờng có lời nhận xét và đánh giá về đời sống sự nghiệp cũng nhƣ
cách nhìn của ngƣời thời đó với nhân vật. Mỗi đời lại có những tấm gƣơng
khác nhau đáng để học tập.
Cuối mỗi thời kỳ lịch sử, Phan Huy Chú lại có “lời án” sự đánh giá nhận xét
về nhân tài ở các đời. Thƣờng lời nhận xét này là lời tổng kết đánh giá chung
về tình hình xã hội và các nhân vật lịch sử thời đó. Lời xét này giữ vị trí quan
trọng vì nó cho thấy thái độ của ngƣời làm sử và con mắt nhìn khen chê của
ngƣời đời đối với các nhân vật. Đó cũng là lời tổng quát cả một thời kì lịch
sử, cho thấy quá trình vận động không chỉ của cuộc đời nhân vật mà còn cho
thấy cả sự vận động của lịch sử xã hội, sự tiến triển theo thời gian và mối
quan hệ, vị trí của nhân vật với thời đại. Đây là cách nhìn có giá trị khoa học
đáng chú ý. Chẳng hạn nhƣ khi đánh giá về những nhân vật Người phò tá
công lao tài đức ở đời Lê trung hƣng, Phan Huy Chú đã hết lòng ca ngợi
những bậc tể phụ có công với đất nƣớc, ông không ngại ngùng bày tỏ thái độ
cũng nhƣ quan điểm của mình “Trong đời Cảnh Hưng khoảng năm Canh
Thân[1740], Tân Dậu[1741], bốn phương rối loạn, triều đình sớm trưa lo
liệu, Ân Vương [Trịnh Doanh] cố gắng toan lo, cất nhắc những việc đình trệ.
76
Bấy giờ có vài ba cố lão và các bậc hiền giả mới nổi lên cùng chung góp sức
việc chính và dẹp giặc, hoặc bày mưu kế ở miếu đường, hoặc rong duổi ở
biên cương, khiến cho khoảng hơn 10 năm trộm giặc quét sạch, cõi bờ yên ổn,
công lao các vị đáng khen là bậc hiền phụ cuối đời Lê” [15, tr. 364 – 365].
Qua lời bình, Phan Huy Chú đã cho ta thấy lý do ghi chép về tiểu sử của các
nhân vật vì họ đều là những ngƣời góp công sức trực tiếp vào công cuộc gây
dựng đất nƣớc, ổn định chính sự, dẹp yên giặc dã. Tất cả đều đáng lƣu danh
“Ngoài ra không chép thừa làm gì”. Trong quá trình ghi chép sử, chính thái
độ bình sử khen chê của tác giả cũng đã làm cho tác phẩm sử này mang đậm
tính văn chƣơng không phải ở tác phẩm nào cũng tìm thấy.
Tóm lại, trong Nhân vật chí, khi ghi chép về đời sống và sự nghiệp của các
nhân vật, vua chúa hay bề tôi, Phan Huy Chú đã tự xác định một thái độ rõ rệt
và đáng quý. Biểu dƣơng cái hay, phê phán những chỗ chƣa hoàn hảo, tuy
biểu dƣơng là chủ yếu, phê phán là cá biệt và thƣờng dành cho các nhân vật
vua chúa, vốn đƣợc giới thiệu theo dòng họ nối tiếp nhau nên xen lẫn cả
ngƣời tốt và ngƣời xấu. Ông chủ yếu nêu những mặt tốt , đáng học tập của
nhân vật nhằm biểu dƣơng là chính. Ông có lòng đại lƣợng của một ngƣời
luôn muốn tìm đến cái hay cái tốt của ngƣời khác, sẵn sằng bỏ qua những
khiếm khuyết coi nhƣ không quan trọng. Tuy sống trong thời phong kiến
thuộc giai cấp phong kiến và viết về những nhân vật phong kiến, nhƣng Phan
Huy Chú đã có cái nhìn tiến bộ sâu sắc về các nhân vật thời kì này, nêu đƣợc
những đức tính cao quý đáng là niềm tự hào của dân tộc, những truyền thống
tốt đẹp cần ghi lại đầy đủ để làm gƣơng cho ngƣời đời sau.
3.2.Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp sử học và bút pháp văn học
3.2.1. Tƣ tƣởng văn sử triết bất phân trong văn học trung đại
Nói đến tƣ duy trung đại là nói đến tƣ duy nguyên hợp. Tính nguyên hợp là
sự hòa lẫn ban đầu của của nhiểu lĩnh vực văn hóa khác nhau đặc biệt là các
ngành khoa học xã hội ở giai đoạn đầu tiên. Các ngành khác nhau từ khoa học
tự nhiên đến khoa học xã hội đều chƣa có sự phân định ranh giới rõ ràng.
77
Trong ngành khoa học tự nhiên, thiên văn chƣa tách khỏi chiêm tinh, hóa học
chƣa tách khỏi luyện đơn… còn trong khoa học xã hội, thể hiện rõ nhất là tình
trạng văn- sử- triết bất phân. Ta có thể tìm thấy trong một tác phẩm văn học
những sự kiện lịch sử chân thực, phản ánh đời sống xã hội trong một giai
đoạn. Bên cạnh đó, ta còn có thể khám phá ra những nội dung triết học mà
các tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Ngƣợc lại, ta cũng có thể tìm thấy đặc
trƣng của văn học nhƣ cái tôi, các bút pháp, thi pháp của văn học đƣợc sử
dụng một cách điêu luyện và kết hợp nhuần nhuyễn trong các sự kiện lịch sử
của các tác phẩm sử học. Chính vì vậy, trong một thời gian dài của tƣ duy
sáng tạo khoa học xã hội, ta có thể thấy sự kết hợp của văn học, sử học, và
triết học trong một tác phẩm bất kì của thời trung đại. Hiện tƣợng văn sử triết
bất phân này kéo dài và có vai trò thống trị trong lịch sử văn hóa trung đại
Việt Nam. Một điều không thể phủ nhận là trong suốt một giai đoạn lịch sử
kéo dài 10 Thế kỉ (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XX). Đây đƣợc coi là những đặc
trƣng của văn học. Đó là kết quả của sự kết hợp giữa hai hình thái tƣ duy là tƣ
duy lý luận và tƣ duy hình tƣợng. Hai hình thái tƣ duy này kết hợp nhuần
nhuyễn và không tách rời khỏi nhau. Trong văn sử có triết và trong sử triết có
văn. Một tác giả là một nhà thơ, nhƣng cũng là nhà tƣ tƣởng,nhà triết học,nhà
sử học, thầy thuốc, ngƣời xem địa lý phong thủy hay xem tƣớng số… Trƣờng
hợp điển hình cho hiện tƣợng văn- sử bất phân trong lịch sử khoa học xã hội
Việt Nam là bộ Đại Việt sử ký toàn thư- bộ quốc sử đầu tiên của nƣớc ta thời
kì trung đại. Bộ sử có thời gian ra đời khá sớm so với các bộ sử nói chung và
so với nền văn học viết nói riêng. Tính nguyên hợp của bộ sử này xuất phát
từ mục đích chép sử của các nhà nho. Họ chép sử để nêu gƣơng răn dạy đời
hoặc gửi gắm một đạo lý mà họ muốn truyền đạt nhƣ ca ngợi đời thịnh trị,
nêu gƣơng kẻ thiện và răn đe kẻ ác. Mục đích chép sử của các nhà nho không
khác lắm với mục đích của sáng tác văn chƣơng. Các nhà nho chép sử nhằm
mục đích ghi lại sự thịnh suy của quốc thống và quá trình biến đổi của lịch sử
xã hội chứ không hề có ý định sáng tác văn chƣơng. Nhƣng trong quá trình
78
biên soạn, họ lại lấy khả năng sáng tác văn chƣơng của mình để ghi chép quốc
sử. Chính vì vậy, họ đã để lại cả giá trị văn chƣơng và giá trị sử học trong quá
trình ghi chép của mình.
Trong mƣời thế kỉ đó, mối quan hệ khăng khít này cũng có nhiều biến đổi
dịch chuyển theo xu hƣớng tách biệt. Các loại hình tƣ duy phát triển một cách
độc lập và riêng rẽ. Đặc biệt vào khoảng cuối thế kỉ 18- đầu thế kỉ 19. Các
lĩnh vực văn học- sử học và triết học đã dần dần đƣợc tách biệt.
Về mặt triết học, trƣớc đây, văn học là nơi để thể hiện những tƣ tƣởng triết
học. Nhƣng đến thời kì này, văn học không còn phù hợp để thể hiện quan
điểm của mình nữa, vì văn chƣơng thơ phú với niêm luật đƣợc quy định chặt
chẽ đã làm hạn chế ý tƣởng của triết học. Triết học cần một không gian rộng
lớn hơn để thể hiện tƣ tƣởng của chính nó. Vì vậy, triết học đã tìm đến
phƣơng thức thể hiện trực tiếp hơn. Trong các tác phẩm văn và sử, yếu tố triết
học đã đƣợc hạn chế đi rất nhiều.
Sử học giai đoạn này cũng có những thay đổi đáng kể. Nếu nhƣ giai đoạn
trƣớc, các nhà sử học ghi chép sử nhƣng lại coi sử nhƣ một hình thức đề bình,
ngâm, vịnh, thể hiện tƣ tƣởng triết lý, suy nghĩ của riêng mình thì đến giai
đoạn sau này ý thức tách sử học ra khỏi văn học và triết học đã đƣợc thể hiện.
Các nhà ghi chép lịch sử nhận ra rằng, lịch sử là cái để phản ánh và liên quan
đến các yếu tố hiện thực xã hội, khen chê cần có chứng cứ và thật giả phải
thực sự minh bạch không lẫn lộn. Họ đã sử dụng các sử liệu thật đã đƣợc ghi
chép trong sách vở truyền lại từ trƣớc. Tƣ duy chép sử này đƣợc manh nha từ
Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký toàn thư. Đại Việt sử Ký toàn thư ảnh
hƣởng từ hai lối viết sử truyền thống của ngƣời Trung Quốc, ông ghi chép lại
dựa trên các bản gốc ở hai bộ sử là Đai Việt Sử Ký của Lê Văn Hƣu và Phan
Phu Tiên, đồng thời ông tham khảo thêm Bắc sử, dã sử và các bản chí truyện.
Nhƣng khi ghi chép dựa vào các sử liệu nhƣ vậy, ông vẫn nghi ngờ và không
tin cậy. Vì vậy, một mặt ông bỏ đi không chép những việc quá quái đản, mặc
dù đã đƣa dã sử vào chính sử ông còn ghi chú thêm vì sợ “Chƣa chắc đã
79
đúng”. Có lối chép sử nhƣ vậy là do các nhà sử học đã có ý thức về sự tách
rời giữa văn học và sử học. Sử học yêu cầu tính xác thực cao nên những yếu
tố kỳ ảo, hƣ cấu thuộc về thi pháp văn học trung đại đã đƣợc hạn chế.
Tuy nhiên, do đặc điểm tƣ duy tổng hợp kéo dài ở Việt Nam nên quá trình
hình thành các bộ môn khoa học riêng rã diễn ra chậm. Sự hình thành cũng
chỉ mang tính chất tƣơng đối. Tình trạng văn- sử - triết bất phân vẫn còn kéo
dài, chỉ là hạn chế nhiều so với các giai đoạn trƣớc.
Những quan niệm và tƣ tƣởng của các bậc chép sử đƣợc Phan Huy Chú kế
thừa và vận dụng trong quá trình ghi chép của mình. Ông cũng đã có ý thức
chép sử trung thành với sự thật, gắn vơi sử liệu, tách rời văn chƣơng. Mục
đích chép sử của thiên Nhân vật chí nhằm ghi lại tiểu sử cuộc đời của nhân
vật chứ không ca ngợi văn chƣơng, thơ phú. Nhƣng trong quá trình ghi chép
lịch sử, Phan Huy Chú vẫn xen vào những đoạn thơ, câu văn và lời bình luận
về tác phẩm. Điều này làm cho phần chi chép sử này vẫn mang tính chất mềm
mại, uyển chuyển của văn chƣơng trong đó. Làm cho Nhân vật chí mang đậm
màu sắc văn chƣơng. Chứng tỏ trong quá trình chép sử của mình, ông vẫn
chƣa tách khỏi tƣ duy văn sử phức hợp, bất phân.
3.2.2.Sự thể hiện bút pháp sử học kết hợp văn học trong thiên Nhân vật chí - LTHCLC
Có thể nhìn thấy nguyên nhân sâu xa của tƣ duy nguyên hợp bắt nguồn từ tƣ
tƣởng Nho giáo. Nho giáo chủ trƣơng duy trì xã hội bằng đức trị nên dùng
văn chƣơng để chở Đạo. Không chỉ văn chƣơng mà các thể loại khác cũng
đều nhằm vào mục đích chung đó. Phan Huy Chú đã viết phần mở đầu trong
Văn tịch chí, sách LTHCLC: “Cái hay trong lòng người gửi vào văn chương
sách vở, cho nên xem đến tư văn thì biết đạo trời. Thư tịch văn minh của loài
người ở đó”.[27, tr. 44]. Quan niệm này coi tất cả những gì liên quan đến văn
minh của xã hội loài ngƣời đều thuộc về phạm vi văn học. Cho nên các tác
phẩm mang tính chức năng trong xã hội nhƣ Bình ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn, Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ
80
đều đƣợc coi là tác phẩm văn học. Ngƣời xƣa dùng để chở Đạo nên phải viết
sao cho tính chất văn chƣơng phải thể hiện rõ nhất, mang tính thuyết phục với
ngƣời nghe.
Lịch triều hiến chương loại chí là một bộ dã sử lớn thời trung đại. Tác phẩm
có giá trị to lớn về mặt sử học và văn học. Giá trị văn học thể hiện ở chỗ nhà
viết sử tuy ghi chép về tiểu sử của các nhân vật lịch sử, nhƣng lại có sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa sử học và thi pháp của văn học trung đại.
Tuy ghi chép tiểu sử của nhân vật theo lối biên niên, có trình tự ngày tháng,
triều đại, thế kỉ rõ ràng rành mạch và tiếp nối nhau nhƣng lại sử dụng bút
pháp ƣớc lệ, tƣợng trƣng để xây dựng cuộc đời tiểu sử nhân vật. Tác giả đã
thần thánh hóa nguồn gốc sinh thành của các nhân vật lịch sử. Điều này đặc
biệt đƣợc thể hiện ở các ghi chép lịch sử về nhóm các nhân vật đế vƣơng.
Trong cả nghìn năm tồn tại của thể chế quân chủ truyền thống Việt Nam, Đế
vƣơng (còn gọi là Hoàng đế hoặc Vƣơng, hoặc vua chúa) là một nhân vật
trung tâm trong toàn xã hội, đứng đầu một thời đại kéo dài nhiều thế kỉ(thời
đại quân chủ). Vua cũng tự xƣng là “thiên tử” nên nguồn gốc sinh thành của
các đế vƣơng phải đƣợc đặc biệt hóa. Họ khác ngƣời thƣờng nên sinh ra cũng
phải khác ngƣời. Các môtíp phổ biến của thi pháp văn học trung đại nhƣ mô
típ thụ thai thần kì nhƣ mơ thấy rồng ấp nhƣ Đại Hành Đế (Đời Lê), Hiến
Tông Duệ Hoàng Đế đều gắn với mô típ rồng vàng ấp, hoa sen ấp nở bung ra
sau đó có mang rồi sinh ra vua. Khi miêu tả về hình dáng, dung mạo của các
bậc quân vƣơng cũng là sự ghi chép hay mô tả theo bút pháp ƣớc lệ tƣợng
trƣng. Các mô tip phổ biến trong thi pháp học trung đại nhƣ bƣớc đi nhƣ rồng
nhƣ hổ hay dung mạo khôi ngô, phong tƣ tuấn tú khác thƣờng, “tư chất và
tính khí cao sáng, ham học không biết mỏi,tay không rời sách; kinh sử, chư
tử,lịch số,toán chương đều tinh thông,văn thơ càng giỏi hơn các bề tôi” khi
hành sự đƣợc các bậc thần thánh giúp đỡ cũng đƣợc vận dụng triệt để. Tổng
hợp lại, các nhà chép sử đều nhấn mạnh tƣ chất văn võ song toàn, chăm học,
81
lập nền văn trị, mở mang bờ cõi... tức là hình mẫu của ông vua trong cách
nhìn Nho giáo thuần túy.
Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động, tâm
trạng, thể hiện những quá trình nội tâm của nhân vật. Nhân vật còn đƣợc thể
hiện qua xung đột, mâu thuẫn, sự kiện và đƣợc thể hiện bằng các phƣơng tiện
kết cấu, ngôn ngữ. Nhân vật trong văn xuôi thƣờng đƣợc hiện lên qua khắc
họa của tác giả về ngoại hình, tính cách, ngôn ngữ, hành động, tâm lí…và
xuất phát điểm bên ngoài. Còn nhân vật trong thơ là nhân vật trữ tình và cái
tôi trữ tình. Lịch sử phải là cái chân thực và khách quan, tuân theo diễn biến
thực của đời sống. Ta ít thấy trong một tác phẩm thuộc lĩnh vực lịch sử những
yếu tố thuộc về tình cảm nội tâm. Kể cả sử ghi chép về nhân vật hay ghi chép
về sự kiện đều phải tuân thủ theo nguyên tắc trên.
Ở Phan Huy Chú ta thấy điều ngƣợc lại. Khi xây dựng tiểu sử nhân vật, đáng
nhẽ ra trong quá trình viết, ông phải gạt ra ngoài lề những gì thuộc về nội tâm
mà thiên về viết tiểu sử nhân vật theo đúng con ngƣời chức năng, phận vị.
Nhƣng ghi chép về các bậc danh thần, nghĩa sĩ, ngƣời phò tá có công lao, tài
đức, danh tƣớng và nhà nho cũng không nằm ngoài thủ pháp trên. Vẫn là sự
ghi chép theo lối biên niên, nhƣng lại thêm vào đó những bài văn, bài thơ, hay
giọng điệu, lời bình, cách nhìn nhận và đánh giá của tác giả theo chuẩn mực
quan niệm Nho giáo đƣơng thời nên vô hình chung, tác giả mang cảm xúc chủ
quan của mình ra để đánh giá lịch sử, vì vậy, quá trình ghi chép Nhân vật
chímang đậm tính chủ quan.
Nhân vật chí đa phần đƣợc ghi chép theo lối biên niên theo trật tự ngày tháng,
sự việc nào xảy ra trƣớc thì viết trƣớc, sự việc nào xảy ra sau thì chép sau.
Cách ghi chép này giống nhƣ Kinh Xuân thu của Khổng Tử. Đa số diễn tiến
cuộc đời của các nhân vật đƣợc sắp xếp theo thời gian. Trật tự này thể hiện rõ
nhất trong phần ghi chép về sự nghiệp của nhóm Người phò tá có công lao tài
đức và nhóm nhân vật Tướng có tiếng và tài giỏi. Trong nhóm ngƣời phò tá
có công lao tài đức, ông đã ghi chép về sự nghiệp của họ, sự thăng tiến dần
82
qua từng năm trong cuộc đời. Tuy có lúc thăng lúc hạ, nhƣng đều đƣợc sắp
xếp theo đúng trật tự thời gian. Điển hình nhƣ cuộc đời nhân vật Tô HIến
Thành(Đời Lý). Lúc nhỏ có tài lƣợc văn võ. Năm Đại Định thứ 2 [1141] dẹp
loạn Thân Lợi làm phản. Năm Thứ 20 [1159], cầm quân dẹp loạn Ngƣu
Hống, Ai Lao. Năm Chính Long Bảo Ứng thứ 5 [1167], đánh Chiêm Thành.
Năm Thiên Cảm Chí Bảo thứ 2[1175] đƣợc phong chức vƣơng, giúp thái tử.
Năm Trinh Phù Thứ 4 [1179] ông bị bệnh và chết. Hầu hết các nhân vật đƣợc
ghi chép lại tiểu sử theo cách trên. Cuộc đời diễn tiến từ lúc nhỏ đến khi làm
quan, lập công trạng, thăng chức và mất.
Ghi chép về các tƣớng giỏi thì gắn với những trận đánh lớn xảy ra trong lịch
sử dân tộc. Cũng vẫn theo trình tự nhƣ trên. Tiêu biểu là Phạm Ngũ Lão Năm
ngoài 20 tuổi đƣợc Hƣng Đạo Vƣơng gả con gái nuôi cho. Năm Hƣng Long
thứ 2[1294] đi dẹp giặc Ai Lao lập công. Năm thứ 5, lại đánh phá quân Ai
Lao ở sông Dao Long. Năm thứ 6, đƣợc tiến phong làm Kim nghiêm đại
tƣớng quân ở Hữu Vệ. Năm thứ 7, đƣợc phong Thân vệ tƣớng quân. Năm thứ
9, lại phá quân Ai Lao ở Mƣờng Mai, thăng thân vệ đại tƣớng quân.. Năm thứ
10, dẹp loạn nghịch thần. Thời Minh Tông, năm Đại khánh thứ 5 [1318] đánh
quân xâm lăng Chiêm Thành. Năm thứ 7, ông mất, vua bãi chầu 5 ngày.
Nhìn chung, thời gian trong cuộc đời nhân vật đƣợc đánh dấu bằng các sự
kiện quốc sử, và các sự kiện triều chính có liên quan đến nhân vật.
Chính đặc điểm ghi chép sử theo lối biên niên giống Kinh Xuân Thu của
Khổng Tử đã làm cho giọng điệu chép sử mang tính chất kể chuyện trong văn
chƣơng. Cuộc đời nhân vật cứ thế hiện dần ra theo ngòi bút ghi chép của tác
giả. Nhân vật lịch sử hiện lên đa chiều kích và có chiều sâu nhƣ nguồn gốc
xuất thân, chí hƣớng, công đức, sự hiển linh sau khi mất… Nhân vật đƣợc ghi
chép là cả một quá trình chứ không phải chỉ là những sự kiện khô cứng chắp
nhặt lại với nhau. Chính điều này làm cho tác phẩm trở nên lôi cuốn ngƣời
đọc và ngƣời nghiên cứu.
83
Không chỉ là một tác phẩm sử học, LTHCLC còn đƣợc coi nhƣ là một tác
phẩm văn học. Ở đây, ta thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những yếu tố sử
học và yếu tố văn học. Tác giả đã dùng bút pháp của văn học để ghi chép sử
học. Ta tìm thấy trong tiểu sử các nhân vật những bài thơ bài văn mang nặng
tâm sự, cảm xúc, gắn với cuộc đời nhân vật và góp phần chiếu sáng nội tâm
nhân vật. Ta bắt gặp thái độ ung dung trƣớc thời cuộc thịnh suy của Vũ
Quỳnh qua bài thơ Lê Quang Bí vịnh ông sau khi ông mất :
Đường đường là bậc đại nho thời thịnh trị
Theo sự tự do của mình tùy lúc muốn là quan thì làm,
muốn thôi thì thôi,
Vẻ người trơ xương như bậc tiên gầy trên trời,
Tấm lòng tốt như vị phật sống ở nhân gian.
Hay thú vui giản dị của một nhà nho đã ra làm quan. Tuy nuôi chí lớn trong
mình nhƣng vẫn yêu thiên nhiên núi sông nhƣ Nguyễn Phong với bài thơ Yêu
núi:
Ta yêu gì, chỉ yêu núi thôi,
Không xa mây khói mà xa cõi đời.
Giương mắt trông lên trời thấy có mây năm sắc,
Ngẩng đầu lên thấy khắp đất đầy cỏ hoa tươi đẹp
Thấy hoa mai chào tuyết buổi sớm, biết khí mùa xuân ấm áp,
Cây bách đứng trước gió mùa đông,tuy trời lạnh mà vẫn tươi tốt.
Dù cho sấm mưa, không quên chí lấp biển,
Chiếc thuyền con còn đợi gì mà không lênh đênh giữa song cả.
Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến của tác giả với cảnh trí núi non sông nƣớc,
qua đó ta thấy đƣợc tấm lòng yêu thiên nhiên, cảnh vật. Nhà thơ đã tự so sánh
mình với cây tùng cây bách, bất chấp thời tiết có nhƣ thế nào, mùa đông có
lạnh buốt mƣa sa ra sao thì cây vẫn xanh tốt. Giống nhƣ ngƣời quân tử nuôi
chí lớn lấp biển, gây dựng sự nghiệp. Dù có gặp bao khó khăn vất vả cũng
không nản lòng.
84
Một điều không thể phủ nhận là chính những bài thơ miêu tả thiên nhiên hay
nói chí đƣợc tác giả ghi chép lại đã làm cho tác phẩm mang đậm chất văn
chƣơng và dễ thẩm thấu hơn.
Trong Nhân vật chí, có một loại tƣ liệu vừa quý giá, vừa đầy sức hấp dẫn, đó
là những đoạn trích dẫn văn thơ, hoặc của chính nhân vật đƣợc ghi chép, hoặc
những bài thơ, bài văn liên quan đến nhân vật. Chính điều này đã làm cho
Nhân vật chí nói riêng và LTHCLC nói chung mang đậm chất văn chƣơng.
Ghi chépcác bài thơ, câu văn vừa là để lƣu làm tƣ liệu lịch sử, nhƣng cũng
góp phần làm tiểu sử cuộc đời nhân vật bớt khô khan. Chính yếu tố chủ quan
này đã tạo nên chất văn chƣơng trong ghi chép lịch sử vốn mang tính quy
phạm, làm cho tác phẩm vốn là tác phẩm sử học mà lại mang giá trị văn học
sâu sắc. Ngƣời ta có thể thấy chất văn trong sử và chất sử đƣợc thể hiện nhờ
văn chƣơng. Có những bài thơ nói về tâm sự, chí hƣớng nhƣ thơ Phạm Ngũ
Lão, Nguyễn Trung Ngạn. Phạm Ngũ Lão nổi danh với bài thơ Thuật hoài,
sáng tác khi cuộc kháng chiến lần thứ hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một
tác phẩm nổi tiếng, đƣợc lƣu truyển rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt
của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đƣơng thời: làm trai phải trả cho xong
món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tƣởng trung quân, ái
quốc.
Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con ngƣời có sức mạnh, có
lí tƣởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu hướng nhân gian thuyết Vũ hầu.
Nguyễn Trung Ngạn lại ôm chí lớn ngay từ lúc còn thơ ấu. Ông có bài thơ tự
viết về mình:
Giới Hiên tiên sinh lang miếu khí
Diệu linh dĩ hữu thôn ngưu chí
85
Niên phương thập nhị thái học sinh.
Tài đăng thập lục sung đình thí
Nhị thập hữu tứ nhập gián quan,
Nhị thập hữu lục Yên Kinh sứ.
Bài thơ cũng là niềm tự hào về quãng đời đỗ đạt làm quan của Nguyễn Trung
Ngạn. Từ nhỏ nuôi chí lớn nuốt trâu, Mƣời hai tuổi đỗ thái học sinh, 16 tuổi
vào đình thí, 24 tuổi làm gián quan, 26 tuổi đi sứ.
Có thể nói, Phan Huy Chú đã biết cách chọn lọc và ghi chép những bài thơ
của các nhân vật. Ông chỉ chọn những bài thơ có thể gắn với sự nghiệp hay
cuộc đời của nhân vật đƣợc ghi chép. Những bài thơ này vừa tạo chất văn cho
tác phẩm, nhƣng cũng hỗ trợ đắc lực cho tiểu sử của nhân vật đƣợc hình
thành.
Bên cạnh việc chép những bài thơ nói chí, tác giả còn ghi chép cả những bài
thơ cho thấy trí sáng suốt, dự đoán đƣợc cả hƣớng xoay chuyển của thời cuộc
của các nhân vật nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Huy Cẩn, dự đoán đƣợc
vận nƣớc. Cuối đời Cảnh hƣng, Nguyễn Huy Cẩn có câu :
Giao long đắc thế, Kinh Châu vân đế trụ chi trì;
Nga áp kinh thanh Sái Thành vũ Đường tôn chi hác.
Sau vua Chiêu Thống đem quân Thanh về lật đổ Tây Sơn, phục lại nƣớc rồi
cuối cùng kiêu căng dẫn đến thất bại, vận thế nƣớc nhà lúc này hợp với hai
câu trên.
Hoặc có khi ông chép lại một lời ca dao lƣu truyền trong dân gian thời bấy
giờ.
“Thượng thư Lê Hy, thiên hạ sầu bi; Tể tướng Vãn Hà thiên hạ âu ca”. Câu
ca dao ca ngợi công đức của Nguyễn Quán Nho, ông xử sự khoan dung, luôn
giữ đại thể nên đƣợc ngƣời đời ca ngợi. Cùng thời với ông có tể tƣớng Lê Hy
tính tình nghiêm khắc, không đƣợc lòng dân chúng. Câu ca dao đã lột tả hết
tấm lòng cũng nhƣ thái độ trân trọng của ngƣời đời đối với những vị tể tƣớng
thân gánh trọng trách nhƣng yêu dân nhƣ con và làm tròn bổn phận của mình.
86
Trong Nhân vật chí, có cả thơ văn của ngƣời đƣơng thời biểu dƣơng đức hạnh
sự nghiệp của nhân vật nhƣ bài văn của các quan trong triều tiễn biệt Phan
Huy Cẩn về hƣu, bài chế của vua biểu dƣơng tài đức và phong “công thần”
cho Lê Nhân Thụ, “tài năng nhƣ cây tùng cây bách [cho nƣớc] nhƣ ngọc
“phan” ngọc “dƣ”.
Những bài văn bài thơ đƣợc trích dẫn thƣờng có thêm giá trị ở nhiều mặt khác
nhau nhƣ trong bài các quan đồng triều tiễn Ngô Đình Chất về hƣu ở Tả
Thanh Oai, là bài văn tiễn biệt nhƣng lại nhằm ca ngợi những cảnh đẹp và thú
vui ở địa phƣơng: “Khi nghe sáo diều ở sông Nhuệ, khi xem múa rối ở chợ
Tó, đều là cảnh sắc ưa người, chơi bời đủ hứng. Tìm thú thanh cao của non
nước, con đường núi còn đó; chọn người chân thật kết làm một hội, bản
hương ước vừa xong…” Hay bài tiễn Hà Tông Huân của các quan đồng triểu
về nghỉ ở Thanh Hóa, đã ca ngợi vẻ đẹp của đất nƣớc Việt Nam nơi nào cũng
là cảnh đẹp, chỗ nào cũng là danh thắng, vùng đất địa linh nhân kiệt, nhiều
danh nhân: “Ái Châu là đất đế vương một dòng suối, một quả núi, chỗ nào
cũng là danh thắng, mà sông Ngọc Chùy, núi Đồng Cổ lại là núi sông tai mắt
của huyện nhà. Đất Sơn Bôi là nơi làng cũ của Khương hiền tướng, bến Đông
Lý là nơi thắng địa của Trịnh Đại Khôi. Dấu cũ, người xưa thường thường ở
đó”. Ghi chép những áng văn này, Phan Huy Chú cũng nhằm ca ngợi và tự
hào về cảnh đẹp, về nhân tài của quốc gia dân tộc. Các con sông, địa danh
đƣợc liệt kê trong đoạn trích đều là những nơi có cảnh đẹp, là vùng đất trọng
yếu của quốc gia. Khƣơng Hiền và Trịnh đại khôi là hai ngƣời đỗ cao, tên tuổi
đƣợc lƣu truyền và ghi lại trong sử sách. Nhƣ vậy, không cần phải ghi chép
nhiều mà Phan Huy Chú vẫn có thể nhắc lại sử cũ. Đây cũng chính là tài chép
sử của ông không phải sử gia nào cũng có.
Trong quá trình chép sử, một thể văn khác cũng thƣờng đƣợc Phan Huy Chú
ghi chép, trích dẫn , đó là những bài sớ, bài khải can ngăn khuyên nhủ vua
chúa thể hiện đức tính kiên nghị của kẻ sĩ, không vì thiệt hại của bản thân mà
dám trình bày thẳng thắn ý kiến của mình dù biết lời nói của mình có thể làm
87
mất lòng của bề trên và các quan đồng triều, nhƣng chỉ cần đó là việc có lợi
cho dân cho nƣớc thì họ nhất định sẽ làm. Các nhân vật nhƣ Giáp Hải với ba
lần dâng sớ khuyên vua nên điều chỉnh lại chính sự để dân đƣợc yên ổn. Lúc
về hƣu lại dâng sớ nhắc nhở vua về nhữngđiều một bậc minh quân nên làm.
Ngoài Giáp Hải còn có sớ của Trần Văn Bảo can ngăn vua về những việc làm
trái với chính thể, khải của Lê Bật Tứ xin nhà vua xử trị phiên trấn chuyên
quyền, tránh mất nƣớc sau này, Lƣu Đình Chất khuyên vua sửa đức, làm theo
mệnh trời thƣơng dân nuội dân, làm phúc lành để chấn hƣng vƣơng đạo xã
tắc.
Bên cạnh việc ghi chép sớ, khải có nhiều trƣờng hợp Phan Huy Chú đã chép
lại gần nhƣ toàn bộ một số tác phẩm nổi tiếng của những nhân vật có tài văn
học, nhƣ bài Phú chùa Phi Lai tám vần của Nguyễn Đăng, Văn bia am Hiền
Thụy, núi Phật tích của Nguyễn Bảo; văn Trách ma nghèo của Ngô Thì Sĩ…
Những bài đƣợc ghi chép lại trong tiểu sử của nhân vật đều thuộc một loại thể
văn học nào đó và có giá trị văn học nhất định. Có bài thì ca ngợi cảnh đẹp
nguyên sơ nơi cửa Phật, toát lên cái cao sang thoát tục mà ngƣời thƣờng
không thể với đến, có bài lại phản ánh thực trạng cuộc sống nghèo khó của
nho sĩ thời chƣa đỗ đạt. Dù phản ánh nội dung gì đi chăng nữa thì các bài văn
thơ đƣợc trích dẫn và ghi chép cũng làm nên giá trị văn chƣơng của tác
phẩm.
Có thể khẳng định rằng, nhà sử học là một kiểu nhà khoa học đặc biệt. Họ vừa
nghiên cứu quy luật, vừa phục chế sự kiện kèm theo đó là miêu tả, bình luận,
đánh giá. Chính vì vậy mà giữa sử học và văn học đã hình thành một mối liên
kết hết sức đặc biệt. Các nhà lý luận đã coi “lịch sử là một câu chuyện văn
chương” nên tác giả sử học cũng là kiểu tác giả tự sự trung đại. Họ sáng tác
các tác phẩm của mình dƣới tên gọi các thể loại lịch sử. Tác giả văn học tự sự
không đồng nhất với tác phẩm lịch sử thì dấu ấn nhà lịch sử vẫn rất đậm nét.
Do sự kết hợp giữa bút pháp sử học và bút pháp văn học trong cùng một tác
phẩm nên sự ràng buộc lẫn nhau giữa hai phƣơng diện này là không thể chối
88
cãi, đặc biệt là trong các tác phẩm đề cập đến các nhân vật lịch sử. Với Nhân
vật chí là một thiên viết về các nhân vật lịch sử thì mối dây liên kết giữa sử và
văn càng đƣợc thể hiện rõ. Vì là ghi chép về nhân vật lịch sử, nên Phan Huy
Chú đã chú trọng đến cả tài năng văn chƣơng của họ. Không chỉ ghi chép về
văn thơ mà ông còn xem vào đó cả những lời bình giải văn thơ. Chính những
đoạn văn thơ và những lời bình đầy giá trị này của ông đã làm cho sử truyện
về cuộc đời con ngƣời trở nên mềm mại, sống động hơn, Tránh đƣợc lối viết
khô cứng đầy chất hiện thực trong sử. Khảo cứu về cuộc đời nhân vật lịch sử
cũng đồng thời nghiên cứu về văn học. Chất sử và chất văn đƣợc kết hợp
nhuần nhuyễn, bổ trợ tạo nên nghệ thuật viết sử khá đặc sắc. Có điều này là
do sự ảnh hƣởng của tƣ duy văn sử bất phân trong văn học trung đại mà Phan
Huy Chú vẫn chƣa tách rời hoàn toàn. Vì vậy có thể coi Phan Huy Chú là một
nhà sử học nhƣng đồng thời cũng là kiểu tác giả văn sử bất phân trong văn
học trung đại.
Trong xã hội cũ, với điều kiện sách vở còn rất hạn chế khiến cho các tác phẩm
rất khó lƣu truyền rộng rãi. Cách sƣu tập của Nhân vật chícó tác dụng lớn
không chỉ trong việc ghi lại tiểu sử của nhân vật mà còn gắn tác phẩm với
nhân vật cụ thể, làm cho tiểu sử cuộc đời nhân vật đƣợc soi sáng dƣới góc độ
văn chƣơng mà vẫn không làm mất đi chất sử trong đó vì đƣợc gắn với thời
gian, niên đại. LTHCLC nói chung và Nhân vật chí nói riêng xứng đáng với
danh hiệu “bách khoa toàn thƣ”. Với sử liệu phong phú và chính xác kèm theo
những áng văn trầm hùng, sáng đẹp, Nhân vật chí là một mẫu hình tiêu biểu
cho tƣ duy “văn sử bất phân” thời trung đại.
3.3. Sử dụng bút pháp kì ảo để xây dựng tiểu sử nhân vật
3.3.1. Khái quát chung về văn học kỳ ảo ở Phƣơng Đông
Ở Việt Nam trong một thời gian dài, khái niệm kì ảo chỉ đƣợc dùng trong các
thể loại truyện trung đại nhƣ u linh, chích quái, truyền kì, chí dị. Cùng với các
tác phẩm nổi tiếng nhƣ Việt Điện u linh tập lục (Lý Tế Xuyên, thế kỉ XV),
Lĩnh nam chích quái lục (Trần Thế Pháp), Thánh Tông di thảo (vua Lê Thánh
89
Tông), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Trong các bộ lịch sử về văn học
ngƣời ta coi loại truyện này là văn xuôi hoặc tách riêng một số tác phẩm ra
nghiên cứu chứ không gắn vào sự phát triển chung của thể loại. Đôi lúc, cái kì
ảo của phƣơng Đông lại đƣợc coi nhƣ một mặt dị đoan, hạn chế của tác phẩm
còn sắc thái làm nên giá trị tác phẩm của nó vẫn chƣa đƣợc nhìn nhận một
cách đúng đắn.
Truyện Kì ảo là một thể loại văn xuôi độc đáo. Cái Kì vốn là một phạm trù mĩ
học của vùng văn hóa Đông Á cổ đại, là đặc thù tƣ duy của một giai đoạn lịch
sử. Những tác phẩm văn xuôi nổi tiếng nhất của văn học Đông Á đều chứa
đựng trong nó những yếu tố kì lạ. Cái kì lạ này không chỉ tồn tại trong văn
học mà còn tồn tại trong các huyền thoại tôn giáo, trong văn xuôi lịch sử và là
đặc điểm chính của tƣ duy dân gian đƣợc phản ánh trong thần thoại, truyền
thuyết và truyện cổ tích… Ở Đông Á nói chung và Việt Nam nói riêng, cái kì
ảo là thế giới quan của cả một thời kì lịch sử lâu dài và trở thành cách mà con
ngƣời dùng để nhìn nhận thế giới.
Cái kì ảo có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã xuất hiện trƣớc đó khoảng một
nghìn năm trƣớc khi xuất hiện ở Việt Nam. Ở Triều Tiên, loại truyện này
cũng ra đời trƣớc khi có mặt ở Việt Nam khoảng hai trăm năm. Truyện kì ảo
ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn, chịu ảnh hƣởng sâu sắc của truyện kì ảo
Trung Quốc.
Ở Việt Nam, khái niệm cái kì ảo đƣợc sử dụng phổ biến trong thể loại truyện
ngắn. Truyện kì ảo Việt Nam có nguồn gốc từ truyện kì ảo Trung Quốc nhƣng
quá trình hình thành và phát triển lại gắn với nền văn hóa và văn học của dân
tộc, đặc biệt là văn hóa dân gian và văn xuôi lịch sử. Những tác phẩm văn học
chứa đựng yếu tố kì ảo đầu tiên trong văn học trung đại Việt Nam có dáng
dấp của những truyện ngắn bắt đầu xuất hiện vào thời Lý - Trần. Màu sắc kì
ảo xuất hiện không chỉ trong truyện ngắn mà còn trong cả các bài thơ thiền
của các thiền sƣ, trong các bài văn bia ca ngợi công đức của các bậc vua chúa,
nhƣ văn bia chùa Long Đội ca ngợi vua Lý Thánh Tông, văn bia chùa Linh
90
Xứng ca ngợi Lý Thƣờng Kiệt… Trong Thiền Uyển tập anh cho biết nhà sƣ
Vạn Hạnh đêm ngồi nhập định nghe thấy ở mộ Đại Vƣơng Hiển Khánh (thân
phụ Lý Công Uẩn) có tiếng ngâm thơ, nhà sƣ cho chép lại đƣợc bốn bài ca
ngợi đất quê Lý Thái Tổ. Hiện tƣợng thần nhân làm thơ đƣợc ghi chép khá
nhiều ở thời Lý- Trần, nhƣ nhà sƣ Đa Bảo triệu thần nhân lên đọc bài Đại đức
trong Việt điện u linh. Ở các tác phẩm này yếu tố kì ảo xen lẫn vào hành trạng
của nhân vật nhằm thể hiện tính kì vĩ siêu phàm của các nhân vật này. Nhất là
đối với các bậc vua chúa mà theo quan niệm của dân gian là thiên tử (con
trời).
Trong văn xuôi và các tác phẩm sử trung đại, tính chất hƣ cấu không tự giác
càng thể hiện rõ hơn làm tăng tính kỳ ảo. Các hình ảnh về sự thật lịch sử và
sự thật nghệ thuật chƣa phân biệt ra. Chính vì vậy, yếu tố kì ảo cũng theo đó
mà nhân lên và bao phủ ở tất cả các thể loại văn xuôi trung đại. Việt Điện u
linh là sách ghi lai lịch chƣ thần ở cõi u linh, mà thần là nhân vật thuộc về
sáng tạo vô thức của dân gian, nhƣng lại đƣợc tác giả chép lại với tinh thần
“chép lại sự thực”. Còn Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh lại xem các
truyện dân gian đƣợc ghi chép là một dạng sự thật lịch sử và coi đó nhƣ là
“sử trong truyện”. Cuối cùng sau khi phân tích đã có nhận định một cách chắc
chắn: “Việc tuy kì dị mà không quái đản, văn tuy thần bí mà không nhảm nhí,
tuy nói những chuyện hoang đường mà tung tích vẫn có bằng cứ.” Đây chính
là kết quả của ý thức văn sử bất phân. Tƣ duy này làm cho các nhà ghi chép
chuyện truyền thuyết và lịch sử nhƣ là sự thật lịch sử ngụ trong việc quái đản.
Phan Huy Chú cũng là nhà sử học bị ảnh hƣởng lớn bởi tƣ duy này. Các ghi
chép của ông, nhất là về nhân vật lịch sử mang đậm tính kỳ ảo hƣ cấu. Điều
này làm cho tính xác thực của nhân vật lịch sử có phần bị giảm đi.
3.3.2. Bút pháp kì ảo trong thiên Nhân vật chí
Nói đến lịch sử là nói đến một cái gì đó bất biến và nói đến sự thật. Phan Huy
Chú là tác gia trung đại nên khi ghi chép sử sẽ không tránh đƣợc tinh thần của
văn học trung đại.
91
Khi nói đến nghệ thuật viết tiểu sử nhân vật cũng đồng nghĩa nói đến chất
văn chƣơng nghệ thuật của thiên Nhân vật chí. LTHCLC đƣợc coi nhƣ bộ
bách khoa thư của dân tộc cũng đồng nghĩa với việc tác phẩm này mang trong
mình nhiều dòng máu của nhiều bộ môn nghệ thuật trong đó chất văn học là
một yếu tố không thể thiếu của LTHCLC nói chung và của thiên Nhân vật chí
nói riêng. Tuy xuất hiện với tƣ cách là một bộ sử, nhƣng tác phẩm lại mang
nhiều yếu tố của văn chƣơng trung đại. Chính vì vậy, LTHCLC cũng mang
trong mình những thi pháp văn học của văn chƣơng trung đại. Điều đáng lƣu
ý trong khi ghi chép bộ sử này, tác giả đã sử dụng các tài liệu chính sử mà còn
đánh giá cao và sử dụng nguồn tƣ liệu của dân gian. Ông đánh giá Việt điện u
linh tập của Lý Tế Xuyên là những ghi chép về chuyện linh dị của đền thần
nƣớc ta,Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc chép về thế phả của họ Hồng
Bàng và họ Triệu, sự tích tuy rõ ràng nhƣng lời văn lại kỳ dị. Bản thân tác giả
cũng sử dụng nguồn tài liệu gia phả và các sử liệu dân gian để biên soạn tác
phẩm của mình, đặc biệt là trong thiên Nhân vật chí.
Sử dụng bút pháp kì ảo,hƣ cấu là điều không còn mới mẻ trong văn xuôi trung
đại. Thời kì trung đại, các tác phẩm sử học cũng đồng thời là tác phẩm văn
học. Các nhà sử học, trong quá trình ghi chép đã sử dụng tính chất hƣ cấu của
văn học một cách không tự giác. Các hình ảnh về sự thật lịch sử và sự thật
nghệ thuật chƣa đƣợc phân biệt. Nhân vật chí trong LTHCLC ghi lại lai lịch
của các đế vƣơng, các nhân vật bề tôi văn võ có thật trong lịch sửnhƣng lại
gắn với các yếu tố mang tính thần thoại, truyền thuyết của văn học dân gian.
Yếu tố này đƣợc coi nhƣ một nhân tố quan trọng trong quá trình ghi chép lịch
sử về nhân vật của Phan Huy Chú. Sự xuất hiện của các vị thần linh là điều
không tránh khỏi, mà thần lại là sản phẩm của “sáng tạo vô thức theo nguyên
tắc linh hóa”, nhƣng lại đƣợc tác giả chép với tinh thần “chép lại sự thật”.
Các nhân vật từ thời kì Hồng Bàng nhƣ Lạc Long Quân, Âu Cơ là những
nhân vật có trong truyền thuyết. Hay các nhân vật nhƣ rồng vàng, rùa vàng,
mô típ lừa lấy nỏ thần đã thuộc về yếu tố dân gian cũng đƣợc tác giả nhắc đến
92
nhƣ một sự thật lịch sử. Điều này chứng tỏ ngƣời chép truyện hoàn toàn dựa
vào kí ức cộng đồng để ghi chép. Vì vậy, yếu tố kỳ ảo đan xen trong tác
phẩm. Nhất là khi ghi chép về các nhân vật vua chúa đế vƣơng.
Hầu hết khi ghi chép tiểu sử của nhân vật vua chúa và các đế vƣơng, Phan
Huy Chú thƣờng dùng các biện pháp nghệ thuật để tô đậm màu sắc thần kỳ,
phi thƣờng, khác thƣờng của loại nhân vật này.
Phan Huy Chú ghi chép bắt đầu từ thời xa xƣa và sơ khai nhất, cụ thể là Kinh
Dƣơng Vƣơng đến thời các vua Hùng dựng nƣớc và các triều đại Đinh, Lê,
Lý, Trần sau này. Thời kỳ Kinh Dƣơng Vƣơng là giai đoạn phôi thai mà nƣớc
Việt đang hình thành. Do vậy, ghi chép về thời kì này, Phan Huy Chú vẫn
không tách rời khỏi các ghi chép sử trƣớc ông. Nhân vật đế vƣơng cụ thể nhƣ
Kinh Dƣơng Vƣơng và Lạc Long Quân vẫn gắn liền với truyền thuyết, thần
thoại và các yếu tố thuộc truyền thuyết thần thoại. Vì vậy yếu tố kỳ ảo dày
đặc trong ghi chép về cuộc đời của những nhân vật đế vƣơng thời kì đầu tiên.
Thời kỳ Hồng Bàng là giai đoạn sơ khai, nƣớc nhà vừa mới hình thành. Theo
truyền thuyết thì thủy tổ của loài ngƣời là Kinh Dƣơng Vƣơng. kinh Dƣơng
Vƣơng làm Vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trƣớc Công
nguyên). Kinh Dƣơng Vƣơng lấy con gái Thần Long là Vua hồ Động Đình
sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi vua cha niên hiệu là Lạc
Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc một
trăm trứng, một trăm trứng nở ra một trăm ngƣời con trai là tổ tiên của ngƣời
Bách Việt.
Khi ghi chép về Lạc Long Quân, ông ghi chép một cách vắn tắt: “ Là con
Kinh Dương Vương, tên Sùng Lãm, lấy nàng Âu Cơ, được một năm thì sinh
được một trăm con trai. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: “Ta là loài
rồng, nàng là loài tiên, nước lửa xung khắc, khó ở chung được với nhau”. Rồi
đó từ giã, chia năm mươi con theo bố về biển và năm mươi con theo mẹ về
núi, tôn người con trưởng lên nối ngôi vua gọi là Hùng Vương” [15, tr. 220].
93
Nhƣ vậy, ngay từ đầu tác giả đã dựa vào những sử liệu lƣu truyền lại trong
dân gian và thuộc về yếu tố truyền thuyết hƣ cấu chứ không có bằng chứng
xác thực cụ thể.
Khi ghi chép về nguồn gốc xuất thân của các bậc đế vƣơng, vua chúa, Phan
Huy Chú cũng đi theo những khuôn mẫu chung của văn học trung đại, vua
chúa thƣờng xuất thân không phải là ngƣời phàm tục mà đều thuộc dòng dõi
rồng phƣợng hoặc tiên đồng thái tử trên trời giáng thế. Ví dụ nhƣ vua Đại
hành Đế đời nhà Lê đƣợc ghi chép gắn với chi tiết rồng vàng ấp “gặp mùa
đông rét, ông nằm phủ phục mà ngủ như hình cối úp, đang đêm[tự nhiên]
sáng rực cả nhà. Viên quan sát lẳng lặng đến xem, thấy con rồng vàng ấp ở
trên, càng lấy làm lạ” [15, tr. 227]. Hay nhƣ Hiến Tông Duệ Hoàng Đế cũng
đƣợc sinh ra một cách đặc biệt, cũng tuân theo mô típ nằm mơ thấy rồng và
sinh ra vua: “Bấy giờ hoàng hậu Trường Lạc ở cung riêng, chiêm bao thấy
con rồng vàng bay vào chỗ ở, bèn sinh ra vua”. Các nhà thần sử đã sử dụng
bút pháp khắc họa nhân vật, tô đậm những nét khác biệt về chân dung ngoại
hình, chú ý đến những hành động phi phàm để thể hiện tính cách hay lên án
những hành vi vô đạo đức, vi phạm những lễ nghĩa phép tắc của lễ giáo phong
kiến. Thêm vào đó, ghi chép về nhân vật hoàng đế, các nhà sử học dùng
phƣơng pháp ƣớc lệ, tƣợng trƣng để miêu tả ngoại hình nhân vật. Họ thƣờng
thần thánh hóa nguồn gốc sinh thành của các bậc đế vƣơng. Phổ biến là mô
tip thụ thai thần kì nhƣ mơ thấy rồng ấp hoặc hoa sen nở trong bụng sau đó
có mang rồi sinh ra vua. Mỗi bƣớc đi của đấng quân vƣơng thƣờng đƣợc ví
nhƣ rồng nhƣ hổ, sinh ra đã là bậc quân tử hay bậc đại trƣợng phu, khác với
con ngƣời thành danh do sƣ tác động của hoàn cảnh. Ta có thể nhận thấy điều
này một cách dễ dàng trong quá trình ghi chép tiểu sử về nhân vật dòng dõi
chính thống các đế vƣơng của Phan Huy Chú.
Không chỉ có nguồn gốc sinh thành đặc biệt mà trong quá trình trị vì, những
vị vua còn đƣợc sự trợ giúp đặc biệt của thần nhân. An Dƣơng Vƣơng sau
khi đắp thành xong đƣợc một con rùa vàng rút móng trao cho để làm nỏ thần
94
bắn giặc. Triệu Việt Vƣơng buổi đầu đánh quân Lƣơng thấy giặc không rút lui
bèn cầu khấn trời đất và đƣợc cái móng con rồng gài trên mũ đâu mâu dùng
đội để đánh giặc. Vua Đinh Tiên Hoàng cũng đƣợc ghi chép gắn liền với sự
tích đƣợc rồng vàng trợ giúp, khi đánh trận thấy con rồng vàng ủng hộ hai
bên.
Bút pháp kỳ ảo không chỉ xuất hiện ở phần ghi chép về xuất thân của các vua
chúa mà còn xuất hiện ở cả phần ghi chép về các nhân vật bề tôi nhƣ Nguyễn
Trãi, Lƣơng Thế Vinh, Phạm Trấn… Khi viết tiểu sử của các nhân vật này,
Phan Huy Chú đã chú ý ghi chép lại các tình tiết kỳ ảo hoang đƣờng xung
quanh cuộc đời các nhân vật. Đặc biệt là chi tiết thần nhân báo mộng cho
người đƣợc lặp đi lặp lại và trở nên quen thuộc. Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn
liền với vụ án rắn báo oán và thần báo mộng. Khi đêm ngủ ở quán Trấn Vũ,
Nguyễn Trãi cầu mộng để biết đƣờng lui tới. Nửa đêm ông đƣợc thần nhân
báo mộng cho biết tên họ của Thái Tổ nên ông tìm đƣờng theo vào yết kiến và
dâng bài sách “Bình giặc Ngô”. Đêm hôm trƣớc, Thái tổ cũng chiêm bao thấy
thần nhân cho một ngƣời tài giỏi ra giúp. Sự báo mộng trùng hợp là mô típ
quen thuộc của văn học dân gian. Lƣơng Thế Vinh cũng gắn liền với mô típ
này.Lúc trƣớc, Hoàng thái hậu Quang thục có mộng thấy thƣợng đế, thƣợng
đế ban cho hai tiên đồng, một làm con nối và một là tiên đồng giúp việc. Tỉnh
dậy có mang sinh ra ThánhTông. Đến khoa ấy, Lƣơng Thế Vinh đỗ, thái hậu
ngắm hình dáng và thấy giống nhƣ đồng tử mà mình đã mơ thấy. Nguyễn Văn
Giai, do nhà vua Thành Tổ nằm mơ thấy thấy thần đọc câu “Thiên lộc chỉ
huy” nên ông đƣợc vua ban chức tham [tán ký] lục trong việc quân. Lê Quý
Đôn (Đời Mạc) cũng có nguồn gốc xuất thân kì lạ. Bà mẹ lúc chƣa sinh cầu ở
chùa Quang Thừa, nằm mộng thấy thần Bích Phong giáng sinh. Đến lúc sắp
sinh lại thấy ngoài cửa có bậc quan nhân mặc áo đạo sĩ, xe ngựa tấp nập kéo
qua, lát sau sinh ông. Quả nhiên, ông là ngƣời tài giỏi, lên 2 đã biết hai chữ
“chi, vô”. 5 tuổi học Kinh thi, năm 12 tuổi học khắp kinh truyện, các sử, các
sách của bách gia chƣ tử... Một nhân vật khác có nguồn gốc xuất thân phi
95
phàm là Trần Quốc Tuấn- tƣớng giỏi thời Trần đƣợc nhân gian tƣơng truyền
là “Thanh Sơn đồng tử”. Mẹ của ông là Trần Liễu nằm mộng thấy một đồng
tử mặc áo xanh vào trong bụng, tỉnh dậy rồi có thai sinh ra ông.
Ta có thể thấy các tình tiết kỳ ảo dày đặc trong tác phẩm và là một phần cuộc
đời của nhân vật đƣợc ghi chép. Mỗi nhân vật lại gắn với các tình tiết kỳ ảo
riêng. Một số nhân vật kiệt xuất, lƣu danh trong hậu thế thƣờng có nguồn gốc
xuất thân kỳ lạ, đặc biệt. Họ đều đƣợc coi nhƣ không phải ngƣời bình thƣờng
mà đều là ngƣời thần, đƣợc thần nhân cử xuống nhân gian, đầu thai giáng thế
để thực hiện những sứ mệnh đặc biệt. Khi hết sứ mệnh lại trở về trời và làm
đúng phận sự. Điều này càng làm cho tiểu sử nhân vật trở nên ly kì và hơn
bao giờ hết, tính chất phi phàm của nhân vật đƣợc ghi chép cũng đƣợc tô đậm.
Trong thể loại truyện kì ảo của văn học trung đại, ta cũng thƣờng bắt gặp mô
típ học trò nghèo đi thi, nhƣng lại đƣợc thần nhân giúp đỡ thành tài. Môtíp
này giống với các mô típ trong truyện kỳ ảo Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng
Linh, hay Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Những truyện truyền kỳ này
thƣờng xuất hiện mô tip học trò đi thi, đƣợc Diêm Vƣơng hay thần nhân báo
mộng, thông báo và giúp đỡ. Ở thiên Nhân vật chí, môtíp này cũng thƣờng
xuất hiện cùng với quá trình ghi chép tiểu sử của nhân vật.
Phạm Trấn thì lại gắn với mô típ yêu tinh hiện ra nói với bạn của ông là Đỗ
Uông: “Trấn đỗ Trạng nguyên, Uông Bảng nhãn”. Vũ Duy Đoán, lúc còn trẻ
tối dạ, nhƣng sau nhờ thần nhân giúp đỡ, nằm mộng thấy thần mổ bụng mình,
nạo bỏ chất đục đi. Tỉnh dậy thấy nhâm nhẩm đau bụng. Từ đó văn chƣơng
ngày một minh mẫn, học hành văn chƣơng đều nổi tiếng. Phạm Công Trứ
thƣở còn trẻ nhà nghèo, nhƣng do từ đời cha ông để lại nhiều âm đức, đƣợc
thần cho ngôi đất quý và chiêm bao thấy thần báo mộng “Phải đến lúc muộn
mới làm nên”. Vì thế ông mới hiểu ra và cố học sau này thành tài, có địa vị
trong triều chính.
Yếu tố kì ảo còn thể hiện ở các tình tiết nhƣ cái chết của nhân vật lịch sử. Sau
khi chết đi, họ thƣờng linh ứng và đƣợc dân thờ phụng coi nhƣ thần thánh nhƣ
96
Bùi Cầm Hổ, Lƣơng Thế Vinh, Ngô Trí Hòa, Lê Phụng Hiểu, Lý Thƣờng
Kiệt đƣợc nhân dân lập đền thờ phong làm phúc thần, nhiều lần cầu đảo đƣợc
linh ứng.
Nhƣ vậy, trong phần ghi chép về tiểu sử của nhân vật lịch sử, Phan Huy Chú
đã dùng bút pháp kỳ ảo của văn chƣơng để ghi chép về lịch sử. Bút pháp kỳ
ảo trong thiên Nhân vật chíthể hiện ở chỗ, không chỉ có con ngƣời thật hay
nhân vật lịch sử hiện hữu mà còn có cả nhân vật thần linh hoặc gắn với các
biểu tƣợng thần linh nhƣ rồng vàng, rùa vàng, yêu tinh, thần nhân, thƣợng đế.
Đây là những nhân vật chủ đạo của thế giới văn xuôi truyền kỳ, chí quái. Thế
giới nhân vật này rất phong phú và hỗ trợ đắc lực cho sự ghi chép tiểu sử của
tác giả,nhƣng chúng cũng làm tăng yếu tố kì ảo, hƣ cấu cho tác phẩm. Cuộc
đời của các nhân vật lịch sử đƣợc bao phủ bởi một lớp sƣơng huyền ảo. Nhân
vật đƣợc ghi chép lại thƣờng khác xa với mẫu hình nhân vật ngoài đời. Tính
kỳ ảo của văn chƣơng làm cho tiểu sử của nhân vật trở nên mềm mại. Lịch sử
không còn đơn thuần là các sự kiện khô cứng gắn liền với cuộc đời nhân vật.
Nhƣng đồng thời chất văn chƣơng này cũng làm cho chất sử mất dần đi tính
hiện thực vốn có của nó. Tiểu sử nhân vật trở thành một điều gì đó phi phàm.
Khoảng cách giữa nhân vật có thật trong lịch sử và nhân vật hƣ cấu trong các
sáng tác văn học trở nên mờ nhạt. Nhân vật đƣợc ghi chép lại dƣờng nhƣ khác
xa với nhân vật đời thƣờng.Các tình tiết kì ảo xen vào hành trạng của nhân
vật đã thể hiện đƣợc tính kì vĩ, siêu phàm của các nhân vật nhƣng đồng thời
cũng làm cho sự thật phần nào giảm bớt đi. Những trƣờng hợp nhƣ Lƣơng
Thế Vinh, Nguyễn Trãi, Trần Quốc Tuấn…đều là nhân vật bằng xƣơng thịt,
có thật trong lịch sử của nƣớc nhà, nhƣng do đƣợc ghi chép gắn với những sự
việc kì lạ lƣu truyền trong dân gian mà tính hiện thực của nhân vật giảm đi
đáng kể.
Chất kì ảo trong Nhân vật chí không chỉ là chiếc áo khoác thô phác, là những
từ ngữ buộc phải cảm nhận bằng lí trí mà thật sự đã trở thành cách nghĩ, cách
viết, cách cảm nhận hiện thực của tác giả. Trong đó, sự thật và hƣ cấu, sự thật
97
và huyền thoại không đƣợc phân biệt mà hòa quyện vào nhau. Và sự bất phân
đó đƣợc chấp nhận nhƣ một điều cần thiết. Sự liên kết giữa sử học và văn học
dân gian cũng nổi bật nhƣ một âm hƣởng chủ đạo. Qua Nhân vật chí, ta có thể
thấy màu sắc dân gian thuần phác đƣợc thể hiện rõ nét, nhất là khi ghi chép về
các nhân vật đế vƣơng thời kì đầu khi nhà nƣớc mới hình thành nhƣ Kinh
Dƣơng Vƣơng, Lạc Long Quân, Hùng Vƣơng, An Dƣơng Vƣơng… Văn học
dân gian cũng là công cụ trợ giúp đắc lực trong việc ghi chép tiểu sử của Phan
Huy Chú. Nó góp phần làm cho sự ghi chép về nhân vật hiện lên với một diện
mạo đầy đủ hơn, thuyết phục hơn.
Với việc đề cao và sử dụng nguồn tƣ liệu truyền miệng, ông đã cung cấp cho
ngƣời đời sau một hình ảnh sinh động cũng nhƣ thấy đƣợc tình cảm yêu mến
của dân gian đối với nhân vật có thật đƣợc ghi chép trong tác phẩm. Trƣớc
ông, nhà bác học Lê Quý Đôn của thế kỷ trƣớc cũng rất chú trọng và đánh giá
cao nguồn sử liệu truyền miệng, những tƣ liệu dân gian và phi chính thống
khác để bổ sung cho nguồn tài liệu viết chính thống vốn đã bị tản mát và thiếu
hụt, làm cho diện mạo bộ sử trở nên đầy đủ hơn. Phan Huy Chú và Lê Quý
Đôn tuy sống ở hai thời đại khác nhau, nhƣng lại gần gũi với nhau về tƣ
tƣởng và quan điểm ghi chép lịch sử. Họ cùng quan điểm về việc ghi chép sự
thực đối với các sự kiện quá khứ, chƣa có tiêu chuẩn để phân biệt sự thực và
việc quái đản. Đây là sự thể hiện cao nhất của thi pháp văn học trung đại mà
bút pháp kì ảo, hƣ cấu là một đặc trƣng quan trọng trong các tác phẩm văn
xuôi. Với cách thức ghi chép này, Phan Huy Chú đã mang đến tính thuyết
phục và thành công cho bộ sử, đặc biệt là giúp bộ sử trở nên gần gũi hơn
không chỉ với tầng lớp nho học khảo cứu lịch sử mà còn gần với cả tầng lớp
bình dân vốn mang trong mình và tin vào tƣ duy dân gian nguyên thủy. Bộ sử
mang trong mình tƣ duy dân tộc nên trở nên rộng rãi và có giá trị hơn trong
đời sống nhân dân.
98
Tiểu kết
Nếu nhƣ nói Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn trong sử thì Thiên
Nhân vật chí trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng không nằm ngoài lời
nhận xét đó. Xét trên bình diện ghi chép về nhân vật lịch sử, Hoàng Lê nhất
thống chí hoàn toàn có nội dung của một tác phẩm sử học, nhƣng lại mang
hình thức của văn học. Ở đây, hình tƣợng nhân vật không bị chìm xuống thứ
yếu sau các sự kiện lịch sử mà còn nổi lên đến mức độ nhiều nhân vật lịch sử
đƣợc khắc họa sinh động không kém gì nhân vật trong tiểu thuyết. Phan Huy
Chú trong quá trình chép sử của mìnhtuy chƣa khắc họa hình tƣợng nhân vật
rõ nét lên đến mức điển hình, mà chỉ dừng lại ở việc ghi chép sử trạng của
nhân vật, nhƣng ta thấy cuộc đời các nhân vật lịch sử đƣợc ghi chép cứ hiện
rõ ra ở một mức độ khái quát và riêng biệt nhất. Điểm độc đáo trong nghệ
thuật ghi chép tiểu sử nhân vật lịch sử của ông là ở chỗ, ông đã dùng các hình
thức bút pháp của văn chƣơng để ghi chép về sử trạng của nhân vật, chính vì
vậy nhân vật lịch sử đƣợc ghi chép cũng đồng thời giống nhƣ là nhân vật văn
học đƣợc sáng tạo nhƣng vẫn không mất đi tính chân thực của nó. Trong quá
trình ghi chép của mình, ông đã sử dụng triệt để các bút pháp của thi pháp văn
học trung đại nhƣ kể, tả, xen lẫn các lời bình luận, nhận xét sắc xảo làm cho
một tác phẩm sử học nhƣng lại mang đậm tính chất chủ quan của văn chƣơng.
Bên cạnh đó, ông còn vận dụng tối đa các chất liệu, mô típ có trong văn học
dân gian vào ghi chép lịch sử của mình làm cho tác phẩm sử nhƣng lại mang
tính chất kỳ ảo của văn xuôi trung đại. Những bài văn, bài thơ, khải, sớ cũng
đƣợc ông ghi chép đan xen vào sử trạng của nhân vật. Chính yếu tố này góp
phần trợ giúp cho việc ghi chép tiểu sử nhân vật không chỉ còn là những sự
kiện lịch sử khô cứng mà còn góp phần tạo nên giá trị văn chƣơng của tác
phẩm nửa văn nửa sử này. Qua đó, ta thấy đƣợc nghệ thuật ghi chép tiểu sử
tài tình của tác giả. Đây cũng là minh chứng hùng hồn cho tƣ duy văn sử bất
phân thời trung đại. Các sử gia đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai thao tác làm
văn và chép sử để tạo nên một tác phẩm có giá trị và thiên Nhân vật chí nói
99
riêng cũng nhƣ LTHCLC nói chung của Phan Huy Chú là một đỉnh cao cho
sự tích hợp của hai loại hình này.
100
PHẦN KẾT LUẬN
Trọng ân nghĩa là truyền thống từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Việc thờ
phụng những ngƣời hiền tài, những vĩ nhân của dân tộc đã thể hiện lòng tôn
kính đối với các bậc tiền nhân đã có công dựng nƣớc và giữ nƣớc qua bao
nhiêu thế kỉ. Phan Huy Chú đã ghi chép về đời sống các danh nhân, biểu
dƣơng những tấm gƣơng sáng ngời vừa là để bày tỏ tấm lòng biết ơn của
ngƣời hậu thế lại đồng thời cũng là lời nhắc nhở phải theo gót và xứng đáng
với ngƣời xƣa. Mục đích chép sử của tác giả cũng là để treo gƣơng, răn đời.
Việc này, trƣớc và sau Phan Huy Chú đã có nhiều học giả nổi tiếng từng làm
nhƣ Lê Quý Đôn, Lê Văn Hƣu, Phan Phu Tiên… nhƣng chƣa ai đạt đến trình
độ khái quát rộng lớn và có tính tổng hợp nhƣ Phan Huy Chú. Bằng một sự
sắp xếp khoa học, tài tình cùng với tƣ duy lo gic cao, Phan Huy Chú đã cho
chúng ta thấy tài năng của một nhà học giả đƣơng thời. Khi ghi chép về
Nhân vật chí, ông đã có sự sắp xếp khoa học theo thời gian biên niên, đồng
thời kết hợp những tiểu truyện rời rạc với những áng văn thơ, những lời luận
bàn vắn tắt nhƣng chính xác về từng thời kì lịch sử làm cho cuộc đời, tiểu sử
nhân vật sống động hơn bao giờ hết. Các nhân vật đƣợc ghi chép đều là
những ngƣời biết xả thân vì nghĩa lớn, trong mọi hoàn cảnh đều có sự vƣơn
lên đóng góp thích đáng cho xã hội, tận trung với quân vƣơng và biết giữ gìn
nghĩa tiết. Có thể nói, bên cạnh những nhân vật có tiếng trong lịch sử thì Phan
Huy Chú đã ghi chép và đƣa ra những nhân vật chƣa thực sự là vĩ đại nhƣng
tấm gƣơng của họ lại dễ noi theo. Ông ghi chép lại để làm gƣơng tấm gƣơng
đạo đức cho nho sĩ quan lại đƣơng thời, để họ trông vào đó mà sửa mình cho
dân chúng đƣợc nhờ cậy. Ông coi tác phẩm của mình là con thuyền chuyên
chở đạo lý để làm gƣơng cho muôn đời. Đó cũng chính là mục đích cao cả để
ông ghi chép lại các nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa của nƣớc nhà.
Nhân vật chí có nội dung hoàn toàn giống với một tác phẩm sử học vì chủ yếu
là ghi chép về cuộc đời của các nhân vật gắn liền với các sự kiện lịch sử. Tuy
101
vậy, nó lại không phải là tác phẩm sử hoàn toàn vì cuộc đời và tiểu sử nhân
vật đƣợc ghi chép một cách sinh độngvà linh hoạt dƣới hình thức của văn
chƣơng. Các thủ pháp trong văn xuôi tự sự trung đại đƣợc tác giả vận dụng
khá nhuần nhuyễn trong quá trình ghi chép về các nhân vật lịch sử. Chất văn
chƣơng giúp cho sự kiện và cuộc đời nhân vật đƣợc soi sáng và trở nên sinh
động phong phú hơn. Chất sử học làm cho văn chƣơng (vốn mang tính sáng
tạo) trở nên thuyết phục, các tình tiết trở nên chặt chẽ nhờ sự kiện lịch sử có
thật. Chất sử học và văn học hòa quyện vào nhau, tạo thành một nghệ thuật
riêng trong việc ghi chép tiểu sử. Trong Nhân vật chí, ta còn thấy sự kết hợp
tài tình nhuần nhuyễn giữa bút pháp sử học và bút pháp văn học làm cho tác
phẩm sử nhƣng lại mang giá trị văn học sâu sắc. Ta thấy sự phức hợp văn sử
không chỉ có ở riêng Phan Huy Chú mà Đây cũng chính là cách thức viết sử
chung của các nhà ghi chép sử trung đại. Ta có thể tìm thấy sự phức hợp giữa
văn và sử, sử và văn trong một tác phẩm thời trung đại. Văn và sử có sự bổ
trợ cho nhau và là yếu tố quan trọng trong việc hình thành và sự thành công
của một tác phẩm.
Phan Huy Chú là một nhà sử học uyên bác với tinh thần ghi chép lịch sử một
cách nghiêm túc, kết hợp giữa kiến thức sâu rộng với cái nhìn khoa học tiến
bộ.Lịch triều hiến chương loại chí nói chung và thiên Nhân vật chí nói riêng
đã trở thành một hiện tƣợng đáng nghiên cứu trong lịch sử và văn hóa nƣớc
nhà. Nhân vật chí vẫn là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy cho nhiều thế hệ khi khảo
cứu về các nhân vật lịch sử của quốc gia dân tộc.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Trọng Am (2011), Văn hóa dòng họ Việt Nam, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Đồng Tháp, tái
bản.
3. Quỳnh Anh (2009), Phan Huy Chú và Lịch triều hiến chương loại chí,
NXB Kim Đồng.
4. Lại Nguyên Ân (1997), “Các thể tài chức năng trong văn học trung đại
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (số 1), tr 26-31.
5. Lại Nguyên Ân (1997), Tự điển văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
6. Bùi Huy Bích (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, tập 1, Nxb Văn hóa Hà
Nội.
7. Bùi Huy Bích (1958), Hoàng Việt thi văn tuyển, tập 2, Nxb Văn hóa
Thông tin.
8. Nguyễn Đổng Chi (1979), Thư tịch cổ và nhiệm vụ mới, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Huệ Chi (1998), Lê Hữu Trác, Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huy
Lượng, Phan Huy Chú, Nguyễn Hữu Chỉnh: Tuyển chọn những bài phê
bình – bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt
Nam, NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trƣng loại biệt của văn học Việt Nam
thời trung đại”, Tạp chí Văn học, (số 5), tr 46 - 51.
11. Nguyễn Huệ Chi (2000), “Nắm bắt những vấn đề phong phú của văn học
thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, (số 4), tr 24 - 28.
12. Trịnh Kim Chi (2012), “Lịch triều hiến chƣơng loại chí – một bộ bách
khoa toàn thƣ về khoa học xã hội”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, (số 5), tr
3- 6.
103
13. Vu Tại Chiếu (2006), “Thơ bang giao chữ Hán Việt trong sự giao lƣu
văn hóa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử trung đại”, Tạp chí Văn
học, (số 5), tr 46 - 54.
14. Nguyễn Đình Chú (2005), “Hiện tƣợng Văn - sử - triết bất phân trong
văn học Việt Nam thời trung đại”,Tạp chí Văn học, (số 5), tr 54- 61.
15. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1(bản dịch),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2(bản dịch),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Phạm Trọng Điềm (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
18. Lê Quý Đôn (1961), Vân đài loại ngữ, tập 1, Nxb Văn hóa xã hội.
19. Lê Quý Đôn (1962), Vân đài loại ngữ, tập 2, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
20. Lê Quý Đôn (1973), Đại Việt thông sử (bản dịch của Lê Mạnh Liêu), Bộ
văn hóa Giáo dục và Thanh Niên, Sài Gòn.
21. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, toàn tập (tập 3), Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
22. Trọng Đức (1968), “Hình tƣợng nhân vật anh hùng qua một số tác phẩm
văn học cổ của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (số 1), tr 60 –
69.
23. Nguyễn Thị Giang (2014), Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng
trong văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV,
Luận án tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
24. Trần Văn Giáp (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. Trần Văn Giáp (1972), Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 2, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm Việt Nam, tập 2,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
104
27. Lê Thị Hà (2009), Bộ phận văn chương trong trước tác của Phan Huy
Chú, Luận văn Th.s Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.
28. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết
chƣơng hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (số 6), tr 45 – 49.
29. Dƣơng Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà
văn(tái bản theo đúng bản in ban đầu năm 1943).
30. Đinh Thị Thủy Hiên (2009), “Góp phần nhận diện nhà bác học Phan Huy
Chú qua sách Lịch triều hiến chƣơng loại chí”, Tạp chí Lịch sử quân sự,
(số 213), tr 31 – 35.
31. Nguyễn Văn Hoàn (1969), “Tình hình biên soạn lịch sử văn học Việt
Nam từ xƣa đến nay”, Tạp chí Văn học, (số 8), tr 60 – 68.
32. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
35. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1(bản dịch), Nxb Khoa
học Xã hội.
36. Tạ Ngọc Liễn (1968), “Tìm hiểu thể loại địa chí”, Tạp chí Văn học, (số
6), tr 22- 31.
37. Tạ Ngọc Liễn (1999), “So sánh giữa thể tài chính sử Việt Nam với chính
sử Trung Quốc”, Tạp chí Hán Nôm, (số 3), tr 54 – 60.
38. Nguyễn Lộc (1993), Tổng tập văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
39. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ
19, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
40. Nguyễn Lộc (2007), Văn học Việt Nam(nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ
XIX), NXB Giáo dục, Hà Nội.
105
41. Phƣơng Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
42. Phƣơng Lựu (1983), Tìm hiểu nguyên lý văn chương, một vài phương
diện lịch sử và lý thuyết về tính dân tộc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43. Trần Thanh Mại (1960), “Tình hình biên soạn lịch sử Việt Nam từ xƣa
đến nay”, Tạp chí văn học,( số 8), tr 16 - 21.
44. Nguyễn Phong Nam (chủ biên) (1977), Những vấn đề lịch sử và văn
chương triều Nguyễn, Nxb Giáo dục.
45. Trần Nghĩa (1993), Di sản Hán Nôm Việt Nam : “Thư mục đề yếu”, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Trần Nghĩa (1970), “Góp phần tìm hiểu quan niệm “văn dĩ tải đạo” trong
văn học cổ Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (số 2), tr 34 – 41.
47. Phạm Thế Ngũ (1996), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 1,
Nxb Đồng Tháp.
48. Nhiều tác giả (1983), Phan Huy Chú và dòng văn Phan Huy, Sở Văn hóa
thông tin Hà Sơn Bình.
49. Nguyễn Ngọc Nhuận (2006), “Họ Phan và gia phả họ Phan ở Thạch
Châu – Hà Tĩnh”, Tạp chí Hán Nôm, (số 5), tr 15 – 23.
50. Nguyễn Ngọc Nhuận (2007), “Phan Huy Chú qua những điều ghi chép từ
gia phả họ Phan”, Tạp chí Hán Nôm, (số 6), tr 76 – 78.
51. Nguyễn Ngọc Nhuận (1996), Nghiên cứu và đánh giá văn bản thơ văn
bang giao của Phan Huy Ích, Luận án tiến sĩ Văn học, Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn.
52. Nguyễn Phƣơng (1962), “Phƣơng pháp viết sử của Lê Văn Hƣu và Ngô
Sĩ Liên”, Tạp chí Đại học Huế, (số 5), tr 46- 54.
53. Trần Thị Thanh Phƣơng (2008), Tìm hiểu giá trị văn học của Đại Việt sử
ký toàn thư, Luận văn Th.s Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn.
106
54. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình và
bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam,
Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
55. Vũ Thanh Sơn(2013), Một số nhà sử học Việt Nam – Cuộc đời và sự
nghiệp, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
56. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
57. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi
(1960), Sơ thảo lịch sử Việt Nam (Giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb
Sử học Việt Nam.
59. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
60. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX,
NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
61. Nguyễn Đức Văn(1963), “Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt
Nam”, Tạp chí Văn học, (số 12), tr 37 – 41.
62. Đinh Công Vĩ (1994), Phương pháp làm sử của Lê Quý Đôn, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
63. Đinh Công Vĩ (1992), “Tìm hiểu phƣơng pháp trình bày phân loại sách
vở trong “Nghệ văn chí” của Lê Quý Đôn”, Tạp chí Hán Nôm, (số 1), tr
24- 30.
64. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
65. Trần Ngọc Vƣơng (2001), Một số vấn đề nghiên cứu Nho giáo ở Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
66. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Loại hình học tác giả văn học: nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
107
67. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
68. Trần Ngọc Vƣơng(2006), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX những vấn đề
lí luận và lịch sử, NXB Giáo dục, Hà Nội.
69. Trần Ngọc Vƣơng (giới thiệu và tuyển chọn)(2007), Trần Đình Hượu
tuyển tập, tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
70. Trần Ngọc Vƣơng (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, NXB
Tri thức Hà Nội, Hà Nội.
71. Hoàng Hữu Yên (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội.
72. Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam,
NXB Đại học sƣ phạm, Hà Nội.
108