ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG
NGHÜA Vô CHøNG MINH TRONG PH¸P LUËT Tè TôNG D¢N Sù VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG
NGHÜA Vô CHøNG MINH TRONG PH¸P LUËT Tè TôNG D¢N Sù VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101. 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Đinh Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .......................... 9
1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam ........................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ....... 13
1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ........ 16
1.1.4. Các cấp độ chứng minh ...................................................................... 18
1.1.5. Sự cần thiết của việc thực hiện hoạt động chứng minh trong pháp
luật tố tụng dân sự .............................................................................. 20
1.1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự ..................................................................................... 30
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự ................................................................................... 32
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 .................................................................. 32
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 ............................................................... 35
1.2.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004 ............................................................... 36
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ...... 39
1.2.5. Pháp luật Việt Nam hiện nay ............................................................. 41
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 43
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ NGHĨA VỤ
CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ........ 44
2.1. Chủ thể và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể ..... 44
2.1.1. Đương sự ............................................................................................ 44
2.1.2. Người đại diện của đương sự ............................................................. 50
2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự..................... 54
2.1.4. Tòa án nhân dân ................................................................................. 56
2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân ...................................................................... 57
2.1.6. Những người tham gia tố tụng khác ................................................... 58
2.2. Hoạt động chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................ 60
2.2.1. Bản chất và khái niệm của hoạt động chứng minh ............................ 60
2.2.2. Đối tượng chứng minh ....................................................................... 61
2.2.3. Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh ........................ 61
2.2.4. Phạm vi chứng minh .......................................................................... 61
2.3. Nội dung chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ................. 62
2.3.1. Cung cấp chứng cứ ............................................................................. 62
2.3.2. Thu thập chứng cứ .............................................................................. 63
2.3.3. Nghiên cứu chứng cứ ......................................................................... 65
2.3.4. Đánh giá chứng cứ ............................................................................. 65
2.4. Quá trình chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố
tụng dân sự ........................................................................................ 66
2.4.1. Nội dung chứng minh ......................................................................... 66
2.4.2. Phương pháp thực hiện nghĩa vụ chứng minh ................................... 66
2.5. Xu hƣớng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay .................................................. 67
2.5.1. Khuynh hướng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh từ Tòa án sang
đương sự ............................................................................................. 67
2.5.2. Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự phản
đối đó .................................................................................................. 68
2.5.3. Đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ................................. 69
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 74
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA
VỤ CHỨNG MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ
VIỆT NAM ................................................................................................... 75
3.1. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam ...................................................................... 75
3.1.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về
nghĩa vụ chứng minh .......................................................................... 75
3.1.2. Nghĩa vụ chứng minh từ thực tiễn hoạt động xét xử ......................... 77
3.1.3. Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể .......................................................................... 78
3.1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự .................................................................. 80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.................................... 81
3.2.1. Kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật ............................ 81
3.2.2. Kiến nghị liên quan đến việc xác định nguồn chứng cứ để đương sự
có căn cứ thực hiện nghĩa vụ chứng minh .......................................... 83
3.2.3. Các kiến nghị liên quan khác ............................................................. 85
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, các vấn đề về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) được quy định tương đối rõ
ràng, đầy đủ và khoa học. Theo các quy định của BLTTDS 2015 và các văn
bản hướng dẫn thi hành thì các phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét trong quá trình tố tụng. Đồng
thời, từ kết quả của việc trình bày và hỏi tại phiên toà, Tòa án còn phải xem
xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên nếu có
tham gia phiên tòa.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong những năm gần
đây cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy, bị sửa hay án phải giải quyết qua nhiều cấp
xét xử vẫn còn khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này một phần cơ bản
xuất phát từ việc chưa có sự hiểu biết đúng đắn, chưa quan tâm toàn diện về
vấn đề chứng minh cũng như nghĩa vụ chứng minh của các đương sự và của
các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như còn tình trạng đánh giá và sử dụng
chứng cứ không có giá trị chứng minh.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khóa
XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập số 19/NQ/TW ngày
25/10/2017 đã đề ra mục tiêu “Giai đoạn đến năm 2025 và 2030 Hoàn thiện
đầy đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hóa các chủ trương của
Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động của
đơn vị sự nghiệp công lập”[1]. Theo đó, tại Kết luận của Bộ chính trị số 92-
1
KL/TW ngày 12/3/2014 của Ban chấp hành Trung ương về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ-TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu:
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến
tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ; đã sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi
hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp theo đúng chủ
trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp. Tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn và xác
định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ... việc tranh tụng tại phiên tòa
bước đầu đạt được một số kết quả tích cực… đã chuẩn hóa trình độ
đội ngũ cán bộ; quy định rõ hơn cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các
chức danh tư pháp; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp từng
bước được cải thiện [35, tr.770 - 771].
Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng tới
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, việc hoàn thiện các văn bản
pháp luật về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh để làm rõ bản chất của vụ
án trong tố tụng dân sự được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm cùng với
sự hoàn thiện hệ thống pháp luật chung.
Từ đó, có thể thấy rằng, việc đánh giá đúng tầm quan trọng của việc
chứng minh và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong quá trình thụ lý,
xét xử các vụ án dân sự là rất quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về
nghĩa vụ chứng minh mang lại giá trị không những về mặt lý luận khoa học
mà còn cả về mặt thực tiễn xét xử. Đây cũng chính là lý do tác giả luận văn
xin lựa chọn đề tài: “Nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
Nghĩa vụ chứng minh là một vấn đề quan trọng trong tố tụng dân sự.
Chính vì vậy, liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
đề cập nhưng ở những khía cạnh khác nhau. Trong đó, qua tìm hiểu, các công
trình nghiên cứu điển hình có đề cập đến nghĩa vụ chứng minh như:
Đề tài khoa học, tác giả Hà Thị Mai Hiên “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ của
Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2008 - 2009;
Các công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thì
tiêu biểu có luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Minh Hằng “Chế định chứng
minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2007; luận văn thạc sĩ của Vũ Văn Đồng “Chứng cứ và vấn đề chứng
minh trong Bộ luật tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2007; luận văn thạc sĩ của Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng
cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Hương “Hoạt động thu thập
chứng cứ của tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Quàng Hồng Nết “Cung cấp chứng cứ
trong tố tụng dân sự - Thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015; luận văn thạc sĩ của Đặng Minh
Chiến “Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự” bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị
Thanh Nga “Nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Ngũ Thị Như Hoa
“Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức
3
trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo
vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Quang Anh “Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt
Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;
luận văn thạc sĩ của Đinh Ngọc Hoa với chủ đề “Nguồn chứng cứ theo pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2019. v.v..
Về giáo trình, sách tham khảo có một phần nội dung liên quan đến
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự như: “Giáo trình Luật tố tụng dân
sự” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm
2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm
2014; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật
Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2016; sách tham
khảo “Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh” của tác giả Tống
Công Cường do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất
bản năm 2007; sách tham khảo “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự
sửa đổi” chủ biên Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn và Đặng Thanh Hoa
do Nhà xuất bản Lao động –Xã hội xuất bản năm 2012; sách tham khảo
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” chủ biên tác giả Bùi
Thị Huyền do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2016 v.v...
Về các bài viết đăng tải trên các tạp chí có tác giả Duy Kiên “Đánh giá
toàn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự việc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số 1/2000 tr.21 - 22, 34; tác giả Nguyễn Thế Giai “Xác định địa vị tố tụng của
đương sự và đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và
4
Pháp luật, số 9/2000, tr.29 – 32; tác giả Bùi Thị Huyền “Thời hạn cung cấp
chứng cứ của đương sự”, Tạp chí Luật học, số 1/2002, tr.36 – 39; tác giả
Hoàng Ngọc Thỉnh với bài viết: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân
sự”, Tạp chí Luật học, số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, tháng
4/2004, tr.65 - 69; tác giả Nguyễn Minh Hằng “Tập quán nguồn luật hay
nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2004, tr.20 - 22; tác giả
Tưởng Duy Lượng “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh
được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
20/2004, tr.9 - 13; tác giả Dương Quốc Thành “Chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2004, tr. 21 - 28; tác giả
Tưởng Duy Lượng “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật, số 10 tháng 01/2005;
tác giả Phan Thanh Tùng “Bàn về Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá
tài sản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2012, tr.22 - 25; tác giả Đỗ văn
Chỉnh “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tạp chí Tòa án nhân dân số
14/2015, tr.24 - 30; tác giả Nguyễn Vinh Hưng “Các tình tiết sự kiện không
phải chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát
số 04/2016 và bài viết “Nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 20/2018, tr.3 - 8, v.v...
Về cơ bản, có thể thấy rằng, những công trình nghiên cứu trên tiếp cận
nhìn nhận ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến một số vấn đề về chứng
minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy vậy, các công trình
nghiên cứu đó mới chỉ nhìn nhận ở những vấn đề chung tập trung hầu hết ở
góc độ chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự. Từ đó, để góp phần xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng dân sự thì cần thiết phải có những công nghiên cứu một cách chuyên sâu,
toàn diện, đầy đủ và có tính hệ thống các vấn đề về nghĩa vụ chứng minh
5
trong tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam. Do vậy, tác giả luận văn tiếp
tục kế thừa và phát triển từ các kết quả của các công trình nghiên cứu trên để
xây dựng, hoàn thiện đề tài “Nghĩa vụ chứng minh cứ trong tố tụng dân sự”.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề trong pháp luật thực định
bao gồm các quy định hiện hành của Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh (Bộ
luật, nghị định, Nghị Quyết, Thông tư liên tịch, Thông tư…) trong tố tụng
dân sự và pháp luật có liên quan. Trên cơ sở các quy định này được đưa vào
thực tiễn để áp dụng đã làm nảy sinh những vấn đề hạn chế, bất cập gây ảnh
hưởng đến việc áp dụng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng dân sự.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài là thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được
đề ra ở trên, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Phân tích,
đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ
chứng minh. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy
định về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự để từ đó góp
phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự.
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng
minh. Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay
6
về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của BLTTDS 2015
về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ ba, chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của BLTTDS 2015
về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ tư, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ chứng minh và một số giải pháp để nâng cao
hiệu quả của việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong thực tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề
tài là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành khoa học xã
hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng được tác giả luận văn kết hợp sử
dụng như: phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so
sánh; phương pháp đánh giá các quy định pháp luật.
6. Đóng góp của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn, luận văn tập trung vào những điểm
chính sau:
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu và phân tích có hệ thống các vấn
đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm... của các quy định về nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự.
Về mặt thực tiễn, từ thực trạng quy định của pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh luận văn hệ thống và phân tích một cách cụ thể, chi tiết để từ đó
tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật hiện nay về nghĩa
vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
Về mặt định hướng hoàn thiện, luận văn đưa ra cơ sở hình thành những
định hướng và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện hơn nữa các quy định
7
pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương với kết cấu:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự Việt Nam
Chương 2: Quy định pháp luật hiện nay về nghĩa vụ chứng minh trong
tố tụng dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các
8
quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp
luật tố tụng dân sự
* Khái niệm nghĩa vụ chứng minh
Về bản chất, chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập,
cung cấp, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở
thực tế các yêu cầu của các bên đương sự trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham
gia vào quá trình này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị
trí tố tụng của từng chủ thể.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015) quy định nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Toà án
chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng
vẫn không tự thu thập được và có yêu cầu Toà án tiến hành thu thập.
Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp
chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và
nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ
và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường
hợp do Bộ luật này quy định [30, Điều 6].
9
Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Điều 91 BLTTDS 2015 như sau:
1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho Tòa án tài
liệu; chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp
pháp; trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh
lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ. Tổ chức; cá
nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh
mình không có lỗi gây ra thiệt hại; theo quy định của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà
không cung cấp; giao nộp được cho Tòa án tài liệu; chứng cứ vì lý
do tài liệu; chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý;
lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp; giao
nộp tài liệu; chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động; thuộc trường hợp người sử dụng lao động không
được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người
lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ
chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ
chứng minh.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình
phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho
Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
3. Cơ quan; tổ chức; cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công
10
cộng; lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập; cung cấp; giao nộp
cho Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện;
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh
hàng hóa; dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà
không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì
Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập
được có trong hồ sơ vụ việc [30, Điều 91].
Ngoài ra, cần phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách
nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự. Tại khoản 2 Điều 85 của Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS 2011) (có hiệu
lực từ 01/01/2012) đã ghi nhận: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định,
Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu,
chứng cứ. Như vậy, so với khoản 2 Điều 85 của BLTTDS năm 2004, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2011 hoặc tại Điều 97 BLTTDS 2015
đã bỏ quy định: Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được
chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện
pháp thu thập chứng cứ. Việc bỏ quy định đương sự không thể tự mình thu
thập chứng cứ và có yêu cầu mới là điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ,
đặt ra những vấn đề tranh cãi cần thống nhất về cách hiểu khi áp dụng trong
thực tiễn xét xử liên quan đến quan niệm về nghĩa vụ chứng minh hay trách
nhiệm chứng minh của Tòa án (TA), Viện kiểm sát (VKS). Theo đó nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự là của các đương sự; Tòa án và Viện kiểm
11
sát không có nghĩa vụ chứng minh chỉ có trách nhiệm chứng minh.
Từ đó, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có thể được hiểu:
Thứ nhất, về nguyên tắc, “nghĩa vụ” là việc phải làm. Đương sự có nghĩa
vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh.
Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động
chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá
nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ
không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình là
có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị
đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một
cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật
ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về
sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không
có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh.
Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm thỉnh cầu
và kháng biện. Trong thỉnh cầu có thỉnh cầu ban đầu (đơn khởi tố), thỉnh cầu
bổ sung (bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc), thỉnh cầu phản
tố (đòi hỏi công nhận lợi ích của bị đơn) và thỉnh cầu dự sự (đòi hỏi của người
thứ ba về việc tham gia vụ án). Kháng biện bao gồm kháng biện về nội dung
(là sự phủ nhận của bị đơn), khước biện (bị đơn cho rằng không đúng thủ tục)
và kháng chấp (bị đơn cho rằng nguyên đơn không có quyền kiện họ: ví dụ
như không có tư cách hoặc kiện ở tòa không có thẩm quyền).
Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu
cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác
bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu
cũng phải chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự
12
định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.
Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu
quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được tòa án công nhận các quyền và
lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa
vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một
cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được
chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường hợp người đưa ra
yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang
lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của
nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài” nhưng
phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả
bất lợi ở đây đã thuộc về phía nguyên đơn vì họ đã không thực hiện được nghĩa
vụ chứng minh của mình nên đã không được công nhận quyền và lợi ích.
* Ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Có thể khẳng định, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có tính
chất quyết định để làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong việc giải quyết vụ
việc dân sự. Để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự diễn ra đúng đắn và hợp
pháp, pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh đối với các chủ thể trong vụ án
dân sự. Bởi lẽ, chỉ thông qua hoạt động chứng minh thì các chủ thể chứng minh
mới có thể yêu cầu hoặc đưa ra sự phản bác của mình đúng quy định của pháp
luật để làm sáng tỏ, giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và chính xác vụ án hơn
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đúng pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập, cung cấp, sử
dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế các
yêu cầu của các bên trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham gia vào quá trình
này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị trí tố tụng của
13
họ. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh (mà người ta thường gọi là Onus
probandi theo tiếng La tinh, Beweislast theo tiếng Đức, Burden of proof theo
tiếng Anh, hay La charge de la preuve theo tiếng Pháp) được hình hành
nhằm xác định bổn phận phải gánh vác của một chủ thể trong việc chứng tỏ
hoặc phản bác một vấn đề trong vụ án. Thông thường, nói đến nghĩa vụ
chứng minh, người ta nói đến nghĩa vụ chứng minh nội dung và nghĩa vụ
chứng minh hình thức [2].
* Nghĩa vụ chứng minh về nội dung
Nghĩa vụ chứng minh về nội dung hay còn gọi là nghĩa vụ thuyết phục,
nghĩa vụ khẳng định, nghĩa vụ nội dung, nghĩa vụ theo luật, nghĩa vụ khách
quan ... Đây là nghĩa vụ được ấn định dứt khoát cho bên yêu cầu (nguyên đơn,
người phản tố) và không thể chuyển cho bên kia. Chủ thể mang nghĩa vụ
chứng minh nội dung sẽ thua kiện nếu không thực hiện được việc chứng minh
của mình. Việc chứng minh, trong trường hợp này là ngoài việc xuất trình các
chứng cứ cần thiết để khẳng định sự thật, người đặt ra yêu cầu (giả thuyết
phải chứng minh) còn phải lập luận viện dẫn các cơ sở thực tiễn, logic và
pháp lý cho các yêu cầu đó
Ngay từ thời La Mã cổ đại, một cáo buộc được đệ trình lên tòa cũng có
nghĩa là bên cáo buộc đã đặt phía bên kia vào một trạng thái bất lợi và cũng
đồng thời tự đặt mình vào một nghi vấn về một sự lạm dụng quyền đi kiện.
Bởi vậy, người đi kiện có bổn phận chứng minh cho giả thuyết của mình đã
đưa ra là có cơ sở và không có một sự lạm dụng nào được thực hiện, nguyên
tắc này còn được áp dụng đối với cả những phản tố của các đương sự khác
không phải là nguyên cáo, khi đó, nó được hiểu là “nghĩa vụ chứng minh
thuộc về người khẳng định, chứ không phải bên từ chối”. Sự từ chối ở đây
được hiểu là bên bị không thừa nhận cáo buộc của bên nguyên. Anh ta sẽ xuất
trình chứng cứ cho sự từ chối hay bác bỏ này theo yêu cầu của tòa án nhưng
14
việc chứng minh cho sự không đúng sự thật của cáo buộc chỉ là quyền chứ
không phải là nghĩa vụ của anh ta. Trường hợp bên nguyên không thuyết phục
được tòa án về tính có căn cứ của cáo buộc, cáo buộc sẽ bị bác bỏ và việc
phản đối hay từ chối cáo buộc không cần thiết phải chứng minh.
Trong các vụ án dân sự, nguyên đơn thường phải gánh chịu nghĩa vụ
chứng minh để khẳng định các yêu cầu của mình là có cơ sở, có thật và hợp
pháp. Bị đơn chỉ có nghĩa vụ chứng minh khi anh ta đặt ra một yêu cầu phản
tố, độc lập với yêu cầu của nguyên đơn. Tuy vậy, trong mô hình tố tụng thẩm
vấn, nguyên đơn dân sự cũng chỉ phải chứng minh mình bị tranh chấp, xâm
hại, việc quyết định đúng sai và trách nhiệm dân sự tương ứng phụ thuộc vào
việc xác minh sự thật vụ án của tòa án
* Nghĩa vụ chứng minh về hình thức
Đây là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ và là một phần của nghĩa vụ chứng
minh. Đây là nghĩa vụ chung của các bên đương sự, khi tham gia tố tụng phải
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án để làm cơ sở cho khẳng định hay
bác bỏ một vấn đề.
Về bản chất, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ là một bảo đảm cung cấp
công cụ cho nghĩa vụ chứng minh nội dung. Khác với nghĩa vụ chứng minh
nội dung là nhằm vào sự thật vụ án và chỉ ràng buộc với bên đi kiện, nghĩa vụ
xuất trình chứng cứ nhằm đến các công cụ pháp lý để phục vụ nghĩa vụ chứng
minh nội dung và nó có thể chuyển dịch giữa các bên trong quá trình tố tụng.
Việc giải phóng nghĩa vụ chứng minh nội dung chỉ diễn ra khi bên cáo buộc
thuyết phục được tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp rằng việc chứng minh
đã đáp ứng được các tiêu chí luật định và cáo buộc được thừa nhận là có thật.
Có thể thấy bên có nghĩa vụ chứng minh nội dung sẽ đương nhiên phải
có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Tuy vậy, phía bên kia không có nghĩa vụ
chứng minh nội dung nhưng vẫn có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Trong một
15
vụ kiện, khi một bên đã xuất trình đủ các chứng cứ cần thiết cho các cáo buộc
của mình thì bên kia sẽ được đặt trong trạng thái phải chống đỡ. Một khi bên
bị bác bỏ cáo buộc của bên nguyên phải đưa ra các chứng cứ để bác bỏ nó -
tức là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ bảo vệ (hoặc chứng cứ bác bỏ) đã được
chuyển sang bên bị. Nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ cần thiết, các
chứng cứ do bên kia đưa ra sẽ được thừa nhận là xác thực (hay hiển nhiên
đúng) cáo buộc của họ sẽ được chấp nhận. Điều này xuất phát từ nguyên tắc
"một giả thuyết được coi là chân thực cho tới khi nó bị chứng minh là sai"[2].
Những hoài nghi có tính chất cá nhân của bên bị không thể coi là một sự phản
chứng nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ.
Theo thông lệ, bên nguyên đơn chứng minh trước nếu bên bị đơn lại
phản bác và đã chứng minh cho những phản bác, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ
lại được chuyển lại cho nguyên đơn để thực hiện việc bảo vệ cho mình.
Chứng minh tại tòa án là một quá trình gồm hàng loạt các việc "chuyển"
nghĩa vụ chứng minh cho đến khi không bên nào còn có thể bác bỏ hay đề
xuất gì thêm. Kết thúc việc "chuyển" đó, tòa án sẽ ra phán quyết về vụ án.
1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Khác với các bên trong vụ án, tòa án là chủ thể trung lập, họ nhận định
sự việc và đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Những đòi hỏi của pháp chế
buộc tòa án phải có trách nhiệm đưa ra bản án phù hợp với thực tế khách quan
và đúng pháp luật. Để bản án của mình phù hợp với thực tế khách quan, tòa
án luôn bị đặt lên vai một nghĩa vụ là xác định sự thật hay theo cách gọi của
khoản 1, Điều 225 LTTDS 2015 là "xác định các tình tiết của vụ án". Tuy
thế, cách thức xác định sự thật của tòa án như thế nào lại phát sinh nhiều quan
điểm khác nhau mà lịch sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai trường phái chính:
Tố tụng tranh tụng và Tố tụng thẩm vấn (hay xét hỏi).
Những nước theo truyền thống thông luật thì cho rằng, sự nhận định
16
của tòa án chỉ thuần túy dựa trên những gì mà đương sự, người truy tố chứng
minh. Tòa án là một cơ quan thuần túy phân xử và độc lập với các bên cũng
như những ràng buộc chính trị, do đó, tòa án sẽ nhận định và phán quyết cho
bên nào chứng minh có lý hơn, đầy đủ hơn. Tòa sẽ xác định sự thật vụ án trên
cơ sở của kết quả chứng minh. Đây là hệ thống tố tụng tranh tụng.
Những nước theo truyền thống dân luật thì lại cho rằng, ngoài tư cách
là một cơ quan độc lập, tòa vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật chung.
Và do đó, khi các bên trong vụ kiện tuy đã chứng minh cho các yêu cầu kiện
cáo của mình, tòa vẫn còn nguyên vẹn nghĩa vụ xác minh sự thật khách quan.
Theo đó, tòa án sẽ phải điều tra, làm rõ những tình tiết của vụ án trước khi
đưa ra phán quyết, những kết quả chứng minh của đương sự chỉ có ý nghĩa
tham khảo. Đây là hệ thống tố tụng thẩm vấn. Mỗi một hệ thống đều có
những ưu điểm và nhược điểm cố hữu của nó. Hơn nữa, cũng đã khá lâu, trên
thế giới người ta không còn so sánh hệ thống tố tụng nào ưu việt hơn trong
việc bảo vệ quyền của dân chúng cũng như bảo vệ trật tự pháp luật. Vấn đề
đặt ra đối với giới học giả cũng như những người làm luật là tìm những ưu
điểm của mỗi hệ thống tố tụng để kết hợp lại trong luật tố tụng của quốc gia
mình. Hiện tại, đã có sự giao thoa của cả hai hệ thống tố tụng. Các đương sự,
người đi kiện có bổn phận cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu,
khẳng định hay những phản bác của mình, nguyên tắc tranh tụng được coi là
chủ đạo trong tố tụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc thẩm vấn cũng vẫn còn được
áp dụng ở mức độ hạn chế [2]. Người ta đã tìm thấy trong tố tụng của các
nước theo hệ thống thông luật có nhiều hơn các quy định về chứng cứ viết,
các tài liệu giám định. Tòa án common law cũng đã tiến hành lấy lời khai
nhân chứng mà không cần đến một đề nghị nào của các bên khi có mâu thuẫn
hoặc tòa nhận định thấy chưa thể đủ căn cứ để phán quyết. Vài thay đổi theo
hướng đó cũng đã xuất hiện trong tố tụng của các nước theo hệ thống dân
17
luật, không còn thấy hình ảnh của các quan tòa lắm lời mà thay vào đó là sự
tranh luận miệng của các bên. Tự định đoạt và tranh tụng đã là một trong
những nguyên tắc tố tụng cơ bản của người châu Âu lục địa và những câu
chuyện liên quan đến nghĩa vụ điều tra của tòa án chỉ dành cho những vụ án
đặc biệt như bảo vệ quyền trẻ em. Ngoài ra, việc điều tra bổ sung của tòa án
đã chỉ còn là những ngoại lệ được áp dụng với những điều kiện chặt chẽ [2].
Thực tế, việc phân định nghĩa vụ chứng minh giữa đương sự và tòa án
không là một nội dung của một lý thuyết nào về nghĩa vụ chứng minh đã tồn
tại trên thế giới. Người ta chỉ đặt vấn đề nghĩa vụ xác định sự thật vụ án giữa
tòa án với đương sự. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh mà chỉ có nghĩa
vụ xác định sự thật vụ án và ra phán quyết. Ở đâu đó, trong những trường hợp
nhất định, tòa án thực hiện việc thu thập chứng cứ nhằm làm rõ hơn sự thật
trong nhận định của họ thì cũng không phải là hành vi chứng minh, đó chỉ
được coi là ngoại lệ của nghĩa vụ xuất trình chứng cứ - một phần của nghĩa vụ
chứng minh. Ngoại lệ này nhằm giúp đỡ đương sự gặp bất lợi trong việc tiếp
cận các nguồn chứng cứ và hình thành nên hoạt động điều tra của cơ quan giải
quyết khiếu nại, kiện cáo.
1.1.4. Các cấp độ chứng minh
Các chủ thể chứng minh trong quá trình áp dụng pháp luật sẽ xoay
quanh các giả thuyết về một sự thật đã xảy ra trong quá khứ. Một đối tượng
được đánh giá là đúng, là khách quan ở thời điểm này cũng có thể là sai lầm ở
một thời điểm khác khi xuất hiện những tình huống, điều kiện mới. Quan
niệm về cái “thật" với tính cách là một thực tại khách quan sẽ bị thách thức
bởi những trường hợp người ta phát hiện có những chứng cứ phủ định những
phép chứng minh đã hoàn tất. Theo đó, cái thật ở đây là sự đúng đắn trong
nhận thức với những điều kiện xác định và được kiểm tra bằng các luật logic.
Một khi không thể chứng minh một đối tượng là không thật, thì nó phải là thật.
Do đó, cái “sự thật" của các cáo buộc là cái “thật trong tư duy" chứ không
18
phải là cái thật của thực tại khách quan.
Phép chứng minh sẽ hoàn tất chỉ đến khi người ta thuyết phục được cơ
quan áp dụng pháp luật tin tưởng rằng giả thuyết đó là đúng. Chủ thể chứng
minh sẽ thuyết phục bằng những bằng chứng cụ thể, những lập luận phù hợp
với các quy luật logic được thừa nhận chung và những viện dẫn các quy định
của pháp luật một cách rõ ràng. Thông thường, nghĩa vụ chứng minh có các
cấp độ sau đây:
* Không còn nghi ngờ hợp lý
Đây được xem là cấp độ cao nhất của chứng minh và được áp dụng
trong những trường hợp kết quả chứng minh có ảnh hưởng đến sinh mạng,
thân phận chính trị, tự do của con người như tố tụng hình sự. Một lẽ hiển
nhiên là bất kỳ nhà làm luật nào cũng đều mong muốn khi kết tội một người,
anh ta chắc chắn đã thực hiện một tội phạm. Thế nhưng xét về tổng thể, đây
lại là điều không tưởng và không cần thiết bởi sự thật trong chứng minh chỉ là
sự thật trong nhận thức như đã trình bày ở trên. Như vậy, một khi không thể
đặt một giả thuyết (hay nghi ngờ) logic nào khác ngoài việc cho rằng bị cáo
đã thực hiện một tội phạm thì có nghĩa là trong giới hạn nhận thức của con
người, anh ta đã phạm tội. Nghĩa vụ chứng minh anh ta có tội của công tố đã
hoàn tất. Trong chừng mực vẫn có thể đặt ra được những khả năng hợp lý
khác ngoài việc phạm tội của bị cáo, về nguyên tắc, tòa phải tuyên anh ta
không có tội. Nếu nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có
phán quyết chính thức có hiệu lực của tòa án về việc phạm tội của anh ta được
gọi là nguyên tắc "suy đoán vô tội" thì việc tòa án nhận định không tồn tại
một nghi ngờ hợp lý về việc có tội của anh ta có thể được coi là nguyên tắc
"suy đoán có tội" trong luật hình sự các nước áp dụng hệ thống tranh tụng có
từ thời trung cổ [2].
* Chứng cứ rõ ràng và thuyết phục
19
Đây là cấp độ thấp hơn của việc không còn nghi ngờ hợp lý. Các chứng
cứ và lập luận đưa ra có thể sắp xếp thành những suy luận có tính logic về sự
thật vụ án. Tuy nhiên, chứng cứ rõ ràng và thuyết phục không loại trừ khả
năng vẫn còn có thể đặt ra một giả thuyết khác với giả thuyết mà chủ thể có
nghĩa vụ chứng minh đã đưa ra. Cấp độ chứng minh này được sử dụng phổ
biến trên thế giới, kể cả trong tố tụng hình sự, đặc biệt là các nước theo truyền
thống luật dân sự. Chẳng hạn ở Đức, tòa án sẽ quyết định một cách độc lập về
kết quả chứng minh trên cơ sở những tranh luận cụ thể tại phiên tòa. Người
Pháp cũng có quy định tương tự tại Điều 304 trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đây cũng là cấp độ chứng minh được thể hiện trong luật tố tụng ở Việt Nam,
căn cứ vào các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ và kết quả tranh tụng, tòa
án nhận định về vụ án và ra phán quyết.
* Cân đối khả năng hay xử thắng cho bên chiếm lợi thế về chứng cứ
Đây là mức thấp nhất của nghĩa vụ chứng minh. Thông thường, khi kết
thúc tranh tụng, tòa sẽ xử cho bên có chứng cứ mạnh hơn bất luận sự thật như
thế nào. Nó thường được áp dụng trong các vụ việc về gia đình, chẳng hạn
trong vụ tranh chấp quyền nuôi con, bên nào chứng minh mình có điều kiện tốt
hơn bên kia trong việc chăm sóc đứa trẻ sẽ giành chiến thắng, kể cả trong
trường hợp người thắng kiện có điều kiện cũng rất thiếu thốn về vật chất, dù là
tốt hơn bên kia. Trong những vụ kiện như thế này, người có nghĩa vụ chứng
minh được giải phóng khỏi nghĩa vụ khi chứng minh được lợi thế của mình.
Như vậy, tùy từng cấp độ chứng minh, yêu cầu của các bên đưa ra sẽ
được Hội đồng xét xử cân nhắc và từ đó tìm ra phương hướng giải quyết vụ
việc dân sự.
1.1.5. Sự cần thiết của việc thực hiện hoạt động chứng minh trong
pháp luật tố tụng dân sự
Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
20
quan), người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự; các cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích
của người khác, Tòa án và trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát đều là chủ thể
chứng minh. Tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng của các chủ thể này và ở
từng giai đoạn tố tụng cụ thể, các chủ thể chứng minh có quyền, nghĩa vụ
tham gia vào quá trình chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ việc ở những
phạm vi và mức độ khác nhau. Cụ thể:
* Đối với đương sự
- Nguyên đơn
Về nguyên tắc, nguyên đơn đưa ra yêu cầu thì phải chứng minh cho yêu
cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham
gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để chứng minh, bởi vì bị
đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến
khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Cung cấp chứng cứ chỉ là
một trong các biện pháp chứng minh của đương sự. Bên cạnh đó, trong tiến
trình phát triển của hoạt động chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của
các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có
thể di chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác; từ
nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu
cầu của nguyên đơn.
Nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về bên đương sự nào muốn viện dẫn
những sự kiện, tình tiết để làm cơ sở cho những yêu cầu hoặc phản đối của
mình. Kể từ khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu đối với nguyên
đơn là nghĩa vụ. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà không chứng minh được
yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực tế hoặc đưa ra những chứng cứ
21
không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có
tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên
đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ.
Ngoài các trường hợp trên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn dự
liệu trường hợp, nếu một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối các
tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên
đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh. Qua đó, có
thể thấy rằng, sự thừa nhận của một bên đương sự sẽ có giá trị miễn nghĩa vụ
chứng minh cho đương sự phía bên kia. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đương
sự có thể thừa nhận một cách giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ pháp luật, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thể khác. Chính vì thế,
tùy thuộc từng trường hợp cụ thể, Tòa án vẫn có thể cho tiến hành chứng
minh các tình tiết, sự kiện mà các đương sự thừa nhận. Ngoài ra, so với Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung BLTTDS 2011) chỉ quy định
về các tình tiết, sự kiện mà đương sự đưa ra thì Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 mở rộng thêm các yếu tố như tài liệu, văn bản hay kết luận của cơ quan
chuyên môn đều có thể được đương sự đưa ra, để đương sự phía bên kia thừa
nhận hoặc không thừa nhận. Trên cơ sở đó, Tòa án sẽ quyết định có hay
không việc phải tiến hành chứng minh đối với các tài liệu, văn bản hay kết
luận của cơ quan chuyên môn.
Trong trường hợp đương sự vắng mặt hoặc có mặt nhưng nếu có người
đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện cũng sẽ được coi
là sự thừa nhận của đương sự. Điều này đồng nghĩa, sự thừa nhận hoặc không
phản đối của người đại diện đối với các tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản hay
kết luận của cơ quan chuyên môn mà đương sự phía bên kia đưa ra, sẽ có thể
là cơ sở để đương sự phía bên kia, không cần phải chứng minh tính hợp pháp
và tính có căn cứ của chúng. Tuy vậy, cơ sở của điều này còn tùy thuộc vào
22
phạm vi đại diện của đương sự với người đại diện của họ [17].
- Bị đơn
Là người bị kiện nên họ có quyền chứng minh để tự bảo vệ quyền lợi
của mình trước Tòa án. Tuy nhiên, việc chứng minh sẽ trở thành nghĩa vụ đối
với bị đơn nếu:
Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn
đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp bị đơn đưa
ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp
chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có
đúng đắn không? Khi đó nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó
của bị đơn, đồng thời phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình;
Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn chỉ
chấp nhận phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu đó hoặc không
chấp nhận hoàn toàn) hoặc thậm chí chỉ trong trường hợp bị đơn đang nắm
giữ chứng cứ liên quan đến nguyên đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ
có nghĩa vụ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Chẳng hạn,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập tham gia vào vụ
kiện giữa nguyên đơn và bị đơn, họ cho rằng đối tượng đang tranh chấp
là thuộc sở hữu của họ chứ không phải thuộc sở hữu nguyên đơn hay bị đơn.
Trong trường này, nghĩa vụ chứng minh (nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham
gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận...) của họ cũng giống như
nghĩa vụ của nguyên đơn khi chứng minh cho yêu cầu của mình.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc
lập, dù đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, họ đều có nghĩa cung cấp chứng
cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị đơn vì lợi ích của họ liên quan đến vụ
23
kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết,
sự kiện của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà họ đứng về phía
đương sự đó, hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ đối với một trong
các bên đương sự; hoặc chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối
về việc kiện đòi hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ [33].
* Đối với các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh khác
- Người đại diện của đương sự
Về bản chất, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người
thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Chính
vì vậy, người đại diện của đương sự thường được ví von như diễn viên đóng
thế thay cho đương sự để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong
suốt quá trình tham gia tố tụng. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm
người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. (Điều 85-
BLTTDS 2015). Ngoài hai loại đại diện trên còn Đại diện do tòa án chỉ định
(Điều 88- BLTTDS 2015) cụ thể:
1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện
theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại
diện để tham gia tố tụng.
2. Đối với vụ việc lao động mà có đương sự thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều này hoặc người lao động là người
chưa thành niên mà không có người đại diện và Tòa án cũng
không chỉ định được người đại diện theo quy định tại khoản 1
Điều này thì Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại
24
diện cho người lao động đó [30].
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp
luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với
người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình
đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS
2015), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng
là người đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 85 BLTTDS
2015), người được tòa án chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng
(Điều 88 BLTTDS 2015).
Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự
thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy
quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi đại
diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện
một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy
quyền cho người khác tham gia thay mình.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân
sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định
tại BLTTDS 2015:
1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình
đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản
ủy quyền [30, Điều 86].
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền
25
trong việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến
đó. Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương
sự thì vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò
chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định
không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp
luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định
người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay
mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương
sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách
đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh
hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ
gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên
nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên
hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 1 Điều
87 BLTTDS 2015). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể
nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt
động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được
tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan
đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền và nghĩa vụ (Điều 76 BLTTDS 2015)
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi
26
được “nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản
yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên
họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có
nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể
không có mặt tại phiên tòa (điểm đ khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015).
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của
người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ
cùng thuộc nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương
sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng
minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa
vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự.
- Viện kiểm sát
Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là
tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể:
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật. (Khoản 1, Điều 21 BLTTDS 2015)
Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà “đối với những vụ án do
Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát
kháng nghị bản án, quyết định của Toà án” (Khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015)
cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2
Điều 97 BLTTDS 2015 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một
hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 98,
khoản 2 Điều 100, điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS 2015. Khi đó, tòa án
27
nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường
hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc
thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái
thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái
thẩm) trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét
thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 279, khoản 5 Điều 333 BLTTDS 2015, có nhiệm
vụ tham gia phiên tòa (khoản 1 Điều 232 BLTTDS 2015), có quyền phát biểu ý
kiến (điểm b khoản 1 Điều 248, khoản 1 Điều 341, Điều 357 BLTTDS 2015)…
Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt
động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của
Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và
nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện
kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện
quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu
nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện
kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế
của nhà nước - đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực
hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt
động chứng minh của mình [31].
- Tòa án
Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ
cụ thể của tòa án khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án - thể hiện cụ thể trong
một vụ án dân sự là thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ
trung lập (bởi đây là những tranh chấp mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng
chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương
28
sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của
đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của
mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ
tùy thuộc vào việc có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích
của việc chứng minh là khác nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính
khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra phải công bằng với cả hai bên
trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự lại chứng minh
cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay phản
yêu cầu của đương sự bên kia.
Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ
như: tự mình tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định
tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của
HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh. “Trường hợp tài liêu, chứng cứ
đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì thẩm phán
yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ (khoản 1 Điều 96
BLTTDS 2015)” để giải quyết. Theo yêu cầu của đương sự tòa án sẽ quyết
định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai của
người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối
chất… có quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 100, 101, 102
BLTTDS 2015, đây là điều hiển nhiên vì tòa án là người tiến hành hoạt động
lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử (HĐXX) có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự,
người làm chứng…
Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã
làm rõ, không có giai đoạn thu thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có
giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên cũng không thể nào nói
29
rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự thực hiện mỗi người một
nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng cứ tại phiên tòa
cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa án
cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập
chứng cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung
cho nhau nhưng vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ
quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh
được hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của tòa án“lý luận và
thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án đã cho thấy, việc không
chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc
ra một quyết định không có cơ sở làm xâm phạm đến quyền lợi của các bên
đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ” [31].
Tóm lại, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động
chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và
bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.
1.1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nghĩa vụ chứng minh
trong tố tụng dân sự
* Cơ sở lý luận
Chứng minh trong tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành áp dụng đối với các đương sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng khác nhằm xác định sự thật của vụ việc, làm
cho thấy rõ là có thật các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ
việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án
Bản chất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ việc dân sự: có hay không không có, tồn tại hay
không tồn tại các sự kiện, tình tiết mà các bên nêu ra làm cơ sở cho yêu cầu
của mình trước Tòa án. Chỉ trên cơ sở các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự
30
đã được làm rõ, Tòa án mới có thể áp dụng pháp luật phù hợp để giải quyết vụ
việc: chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của các bên. Tòa án làm sáng tỏ sự thật
khách quan của việc dân sự bằng các chứng cứ do các bên thu thập, đề xuất
và được kiểm tra đánh giá theo trình tự do luật định.
Hoạt động thu thập, đề xuất, kiểm tra và đánh giá chứng cứ nhằm làm
sáng tỏ các tình tiết sự kiện cụ thể để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự của Tòa án và những người tham gia tố tụng khác được gọi là
hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự.
Chứng minh là hoạt động tố tụng do Tòa án và các chủ thể tham gia tố
tụng tiến hành, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và yêu cầu, phản bác
yêu cầu của các bên tham gia tố tụng. Hoạt động chứng minh trong tố tụng
dân sự một dạng của hoạt động nhận thức thế giới khách quan. Hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức đi từ thấp đến
cao, là sự thống nhất biện chứng của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động tư duy và
hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham
gia tố tụng khác đại diện hợp pháp của họ. Hoạt động chứng minh là một quá
trình bao gồm các giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh
giá chứng cứ [39].
* Cơ sở thực tiễn
Dưới góc độ thực tiễn thì chứng minh là một quá trình nhận thức kéo
dài xuyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế tiếp nhau liên tục là thu thập, cung
cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn
sau, giai đoạn sau củng cố và đánh giá giai đoạn trước [31] chứng minh trong
Tố tụng dân sự chính là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi
luật tố tụng dân sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi chủ thể có
quyền và nghĩa vụ cụ thể và kết quả của hoạt động này chính là Bản án hoặc
31
quyết định của Tòa án mang tính chất bắt buộc áp dụng, là công cụ để tòa án
có thể xác định chính xác sự việc đã sảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra
phán quyết giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, chính
xác và khách quan.
Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện duy nhất để họ có thể
bảo vệ được các quyền và lợi ích của mình. Khi vụ việc dân sự được tòa án
thụ lý và giải quyết cũng đồng nghĩa với việc bên nguyên đơn cho rằng quyền
và lợi ích của mình bị xâm phạm, bên bị đơn không thừa nhận các quyền và
lợi ích đó của nguyên đơn nên yêu cầu tòa án phân xử.
Trong quá trình tố tụng có thể phát sinh nhiều chủ thể khác, khi họ đưa
ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh cho
yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, là có thật. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự là chứng minh giả thuyết do các bên đưa ra. Cho dù
giả thuyết đó có được công nhận là đúng, là có thật hay không thì toàn bộ quá
trình đó vẫn được coi là hoạt động chứng minh.
Tóm lại, hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình
gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng
trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho
yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy
định của pháp luật.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển nghĩa vụ chứng minh trong tố
tụng dân sự
Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự được hình thành và phát
triển từ rất lâu tại Việt Nam. Trong đó, tùy theo từng giai đoạn lịch sử, quan
niệm và quy định về nghĩa vụ chứng minh lại có sự khác nhau.
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Năm 1858 thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời
32
kỳ xã hội Việt Nam “thuần” phong kiến chuyển sang chế độ thực dân nửa
phong kiến. Chế độ phong kiến qua đi nhưng vẫn để lại những dấu vết đậm
nét về hoạt động lập pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mô và
hoàn thiện nhất vào lúc bấy giờ phải kể đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình
Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ XV –
XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề
của tư tưởng phong kiến nên các bộ luật này mang tính chất hà khắc, vai trò
của con người, của công dân, của đương sự không được đề cao, thủ tục xét
hỏi, thẩm vấn được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng mang tính chất
hình sự. Vai trò chứng minh của đương sự trong vụ kiện dân sự được quy
định một cách tản mạn và không rõ ràng. Tuy vậy, đây cũng là những viên
gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định vai trò chứng minh của đương
sự sau này. Lần đầu tiên trong bộ “Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ” quy định
những người kiện tụng có đơn cáo trạng khiếu nại về: ruộng đất không xuất
trình văn khế, cưới xin không sính lễ, treo hỏi, tài sản không có trúc thư, tiền
nợ không có văn tự, đánh nhau không có biên bản thương tích, án mạng
không có nghiệm án, trộm cướp không có tang vật, cờ bạc không có tang
chứng, ức hiếp không phải là người hiền quý danh vọng thì các nha môn
không được khám tụng. Nếu nhận bừa thì gom xét sự việc trước sau luận bác
đi Vai trò của đương sự lần đầu tiên được nhắc đến một cách rõ ràng trong
việc chứng minh yêu cầu của mình bằng cách cung cấp chứng cứ trong những
vụ việc cụ thể, nếu khi yêu cầu giải quyết mà đương sự không đưa ra được
bằng chứng thì quan xét xử sẽ bác bỏ đơn kiện [40]. Đây là quy định được áp
dụng phổ biến khi có việc thưa kiện. Nó được áp dụng rộng rãi khi giải quyết
các vấn đề kiện tụng thuộc cả luật hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình.
Bằng hai bản thỏa ước ngày 5/6/1882 cắt đứt miền nam bao gồm 6 tỉnh
để sát nhập vào lãnh thổ pháp gọi là Nam Kỳ, thỏa ước ngày 6/6/1884 biến
33
miền Bắc và miền Trung thành lãnh thổ bảo hộ của Pháp và đạo dụ năm 1898
của Hoàng đế Đồng Khánh nhượng 3 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và
Đà Nẵng thành đất nhượng địa cho Pháp, Việt Nam chính thức bị thực dân
Pháp đô hộ. Khi đến nước ta chúng thiết lập một chế độ đô hộ hà khắc nhằm
bóc lộ và vơ vét của cải đặc biệt thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa trên
quy mô lớn. Nhằm phục vụ cho mưu đồ của mình chúng thay đổi nước ta
thành một nước thực dân nửa phong kiến. Việc đầu tiên là ban hành các bộ
luật nhằm ổn định tình hình trong nước, thiết lập sự đô hộ. Liên quan đến hoạt
động tố tụng dân sự, trong giai đoạn này chúng ban hành một số bộ luật khác
nhau như Bộ dân sự tố tụng Nam Kỳ năm 1910, Bộ dân sự tố tụng Bắc kỳ
năm 1917, Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố
tụng bắc kỳ năm 1921, và Bộ Hộ sự và thương sự Trung Kỳ năm 1942… Các
bộ luật này mang tư tưởng phong kiến và dựa trên khuôn mẫu của Bộ luật
dân sự Pháp 1807. Trong giai đoạn này, quyền con người, quyền công dân
không được để ý đến các quy định tố tụng chủ yếu là tạo điều kiện cho hoạt
động bóc lột của thực dân nên vai trò chứng minh của đương sự không được
quan tâm nhằm duy trì sự bất bình đẳng. chỉ tồn tại vài quy định nhỏ
như “Về phương diện dẫn chứng… buộc bên đương sự nào nại ra phải có
nghĩa vụ dẫn chứng, chứng minh” và “Các đương sự trong một vụ kiện phải
dẫn chứng. Mỗi người muốn viện dẫn một sự kiện hay một hành vi pháp lý
phải chứng minh sự kiện, hành vi đó” [7]. Đây là một quy định hiếm hoi có
thể tiếp cận được bởi các văn bản thời kỳ này được viết hoàn toàn bằng tiếng
Pháp, không dịch ra chữ Quốc Ngữ cũng như không có các công trình nghiên
cứu chi tiết. Mặt khác, giai đoạn này sử dụng một cách đồng loạt các án lệ nơi
tòa án nên các quy tắc thành văn “chủ yếu vạch sẵn tỷ mỉ những lề lối phải
theo như một thông tư hành chính chứ ít có điều khoản chính xác định thức
một nguyên tắc pháp lý tổng quát” – mang tính chất thủ tục [8].
34
Đồng thời với đó là việc duy trì hai hệ thống tòa án khác nhau với việc
phân chia hai loại đương sự khác nhau. Tòa án do Pháp lập xét xử các công
dân của Pháp hoặc những người được biệt đãi như người pháp, tòa án của
Việt Nam xét xử những đương sự là người Việt nhưng vẫn bị những nhà cầm
quyền người Pháp thâu tóm và thống trị, Việt Nam trong giai đoạn này
“không có một nền tư pháp thuần túy bởi vì tất cả các quyền hành hư hay
thực đều do nhà cầm quyền Pháp nắm giữ” [19].
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhà nước dân chủ
đầu tiên ở khu vực Đông Nam á được thành lập. Đánh dấu sự thay đổi toàn
diện về mọi mặt trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tố tụng.
Ngày 10/10/1945 nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm
thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà không trái với bản chất của
nhà nước cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp
dụng các quy phạm pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập
đến việc có cho tiếp tục áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay
không. Tiếp theo đó, nhà nước ban hành nhiều quy định khác nhau liên quan
đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Sắc
Lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán,
Sắc Lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm quyền của tòa án các cấp,
Sắc Lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ xung sắc lệnh số 15, Sắc Lệnh 85/SL
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc Lệnh 159/SL
ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn … các quy định về vai trò chứng
minh của đương sự được quy định khá nhiều thể hiện sự quan tâm của nhà
nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng.
Khi đương sự có yêu cầu giải quyết thì buộc phải dẫn ra những chứng
cứ bảo vệ cho yêu cầu của mình, nguyên đơn phải nêu rõ những vấn đề yêu
cầu, bị đơn phải nêu rõ mình có chấp nhận hay không hoặc chấp nhận yêu cầu
35
của nguyên đơn đến mức nào và cũng có nghĩa vụ dẫn chứng.
Tại thông tư số 06 – TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn điều tra trong tố
tụng dân sự quy định:
Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, và người dự sự) có quyền
đề xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của
mình… trong điều kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật và
trình độ văn hóa của đại đa số các đương sự còn thấp, các đơn kiện
và lời trình bày của họ không rõ ràng và đầy đủ, cho nên các tòa án
phải tích cực giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền lợi
hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu và giúp
cho họ biết đề xuất những chứng cứ để chứng minh.
Quy định này đã đưa đương sự về vị trí trung tâm của hoạt động tố
tụng, tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cầu, giúp đỡ đương sự hiểu
biết pháp luật và có thể đưa ra được những yêu cầu chính đáng cũng như hỗ
trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.
Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo
thông tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977 của tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn: “Để bảo vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng
cứ nhưng tòa án nhân dân không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương
sự và những giấy tờ mà họ xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải
dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự thật”. Mặc dù đương sự có
quyền đề xuất những chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng tòa
án với vị trí của cơ quan xét xử không được thiên vị bất cứ bên nào mà phải
xem xét một cách toàn diện cũng như tìm mọi biện pháp để có thể làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền lợi của các bên.
1.2.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Năm 1989 được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải
36
quyết các vụ án dân sự, tiếp theo đó là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
1996. Đây là ba pháp lệnh tiền thân của bộ luật tố tụng dân sự hiện nay, nó đã
bước đầu khắc phục được tính chất tản mạn của các quy phạm pháp luật, thu
trình tự giải quyết vụ việc về những văn bản thống nhất và có giá trị cao. Tuy
nhiên, ba pháp lệnh này lại mang tính chất chung chung định hướng, các quy
định còn chưa thực sự rõ ràng, vẫn chưa thể thống nhất các vụ việc dân sự về
một trình tự thủ tục chung gây khó khăn cho đương sự và tòa án. Về vai trò
chứng minh của đương sự trong các vụ việc dân sự được quy định trong ba
pháp lệnh này còn chưa nhiều và thiếu đi cơ chế bảo đảm do vẫn tồn tại thủ
tục điều tra giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án – hay nói cách khác, trong giai
đoạn này, vai trò chứng minh vẫn chủ yếu thuộc về tòa án.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được quy định thành một
nguyên tắc cụ thể “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh
để bảo vệ quyền lợi của mình” (Điều 3 PLTTGQVAKT) nguyên tắc này đã
tạo cơ sở quan trọng để đương sự chủ động thực hiện nghĩa vụ chứng minh
của mình. Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động chứng minh của
đương sự đã được cụ thể hóa:
Như vậy, đương sự có quyền thu thập chứng cứ, có quyền cung cấp
những chứng cứ đó cho tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, có quyền được biết về các tài liệu, chứng của của đương sự khác cũng
như được sao chép các tài liệu đó. Đồng thời là quyền thì đây cũng là nghĩa
vụ của đương sự.
Khi tiến hành khởi kiện, “Đơn kiện phải do nguyên đơn hoặc người đại
diện của nguyên đơn ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh
yêu cầu của nguyên đơn” (khoản 2 Điều 32 PLTTGQTCLĐ). Đơn kiện của
nguyên đơn phải có đầy đủ các nội dung theo quy định cũng như nội dung các
37
tài liệu chứng cứ để làm cơ sở cho yêu cầu của mình. Nếu không đầy đủ sẽ là
một trong những căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 33
PLTTGQTCLĐ. Bị đơn có quyền được biết nội dung đơn kiện của nguyên đơn
cũng như có quyền được đưa ra ý kiến của mình về đơn kiện đó, nếu không đồng
ý thì có nghĩa vụ chứng minh phản yêu cầu đó (Điều 34 PLTTGQVAKT).
Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự có thể tự mình hoặc nhờ
người khác thay mặt mình tham gia quá trình giải quyết “Đương sự là công
dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của pháp lệnh này
có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ
việc ly hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật” (Điều 22 PLTTGQVADS). Quy
định này nhằm khắc phục tình trạng hạn chế về khả năng tố tụng của đương
sự, giúp họ có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và nghĩa vụ của mình trong
điều kiện còn hạn chế nhiều về hiểu biết.
Quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ diễn ra chủ yếu tại phiên tòa,
các bên đương sự có quyền tham gia phiên tòa, được quyền trình bày quan
điểm của mình và nghe trình bày của phía bên kia, được quyền đề xuất các
câu hỏi thông qua hội đồng xét xử, được quyền tranh luận tại phiên tòa. Quá
trình xét xử sơ thẩm kết thúc, đương sự có quyền kháng cáo. Đơn kháng cáo
phải ghi rõ nội dung kháng cáo và lý do. Các bên đương sự có quyền cung
cấp, bổ xung chứng cứ ở giai đoạn phúc thẩm, có quyền tham gia phiên tòa
phúc thẩm, nghe trình bày, tham gia hỏi, tranh luận như phiên tòa sơ thẩm, tại
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm “Nếu tòa án đó triệu tập người tham gia tố
tụng thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về
kháng nghị” (khoản 3 Điều 76 PLTTGQCVADS)…
Nói tóm lại, Các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân
sự, pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế thiếu các quy định về chứng cứ, quy trình chứng
38
minh, phân loại chứng cứ, phân định giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
Vấn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi bộ luật TTDS 2004
có hiệu lực còn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn trên cơ sở
của một nền kinh tế, xã hội chưa phát triển, các giao lưu dân sự còn đơn giản,
tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những hạn
chế chung về chứng minh, pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của
đương sự cũng như không tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ chứng minh của mình.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
BLTTDS năm 2004 ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng về thủ tục tố
tụng nói chung và về chứng cứ và chứng minh nói riêng. Chứng cứ và chứng
minh được tách bạch thành Chương riêng quy định từ Điều 79 đến Điều 98.
Trong những giai đoạn trước nếu như nguồn chứng cứ chỉ được nói đến
chung chung thì đến BLTTDS năm 2004 nguồn chứng cứ đã liệt kê cụ thể,
rõ ràng, đầy đủ. Đồng thời, BLTTDS năm 2004 cũng đã hướng dẫn các
phương thức để chủ thể chứng minh có thể thu thập tài liệu, chứng cứ,
phương tiện chứng minh.
Về cơ bản BLTTDS 2004 đã tháo gỡ phần nào những vướng mắc, bất
cập của pháp luật tố tụng dân sự thời gian trước đó. Nhờ đó, nhận thức của các
cá nhân, các cơ quan, tổ chức về các hoạt động thực tiễn trong việc giải quyết
vụ án cơ bản đã được nâng lên. Đặc biệt, các chủ thể tiến hành tố tụng đã nhận
thức rõ quyền hạn, trách nhiệm của mình tới đâu trong phạm vi thu thập chứng
cứ và xem xét chứng cứ để giải quyết vụ án. Còn về phía các chủ thể tham gia
tố tụng cũng nhận thức rõ hơn về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình.
BLTTDS 2004 xây dựng hệ thống về chứng minh và chứng cứ khá chặt
chẽ các vấn đề như: Chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương pháp thu thập chứng
cứ, đánh giá chứng cứ… cũng đã được BLTTDS 2004 cũng hướng dẫn đầy
39
đủ ngay từ giai đoạn đầu như đương sự nộp đơn khởi kiện, Tòa án thụ lý đến
việc ra các quyết định tố tụng, sau đó là bản án dân sự và cuối cùng là các thủ
tục kháng cáo, giám đốc thẩm, tái thẩm để xem xét lại vụ án. BLTTDS 2004
không còn quy định về việc điều tra chứng cứ như quy định của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 mà BLTTDS 2004 quy định cụ thể
những trường hợp Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để
thu thập tài liệu, chứng cứ. Chủ thể cá nhân, các cơ quan tham gia tố tụng có
quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án, nếu không nộp hoặc nộp
không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy
đủ đó. Bộ luật đề cao việc chủ động thu thập chứng cứ của các đương sự để
chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như để bảo vệ lợi ích của mình không
bị người khác xâm phạm. Khi các đương sự không thể tự mình tiếp cận, thu
thập chứng cứ có thể yêu cầu Tòa án giúp mình thu thập tài liệu, chứng cứ.
Về phía các cơ quan chức năng cũng phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan tố tụng và tạo điều kiện cho các cá nhân khi có nhu cầu thu thập chứng
cứ, có như vậy mới đề cao được tính dân chủ, nâng cao hiệu quả, rút ngắn
thời gian giải quyết vụ án.
BLTTDS 2004 vấp phải một số vướng mắc về vấn đề chứng cứ, chứng
minh như sau:
Theo quy định của điểm d khoản 2 Điều 58 của BLTTDS
2004, đương sự có quyền và nghĩa vụ đề nghị Tòa án xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện
được. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự, tuy
nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp, đặc biệt là ở những vùng sâu
vùng xa, do trình độ nhận thức, nhiều đương sự không biết chữ,
hoặc chỉ biết ký nên Tòa án gặp nhiều khó khăn khi yêu cầu đương
sự làm bản tự khai; nhiều vụ án đương sự không chấp hành yêu cầu
giao nộp chứng cứ của Tòa án hoặc không yêu cầu Tòa án thu thập
40
chứng cứ dẫn đến việc Tòa án không thể giải quyết vụ án một cách
chính xác, khách quan. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp các đương
sự không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, không đến Tòa án
làm việc dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến
chất lượng phiên tòa, không bảo đảm thời hạn tố tụng.
Trên cơ sở này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành
Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS 2004 về chứng minh và chứng cứ. Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể, rõ
hơn những quy định về chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS 2004.
Dù có những bất cập nhưng hơn hết, BLTTDS 2004 ra đời đã thể hiện
rõ sự thay đổi trong trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Các nội dung
liên quan đến nghĩa vụ chứng minh đã được quy định chi tiết, cụ thể và rõ
ràng hơn. BLTTDS 2004 ra đời và đưa vào thực tiễn xét xử dẫn đến nhiều thay
đổi quan trọng trong việc xét xử vụ án dân sự góp phần nâng cao nhận thức của
người dân, đưa đất nước ổn định và phát triển trong những năm vừa qua.
1.2.5. Pháp luật Việt Nam hiện nay
Kế thừa và phát triển từ BLTTDS 2004 trước đó, BLTTDS 2015 đã có
nhiều thay đổi quan trọng trong đó có sự thay đổi trong phần Chứng cứ và
chứng minh. Nếu như theo quy định Điều 82 BLTTDS 2004 sửa đổi năm
2011 thì nguồn chứng cứ bao gồm: “1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được; 2. Các vật chứng; 3. Lời khai của đương sự; 4. Lời khai của người làm
chứng; 5. Kết luận giám định; 6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; 7.
Tập quán; 8. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản”; Ngoài các
nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 82 của BLTTDS 2004 thì Điều 94 của
BLTTDS 2015 bổ sung nguồn chứng cứ mới là: Dữ liệu điện tử; Kết quả định
giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý
do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực để phù hợp với
quy định của các Luật chuyên ngành như: Luật giao dịch điện tử, Luật giá,
41
Luật công chứng, Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.
Với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của công nghệ thông tin và
truyền thông thì các giao dịch sử dụng dữ liệu điện tử ngày càng phổ biến. Do
đó, việc BLTTDS 2015 bổ sung thêm loại nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử
là rất cần thiết.
Đối với văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức
năng lập, về cơ bản, việc bổ sung nguồn chứng cứ này là nhằm mục đích để
bảo đảm tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong giai đoạn
các giao dịch dân sự
ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn thời gian trước đây.
Về văn bản công chứng, chứng thực thì về nguyên tắc, không phải mọi văn
bản công chứng, chứng thực đều được coi là nguồn của chứng cứ mà văn bản
công chứng, chứng thực đó phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định về công chứng, chứng thực. Trên thực tế, với xu thế xã hội
này càng phát triển, các giao dịch dân sự, thương mại ngày càng nhiều thì nhu
cầu về công chứng, chứng thực các văn bản càng phổ biến hơn. Đồng thời,
đây còn là cơ sở để Tòa án có được quyết định chính xác, khách quan trong
bản án, quyết định.
Bên cạnh đó, so với BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011 thì BLTTDS
2015 đã không còn coi tập quán là nguồn chứng cứ. Đối với những giao dịch
thương mại trong và ngoài nước thì việc bỏ tập quán này là sự thiếu hụt của
pháp luật về lĩnh vực thương mại. Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ,
cách làm lặp đi lặp lại nhiều lần trong buôn bán quốc tế và được các tổ chức
quốc tế có liên quan thừa nhận. Với đà phát triển hiện nay việc giao thương
42
với các nước trên thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Kết luận chƣơng 1
Sau khi nghiên cứu các nội dung trong chương 1, tác giả luận văn rút ra
các kết luận chính sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh là nội dung rất quan trọng của chế
định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Mở rộng hơn, không chỉ
trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh còn là đối tượng quan trọng của tố
tụng hình sự và tố tụng hành chính.
Thứ hai, sự thay đổi nhận thức giúp cho việc thay đổi tư duy trong hoạt
động xét xử diễn ra tại Việt Nam ngày càng khác trước. Cụ thể, hoạt động
chứng minh trong thời kỳ đầu tại Việt Nam còn được quy định khá sơ sài và
Tòa án là cơ quan gần như phải thực hiện mọi nhiệm vụ để làm sáng tỏ nội
dung vụ việc. Tuy nhiên, hiện nay, nghĩa vụ chứng mình dần được chuyển
giao từ Tòa án sang các đương sự. Điều này là phù hợp vì chỉ có đương sự
mới là những người am hiểu rõ nhất các tình tiết, sự kiện của vụ việc và việc
chứng minh của họ mang lại những ưu thế cho họ khi tham gia tố tụng.
Thứ ba, tùy theo mô hình tổ chức tư pháp của từng quốc gia, nghĩa vụ
chứng minh tại các nước này được quy định dựa theo. Cụ thể, trong các mô
hình tố tụng tranh tụng, nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về các bên đương
sự. Còn trong mô hình tố tụng thẩm vấn, Hội đồng xét xử là cơ quan chịu
43
trách nhiệm chính trong việc làm sáng tỏ nội dung của vụ án.
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. Chủ thể và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể
Chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự rất đa
dạng. Trong đó, từng chủ thể lại thực hiện nghĩa vụ chứng minh theo cách của
minh và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Theo đó, các chủ thể
thực hiện nghĩa vụ chứng minh bao gồm:
2.1.1. Đương sự
* Đương sự trong vụ việc dân sự
Theo khoản 1, Điều 68 BLTTDS 2015 quy định “Đương sự trong vụ
việc dân sự” bao gồm:
1. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân
bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao
gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Ngoài ra, căn cứ khoản 2, Điều 68 của BLTTDS 2015 thì:
2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người
được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án
dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.
3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi
44
kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự
là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết
vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ
được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa
án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị
đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với
tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
5. Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa
án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn
cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự
là người tuy không yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải
quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên
họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị
và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền
45
lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự [30].
* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Qui định rõ về nghĩa vụ chứng minh đối với các đương sự là một trong
những nội dung quan trọng trong tố tụng dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự
2015, là cơ sở cho các đương sự xác định nghĩa vụ của mình khi đưa ra yêu
cầu, thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Nếu
đương sự không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu của mình là có căn cứ và Tòa án không thể thu thập chứng cứ đó được thì
có khả năng đương sự sẽ bị Tòa án bác yêu cầu. Đồng thời trong quá trình
giải quyết phải đảm bảo cho người yếu thế không thể cung cấp được tài liệu,
chứng cứ vẫn có điều kiện thực hiện việc tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình cho nên có một số trường hợp cụ thể nghĩa vụ chứng minh
phải thuộc về người bị yêu cầu (bị đơn). Vì vậy, (Điều 91 BLTTDS 2015) qui
định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là:
Thứ nhất: đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình phải thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó
là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây thì nghĩa vụ chứng minh
thuộc về người bị yêu cầu:
- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra
thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,
giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó
đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động
46
có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý
kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao
động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
Thứ hai: Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải
thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.
Thứ ba: Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không
có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ tư: Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà
không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải
quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ
việc. Từ đó, cho thấy, quá trình giải quyết vụ việc dân sự là việc xem xét
trách nhiệm giữa các cá nhân với nhau, do đó nghĩa vụ chứng minh thuộc về
các đương sự. Khi một người có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với mình hoặc bảo
vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, thì đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu
cầu có nghĩa vụ phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp. Bên cạnh đó, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
47
minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự (Điều 6).
Ngoài ra, việc đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp xuất phát từ
nguyên tắc thực hiện quyền tự bảo vệ, tự định đoạt của đương sự. Đương sự
có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình bằng hai
cách là tự mình thu thập hoặc nhờ Tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện qui
định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS 2015. Để đảm bảo khả năng thu thập
chứng cứ cho đương sự, Điều 7 của bộ luật này cũng đã qui định về trách
nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khi có yêu cầu của đương sự. Mặc dù vậy, trên thực tế qui định này rất
khó được thực hiện, một phần bởi tính phức tạp của hoạt động quản lý của các
cơ quan, tổ chức cũng như cơ chế cung cấp thông tin. Thông thường thì
đương sự phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án, hoặc bằng các mối quan hệ
cá nhân mới có thể đảm bảo thu thập được tài liệu, chứng cứ.
Ví dụ: Trong vụ án ly hôn đơn phương: người vợ hoặc người chồng khi
khởi kiện vụ án ly hôn đơn phương mà hai vợ chồng không ở cùng một hộ
khẩu hoặc ở hai nơi khác nhau thì, khi làm thủ tục ly hôn, nguyên đơn phải
xuất trình cho Tòa án “Giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn” – chứng cứ xác
nhận nơi cư trú của bị đơn. Để xác nhận được nơi ở của một cá nhân, thì phải
thông qua Cảnh sát khu vực và có xác nhận của cơ quan công an cấp
Phường/xã nơi bị đơn đang sinh sống. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp, cảnh
sát khu vực từ chối không cung cấp thông tin, gây khó khăn cho nguyên đơn,
chỉ cung cấp thông tin khi có văn bản yêu cầu của Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, hậu quả của việc đương sự
có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ
hoặc không đưa ra đủ chứng cứ đó là việc Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vụ
việc theo thủ tục chung. Tòa án sẽ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập
48
được có trong hồ sơ vụ việc và nếu vụ việc được xét xử, giải quyết tại phiên
tòa, phiên họp thì Tòa án chỉ căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra,
xem xét tại phiên tòa, phiên họp, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, phiên họp,
xem xét đầy đủ ý kiến của người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên để quyết
định. Đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc
chứng minh không đầy đủ.
* Những trường hợp đương sự không cần phải chứng minh
Việc chứng minh trong vụ việc dân sự được thực hiện dựa trên các tình
tiết, sự kiện được sử dụng trong vụ án dân sự đều phải được chứng minh. Tuy
nhiên, đối với những tình tiết, sự kiện đã được thừa nhận, tính xác thực của nó
đã được mặc định thì không phải chứng minh (Điều 92 BLTTDS 2015). Đó là
những trường hợp sau:
Thứ nhất, nhóm tình tiết, sự kiện mà bản thân nó đã chứa đựng sự thật
khách quan, bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết
và được tòa án thừa nhận (phải là những tình tiết, sự kiện có tính khách quan).
Thứ hai, những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án, quyết
định của tòa án có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Hoặc những tình tiết, sự kiện đã được ghi nhận trong văn bản
công chứng, chứng thực hợp pháp.
Thứ ba, là nhóm những tình tiết, sự kiện mà bị đơn thừa nhận hoặc
không phản đối (trong trường hợp vụ án có người đại diện tham gia thì sự
thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu
không vượt quá phạm vi đại diện).
Ngoài ra, khi một bên đương sự hoặc người đại diện tham gia tố tụng
của đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu,
văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì
bên đương sự đó không phải chứng minh.
49
Tuy vậy, thực tế cho thấy rằng, mặc dù khi đưa ra các tình tiết, sự kiện
thuộc các trường hợp kể trên, đương sự không cần phải chứng minh về tính
xác thực của chứng cứ nhưng vẫn phải nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ của các tình
tiết, sự kiện đó.
Ví dụ: Trong hồ sơ khởi kiện vụ án ly hôn, các tài liệu xuất trình kèm
theo đơn khởi kiện gồm có: bản sao chứng thực Chứng minh nhân dân, hộ
khẩu, đăng ký kết hôn…. Khi trực tiếp tham gia giải quyết vụ án, các đương
sự buộc phải xuất trình bản chính Chứng minh nhân dân và đăng ký kết hôn
để Tòa án đối chiếu, xác thực.
2.1.2. Người đại diện của đương sự
* Về các loại đại diện của đương sự trong tố tung dân sự
Về bản chất, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi ích
của cá nhân hoặc pháp nhân khác tham gia vụ án dân sự trong phạm vị đại diện.
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người thay mặt
cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng
nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại
diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại
diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo qui
định của Bộ luật dân sự.
Theo quy định của Điều 85 BLTTDS 2015 thì: Người đại diện theo
pháp luật theo qui định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật
trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo qui định
của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, các nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố
tụng dân sự của người được bảo vệ.
Cụ thể: có hai loại chủ thể đại diện theo pháp luật:
+ Đại diện theo pháp luật của cá nhân (Điều 136 BLDS 2015) bao gồm:
50
1. cha mẹ đối với con chưa thành niên; 2. Người giám hộ đối với người được
giám hộ; Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định; 3. Người
do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy
định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này; 4. Người do Tòa án chỉ định đối với
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 137 BLDS 2015) bao
gồm: 1. Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; 2. Người có thẩm quyền
đại diện theo quy định của pháp luật; 3. Người do Tòa án chỉ định trong quá
trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo
pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy
định tại về thời hạn và phạm vi ủy quyền.
Đặc biệt đối với các vụ án liên quan đến người lao động thì tại Khoản 3
Điều 85 BLTTDS 2015 đã qui định:
Tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp
luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia
tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho
người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được
người lao động ủy quyền. Trường hợp nhiều người lao động cùng
có yêu cầu đối với người sử dụng lao động, trong cùng một doanh
nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại diện của tổ chức
đại diện tập thể lao động thay mặt họ khởi kiện vụ án lao động,
tham gia tố tụng tại Tòa án.
Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là
người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự (khoản 4 Điều 85 BLTTDS
51
2015). bao gồm:
1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp
nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; 2. Các thành viên hộ
gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có
thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của
các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân; 3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp
pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám
tuổi trở lên xác lập, thực hiện [30, Điều 138].
Ngoài ra còn có người Đại diện do tòa án chỉ định quy định tại BLTTDS
2015 đó là:
1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện
theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại
diện để tham gia tố tụng.
2. Đối với vụ việc lao động mà có đương sự thuộc trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều này hoặc người lao động là người
chưa thành niên mà không có người đại diện và Tòa án cũng không
chỉ định được người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì
Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người
52
lao động đó [30, Điều 88].
* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người đại diện cho đương sự trong
tố tụng dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân
sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định
tại điều 86 BLTTDS 2015. Cụ thể:
1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực
hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà
mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực
hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung
văn bản ủy quyền.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh
hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ
gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên
nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên
hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
* Những trường hợp không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật đã
dự liệu những trường hợp mà theo đó, nếu một số chủ thể trở thành người đại
diện, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự sẽ gây
nên những bất lợi cho chính đương sự mà họ đại diện. Trong trường hợp đó,
các đối tượng này không thể làm người đại diện theo pháp luật hoặc người đại
diện theo ủy quyền cho đương sự.
Điều 87- BLTTDS 2015 qui định những người sau đây không được làm
53
người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền:
- Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người
được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với
quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
- Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng
dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được
đại diện trong cùng một vụ việc
Ngoài ra, khoản 3 Điều 87 BLTTDS 2015 còn qui định “Cán bộ, công
chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại
diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia với tư cách là người đại
diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật”.
Quy định này xuất phát từ chính công việc của các chủ thể nói trên, bởi họ là
những người liên quan trực tiếp đến các hoạt động nghiệp vụ tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án. Nếu để họ làm người đại diện cho đương sự trong
các vụ án dân sự dễ dẫn đến việc thiếu công minh, thiếu khách quan trong quá
trình giải quyết vụ án.
2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
* Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, khi có yêu
cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 75 BLTTDS 2015). Những người
này có thể là:
- Luật sư tham gia tố tụng theo qui định của pháp luật về luật sư;
- Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo qui
định của pháp luật về trợ giúp pháp lý;
54
- Đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động trong vụ việc lao động theo quy định
của pháp luật về lao động, công đoàn;
- Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án
tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan
Tòa án, Viện kiểm sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an.
Có thể thấy rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án
ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ không
nhằm mang lại lợi ích cho bản thân họ mà hướng đến việc phục vụ hay bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mà họ có trách nhiệm bảo vệ. Vì thế,
việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể này nhằm mang lại sự
thuận lợi cho đương sự.
* Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự
Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự có quyền: (Điều 76 BLTTDS 2015).
2. Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết
có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều
109 của Bộ luật này.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy
quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa
55
án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự.
Ví dụ: Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, sau khi xong phần
thủ tục, bắt đầu phần xét hỏi: Chủ tọa phiên tòa sẽ yêu cầu Nguyên đơn trình
bày nội dung đơn khởi kiện và các chứng cứ kèm theo chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện của mình. Nếu nguyên đơn có luật sư bảo vệ, đồng thời không
tự mình trình bày được thì có thể nhờ Luật sư trình bày hộ nội dung khởi kiện
và các chứng cứ kèm theo.
2.1.4. Tòa án nhân dân
Tòa án yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi xét thấy chứng cứ
có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết. Theo yêu cầu của
đương sự, Tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá
tài sản, lấy lời khai của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định,
giám định bổ sung, đối chất, ủy thác thu thập chứng cứ, yêu cầu cơ quan tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ… có quyền nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ theo Điều 108, 109 BLTTDS 2015. Đây là điều hiển nhiên vì tòa án
là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải
quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền hỏi những người tham gia
phiên tòa như đương sự, người làm chứng…
Ví dụ: Trong vụ án hôn nhân gia đình: Một trong các bên vợ, chồng
nghi ngờ đứa con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân không phải là con đẻ của
mình mà không tự mình chứng minh được thì có quyền yêu cầu Tòa án thực
hiện thủ tục trưng cầu giám địch AND xác nhận quan hệ huyết thống với đưa
trẻ. Người đưa ra yêu cầu phải viết đơn và phải nộp toàn bộ các chi phí liên
quan đến yêu cầu của mình.
Như vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt
động chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án
56
và bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.
2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động
là tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. cụ
thể Điều 58 BLTTDS 2015
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự.
3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu
thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại
khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố
tụng theo quy định của Bộ luật này.
7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng
nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.
8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng;
yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm
minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này [30].
Khi đó tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát
nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm
đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm
quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm) [41] trong một thời gian luật định để tiến
57
hành xem xét.
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét
thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 57, khoản 7 Điều 58 BLTTDS 2015, có
quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều Khoản 3 Điều 58), Tham gia phiên tòa, phiên
họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy
định của Bộ luật này. (khoản 4 Điều 58 BLTTDS 2015)
Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt
động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của
Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và
nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện
kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện
quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu
nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện
kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế
của nhà nước – đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực
hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt
động chứng minh của mình.
2.1.6. Những người tham gia tố tụng khác
* Người làm chứng
Theo qui định tại Điều 77 BLTTDS 2015: “Người biết các tình tiết có
liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham
gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự
không thể là người làm chứng”.
Từ qui định trên có thể thấy, không tự nhiên mà một cá nhân có thể trở
thành “người làm chứng” trong vụ việc dân sự. Họ chỉ trở thành người làm
chứng khi có đầy đủ cả bốn điều kiện đó là biết về các tình tiết liên quan đến
vụ việc; được đương sự đề nghị Tòa án triệu tập; được Tòa án triệu tập và
58
không mất năng lực hành vi dân sự.
Vai trò chứng minh sự thật khách quan trong tố tung dân sự của người
làm chứng không phải là trực tiếp và không đương nhiên. Họ chỉ là người xác
nhận lại các sự kiện, tình tiết đã xảy ra trong vụ việc dân sự bằng cách cung
cấp các thông tin, tài liệu, đồ vật mà họ có được liên quan đến việc giải quyết
vụ việc. Nhiệm vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực và có mặt
theo giấy triệu tập của Tòa án.
* Người giám định
Theo qui định tại Điều 79 BLTTDS 2015: “Người giám định là người
có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có
đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự
yêu cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này”.
Cũng giống như người làm chứng, người giám định không có nghĩa vụ
đương nhiên phải chứng minh sự thật của vụ án. Nghĩa vụ của họ là nghĩa vụ
phái sinh và có giới hạn. Tức là, khi được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu
giám định về đối tượng giám định thì người giám định – giám định viên mới
tiến hành việc giám định trong phạm vi yêu cầu giám định.
Ví dụ: Trong vụ án dân sự “đòi tiền cho vay”: Nguyên đơn gửi đơn
khởi kiện kèm theo giấy vay nợ và các tài liệu khác. Bị đơn cho rằng đã thanh
toán nợ và xuất trình một giấy thanh toán tiền có chữ ký xác nhận của nguyên
đơn. Nguyên đơn cho rằng, Giấy thanh toán tiền nợ mà bị đơn xuất trình là
giả mạo và chữ ký trên văn bản không phải là chữ ký của nguyên đơn. Đồng
thời yêu cầu Tòa án chưng cầu giám định chữ viết, chữ ký trên văn bản.
Trường hợp này, Tòa án sẽ ban hành quyết định chưng cầu giám định mẫu
chữ viết, chữ ký trên văn bản đối chiếu với chữ viết và chữ ký do nguyên đơn
xuất trình có phải do cùng một người viết và ký không. Gửi quyết định này
đến Viện khoa học hình sự có thẩm quyền. Lúc này, công việc của giám định
59
viên là vời chuyên môn của mình sẽ chỉ giám định mẫu chữ viết, chữ ký trên
văn bản đối chiếu với chữ viết và chữ ký do nguyên đơn xuất trình có phải do
cùng một người viết và ký không, không giám định nội dung của văn bản yêu
cầu giám định.
* Người phiên dịch
Theo qui định tại Điều 81 BLTTDS 2015:
Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ
khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia
tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được một
bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn
và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên dịch.
Với vai trò là người phiên dịch khi tham gia tố tụng dân sự, bản thân họ
không có nghĩa vụ phải chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của các bên đương
sự là đúng, là sự thật. Tuy nhiên, việc họ chuyền tải thông tin trong quá trình
phiên dịch một cách trung thực, đúng suy nghĩ của người cần phiên dịch lại
góp phần làm cho các tình tiết, nội dung sự việc được sáng tỏ, giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng và các bên đương sự hiểu rõ tình tiết của vụ án.
2.2. Hoạt động chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố tụng
dân sự
2.2.1. Bản chất và khái niệm của hoạt động chứng minh
Nhiệm vụ của Tòa án trong pháp luật tố tụng dân sự là làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ việc dân sự: có hay không không có, tồn tại hay không tồn tại
các sự kiện, tình tiết mà các bên nêu ra làm cơ sở cho yêu cầu của mình trước
Tòa án. Chỉ trên cơ sở các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự đã được làm rõ,
Tòa án mới có thể áp dụng pháp luật phù hợp để giải quyềt vụ việc: chấp nhận
hay bác bỏ yêu cầu của các bên. Tòa án làm sáng tỏ sự thật khách quan của việc
dân sự bằng các chứng cứ do các bên thu thập, đề xuất và được kiểm
60
Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự là một quá trình
gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng
trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho
yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy
định của pháp luật.
Họat động chứng minh là một quá trình bao gồm các giai đọan: thu
thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ.
2.2.2. Đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh là tổng hợp các sự kiện pháp lý mà Tòa án cần
phải làm sáng tỏ để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Những tình tiết, sự kiện này cần phải làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ,
việc dân sự
Đối tượng chứng minh căn cứ vào: Theo yêu cầu của đương sự hoặc
xác định theo pháp luật nội dung
2.2.3. Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án
thừa nhận;
Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp.
Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự
kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh
Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của
người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.
2.2.4. Phạm vi chứng minh
Phạm vi chứng minh của Tòa án nhân dân: Toàn bộ nội dung vụ án thể
61
hiện tập trung ở hoạt động đánh giá chứng cứ và kết luận về nộI dung vụ việc
Phạm vi chứng minh của đương sự: yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu
Phạm vi chứng minh của người đại diện: Trong phạm vi đại diện
Phạm vi chứng minh của người làm chứng: Những gì mà họ biết
Phạm vi chứng minh của người giám định: Căn cứ vào đối tượng giám định
Phạm vi chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự: Theo yêu cầu của đương sự
2.3. Nội dung chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
2.3.1. Cung cấp chứng cứ
Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ
cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác đối với mình
có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản đối
yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trước tiên, nguyên đơn là người khởi
kiện nên nguyên đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho việc thực hiện
quyền yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, bị đơn nếu
không chấp nhận toàn bộ hay một phần yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn
phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. Ngoài ra, khi bị
đơn đưa ra yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
đưa ra yêu cầu độc lập thì cũng có trách nhiệm chứng minh cho yêu cầu của
mình là đúng và đương sự phải trả lời đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm
chứng minh cho sự phản đối đó
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của họ là
có căn cứ và hợp pháp
62
Hậu quả của việc đương sự không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho
Tòa án: khi quy định về nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự
thì đồng thời phải quy định về hậu quả pháp lý khi đương sự không thực hiện
nghĩa vụ đó nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ của đương sự được thực hiện trên
thực tế. Do đó, Bộ luật TTDS 2015 quy định rõ hậu quả pháp lý khi đương sự
không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Đó là, đương sự có nghĩa vụ
đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không
đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ
đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc (khoản 4 Điều 91). Nếu đương sự
không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu
cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà
đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật
TTDS để giải quyết vụ việc dân sự (khoản 1 Điều 96).
2.3.2. Thu thập chứng cứ
Lấy lời khai của đương sự: Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của
đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ,
rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp
đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự.
Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự
khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời
khai của đưng sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ
sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài
trụ sở Toà án.
Lấy lời khai của người làm chứng: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi
xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại
trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.Thủ tục lấy lời khai của người làm
chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai
63
của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật
hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.
Đối chất
Xem xét, thẩm định tại chỗ: Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do
Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc
cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước
việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét,
thẩm định đó.
Trưng cầu giám định: Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương
sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết
định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ
tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần
giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
Định giá tài sản: Toà án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp
trong các trường hợp sau đây: Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
Các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm
mức đóng án phí. Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ
tịch Hội đồng và các thành viên là đại diện c quan tài chính và các cơ quan
chuyên môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt
đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Các đương sự được thông báo trước về
thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến
về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội
đồng định giá.
Ủy thác thu thập chứng cứ: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,
Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm
quyền lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ,
64
định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các
tình tiết của vụ việc dân sự. Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu
cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
2.3.3. Nghiên cứu chứng cứ
Là việc xác định các thuộc tính của chứng cứ, mối liên hệ của chứng cứ
Nghiên cứu chứng cứ là một phần không thể thiếu được của quá trình
chứng minh, là sự nhận thức trực tiếp của chủ thể họat động chứng minh về
chứng cứ ở những góc độ sau đây: tính liên quan, tính hợp pháp, tính tòan
diện, tính đầy đủ của chứng cứ.
Chủ thể nghiên cứu chứng cứ là Tòa án nhân dân. Việc nghiên cứu
chứng cứ có thể diễn ra trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa. Việc nghiên cứu
chứng cứ có thể chứng cứ tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau như trực
tiếp nghe lời khai của các bên đương sự, lời khai của nhân chứng, trình bày
kết luận của giám định viên, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, trực tiếp đọc các
tài liệu, bằng cách xem xét trực tiếp vật chứng, xem các băng hình đĩa hình,
hỏI những người tham gia tố tụng. Phương pháp nghiên cứu có thể là so sánh,
phân tích, đối chiếu, đối chất, xem xét thẩm định tại chỗ, trưng cầu giám định,
định giá tài sản….
2.3.4. Đánh giá chứng cứ
Là giai đọan cuối cùng của quá trính chứng minh. Trên cơ sở kết quả
kiểm tra, các chủ thể họat động chứng minh đi đến kềt luận về các thuộc tính
cũng như tính xác thực của các chứng cứ, mối liên hệ giữa chúng với nhau,
về sự tồn tại hay không tồn tại của các sự kiện, tình tiết thuộc đối tượng
chứng minh. Bản chất của đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic diễn
ra dưới hình thức các hành vi tố tụng, chịu sự tác động của pháp luật. Đánh
giá chứng chứ là quá trình hai mặt: mặt nội dung (tư duy logic) và mặt hình
65
thức (mặt pháp luật)
2.4. Quá trình chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố tụng
dân sự
2.4.1. Nội dung chứng minh
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ
đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ
có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh
giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập,
cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng
cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh
những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và
toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng
cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan
xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là
giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có
thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải
quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể
tòa án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được
giải quyết tiếp theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát
sinh hoạt động chứng minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
2.4.2. Phương pháp thực hiện nghĩa vụ chứng minh
Đương sự có nghĩa vụ chứng minh phải thực hiện hoạt động chứng
minh. Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt
động chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích
của cá nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng
66
họ không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình
là có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện,
bị đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một
cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Khi nguyên
đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý
kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có
căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải
chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định
đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.
Đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một cách không đầy đủ
nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được chấp nhận.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có
tính chỉ đạo xuyên suốt vì xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải
quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là để bảo vệ
các quyền và lợi ích của mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. ở đó,
không có sự can thiệp của quyền lực nhà nước, các bên hoàn toàn bình đẳng
trong các mối quan hệ. Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ
thể của quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ
sẽ do chính họ quyết định thông qua hoạt động của mình. Nhà nước không
can thiệp mà chỉ công nhận các quyền lợi khi xét thấy có căn cứ và hợp pháp
thông qua hoạt động chứng minh của đương sự.
2.5. Xu hƣớng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện nay
2.5.1. Khuynh hướng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh từ Tòa án
sang đương sự
Như đã phân tích ở trên, đương sự khi khởi kiện vụ việc dân sự ra tòa
67
án để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của mình thì họ phải chứng minh cho yêu
cầu của họ, không thể đặt nhiệm vụ chứng minh sự thật của vụ án lên vai
“quan tòa” được. Do vậy, từ khi xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và đến
Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nhà làm luật đã thiết lập một chế định riêng về
chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó điều luật đầu tiên của chế định quy
định về “nghĩa vụ chứng minh”. Nội dung của quy định này nhằm xác định rõ
“gánh nặng” chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về đương sự, tránh việc
đương sự đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm của mình cho chủ thể khác trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Đồng thời, hai bộ luật đều loại bỏ quy định tòa án phải điều tra vụ án
dân sự, thay thế đó là quy định tòa án có thể tự mình tiến hành thu thập tài liệu,
chứng cứ trong một số trường hợp luật định nhằm giúp vụ án được giải quyết
đúng đắn, chính xác hơn. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh thay đương
sự, tòa án chỉ hỗ trợ đương sự khi đương sự đã nỗ lực hết sức nhưng không thể
chứng minh được cho quyền lợi của mình. (Điều 91- BLTTDS 2015)
2.5.2. Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự
phản đối đó
Trong tố tụng dân sự, không chỉ đương sự - nguyên đơn đưa ra yêu
cầu khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình, mà ngay
cả đương sự - bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng phải
có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để
làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác
bỏ yêu cầu đó.
Khoản 1 Điều 199 BLTTDS 2015 qui định:
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án
văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài
68
liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có).
Trường hợp cần gia hạn thì bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan phải có đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý
do; nếu việc đề nghị gia hạn là có căn cứ thì Tòa án phải gia hạn
nhưng không quá 15 ngày.
Nói cách khác, đương sự phản đối yêu cầu cũng phải thuyết phục tòa án
rằng mình không xâm phạm đến quyền lợi của đương sự có yêu cầu; từ đó tòa
án mới có căn cứ, cơ sở để bác bỏ yêu cầu mà phía bên kia đưa ra. Đương sự
phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, các lý lẽ, lập luận để
chứng minh cho việc phản đối đó là đúng đắn và có cơ sở.
So sánh với quy định của pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự có sự khác biệt. Nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng hình sự không thuộc về chủ thể bị buộc tội mà
thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Điều này là dễ hiểu vì mối quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội
là quan hệ giữa nhà nước và người được quy đoán là phạm tội. Để bảo vệ các
lợi ích chung của cộng đồng thì nhà nước (mà đại diện là tòa án, viện kiểm
sát, cơ quan điều tra) phải xác định rõ người bị tình nghi (bị can, bị cáo) đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Khi các cơ quan này khởi tố một vụ án hình sự nghĩa là đang đưa ra
một yêu cầu buộc tội, khi đó họ phải chứng minh việc buộc tội đó là có căn cứ
và hợp pháp - điều này rất phù hợp với nguyên lý “Ai đưa ra yêu cầu, người
đó phải chứng minh”.
2.5.3. Đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Có thể nói, đảo nghĩa vụ chứng minh là một quy định rất hay nằm trong
chế định nghĩa vụ chứng minh. Bởi lẽ, không phải mọi trường hợp chủ thể có
nghĩa vụ chứng minh đều có thể chứng minh và ngược lại, chủ thể bị kiện
69
tụng lại chính là bên có cơ sở tốt nhất để chứng minh. Vì thế, đảo nghĩa vụ
chứng minh là vấn đề rất được coi trọng khi xem xét về chế định nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự.
* Lịch sử hình thành của việc đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự
Đảo nghĩa vụ chứng minh là một nguyên tắc lần đầu tiên được nhắc
đến trong Điều 139, Luật Sáng chế của Đức năm 1891. Nguyên tắc này sau
đó cũng được quy định trong Luật Sáng chế của các nước Ý, Tây Ban Nha và
Bỉ. Gần đây nhất, nó được quy định trong một văn kiện rất quan trọng của
WTO là tại Điều 34 Hiệp định TRIPS. Đây không phải là việc chuyển nghĩa
vụ chứng minh hình thức (hay nghĩa vụ xuất trình chứng cứ - burden of
evidence production) trong một phiên tranh tụng mà là sự giảm bớt nghĩa vụ
nội dung cho nguyên đơn. Theo đó, trong thủ tục tố tụng dân sự, nếu đối
tượng sáng chế là quy trình sản xuất một loại sản phẩm, cơ quan xét xử có
quyền bắt buộc bị đơn chứng minh cho việc không gây thiệt hại và không vi
phạm của mình, tức là quy trình sản xuất ra sản phẩm đó của mình khác với
(không phải là) quy trình đã được cấp sáng chế [2].
Lý giải cho việc áp dụng nguyên tắc này trong luật sở hữu trí tuệ có
nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, nhiều quan điểm cho rằng đó là kết quả của
sự phân tích chi phí - lợi ích trong đánh giá tác động quy phạm, một dạng của
phương pháp phân tích kinh tế - luật. Theo đó, khi nguyên đơn có quá ít cơ
hội để chứng minh do những trở ngại được coi là do chính bị đơn tạo ra,
chẳng hạn không thể biết được bị đơn đã sản xuất và bán các sản phẩm vi
phạm sáng chế cho bao nhiêu người và thu được bao nhiêu tiền là việc quá
sức của nguyên đơn. Đảo nghĩa vụ chứng minh sẽ là một sự bù đắp cho sự
thiệt thòi về vị thế chứng minh cho nguyên đơn và bảo đảm giảm thiểu chi phí
tố tụng. Hơn nữa, nếu bị đơn chỉ ra được mình không có trách nhiệm gì thì
70
nghĩa vụ trang trải chi phí tố tụng (án phí, chi phí giám định...) vẫn sẽ được
xác định cho bên thua kiện - tức là bên nguyên. Về sau, Tòa án tối cao Liên
bang Đức (BGH) đã phát triển thành một nguyên tắc tố tụng, nguyên đơn có
thể được giảm bớt nghĩa vụ chứng minh và được đảo ngược nó trong những
trường hợp nhất định. Những trường hợp này được xác định là nếu như bị đơn
đã đặt nguyên đơn vào một vị thế không thể chứng minh mối quan hệ nhân
quả giữa thiệt hại của mình với hành vi của bị đơn, ví dụ như bệnh nhân thì có
quá ít kiến thức để chứng minh thiệt hại của mình do sự vi phạm liệu trình của
bác sĩ gây ra. Khi đó, nguyên đơn cần được coi như đã thực hiện xong nghĩa
vụ chứng minh của mình, và phần nghĩa vụ chứng minh cho nguyên nhân gây
thiệt hại được ấn định cho bị đơn. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng không
được áp dụng cho tất cả các trường hợp kiện tụng về trách nhiệm dân sự, chỉ
trong một số trường hợp kiện ngoài hợp đồng đối với bên bị là người vi phạm
nghĩa vụ nghề nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm chăm sóc sức khỏe bệnh nhân
của bác sĩ, hay trách nhiệm sản phẩm. Như vậy, tuy người Đức đã đặt ra
ngoại lệ của nghĩa vụ chứng minh với những lý giải hết sức thỏa đáng, song
họ luôn thận trọng trước những lạm dụng ngoại lệ này. Ngay cả trong những
trường hợp ngoại lệ, người bị thiệt hại vẫn cứ phải chứng minh cho cái thiệt
hại xảy ra và chỉ ra được những bất cẩn hoặc cố ý vi phạm của bị đơn. Bởi
vậy cái gọi là đảo ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối và cũng lại rất thận trọng.
Tòa án tối cao Liên bang Đức gọi đây là nguyên tắc "Giảm nhẹ tới mức đảo
nghĩa vụ chứng minh". Hiện nay, vấn đề đảo nghĩa vụ chứng minh được xác
định chặt chẽ hơn trong các quy định về trái vụ của Bộ luật Dân sự Đức, Luật
Trách nhiệm sản phẩm, Luật Trách nhiệm hành nghề bác sĩ. Đáng lưu ý,
nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong trường hợp này vẫn là nghĩa vụ nội
dung, chứng cứ họ đưa ra vẫn là chứng cứ chính giống như nguyên đơn khi đi
kiện chứ không phải là chứng cứ bác bỏ. Cho tới nay, sau khi lý thuyết về
trách nhiệm sản phẩm, trách nhiệm tuyệt đối đã ra đời, đảo nghĩa vụ chứng
71
minh đã dần dần được thừa nhận trong tố tụng dân sự của nhiều nước mặc dù
đôi khi nó vẫn được dịch chung tên gọi với việc "chuyển nghĩa vụ chứng
minh" với những chú giải riêng biệt nhằm phân biệt với việc "chuyển" theo
nghĩa truyền thống [2].
Đảo chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.
Nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, khoản 1 Điều 91 BLTTDS
2015 có quy định hoàn toàn mới về những trường hợp đương sự không phải
thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Cụ thể:
- Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng
minh được đảo ngược cho bên bị kiện - bên bị kiện phải chứng minh mình
không có lỗi gây ra thiệt hại.
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,
giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang
do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có
trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý
kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao
động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có
nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Trường hợp đặc biệt: Luật nội dung có qui định về “đảo” nghĩa vụ
chứng minh khi có yêu cầu khởi kiện, tuy nhiên Luật tố tụng dân sự lại chưa
qui định tương thích để phù hợp với luật nội dung. Đó là:
- Chứng minh lỗi trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng không thuộc về người có yêu cầu đòi bồi thường. Điều 584 BLDS
72
2015 qui định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Với quy định này, Bộ
luật dân sự 2015 đã nhấn mạnh vai trò của hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại. Người bị thiệt hại không cần chứng minh yếu tố lỗi trong quan hệ về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Bộ luật dân sự 2015 đã tạo ra cơ sở cho phép đương sự không phải
chứng minh yếu tố lỗi khi yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
đồng nghĩa với việc khi khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, nguyên đơn không cần cung cấp những tài liệu, chứng cứ chứng minh
lỗi của bị đơn.
Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn rằng, nguyên đơn chỉ được loại
trừ nghĩa vụ chứng minh đối với yếu tố lỗi, nếu muốn được bồi thường thiệt
hại, nguyên đơn vẫn phải chứng minh các yếu tố khác như: có thiệt hại thực tế
xảy ra, có hành vi trái luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi trái luật và thiệt hại.
Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi 2009) về quyền và
nghĩa vụ chứng minh của đương sự quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm
quyền đối với sáng chế là một quy trình sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng
minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình
được bảo hộ trong trường hợp sản phẩm được sản xuất theo quy trình được
bảo hộ là sản phẩm mới.
Ví dụ: Người lao động khởi kiện người sử dụng lao động khi người sử
dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng với mình, nhưng người lao
động không được giữ hợp đồng lao động, sổ bảo hiểm và các hồ sơ lao động
của người lao động thì khi nộp đơn khởi kiện, Tòa án thụ lý vụ án sẽ thông
báo cho bị đơn đồng thời yêu cầu bị đơn nộp tài liệu chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của người khởi kiện là người lao động. Đồng thời người lao động
73
không phải chứng minh lỗi của mình khi yêu cầu bồi thường.
Kết luận chƣơng 2
Sau khi nghiên cứu các nội dung trong chương 2, tác giả luận văn rút ra
các kết luận sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
rất đa dạng. Trong đó, tùy từng vị trí tham gia tố tụng, các chủ thể chứng
minh sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ khác nhau để chứng minh cho yêu cầu
hoặc phản đối yêu cầu của phía bên kia.
Thứ hai, để đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xét xử, không
chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia đều đang quan niệm theo hướng, nghĩa
vụ chứng minh chủ yếu trong các vụ việc dân sự sẽ thuộc về các bên đương
sự. Tòa án chỉ giữ vai trò trọng tài khi xem xét các vấn đề và việc chứng minh
của các bên. Từ đó, Tòa án sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng để giải quyết vụ
74
việc tranh chấp giữa các bên.
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam
3.1.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về nghĩa vụ chứng minh
Lần đầu tiên, Bộ luật TTDS 2015 quy định về các biện pháp thu thập
chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm đảm bảo các đương sự có đầy
đủ các chứng cứ để cung cấp cho Tòa án cũng như đảm bảo các chứng cứ đó
có tính hợp pháp. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 mới chỉ quy
định các biện pháp thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhưng lại
chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp đó, trong khi
các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định tại khoản 2 Điều 97
Bộ luật TTDS 2015 lại được quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thu thập.
Thiết nghĩ, để các chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức thu thập có giá trị
chứng minh và được Tòa án sử dụng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc
dân sự thì các nhà làm luật cần bổ sung trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ đối
với các biện pháp thu thập chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện.
Bộ luật TTDS năm 2015 bổ sung các quy định về thời hạn cung cấp
chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự. Theo đó, các
đương sự phải cung cấp chứng cứ trong thời hạn do thẩm phán được phân công
giải quyết vụ việc dân sự ấn định, nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn
bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự, trừ trường hợp quy
75
định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều 330 Bộ luật TTDS năm 2015.
Tuy nhiên, chứng cứ không được chấp nhận do đương sự cung cấp đã
quá thời hạn cung cấp mà thẩm phán ấn định có thể lại được thẩm phán thu thập
theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 không? Vấn đề này cũng có những ý
kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, do đã hết thời hạn cung cấp chứng cứ mà
không có lý do chính đáng nên chứng cứ này sẽ không được thẩm phán thu thập
kể cả trong trường hợp chứng cứ đó có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc. Ý
kiến khác lại cho rằng, với các biện pháp thu thập chứng của Tòa án được quy
định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 thì thẩm phán hoàn toàn có quyền
thu thập chứng cứ này nhằm đảm bảo Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết
vụ việc dân sự chính xác.
Về nguyên tắc, tất cả các chứng cứ mà đương sự cung cấp khi đã quá
thời hạn cung cấp do thẩm phán ấn định mà không có lý do chính đáng đều
không được chấp nhận nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự,
tránh tình trạng các đương sự thiếu trung thực trong việc cung cấp chứng cứ.
Tuy nhiên, với trách nhiệm hỗ trợ thu thập chứng cứ của Tòa án quy định trong
Bộ luật TTDS 2015 thì Tòa án có thể thu thập các chứng cứ này để làm căn cứ
cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều này đã tự nhiên làm cho các quy định
về thời hạn cung cấp chứng cứ trở thành không có ý nghĩa cũng như dẫn đến
tình trạng Tòa án có thể thiếu công bằng, khách quan trong việc thu thập chứng
cứ khi cố ý thiên vị cho một bên đương sự. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao cần
có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng: Tòa án không được thu thập
các chứng cứ mà đương sự đã cung cấp quá thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm
nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự cũng như đảm bảo sự công
bằng, khách quan trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án.
Quy định tại khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển
giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà Bộ luật
76
TTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao
tài liệu, chứng cứ cho nhauvà hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không
thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Thực tế hiện nay ở tại các Tòa án, do không có
quy định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa
vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau.
3.1.2. Nghĩa vụ chứng minh từ thực tiễn hoạt động xét xử
Quan hệ pháp luật dân sự được hình thành từ sự tự do, tự nguyện, bình
đẳng trong việc cam kết, thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Do
đó, việc giải quyết tranh chấp dân sự là giải quyết các quan hệ có tính chất
“riêng tư” của các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Một trong những
quy định của BLTTDS 2015 nhằm bảo đảm sự bình đẳng về địa vị pháp lý
giữa các chủ thể trong tố tụng dân sự đó là cho phép các đương sự có quyền
yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của mình. Khi các đương sự
có yêu cầu thì đều phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đây
là nguyên lý đặc trưng trong pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Theo quy định của BLTTDS 2015, yêu cầu của đương sự có thể xác định
cụ thể, đó là: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc
lập của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Qua lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cho thấy,
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ngày càng được xác định chắc chắn
và rõ nét là gắn liền với chủ thể có quyền lợi từ việc giải quyết vụ việc dân sự.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 không có quy định
rõ ràng về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, mà tại Chương 7 của
Pháp lệnh này chỉ có quy định thẩm phán phải điều tra vụ án dân sự trước khi
hòa giải, xét xử. Quy định này dường như đã đẩy quá nhiều gánh nặng chứng
minh cho tòa án. Điều này là không phù hợp, bởi việc giải quyết quan hệ dân
77
sự là giải quyết lợi ích tư của các chủ thể. Để khắc phục những hạn chế trên,
từ khi xây dựng BLTTDS 2004 và đến BLTTDS 2015, nhà làm luật đã thiết
lập một chế định riêng về chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó các điều
luật quy định rõ nét về “nghĩa vụ chứng minh”. Nội dung của quy định này
nhằm xác định rõ “gánh nặng” chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về
đương sự, tránh việc đương sự đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm của mình cho
chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự mang lại hiệu quả cho
hoạt động xét xử.
3.1.3. Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ
chứng minh của các chủ thể
Trong quá trình thực hiện công việc của mình nhận thấy trong hoạt
động tham gia tố tụng dân dự của các đương sự có những vướng mắc nhất
định. Cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của các đương sự Khoản 4 Điều 96
BLTTHS năm 2015 quy định:
Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không vượt quá thời
hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải
quyết việc dân sự theo quy định của bộ luật này. Trường hợp sau
khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết
định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp
giao nộp tài liệu chứng cứ mà Tòa án yêu cầu giao nộp nhưng
đương sự không giao nộp được vì lý do chính đáng thì đương sự
phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ
đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu
đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể
biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì
đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên
họp giải quyết việc dân sự hoặc giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc
78
giải quyết việc dân sự.
Căn cứ qui định trên thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ
xác định các chứng cứ của vụ án mà đương sự phải giao nộp và thời gian
đương sự phải giao nộp chứng cứ là khoảng thời gian trong thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Các đương sự có thể không thu thập
được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình vì chứng cứ do cá
nhân khác, cơ quan, tổ chức lưu giữ quản lý. Trường hợp này, đương sự có
quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho đương sự. Nếu cá nhân,
cơ quan tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đương sự thì thông báo bằng văn
bản ghi rõ lý do, để đương sự chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ
nhưng không có kết quả nhưng điều này cũng là khó khăn trên thực tế.
Cung cấp chứng cứ để chứng minh là nghĩa vụ của đương sự, trường
hợp đương sự không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa đầy đủ chứng cứ
mà Tòa án yêu cầu giao nộp vì “lý do chính đáng” thì đương sự phải chứng
minh. Quy định này còn mang tính chung chung khó có thể xác định lý do nào
là chính đáng và hiện nay chưa có quy định pháp luật nào hướng dẫn cụ thể để
áp dụng điều luật này. “Lý do chính đáng” có thể được hiểu là: Khi đương sự
không giao nộp tài liệu chứng cứ mà Tòa án yêu cầu giao nộp vì lý do chính
đáng thì đương sự phải làm tờ tường trình cụ thể bằng văn bản lý do chậm hoặc
không giao chứng cứ trong hạn luật định để chứng minh và Tòa án cấp sơ thẩm
cần ấn định thời gian cụ thể để đương sự cung cấp. “Lý do chính đáng” cần quy
định rõ là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác ví dụ như:
do thiên tai, lũ lục, do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện, do đương sự
không tự mình cung cấp được chứng cứ trước đó do phải chờ cơ quan tổ chức
khác cung cấp… Vấn đề này cần thiết phải có văn bản hướng dẫn cụ thể để
Thẩm phán thụ lý vụ án có căn cứ thực hiện giải quyết vụ án và đương sự có
79
thể thực hiện các nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình.
3.1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự
Ngày nay, nhu cầu toàn cầu hóa tự do thương mại và hội nhập quốc tế
là xu hướng chung của thời đại và của mỗi quốc gia trong đó đương nhiên có
cả Việt Nam. Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về
các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng trình bày ngày 21/01/2016 về việc Tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc tổ quốc,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại có nêu:
Thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi,
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,... nhằm
phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ
tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới [36, tr. 34 - 35].
Qua báo cáo chúng ta thấy rằng, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là
thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ hòa bình hợp tác và
phát triển chính sách đối ngoại mở rộng đa phương hóa đa dạng hóa các quan
80
hệ quốc tế.
Hiện nay, khoa học công nghệ cũng ngày càng phát triển và đang xuất
hiện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vì thế, các quan
hệ dân sự, kinh tế, thương mại cũng chịu ảnh hưởng bởi những tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Do đó, khi phát sinh các tranh chấp trong các lĩnh vực này liên
quan đến khoa học công nghệ này nếu như những chủ thể thực hiện nhiệm vụ
xét xử không bắt kịp sẽ gây khó khăn cho công tác xét xử mà cụ thể trong
việc xác định nguồn của chứng cứ. Đồng thời, nền kinh tế xã hội phát triển thì
các quan hệ xã hội cũng phát triển cũng kéo theo sự gia tăng tranh chấp các
quan hệ dân sự hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động do
nhiều nguyên nhân khác nhau ngày một nhiều đa dạng và phức tạp dẫn đến
Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều các vụ án dân sự, năm sau
thường tăng hơn năm trước.
Để đáp ứng với yêu cầu của thời đại, đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập
WTO và thuận lợi trong công tác xét xử, đòi hỏi pháp luật tố tụng dân sự cần
thiết phải có sự quy định về đầy đủ, chặt chẽ và cần thiết về các nghĩa vụ
chứng minh để giải quyết kịp thời và đúng pháp luật các vụ việc dân sự trong
thời đại khoa học kỹ thuật và thương mại phát triển. Có như vậy, mới đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế nâng cao chất lượng xét
xử nói riêng và công tác tư pháp nói chung.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa
vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
3.2.1. Kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, Để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng,
đảm bảo quyền được biết thông tin của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật TTDS của các
81
nước trên thế giới, cần thiết bổ sung vào Bộ luật TTDS 2015 quy định về thời
hạn thực hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho
nhau trước khi mở phiên toà và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.
Theo đó, khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 nên bổ sung theo hướng: “Khi
đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thực hiện ngay
việc sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều
109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải
thông báo ngay bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp
pháp của đương sự khác.
Trong trường hợp đương sự cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ
cho bên kia thì theo yêu cầu của đương sự, Tòa án buộc bên đương sự đang
lưu giữ tài liệu, chứng cứ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đó trong thời hạn do
thẩm phán ấn định, nhưng không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân
sự, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự. Nếu hết thời hạn này, đương sự
vẫn không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ thì bị phạt tiền và
thẩm phán sẽ không chấp nhận những tài liệu, chứng cứ không được các bên
đương sự trao đổi trong thời hạn đã được thẩm phán ấn định”.
Theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015, ngoài các biện pháp được quy
định trong Bộ luật TTDS 2011, Bộ luật TTDS 2015 còn bổ sung biện pháp thu
thập chứng cứ là xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
Thứ hai, mở rộng quyền và thời hạn cung cấp chứng cứ chứng minh
trong tố tụng dân sự. Cần bổ sung thêm quy định về việc đương sự được chủ
động yêu cầu các cơ quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá tiến
hành giám định, định giá, thẩm định giá và Tòa án phải công nhận kết quả
giám định, định giá, thẩm định giá do đương sự xuất trình. Như vậy mới nâng
82
cao được quyền tự thu thập chứng cứ của đương sự. Tuy nhiên, phương pháp
thu thập chứng cứ như thế nào thì BLTTDS năm 2015 lại chưa có quy định cụ
thể. Do đó, trên thực tế đương sự còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong
việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình dẫn đến đa số các
đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ mà đương sự lưu giữ
được mà không biết thu thập thêm các chứng cứ nào khác. Vì vậy, cần quy
định thành một điều luật cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ mà đương
sự có thể áp dụng tạo điều kiện cho việc chứng minh yêu cầu của đương sự,
đồng thời cũng giúp giảm tải bớt các bước tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Tòa án.
3.2.2. Kiến nghị liên quan đến việc xác định nguồn chứng cứ để đương
sự có căn cứ thực hiện nghĩa vụ chứng minh
Trên thực tế, về nguyên tắc, xác định nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử được yêu cầu phải xuất trình kèm
theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới
việc thu âm, thu hình đó nếu âm hình đó nhận được sự đồng thuận từ người bị
ghi âm ghi hình thì không sao nhưng khi họ không nhất trí với việc này ghi
âm hình lén nội dung ghi âm, hình do mâu thuận với quyền lợi của họ thì việc
có được xác nhận của người đó bị ghi âm ghi hình về xuất xứ của tài liệu này
rất khó đối với nguồn chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử. Theo quy định
tại Luật giao dịch điện tử năm 2005 thì:
Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ
vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông
điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông
điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù
hợp khác [23, Điều 14].
Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16
83
tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử lại đưa ra khái niệm:
Chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại là hợp đồng, đề
nghị, thông báo, xác nhận hoặc các tài liệu khác ở dạng thông điệp
dữ liệu do các bên đưa ra liên quan đến việc giao kết hay thực hiện
hợp đồng. Chứng từ điện tử trong Nghị định này không bao gồm
hối phiếu, lệnh phiếu, vận đơn, hóa đơn gửi hang, phiếu xuất nhập
kho hay bất cứ chứng từ có thể chuyển nhượng nào cho phép bên
nắm giữ chứng từ hoặc bên thụ hưởng được quyền nhận hàng hóa,
dịch vụ hoặc được trả một khoản tiền [19].
Cần có sự điều chỉnh phù hợp các điều luật thống nhất với nhau và quy
định cụ thể, rõ ràng về nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được, dữ liệu điện tử này.
Về xác định nguồn chứng cứ là kết luận giám định; kết quả định giá tài
sản, thẩm định giá tài sản cũng quy định chưa đầy đủ. Điển hình như về giá trị
kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của cơ quan tổ chức giám định,
định giá, thẩm định giá trong trường hợp đương sự yêu cầu các cơ quan tổ
chức này cung cấp về vấn đề này tại Báo cáo số 43/BC/TANDTC ngày 26
tháng 2 năm 2015 về tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân
sự đã nhận định như sau:
Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định cụ thể về một số vấn đề
như giá trị kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của các cơ
quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá, đặc biệt là trong
trường hợp cùng một vấn đề nhưng các cơ quan, tổ chức giám định,
định giá, thẩm định giá cho kết luận giám định hoặc giá trị tài sản
khác nhau; cơ quan giám định đưa ra kết luận không rõ ràng như sử
dụng cụm từ "có khả năng"; việc xử lý chi phí giám định, định giá
trong những trường hợp đương sự không nộp tạm ứng chi phí hoặc
84
chi phí giám định, định giá, đương sự rút đơn khởi kiện, đương sự
không yêu cầu giám định, định giá; việc đo vẽ tài sản là bất động
sản trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để tránh trường hợp
thực tế tài sản khác so với giấy tờ chứng nhận, khó khăn trong thi
hành án; việc xác định giá trị tài sản trong trường hợp mỗi bên
đương sự yêu cầu một đơn vị định giá khác nhau, có kết quả định
giá khác nhau,… [12, tr. 10].
Như vậy, để tạo điều kiện cho việc cung cấp các tài liệu, chứng cứ của
cá nhân, chủ thể tố tụng chứng minh cho quyền lợi của mình bằng việc Tòa án
chấp nhận kết quả kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của các cơ
quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá thì cũng cần phải có quy
định chung cho các cơ quan này sao cho kết quả kết luận giám định, định giá,
thẩm định giá không bị sai lệch nhiều gây khó khăn cho việc xem xét chứng
cứ của Tòa án trong việc giải quyết vụ án.
3.2.3. Các kiến nghị liên quan khác
Thứ nhất, các kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả việc thực hiện pháp
luật trong nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự.
Cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử và đạo
đức nghề nghiệp cho Thẩm phán.
- Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, ngành Tòa án cũng đặt ra yêu
cầu nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán phải hiểu biết pháp luật một cách
toàn diện để có thể giải quyết số lượng lớn các loại án dân sự hôn nhân và gia
đình hiện nay, nâng cao chất lượng xét xử, đem lại công bằng cho xã hội.
- Việc đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp dưới sự chỉ đạo của Tòa
án nhân dân tối cao trong những năm qua cũng đã rất chú trọng và áp dụng
nhiều biện pháp để có thể xây dựng đội ngũ cán bộ xét xử đủ về số lượng và
đảm bảo chất lượng công tác xét xử, do đó công tác đào tạo nguồn cán bộ xét
85
xử luôn được quan tâm.
- Tòa án nhân dân tối cao rất chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho Thẩm phán:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp
vụ cho cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp tiếp tục được
quan tâm, tăng cường, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức 05 khóa
đào tạo nghiệp vụ xét xử với tổng số 673 học viên, 05 khóa đào tạo
nghiệp vụ Thư ký Tòa án cho tổng số 426 công chức, 03 khóa bồi
dưỡng nghiệp vụ giải quyết các vụ án hành chính, các vụ án dân sự
và bồi dưỡng kiến thức về sổ nghiệp vụ và biểu mẫu thống kê cho
1.632 lượt Thẩm phán, cán bộ Tòa án nhân dân địa phương, 01 lớp
tập huấn nghiệp vụ tài chính - kế toán cho 200 học viên [33, tr. 14].
Ngoài ra, ngành Tòa án nhân dân cũng trú trọng đưa công nghệ thông
tin vào ứng dụng trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ:
Để triển khai thi hành các Bộ luật, luật có liên quan tới hoạt
động của Tòa án, đặc biệt là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự,
Luật tố tụng hành chính, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự,
Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức các Hội nghị trực tuyến tập huấn
chi tiết nội dung các Bộ luật, luật nêu trên cho các chức danh tư
pháp của các Tòa án; đồng thời, thực hiện chủ trương công khai các
bản án của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân, đã
tổ chức Hội nghị trực tuyến tập huấn về kỹ năng viết bản án cho các
đối tượng là Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán Tòa án nhân dân
các cấp, qua đó đông đảo cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp có
điều kiện được tham gia tập huấn với các giảng viên có nhiều kinh
nghiệm của Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan Trung ương.
Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ
86
chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm
phán, công chức và Hội thẩm Tòa án nhân dân thuộc quyền quản lý
cũng như cử cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị, quản lý nhà nước tại địa phương [33, tr. 14 - 15].
Việc công khai bản án trên cổng thông tin điện tử của Tòa án cũng là
nhiệm vụ quan trọng của các Thẩm phán:
Đối với các Thẩm phán cần phải thực hiện quán triệt về tư
tưởng, phải coi việc công khai bản án, quyết định là nhiệm vụ quan
trọng, cần được thực hiện nhanh chóng ngày sau khi bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật. Khi thực hiện công khai bản án, quyết
định cần được thực hiện đúng các quy định về mã hóa thông tin,
đảm bảo bí mật đời tư, bí mật kinh doanh... [4, tr. 14].
Do đó, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn
đối với đội ngũ cán bộ, đặc biệt là Thẩm phán về thực hiện chủ
trương công khai bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của
Tòa án. TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc cho công bố
những quyết định công nhận thỏa thuận của cấp sơ thẩm, phúc thẩm
vì đây cũng là những thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật,
có thể làm cơ sở tham khảo khi có những tranh chấp tự thương lượng
hoặc công tác hòa giải cơ sở hiệu quả hơn... [4, tr. 14].
Bên cạnh đó, ngành Tòa án nhân dân cũng trú trọng việc đào tạo các
cán bộ nguồn của Thẩm phán trong tương lai:
Thực hiện chức năng mới về đào tạo bậc đại học, Học viện
Tòa án đã tiến hành tuyển sinh và tổ chức khai giảng khóa II đào
tạo Cử nhân luật với 320 sinh viên, nâng tổng số sinh viên đang
theo học đào tạo đại học luật chuyên ngành Tòa án tại Học viện lên
531 người. Để nâng cao chất lượng đào tạo, Tòa án nhân dân tối
87
cao đã chỉ đạo Học viện Tòa án xây dựng và hoàn chỉnh Bộ giáo
trình đào tạo chuyên ngành; đổi mới phương pháp dạy và học, ra đề
thi theo hướng bám sát với kiến thức học trên lớp và thực tiễn xét
xử; đổi mới và áp dụng phương pháp hỏi thi vấn đáp trên hồ sơ tình
huống là một vụ án cụ thể; cập nhật, chỉnh lý bài giảng đối với tất
cả các bộ môn đào tạo theo quy định các Bộ luật, luật tố tụng mới.
Ngoài ra, trong chương trình đào tạo, học viên được tham dự các
phiên tòa thực tế để trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với Tòa án địa
phương, qua đó có thêm các kiến thức thực tế về kỹ năng điều hành
phiên tòa. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục quyết định biệt
phái các cán bộ có trình độ Tiến sỹ luật hiện đang công tác tại các
Tòa án về công tác tại Học viện Tòa án; có cơ chế để Học viện Tòa
án thu hút những người tâm huyết, có trình độ học hàm, học vị và
những chuyên gia công tác lâu năm, nhiều kinh nghiệm đã nghỉ hưu
tham gia công tác giảng dạy để tăng cường nguồn nhân lực có chất
lượng cho Học viện Tòa án nhằm làm tốt công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn nghiệp vụ [33, tr. 15].
Với tình hình giao lưu hợp tác quốc tế như ngày nay để nâng cao trình
độ cho đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân ngoài việc đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật của Việt Nam còn phải nỗ lực trong việc tiếp và
tìm hiểu các kiến thức pháp luật của nước ngoài:
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, một điểm nổi bật trong năm
2017 đó là đã chú trọng nghiên cứu pháp luật quốc tế về những vấn
đề có liên quan để học tập kinh nghiệm và triển khai thực hiện cho
phù hợp với điều kiện và khung pháp lý của Việt Nam. Tiếp tục
triển khai các dự án do nước ngoài tài trợ (dự án KOICA Hàn Quốc,
JICA của Nhật Bản, UNICEF), Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức
88
thành công nhiều các khóa bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo tư pháp,
hội thảo như: hội thảo trao đổi kinh nghiệm về bảo đảm tranh tụng
trong xét xử; hội thảo tìm hiểu các quy định mới của Bộ luật dân sự
và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng..., từ đó
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, trao đổi kinh nghiệm quốc tế
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án [33, tr. 18].
Đồng thời Tòa án nhân dân tối cao không chỉ yêu cầu các số lượng
thẩm phán của các tòa án phải đủ mà còn yêu cầu các thẩm phán phải có đạo
đức nghề nghiệp tốt.
Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua gắn với việc thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh”. Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật và của
Tòa án nhân dân về chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, công chức
trong thực thi nhiệm vụ [33, tr. 23].
Tuy nhiên, công tác tổ chức cán bộ vẫn còn những vướng mắc nhất
định như số lượng cán bộ làm công tác xét xử vẫn còn thiếu và đặc biệt ở các
tỉnh miền núi. Một số cán bộ còn vi phạm đạo đức pháp luật nên đã làm ảnh
hưởng rất nhiều đến hiệu quả giải quyết các vụ án chung của toàn ngành. Tòa
án nhân dân tối cao cũng đã đưa ra các giải pháp khắc phục như:
Đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động
xét xử; tập trung giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ để kịp thời
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử của các
Tòa án. Triển khai tập huấn và tổ chức thực hiện sâu rộng các luật
mới có hiệu lực thi hành có liên quan tới hoạt động của Tòa án nhân
dân, đặc biệt là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính. Làm tốt công
89
tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức;
trong đó, chú trọng việc đào tạo thông qua việc rút kinh nghiệm xét
xử, động viên cán bộ, công chức tự nghiên cứu học tập nâng cao
trình độ chuyên môn. Tập trung bồi dưỡng, tập huấn các văn bản
pháp luật mới, bồi dưỡng chuyên sâu và kỹ năng xét xử cho Thẩm
phán và Hội thẩm. Đổi mới và tích cực ứng dụng công nghệ thông
tin vào công tác tổng kết thực tiễn xét xử nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp luật trong xét xử [33, tr. 22].
Cần tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tố tụng
dân sự để nâng cao nhận thức của người dân và đặc biệt là các đương sự về
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến công tác tuyên
truyền và giáo dục pháp luật. Điển hình, trong Kết luận của Ban Bí thư số 04-
KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban chấp hành Trung ương về kết quả thực hiện
Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 9-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ nhân dân có nêu:
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật không ngừng được
đổi mới, nội dung đã bám sát và phục vụ kịp thời việc triển khai
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của mỗi bộ, ngành, địa phương; từng bước
khắc phục được tính hình thức. Nguồn kinh phí phục vụ cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được quan tâm đầu tư năm sau
cao hơn năm trước [35].
Tuy nhiên, việc nhận thức về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình của các chủ thể tham gia tố tụng vẫn còn
90
nhiều hạn chế. Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự đương sự có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu,
chứng cứ. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu
thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề
nghị Tòa án tiền hành thu thập tài liệu, chứng cứ giúp mình. Tuy nhiên, với
trình độ nhận thức còn thấp của những người dân tại những địa phương vùng
sâu vùng xa, có những nơi người dân không biết nói tiếng Việt, không biết
đọc biết viết thì việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho quyền lợi của
mình sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó:
Tòa án nhân dân tối cao đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác
thông tin – tuyên truyền Tòa án nhân dân để định hướng công tác
tuyên truyền trong toàn hệ thống. Trên cơ sở định hướng của Ban chỉ
đạo, Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý, Cổng Thông tin điện tử
Tòa án nhân dân tối cao và các trang thông tin điện tử Tòa án nhân
dân địa phương đã tuyên truyền kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm về
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn
bản chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán, các văn bản pháp luật mới và các hoạt động
của Tòa án các cấp, các phong trào thi đua yêu nước, gương người
tốt, việc tốt trong toàn hệ thống với hình thức truyền tải thông tin có
nhiều đổi mới và các bài viết có chất lượng, phản ánh khá toàn diện
các hoạt động của Tòa án, đáp ứng yêu cầu tìm hiểu thông tin,
nghiên cứu khoa học của bạn đọc trong và ngoài hệ thống [33, tr.19].
Đồng thời: Trong những năm qua, các Tòa án, đặc biệt là các
Tòa án vùng cao đã xây dựng nhiều kế hoạch, tích cực chủ động
phối hợp với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để tổ chức giáo dục
pháp luật bằng nhiều hình thức như giới thiệu các luật mới có hiệu
91
lực pháp luật trên phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức học tập
tại các đơn vị cho từng đối tượng riêng theo chuyên đề... Việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật cũng được các đơn vị Tòa án không
ngừng được đổi mới về nội dung, phương pháp trình bày như sử
dụng phần mềm Powerpoint để trình chiếu minh họa; tổ chức các
buổi nói chuyện, tọa đàm; đặc biệt là tổ chức xét xử lưu động, đưa
các phiên tòa về từng xã, bản [4, tr. 28].
Nhờ đó người dân có ý thức pháp luật tốt hơn và hiểu rõ trách nhiệm
của mình khi tham gia các hoạt động tố tụng dân sự nói chung và hoạt động
cung cấp chứng cứ, chứng minh nói riêng.
Cần tăng cường phát triển đội ngũ Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc
người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật cả về số lượng
và chất lượng để tham gia các vụ án dân sự.
Thực tế không thể phủ nhận, luật sư có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, các cơ quan, tổ chức
khi tiếp cận với các hoạt động liên quan đến pháp luật. Tuy nhiên, đội ngũ
luật sư trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý được chỉ định
theo quy định của pháp luật để trợ giúp pháp lý còn thiếu và yếu chưa đáp
ứng được nhu cầu tham gia tố tụng của các cá nhân, tổ chức. Trước đây tại
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có nêu:
Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm
phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán
quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
92
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để
ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn quy định [7].
Từ đó, chúng ta thấy rằng cần nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp
của đội ngũ của luật sư. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nêu rõ:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế
bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng
thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo
điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật
sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên
của mình [13, tr.6].
Với tình hình kinh tế xã hội ngày nay cần tăng cường và nâng cao chất
lượng đội ngũ Luật sư. Ngày 05 tháng 7 năm 2011 Thủ tướng chính phủ đã có
Quyết định số 1072/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư đến
năm 2020. “Quá trình hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, việc phải thực hiện các nghĩa vụ thành
viên, các cam kết quốc tế khi là thành viên của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đặt các doanh nghiệp của Việt Nam, cơ
quan nhà nước Việt Nam trước sức ép cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ trên
thị trường thế giới mà ngay cả thị trường trong nước. Các quan hệ kinh tế, hoạt
động thương mại ngày càng sống động, đa dạng và phức tạp hơn. Để chủ động
vượt qua thách thức nói trên thì việc phát triển nguồn nhân lực trong nước là
một yếu tố vô cùng quan trọng, trong đó có nhu cầu cấp bách về việc cần thiết
có Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư trước những yêu cầu và bối cảnh mới.
Việc xây dựng “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” là nhằm thể
93
chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 49-NQ/TW) và Chỉ thị số 33-CT/TW
ngày 30 tháng 3 năm 2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với tổ chức và hoạt động luật sư nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ luật
sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị,
trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu
cầu của xã hội, bảo đảm ngày càng có nhiều luật sư am hiểu pháp luật và tập
quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề luật sư,
có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực và quốc tế.” với mục tiêu
cụ thể về số lượng, chất lượng và như sau: “Từ nay đến năm 2015, phát triển số
lượng luật sư khoảng 12.000 luật sư, mỗi năm được từ 800 đến 1000 người,
trong đó, tại mỗi địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn phát triển
được từ 2 đến 3 luật sư. Phát triển đội ngũ luật sư hành nghề chuyên sâu trong
các lĩnh vực pháp luật, chú trọng đến việc đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực
thương mại, đầu tư, phấn đấu đạt khoảng 1.000 luật sư phục vụ yêu cầu hội
nhập quốc tế. Đến năm 2020, phát triển số lượng khoảng từ 18.000 - 20.000
luật sư, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp ứng ngày càng cao
nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp; tại
mỗi địa phương có khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội có từ 30 đến 50 luật
sư, bảo đảm tham gia 100% số lượng các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng; số luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế là khoảng 150 người. Nâng cao chất lượng đội ngũ
luật sư, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư thành nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế -
94
xã hội, bổ sung nguồn cho các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà
nước từ đội ngũ luật sư giỏi, có bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức. Đến
năm 2015, bảo đảm luật sư được đào tạo bài bản theo chương trình chuẩn về cử
nhân luật, đào tạo nghề luật sư theo hướng hội nhập với khu vực và thế giới; có
50% số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ chuyên môn,
kỹ năng hành nghề và đạo đức ứng xử nghề nghiệp. Đến năm 2020, đảm bảo
100% số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao về nghiệp vụ
chuyên môn, kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp theo chuẩn
mực nghề nghiệp luật sư; tạo nguồn lựa chọn những luật sư giỏi để có thể bổ
nhiệm vào các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà nước” [34]. Quyết
định trên nhằm tạo điều kiện cho luật sư tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố
tụng, thực hiện có hiệu quả và chất lượng khi tranh tụng tại phiên tòa. Khi đạt
được kết quả sẽ có nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức, pháp nhân và doanh nghiệp
sử dụng luật sư để tư vấn và tham gia giải quyết các vụ án. Từ đó, chất lượng
và hiệu quả của hoạt động xét xử giải quyết các vụ án dân sự sẽ ngày càng
được nâng cao. Đồng thời, việc cung cấp, sử dụng các chứng cứ trong tố tụng
dân sự cũng sẽ ngày càng chặt chẽ và đúng pháp luật hơn.
Ngoài ra, Nhà nước ta cũng đã chú trọng tới việc tăng cường đội ngũ
trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, số lượng
người làm trợ giúp viên pháp lý còn ít, năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn
hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có chế độ tốt hơn đối với đội ngũ này và tăng
cường đào tạo về pháp luật cho họ. Có như vậy, đây cũng sẽ là cơ sở để hỗ trợ
cho các đương sự trong quá trình đánh giá, khai thác và sử dụng các nguồn
chứng cứ trong tố tụng dân sự.
Cần tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị khoa học tiên tiến cho việc đánh
giá chứng cứ để xác định đầy đủ nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh của
các chủ thể
95
Trong giai đoạn hiện nay, muốn hội nhập quốc tế một trong những yêu
cầu đặt ra là Nhà nước ta phải chú trọng vào việc phát triển khoa học, công
nghệ. Tại báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn
kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình
bày ngày 21-01-2016 cũng đã nhắc tới:
Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học,
công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nên kinh
tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển,
ứng dụng khoa học – công nghệ cần được ưu tiên tập trung đầu tư
trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa
học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ
chế tài chính để giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh tiến bộ
khoa học – công nghệ vào hoạt động thực tiễn [36, tr. 27 - 28].
Để bắt kịp với xu thế phát triển khoa học, công nghệ hiện nay, ngành
Tòa án cũng rất chú trọng tới việc tăng cường các cơ sở vật chất, thiết bị khoa
học phục vụ công tác xét xử: “Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các
hoạt động của Tòa án tiếp tục được tăng cường, tập trung vào nâng cấp hạ
tầng công nghệ thông tin (nâng cấp đường truyền, hệ thống máy chủ tại các
Tòa án; xây dựng hệ thống truyền hình trực tuyến từ Tòa án nhân dân tối cao
tới tất cả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; nâng cấp Cổng thông tin
điện tử Tòa án nhân dân tối cao, xây dựng mới 66 Trang thông tin điện tử của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 03 Tòa án nhân dân cấp cao; đầu tư thiết bị tường
lửa và RAM cho máy chủ); triển khai xây dựng nhiều phần mềm ứng dụng
mới, như: phần mềm “Dịch vụ công trực tuyến đăng ký cấp sao bản án, tài
96
liệu trong hồ sơ vụ án”; phần mềm giám sát Thẩm phán; phần mềm thư điện
tử... Đặc biệt, bước đầu cũng đã triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động nghiệp vụ, như: ban hành Nghị quyết hướng dẫn việc gửi,
nhận đơn khởi kiện và các tài liệu bằng hình thức trực tuyến qua internet; thực
hiện việc công khai các bản án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân
dân tối cao; triển khai xây dựng phần mềm “số hóa các tài liệu kèm theo tờ
trình của các vụ án trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”, phần
mềm gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt, thông báo văn
bản tố tụng qua mạng và bằng phương tiện điện tử” [33, tr.18 - 19]. Có như
vậy, việc khai thác, sử dụng các nguồn chứng cứ mới chất lượng, hiệu quả và
97
phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Kết luận chƣơng 3
Sau khi nghiên cứu các nội dung tại chương 3, tác giả luận văn rút ra
một số kết luận:
Thứ nhất, trong những năm gần đây việc giải quyết các vụ việc dân sự
của các tòa án đã đạt kết quả ngày một tốt hơn do có nhiều tiến bộ trong các
quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy
nhiên, thực tế cũng cho thấy, việc thực hiện các quy định của pháp luật về
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự trong giải quyết vụ các vụ án dân
sự vẫn còn nhiều những vướng mắc, bất cập. Điển hình như tòa án chưa chủ
động hướng dẫn đương sự cung cấp hoặc tự mình thu thập chứng cứ để chứng
minh các yêu cầu của mình theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy, còn nhiều trường hợp các đương sự
và các chủ thể tham gia tố tụng khác vẫn chưa thực hiện tốt các quyền, nghĩa
vụ chứng minh của mình. Để nâng cao chất lượng xét xử giải quyết các vụ án
thì việc hướng dẫn các chủ thể tham gia tố tụng có nghĩa vụ chứng minh hoặc
chủ động chứng minh là vô cùng cấp thiết.
Thứ ba, cần nâng cao nhận thức của đương sự và người dân về pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân mỗi
người nói riêng. Ngành Tòa án nhân dân cần trú trọng trong việc nâng cao
chất lượng đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp của mình. Còn đối với Nhà nước, cần tăng cường đào tạo và có những
biện pháp hỗ trợ để tăng cường số lượng cũng như chất lượng Luật sư, trợ
98
giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng dân sự.
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu các nội dung liên quan đến nghĩa vụ chứng minh
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, luận văn rút ra các kết luận:
Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh là một chế định cơ bản của tố tụng dân sự
nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự.
Thứ hai, việc giải quyết vụ án dân sự phải thông qua các hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự như: hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ của các chủ thể chứng minh. Vì vậy, khi giải quyết
vụ án dân sự ngoài việc phải làm rõ được các vấn đề cần chứng minh để định
hướng cho việc tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ chứng minh có
hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Thứ ba, Trong thời kỳ Pháp thuộc, đã xây dựng và ban hành được một
số đạo luật quy định riêng về tố tụng dân sự trong đó có các quy định về
chứng cứ trong tố tụng dân sự. Đến năm 1945 Cách mạng tháng tám thành
công nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật mới. Từ đó đến nay, hệ
thống pháp luật tố tụng dân sự không ngừng được hoàn thiện trong đó có các
quy định về chứng minh nói chung và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể
nói riêng. Chỉ đến khi BLTTDS năm 2004 được ban hành thì các quy định về
chứng minh và chứng cứ mới được quy định tương đối đầy đủ.
Thứ tư, việc thực hiện chặt chẽ, đầy đủ, nghiêm minh các quy định
pháp luật về đặc biệt là các vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự đã giúp
cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của các Tòa án ngày một tốt hơn. Tuy
nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì việc thực hiện các quy định của pháp luật
về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn những
vướng mắc hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết nhanh chóng và
99
đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án.
Thứ năm, để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự thì ngoài việc
phải hoàn thiện chế định chứng minh còn cần phải nâng cao chất lượng đội
ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Luật sư, trợ giúp viên pháp lý và người
tham gia trợ giúp pháp lý để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao phù hợp với tình
100
hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW
ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập, Hà Nội.
2. Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng,
Trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật, TP Hồ Chí Minh.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Các nghị quyết của Trung ương Đảng
2011 – 2015 năm 2016, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2017), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu ban chấp
hành trung ương khóa XII, Nxb Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Hà. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học Một số vấn đề của pháp
luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
7. Nguyễn Minh Hằng (2005), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
8. Nguyễn Minh Hằng (2007), Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự
Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
9. Nguyễn Minh Hằng (2009), “Tập quán nguồn luật hay chứng cứ”, Tạp
chí Tòa án nhân dân, tháng 5, Hà Nội.
10. Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
11. Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng
minh và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự của”, Tạp chí
101
Kiểm sát, (20).
12. Nguyễn Minh Hằng (2018), Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng
minh và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự, Webside
Trường Đại học Kiểm Sát, Hà Nội.
13. Hà Thị Mai Hiên (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay, đề tài cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2008 – 2009.
14. Ngũ Thị Như Hoa (2014), Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan tổ chức trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
15. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh số 27-LCT/HHĐNN8 Ngày
7/12/1989 về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
16. Nguyễn Vinh Hưng (2018), “Cần nghiên cứu, đổi mới cơ chế hoạt động của Thừa phát lại, ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (01), Hà Nội.
17. Nguyễn Vinh Hưng (2019), Các tình tiết sự kiện không phải chứng
minh trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hà Nội.
18. Bùi Thị Huyền (2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, Nxb Lao Động, Hà Nội.
19. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng
dân sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân gia đình, Hà Nội.
21. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
22. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.
23. Quốc hội (2005), Luật giao dịch điện tử, Hà Nội.
24. Quốc hội (2006), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
25. Quốc hội (2013), Luật Lao động, Hà Nội.
26. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
102
27. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân gia đình, Hà Nội.
28. Quốc hội (2014), Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
31. Quách Mạnh Quyết (2009), Vai trò chứng minh của đương sự trong tố
tụng dân sụ- Vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay
(Công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học - Đại học
Luật Hà Nội năm 2009, Hà Nội.
32. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày
05/07/2011 về phê duyệt chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm
2020, Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo số 43/BC-TANDTC ngày
26/2/2015 về tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự,
Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo số 03/BC-TA ngày 29/01/2016
về tổng kết công tác năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm
2016 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.
36. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và
nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.
37. Đinh Quốc Trí (2012), Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp cứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự
103
Việt Nam, tái bản lần thứ 16 năm 2017, Nxb CAND.
40. Nguyễn Minh Tuấn (2015), “Quốc triều khám tụng điều lệ với việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (01), Hà Nội.
41. Vũ Hoa Tươi (2013), Các nghị quyết mới nhất của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung, Nxb Thời đại, Hà Nội.
42. Viện Ngôn ngữ Khoa học – Xã hội – Nhân văn (2007), Từ điển Tiếng
104
Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.