ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

LƢU LỆ

( LIU LI )

KHẢO SÁT CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU TỒN TẠI CỦA TIẾNG HÁN TRONG TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA” SANG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------

LƢU LỆ

( LIU LI )

KHẢO SÁT CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU TỒN TẠI CỦA TIẾNG HÁN TRONG TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA” SANG TIẾNG VIỆT

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 60 22 02 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Đỗ Hồng Dƣơng

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ

công trình nào khác.

Học viên

LƯU LỆ ( LIU LI )

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Đỗ Hồng Dương, cô đã trực tiếp

hướng dẫn tôi rất tận tâm trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngôn Ngữ học, Trường Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã giảng dạy và

giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu tại khoa. Xin cảm ơn Ban

Giám hiệu và Phòng Sau đại học đã tạo điều kiện cho tôi trong việc hoàn

thành thủ tục để bảo vệ luận văn.

Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, đặc biệt là các bạn bè

người Việt Nam đã khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và

hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2019

Học viên

LƯU LỆ ( LIU LI )

DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Bảng 2.1. Thống kê tình hình sử dụng phương vị từ trong câu tồn tại của

“Tam Quốc diễn nghĩa” ................................................................................... 41

Bảng 2.2. Kết quả khảo sát các kiểu câu tồn tại trong TQDN. ....................... 55

Bảng 3.1. Cách chuyển dịch Trung - Việt mô hình câu tồn tại định vị trong tác

phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” ......................................................................... 59

Bảng 3.2. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại chữ 有(Có) .................. 66

Bảng 3.3. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại chữ 是(Là) .................. 69

Bảng 3.4. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại theo mô hình không hoàn

chỉnh (thiếu đoạn A) ........................................................................................ 74

Bảng 3.5. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại theo mô hình không hoàn

chỉnh (thiếu đoạn B) ........................................................................................ 77

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 3

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 5

4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 6

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .................................................................................... 7

6. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 7

CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT ..... 8

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 8

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc ........................................................... 8

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ............................................................. 12

1.2. Lý luận về câu tồn tại ................................................................................... 16

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt .. 16

1.2.2. Mô hình câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt ................................. 23

1.2.3. Quan điểm của luận văn ........................................................................... 27

1.3. Một số lý thuyết về biên, phiên dịch ............................................................ 29

1.3.1. Định nghĩa ................................................................................................ 29

1.3.2. Phân loại .................................................................................................. 30

1.3.3. Tiêu chuẩn phiên dịch Tín-Đạt-Nhã ......................................................... 32

1.4. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” và bản dịch ...... 34

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 35

CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT CÂU TỒN TẠI TRONG “TAM QUỐC DIỄN

NGHĨA” BẢN TIẾNG TRUNG ............................................................................. 36

2.1. Lƣu ý về thành phần “chủ ngữ giả” trong câu tồn tại .............................. 36

1

2.2. Tình hình sử dụng một số mô hình câu tồn tại điển hình trong “Tam

Quốc diễn nghĩa” ..................................................................................................... 44

2.2.1. Câu tồn tại chữ 有(Có) ............................................................................. 44

2.2.2. Câu tồn tại chữ 是(Là) ............................................................................. 47

2.2.3. Một số mô hình câu tồn tại khác ............................................................... 49

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 54

CHƢƠNG 3: KHẢO SÁT CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU TỒN TẠI TRONG

TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA” TỪ TIẾNG TRUNG SANG

TIẾNG VIỆT ........................................................................................................... 56

3.1. Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại có mô hình hoàn chỉnh ................ 56

3.1.1. Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại chữ 有(Có) .................................. 65

3.1.2. Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại chữ 是(Là) .................................. 68

3.2. Khảo sát cách chuyển dịch Câu tồn tại không hoàn chỉnh ....................... 72

3.2.1. Câu tồn tại thiếu đoạn A ........................................................................... 72

3.2.2. Câu tồn tại thiếu đoạn B .......................................................................... 76

3.2.3. Câu tồn tại thiếu đoạn C ........................................................................... 78

Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 79

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 83

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 89

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tiếng Trung và tiếng Việt có rất nhiều điểm tương đồng, không chỉ về mặt

ngữ âm, từ vựng mà cả về ngữ pháp, ngữ nghĩa. Câu tồn tại là một trong những

kiểu câu phổ biến trong tiếng Trung. Theo nghiên cứu của chúng tôi, trong tiếng

Việt cũng có kiểu câu tương ứng, có nhiều đặc điểm tương đồng với câu tồn tại

trong tiếng Trung cả về mặt cấu trúc (cú pháp) lẫn ngữ dụng học.

Tuy nhiên, qua quá trình học tập và tổng hợp tài liệu, chúng tôi nhận thấy rằng

mặc dù nghiên cứu về câu tồn tại trong hai ngôn ngữ đã có nhiều nhưng vẫn còn

nhiều vấn đề mới cần được khai thác và nghiên cứu sâu hơn nữa. Đặc biệt, người

học tiếng thường gặp khó khăn trong việc hiểu và sử dụng ý nghĩa ngữ pháp của

câu tồn tại, hoặc khi chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt (và ngược lại),

thường gặp nhiều khó khăn về trật tự của từ, cụm từ có sử dụng tiêu chí ngữ pháp

riêng của câu tồn tại (cấu trúc “tại/ ở/ từ + cụm danh từ” khi dịch từ tiếng Trung

sang tiếng Việt thì có nhiều điểm khác nhau). Ví dụ trong một câu tồn tại tiếng

Trung: “当中大船上青罗伞下,坐着孙权。左右文武,侍立两边。(Tôn

Quyền ngồi trên chiếc thuyền to ở giữa, che một đôi tán vóc xanh, hai bên

văn võ đứng hầu), trong câu này, nếu là người Trung Quốc thì sẽ thường

xuyên sử dụng cấu trúc câu tồn tại “Cụm phương vị từ (trên chiếc thuyền to)

+ Động từ (ngồi) + bổ ngữ (Tôn Quyền)”. Nhưng khi dịch sang tiếng Việt thì

chắc chắn không thể dịch thành “Trên chiếc thuyền to ngồi Tôn Quyền” mà

phải dùng phương thức dịch thoát, đảo trật tự từ và sử dụng cấu trúc câu tồn

tại quen thuộc của tiếng Việt đó là “Chủ ngữ (Tôn Quyền) + Vị ngữ (động từ

“ngồi”) + cụm phương vị từ (trên chiếc thuyền)” thì câu mới có nghĩa.

3

Qua ví dụ trên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu về phương pháp dịch câu

tồn tại trong một tác phẩm văn học là rất thú vị và có chiều sâu. Vì vậy chúng

tôi đã lựa chọn hệ thống câu tồn tại trong tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”

(dưới đây viết tắt là TQDN) để làm đối tượng nghiên cứu do đây là một tác

phẩm văn học kinh điển, được mệnh danh là một trong “tứ đại danh tác” của

Trung Hoa, có hệ thống từ vựng vô cùng phong phú, đã từ lâu được đông đảo

độc giả trên toàn thế giới biết đến, đặc biệt là độc giả Việt Nam.

Sau khi khảo sát, đối chiếu phương pháp dịch của 1493 câu tồn tại trong

TQDN bản tiếng Trung sang tiếng Việt, chúng tôi đã thu được nhiều kết quả

nghiên cứu quan trọng. Đề tài “Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại của

tiếng Hán trong tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” sang tiếng Việt” chắc

chắn sẽ là một đề tài có giá trị tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống câu tồn tại trong tác phẩm

TQDN của La Quán Trung. Cụ thể là khảo sát về phương pháp dịch bốn kiểu

câu tồn tại phổ biến nhất xuất hiện trong tác phẩm (đối chiếu Trung-Việt) .

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, cũng như do giới hạn của trình

độ người viết, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, nghiên cứu phương pháp dịch

thuật một số kiểu câu tồn tại phổ biến, điển hình nhất trong tác phẩm TQDN.

Tức là chủ yếu tập trung vào phương diện cú pháp, cấu trúc mà không phải là

mặt ngữ nghĩa hay ngữ dụng. Cụ thể, trước hết luận văn khái quát về hai kiểu

câu tồn tại là “Câu tồn tại hoàn chỉnh” với đầy đủ các bộ phận tạo thành là “từ

4

chỉ địa điểm, thời gian + cụm động từ (làm vị ngữ) + cụm danh từ (làm bổ

ngữ)”. Trên cơ sở đó chúng tôi sẽ giới thiệu tiếp về loại câu tồn tại không

hoàn chỉnh, hay gọi cách khác là một trong các thành phần cấu tạo câu tồn tại

bị tỉnh lược. Cuối cùng, chúng tôi sẽ phân tích, so sánh một số mẫu câu tồn tại

phổ biến trong tiếng Trung và tiếng Việt, chẳng hạn như câu tồn tại chữ

有(Có), câu tồn tại chữ 是 (Là), hoặc câu tồn tại biểu hiện động tác đang tiếp

diễn hoặc chỉ trạng thái (+ trợ từ着 (Zhe)).

Ngữ liệu mà luận văn sử dụng là bộ “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán

Trung, Nxb.Văn học Nhân dân, xuất bản ngày 1/9/2010 và bản dịch tiếng Việt

“Tam Quốc diễn nghĩa” của Phan Kế Bính (Bùi Kỷ hiệu đính), Nxb. Văn học,

2015. Chúng tôi chọn bản dịch này là vì theo nhận xét của các độc giả Việt

Nam, bản dịch này sát nghĩa và hay hơn cả. Toàn bộ các ví dụ được trích dẫn

và phân tích trong luận văn đều được thống kê, chọn lọc từ hai bản này.

Ngoài ra, khi cần thiết, để tiện cho việc khảo sát, so sánh bản dịch, chúng

tôi có thể sử dụng ví dụ từ một số nguồn tư liệu khác được tìm kiếm trên

google.com hoặc baidu.com.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là chỉ ra đặc điểm, tính sáng tạo của

các phương pháp chuyển dịch câu tồn tại trong TQDN sang tiếng Việt. Để đạt

được mục đích này, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

 Xác định và phân biệt được các khái niệm liên quan đến đề tài nhưng

thường gây nhầm lẫn với người học tiếng Trung và tiếng Việt như câu tồn tại -

câu tồn hiện - Câu ẩn hiện,…

 Giới thiệu về tình hình nghiên cứu câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng

5

Việt. Qua việc khảo sát, phân tích các ví dụ của bản dịch với bản gốc, chỉ ra

điểm giống và khác nhau cơ bản nhất về câu tồn tại trong hai ngôn ngữ.

 Chỉ ra được một số phương pháp dịch câu tồn tại mang tính quy luật có

thể nắm bắt.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phƣơng pháp miêu tả

Chúng tôi sử dụng phương pháp này để miêu tả các kết quả khảo sát thống

kê, cụ thể là miêu tả các loại câu tồn tại phổ biến nhất trong TQDN bản tiếng

Trung và tiếng Việt.

4.2. Phƣơng pháp đối chiếu

Sau khi sẽ khảo sát, thống kê về tình hình sử dụng các câu tồn tại trong

TQDN, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh, đối chiếu giữa bản gốc với bản dịch để

từ đó một mặt rút ra được mô hình câu được sử dụng ở hai ngôn ngữ, mặt

khác có thể rút ra được phương pháp dịch được dịch giả sử dụng.

Phương pháp thống kê, phân tích được áp dụng triệt để trong quá trình

triển khai đề tài của chúng tôi. Cụ thể, trên cơ sở lý luận về các kiểu câu tồn

tại phổ biến trong tiếng Trung, chúng tôi tiến hành phân loại, thống kê tình

hình sử dụng một số câu tồn tại xuất hiện trong tác phẩm TQDN. Căn cứ theo

tần suất xuất hiện của các kiểu câu này để triển khai các vấn đề liên quan,

phân bố hợp lý các nội dung của từng đề mục. Cũng thông qua kết quả thống

kê, chúng tôi đã thu thập được một khối lượng đáng kể các câu tồn tại trong

TQDN, trên cơ sở đối chiếu bản dịch với nguyên tác, chúng tôi đã rút ra được

một số cách thức chuyển dịch cơ bản nhất với bốn kiểu câu tồn tại trong một

tác phẩm văn học.

6

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

 Có tính gợi ý và tham khảo nhất định cho các đề tài liên quan, nhất là các

đề tài liên quan đến khảo sát, thống kê phương pháp dịch thuật giữa hai ngôn

ngữ Trung - Việt.

 Từ những kết quả thu được của luận văn, có thể áp dụng cách thức triển

khai đề tài và hướng nghiên cứu với những mô hình câu tương tự trong cả hai

ngôn ngữ.

 Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc

giảng dạy ngoại ngữ, đặc biệt là dạy dịch cho sinh viên Trung Quốc học tiếng

Việt hoặc sinh viên Việt Nam học tiếng Trung.

6. Bố cục của luận văn

Luận văn bao gồm ba chương chính dưới đây bên cạnh phần mở đầu, kết

luận và tài liệu tham khảo:

Chƣơng 1: Lịch sử nghiên cứu vấn đề và cơ sở lý thuyết

Chƣơng 2: Khảo sát câu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa” bản

tiếng Trung

Chƣơng 3: Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại trong tác phẩm

“Tam Quốc diễn nghĩa” từ tiếng Trung sang tiếng Việt

7

CHƢƠNG 1: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VÀ CƠ SỞ LÝ

THUYẾT

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Các nghiên cứu về câu tồn tại và các phương diện liên quan đến câu tồn

tại trong tiếng Trung và tiếng Việt có rất nhiều, nhưng từ góc độ đối chiếu,

khảo sát phương pháp dịch thuật thì rất ít. Về cơ bản tình hình nghiên cứu liên

quan đến đề tài như sau:

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc

Nhiều cuốn sách chuyên khảo về lĩnh vực ngữ pháp, từ vựng của Trung

Quốc đều ít nhiều đề cập đến câu tồn tại. Ví dụ:

Cuốn Nhập môn nghiên cứu và học tập ngữ pháp Hán ngữ hiện đại của

Cui Ying Xian (Công ty trách nhiệm hữu hạn Nxb.Qinghua Daxue, 2004),

trong mục liên quan đến câu tồn hiện (trang 254-257), tác giả đã phân loại và

giới thiệu về hai kiểu câu tồn hiện phổ biến nhất trong tiếng Trung là “Câu tồn

tại” và “Câu ẩn hiện” (gọi chung là câu tồn hiện). Sau đó tập trung vào khái

niệm, định nghĩa của các kiểu câu tồn hiện. Điểm nổi bật của cuốn sách này là

chỉ ra các tiêu chí mang tính đặc trưng của từng kiểu câu. Ví dụ các động từ

thường xuất hiện trong câu tồn tại/câu ẩn hiện. Tác giả cũng phân loại các mô

hình câu tồn tại thường gặp trong tiếng Trung theo tính chất động hoặc tĩnh.

Mặc dù nghiên cứu về câu tồn tại ở tài liệu này chưa sâu, nhưng cũng nhờ các

giới thiệu khái quát được đưa ra trong sách mà chúng tôi mới có gợi ý để lựa

chọn 4 mô hình câu tồn tại phổ biến nhất để tiến hành khảo sát.

Wang Jian trong bài Nghiên cứu tổng quan về câu tồn hiện trong tiếng

Trung hiện đại (Tạp chí học viện Chang Shu, kỳ 01, 2007) đã giới thiệu tình

8

hình nghiên cứu về câu tồn hiện và các trường phái phân loại câu tồn hiện

trong giới nghiên cứu Trung Quốc và nước ngoài, quan điểm của các trường

phái. Điểm nổi bật của bài viết là phân loại rất chi tiết các mô hình câu tồn tại

và các mô hình câu ẩn hiện (hai loại câu tồn hiện) trong tiếng Trung. Tuy

nhiên do đây chỉ là bài viết nghiên cứu đăng tạp chí, vì vậy tác giả chỉ giới

thiệu và đưa ví dụ về các mô hình câu tồn tại, hầu như không có các phân tích

mang tính chuyên môn hoặc chiều sâu.

Gu Chun Lei trong luận văn Phân tích ngữ dụng của câu tồn tại trong

tiếng Trung hiện đại (Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Chiết Giang, 2007)

thì khác với các nghiên cứu khác thường chỉ nghiên cứu, so sánh đối chiếu về

cấu trúc cú pháp của câu tồn tại, luận văn này lại lấy trọng tâm là phân tích ba

bình diện ngữ dụng của câu tồn tại, trên cơ sở khảo sát số lượng lớn các ví dụ.

Liu Shun, Pan Wen có bài Khảo sát và phân tích câu chữ “ 有 (Có) +

Zhe(着) trong tiếng Trung hiện đại (Học viện Văn học Đại học Sư phạm

Nam Kinh, tạp chí Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, kỳ 3/2007). Hai tác

giả giới thiệu Câu tồn tại “有(Có) + trợ từ 着(Zhe)” là cấu trúc câu mới xuất

hiện trong tiếng Trung hiện đại. Thường chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ viết và

ở hình thức khẳng định, không có hình thức phủ định. Thành phần trung tâm

câu thường là danh từ trừu tượng, ngoài ra còn bắt buộc phải có định ngữ.

Qua nghiên cứu này, chúng tôi đã hiểu được thêm một số quy luật sử dụng

câu tồn tại chữ 有(Có) trong tiếng Trung nói chung và câu tồn tại chữ “有(Có)

+ trợ từ 着(Zhe)” nói riêng. Ví dụ như việc xuất hiện trợ từ biểu thị hành động

tiếp diễn着(Zhe) có liên quan đến việc quy luật đối xứng về âm tiết. Hoặc về

mặt ngữ dụng, trọng tâm của kiểu câu này hướng tới là bộ phận định ngữ

9

trong phần trung tâm ngữ,... Do tiếng Việt cũng có kiểu câu tồn tại chữ

有(Có) nên nghiên cứu này rất có ích cho việc so sánh, đối chiếu. Câu tồn tại

chữ 有(Có) cũng là một trong những trọng tâm nghiên cứu của luận văn.

Wang Zhi Jie trong bài viết Mô hình của câu tồn hiện (Đại học Nội

Mông Cổ, Học báo Đại học phát thanh truyền hình, kỳ 1, 2004) thì lại chỉ tập

trung vào thảo luận mô hình của câu tồn tại, không bàn đến các khía cạnh

khác như ngữ dụng, ngữ nghĩa,… Tác giả cho rằng mô hình câu tồn hiện có

thể chia thành hai dạng câu chủ vị và câu phi chủ vị trong loại hình câu đơn.

Tác giả đã giới thiệu mô hình hoàn chỉnh và phi hoàn chỉnh của câu tồn hiện,

nhờ đó người đọc có thể hiểu thêm về bản chất của loại câu này.

Một nghiên cứu khác của Wang Zhi Jie, Yan Xiao Li là bài Sự rút gọn,

mở rộng và biến đổi của câu tồn tại trong văn bản (học báo Đại học Nội

Mông Cổ, quyển 32 kỳ 4, 2006). Không như các nghiên cứu trước đây thường

chỉ nghiên cứu câu tồn tại ở trạng thái “tĩnh”, tác giả bài viết phân tích câu tồn

tại ở trạng thái “động”, nghiên cứu về ba dạng “động” của câu tồn tại đó là

trường hợp rút gọn (tỉnh lược), trường hợp mở rộng và trường hợp biến đổi.

Hệ thống ví dụ và ngữ liệu sử dụng trong bài viết vô cùng phong phú, đơn

giản, dễ hiểu, tuy chỉ là bài viết hội thảo ngắn nhưng cũng có những giá trị

tham khảo nhất định cho chúng tôi.

Luận văn thạc sĩ Nghiên cứu đối chiếu câu tồn tại chữ 有(Có) trong

tiếng Trung và tiếng Việt của Ruan Shi Li Xin (Đại học Sư phạm Hoa Đông,

2006) cũng là một tài liệu tham khảo rất có ích cho luận văn. Tác giả luận văn

lấy câu tồn tại chữ 有(Có) trong tiếng Trung làm đối tượng nghiên cứu, phân

10

tích một cách có hệ thống và đi từ nhiều góc độ, phương pháp để làm nổi bật

ba phương diện cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu tồn tại chữ 有(Có)

trong tiếng Trung và tiếng Việt.

Đặc biệt, luận văn Nghiên cứu đối chiếu câu tồn hiện trong tiếng Trung

và tiếng Việt của Cheng Deng Qun (Đại học Dân tộc Quảng Tây, 2015) gợi

cho chúng tôi khá nhiều ý tưởng nghiên cứu dựa trên những điểm mà luận văn

này chưa làm được. Luận văn này đã làm được các việc như phân tích các

điểm giống và khác nhau về cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của câu tồn hiện

trong tiếng Trung và tiếng Việt, từ đó rút ra một số quy tắc về mặt chức năng

ngữ pháp của câu tồn hiện và một số quy luật khi chuyển dịch từ tiếng Trung

sang tiếng Việt. Tuy nhiên, luận văn này phân tích khá nhiều về mặt ngữ

dụng, ngữ nghĩa của câu tồn tại, những kết quả của luận văn hầu hết là đưa ra

các tổng kết về cách sử dụng các mô hình câu tồn tại cụ thể mà không đề cập

đến phương pháp chuyển dịch từ Trung sang Việt (và ngược lại). Đồng thời

các ví dụ luận văn này sử dụng đều là những ngữ liệu tự nhiên, còn luận văn

của chúng tôi lấy tư liệu trực tiếp từ tác phẩm TQDN - do đó các ví dụ của

chúng tôi đều mang đậm phong cách ngôn ngữ văn học. Cách thức triển khai

đề tài của chúng tôi cũng hoàn toàn khác vì hướng nghiên cứu của luận văn là

phương pháp dịch câu tồn tại dựa trên kết quả khảo sát, thống kê, không phải

chỉ đơn giản là nghiên cứu về cách sử dụng câu tồn tại trong tiếng Trung và

tiếng Việt.

Tiếp cận từ phương pháp giảng dạy ngoại ngữ, luận văn Phân tích lỗi sai

của sinh viên Việt Nam khi sử dụng câu tồn tại tiếng Trung của Pei Shi Qiu

Qiong (Đại học Cát Lâm, 2012) đã chỉ ra những lỗi sai sinh viên Việt Nam

11

hay mắc phải khi sử dụng câu tồn tại trong tiếng Trung. Trên cơ sở đó phân

tích nguyên nhân và đưa ra các đề xuất, phương pháp khắc phục. Luận văn sử

dụng hình thức điều tra bảng hỏi, sử dụng các lý thuyết về phân tích lỗi sai, từ

đó thống kê, phân loại các lỗi sai mà sinh viên Việt Nam thường gặp khi sử

dụng câu tồn hiện. Trên cơ sở phân loại, thống kê cùng với việc khái quát, mô

tả các định nghĩa, khái niệm, luận văn giới thiệu các phương pháp khắc phục

trong quá trình giảng dạy về câu tồn hiện tiếng Trung cho sinh viên Việt Nam.

Như vậy, có thể thấy rằng nghiên cứu về câu tồn tại tiếng Trung và tiếng

Việt từ góc độ so sánh, đối chiếu, khảo sát về phương pháp dịch là chưa

nhiều. Hầu hết các luận văn hoặc công trình nghiên cứu đều chỉ tập trung vào

phân tích, mô tả những kết cấu câu tồn tại điển hình, chỉ ra điểm giống và

khác nhau giữa chúng. Đây là điểm rất khác với đề tài của chúng tôi, chúng

tôi đi từ góc độ phương pháp dịch câu tồn tại, các ví dụ phân tích đều đặt trong

một tác phẩm văn học nổi tiếng, đã được nhiều người biết đến, vì vậy đều là

những nguồn ngữ liệu đáng tin cậy, chính xác cả về mặt nội dung lẫn hình thức.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

Câu tồn tại cũng là một kiểu câu nhận được nhiều quan tâm của các học

giả Việt Nam. Rất nhiều nhà ngôn ngữ nổi tiếng của Việt Nam theo chúng tôi

tổng hợp, tìm hiểu được đều ít nhiều có các nghiên cứu, công trình, bài viết…

về câu tồn tại.

Nhà nghiên cứu nổi tiếng Diệp Quang Ban đã có nhiều công trình nghiên

cứu giá trị, làm nền tảng cho nhiều nghiên cứu sau này cả về phương diện ngữ

pháp, từ vựng, ngữ nghĩa,… Điển hình là công trình Một số vấn đề về câu tồn

tại trong tiếng Việt ngày nay (Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học ngữ văn, Đại

12

học Sư phạm I, Hà Nội, 1980), sau này được in thành sách là cuốn Câu tồn

tại trong tiếng Việt. Nội dung nghiên cứu chủ yếu là khảo sát hành vi của từ

“Có” và kết luận về khuôn hình câu chứa “có” làm trung tâm cú pháp của câu,

và sự chuyển hoá của động từ chỉ hoạt động ngoại động thành nội dung và

động từ chỉ trạng thái, những điều kiện tạo thành câu tồn tại.

Nguyễn Kim Thản trong cuốn Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, khi

phân chia các tiểu loại động từ, tác giả có nhắc đến loại động từ tồn tại và xếp

thành tiểu loại động từ tồn tại - xuất hiện - tiêu huỷ. Tác giả cũng cho rằng, bổ

ngữ của những động từ này có thể đảo thành chủ ngữ. Cũng có nghĩa là theo

quan điểm của tác giả, những câu mang ý nghĩa tồn tại là những câu có chủ

ngữ đảo, đối tượng của hành động được nói trong câu cũng có thể trở thành

chủ thể của hành động đó.

Trần Ngọc Thêm (1985), trong cuốn Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt

(Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội), tại mục Nòng cốt tồn tại và câu tồn tại trong

văn bản (Trang 68-77), tác giả đã chỉ ra tầm quan trọng của câu tồn tại trong

việc tổ chức văn bản là “dùng để đưa các đối tượng mới vào văn bản”. Tiếp

đó, tác giả phân biệt câu tồn tại với câu quan hệ, tập trung phân tích thành

phần nòng cốt trong câu tồn tại như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ,… chỉ ra sự khác

nhau giữa câu tồn tại với câu đảo chủ - vị.

Ngoài những sách chuyên ngành, nhiều luận văn, bài viết trên sách báo,

tạp chí về câu tồn tại cũng có nhiều giá trị tham khảo với chúng tôi như:

Võ Tân Nghĩa với công trình Đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của câu tồn

tại tiếng Trung hiện đại (so sánh với tiếng Việt) (Luận văn thạc sĩ, Đại học

Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, 2010). Có thể nói đây là một trong số ít các

13

nghiên cứu từ góc độ so sánh, đối chiếu mô hình câu tồn tại trong tiếng Trung

và tiếng Việt. Luận văn phân tích sâu để khẳng định một lần nữa những kết

luận về câu tồn tại những nhà nghiên cứu trước đó đã đưa ra. Trên cơ sở khảo

sát loại câu này trong các văn bản tiếng Trung, sau đó so sánh với tiếng Việt ở

những nội dung tương đương, tác giả chỉ ra những điểm giống và khác nhau

của các mô hình câu tồn tại. Tuy nhiên như chúng tôi đã nói ở trên, hướng

nghiên cứu của chúng tôi là phương pháp dịch câu tồn tại từ tiếng Trung sang

tiếng Việt dựa trên kết quả khảo sát của một tác phẩm văn học dịch kinh điển,

có yêu cầu rất cao cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Điều chúng tôi hướng tới

là đưa ra một nhận xét, một phương pháp dịch một kiểu câu tồn tại cụ thể, còn

nghiên cứu của Võ Tân Nghĩa lại tách rời từng bộ phận cấu thành của câu tồn

tại (Từ ngữ chỉ thời gian/Cụm động từ/Cụm danh từ) để phân tích và đối

chiếu, so sánh điểm giống và khác nhau, nhưng lại không đề cập đến cách

thức chuyển dịch của cả câu tồn tại. Đây là điểm rất khác so với hướng triển

khai đề tài của chúng tôi.

Tiếp cận và giới thiệu về câu tồn tại từ góc độ quan hệ với các thành phần

câu, Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn Cú pháp tiếng Việt 1 ở phần Chủ ngữ đã

phân tích rất chi tiết các vấn đề liên quan đến chủ ngữ trong tiếng Việt. Đặc

biệt tác giả có giới thiệu về vấn đề chủ ngữ trong một số kiểu câu gây tranh

cãi, trong đó có “Câu tồn tại”. Cụ thể tác giả đưa ra ví dụ về kiểu câu “Trên

bàn đặt một cuốn sách” và nhận định với những kiểu câu này thì có thể được

xử lí theo hai cách khác nhau: Cách thứ nhất xem đây là câu không có chủ

ngữ, tổ hợp “Trên bàn” là trạng ngữ của câu. Cách thứ hai: xem đây là câu có

1 Nguyễn Văn Hiệp, Cú pháp tiếng Việt, Nxb.Giáo dục Việt Nam, 2009.

14

chủ ngữ đứng sau (chủ ngữ đảo trí). Từ những phân tích và dẫn chứng cụ thể,

tác giả đã đưa ra giải pháp và quan điểm là trong các câu tồn tại, có thể coi

đoạn chỉ địa điểm ở đầu câu chính là chủ ngữ. Chính nhờ những nghiên cứu

này tác giả luận văn mới nhận thấy rằng thành phần chủ ngữ của câu tồn tại

rất cần được lưu ý và nghiên cứu mở rộng hơn nữa. Vì vậy trong giới hạn của

luận văn, chúng tôi đã cố găng giới thiệu khái quát nhất về các quan niệm liên

quan đến thành phần chủ ngữ này (chúng tôi tạm gọi là “chủ ngữ giả”) của

câu tồn tại.

Đỗ Hồng Dương trong bài Một cách xác định chủ ngữ trong kiểu câu

"Có + X" từ góc độ lí thuyết điển mẫu (Đại học KHXH & Nhân văn, 2011),

đề cập đến trường hợp chủ ngữ của các câu thường được coi là câu tồn tại

trong tiếng Việt, có thể khái quát thành cấu trúc “Có + X”. Tác giả miêu tả kết

cấu “Có + X”, chia thành nhóm (1): Sau “có” / “còn” là một từ hoặc một ngữ

và nhóm (2): Sau “có”, “còn” là một kết cấu Chủ - Vị. Từ đó đưa ra được một

số giải pháp đơn giản, nhất quán và khả thi trong việc phân tích cấu trúc cú

pháp câu tiếng Việt.

Nhìn chung, qua những giới thiệu ở trên, có thể thấy rằng các nghiên cứu

về câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt từ góc độ so sánh, đối chiếu và

đặc biệt là khảo sát phương pháp dịch thì vẫn còn rất ít, chưa tương xứng với

tiềm năng. Không chỉ những tài liệu viện dẫn chính mà chúng tôi đã giới thiệu

ở trên (như của Võ Tân Nghĩa, của Cheng Deng Qun... đã đề cập đến vấn đề

phương pháp dịch câu tồn tại nhưng chưa sâu), quá trình tổng hợp, tìm kiếm

tài liệu tham khảo ở cả các kho dữ liệu điện tử, các thư viện... cũng không có

nhiều kết quả nghiên cứu về phương pháp chuyển dịch câu tồn tại từ tiếng

15

Trung sang tiếng Việt (và ngược lại). Vì vậy chúng tôi cho rằng tiềm năng

nghiên cứu, mở rộng của đề tài là rất lớn.

1.2. Lý luận về câu tồn tại

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt

a) Khái niệm và đặc điểm của câu tồn tại trong tiếng Trung

 Khái niệm, phân loại

Trong Hán ngữ đại tự điển (Tân Hoa tự điển), định nghĩa khái niệm “tồn

tại” trong tiếng Trung là: (1). (Động từ). Sự vật tiếp tục chiếm thời gian hoặc

không gian, trên thực tế có, chưa biến mất. (2). (Danh từ). Thuật ngữ triết học,

tương ứng với khái niệm “ý thức”. (3). Từ trái nghĩa là “tiêu vong”.

Cui Ying Xian trong Nhập môn nghiên cứu và học tập ngữ pháp tiếng

Trung hiện đại (Nxb.Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, 2004) là viết về câu tồn

hiện trong tiếng Trung. Tác giả một mặt đưa ra quan điểm của mình, mặt khác

cũng dẫn theo nhiều quan điểm của các nhà ngôn ngữ khác nổi tiếng của

Trung Quốc như Hoang Bo Rong, Liao Xu Dong (nhiều công trình của các

nhà ngữ pháp học này đã được giảng dạy trong các trường ngoại ngữ ở cả

Trung Quốc và thế giới, điển hình như bộ Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại quyển

thượng và hạ được dùng làm giáo trình giảng dạy ở các trường Đại học ngoại

ngữ ở Việt Nam hiện nay), qua đó thống nhất định nghĩa cơ bản đã phổ biến

được các nhà ngữ pháp học Trung Quốc đồng ý đó là: ―Câu tồn hiện là câu

biểu thị địa điểm nào đó tồn tại, xuất hiện hoặc biến mất một người hoặc một

vật nào đó‖ (trang 254-257 ) .

Có thể thấy, cho đến nay ở Trung Quốc việc định nghĩa hoặc phân loại câu

tồn hiện vẫn còn một số quan điểm chưa đồng nhất. Ví dụ như tranh luận về

16

việc từ ngữ chỉ thời gian có thể trở thành một bộ phận trong câu tồn hiện được

hay không. Xem ví dụ sau:

01) 这时,门外跑进来一个人。

=> Lúc này, bên ngoài cửa có một người vừa chạy đến. (Ngữ pháp Hán ngữ

hiện đại - Câu tồn hiện)

02) 很久很久以前,蒙古草原上,有个放羊娃名字叫苏和。

=> Ngày xửa ngày xưa, trên thảo nguyên Mông Cổ, có một em bé chăn cừu

tên là Tô Hoà. (Kho tàng cổ tích Trung Hoa - Mã Đầu Cầm)

Trong hai ví dụ trên, câu tiếng Trung dùng các cụm từ chỉ thời gian “这时

(lúc này)”, “很久很久以前” (ngày xửa ngày xưa), toàn câu tác giả dùng theo

cấu trúc câu tồn tại đó là “Từ chỉ thời gian + (cụm) động từ + (cụm) danh từ

(làm bổ ngữ)”, những kiểu câu này theo tìm hiểu của chúng tôi cũng như theo

thống kê sơ bộ trong TQDN thì có rất nhiều, cho thấy việc dùng các từ chỉ

thời gian trong các kiểu câu này rất phổ biến, phù hợp với mô hình đặc trưng

của câu tồn tại tiếng Trung. Sau khi thống kê và khảo sát tình hình câu tồn tại

trong TQDN, chúng tôi thống nhất quan điểm coi các từ ngữ chỉ thời gian là

một bộ phận của câu tồn tại. Nói cách khác những câu có sử dụng từ ngữ chỉ

thời gian đáp ứng mô hình như ví dụ trên thì cũng được coi là câu tồn tại.

Câu tồn tại trong tiếng Việt so với tiếng Trung càng phức tạp hơn và phạm

vi rộng hơn, người nước ngoài học tiếng Trung và tiếng Việt đôi khi vẫn nhầm

lẫn giữa các khái niệm “câu tồn hiện” và “câu tồn tại” trong tiếng Trung. Vì

vậy ở đây chúng tôi nhấn mạnh rằng, câu tồn tại và câu ẩn hiện là hai tiểu loại

của “câu tồn hiện”. Cả hai loại câu này đều có mô hình giống nhau đó là gồm

“Danh từ ở đầu câu + Động từ ở giữa câu + Từ, ngữ ở cuối câu” (giới ngữ

17

pháp Trung Quốc chia câu tồn tại thành 3 đoạn gọi là đoạn A, đoạn B và đoạn

C). Trong đó dù là câu tồn tại hay câu ẩn hiện thì đều thường tập trung vào

mô tả đoạn B, tức là phần động từ (cụm động từ) của câu tồn hiện. 2

Trong đó, sự khác nhau lớn nhất của hai loại câu này là:

Câu tồn tại: Chức năng biểu đạt cơ bản nhất của câu tồn tại đó là miêu tả,

thuyết minh tính chất (trang phục, trang điểm, phong thái,...) của người, sự

vật, sự việc hoặc hoàn cảnh khách quan.

Câu ẩn hiện: Thiên về trần thuật tại một thời điểm, một địa điểm nào đó

có một người hoặc vật nào đó xuất hiện hoặc biến mất.

Như vậy, để phù hợp với đề tài nghiên cứu, dưới đây chúng tôi thống nhất

sử dụng thuật ngữ “câu tồn tại” (bao gồm cả ý nghĩa “ẩn hiện” như trên).

Đồng thời như trên đã nói, do phần động từ (cụm động từ, hay đoạn B), đặc

biệt là phần cụm danh từ, là phần quan trọng nhất của câu tồn tại, vì vậy

những phân tích và so sánh dưới đây của luận văn phần lớn sẽ chỉ tập trung

vào các bộ phận hợp thành này của câu tồn tại.

 Đặc điểm cơ bản

Do câu tồn tại nhấn mạnh vào việc biểu thị tồn tại vật hoặc người nào đó

ở một địa điểm nào đó, vì vậy các động từ thường xuất hiện trong câu tồn tại

thường là nội động từ (không cần mang tân ngữ ở đằng sau) và ngoại động từ

2 Người viết tổng hợp và dịch từ tài liệu đã dẫn của Cui Ying Xian, trang 265. Do trong tiếng Trung, cầu tồn tại chỉ là một trong hai loại câu tồn hiện (bên cạnh đó còn có câu ẩn hiện), nhưng qua nghiên cứu, trong tiếng Việt không phân biệt hai khái niệm “tồn tại” và “ẩn hiện” này như tiếng Trung. Vì vậy, để có thể giới thiêu khái quát nhất đến người đọc, trong một số trường hợp (ví dụ như khi viện dẫn tài liệu tham khảo ở Trung Quốc), chúng tôi sẽ sử dụng cả thuật ngữ “câu tồn tại”- “Câu ẩn hiện” – “Câu tồn hiện” với ý nghĩa và cách sử dụng tương đương nhau do đề tài luận văn là về phương pháp dịch các cấu trúc câu tồn tại, không đề cập đến bình diện ngữ nghĩa.

18

(bắt buộc mang tân ngữ ở đằng sau), và cũng sẽ mang ý nghĩa tồn tại. Sau

động từ thường thêm trợ từ 着 (zhe) biểu thị hành động đang tiếp tục, đôi khi

cũng dùng 了(le)nhưng rất ít, vì trợ từ 了 này thường dùng để nhấn mạnh

hành động đã kết thúc, nó thường xuất hiện trong câu ẩn hiện là chủ yếu. Bổ

ngữ xuất hiện trong câu tồn tại thường là một cụm từ chính phụ có từ chỉ số

lượng hoặc danh từ.

Các nội đông từ như: 站 (đứng), 躺(nằm), 飞(bay), 睡(ngủ), 漂(trôi),

走(đi), 停(dừng),... Ví dụ:

03) 门口站着一个人。

=> Ở cửa có một người đang đứng. (Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại - Câu tồn hiện)

04) 花瓣上有一只蜜蜂。

=> Trên cánh hoa có một con ong. (Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại - Câu tồn

hiện)

Các ngoại động từ như: 画(vẽ), 放(đặt), 写(viết), 雕(điêu khắc), 摆(bày),

铺(trải), 添(thêm), 挂(treo, móc),... Ví dụ:

05) 屋顶上飘着一面红旗。

=> Trên nóc nhà bay phất phới một lá cờ. ((Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại - Câu

tồn hiện)

Ở đây cần nói thêm rằng, do câu ẩn hiện nhấn mạnh vào việc người hoặc

sự vật, sự việc xuất hiện hoặc biến mất, những động từ xuất hiện trong câu ẩn

hiện cũng thường mang những ý nghĩa này. Vì vậy mặc dù cũng thuộc phạm

vi của câu tồn hiện và thuộc phạm vi nghiên cứu, tuy nhiên người nghiên cứu

cần chú ý có những động từ chỉ xuất hiện được ở trong câu ẩn hiện. Hoặc

điểm khác nhau dễ nhận thấy nhất là động từ trong câu ẩn hiện đằng sau

19

thường thêm trợ từ 了(le) hoặc bổ ngữ xu hướng, phần bổ ngữ thì giống với

bổ ngữ của câu tồn tại.

Những động từ thường xuất hiện trong câu ẩn hiện là: 出现(xuất hiện),

发生(phát sinh), 出(ra), 消失(biến mất), 丢(rơi, mất), 死(chết), 变(biến, đổi),

逃(trốn),... Ví dụ:

06) 脸上透出一丝狡猾的笑意。

=> Trên mặt lộ ra một nụ cười giảo hoạt. (Ngữ pháp Hán ngữ hiện đại - Câu

tồn hiện)

07) 水溪边,顿时少了女人们的踪迹。

=> Bên bờ suối, bỗng dưng thiếu đi dấu vết của những người phụ nữ (Ngữ

pháp Hán ngữ hiện đại - Câu tồn hiện)

Qua những ví dụ trên có thể thấy một đặc điểm thú vị của câu tồn hiện

tiếng Trung đó là những động từ xuất hiện trong kiểu câu này thông thường

chỉ cần bản thân động từ đó mang nghĩa tồn hiện (tồn tại, ẩn hiện) thì đằng

sau nó đều có thể mang bổ ngữ (là các danh từ hoặc cụm danh từ), không

phân biệt đó là nội đông từ hay ngoại động từ.

b) Khái niệm và đặc điểm của câu tồn tại trong tiếng Việt

 Khái niệm, phân loại

Khá giống với khái niệm “tồn tại” trong tiếng Trung, Từ điển tiếng Việt

của Hoàng Phê (Viện ngôn ngữ học, Nxb.Đà Nẵng, 1996) định nghĩa về từ

“tồn tại” là: 1. (Động từ). Ở trạng thái có thật, con người có thể nhận biết

bằng giác quan, không phải do con người tưởng tượng ra và Còn lại, chưa mất

đi, chưa được giải quyết. 2. (Danh từ). Thế giới bên ngoài có một cách khách

quan, độc lập với ý thức của con người.

20

Do câu tồn tại là một loại câu rất phổ biến trong nhiều ngôn ngữ, đặc

biệt với hai ngôn ngữ có nhiều điểm tương đồng như tiếng Trung và tiếng Việt

thì một điều giống nhau dễ thấy trước hết chính là về khái niệm, phân loại câu

tồn tại. Các nhà ngữ pháp của Việt Nam dù cũng còn nhiều tranh luận về việc

phân loại và xác định ý nghĩa biểu hiện của câu tồn tại, nhưng nhìn chung đều

hiểu ý nghĩa tồn tại ở hai mức độ3: 1. Đặc trưng tồn tại là thông tin về thuộc

tính “có thực”. 2. Tồn tại là sự có mặt của khách thể ở tại một không gian vật

lý nào đó.

Câu tồn tại tiếng Việt không chia rõ thành hai loại mang ý nghĩa “tồn tại”

hoặc “ẩn hiện” như trong tiếng Trung, tuy nhiên về cơ bản thì các nhà ngữ

pháp Việt Nam 4 cũng xác định câu tồn tại trong tiếng Việt theo hai tiêu

chuẩn: 1. Về dấu hiệu hình thức: Không có chủ ngữ. 2. Về ý nghĩa: Chỉ sự tồn

tại của vật, việc, hiện tượng (có thể dùng “có”, “không có” để kiểm tra).

Như vậy, từ định nghĩa cơ bản nhất về từ “tồn tại”, chúng ta cũng đã thấy

được phần nào sự giống nhau về mặt khái niệm giữa câu tồn tại trong tiếng

Trung và tiếng Việt. Đây là tiền đề rất tốt để luận văn có thể thống kê các câu

tồn tại và so sánh các mô hình câu tồn tại trong TQDN.

 Đặc điểm cơ bản

Giống như đặc điểm cơ bản của câu tồn tại trong tiếng Trung, phần giữa -

phần trung tâm của câu tồn tại trong tiếng Việt (hay là phần cụm động từ làm

vị ngữ) cũng thường do các động từ mang ý nghĩa tồn tại đảm nhận. Các động

từ này cũng có thể là các nội động từ, cũng có thể là các ngoại động từ.

3 Diệp Quang Ban (1980), Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt ngày nay, trang 6. 4 Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam phần câu, Nxb.Đại học Sư phạm, trang 169.

21

Tuy nhiên cần chú ý là câu tồn tại trong tiếng Việt khác với các kiểu câu

khác ở ba đặc điểm sau đây: 5 Một là, chúng có cách diễn đạt sự việc riêng

theo kiểu “tồn tại x”, ví dụ “có quyền lực” (sự tồn tại vốn có của “quyền

lực”). Hai là, chúng có mô hình cú pháp riêng: không có chủ ngữ (cấu trúc cơ

bản là từ chỉ thời gian + động từ + bổ ngữ). Ba là, các yếu tố khác nhau giữ

chức năng vị tố đều có thể quy đổi với động từ tồn tại “có” (còn). Điều này có

nghĩa là, tất cả các từ thuộc những loại khác nhau làm vị tố của câu tồn tại

(theo cách hiểu ở đây) đều có thể thay thế được bằng từ “có” mang ý nghĩa

tồn tại, hoặc “bắt đầu có, không có nữa”.6 Đây là một phép thử, cũng là một

cách hiệu quả để xác định một câu có phải là câu tồn tại trong tiếng Việt hay

không (trong tiếng Trung cũng như vậy). Chẳng hạn, trong ví dụ dưới đây,

nếu có thể thay thế từ “treo” bằng từ “có” ở cả hai câu (và ngược lại), thì cả

hai câu đều là câu tồn tại:

08) 墙上悬着一水墨画,画着两只牛。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Trên tường đang treo một bức tranh thủy mặc, vẽ hình hai con trâu.

Câu trên, thay từ “treo” bằng từ “có”: Trên tường có một bức tranh thuỷ

mặc, vẽ hình hai con trâu. “Treo” là một vị từ [+động] nhưng khi xuất hiện

trong kiểu câu trên, nó đã biến đổi thành [-động] và mang ý nghĩa lưu giữ kết

quả. Bởi vậy, khi thay từ “treo” bằng từ “có” cũng không làm ảnh hưởng đến

ý nghĩa và cấu trúc của câu. Tương tự với cả câu gốc tiếng Trung, thay từ

“悬” (treo) bằng từ “有” (có) cũng không làm câu thay đổi ý nghĩa lẫn cấu

22

trúc. Vậy đây là một câu tồn tại. 5 Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam phần câu, Nxb.Đại học Sư phạm, trang 170-171. 6 Cần chú ý thêm ở đây rằng không phải câu có từ “có” đều là câu tồn tại, “có” còn có thể làm phó từ mang ý nghĩa khẳng định, đối lập với phó từ “không, chưa, chẳng” mang ý phủ định. Ngoài ra “có” còn có thể mang ý nghĩa sở hữu. Lưu ý này đúng với cả câu tồn tại chữ 有(có) trong tiếng Trung.

Cách xác định một câu có phải là câu tồn tại không này, là cơ sở để chúng

tôi khảo sát và phân tích phương pháp dịch các mô hình câu tồn tại trong

tiếng Trung và tiếng Việt.

1.2.2. Mô hình câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt

a) Mô hình câu tồn tại trong tiếng Trung

 Mô hình hoàn chỉnh

Là mô hình mà cả ba thành phần cấu tạo nên một câu tồn tại hoàn chỉnh

đều xuất hiện, đó là “Từ chỉ địa điểm, thời gian (đoạn A) + Cụm động từ

(đoạn B) + Cụm danh từ (đoạn C)”. Đây là mô hình câu tồn tại phổ biến và

điển hình nhất trong tiếng Trung.

Dựa vào thành phần cấu tạo nên đoạn A (từ chỉ địa điểm, thời gian) mà

mô hình câu tồn tại đầy đủ có thể được chia thành hai loại:

i. Khi đoạn A là từ chỉ phương hướng, danh từ hoặc đại từ chỉ thị...:

09) 门口,有一对石狮子。

=> Trước cửa, có một đôi sư tử đá.

10) 在那遥远的地方,隐隐露出一带渔村。

=> Ở phía đằng xa kia, thấp thoáng một ngôi làng chài.

Hai ví dụ trên là hai mẫu câu tồn tại điển hình trong tiếng Trung, bao gồm

đầy đủ ba bộ phận hợp thành đó, trong đó đoạn A có thể do từ chỉ phương

hướng tạo thành (门口) như trong ví dụ 9, hoặc cũng có thể do một cụm danh

từ (danh từ) tạo thành như (在那遥远的地方) ở ví dụ 10.

ii. Khi đoạn A là Cụm giới từ gồm “Giới từ “Ở/ tại/ từ + phương vị từ +

danh từ tạo thành (giới từ “Ở/ tại/ từ đôi khi có thể có hoặc không), ví dụ:

23

11) 在我的家里,仍珍藏着老师当年送给我的那本书。

=> Ở nhà tôi, vẫn đang lưu giữ cuốn sách quý của cô giáo tặng.

12) 从左门走进了爷爷和奶奶。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Ông bà nội bước vào từ bên trái cửa.

 Mô hình không hoàn chỉnh

Mô hình không hoàn chỉnh là chỉ trường hợp một trong ba bộ phận hợp

thành của một câu tồn tại hoàn chỉnh (các đoạn A, đoạn B, đoạn C) bị tỉnh

lược, hoặc một trong những tiêu chí nhận diện quan trọng nhất của đoạn A là

các từ ngữ chỉ địa điểm, không gian (các cụm giới từ) bị lược bớt, chỉ còn các

từ chỉ thời gian. Theo kết quả nghiên cứu, chúng tôi thống nhất sử dụng quan

điểm của Song Yu Zhu trong việc phân tích tính giới hạn của các trường hợp

tỉnh lược một bộ phận của câu tồn tại, cho rằng các trường hợp tỉnh lược là

một dạng mô hình đặc biệt của câu tồn tại. Theo đó, có thể tạm thời chia câu

tồn tại không hoàn chỉnh theo các mô hình sau: 7

i. Thiếu từ ngữ chỉ địa điểm, mô hình chỉ còn đoạn B + đoạn C, trong đó

đoạn B thường là một động từ (cụm động từ), đoạn C thường là một danh từ

(cụm danh từ) làm bổ ngữ. Xem các ví dụ sau:

13) 这时候,门一打开,走出来一位既漂亮又可爱的姑娘。(Ngữ liệu

trực tiếp)

=> Vào lúc này, cửa vừa mở, một cô gái vừa xinh vừa đáng yêu bước ra.

14) 又过一会儿,隐隐响起雷声。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Qua một lúc, bỗng có tiếng sấm nổi lên.

7 Song Yu Zhu (1991), Cấu trúc câu đặc biệt trong Hán ngữ Hiện đại, Nxb. Giáo dục Sơn Tây, Thái Nguyên.

24

15) 在很久很久以前,有一个美丽的传说。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Ngày xửa ngày xưa, có một truyền thuyết rất đẹp.

Trong ba ví dụ trên có thể thấy rằng, các yếu tố chỉ không gian, địa điểm,

nơi chốn, thường được coi là yếu tố nhận diện của một câu tồn tại đã bị lược

bớt, câu tồn tại lúc này chỉ còn gồm hai thành phần chủ yếu là “đoạn B +

đoạn C”. Thông thường các từ chỉ không gian, địa điểm đã bị tỉnh lược đi này

đã xuất hiện trong các ngữ cảnh trên hoặc dưới của đoạn văn, vì vậy chúng có

thể được bỏ đi.

ii. Thiếu cụm động từ, mô hình câu là “ Đoạn A + Đoạn C”, ví dụ:

16) 忽然一阵狂风,吹灭灯光。

=> Bỗng dưng một trận cuồng phong thổi tắt mất đèn.

17) 眼前一片光明。

=> Trước mắt là tương lai rộng mở.

iii. Câu tồn tại chỉ còn đoạn C, đoạn A và đoạn B đã bị tỉnh lược, tức là câu

tồn tại lúc này chỉ còn do danh từ (cụm danh từ) cấu tạo thành. Có thể nói

đoạn C là bộ phận quan trọng nhất của câu tồn tại, thông thường không thể bị

lược bỏ, bởi vì nó là chủ thể của sự tồn tại/ biến mất. Ví dụ:

18) 大大的玻璃窗,厚厚的地毯,外面是层层的绿叶。

=> Một khung cửa sổ to, một tấm thảm dày, bên ngoài là tầng tầng lớp lớp các

lá cây xanh.

Do trong tiếng Việt cũng có mô hình câu tồn tại này với đặc điểm tương

tự. Đồng thời việc chuyển dịch cụm danh từ của câu tồn tại cũng giống với

việc dịch các danh từ nói chung trong hai ngôn ngữ không có nhiều khác biệt

cần phải đi sâu tìm hiểu. Vì vậy ở các chương sau chúng tôi sẽ không tập

25

trung khảo sát phương pháp dịch của mô hình câu tồn tại chỉ có đoạn C này

nữa mà sẽ chủ yếu tập trung vào hai trường hợp trước đó.

Có thể khái quát lại từ những giới thiệu ở trên như sau, tuỳ theo ngữ cảnh

của lời nói mà một bộ phận của câu tồn tại (đoạn A, đoạn B) có thể bị tỉnh

lược, tuy nhiên đoạn C, tức là danh từ (cụm danh từ) thông thường bắt buộc

phải có. Đặc điểm này rất giống với các mô hình câu tồn tại hoàn chỉnh và

không hoàn chỉnh của tiếng Việt mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây. Cũng là

cơ sở thuận lợi để chúng tôi so sánh, đối chiếu phương pháp dịch câu tồn tại ở

các chương 2 và chương 3 của luận văn.

b) Mô hình câu tồn tại trong tiếng Việt

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng, cơ bản các mô hình

câu tồn tại trong tiếng Việt thì đều khá giống với các mô hình trong tiếng

Trung (bao gồm cả trường hợp đầy đủ các bộ phận hoặc các trường hợp bị

tỉnh lược). Nếu có khác thì chỉ khác về thuật ngữ sử dụng. Cụ thể, ngoài mô

hình câu tồn tại hoàn chỉnh có kết cấu tương tự (Đoạn A + Đoạn B + Đoạn C)

như trong tiếng Trung mà ở bên trên chúng tôi đã đưa ví dụ, thông qua các câu

dịch tiếng Việt, chúng ta có thể thấy được phần nào thấy được các nhà ngữ pháp

học Việt Nam cũng chia câu tồn tại trong tiếng Việt thành ba mô hình phổ biến,

căn cứ theo mối quan hệ tồn tại của các đoạn A, B và C như sau: 8

Câu tồn tại hiển hiện: là sự có mặt của vật, hiện tượng đang bày ra trước

mắt. Trường hợp này rất giống với mô hình tỉnh lược đoạn A + đoạn B, chỉ có

đoạn C (danh từ/ cụm danh từ) trong tiếng Trung. Ví dụ:

19) Chuột!

8 Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam phần câu, Nxb.Đại học Sư phạm, trang 172-173.

26

20) Bao nhiêu gián đấy! Kinh quá!

Câu tồn tại khái quát: là sự có mặt của vật, hiện tượng nói chung, không

tính đến sự hiển hiện và cũng không được xác định vị trí. Trường hợp này rất

giống với mô hình tỉnh lược từ chỉ không gian, địa điểm (đoạn A), chỉ gồm

đoạn B (động từ/ cụm động từ) + đoạn C (danh từ/ cụm danh từ) trong tiếng

Trung. Ví dụ:

21) Có chuột!

22) Lượn qua lượn lại cả một đàn chim đấy!

Câu tồn tại định vị: là sự có mặt của sự vật, hiện tượng tại một không

gian, thời gian nào đó được diễn đạt bằng từ ngữ trong câu. Trường hợp này

rất giống với mô hình câu tồn tại hoàn chỉnh, gồm đầy đủ ba bộ phận cấu

thành (đoạn A, đoạn B, đoạn C) trong tiếng Trung:

23) Trong tủ có con chuột.

24) Trên bầu trời cao, có một đàn chim đang bay lượn.

25) Trong tủ bay ra bao nhiêu là gián với muỗi.

1.2.3. Quan điểm của luận văn

Qua quá trình tìm đọc và tổng hợp các tài liệu tham khảo, chúng tôi nhận

thấy rằng ở cả Trung Quốc và Việt Nam đến tận bây giờ, vẫn có nhiều quan

điểm chưa thống nhất liên quan đến các khía cạnh của câu tồn tại. Chẳng hạn

như quan điểm khác nhau về thành phần chủ ngữ của câu tồn tại, quan điểm

khác nhau về hiện tượng tỉnh lược một thành phần của câu tồn tại... như

chúng tôi đã đề cập đến trong luận văn.

Để phù hợp với một đề tài khảo sát phương pháp dịch, trong luận văn của

mình, chúng tôi sẽ không tập trung vào những vấn đề tranh luận mang tính lý

27

thuyết như vậy, mà chúng tôi sẽ chia ra thành các mô hình, các nhóm câu cụ

thể để thuận tiện so sánh, đối chiếu, từ đó rút ra được một số phương pháp,

quy tắc dịch thuật cơ bản nhất của câu tồn tại từ tiếng Trung sang tiếng Việt

(và ngược lại). Cơ sở dữ liệu tất nhiên vẫn thuộc phạm vi của tác phẩm

TQDN - là đối tượng khảo sát. Nhưng khi cần, để làm phong phú thêm cho

các phân tích (và đặc biệt là để so sánh bản dịch), chúng tôi cũng sẽ trích dẫn

thêm một số ngữ liệu trực tiếp khác (trên google.com hoặc baidu.com).

Việc giới hạn và phân chia cụ thể thành các mô hình câu tồn tại như vậy

sẽ giúp chúng tôi có thể xem xét sâu hơn, kỹ hơn những khía cạnh cụ thể, khá

quan trọng nhưng lại có khả năng bị bỏ qua, chẳng hạn như từ ngữ chỉ danh từ

cũng được xếp vào là một bộ phận cấu thành của câu tồn tại như chúng tôi đã

đề cập ở trên.

Ở đây nhấn mạnh rằng, những nhóm câu mà luận văn lựa chọn xem xét

vừa bao gồm những câu tồn tại điển hình, vừa bao gồm những kiểu câu tồn tại

không điển hình (không hoàn chỉnh). Chúng tôi hy vọng từ đây có thể nhìn

vấn đề rộng hơn, phong phú hơn sang cả các hiện tượng ngôn ngữ khác trong

hai ngôn ngữ. Ví dụ như trường hợp tỉnh lược động từ 有(Có), động từ 是(Là)

có được coi là hợp lý hay không? v.v. Đứng dưới góc độ cú pháp học, có quan

điểm cho là hợp lý, cũng có quan điểm là không, hoặc đứng từ góc độ của

luận văn, chúng tôi tạm thống nhất hiện tượng tỉnh lược này là hợp lý (bởi vì

nó không gây nhiều ảnh hưởng đến ý nghĩa của câu khi chuyển dịch - phù hợp

với đề tài và hướng nghiên cứu của chúng tôi,...)

Từ những giới thiệu và phân tích ở trên, có thể đưa ra một nhận xét chung

rằng, về cơ bản, các kiểu câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt là hoàn

28

toàn giống nhau. Sự giống nhau này thể hiện rõ không chỉ với kiểu câu tồn tại

có mô hình đầy đủ, hoàn chỉnh, mà còn thấy rõ ngay cả khi một trong ba bộ

phận cấu thành câu tồn tại bị lược bớt đi (mô hình không hoàn chỉnh). Như

vậy, có thể đưa ra mô hình chung về câu tồn tại trong cả tiếng Trung và tiếng

Việt như sau:

Từ ngữ chỉ không gian, thời gian (đoạn A) + (Cụm) Động từ (đoạn B) +

(Cụm) danh từ (đoạn C)

Đứng dưới góc độ cấu trúc ngữ pháp, có thể tạm cho rằng các đoạn A, B

và C này sẽ tương ứng với các thành phần chủ ngữ (do từ chỉ thời gian/ không

gian tạo thành) - vị ngữ (do động từ/ cụm động từ tạo thành) và bổ ngữ (do

danh từ/ cụm danh từ tạo thành).

1.3. Một số lý thuyết về biên, phiên dịch

1.3.1. Định nghĩa

Cho đến nay vẫn chưa có một câu trả lời thống nhất hoàn toàn cho khái

niệm “Phiên dịch là gì?” bởi mỗi một người nghiên cứu sẽ căn cứ theo góc độ

khác nhau để đưa ra định nghĩa phù hợp. Chẳng hạn như ―Phiên dịch là công

việc tiến hành thao tác, xử lý đối với ngôn ngữ, tức là quá trình sử dụng một

ngôn ngữ này để thay thế cho một ngôn ngữ khác‖(JC Catford,1994); hoặc

―Phiên dịch là tìm những từ, ngữ trong văn bản đích tương đương tối đa với

văn bản nguồn, trước hết là phải tương đương về mặt ngữ nghĩa, tiếp đó mới

là tương đương về mặt phong cách...‖(Eugene A.Nida,1969). 9

Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù có nhiều định nghĩa phiên dịch xét từ

các góc độ chuyên môn khác nhau, nhưng trong cách hiểu chung nhất đã được

9 Chen Hong De (1993),Cơ sở phiên dịch Trung-Anh, Nxb. Giáo dục Thượng Hải.

29

người học ngoại ngữ trên toàn thế giới công nhận thì “phiên dịch” là công

việc chuyển tải nội dung thông tin, ngữ nghĩa từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ

khác dưới dạng nói (Dịch nói), còn “biên dịch” là việc chuyển tải dưới dạng

ngôn ngữ viết (dịch viết). Ngôn ngữ cần dịch được gọi là ngôn ngữ nguồn,

ngôn ngữ cần được dịch đến là ngôn ngữ đích và người dịch được gọi chung

là phiên dịch viên. 10

Trong luận văn này, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ “phiên dịch” để chỉ

chung cho việc chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt (và ngược lại), tức

là không phân biệt với thuật ngữ “biên dịch”.

1.3.2. Phân loại 11

a) Dịch nói và dịch viết

Đi từ góc độ phương thức biểu đạt, có thể chia phiên dịch thành hai loại

“dịch nói” và “dịch viết”.

Đặc điểm lớn nhất của dịch nói là “nhìn thấy hiệu quả ngay lập tức”, có

tính tuỳ tiện. Dịch nói yêu cầu người dịch phải có phản xạ nhanh, hầu hết

trong các trường hợp dịch nói đều không thể sử dụng các công cụ hỗ trợ dịch

thuật như từ điển, máy tính,…

Liên hệ với đề tài luận văn, mục đích và đối tượng nghiên cứu, có thể quy

phương pháp dịch câu tồn tại trong tác phẩm TQDN vào loại thứ hai - Dịch

viết (biên dịch). Dịch viết là quá trình “tái sáng tạo nguyên tác”, thường áp

dụng với các văn bản ngôn ngữ sách vở, nó có yêu cầu rất cao với người dịch.

b) Dịch thoát và dịch sát

10 Liang Yuan, Wen Ri Hao (2009), Kỹ năng dịch Hán - Việt thực dụng, Nxb.Dân tộc, tr.1. 11 Tổng hợp và tham khảo từ Zhao Yu Lan, Giáo trình phiên dịch Việt – Hán, Nxb.Đại học Bắc Kinh, trang 2-3.

30

Đi từ góc độ phương pháp dịch, có thể chia phiên dịch thành hai loại lớn

là “Dịch thoát” và “Dịch sát”.

Dịch sát là phương pháp phiên dịch khoa học và điển hình nhất trong các

phương pháp dịch thuật. Yêu cầu cơ bản nhất của phương pháp dịch sát đó là

cấu trúc của câu nguyên tác và cấu trúc của câu được chuyển dịch phải đồng

nhất. Ví dụ danh từ phải đối xứng với danh từ, động từ phải đối xứng với

động từ, v.v. Ví dụ câu sau:

26) 草堆前面// 是// 一所庄院。(Câu tồn tại có mô hình hoàn chỉnh với chữ

是 (là )).

=> Dịch giả sử dụng phương pháp dịch sát, bảo đảm thống nhất với câu

nguyên tác cả về mô hình câu (câu tồn tại) lẫn các bộ phận cấu tạo nên câu

tồn tại (từ chỉ địa điểm, thời gian + động từ “là” + cụm danh từ): Trước mặt

đống cỏ// là// một cái trại.(Hồi 3).

Nếu ví dụ trên, chúng ta không sử dụng phương pháp dịch sát mà thay đổi

trật tự của các bộ phận cấu tạo nên câu tồn tại, sử dụng mô hình câu đơn chủ -

vị phổ biến trong tiếng Việt: Một cái trại// ở// trước mặt đống cỏ thì phương

pháp này được gọi là phương pháp dịch thoát.

Dịch thoát là phương pháp dịch thuật thường được sử dụng hơn cả trong

lĩnh vực dịch thuật. Vì mỗi một ngôn ngữ đều có những đặc trưng cú pháp, từ

vựng riêng biệt nên việc chuyển dịch bảo đảm được cả mặt cấu trúc lẫn nội

dung từ nguyên tác là việc không hề dễ dàng. Vì vậy thông thường trong dịch

viết, nhất là dịch văn học, các dịch giả chủ yếu áp dụng cách dịch thoát.

Qua quá trình khảo sát, thống kê và phân tích câu tồn tại trong tác phẩm

TQDN, chúng tôi cũng nhận thấy rằng đây là hai phương pháp dịch được vận

31

dụng nhiều nhất và linh hoạt nhất, đặc biệt là “dịch thoát”.

1.3.3. Tiêu chuẩn phiên dịch Tín-Đạt-Nhã

Các tiêu chuẩn phiên dịch là quy chuẩn để đánh giá chất lượng dịch

thuật, cũng là các mục tiêu mà người làm công tác dịch thuật cần không

ngừng cố gắng, trau dồi bản thân hàng ngày để nâng cao trình độ dịch thuật

của bản thân. Có nhiều quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn phiên dịch tuỳ

theo góc độ nghiên cứu, chẳng hạn như Barkhudarov (1985) đưa ra hai tiêu

chuẩn để đánh giá chất lượng phiên dịch đó là “Thông thuận” và “Chính xác”.

Theo đó,“chính xác”tức là phải trung thành với nguyên tác, phải thống nhất

với nội dung tư tưởng, phong cách văn bản của nguyên tác. Còn “thông

thuận”, tức là trên cơ sở “chính xác”, phải bảo đảm được bản dịch “dễ hiểu dễ

đọc”.12

Từ góc độ nghiên cứu của đề tài, luận văn chủ trương áp dụng tiêu chuẩn

phiên dịch Tín, Đạt, Nhã của Yan Fu. Cụ thể:

Quan niệm “Tín, Đạt, Nhã” xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX tại Trung

Quốc, do Yan Fu khởi xướng. Yan Fu đã đề xuất ba tiêu chuẩn cần phải tuân

thủ trong khi dịch thuật, đó là: Tín, Đạt, Nhã. Ngay sau khi xuất hiện trước

công chúng cùng với tác phẩm Thiên diễn luận, “Tín, Đạt, Nhã” - trên cơ sở

xác lập những tiêu chuẩn cần thiết cho một bản dịch, đã trở thành một lý

thuyết nền tảng cho ngành dịch thuật Trung Quốc trong nhiều năm qua.13

Đồng thời do quá trình giao lưu văn hoá sâu rộng giữa hai nước, lý thuyết về

tiêu chuẩn phiên dịch Tín-Đạt-Nhã của Yan Fu cũng được đông đảo người

12 Zhao Yu Lan, sách đã dẫn, trang 17. 13 Zhang Shan (张珊) Bàn về tiêu chuẩn phiên dịch ―Tín-Đạt-Nhã‖ của Yan Fu Nguồn: https:// www.xzbu.com/ 3/ view-4343251.htm. Truy cập ngày 28/06/2019.

32

học và người nghiên cứu ở Việt Nam tiếp nhận. Chúng tôi cũng đồng ý với

các tiêu chuẩn này của Yan Fu và sẽ sử dụng như cơ sở để phân tích tiêu

chuẩn của cách dịch câu tồn tại trong TQDN dưới đây.

Hiểu một cách đơn giản nhất thì ba tiêu chuẩn này nghĩa là:

Tín(信): đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất. Tín có nghĩa là đúng, ý nghĩa

và ngôn ngữ văn bản đích phải chính xác so với ý nghĩa và ngôn ngữ của

nguyên tác. Chính xác ở đây là “phải dùng từng chữ, đủ từng ý và hệt với

giọng của hạng người nào về thời đại nào” 14.

Đạt(达): văn bản đích phải mạch lạc và dễ hiểu. Yan Fu cho rằng mục

đích của “Đạt” là để “Tín”, do vậy nếu một bản dịch mà người đọc không thể

hiểu được thì là một bản dịch thất bại.

Nhã(雅): Đây là tiêu chuẩn khó đạt tới nhất của một bản dịch, “nhã” ở

đây phải hiểu là “thích hợp, phù hợp”, tức là không chỉ phải bảo đảm được sự

chính xác về mặt nội dung (tín), phải diễn đạt đầy đủ, mạch lạc văn bản gốc

(đạt), mà còn phải làm cho người đọc thấy hay, thấy đẹp trong từng câu từng

chữ, giống như đang đọc chính tiếng mẹ đẻ.

Chẳng hạn như ví dụ dưới đây:

27) 今日// 走了此人,早晚// 必生祸乱。

=> Nếu để người này chạy thoát được, nay mai tất sinh loạn.(Hồi 55)

Nếu chỉ chú trọng vào tiêu chuẩn “Tín” và “Đạt” thì chỉ cần dịch theo

đúng cấu trúc của câu tồn tại của nguyên tác đó là: Hôm nay// chạy thoát//

người này, sớm muộn// tất sẽ// sinh loạn. Tuy nhiên một câu dịch như vậy chỉ

bảo đảm về mặt nội dung mà không thể đạt tới tiêu chuẩn “Nhã”, nếu dịch sát

33

như vậy sẽ khiến câu rất gượng ép, vì vậy dịch giả đã không sử dụng mô hình 14 Võ Thị Ngọc Hoa (2009), Vài nhận xét về phiên âm và dịch thơ của một số tác phẩm chữ Hán trong chương trình Ngữ văn 7 từ góc độ văn bản, Tạp chí Hán Nôm, Số 5 (96), Tr. 68-75.

câu tồn tại của tiếng Việt để dịch mà sử dụng mô hình câu ghép chính phụ với

cặp từ quan hệ ―Nếu... thì‖ để phù hợp hơn với tư duy của người Việt Nam.

Dù rằng, cho đến nay vẫn còn không ít những ý kiến không đồng tình

với các tiêu chuẩn phiên dịch của Yan Fu, nhưng quan điểm của người viết

luận là đối với giới nghiên cứu, phê bình dịch thuật, các tiêu chuẩn “Tín, Đạt,

Nhã” có giá trị quan trọng và đặc biệt trong việc đánh giá hiệu quả của một

bản dịch. Nó phù hợp với hướng nghiên cứu và đề tài của luận văn.

1.4. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” và bản dịch

Trong phần Lời nói đầu của TQDN, tập 1 (Nxb.văn học, 2015, trang 7),

tác giả đã giới thiệu về tác phẩm này như sau: “Tam quốc diễn nghĩa của La

Quán Trung, nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một bộ tiểu

thuyết cổ điển dài, được nhân dân ưa thích nhất và lưu truyền rộng rãi như

truyện Thuỷ Hử, lại là bộ tiểu thuyết lịch sử thông tục đầu tiên của Trung Quốc.

Tác giả La Quán Trung. La Quán Trung tên là Bản, tên chữ là Quán Trung. Ông

sinh vào cuối đời Nguyên, mất vào đầu đời Minh. Ông rất có tài về văn chương,

rất giỏi về từ khúc, câu đố, kịch... nhưng nổi tiếng nhất là về tiểu thuyết.‖

Nội dung của TQDN kể về thời kỳ Tam Quốc (190-280) với 120 chương hồi,

theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu). Tiểu thuyết

này đã từ lâu được xem là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc,

được chuyển dịch sang rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới và chuyển thể thành

phim truyền hình. Một trong những thành công lớn nhất của TQDN là tính chất

quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật. Bộ tiểu thuyết này có thể chia

thành rất nhiều truyện nhỏ mà đa phần trong số đó có thể hoàn toàn dựng được

thành những bộ phim truyện riêng lẻ. Chính vì thế những công trình nghiên cứu

34

về giá trị nội dung lẫn nghệ thuật của TQDN ở Trung Quốc nói riêng và thế giới

nói chung có rất nhiều và phong phú. 15

Tác phẩm TQDN đã được dịch sang tiếng Việt từ lâu, tác phẩm này được

đánh giá là “trường hợp rất đặc biệt” trong ngành sách ở Việt Nam. Nó đã

được dịch và in từ những năm đầu thế kỷ XX để truyền bá chữ quốc ngữ. Đây

là tiểu thuyết được nhiều người dịch nhất, nhiều nhà in nhất, nhiều người yêu

thích nhất,… Có thể kể đến như: Bộ “Tam Quốc diễn nghĩa” do Nhà xuất bản

Imprimerie de l‟opinion tại Sài Gòn xuất bản năm 1907, người dịch là

Nguyễn Liên Phong. Đây là bản in TQDN đầu tiên ở Việt Nam dưới dạng ấn

phẩm sách. Hoặc Tam Quốc diễn nghĩa liên hoàn họa do Công ty Văn hóa

Đông A và Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2016. Mỗi dịch giả có một

phong cách riêng, mỗi nhà in có một nét đặc sắc riêng, nhưng cho đến nay,

bản của Phan Kế Bính, Bùi Kỷ hiệu đính, do nhà xuất bản Phổ thông in năm

1959-1960 là được hoan nghênh hơn cả. 16

Tiểu kết chƣơng 1

Trong chương 1, người viết đã cố gắng giới thiệu một cách tổng quan nhất

các cơ sở lý luận liên quan đến đề tài để làm nền tảng cho việc khảo sát và đối

chiếu phương pháp dịch ở chương 2 và chương 3 của luận văn. Cụ thể, chúng

tôi đã giới thiệu các khái niệm, đặc điểm về câu tồn tại trong tiếng Trung và

tiếng Việt, đặc biệt là đưa ra một số mô hình phổ biến nhất về câu tồn tại để

thuận tiện cho việc khảo sát. Đồng thời để có thể đánh giá cũng như đưa ra

phương pháp dịch câu tồn tại trong TQDN, chúng tôi cũng giới thiệu một số

lý thuyết cơ bản về dịch thuật để người đọc có thể nắm rõ hơn hướng triển

15 Anh Vũ biên tập (2007), Tam Quốc diễn nghĩa, Nhà xuất bản văn học, trang 9. 16 Khái quát từ Lời giới thiệu trong Tam Quốc diễn nghĩa tập 1, Nxb.Văn học, 2015, trang 7.

35

khai đề tài ở các chương sau.

CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT CÂU TỒN TẠI TRONG “TAM QUỐC DIỄN

NGHĨA” BẢN TIẾNG TRUNG

2.1. Lƣu ý về thành phần “chủ ngữ giả” trong câu tồn tại

Trước hết cần giải thích là, tuy các đoạn B đoạn C thường được coi là hai

bộ phận quan trọng hơn đoạn A, vì vậy trong nhiều tài liệu tham khảo mà

chúng tôi tổng hợp được (các tài liệu đã dẫn ở chương 1), phần lớn trong số

đó đều tập trung vào so sánh, miêu tả,... các phương diện liên quan đến đoạn

B hoặc đoạn C, nhưng ở phần này, chúng tôi sẽ không phân tích sâu hơn hoặc

giới thiệu riêng biệt về các bộ phận này. Lý do là đề tài của chúng tôi liên

quan đến khảo sát phương pháp dịch câu tồn tại, điều này có nghĩa là dưới

góc độ của luận văn, các bộ phận cấu tạo nên một câu tồn tại sẽ có vai trò

ngang nhau, cần được xem xét trong mối quan hệ bình đẳng.

Ngoài ra, vì động từ và danh từ là những thực từ có ý nghĩa hoàn chỉnh,

có chức năng ngữ pháp đặc trưng, dễ nhận biết, tiếng Trung và tiếng Việt đều

thuộc loại hình đơn lập nên nhiều loại thực từ (trong đó có danh từ, động từ,

tính từ,...) có rất nhiều điểm giống nhau, từ khái niệm đến chức năng cú pháp.

Việc chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt các đoạn B và đoạn C, tức là

các (cụm) động từ/ (cụm) danh từ của câu tồn tại không quá phức tạp. Chính

vì vậy trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu và phân tích về các bộ phận của

câu tồn tại trong mối quan hệ tổng thể của toàn câu mà không tách riêng như

trong một số nghiên cứu khác trước đây (như nghiên cứu của Võ Tân Nghĩa,

Cheng Deng Qun...).

Sau khi khảo sát 1493 câu tồn tại trong tác phẩm TQDN và chia làm 4 mô

36

hình phổ biến nhất, chúng tôi nhận thấy rằng khi dịch sang tiếng Việt, ngoài

việc trật tự từ bị thay đổi, thì dịch giả thường không dùng câu tồn tại mà dùng

kiểu câu chủ-vị thông thường. Không những thế, nếu quan sát kỹ về cách dịch

của từng bộ phận của câu tồn tại, thì còn thấy rằng bộ phận có nhiều cách dịch

nhất cũng như có vị trí linh hoạt nhất trong câu dịch tiếng Việt lại chính là

đoạn A (các từ ngữ chỉ thời gian/ không gian).

Cũng giống với tình hình nghiên cứu ở Việt Nam, ở Trung Quốc hiện

nay cũng có hai trường phái, có người cho rằng câu tồn tại là một dạng câu

phi chủ vị, nói cách khác là dạng câu “vô chủ” (chủ ngữ).17

Một trường phái khác thì không đồng ý với ý kiến trên mà lại xếp câu

tồn tại là một dạng câu chủ vị bình thường. Các đại diện có thể kể đến như

Zhang Yu, Liu Yue Hua và một số nhà nghiên cứu Hán ngữ hiện đại khác đều

cho rằng câu tồn tại là một loại câu chủ vị. Trong các nghiên cứu như cuốn

Ngữ pháp thực hành Hán ngữ hiện đại của Liu Yue Hua,18 Khảo sát về chủ

ngữ giả của câu tồn hiện tiếng Hán của Yao Yuan19, các tác giả đều thống

nhất cho rằng các từ chỉ không gian/thời gian tạo nên đoạn A của câu tồn tại

đều nên coi là một dạng chủ ngữ giả.

Trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, cũng tồn tại những tranh luận tương

tự. Ví dụ, Diệp Quang Ban (1998) coi câu tồn tại là một kiểu câu không có

chủ ngữ (vô chủ). Hoặc Nguyễn Kim Thản trong Nghiên cứu về ngữ pháp

tiếng Việt (Nxb.Khoa học, 1963) khi phân chia các tiểu loại động từ đã nhắc

17 Lu Shu Xiang(1979). 18 Nxb.Thương Vụ ấn thư quán, bản đầu tiên, 01/05/2001. 19 Bài đăng trên Tạp chí ngôn ngữ, chuyên mục Ngữ văn hiện đại, Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh, kỳ 7, 2017.

37

đến loại động từ tồn tại và xếp chúng vào tiểu loại “động từ tồn tại - xuất hiện

- tiêu huỷ”. Ông còn cho rằng, bổ ngữ của những động từ này có thể đảo

thành chủ ngữ. Nghĩa là theo ông, những câu mang ý nghĩa tồn lại là những

câu có chủ ngữ đảo, đối tượng của hành động được nói trong câu cũng có thể

trở thành chủ thể của hành động đó. Trong khi đó, Đỗ Hồng Dương (2011) lại

coi câu tồn tại là một kiểu câu có chủ ngữ (là ngữ đoạn A đầu câu).

Những giới thiệu trên cho thấy sự tương đồng về cách thức tư duy trước

một hiện tượng ngôn ngữ của người Trung Quốc và người Việt Nam.

Do hướng nghiên cứu của đề tài là về phương pháp dịch, vì vậy đứng

trước các trường phái, quan điểm khác nhau này, chúng tôi không thiên về

trường phái nào cả, tức là chúng tôi sẽ không sử dụng các thuật ngữ như “chủ

ngữ giả”, hoặc “câu vô chủ” khi nói về câu tồn tại mà sẽ thống nhất việc sử

dụng các thuật ngữ, khái niệm tương đương như “đoạn A” (từ ngữ chỉ không

gian/ thời gian) để tương xứng với đoạn B (động từ/ cụm động từ) và đoạn C

(danh từ/ cụm danh từ). Lý do là việc áp dụng thuật ngữ “chủ ngữ giả” hay

không cũng không ảnh hưởng nhiều đến việc khảo sát phương pháp dịch của

chúng tôi do chúng tôi khảo sát tổng thể mô hình câu tồn tại, không phải khảo

sát một thành phần riêng biệt nào.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng, trong các thành tố cấu tạo nên

đoạn A của câu tồn tại, tức là “(Ở/ tại/ từ) 20 + danh từ + phương vị từ”, thì hệ

thống phương vị từ của câu tồn tại là phức tạp nhất. Không chỉ bản thân số

38

lượng phương vị từ trong tiếng Trung rất lớn mà cách dùng của từng phương 20 Cấu trúc đầy đủ của cụm từ chỉ thời gian trong tiếng Trung khá giống với tiếng Việt, thường là “Ở/ tại/ từ + danh từ + phương vị từ” (在/ 从+名词+方位词/ 处所词). Tuy nhiên sau khi khảo sát đoạn A của câu tồn tại trong TQDN, chúng tôi nhận thấy rằng ở câu gốc tiếng Trung, và nhiều khi cả ở bản dịch, hầu hết đều không sử dụng cấu trúc đầy đủ này, giới từ “ở/ tại/ từ” thường xuyên bị tỉnh lược.

vị từ cũng khá phức tạp. Trong nhiều trường hợp, nắm bắt được cách dùng

của phương vị từ nói riêng và đoạn A nói chung sẽ nắm được cách dịch của cả

câu tồn tại đó.

Phương vị từ chủ yếu biểu thị phương hướng, vị trí, số ít có thể biểu thị

thời gian, cụm từ chỉ thời gian/ không gian, hay cũng có thể gọi là cụm giới từ

在+NL (Ở/ tại/ từ + danh từ + phương vị từ) . Nếu phương vị từ không chỉ

biểu thị phương hướng như 东(đông), 西(tây), 南(nam), 北(bắc), hoặc vị trí

như上(trên), 下(dưới), 前(trước), 后(sau), mà còn có thể biểu thị thời gian

như内(trong), 以内(phía trong), 之前(phía trước), 之后(sau đó),... thì cụm từ

chỉ thời gian/ không gian “在NL” cũng sẽ mang đặc trưng ngữ nghĩa này.

Cho đến nay, các nhà ngữ pháp học ở Trung Quốc vẫn chưa đưa ra được

khái niệm thống nhất hoàn toàn về phương vị từ tiếng Trung. Trong đó, qua

quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy quan điểm của Zou Shao

Hua(2001)về định nghĩa của phương vị từ là ―Từ có thể phổ biến đứng đằng

sau các loại từ khác (hoặc đơn vị lớn hơn từ là cụm từ, biểu thị phương

hướng hoặc vị trí thì gọi là phương vị từ‖ là khá khoa học, phù hợp với góc

độ nghiên cứu của luận văn.

Có thể chia phương vị từ thành hai loại cơ bản là phương vị từ đơn và

phương vị từ kép.

Phương vị từ đơn do một phương vị từ cấu tạo thành, ví dụ: 上(trên),

下(dưới) ,前(trước), 后(sau), 左(trái), 右(phải), 内(trong), 外(ngoài),

东(đông), 西(tây), 南(nam), 北(bắc),...

Phương vị từ kép có thể do hai phương vị từ đơn hợp thành như

39

左右(trái phải), 上下(trên dưới), 前后(trước sau), 内外(trong ngoài)

v.v,cũng có thể do một phương vị từ đơn kết hợp với một hậu tố tạo thành,

ví dụ như ―Phương vị từ + 边(bian)‖ chúng ta sẽ có một phương vị từ kép

tương đương trong tiếng Việt nghĩa là “Bên + Phương vị từ”, ví dụ “上边” là

“Bên + trên”,“下边” là “bên dưới”,... hoặc ―Phương vị từ + 面‖ chúng ta sẽ

có một phương vị từ kép tương đương trong tiếng Việt nghĩa là “Mặt/ Phía +

Phương vị từ”, ví dụ “前面” là “Phía trước”; “里面” là “Mặt trong”,...

Phương vị từ kép cũng có thể được tạo thành bởi một “tiền tố + phương vị

từ”, ví dụ ―之(Zhi) + phương vị từ‖ có cách dùng tương đương như cách

dùng của phương vị từ đơn “上”.

Như các ví dụ dưới đây:

28) 忽香炉中烟起不散,结成一座华盖,上面端坐着于吉。

=> Bỗng nhiên trong lư hương, khói bốc lên không tỏa kết thành một cái tán,

ở trên thấy Vu Cát ngồi chễm chệ. (Hồi 29)

29) 右边韩当、周泰,左边陈武、潘璋。

=> Bên hữu có Hàn Đương, Chu Thái; bên tả có Trần Võ, Phan Chương.

(Hồi 61)

30) 西头一个汉,东头一个汉。

=> Mé tây một nhà Hán, Mé đông một nhà Hán.

Để phù hợp với hướng nghiên cứu của luận văn, chúng tôi không phân

chia thành phương vị từ đơn hoặc phương vị từ kép mà thống nhất dùng thuật

ngữ “phương vị từ” (từ/cụm từ chỉ phương hướng). Lý do là sau khi khảo sát

thì chúng tôi nhận thấy rằng về cơ bản cách dịch các phương vị từ đơn hoặc

kép từ tiếng Trung sang tiếng Việt không có nhiều sự khác nhau hoặc những

40

sự khác nhau này, nếu có, cũng không gây ảnh hưởng quá lớn đến ý nghĩa của

toàn bộ câu tồn tại.

Bảng dưới đây là tình hình sử dụng các phương vị từ đơn (của câu tồn tại)

trong tác phẩm TQDN mà chúng tôi thống kê được:

Phƣơng vị từ Số lƣợng Tỷ lệ(%)

上(trên) 316 22.05%

下(dưới) 115 8.02%

左(trái) 80 5.58%

右(phải) 68 4.75%

里(trong) 4 0.28%

旁(bên/ cạnh) 4 0.28%

前(trước) 82 5.72%

后(sau) 285 20%

东(đông) 17 1.19%

西(tây) 1.26% 18

南(nam) 18 1.26%

北(bắc) 16 1.12%

外(ngoài) 33 2.3%

内(nội/ trong) 125 8.72%

中(trong/ giữa/ trung) 192 13.4%

间(giữa) 64 4.07%

Tổng 1433 100%

Bảng 2.1. Thống kê tình hình sử dụng phương vị từ trong câu tồn tại

của “Tam Quốc diễn nghĩa”

41

Bảng trên cho thấy, trong TQDN, phương vị từ 上 (trên) có tỷ lệ sử dụng

nhiều nhất (xuất hiện 316 lần, chiếm 22.05%), tiếp đó lần lượt là 后 (sau),

chiếm 20% và 中 (trung/ giữa), chiếm 13.4%. Các phương vị từ có tần suất sử

dụng ít nhất lần lượt là里 (trong) và 旁 (bên/ cạnh), chúng tôi chỉ thống kê

được 4 câu tồn tại có xuất hiện các phương vị từ này, chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,28%.

Từ kết quả thống kê này, phần nào có thể thấy được thói quen sử dụng phương vị

từ trong cụm từ chỉ thời gian/ không gian của câu tồn tại của người Trung Quốc

ngày xưa (TQDN là tác phẩm văn học cổ điển, phản ánh thói quen tư duy và

cách thức sử dụng ngôn ngữ của người Trung Quốc thế kỷ XIV).

Đáng chú ý là, sau khi thống kê tình hình sử dụng phương vị từ trong

TQDN đó là các phương vị từ thường xuất hiện thành cặp đối xứng. Chúng

tôi cũng tổng hợp được một số lượng đáng kể các cặp phương vị từ đối xứng

này, chẳng hạn như: 上下(trên dưới) có 31 câu, 前后(trước sau) có 30 câu,

左右(trái phải) có 98 câu, 内外(trong ngoài) có 18 câu,...

Ngoài ra còn có một hiện tượng thú vị là trong nhiều trường hợp,các

phương vị từ đối ứng thường xuất hiện cùng lúc với nhau, chẳng hạn như câu

trước có 上 (trên) thì câu sau sẽ có 下 (dưới), hoặc có khi trong cùng một câu

xuất hiện đủ các cặp phương vị từ như 东南(đông nam), 西北(tây bắc),

西南(đông nam), 东北(đông bắc),... Ví dụ:

31) 吕公已于山林丛杂去处,上下埋伏。

=> Bấy giờ Lã Công đã đưa quân vào mai phục trong rừng rậm rồi. (Hồi 7)

32) 忽背后喊声大震:左有王基,右有陈骞,两路军杀来。

=> Bỗng ở mé sau nổi tiếng reo, Vương Cơ, Trần Khiên hai mặt kéo đến.

(Hồi 112)

42

Cần nhấn mạnh thêm rằng trong nhiều trường hợp, khi phương vị từ kép

do hai phương vị từ đơn có tính đối xứng nhau cấu tạo thành, cặp phương vị

từ kép này có chức năng như chủ ngữ của câu tồn tại, phía trước không cần

kết hợp với một danh từ nào để tạo thành cụm từ chỉ thời gian trong cấu trúc

của câu tồn tại, đằng sau nó thường xuyên có thể kết hợp trực tiếp với đoạn B

(động từ), không cần kết hợp với một danh từ ở đằng trước 21.

Ví dụ như các phương vị từ 上(trên), 下(dưới), 前(trước), 后(sau),

左(trái), 右(phải) như trong các câu dưới đây đều xuất hiện thành cặp, trực

tiếp kết hợp với đoạn B của câu tồn tại, tạo tính liên kết văn bản logic:

33) 上合天意,下合民情,实为幸甚!

=> Trên hợp ý trời, dƣới hợp lòng dân, thực là may lắm. (Hồi 22)

34) 上可以保天子,下可以救万民。

=> Trên giúp thiên tử, dƣới giúp muôn dân, đó là cơ hội không mấy khi gặp.

(Hồi 24)

35) 超领军杀出时,操兵四至:前有许褚,后有徐晃,左有夏侯渊,右

有曹洪。

=> Khi Mã Siêu dẫn được quân ra, thì quân Tào đã bốn mặt kéo lại, mé trƣớc

Hứa Chử, mé sau Từ Hoảng, tả có Hạ Hầu Uyên, hữu có Tào Hồng. (Hồi 59)

Nắm vững được ý nghĩa và cách dùng của hệ thống phương vị từ tiếng

Trung cũng như một số quy luật của chúng khi kết hợp với danh từ đằng trước

(và các giới từ thường xuất hiện trong cấu trúc này như Ở/ tại/ từ,…) sẽ hỗ trợ

người học rất nhiều khi phân loại và chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng

21 Thông thường, một phương vị từ phải kết hợp với một danh từ thì mới tạo thành một cụm phương vị từ bảo đảm về mặt cấu trúc để có thể kết hợp với các thành phần chính khác của câu như động từ (vị ngữ).

43

Việt các mô hình câu tồn tại.

2.2. Tình hình sử dụng một số mô hình câu tồn tại điển hình trong “Tam

Quốc diễn nghĩa”

2.2.1. Câu tồn tại chữ 有(Có)

Có thể nói rằng, không chỉ câu tồn tại chữ 有(Có) mà tất cả các loại câu

chữ 有(Có) khác luôn là một trong những loại câu có tần suất sử dụng cao

nhất trong tiếng Trung. Dù là trong văn nói hay văn viết thì đều có khối lượng

rất phong phú. Trong 1493 câu thuộc phạm vi khảo sát và thống kê của chúng

tôi, câu tồn tại chữ 有(Có) đã xuất hiện 1063 lần, chiếm 71,2%.

Cũng như các loại câu tồn tại khác, câu tồn tại chữ 有(Có) mang các ý

nghĩa cơ bản như biểu thị một sự vật, sự việc có và tồn tại thực sự, đằng sau

động từ “Có” có thể mang thêm các trợ từ để chỉ hành động, trạng thái đang

tiếp diễn, đã hoàn thành hoặc đã qua như 着 (zhe), 了 (le), 过 (guo),...

Trong TQDN, dù thuộc mô hình câu tồn tại hoàn chỉnh với đầy đủ các

thành phần hoặc câu tồn tại không hoàn chỉnh với việc tỉnh lược một trong

các đoạn A, đoạn B hoặc đoạn C thì cũng khá dễ dàng để tìm thấy câu tồn tại

chữ有 (Có). Ví dụ:

Mô hình hoàn chỉnh:

36) 篱落之中,有数间茅屋。

=>Sau bức rào, có mấy gian nhà tranh. (Hồi 89)

37) 洞中有山,环抱其洞。

=>Trong động có núi diễu quanh. (Hồi 90)

38) 岸上有不得下船者,争扯船缆。

=>Trên bờ những người chưa được xuống, tranh nhau vịn vào dây neo.

44

(Hồi 13)

Qua khảo sát, chúng tôi còn phát hiện ra rằng, trong TQDN, có rất nhiều

câu bản chất là câu tồn tại chữ有 (Có), nhưng có lẽ để đảm bảo về mặt âm tiết

và cấu trúc của câu, phù hợp với ngôn ngữ của một tác phẩm văn học cổ đại

kinh điển nên động từ有 (Có) đã được tỉnh lược. Bên cạnh đó, dưới góc độ là

một người Trung Quốc, người viết cho rằng trong một số trường hợp nhất

định, việc tỉnh lược động từ有 (Có)như vậy cũng góp phần tạo ra đặc trưng

ngôn ngữ riêng cho tác phẩm. Đặc biệt, người Trung Quốc cũng rất thích

dùng thành ngữ 4 tiếng hoặc các cụm từ có kết cấu 2 tiếng hoặc 4 tiếng, thể

hiện tính đối xứng. Điều này có thể nói là đặc trưng rất dễ nhận biết của tiếng

Trung, có thể bắt gặp trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, mọi loại hình phong cách

văn bản. Chẳng hạn các ví dụ sau:

39) 庄内(有)一老人出迎。

=> Trong nhà một ông già ra đón. (Hồi 28)

40) 坛下(有)二十四人,各持旌旗、宝盖、大戟、长戈、黄钺、白旄、

朱幡、皂纛,环绕四面。

=> Ở dưới chân đàn lại có 24 người vác cờ xí và khí giới đứng quanh bốn

phía.(Hồi 49)

41) 帐后(有)一把火起,各寨兵皆动。

=>Bỗng nhiên sau trại lửa cháy đùng đùng, quân các trại kéo ùa cả ra. (Hồi 59)

42) 中间(有)一条大路。

=> Có một con đường cái đi thông ở giữa.(Hồi 90)

45

Cũng từ các câu dịch của các dịch giả Việt Nam trong các ví dụ trên, có

thể thấy một điểm thú vị là các câu tiếng Việt cũng có thể tỉnh lược từ “có”

hoặc không mà vẫn bảo đảm ý nghĩa “tồn tại” của động từ “có” với bổ ngữ

đằng sau. Mặc dù nhận xét này có phần chủ quan, nhưng dưới góc độ là một

luận văn nghiên cứu sinh thạc sỹ, chúng tôi cho rằng việc tiếp cận câu tồn tại -

một kiểu câu đã rất phổ biến trong nhiều ngôn ngữ - từ góc độ này có thể

mang lại những gợi ý nhất định cho các người nghiên cứu sau này, ví dụ như

sẽ giúp chúng tôi có thêm nhiều đề xuất mới, cũng như sẽ giúp ích cho chúng

tôi trong việc phân tích và khảo sát phương pháp dịch câu tồn tại chữ 有(Có)

ở chương 3 22. Trong quá trình xử lý văn bản dịch, những cách tiếp cận mới

này đôi khi sẽ giúp người dịch có thêm một phương pháp dịch. Bởi vì việc

dịch từ有 (Có)hoặc không, sẽ giúp chúng ta có nhiều cách dịch câu tồn tại đó.

Ví dụ trong câu 49 ở trên sử dụng phương pháp dịch thoát, bản dịch phù hợp

với cách dùng ngôn ngữ của người Việt Nam. Nếu dịch sát theo câu gốc tiếng

Trung thì có thể sử dụng mô hình câu tồn tại hoàn chỉnh để dịch là: “Sau trại//

có// một ngọn lửa cháy lên, quân các trại kéo ùa cả ra”. Hoặc cũng có thể

dùng câu chữ 有(Có) hoàn chỉnh để dịch là: Có một ngọn lửa cháy lên ở đằng

sau trại, quân các trại kéo ùa cả ra. Như vậy, với những câu có mô hình

tương tự, ít nhất chúng ta đã có 3 cách dịch thuật cho một câu tồn tại chữ

有(Có) như vậy. Người viết luận cho rằng đây là những nghiên cứu rất thú vị,

22 Qua tìm hiểu, ở Trung Quốc cũng đã có những nghiên cứu liên quan (như của Wang Zhi Jie - tài liệu đã dẫn), cho rằng những trường hợp như vậy thuộc vào kiểu câu có động từ bị tỉnh lược (do trong ngữ cảnh trên và dưới của đoạn văn đã nhắc đến). Sau khi xem xét kỹ, người viết luận cho rằng có thể áp dụng quan điểm này để triển khai đề tài, nói cách khác có thể coi hiện tượng tỉnh lược động từ 有(Có) hoặc 是(Là) là một hiện tượng ngôn ngữ để nghiên cứu thêm các phương pháp chuyển dịch loại câu này.

46

rất đáng được nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa.

2.2.2. Câu tồn tại chữ 是(Là)

Từ trước đến nay khi nghiên cứu về câu tồn tại, nhiều người thường

không chú trọng vào câu tồn tại có chữ 是(Là), có nhiều trường hợp còn cho

rằng câu tồn tại chữ 是(Là) và câu tồn tại chữ 有(Có) không có nhiều điểm

khác biệt. Thực tế sau khi khảo sát và thống kê tình hình sử dụng câu tồn tại

trong TQDN, chúng tôi cũng nhận thấy rằng số lượng câu tồn tại chữ 是(Là)

ít hơn câu tồn tại chữ 有(Có) rất nhiều, trong phạm vi khảo sát của luận văn,

chỉ có 162 câu tạm thời được chúng tôi xếp vào nhóm câu tồn tại chữ 是(Là)

có mô hình hoàn chỉnh do nó phù hợp về mặt cấu trúc và lý luận của câu tồn

tại, chiếm 10,84%. Xin xem các ví dụ sau:

43) 前面便是博望城,后面是罗川口。

=> Trước mặt là gò Bác Vọng, mé sau là cửa sông La Xuyên. (Hồi 39)

44) 正南三百里,乃是梁都洞。

=> Mé chính nam ba trăm dặm, là động Lương Đô. (Hồi 90)

45) 前面是金环三结元帅大寨,正在山口。

=> Mé trước mặt chính là đại trại của Kim Hoàn Tam Kết nguyên soái, ở vào

giữa cửa núi.(Hồi 87)

Điều này phản ánh thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Trung Quốc, rõ

ràng người Trung Quốc quen dùng câu tồn tại chữ 有(Có) hơn là câu tồn tại

chữ 是(Là) rất nhiều. Là một nghiên cứu sinh người Trung Quốc, người viết

luận hoàn toàn đồng ý với kết luận này.

Chúng tôi cho rằng, câu tồn tại chữ 有(Có) và câu tồn tại chữ 是(Là) cũng

có những điểm khác nhau nhất định. Trước hết là ở khái niệm, định nghĩa câu

47

tồn tại chữ 是(Là). Trong đó điểm dễ nhận thấy nhất, câu tồn tại chữ 是(Là)

mang ý nghĩa phán đoán, quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu chữ

是(Là) rất rộng, không phải chỉ biểu thị ý nghĩa “lệ thuộc, sở hữu” như câu có

từ “Có”. Nó có thể biểu thị sự tồn tại, cũng có thể biểu thị đặc trưng, tính chất

và tình huống, hoàn cảnh của sự vật, hiện tượng 23. Vì vậy, sự vật, sự việc có

thuộc tính “khoảng cách, diện tích, độ cao, độ dài,...” thì đều có thể xuất hiện

trong câu tồn tại chữ 是(Là), tức là phạm vi sử dụng của bổ ngữ dùng trong

câu tồn tại chữ 是(Là) phong phú, đa dạng hơn trong câu tồn tại chữ 有(Có)

rất nhiều. Đặc biệt là ngoài việc biểu hiện ý nghĩa “tồn tại”, nó còn mang ý

phán đoán của người nói. Ví dụ mô hình câu tồn tại chữ 是(Là) hoàn chỉnh:

46) 草堆前面是一所庄院。

=> Trước mặt đống cỏ là một cái trại.(Hồi 3)

47) 急回马时,背后已被木石塞满了归路,中间只有一段空地,两边皆

是峭壁。

=> Lập tức quay ngựa chạy về, té ra mé sau cũng bị đá gỗ chặn lấp mất

đường, ở giữa chỉ còn một khoảng đất trống, hai bên toàn vách núi. (Hồi 101)

Cũng tiếp cận vấn đề từ góc độ phương pháp dịch như với trường hợp của

câu tồn tại chữ 有(Có) đã giới thiệu ở trên, theo chúng tôi thống kê được,

trong TQDN, không phải chỉ có câu tồn tại chữ 有(Có) (và các mô hình câu

tồn tại khác) là có thể tỉnh lược động từ. Động từ “Là” trong câu tồn tại chữ

是(Là) cũng thường xuyên bị tỉnh lược để bảo đảm về mặt âm tiết, đối xứng.

Trong TQDN có thể gặp nhiều các ví dụ kiểu này:

48) 正行间,休问曰:“前至何处?”

23 Hoang Bo Rong, Liao Xu Dong (2002), Ngữ Pháp Hán ngữ hiện đại, tài liệu đã dẫn.

48

鲂曰:“前面(是)石亭也,堪以屯兵。”

=> Khi đang đi Hưu hỏi rằng: Mé trước mặt là xứ nào? Phường nói: Mé trước

là xứ Thạch Đình, nên đóng đồn ở đó. (Hồi 96)

49) 行至决石,两下是山,山边皆(是)芦苇败草,树木丛杂。

=> Khi đến xứ Quyết Thạch, hai bên toàn (là) núi, lau sậy, dây mơ rễ má um

tùm.(Hồi 77)

Đồng thời, những ví dụ trên còn cho thấy rằng, nếu như trong tiếng Trung,

việc lược bớt động từ 是(Là) như vậy cũng không làm ảnh hưởng về mặt ý

nghĩa của cả câu tồn tại đó, tuy nhiên với những câu tương tự trong tiếng Việt

(xin xem các câu dịch) thì đôi khi, bắt buộc phải sử dụng động từ是(Là), nếu

không sẽ làm ý nghĩa và liên kết của cả câu bị ảnh hưởng, như ví dụ 48, người

Việt Nam sẽ không nói là Mé trước mặt xứ nào?

2.2.3. Một số mô hình câu tồn tại khác

a) Câu tồn tại theo cấu trúc “Động từ + Trợ từ 着 (zhe)

Trong TQDN, loại câu này không nhiều, chúng tôi thống kê được chỉ có

49 trên tổng số 1493 câu tồn tại có cấu trúc “Động từ + trợ từ 着 (zhe) (chiếm

3.3%).

Trợ từ động thái 着(zhe) là trợ từ thường gặp và được sử dụng thường

xuyên trong giao tiếp hàng ngày của người Trung Quốc. Nó tuy là hư từ

không có ý nghĩa cụ thể nhưng lại có ý nghĩa ngữ pháp quan trọng, biểu thị

hành động hoặc trạng thái đang tiếp diễn. Ví dụ:

50) 正行间,逢着一哨马军,亦被我杀之,夺了此马:因此得脱。

=> Đi đường lại gặp một tên kỵ mã, tao giết nốt cướp lấy ngựa, bởi thế được

thoát. (Hồi 88)

49

51) 马项下悬着首级一颗。

=> Dưới cổ ngựa treo một cái đầu ngƣời.(Hồi 27)

52) 左右排列着张郃、高览、韩猛、淳于琼等诸将。

=> Đứng xếp hàng hai bên là Trương Cáp, Cao Lãm, Hàn Mãnh, Thuần Vu

Quỳnh và các tướng lĩnh khác.(Hồi 30)

Đáng chú ý là do trợ từ zhe(着) có tác dụng nhấn mạnh sự tiếp diễn của

hành động, trạng thái, vì vậy chúng tôi nhận thấy rằng, nếu bản thân động từ

trong câu tồn tại đã mang ý nghĩa diễn tả hành động đang tiếp diễn thì zhe(着)

có thể tỉnh lược. Ví dụ:

53) 一彪军杀到,为首大将持丈八点钢矛,马项下挂(着)一颗人头。

=> Một toán quân đánh thốc vào giữa trận; tướng đi đầu cầm một ngọn bát xà

mâu, dưới cổ ngựa đeo một cái đầu lâu.(Hồi 92)

b) Câu tồn tại theo cấu trúc “Động từ + bổ ngữ xu hƣớng 出 (chu)”

Một đặc điểm có thể coi là đặc trưng độc đáo của tiếng Trung đó là trong

cấu trúc của một cụm động từ, tuỳ thuộc vào động từ đứng đằng trước mà

đằng sau nó có thể đi kèm nhiều loại bổ ngữ. Chẳng hạn như bổ ngữ kết quả

nêu lên kết quả mà động tác đã sinh ra, nó thường do động từ hoặc tính từ

đảm nhiệm, thường là: 见(thấy), 到(đến), 在(ở/ tại), 着(được), 开(mở),

错(sai), 对(đúng), 完(xong), 好(tốt),.... Hoặc các bổ ngữ xu hướng chỉ hướng

di chuyển của động tác như 来(đến), 去 (đi), 出来(ra),...

Do có ý nghĩa như vậy nên bổ ngữ xu hướng cũng thường xuất hiện sau

động từ của câu tồn tại để làm rõ hơn cho hành động. Ví dụ:

54) 正言间,又撞出一枝军来。赵云拔枪上马看时,面前马上绑着一人

,乃糜竺也。

50

=> Đương nói chuyện, nhìn ra thấy một người bị trói trên lưng ngựa, chính là

My Chúc.(Hồi 41)

55) 忽然间,前面走出来一位老人。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Bỗng nhiên, phía đằng trước có một ông già bước ra.

56) 谁知道,大家在吃饭时,蹦出个小朋友来大喊大闹。(Ngữ liệu trực tiếp)

=> Ai biết được, khi cả nhà đang ăn cơm, một thằng bé nhảy vọt ra kêu khóc ầm ĩ.

Tuy nhiên, sau khảo sát, trong TQDN, câu tồn tại theo mô hình này rất ít,

trong số 1493 câu tồn tại chúng tôi thống kê được, chỉ có duy nhất một ví dụ

sử dụng bổ ngữ kết quả 出 (chu) là ví dụ 54 ở trên. Chúng tôi đã thử tìm mở

rộng ra toàn văn bản với các bổ ngữ xu hướng thường dùng trong tiếng Trung,

nhưng kết quả tìm kiếm cũng khá ít. Vì vậy dạng câu này sẽ không thuộc

phạm vi khảo sát phương pháp dịch của chúng tôi ở chương 3 do không có đủ

cơ sở ngữ liệu để phân tích.

c) Câu tồn tại mở rộng

Trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn phát hiện ra rằng, bên cạnh các

câu tồn tại theo mô hình thông thường (bao gồm cả trường hợp hoàn chỉnh và

trường hợp bị tỉnh lược một trong ba bộ phận hợp thành) thì trong TQDN nói

riêng và trong tiếng Trung nói chung còn tồn tại một dạng mô hình câu tồn tại

không theo khuôn mẫu thông thường mà lại thường có thêm các từ ngữ khác

đi kèm. Chúng tôi thấy đây là một hiện tượng rất thú vị và qua tìm hiểu đã có

người nghiên cứu về vấn đề này. Ví dụ như Wang Zhi Jie, Yan Xiao Li gọi câu

tồn tại kiểu này là Câu tồn tại mở rộng 24 . Chúng tôi cho rằng cách gọi như

vậy là tương đối phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Thêm vào đó,

24 Wang Zhi Jie, Yan Xiao Li (2006), Sự tỉnh lược, mở rộng và biến đổi hình thái của câu tồn hiện trong văn bản, học báo Đại học Nội Mông Cổ, quyển 32, kỳ 4.

51

trong TQDN, những ví dụ như câu 57, 58 dưới đây cũng không phải hiếm

gặp, theo đó việc mở rộng câu tồn tại có thể do các thành phần trong nội bộ

câu tồn tại (thường là các từ, ngữ chỉ thời gian hoặc không gian của đoạn A)

được tăng thêm, mở rộng ra để phù hợp với ngôn ngữ văn học (miêu tả),

nhưng cũng có thể là việc kết hợp thêm các từ, ngữ ở bên ngoài câu tồn tại,

tạo thành một câu dài nhiều thành phần. Việc tăng thêm này làm ngữ nghĩa

của câu tồn tại trở nên phong phú nhưng cũng phức tạp hơn nhiều, nhất là về

cấu trúc của câu. Chúng tôi cho rằng những kiểu câu tồn tại mở rộng này là

một “thử thách” với những người làm công tác dịch thuật.

Ví dụ có thể vừa dùng kết hợp các cụm từ chỉ không gian và thời gian như

các ví dụ dưới đây, dịch giả hầu như phải sử dụng biện pháp dịch thoát bởi

nếu áp dụng theo cách dịch sát đúng cấu trúc thì câu tiếng Việt sẽ không bảo

đảm yêu cầu về tiêu chuẩn phiên dịch:

57) 且说关公正寻思间,忽报有故人相访。

=> Dịch sát (Ngữ đoạn A sau khi dịch có vai trò như một trạng ngữ chỉ thời

gian, nhưng câu dịch sẽ trở thành câu thiếu chủ ngữ): Trong khi Quan Công

đang ngồi nghĩ ngợi, bỗng nhiên báo có người quen đến thăm.

=> Bản dịch (từ câu tồn tại trong bản gốc tiếng Trung, áp dụng mô hình câu

đơn chủ-vị thông thường trong tiếng Việt để dịch): Quan Công đương ngồi

nghĩ ngợi, chợt thấy báo có người bạn cũ đến hỏi thăm. (Hồi 26)

58) 至林下// 追寻时,不见一人。

=> Dịch sát (theo đúng cấu trúc câu tồn tại): Đến dưới rừng, khi truy tìm,

không thấy ai.

52

=> Bản dịch (Chuyển thành kết cấu cụm động từ thông thường, hai hành động

liên tiếp): Đuổi tìm toán quân mã lúc nãy, thì chẳng thấy một người nào nữa.

(Hồi 40)

Một trường hợp khác, đằng trước đoạn A cũng có thể xuất hiện cụm động

từ cũng có chức năng như một trạng ngữ. Những câu tồn tại kiểu này thông

thường không thể dịch theo cách trật tự thông thường, hầu hết người dịch đều

phải thay đổi cấu trúc của câu gốc, lựa chọn một cấu trúc (chủ-vị) thông

thường trong tiếng Việt để dịch. Ví dụ:

59) 忽见// 草坡左侧// 转出个少年将军。

=> Dịch sát: Bỗng thấy, bên trái bờ cỏ, đi ra là một vị tướng trẻ trung.

=> Bản dịch: Bỗng đâu// bên cạnh bờ// có một tướng, người trẻ trung vác

ngọn giáo phi ngựa ra đâm Văn Sú. (Hồi 7)

60) 言未已,只听背后喊声震起,早望见一派火光烧着,随后两边芦苇

亦着。一霎时,四面八方,尽皆是火。

=> Dịch sát: Nói chưa dứt lời, chỉ nghe thấy tiếng hò reo sau lưng, nhìn lên

thấy một đống lửa đang cháy, tiếp đó là hai bên lau sậy. Trong chớp mắt,

bốn phƣơng tám hƣớng đều là lửa.

=>Bản dịch: Nói chưa dứt lời, sau lưng đã có tiếng reo hò ầm ĩ, lửa cháy đùng

đùng; tiếp đó hai bên lau sậy cũng bốc cháy. Chỉ trong chớp mắt, ba bề bốn

bên biến thành biển lửa. (Hồi 39).

61) 望见江南一带皆是连城。

=> Dịch sát: Trông sang một dải Giang Nam, đều là thành trì.

=> Bản dịch: Trông sang một dải Giang Nam thấy thành trì liên tiếp

nhau.(Hồi 86)

53

Đứng dưới góc độ phương pháp dịch thuật, việc xử lý những kiểu câu tồn tại

mở rộng này là khá phức tạp. Do kiểu câu này không phải kiểu câu tồn tại điển

hình, bản thân cấu trúc của nó phải bổ sung thêm nhiều thành phần khác ngoài các

thành phần của câu tồn tại, thêm vào đó giới hạn của một luận văn thạc sĩ không

cho phép, vì vậy ở chương 3 dưới đây, chúng tôi cũng sẽ không đi sâu phân tích

phương pháp dịch của các câu tồn tại mở rộng này nữa. Chúng tôi nghĩ rằng việc

nghiên cứu về câu tồn tại mở rộng, là một gợi mở mang tính tham khảo và ứng

dụng thực tiễn cho những người nghiên cứu về câu tồn tại.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong chương 2, để tạo cơ sở cho việc khảo sát, so sánh, đối chiếu phương

pháp dịch Trung - Việt các câu tồn tại trong TQDN nói riêng và trong hai

ngôn ngữ nói chung, chúng tôi đã cố gắng đưa ra những thống kê sơ bộ nhất

về tình hình sử dụng các mô hình câu tồn tại trong tác phẩm TQDN, bao gồm

câu tồn tại điển hình như câu chữ 有(Có) và câu chữ 是(Là).

Một điểm đáng chú ý là khối lượng phương vị từ được dùng trong TQDN

khá lớn và phong phú, phức tạp (1443 lần xuất hiện). Việc nắm được cách

dùng của hệ thống phương vị từ này bên cạnh nắm được cách dùng của các

đoạn B và đoạn C của câu tồn tại sẽ giúp chúng tôi đưa ra được những kết

luận mang tính quy tắc về phương pháp dịch Trung - Việt câu tồn tại.

Kết quả khảo sát của chúng tôi với các mô hình câu tồn tại điển hình có

thể khái quát như bảng sau, trong đó đáng chú ý có thể thấy rằng câu tồn tại

54

chữ 有(Có) chiếm số lượng rất lớn (71,2%):

STT Kiểu câu tồn tại Số lƣợng Tỷ lệ %

1 Câu tồn tại chữ 有(Có) 1063 71,2%

2 Câu tồn tại chữ 是(Là) 162 10,84%

3 Câu tồn tại có động từ +trợ từ着 (zhe) 49 3,3%

4 Câu tồn tại có động từ + bổ ngữ xu hướng 出(chu) 01 0,06%

Tổng 1493 100%

55

Bảng 2.2. Kết quả khảo sát các kiểu câu tồn tại trong TQDN.

CHƢƠNG 3: KHẢO SÁT CÁCH CHUYỂN DỊCH CÂU TỒN TẠI

TRONG TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA” TỪ TIẾNG TRUNG

SANG TIẾNG VIỆT

3.1. Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại có mô hình hoàn chỉnh25

Câu tồn tại định vị (câu tồn tại hoàn chỉnh) trong tiếng Trung và tiếng Việt

giống nhau cả về mặt cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa biểu hiện. Sự giống

nhau về mặt cấu trúc cú pháp chủ yếu là do hai ngôn ngữ cùng thuộc loại hình

đơn lập, có nhiều đặc trưng ngữ pháp giống nhau. Còn sự giống nhau về

nghĩa biểu hiện có thể nói là do từng bộ phận tạo thành của câu tồn tại định vị

cũng có rất nhiều điểm giống nhau, đặc biệt là phần vị tố, tức là các động từ

xuất hiện trong câu tồn tại.

Những sự giống nhau này là điều kiện thuận lợi cho chúng tôi khi đối

chiếu việc chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt mô hình câu tồn tại này.

Sự thuận lợi trước hết mà chúng tôi nhận thấy đó là không quá khó để hiểu

được ngữ nghĩa của các đoạn A, B, C, cũng không quá khó trong việc phân

chia các thành phần này. Bởi vì cấu tạo của đoạn A hoặc đoạn B và đoạn C

trong hai ngôn ngữ đều giống nhau, nếu có khác cũng chỉ là khác về mặt sử

dụng thuật ngữ (chẳng hạn như trong tiếng Việt, có thể gọi bộ phận từ, ngữ

chỉ không gian/ thời gian đứng đầu câu tồn tại (đoạn A) là bộ phận “gia ngữ”.

Hệ thống phương vị từ cũng tương đồng nhiều mặt cả về ý nghĩa lẫn cách sử

dụng. Vì vậy với một câu tồn tại theo dạng này, các dịch giả luôn ưu tiên lựa

chọn phương pháp dịch sát, về cơ bản cố gắng giữ nguyên cấu trúc và ý nghĩa

25 Tương đương với khái niệm “Câu tồn tại định vị” trong tiếng Việt.

56

của bản gốc.

Như các ví dụ 70 - 72 trong bảng dưới đây, người dịch chủ yếu sử dụng

mô hình câu tồn tại định vị (câu tồn tại hoàn chỉnh) trong tiếng Việt “Gia ngữ

câu (từ ngữ chỉ không gian/ thời gian) + vị tố (động từ) + bổ ngữ (từ hoặc

cụm danh từ), hay nói cách khác, là mô hình câu gồm ba đoạn A, B, C đầy đủ

để chuyển dịch từ tiếng Trung sang Việt.

Đoạn A + Đoạn B + Đoạn C

STT (Từ chỉ không (Cụm động từ) (Cụm danh từ)

Phƣơng gian/ thời gian)

pháp dịch Vị trí Quan hệ tồn tại Chủ thể tồn tại

一将,拦住去路 62) Câu tiếng 旁边 闪过

Trung 。

Dịch thoát Bên cạnh, // một tướng// xông ra chặn đường.(Hồi 90)

63) Câu tiếng 两肋下 露出 生鳞甲。

Trung

Dịch thoát Mai vây dưới nách// lộ cả// ra ngoài.(Hồi 90)

烟火之物,藏在 64) Câu tiếng 口内 装

Trung 军中。

Dịch thoát Con nào cũng chứa sẵn đồ khói lửa, giấu trong xe.

(Hồi 90)

一人,乃孔明也 65) Câu tiếng 车中 端坐

Trung 。

Dịch thoát Trong xe// có // một người ngồi chễm chệ, chính là

57

Khổng Minh.

一人,手执长竿 66) Câu tiếng 前左 立

Trung 。

Dịch thoát + Mé trước// , một người// đứng bên tả, cầm cái cần

dịch sát dài.(Hồi 49)

兵器,娇客不安 67) Câu tiếng 房中 摆列

Trung ,今且去之。

Dịch thoát Tân lang trông thấy khí giới có vẻ không an tâm, xin

hãy cho cất cả đi. (Hồi 55)

68) Câu tiếng 袁术背后 转出 骁将俞涉曰:“小

Trung 将愿往。

Dịch thoát Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du

Thiệp bước ra thưa rằng: - Tiểu tướng xin ra.(Hồi 5)

69) Câu tiếng 韦背上 又中 一枪。

Trung

Dịch thoát Điển Vi lại bị một mũi giáo đâm trúng giữa lưng.(Hồi

16)

城上 70) Câu tiếng 插 白旗,大书„义‟字

Trung ,便是暗号。

Dịch sát Trên thành// cắm// lá cờ trắng, viết to một chữ "Nghĩa"

làm mật hiệu".(Hồi 12)

银矿,故名为银 71) Câu tiếng 山上 出

Trung 坑山。

Dịch sát Trên núi// có// mỏ bạc, cho nên gọi là Ngân Hàng.

58

72) Câu tiếng 床头 堆积 皆黄卷。

Trung

Dịch sát Đầu giường// chồng chất// nhiều sách lạ.

Bảng 3.1. Cách chuyển dịch Trung - Việt mô hình câu tồn tại định vị trong

tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”

Bảng trên cũng cho thấy, các thành phần cấu tạo đoạn A trong mô hình

câu tồn tại hoàn chỉnh tiếng Trung và tiếng Việt đều phong phú như nhau.

Ngoài các từ/ngữ chỉ thời gian thì phổ biến nhất thì thường do một cụm

phương vị từ (danh từ + phương vị từ) đảm nhiệm như旁边 (bên cạnh), 车中

(trong xe), 山上 (trên núi), 床头 (đầu giường),… Điểm khác nhau cơ bản

nhất đó là khi dịch sang tiếng Việt, cấu trúc của đoạn A trong tiếng Việt sẽ là

(Ở/ tại/ từ) + Phương vị từ + danh từ, còn trong tiếng Trung là (Ở/ tại/ từ) +

danh từ + phương vị từ.

Về thành phần vị tố, cả trong câu tiếng Trung và câu tiếng Việt đều giống

nhau trước hết ở chỗ các động từ/ cụm động từ đều thường mang ý nghĩa tồn

tại như 端坐 (ngồi chễm chệ), 堆积 (chồng chất), 插(cắm), 立(đứng),... đồng

thời có thể thấy những động từ này thường là ngoại động từ.

Cần lưu ý nhất trong mô hình này theo chúng tôi chính là ở đoạn C, có vai

trò là bổ ngữ của động từ đằng trước nó, do danh từ hoặc cụm danh từ tạo

thành. Sau khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng bộ phận này, nhất là khi kết hợp

với đoạn B thì chính là yếu tố quyết định cách thức chuyển dịch của câu tồn

tại đó, cũng là yếu tố khiến cho trong rất nhiều trường hợp, người dịch không

thể áp dụng mô hình câu tồn tại trong tiếng Việt để dịch bản gốc, tức là không

thể áp dụng biện pháp dịch sát mà bắt buộc phải dùng cách dịch thoát hoặc

59

kết hợp dịch thoát với dịch sát như trong rất nhiều trường hợp trong tác phẩm

TQDN. Trong nhiều trường hợp nếu không xử lý tốt bộ phận bổ ngữ này thì

sẽ rất khó để đạt được một bản dịch “Tín - Đạt - Nhã”.

Diệp Quang Ban (2005) cho rằng, danh từ chỉ chủ thể tồn tại trong các

kiểu câu tồn tại định vị nên được coi là bổ ngữ về mặt cấu trúc cú pháp mà

không nên coi là “chủ ngữ đảo trí” - tức là chủ ngữ giả của câu tồn tại mà

chúng tôi đã giới thiệu ở phần trên. Quan điểm này xuất phát từ việc tiếng

Việt không phải ngôn ngữ biến hình và trật tự từ là phương thức ngữ pháp

quan trọng của tiếng Việt, quyết định ý nghĩa của câu 26 . Đồng tình với quan

điểm này, các tác giả như Nguyễn Văn Hiệp, Đỗ Hồng Dương cũng cho rằng

ngữ đoạn đi sau là bổ ngữ 27.

Mặc dù hướng nghiên cứu của đề tài không phải là về thành phần câu, và

như ở chương 1 và 2 chúng tôi cũng đã đưa ra quan điểm của luận văn là

không thiên về quan điểm coi câu tồn tại là một câu chủ-vị bình thường hoặc

là một câu vô chủ, trong đó đoạn A có vai trò là chủ ngữ giả. Tuy nhiên ở đây,

nếu bắt buộc phải lựa chọn một cơ sở lý thuyết để làm căn cứ xây dựng mô

hình tương đương khi chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt, thì chúng

tôi cho rằng, nên coi câu tồn tại là một câu có chủ ngữ xuất hiện ở đầu câu

(đoạn A) và phần bổ ngữ (đoạn C) đứng sau vị tố (đoạn B), không nên coi là

“chủ ngữ đảo trí”, tức là phần chủ ngữ đã bị ẩn đi bởi vì đó là “vị trí hợp pháp

của danh từ - chủ thể tồn tại trong kiểu câu tồn tại” (Diệp Quang Ban, 2005).

Trong các tài liệu tiếng Trung, đoạn A được coi là chủ ngữ giả của câu tồn tại.

26 Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, trang 179. 27 Nguyễn Văn Hiệp (2011), Cú pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục; Đỗ Hồng Dương (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lí thuyết điển mẫu, Luận án tiến sĩ.

60

Trong các tài liệu tiếng Việt, dù chưa thống nhất về việc gán nhãn cú pháp

cho đoạn A và đoạn C, nhưng chúng tôi theo quan điểm của tác giả Đỗ Hồng

Dương28 khi coi đoạn A là chủ ngữ, đoạn C là bổ ngữ. Khi đi từ góc độ này,

chúng tôi cho rằng sẽ dễ hiểu và thuận lợi hơn rất nhiều cho người dịch.

Tất nhiên, dưới góc độ khảo sát phương pháp dịch thuật, chúng tôi cho

rằng phần bổ ngữ này, là một yếu tố quan trọng giúp người dịch có thể áp

dụng nhiều cách dịch khi tiếp xúc một văn bản gốc. Ví dụ như với các câu 70,

71, 72 trong bảng 3.1 ở trên, ngoài cách dịch sát là áp dụng mô hình câu tồn

tại định vị tiếng Việt để dịch câu gốc cũng là một câu tồn tại trong tiếng Trung

như vậy, chúng ta còn có thể áp dụng phương pháp dịch thoát, tức là áp dụng

mô hình câu đơn thông thường trong tiếng Việt (Câu chủ - vị) để dịch là:

70) Trên thành// cắm lá cờ trắng, viết to một chữ "Nghĩa" làm mật hiệu".

=> Dịch thoát: Một chữ “Nghĩa” làm mật hiệu// viết trên lá cờ trắng cắm ở

trên thành. (Dấu // để ngăn cách hai bộ phận chủ ngữ và vị ngữ của câu).

71) Trên núi// có// mỏ bạc, cho nên gọi là Ngân Hàng.

=> Dịch thoát: Núi này được gọi là núi Ngân Hàng// vì có mỏ bạc ở trên núi.

73) Đầu giường// chồng chất nhiều sách lạ.

=> Dịch thoát: Nhiều sách lạ chồng chất (ở/ trên) đầu giường.

Tuy áp dụng cách dịch thoát, sử dụng mô hình câu chủ - vị thông thường

trong tiếng Việt cũng vẫn giữ được nghĩa của câu và không sai về mặt cấu

trúc ngữ pháp. Nhưng rõ ràng rằng bản dịch như vậy chưa thể đạt tới tiêu

chuẩn “Nhã”. Vì tính chất đặc biệt của câu tồn tại cho nên dù ngữ pháp tiếng

Việt và tiếng Trung có nhiều giống nhau nhưng việc lựa chọn được một mô

28 Đỗ Hồng Dương, Về một kiểu câu Có +X trong tiếng Việt, tài liệu đã dẫn.

61

hình câu tồn tại hoàn toàn tương đương trong hai ngôn ngữ để chuyển dịch

hoàn toàn không dễ. Bởi vì sự tương đương này ngoài mặt cấu trúc còn chịu

ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác như thói quen sử dụng ngôn ngữ, tư tưởng

văn hoá, phong tục tập quán,... Chẳng hạn, trong quá trình thống kê tài liệu,

chúng tôi đã gặp rất nhiều câu trong nguyên tác là các câu phức hoặc câu

ghép rất dài, cấu tạo nhiều cấp bậc, nhưng khi chuyển dịch sang tiếng Việt,

thông thường dịch giả phải chia thành nhiều câu đơn nhỏ hơn. Hoặc khi dịch

phải bổ sung thêm một số từ, ngữ thì mới phù hợp với thói quen và văn hoá

của người Việt Nam. Kết quả khảo sát về phương pháp dịch của 1493 câu tồn

tại cho thấy rằng, chỉ có 74 câu (chiếm ~5%) 29 là dịch giả lựa chọn phương

thức dịch sát, còn lại chiếm tới 95% là các câu được xử lý theo hình thức dịch

thoát, hoặc kết hợp dịch thoát với dịch sát, trong đó phần câu tồn tại có thể

dịch sát được, thông thường cũng chỉ là một phân câu (tiểu cú) trong một câu

phức dài (thuộc loại hình câu tồn tại mở rộng), khi dịch sang tiếng Việt, dịch

giả thường chia câu gốc thành nhiều câu đơn nhỏ hơn để dịch. Chúng tôi cho

rằng, kết quả này cũng không có gì quá “kỳ lạ” bởi vì vốn dĩ trong một tác

phẩm văn học, giữa các câu, các đoạn đều phải có sự liên kết chặt chẽ, hợp lý

cả về mặt trình tự thời gian lẫn nội dung, nhất là với một tác phẩm kinh điển

như TQDN, thì việc chuyển dịch đầy đủ, bảo đảm được các yêu cầu về Tín-

29 Ngay cả trong 5% câu tồn tại áp dụng theo phương pháp dịch sát này cũng chỉ mang tính tương đối, tức là người viết tạm chấp nhận bản dịch và bản gốc đều sử dụng các mô hình câu tồn tại tương đương (về mặt cấu trúc, vị trí của các đoạn A, B, C). Còn nếu ở những nghiên cứu khác, khi đối tượng nghiên cứu của luận văn không phải là khảo sát phương pháp dịch tổng thể câu tồn tại mà là phương pháp dịch của từng đoạn A, B, C, thậm chí là phương pháp dịch của từng bộ phận cấu thành nên đoạn A, B, C (nhất là phần từ, ngữ chỉ không gian/ thời gian..), thì tỷ lệ của phương pháp dịch sát sẽ là 0% nếu phạm vi ngữ liệu là những tác phẩm văn học cổ đại như Tam Quốc Diễn nghĩa.

62

Đạt - Nhã nhưng lại hoàn toàn không được thay đổi trật tự, cấu trúc câu,... thì

là một việc không thể do ngôn ngữ sử dụng trong TQDN không chỉ là ngôn

ngữ viết, mà rất nhiều trong đó là tiếng Hán cổ, trong câu thường xuyên xuất

hiện các thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ, các cụm từ cố định (thông thường là 4

chữ) mang đặc trưng riêng của người Trung Quốc. Người viết luận cho rằng,

đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất khi dịch văn bản theo phong

cách văn học nghệ thuật. Theo đó, người dịch sẽ phải làm được nhiệm vụ “tái

sáng tạo” văn bản gốc. Dạng văn bản này khác với văn bản theo phong cách

hành chính công vụ hoặc văn bản theo phong cách khoa học, đòi hỏi độ chính

xác tuyệt đối, chặt chẽ về liên kết, trình tự, cấu trúc, vì vậy thông thường có

thể áp dụng phương pháp dịch sát để xử lý văn bản gốc.

Ví dụ câu 68 trong bảng 3.1, nguyên bản chỉ là một câu tồn tại hoàn

chỉnh thông thường của tiếng Trung. Nhưng nếu áp dụng đúng mô hình câu

tồn tại định vị trong tiếng Việt để chuyển dịch là “Sau lưng Viên Thuận// bước

ra// tướng lực lưỡng Du Thiệp, thưa rằng: - Tiểu tướng xin ra!” thì tuy không

sai về mặt cấu trúc ngữ pháp, nhưng lại không thể có tác dụng nhấn mạnh sự

xuất hiện đúng lúc của viên tướng này (đặt trong ngữ cảnh của cả đoạn). Vì

vậy dịch giả đã xử lý rất tốt mục đích nhấn mạnh này bằng việc tách bộ phận

bổ ngữ trong câu gốc ra thành hai cú nhỏ (có một tướng lực lưỡng, tên là Du

Thiệp bước ra ) để mô tả rõ hơn, nhấn mạnh sự xuất hiện của viên tướng này:

68) 袁术背后// 转出// 骁将俞涉曰:“小将愿往。”

=> Sau lưng Viên Thuật, có một tướng lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra

thưa rằng: - “Tiểu tướng xin ra.”(Hồi 5)

Tương tự, ở những câu như câu 69, người Việt Nam sẽ ít khi nói là “Trên

63

lưng Điển Vi lại trúng một mũi tên”, vì vậy cách dịch thoát “Điển Vi lại bị

một mũi giáo đâm trúng giữa lưng” là cách dịch rất hoàn hảo.

Chính nhờ đối chiếu các ví dụ kiểu này, chúng tôi rút ra được một kết luận thú

vị đó là: Nếu chủ thể tồn tại (chủ thể logic) là tác nhân gây ra động tác ở đoạn B,

và lại có mối quan hệ mật thiết với từ chỉ địa điểm ở đoạn A (vị trí trực tiếp nơi

xảy ra hành động), chẳng hạn như các câu 68, chủ thể của động tác “xông ra” là

“một viên tướng”; hay câu 63 thì chủ thể của hành động “lộ ra” là “mai vây dưới

nách”, hoặc câu 65 thì chủ thể của hành động “ngồi chễm chệ” chính là “khổng

Minh” (câu 65),… thì với những câu như thế này, thông thường người Việt Nam

sẽ quen sử dụng cấu trúc điển hình của ngữ pháp tiếng Việt (Chủ ngữ - vị ngữ - bổ

ngữ) thay vì dùng cấu trúc câu tồn tại hoàn chỉnh như trong tiếng Trung Quốc.

Tức là thông thường những câu có đặc điểm kiểu như các câu ví dụ này thì bắt

buộc phải dùng phương pháp dịch thoát, nhiều khi còn phải thêm, bớt, thay đổi

các cấu trúc nhỏ của từng bộ phận của câu tồn tại mới có thể đưa ra bản dịch

phù hợp với thói quen của người Việt Nam. Ngược lại, khi đối tượng gây ra

hành động (chủ thể của đoạn B) không có mối quan hệ trực tiếp với chủ thể

logic như vậy (như các câu khác) thì cách chuyển dịch cũng linh hoạt hơn

nhiều,.... Người dịch có thể dịch thoát, cũng có thể dịch sát hoặc kết hợp mà

ý nghĩa của câu cũng không thay đổi quá nhiều. Đây là một phát hiện khá

thú vị mà chúng tôi cho rằng có thể coi là một quy tắc khi dịch câu tồn tại

định vị từ tiếng Trung sang tiếng Việt.

Ngoài ra, dựa trên kết quả thống kê được ở Chương 2, chúng tôi cũng

muốn nói thêm về cách chuyển dịch mô hình câu tồn tại chữ 有(Có) và mô

hình câu tồn tại chữ 是(Là), nhất là mô hình câu tồn tại chữ 有(Có). Do tỷ lệ

64

sử dụng của kiểu câu này trong TQDN rất lớn (chiếm 71,2%). Mặc dù về bản

chất các động từ “Có” và động từ “Là” vẫn được coi là một thành phần vị tố

(đoạn B - (cụm) động từ), nghĩa là xét về mặt cấu trúc, chúng có vai trò và

chức năng tương đương như bất cứ một động từ nào khác trong mô hình câu

tồn tại định vị nói riêng và các mô hình câu tồn tại khác nói chung.

3.1.1. Khảo sát cách chuyển dịch câu tồn tại chữ 有(Có)

Câu tồn tại chữ 有(Có) chiếm số lượng rất lớn theo kết quả khảo sát của

chúng tôi. Trong1493 câu thuộc phạm vi khảo sát, câu tồn tại chữ 有(Có) đã

xuất hiện 1063 lần, chiếm 71,2%. Trước hết xem bảng ví dụ sau:

STT

Đoạn A

Đoạn C

Phƣơng pháp dịch

Chủ thể tồn tại

Vị trí

+ Có + (Đoạn B) Quan hệ tồn tại 有

山,环抱其洞。

洞中

73) Câu tiếng Trung Dịch sát

二十四人,皂衣跣

Trong động// có// núi diễu quanh. (Hồi 90) 亦有 左右

74) Câu tiếng Trung

足,披发仗剑,拥 车而来。

Dịch sát

Tả hữu// hai mươi bốn người// đi hộ vệ, y như đám trước. 两岸

桃树。

75) Câu tiếng Trung Dịch thoát Hai bên bờ toàn là cây đào.(Hồi 90)

前面山谷中, 隐隐有

杀气起。

76) Câu tiếng Trung Dịch sát

皆有门有户。

77) Câu tiếng Trung

Trong hang núi, về mé trước mặt kia,// thấp thoáng có // sát khí bốc lên. 但见四面八方 , Trông xa bốn mặt tám phương// đều có// cửa vào ra. (Hồi 84 ) 眼目中

微有

Dịch sát + thoát 78) Câu tiếng Trung

光芒,手指魏延大 骂。

Dịch thoát Mắt nhấp nhánh như ánh chớp, trỏ tay sang Ngụy Diên mà

65

mắng.(Hồi 90) 岸上

79) Câu tiếng Trung

不得下船者,争扯 船缆。

Dịch thoát

Trên bờ những người chưa được xuống, tranh nhau vịn vào dây neo.(Hồi 13) 内

80)

Câu tiếng Trung

困乏者,将甲脱下 。

Tên nào mệt mỏi lắm thì cởi áo giáp.(Hồi 90) 车上

还有

二位夫人。

Dịch thoát 81) Câu tiếng Trung Dịch thoát Còn hai vị phu nhân ngồi trên xe.(Hồi 27)

此间

82) Câu tiếng Trung

一人,乃曹操敬慕 者,可以为使。

Dịch thoát Ở đây có một ngƣời Tào Tháo rất kính mến, có thể đảm

nhận vịêc ấy được.

Bảng 3.2. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại chữ 有(Có)

Các ví dụ trong bảng 3.2. cho thấy rằng, việc chuyển dịch từ Trung sang

Việt câu tồn tại chữ 有(Có) khi đầy đủ các bộ phận (vẫn thuộc mô hình câu

tồn tại định vị) không có nhiều khác biệt so với việc chuyển dịch một mô hình

câu tồn tại định vị thông thường. Bởi vì về bản chất, động từ有(Có) là bộ

phận vị từ, có quan hệ tồn tại với bổ ngữ. Vì vậy khi dịch sang tiếng Việt, dịch

giả cũng có thể lựa chọn linh hoạt các biện pháp dịch sát, dịch thoát.

Dù vậy, quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng, do động từ有(Có)là

một ngoại động từ có ý nghĩa rất cụ thể, vì vậy thành phần bổ ngữ đằng sau

nó cũng thường mang ý nghĩa cụ thể. Nếu bổ ngữ chỉ do một danh từ (một từ)

cụ thể đảm nhiệm, thì thường dịch giả sẽ dịch trực tiếp cấu trúc “有(có) +

danh từ”, ví dụ như ―có núi, có sát khí, có cửa vào ra, có (là) cây đào, có một

người‖. Còn khi bổ ngữ là một cụm danh từ, có cấu trúc nhiều bậc và khá

66

phức tạp, như trong các ví dụ 79, 80 ở bảng 3.2, bổ ngữ do các cụm danh từ

tạo thành như不得下船者 (những người chưa được xuống), 困乏者(những

người mệt mỏi),... thì thường người dịch sẽ phải thay đổi, áp dụng nhiều hình

thức dịch thuật như dịch đảo, dịch thêm, dịch gộp,... rồi mới chuyển dịch.

Đồng thời, như trong chương 2 chúng tôi đã chỉ ra, người Trung Quốc khi

sử dụng câu tồn tại chữ 有(Có) thì thường có thói quen lược bỏ vị tố有(Có).

Nhất là với ngôn ngữ văn bản viết và thuộc lĩnh vực phong cách văn học cổ

đại như TQDN thì chúng tôi nhận thấy rằng, 有(Có) thường xuyên bị lược bớt

trong nguyên bản. Trường hợp này nếu xét theo quy tắc kết cấu, thì sẽ coi loại

câu tồn tại không có vị tố有(Có) thành câu tồn tại không hoàn chỉnh dưới đây,

mà không còn là câu tồn tại định vị đủ ba thành phần A, B, C nữa.

Tuy nhiên quan điểm của người viết cho rằng không nên phân chia như

vậy, bởi vì về bản chất việc lược bớt vị tố有(Có)này chỉ vì nó phù hợp với

thói quen sử dụng ngôn ngữ của người Trung Quốc cũng như phù hợp với

thói quen của các nhà văn khi sáng tác. Nhưng dù không có nó thì dựa theo

quan hệ tồn tại với bộ phận đoạn C (danh từ) đằng sau, chúng ta vẫn hiểu và

xác định được nó vẫn là câu tồn tại chữ 有(Có). Vì vậy với trường hợp lược

bớt chữ 有(Có) và chữ 是(Là) dưới đây, nếu thành phần đoạn A và đoạn C

vẫn đầy đủ, chúng tôi vẫn xếp loại câu này là câu tồn tại định vị (hoàn chỉnh).

Xem các ví dụ sau:

83) 班内// (有)// 一人拜伏于阶下。

=> Có một ngƣời ở dưới thềm bước ra.(Hồi 80)

84) 座上// (有)// 一人推案直出,立于筵前。

=> Bỗng có một ngƣời ngồi trong yến tiệc đẩy ghế đứng dậy.(Hồi 3

67

85) 庄内// (有)// 一老人出迎。

=>Trong nhà// (có)// một ông già ra đón. (Hồi 28)

86) 帐后// (有)// 一把火起,各寨兵皆动。

=>Bỗng nhiên sau trại// (có)// lửa cháy đùng đùng, quân các trại kéo ùa cả

ra. (Hồi 59)

87) 马腾急拨马回时,两下喊声又起:左边(有)许褚杀来,右边(有)夏侯渊

杀来,后面又是徐晃领兵杀至,截断西凉军马,将马腾父子三人困在垓心

=> Mã Đằng vội vàng quay ngựa chạy về, thì hai bên tiếng reo ầm ầm nổi

dậy, bên tả có Hứa Chử, bên hữu có Hạ Hầu Uyên, mé sau có Từ Hoảng đuổi

đến, cắt đôi quân mã Tây Lương, vây chặt ba cha con Mã Đằng vào giữa.

(Hồi 57)

Các câu dịch tiếng Việt cho thấy, dù động từ “Có” có xuất hiện hay không,

thì bản chất khi mối quan hệ trong câu chỉ quan hệ tồn tại, sở hữu thì những

câu tồn tại kiểu này vẫn nên được xếp vào là câu tồn tại chữ 有(Có) vì nó bảo

đảm về mặt cấu trúc, hình thức của một câu tồn tại tiếng Trung. Đồng thời, từ

việc đối chiếu với bản dịch, điều này có lẽ cũng đúng với cả câu tồn tại chữ

有(Có) trong tiếng Việt. Ví dụ như các câu ở trên, vị từ “Có” hoàn toàn có thể

lược bớt mà ý nghĩa của câu không hề thay đổi (ngay cả khi câu gốc không

dùng động từ “有”, thì khi dịch tác giả vẫn sử dụng động từ “Có”), vẫn bảo

đảm được tiêu chuẩn “Tín - Đạt - Nhã” trong quá trình chuyển dịch.

3.1.2. Khảo sát cách chuyển dịch Câu tồn tại chữ 是(Là)

Mặc dù không chiếm số lượng lớn trong TQDN, toàn văn bản chỉ có 162

câu tồn tại chữ 是(Là) theo mô hình hoàn chỉnh (10,84%). Nhưng qua khảo

68

sát cách chuyển dịch, luận văn cũng rút ra được một số nhận xét sau:

STT Đoạn A (Đoạn C) Bổ ngữ

Phƣơng pháp dịch

Vị trí Chủ thể tồn tại

+ Là + (Đoạn B) Quan hệ tồn tại

正南三百里, 乃是 梁都洞。

88)

Câu tiếng Trung Dịch sát

Mé chính nam ba trăm dặm,// là // động Lương Đô. (Hồi 90) 前面 是

89) Câu tiếng Trung 金环三结元帅大寨 ,正在山口。

Dịch sát

Mé trước mặt chính // là// đại trại của Kim Hoàn Tam Kết nguyên soái, ở vào giữa cửa núi.(Hồi 87) 一所庄院。 草堆前面 是

90) Câu tiếng Trung Dịch sát

=>Trước mặt đống cỏ// là// một cái trại.(Hồi 3) 车中 原来皆是 火药,一齐烧着。

91) Câu tiếng Trung Dịch thoát 92) Câu tiếng Trung Trong củi toàn // là // thuốc súng nổ tứ tung.(Hồi 90) 预先造下的火炮, 车中油柜内, 皆是 名曰„地雷‟ 。

Dịch thoát

Trong xe // toàn // những quả pháo ta chế sẵn ở nhà, gọi là địa lôi.(Hồi 90)

Bảng 3.3. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại chữ 是(Là)

Như chúng ta đã biết, câu tồn tại chữ 有(Có) và câu tồn tại chữ 是(Là) có

một điểm chung cơ bản nhất đó chính là bản thân động từ “Có” và “Là” đều

biểu thị mối quan hệ tồn tại, vì vậy bổ ngữ xuất hiện đằng sau “Có” và “Là”

thông thường đều là những danh từ mang ý nghĩa xác định, chỉ sự tồn tại rõ

ràng. Vì vậy từ các ví dụ trong bảng 3.3, có thể thấy rằng cách dịch các câu

tồn tại chữ 是(Là) cũng gần như giống hoàn toàn với cách dịch câu tồn tại chữ

69

有(Có). Đồng thời từ đây cũng dễ nhận thấy rằng câu chữ 是(Là) nói chung

và câu tồn tại chữ 是(Là) nói riêng trong tiếng Việt có cấu trúc ngữ pháp và

cách sử dụng rất giống với câu chữ 是(Là) trong tiếng Trung (bao gồm câu

tồn tại chữ 是(Là)).

Tuy nhiên bên cạnh đó, hai kiểu câu này cũng có nhiều điểm khác nhau.

Sự khác nhau cơ bản nhất là bản thân động từ “Có” chỉ mang ý nghĩa “tồn tại,

sở hữu”, còn động từ是(Là) thì không mang ý nghĩa sở hữu nhưng lại mang ý

nghĩa phán đoán, vì vậy những bổ ngữ (đoạn C) có thể đi sau vị tố 是(Là)

cũng nhiều hơn với vị tố 有(Có). Các bổ ngữ này vừa có thể chỉ sự tồn tại,

vừa có thể là những từ chỉ đặc trưng, tính chất và tình huống, hoàn cảnh của

sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn những bổ ngữ là danh từ chỉ sự vật, sự việc có

thuộc tính “khoảng cách, diện tích, độ cao, độ dài,...” thì có thể xuất hiện

trong câu tồn tại chữ 是(Là) và không thể xuất hiện trong câu tồn tại chữ

有(Có).

Xét về trường hợp tỉnh lược vị tố “Là”: Một điểm tương đồng giữa câu

tồn tại chữ 是(Là) của cả tiếng Trung và tiếng Việt đó là, cũng giống như

trường hợp của câu tồn tại chữ 有(Có), động từ是(Là) cũng thường xuyên bị

lược bỏ để bảo đảm về mặt âm tiết, đối xứng. Ví dụ:

93) 正行间,休问曰:“前至何处?”鲂曰:“前面//(是)//

石亭也,堪以屯兵。

=> Khi đang đi Hưu hỏi rằng: - Mé trước mặt là xứ nào?

Phường nói: Mé trước// là// xứ Thạch Đình, nên đóng đồn ở đó. (Hồi 96)

94) 行至决石,两下// 是// 山,山边// 皆(是)// 芦苇败草,树木丛杂。

=> Khi đến xứ Quyết Thạch, hai bên toàn// (là)// núi, lau sậy, dây mơ rễ má

70

um tùm.(Hồi 77)

Đặc biệt, sau khi đối chiếu bản dịch tiếng Việt và bản tiếng Trung, có thể

nhận thấy rằng khi bị lược bỏ vị tố “Có” hoặc “Là”, đôi khi người dịch có thể

bị khó khăn trong việc xác định dùng câu chữ 有(Có) hay câu chữ 是(Là) để

chuyển dịch. Đó là khi mối quan hệ giữa bộ phận B với C (động từ và bổ ngữ)

đều cùng chỉ quan hệ tồn tại mà không phải là “sở hữu” hay “phán đoán”:

95) 襄阳城西二十里,//(是)/(有)//一带高冈枕流水……

=> Bản dịch (dịch sát): Cách hai mươi dặm Tương Dương thành, (là)/ (có)

một dãy gò cao, suối lượn quanh,...(Hồi 37)

96) 中间//(是)/(有)// 一条大路。

=> Dịch sát: Ở giữa,// (là)/ (có)// một con đường cái.

=> Dịch thoát (bản dịch): Có một con đường cái đi thông ở giữa.(Hồi 90)

Câu 95, 96, trong nguyên bản đã lược bỏ động từ làm vị tố有(Có) hoặc

是(Là) “là”, tuy nhiên trong những câu kiểu này, dù dùng động từ 有(có) hay

是(là) thì đều hợp lý với người Trung Quốc. Tương tự, khi dịch sang tiếng

Việt, cũng có thể nhận thấy rằng, người dịch hoàn toàn có thể dùng “Có” hoặc

“Là” và lựa chọn một phương pháp dịch phù hợp theo thói quen, sở thích

(như ví dụ 96, dịch thoát hay dịch sát cũng đều phù hợp). Như vậy có thể rút

ra một kết luận rằng, khi chuyển dịch các câu tồn tại chữ 有(Có) hoặc câu tồn

tại chữ 是(Là) (bao gồm cả trường hợp 有(Có) hoặc 是(Là) bị lược bớt) mà

trường hợp hai động từ này đểu biểu thị quan hệ tồn tại, thì 有(Có) và 是(Là)

dùng như nhau, có thể thay thế cho nhau mà không ảnh hưởng đến ý nghĩa

71

bản dịch.

3.2. Khảo sát cách chuyển dịch Câu tồn tại không hoàn chỉnh

3.2.1. Câu tồn tại thiếu đoạn A

Như trong chương 2 đã tiến hành phân loại, câu tồn tại thiếu đoạn A trong

trường hợp này là chỉ câu tồn tại thiếu đi thành phần chỉ vị trí, không gian (có

chức năng như chủ ngữ giả của câu tồn tại), là một trong những thành phần

quan trọng khi chuyển dịch. Câu tồn tại loại này thường chia làm hai trường

hợp: Loại thứ nhất là do phía trên hoặc phía dưới của câu tồn tại đó đã nhắc

đến (đã cung cấp ngữ cảnh để câu tồn tại đó nằm trong phạm vi của ngữ

cảnh), người đọc dù không cần nhắc lại các từ ngữ chỉ địa điểm này cũng vẫn

có thể hiểu được vị trí mà chủ thể tồn tại đang thực hiện hành động hoặc đang

ở trạng thái, tính chất nào đó. Những câu tồn tại thuộc trường hợp này có thể

lược bỏ từ chỉ vị trí. Khi chuyển dịch sang tiếng Việt thì cũng có thể lược bỏ

như nguyên bản tiếng Trung. Ví dụ câu dưới đây:

96) 王甫谏曰:“- 小路// 有// 埋伏,可走大路。

公曰:“虽有// 埋伏,吾何惧哉!”

=> Vương Phủ can rằng: - Đƣờng này// tất có// quân mai phục, nên chạy ra

con đường lớn mà đi. (Hồi 77 )

Quan Công nói: - Dù (đường này) có // mai phục, ta có sợ gì ai?

Trong câu này, do ngữ cảnh trước đã nhắc đến vị trí (đường này) của chủ

thể tồn tại, vì vậy ở câu dưới không cần nhắc lại nữa.

Hoặc trong câu dưới đây, đoạn A không có từ chỉ địa điểm, câu tồn tại chỉ

có đoạn B (câu chữ 有(Có)) kết hợp trực tiếp với đoạn C, tuy nhiên có thể xác

định được vị trí, địa điểm mà người viết đang nói tới dựa vào đoạn C đằng sau

72

(cụm danh từ 一县名耒阳县 (huyện Lỗi Dương)):

97) 此去东北一百三十里,//有一县名耒阳县,缺一县宰,屈公任之,

如后有缺,却当重用。

=> Về phía đông bắc cách đây một trăm ba mươi dặm, // có huyện Lỗi Dương

khuyết một chức tri huyện, ông hãy làm tạm vậy, sau này cần đến sẽ xin trọng

dụng. (Hồi 57)

Trường hợp thứ 2 là khi nội dung của câu tồn tại nói về một hiện tượng

tự nhiên (như gió thổi, chuông kêu...), hoặc muốn trần thuật, kể lại một sự

việc nào đó mà không cần phải chỉ rõ thời gian/ không gian mà chủ thể tồn tại

thực hiện hành động hoặc xảy ra hành động đó, ví dụ câu 101 trong bảng 3.4

dưới đây, nội dung của câu chỉ là muốn trần thuật lại việc “có tri huyện Vị

Nam”, vì vậy không cần từ chỉ vị trí ở đằng trước vị tố 有(Có) nữa. Khi dịch

sang tiếng Việt cũng có thể áp dụng quy tắc này để xử lý văn bản, xem các ví

dụ trong bảng sau:

STT Phƣơng pháp Đoạn B Đoạn C

dịch (Quan hệ tồn tại) (Chủ thể tồn tại)

天子手诏,命燕王归国 98) Câu tiếng Trung 有

Dịch sát => Có// chiếu của thiên tử sai Yên vương về nước,

hạn ngay hôm nay phải đi.

99) Câu tiếng Trung 有 两路兵来。

Dịch sát Có// hai mặt quân kéo đến

100) Câu tiếng Trung 有 一小童出。

73

Dịch thoát Một tiểu đồng đi ra.(Hồi 89)

101) Câu tiếng Trung 时有 渭南县令丁斐。

Dịch sát Bấy giờ có// tri huyện Vị Nam là Đinh Phỉ ở trên

Nam Sơn.(Hồi 58)

102) Câu tiếng Trung 止有 一国可以破蜀。

103) Dịch thoát Chỉ còn một nước, có thể phá được quân Thục.

(Hồi 90)

104) Câu tiếng Trung 此时, 只瞒着孙权。

Dịch thoát Muốn giấu, không cho Tôn Quyền biết.

走了此人,早晚必生祸 105) Câu tiếng Trung 今日

乱。

Dịch thoát Nếu để người này chạy thoát được, nay mai tất sinh

loạn.

逢着一哨马军,亦被我 106) Câu tiếng Trung 正行间,

杀之,夺了此马:因此

得脱。

Dịch thoát Đi đường, // lại gặp/ một tên kỵ mã, tao giết nốt

cướp lấy ngựa, bởi thế được thoát. (Hồi 88)

Bảng 3.4. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại theo mô hình

không hoàn chỉnh (thiếu đoạn A)

Các câu như bảng trên có thể được phân tích gồm hai phần: đoạn B (là

(cụm) động từ, làm vị tố), đoạn C chỉ thực thể, nói lên sự tình ở đằng sau (làm

bổ ngữ). Do thiếu đi thành phần chỉ vị trí cụ thể, xác định mà phần vị tố ở

những câu tồn tại kiểu này thực hiện cả chức năng thông báo sự tồn tại, có

74

mặt của thực thể/ sự tình (được nói đến ở đoạn C), thông thường sẽ do các

động từ mang nghĩa này “có, là, gặp,...” đảm nhận. Và bổ ngữ chỉ thực thể/ sự

tình đảm nhận gánh nặng thông báo mới của câu như ―một tiểu đồng; hai mặt

quân; chiếu của thiên tử‖.

Cụ thể hơn, với kiểu câu như các ví dụ 98-100 (Có + bổ ngữ) mà Diệp

Quang Ban (2005) gọi là “Câu tồn tại khái quát” thì đoạn C sau “Có” khi chỉ

là một từ, nó sẽ thông báo sự có mặt của một loại thực thể trong ngữ cảnh

(tương tự với các ví dụ: Có + mưa, Có + tiền, Có + nước,...). Như vậy, có thể

thấy những kiểu câu thế này này ngoài việc dịch đầy đủ cấu trúc “Có + Bổ

ngữ”, chúng ta hoàn toàn có thể dịch như trường hợp câu tồn tại hiển hiện

(Mưa!, Tiền!, Nước!), ví dụ như câu 98.

Tuy nhiên, khi bổ ngữ là một cụm danh từ, có cấu tạo nhiều tầng, phức

tạp, và vị tố cũng không chỉ là động từ 有(Có) hoặc 是(Là), như ở các ví dụ

còn lại trong bảng 3.4, vị tố (đoạn B) có thể là động từ有(Có), cũng có thể là

các ngoại động từ khác như 撞出 (đi ra), 瞒着 (giấu), 走了 (chạy thoát),

逢着 (gặp),... thì thông thường, người dịch bắt buộc phải sử dụng nhiều

phương pháp dịch cùng lúc, có khi dịch sát, giữ nguyên cấu trúc của nguyên

bản, có khi phải sử dụng mô hình câu Chủ ngữ-Vị ngữ-Bổ ngữ điển hình của

tiếng Việt, đồng thời kèm theo đó phải bổ sung thêm một số thành tố (từ, ngữ,

cấu trúc) mới, có khi phải bổ sung, giải thích thêm cho rõ nghĩa. Ví dụ với câu

105: 今日// 走了此人,早晚必生祸乱。

=> Dịch sát: Hôm nay, chạy thoát người này, sớm muộn tất sinh loạn.

=> Dịch thoát (bản dịch): Nếu để người này chạy thoát được, nay mai tất

sinh loạn.

75

Dựa vào mối quan hệ chỉ nguyên nhân - kết quả giữa hai tiểu cú “hôm nay

chạy thoát người này” và “sớm muộn tất sinh loạn”, dịch giả đã áp dụng kiểu

câu ghép chính phụ có dùng các quan hệ từ Nếu... (thì)..., làm cho ý nghĩa của

câu trở nên logic và chặt chẽ, không “gượng ép” như khi dịch “sát” vì rõ ràng

tuy không sai về mặt ý nghĩa nhưng nó không phù hợp với cách nói của người

Việt Nam, tức là không đạt đến độ “Nhã” nếu dịch như vậy.

3.2.2. Câu tồn tại thiếu đoạn B

Câu tồn tại kiểu này là câu tồn tại thiếu đoạn B (thiếu động từ làm vị tố),

mô hình câu là “từ chỉ vị trí (/ thời gian) + bổ ngữ (từ hoặc cụm danh từ) hay

“Đoạn A + Đoạn C”.

Cũng như các trường hợp khác, phần gia ngữ câu của câu tồn tại theo kiểu

này có thể là các từ ngữ chỉ thời gian, như 正行间 (đang đi), cũng có thể là

các phó từ như 忽然 (bỗng, bỗng nhiên), nhưng thường thấy nhất vẫn thường

là một cụm phương vị từ như các ví dụ trong bảng sau: STT

Phƣơng pháp dịch Đoạn A (Vị trí) Đoạn C (Chủ thể tồn tại)

107) Câu tiếng Trung 车胄犹豫未定。城外 一片声叫开门。

Dịch thoát

Xa Trụ ngần ngừ chưa quyết. Dưới thành// thì cứ giục mở cửa mãi. (Hồi 21)

108) Câu tiếng Trung 正行间, 忽然一阵狂风。

Dịch thoát

Bỗng// một cơn gió lốc kéo đến trước mặt. (Hồi 41)

109) Câu tiếng Trung 忽然 一阵阴风。

Dịch thoát Bỗng dưng// một cơn gió lạnh nổi lên.(Hồi 106)

110) Câu tiếng Trung 右边// 韩当、周泰,左边// 陈武、潘璋。

Dịch thoát

Bên hữu// có// Hàn Dương, Chu Thái; bên tả// có// Trần Võ, Phan Chương. (Hồi 61)

Câu tiếng Trung 背后, 李典、乐进// 杀出。

76

111) Dịch thoát Sau lưng // lại có// Lý Điển, Nhạc Tiến đuổi

đánh.(Hồi 53)

112) Câu tiếng Trung 西头// 一个汉,东头// 一个汉。

Dịch sát Mé tây// một nhà Hán, mé đông// một nhà Hán.

Bảng 3.5. Cách chuyển dịch Trung - Việt câu tồn tại theo mô hình

không hoàn chỉnh (thiếu đoạn B)

Còn phần bổ ngữ của câu tồn tại theo mô hình này tỉnh lược “vị tố” này

cũng thường sẽ do một cụm từ chính phụ (cụm danh từ) đảm nhiệm, có cấu

trúc khá phức tạp như一片声叫开门 (một tiếng kêu gọi cửa), 一阵阴风 (một

cơn gió lạnh),...

Đặc biệt, từ các ví dụ trên có thể thấy rằng, những câu tồn tại theo mô

hình này (không có vị tố) khi chuyển dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt, đều

phải dùng phương pháp dịch thoát. Thậm chí nếu phân tích kỹ hơn còn phát

hiện ra rằng, câu dịch phải thêm rất nhiều thành tố mới, thay đổi kết cấu của

cả câu nguyên bản thì mới có thể dịch được thành một câu tiếng Việt bảo đảm

cả về mặt cú pháp lẫn ngữ nghĩa. Nhiều khi phải khôi phục “động từ” đã bị

lược bỏ, ví dụ câu 109, nguyên bản không có động từ “nổi lên”, nhưng bản

dịch bắt buộc phải sử dụng thì người đọc mới hiểu được. Hoặc có những câu

người dịch phải thay đổi hoàn toàn cả về từ ngữ lẫn cấu trúc, chỉ giữ lại được

nghĩa tổng thể của nguyên bản thì mới phù hợp với cách nói của người Việt

Nam, ví dụ câu 107, nếu dịch一片声叫开门 thành một tiếng gọi mở cửa thì

người đọc sẽ không thể hình dung được ngữ cảnh của đoạn văn lúc đó, vì vậy

cách dịch thoát hoàn toàn cứ giục mở cửa mãi,người dịch đã thêm động từ

“giục” để tăng thêm tính nhấn mạnh cho lời nói, tạo ra sự liên kết rất logic với

câu đằng trước.

77

Không chỉ vậy, đối chiếu các câu 110, 111 chúng ta còn có thể rút ra

được một kết luận rằng, nếu đoạn C là một danh từ chỉ người, mang tính chất

thông báo sự tồn tại, đoạn A lại là một cụm phương vị từ (danh từ + từ chỉ

phương hướng), thì những câu kiểu này chính là các câu tồn tại chữ 有(Có)

hoặc chữ 是(Là). Có thể thấy điều này qua việc trong các bản dịch, người

dịch do nắm được mô hình câu này nên đã thêm vị tố有(Có)vào để biểu thị

mối quan hệ tồn tại giữa các thành phần cấu tạo của câu tồn tại.

Tóm lại có thể kết luận rằng, đối với kiểu câu tỉnh lược thành phần vị tố,

nếu như người Trung Quốc hoàn toàn có thể bỏ bớt vị tố thì khi chuyển dịch

từ tiếng Trung sang tiếng Việt, đại đa số các trường hợp, dịch giả đều phải

khôi phục lại thành phần vị tố đã bị lược bỏ này, hoặc phải thêm những từ ngữ

bổ sung khác thì mới có thể dịch thành một câu có nghĩa. Có thể nói đây

chính là điểm khác nhau lớn nhất giữa câu tồn tại không hoàn chỉnh trong

tiếng Trung và tiếng Việt.

3.2.3. Câu tồn tại thiếu đoạn C

Câu tồn tại theo kiểu này chỉ gồm thành phần “Đoạn A + Đoạn B” mà

không có thành phần bổ ngữ (đoạn C). Nói cách khác, các động từ trong kiểu

câu tồn tại này phải là các nội động từ.

Kết quả khảo sát cho thấy mô hình câu này không phổ biến trong TQDN.

Nguyên nhân có lẽ vì đây là tác phẩm văn học, giữa các câu trong cùng một

đoạn cần có sự liên kết với nhau. Thêm vào đó thông thường các câu sử dụng

trong tác phẩm văn học đều là các câu dài (câu phức), có kết cấu phức tạp. Vì

vậy câu tồn tại thiếu đoạn C thì sẽ khó tạo ra được sự liên kết văn bản. Nếu

không có một ngữ cảnh cụ thể thì việc chuyển dịch sẽ là vô cùng khó khăn.

78

Hoặc ngay cả khi dịch được thì cũng sẽ khó hiểu nếu để những câu tồn tại

kiểu này đứng một mình. Qua khảo sát, chúng tôi chỉ thống kê được 03 ví dụ

chỉ có “ Đoạn A + Đoạn B” dưới đây:

113) 心中// 犹豫。

=> Dịch sát: =>Trong bụng nghi nghi hoặc hoặc.(Hồi 84 )

114) 心中// 稍喜。

=> Dịch sát: => Trong bụng // hơi mừng.(Hồi 90)

115) 魏延领命,心中// 不乐,怏怏而去。

=> Dịch sát: Nguỵ Diên lĩnh mệnh, trong lòng // không vui, tiu nghỉu trở ra.

=> Dịch thoát (bản dịch)=> Ngụy Diên lĩnh mệnh, trông mặt có dáng không

vui, tiu nghỉu trở ra.(Hồi 90)

Các ví dụ trên đây mặc dù đều có thể dùng phương pháp dịch sát, không

cần dùng phương pháp dịch thoát, tức là không cần phải bổ sung, thêm bớt,

thay đổi,… thành phần hoặc cấu trúc của các bộ phận gia ngữ hoặc vị tố,… để

chuyển dịch từ Trung sang Việt. Tuy nhiên rất rõ ràng rằng những câu tồn tại

kiểu này không phổ biến trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là trong các tác phẩm

văn học. Dù tác giả hoặc dịch giả tách chúng thành một câu độc lập, thì cũng

hoàn toàn không thể chuyển dịch thành một văn bản có nghĩa nếu không có

ngữ cảnh trên hoặc dưới hỗ trợ. Kết luận này cũng phù hợp với nhận xét của

chúng tôi ở phần trên luận văn đó là “bổ ngữ” là yếu tố rất quan trọng của câu

tồn tại, cũng là yếu tố quyết định chất lượng, cách thức, phương pháp của một

bản dịch.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chương 3, dựa theo kết quả khảo sát và thống kê tình hình sử dụng

79

các kiểu câu tồn tại trong tác phẩm TQDN, chúng tôi đã lập bảng so sánh và

đối chiếu cách thức chuyển dịch các câu tồn tại từ Trung sang Việt. Qua các ví

dụ phân tích, chúng tôi đã thu được một số kết luận quan trọng, có thể được

coi là một số nguyên tắc, “kỹ năng” khi dịch kiểu câu này trong hai ngôn ngữ.

Chẳng hạn như với kiểu câu tồn tại hoàn chỉnh, chúng tôi rút ra được phương

pháp là nếu chủ thể tồn tại (chủ thể logic) là tác nhân gây ra động tác ở phần

vị từ, thì những câu như thế này bắt buộc phải dùng phương pháp dịch thoát,

nhiều khi còn phải thêm, bớt, thay đổi các cấu trúc nhỏ của từng bộ phận của

câu tồn tại. Ngược lại, khi đối tượng gây ra hành động không có mối quan hệ

trực tiếp với chủ thể logic như vậy (như các câu khác) thì cách chuyển dịch

cũng linh hoạt hơn nhiều,...

Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát phương pháp dịch với 3 trường hợp câu

tồn tại không hoàn chỉnh (một trong ba đoạn A, B, C bị lược bỏ) và cũng rút

ra được một số kết luận. Chẳng hạn như khi chuyển dịch các câu tồn tại chữ

有(Có) hoặc câu tồn tại chữ 是(Là) (bao gồm cả trường hợp有(Có)hoặc

是(Là) bị lược bớt) mà trường hợp hai động từ này đểu biểu thị quan hệ tồn

tại, thì “có” và “là” dùng như nhau, có thể thay thế cho nhau mà không ảnh

80

hưởng đến ý nghĩa bản dịch.

KẾT LUẬN

1. Các kết quả của luận văn

Trong giới hạn của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi đã đạt được những kết

quả nghiên cứu quan trọng sau:

Nắm được một cách khái quát nhất về các khái niệm liên quan như định

nghĩa câu tồn tại trong tiếng Trung và tiếng Việt, cách phân loại, mô hình câu

tồn tại phổ biến,… Bên cạnh đó, để có thể đánh giá cũng như đưa ra cách

chuyển dịch câu tồn tại trong một tác phẩm văn học cổ điển (“Tam Quốc diễn

nghĩa”), luận văn đã tổng kết và đưa ra được các lý thuyết dịch thuật quan

trọng, giúp người đọc nắm được đề tài, cơ sở lý luận và hướng nghiên cứu của

luận văn.

Luận văn với phương pháp thống kê khoa học, đã đưa ra được những kết

quả khảo sát và thống kê chi tiết về một số kiểu câu tồn tại phổ biến nhất

trong hai ngôn ngữ, như câu tồn tại theo mô hình hoàn chỉnh (Gồm “Từ chỉ

thời gian/ không gian + Cụm động từ + Cụm danh từ") và mô hình không

hoàn chỉnh (lược bớt một trong ba bộ phận). Những kết quả khảo sát, phân

loại và thống kê này là tiền đề quan trọng giúp chúng tôi đưa ra được những

kết luận mang tính quy tắc về cách chuyển dịch Trung- Việt câu tồn tại.

Cuối cùng, trên cơ sở lý thuyết cơ bản về dịch thuật và các kết quả khảo

sát thu được, chúng tôi đã lập bảng so sánh và đối chiếu cách thức chuyển

dịch các câu tồn tại từ Trung sang Việt. Qua các ví dụ phân tích, chúng tôi đã

thu được một số kết luận quan trọng, có thể được coi là một số nguyên tắc,

“kỹ năng” khi dịch kiểu câu này trong hai ngôn ngữ. Chẳng hạn như với kiểu

81

câu tồn tại định vị (câu tồn tại hoàn chỉnh), chúng tôi rút ra được phương pháp

là nếu chủ thể tồn tại (chủ thể logic) là tác nhân gây ra động tác ở phần vị từ,

thì những câu như thế này bắt buộc phải dùng phương pháp dịch thoát, nhiều

khi còn phải thêm, bớt, thay đổi các cấu trúc nhỏ của từng bộ phận của câu

tồn tại. Ngược lại, khi đối tượng gây ra hành động không có mối quan hệ trực

tiếp với chủ thể logic như vậy (như các câu khác) thì cách chuyển dịch cũng

linh hoạt hơn nhiều,....

2. Hƣớng nghiên cứu tiếp theo của đề tài

Trong khuôn khổ một luận văn, chúng tôi vẫn chưa thể nghiên cứu hết

được các góc độ dịch thuật của câu tồn tại, ví dụ như từ góc độ ngữ nghĩa,

ngữ dụng học... Bởi vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài là mở rộng

phạm vi khảo sát với nhiều tác phẩm khác để có được những kết luận chi tiết,

82

cụ thể hơn về cách dịch câu tồn tại trong cả hai ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Tài liệu tiếng Việt:

1) Diệp Quang Ban (1980), Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt ngày

nay, Luận án Phó Tiến sỹ Khoa học ngữ văn, Đại học Sư phạm I Hà Nội.

2) Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

3) Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông tập 2, NXB Đại

học và THCN, Hà Nội.

4) Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà

Nội.

5) Nguyễn Tài Cẩn (1996), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản

ngữ), NXB Đại học Quốc gia.

6) Đỗ Hồng Dương (2011), Khảo sát chủ ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lí

thuyết điển mẫu, Luận án tiến sĩ.

7) Đỗ Hồng Dương (2017), Một cách xác định chủ ngữ trong kiểu câu "CÓ

+ X" từ góc độ lí thuyết điển mẫu, Đại học KHXH & Nhân văn.

8) Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại), NXB Đại học Quốc gia.

9) Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình Ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

10) Cao Xuân Hạo (1991), Ngữ pháp chức năng: Câu trong tiếng Việt, NXB

Giáo dục.

11) Nguyễn Văn Hiệp (2009), Cú pháp tiếng Việt, Nxb.Giáo dục Việt Nam.

12) Nguyễn Minh Thuyết - Nguyễn Văn Hiệp (1999), Tiếng Việt thực hành,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

83

13) Võ Thị Ngọc Hoa, Vài nhận xét về phiên âm và dịch thơ của một số tác

phẩm chữ Hán trong chương trình Ngữ văn 7 từ góc độ văn bản, Tạp chí

Hán Nôm, Số 5 (96) 2009, Tr. 68-75.

14) Đỗ Quang, Tuấn Hoàng: Độc đáo các bản dịch Tam quốc diễn nghĩa.

15) Trần Trí Dõi, Hữu Đạt, Đào Thanh Lan (2002), Cơ sở tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

16) Võ Tân Nghĩa, Đặc điểm cấu trúc ngữ pháp của câu tồn tại tiếng Hán

hiện đại (so sánh với tiếng Việt), Luận văn thạc sĩ, đại học sư phạm thành

phố Hồ Chí Minh, 2010.

17) Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb.Đà Nẵng.

18) Nguyễn Kim Thản, Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt (tập 1 và 2),

Nxb.Khoa học, 1963.

19) Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Khoa

học Xã hội Hà Nội.

20) Anh Vũ biên tập (2007), Tam Quốc diễn nghĩa, Nhà xuất bản văn học.

Nguồn: https://www.sggp.org.vn/doc-dao-cac-ban-dich-tam-quoc-dien-

nghia-176628.html. Truy cập ngày 11/11/2019

 Tài liệu tiếng Trung:

21) 陈巧云,英汉存现句差异分析及互译,厦门大学外文学院,《科技

信息》 2010年22期。

Chen Qiao Yun (2010), Tạp chí Thông tin khoa học, Phân tích sự khác

nhau và chuyển dịch câu tồn tại tiếng Trung và tiếng Anh, kỳ 22.

22) 陈宏薇,1993,《汉英翻译基础》,上海内语教育出版社。

Chen Hong De (1993),Cơ sở phiên dịch Trung-Anh, Nxb. Giáo dục

84

Thượng Hải.

23) 程邓群,汉越存现句对比研究,广西民族大学硕士论文,2015.

Cheng Deng Qun (2015), Nghiên cứu đối chiếu câu tồn hiện trong tiếng

Trung và tiếng Việt, luận văn thạc sỹ, Đại học dân tộc Quảng Tây.

24) 崔英贤,现代汉语语法学习与研究入门,清华大学出版社,2004。

Cui Ying Xian, Nhập môn nghiên cứu và học tập ngữ pháp tiếng Hán hiện

đại, Nxb.Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, 2004.

25) 顾春蕾,现代汉语存在句的语用分析,浙江师范大学硕士论文,

2007。Gu Chun Lei, Phân tích ngữ dụng của câu tồn tại trong tiếng Hán

hiện đại, luận văn thạc sỹ đại học sư phạm Chiết Giang, 2007.

26) 顾阳,关于存现结构的理论探讨,现代外语,1997,(3)。

Gu Yang (1997), Hiện đại Ngoại ngữ, Nghiên cứu lý luận về kết cấu câu

tồn hiện, kỳ 3.

27) 韩景泉,英汉语存现句的生成语法研究,现代外语,2001,(2)。

Han Jing Quan (2001), Hiện đại Ngoại ngữ, Nghiên cứu về ngữ pháp sinh

thành của câu tồn tại tiếng Trung và tiếng Anh, kỳ 2.

28) 黄伯荣、廖旭东,现代汉语语法上下册,2002。

Huang Bo Rong, Liao Xu Dong (2002), Ngữ pháp tiếng Hán hiện đại

(quyển Thượng, hạ).

29) 黄素源,现代汉语与越南语存在句句法比较研究,胡志明市人文与

社会科学大学中国语文系,国际汉语学报;2013年01期。

Hoang Su Yuan (2013), Nghiên cứu đối chiếu cú pháp câu tồn tại trong

tiếng Trung hiện đại và tiếng Việt, Khoa Ngữ văn Trung Quốc Đại học

KHXH và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh, Học báo Quốc tế Hán ngữ, kỳ 1.

85

30) 黄素源,现代汉语与越南语存在句语义比较研究,胡志明市人文与

社会科学大学中国语文系,《国际汉语学报》,2014年01期。

Hoang Su Yuan (2014), Nghiên cứu đối chiếu ngữ nghĩa câu tồn tại trong

tiếng Trung hiện đại và tiếng Việt, Khoa Ngữ văn Trung Quốc Đại học

KHXH và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh, Học báo Quốc tế Hán ngữ, kỳ 1.

31) 李茜,“在+L”与对外汉语教学,北京语言大学,硕士论文,2009.

Li Qian (2009), cấu trúc ―Zai +L‖ với giáo dục Hán ngữ đối ngoại, luận

văn thạc sỹ, Đại học Ngôn ngữ Bắc Kinh.

32) 梁远、温日豪,实用汉越互译技巧,民族出版社,2009。

Liang Yuan, Wen Ri Hao (2009), Kỹ năng dịch Hán - Việt thực dụng,

Nxb.Dân tộc, 2009.

33) 刘建华, 零动词存在句研究,东北师范大学,硕士论文,2006年 。

Liu Jian Hua (2006), Nghiên cứu câu tồn tại của kiểu câu không có động

từ, Luận văn Thạc sĩ Đại học sư phạm Hoa Bắc.

34) 刘顺、潘文,现代汉语―有着‖句的考察与分析,南京师范大学文学

院,语言教学与研究,2007年第3期。

Liu Shun, Pan Wen (2007), Khảo sát và phân tích câu chữ ―Có + Zhe

(着)‖ trong tiếng Hán hiện đại, Học viện văn học đại học sư phạm Nam

Kinh, tạp chí Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, kỳ 3.

35) 吕叔湘,汉语语法分析问题,北京:商务印书馆,1979。

Lv Shu Xiang (1979), Vấn đề phân tích ngữ pháp tiếng Trung, Nxb.

Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh.

36) 聂文龙,存在和存在句的分类,《中国语文》,1989年第2期 。

Nie Wen Long (1989), Tồn tại và Phân loại câu tồn tại, Ngữ văn Trung

86

Quốc, kỳ 2.

37) 潘文,现代汉语存现句研究,复旦大学博士学位论文,1493年。

Pan Wen (1493), Nghiên cứu câu tồn tại trong tiếng Trung hiện đại, luận

văn Tiến sỹ, Đại học Phúc Đán.

38) 裴氏秋琼,越南学生习得汉语存现句的偏误分析,吉林大学硕士论文

,2012. Pei Shi Qiu Qiong, Phân tích lỗi sai của sinh viên Việt Nam khi

sử dụng câu tồn tại tiếng Hán, luận văn thạc sỹ, đại học Cát Lâm, 2012.

39) 阮氏黎心,汉—

越语―有‖字存在句对比研究,华东师范大学,硕士论文,2006.

Ruan Shi Li Xin (2006), Nghiên cứu đối chiếu câu tồn tại chữ 有(Có)

trong tiếng Trung và tiếng Việt, luận văn thạc sỹ, Đại học sư phạm Hoa

Đông.

40) 宋玉柱,现代汉语特殊句式,太原:山西教育出版社,1991。

Song Yu Zhu (1991), Cấu trúc câu đặc biệt trong Hán ngữ Hiện đại, Nxb.

Giáo dục Sơn Tây, Thái Nguyên.

41) 王建,现代汉语存现句研究综述,常熟学院学报,2017年第一期。

Wang Jian, Nghiên cứu tổng quan về câu tồn hiện trong tiếng Hán hiện

đại, Học báo học viện Chang Shu, kỳ 01, 2007.

42) 王智杰,存现句的句型,内蒙古民族大学,《广播电视大学学报》

,2004年01期。

Wang Zhi Jie (2004), Mô hình của câu tồn tại, Đại học Nội Mông Cổ,

Học báo Đại học phát thanh điện ảnh, kỳ 01.

43) 王智杰、阎晓丽,存现句在篇章中的节缩、扩展和变异,内蒙古民

族大学学报,第32卷,第4期,2006年8月。

87

Wang Zhi Jie, Yan Xiao Li, Sự rút gọn, mở rộng và biến đổi của câu tồn

tại trong văn bản, học báo đại học Nội Mông Cổ, quyển 32 kỳ 4, 2006.

44) 张珊, 浅谈严复―信达雅‖翻译标准.

Zhang Shan, Bàn về tiêu chuẩn phiên dịch ―Tín-Đạt-Nhã‖ của Yan Fu.

Nguồn: https:// www.xzbu.com/ 3/ view-4343251.htm

 Tài liệu điện tử (trang web):

1. http:// gongjushu.cnki.net

2. http:// lunwen.5151doc.com

3. http:// ngonnguhoc.org

4. http:// webtailieu.net

5. http:// wenku.baidu.com

6. http:// www.cnki.com.cn

7. http:// www.csscipaper.com

8. http:// www.docin.com

9. http:// www.docs.vn

10. http:// www.lw23.com

11. http:// www.verylib.com.cn

88

12. http:// www.wanfangdata.com.cn

PHỤ LỤC

TỔNG HỢP CÁC CÂU TỒN TẠI TRONG TÁC PHẨM TAM QUỐC

DIỄN NGHĨA (CHỌN LỌC)

STT Câu tiếng Trung Câu tiếng Việt

今日走了此人,早晚必生祸 Nếu để người này chạy thoát được, 1 乱。 nay mai tất sinh loạn.(Hồi 55)

Bỗng nhiên trong lư hương, khói

忽香炉中烟起不散,结成一 bốc lên không tỏa kết thành một cái 2 座华盖,上面端坐着于吉。 tán, ở trên thấy Vu Cát ngồi chễm

chệ. (Hồi 29)

Bên hữu có Hàn Dương, Chu Thái; 右边韩当、周泰,左边陈武 bên tả có Trần Võ, Phan Chương. 3 、潘璋。 (Hồi 61)

Mé tây một nhà Hán, Mé đông một 4 西头一个汉,东头一个汉。 nhà Hán.

吕公已于山林丛杂去处,上 Bấy giờ Lã Công đã đưa quân vào 5 下埋伏。 mai phục trong rừng rậm rồi. (Hồi 7)

Bỗng ở mé sau nổi tiếng reo, Vương 忽背后喊声大震:左有王基 Cơ, Trần Khiên hai mặt kéo đến. 6 ,右有陈骞,两路军杀来。 (Hồi 112)

上合天意,下合民情,实为 Trên hợp ý trời, dưới hợp lòng dân, 7 幸甚! thực là may lắm. (Hồi 22)

89

上可以保天子,下可以救万 Trên giúp thiên tử, dưới giúp muôn 8 民。 dân, đó là cơ hội không mấy khi

gặp. (Hồi 24)

Khi Mã Siêu dẫn được quân ra, thì

超领军杀出时,操兵四至: quân Tào đã bốn mặt kéo lại, mé

前有许褚,后有徐晃,左有 9 trước Hứa Chử, mé sau Từ Hoảng,

夏侯渊,右有曹洪。 tả có Hạ Hầu Uyên, hữu có Tào

Hồng. (Hồi 59)

Sau bức rào, có mấy gian nhà tranh. 10 篱落之中,有数间茅屋。 (Hồi 89)

Trong động có núi diễu quanh. (Hồi 11 洞中有山,环抱其洞。 90)

Trên bờ những người chưa được 岸上有不得下船者,争扯船 12 xuống, tranh nhau vịn vào dây 缆。 neo.(Hồi 13)

Trong nhà một ông già ra đón. (Hồi 13 庄内一老人出迎。 28)

坛下二十四人,各持旌旗、 Ở dưới chân đàn lại có 24 người vác 宝盖、大戟、长戈、黄钺、 14 cờ xí và khí giới đứng quanh bốn 白旄、朱幡、皂纛,环绕四 phía.(Hồi 49) 面。

Bỗng nhiên sau trại lửa cháy đùng 帐后一把火起,各寨兵皆动 15 đùng, quân các trại kéo ùa cả ra. 。 (Hồi 59)

90

Có một con đường cái đi thông ở 16 中间一条大路。 giữa.(Hồi 90)

前面便是博望城,后面是罗 Trước mặt là gò Bác Vọng, mé sau 17 川口。 là cửa sông La Xuyên. (Hồi 39)

Mé chính nam ba trăm dặm, là động 18 正南三百里,乃是梁都洞。 Lương Đô. (Hồi 90)

Mé trước mặt chính là đại trại của 前面是金环三结元帅大寨, 19 Kim Hoàn Tam Kết nguyên soái, ở 正在山口。 vào giữa cửa núi.(Hồi 87)

Trước mặt đống cỏ là một cái 20 草堆前面是一所庄院。 trại.(Hồi 3)

Lập tức quay ngựa chạy về, té ra mé

急回马时,背后已被木石塞 sau cũng bị đá gỗ chặn lấp mất

满了归路,中间只有一段空 21 đường, ở giữa chỉ còn một khoảng

地,两边皆是峭壁。 đất trống, hai bên toàn vách núi.

(Hồi 101)

Khi đang đi Hưu hỏi rằng: Mé trước 正行间,休问曰:“前至何 mặt là xứ nào? Phường nói: Mé 22 处?”鲂曰:“前面(是)石亭 trước là xứ Thạch Đình, nên đóng 也,堪以屯兵。” đồn ở đó. (Hồi 96)

行至决石,两下是山,山边 Khi đến xứ Quyết Thạch, hai bên

23 皆(是)芦苇败草,树木丛杂 toàn (là) núi, lau sậy, dây mơ rễ má

。 um tùm.(Hồi 77)

正行间,逢着一哨马军,亦 Đi đường lại gặp một tên kỵ mã, tao

被我杀之,夺了此马:因此 24 giết nốt cướp lấy ngựa, bởi thế được

91

得脱。 thoát. (Hồi 88)

Dưới cổ ngựa treo một cái đầu 25 马项下悬着首级一颗。 người.(Hồi 27)

Đứng xếp hàng hai bên là Trương

左右排列着张郃、高览、韩 Cáp, Cao Lãm, Hàn Mãnh, Thuần 26 猛、淳于琼等诸将。 Vu Quỳnh và các tướng lĩnh

khác.(Hồi 30)

Một toán quân đánh thốc vào giữa 一彪军杀到,为首大将持丈 trận; tướng đi đầu cầm một ngọn bát 八点钢矛,马项下挂一颗人 27 xà mâu, dưới cổ ngựa đeo một cái 头。 đầu lâu.(Hồi 92)

正言间,又撞出一枝军来。 Đương nói chuyện, nhìn ra thấy một

赵云拔枪上马看时,面前马 28 người bị trói trên lưng ngựa, chính

上绑着一人,乃糜竺也。 là My Chúc.(Hồi 41)

Quan Công đương ngồi nghĩ ngợi, 且说关公正寻思间,忽报有 29 chợt thấy báo có người bạn cũ đến 故人相访。 hỏi thăm. (Hồi 26)

Đuổi tìm toán quân mã lúc nãy, thì

30 至林下追寻时,不见一人。 chẳng thấy một người nào nữa. (Hồi

40)

Bỗng đâu bên cạnh bờ có một 忽见草坡左侧转出个少年将 tướng, người trẻ trung vác ngọn giáo 31 军。 phi ngựa ra đâm Văn Sú. (Hồi 7)

92

言未已,只听背后喊声震起 Nói chưa dứt lời, sau lưng đã có 32 ,早望见一派火光烧着,随 tiếng reo hò ầm ĩ, lửa cháy đùng

后两边芦苇亦着。一霎时, đùng; tiếp đó hai bên lau sậy cũng

四面八方,尽皆是火。 bốc cháy. Chỉ trong chớp mắt, ba bề

bốn bên biến thành biển lửa. (Hồi

39).

Trông sang một dải Giang Nam thấy 33 望见江南一带皆是连城。 thành trì liên tiếp nhau.(Hồi 86)

Bên cạnh, một tướng xông ra chặn 34 旁边闪过一将,拦住去路。 đường.(Hồi 90)

Mai vây dưới nách lộ cả ra 35 两肋下露出生鳞甲。 ngoài.(Hồi 90)

口内装烟火之物,藏在军中 Con nào cũng chứa sẵn đồ khói lửa, 36 giấu trong xe.(Hồi 90) 。

Trong xe có một người ngồi chễm 37 车中端坐一人,乃孔明也。 chệ, chính là Khổng Minh.

Mé trước, một người đứng bên tả, 38 前左立一人,手执长竿。 cầm cái cần dài.(Hồi 49)

Tân lang trông thấy khí giới có vẻ 房中摆列兵器,娇客不安, không an tâm, xin hãy cho cất cả đi. 39 今且去之。 (Hồi 55)

Sau lưng Viên Thuật, có một tướng 袁术背后转出骁将俞涉曰: lực lưỡng, tên là Du Thiệp bước ra 40 “小将愿往。 thưa rằng: - Tiểu tướng xin ra.(Hồi 5)

93

Điển Vi lại bị một mũi giáo đâm 41 韦背上又中一枪。 trúng giữa lưng.(Hồi 16)

城上插白旗,大书„义‟字, Trên thành cắm lá cờ trắng, viết to một 42 便是暗号。 chữ "Nghĩa" làm mật hiệu".(Hồi 12)

山上出银矿,故名为银坑山 Trên núi có mỏ bạc, cho nên gọi là 43 。 Ngân Hàng.

44 床头堆积皆黄卷。 Đầu giường chồng chất nhiều sách lạ.

Trong động có núi diễu quanh. 45 洞中有山,环抱其洞。 (Hồi 90)

左右亦有二十四人,皂衣跣 Tả hữu hai mươi bốn người đi hộ vệ, 46 足,披发仗剑,拥车而来。 y như đám trước.

47 两岸有桃树。 Hai bên bờ toàn là cây đào.(Hồi 90)

前面山谷中,隐隐有杀气起 Trong hang núi, về mé trước mặt 48 kia, thấp thoáng có sát khí bốc lên. 。

但见四面八方,皆有门有户 Trông xa bốn mặt tám phương đều 49 。 có cửa vào ra. (Hồi 84 )

Mắt nhấp nhánh như ánh chớp, trỏ 眼目中微有光芒,手指魏延 tay sang Ngụy Diên mà mắng.(Hồi 50 大骂。 90)

Trên bờ những người chưa được 岸上有不得下船者,争扯船 51 xuống, tranh nhau vịn vào dây 缆。 neo.(Hồi 13)

Tên nào mệt mỏi lắm thì cởi áo 52 内有困乏者,将甲脱下。 giáp.(Hồi 90)

94

Còn hai vị phu nhân ngồi trên 53 车上还有二位夫人。 xe.(Hồi 27)

Ở đây có một người Tào Tháo rất 此间有一人,乃曹操敬慕者 54 kính mến, có thể đảm nhận vịêc ấy ,可以为使。 được.

Có một người ở dưới thềm bước 55 班内 一人拜伏于阶下。 ra.(Hồi 80)

座上一人推案直出,立于筵 Bỗng có một người ngồi trong yến 56 前。 tiệc đẩy ghế đứng dậy.(Hồi 3

Trong nhà, một ông già ra đón. (Hồi 57 庄内, 一老人出迎。 28)

Bỗng nhiên sau trại lửa cháy đùng 帐后一把火起,各寨兵皆动 58 đùng, quân các trại kéo ùa cả ra. 。 (Hồi 59)

Mã Đằng vội vàng quay ngựa chạy

马腾急拨马回时,两下喊声 về, thì hai bên tiếng reo ầm ầm nổi

又起:左边许褚杀来,右边 dậy, bên tả có Hứa Chử, bên hữu có

夏侯渊杀来,后面又是徐晃 59 Hạ Hầu Uyên, mé sau có Từ Hoảng

领兵杀至,截断西凉军马, đuổi đến, cắt đôi quân mã Tây

将马腾父子三人困在垓心 Lương, vây chặt ba cha con Mã

Đằng vào giữa. (Hồi 57)

Mé chính nam ba trăm dặm, là động 60 正南三百里,乃是梁都洞。 Lương Đô. (Hồi 90)

95

Mé trước mặt chính là đại trại của 前面是金环三结元帅大寨, 61 Kim Hoàn Tam Kết nguyên soái, ở 正在山口。 vào giữa cửa núi.(Hồi 87)

Trước mặt đống cỏ là một cái 62 草堆前面是一所庄院。 trại.(Hồi 3)

车中原来皆是火药,一齐烧 Trong củi toàn là thuốc súng nổ tứ 63 着。 tung.(Hồi 90)

车中油柜内,皆是预先造下 Trong xe toàn những quả pháo ta 64 的火炮,名曰„地雷‟ 。 chế sẵn ở nhà, gọi là địa lôi.(Hồi 90)

Khi đang đi Hưu hỏi rằng: - Mé 正行间,休问曰:“前至何 trước mặt là xứ nào? Phường nói: 65 处?”鲂曰:“前面石亭也, Mé trước là xứ Thạch Đình, nên 堪以屯兵。 đóng đồn ở đó. (Hồi 96)

Khi đến xứ Quyết Thạch, hai bên 行至决石,两下是山,山边 66 toàn núi, lau sậy, dây mơ rễ má um 皆芦苇败草,树木丛杂。 tùm.(Hồi 77)

Cách hai mươi dặm Tương Dương 襄阳城西二十里,一带高冈 67 thành, một dãy gò cao, suối lượn 枕流水…… quanh,...(Hồi 37)

Trong bụng nghi nghi hoặc 68 心中犹豫。 hoặc.(Hồi 84 )

69 心中稍喜。 Trong bụng hơi mừng.(Hồi 90)

96

Ngụy Diên lĩnh mệnh, trông mặt có 魏延领命,心中不乐,怏怏 70 dáng không vui, tiu nghỉu trở ra.(Hồi 而去。 90)

Mé trước, một người đứng bên tả, 72 前左立一人,手执长竿。 cầm cái cần dài.(Hồi 49)

Trên đầu cầm cắm lông gà, để chiêu 73 竿尖上用鸡羽为葆。 gió.(Hồi 49)

Một người đứng bên hữu cüng cầm 74 前右立一人,手执长竿。 cái cần dài. (Hồi 49)

Trên đầu cần buộc cờ hiệu thất tinh., 75 竿上系七星号带,以表风色 để khiến chiều gió.(Hồi 49)

Mé sau, một người bên tả cắp thanh 76 后左立一人,捧宝剑; bảo kiếm.(Hồi 49)

Một người bên hữu bưng cái lư 77 后右立一人,捧香炉。 hương.(Hồi 49)

Đông Trương Liêu, tây Hứa Chử, 正东张辽、正西许褚、正南 nam Vu Cấm, bắc Lý Điển, đông 于禁、正北李典、东南徐晃 nam Từ Hoảng, tây nam Nhạc Tiến, 、西南乐进,东北夏侯惇、 78 đông bắc Hạ Hầu Đôn, tây bắc Hạ 西北夏侯渊,八处军马杀来 Hầu Uyên, quân mã tám mặt đánh 。 dồn lại. (Hồi 24)

97

Đằng sau Nhạc Tiến lại kéo 79 后面乐进赶到。 đến.(Hồi 24)

Dưới mắt tả có một nốt ruồi đen;

左目下生个黑瘤,瘤上生数 trên nốt ruồi có vài mươi chiếc lông;

十根黑毛,乃司马懿长子骠 80 nguyên là Tư Mã Sư con cả Tư Mã

骑将军司马师也。 Ý, hiện làm phiêu kỵ tướng quân.

(Hồi 107)

上为国家讨贼,下为将军家 Trước vì nước nhà, sau để báo thù 81 门之私; riêng cho nhà tướng quân (hồi 6)

西方七面白旗,按奎、娄、 Phương tây 7 lá cờ trắng, theo hình

胃、昴、毕、觜、参,踞白 82 chòm sao Bạch hổ là: Khuê, lâu, vị,

虎之威; mão, tất, thủy, sâm. (Hồi 49)

南方七面红旗,按井、鬼、 Phương nam 7 lá cờ đỏ, theo hình

柳、星、张、翼、轸,成朱 83 chòm sao Chu tước là: Tỉnh, quỷ,

雀之状。 liễu, tính, trương, dực, trẩn.(Hồi 49)

Tầng thứ hai 64 lá cờ cắm xung 第二层周围黄旗六十四面, 84 quanh, theo phương vị 64 quẻ, đứng 按六十四卦,分八位而立。 dàn ra tám mặt.(Hồi 49)

下一层插二十八宿旗:东方 Tầng dưới cắm 28 lá cờ sao. Phương

七面青旗,按角、亢、氏、 đông 7 lá cờ xanh, theo hình chòm 85 房、心、尾、箕,布苍龙之 sao Thương Long là: Giốc, cang, đê,

形。 phòng, tâm, vĩ, cơ. (Hồi 49)

北方七面皂旗,按斗、牛、 Phương Bắc 7 lá cờ đen, theo hình

女、虚、危、室、壁,作玄 86 chòm sao Huyền vü là: đẩu, ngưu,

98

武之势。 nữ, hư nguy, thất, bích. (Hồi 49)

中央乃司马懿也;左有司马 Ở giữa thì Tư Mã Ý, tả có Tư Mã 87 师,右有司马昭。 Sư, hữu có Tư Mã Chiêu.(Hồi 106)

水面上一阵狂风骤起,飞沙 Gió lạnh nổi lên, cát sỏi bay vù 88 走石。 vù.(Hồi 90)

Quân Thục bỏ cả giáp, quẳng cả 蜀兵皆弃甲抛戈而走,只见 giáo mà chạy. Ngụy Diện cứ trông 前有白旗。延引败兵,急奔 89 chỗ nào cắm cờ trắng thì đến.(Hồi 到白旗处。 90)

90 头戴日月狼须帽。 Đầu đội mü nhật nguyệt.(Hồi 90)

91 身披金珠缨络。 Mình mặc áo kim châu.(Hồi 90)

Mai vây dưới nách lộ cả ra 92 两肋下露出生鳞甲。 ngoài.(Hồi 90)

Mắt nhấp nhánh như ánh chớp, trỏ 眼目中微有光芒,手指魏延 93 tay sang Ngụy Diên mà mắng.(Hồi 大骂。 90)

Quân Man kéo bừa sang đuổi 94 后面蛮兵大进。 đánh.(Hồi 90)

95 山上并无草木。 Trông lên núi đá trơ trụi.(Hồi 90)

Ra khỏi cửa hang tức là con đường

出谷则三江城大路,谷前名 lớn thành Tam Giang. Trước hang 96 塔郎甸。 có một thung lüng gọi là điện Tháp

99

Lang.(Hồi 90)

Tôi vẫn nghe vùng này, có nước Ô 某素闻南蛮中有一乌戈国, 97 Qua, ở đấy không có luân lý gì.(Hồi 无人伦者也。 90)

Chỉ còn một nước, có thể phá được 98 止有一国可以破蜀。 quân Thục. (Hồi 90)

此去东南七百里,有一国, Tự đây ra phía đông năm bảy trăm 99 名乌戈国。 dặm, có nước Ô Qua.(Hồi 90)

Vua nước ấy tên là Ngột Đột Cốt, 国主兀突骨,身长丈二,不 mình dài hai trượng, không ăn thóc 食五谷,以生蛇恶兽为饭; 102 gạo, chỉ ăn toàn những giống rắn 身有鳞甲,刀箭不能侵。 độc, tên bắn không vào.(Hồi 90)

Bốn suối ấy toàn là khí độc tụ lại, 103 敝处有此四泉,毒气所聚。 không thuốc gì chữa được.(Hồi 89)

Tự đây đi thẳng mé tây vài dặm, có 104 此去正西数里,有一山谷。 một hang núi.(Hồi 89)

Vào trong hang đi hai trăm dặm nữa, 入内行二十里,有一溪名曰 105 đến một cái khe, gọi là khe Vạn 万安溪。 An.(Hồi 89)

上有一高士,号为万安隐者 Ở đó, có một cao sĩ, gọi là Vạn An 106 。 ẩn giả.(Hồi 89)

其草庵后有一泉,名安乐泉 Sau nhà ông có một cái suối, gọi là 107 。 suối Ba Lạc.(Hồi 89)

100

108 篱落之中,有数间茅屋。 Sau bức rào, có mấy gian nhà tranh.

更兼庵前有一等草,名曰薤 Trước nhà có một thứ cỏ gọi là giới 109 叶芸香。 diệp vân hương(Hồi 89)

Cạnh miếu có một tấm bia đá, xem 旁有石碑,乃汉伏波将军马 110 ra là miếu quan Phục Ba tướng quân 援之庙。 Mã Viện. (Hồi 89)

Ngoài suối ấy ra lại có ba ngọn suối

111 此泉之外,又有三泉。 nữa, gọi là Diệt Toàn, Nhu Toàn,

Hắc Toàn. (Hồi 89)

Quân mã đến một ngọn suối, đang 前到一泉,人马皆渴,争饮 khát tranh nhau xuống múc nước 112 此水。 uống.(Hồi 89)

忽望见远远山冈之上,有一 Chợt thấy trên đỉnh núi có một tòa 113 cổ miếu. 古庙。

Ở động này chỉ có hai con đường 114 此洞中止有两条路。 vào được.(Hồi 89)

东北上一路,就是大王所来 Một con về mé đông bắc, tức là con 115 之路,地势平坦。 đường đại vương đi đến đây.(Hồi 89)

西北上有一条路,山险岭恶 Còn một con đường ở mé tây bắc,

,道路窄狭;其中虽有小路 116 núi non hiểm ác, đường sá hẹp hòi,

,多藏毒蛇恶蝎。 lại lắm rắn dữ, rết độc.(Hồi 89)

117 此处更有四个毒泉。 Lại có bốn ngọn suối độc.(Hồi 89)

101

Đi chưa được ba mươi dặm, bỗng 行不三十里,淮河中一带芦 118 đâu trong đám lau niễng giữa dòng 苇,预灌鱼油,尽皆火着。 sông không biết dầu mỡ vẫy vào lúc

nào, bỗng cháy bùng cả lên.(Hồi 86)

Tốn đang kinh hãi, bỗng thấy một 正惊疑间,忽见一老人立于 119 ông cụ già đứng ở trước ngựa.(Hồi 马前。 84 )

Khi Trương, Phùng hai tướng đang 张、冯二将正行之间,前面 120 đi, trước mặt có quân Ngô kéo 吴兵杀来。 đến,(Hồi 84 )

Sau lưng Tôn Hoàn trong thành Di 背后孙桓从彝陵城杀出,两 121 Lăng xông ra, hai mặt đánh dồn 下夹攻。 lại.(Hồi 84 )

Mé trước tất có quân mai phục, ba 前面必有埋伏,三军不可轻 122 quân không được tiến lên vội. (Hồi 进。 84 )

Bấy giờ, trời đã mờ mờ sáng, bỗng 此时天色已微明,只见前面 123 lại nghe thấy mé trước có tiếng reo 喊声震天。 ầm ầm.(Hồi 84 )

先主正慌,前面又一军拦住 Tiên chủ đang lo sợ thì trước mặt lại

,乃是吴将丁奉,两下夹攻 124 bị một toán quân Ngô là Đinh Phụng

。 ra chặn đường. (Hồi 84 )

102

Tiên chủ sợ quá, bốn mặt không còn 125 先主大惊,四面无路。 đường nào.