ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG

NGHÜA Vô CHøNG MINH TRONG PH¸P LUËT Tè TôNG D¢N Sù VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ ĐINH HƢƠNG

NGHÜA Vô CHøNG MINH TRONG PH¸P LUËT Tè TôNG D¢N Sù VIÖT NAM HIÖN NAY

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Đinh Hƣơng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG

MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .......................... 9

1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam ........................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự ........................................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ....... 13

1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ........ 16

1.1.4. Các cấp độ chứng minh ...................................................................... 18

1.1.5. Sự cần thiết của việc thực hiện hoạt động chứng minh trong pháp

luật tố tụng dân sự .............................................................................. 20

1.1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nghĩa vụ chứng minh trong

tố tụng dân sự ..................................................................................... 30

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển nghĩa vụ chứng minh trong

tố tụng dân sự ................................................................................... 32

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 .................................................................. 32

1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 ............................................................... 35

1.2.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004 ............................................................... 36

1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ...... 39

1.2.5. Pháp luật Việt Nam hiện nay ............................................................. 41

Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 43

CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ NGHĨA VỤ

CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ........ 44

2.1. Chủ thể và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể ..... 44

2.1.1. Đương sự ............................................................................................ 44

2.1.2. Người đại diện của đương sự ............................................................. 50

2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự..................... 54

2.1.4. Tòa án nhân dân ................................................................................. 56

2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân ...................................................................... 57

2.1.6. Những người tham gia tố tụng khác ................................................... 58

2.2. Hoạt động chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố

tụng dân sự ........................................................................................ 60

2.2.1. Bản chất và khái niệm của hoạt động chứng minh ............................ 60

2.2.2. Đối tượng chứng minh ....................................................................... 61

2.2.3. Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh ........................ 61

2.2.4. Phạm vi chứng minh .......................................................................... 61

2.3. Nội dung chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự ................. 62

2.3.1. Cung cấp chứng cứ ............................................................................. 62

2.3.2. Thu thập chứng cứ .............................................................................. 63

2.3.3. Nghiên cứu chứng cứ ......................................................................... 65

2.3.4. Đánh giá chứng cứ ............................................................................. 65

2.4. Quá trình chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố

tụng dân sự ........................................................................................ 66

2.4.1. Nội dung chứng minh ......................................................................... 66

2.4.2. Phương pháp thực hiện nghĩa vụ chứng minh ................................... 66

2.5. Xu hƣớng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật

tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay .................................................. 67

2.5.1. Khuynh hướng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh từ Tòa án sang

đương sự ............................................................................................. 67

2.5.2. Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự phản

đối đó .................................................................................................. 68

2.5.3. Đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ................................. 69

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 74

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA

VỤ CHỨNG MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ

VIỆT NAM ................................................................................................... 75

3.1. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam ...................................................................... 75

3.1.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về

nghĩa vụ chứng minh .......................................................................... 75

3.1.2. Nghĩa vụ chứng minh từ thực tiễn hoạt động xét xử ......................... 77

3.1.3. Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng

minh của các chủ thể .......................................................................... 78

3.1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ chứng

minh trong tố tụng dân sự .................................................................. 80

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về

nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.................................... 81

3.2.1. Kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật ............................ 81

3.2.2. Kiến nghị liên quan đến việc xác định nguồn chứng cứ để đương sự

có căn cứ thực hiện nghĩa vụ chứng minh .......................................... 83

3.2.3. Các kiến nghị liên quan khác ............................................................. 85

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 98

KẾT LUẬN .................................................................................................... 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Hiện nay, các vấn đề về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong Bộ

luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) được quy định tương đối rõ

ràng, đầy đủ và khoa học. Theo các quy định của BLTTDS 2015 và các văn

bản hướng dẫn thi hành thì các phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào các

tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét trong quá trình tố tụng. Đồng

thời, từ kết quả của việc trình bày và hỏi tại phiên toà, Tòa án còn phải xem

xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng và Kiểm sát viên nếu có

tham gia phiên tòa.

Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong những năm gần

đây cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy, bị sửa hay án phải giải quyết qua nhiều cấp

xét xử vẫn còn khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này một phần cơ bản

xuất phát từ việc chưa có sự hiểu biết đúng đắn, chưa quan tâm toàn diện về

vấn đề chứng minh cũng như nghĩa vụ chứng minh của các đương sự và của

các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như còn tình trạng đánh giá và sử dụng

chứng cứ không có giá trị chứng minh.

Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khóa

XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và

hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập số 19/NQ/TW ngày

25/10/2017 đã đề ra mục tiêu “Giai đoạn đến năm 2025 và 2030 Hoàn thiện

đầy đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật để thể chế hóa các chủ trương của

Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, tổ chức và hoạt động của

đơn vị sự nghiệp công lập”[1]. Theo đó, tại Kết luận của Bộ chính trị số 92-

1

KL/TW ngày 12/3/2014 của Ban chấp hành Trung ương về việc tiếp tục thực

hiện Nghị quyết số 49-NQ-TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị khóa IX về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu:

Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến

tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ; đã sửa đổi, bổ sung

nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi

hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp theo đúng chủ

trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp. Tổ

chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn và xác

định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ... việc tranh tụng tại phiên tòa

bước đầu đạt được một số kết quả tích cực… đã chuẩn hóa trình độ

đội ngũ cán bộ; quy định rõ hơn cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các

chức danh tư pháp; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp từng

bước được cải thiện [35, tr.770 - 771].

Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng tới

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, việc hoàn thiện các văn bản

pháp luật về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh để làm rõ bản chất của vụ

án trong tố tụng dân sự được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm cùng với

sự hoàn thiện hệ thống pháp luật chung.

Từ đó, có thể thấy rằng, việc đánh giá đúng tầm quan trọng của việc

chứng minh và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong quá trình thụ lý,

xét xử các vụ án dân sự là rất quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về

nghĩa vụ chứng minh mang lại giá trị không những về mặt lý luận khoa học

mà còn cả về mặt thực tiễn xét xử. Đây cũng chính là lý do tác giả luận văn

xin lựa chọn đề tài: “Nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự

Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

Nghĩa vụ chứng minh là một vấn đề quan trọng trong tố tụng dân sự.

Chính vì vậy, liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu

đề cập nhưng ở những khía cạnh khác nhau. Trong đó, qua tìm hiểu, các công

trình nghiên cứu điển hình có đề cập đến nghĩa vụ chứng minh như:

Đề tài khoa học, tác giả Hà Thị Mai Hiên “Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ của

Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2008 - 2009;

Các công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ thì

tiêu biểu có luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Minh Hằng “Chế định chứng

minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội

năm 2007; luận văn thạc sĩ của Vũ Văn Đồng “Chứng cứ và vấn đề chứng

minh trong Bộ luật tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội

năm 2007; luận văn thạc sĩ của Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng

cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà

Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Hương “Hoạt động thu thập

chứng cứ của tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Trường Đại

học Luật Hà Nội năm 2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt

động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự

của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật

Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Quàng Hồng Nết “Cung cấp chứng cứ

trong tố tụng dân sự - Thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La” bảo vệ tại

Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015; luận văn thạc sĩ của Đặng Minh

Chiến “Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự” bảo

vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Phạm Thị

Thanh Nga “Nguyên tắc chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường

Đại học Luật Hà Nội năm 2016; luận văn thạc sĩ của Ngũ Thị Như Hoa

“Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức

3

trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà

Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên

cứu và đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo

vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; luận văn

thạc sĩ của Nguyễn Quang Anh “Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt

Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;

luận văn thạc sĩ của Đinh Ngọc Hoa với chủ đề “Nguồn chứng cứ theo pháp

luật tố tụng dân sự Việt Nam” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc

gia Hà Nội năm 2019. v.v..

Về giáo trình, sách tham khảo có một phần nội dung liên quan đến

nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự như: “Giáo trình Luật tố tụng dân

sự” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm

2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa Luật trực thuộc

Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm

2014; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật

Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2016; sách tham

khảo “Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh” của tác giả Tống

Công Cường do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất

bản năm 2007; sách tham khảo “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự

sửa đổi” chủ biên Nguyễn Văn Cường, Trần Anh Tuấn và Đặng Thanh Hoa

do Nhà xuất bản Lao động –Xã hội xuất bản năm 2012; sách tham khảo

“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” chủ biên tác giả Bùi

Thị Huyền do Nhà xuất bản Lao động xuất bản năm 2016 v.v...

Về các bài viết đăng tải trên các tạp chí có tác giả Duy Kiên “Đánh giá

toàn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự việc”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

số 1/2000 tr.21 - 22, 34; tác giả Nguyễn Thế Giai “Xác định địa vị tố tụng của

đương sự và đánh giá chứng cứ trong vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và

4

Pháp luật, số 9/2000, tr.29 – 32; tác giả Bùi Thị Huyền “Thời hạn cung cấp

chứng cứ của đương sự”, Tạp chí Luật học, số 1/2002, tr.36 – 39; tác giả

Hoàng Ngọc Thỉnh với bài viết: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân

sự”, Tạp chí Luật học, số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, tháng

4/2004, tr.65 - 69; tác giả Nguyễn Minh Hằng “Tập quán nguồn luật hay

nguồn chứng cứ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2004, tr.20 - 22; tác giả

Tưởng Duy Lượng “Một vài suy nghĩ về vấn đề chứng cứ và chứng minh

được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

20/2004, tr.9 - 13; tác giả Dương Quốc Thành “Chứng cứ và chứng minh

trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2004, tr. 21 - 28; tác giả

Tưởng Duy Lượng “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Đặc san Nghề luật, số 10 tháng 01/2005;

tác giả Phan Thanh Tùng “Bàn về Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá

tài sản”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2012, tr.22 - 25; tác giả Đỗ văn

Chỉnh “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tạp chí Tòa án nhân dân số

14/2015, tr.24 - 30; tác giả Nguyễn Vinh Hưng “Các tình tiết sự kiện không

phải chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát

số 04/2016 và bài viết “Nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự

năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 20/2018, tr.3 - 8, v.v...

Về cơ bản, có thể thấy rằng, những công trình nghiên cứu trên tiếp cận

nhìn nhận ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến một số vấn đề về chứng

minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy vậy, các công trình

nghiên cứu đó mới chỉ nhìn nhận ở những vấn đề chung tập trung hầu hết ở

góc độ chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự. Từ đó, để góp phần xây

dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về nghĩa vụ chứng minh trong tố

tụng dân sự thì cần thiết phải có những công nghiên cứu một cách chuyên sâu,

toàn diện, đầy đủ và có tính hệ thống các vấn đề về nghĩa vụ chứng minh

5

trong tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam. Do vậy, tác giả luận văn tiếp

tục kế thừa và phát triển từ các kết quả của các công trình nghiên cứu trên để

xây dựng, hoàn thiện đề tài “Nghĩa vụ chứng minh cứ trong tố tụng dân sự”.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về nghĩa vụ

chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề trong pháp luật thực định

bao gồm các quy định hiện hành của Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh (Bộ

luật, nghị định, Nghị Quyết, Thông tư liên tịch, Thông tư…) trong tố tụng

dân sự và pháp luật có liên quan. Trên cơ sở các quy định này được đưa vào

thực tiễn để áp dụng đã làm nảy sinh những vấn đề hạn chế, bất cập gây ảnh

hưởng đến việc áp dụng quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố

tụng dân sự.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Mục đích của đề tài là thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được

đề ra ở trên, tác giả mong muốn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về

nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Phân tích,

đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ

chứng minh. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy

định về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự để từ đó góp

phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc dân sự.

Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận

văn phải giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng

minh. Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay

6

về nghĩa vụ chứng minh.

Thứ hai, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của BLTTDS 2015

về nghĩa vụ chứng minh.

Thứ ba, chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của BLTTDS 2015

về nghĩa vụ chứng minh.

Thứ tư, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp

luật tố tụng dân sự về nghĩa vụ chứng minh và một số giải pháp để nâng cao

hiệu quả của việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong thực tế.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp luận được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu đề

tài là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ

nghĩa Mác - Lênin.

Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành khoa học xã

hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng được tác giả luận văn kết hợp sử

dụng như: phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích; phương pháp so

sánh; phương pháp đánh giá các quy định pháp luật.

6. Đóng góp của đề tài

Trong phạm vi nghiên cứu giới hạn, luận văn tập trung vào những điểm

chính sau:

Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu và phân tích có hệ thống các vấn

đề lý luận cơ bản như khái niệm, đặc điểm... của các quy định về nghĩa vụ

chứng minh trong tố tụng dân sự.

Về mặt thực tiễn, từ thực trạng quy định của pháp luật về nghĩa vụ

chứng minh luận văn hệ thống và phân tích một cách cụ thể, chi tiết để từ đó

tìm ra các điểm bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật hiện nay về nghĩa

vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.

Về mặt định hướng hoàn thiện, luận văn đưa ra cơ sở hình thành những

định hướng và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện hơn nữa các quy định

7

pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn gồm 3 chương với kết cấu:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng

dân sự Việt Nam

Chương 2: Quy định pháp luật hiện nay về nghĩa vụ chứng minh trong

tố tụng dân sự Việt Nam.

Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các

8

quy định pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong pháp

luật tố tụng dân sự

* Khái niệm nghĩa vụ chứng minh

Về bản chất, chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập,

cung cấp, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở

thực tế các yêu cầu của các bên đương sự trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham

gia vào quá trình này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị

trí tố tụng của từng chủ thể.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015) quy định nghĩa vụ cung

cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện thuộc về đương sự. Toà án

chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã áp dụng mọi biện pháp nhưng

vẫn không tự thu thập được và có yêu cầu Toà án tiến hành thu thập.

Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp

chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có

căn cứ và hợp pháp. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và

nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.

Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ

và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường

hợp do Bộ luật này quy định [30, Điều 6].

9

Nguyên tắc này được cụ thể hoá tại Điều 91 BLTTDS 2015 như sau:

1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho Tòa án tài

liệu; chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp

pháp; trừ các trường hợp sau đây:

a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh

lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ. Tổ chức; cá

nhân kinh doanh hàng hóa; dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh

mình không có lỗi gây ra thiệt hại; theo quy định của Luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng;

b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà

không cung cấp; giao nộp được cho Tòa án tài liệu; chứng cứ vì lý

do tài liệu; chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý;

lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp; giao

nộp tài liệu; chứng cứ đó cho Tòa án.

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp

đồng lao động; thuộc trường hợp người sử dụng lao động không

được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người

lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ

chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ

chứng minh.

2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình

phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập; cung cấp; giao nộp cho

Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.

3. Cơ quan; tổ chức; cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công

10

cộng; lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của người khác phải thu thập; cung cấp; giao nộp

cho Tòa án tài liệu; chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện;

yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức; cá nhân kinh doanh

hàng hóa; dịch vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng.

4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà

không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì

Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập

được có trong hồ sơ vụ việc [30, Điều 91].

Ngoài ra, cần phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách

nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự. Tại khoản 2 Điều 85 của Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS 2011) (có hiệu

lực từ 01/01/2012) đã ghi nhận: Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định,

Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu,

chứng cứ. Như vậy, so với khoản 2 Điều 85 của BLTTDS năm 2004, Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2011 hoặc tại Điều 97 BLTTDS 2015

đã bỏ quy định: Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được

chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện

pháp thu thập chứng cứ. Việc bỏ quy định đương sự không thể tự mình thu

thập chứng cứ và có yêu cầu mới là điều kiện để Tòa án thu thập chứng cứ,

đặt ra những vấn đề tranh cãi cần thống nhất về cách hiểu khi áp dụng trong

thực tiễn xét xử liên quan đến quan niệm về nghĩa vụ chứng minh hay trách

nhiệm chứng minh của Tòa án (TA), Viện kiểm sát (VKS). Theo đó nghĩa vụ

chứng minh trong tố tụng dân sự là của các đương sự; Tòa án và Viện kiểm

11

sát không có nghĩa vụ chứng minh chỉ có trách nhiệm chứng minh.

Từ đó, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có thể được hiểu:

Thứ nhất, về nguyên tắc, “nghĩa vụ” là việc phải làm. Đương sự có nghĩa

vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh.

Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động

chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá

nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ

không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình là

có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị

đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một

cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Thuật

ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về

sự công nhận là đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không

có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối tượng chứng minh.

Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm thỉnh cầu

và kháng biện. Trong thỉnh cầu có thỉnh cầu ban đầu (đơn khởi tố), thỉnh cầu

bổ sung (bổ sung yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc), thỉnh cầu phản

tố (đòi hỏi công nhận lợi ích của bị đơn) và thỉnh cầu dự sự (đòi hỏi của người

thứ ba về việc tham gia vụ án). Kháng biện bao gồm kháng biện về nội dung

(là sự phủ nhận của bị đơn), khước biện (bị đơn cho rằng không đúng thủ tục)

và kháng chấp (bị đơn cho rằng nguyên đơn không có quyền kiện họ: ví dụ

như không có tư cách hoặc kiện ở tòa không có thẩm quyền).

Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ

chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu

cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác

bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu

cũng phải chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự

12

định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.

Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu

quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc được tòa án công nhận các quyền và

lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác nghĩa

vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một

cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được

chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường hợp người đưa ra

yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang

lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của

nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài” nhưng

phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả

bất lợi ở đây đã thuộc về phía nguyên đơn vì họ đã không thực hiện được nghĩa

vụ chứng minh của mình nên đã không được công nhận quyền và lợi ích.

* Ý nghĩa của nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

Có thể khẳng định, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự có tính

chất quyết định để làm rõ các vấn đề cần chứng minh trong việc giải quyết vụ

việc dân sự. Để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự diễn ra đúng đắn và hợp

pháp, pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh đối với các chủ thể trong vụ án

dân sự. Bởi lẽ, chỉ thông qua hoạt động chứng minh thì các chủ thể chứng minh

mới có thể yêu cầu hoặc đưa ra sự phản bác của mình đúng quy định của pháp

luật để làm sáng tỏ, giải quyết nhanh chóng, đúng đắn và chính xác vụ án hơn

đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đúng pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự

Chứng minh trong tố tụng là một quá trình gồm thu thập, cung cấp, sử

dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế các

yêu cầu của các bên trong vụ án. Mỗi một chủ thể tham gia vào quá trình

này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy thuộc vào vị trí tố tụng của

13

họ. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh (mà người ta thường gọi là Onus

probandi theo tiếng La tinh, Beweislast theo tiếng Đức, Burden of proof theo

tiếng Anh, hay La charge de la preuve theo tiếng Pháp) được hình hành

nhằm xác định bổn phận phải gánh vác của một chủ thể trong việc chứng tỏ

hoặc phản bác một vấn đề trong vụ án. Thông thường, nói đến nghĩa vụ

chứng minh, người ta nói đến nghĩa vụ chứng minh nội dung và nghĩa vụ

chứng minh hình thức [2].

* Nghĩa vụ chứng minh về nội dung

Nghĩa vụ chứng minh về nội dung hay còn gọi là nghĩa vụ thuyết phục,

nghĩa vụ khẳng định, nghĩa vụ nội dung, nghĩa vụ theo luật, nghĩa vụ khách

quan ... Đây là nghĩa vụ được ấn định dứt khoát cho bên yêu cầu (nguyên đơn,

người phản tố) và không thể chuyển cho bên kia. Chủ thể mang nghĩa vụ

chứng minh nội dung sẽ thua kiện nếu không thực hiện được việc chứng minh

của mình. Việc chứng minh, trong trường hợp này là ngoài việc xuất trình các

chứng cứ cần thiết để khẳng định sự thật, người đặt ra yêu cầu (giả thuyết

phải chứng minh) còn phải lập luận viện dẫn các cơ sở thực tiễn, logic và

pháp lý cho các yêu cầu đó

Ngay từ thời La Mã cổ đại, một cáo buộc được đệ trình lên tòa cũng có

nghĩa là bên cáo buộc đã đặt phía bên kia vào một trạng thái bất lợi và cũng

đồng thời tự đặt mình vào một nghi vấn về một sự lạm dụng quyền đi kiện.

Bởi vậy, người đi kiện có bổn phận chứng minh cho giả thuyết của mình đã

đưa ra là có cơ sở và không có một sự lạm dụng nào được thực hiện, nguyên

tắc này còn được áp dụng đối với cả những phản tố của các đương sự khác

không phải là nguyên cáo, khi đó, nó được hiểu là “nghĩa vụ chứng minh

thuộc về người khẳng định, chứ không phải bên từ chối”. Sự từ chối ở đây

được hiểu là bên bị không thừa nhận cáo buộc của bên nguyên. Anh ta sẽ xuất

trình chứng cứ cho sự từ chối hay bác bỏ này theo yêu cầu của tòa án nhưng

14

việc chứng minh cho sự không đúng sự thật của cáo buộc chỉ là quyền chứ

không phải là nghĩa vụ của anh ta. Trường hợp bên nguyên không thuyết phục

được tòa án về tính có căn cứ của cáo buộc, cáo buộc sẽ bị bác bỏ và việc

phản đối hay từ chối cáo buộc không cần thiết phải chứng minh.

Trong các vụ án dân sự, nguyên đơn thường phải gánh chịu nghĩa vụ

chứng minh để khẳng định các yêu cầu của mình là có cơ sở, có thật và hợp

pháp. Bị đơn chỉ có nghĩa vụ chứng minh khi anh ta đặt ra một yêu cầu phản

tố, độc lập với yêu cầu của nguyên đơn. Tuy vậy, trong mô hình tố tụng thẩm

vấn, nguyên đơn dân sự cũng chỉ phải chứng minh mình bị tranh chấp, xâm

hại, việc quyết định đúng sai và trách nhiệm dân sự tương ứng phụ thuộc vào

việc xác minh sự thật vụ án của tòa án

* Nghĩa vụ chứng minh về hình thức

Đây là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ và là một phần của nghĩa vụ chứng

minh. Đây là nghĩa vụ chung của các bên đương sự, khi tham gia tố tụng phải

có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án để làm cơ sở cho khẳng định hay

bác bỏ một vấn đề.

Về bản chất, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ là một bảo đảm cung cấp

công cụ cho nghĩa vụ chứng minh nội dung. Khác với nghĩa vụ chứng minh

nội dung là nhằm vào sự thật vụ án và chỉ ràng buộc với bên đi kiện, nghĩa vụ

xuất trình chứng cứ nhằm đến các công cụ pháp lý để phục vụ nghĩa vụ chứng

minh nội dung và nó có thể chuyển dịch giữa các bên trong quá trình tố tụng.

Việc giải phóng nghĩa vụ chứng minh nội dung chỉ diễn ra khi bên cáo buộc

thuyết phục được tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp rằng việc chứng minh

đã đáp ứng được các tiêu chí luật định và cáo buộc được thừa nhận là có thật.

Có thể thấy bên có nghĩa vụ chứng minh nội dung sẽ đương nhiên phải

có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Tuy vậy, phía bên kia không có nghĩa vụ

chứng minh nội dung nhưng vẫn có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ. Trong một

15

vụ kiện, khi một bên đã xuất trình đủ các chứng cứ cần thiết cho các cáo buộc

của mình thì bên kia sẽ được đặt trong trạng thái phải chống đỡ. Một khi bên

bị bác bỏ cáo buộc của bên nguyên phải đưa ra các chứng cứ để bác bỏ nó -

tức là nghĩa vụ xuất trình chứng cứ bảo vệ (hoặc chứng cứ bác bỏ) đã được

chuyển sang bên bị. Nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ cần thiết, các

chứng cứ do bên kia đưa ra sẽ được thừa nhận là xác thực (hay hiển nhiên

đúng) cáo buộc của họ sẽ được chấp nhận. Điều này xuất phát từ nguyên tắc

"một giả thuyết được coi là chân thực cho tới khi nó bị chứng minh là sai"[2].

Những hoài nghi có tính chất cá nhân của bên bị không thể coi là một sự phản

chứng nếu anh ta không đưa ra được chứng cứ.

Theo thông lệ, bên nguyên đơn chứng minh trước nếu bên bị đơn lại

phản bác và đã chứng minh cho những phản bác, nghĩa vụ xuất trình chứng cứ

lại được chuyển lại cho nguyên đơn để thực hiện việc bảo vệ cho mình.

Chứng minh tại tòa án là một quá trình gồm hàng loạt các việc "chuyển"

nghĩa vụ chứng minh cho đến khi không bên nào còn có thể bác bỏ hay đề

xuất gì thêm. Kết thúc việc "chuyển" đó, tòa án sẽ ra phán quyết về vụ án.

1.1.3. Nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

Khác với các bên trong vụ án, tòa án là chủ thể trung lập, họ nhận định

sự việc và đưa ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Những đòi hỏi của pháp chế

buộc tòa án phải có trách nhiệm đưa ra bản án phù hợp với thực tế khách quan

và đúng pháp luật. Để bản án của mình phù hợp với thực tế khách quan, tòa

án luôn bị đặt lên vai một nghĩa vụ là xác định sự thật hay theo cách gọi của

khoản 1, Điều 225 LTTDS 2015 là "xác định các tình tiết của vụ án". Tuy

thế, cách thức xác định sự thật của tòa án như thế nào lại phát sinh nhiều quan

điểm khác nhau mà lịch sử đã chứng kiến sự tồn tại của hai trường phái chính:

Tố tụng tranh tụng và Tố tụng thẩm vấn (hay xét hỏi).

Những nước theo truyền thống thông luật thì cho rằng, sự nhận định

16

của tòa án chỉ thuần túy dựa trên những gì mà đương sự, người truy tố chứng

minh. Tòa án là một cơ quan thuần túy phân xử và độc lập với các bên cũng

như những ràng buộc chính trị, do đó, tòa án sẽ nhận định và phán quyết cho

bên nào chứng minh có lý hơn, đầy đủ hơn. Tòa sẽ xác định sự thật vụ án trên

cơ sở của kết quả chứng minh. Đây là hệ thống tố tụng tranh tụng.

Những nước theo truyền thống dân luật thì lại cho rằng, ngoài tư cách

là một cơ quan độc lập, tòa vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật chung.

Và do đó, khi các bên trong vụ kiện tuy đã chứng minh cho các yêu cầu kiện

cáo của mình, tòa vẫn còn nguyên vẹn nghĩa vụ xác minh sự thật khách quan.

Theo đó, tòa án sẽ phải điều tra, làm rõ những tình tiết của vụ án trước khi

đưa ra phán quyết, những kết quả chứng minh của đương sự chỉ có ý nghĩa

tham khảo. Đây là hệ thống tố tụng thẩm vấn. Mỗi một hệ thống đều có

những ưu điểm và nhược điểm cố hữu của nó. Hơn nữa, cũng đã khá lâu, trên

thế giới người ta không còn so sánh hệ thống tố tụng nào ưu việt hơn trong

việc bảo vệ quyền của dân chúng cũng như bảo vệ trật tự pháp luật. Vấn đề

đặt ra đối với giới học giả cũng như những người làm luật là tìm những ưu

điểm của mỗi hệ thống tố tụng để kết hợp lại trong luật tố tụng của quốc gia

mình. Hiện tại, đã có sự giao thoa của cả hai hệ thống tố tụng. Các đương sự,

người đi kiện có bổn phận cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu,

khẳng định hay những phản bác của mình, nguyên tắc tranh tụng được coi là

chủ đạo trong tố tụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc thẩm vấn cũng vẫn còn được

áp dụng ở mức độ hạn chế [2]. Người ta đã tìm thấy trong tố tụng của các

nước theo hệ thống thông luật có nhiều hơn các quy định về chứng cứ viết,

các tài liệu giám định. Tòa án common law cũng đã tiến hành lấy lời khai

nhân chứng mà không cần đến một đề nghị nào của các bên khi có mâu thuẫn

hoặc tòa nhận định thấy chưa thể đủ căn cứ để phán quyết. Vài thay đổi theo

hướng đó cũng đã xuất hiện trong tố tụng của các nước theo hệ thống dân

17

luật, không còn thấy hình ảnh của các quan tòa lắm lời mà thay vào đó là sự

tranh luận miệng của các bên. Tự định đoạt và tranh tụng đã là một trong

những nguyên tắc tố tụng cơ bản của người châu Âu lục địa và những câu

chuyện liên quan đến nghĩa vụ điều tra của tòa án chỉ dành cho những vụ án

đặc biệt như bảo vệ quyền trẻ em. Ngoài ra, việc điều tra bổ sung của tòa án

đã chỉ còn là những ngoại lệ được áp dụng với những điều kiện chặt chẽ [2].

Thực tế, việc phân định nghĩa vụ chứng minh giữa đương sự và tòa án

không là một nội dung của một lý thuyết nào về nghĩa vụ chứng minh đã tồn

tại trên thế giới. Người ta chỉ đặt vấn đề nghĩa vụ xác định sự thật vụ án giữa

tòa án với đương sự. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh mà chỉ có nghĩa

vụ xác định sự thật vụ án và ra phán quyết. Ở đâu đó, trong những trường hợp

nhất định, tòa án thực hiện việc thu thập chứng cứ nhằm làm rõ hơn sự thật

trong nhận định của họ thì cũng không phải là hành vi chứng minh, đó chỉ

được coi là ngoại lệ của nghĩa vụ xuất trình chứng cứ - một phần của nghĩa vụ

chứng minh. Ngoại lệ này nhằm giúp đỡ đương sự gặp bất lợi trong việc tiếp

cận các nguồn chứng cứ và hình thành nên hoạt động điều tra của cơ quan giải

quyết khiếu nại, kiện cáo.

1.1.4. Các cấp độ chứng minh

Các chủ thể chứng minh trong quá trình áp dụng pháp luật sẽ xoay

quanh các giả thuyết về một sự thật đã xảy ra trong quá khứ. Một đối tượng

được đánh giá là đúng, là khách quan ở thời điểm này cũng có thể là sai lầm ở

một thời điểm khác khi xuất hiện những tình huống, điều kiện mới. Quan

niệm về cái “thật" với tính cách là một thực tại khách quan sẽ bị thách thức

bởi những trường hợp người ta phát hiện có những chứng cứ phủ định những

phép chứng minh đã hoàn tất. Theo đó, cái thật ở đây là sự đúng đắn trong

nhận thức với những điều kiện xác định và được kiểm tra bằng các luật logic.

Một khi không thể chứng minh một đối tượng là không thật, thì nó phải là thật.

Do đó, cái “sự thật" của các cáo buộc là cái “thật trong tư duy" chứ không

18

phải là cái thật của thực tại khách quan.

Phép chứng minh sẽ hoàn tất chỉ đến khi người ta thuyết phục được cơ

quan áp dụng pháp luật tin tưởng rằng giả thuyết đó là đúng. Chủ thể chứng

minh sẽ thuyết phục bằng những bằng chứng cụ thể, những lập luận phù hợp

với các quy luật logic được thừa nhận chung và những viện dẫn các quy định

của pháp luật một cách rõ ràng. Thông thường, nghĩa vụ chứng minh có các

cấp độ sau đây:

* Không còn nghi ngờ hợp lý

Đây được xem là cấp độ cao nhất của chứng minh và được áp dụng

trong những trường hợp kết quả chứng minh có ảnh hưởng đến sinh mạng,

thân phận chính trị, tự do của con người như tố tụng hình sự. Một lẽ hiển

nhiên là bất kỳ nhà làm luật nào cũng đều mong muốn khi kết tội một người,

anh ta chắc chắn đã thực hiện một tội phạm. Thế nhưng xét về tổng thể, đây

lại là điều không tưởng và không cần thiết bởi sự thật trong chứng minh chỉ là

sự thật trong nhận thức như đã trình bày ở trên. Như vậy, một khi không thể

đặt một giả thuyết (hay nghi ngờ) logic nào khác ngoài việc cho rằng bị cáo

đã thực hiện một tội phạm thì có nghĩa là trong giới hạn nhận thức của con

người, anh ta đã phạm tội. Nghĩa vụ chứng minh anh ta có tội của công tố đã

hoàn tất. Trong chừng mực vẫn có thể đặt ra được những khả năng hợp lý

khác ngoài việc phạm tội của bị cáo, về nguyên tắc, tòa phải tuyên anh ta

không có tội. Nếu nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có

phán quyết chính thức có hiệu lực của tòa án về việc phạm tội của anh ta được

gọi là nguyên tắc "suy đoán vô tội" thì việc tòa án nhận định không tồn tại

một nghi ngờ hợp lý về việc có tội của anh ta có thể được coi là nguyên tắc

"suy đoán có tội" trong luật hình sự các nước áp dụng hệ thống tranh tụng có

từ thời trung cổ [2].

* Chứng cứ rõ ràng và thuyết phục

19

Đây là cấp độ thấp hơn của việc không còn nghi ngờ hợp lý. Các chứng

cứ và lập luận đưa ra có thể sắp xếp thành những suy luận có tính logic về sự

thật vụ án. Tuy nhiên, chứng cứ rõ ràng và thuyết phục không loại trừ khả

năng vẫn còn có thể đặt ra một giả thuyết khác với giả thuyết mà chủ thể có

nghĩa vụ chứng minh đã đưa ra. Cấp độ chứng minh này được sử dụng phổ

biến trên thế giới, kể cả trong tố tụng hình sự, đặc biệt là các nước theo truyền

thống luật dân sự. Chẳng hạn ở Đức, tòa án sẽ quyết định một cách độc lập về

kết quả chứng minh trên cơ sở những tranh luận cụ thể tại phiên tòa. Người

Pháp cũng có quy định tương tự tại Điều 304 trong Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đây cũng là cấp độ chứng minh được thể hiện trong luật tố tụng ở Việt Nam,

căn cứ vào các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ và kết quả tranh tụng, tòa

án nhận định về vụ án và ra phán quyết.

* Cân đối khả năng hay xử thắng cho bên chiếm lợi thế về chứng cứ

Đây là mức thấp nhất của nghĩa vụ chứng minh. Thông thường, khi kết

thúc tranh tụng, tòa sẽ xử cho bên có chứng cứ mạnh hơn bất luận sự thật như

thế nào. Nó thường được áp dụng trong các vụ việc về gia đình, chẳng hạn

trong vụ tranh chấp quyền nuôi con, bên nào chứng minh mình có điều kiện tốt

hơn bên kia trong việc chăm sóc đứa trẻ sẽ giành chiến thắng, kể cả trong

trường hợp người thắng kiện có điều kiện cũng rất thiếu thốn về vật chất, dù là

tốt hơn bên kia. Trong những vụ kiện như thế này, người có nghĩa vụ chứng

minh được giải phóng khỏi nghĩa vụ khi chứng minh được lợi thế của mình.

Như vậy, tùy từng cấp độ chứng minh, yêu cầu của các bên đưa ra sẽ

được Hội đồng xét xử cân nhắc và từ đó tìm ra phương hướng giải quyết vụ

việc dân sự.

1.1.5. Sự cần thiết của việc thực hiện hoạt động chứng minh trong

pháp luật tố tụng dân sự

Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

20

quan), người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự; các cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích

của người khác, Tòa án và trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia tố tụng

theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát đều là chủ thể

chứng minh. Tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng của các chủ thể này và ở

từng giai đoạn tố tụng cụ thể, các chủ thể chứng minh có quyền, nghĩa vụ

tham gia vào quá trình chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ việc ở những

phạm vi và mức độ khác nhau. Cụ thể:

* Đối với đương sự

- Nguyên đơn

Về nguyên tắc, nguyên đơn đưa ra yêu cầu thì phải chứng minh cho yêu

cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham

gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để chứng minh, bởi vì bị

đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên đơn cho đến

khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Cung cấp chứng cứ chỉ là

một trong các biện pháp chứng minh của đương sự. Bên cạnh đó, trong tiến

trình phát triển của hoạt động chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của

các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có

thể di chuyển từ một bên đương sự này sang một bên đương sự khác; từ

nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên

đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu

cầu của nguyên đơn.

Nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về bên đương sự nào muốn viện dẫn

những sự kiện, tình tiết để làm cơ sở cho những yêu cầu hoặc phản đối của

mình. Kể từ khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu đối với nguyên

đơn là nghĩa vụ. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà không chứng minh được

yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực tế hoặc đưa ra những chứng cứ

21

không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có

tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên

đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ.

Ngoài các trường hợp trên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn dự

liệu trường hợp, nếu một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối các

tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên

đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh. Qua đó, có

thể thấy rằng, sự thừa nhận của một bên đương sự sẽ có giá trị miễn nghĩa vụ

chứng minh cho đương sự phía bên kia. Tuy nhiên, cũng có trường hợp đương

sự có thể thừa nhận một cách giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ pháp luật, xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể thể khác. Chính vì thế,

tùy thuộc từng trường hợp cụ thể, Tòa án vẫn có thể cho tiến hành chứng

minh các tình tiết, sự kiện mà các đương sự thừa nhận. Ngoài ra, so với Bộ

luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung BLTTDS 2011) chỉ quy định

về các tình tiết, sự kiện mà đương sự đưa ra thì Bộ luật Tố tụng Dân sự năm

2015 mở rộng thêm các yếu tố như tài liệu, văn bản hay kết luận của cơ quan

chuyên môn đều có thể được đương sự đưa ra, để đương sự phía bên kia thừa

nhận hoặc không thừa nhận. Trên cơ sở đó, Tòa án sẽ quyết định có hay

không việc phải tiến hành chứng minh đối với các tài liệu, văn bản hay kết

luận của cơ quan chuyên môn.

Trong trường hợp đương sự vắng mặt hoặc có mặt nhưng nếu có người

đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện cũng sẽ được coi

là sự thừa nhận của đương sự. Điều này đồng nghĩa, sự thừa nhận hoặc không

phản đối của người đại diện đối với các tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản hay

kết luận của cơ quan chuyên môn mà đương sự phía bên kia đưa ra, sẽ có thể

là cơ sở để đương sự phía bên kia, không cần phải chứng minh tính hợp pháp

và tính có căn cứ của chúng. Tuy vậy, cơ sở của điều này còn tùy thuộc vào

22

phạm vi đại diện của đương sự với người đại diện của họ [17].

- Bị đơn

Là người bị kiện nên họ có quyền chứng minh để tự bảo vệ quyền lợi

của mình trước Tòa án. Tuy nhiên, việc chứng minh sẽ trở thành nghĩa vụ đối

với bị đơn nếu:

Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn

đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp bị đơn đưa

ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp

chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có

đúng đắn không? Khi đó nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó

của bị đơn, đồng thời phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình;

Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn chỉ

chấp nhận phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu đó hoặc không

chấp nhận hoàn toàn) hoặc thậm chí chỉ trong trường hợp bị đơn đang nắm

giữ chứng cứ liên quan đến nguyên đơn.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ

có nghĩa vụ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ. Chẳng hạn,

người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập tham gia vào vụ

kiện giữa nguyên đơn và bị đơn, họ cho rằng đối tượng đang tranh chấp

là thuộc sở hữu của họ chứ không phải thuộc sở hữu nguyên đơn hay bị đơn.

Trong trường này, nghĩa vụ chứng minh (nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tham

gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận...) của họ cũng giống như

nghĩa vụ của nguyên đơn khi chứng minh cho yêu cầu của mình.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc

lập, dù đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, họ đều có nghĩa cung cấp chứng

cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị đơn vì lợi ích của họ liên quan đến vụ

23

kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết,

sự kiện của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà họ đứng về phía

đương sự đó, hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ đối với một trong

các bên đương sự; hoặc chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối

về việc kiện đòi hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ [33].

* Đối với các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh khác

- Người đại diện của đương sự

Về bản chất, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người

thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố

tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Chính

vì vậy, người đại diện của đương sự thường được ví von như diễn viên đóng

thế thay cho đương sự để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong

suốt quá trình tham gia tố tụng. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm

người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. (Điều 85-

BLTTDS 2015). Ngoài hai loại đại diện trên còn Đại diện do tòa án chỉ định

(Điều 88- BLTTDS 2015) cụ thể:

1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người

chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn

chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện

theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại

khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại

diện để tham gia tố tụng.

2. Đối với vụ việc lao động mà có đương sự thuộc trường

hợp quy định tại khoản 1 Điều này hoặc người lao động là người

chưa thành niên mà không có người đại diện và Tòa án cũng

không chỉ định được người đại diện theo quy định tại khoản 1

Điều này thì Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại

24

diện cho người lao động đó [30].

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp

luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với

người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế

năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ

hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình

đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS

2015), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng

là người đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 85 BLTTDS

2015), người được tòa án chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng

(Điều 88 BLTTDS 2015).

Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự

thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy

quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi đại

diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện

một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy

quyền cho người khác tham gia thay mình.

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân

sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định

tại BLTTDS 2015:

1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực

hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình

đại diện.

2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực

hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản

ủy quyền [30, Điều 86].

Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền

25

trong việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến

đó. Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương

sự thì vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò

chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định

không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp

luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định

người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay

mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương

sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách

đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt.

Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh

hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ

gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên

nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên

hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham

gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 1 Điều

87 BLTTDS 2015). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể

nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt

động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được

tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan

đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự có quyền và nghĩa vụ (Điều 76 BLTTDS 2015)

Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi

26

được “nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản

yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên

họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có

nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể

không có mặt tại phiên tòa (điểm đ khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015).

Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của

người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ

cùng thuộc nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương

sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng

minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa

vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự.

- Viện kiểm sát

Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là

tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể:

Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của

pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp

luật. (Khoản 1, Điều 21 BLTTDS 2015)

Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà “đối với những vụ án do

Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc

thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát

kháng nghị bản án, quyết định của Toà án” (Khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015)

cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2

Điều 97 BLTTDS 2015 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một

hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 98,

khoản 2 Điều 100, điểm c khoản 3 Điều 104 BLTTDS 2015. Khi đó, tòa án

27

nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường

hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc

thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái

thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái

thẩm) trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét

thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy

định tại điểm b khoản 1 Điều 279, khoản 5 Điều 333 BLTTDS 2015, có nhiệm

vụ tham gia phiên tòa (khoản 1 Điều 232 BLTTDS 2015), có quyền phát biểu ý

kiến (điểm b khoản 1 Điều 248, khoản 1 Điều 341, Điều 357 BLTTDS 2015)…

Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt

động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của

Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và

nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện

kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện

quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu

nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện

kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế

của nhà nước - đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực

hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt

động chứng minh của mình [31].

- Tòa án

Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ

cụ thể của tòa án khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án - thể hiện cụ thể trong

một vụ án dân sự là thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ

trung lập (bởi đây là những tranh chấp mang tính chất “tư”), đề ra đối tượng

chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương

28

sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của

đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của

mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ

tùy thuộc vào việc có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích

của việc chứng minh là khác nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính

khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra phải công bằng với cả hai bên

trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự lại chứng minh

cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay phản

yêu cầu của đương sự bên kia.

Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ

như: tự mình tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định

tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của

HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh. “Trường hợp tài liêu, chứng cứ

đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì thẩm phán

yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ (khoản 1 Điều 96

BLTTDS 2015)” để giải quyết. Theo yêu cầu của đương sự tòa án sẽ quyết

định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai của

người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối

chất… có quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 100, 101, 102

BLTTDS 2015, đây là điều hiển nhiên vì tòa án là người tiến hành hoạt động

lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng

xét xử (HĐXX) có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự,

người làm chứng…

Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu,

đánh giá chứng cứ mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã

làm rõ, không có giai đoạn thu thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có

giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên cũng không thể nào nói

29

rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự thực hiện mỗi người một

nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng cứ tại phiên tòa

cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa án

cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập

chứng cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung

cho nhau nhưng vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ

quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh

được hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của tòa án“lý luận và

thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án đã cho thấy, việc không

chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc

ra một quyết định không có cơ sở làm xâm phạm đến quyền lợi của các bên

đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ” [31].

Tóm lại, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động

chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và

bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.

1.1.6. Cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nghĩa vụ chứng minh

trong tố tụng dân sự

* Cơ sở lý luận

Chứng minh trong tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do

nhà nước ban hành áp dụng đối với các đương sự, các cơ quan tiến hành tố tụng

và những người tham gia tố tụng khác nhằm xác định sự thật của vụ việc, làm

cho thấy rõ là có thật các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ

việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động tại tòa án

Bản chất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là làm sáng tỏ

sự thật khách quan của vụ việc dân sự: có hay không không có, tồn tại hay

không tồn tại các sự kiện, tình tiết mà các bên nêu ra làm cơ sở cho yêu cầu

của mình trước Tòa án. Chỉ trên cơ sở các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự

30

đã được làm rõ, Tòa án mới có thể áp dụng pháp luật phù hợp để giải quyết vụ

việc: chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của các bên. Tòa án làm sáng tỏ sự thật

khách quan của việc dân sự bằng các chứng cứ do các bên thu thập, đề xuất

và được kiểm tra đánh giá theo trình tự do luật định.

Hoạt động thu thập, đề xuất, kiểm tra và đánh giá chứng cứ nhằm làm

sáng tỏ các tình tiết sự kiện cụ thể để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn

vụ việc dân sự của Tòa án và những người tham gia tố tụng khác được gọi là

hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự.

Chứng minh là hoạt động tố tụng do Tòa án và các chủ thể tham gia tố

tụng tiến hành, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và yêu cầu, phản bác

yêu cầu của các bên tham gia tố tụng. Hoạt động chứng minh trong tố tụng

dân sự một dạng của hoạt động nhận thức thế giới khách quan. Hoạt động

chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức đi từ thấp đến

cao, là sự thống nhất biện chứng của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm hoạt động tư duy và

hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham

gia tố tụng khác đại diện hợp pháp của họ. Hoạt động chứng minh là một quá

trình bao gồm các giai đoạn: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh

giá chứng cứ [39].

* Cơ sở thực tiễn

Dưới góc độ thực tiễn thì chứng minh là một quá trình nhận thức kéo

dài xuyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế tiếp nhau liên tục là thu thập, cung

cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn

sau, giai đoạn sau củng cố và đánh giá giai đoạn trước [31] chứng minh trong

Tố tụng dân sự chính là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi

luật tố tụng dân sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi chủ thể có

quyền và nghĩa vụ cụ thể và kết quả của hoạt động này chính là Bản án hoặc

31

quyết định của Tòa án mang tính chất bắt buộc áp dụng, là công cụ để tòa án

có thể xác định chính xác sự việc đã sảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra

phán quyết giải quyết các tranh chấp phát sinh một cách nhanh chóng, chính

xác và khách quan.

Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện duy nhất để họ có thể

bảo vệ được các quyền và lợi ích của mình. Khi vụ việc dân sự được tòa án

thụ lý và giải quyết cũng đồng nghĩa với việc bên nguyên đơn cho rằng quyền

và lợi ích của mình bị xâm phạm, bên bị đơn không thừa nhận các quyền và

lợi ích đó của nguyên đơn nên yêu cầu tòa án phân xử.

Trong quá trình tố tụng có thể phát sinh nhiều chủ thể khác, khi họ đưa

ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh cho

yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, là có thật. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự là chứng minh giả thuyết do các bên đưa ra. Cho dù

giả thuyết đó có được công nhận là đúng, là có thật hay không thì toàn bộ quá

trình đó vẫn được coi là hoạt động chứng minh.

Tóm lại, hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình

gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng

trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho

yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy

định của pháp luật.

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển nghĩa vụ chứng minh trong tố

tụng dân sự

Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự được hình thành và phát

triển từ rất lâu tại Việt Nam. Trong đó, tùy theo từng giai đoạn lịch sử, quan

niệm và quy định về nghĩa vụ chứng minh lại có sự khác nhau.

1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945

Năm 1858 thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời

32

kỳ xã hội Việt Nam “thuần” phong kiến chuyển sang chế độ thực dân nửa

phong kiến. Chế độ phong kiến qua đi nhưng vẫn để lại những dấu vết đậm

nét về hoạt động lập pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mô và

hoàn thiện nhất vào lúc bấy giờ phải kể đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình

Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ XV –

XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề

của tư tưởng phong kiến nên các bộ luật này mang tính chất hà khắc, vai trò

của con người, của công dân, của đương sự không được đề cao, thủ tục xét

hỏi, thẩm vấn được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng mang tính chất

hình sự. Vai trò chứng minh của đương sự trong vụ kiện dân sự được quy

định một cách tản mạn và không rõ ràng. Tuy vậy, đây cũng là những viên

gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định vai trò chứng minh của đương

sự sau này. Lần đầu tiên trong bộ “Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ” quy định

những người kiện tụng có đơn cáo trạng khiếu nại về: ruộng đất không xuất

trình văn khế, cưới xin không sính lễ, treo hỏi, tài sản không có trúc thư, tiền

nợ không có văn tự, đánh nhau không có biên bản thương tích, án mạng

không có nghiệm án, trộm cướp không có tang vật, cờ bạc không có tang

chứng, ức hiếp không phải là người hiền quý danh vọng thì các nha môn

không được khám tụng. Nếu nhận bừa thì gom xét sự việc trước sau luận bác

đi Vai trò của đương sự lần đầu tiên được nhắc đến một cách rõ ràng trong

việc chứng minh yêu cầu của mình bằng cách cung cấp chứng cứ trong những

vụ việc cụ thể, nếu khi yêu cầu giải quyết mà đương sự không đưa ra được

bằng chứng thì quan xét xử sẽ bác bỏ đơn kiện [40]. Đây là quy định được áp

dụng phổ biến khi có việc thưa kiện. Nó được áp dụng rộng rãi khi giải quyết

các vấn đề kiện tụng thuộc cả luật hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình.

Bằng hai bản thỏa ước ngày 5/6/1882 cắt đứt miền nam bao gồm 6 tỉnh

để sát nhập vào lãnh thổ pháp gọi là Nam Kỳ, thỏa ước ngày 6/6/1884 biến

33

miền Bắc và miền Trung thành lãnh thổ bảo hộ của Pháp và đạo dụ năm 1898

của Hoàng đế Đồng Khánh nhượng 3 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và

Đà Nẵng thành đất nhượng địa cho Pháp, Việt Nam chính thức bị thực dân

Pháp đô hộ. Khi đến nước ta chúng thiết lập một chế độ đô hộ hà khắc nhằm

bóc lộ và vơ vét của cải đặc biệt thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa trên

quy mô lớn. Nhằm phục vụ cho mưu đồ của mình chúng thay đổi nước ta

thành một nước thực dân nửa phong kiến. Việc đầu tiên là ban hành các bộ

luật nhằm ổn định tình hình trong nước, thiết lập sự đô hộ. Liên quan đến hoạt

động tố tụng dân sự, trong giai đoạn này chúng ban hành một số bộ luật khác

nhau như Bộ dân sự tố tụng Nam Kỳ năm 1910, Bộ dân sự tố tụng Bắc kỳ

năm 1917, Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố

tụng bắc kỳ năm 1921, và Bộ Hộ sự và thương sự Trung Kỳ năm 1942… Các

bộ luật này mang tư tưởng phong kiến và dựa trên khuôn mẫu của Bộ luật

dân sự Pháp 1807. Trong giai đoạn này, quyền con người, quyền công dân

không được để ý đến các quy định tố tụng chủ yếu là tạo điều kiện cho hoạt

động bóc lột của thực dân nên vai trò chứng minh của đương sự không được

quan tâm nhằm duy trì sự bất bình đẳng. chỉ tồn tại vài quy định nhỏ

như “Về phương diện dẫn chứng… buộc bên đương sự nào nại ra phải có

nghĩa vụ dẫn chứng, chứng minh” và “Các đương sự trong một vụ kiện phải

dẫn chứng. Mỗi người muốn viện dẫn một sự kiện hay một hành vi pháp lý

phải chứng minh sự kiện, hành vi đó” [7]. Đây là một quy định hiếm hoi có

thể tiếp cận được bởi các văn bản thời kỳ này được viết hoàn toàn bằng tiếng

Pháp, không dịch ra chữ Quốc Ngữ cũng như không có các công trình nghiên

cứu chi tiết. Mặt khác, giai đoạn này sử dụng một cách đồng loạt các án lệ nơi

tòa án nên các quy tắc thành văn “chủ yếu vạch sẵn tỷ mỉ những lề lối phải

theo như một thông tư hành chính chứ ít có điều khoản chính xác định thức

một nguyên tắc pháp lý tổng quát” – mang tính chất thủ tục [8].

34

Đồng thời với đó là việc duy trì hai hệ thống tòa án khác nhau với việc

phân chia hai loại đương sự khác nhau. Tòa án do Pháp lập xét xử các công

dân của Pháp hoặc những người được biệt đãi như người pháp, tòa án của

Việt Nam xét xử những đương sự là người Việt nhưng vẫn bị những nhà cầm

quyền người Pháp thâu tóm và thống trị, Việt Nam trong giai đoạn này

“không có một nền tư pháp thuần túy bởi vì tất cả các quyền hành hư hay

thực đều do nhà cầm quyền Pháp nắm giữ” [19].

1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989

Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhà nước dân chủ

đầu tiên ở khu vực Đông Nam á được thành lập. Đánh dấu sự thay đổi toàn

diện về mọi mặt trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tố tụng.

Ngày 10/10/1945 nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm

thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà không trái với bản chất của

nhà nước cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp

dụng các quy phạm pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập

đến việc có cho tiếp tục áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay

không. Tiếp theo đó, nhà nước ban hành nhiều quy định khác nhau liên quan

đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Sắc

Lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán,

Sắc Lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm quyền của tòa án các cấp,

Sắc Lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ xung sắc lệnh số 15, Sắc Lệnh 85/SL

ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc Lệnh 159/SL

ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn … các quy định về vai trò chứng

minh của đương sự được quy định khá nhiều thể hiện sự quan tâm của nhà

nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng.

Khi đương sự có yêu cầu giải quyết thì buộc phải dẫn ra những chứng

cứ bảo vệ cho yêu cầu của mình, nguyên đơn phải nêu rõ những vấn đề yêu

cầu, bị đơn phải nêu rõ mình có chấp nhận hay không hoặc chấp nhận yêu cầu

35

của nguyên đơn đến mức nào và cũng có nghĩa vụ dẫn chứng.

Tại thông tư số 06 – TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn điều tra trong tố

tụng dân sự quy định:

Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, và người dự sự) có quyền

đề xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của

mình… trong điều kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật và

trình độ văn hóa của đại đa số các đương sự còn thấp, các đơn kiện

và lời trình bày của họ không rõ ràng và đầy đủ, cho nên các tòa án

phải tích cực giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền lợi

hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu và giúp

cho họ biết đề xuất những chứng cứ để chứng minh.

Quy định này đã đưa đương sự về vị trí trung tâm của hoạt động tố

tụng, tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cầu, giúp đỡ đương sự hiểu

biết pháp luật và có thể đưa ra được những yêu cầu chính đáng cũng như hỗ

trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.

Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo

thông tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977 của tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn: “Để bảo vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng

cứ nhưng tòa án nhân dân không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương

sự và những giấy tờ mà họ xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải

dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự thật”. Mặc dù đương sự có

quyền đề xuất những chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng tòa

án với vị trí của cơ quan xét xử không được thiên vị bất cứ bên nào mà phải

xem xét một cách toàn diện cũng như tìm mọi biện pháp để có thể làm sáng tỏ

sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền lợi của các bên.

1.2.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004

Năm 1989 được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải

36

quyết các vụ án dân sự, tiếp theo đó là Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án

kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

1996. Đây là ba pháp lệnh tiền thân của bộ luật tố tụng dân sự hiện nay, nó đã

bước đầu khắc phục được tính chất tản mạn của các quy phạm pháp luật, thu

trình tự giải quyết vụ việc về những văn bản thống nhất và có giá trị cao. Tuy

nhiên, ba pháp lệnh này lại mang tính chất chung chung định hướng, các quy

định còn chưa thực sự rõ ràng, vẫn chưa thể thống nhất các vụ việc dân sự về

một trình tự thủ tục chung gây khó khăn cho đương sự và tòa án. Về vai trò

chứng minh của đương sự trong các vụ việc dân sự được quy định trong ba

pháp lệnh này còn chưa nhiều và thiếu đi cơ chế bảo đảm do vẫn tồn tại thủ

tục điều tra giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án – hay nói cách khác, trong giai

đoạn này, vai trò chứng minh vẫn chủ yếu thuộc về tòa án.

Nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được quy định thành một

nguyên tắc cụ thể “Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh

để bảo vệ quyền lợi của mình” (Điều 3 PLTTGQVAKT) nguyên tắc này đã

tạo cơ sở quan trọng để đương sự chủ động thực hiện nghĩa vụ chứng minh

của mình. Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động chứng minh của

đương sự đã được cụ thể hóa:

Như vậy, đương sự có quyền thu thập chứng cứ, có quyền cung cấp

những chứng cứ đó cho tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình, có quyền được biết về các tài liệu, chứng của của đương sự khác cũng

như được sao chép các tài liệu đó. Đồng thời là quyền thì đây cũng là nghĩa

vụ của đương sự.

Khi tiến hành khởi kiện, “Đơn kiện phải do nguyên đơn hoặc người đại

diện của nguyên đơn ký. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh

yêu cầu của nguyên đơn” (khoản 2 Điều 32 PLTTGQTCLĐ). Đơn kiện của

nguyên đơn phải có đầy đủ các nội dung theo quy định cũng như nội dung các

37

tài liệu chứng cứ để làm cơ sở cho yêu cầu của mình. Nếu không đầy đủ sẽ là

một trong những căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 33

PLTTGQTCLĐ. Bị đơn có quyền được biết nội dung đơn kiện của nguyên đơn

cũng như có quyền được đưa ra ý kiến của mình về đơn kiện đó, nếu không đồng

ý thì có nghĩa vụ chứng minh phản yêu cầu đó (Điều 34 PLTTGQVAKT).

Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự có thể tự mình hoặc nhờ

người khác thay mặt mình tham gia quá trình giải quyết “Đương sự là công

dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của pháp lệnh này

có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ

việc ly hôn và hủy việc kết hôn trái pháp luật” (Điều 22 PLTTGQVADS). Quy

định này nhằm khắc phục tình trạng hạn chế về khả năng tố tụng của đương

sự, giúp họ có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và nghĩa vụ của mình trong

điều kiện còn hạn chế nhiều về hiểu biết.

Quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ diễn ra chủ yếu tại phiên tòa,

các bên đương sự có quyền tham gia phiên tòa, được quyền trình bày quan

điểm của mình và nghe trình bày của phía bên kia, được quyền đề xuất các

câu hỏi thông qua hội đồng xét xử, được quyền tranh luận tại phiên tòa. Quá

trình xét xử sơ thẩm kết thúc, đương sự có quyền kháng cáo. Đơn kháng cáo

phải ghi rõ nội dung kháng cáo và lý do. Các bên đương sự có quyền cung

cấp, bổ xung chứng cứ ở giai đoạn phúc thẩm, có quyền tham gia phiên tòa

phúc thẩm, nghe trình bày, tham gia hỏi, tranh luận như phiên tòa sơ thẩm, tại

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm “Nếu tòa án đó triệu tập người tham gia tố

tụng thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về

kháng nghị” (khoản 3 Điều 76 PLTTGQCVADS)…

Nói tóm lại, Các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân

sự, pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án kinh tế thiếu các quy định về chứng cứ, quy trình chứng

38

minh, phân loại chứng cứ, phân định giá trị chứng minh của từng chứng cứ.

Vấn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi bộ luật TTDS 2004

có hiệu lực còn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn trên cơ sở

của một nền kinh tế, xã hội chưa phát triển, các giao lưu dân sự còn đơn giản,

tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những hạn

chế chung về chứng minh, pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của

đương sự cũng như không tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ

nghĩa vụ chứng minh của mình.

1.2.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến trước Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

BLTTDS năm 2004 ra đời đánh dấu bước tiến quan trọng về thủ tục tố

tụng nói chung và về chứng cứ và chứng minh nói riêng. Chứng cứ và chứng

minh được tách bạch thành Chương riêng quy định từ Điều 79 đến Điều 98.

Trong những giai đoạn trước nếu như nguồn chứng cứ chỉ được nói đến

chung chung thì đến BLTTDS năm 2004 nguồn chứng cứ đã liệt kê cụ thể,

rõ ràng, đầy đủ. Đồng thời, BLTTDS năm 2004 cũng đã hướng dẫn các

phương thức để chủ thể chứng minh có thể thu thập tài liệu, chứng cứ,

phương tiện chứng minh.

Về cơ bản BLTTDS 2004 đã tháo gỡ phần nào những vướng mắc, bất

cập của pháp luật tố tụng dân sự thời gian trước đó. Nhờ đó, nhận thức của các

cá nhân, các cơ quan, tổ chức về các hoạt động thực tiễn trong việc giải quyết

vụ án cơ bản đã được nâng lên. Đặc biệt, các chủ thể tiến hành tố tụng đã nhận

thức rõ quyền hạn, trách nhiệm của mình tới đâu trong phạm vi thu thập chứng

cứ và xem xét chứng cứ để giải quyết vụ án. Còn về phía các chủ thể tham gia

tố tụng cũng nhận thức rõ hơn về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình.

BLTTDS 2004 xây dựng hệ thống về chứng minh và chứng cứ khá chặt

chẽ các vấn đề như: Chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương pháp thu thập chứng

cứ, đánh giá chứng cứ… cũng đã được BLTTDS 2004 cũng hướng dẫn đầy

39

đủ ngay từ giai đoạn đầu như đương sự nộp đơn khởi kiện, Tòa án thụ lý đến

việc ra các quyết định tố tụng, sau đó là bản án dân sự và cuối cùng là các thủ

tục kháng cáo, giám đốc thẩm, tái thẩm để xem xét lại vụ án. BLTTDS 2004

không còn quy định về việc điều tra chứng cứ như quy định của Pháp lệnh

Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 mà BLTTDS 2004 quy định cụ thể

những trường hợp Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để

thu thập tài liệu, chứng cứ. Chủ thể cá nhân, các cơ quan tham gia tố tụng có

quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án, nếu không nộp hoặc nộp

không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy

đủ đó. Bộ luật đề cao việc chủ động thu thập chứng cứ của các đương sự để

chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như để bảo vệ lợi ích của mình không

bị người khác xâm phạm. Khi các đương sự không thể tự mình tiếp cận, thu

thập chứng cứ có thể yêu cầu Tòa án giúp mình thu thập tài liệu, chứng cứ.

Về phía các cơ quan chức năng cũng phải có trách nhiệm phối hợp với các cơ

quan tố tụng và tạo điều kiện cho các cá nhân khi có nhu cầu thu thập chứng

cứ, có như vậy mới đề cao được tính dân chủ, nâng cao hiệu quả, rút ngắn

thời gian giải quyết vụ án.

BLTTDS 2004 vấp phải một số vướng mắc về vấn đề chứng cứ, chứng

minh như sau:

Theo quy định của điểm d khoản 2 Điều 58 của BLTTDS

2004, đương sự có quyền và nghĩa vụ đề nghị Tòa án xác minh, thu

thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện

được. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi của đương sự, tuy

nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp, đặc biệt là ở những vùng sâu

vùng xa, do trình độ nhận thức, nhiều đương sự không biết chữ,

hoặc chỉ biết ký nên Tòa án gặp nhiều khó khăn khi yêu cầu đương

sự làm bản tự khai; nhiều vụ án đương sự không chấp hành yêu cầu

giao nộp chứng cứ của Tòa án hoặc không yêu cầu Tòa án thu thập

40

chứng cứ dẫn đến việc Tòa án không thể giải quyết vụ án một cách

chính xác, khách quan. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp các đương

sự không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, không đến Tòa án

làm việc dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài, ảnh hưởng đến

chất lượng phiên tòa, không bảo đảm thời hạn tố tụng.

Trên cơ sở này, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành

Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của

BLTTDS 2004 về chứng minh và chứng cứ. Nghị quyết đã hướng dẫn cụ thể, rõ

hơn những quy định về chứng minh và chứng cứ trong BLTTDS 2004.

Dù có những bất cập nhưng hơn hết, BLTTDS 2004 ra đời đã thể hiện

rõ sự thay đổi trong trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Các nội dung

liên quan đến nghĩa vụ chứng minh đã được quy định chi tiết, cụ thể và rõ

ràng hơn. BLTTDS 2004 ra đời và đưa vào thực tiễn xét xử dẫn đến nhiều thay

đổi quan trọng trong việc xét xử vụ án dân sự góp phần nâng cao nhận thức của

người dân, đưa đất nước ổn định và phát triển trong những năm vừa qua.

1.2.5. Pháp luật Việt Nam hiện nay

Kế thừa và phát triển từ BLTTDS 2004 trước đó, BLTTDS 2015 đã có

nhiều thay đổi quan trọng trong đó có sự thay đổi trong phần Chứng cứ và

chứng minh. Nếu như theo quy định Điều 82 BLTTDS 2004 sửa đổi năm

2011 thì nguồn chứng cứ bao gồm: “1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn

được; 2. Các vật chứng; 3. Lời khai của đương sự; 4. Lời khai của người làm

chứng; 5. Kết luận giám định; 6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; 7.

Tập quán; 8. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản”; Ngoài các

nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 82 của BLTTDS 2004 thì Điều 94 của

BLTTDS 2015 bổ sung nguồn chứng cứ mới là: Dữ liệu điện tử; Kết quả định

giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý

do người có chức năng lập; Văn bản công chứng, chứng thực để phù hợp với

quy định của các Luật chuyên ngành như: Luật giao dịch điện tử, Luật giá,

41

Luật công chứng, Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.

Với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của công nghệ thông tin và

truyền thông thì các giao dịch sử dụng dữ liệu điện tử ngày càng phổ biến. Do

đó, việc BLTTDS 2015 bổ sung thêm loại nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử

là rất cần thiết.

Đối với văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức

năng lập, về cơ bản, việc bổ sung nguồn chứng cứ này là nhằm mục đích để

bảo đảm tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong giai đoạn

các giao dịch dân sự

ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn thời gian trước đây.

Về văn bản công chứng, chứng thực thì về nguyên tắc, không phải mọi văn

bản công chứng, chứng thực đều được coi là nguồn của chứng cứ mà văn bản

công chứng, chứng thực đó phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục mà

pháp luật quy định về công chứng, chứng thực. Trên thực tế, với xu thế xã hội

này càng phát triển, các giao dịch dân sự, thương mại ngày càng nhiều thì nhu

cầu về công chứng, chứng thực các văn bản càng phổ biến hơn. Đồng thời,

đây còn là cơ sở để Tòa án có được quyết định chính xác, khách quan trong

bản án, quyết định.

Bên cạnh đó, so với BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011 thì BLTTDS

2015 đã không còn coi tập quán là nguồn chứng cứ. Đối với những giao dịch

thương mại trong và ngoài nước thì việc bỏ tập quán này là sự thiếu hụt của

pháp luật về lĩnh vực thương mại. Tập quán thương mại quốc tế là thông lệ,

cách làm lặp đi lặp lại nhiều lần trong buôn bán quốc tế và được các tổ chức

quốc tế có liên quan thừa nhận. Với đà phát triển hiện nay việc giao thương

42

với các nước trên thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Kết luận chƣơng 1

Sau khi nghiên cứu các nội dung trong chương 1, tác giả luận văn rút ra

các kết luận chính sau:

Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh là nội dung rất quan trọng của chế

định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự. Mở rộng hơn, không chỉ

trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh còn là đối tượng quan trọng của tố

tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Thứ hai, sự thay đổi nhận thức giúp cho việc thay đổi tư duy trong hoạt

động xét xử diễn ra tại Việt Nam ngày càng khác trước. Cụ thể, hoạt động

chứng minh trong thời kỳ đầu tại Việt Nam còn được quy định khá sơ sài và

Tòa án là cơ quan gần như phải thực hiện mọi nhiệm vụ để làm sáng tỏ nội

dung vụ việc. Tuy nhiên, hiện nay, nghĩa vụ chứng mình dần được chuyển

giao từ Tòa án sang các đương sự. Điều này là phù hợp vì chỉ có đương sự

mới là những người am hiểu rõ nhất các tình tiết, sự kiện của vụ việc và việc

chứng minh của họ mang lại những ưu thế cho họ khi tham gia tố tụng.

Thứ ba, tùy theo mô hình tổ chức tư pháp của từng quốc gia, nghĩa vụ

chứng minh tại các nước này được quy định dựa theo. Cụ thể, trong các mô

hình tố tụng tranh tụng, nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về các bên đương

sự. Còn trong mô hình tố tụng thẩm vấn, Hội đồng xét xử là cơ quan chịu

43

trách nhiệm chính trong việc làm sáng tỏ nội dung của vụ án.

CHƢƠNG 2

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN NAY VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

2.1. Chủ thể và việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể

Chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự rất đa

dạng. Trong đó, từng chủ thể lại thực hiện nghĩa vụ chứng minh theo cách của

minh và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Theo đó, các chủ thể

thực hiện nghĩa vụ chứng minh bao gồm:

2.1.1. Đương sự

* Đương sự trong vụ việc dân sự

Theo khoản 1, Điều 68 BLTTDS 2015 quy định “Đương sự trong vụ

việc dân sự” bao gồm:

1. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân

bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao

gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan.

Ngoài ra, căn cứ khoản 2, Điều 68 của BLTTDS 2015 thì:

2. Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người

được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi

kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền

và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án

dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà

nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.

3. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi

44

kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định

khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng

quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự

là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết

vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ

được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa

án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến

quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị

đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với

tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

5. Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa

án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn

cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức,

cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự,

hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự

là người tuy không yêu cầu giải quyết việc dân sự nhưng việc giải

quyết việc dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên

họ được tự mình đề nghị hoặc đương sự trong việc dân sự đề nghị

và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách

là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp giải quyết việc dân sự có liên quan đến quyền

45

lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ

vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự [30].

* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự

Qui định rõ về nghĩa vụ chứng minh đối với các đương sự là một trong

những nội dung quan trọng trong tố tụng dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự

2015, là cơ sở cho các đương sự xác định nghĩa vụ của mình khi đưa ra yêu

cầu, thực hiện tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Nếu

đương sự không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu

cầu của mình là có căn cứ và Tòa án không thể thu thập chứng cứ đó được thì

có khả năng đương sự sẽ bị Tòa án bác yêu cầu. Đồng thời trong quá trình

giải quyết phải đảm bảo cho người yếu thế không thể cung cấp được tài liệu,

chứng cứ vẫn có điều kiện thực hiện việc tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình cho nên có một số trường hợp cụ thể nghĩa vụ chứng minh

phải thuộc về người bị yêu cầu (bị đơn). Vì vậy, (Điều 91 BLTTDS 2015) qui

định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là:

Thứ nhất: đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình phải thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó

là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây thì nghĩa vụ chứng minh

thuộc về người bị yêu cầu:

- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ

chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra

thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,

giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó

đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động

46

có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.

- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao

động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền

đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý

kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao

động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.

Thứ hai: Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải

thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài

liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó.

Thứ ba: Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công

cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu,

chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và

hợp pháp. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không

có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ tư: Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà

không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải

quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ

việc. Từ đó, cho thấy, quá trình giải quyết vụ việc dân sự là việc xem xét

trách nhiệm giữa các cá nhân với nhau, do đó nghĩa vụ chứng minh thuộc về

các đương sự. Khi một người có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của mình hoặc phản đối yêu cầu của người khác đối với mình hoặc bảo

vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người khác, thì đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu

cầu có nghĩa vụ phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là

có căn cứ và hợp pháp. Bên cạnh đó, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng

47

minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự (Điều 6).

Ngoài ra, việc đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và

chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp xuất phát từ

nguyên tắc thực hiện quyền tự bảo vệ, tự định đoạt của đương sự. Đương sự

có thể thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình bằng hai

cách là tự mình thu thập hoặc nhờ Tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện qui

định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS 2015. Để đảm bảo khả năng thu thập

chứng cứ cho đương sự, Điều 7 của bộ luật này cũng đã qui định về trách

nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền khi có yêu cầu của đương sự. Mặc dù vậy, trên thực tế qui định này rất

khó được thực hiện, một phần bởi tính phức tạp của hoạt động quản lý của các

cơ quan, tổ chức cũng như cơ chế cung cấp thông tin. Thông thường thì

đương sự phải nhờ đến sự can thiệp của Tòa án, hoặc bằng các mối quan hệ

cá nhân mới có thể đảm bảo thu thập được tài liệu, chứng cứ.

Ví dụ: Trong vụ án ly hôn đơn phương: người vợ hoặc người chồng khi

khởi kiện vụ án ly hôn đơn phương mà hai vợ chồng không ở cùng một hộ

khẩu hoặc ở hai nơi khác nhau thì, khi làm thủ tục ly hôn, nguyên đơn phải

xuất trình cho Tòa án “Giấy xác nhận nơi cư trú của bị đơn” – chứng cứ xác

nhận nơi cư trú của bị đơn. Để xác nhận được nơi ở của một cá nhân, thì phải

thông qua Cảnh sát khu vực và có xác nhận của cơ quan công an cấp

Phường/xã nơi bị đơn đang sinh sống. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp, cảnh

sát khu vực từ chối không cung cấp thông tin, gây khó khăn cho nguyên đơn,

chỉ cung cấp thông tin khi có văn bản yêu cầu của Tòa án.

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, hậu quả của việc đương sự

có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ

hoặc không đưa ra đủ chứng cứ đó là việc Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vụ

việc theo thủ tục chung. Tòa án sẽ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập

48

được có trong hồ sơ vụ việc và nếu vụ việc được xét xử, giải quyết tại phiên

tòa, phiên họp thì Tòa án chỉ căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra,

xem xét tại phiên tòa, phiên họp, kết quả việc hỏi tại phiên tòa, phiên họp,

xem xét đầy đủ ý kiến của người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên để quyết

định. Đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc

chứng minh không đầy đủ.

* Những trường hợp đương sự không cần phải chứng minh

Việc chứng minh trong vụ việc dân sự được thực hiện dựa trên các tình

tiết, sự kiện được sử dụng trong vụ án dân sự đều phải được chứng minh. Tuy

nhiên, đối với những tình tiết, sự kiện đã được thừa nhận, tính xác thực của nó

đã được mặc định thì không phải chứng minh (Điều 92 BLTTDS 2015). Đó là

những trường hợp sau:

Thứ nhất, nhóm tình tiết, sự kiện mà bản thân nó đã chứa đựng sự thật

khách quan, bao gồm: Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết

và được tòa án thừa nhận (phải là những tình tiết, sự kiện có tính khách quan).

Thứ hai, những tình tiết, sự kiện được xác định trong bản án, quyết

định của tòa án có hiệu lực pháp luật, quyết định của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Hoặc những tình tiết, sự kiện đã được ghi nhận trong văn bản

công chứng, chứng thực hợp pháp.

Thứ ba, là nhóm những tình tiết, sự kiện mà bị đơn thừa nhận hoặc

không phản đối (trong trường hợp vụ án có người đại diện tham gia thì sự

thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu

không vượt quá phạm vi đại diện).

Ngoài ra, khi một bên đương sự hoặc người đại diện tham gia tố tụng

của đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu,

văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì

bên đương sự đó không phải chứng minh.

49

Tuy vậy, thực tế cho thấy rằng, mặc dù khi đưa ra các tình tiết, sự kiện

thuộc các trường hợp kể trên, đương sự không cần phải chứng minh về tính

xác thực của chứng cứ nhưng vẫn phải nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ của các tình

tiết, sự kiện đó.

Ví dụ: Trong hồ sơ khởi kiện vụ án ly hôn, các tài liệu xuất trình kèm

theo đơn khởi kiện gồm có: bản sao chứng thực Chứng minh nhân dân, hộ

khẩu, đăng ký kết hôn…. Khi trực tiếp tham gia giải quyết vụ án, các đương

sự buộc phải xuất trình bản chính Chứng minh nhân dân và đăng ký kết hôn

để Tòa án đối chiếu, xác thực.

2.1.2. Người đại diện của đương sự

* Về các loại đại diện của đương sự trong tố tung dân sự

Về bản chất, đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi ích

của cá nhân hoặc pháp nhân khác tham gia vụ án dân sự trong phạm vị đại diện.

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự là người thay mặt

cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng

nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại

diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại

diện theo ủy quyền. Người đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo qui

định của Bộ luật dân sự.

Theo quy định của Điều 85 BLTTDS 2015 thì: Người đại diện theo

pháp luật theo qui định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo pháp luật

trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo qui định

của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, các nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố

tụng dân sự của người được bảo vệ.

Cụ thể: có hai loại chủ thể đại diện theo pháp luật:

+ Đại diện theo pháp luật của cá nhân (Điều 136 BLDS 2015) bao gồm:

50

1. cha mẹ đối với con chưa thành niên; 2. Người giám hộ đối với người được

giám hộ; Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ

hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định; 3. Người

do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy

định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này; 4. Người do Tòa án chỉ định đối với

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

+ Đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 137 BLDS 2015) bao

gồm: 1. Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; 2. Người có thẩm quyền

đại diện theo quy định của pháp luật; 3. Người do Tòa án chỉ định trong quá

trình tố tụng tại Tòa án. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo

pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy

định tại về thời hạn và phạm vi ủy quyền.

Đặc biệt đối với các vụ án liên quan đến người lao động thì tại Khoản 3

Điều 85 BLTTDS 2015 đã qui định:

Tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện theo pháp

luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia

tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao

động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho

người lao động khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được

người lao động ủy quyền. Trường hợp nhiều người lao động cùng

có yêu cầu đối với người sử dụng lao động, trong cùng một doanh

nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại diện của tổ chức

đại diện tập thể lao động thay mặt họ khởi kiện vụ án lao động,

tham gia tố tụng tại Tòa án.

Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là

người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự (khoản 4 Điều 85 BLTTDS

51

2015). bao gồm:

1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp

nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự; 2. Các thành viên hộ

gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có

thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền

xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của

các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư

cách pháp nhân; 3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười

tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp

pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám

tuổi trở lên xác lập, thực hiện [30, Điều 138].

Ngoài ra còn có người Đại diện do tòa án chỉ định quy định tại BLTTDS

2015 đó là:

1. Khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người

chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn

chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,

làm chủ hành vi mà không có người đại diện hoặc người đại diện

theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại

khoản 1 Điều 87 của Bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại

diện để tham gia tố tụng.

2. Đối với vụ việc lao động mà có đương sự thuộc trường

hợp quy định tại khoản 1 Điều này hoặc người lao động là người

chưa thành niên mà không có người đại diện và Tòa án cũng không

chỉ định được người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì

Tòa án chỉ định tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người

52

lao động đó [30, Điều 88].

* Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người đại diện cho đương sự trong

tố tụng dân sự

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân

sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định

tại điều 86 BLTTDS 2015. Cụ thể:

1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực

hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà

mình đại diện.

2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực

hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung

văn bản ủy quyền.

Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh

hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ

gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên

nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên

hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.

* Những trường hợp không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự

Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật đã

dự liệu những trường hợp mà theo đó, nếu một số chủ thể trở thành người đại

diện, thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự sẽ gây

nên những bất lợi cho chính đương sự mà họ đại diện. Trong trường hợp đó,

các đối tượng này không thể làm người đại diện theo pháp luật hoặc người đại

diện theo ủy quyền cho đương sự.

Điều 87- BLTTDS 2015 qui định những người sau đây không được làm

53

người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền:

- Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người

được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với

quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;

- Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng

dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được

đại diện trong cùng một vụ việc

Ngoài ra, khoản 3 Điều 87 BLTTDS 2015 còn qui định “Cán bộ, công

chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại

diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia với tư cách là người đại

diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật”.

Quy định này xuất phát từ chính công việc của các chủ thể nói trên, bởi họ là

những người liên quan trực tiếp đến các hoạt động nghiệp vụ tố tụng trong

quá trình giải quyết vụ án. Nếu để họ làm người đại diện cho đương sự trong

các vụ án dân sự dễ dẫn đến việc thiếu công minh, thiếu khách quan trong quá

trình giải quyết vụ án.

2.1.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

* Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham

gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, khi có yêu

cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 75 BLTTDS 2015). Những người

này có thể là:

- Luật sư tham gia tố tụng theo qui định của pháp luật về luật sư;

- Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo qui

định của pháp luật về trợ giúp pháp lý;

54

- Đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động là người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người lao động trong vụ việc lao động theo quy định

của pháp luật về lao động, công đoàn;

- Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không có án

tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện

pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức trong các cơ quan

Tòa án, Viện kiểm sát và công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an.

Có thể thấy rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án

ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc

thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ không

nhằm mang lại lợi ích cho bản thân họ mà hướng đến việc phục vụ hay bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ mà họ có trách nhiệm bảo vệ. Vì thế,

việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể này nhằm mang lại sự

thuận lợi cho đương sự.

* Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự

Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự có quyền: (Điều 76 BLTTDS 2015).

2. Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên

cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết

có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều

109 của Bộ luật này.

5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy

quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa

55

án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự.

Ví dụ: Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, sau khi xong phần

thủ tục, bắt đầu phần xét hỏi: Chủ tọa phiên tòa sẽ yêu cầu Nguyên đơn trình

bày nội dung đơn khởi kiện và các chứng cứ kèm theo chứng minh cho yêu

cầu khởi kiện của mình. Nếu nguyên đơn có luật sư bảo vệ, đồng thời không

tự mình trình bày được thì có thể nhờ Luật sư trình bày hộ nội dung khởi kiện

và các chứng cứ kèm theo.

2.1.4. Tòa án nhân dân

Tòa án yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi xét thấy chứng cứ

có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết. Theo yêu cầu của

đương sự, Tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá

tài sản, lấy lời khai của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định,

giám định bổ sung, đối chất, ủy thác thu thập chứng cứ, yêu cầu cơ quan tổ

chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ… có quyền nghiên cứu, đánh giá

chứng cứ theo Điều 108, 109 BLTTDS 2015. Đây là điều hiển nhiên vì tòa án

là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải

quyết. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền hỏi những người tham gia

phiên tòa như đương sự, người làm chứng…

Ví dụ: Trong vụ án hôn nhân gia đình: Một trong các bên vợ, chồng

nghi ngờ đứa con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân không phải là con đẻ của

mình mà không tự mình chứng minh được thì có quyền yêu cầu Tòa án thực

hiện thủ tục trưng cầu giám địch AND xác nhận quan hệ huyết thống với đưa

trẻ. Người đưa ra yêu cầu phải viết đơn và phải nộp toàn bộ các chi phí liên

quan đến yêu cầu của mình.

Như vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt

động chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án

56

và bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.

2.1.5. Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động

là tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. cụ

thể Điều 58 BLTTDS 2015

1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.

2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự.

3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu

thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy

định của Bộ luật này; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại

khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này.

4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện

kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này.

5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.

6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố

tụng theo quy định của Bộ luật này.

7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng

nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.

8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng;

yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm

minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.

9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc

thẩm quyền của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật này [30].

Khi đó tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát

nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm

đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm

quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc

thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm) [41] trong một thời gian luật định để tiến

57

hành xem xét.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét

thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo

quy định tại điểm d khoản 1 Điều 57, khoản 7 Điều 58 BLTTDS 2015, có

quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều Khoản 3 Điều 58), Tham gia phiên tòa, phiên

họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy

định của Bộ luật này. (khoản 4 Điều 58 BLTTDS 2015)

Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt

động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của

Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và

nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện

kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện

quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu

nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện

kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế

của nhà nước – đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực

hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt

động chứng minh của mình.

2.1.6. Những người tham gia tố tụng khác

* Người làm chứng

Theo qui định tại Điều 77 BLTTDS 2015: “Người biết các tình tiết có

liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham

gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự

không thể là người làm chứng”.

Từ qui định trên có thể thấy, không tự nhiên mà một cá nhân có thể trở

thành “người làm chứng” trong vụ việc dân sự. Họ chỉ trở thành người làm

chứng khi có đầy đủ cả bốn điều kiện đó là biết về các tình tiết liên quan đến

vụ việc; được đương sự đề nghị Tòa án triệu tập; được Tòa án triệu tập và

58

không mất năng lực hành vi dân sự.

Vai trò chứng minh sự thật khách quan trong tố tung dân sự của người

làm chứng không phải là trực tiếp và không đương nhiên. Họ chỉ là người xác

nhận lại các sự kiện, tình tiết đã xảy ra trong vụ việc dân sự bằng cách cung

cấp các thông tin, tài liệu, đồ vật mà họ có được liên quan đến việc giải quyết

vụ việc. Nhiệm vụ của người làm chứng là phải khai báo trung thực và có mặt

theo giấy triệu tập của Tòa án.

* Người giám định

Theo qui định tại Điều 79 BLTTDS 2015: “Người giám định là người

có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có

đối tượng cần giám định mà Tòa án trưng cầu giám định hoặc được đương sự

yêu cầu giám định theo quy định tại Điều 102 của Bộ luật này”.

Cũng giống như người làm chứng, người giám định không có nghĩa vụ

đương nhiên phải chứng minh sự thật của vụ án. Nghĩa vụ của họ là nghĩa vụ

phái sinh và có giới hạn. Tức là, khi được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu

giám định về đối tượng giám định thì người giám định – giám định viên mới

tiến hành việc giám định trong phạm vi yêu cầu giám định.

Ví dụ: Trong vụ án dân sự “đòi tiền cho vay”: Nguyên đơn gửi đơn

khởi kiện kèm theo giấy vay nợ và các tài liệu khác. Bị đơn cho rằng đã thanh

toán nợ và xuất trình một giấy thanh toán tiền có chữ ký xác nhận của nguyên

đơn. Nguyên đơn cho rằng, Giấy thanh toán tiền nợ mà bị đơn xuất trình là

giả mạo và chữ ký trên văn bản không phải là chữ ký của nguyên đơn. Đồng

thời yêu cầu Tòa án chưng cầu giám định chữ viết, chữ ký trên văn bản.

Trường hợp này, Tòa án sẽ ban hành quyết định chưng cầu giám định mẫu

chữ viết, chữ ký trên văn bản đối chiếu với chữ viết và chữ ký do nguyên đơn

xuất trình có phải do cùng một người viết và ký không. Gửi quyết định này

đến Viện khoa học hình sự có thẩm quyền. Lúc này, công việc của giám định

59

viên là vời chuyên môn của mình sẽ chỉ giám định mẫu chữ viết, chữ ký trên

văn bản đối chiếu với chữ viết và chữ ký do nguyên đơn xuất trình có phải do

cùng một người viết và ký không, không giám định nội dung của văn bản yêu

cầu giám định.

* Người phiên dịch

Theo qui định tại Điều 81 BLTTDS 2015:

Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ

khác ra tiếng Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia

tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch được một

bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn

và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên dịch.

Với vai trò là người phiên dịch khi tham gia tố tụng dân sự, bản thân họ

không có nghĩa vụ phải chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của các bên đương

sự là đúng, là sự thật. Tuy nhiên, việc họ chuyền tải thông tin trong quá trình

phiên dịch một cách trung thực, đúng suy nghĩ của người cần phiên dịch lại

góp phần làm cho các tình tiết, nội dung sự việc được sáng tỏ, giúp các cơ

quan tiến hành tố tụng và các bên đương sự hiểu rõ tình tiết của vụ án.

2.2. Hoạt động chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố tụng

dân sự

2.2.1. Bản chất và khái niệm của hoạt động chứng minh

Nhiệm vụ của Tòa án trong pháp luật tố tụng dân sự là làm sáng tỏ sự thật

khách quan của vụ việc dân sự: có hay không không có, tồn tại hay không tồn tại

các sự kiện, tình tiết mà các bên nêu ra làm cơ sở cho yêu cầu của mình trước

Tòa án. Chỉ trên cơ sở các tình tiết sự kiện của vụ việc dân sự đã được làm rõ,

Tòa án mới có thể áp dụng pháp luật phù hợp để giải quyềt vụ việc: chấp nhận

hay bác bỏ yêu cầu của các bên. Tòa án làm sáng tỏ sự thật khách quan của việc

dân sự bằng các chứng cứ do các bên thu thập, đề xuất và được kiểm

60

Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự là một quá trình

gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng

trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho

yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy

định của pháp luật.

Họat động chứng minh là một quá trình bao gồm các giai đọan: thu

thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ.

2.2.2. Đối tượng chứng minh

Đối tượng chứng minh là tổng hợp các sự kiện pháp lý mà Tòa án cần

phải làm sáng tỏ để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.

Những tình tiết, sự kiện này cần phải làm sáng tỏ trong quá trình giải quyết vụ,

việc dân sự

Đối tượng chứng minh căn cứ vào: Theo yêu cầu của đương sự hoặc

xác định theo pháp luật nội dung

2.2.3. Những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh

Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án

thừa nhận;

Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định

của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;

Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,

chứng thực hợp pháp.

Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự

kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh

Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của

người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.

2.2.4. Phạm vi chứng minh

Phạm vi chứng minh của Tòa án nhân dân: Toàn bộ nội dung vụ án thể

61

hiện tập trung ở hoạt động đánh giá chứng cứ và kết luận về nộI dung vụ việc

Phạm vi chứng minh của đương sự: yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu

Phạm vi chứng minh của người đại diện: Trong phạm vi đại diện

Phạm vi chứng minh của người làm chứng: Những gì mà họ biết

Phạm vi chứng minh của người giám định: Căn cứ vào đối tượng giám định

Phạm vi chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự: Theo yêu cầu của đương sự

2.3. Nội dung chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự

2.3.1. Cung cấp chứng cứ

Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ

cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu của người khác đối với mình

có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản đối

yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Trước tiên, nguyên đơn là người khởi

kiện nên nguyên đơn có quyền và nghĩa vụ chứng minh cho việc thực hiện

quyền yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Ngược lại, bị đơn nếu

không chấp nhận toàn bộ hay một phần yêu cầu của nguyên đơn thì bị đơn

phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó. Ngoài ra, khi bị

đơn đưa ra yêu cầu phản tố hoặc người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

đưa ra yêu cầu độc lập thì cũng có trách nhiệm chứng minh cho yêu cầu của

mình là đúng và đương sự phải trả lời đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc

yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm

chứng minh cho sự phản đối đó

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng có

quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của họ là

có căn cứ và hợp pháp

62

Hậu quả của việc đương sự không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho

Tòa án: khi quy định về nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng cứ của đương sự

thì đồng thời phải quy định về hậu quả pháp lý khi đương sự không thực hiện

nghĩa vụ đó nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ của đương sự được thực hiện trên

thực tế. Do đó, Bộ luật TTDS 2015 quy định rõ hậu quả pháp lý khi đương sự

không cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Đó là, đương sự có nghĩa vụ

đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không

đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ

đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc (khoản 4 Điều 91). Nếu đương sự

không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu

cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà

đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 Bộ luật

TTDS để giải quyết vụ việc dân sự (khoản 1 Điều 96).

2.3.2. Thu thập chứng cứ

Lấy lời khai của đương sự: Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của

đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ,

rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp

đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự.

Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự

khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời

khai của đưng sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ

sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài

trụ sở Toà án.

Lấy lời khai của người làm chứng: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi

xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại

trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.Thủ tục lấy lời khai của người làm

chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai

63

của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành

vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật

hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.

Đối chất

Xem xét, thẩm định tại chỗ: Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do

Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc

cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước

việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét,

thẩm định đó.

Trưng cầu giám định: Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương

sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết

định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ

tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần

giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.

Định giá tài sản: Toà án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp

trong các trường hợp sau đây: Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;

Các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm

mức đóng án phí. Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ

tịch Hội đồng và các thành viên là đại diện c quan tài chính và các cơ quan

chuyên môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt

đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Các đương sự được thông báo trước về

thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến

về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội

đồng định giá.

Ủy thác thu thập chứng cứ: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự,

Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm

quyền lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ,

64

định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các

tình tiết của vụ việc dân sự. Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu

cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.

2.3.3. Nghiên cứu chứng cứ

Là việc xác định các thuộc tính của chứng cứ, mối liên hệ của chứng cứ

Nghiên cứu chứng cứ là một phần không thể thiếu được của quá trình

chứng minh, là sự nhận thức trực tiếp của chủ thể họat động chứng minh về

chứng cứ ở những góc độ sau đây: tính liên quan, tính hợp pháp, tính tòan

diện, tính đầy đủ của chứng cứ.

Chủ thể nghiên cứu chứng cứ là Tòa án nhân dân. Việc nghiên cứu

chứng cứ có thể diễn ra trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa. Việc nghiên cứu

chứng cứ có thể chứng cứ tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau như trực

tiếp nghe lời khai của các bên đương sự, lời khai của nhân chứng, trình bày

kết luận của giám định viên, nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, trực tiếp đọc các

tài liệu, bằng cách xem xét trực tiếp vật chứng, xem các băng hình đĩa hình,

hỏI những người tham gia tố tụng. Phương pháp nghiên cứu có thể là so sánh,

phân tích, đối chiếu, đối chất, xem xét thẩm định tại chỗ, trưng cầu giám định,

định giá tài sản….

2.3.4. Đánh giá chứng cứ

Là giai đọan cuối cùng của quá trính chứng minh. Trên cơ sở kết quả

kiểm tra, các chủ thể họat động chứng minh đi đến kềt luận về các thuộc tính

cũng như tính xác thực của các chứng cứ, mối liên hệ giữa chúng với nhau,

về sự tồn tại hay không tồn tại của các sự kiện, tình tiết thuộc đối tượng

chứng minh. Bản chất của đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic diễn

ra dưới hình thức các hành vi tố tụng, chịu sự tác động của pháp luật. Đánh

giá chứng chứ là quá trình hai mặt: mặt nội dung (tư duy logic) và mặt hình

65

thức (mặt pháp luật)

2.4. Quá trình chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố tụng

dân sự

2.4.1. Nội dung chứng minh

Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ

đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp

pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu,

đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ

có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh

giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập,

cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng

cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh

những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và

toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng

cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan

xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là

giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có

thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải

quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể

tòa án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được

giải quyết tiếp theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát

sinh hoạt động chứng minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.

2.4.2. Phương pháp thực hiện nghĩa vụ chứng minh

Đương sự có nghĩa vụ chứng minh phải thực hiện hoạt động chứng

minh. Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt

động chứng minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích

của cá nhân khác thì tư cách đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng

66

họ không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình

là có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện,

bị đơn cũng không bắt buộc phải chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một

cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu. Khi nguyên

đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho

yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý

kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có

căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải

chứng minh… nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định

đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết định.

Đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một cách không đầy đủ

nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được chấp nhận.

Nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có

tính chỉ đạo xuyên suốt vì xuất phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải

quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là để bảo vệ

các quyền và lợi ích của mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. ở đó,

không có sự can thiệp của quyền lực nhà nước, các bên hoàn toàn bình đẳng

trong các mối quan hệ. Đương sự là trung tâm của hoạt động tố tụng, là chủ

thể của quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ

sẽ do chính họ quyết định thông qua hoạt động của mình. Nhà nước không

can thiệp mà chỉ công nhận các quyền lợi khi xét thấy có căn cứ và hợp pháp

thông qua hoạt động chứng minh của đương sự.

2.5. Xu hƣớng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam hiện nay

2.5.1. Khuynh hướng dịch chuyển nghĩa vụ chứng minh từ Tòa án

sang đương sự

Như đã phân tích ở trên, đương sự khi khởi kiện vụ việc dân sự ra tòa

67

án để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của mình thì họ phải chứng minh cho yêu

cầu của họ, không thể đặt nhiệm vụ chứng minh sự thật của vụ án lên vai

“quan tòa” được. Do vậy, từ khi xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và đến

Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nhà làm luật đã thiết lập một chế định riêng về

chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó điều luật đầu tiên của chế định quy

định về “nghĩa vụ chứng minh”. Nội dung của quy định này nhằm xác định rõ

“gánh nặng” chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về đương sự, tránh việc

đương sự đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm của mình cho chủ thể khác trong

quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Đồng thời, hai bộ luật đều loại bỏ quy định tòa án phải điều tra vụ án

dân sự, thay thế đó là quy định tòa án có thể tự mình tiến hành thu thập tài liệu,

chứng cứ trong một số trường hợp luật định nhằm giúp vụ án được giải quyết

đúng đắn, chính xác hơn. Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh thay đương

sự, tòa án chỉ hỗ trợ đương sự khi đương sự đã nỗ lực hết sức nhưng không thể

chứng minh được cho quyền lợi của mình. (Điều 91- BLTTDS 2015)

2.5.2. Đương sự phản đối yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh cho sự

phản đối đó

Trong tố tụng dân sự, không chỉ đương sự - nguyên đơn đưa ra yêu

cầu khởi kiện phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình, mà ngay

cả đương sự - bị đơn phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cũng phải

có nghĩa vụ chứng minh. Đương sự phản đối yêu cầu phải chứng minh để

làm rõ vấn đề: tại sao không chấp nhận yêu cầu của đối phương và muốn bác

bỏ yêu cầu đó.

Khoản 1 Điều 199 BLTTDS 2015 qui định:

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, bị

đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án

văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài

68

liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có).

Trường hợp cần gia hạn thì bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan phải có đơn đề nghị gia hạn gửi cho Tòa án nêu rõ lý

do; nếu việc đề nghị gia hạn là có căn cứ thì Tòa án phải gia hạn

nhưng không quá 15 ngày.

Nói cách khác, đương sự phản đối yêu cầu cũng phải thuyết phục tòa án

rằng mình không xâm phạm đến quyền lợi của đương sự có yêu cầu; từ đó tòa

án mới có căn cứ, cơ sở để bác bỏ yêu cầu mà phía bên kia đưa ra. Đương sự

phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý, các lý lẽ, lập luận để

chứng minh cho việc phản đối đó là đúng đắn và có cơ sở.

So sánh với quy định của pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, nghĩa vụ

chứng minh trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự có sự khác biệt. Nghĩa vụ

chứng minh trong tố tụng hình sự không thuộc về chủ thể bị buộc tội mà

thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Điều này là dễ hiểu vì mối quan hệ giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội

là quan hệ giữa nhà nước và người được quy đoán là phạm tội. Để bảo vệ các

lợi ích chung của cộng đồng thì nhà nước (mà đại diện là tòa án, viện kiểm

sát, cơ quan điều tra) phải xác định rõ người bị tình nghi (bị can, bị cáo) đã

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Khi các cơ quan này khởi tố một vụ án hình sự nghĩa là đang đưa ra

một yêu cầu buộc tội, khi đó họ phải chứng minh việc buộc tội đó là có căn cứ

và hợp pháp - điều này rất phù hợp với nguyên lý “Ai đưa ra yêu cầu, người

đó phải chứng minh”.

2.5.3. Đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

Có thể nói, đảo nghĩa vụ chứng minh là một quy định rất hay nằm trong

chế định nghĩa vụ chứng minh. Bởi lẽ, không phải mọi trường hợp chủ thể có

nghĩa vụ chứng minh đều có thể chứng minh và ngược lại, chủ thể bị kiện

69

tụng lại chính là bên có cơ sở tốt nhất để chứng minh. Vì thế, đảo nghĩa vụ

chứng minh là vấn đề rất được coi trọng khi xem xét về chế định nghĩa vụ

chứng minh trong tố tụng dân sự.

* Lịch sử hình thành của việc đảo nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng

dân sự

Đảo nghĩa vụ chứng minh là một nguyên tắc lần đầu tiên được nhắc

đến trong Điều 139, Luật Sáng chế của Đức năm 1891. Nguyên tắc này sau

đó cũng được quy định trong Luật Sáng chế của các nước Ý, Tây Ban Nha và

Bỉ. Gần đây nhất, nó được quy định trong một văn kiện rất quan trọng của

WTO là tại Điều 34 Hiệp định TRIPS. Đây không phải là việc chuyển nghĩa

vụ chứng minh hình thức (hay nghĩa vụ xuất trình chứng cứ - burden of

evidence production) trong một phiên tranh tụng mà là sự giảm bớt nghĩa vụ

nội dung cho nguyên đơn. Theo đó, trong thủ tục tố tụng dân sự, nếu đối

tượng sáng chế là quy trình sản xuất một loại sản phẩm, cơ quan xét xử có

quyền bắt buộc bị đơn chứng minh cho việc không gây thiệt hại và không vi

phạm của mình, tức là quy trình sản xuất ra sản phẩm đó của mình khác với

(không phải là) quy trình đã được cấp sáng chế [2].

Lý giải cho việc áp dụng nguyên tắc này trong luật sở hữu trí tuệ có

nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, nhiều quan điểm cho rằng đó là kết quả của

sự phân tích chi phí - lợi ích trong đánh giá tác động quy phạm, một dạng của

phương pháp phân tích kinh tế - luật. Theo đó, khi nguyên đơn có quá ít cơ

hội để chứng minh do những trở ngại được coi là do chính bị đơn tạo ra,

chẳng hạn không thể biết được bị đơn đã sản xuất và bán các sản phẩm vi

phạm sáng chế cho bao nhiêu người và thu được bao nhiêu tiền là việc quá

sức của nguyên đơn. Đảo nghĩa vụ chứng minh sẽ là một sự bù đắp cho sự

thiệt thòi về vị thế chứng minh cho nguyên đơn và bảo đảm giảm thiểu chi phí

tố tụng. Hơn nữa, nếu bị đơn chỉ ra được mình không có trách nhiệm gì thì

70

nghĩa vụ trang trải chi phí tố tụng (án phí, chi phí giám định...) vẫn sẽ được

xác định cho bên thua kiện - tức là bên nguyên. Về sau, Tòa án tối cao Liên

bang Đức (BGH) đã phát triển thành một nguyên tắc tố tụng, nguyên đơn có

thể được giảm bớt nghĩa vụ chứng minh và được đảo ngược nó trong những

trường hợp nhất định. Những trường hợp này được xác định là nếu như bị đơn

đã đặt nguyên đơn vào một vị thế không thể chứng minh mối quan hệ nhân

quả giữa thiệt hại của mình với hành vi của bị đơn, ví dụ như bệnh nhân thì có

quá ít kiến thức để chứng minh thiệt hại của mình do sự vi phạm liệu trình của

bác sĩ gây ra. Khi đó, nguyên đơn cần được coi như đã thực hiện xong nghĩa

vụ chứng minh của mình, và phần nghĩa vụ chứng minh cho nguyên nhân gây

thiệt hại được ấn định cho bị đơn. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng không

được áp dụng cho tất cả các trường hợp kiện tụng về trách nhiệm dân sự, chỉ

trong một số trường hợp kiện ngoài hợp đồng đối với bên bị là người vi phạm

nghĩa vụ nghề nghiệp, đặc biệt là trách nhiệm chăm sóc sức khỏe bệnh nhân

của bác sĩ, hay trách nhiệm sản phẩm. Như vậy, tuy người Đức đã đặt ra

ngoại lệ của nghĩa vụ chứng minh với những lý giải hết sức thỏa đáng, song

họ luôn thận trọng trước những lạm dụng ngoại lệ này. Ngay cả trong những

trường hợp ngoại lệ, người bị thiệt hại vẫn cứ phải chứng minh cho cái thiệt

hại xảy ra và chỉ ra được những bất cẩn hoặc cố ý vi phạm của bị đơn. Bởi

vậy cái gọi là đảo ở đây chỉ mang ý nghĩa tương đối và cũng lại rất thận trọng.

Tòa án tối cao Liên bang Đức gọi đây là nguyên tắc "Giảm nhẹ tới mức đảo

nghĩa vụ chứng minh". Hiện nay, vấn đề đảo nghĩa vụ chứng minh được xác

định chặt chẽ hơn trong các quy định về trái vụ của Bộ luật Dân sự Đức, Luật

Trách nhiệm sản phẩm, Luật Trách nhiệm hành nghề bác sĩ. Đáng lưu ý,

nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong trường hợp này vẫn là nghĩa vụ nội

dung, chứng cứ họ đưa ra vẫn là chứng cứ chính giống như nguyên đơn khi đi

kiện chứ không phải là chứng cứ bác bỏ. Cho tới nay, sau khi lý thuyết về

trách nhiệm sản phẩm, trách nhiệm tuyệt đối đã ra đời, đảo nghĩa vụ chứng

71

minh đã dần dần được thừa nhận trong tố tụng dân sự của nhiều nước mặc dù

đôi khi nó vẫn được dịch chung tên gọi với việc "chuyển nghĩa vụ chứng

minh" với những chú giải riêng biệt nhằm phân biệt với việc "chuyển" theo

nghĩa truyền thống [2].

 Đảo chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.

Nhằm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, khoản 1 Điều 91 BLTTDS

2015 có quy định hoàn toàn mới về những trường hợp đương sự không phải

thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Cụ thể:

- Người tiêu dùng không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá

nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Trong trường hợp này, nghĩa vụ chứng

minh được đảo ngược cho bên bị kiện - bên bị kiện phải chứng minh mình

không có lỗi gây ra thiệt hại.

- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp,

giao nộp được cho tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang

do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có

trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho tòa án.

- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao

động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền

đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý

kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao

động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

- Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không có

nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Trường hợp đặc biệt: Luật nội dung có qui định về “đảo” nghĩa vụ

chứng minh khi có yêu cầu khởi kiện, tuy nhiên Luật tố tụng dân sự lại chưa

qui định tương thích để phù hợp với luật nội dung. Đó là:

- Chứng minh lỗi trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng không thuộc về người có yêu cầu đòi bồi thường. Điều 584 BLDS

72

2015 qui định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của

người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Với quy định này, Bộ

luật dân sự 2015 đã nhấn mạnh vai trò của hành vi trái pháp luật gây thiệt

hại. Người bị thiệt hại không cần chứng minh yếu tố lỗi trong quan hệ về

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

- Bộ luật dân sự 2015 đã tạo ra cơ sở cho phép đương sự không phải

chứng minh yếu tố lỗi khi yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,

đồng nghĩa với việc khi khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng, nguyên đơn không cần cung cấp những tài liệu, chứng cứ chứng minh

lỗi của bị đơn.

Tuy nhiên, cần có nhận thức đúng đắn rằng, nguyên đơn chỉ được loại

trừ nghĩa vụ chứng minh đối với yếu tố lỗi, nếu muốn được bồi thường thiệt

hại, nguyên đơn vẫn phải chứng minh các yếu tố khác như: có thiệt hại thực tế

xảy ra, có hành vi trái luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành

vi trái luật và thiệt hại.

Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi 2009) về quyền và

nghĩa vụ chứng minh của đương sự quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm

quyền đối với sáng chế là một quy trình sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng

minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình

được bảo hộ trong trường hợp sản phẩm được sản xuất theo quy trình được

bảo hộ là sản phẩm mới.

Ví dụ: Người lao động khởi kiện người sử dụng lao động khi người sử

dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng với mình, nhưng người lao

động không được giữ hợp đồng lao động, sổ bảo hiểm và các hồ sơ lao động

của người lao động thì khi nộp đơn khởi kiện, Tòa án thụ lý vụ án sẽ thông

báo cho bị đơn đồng thời yêu cầu bị đơn nộp tài liệu chứng cứ chứng minh

cho yêu cầu của người khởi kiện là người lao động. Đồng thời người lao động

73

không phải chứng minh lỗi của mình khi yêu cầu bồi thường.

Kết luận chƣơng 2

Sau khi nghiên cứu các nội dung trong chương 2, tác giả luận văn rút ra

các kết luận sau:

Thứ nhất, chủ thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

rất đa dạng. Trong đó, tùy từng vị trí tham gia tố tụng, các chủ thể chứng

minh sẽ phải thực hiện các nhiệm vụ khác nhau để chứng minh cho yêu cầu

hoặc phản đối yêu cầu của phía bên kia.

Thứ hai, để đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xét xử, không

chỉ Việt Nam mà hầu hết các quốc gia đều đang quan niệm theo hướng, nghĩa

vụ chứng minh chủ yếu trong các vụ việc dân sự sẽ thuộc về các bên đương

sự. Tòa án chỉ giữ vai trò trọng tài khi xem xét các vấn đề và việc chứng minh

của các bên. Từ đó, Tòa án sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng để giải quyết vụ

74

việc tranh chấp giữa các bên.

CHƢƠNG 3

THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN

THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH

TRONG PHÁP LUẬT TỐ DỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

3.1. Thực tiễn thực hiện nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam

3.1.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

về nghĩa vụ chứng minh

Lần đầu tiên, Bộ luật TTDS 2015 quy định về các biện pháp thu thập

chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm đảm bảo các đương sự có đầy

đủ các chứng cứ để cung cấp cho Tòa án cũng như đảm bảo các chứng cứ đó

có tính hợp pháp. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 mới chỉ quy

định các biện pháp thu thập chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhưng lại

chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các biện pháp đó, trong khi

các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án được quy định tại khoản 2 Điều 97

Bộ luật TTDS 2015 lại được quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thu thập.

Thiết nghĩ, để các chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức thu thập có giá trị

chứng minh và được Tòa án sử dụng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc

dân sự thì các nhà làm luật cần bổ sung trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ đối

với các biện pháp thu thập chứng cứ do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện.

Bộ luật TTDS năm 2015 bổ sung các quy định về thời hạn cung cấp

chứng cứ nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự. Theo đó, các

đương sự phải cung cấp chứng cứ trong thời hạn do thẩm phán được phân công

giải quyết vụ việc dân sự ấn định, nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn

bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự, trừ trường hợp quy

75

định tại khoản 4 Điều 96, Điều 287 và Điều 330 Bộ luật TTDS năm 2015.

Tuy nhiên, chứng cứ không được chấp nhận do đương sự cung cấp đã

quá thời hạn cung cấp mà thẩm phán ấn định có thể lại được thẩm phán thu thập

theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 không? Vấn đề này cũng có những ý

kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, do đã hết thời hạn cung cấp chứng cứ mà

không có lý do chính đáng nên chứng cứ này sẽ không được thẩm phán thu thập

kể cả trong trường hợp chứng cứ đó có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc. Ý

kiến khác lại cho rằng, với các biện pháp thu thập chứng của Tòa án được quy

định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015 thì thẩm phán hoàn toàn có quyền

thu thập chứng cứ này nhằm đảm bảo Tòa án có đầy đủ chứng cứ để giải quyết

vụ việc dân sự chính xác.

Về nguyên tắc, tất cả các chứng cứ mà đương sự cung cấp khi đã quá

thời hạn cung cấp do thẩm phán ấn định mà không có lý do chính đáng đều

không được chấp nhận nhằm nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự,

tránh tình trạng các đương sự thiếu trung thực trong việc cung cấp chứng cứ.

Tuy nhiên, với trách nhiệm hỗ trợ thu thập chứng cứ của Tòa án quy định trong

Bộ luật TTDS 2015 thì Tòa án có thể thu thập các chứng cứ này để làm căn cứ

cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Điều này đã tự nhiên làm cho các quy định

về thời hạn cung cấp chứng cứ trở thành không có ý nghĩa cũng như dẫn đến

tình trạng Tòa án có thể thiếu công bằng, khách quan trong việc thu thập chứng

cứ khi cố ý thiên vị cho một bên đương sự. Do đó, Tòa án nhân dân tối cao cần

có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này theo hướng: Tòa án không được thu thập

các chứng cứ mà đương sự đã cung cấp quá thời hạn cung cấp chứng cứ nhằm

nâng cao trách nhiệm chứng minh của đương sự cũng như đảm bảo sự công

bằng, khách quan trong việc thu thập chứng cứ của Tòa án.

Quy định tại khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 về nghĩa vụ chuyển

giao tài liệu, chứng cứ giữa các đương sự luôn là hình thức khi mà Bộ luật

76

TTDS 2015 không quy định về thời hạn các đương sự có nghĩa vụ chuyển giao

tài liệu, chứng cứ cho nhauvà hậu quả pháp lý khi các bên đương sự không

thực hiện nghĩa vụ chuyển giao. Thực tế hiện nay ở tại các Tòa án, do không có

quy định về hậu quả pháp lý nên gần như các đương sự không thực hiện nghĩa

vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau.

3.1.2. Nghĩa vụ chứng minh từ thực tiễn hoạt động xét xử

Quan hệ pháp luật dân sự được hình thành từ sự tự do, tự nguyện, bình

đẳng trong việc cam kết, thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Do

đó, việc giải quyết tranh chấp dân sự là giải quyết các quan hệ có tính chất

“riêng tư” của các chủ thể bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Một trong những

quy định của BLTTDS 2015 nhằm bảo đảm sự bình đẳng về địa vị pháp lý

giữa các chủ thể trong tố tụng dân sự đó là cho phép các đương sự có quyền

yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của mình. Khi các đương sự

có yêu cầu thì đều phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đây

là nguyên lý đặc trưng trong pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế

giới, trong đó có Việt Nam.

Theo quy định của BLTTDS 2015, yêu cầu của đương sự có thể xác định

cụ thể, đó là: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc

lập của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Qua lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cho thấy,

nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ngày càng được xác định chắc chắn

và rõ nét là gắn liền với chủ thể có quyền lợi từ việc giải quyết vụ việc dân sự.

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 không có quy định

rõ ràng về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự, mà tại Chương 7 của

Pháp lệnh này chỉ có quy định thẩm phán phải điều tra vụ án dân sự trước khi

hòa giải, xét xử. Quy định này dường như đã đẩy quá nhiều gánh nặng chứng

minh cho tòa án. Điều này là không phù hợp, bởi việc giải quyết quan hệ dân

77

sự là giải quyết lợi ích tư của các chủ thể. Để khắc phục những hạn chế trên,

từ khi xây dựng BLTTDS 2004 và đến BLTTDS 2015, nhà làm luật đã thiết

lập một chế định riêng về chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó các điều

luật quy định rõ nét về “nghĩa vụ chứng minh”. Nội dung của quy định này

nhằm xác định rõ “gánh nặng” chứng minh trong tố tụng dân sự thuộc về

đương sự, tránh việc đương sự đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm của mình cho

chủ thể khác trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự mang lại hiệu quả cho

hoạt động xét xử.

3.1.3. Những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ

chứng minh của các chủ thể

Trong quá trình thực hiện công việc của mình nhận thấy trong hoạt

động tham gia tố tụng dân dự của các đương sự có những vướng mắc nhất

định. Cụ thể về nghĩa vụ chứng minh của các đương sự Khoản 4 Điều 96

BLTTHS năm 2015 quy định:

Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được

phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không vượt quá thời

hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải

quyết việc dân sự theo quy định của bộ luật này. Trường hợp sau

khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết

định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp

giao nộp tài liệu chứng cứ mà Tòa án yêu cầu giao nộp nhưng

đương sự không giao nộp được vì lý do chính đáng thì đương sự

phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ

đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu

đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể

biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì

đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên

họp giải quyết việc dân sự hoặc giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc

78

giải quyết việc dân sự.

Căn cứ qui định trên thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ

xác định các chứng cứ của vụ án mà đương sự phải giao nộp và thời gian

đương sự phải giao nộp chứng cứ là khoảng thời gian trong thời hạn chuẩn bị

xét xử sơ thẩm vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Các đương sự có thể không thu thập

được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình vì chứng cứ do cá

nhân khác, cơ quan, tổ chức lưu giữ quản lý. Trường hợp này, đương sự có

quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho đương sự. Nếu cá nhân,

cơ quan tổ chức không cung cấp chứng cứ cho đương sự thì thông báo bằng văn

bản ghi rõ lý do, để đương sự chứng minh với Tòa án là họ đã thu thập chứng cứ

nhưng không có kết quả nhưng điều này cũng là khó khăn trên thực tế.

Cung cấp chứng cứ để chứng minh là nghĩa vụ của đương sự, trường

hợp đương sự không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa đầy đủ chứng cứ

mà Tòa án yêu cầu giao nộp vì “lý do chính đáng” thì đương sự phải chứng

minh. Quy định này còn mang tính chung chung khó có thể xác định lý do nào

là chính đáng và hiện nay chưa có quy định pháp luật nào hướng dẫn cụ thể để

áp dụng điều luật này. “Lý do chính đáng” có thể được hiểu là: Khi đương sự

không giao nộp tài liệu chứng cứ mà Tòa án yêu cầu giao nộp vì lý do chính

đáng thì đương sự phải làm tờ tường trình cụ thể bằng văn bản lý do chậm hoặc

không giao chứng cứ trong hạn luật định để chứng minh và Tòa án cấp sơ thẩm

cần ấn định thời gian cụ thể để đương sự cung cấp. “Lý do chính đáng” cần quy

định rõ là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác ví dụ như:

do thiên tai, lũ lục, do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện, do đương sự

không tự mình cung cấp được chứng cứ trước đó do phải chờ cơ quan tổ chức

khác cung cấp… Vấn đề này cần thiết phải có văn bản hướng dẫn cụ thể để

Thẩm phán thụ lý vụ án có căn cứ thực hiện giải quyết vụ án và đương sự có

79

thể thực hiện các nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình.

3.1.4. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ chứng

minh trong tố tụng dân sự

Ngày nay, nhu cầu toàn cầu hóa tự do thương mại và hội nhập quốc tế

là xu hướng chung của thời đại và của mỗi quốc gia trong đó đương nhiên có

cả Việt Nam. Theo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về

các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú

Trọng trình bày ngày 21/01/2016 về việc Tăng cường xây dựng Đảng trong

sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa;

đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc tổ quốc,

giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại có nêu:

Thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các

nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi,

thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,

hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối

ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin

cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,... nhằm

phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ

tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời

sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần

vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội

trên thế giới [36, tr. 34 - 35].

Qua báo cáo chúng ta thấy rằng, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là

thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ hòa bình hợp tác và

phát triển chính sách đối ngoại mở rộng đa phương hóa đa dạng hóa các quan

80

hệ quốc tế.

Hiện nay, khoa học công nghệ cũng ngày càng phát triển và đang xuất

hiện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Vì thế, các quan

hệ dân sự, kinh tế, thương mại cũng chịu ảnh hưởng bởi những tiến bộ khoa

học kỹ thuật. Do đó, khi phát sinh các tranh chấp trong các lĩnh vực này liên

quan đến khoa học công nghệ này nếu như những chủ thể thực hiện nhiệm vụ

xét xử không bắt kịp sẽ gây khó khăn cho công tác xét xử mà cụ thể trong

việc xác định nguồn của chứng cứ. Đồng thời, nền kinh tế xã hội phát triển thì

các quan hệ xã hội cũng phát triển cũng kéo theo sự gia tăng tranh chấp các

quan hệ dân sự hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động do

nhiều nguyên nhân khác nhau ngày một nhiều đa dạng và phức tạp dẫn đến

Tòa án phải thụ lý giải quyết ngày một nhiều các vụ án dân sự, năm sau

thường tăng hơn năm trước.

Để đáp ứng với yêu cầu của thời đại, đáp ứng yêu cầu của việc gia nhập

WTO và thuận lợi trong công tác xét xử, đòi hỏi pháp luật tố tụng dân sự cần

thiết phải có sự quy định về đầy đủ, chặt chẽ và cần thiết về các nghĩa vụ

chứng minh để giải quyết kịp thời và đúng pháp luật các vụ việc dân sự trong

thời đại khoa học kỹ thuật và thương mại phát triển. Có như vậy, mới đáp ứng

được yêu cầu của công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế nâng cao chất lượng xét

xử nói riêng và công tác tư pháp nói chung.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa

vụ chứng minh trong tố tụng dân sự

3.2.1. Kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, Để phát huy vai trò của đương sự trong hoạt động tố tụng,

đảm bảo quyền được biết thông tin của đương sự để có thể tổ chức việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như phù hợp pháp luật TTDS của các

81

nước trên thế giới, cần thiết bổ sung vào Bộ luật TTDS 2015 quy định về thời

hạn thực hiện nghĩa vụ trao đổi chứng cứ, tài liệu của các bên đương sự cho

nhau trước khi mở phiên toà và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó.

Theo đó, khoản 5 Điều 96 Bộ luật TTDS 2015 nên bổ sung theo hướng: “Khi

đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải thực hiện ngay

việc sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp

pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều

109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải

thông báo ngay bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp

pháp của đương sự khác.

Trong trường hợp đương sự cố tình không cung cấp tài liệu, chứng cứ

cho bên kia thì theo yêu cầu của đương sự, Tòa án buộc bên đương sự đang

lưu giữ tài liệu, chứng cứ phải cung cấp tài liệu, chứng cứ đó trong thời hạn do

thẩm phán ấn định, nhưng không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân

sự, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự. Nếu hết thời hạn này, đương sự

vẫn không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ thì bị phạt tiền và

thẩm phán sẽ không chấp nhận những tài liệu, chứng cứ không được các bên

đương sự trao đổi trong thời hạn đã được thẩm phán ấn định”.

Theo khoản 2 Điều 97 Bộ luật TTDS 2015, ngoài các biện pháp được quy

định trong Bộ luật TTDS 2011, Bộ luật TTDS 2015 còn bổ sung biện pháp thu

thập chứng cứ là xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.

Thứ hai, mở rộng quyền và thời hạn cung cấp chứng cứ chứng minh

trong tố tụng dân sự. Cần bổ sung thêm quy định về việc đương sự được chủ

động yêu cầu các cơ quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá tiến

hành giám định, định giá, thẩm định giá và Tòa án phải công nhận kết quả

giám định, định giá, thẩm định giá do đương sự xuất trình. Như vậy mới nâng

82

cao được quyền tự thu thập chứng cứ của đương sự. Tuy nhiên, phương pháp

thu thập chứng cứ như thế nào thì BLTTDS năm 2015 lại chưa có quy định cụ

thể. Do đó, trên thực tế đương sự còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong

việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình dẫn đến đa số các

đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ mà đương sự lưu giữ

được mà không biết thu thập thêm các chứng cứ nào khác. Vì vậy, cần quy

định thành một điều luật cụ thể về các biện pháp thu thập chứng cứ mà đương

sự có thể áp dụng tạo điều kiện cho việc chứng minh yêu cầu của đương sự,

đồng thời cũng giúp giảm tải bớt các bước tố tụng trong quá trình giải quyết vụ

án của Tòa án.

3.2.2. Kiến nghị liên quan đến việc xác định nguồn chứng cứ để đương

sự có căn cứ thực hiện nghĩa vụ chứng minh

Trên thực tế, về nguyên tắc, xác định nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc

được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử được yêu cầu phải xuất trình kèm

theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên quan tới

việc thu âm, thu hình đó nếu âm hình đó nhận được sự đồng thuận từ người bị

ghi âm ghi hình thì không sao nhưng khi họ không nhất trí với việc này ghi

âm hình lén nội dung ghi âm, hình do mâu thuận với quyền lợi của họ thì việc

có được xác nhận của người đó bị ghi âm ghi hình về xuất xứ của tài liệu này

rất khó đối với nguồn chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử. Theo quy định

tại Luật giao dịch điện tử năm 2005 thì:

Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ

vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông

điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông

điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù

hợp khác [23, Điều 14].

Tuy nhiên tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16

83

tháng 5 năm 2013 của Chính phủ về thương mại điện tử lại đưa ra khái niệm:

Chứng từ điện tử trong giao dịch thương mại là hợp đồng, đề

nghị, thông báo, xác nhận hoặc các tài liệu khác ở dạng thông điệp

dữ liệu do các bên đưa ra liên quan đến việc giao kết hay thực hiện

hợp đồng. Chứng từ điện tử trong Nghị định này không bao gồm

hối phiếu, lệnh phiếu, vận đơn, hóa đơn gửi hang, phiếu xuất nhập

kho hay bất cứ chứng từ có thể chuyển nhượng nào cho phép bên

nắm giữ chứng từ hoặc bên thụ hưởng được quyền nhận hàng hóa,

dịch vụ hoặc được trả một khoản tiền [19].

Cần có sự điều chỉnh phù hợp các điều luật thống nhất với nhau và quy

định cụ thể, rõ ràng về nguồn chứng cứ là các tài liệu đọc được, nghe được,

nhìn được, dữ liệu điện tử này.

Về xác định nguồn chứng cứ là kết luận giám định; kết quả định giá tài

sản, thẩm định giá tài sản cũng quy định chưa đầy đủ. Điển hình như về giá trị

kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của cơ quan tổ chức giám định,

định giá, thẩm định giá trong trường hợp đương sự yêu cầu các cơ quan tổ

chức này cung cấp về vấn đề này tại Báo cáo số 43/BC/TANDTC ngày 26

tháng 2 năm 2015 về tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân

sự đã nhận định như sau:

Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định cụ thể về một số vấn đề

như giá trị kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của các cơ

quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá, đặc biệt là trong

trường hợp cùng một vấn đề nhưng các cơ quan, tổ chức giám định,

định giá, thẩm định giá cho kết luận giám định hoặc giá trị tài sản

khác nhau; cơ quan giám định đưa ra kết luận không rõ ràng như sử

dụng cụm từ "có khả năng"; việc xử lý chi phí giám định, định giá

trong những trường hợp đương sự không nộp tạm ứng chi phí hoặc

84

chi phí giám định, định giá, đương sự rút đơn khởi kiện, đương sự

không yêu cầu giám định, định giá; việc đo vẽ tài sản là bất động

sản trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để tránh trường hợp

thực tế tài sản khác so với giấy tờ chứng nhận, khó khăn trong thi

hành án; việc xác định giá trị tài sản trong trường hợp mỗi bên

đương sự yêu cầu một đơn vị định giá khác nhau, có kết quả định

giá khác nhau,… [12, tr. 10].

Như vậy, để tạo điều kiện cho việc cung cấp các tài liệu, chứng cứ của

cá nhân, chủ thể tố tụng chứng minh cho quyền lợi của mình bằng việc Tòa án

chấp nhận kết quả kết luận giám định, định giá, thẩm định giá của các cơ

quan, tổ chức giám định, định giá, thẩm định giá thì cũng cần phải có quy

định chung cho các cơ quan này sao cho kết quả kết luận giám định, định giá,

thẩm định giá không bị sai lệch nhiều gây khó khăn cho việc xem xét chứng

cứ của Tòa án trong việc giải quyết vụ án.

3.2.3. Các kiến nghị liên quan khác

Thứ nhất, các kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả việc thực hiện pháp

luật trong nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong tố tụng dân sự.

Cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử và đạo

đức nghề nghiệp cho Thẩm phán.

- Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, ngành Tòa án cũng đặt ra yêu

cầu nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán phải hiểu biết pháp luật một cách

toàn diện để có thể giải quyết số lượng lớn các loại án dân sự hôn nhân và gia

đình hiện nay, nâng cao chất lượng xét xử, đem lại công bằng cho xã hội.

- Việc đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp dưới sự chỉ đạo của Tòa

án nhân dân tối cao trong những năm qua cũng đã rất chú trọng và áp dụng

nhiều biện pháp để có thể xây dựng đội ngũ cán bộ xét xử đủ về số lượng và

đảm bảo chất lượng công tác xét xử, do đó công tác đào tạo nguồn cán bộ xét

85

xử luôn được quan tâm.

- Tòa án nhân dân tối cao rất chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ cho Thẩm phán:

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp

vụ cho cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp tiếp tục được

quan tâm, tăng cường, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức 05 khóa

đào tạo nghiệp vụ xét xử với tổng số 673 học viên, 05 khóa đào tạo

nghiệp vụ Thư ký Tòa án cho tổng số 426 công chức, 03 khóa bồi

dưỡng nghiệp vụ giải quyết các vụ án hành chính, các vụ án dân sự

và bồi dưỡng kiến thức về sổ nghiệp vụ và biểu mẫu thống kê cho

1.632 lượt Thẩm phán, cán bộ Tòa án nhân dân địa phương, 01 lớp

tập huấn nghiệp vụ tài chính - kế toán cho 200 học viên [33, tr. 14].

Ngoài ra, ngành Tòa án nhân dân cũng trú trọng đưa công nghệ thông

tin vào ứng dụng trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ:

Để triển khai thi hành các Bộ luật, luật có liên quan tới hoạt

động của Tòa án, đặc biệt là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự,

Luật tố tụng hành chính, Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự,

Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức các Hội nghị trực tuyến tập huấn

chi tiết nội dung các Bộ luật, luật nêu trên cho các chức danh tư

pháp của các Tòa án; đồng thời, thực hiện chủ trương công khai các

bản án của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân, đã

tổ chức Hội nghị trực tuyến tập huấn về kỹ năng viết bản án cho các

đối tượng là Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán Tòa án nhân dân

các cấp, qua đó đông đảo cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp có

điều kiện được tham gia tập huấn với các giảng viên có nhiều kinh

nghiệm của Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan Trung ương.

Các Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch và tổ

86

chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho Thẩm

phán, công chức và Hội thẩm Tòa án nhân dân thuộc quyền quản lý

cũng như cử cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng

lý luận chính trị, quản lý nhà nước tại địa phương [33, tr. 14 - 15].

Việc công khai bản án trên cổng thông tin điện tử của Tòa án cũng là

nhiệm vụ quan trọng của các Thẩm phán:

Đối với các Thẩm phán cần phải thực hiện quán triệt về tư

tưởng, phải coi việc công khai bản án, quyết định là nhiệm vụ quan

trọng, cần được thực hiện nhanh chóng ngày sau khi bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật. Khi thực hiện công khai bản án, quyết

định cần được thực hiện đúng các quy định về mã hóa thông tin,

đảm bảo bí mật đời tư, bí mật kinh doanh... [4, tr. 14].

Do đó, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn

đối với đội ngũ cán bộ, đặc biệt là Thẩm phán về thực hiện chủ

trương công khai bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của

Tòa án. TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc cho công bố

những quyết định công nhận thỏa thuận của cấp sơ thẩm, phúc thẩm

vì đây cũng là những thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật,

có thể làm cơ sở tham khảo khi có những tranh chấp tự thương lượng

hoặc công tác hòa giải cơ sở hiệu quả hơn... [4, tr. 14].

Bên cạnh đó, ngành Tòa án nhân dân cũng trú trọng việc đào tạo các

cán bộ nguồn của Thẩm phán trong tương lai:

Thực hiện chức năng mới về đào tạo bậc đại học, Học viện

Tòa án đã tiến hành tuyển sinh và tổ chức khai giảng khóa II đào

tạo Cử nhân luật với 320 sinh viên, nâng tổng số sinh viên đang

theo học đào tạo đại học luật chuyên ngành Tòa án tại Học viện lên

531 người. Để nâng cao chất lượng đào tạo, Tòa án nhân dân tối

87

cao đã chỉ đạo Học viện Tòa án xây dựng và hoàn chỉnh Bộ giáo

trình đào tạo chuyên ngành; đổi mới phương pháp dạy và học, ra đề

thi theo hướng bám sát với kiến thức học trên lớp và thực tiễn xét

xử; đổi mới và áp dụng phương pháp hỏi thi vấn đáp trên hồ sơ tình

huống là một vụ án cụ thể; cập nhật, chỉnh lý bài giảng đối với tất

cả các bộ môn đào tạo theo quy định các Bộ luật, luật tố tụng mới.

Ngoài ra, trong chương trình đào tạo, học viên được tham dự các

phiên tòa thực tế để trao đổi kinh nghiệm thực tiễn với Tòa án địa

phương, qua đó có thêm các kiến thức thực tế về kỹ năng điều hành

phiên tòa. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục quyết định biệt

phái các cán bộ có trình độ Tiến sỹ luật hiện đang công tác tại các

Tòa án về công tác tại Học viện Tòa án; có cơ chế để Học viện Tòa

án thu hút những người tâm huyết, có trình độ học hàm, học vị và

những chuyên gia công tác lâu năm, nhiều kinh nghiệm đã nghỉ hưu

tham gia công tác giảng dạy để tăng cường nguồn nhân lực có chất

lượng cho Học viện Tòa án nhằm làm tốt công tác đào tạo, bồi

dưỡng, tập huấn nghiệp vụ [33, tr. 15].

Với tình hình giao lưu hợp tác quốc tế như ngày nay để nâng cao trình

độ cho đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân ngoài việc đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức pháp luật của Việt Nam còn phải nỗ lực trong việc tiếp và

tìm hiểu các kiến thức pháp luật của nước ngoài:

Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, một điểm nổi bật trong năm

2017 đó là đã chú trọng nghiên cứu pháp luật quốc tế về những vấn

đề có liên quan để học tập kinh nghiệm và triển khai thực hiện cho

phù hợp với điều kiện và khung pháp lý của Việt Nam. Tiếp tục

triển khai các dự án do nước ngoài tài trợ (dự án KOICA Hàn Quốc,

JICA của Nhật Bản, UNICEF), Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức

88

thành công nhiều các khóa bồi dưỡng ngắn hạn, đào tạo tư pháp,

hội thảo như: hội thảo trao đổi kinh nghiệm về bảo đảm tranh tụng

trong xét xử; hội thảo tìm hiểu các quy định mới của Bộ luật dân sự

và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng..., từ đó

nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, trao đổi kinh nghiệm quốc tế

nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án [33, tr. 18].

Đồng thời Tòa án nhân dân tối cao không chỉ yêu cầu các số lượng

thẩm phán của các tòa án phải đủ mà còn yêu cầu các thẩm phán phải có đạo

đức nghề nghiệp tốt.

Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua gắn với việc thực

hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về

“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh”. Thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật và của

Tòa án nhân dân về chế độ trách nhiệm đối với cán bộ, công chức

trong thực thi nhiệm vụ [33, tr. 23].

Tuy nhiên, công tác tổ chức cán bộ vẫn còn những vướng mắc nhất

định như số lượng cán bộ làm công tác xét xử vẫn còn thiếu và đặc biệt ở các

tỉnh miền núi. Một số cán bộ còn vi phạm đạo đức pháp luật nên đã làm ảnh

hưởng rất nhiều đến hiệu quả giải quyết các vụ án chung của toàn ngành. Tòa

án nhân dân tối cao cũng đã đưa ra các giải pháp khắc phục như:

Đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động

xét xử; tập trung giải đáp các vướng mắc về nghiệp vụ để kịp thời

tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử của các

Tòa án. Triển khai tập huấn và tổ chức thực hiện sâu rộng các luật

mới có hiệu lực thi hành có liên quan tới hoạt động của Tòa án nhân

dân, đặc biệt là Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật hình

sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính. Làm tốt công

89

tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức;

trong đó, chú trọng việc đào tạo thông qua việc rút kinh nghiệm xét

xử, động viên cán bộ, công chức tự nghiên cứu học tập nâng cao

trình độ chuyên môn. Tập trung bồi dưỡng, tập huấn các văn bản

pháp luật mới, bồi dưỡng chuyên sâu và kỹ năng xét xử cho Thẩm

phán và Hội thẩm. Đổi mới và tích cực ứng dụng công nghệ thông

tin vào công tác tổng kết thực tiễn xét xử nhằm nâng cao chất lượng

và hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng

thống nhất pháp luật trong xét xử [33, tr. 22].

Cần tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tố tụng

dân sự để nâng cao nhận thức của người dân và đặc biệt là các đương sự về

nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến công tác tuyên

truyền và giáo dục pháp luật. Điển hình, trong Kết luận của Ban Bí thư số 04-

KL/TW ngày 19/4/2011 của Ban chấp hành Trung ương về kết quả thực hiện

Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 9-12-2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng

trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp

luật của cán bộ nhân dân có nêu:

Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật không ngừng được

đổi mới, nội dung đã bám sát và phục vụ kịp thời việc triển khai

thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, phù hợp với

yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của mỗi bộ, ngành, địa phương; từng bước

khắc phục được tính hình thức. Nguồn kinh phí phục vụ cho công

tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được quan tâm đầu tư năm sau

cao hơn năm trước [35].

Tuy nhiên, việc nhận thức về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ

chứng minh cho yêu cầu của mình của các chủ thể tham gia tố tụng vẫn còn

90

nhiều hạn chế. Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự đương sự có

quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu,

chứng cứ. Trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu

thập tài liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể đề

nghị Tòa án tiền hành thu thập tài liệu, chứng cứ giúp mình. Tuy nhiên, với

trình độ nhận thức còn thấp của những người dân tại những địa phương vùng

sâu vùng xa, có những nơi người dân không biết nói tiếng Việt, không biết

đọc biết viết thì việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho quyền lợi của

mình sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do đó:

Tòa án nhân dân tối cao đã thành lập Ban Chỉ đạo công tác

thông tin – tuyên truyền Tòa án nhân dân để định hướng công tác

tuyên truyền trong toàn hệ thống. Trên cơ sở định hướng của Ban chỉ

đạo, Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý, Cổng Thông tin điện tử

Tòa án nhân dân tối cao và các trang thông tin điện tử Tòa án nhân

dân địa phương đã tuyên truyền kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm về

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn

bản chỉ đạo của lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết của

Hội đồng Thẩm phán, các văn bản pháp luật mới và các hoạt động

của Tòa án các cấp, các phong trào thi đua yêu nước, gương người

tốt, việc tốt trong toàn hệ thống với hình thức truyền tải thông tin có

nhiều đổi mới và các bài viết có chất lượng, phản ánh khá toàn diện

các hoạt động của Tòa án, đáp ứng yêu cầu tìm hiểu thông tin,

nghiên cứu khoa học của bạn đọc trong và ngoài hệ thống [33, tr.19].

Đồng thời: Trong những năm qua, các Tòa án, đặc biệt là các

Tòa án vùng cao đã xây dựng nhiều kế hoạch, tích cực chủ động

phối hợp với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để tổ chức giáo dục

pháp luật bằng nhiều hình thức như giới thiệu các luật mới có hiệu

91

lực pháp luật trên phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức học tập

tại các đơn vị cho từng đối tượng riêng theo chuyên đề... Việc tuyên

truyền, giáo dục pháp luật cũng được các đơn vị Tòa án không

ngừng được đổi mới về nội dung, phương pháp trình bày như sử

dụng phần mềm Powerpoint để trình chiếu minh họa; tổ chức các

buổi nói chuyện, tọa đàm; đặc biệt là tổ chức xét xử lưu động, đưa

các phiên tòa về từng xã, bản [4, tr. 28].

Nhờ đó người dân có ý thức pháp luật tốt hơn và hiểu rõ trách nhiệm

của mình khi tham gia các hoạt động tố tụng dân sự nói chung và hoạt động

cung cấp chứng cứ, chứng minh nói riêng.

Cần tăng cường phát triển đội ngũ Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc

người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật cả về số lượng

và chất lượng để tham gia các vụ án dân sự.

Thực tế không thể phủ nhận, luật sư có vai trò quan trọng trong việc

bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, các cơ quan, tổ chức

khi tiếp cận với các hoạt động liên quan đến pháp luật. Tuy nhiên, đội ngũ

luật sư trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý được chỉ định

theo quy định của pháp luật để trợ giúp pháp lý còn thiếu và yếu chưa đáp

ứng được nhu cầu tham gia tố tụng của các cá nhân, tổ chức. Trước đây tại

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có nêu:

Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều

bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm

phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán

quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại

phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý

kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,

92

nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để

ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và

trong thời hạn quy định [7].

Từ đó, chúng ta thấy rằng cần nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp

của đội ngũ của luật sư. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng nêu rõ:

Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm

chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế

bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng

thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo

điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật

sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên

của mình [13, tr.6].

Với tình hình kinh tế xã hội ngày nay cần tăng cường và nâng cao chất

lượng đội ngũ Luật sư. Ngày 05 tháng 7 năm 2011 Thủ tướng chính phủ đã có

Quyết định số 1072/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển nghề luật sư đến

năm 2020. “Quá trình hội nhập quốc tế tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, việc phải thực hiện các nghĩa vụ thành

viên, các cam kết quốc tế khi là thành viên của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đặt các doanh nghiệp của Việt Nam, cơ

quan nhà nước Việt Nam trước sức ép cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ trên

thị trường thế giới mà ngay cả thị trường trong nước. Các quan hệ kinh tế, hoạt

động thương mại ngày càng sống động, đa dạng và phức tạp hơn. Để chủ động

vượt qua thách thức nói trên thì việc phát triển nguồn nhân lực trong nước là

một yếu tố vô cùng quan trọng, trong đó có nhu cầu cấp bách về việc cần thiết

có Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư trước những yêu cầu và bối cảnh mới.

Việc xây dựng “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020” là nhằm thể

93

chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 (sau đây gọi chung là Nghị quyết số 49-NQ/TW) và Chỉ thị số 33-CT/TW

ngày 30 tháng 3 năm 2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

đối với tổ chức và hoạt động luật sư nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ luật

sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị,

trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu

cầu của xã hội, bảo đảm ngày càng có nhiều luật sư am hiểu pháp luật và tập

quán thương mại quốc tế, thông thạo ngoại ngữ, giỏi kỹ năng hành nghề luật sư,

có trình độ ngang tầm với các luật sư trong khu vực và quốc tế.” với mục tiêu

cụ thể về số lượng, chất lượng và như sau: “Từ nay đến năm 2015, phát triển số

lượng luật sư khoảng 12.000 luật sư, mỗi năm được từ 800 đến 1000 người,

trong đó, tại mỗi địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn phát triển

được từ 2 đến 3 luật sư. Phát triển đội ngũ luật sư hành nghề chuyên sâu trong

các lĩnh vực pháp luật, chú trọng đến việc đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực

thương mại, đầu tư, phấn đấu đạt khoảng 1.000 luật sư phục vụ yêu cầu hội

nhập quốc tế. Đến năm 2020, phát triển số lượng khoảng từ 18.000 - 20.000

luật sư, đạt tỷ lệ số luật sư trên số dân khoảng 1/4.500 đáp ứng ngày càng cao

nhu cầu về dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp; tại

mỗi địa phương có khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội có từ 30 đến 50 luật

sư, bảo đảm tham gia 100% số lượng các vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ

quan tiến hành tố tụng; số luật sư có khả năng tham gia tư vấn, giải quyết tranh

chấp thương mại quốc tế là khoảng 150 người. Nâng cao chất lượng đội ngũ

luật sư, xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư thành nguồn nhân lực chất lượng

cao, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế -

94

xã hội, bổ sung nguồn cho các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà

nước từ đội ngũ luật sư giỏi, có bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức. Đến

năm 2015, bảo đảm luật sư được đào tạo bài bản theo chương trình chuẩn về cử

nhân luật, đào tạo nghề luật sư theo hướng hội nhập với khu vực và thế giới; có

50% số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ chuyên môn,

kỹ năng hành nghề và đạo đức ứng xử nghề nghiệp. Đến năm 2020, đảm bảo

100% số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao về nghiệp vụ

chuyên môn, kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp theo chuẩn

mực nghề nghiệp luật sư; tạo nguồn lựa chọn những luật sư giỏi để có thể bổ

nhiệm vào các chức danh tư pháp và chức danh quản lý nhà nước” [34]. Quyết

định trên nhằm tạo điều kiện cho luật sư tham gia đầy đủ vào các giai đoạn tố

tụng, thực hiện có hiệu quả và chất lượng khi tranh tụng tại phiên tòa. Khi đạt

được kết quả sẽ có nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức, pháp nhân và doanh nghiệp

sử dụng luật sư để tư vấn và tham gia giải quyết các vụ án. Từ đó, chất lượng

và hiệu quả của hoạt động xét xử giải quyết các vụ án dân sự sẽ ngày càng

được nâng cao. Đồng thời, việc cung cấp, sử dụng các chứng cứ trong tố tụng

dân sự cũng sẽ ngày càng chặt chẽ và đúng pháp luật hơn.

Ngoài ra, Nhà nước ta cũng đã chú trọng tới việc tăng cường đội ngũ

trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, số lượng

người làm trợ giúp viên pháp lý còn ít, năng lực chuyên môn nghiệp vụ còn

hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có chế độ tốt hơn đối với đội ngũ này và tăng

cường đào tạo về pháp luật cho họ. Có như vậy, đây cũng sẽ là cơ sở để hỗ trợ

cho các đương sự trong quá trình đánh giá, khai thác và sử dụng các nguồn

chứng cứ trong tố tụng dân sự.

Cần tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị khoa học tiên tiến cho việc đánh

giá chứng cứ để xác định đầy đủ nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh của

các chủ thể

95

Trong giai đoạn hiện nay, muốn hội nhập quốc tế một trong những yêu

cầu đặt ra là Nhà nước ta phải chú trọng vào việc phát triển khoa học, công

nghệ. Tại báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn

kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình

bày ngày 21-01-2016 cũng đã nhắc tới:

Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, làm cho khoa học,

công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng

nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng

cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nên kinh

tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát triển,

ứng dụng khoa học – công nghệ cần được ưu tiên tập trung đầu tư

trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Tiếp tục

đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa

học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ

chế tài chính để giải phóng năng lực sáng tạo, đưa nhanh tiến bộ

khoa học – công nghệ vào hoạt động thực tiễn [36, tr. 27 - 28].

Để bắt kịp với xu thế phát triển khoa học, công nghệ hiện nay, ngành

Tòa án cũng rất chú trọng tới việc tăng cường các cơ sở vật chất, thiết bị khoa

học phục vụ công tác xét xử: “Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các

hoạt động của Tòa án tiếp tục được tăng cường, tập trung vào nâng cấp hạ

tầng công nghệ thông tin (nâng cấp đường truyền, hệ thống máy chủ tại các

Tòa án; xây dựng hệ thống truyền hình trực tuyến từ Tòa án nhân dân tối cao

tới tất cả các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; nâng cấp Cổng thông tin

điện tử Tòa án nhân dân tối cao, xây dựng mới 66 Trang thông tin điện tử của

Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 03 Tòa án nhân dân cấp cao; đầu tư thiết bị tường

lửa và RAM cho máy chủ); triển khai xây dựng nhiều phần mềm ứng dụng

mới, như: phần mềm “Dịch vụ công trực tuyến đăng ký cấp sao bản án, tài

96

liệu trong hồ sơ vụ án”; phần mềm giám sát Thẩm phán; phần mềm thư điện

tử... Đặc biệt, bước đầu cũng đã triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động nghiệp vụ, như: ban hành Nghị quyết hướng dẫn việc gửi,

nhận đơn khởi kiện và các tài liệu bằng hình thức trực tuyến qua internet; thực

hiện việc công khai các bản án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân

dân tối cao; triển khai xây dựng phần mềm “số hóa các tài liệu kèm theo tờ

trình của các vụ án trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao”, phần

mềm gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt, thông báo văn

bản tố tụng qua mạng và bằng phương tiện điện tử” [33, tr.18 - 19]. Có như

vậy, việc khai thác, sử dụng các nguồn chứng cứ mới chất lượng, hiệu quả và

97

phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Kết luận chƣơng 3

Sau khi nghiên cứu các nội dung tại chương 3, tác giả luận văn rút ra

một số kết luận:

Thứ nhất, trong những năm gần đây việc giải quyết các vụ việc dân sự

của các tòa án đã đạt kết quả ngày một tốt hơn do có nhiều tiến bộ trong các

quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự. Tuy

nhiên, thực tế cũng cho thấy, việc thực hiện các quy định của pháp luật về

nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự trong giải quyết vụ các vụ án dân

sự vẫn còn nhiều những vướng mắc, bất cập. Điển hình như tòa án chưa chủ

động hướng dẫn đương sự cung cấp hoặc tự mình thu thập chứng cứ để chứng

minh các yêu cầu của mình theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy, còn nhiều trường hợp các đương sự

và các chủ thể tham gia tố tụng khác vẫn chưa thực hiện tốt các quyền, nghĩa

vụ chứng minh của mình. Để nâng cao chất lượng xét xử giải quyết các vụ án

thì việc hướng dẫn các chủ thể tham gia tố tụng có nghĩa vụ chứng minh hoặc

chủ động chứng minh là vô cùng cấp thiết.

Thứ ba, cần nâng cao nhận thức của đương sự và người dân về pháp

luật tố tụng dân sự nói chung và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân mỗi

người nói riêng. Ngành Tòa án nhân dân cần trú trọng trong việc nâng cao

chất lượng đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp của mình. Còn đối với Nhà nước, cần tăng cường đào tạo và có những

biện pháp hỗ trợ để tăng cường số lượng cũng như chất lượng Luật sư, trợ

98

giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng dân sự.

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu các nội dung liên quan đến nghĩa vụ chứng minh

trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, luận văn rút ra các kết luận:

Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh là một chế định cơ bản của tố tụng dân sự

nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với việc giải quyết đúng các vụ việc dân sự.

Thứ hai, việc giải quyết vụ án dân sự phải thông qua các hoạt động

chứng minh trong tố tụng dân sự như: hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên

cứu và đánh giá chứng cứ của các chủ thể chứng minh. Vì vậy, khi giải quyết

vụ án dân sự ngoài việc phải làm rõ được các vấn đề cần chứng minh để định

hướng cho việc tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ chứng minh có

hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Thứ ba, Trong thời kỳ Pháp thuộc, đã xây dựng và ban hành được một

số đạo luật quy định riêng về tố tụng dân sự trong đó có các quy định về

chứng cứ trong tố tụng dân sự. Đến năm 1945 Cách mạng tháng tám thành

công nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật mới. Từ đó đến nay, hệ

thống pháp luật tố tụng dân sự không ngừng được hoàn thiện trong đó có các

quy định về chứng minh nói chung và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể

nói riêng. Chỉ đến khi BLTTDS năm 2004 được ban hành thì các quy định về

chứng minh và chứng cứ mới được quy định tương đối đầy đủ.

Thứ tư, việc thực hiện chặt chẽ, đầy đủ, nghiêm minh các quy định

pháp luật về đặc biệt là các vấn đề chứng minh trong tố tụng dân sự đã giúp

cho việc giải quyết các vụ việc dân sự của các Tòa án ngày một tốt hơn. Tuy

nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thì việc thực hiện các quy định của pháp luật

về chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự vẫn còn những

vướng mắc hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết nhanh chóng và

99

đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án.

Thứ năm, để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự thì ngoài việc

phải hoàn thiện chế định chứng minh còn cần phải nâng cao chất lượng đội

ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Luật sư, trợ giúp viên pháp lý và người

tham gia trợ giúp pháp lý để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao phù hợp với tình

100

hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2017), Nghị quyết số 19-NQ/TW

ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng

cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công

lập, Hà Nội.

2. Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng,

Trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật, TP Hồ Chí Minh.

3. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Các nghị quyết của Trung ương Đảng

2011 – 2015 năm 2016, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2017), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu ban chấp

hành trung ương khóa XII, Nxb Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội.

6. Hà. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học Một số vấn đề của pháp

luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

7. Nguyễn Minh Hằng (2005), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

8. Nguyễn Minh Hằng (2007), Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

9. Nguyễn Minh Hằng (2009), “Tập quán nguồn luật hay chứng cứ”, Tạp

chí Tòa án nhân dân, tháng 5, Hà Nội.

10. Nguyễn Minh Hằng (2009), Hoạt động chứng minh trong pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

11. Nguyễn Minh Hằng (2012), “Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng

minh và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự của”, Tạp chí

101

Kiểm sát, (20).

12. Nguyễn Minh Hằng (2018), Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng

minh và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự, Webside

Trường Đại học Kiểm Sát, Hà Nội.

13. Hà Thị Mai Hiên (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay, đề tài cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2008 – 2009.

14. Ngũ Thị Như Hoa (2014), Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan tổ chức trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

15. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh số 27-LCT/HHĐNN8 Ngày

7/12/1989 về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.

16. Nguyễn Vinh Hưng (2018), “Cần nghiên cứu, đổi mới cơ chế hoạt động của Thừa phát lại, ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (01), Hà Nội.

17. Nguyễn Vinh Hưng (2019), Các tình tiết sự kiện không phải chứng

minh trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hà Nội.

18. Bùi Thị Huyền (2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm

2015, Nxb Lao Động, Hà Nội.

19. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng

dân sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân gia đình, Hà Nội.

21. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

22. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.

23. Quốc hội (2005), Luật giao dịch điện tử, Hà Nội.

24. Quốc hội (2006), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

25. Quốc hội (2013), Luật Lao động, Hà Nội.

26. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

102

27. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân gia đình, Hà Nội.

28. Quốc hội (2014), Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

29. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

31. Quách Mạnh Quyết (2009), Vai trò chứng minh của đương sự trong tố

tụng dân sụ- Vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay

(Công trình dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học - Đại học

Luật Hà Nội năm 2009, Hà Nội.

32. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày

05/07/2011 về phê duyệt chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm

2020, Hà Nội.

33. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo số 43/BC-TANDTC ngày

26/2/2015 về tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự,

Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Báo cáo số 03/BC-TA ngày 29/01/2016

về tổng kết công tác năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm

2016 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo tổng kết công tác năm 2016 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.

36. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Báo cáo tổng kết công tác năm 2017 và

nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2018 của các Tòa án nhân dân, Hà Nội.

37. Đinh Quốc Trí (2012), Nguyên tắc nghĩa vụ cung cấp cứng cứ và

chứng minh trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật,

Đại học Quốc Gia Hà Nội.

38. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng dân sự

Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật tố tụng dân sự

103

Việt Nam, tái bản lần thứ 16 năm 2017, Nxb CAND.

40. Nguyễn Minh Tuấn (2015), “Quốc triều khám tụng điều lệ với việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (01), Hà Nội.

41. Vũ Hoa Tươi (2013), Các nghị quyết mới nhất của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung, Nxb Thời đại, Hà Nội.

42. Viện Ngôn ngữ Khoa học – Xã hội – Nhân văn (2007), Từ điển Tiếng

104

Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.