BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--- ---
NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG
NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH Ở TỈNH BẾN TRE
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ TRUNG HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
Lời cảm ơn
Đề tài này thực hiện được sự hướng dẫn, chỉ bảo, động viên, cung cấp
nhiều tài liệu quý giá của PGS.TS Lê Trung Hoa và sự góp ý của các Giáo sư -
tiến sĩ phản biện và các bạn đồng nghiệp. Chúng tôi xin chân thành cám ơn các
thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ chân tình và quý báu đó.
Qua công tác điền dã, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị,
các Sở, Phòng công thương, Sở - Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở -
Phòng tài nguyên môi trường, Sở - phòng thống kê, thư viện tỉnh - huyện, Sở -
Phòng văn hóa thông tin của tỉnh Bến Tre đã cung cấp những tài liệu quý cho
chúng tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng chúng tôi cũng không quên gửi lời cám ơn đến Phòng khoa học
công nghệ và sau Đại học, khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm TPHCM đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Nghiên cứu địa danh là một lĩnh vực hết sức đa dạng, phong phú và cũng rất
khó khăn. Vì vậy trong một thời gian ngắn, chúng tôi không thể nào giải quyết hết
các vấn đề mà địa danh phản ánh, cùng với kiến thức của người viết có giới hạn
cho nên ít nhiều cũng mắc phải những sai sót. Người viết rất mong được sự chỉ
dẫn, đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
TP.HCM, ngày15 tháng 7 năm 2009
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kim Phượng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG TIỂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những tiền đề lý luận .................................................................................19
1.1.1. Định nghĩa địa danh ............................................................................19
1.1.2. Phân loại địa danh...............................................................................22
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học và vị trí của địa danh học
trong ngôn ngữ học ...........................................................................................30
1.1.4. Vấn đề viết hoa địa danh.....................................................................34
1.2. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................37
1.2.1. Về địa lý ..............................................................................................37
1.2.2. Về lịch sử ............................................................................................39
1.2.3. Về dân cư ............................................................................................46
1.3. Tiểu kết.......................................................................................................47
Chương 2: PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH, ĐẶC ĐIỂM VỀ MẶT CẤU TẠO
VÀ NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH
2.1. Các phương thức đặt địa danh....................................................................49
2.1.1. Khái quát về phương thức đặt địa danh ..............................................49
2.1.2. Các phương thức đặt địa danh ở Bến Tre ...........................................52
2.1.2.1 . Phương thức tự tạo .........................................................................52
2.1.2.2. Phương thức chuyển hóa..................................................................62
2.2. Đặc điểm về mặt cấu tạo ............................................................................68
2.2.1. Phân loại địa danh ở Bến Tre..............................................................68
2.2.2. Mô hình cấu trúc của địa danh............................................................71
2.2.3. Vấn đề thành tố chung trong địa danh ở Bến Tre ..............................72
2.2.4. Đặc điểm về mặt cấu tạo của địa danh ở Bến Tre ..............................84
2.2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn...................................................................84
2.2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức .................................................................85
2.3. Nguyên nhân biến đổi của địa danh ...........................................................88
2.3.1. Vài nét về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ, ngữ âm của
tiếng Bến Tre.....................................................................................................88
2.3.2. Nguyên nhân chuyển biến...................................................................91
2.3.2.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ ...................................................93
2.3.2.2. Nguyên nhân ngôn ngữ ....................................................................96
2.4. Tiểu kết.....................................................................................................101
Chương 3: GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC, ĐẶC DIỂM VỀ NGUỒN
GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH
3.1. Phản ánh hiện thực ...................................................................................103
3.1.1. Địa danh phản ánh về mặt địa lý tự nhiên ........................................104
3.1.2. Địa danh phản ánh về mặt lịch sử.....................................................105
3.1.3. Địa danh phản ánh về mặt kinh tế xã hội..........................................109
3.1.4. Địa danh phản ánh về mặt văn hóa ...................................................110
3.1.5. Địa danh phản ánh về mặt ngôn ngữ và văn học ..............................117
3.2. Nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở Bến Tre ...................................124
3.2.1. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng .......................................126
3.2.2. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa còn tranh luận............................133
3.3. Tiểu kết.....................................................................................................145
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..............................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Cách viết tắt các phường, thị trấn, huyện, thị xã, tỉnh
P : phường
TT : thị trấn
(TX) : thị xã
(BaT) : huyện Ba Tri
(BĐ) : huyện Bình Đại
(CL) : huyện Chợ Lách
(CT) : huyện Châu Thành
(GT) : huyện Giồng Trôm
(MC) : huyện Mỏ Cày
(TP) : huyện Thạnh Phú
(BTre) : tỉnh Bến Tre
Nxb : nhà xuất bản
2. Các kí hiệu
: biến đổi thành
: tương đương nhau
[x, y,z] : tên tác giả, năm, số trang
Phiên âm âm vị học : / /
: [ ] Phiên âm ngữ âm học
Phụ âm đầu của âm tiết . Ví dụ : l-
Phụ âm cuối của âm tiết. Ví dụ : -p
Nguyên âm của âm tiết. Ví dụ : -ô-
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt khoa học
Địa danh phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội, là chứng tích về dân tộc,
lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, chính trị của cộng đồng. Nó để lại một dấu ấn có giá
trị theo thời gian. Đặc biệt ở lĩnh vực ngôn ngữ, địa danh là nguồn tài nguyên vô tận
giúp ta khám phá những tâm tư, tình cảm, tư duy của người xưa gửi gắm trong lời
ăn tiếng nói hằng ngày và cả ngôn ngữ văn chương trau chuốt của chữ Hán, chữ
Nôm.
Chúng ta biết rằng địa danh được cấu tạo từ chất liệu ngôn ngữ, chịu sự chi
phối và tác động của ngôn ngữ. Nghiên cứu địa danh là góp phần làm phong phú
cho nội dung ngôn ngữ, phát triển cho ngành địa danh học Việt Nam hiện nay vốn
hãy còn non trẻ.
Địa danh được cấu tạo và chịu sự chi phối của qui luật ngữ âm, ngược lại nó là
nguồn tài liệu quí giá cho ngành ngữ âm học. Đối với ngành ngữ pháp học, địa danh
cũng góp phần làm sáng rõ về mặt phương thức cấu tạo từ, ngữ. Và hiển nhiên làm
phong phú kho tàng từ vựng tiếng Việt không không thể không kể đến vai trò của
việc nghiên cứu địa danh.
Hơn nữa khi nghiên cứu địa danh là góp phần củng cố tính thống nhất của
ngôn ngữ dân tộc đồng thời ngôn ngữ địa phương cũng phát huy được sự phong phú
vào ngôn ngữ thống nhất. Địa danh phản ánh đời sống của một vùng đất, ngôn ngữ
của một vùng, nghiên cứu địa danh là nghiên cứu ngôn ngữ địa phương của vùng
đất đó. Như vậy địa danh còn là nguồn tài liệu cần thiết cho ngành phương ngữ học.
Trong cuộc sống, con người cần phải giao tiếp với nhau, mọi vật cần có tên để
gọi và địa danh là một minh chứng, ẩn chứa nhiều điều của cuộc sống qua tên gọi
đó.
1.2. Về mặt thực tiễn
Có đôi lúc chúng ta tự hỏi rằng tại sao có tên Sài Gòn, Cần Thơ, Cà Mau hay
Bến Tre…, nó có nguồn gốc và ý nghĩa như thế nào, hoàn cảnh phát sinh và phát
2
triển ra sao? Để giải đáp về điều này chỉ có vai trò của địa danh học mới có thể làm
sáng rõ.
Việt Nam do ảnh hưởng của chiến tranh, là một vùng đất tiếp xúc, pha trộn
nhiều nền văn hóa cho nên ít nhiều gì cũng dễ dẫn đến sự “đồng hóa”, nhưng chính
nhờ có những tên gọi nảy sinh từ một vùng đất được lưu giữ và lưu truyền đã góp
phần gìn giữ và phát huy được bản sắc dân tộc, giúp con người gần gũi với quê
hương mình và thêm yêu quê hương hơn, ra sức phát triển, làm giàu thêm quê
hương.
Bên cạnh đó việc đồng hóa một ngôn ngữ đối với một dân tộc hơn ngàn năm
Bắc thuộc, trăm năm giặc Tây là điều dễ xảy ra nhưng với một Việt Nam anh hùng
thì việc gìn giữ tiếng nói của dân tộc, phát triển ngôn ngữ ngày càng phong phú là
một vai trò cần thiết của địa danh. Địa danh Nôm được lưu giữ, truyền bá cho đến
ngày nay, ngôn ngữ thuần Việt gắn với những tên gọi đa dạng của địa danh, thấy
được cách ứng xử linh hoạt của dân tộc trong suốt bề dày lịch sử.
Là một nhà mô phạm, nghiên cứu địa danh giúp cho chúng tôi giáo dục học
sinh về sự tìm tòi, khám phá về một vùng đất tươi đẹp, trù phú nơi các em sinh
sống, thấy được những ước mơ về cuộc sống yên bình, sung túc, giàu có của người
xưa hay những chiến tích oai hùng còn lưu danh, văn hóa của một thời kì, sự thay
đổi của một vùng đất…
Bến Tre là một tỉnh nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long nhưng được biết đến
với những chiến tích oai hùng, kiêu dũng, người dân nơi đây có một bề dày đấu
tranh kiên cường, bất khuất với nhiều danh nhân lịch sử: Võ Trường Toản, Phan
Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyệt Anh, Nguyễn
Thị Định…cùng với các phong trào nổi dậy của quần chúng như Khởi nghĩa Nam
Kì, phong trào Đồng Khởi. Nhắc đến Bến Tre là nghĩ đến phong trào Đồng Khởi,
có thể xem, đây là phong trào đòn bẩy, làm cơ sở cho sự nỗi dậy của các phong trào
khác trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ ở Nam Kì.
Được mệnh danh là vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, trải qua bao đời Bến Tre
vẫn còn lưu giữ nguyên các giá trị của nó. Mặc dù lịch sử hình thành vùng đất chỉ
3
khoảng hơn 300 trăm, song địa danh ở đây được kết tinh bởi nhiều vùng văn hóa
của các dân tộc khác nhau trong buổi đầu khai phá như Chăm, Khơme, Hoa…, “địa
danh ở đây không phải là đơn giản”[ Nguyễn Văn Âu, 2000, tr 142]. Có thể nói Bến
Tre là một vùng đất đầy tiềm năng và hấp dẫn, là mãnh đất màu mỡ cho các ngành
khoa học nghiên cứu trong đó có địa danh.
Vận dụng những lí thuyết về ngôn ngữ học, kết hợp với kiến thức về lịch sử,
địa lý, văn hóa, dân tộc cũng như công tác thực tế chúng tôi muốn khắc họa toàn
cảnh về bức tranh địa danh ở Bến Tre không nằm ngoài những mục đích nêu trên và
lòng tự hào về vùng đất Đồng Khởi anh hùng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống địa danh ở Bến Tre, là toàn bộ
các địa danh chỉ đối tượng tự nhiên như địa hình, sông, rạch…tên gọi các đối tượng
nhân tạo như địa danh chỉ các công trình xây dựng thuộc về không gian hai chiều
như tên đường sá, cầu cống, kênh… tên gọi các địa danh hành chính như tên ấp,
xã…và các địa danh chỉ vùng.
Trên cơ sở kế thừa những người nghiên cứu trước, người làm luận văn cũng
muốn góp phần hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu của đối tượng địa danh ở
Bến Tre nói riêng và đối tượng của địa danh học ở Việt Nam nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Bước đầu nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ, qua thu thập tài liệu, chúng
tôi điều tra thực tế mục đích là để làm sáng rõ về phương thức cấu tạo địa danh,
nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình biến đổi địa danh ở Bến Tre góp phần làm phong
phú ngành địa danh học Việt Nam.
Công trình hệ thống lại những khái niệm về địa danh, quá trình phân bố địa
danh, phân loại địa danh, đối tượng nghiên cứu trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát
triển.
Chúng tôi góp phần gìn giữ về lịch sử tiếng Việt, bảo tồn phương ngữ của một
vùng đất.Qua đó, chúng ta còn thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa địa danh với các
4
phân ngành như từ vựng học, ngữ âm học và ngữ pháp học cũng như mối quan hệ
giữa địa danh học với các ngành khoa học khác như: địa lý học, lịch sử học, văn hóa
học, dân tộc học…
Chúng tôi bổ sung, hệ thống lại, làm sáng rõ nguồn gốc, ý nghĩa những địa
danh ở Bến Tre vốn còn bị thờ ơ, mờ nhạt.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu địa danh không nằm ngoài những mục đích nêu
trên trên cơ sở mang tính chất lí luận và tính thực tiễn của việc nghiên cứu.
4. Lịch sử nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Địa danh Việt Nam thật sự hình thành và phát triển chỉ vài chục năm trở lại
đây. Nói như vậy, không có nghĩa là dân tộc ta không quan tâm đến nguồn gốc, sự
hình thành và phát triển cũng như quá trình biến đổi của địa danh. Ở giai đoạn trước
đó nó chỉ được đề cập trong các tản văn, sách biên khảo địa phương chí, chủ yếu
nhìn nhận địa danh ở góc độ lịch sử, địa lý.
Trong An Nam chí lược của tác giả Lê Tắc (1333), một Việt gian ở đời Trần có
ghi chép về danh sách những khu vực hành chánh, những núi sông lớn và những cổ
tích danh tiếng của thời đại nhà Trần trở lên. Lê Qúi Đôn với Phủ biên tạp lục gồm
6 quyển (1776), cũng có bàn đến một số địa danh thuộc lĩnh vực kinh tế, chính trị,
địa lí, lịch sử, văn hóa ở miền Nam nước ta
Thời nhà Nguyễn, đời Gia Long có bộ sách Nhất thống dư địa chí của Lê
Quang Định gồm 10 quyển đã ghi chép hệ thống giao thông đường bộ ở nước ta từ
kinh đô Phú Xuân đến Gia Định, và từ kinh đô đến Lạng Sơn, còn đường thủy được
ghi chép từ Gia Định đến Vĩnh Trấn (Vĩnh Long). Tác giả giới thiệu một cách tổng
quan về đường đi nước bước theo chiều dài đất nước.
Sau Lê Quang Định, có tác giả Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thông chí
(có thể hoàn thành trong đời Gia Long, 1802-1820), sách gồm sáu quyển: Tinh dã
chí, Sơn xuyên chí, Cương vực chí, Phong tục, Sản vật, Thành trì. Sách này đã phản
ánh đầy đủ về đất Gia Định thuộc vùng đất Nam Bộ, là bộ sách quý thể hiện ở
5
nhiều phương diện như diên cách địa lý, thành trì, khí hậu và các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, đặc biệt là giới thiệu nguồn gốc và lí giải một số địa danh.
Ở đời Minh Mệnh (1820-1840), Phan Huy Chú cho ra đời Lịch triều hiến
chương loại chí bộ sách gồm 49 quyển, trong đó 5 quyển bàn về sự khác nhau về
phong thổ, cương vực qua các đời của các trấn từ Bắc vào Nam và được đánh giá là
“ một bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống ở Việt Nam” [Nguyễn Tấn Anh, tr.5].
Đặng Xuân Bảng sống ở đời Tự Đức (1847-1883) biên soạn cuốn Sử học bị
khảo trong đó có phần bàn về Tiên triều địa danh diên cách có giải thích về sự thay
đổi một số địa danh, phân loại địa danh. Đại Nam nhất thống chí (1882) gồm nhiều
quyển, mỗi quyển chép về một tỉnh gồm các nội dung: phương vị, phân dã, kiên trì
diên cách, phủ huyện, hình thể, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu, hộ khẩu,
điền phú, sơn xuyên, quan tấn, dịch trạm, thị lập, từ miên,tự quán, nhân vật, thổ
sản. Đây được xem là bộ địa chí phản ánh đầy đủ nhất các mặt của đời sống dân tộc
Việt Nam, trong đó bộ sách có giải thích về nguồn gốc, ý nghĩa và cách thức biến
chuyển của địa danh.
Đời Đồng Khánh (1885-1889), có bộ Đồng Khánh địa dư chí lược (1886) đã
ghi chép đầy đủ danh sách các phủ, huyện, tổng, xã. Cùng thời điểm này còn có
cuốn Đại nam quốc cương giới vựng biên cả Hoàng Hữu Xứng gồm bảy quyển,ở
sau sách có bản đồ chỉ toàn bộ địa vực nước Việt Nam. Có thể nói đây là những tài
liệu quí giá cho việc tìm hiểu vị trí, sự thay đổi các địa danh lịch sử.
Đến thời thuộc Pháp người ta có bàn về địa danh nhưng chủ yếu phục vụ cho
mục đích truyền đạo của các giáo sĩ và công cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Cuối thế kỉ XIX các địa danh được ghi chép lại chủ yếu là địa danh hành chính,
phục vụ cho chính trị xã hội đó là tập Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX (thuộc
các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra). Đầu thế kỉ XX giáo sĩ L. Cadiêre có nghiên cứu địa lý
lịch sử tỉnh Quảng Bình Géographie historique du Quảng Bình d’après les annales
imperials (địa lý học lịch sử tỉnh Quảng Bình theo Quốc triều thực lục). Những năm
mười của thế kỉ XX nhà Hán học H.Maspéro nghiên cứu về địa lý học lịch sử nước
ta ở nhiều đời khác nhau gồm các tập Le Protectorat général de L’Annam sous les
6
Tang (An Nam đô hộ phủ ở đời Đường); La géographie politique de L’Annam sous
les Lý, les Trần ei les Hồ (địa lí học chính trị ở các triều Lý, Trần, Hồ). Đến năm
1928, tác giả Ngô Vĩ Liễn có biên soạn cuốn Tự vựng làng xã ở Bắc Kỳ cũng đã góp
phần củng cố, bổ sung vốn địa danh hành chính lúc bấy giờ. Đến khoảng năm 1936
Cl. Madrolle có bài Le Tonkin anciens (xứ Bắc Kỳ xưa) đã nghiên cứu về vị trí các
quận Giao Chỉ thời Hán thuộc.
Khi địa danh học thế giới có sự biến chuyển đáng kể từ giai đoạn hình thành
sang giai đoạn phát triển thì địa danh học Việt Nam mới dần hình thành vào giữa
thế kỉ XX. Ở giai đoạn này, do ảnh hưởng sự phát triển của địa danh học thế giới
như Ý, Pháp, Nga…địa danh học Việt Nam có sự khởi sắc. Từ những năm 1960
trong bài Đất Việt trời Nam và Sông núi miền Nam (địa danh học và phong tục học),
tác giả Thái Văn Kiểm đã chỉ ra được đặc điểm, nguồn gốc, ý nghĩa và cách phân
loại của một số địa danh dưới góc độ lịch sử văn hóa. Năm 1964, Đào Duy Anh cho
ra đời tác phẩm Đất nước Việt Nam qua các đời. Tác giả đã dùng phương pháp lịch
sử địa lý nghiên cứu về địa lý hành chính để xác định cương vực, vị trí và sự thay
đổi các khu vực hành chính cũng như sự mở rộng lãnh thổ ở các đời khác nhau,
trong đó địa danh được chú ý nhiều. Cùng năm này, có một nữ tác giả tên Hoàng
Thị Châu đã có bước đột phá trong lĩnh vực nghiên cứu địa danh ở góc độ ngôn ngữ
học qua việc tìm hiểu địa danh sông với sản phẩm Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở
Đông Nam Á qua một vài tên sông [1964]. Năm 1976, Trần Thanh Tâm trong bài
viết Thử bàn về địa danh học Việt Nam đã nêu lên được những vấn đề cơ bản cho
địa danh học Việt Nam. Tuy nhiên cách phân loại địa danh còn dài dòng lại chưa
phản ánh đầy đủ nội dung của địa danh.
Vận dụng những kiến thức về địa danh học, năm 1984, tác giả Đinh Văn Nhật
đã có Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên cứu địa lý học, lịch sử cổ
đại Việt Nam bài viết phần nào cho thấy được sự kết hợp giữa địa danh với các
chuyên ngành khác.
Năm 1993, Nguyễn Văn Âu xuất bản cuốn Địa danh Việt Nam và năm 2000
tái bản dưới nhan đề Một số vấn đề về địa danh Việt Nam. Hai cuốn sách đã phản
7
ánh được về đối tượng, về nguyên tắc đặt tên, về cách phân loại, phân vùng và sự
biến đổi của địa danh. Tuy nhiên, tác giả vẫn còn vận dụng cách lí giải địa danh
dưới góc địa lý học lịch sử.
Nguyễn Quang Ân đã biên soạn công phu, nghiêm túc cuốn sách Việt Nam-
những thay đổi địa danh và địa giới hành chính 1945-1997, góp phần giúp chúng ta
tra cứu về địa danh, địa giới hành chính trong lịch sử và những biến đổi của nó.
Ngành địa danh học Việt Nam ngày càng tạo được sự hứng thú cho các nhà
nghiên cứu cày xới, tìm tòi, phát hiện. Nếu như trước đó địa danh học đa phần được
đề cập ở các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử thì từ những năm 1990 trở về sau địa
danh tạo được sự thu hút của nhiều nhà khoa học như văn hóa học, dân tộc học,
nhân chủng học… đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học.
Có thể nói lần đầu tiên luận án phó tiến sĩ về địa danh học được nghiên cứu ở
góc độ ngôn ngữ được tác giả Lê Trung Hoa bảo vệ thành công vào năm 1990 với
đề tài Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả trình
bày một cách hệ thống các vấn đề về đối tượng, nguyên tắc, phương pháp nghiên
cứu, cách phân loại, phương thức đặt địa danh, cấu tạo, nguốn gốc, ý nghĩa và sự
phản ánh hiện thực của địa danh. Đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc, đào sâu
một cách kĩ lưỡng và là cần thiết cho những ai quan tâm về địa danh học. Ngoài ra
hàng loạt các bài báo, tạp chí về địa danh của tác giả được phát hành như Tìm hiểu
ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố chung trong địa danh Nam Bộ (1983), Địa
danh bằng chữ và địa danh bằng số (1999), Chung quanh thuật ngữ địa danh
(2000), Vấn đề dịch các địa danh thuần Việt ở Nam Bộ từ các văn bản Hán (2002),
Địa danh hành chính ở Việt Nam (2002), Các phương pháp cơ bản trong việc
nghiên cứu địa danh (2002), Vấn đề biên soạn từ điển địa danh (2003), Những nét
đặc thù của địa danh hành chính Nam Bộ (2004)…Tiếp đến năm 2006, Lê Trung
Hoa cho ra đời một công trình nghiên cứu mang tầm cao mới, sách Địa danh học
Việt Nam, tác phẩm cho thấy ngoài việc hệ thống lại các vấn đề đã nêu trong luận án
trước đó, tác giả còn tiếp tục mở rộng việc nghiên cứu về địa danh ở nhiều vùng
khác nhau như vùng Tây, Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên, Chăm,
8
Khơme cũng như cách tìm hiểu ý nghĩa của một số thành tố chung, nguồn gốc và ý
nghĩa một số địa danh ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ, cách phân vùng địa
danh…Đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị cao.
Góp phần làm phong phú và hiệu quả cho ngành địa danh học Việt Nam, năm
1996 trong luận án tiến sĩ Những đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng (sơ bộ so
sánh với địa danh một số vùng khác, tác giả Nguyễn Kiên Trường đã phát triển
thêm lên trên cơ sở mà Lê Trung Hoa nêu trước đó. Ngoài ra tác giả đã phân loại
địa danh theo đối tượng địa lý tự nhiên và nhân văn, theo chức năng giao tiếp và
theo hệ quy chiếu đồng đại, lịch đại cũng như có so sánh về cấu tạo, nguồn gốc, ý
nghĩa và sự biến đổi địa danh Hải Phòng so với các vùng khác.
Năm 1999, tác giả Bùi Đức Tịnh cho biết thêm về địa danh được dùng cho các
vật thể nào, phương cách đặt tên cho từng vật thể, những biến đổi liên hệ đến địa
danh và cho biết các từ tố hay xuất hiện trong địa danh trong Lược khảo nguồn gốc
địa danh Nam Bộ. Tác phẩm cũng đã góp phần không nhỏ cho ngành địa danh học.
Ngoài ra còn có luận án Nghiên cứu địa danh Quảng Trị của Từ Thu Mai bảo vệ
vào năm 2004. Luận án dựa trên những lí thuyết cơ bản trong nghiên cứu địa danh
của Lê Trung Hoa và Nguyễn Kiên Trường trước đó và đi sâu nghiên cứu địa danh
ở góc độ văn hóa. Tiếp đến là luận án Những đặc điểm chính của địa danh Dak Lăk
(2005) của Trần Văn Dũng và nhiều luận văn, từ điển khác đã nghiên cứu về địa
danh.
Nhìn chung việc nghiên cứu về địa danh từng bước đã được xác lập và ngày
càng có nhiều người tham gia lĩnh vực này, góp phần làm phong phú cho ngành địa
danh học Việt Nam. Tuy nhiên ở Bến Tre vẫn chưa có công trình nào đào sâu kĩ
lưỡng, vẫn còn nhiều cách hiểu và lí giải khác nhau theo cảm thức. Đặc biệt tìm
hiểu địa danh ở góc độ ngôn ngữ còn mờ nhạt, chưa hệ thống và đó là cơ sở là động
lực để người làm luận văn hướng tới.
9
4.2. Nghiên cứu địa danh trong tỉnh Bến Tre
Trước đây địa danh trong tỉnh Bến Tre cũng như ở Nam Kì Lục tỉnh chỉ được
nhắc đến trong việc tìm hiểu về địa lý chí, lịch sử của triều nhà đại nhà Nguyễn,
nhằm phục vụ cho việc quản lí, cai trị.
Những năm sau đó, người sống trên đất Bến Tre - Trương Vĩnh Ký- có biên
soạn cuốn Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (tiểu giáo trình địa lý
xứ Nam Kì) (1875), ngoài việc giới thiệu sơ nét về lịch sử Nam Bộ thời bấy giờ,
ông còn nêu lên về địa lý hành chính Nam Bộ, sự phân chia hành chính của triều
đình phong kiến và của thực dân Pháp.
Vào năm 1903, Imp.L. Ménard đã biên soạn cuốn Monographie de la province
de Bến Tre để tìm hiểu riêng về địa lý, hành chính của Bến Tre cuối thế kỉ XIX, tài
liệu này đã góp phần không nhỏ trong việc nghiên cứu địa danh lịch sử, sự tồn tại
và sự biến đổi của địa danh.
Đến năm 1965, trong Kiến Hòa xưa và nay, tác giả Huỳnh Minh đã đề cập đến
vùng đất, lịch sử, con người Bến Tre cũng như về địa danh. Địa danh được tác giả
nhìn nhận dưới góc độ lịch sử, địa lý, văn hóa và còn nêu lên nguyên nhân thay đổi
của một số địa danh, giúp cho chúng ta hiểu rõ về địa danh xưa để có thể hiểu đúng
về địa danh nay.
Năm 1967, trong Địa phương chí tỉnh Kiến Hòa cũng đã khái quát lên được
tên gọi của các địa danh tiêu biểu trong tỉnh, nguồn gốc và ý nghĩa của một số địa
danh, đây là tài liệu địa danh lịch sử có ích cho việc nghiên cứu, đối chiếu địa danh
ngày nay.
Người Bến Tre hiểu rõ về Bến Tre là tác giả Nguyễn Duy Oanh. Năm 1971,
tác giả biên soạn cuốn Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945.
Mặc dù tiêu đề chỉ tính lịch sử nhưng trong tác phẩm của ông đề cập ở nhiều khía
cạnh như địa lý, lịch sử, kinh tế, hành chính…trong đó có địa danh, giải thích một
số địa danh, sự hình thành và sự thay đổi những địa danh hành chính dưới góc độ
địa lý, lịch sử cũng như cho biết những huyền thoại gắn với địa danh như thế nào.
10
Có thể nói đây là tài liệu quý giá không những cho các nhà nghiên cứu ở lĩnh vực
lịch sử mà còn cung cấp những cứ liệu cho những ai quan tâm về địa danh.
Năm 1985, tác giả Nguyễn Phương Thảo có bài viết về địa danh đăng trên tạp
chí dân tộc học Những đặc điểm cấu thành các địa danh ở Bến Tre. Lần đầu tiên
một số địa danh Bến Tre được nghiên cứu ở góc độ ngôn ngữ về nguồn gốc, ý
nghĩa, cách cấu tạo và thống kê địa danh theo đặc điểm cấu thành. Tuy nhiên cách lí
giải của tác giả còn có những điều bất cập và chưa đủ cơ sở thuyết phục đôi khi rơi
vào cảm quan chủ nghĩa.
Năm 1993, Vương Hồng Sển, một người con Nam Bộ biên soạn cuốn “Tự vị
tiếng Việt miền Nam” đã trình bày những nét cơ bản về nguồn gốc, ý nghĩa và sự
biến đổi của địa danh Nam Bộ trong đó có Bến Tre. Đây là công trình được nghiên
cứu công phu, kĩ lưỡng góp phần làm nên diện mạo về lịch sử, địa lý, về vốn từ
vựng, về tiếng địa phương của vùng đất này và là tài liệu hữu ích cho những ai
nghiên cứu về từ nguyên học.Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, sự kiến giải của
tác giả còn mang tính chủ quan, và phản ánh nội dung vấn đề chưa đựơc đầy đủ.
Địa chí Bến Tre của tác giả Thạch Phương- Đoàn Tứ và những người khác (tái
bản lần thứ nhất năm 2001) là một công trình nghiên cứu đòi hỏi thời gian lâu dài
và cả sự kiên trì của một đội ngũ lao động tập thể, công trình đã bao quát được toàn
bộ những nét cơ bản về lịch sử, văn hóa, địa lý, kinh tế, xã hội, con người và dành
những trang viết riêng về địa danh ở Bến Tre. Tuy nhiên, cách lí giải của các tác giả
về địa danh chủ yếu là ở phương diện lịch sử, địa lý. Dù vậy, có thể xem đây là
bước khởi đầu cho sự khởi thủy của việc nghiên cứu địa danh.
Ngoài ra địa danh cũng còn được đề cập trong các tài liệu khoanh vùng ở cấp
huyện như: Ba Tri đất và người(1984 - nhiều tác giả), Bình Đại địa chí (1987 -
nhiều tác giả), Giồng Trôm xưa và nay (2006 - nhiều tác giả).
Gần đây, một vài tác giả có những bài báo, tạp chí có nói về địa danh ở Bến
Tre như Địa danh ở Bến Tre của Nguyễn Thanh Lợi (2005), Vài nét về địa danh ở
Bến Tre của Nguyễn Thị Hồng Chi (2006) đã trình bày sơ nét về đối tượng, phân
loại, ý nghĩa và cách cấu tạo của một số địa danh nhưng việc tiếp cận chỉ mang tính
11
chất sơ bộ, chưa làm nổi bật được đặc trưng riêng của địa danh ở Bến Tre. Nhưng
cũng có thể xem đây là bước tiếp cận khởi đầu đáng quý của các tác giả.
Nhìn chung địa danh ở Bến Tre chỉ được tìm hiểu một cách riêng lẻ, tự phát,
đôi khi rơi vào cảm thức chủ quan của người viết. Việc nghiên cứu địa danh đòi hỏi
phải có thời gian, vốn sống, thu thập cứ liệu, thông tin, so sánh đối chiếu, lí giải,
phát triển và đặc biệt người làm luận văn là con của vùng đất này cho nên nghiên
cứu địa danh của tỉnh nhà sẽ có một lợi thế. Chính vì động lực yêu quí vùng đất nơi
mình sinh ra và lớn lên, với thái độ nghiêm túc chúng tôi sẽ cung cấp những cứ liệu
nghiên cứu địa danh một cách chính xác và có hệ thống hơn.
5. Phương pháp và nguyên tắc nghiên cứu
Do tính chất phức tạp của việc nghiên cứu địa danh nên chúng tôi có thể vận
dụng nhiều phương pháp khác nhau trong việc nghiên cứu. Hiện nay, các tác giả khi
nghiên cứu về địa danh cũng đã vận dụng nhiều phương pháp khác nhau.
Theo Nguyễn Văn Âu thì tùy theo đối tượng và hoàn cảnh cụ thể mà có thể sử
dụng một hay nhiều phương pháp cùng lúc. Tác giả cho rằng: “Địa danh học có liên
quan chặt chẽ với ngôn ngữ, văn tự, nên loại nghiên cứu qua văn học là rất quan
trọng” [1993, tr.9] và đưa ra các phương pháp sau: a- Muốn giải thích được địa
danh phải dựa vào thông tục học ,b- Muốn xác định được nguồn gốc phải căn cứ
vào từ nguyên học và c- Qua ngôn ngữ học dân tộc. Trong tác phẩm Một số vấn đề
về địa danh học Việt Nam (2000), ngoài các phương pháp đã nêu ở trên tác giả chú
ý thêm về phương pháp địa lý và phương pháp lịch sử khi nghiên cứu địa danh.
Trong luận án của mình, Nguyễn Kiên Trường đã sử dụng phương pháp tổng
hợp của ngôn ngữ học và ngoài ngôn ngữ bao gồm các phương pháp sau: Phương
pháp ngữ âm học- so sánh lịch sử; phương pháp địa lý- ngôn ngữ học(phương ngữ
học), phương pháp bản đồ, phương pháp thống kê ngôn ngữ học, phương pháp
nghiên cứu của từ vựng, phương pháp ngôn ngữ học xã hội, phương pháp nghiên
cứu theo hướng đồng đại, lịch đại và các phương pháp tri thức của địa lý học, sử
học và văn hóa học.
12
Nhìn chung, những phương pháp mà các tác giả đưa ra khi nghiên cứu về địa
danh đã khái quát lên được mục đích, nhiệm vụ và hiệu quả của công việc này. Tuy
nhiên phương pháp mà tác giả Nguyễn Văn Âu đưa ra chưa đủ để tiến hành nghiên
cứu. Còn phương pháp mà tác giả Nguyễn Kiên Trường đưa ra hơi dài dòng, phức
tạp nhưng lại không đủ cho việc nghiên cứu địa danh. Vì địa danh gắn liền với một
vùng đất nào đó đòi hỏi người nghiên cứu phải sử dụng phương pháp điền dã vì đôi
khi có những công việc đòi hỏi phải đi thực tế mới có thể đưa thông tin đúng và
chính xác.
Ở luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp và nguyên tắc nghiên cứu
địa danh của tác giả Lê Trung Hoa để nghiên cứu về địa danh ở tỉnh Bến Tre.
5.1. Phương pháp nghiên cứu
5.1.1. Thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp chúng ta hệ thống được sự phân bố về số lần xuất hiện
của các thành tố chung của địa danh, từ đó lí giải để nhận định đặc điểm, tính chất
của vùng đất đó. Ngoài ra việc thống kê giúp chúng ta định lượng để xác định được
về mặt cấu tạo, phương thức cấu thành, cũng như ý nghĩa của nó. Thống kê giúp
cho chúng ta không chỉ có cứ liệu để lập bảng nghiên cứu, tiến hành phân loại mà
còn giúp ta có cái nhìn toàn cảnh về địa danh tỉnh nhà.
Trước khi tiến hành thống kê, chúng tôi đã thu thập những cứ liệu trên bản đồ,
trên tài liệu tham khảo, trên các sách địa phương chí và đặc biệt là công tác thực tế
ở các huyện, thị xã trong tỉnh. Sau đó tiến hành phân loại để có cái nhìn hệ thống
hơn về địa danh. Có thể phân loại địa danh Bến Tre theo tiêu chí loại hình gồm địa
danh tự nhiên và địa danh không tự nhiên, trong đó địa danh tự nhiên chỉ địa hình
thiên nhiên, còn địa danh nhân tạo, địa danh chỉ các công trình xây dựng thuộc về
không gian hai chiều, địa danh hành chính và địa danh vùng. Ngoài ra còn có thể
phân loại theo ngữ nguyên gồm địa danh thuần Việt và địa danh không thuần Việt
và theo cách thức gọi tên như địa danh mang tên người, địa danh mang tên các loài
thực vật, địa danh mang tên các loài động vật…
13
5.1.2. Điền dã
Đầu tiên, việc đi thực tế giúp cho người nghiên cứu bổ sung thêm đầy đủ
những cứ liệu trong việc thống kê địa danh. Tiếp theo, công tác thực địa giúp cho
người thực hiện làm sáng rõ những vấn đề còn bỏ ngỏ, nghi vấn hay tranh cãi mà
chưa có lời giải đáp hay sự thống nhất. Việc “tai nghe mắt thấy” sẽ giải đáp được
nguồn gốc, sự hình thành và mất đi của các địa danh, ý nghĩa của chúng, đối chiếu
với những cứ liệu còn nghi vấn, điền vào chỗ trống những vấn đề còn bỏ ngỏ hay lí
giải xác đáng các vấn đề đang tranh cãi.
Ngoài ra, công tác điền dã giúp phát hiện ra các địa danh còn đang tiềm tàng,
bí ẩn ở đâu đó, đối chiếu với những địa danh còn nghi ngờ hay sửa sai các địa danh
trên bản đồ, sách báo.
5.1.3. So sánh đối chiếu
Phương pháp này là một hệ thống thủ pháp nghiên cứu khoa học để chúng ta
tìm ra cái chung và cái đặc thù của các địa danh được đối chiếu, so sánh, cũng như
xác định được điểm giống và khác nhau giữa địa danh vùng này và địa danh vùng
khác, phát hiện ra những quy luật, những khuynh hướng đặc trưng của địa danh
vùng đang nghiên cứu và xác định những yếu tố tương đương giữa địa danh được so
sánh, đối chiếu. Do đó, sử dụng thủ pháp đối chiếu, so sánh ở bình diện đồng đại và
bình diện lịch đại sẽ giúp chúng ta xác định được nguồn gốc và ý nghĩa của địa
danh, những thay đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, từ vựng của các địa danh đó.
Các địa danh đã bị chuyển hóa sẽ được phục nguyên lại cái hình thái ban đầu
của các địa danh để xác định quá trình biến đổi của chúng như thế nào. Chắc chắn
chúng ta phải dùng đến phương pháp so sánh lịch sử.
5.1.4. Khảo sát bản đồ
“Bản đồ cho cái nhìn toàn cảnh về không gian và thời gian ở một thời điểm
nhất định của một lớp địa danh thuộc một khu vực, địa bàn, có khi cả một vùng
rộng lớn nhưng lại rất chi tiết về đối tượng và tên gọi đối tượng”[Nguyễn Kiên
Trường, 1996, tr.6]. Phương pháp khảo sát bản đồ sẽ giúp chúng ta nhận biết được
14
những nhóm địa danh xuất hiện nhiều ở khu vực nào, nhằm xác định được tính lí do
của chúng, cũng như nguồn gốc và ý nghĩa của chúng.
Khảo sát, đối chiếu các bản đồ ở nhiều giai đoạn khác nhau nhằm giúp chúng
ta biết được địa danh nào hình thành, địa danh nào tồn tại và địa danh nào mất đi,
cách thay đổi về ngữ âm, chữ viết, hay phát hiện được cách thay đổi tên gọi khác
nhau của cùng một đối tượng để phát hiện nguyên nhân thay đổi đó, và nhằm mục
đích gì.
Ngoài những phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tích hợp,
tìm hiểu địa danh trong liên hệ với nhân danh, hiệu danh, vận dụng linh hoạt, hiệu
quả của thủ pháp diễn dịch và qui nạp để đạt hiệu quả nghiên cứu tốt nhất.
5.2. Nguyên tắc nghiên cứu
Tác giả Nga A.I. Popov đã có một bài viết trình bày Những nguyên tắc cơ bản
của việc nghiên cứu địa danh (Osnovnye prinsipy toponimi cheskogo issledovanija)
trong đó có hai nguyên tắc cơ bản mà tác giả nhắc nhở đối với người làm công việc
này là: thứ nhất -Phải dựa vào tư liệu lịch sử như sách báo, biểu đồ, bản đồ của các
ngành ngôn ngữ học, nhân chủng học, địa lý học, thứ hai- Phải thận trọng khi vận
dụng phương pháp thành tố để phân tích ngữ vĩ của địa danh vì có thể dẫn đến sai
lầm [Lê Trung Hoa, 2006, tr.33]. Còn Ch. Rostaing, một tác giả người Pháp trong
Les noms de lieux (1965) thì cho rằng khi nghiên cứu địa danh phải dựa trên các
nguyên tắc là phải tìm các hình thức cổ của các từ cấu tạo địa danh. Tiếp theo là dựa
trên kiến thức ngữ âm học địa phương để xác định đúng từ nguyên của địa danh nào
đó.
Tham khảo các nguyên tắc trên của các nhà địa danh học, tác giả Lê Trung
Hoa đã đưa ra 5 nguyên tắc cơ bản khi nghiên cứu địa danh:
1. Phải hiểu rõ lịch sử địa bàn của mình cần nghiên cứu
2. Phải hiểu rõ địa hình của địa bàn
3. Phải tìm những hình thức cổ của địa danh
4. Phải nắm vững đặc điểm về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của phương ngữ tại
địa bàn
15
5. Phải thận trọng trong việc vận dụng các phương pháp ngôn ngữ học khi
phân tích địa danh. [2006, tr.34-37].
Chúng ta biết rằng địa danh khi ra đời, tồn tại và biến đổi đều bị chi phối bởi
những hoàn cảnh của chính trị, xã hội, địa lý học, lịch sử, văn hóa trong một điều
kiện nhất định nào đó. Nói như vậy, không có nghĩa là các địa danh đều có sự biến
đổi theo thời gian, sự biến đổi, chuyển hóa được biểu hiện qua nhiều hình thức như
hiện tượng bớt âm, thêm âm, rụng âm hay nói trại âm và cả khi viết sai chính tả. Có
những địa danh tồn tại từ lúc hình thành cho đến nay không thay đổi ý nghĩa, và có
một số địa danh chỉ còn tồn tại ở hình thức cổ của nó, hay có những địa danh hình
thành gắn với những biến cố lịch sử, một hiện tượng tự nhiên hay một vấn đề xã
hội nào đó và địa danh còn có ảnh hưởng, tác động qua lại với các nhiều ngành
khoa học khác như địa lý học, sử học, văn hóa học, dân tộc học, ngôn ngữ học…Vì
thế những nguyên tắc mà tác giả Lê Trung Hoa trình bày ở trên sẽ được chúng tôi
vận dụng để nghiên cứu về địa danh ở Bến Tre.
6. Tư liệu nghiên cứu
Nhằm phản ánh tương đối đầy đủ, chính xác và hiệu quả địa danh ở Bến Tre,
chúng tôi sưu tầm, thu thập, tập hợp các nguồn tư liệu sau:
- Tài liệu lưu trữ về địa danh từ các cấp xã đến huyện, tỉnh.
- Tài liệu thống kê về sự thay đổi một số địa danh
- Bản đồ các loại của 8 huyện trong tỉnh hiện nay, bản đồ các quận của tỉnh thời
Pháp trong Dictionaire Annamite- Francais (1898) của Génibrel….Bản đồ tỉnh Bến
Tre (1941,1954); Bản đồ tin tức về tỉnh Kiến Hòa năm (1965); Bản đồ Kiến Hòa
sông ngòi (1967), Bản đồ hành chính Trúc Giang (1967), Bản đồ hành chính tỉnh
Kiến Hòa (1970), …
- Các sách địa phương chí của tỉnh Bến Tre từ xưa đến nay và của các huyện thị,
hay các tài liệu viết về lịch sử, địa lý, văn hóa của tỉnh như: Kiến Hòa (Bến Tre)
xưa của Huỳnh Minh (1965), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam từ năm 1757-
1945 của Nguyễn Duy Oanh (1971)…
16
- Các văn bản về địa lý, lịch sử, cư dân của các tổ chức chính quyền phong kiến
và chế độ thực dân.
- Các tài liệu cổ có liên quan như Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quí Đôn, Gia
Định thành thông chí (1820) của Trịnh Hoài Đức, Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí, Đại
Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn.
- Tư liệu về sách báo, tạp chí, bài viết có liên quan…
7. Lợi ích của việc nghiên cứu
Công việc đi vào tìm hiểu về địa danh không phải đơn giản, bởi lẽ địa danh tồn
tại đó, người ta dùng để giao tiếp đó nhưng ít khi người ta tự hỏi nó hình thành, phát
triển, biến đổi và mất đi như thế nào. Và cũng không ít lần nhiều người trong chúng
ta nhắc về một địa danh nào đó và tự hỏi tại sao người ta dùng tên gọi đó mà không
phải là tên gọi khác, nó có ý nghĩa như thế nào và nhằm mục đích gì, nó có từ bao
giờ. Và đúng lúc này, vai trò của người nghiên cứu điạ danh sẽ được thể hiện, ngoài
việc làm sáng rõ những chất vấn trên, khi nghiên cứu về địa danh còn đem lại
những lợi ích khác:
- Qua địa danh chúng ta không những hiểu rõ địa danh đó mà còn hiểu được
nhiều mặt về địa lý, lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, con người, vì địa
danh là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội và những điều kiện tất yếu của tự nhiên.
- Địa danh tồn tại và gắn với vùng đất nào đó, chắc chắn qua địa danh, ta biết
được quá trình hình thành vùng đất đó, lịch sử của vùng đất cũng như địa lý của một
vùng.
- Hiểu được ngôn ngữ địa phương, xác định vị trí của nó trong ngôn ngữ toàn
dân và góp phần làm phong phú vốn từ vựng tiếng Việt và là phương tiện cho con
người giao tiếp.
- Nhận thức được phong tục tập quán của cộng đồng, văn hóa của vùng đất,
giúp con người xích lại gần nhau hơn. Từ đó, việc nghiên cứu góp phần gìn giữ và
phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Địa danh còn thể hiện lòng tự hào dân tộc, phát triển, làm giàu cho đất nước.
17
- Địa danh còn giáo dục con người lòng yêu quê hương đất nước, nơi “chôn
nhau cắt rốn” của mình.
- Đặc biệt là nguồn tư liệu cần thiết cho tỉnh nhà, ít nhiều cung cấp những kiến
thức cơ bản cho các ngành khoa học có liên quan.
Cuối cùng, việc nghiên cứu đem lại niềm vui, hứng khởi cho người làm luận
văn, người Bến Tre nói về vùng đất Bến Tre.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn
Chương này chúng tôi hệ thống lại những cơ sở lý thuyết về địa danh, vạch ra
phương hướng cho các chương tiếp theo, làm rõ về khái niệm, xác định đối tượng,
cách phân loại địa danh. Ngoài ra, chúng tôi còn đưa ra một số quy cách viết hoa
địa danh, cũng như giới thiệu một cách tổng quan về lịch sử hình thành vùng đất
Bến Tre và địa lý của vùng đất này, giúp chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về địa danh
nơi đây.
Chương 2: Phương thức định danh, đặc điểm về mặt cấu tạo và nguyên nhân
biến đổi của địa danh ở Bến Tre
Có nhiều ý kiến khác nhau trong việc đưa ra các phương thức đặt địa danh.
Với việc đề cập đến điều này, trước tiên chúng tôi muốn làm sáng tỏ những phương
thức khác nhau trong việc gọi tên đối tượng, qua đó chúng tôi cũng muốn góp phần
tạo ra sự thống nhất các ý kiến trong việc định danh đối tượng ở các nhà nghiên
cứu.
Tiếp theo chúng tôi muốn làm nổi rõ về đặc điểm cấu tạo của địa danh ở Bến
Tre, cũng như tìm hiểu những vấn đề về thành tố chung của địa danh. Đồng thời nêu
lên những nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa của địa danh
nơi đây.
Chương 3: Giá trị phản ánh hiện thực, đặc điểm về nguồn gốc và ý nghĩa của
địa danh ở Bến Tre.
18
Bên cạnh việc giải thích về nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh tự tạo và vay
mượn, hay địa danh còn đang tranh cãi, chúng tôi cũng chú ý tập về tính hiện thực
của địa danh phản ánh điều gì, để thấy được tâm tư, tình cảm của người xưa gửi
gắm ở trong đó như thế nào, để thấy được giá trị tồn tại của địa danh ra sao.
Ngoài ra ở phần phụ lục: chúng tôi thống kê hơn 4000 địa danh ở Bến Tre theo
nội dung phân loại.
19
Chương 1: NHỮNG TIỂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
3.1. Những tiền đề lý luận
1.1.1. Định nghĩa địa danh
Tùy theo cách nhận định và theo hướng tiếp cận của các nhà nghiên cứu, đến
nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào về địa danh. Vì vậy đã có nhiều
thuật ngữ khác nhau khi gọi về đối tượng này. Thực ra địa danh của một dân tộc nào
đó, của một quốc gia nào đó thường có hệ thống riêng và đặt tên bằng ngôn ngữ
riêng của dân tộc, quốc gia đó. Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp do biến động của
lịch sử hay qua những cuộc di dân làm cho địa danh trở nên phức tạp hơn về mặt
ngôn ngữ. Qua địa danh, chúng ta biết được những thông tin về văn hóa, xã hội,
chính trị, lịch sử, địa lý, tinh thần, ngôn ngữ của một dân tộc…Nó là cầu nối cho
chúng ta những thông tin về thiên nhiên về xã hội ở quá khứ và hiện tại trên hành
tinh này.
Vì vậy cần hiểu rõ được địa danh là gì, chúng ta mới làm việc một cách có hệ
thống và tránh được việc nhận định mơ hồ.
Theo tác giả Nga A.V. Superanskaja (1985), thì địa danh “là tên gọi các đặc
điểm được biểu thị bằng những tên riêng. Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay
toponimia” [Từ Thu Mai, tr.20]. Tác giả chú trọng đến tên gọi các đối tượng địa lý
là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo tồn tại trên trái đất này. Nhận định này mang
tính chất chung chung và dễ bị nhầm lẫn với các đối tượng có tên gọi nhưng không
phải là địa danh.
G.M. Kert (2002) hiểu: “Địa danh là tên gọi được đặt cho các đối tương địa lý,
ra đời trong một khu vực có người sinh sống, được tạo ra bởi một cộng đồng dân
cư, một tộc người. Chúng là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống hằng
ngày và các hoạt động chính trị, xã hội ở nơi đó” [Nguyễn Tấn Anh, tr.16). Định
nghĩa của tác giả chú ý đến nguồn gốc ra đời của địa danh mang tính “bản địa”, gắn
với một vùng đất nhất định nào đó và chức năng của địa danh có ý nghĩa quan trọng
là dùng để giao tiếp.
20
Ở Việt Nam, có hai hướng nghiên cứu về địa danh: hướng thứ nhất là tiếp cận
địa danh ở góc độ ngôn ngữ học, hướng thứ hai là tiếp cận ở góc độ địa lý, văn hóa.
Tùy theo hướng tiếp cận khác nhau mà các tác giả đưa ra định nghĩa về địa danh
cũng khác nhau.
Theo Nguyễn Văn Âu (1993), thì “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng
mạc…hay là tên đất, các địa phương, các dân tộc…” [tr.5]. Năm 2000 trong Một số
vấn đề về địa danh học Việt Nam, tác giả đã định nghĩa: “Địa danh học
(Toponymie) là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lý các địa phương”
[tr.5.] Theo hướng tiếp cận này Nguyễn Văn Âu đã nhìn nhận địa danh ở góc độ địa
lý, văn hóa. Tương tự tác giả Hoàng Văn Ma (2002) cũng đưa ra định nghĩa địa
danh là “tên gọi địa hình, địa vật, địa điểm cư tụ dân cư…trong một khu vực, một
lãnh thổ nhất định được cộng đồng người nói thừa nhận và được chuẩn hóa và cần
được chuẩn hóa” [tr.202]. Còn tác giả Nguyễn Phương Thảo (1985) lại khoanh
vùng địa danh ở cách đặt tên của một dân tộc, một vùng nào đó nơi vùng đó, dân tộc
đó sinh sống . Theo quan niệm này thì địa danh là “những từ ngữ, những mẫu ngôn
ngữ nhất định của một dân tộc để chỉ đất đai, sông núi, làng xóm nơi con người cư
trú” [tr.63].
Nhìn nhận địa danh ở phương diện tự nhiên và xã hội, tác giả Bùi Đức Tịnh
(1999) đã đưa ra nhận định: “Địa danh là một danh từ có nghĩa tổng quát để chỉ tên
gọi các loại vật thể tự nhiên được phân biệt về phương diện địa lý, các vị trí cần
phân biệt trong sinh hoạt xã hội và các đơn vị được xác định trong tổ chức hành
chính hay quân sự” [tr.10].
Ở các nhà ngôn ngữ học, khi bàn về địa danh, họ lại chú ý đến tính chất định
danh của đối tượng mà mình gọi tên, làm sáng rõ “chất” của sự vật, và “kí hiệu khu
biệt”của sự vật (Lê Nin). Tiếp cận điạ danh ở góc độ ngôn ngữ, định danh ngôn
ngữ, Hoàng Thị Châu (2007) nêu lên “Địa danh hay là tên địa lý (toponym,
geographical name), là tên vùng hay tên sông, tên núi, tên gọi các đối tượng địa
hình khác nhau, tên nơi cư trú, tên hành chính… do con người đặt ra”.
21
Căn cứ vào tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên cũng như theo ngữ nguyên của
địa danh, tác giả Lê Trung Hoa đưa ra định nghĩa: “Địa danh là từ hoặc ngữ cố định,
được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn
vị hành chính, các vùng lãnh thổ.”[1991,tr.21]. Từ định nghĩa, chúng ta đã hình
dung được đối tượng và cách phân loại địa danh như thế nào.
Các tác giả qua một số luận án của mình, ngoài việc nêu lên các định nghĩa
khác nhau của các nhà nghiên cứu về địa danh, bản thân cũng đưa ra cho mình một
nhận định. Với Nguyễn Kiên Trường (1996), có nêu định nghĩa địa danh là “tên
riêng chỉ các đối tựợng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái
đất” [tr.16]. Còn tác giả Từ Thu Mai (2004), sau khi dẫn định nghĩa của một số tác
giả và chọn cho mình định nghĩa của tác giả Nga Superanskaja làm cơ sở cho luận
án Nghiên cứu địa danh Quảng Trị. Năm 2005, trong luận án về địa danh ở Dak
Lăk của mình, Trần Văn Dũng coi địa danh là “tên gọi những đối tượng địa lý tự
nhiên và đối tượng địa lý do con người kiến tạo” [tr.15]. Nhìn chung các định nghĩa
này là sự tổng hợp, nhận định từ định nghĩa của tác giả nước ngoài tiêu biểu là của
Superanskaja.Mặc dù vậy nhưng nó cũng góp phần tạo nên sự phong phú định
nghĩa địa danh vốn còn ít ỏi này
Ngoài ra còn có nhiều từ điển trong và ngoài nước đưa ra những định nghĩa
khác nhau về địa danh. Từ điển bách khoa toàn thư Encyclopœdia Britannica cho
rằng: “Địa danh là từ hoặc cụm từ được dùng để chỉ hoặc xác định một vị trí địa lý
như thị trấn, sông ngòi núi non” [Nguyễn Tấn Anh, tr.16].
Từ điển ngôn ngữ Việt Nam, cụ thể là Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh hiểu
địa danh theo lối chiết tự, địa danh là tên đất, “là tên các miền đất”. Còn Từ điển
tiếng Việt của Hoàng Phê thì cho rằng địa danh “là tên đất, tên địa phương”.
Với Từ điển bách khoa Việt Nam thì định nghĩa về địa danh rõ ràng, đầy đủ
hơn nhưng cũng không kém phần dài dòng, lẩn quẩn: “Địa danh là tên gọi các lãnh
thổ, các điểm quần cư (làng xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm kinh tế (vùng
nông nghiệp, khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi, các đèo, cao
nguyên, thung lũng, đồng bằng châu thổ, sông, hồ, vũng, vịnh, biển, eo biển, đại
22
dương có tọa độ nhất định ghi lại được trên bản đồ. Địa danh có thể phản ánh quá
trình hình thành, đặc điểm của các yếu tố tự nhiên và lịch sử với những nét đặc sắc
về kinh tế, xã hội của các lĩnh thổ” [Lê Trung Hoa,1991, tr.14].
Nhìn chung quá trình gọi tên, hay định danh cho một đối tượng địa danh học
nói riêng các đối tượng khác nói chung phải đảm bảo được những thuộc tính cơ bản
của đối tượng, phải phân biệt được đối tượng này với đối tượng khác, tên gọi của
đối tượng phải có giá trị thông tin với cộng đồng nào đó (nhưng với cộng đồng khác
thì không hề có lí do gì), cho nên tên gọi mang đặc trưng văn hóa dân tộc của cộng
đồng đó. Và cũng dễ nhận ra rằng, địa danh thường gắn với vùng đất nào đó, cho
nên tính chất địa phương thể hiện rất rõ. Không riêng gì địa danh ở Bến Tre, đặc
trưng văn hóa dân tộc luôn gắn liền với địa danh. Với việc nghiên cứu về địa danh
Bến Tre, chúng tôi sử dụng định nghĩa của Lê Trung Hoa để tham khảo cho luận
văn của mình, cần thiết chúng tôi có thể bổ sung, thêm bớt về đối tượng cho phù
hợp với vùng đất mà mình đang nghiên cứu.
1.1.2. Phân loại địa danh
Việc phân loại địa danh là một vấn đề không hề đơn giản, chứng tỏ là đến nay
vẫn chưa có mô hình phân loại chuẩn nào được dùng chung cho việc nghiên
cứu.Điều đó cũng có nghĩa rằng tùy theo mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên
cứu, phương pháp và nội dung nghiên cứu mà chúng ta đưa ra cách phân loại địa
danh cho phù hợp.
1.1.2.1. Phân loại địa danh của các nhà nghiên cứu ở nước ngoài
Các nhà nghiên cứu địa danh học trên thế giới chủ yếu phân loại địa danh dựa
vào nguồn gốc và đối tượng của địa danh. Theo đây thì tác giả Pháp A. Dauzat
trong La toponymie Franaise (1948) đã dựa vào nguồn gốc chia địa danh làm 4
phần:
1- Vấn đề những cơ sở tiền Ấn – Âu
2- Các danh từ tiền La Tinh về nước trong thủy danh học
3- Các từ nguyên Gô Loa- La Mã
23
4- Địa danh học Gô Loa- La Mã của vùng Auvergne.[Lê Trung
Hoa,1991, tr.17]
Còn Ch. Rostaing phân loại địa danh theo nguồn gốc và đối tượng như sau:
1- Những cơ sở tiền Ấn- Âu.
2- Các lớp tiền Xên Tích
3- Lớp Gô Loa
4- Những phạm vi Gô Loa- La Mã
5- Các sự hình thành La Mã
6- Những đóng góp của tiếng Giéc Manh
7- Các hình của thời phong kiến
8- Những danh từ có nguồn gốc tôn giáo
9- Những hình thái hiện đại
10- Các địa danh và tên đường phố
11- Tên sông và núi
[Lê Trung Hoa, 1991, tr.17-18]
Dựa vào đối tượng nghiên cứu tác giả A. V. Superanskaja trong “ Chto takoe
toponimika?” chia địa danh làm 7 loại:
1- Phương danh
2- Thủy danh
3- Sơn danh
4- Phố danh
5- Viên danh
6- Lộ danh
7- Đạo danh
[ Lê Trung Hoa, 1991, tr.18]
Theo Lê Trung Hoa cách phân loại của các tác giả trên chưa bao trùm được
tên các công trình xây dựng như cầu, cống, sân vận động…và trong phương danh
chưa tách bạch địa danh hành chính và địa danh chỉ vùng lãnh thổ không có giới
hạn rõ ràng. [1991, tr.18].
24
Trong bách khoa toàn thư Encyclopœdia Britannica (2007) chỉ ra việc phân
loại địa danh không chỉ dựa vào ngữ nguyên mà còn phải dựa trên sự tổng hợp của
mối quan hệ về kiến thức lịch sử, địa lý, “việc phân loại địa danh cần phải dựa vào
từ nguyên, dựa trên sự nghiên cứu, lịch sử, thông tin địa lý. Địa danh được chia làm
hai nhánh: tên gọi các khu vực cư trú (habitation names) và tên gọi những điểm đặc
trưng (feature names). Trong đó tên gọi các khu vực cư trú được dùng để chỉ một
địa điểm mà con người sinh sống, sinh hoạt như các khu dân cư, đơn vị hành chính,
các công trình xây dựng…Còn tên gọi những đặc điểm đặc trưng là tên gọi để chỉ
các thực thể địa lý như ao, hồ, sông, núi, đồng ruộng”…[Nguyễn Tấn Anh, tr.22-
23].
Có thể thấy rằng một khi đã xác định được đối tượng của địa danh là gì rồi
tiến hành phân loại là việc làm có khoa học của các nhà nghiên cứu, vì khi chúng ta
xác định được đối tượng trước mắt là chúng ta đã xác lập được một ngành khoa học
không trùng lẫn với các ngành khoa học khác, hơn nữa khi xác định được đối tượng
nghiên cứu giúp ta sẽ thấy được bản chất bên trong của đối tượng, giúp cho việc
phân loại đễ dàng hơn. Còn việc đứng ở góc độ ngữ nguyên để phân loại giúp ta
thấy rõ hơn về quá trình tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người, về nguồn gốc tộc
người về nguồn gốc ngôn ngữ và đặt biệt là làm sáng rõ nội dung cơ bản của địa
danh học là nghiên cứu về nguồn gốc của địa danh.
1.1.2.2. Phân loại địa danh của các nhà nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, phân loại địa danh đã được sự chú ý từ lâu của các tác giả không
phải là nhà ngôn ngữ học. Điều đó thể hiện qua việc phân loại địa danh của nhà sử
học Đặng Xuân Bảng (1828-1910) trong Sử học bị khảo phần Địa lý khảo hạ.
Mãi đến năm 1967, Hoàng Thị Châu trong Nghiên cứu lịch sử cũng đã đề cập
về vấn đề này và tác giả có chú ý đến việc phân loại địa danh thành hai hệ thống
nhỏ hơn đó là tiểu địa danh gồm tên thôn, xóm, gò, đồi, khe, suối, đầm, hồ…và đại
địa danh gồm tên lục địa, đại dương, vùng, thủ đô, thành phố, sông biển…Theo
cách phân loại này tác giả chú ý vào hình thức khái quát của đối tượng để phân loại,
điều đó không lột tả được ý nghĩa của địa danh. Tiếp theo năm 1976, Trần Thanh
25
Tâm chia địa danh làm 6 loại: 1- Loại đặt theo địa hình và địa điểm; 2- Loại đặt
theo vị trí không gian và thời gian; 3- Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4-
Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí hậu; 5- Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và
tổ chức kinh tế; 6- Loại đặt theo sinh hoạt xã hội. Trong mỗi loại tác giả chia thành
những kiểu loại nhỏ hơn.
Cách phân loại của tác giả có tính chất lặp lại, loại đặt theo hình thái đất đai
có trùng nội dung với loại đặt theo địa hình, còn loại đặt theo địa điểm có trùng với
loại đặt theo vị trí không gian.
Năm 1991, Lê Trung Hoa tiến hành phân loại địa danh hệ thống hơn và giúp
người tiếp cận phân biệt cái nào là địa danh và cái nào na ná với địa danh. Căn cứ
vào thuộc tính của đối tượng địa lý trên tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên, tác giả
phân địa danh thành 2 nhóm lớn: 1-Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên; 2- Địa
danh chỉ các đối tượng nhân tạo.
Thuộc về địa danh chỉ đối tượng tự nhiên (địa danh chỉ địa hình) gồm tên các
địa hình núi, đồi, gò, sông, rạch…Trong địa danh chỉ đối tượng nhân tạo chia làm
ba loại nhỏ: 1-Địa danh chỉ công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều (địa
danh công trình xây dựng) như tên cầu, cống , chợ, đường phố, công viên…2- Địa
danh chỉ các đơn vị hành chính (địa danh hành chính) như tên ấp, xã, phường,
huyện, quận…3- Địa danh chỉ các vùng lãnh thổ không có ranh giới rõ ràng như
vùng, khu, xóm…
Mô hình phân loại địa danh theo đối tượng của Lê Trung Hoa (1991)
ĐỊA DANH
Địa danh chỉ Địa danh vùng địa hình Địa danh chỉ công trình xây Địa danh hành chính
Ngoài ra dựa vào ngữ nguyên, tác giả chia địa danh Việt Nam thành bốn
nhóm:
26
1. Địa danh thuần Việt
2. Địa danh Hán Việt
3. Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số
4. Địa danh bằng các ngoại ngữ
Mô hình phân loại địa danh Việt Nam theo ngữ nguyên của Lê Trung Hoa
(2006)
ĐỊA DANH
Địa danh thuần Việt Địa danh Hán Việt Địa danh các ngôn ngữ dân tộc Địa danh ngoại ngữ
Cách phân loại của Lê Trung Hoa được Nguyễn Kiên Trường đánh giá “là hợp
lí” vì theo Nguyễn Kiên Trường với cách phân loại theo ngữ nguyên dù khó nhưng
giúp “có thêm nhiều cứ liệu về địa danh, qua đó chứng minh được những vấn đề
khác, từ tộc người đến ngôn ngữ và sự tiếp xúc văn hóa, hơn nữa một trong những
nội dung cơ bản của địa danh học là nghiên cứu nguồn gốc của địa danh” [1996,
tr.19].
Nguyễn Văn Âu [1993, tr.30-32], và [2000, tr.38-40], đã phân loại địa danh
thành các kiểu khác nhau theo đối tượng địa lý tự nhiên và kinh tế xã hội gồm ba
cấp theo hệ thống gồm: loại, kiểu và dạng địa danh. Trong loại địa danh có địa
danh tự nhiên và địa danh kinh tế xã hội; với kiểu địa danh gồm 7 kiểu nhỏ:Thủy
danh; sơn danh; lâm danh; làng xã; huyện thị; tỉnh, thành phố; quốc gia, còn ở dạng
địa danh thì có 12 dạng khác nhau: sông ngòi; hồ đầm; đồi núi; hải đảo; rừng rú;
truông, trảng; làng xã; huyện, quận; thị trấn, tỉnh,thành phố, quốc gia. Mỗi dạng có
thể phân chia thành các dạng [ví dụ: sông (Hồng, sông Lô, sông Đà), ngòi (ngòi
Thia, ngòi Bo)…].
27
Với cách phân loại địa danh của Nguyễn Văn Âu, Lê Trung Hoa nhận xét:
“Cách phân loại của tác giả khá phức tạp và chưa hợp lí”. Lấy tiêu chí tự nhiên và
không tự nhiên để phân loại là hợp lí, nhưng theo Lê Trung Hoa thì cách gọi tên
“địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế xã hội” chưa hợp lí vì “tính cách tự nhiên ở
đây là của địa hình chứ không phải của địa danh (tên gọi của địa hình). Theo Lê
Trung Hoa thì nên gọi “địa danh địa hình tự nhiên hoặc địa danh địa hình”, còn
những sinh hoạt kinh tế xã hội là của con người chứ không phải của địa danh, nên
gọi địa danh chỉ sinh hoạt kinh tế xã hội thay vì gọi địa danh kinh tế xã hội. Ngoài
ra Lê Trung Hoa còn chỉ ra rằng: “Nhưng nếu chỉ chia địa danh làm hai loại thì
chưa bao trùm nhiều loại địa danh khác như địa danh vùng (miền Trung, khu Ngã tư
Sở…), địa danh chỉ các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều (cầu
Long Biên, đường Lê Lợi…)”.
Lê Trung Hoa nhận thấy với việc chia 7 kiểu địa danh của Nguyễn Văn Âu
cần nên gộp lại: 3 kiểu đầu có thể gộp thành địa danh chỉ địa hình, 4 kiểu còn lại chỉ
các đơn vị hành chính. Ở cách phân chia dạng cũng cần gộp lại: 6 dạng đầu là địa
danh chỉ địa hình, 6 dạng sau là địa danh hành chính.
Hơn nữa cách phân chia theo kiểu và theo dạng, có những kiểu trùng với dạng
(như làng xã và quốc gia), các đơn vị thôn, ấp, phường nên xếp vào đâu? Việc đánh
đồng giữa hai đơn vị hành chính là không ổn và cách phân chia bỏ đi 2 mảng địa
danh lớn là tên các vùng lãnh thổ và tên các công trình xây dựng thiên về không
gian hai chiều.
Năm 1996, trong luận án về địa danh Hải Phòng của mình, Nguyễn Kiên
Trường đã vận dụng cách phân loại của Lê Trung Hoa là dựa vào đối tượng địa lý
và ngữ nguyên. Ngoài ra, tác giả thêm một tiêu chí phân loại nữa theo chức năng
giao tiếp của địa danh (các lớp tên gọi và cách gọi tên), dựa trên hệ quy chiếu theo
không gian và thời gian, quan sát được nhiều chiều về hệ thống địa danh.
Tuy nhiên trong Vấn đề định nghĩa và phân loại địa danh”(thành tựu nghiên
cứu khoa học năm 2000), tác giả cho rằng chỉ cần một tiêu chí phân loại loại hình.
Nghĩa là thuật ngữ địa lý học cấu tạo từ danh từ chung đứng trước tên riêng là đủ.
28
Mô hình hóa phân loại địa danh của Nguyễn Kiên Trường (2000)
Đối tượng nhân văn
Các đối tượng địa lý được gọi tên
Cư trú
Đối tượng tự nhiên (Địa hình, địa vật)
Công trình xây dựng
Đường phố ( phố, ngõ, đại lộ…) Đơn vị cư trú tự nhiên (ấp, giáp, xóm..) Đơn vị hành chính (xã, phường, quận…) Các đối tượng khác (chùa, đền…) Các đối tượng thủy hệ (ao, sông, hồ…) Các đối tượng sơn hệ (đồi núi, gò…)
Cách phân loại của Nguyễn Kiên Trường có những điều chưa thật hợp lý, việc
chia đơn vị cư trú tự nhiên gồm ấp, giáp, xóm…liệu có phù hợp, hơn nữa các đối
tượng khác như chùa, đền…tác giả cho đó là địa danh thì không đúng.
Theo Trần Văn Dũng thì cách phân loại của Nguyễn Kiên Trường “rất cụ thể,
chi tiết và có tính khoa học” nhưng “chưa đưa ra một giải pháp phân loại có tính
khái quát chung cho mọi địa bàn” [2005, tr.21]. Và cũng dựa vào đối tượng, tác giả
chia địa danh thành hai nhóm lớn: 1- Nhóm địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên
(bao gồm tên các địa hình núi, đồi, sông, suối, địa hình…) ;2- Nhóm địa danh chỉ
các đối tượng do con người kiến tạo. Gồm hai loại nhỏ: Loại địa danh chỉ đối tượng
là nơi cư trú (thôn, buôn, làng, xóm, xã, phường, khối, quận, huyện, thành phố…)
và loại địa danh chỉ các công trình xây dựng. Ở cách phân loại này tác giả không
tách rời đối tượng do dân gian đặt và các địa danh ghi trong văn bản nhà nước, tác
29
giả cho rằng các đơn vị, các tổ chức cơ sở như buôn, ấp đều không phải là đơn vị
hành chính và “không dùng tiêu đề hành chính”. Vì cho rằng về tên gọi và cách đặt
tên gọi các điểm dân cư (dù là đơn vị hành chính hay không, dù là tên gọi dân gian
hay tên do chính quyền đặt) đều có những đặc điểm cơ bản giống nhau. Ngoài ra
loại địa danh chỉ các công trình xây dựng như cầu, cống, đường, phố, sân vận động,
công viên….là các loại địa danh mà A.V. Superanskaja gọi là phố danh, viên danh,
lộ danh, đạo danh.
Trần Văn Dũng dựa vào đối tượng phân ra các loại địa danh sau:
1- Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên
2- Địa danh chỉ đối tượng nơi cư trú
3- Địa danh chỉ các công trình xây dựng
Còn theo ngữ nguyên thì chia địa danh thành 5 loại:
1- Loại địa danh gốc bản địa
2- Loại địa danh thuần Việt
3- Loại địa danh Hán Việt
4- Loại địa danh gốc Pháp
5- Loại địa danh chưa xác định được nguồn gốc
Cách phân loại này có cái gì đó còn nhập nhằng, rối rắm, việc tác giả coi các tổ
chức cơ sở dưới phường xã thị trấn như buôn, ấp, không phải là đơn vị hành chính
thì coi như không ổn. Còn phân chia theo ngữ nguyên chỉ cần 3 loại là đủ: loại địa
danh thuần Việt; loại địa danh không thuần Việt; loại địa danh chưa rõ nguồn gốc.
Nhìn chung mỗi cách phân loại đều có những đặc điểm riêng của nó, vẫn cho
thấy được cái gì là địa danh và cái gì không phải địa danh. Mặc dù vậy có những
cách phân loại chưa khái quát được một cách cụ thể các đối tượng của địa danh.
Ở đây chúng tôi không đưa ra cách phân loại nào mà chỉ tiếp nhận, tiếp thu
những cách phân loại được coi là hợp lí nhất và được một số nhà nghiên cứu về địa
danh công nhận và bản thân cũng thấy phù hợp cho nghiên cứu địa danh ở Bến Tre.
Qua một số quan điểm về phân loại địa danh, chúng tôi áp dụng việc phân loại của
Lê Trung Hoa vào phân loại địa danh Bến Tre, cũng như nghiên cứu địa danh Bến
30
Tre, ngoài việc vận dụng tiêu chí phân loại theo loại hình dựa trên cơ sở tự nhiên và
không tự nhiên và tiêu chí phân loại theo ngữ nguyên dựa trên cơ sở vay mượn và
không vay mượn chúng tôi còn mượn cách phân loại theo chức năng giao tiếp của
Nguyễn Kiên Trường trên cơ sở giao tiếp chính danh hay không chính danh của địa
danh. Chính danh là địa danh được dùng phổ biến trong các văn bản của nhà nước,
không chính danh là các địa danh dùng trong sinh hoạt hằng ngày do thói quen dùng
của người dân. Ngoài ra chúng tôi còn chỉ ra các địa danh ảo (phân biệt với địa danh
thực), là những địa danh chỉ xuất hiện trên sách vở trong quá trình phiên dịch của
các dịch giả chứ hoàn toàn nó không có tồn tại trong thực tế.
1.1.3. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học và vị trí của địa danh học
trong ngôn ngữ học
1.1.3.1. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học
Một ngành khoa học được xác lập khi ngành khoa học đó có đối tượng nghiên
cứu và khi xác định được đối tượng nghiên cứu. Đó là cơ sở để phân biệt ngành
khoa học này với ngành khoa học khác. Bất kì ngành khoa học nào khi xác định
được đối tượng sẽ giúp cho việc nghiên cứu có định hướng và được thuận lợi hơn.
Với địa danh học thì đối tượng của nó chính là địa danh, nhưng để xác định cái gì là
địa danh cái gì không phải là địa danh hiện nay vẫn còn nhiều điều bất cập. Nhiều
người cho rằng địa danh học là khoa học nghiên cứu về tên địa lý các địa phương.
Và cùng ý kiến này, tác giả Từ Thu Mai cho rằng: “Trong một phức thể địa danh,
địa danh là bộ phận thứ hai đứng sau thành tố chung. Về thực chất, bộ phận này là
tên gọi riêng của từng đối tượng địa lý cụ thể, dùng để phân biệt đối tượng này với
đối tượng khác trong cùng một loại hình và giữa các loại hình địa danh với nhau.
Như vậy địa danh là những danh từ hoặc những cụm từ (chủ yếu là cụm danh từ)
dùng để định danh cho từng đối tượng địa lý được tách ra từ các lớp loại hình” và
tác giả còn cho rằng: “Vị trí của địa danh trong phức thể địa danh rất ổn định. Bao
giờ nó cũng đứng sau thành tố chung chỉ loại hình để hạn định ý nghĩa cho thành tố
này. Đây là đặc điểm của loại hình tiếng Việt”. Ví dụ: các phức thể cầu Bến Đá,
làng Câu Nhi có bộ phận từ ngữ chung là danh từ chỉ loại hình đối tượng “cầu”
31
“làng” còn địa danh – tên riêng khu biệt đối tượng là “Bến Đá” “Câu Nhi”.Trong
địa danh làng “Câu Nhi” thì “làng” là cái được hạn định, “Câu Nhi” là cái hạn định
[2004, tr. 56-57;74-75]. Và tác giả đưa ra mô hình phức thể địa danh ở Quảng Trị
như sau: [tr.56].
Phức thể địa danh
Thành tố Địa danh- Tên riêng khu biệt đối tượng (tối đa là 4
Mô hình chung yếu tố)
Tối đa là 3 Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4 yếu tố
Xóm Kênh
Nghĩa trang Trường Sơn Ví dụ Thôn An Cư Phường minh họa Xứ Trung Cây Cao Hữu
Khu di tích Cồn Tiên Dốc Miếu
Nguyễn Kiên Trường cho rằng bản thân địa danh mang hai thông tin: 1-Đối
tượng được gọi tên thuộc một loại hình địa lý nào (đồi, sông, núi…) thể hiện qua ý
nghĩa của danh từ chung; 2- Có nghĩa nào đó (phản ánh điều gì đó) thể hiện qua tên
riêng và địa danh dược cấu tạo gồm hai bộ phận: “danh từ chung” tức thuật ngữ địa
lý (sông, núi, xóm, thôn…) và tên riêng khu biệt đối tượng (như sông Bạch Đằng,
núi Đồ Sơn…) [1996, tr.53-55]. Và đưa ra mô hình tổng quát về địa danh Hải
Phòng như sau:
B A
Danh từ chung Tên riêng khu biệt đối tượng
Tối đa 4 âm tiết ở
Thành tố 1 Thành tố 2 Thành tố 3 Thành tố n Hải Phòng
1 2 3 4
Theo tác giả quan hệ giữa A và B là quan hệ giữa cái hạn định (B) và cái
được hạn định (A).
32
Và khi phân loại và quy nhóm địa danh Hải Phòng, Nguyễn Kiên Trường cho
rằng tên bệnh viện, chùa, công ty, trường, khách sạn, nhà thờ, nhà máy, xí
nghiệp….thuộc nhóm địa danh chỉ công trình xây dựng [tr.46]. Thực ra tên các
công trình mà Nguyễn Kiên Trường nêu ra thuộc tên các công trình xây dựng thiên
về không gian ba chiều, nó chỉ là hiệu danh chứ không phải địa danh như tác giả
lầm tưởng. Do đó, việc đưa tên các đình, chùa, miếu là địa danh vào từ điển bách
khoa địa danh Hải Phòng là không hợp lí. Ngoài ra trong từ điển Từ điển Hà Nội-
Địa danh, tác giả cũng sai lầm khi xem Nhà 312 Khâm Thiên, Nhà Hát Lớn, Nhà In
Viễn Đông… là địa danh.
Nhìn chung, chúng ta cần xác định rõ ràng về mối quan hệ giữa địa danh và
yếu tố đứng trước nó. Khi bắt gặp một địa danh, chúng ta có thể đặt một danh từ
chung chỉ tiểu loại địa danh ở trước và yếu tố chung này không phải là thành tố
chung của địa danh nên không viết hoa: Ví dụ: huyện Thạnh Phú, cầu Ông Đình,
sông Mỏ Cày…Như vậy chỉ những yếu tố viết hoa mới là thành tố của địa danh.
Như trên đã nói, đối tượng của địa danh học là địa danh. Đó là những từ, ngữ
được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các vùng lãnh thổ, các đơn vị
hành chính, các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều. Địa danh được
xác định khi đứng sau các yếu tố chung chỉ loại sau đây:
1. Địa danh hành chính:làng, dinh, tổng, sở, khu phố, ấp, xã, phường, thị
trấn, thành phố, nước…
2. Địa danh chỉ địa hình: bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, doi, đồng, động, hóc,
hồ, khe, rỏng, rạch, vàm….
3. Địa danh chỉ công trình xây dựng: bến đò, bến xe, cảng, cầu, công viên,
cống, kênh, nông trường, xa cảng, xa lộ…
4. Địa danh vùng: vùng, miền, miệt, xứ…
1.1.3.2. Vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học
Ngữ âm học, từ vựng học và ngữ pháp học là 3 ngành chính của ngôn ngữ
học. Trong từ vựng học có ngành danh xưng học (onomasiologie), chuyên nghiên
cứu tên riêng. Ngành danh xưng học có 3 ngành nhỏ hơn là nhân danh học
33
(anthroponymie), hiệu danh học và địa danh học (toponymie). Nhân danh học
chuyên nghiên cứu về tên riêng của người, hiệu danh học chuyên nghiên cứu tên
riêng của các nhãn hiệu, sản phẩm, các biển hiệu…còn địa danh học chuyên nghiên
cứu về nguồn gốc, ý nghĩa và sự chuyển biến của địa danh.
Địa danh học được chia ra thành nhiều ngành nhỏ hơn như: sơn danh học
(oronymie) chuyên nghiên cứu tên gọi các đồi núi; thủy danh học (hydronymie)
chuyên nghiên cứu tên sông ngòi kênh rạch; phương danh học (ojkonimika) chuyên
nghiên cứu các địa điểm quần cư và phố danh học (urbanomika) nghiên cứu các đối
tượng trong thành phố như tên đường, tên phố, tên các quảng trường….
Vì vậy muốn nghiên cứu địa danh bên cạnh các kiến thức về địa lí, lịch sử, văn
hóa, dân tộc, xã hội…không thể không có kiến thức về ngôn ngữ, hay nói khác hơn
là tri thức ngôn ngữ học. Hai tác giả Smolisnaja và Gorbanevskij đã tuyên bố: “Tri
thức về các quy luật của ngôn ngữ học rất cần thiết với nhà địa danh học, nếu muốn
thoát khỏi giai đoạn sưu tầm và thích thú” [Lê Trung Hoa, 1991, tr.14]. Cụ thể là
kiến thức về ngữ âm học lịch sử và phương ngữ học là rất cần thiết trong nghiên
cứu địa danh. Cho nên Karpenko cho rằng: “Việc nghiên cứu địa danh không thể
không là công việc của ngôn ngữ học” [Lê Trung Hoa, 1991, tr.14].
Để thấy rõ hơn về vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học, chúng ta hãy
xem mô hình của Lê Trung Hoa (2006) sau đây:
NGÔN NGỮ HỌC
34
NGỮ PHÁP HỌC
DANH XƯNG HỌC
NHÂN DANH HỌC
TỪ VỰNG HỌC NGỮ ÂM ỌC H
ĐỊA DANH HỌC HIỆU DANH HỌC
SƠN DANH HỌC THỦY DANH HỌC PHƯƠNG DANH HỌC PHỐ DANH HỌC
1.1.4. Vấn đề viết hoa địa danh
Vấn đề viết hoa địa danh hiện nay vẫn còn mang tính tùy tiện và chưa thống
nhất. Điều đó thể hiện rõ qua sách báo, các văn bản hành chính, các sách giáo khoa,
các bản biểu, băng rôn…Khi viết về cùng một đối tượng có người viết là thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ…nhưng cũng có người viết là Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Cần Thơ. Một số sách khi viết về địa danh ở Bến Tre cũng chưa
có sự thống nhất: Huỳnh Minh viết: “Rạch con Ốc (rạch Khâu Băng), chi nhánh của
sông Cổ Chiên…nối liền với rạch Băng Cung dài lối 13 cây số” [ 2001, tr.33], hay
Nguyễn Duy Oanh cũng đã từng ghi rất nhiều các địa danh hành chính trong tỉnh
theo cách sau: An bình đông, An điền, Hàm luông, Phú long, Tiên thủy, Hưng lễ,
An thạnh… [tr.126-128], còn Lê Hương thì viết về địa danh ở Bến Tre như sau:
Sông Hàm luông, Sông Sóc sải hạ, Sông Mỹ lồng, Sông Cái Mơn lớn, Sông Mõ
cày, Sông Ba Tri ớt, Sông Ba Tri cá…[tr.258]. Và trong các sách xưa như Nam Kì
35
lục tỉnh dư địa chí có ghi: Cửa biển Ngao châu (Bãi ngao), cù lao Thanh Sơn (tục
danh là cù lao cái Cấm…) [tr.68], hay trong Gia Định thành thông chí [tr.47] có ghi:
“Cù Lao Quý Sơn ở phía tây ngã ba cửa Đại, chu vi 8 dặm, uốn lượn quanh co, coi
như hình con rồng” ...
Qua một số ví dụ nêu trên, chúng ta thấy rằng việc viết hoa địa danh vẫn còn
tùy tiện. Vì vậy việc viết hoa địa danh đúng quy cách là rất cần thiết, điều đó cũng
góp phần tạo nên được sự thống nhất trong cách viết hoa về nhân danh, hiệu danh
hay vật danh.
Để viết hoa địa danh đúng quy cách, chúng tôi có một số ý kiến sau đây:
1.1.4.1. Các danh từ chung (hay còn gọi là các thành tố chung) khi đứng
trước địa danh khi địa danh đó cùng để gọi tên thì không viết hoa:
- Địa danh chỉ địa hình thiên nhiên: bàu Mây (BĐ), bưng Láng Có (BaT), rạch
Chợ (CL), xẽo Ngọn Tầm Bức (MC)…
- Địa danh chỉ công trình xây dựng: bến đò Cây Dương (MC), cảng cá Bình
Thắng (BĐ), cầu Cây Da Đôi (BaT), chợ Cầu Bà Mụ (TX)…
- Địa danh hành chính: ấp Lương Hòa (GT), chi khu Đôn Nhơn (MC), phường
Phú Khương (TX), xã Hưng Khánh Trung (CL)…
- Địa danh vùng: vùng Cầu Hòa (GT), xóm Trại (BaT), xóm Cù Lao (BĐ)…
Trừ các trường hợp các danh từ chung đứng ở đầu dòng hay đứng trước dấu chấm,
thì buộc phải viết hoa danh từ chung đó.
1.1.4.2. Đối với địa danh có sự chuyển hóa thì các danh từ (hay danh ngữ)
chung trở thành một yếu tố của địa danh, yếu tố đó phải viết hoa:
* Chuyển hóa trong nội bộ các loại địa danh:
- Tên xẽo chuyển sang tên rạch (xẽo Tre rạch Xẽo Tre (MC)…
- Tên cầu chuyển sang tên chợ ( cầu Bà Mụ chợ Cầu Bà Mụ (TX)…
- Tên rạch chuyển sang tên phà, tên cầu (rạch Miễu (tên rạch) phà Rạch
Miễu (CT) cầu Rạch Miễu (CT) …
- Tên vàm chuyển sang tên cống (vàm Hồ (BaT) cống Vàm Hồ (BaT)…
36
Các địa danh khi có sự chuyển hóa mà các danh từ hay danh ngữ chung gồm
hai yếu tố trở lên khi trở thành yếu tố của địa danh thì viết hoa tất cả các yếu tố: ngã
tư Bà Hiếu (BĐ) (tên ngã tư) chuyển sang tên rạch: rạch Ngã Tư Bà Hiếu…
* Từ địa danh chuyển sang hiệu danh:
Ví dụ: huyện Thạnh Phú sở văn hóa thông tin Huyện Thạnh Phú (tên huyện
chuyển sang tên sở văn hóa).
Hay xã Khánh Thạnh Tân (MC) xí nghiệp chỉ sơ dừa Xã Khánh Thạnh
Tân…(tên xã chuyển sang tên xí nghiệp); chợ Xép- nhà sách Chợ Xép (MC)…(tên
chợ chuyển thành tên nhà sách)…Ta thấy rằng các danh từ (danh ngữ) chung chỉ
loại ở bên trái đã được thay thế bằng các danh từ chung khác và các danh từ chung
đặt trước địa danh như huyện, xã, chợ đặt trước địa danh ở bên trái biến thành yếu
tố cấu tạo địa danh ở bên phải và các yếu tố đó phải viết hoa.
Đối với địa danh không còn chỉ đối tượng gốc hay đã mất đi đối tượng gốc thì địa
danh đó phải được viết hoa danh từ chung ở trước: cầu Bắc ở Mỏ Cày hiện nay
không còn chỉ còn đối tượng mới chợ Cầu Bắc…
Trường hợp khi viết hoa yếu tố đầu trong địa danh: Bàu Gốc (GT) hay Nó ở
Bàu Gốc , Giồng Gạch (BaT) hay tôi ở Giồng Gạch… thì địa danh Bàu Gốc, Giồng
Gạch là địa danh vùng chứ không phải là địa danh chỉ tên bàu hay tên giồng.
1.1.4.3. Các yếu tố đi chỉ phương vị có tác dụng phân biệt đi kèm sau địa
danh phải viết hoa như ấpThạnh Quý A- ấp Thạnh Quý B (TP), ấp Tiên Đông
Thượng- ấp Tiên Tây Thượng (CT), rạch Mương Trên – rạch Mương Dưới (BĐ)…
Như vậy các sách khi viết về địa danh ở Bến Tre hay các ở các nơi khác cần
tuân thủ theo những nguyên tắc chung khi viết hoa, tránh các trường hợp viết sai
quy cách. Các sách viết hoa về địa danh ở Bến Tre được nêu ra làm ví dụ ở trên là
chưa đúng, cách viết hoa đúng là: rạch Con Ốc, An Bình Đông, An Điền, Hàm
Luông, Phú Long, Tiên Thủy, Hưng Lễ, An Thạnh, sông Hàm Luông, sông Sóc Sải
Hạ, sông Mỹ Lồng, sông Cái Mơn Lớn, sông Mỏ Cày, sông Ba Tri Ớt, sông Ba Tri
Cá, cửa biển Ngao Châu (Bãi Ngao), cù lao Thanh Sơn (tục danh là cù lao Cái
Cấm), cù Lao Quý Sơn ở phía tây ngã ba Cửa Đại.
37
3.2. Cơ sở thực tiễn
Để hiểu chính xác một địa danh nào đó hỏi người “giải mã” ngoài kiến thức
ngôn ngữ học là tất yếu thì các yếu tố khác như lịch sử, địa lý, dân tộc học, xã hội
học cũng không kém phần quan trọng trong việc kết hợp để hiểu đúng một địa danh
như tác giả Nga A.I. Popov đã nói: “Bất cứ sự giải thích theo định kiến nào, không
căn cứ vào các sự kiện, thường rơi vào sai lầm” [Lê Trung Hoa, 2006, tr.34].
Địa lý, lịch sử, nguồn gốc dân cư của tỉnh Bến Tre đã ít nhiều tác động đến
quá trình hình thành địa danh ở Bến Tre. Vì lẽ đó các yếu tố này sẽ được chúng tôi
giới thiệu một cách tổng quan nhưng khái quát lên được diện mạo của địa danh tỉnh
nhà.
1.1.5. Về địa lý
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Là một trong 12 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre được hợp thành
bởi 3 cù lao lớn: cù lao An Hóa (bao gồm huyện Châu Thành, Bình Đại), cù lao Bảo
(huyện Giồng Trôm, Ba Tri) và cù lao Minh (huyện Mỏ Cày Bắc, huyện Mỏ Cày
Nam, Chợ Lách, Thạnh Phú) do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long: sông Tiền,
sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên bồi tụ.
Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, có đầu nhọn nằm ở thượng
nguồn, còn các nhánh sông lớn giống như nan quạt xòe rộng ở phía đông.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2.315,01 km2, phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có
ranh giới chung là sông Tiền, phía tây và nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà
Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông với chiều dài
65 km.
1.2.1.2. Địa chất
Lịch sử phát triển địa chất của tỉnh Bến Tre gắn liền với quá trình hình thành
và phát triển của vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long.
Cách nay hàng trăm triệu năm (đại Cổ sinh), tương ứng với vùng đồng bằng
sông Cửu Long ngày nay là một vùng sụt lún ngập dưới mực nước biển. Do ảnh
hưởng của các vận động tạo núi vào kỉ Đệ tam (cách đây khoảng 25 triệu năm),
38
phần thượng và trung lưu của sông Cửu Long tăng cường sức xâm thực và vận
chuyển một khối lượng phù sa khổng lồ bồi đắp nhanh chóng vùng hạ lưu.
Sự thành lập lãnh thổ Bến Tre hiện tại ở vào giai đoạn sau cùng của sự bồi tụ
đồng bằng sông Cửu Long và nó gắn liền với quá trình phân nhánh của sông Cửu
Long. Đất Bến Tre chỉ mới xuất hiện bên trên mực biển từ khoảng 4.500 năm trở lại
đây [Địa chí Bến Tre, 2001, tr.183]. Và ngày nay, quá trình phát triển của tự nhiên
Bến Tre vẫn đang tiếp diễn thể hiện ở xu thế bồi tụ ở vùng cửa sông ven biển của
tỉnh.
1.2.1.3. Địa hình
Là một tỉnh châu thổ nằm sát biển, Bến Tre có địa hình bằng phẳng, mang nét
đặc trưng của địa hình đồng bằng châu thổ. Địa hình Bến Tre chịu sự chia cắt của
nhánh sông Tiền tạo thành nhiều cù lao. Cù lao Minh lớn nhất nằm giữa sông Cổ
Chiên và Hàm Luông, cù lao Bảo nằm giữa sông Hàm Luông và Ba Lai, cù lao An
Hóa nằm giữa sông Ba Lai và Mỹ Tho. Dọc trên các sông lớn còn có rất nhiều cù
lao (hay cồn) được hình thành do sự lắng tụ của trầm tích sông. Các cồn trên sông
như cồn Phụng, cồn Tàu…(sông Mỹ Tho), cồn Ốc, cồn Linh…(sông Hàm Luông),
cồn Phú Đa, cồn Dung…(sông Cổ Chiên).
Một địa hình phổ biến ở Bến Tre là các giồng cát (còn gọi là giồng). Giồng là
kết quả tác động của dòng sông và sóng biển trong quá trình lấn biển của vùng cửa
sông nên có thành phần cấu tạo chủ yếu là cát mịn và cát pha, các giồng có dạng
vòng cung hay rẻ quạt, phân bố chủ yếu ở các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri,
Thạnh Phú…
Bến Tre không có rừng cây lớn, chỉ có một số rừng chồi và những dãy rừng
ngập mặn ven biển và ở các cửa sông. Bến Tre có một hệ thống sông ngòi chằng
chịt đan vào nhau tạo nên những huyết mạch nối liền ba dãy cù lao, có một hệ thống
đường thủy bao gồm những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông lên
đến tận biên giới Campuchia.
39
Bờ biển của tỉnh chủ yếu là những bãi bồi rộng, với thành phần chủ yếu là bùn
hoặc cát, khi triều rút bãi bồi nổi trên mặt nước trải rộng ra phía biển hàng ngàn
mét, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản nước mặn.
1.2.1.4. Khí hậu Bến Tre có khí hậu gió mùa cận xích đạo, nhiệt độ trung bình 27,3 oc, gió
mùa hoạt động theo hai hướng chính: gió mùa tây nam và gió mùa đông bắc. Gió
mùa tây nam có từ tháng 5 đến tháng 1, mang đến thời tiết nóng ẩm nhiều mây, gió
mùa đông bắc hoạt động mạnh từ tháng 12 đến tháng 4, mang đến thời tiết khô ráo,
mát, thời gian này có gió chướng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, gây ra
nhiễm mặn của sông rạch, đồng ruộng các vùng ven biển.
Chế độ gió mùa tạo tạo ra hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô tứ tháng 12 đến tháng 4, lượng mưa trung bình hàng
năm khoảng 1.498 mm.
Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão hơn so với các vùng khác. Tuy nhiên, đôi
khi bão cũng ảnh hưởng tạo mưa lớn, nước biển dâng tràn vào đồng ruộng gây thiệt
hại mùa màng [ Địa chí Bến Tre, 2001].
1.1.6. Về lịch sử
1.2.2.1. Giai đoạn trước năm 1698
Vùng đất cù lao Bến Tre được hình thành khoảng 4.500 năm trước do quá
trình bồi đắp phù sa của các nhánh sông lớn thuộc hệ thống sông Cửu Long.
Từ những thế kỉ đầu công nguyên (cách nay khoảng 2000 năm) đã có dấu vết
cư trú và sinh hoạt của con người. Lớp cư dân cổ xưa mà sử sách gọi là người Phù
Nam và người Chân Lạp (Nam Kỳ trước kia là một phần đất của Chân Lạp, Chân
Lạp có hai dãy đất, dãy ở miền núi gọi là Lục Chân Lạp, nay là Cao Miên, dãy miền
biển gọi là Thủy Chân Lạp, tức Nam Kỳ) còn để lại trên đất cù lao qua một số vết
tích về địa danh học và khảo cổ học. Jules Sien nhận xét rằng: “Trước khi Nam Kỳ
trở thành một bộ phận của Việt Nam, người Việt đã lập ở đó những tổ chức. Những
nhóm người di cư đã xây dựng làng xóm, hay tới ở chung với người Cao Miên.
40
Vì những nguyên nhân thiên nhiên và xã hội, số cư dân xưa chưa khai phá
được bao nhiêu và ngày càng thưa vắng dần. Theo các nhà khảo cổ học và sử học
thì số cư dân ấy đã có sự chuyển dịch về vùng đất cao hơn. Đất cù lao hầu hết còn
hoang sơ, đầy rừng rậm và thú dữ. Tình trạng ấy kéo dài vài thế kỷ. Vào giữa thế kỉ
XIII, Châu Đạt Quan, sứ thần nhà Nguyên khi đi thuyền vào sông Tiền lên kinh đô
Ăng co của vương quốc Chân Lạp đã miêu tả hiện tượng hoang vu ấy trong sách
Chân Lạp phong thổ ký như sau: “ Những cửa rộng của dòng sông lớn chảy dài
hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và mây rừng tạo thành
nhiều chổ rậm rạp, sum suê, khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú kêu. Vào nửa
đường trong sông thấy những cách đồng hoang không một gốc cây. Xa nửa tầm mắt
chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng ngàn trâu rừng tụ hợp từng bầy. Tiếp
đó nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm” [Lê Hương, 1970,tr.80].
Nửa cuối thế kỉ XVIII, trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn viết: “Từ các cửa
biển Cần Giờ, Lôi Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm. Họ Nguyễn
chiêu mộ dân đến khai khẩn ở đây” [ tr.345].
Cuộc phân tranh Lê- Mạc vào thế kỉ XVI và cuộc chiến giữa hai tập đoàn
phong kiến Trịnh- Nguyễn đã gây khiến sự khốn khổ lầm than cho nhân dân. Người
dân khổ sở lưu tán vì chiến tranh đã tìm đến vùng đất phương Nam còn đầy hoang
vu chưa được khai phá, những lưu dân này dần chinh phục vùng đất mới và lập nên
thôn ấp trước khi chính quyền thời các chúa Nguyễn đến xác lập chủ quyền trên
vùng đất mới.
Từ cuối thế kỉ XVII về sau khi đã có căn cơ, các chúa Nguyễn thực hiện chính
sách khuyến khích và chiêu mộ người từ các xứ Ngũ Quảng vào mở rộng sự nghiệp
khai hoang mở đất trên các vùng còn chưa được khai phá ở miền đất cực Nam của
đất nước.
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1698- 1802
Năm 1698, khi chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh
vào dinh đất Đồng Nai lập ra phủ Gia Định thì lúc đó dân cư đã có đến 4 vạn hộ, đất
đai khai mở nối liền hàng ngàn dặm từ Mọi Xoài (Bà Rịa- Biên Hòa) đến tận sông
41
Tiền (Mỹ Tho), họ lập ra những trạm thu thuế ở Prei NoKor và Kas Krobey (vùng
Sài Gòn- Chợ Lớn hiện nay).
Năm 1732, chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Chu cho lập châu Định Viễn thuộc
phủ Gia Định thì hai bên sông Tiền làng xóm dân cư khá đông đúc.
Năm 1757, châu Định Viễn được chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát cho mở
rộng ra đến các cù lao từ sông Tiền đến giáp sông Hậu, dinh Long Hồ từ xứ Cái Bè
chuyển sang cù lao Tân Dinh gọi là dinh Hoằng Trấn, rồi lại về thôn Long Hồ (thị
xã Vĩnh Long ngày nay). Châu Định Viễn, dinh Long Hồ được chia thành 3 tổng:
tổng Bình Dương (vùng Vĩnh Long), tổng Bình An (vùng Sa Đéc) và tổng Tân An
(trên hai cù lao An Bảo và Tân Minh, 2 cù lao này nay là đất Bến Tre). Tổng Tân
An chính là tiền thân của đất Bến Tre sau này.
1.2.2.3. Giai đoạn từ năm 1802- 1862
Từ giữa đến cuối thế kỉ XVIII, cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh
diễn ra liên miên, nhiều đợt, nhiều năm trên đất Gia Định gây ra nhiều sự xáo trộn
như việc chuyển cư bị đảo lộn, làng xóm tiêu điều, rất nhiều khu dân cư, thôn, trại
phải bỏ hoang. Trên bờ sông Tiền, Mỹ Tho đang thời tấp nập biến thành hoang phế.
Trấn, lỵ Long Hồ (Vĩnh Long), lỵ sở Ba Vát (Mỏ Cày)…đều trong tình trạng nhân
dân li tán vì loạn lạc kéo dài hàng chục năm. Đây là thời kì thử thách sự nghiệp khai
hoang trên đất cù lao vừa mới trải qua những bước ban đầu.
Chiến tranh chấm dứt từ những năm đầu của thế kỉ XIX. Năm 1802, nhà
Nguyễn bắt đầu lập nên vương triều, đưa ra nhiều chính sách định canh, định cư,
khuyến khích khai hoang mở mang đồn điền ở các vùng đất rộng người thưa và
khôi phục nhanh chóng, phát triển lại các thôn, xã, chia lập tổng, huyện, phủ, sắp
xếp lại các trấn, thúc đẩy công cuộc khẩn hoang và phát triển. Từ đây, diện tích đất
đai trồng trọt, dân số vùng cù lao tăng nhanh theo đà mở mang thôn ấp và các đơn
vị hành chính mới.
Năm 1808, Gia Long năm thứ 7, châu Định Viễn thăng lên thành phủ Định
Viễn. Đất cù lao là tổng Tân An được thăng lên là huyện Tân An, thuộc phủ Định
Viễn, trấn Vĩnh Thanh. Huyện Tân An mới lập chia thành hai tổng: Cù lao Minh
42
với 72 thôn, trại thành tổng Tân Minh. Cù lao Bảo với 63 thôn, trại thành tổng An
Bảo. Huyện lỵ đầu tiên đặt tại thôn Phước Hạnh, xứ Ba Việt (Ba Vát) nay thuộc xã
Phước Mỹ Trung huyện Mỏ Cày. Như vậy, thời kì đầu của triều đại nhà Nguyễn,
huyện Tân An mới lập gồm 2 tổng, 135 thôn, trại trên 2 cù lao Minh và cù lao Bảo.
Năm 1823, Minh Mạng thứ 4 chia đất huyện Tân An ra làm hai huyện: Tân
Minh (cù lao Minh) và Bảo An (cù lao Bảo), đặt phủ Hoằng An cai quản hai huyện
này.
Năm 1832, Minh Mạng thứ 13 lại phân hạt bỏ trấn Vĩnh Thanh đổi gọi là tỉnh
Vĩnh Long, phủ Hoằng An vẫn thuộc về tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Vĩnh Long lúc này
chia lập thành 3 phủ: phủ Định Viễn, phủ Hoằng An và phủ Lạc Hóa.
Năm 1837, Minh Mạng thứ 18 chia phủ Hoằng An thành 2 phủ: Hoằng An và
Hoằng Đạo. Huyện Tân Minh (cù lao Minh) chia ra làm hai huyện Tân Minh và
Duy Minh, thuộc phủ Hoằng An. Huyện Bảo An (cù lao Bảo) cũng chia làm 2
huyện: Bảo Hựu và Bảo An, thuộc phủ Hoằng Đạo.
Năm 1844, Thiệu Trị thứ 4 đổi tên phủ Hoằng Đạo thành phủ Hoằng Trị. Còn
phủ Hoằng An (cù lao Minh) giữ nguyên tên và địa bàn thống thuộc như cũ.
Năm 1851, Tự Đức thứ 4, hợp nhất 2 phủ Hoằng Trị và Hoằng An thành phủ
Hoằng Trị. Từ đây phủ Hoằng Trị gồm có 4 huyện (huyện Bảo Hựu, Bảo An, Tân
Minh, Duy Minh) trên cù lao Minh và cù lao Bảo thuộc tỉnh Vĩnh Long và là tiền
thân của tỉnh Bến Tre sau này.
Về cù lao An Hóa, vùng đất phía cực nam của tỉnh Định Tường giáp sông Ba
Lai (sau này là bộ phận của Bến Tre) từ thế kỉ XVIII cũng có sự thay đổi: Năm
1781, cù lao An Hóa là một phần của tổng Kiến Hòa, huyện Kiến An, dinh Trấn
Định.
Năm 1808, Gia Long thứ 7, dinh Trấn Định cải thành trấn Định Tường, huyện
Kiến An thăng lên làm phủ, tổng Kiến Hòa được thăng lên làm huyện với 2 tổng
mới lập là tổng Kiến Thạnh 65 thôn và tổng Hòa Bình 86 thôn, cù lao An Hóa là
một bộ phận của tổng Hòa Bình.
43
Năm 1831, Minh Mạng thứ 12 một phần huyện Kiến Hòa được tách ra thành
lập huyện mới Tân Hòa (huyện này sau nhập về phủ Tân An, tỉnh Gia Định), số đất
còn lại giữ nguyên tên huyện Kiến Hòa và được chia thành 5 tổng, 82 thôn. Trong
số 5 tổng này có hai tổng Hòa Quới 20 thôn và Hòa Thinh 19 thôn nằm trọn trên địa
bàn cù lao An Hóa (3 tổng còn lại nằm trên địa bàn huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền
Giang hiện nay).
Năm 1832, Minh Mạng thứ 13, trấn Định Tường đổi làm tỉnh Định Tường với
2 phủ và 4 huyện, huyện Kiến Hòa không thay đổi, cù lao An Hóa với 2 tổng Hòa
Quới và Hòa Thinh vẫn nằm trong huyện này.
1.2.2.4. Giai đoạn từ năm 1862 - 1945
Năm 1859 đến năm 1885, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược nước
ta. Trong những năm đầu Nam Kì kháng Pháp, thì đất Bến Tre nổ ra nhiều cuộc
khởi nghĩa như: khởi nghĩa của Phan Liêm, Phan Tôn với hai trận tập kích vào quân
Pháp ở Hương Điểm năm 1867, cuộc đánh Pháp của nghĩa quân Giồng Gạch ở Ba
Tri năm 1867, cuộc khởi nghĩa Ba Châu năm 1868 và cuộc nổi dậy của các nhóm
nghĩa quân ở nhiều nơi trên trên khắp các cù lao Bảo, cù lao Minh và An Hóa,
phong trào kéo dài đến những năm cuối thế kỉ XIX.
Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng Nam Kì lục tỉnh vào năm 1867, người
Pháp tiến hành ngay việc tổ chức lại các đơn vị hành chính theo qui chế mới. Sau
khi Pháp cưỡng chiếm Vĩnh Long, Pháp ghi nhận: người Nam gọi Vĩnh Long là
vườn cây của Nam Kì, đất cát phì nhiêu, dân cư đông đúc, chia thành những đảo
nhỏ giữa sông rạch chằng chịt với các cửa sông Cửu Long. Tỉnh Vĩnh Long nằm
giữa sông Hậu và sông Ba Lai trên chiều dài khoảng 20 dặm và chiều rộng độ 12
dặm. Cả tỉnh gồm 3 phủ, Pháp tiến hành bãi bỏ khung hành chính chính phủ, huyện
và đặt ra cấp hạt.
Năm 1867, phủ Hoằng Trị (Bến Tre) lúc này thuộc tỉnh Vĩnh Long đổi thành
địa hạt Hoằng Trị với 26 tổng, 192 làng nằm trên địa bàn cù lao Minh và cù lao Bảo
dưới quyền cai trị của viên tham biện người Pháp. Lúcbấy giờ tỉnh Vĩnh Long chia
44
thành 3 hạt: Vĩnh Long, Hoằng Trị và Lạc Hóa [Nghiên cứu địa ba triều Nguyễn
tỉnh Vĩnh Long, tr.87- 88].
Tháng 12- 1867, hạt Hoằng Trị lại chia thành 2 sở : sở tham biện Bến Tre và
Mỏ Cày. Năm 1871, chính quyền thực dân Pháp quyết định nhập hai sở tham biện
Bến Tre và tham biện Mỏ Cày thành sở tham biện Bến Tre. Còn cù lao An Hóa,
Pháp cũng sắp xếp lại các sở tham biện và An Hóa thuộc về sở tham biện Mỹ Tho.
Năm 1876, Pháp chia Nam Kì thành 4 khu vực hành chính: Sài Gòn, Mỹ Tho,
Vĩnh Long và Bassac.Trong đó khu vực Vĩnh Long gồm 4 hạt: Vĩnh Long, Bến Tre,
Trà Vinh và Sa Đéc. Hạt Bến Tre trên địa bàn cù lao Minh và cù lao Bảo gồm có 23
tổng, 205 làng, dân số 158. 231 người. Cù lao An Hóa vẫn còn là vùng đất của Mỹ
Tho với hai tổng Hòa Thinh và Hòa Quới.
Lỵ sở của hạt Bến Tre (Bến Tre) đặt tại hữu ngạn sông Bến Tre nơi có tòa bố,
bưu điện, trường tiểu học và chợ Bến Tre.
Năm 1899, các hạt lại đổi là tỉnh (province). Toàn bộ Nam Kì lúc này chia
thành 20 tỉnh. Tỉnh Vĩnh Long thời triều Nguyễn nay là 3 tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre
và Trà Vinh. Việc chuyển từ hạt lên thành lập tỉnh bởi các nhà cầm quyền Đông
Dương và có hiệu lực pháp lý vào từ ngày 1-1-1900.[Theo Nguyễn Văn Của, 1917].
Như vậy hạt Bến Tre gồm có cù lao Minh và cù lao Bảo đã chính thức thành đơn vị
hành chính cấp tỉnh với 21 tổng và 144 làng (so với trước đây giảm giảm 2 tổng và
61 làng, số tổng và làng được sát nhập do diện tích trước đây quá nhỏ nên phải điều
chỉnh lại).
Sau khi thành lập tỉnh, khoảng thập niên đầu thế kỉ XX, Pháp lập đơn vị hành
chính cấp huyện trực thuộc tỉnh gọi là quận (district). Từ khoảng 1910 về sau khi
chia lập các đơn vị hành chính cấp quận, tỉnh Bến Tre gồm có 4 quận: Sóc Sãi, Ba
Tri, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Thời điểm này cù lao An Hóa thuộc tỉnh Mỹ Tho với 2
tổng: Hòa Quới và Hòa Thinh.
Theo thống kê của nhà cầm quyền Pháp, những năm đầu mới thành lập dân số
Bến Tre có 223. 405 người.
45
Sau tổng khởi nghĩa tháng tám 1945, đất nước giành độc lập, lại diễn ra hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Bến Tre lại có sự thay đổi
về địa lý hành chính kể cả địa giới và tên gọi.
1.2.2.5. Giai đoạn từ năm 1945- 1975
Sau khi CMT8 thành công, tỉnh Bến Tre vẫn gồm cù lao Minh và cù lao Bảo,
và chính quyền cách mạng đổi tên tỉnh Bến Tre thành tỉnh Đồ Chiểu, thành lập thêm
quận lấy tên là Tán Kế nay là huyện Giồng Trôm.
Năm 1946, bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, và tỉnh Đồ Chiểu đổi thành
tỉnh Bến Tre với các quận Châu Thành, Sóc Sãi, Tán Kế, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh
Phú.
Năm 1948, thực hiện nghị định của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ,
quận An Hóa của tỉnh Mỹ Tho sát nhập về tỉnh Bến Tre. Đồng thời thành lập huyện
Chợ Lách với 6 xã của Vĩnh Long và 14 xã phía bắc Mỏ Cày, thành lập thị xã Bến
Tre trên cơ sở xã An Hội I và An Hội II của quận Châu Thành; giải thể quận Tán
Kế, đưa các xã của quận này về Ba Tri và Châu Thành. Tên gọi quận từ đây được
gọi là huyện và làng được gọi là xã.
Bến Tre lúc bấy giờ gồm 3 cù lao: cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa
với 7 huyện và 1 thị xã, 117 xã, dân số khoảng 600.000 người. Thực trạng này tồn
tại đến khi kết thúc kháng chiến chống Pháp vào năm 1954.
Năm 1956, chính quyền Sài Gòn đổi tên Bến Tre là tỉnh Kiến Hòa, còn ta vẫn
giữ tên gọi tỉnh Bến Tre như cũ.
Từ khi lập tỉnh Kiến Hòa năm 1956 cho đến năm 1975, chính quyền Sài Gòn
chia tỉnh này gồm 9 quận: Bình Đại, Trúc Giang, Hàm Long, Giồng Trôm, Ba Tri,
Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Thạnh Phú.
Về ta, chính quyền cách mạng vẫn giữ nguyên địa giới hành chính của tỉnh
Bến Tre với các huyện Bình Đại, Sóc Sãi, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ
Cày, Thạnh Phú và thị xã Bến Tre. Năm 1972 do hoàn cảnh chiến tranh diễn ra ác
liệt, chiến trường bị chia cắt, ta chia Châu Thành thành 2 huyện: Châu Thành Đông
và Châu Thành Tây (bao gồm cả huyện Sóc Sãi), chia Mỏ Cày thành 2 huyện: Mỏ
46
Cày Nam và Mỏ Cày Bắc. Sau ngày 30-4- 1975, hai huyện Châu Thành Đông và
Châu Thành Tây hợp nhất lại thành huyện Châu Thành như trước, mười xã vùng
trên của của huyện Mỏ Cày Bắc lập lại huyện Chợ Lách, số còn lại hợp nhất với
huyện Mỏ Cày Nam thành huyện Mỏ Cày. [ Lịch sử Đảng Bộ tỉnh Bến Tre, 2003,
tr.13-30].
Ngày 30-4-2009, huyện Mỏ Cày lại tách ra thành hai huyện: Mỏ Cày Nam và
Mỏ Cày Bắc.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre có 8 huyện: Bình Đại, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba
Tri, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Chợ Lách, Thạnh Phú và một thị xã Bến Tre với
160 xã, 8 phường và 7 thị trấn, dân số 1.336.720 người.
1.1.7. Về dân cư
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, từ đầu thế kỉ XVII đã có người
Việt từ miền ngoài, chủ yếu là dân Ngũ Quảng vào Nam Bộ khai thác và định cư.
Cuộc thiên di diễn ra liên tục cùng với sự hình thành thôn , ấp và thiết lập bộ máy
chính quyền phong kiến.
Nhìn chung, cuộc chuyển cư theo hai luồng chính: luồng đi thuyền vào Đồng
Nai, Bến Nghé, Tân Bình rồi sau đó tỏa ra các địa phương ở đồng bằng sông Cửu
Long. Luồng thứ hai cũng đi bằng đường biển, phương tiện chủ yếu là ghe bầu, đi
theo gió mùa hàng năm, đi thẳng vào các cửa sông như cửa Đại, cửa Tiểu, rồi ngược
các dòng sông lớn, tiến sâu vào nội địa và định cư ở các giồng, gò, vùng đất cao ráo.
Một số lưu dân chuyển cư bằng đường bộ nhưng số lượng này không nhiều vì
đường sá hiểm trở, nạn cướp giật xảy ra.
Với Bến Tre, những lưu dân thường đi theo đường biển và đi theo từng nhóm,
thành đoàn giữa những người bà con, láng giềng hay chung họ đạo và di chuyển do
nhà nước tổ chức. Lúc đầu họ sống quần tụ với nhau, chung sức cùng nhau khai
phá, dần dần họ tạo ra các tụ điểm dân cư nối liền nhau và tỏa rộng theo hình rẻ
quạt. Sản xuất vật chất chủ yếu là nông nghiệp và ngư nghiệp, về sau nghề thủ công
và buôn bán cũng phát triển.
47
Nhiều nguồn tài liệu xác định nguồn gốc dân cư ở Bến Tre đa số là người miền
Trung, cụ thể là từ phía nam đèo Hải Vân trở vào, với 112 gia phả.
Nguồn gốc dân cư ở Bến Tre gắn với việc khai phá, tạo dựng thôn, ấp, làng xã,
công cuộc chống chọi với thiên nhiên và lịch sử đấu tranh của dân tộc.
Qua thống kê dân số của chính quyền thuộc địa, vào năm 1859, Bến Tre có
110.000 dân, đến cuối thế kỉ XIX dân số tăng lên 220.000 người, đến năm 1946 dân
số có 450.000 người và đến năm 1954 dân số lên đến 600.000 người, so với khu
vực đồng bằng sông Cửu Long, dân số Bến Tre thuộc loại cao.
Sau giải phóng, dân số của tỉnh vào năm 1976 là 943.300 người và đến năm
1985 dân số 1.170.664 người.
Theo thống kê dân số năm 1989, mật độ dân số Bến Tre thuộc loại cao, 560
người/ km2, đứng thứ 3 ở Nam Bộ, sau Tiền Giang và TPHCM.
Đứng đầu dân số trong tỉnh là cư dân người Kinh với 1.206.738 người, đứng
thứ hai là người Hoa với 7.213 người và đứng thứ 3 là người Khơme với 193 người
và nhiều dân tộc anh em khác góp phần làm nên diện mạo đa sắc tộc của vùng đất
cù lao màu mỡ này [ Địa chí Bến Tre, 2001].
3.3. Tiểu kết
Qua lược sử nghiên cứu những tiền đề lý luận và thực tiễn, chúng tôi rút ra
những đặc điểm cơ bản sau đây:
Mặc dù ở Việt Nam, ngành địa danh học mới thực sự được hình thành vài chục
năm trở lại đây nhưng nó chiếm một vị trí không nhỏ trong giới nghiên cứu ngôn
ngữ và các ngành khoa học có liên quan. Đi vào tìm hiểu, chúng tôi mới thấy được
sự phức tạp của ngành khoa học này. Có rất nhiều ý kiến khác nhau khi xác định đối
tượng, cách phân loại cũng như khi đưa ra nội hàm khái niệm địa danh là gì. Qua
đó, chúng ta còn thấy được vai trò, vị trí của địa danh học trong ngôn ngữ học, với
tư cách là một bộ phận của ngôn ngữ và nó có những đặc điểm vốn có của ngôn
ngữ. Khi nghiên cứu ngành khoa học này đòi hỏi phải có được những kiến thức cơ
bản của các ngành khoa học có liên quan như địa lý, lịch sử, văn hóa, dân tộc, xã
hội và cả kiến thức về ngôn ngữ.
48
Chính vì địa danh có liên quan đến các ngành khoa học khác nên ở chương này
chúng tôi có đề cập sơ nét về địa lý, lịch sử, đặc điểm dân cư của tỉnh Bến Tre, và
vần đề này sẽ góp phần cho chúng ta thấy được quá trình hình thành, tồn tại và biến
đổi của địa danh cũng như những nét đặc trưng cơ bản của nó.
Việc đề cập đến cách viết hoa địa danh, chúng tôi mong muốn góp phần hình
thành quy cách trong cách viết, nhằm tránh cách viết hoa địa danh một cách tùy tiện
ở mỗi người.
49
Chương 2: PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH, ĐẶC ĐIỂM VỀ
MẶT CẤU TẠO VÀ NGUYÊN NHÂN BIẾN ĐỔI CỦA
ĐỊA DANH
2.1. Các phương thức đặt địa danh
2.1.1. Khái quát về phương thức đặt địa danh
Về phương thức đặt địa danh (hay còn gọi là phương thức định danh, phương
thức cấu thành), bước đầu đã được một số tác giả đưa ra các nguyên tắc chung để
đặt tên cho đối tượng. Một khi địa danh có chức năng định danh thì nó có chức năng
biểu vật, hay có chức năng biểu hiện ý nghĩa. Thông thường trong địa danh thường
có hình thức biểu vật định danh và biểu vật miêu tả. Ở biểu vật định danh phải tuân
theo nguyên tắc võ đoán hay tính không có lí do còn định danh miêu tả thì tuân thủ
bởi tính có lí do. Ở địa danh thông thường ý nghĩa của nó được biểu hiện qua hình
thức biểu vật theo lối miêu tả hay ý nghĩa của nó chi phối bởi nguyên tắc có tính lí
do. Mỗi địa danh ra đời thường có một lí do nào đó, lí do đặt tên đó thường phản
ánh bản chất của đối tượng hay mối quan hệ giữa đối tượng với các sự vật, hiện
tượng khác, và còn thể hiện những tâm tư tình cảm, nguyện vọng của con người
trong quá trình định danh. Qua đó để thấy được địa danh phản ánh ý nghĩa gì, nhằm
mục đích gì. Theo Nguyễn Đức Tồn, điều đó phụ thuộc vào chủ thể định danh và
đối tượng được định danh sẽ có lí do chủ quan (phụ thuộc vào chủ thể định danh) và
lí do khách quan (phụ thuộc vào đối tượng được định danh) [tr.39].
Trần Thanh Tâm (1976) đã đưa ra 6 nguyên tắc đặt tên cho địa danh: 1- Loại
đặt theo địa hình và đặc điểm; 2- Loại đặt theo vị trí không gian và thời gian; 3-
Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4- Loại đặt theo hình thái, đất đai, khí
hậu; 5- Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế; 6- Loại đặt theo sinh
hoạt xã hội [tr.60-63].
Năm 1999, Bùi Đức Tịnh đã đưa ra hai cách tạo địa danh:
1. Theo lề lối của ngôn ngữ và tập quán Việt Nam
2. Việt hóa những địa danh có sẵn trong ngôn ngữ của một dân tộc
50
Theo tác giả cách tạo địa danh theo lối Việt hóa có hai phương thức:
Phương thức Việt hóa địa danh của ngôn ngữ một dân tộc khác thực hiện
theo 3 lối: thứ nhất là chỉ Việt hóa ngữ âm mà không quan tâm đến nội
dung ý nghĩa (ví dụ: Phsar Dek tiếng Căm-pu- chia nghĩa là chợ Sắt, Việt
hóa thành Sa Đéc); lối thứ hai là dịch nghĩa (núi Bà Đen được dịch nghĩa
từ Phnom Vicil Khmau); lối thứ 3 là phối hợp hai lối vừa kể: một phần
Việt hóa ngữ âm và một phần dịch nghĩa (ví dụ: Vũng Gù chỉ sông Vàm
Cỏ ở gần Tân An, vũng dịch nghĩa tiếng Căm- pu- chia kompong, gù
Việt hóa ngữ âm của một tiếng Căm-pu-chia có nghĩa con bò.
Phương thức dùng từ tố hoàn toàn Việt Nam để đặt tên cho các vật thể
sau:
Cách đặt địa danh cho các vật thể tự nhiên gồm 3 loại sau:
Các vật thể chỉ có tác dụng làm khung cảnh cho cuộc sống như
bàu, bưng, đầm, láng, tráng….các vật thể này thường đặt tên bằng đặc
điểm về hình dáng, về cây cỏ mọc ngay trong vùng hoặc kế cận hay về
chim thú sinh sống trong vùng.
Về các vật thể dùng làm phương tiện cho cuộc sống của con
người ở mặt này hay mặt khác cũng phải kể đến như biển, núi, sông,
suối, bãi, gành…Các vật thể như “sông”, “núi” “biển”, theo tác giả
ngoài việc tên có sẵn do người xưa để lại thì “sông” và “biển” thường
mang tên địa phương xuất hiện ở địa phương nào đó. Ngoài ra ,các vật
thể này còn đặt tên theo: Đặc điểm về vị trí, hình dáng, đặc điểm về
thực vật hay động vật.
Các vật thể làm nơi sinh sống của con người như: đồng, gãnh,
gò, giồng. Các vật thể này được đặt tên bằng cây cỏ mọc trong vùng,
một đặc điểm về trồng trọt hay sản xuất, một nhân vật được biết nhiều
trong vùng.
Cách đặt tên các vị trí liên hệ đến giao thông dựa vào các đặc điểm
sau:
51
Hình dáng của chính đường giao thông.
Các vật thể thuộc về phương tiện giao thông.
Cách đặt tên các vị trí tập hợp cư dân theo những cách: theo vị trí,
theo tên người sáng lập, theo loạt hàng được mua bán nhiều nhất.
Ngoài ra còn đặt tên theo vị trí và sinh hoạt nghề nghiệp.
Cách đặt tên các đơn vị hành chính, quân sự.
Các đơn vị hành chính thường là những từ Hán Việt có ý nghĩa
tốt đẹp, thể hiện mong ước của con người.
Các đơn vị quân sự thì tên được đặt bằng những từ Hán Việt ý
nghĩa chiếm giữ và ấn định tốt đẹp lâu dài [tr.38-67].
Theo Nguyễn Kiên Trường (1996), ngoài phương thức gọi tên dựa vào thuộc
tính, đặc điểm của đối tượng thì thời kì cận- hiện đại còn có thức đặt địa danh sau:
1- Phương thức ghép số và ghép địa danh (phương thức tự tạo); 2- Phương thức
chuyển hóa; 3- Phương thức vay mượn [tr.76].
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Âu (2000) đã đưa ra những nguyên tắc chủ yếu
để xác định một địa danh như sau:
Địa danh tự nhiên: đối tượng là địa lý tự nhiên được thực hiện theo
nguyên tắc: địa phương, hình dạng, kích thước, màu sắc, mùi vị, âm
thanh, đặc sản, thứ tự, phương hướng, vị trí, dân tộc địa phương, tên
người, lịch sử, kế thừa, truyền thuyết, đặc điểm chung.
Địa danh kinh tế xã hội: các địa danh này theo tác giả cũng phức tạp và
được đặt theo nguyên tắc sau: địa phương, đặc sản, nghề nghiệp, tình
cảm, nguyện vọng, huyết tộc, tên người, dân tộc địa phương, lịch sử, tôn
giáo, truyền thuyết, kế thừa, kích thước, thứ tự, phương hướng, vị trí, đặc
điểm chung [tr.15-17].
Trên đây là một số phương thức và nguyên tắc đặt địa danh nói chung của một
số nhà địa danh học Việt Nam, mỗi cách nhìn nhận của các tác giả góp phần làm
phong phú thêm ý nghĩa của tên gọi mà địa danh gợi ra cũng như địa danh đó phản
52
ánh được hiện thực gì. Điều đó còn cho thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa hiện
thực, tư duy và ngôn ngữ của con người khi đặt tên như thế nào.
Hiện nay hai phương thức cơ bản được dùng phổ biến để đặt địa danh là
phương thức tự tạo và chuyển hóa. Ở đây chúng tôi tham khảo trên cơ sở lý thuyết
về phương thức đặt địa danh của Lê Trung Hoa để làm rõ phương thức đặt địa danh
ở Bến Tre.
2.1.2. Các phương thức đặt địa danh ở Bến Tre
2.1.2.1 . Phương thức tự tạo
Nguyễn Đức Tồn cho rằng khi định danh một khái niệm mới thì có ba cách
thực hiện: 1- Định danh nguyên sinh tức là tạo ra một đơn vị hoàn toàn mới; 2-
Định danh thứ sinh tức là sử dụng một đơn vị từ vựng có sẵn trong ngôn ngữ và
chuyển nghĩa nó; 3- Vay mượn từ ngữ khác [Nguyễn Tấn Anh, tr.46].
Từ những phương thức định danh chung mà tác giả nêu trên thì phương thức
tự tạo khi đặt địa danh ở đây có thể hiểu thuộc về định danh nguyên sinh. Phương
thức này là phương thức mà người định danh sử dụng những chất liệu ngôn ngữ có
sẵn để tạo ra một tên gọi để định danh cho đối tượng. Bao gồm các cách sau:
a. Dựa vào đặc điểm của chính bản thân đối tượng để đặt tên
Khi định danh cho một sự vật, hiện tượng, hãy xét xem đặc trưng nào là đặc
trưng bản chất của sự vật để làm cơ sở gọi tên. Trong đó, chất là sự tổng hợp các
thuộc tính của sự vật, hiện tượng là sự thống nhất hữu cơ giữa các thuộc tính. Mỗi
chất của sự vật đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản . Khi định danh các
đối tượng thì ta chọn những thuộc tính cơ bản nhất trong chất của sự vật, hiện tượng
nào đó. Tuy nhiên vẫn có những sự vật khi định danh có chung những thuộc tính cơ
bản nào đó, chỉ khác nhau thuộc tính không cơ bản thì cái có giá trị khu biệt làm cơ
sở cho tên gọi là đặc trưng không cơ bản. Khi tạo ra các phương thức đặt địa danh,
các chủ thể cũng dựa trên đặc điểm chung nhất, nổi bật nhất của đối tượng để gọi
tên.
Phương thức tự tạo là phương thức phổ biến, sáng tạo của chủ thể vừa thể hiện
được tinh thần dân tộc, gìn giữ và phát huy truyền thống của dân tộc trong quá trình
53
gọi tên của các sự vật, hiện tượng nói chung và quá trình đặt địa danh nói riêng.
Trong phương thức này có nhiều cách đặt tên khác nhau tùy vào đặc điểm của từng
vùng, của địa bàn cư trú.
(a1) Gọi theo hình dáng của đối tượng:
Sông Mỏ Cày (MC), cồn Cao (TP), cảng Mũi Tàu (CT), rạch Ruột Ngựa (CT),
cồn Tàu (BĐ)…
Sở dĩ gọi là Mỏ Cày vì đây là con sông chảy qua thị trấn Mỏ Cày ra xã Hòa
Lộc, nhập với rạch Giồng Keo chảy qua sông Hàm Luông tạo nên một doi đất có
hình cong giống như hình mỏ của cái cày.
Gọi là cảng Mũi Tàu vì hình dáng của bến cảng này nó giống như hình dáng
của mũi tàu.
(a2) Gọi theo kích thước của đối tượng:
Gồm các địa danh: cầu Nhỏ (BĐ), bưng Lớn (BĐ), kênh Chín Thước (TP),
kênh Ba Mét Năm (BaT), cù lao Dài (MC)…
Gọi là cầu Nhỏ vì cầu này có chiều dài và chiều ngang ngắn hơn một cây cầu
khác có ở Bình Đại đó là cây cầu Lớn. Gọi là kênh Chín Thước (BĐ) vì kênh có bề
rộng 9 thước, tương tự ở Ba Tri có kênh chiều rộng chỉ có ba mét năm.
(a3) Gọi theo tính chất của đối tượng:
Gồm các địa danh: cầu Lộ Mới (BĐ), cầu Xẽo Trong (GT), gò Trụi (BaT),
rạch Chày Đạp (CT), vàm Nước Trong (MC), vàm Rỏng (TP). Gọi là gò Trụi vì đây
là một gò cát không có cây lớn mọc thuộc ấp Giồng Gạch xã An Hiệp, huyện Ba
Tri.
Gọi là vàm Rỏng vì đây là ngã ba nơi con rạch chảy ra sông Băng Cung, thuộc
xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú. Rỏng là rãnh do nước chảy làm khuyết sâu
xuống cùng với sự tác động lâu ngày của thủy triều lên xuống mà đất bị bào mòn
thành con rạch.
(a4) Gọi theo màu sắc của đối tượng:
54
Nhìn chung gọi tên theo màu sắc của đối tượng, địa danh ở Bến Tre phản ánh
không nhiều, thường gặp ở các địa danh chỉ địa hình tự nhiên và địa danh chỉ công
trình xây dựng. Bao gồm một số địa danh sau: cầu Đỏ (GT), rạch Cầu Đen (GT)…
(a5) Gọi theo vật liệu xây dựng đối tượng:
Hiển nhiên là chỉ gặp ở các địa danh chỉ công trình xây dựng như: cầu Sắt
(MC), cầu Cột Dây Thép (CL), cầu Dừa (CL), cầu Ván (TP)…
Cầu Dừa ở xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách nay đã đổi thành cầu bê tông cốt
thép nhưng do quen dùng người ta vẫn gọi là cầu Dừa.
(a6) Gọi theo kiến trúc và cấu trúc của đối tượng:
Có các địa danh: cầu Dây (TP), chợ Cầu Mống (MC), cầu Đúc (TP)…
Chợ có tên Cầu Mống vì nằm bên chiếc cầu vòng mống khá cao thuộc xã Hương
Mỹ huyện Mỏ Cày.
b. Dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt chẽ với đối tượng để gọi
(b1) Gọi tên theo một đối tượng cùng loại, gần gũi về hình thức:
Thường gặp ở các địa danh như: rạch Nước Chảy (TP), kênh Xẽo Đôi (BaT),
rạch Xép (MC)…
(b2) Gọi theo vị trí của đối tượng so với đối tượng khác:
Cách đặt tên thông thường là để phân biệt vị trí của đối tựợng so với đối tượng
còn lại. Phương thức cấu thành theo định hướng không gian và thời gian. Thường
gặp nhiều ở địa danh hành chính: ấp Thạnh Trị Thượng (TP), Thạnh Trị Hạ (TP), ấp
Tân Thuận Ngoài (MC), Tân Thuận Trong (MC),ấp Vĩnh Đức Trung (BaT), Vĩnh
Đức Tây (BaT), ấpTiên Tây Thượng (CT), Tiên Đông Thượng (CT), và số ít địa
danh chỉ địa hình tự nhiên: khém Trên, khém Dưới (BĐ), rạch Ranh (CL), xẽo Giữa
(TP)…
Cách nhìn nhận của tác giả Nguyễn Tấn Anh về việc cho rằng các địa danh
rạch Cái Tràm Trên (BM), rạch Cái Tràm Dưới (BM), ấp An Lạc Tây (VL), ấp An
Lạc Đông (VL)…không thuộc về phương thức gọi tên theo vị trí của đối tượng so
với đối tượng khác vì chúng phái sinh từ địa danh cũ [Nguyễn Tấn Anh, tr. 48] là
không phù hợp. Vị trí không gian “trên”, :dưới” có trong địa danh rạch cái Tràm
55
Trên, rạch Cái Tràm Dưới rõ ràng là đã có sự phân biệt vị trí giữa các đối tượng,
tương tự với các yếu tố chỉ phương hướng “tây”, “đông”cũng vậy. Mặc dù chúng có
nguồn gốc phái sinh từ địa danh ban đầu.
(b3) Gọi theo tên sản phẩm bán trên hoặc cạnh đối tượng hoặc đặt tên theo
nghề nghiệp: xóm Bún (MC), đường Lò Rèn (BĐ), chợ Tiệm Tôm (BaT), xóm
Muối (BaT), xóm Cối (MC)…
Ở thị trấn Mỏ Cày có một xóm chuyên làm bún, mua bán hàng hóa với nhau
và dần dần người ta gọi xóm này là xóm Bún. Đến thị trấn Mỏ Cày hỏi xóm Bún là
ai cũng biết.
Chợ Tiệm Tôm nối liền thị trấn Ba Tri và có con rạch thông ra biển. Ghe
thuyền đánh cá ngoài biển đi về một mạch đến chợ. Sản phẩm chủ yếu ở chợ là tôm
cá và nhều loại hải sản khác.
(b4) Gọi theo tên người nổi tiếng trong vùng:
Thường có cấu trúc như sau:
- Thành tố chung + lứa tuổi: kênh Phụ Nữ (TP), kênh Thanh Niên (BĐ) kênh
Cô Ba Cấp Đê (BaT)……
- Thành tố chung + từ chỉ giới tính + tên người: cầu Ông Đình (MC), xẽo Bà
Nhiên (TP), rạch Bà Mụ (BĐ), rạch Bà Sanh (CL), cầu Ông Điện (BaT), ấp Ông
Thung (MC), xóm chòi Bà Thược (TP)…
- Thành tố chung + chức danh + tên người : kênh Thủ Cửu (GT), kênh Huyện
Quới (TP), cầu Cả Bướm (BĐ), chợ Xã Diệu (BaT), cầu Hội Đồng (CT)…
- Thành tố chung + giới tính + chức danh : rạch Ông Bộ (BĐ), kênh Thầy Hội,
kênh Ông Đốc (CT), giồng Bà Thủ (GT), giồng Ông Tố (GT)…
Hầu hết trong cách đặt địa danh gọi theo tên người thường là những người có
công khai phá, bảo vệ hay giúp ích gì đó cho địa phương, còn ông Tố là người có
tội. Nguyên là thành viên của đội nghĩa binh chống Pháp do Tán Kế chỉ huy, nhưng
về sau đầu hàng giặc, sau đó đội Tố bị nghĩa quân bắt và bị xử chém tại giồng này
để rửa hờn cho nghĩa quân đã hi sinh. Có hai quan niệm trong cách đặt tên: thứ nhất
56
chết chém là “chết bất đắc kỳ tử”nên thường linh thiêng nên lấy tên người chết đặt
tên giồng. Thứ hai là dùng để răn đời, nhắc nhở người đời.
Những địa danh được đặt theo phương thức này có mặt trong hầu hết ở các
loại địa danh chỉ địa hình tự nhiên, địa danh chỉ công trình xây dựng, địa danh hành
chính và cả địa danh vùng.
(b5) Gọi theo tên thực vật có ở đó:
Những loại thực vật dùng để đặt địa danh thường gắn liền với đời sống hằng
ngày của người dân địa phương. Khi đặt địa danh người ta thường căn cứ vào
những loại cây cỏ có trong thiên nhiên hay nhũng loại cây cỏ do con người trồng
trọt.
Bến Tre là vùng đất châu thổ nằm sát biển, địa hình bằng phẳng, có những
giồng cát xen kẽ ruộng vườn, có những rừng chồi, rừng ngập mặn ven biển. Địa
hình đa dạng cùng với khí hậu nhiệt đới nhưng không ảnh hưởng của gió mùa nên
thích hợp cho các thảm thực vật tự nhiên, quần thể thực vật trên các bãi lầy ven
biển, trên giồng cát, ven sông, rạch, vùng bưng trũng. Việc đặt địa danh theo tên
thực vật ít nhiều phản ánh dược sự phong phú hệ thực vật ngập mặn ven biển và hệ
thực vật nước ngọt mang đậm sắc thái vùng đồng bằng sông nước.
Phương thức đặt địa danh phổ biến thường gắn với các thành tố sau:
- Thành tố “cái” + tên thực vật: Cái Quao (MC), Cái Mít (GT), Cái Bần (TP),
Cái Nứa (CT), Cái Bông (BaT)…
- Thành tố “giồng” + tên thực vật: giồng Tre (BaT), giồng Cà (BĐ), giồng
Trôm (MC), giồng Quéo (BĐ)…
- Thành tố “bến” + tên thực vật: bến Xoài (MC), bến Tranh (GT), bến Dưa
(TP)…
Ngoài ra phương thức đặt địa danh gồm thành tố chung + tên thực vật phổ biến
nhiều.
- Thành tố chung + tên thực vật: rạch So Đũa (BaT), bàu Bèo (BaT), cầu Cây
Da (CT), cầu Cây Sộp (CL), xẽo Cối (TP), xóm Dưa (TP)…
57
(b6) Gọi theo tên động vật có ở đó:
Những loài động vật được dùng để đặt địa danh tồn tại một cách tự nhiên và
do con người nuôi nấng như: ấp Cá Đuối (BĐ), rạch Cá Trê (MC), cầu Cá Lóc
(TX), cồn Chim (BaT), láng Cò (BaT), giồng Hổ (BĐ), rạch Vọp (BaT) …
Cách gọi theo tên cầm thú sống hoặc nuôi ở đó mà Nguyễn Tấn Anh dẫn
trong luận văn của mình có phù hợp ở các địa danh sau: rạch Cá Trê, lung Kiến
Vàng (cá trê, kiến vàng có phải là cầm thú? [tr.50].
(b7) Gọi theo tên vật thể có nhiều ở đó:
Cách đặt địa danh theo phương thức này khá phổ biến, bởi lẽ các hình ảnh trực
quan này gắn liền với quá trình quan sát trực tiếp các vật thể tồn tại xung quanh chủ
thể như: rạch Lá (BaT), hồ Cỏ (TP), bến Cát (BaT), rừng Đước (BĐ)…
(b8) Gọi theo tên công trình xây dựng ở đó:
Vàm Đồn (MC), bến Thuế (CT), ngã ba Tháp (CT), thủ Ba Lai (BĐ), kênh
Cầu Tàu (TP), cầu Tàu (MC)…
Ngã ba Tháp là ngã ba đường đi Tiên Thủy giáp với quốc lộ 60 (Rạch Miễu-
thị xã). Thời Pháp thuộc tại đây có xây một đài tưởng niệm (monument aux morts)
ghi công những lính viễn chinh Pháp đã chết trên đất Bến Tre. Đài tưởng niệm được
đồng bào địa phương gọi là “tháp”. Đến Cách Mạng Tháng Tám 1945, tháp này bị
đập bỏ, chỉ còn lưu lại tên ngã ba Tháp cho đến nay.
Vàm Đồn là ngã ba sông ở xã Hương Mỹ huyện Mỏ Cày. Thời Pháp thuộc,
thực dân Pháp có đặt một đồn canh tại đây để kiểm soát ghe thuyền qua lại. Sau giải
phóng một công trình thủy lợi được xây dựng để tưới tiêu và gọi là công trình thủy
lợi Vàm Đồn (gọi tắt là Vàm Đồn).
(b9) Gọi theo biến cố lịch sử, sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, sự tích,
truyền thuyết có liên hệ trực tiếp đến đối tượng:
Thông thường chủ thể đặt địa danh theo phương thức này nhằm để tưởng nhớ,
ghi ơn những người có công hay lưu truyền những chiến tích của ông cha ta cho con
cháu đời sau noi theo. Điều đó gián tiếp giáo dục lòng tự hào và lòng yêu nước của
thế hệ tiếp nối. Bao gồm một số địa danh sau: vùng Ba Châu (GT), kênh Phụ Nữ
58
(TP), đường Đồng Khởi (MC), xã Đại Điền (TP), kênh Giải Phóng (GT+BaT), hồ
Cỏ (TP), giồng Đầu Trâu (BĐ), giồng Ông Đế (BĐ) …
Vùng Ba Châu (gồm Châu Phú, Châu Thới và Châu Bình) ở huyện Giồng
Trôm, nơi đây Tán Kế - Lê Quang Quan đứng ra mộ binh và phát động khởi nghĩa
chống Pháp, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, gây cho quân địch nhiều tổn thất,
nhưng do thiếu kinh ngiệm và kỹ thuật chiến đấu cùng với sự tố giác của kẻ đào ngũ
nên ông đã bị bắt và bị hành quyết.
Cảm phục người anh hùng, nhân dân nhiều nơi trong tỉnh lập miếu thờ. Và khi
nhắc đến người anh hùng này, người ta lại gắn với địa danh Ba Châu.
Ở xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú có một cái hồ cỏ. Sở dĩ dân địa phương
gọi bằng danh từ hồ cỏ mà không phải là đồng cỏ vì trên gò đất này cỏ mọc xanh
tươi bằng phẳng như mặt hồ thu, nếu gọi đồng cỏ thì mất đi ý nghĩa của thảm có
đẹp và thơ mộng. Cỏ ở đây mọc tự nhiên nhưng ngay hàng thẳng lối và đều đặn.
Vào thời Tự Đức, một nho sĩ ở làng Thạch Hồ (CT), nghe đồn có hồ cỏ đẹp và
đến viếng vào một buổi chiều. Nho sĩ nhìn thấy từng đàn cò trắng từ đâu bay về đậu
nơi đây. Cơn gió thoảng qua, đàn cò ngơ ngác nhìn rồi rủ nhau vỗ cánh bay là đà
trên mặt hồ cỏ. Cảm xúc trước cảnh đẹp, ông đã làm thơ ca tụng:
Đây cõi Đào nguyên hay cõi trần?
Đứng đây nhường thấy rạng tinh thần
Ngàn chim gió cuốn bay hoa lá
Hồ Cỏ Thạnh Phong đẹp tuyệt trần!
Nguyễn Ánh có lần dừng quân nơi đây. Đêm ấy quân lính dọn sạch cây cỏ nơi
đây và thức canh cho Nguyễn Ánh ngủ.
Hồ Cỏ Thạnh Phong hiện nay không còn nữa. Sau mùa loạn ly chinh chiến,
cảch vật đổi thay, người đời đã tàn phá mất hồ cỏ xanh tuyệt mỹ. Qua những trận
mưa bom, di tích thiên nhiên đã bị chon vùi không còn dấu vết, giò đây chỉ trơ lại
những luống ngô, khoai, bắp của dân làng trồng thay vào đó nhưng với những bô
lão địa phương thì không thể xóa mờ cảnh thiên nhiên Hồ Cỏ này trong lòng họ
59
được và địa danh này đến nay vẫn còn được lưu truyền và vùng này có con rạch
được đặt tên là Hồ Cỏ.
(b10) Gọi theo nguồn gốc của đối tượng:
Người, quốc gia, tổ chức, phường bang… đã có công đầu tiên lập nên một
công trình xây dựng nào đó và chủ thể khi đặt địa danh gắn với công trạng đó. Cách
này thường áp dụng để gọi tên các công trình xây dựng chủ yếu là chợ và cầu.
Thông thường người ta gọi theo tên người làm ra, gọi theo tên quốc gia của
người xây dựng hay gọi theo tên tổ chức giúp tiền xây dựng.
Ví như: chợ Hương Điểm (GT), giồng Ông Ngợi (BĐ), giồng Bà Thủ (GT),
kênh Turc (CT)…
Giồng Ông Ngợi thuộc xã Đại Hòa Lộc, có chiều dài hơn 3 km. Lúc ban đầu
giồng này rất hoang vắng, hiểm trở, nhiều thú dữ. Ông Ngợi là người đầu tiên đến
khai phá vùng này. Địa danh gọi theo tên người làm ra, người có công khai phá đầu
tiên.
Kênh Turc rộng 7m, sâu 1m50, dài 3 km kinh nối dài sông Hàm Luông và
sông Ba Lai. Kênh mang tên này vì kênh đào dưới thời viên tham biện tên Turc
(1873).
(b11) Gọi theo tín ngưỡng tôn giáo: rạch Miễu (CT), lộ Chùa (BaT), xóm Nền
Tự (MC), cống Nhà Thờ (GT), cầu Xóm Chùa (BĐ)….
c. Ghép các yếu tố Hán Việt để đặt tên
Thường áp dụng để đặt tên các đơn vị hành chính khi thành lập, chủ yếu phổ biến
là tên làng, xã, thôn. Hầu hết các từ Hán Việt mang ý nghĩa về những điều tốt đẹp
mà mọi người thường mong ước như phú (giàu), thạnh (thịnh), hưng, long (phát
đạt), thới, bình, định, an (yên ổn), tân (mới), bảo (giữ gìn), khánh (hội vui), phong
(dồi dào), vĩnh (mãi mãi), tường (tốt, may), mỹ (đẹp), phước (phúc), hòa (thuận
thảo)…Bao gồm một số địa danh: ấp An Nghĩa (CT), ấp Vinh Hội (BĐ), ấp Bình
Phú (GT),ấp Vĩnh Lợi (BaT), xã An Hiệp (BaT), xã Minh Đức (MC), xã Vĩnh
Thành (CL), xã Mỹ An (TP)…
60
Cách đặt tên kiểu này có từ thời phong kiến sang thời Pháp thuộc vẫn được áp
dụng và duy trì cho đến nay.
d. Dùng số đếm hoặc chữ cái để đặt tên
Thông thường dùng chữ số Arập hay chữ số La Mã để đặt tên cũng như dùng
chữ cái La Tinh trong cách đặt địa danh bằng chữ cái và có khi sự dụng phương
thức đặt tên trong việc kết hợp giữa chữ cái và con số. Cách này áp dụng cho địa
danh hành chính, địa danh chỉ công trình xây dựng và địa danh vùng: xã Thành
Thới A (MC), Ấp Mỹ An A (TX), ấp Mỹ An B (TX), ấp Mỹ An C (TX), cầu số 1
(BaT), cầu Cái Ớt B (CL), cầu 1A (GT), huyện lộ 21 (CL), cống 9B (GT), chợ K20
(GT), vùng 1 (BĐ), vùng 2 (BĐ)…
đ. Phương thức ghép địa danh
Thực ra phương thức này đã được đề cập trong luận án của tác giả Lê Trung
Hoa. Sau đó phương thức này được Nguyễn Kiên Trường triển khai và phát triển
thêm lên trong luận án của mình, tác giả cho thấy các yếu tố thuần Việt cũng ghép
lại được để đặt địa danh. Ngoài ra tác giả đưa ra một số mô hình ghép địa danh như:
1- Lấy một yếu tố của huyện ghép với một yếu tố của xã, thôn cũ hoặc một từ mang
sắc thái chính trị, khẩu hiệu, nguyện vọng nào đó; 2-Ghép các yếu tố trong tên các
tỉnh, huyện sau khi sáp nhập; 3- Lấy một yếu tố chung trong tên các thôn xã gần
nhau rồi thêm từ mới mang tính liên kết, kết hợp; 4- Lấy một yếu tố của một tên gọi
trong nhiều tên gọi rồi ghép thêm từ mới vào trước hoặc sau yếu tố đó; 5- Ghép tên
thôn xã cũ lại với nhau sau khi sáp nhập nhưng không thêm từ mới.
Phương thức ghép địa danh chủ yếu xảy ra trong việc gọi tên các đơn vị hành
chính. Theo Nguyễn Kiên Trường, những yếu tố tham gia vào việc ghép địa danh sẽ
tạo nên một tên gọi mới hoàn chỉnh về nghĩa lẫn âm. Việc ghép địa danh chỉ được
thực hiện khi những từ chung tham gia cấu thành địa danh đã bị riêng hóa thành tên
gọi và việc ghép chúng lại là có mục đích rõ ràng.
Khảo sát địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy có các phương thức ghép địa
danh sau:
61
(đ1) Ghép yếu tố đầu của các địa danh với nhau:
Xã Đa Phước Hội (MC) được ghép lại từ thôn Đa Phước, thôn Hội An và thôn
Tam Phước; thôn Tiên Thủy Tây ghép với thôn Tiên Thủy thành xã Tiên Thủy
(CT)…
(đ2) Ghép yếu tố cuối của các địa danh với nhau:
Xã Phú Khánh (TP) được ghép từ làng Đông Phú và làng Đông Khánh; thôn
Phước Tường ghép với thôn Phước Đa thành xã Tường Đa (CT)…
(đ3) Ghép yếu tố cuối của địa danh này với yếu tố đầu của địa danh kia:
Xã Tân Thủy (BaT) được ghép từ làng An Thủy và Tân Hòa; xã Phú Sơn (CL)
được ghép từ làng Mỹ Sơn và làng Phú Hiệp…
(đ4) Ghép yếu tố đầu của địa danh này với yếu tố cuối của địa danh kia:
Xã Vĩnh Hòa (CL) được ghép từ làng Vĩnh Đức Đông, Vĩnh Đức Trung và
làng Bảo Hòa; xã Tân Xuân (BaT) được ghép từ làng Tân Trang và Đồng Xuân…
(đ5) Lấy yếu tố chung giữa các địa danh ghép lại và thêm từ vào sau yếu tố
đó để gọi tên:
Xã An Hiệp (BaT) được ghép từ làng An Điền và An Lái; xã Châu Hòa (GT)
được ghép từ làng Châu Phú và Châu Thới…
(đ6) Nhập địa danh này vào địa danh kia và chọn một địa danh:
Xã An Thạnh (MC) được nhập từ làng An Thạnh và Tân Thạnh; xã Vĩnh Hòa
(CL) được nhập từ làng Vĩnh Hòa và Vĩnh Thuận…
(đ7) Lấy một trong những yếu tố của địa danh thứ nhất và đảo trật tự các
yếu tố của địa danh thứ hai lắp ghép để gọi tên:
Xã Phước Mỹ Trung (MC) được ghép từ làng Phước Chánh và Trung Mỹ,
trong đó làng Trung Mỹ bị đảo trật tự và kết hợp với yếu tố “phước” trong Phước
Chánh để tạo địa danh.
e. Phương thức phái sinh từ địa danh ban đầu
Phương thức này được cấu thành dựa trên chất liệu của địa danh ban đầu đã có
sẵn, nhằm để phân biệt và làm phong phú trong cách gọi tên, chủ thể thêm vào một
yếu tố nào đó có trong vốn từ chung và tùy theo mục đích của mình mà yếu tố đó có
62
thể chỉ phương hướng, vị trí, tính chất, số đếm, chữ cái hoặc thêm một từ Hán Việt
có ý nghĩa tốt đẹp vào sau một thành tố của địa danh có tầng bậc cao hơn.
Thông thường cách đặt địa danh này phổ biến ở địa danh hành chính, có thể là
do dễ nhớ, dễ phân biệt và hạn chế cách chọn tên gọi cũng như là mang tính khoanh
vùng tập thể.
Các địa danh đó là Bình Khánh: xã Bình Khánh Đông và xã Bình Khánh Tây
(MC); Vang Quới: xã Vang Quới Tây và xã Vang Quới Đông (BĐ); Tân Quới: ấp
Tân Quới Nội và Tân Quới Ngoại (CT); An Khương: Ấp An Khương A và ấp An
Khương B (TP); Long Hòa: ấp Long Hòa 1 và Long Hòa 2 (BĐ); Tân Thành: ấp
Tân Thành Hạ, ấp Tân Thành Thượng (MC), ấp Phú Thạnh, ấp Phú Lợi, ấp Phú
Khương thuộc xã Phú Lễ (BaT)…
Phương thức chọn một yếu tố đầu hay yếu tố cuối của địa danh có tầng bậc cao
để làm nền và thêm vào đó một từ Hán Việt có ý nghĩa gần với yếu tố gốc được
chọn trong quá trình đặt địa danh, là phương thức phổ biến ở địa danh hành chính
ấp, xã.
2.1.2.2. Phương thức chuyển hóa
“Chuyển hóa địa danh là phương thức biến một địa danh thành một hoặc
nhiều địa danh khác mà địa danh mới được tạo thành ấy có thể giữ nguyên dạng của
địa danh cũ, hoặc thêm bớt một vài yếu tố” [Lê Trung Hoa, 2006, tr. 69].
Trong quá trình chuyển hóa, địa danh cũ có thể tồn tại cùng với địa danh mới
hoặc theo thời gian nó không còn thích ứng cho mục đích giao tiếp sẽ tự biến mất.
Sự chuyển hóa này diễn ra trong nội bộ một loại địa danh hay giữa các loại địa danh
với nhau.
Phương thức chuyển hóa địa danh đã phản ánh được nguồn gốc của địa danh
cũ cũng như cho thấy cách thức đặt địa danh mới nhằm mục đích gì, có ý nghĩa gì
và có liên quan thế nào với địa danh cũ. Ở Bến Tre, phương thức đặt địa danh kiểu
này diễn ra tương đối phổ biến. Có các kiểu chuyển hóa địa danh sau:
a. Chuyển hóa trong nội bộ loại hình địa danh
(a1) Chuyển hóa trong loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên:
63
Chuyển hóa loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên phổ biến ở Bến Tre nói
riêng ở các tỉnh miền Tây nói chung, gắn liền với vùng sông nước có sông ngòi
chằng chịt. Vì vậy địa danh này chủ yếu có liên quan đến vùng sông nước, địa danh
mới ra đời thường dựa vào đặc trưng của địa danh trước đó. Các địa danh đó là: bến
Xoài rạch Bến Xoài (MC), rạch Sâu sông Rạch Sâu, xẽo Quê rạch Xẽo Quê
(TP), rừng Lá cù lao Lá (BaT)…
(a2) Chuyển hóa trong loại địa danh chỉ công trình xây dựng:
Đó là các địa danh: cầu Bà Mụ chợ Cầu Bà Mụ (TX), cầu An Hóa chợ An
Hóa (CT), cầu Ba Lai chợ Ba Lai (CT), cầu Cái chợ Cầu Cái (BĐ), trại giam
K20 chợ K20 (GT), cầu Mống chợ Cầu Mống (MC)…
(a3) Chuyển hóa trong loại địa danh hành chính:
Quận Hương Mỹ xã Hương Mỹ (MC), hạt Bến Tre tỉnh Bến Tre tỉnh
Đồ Chiểu tỉnh Kiến Hòa tỉnh Bến Tre (BTre), quận Bình Đại huyện Bình
Đại (BĐ), thôn Vĩnh Thành xã Vĩnh Thành (CL), làng An Ngãi Trung xã An
Ngãi Trung (BaT)…
(a4) Chuyển hóa trong loại địa danh chỉ vùng:
Ba Châu (Châu Phú, Châu Thới và Châu Bình) vùng Ba Châu (GT), vùng
Thành Thới khu trù mật Thành Thới (MC), xóm Gò Trụi vùng Gò Trụi
(BaT)…
b. Chuyển hóa giữa các loại địa danh với nhau
(b1) Loại địa danh chỉ địa hình thiên nhiên chuyển sang địa danh chỉ công
trình xây dựng, địa danh hành chính và địa danh chỉ vùng
* Chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng:
Giồng Miễu chợ Giồng Miễu (TP), rạch Cái Cấm cầu Cái Cấm (MC),
sông Tiên Thủy chợ Tiên Thủy (CT), bến Tranh chợ Bến Tranh (GT), rạch
Chùa cầu Rạch Chùa (CL),bãi Ngao đường Bãi Ngao (BaT), xẽo Ngang đập
Xẽo Ngang (TP)…
* Chuyển sang địa danh hành chính:
64
Bờ Bàu ấp Bờ Bàu (BaT), bến Xoài ấp Bến Xoài (MC), rạch Gừa ấp
Rạch Gừa (BĐ), giồng Trôm huyện Giồng Trôm (GT), bến Tre tỉnh Bến Tre…
* Chuyển sang địa danh chỉ vùng
Vàm Nước Trong vùng Vàm Nước Trong (MC), giồng Rừng xóm Giồng
Rừng (BĐ), giồng Giá xóm Giồng Giá (BaT), rạch Đầu Trâu xóm Đầu Trâu
(BĐ), Bần Mít vùng Bần Mít (TP), đầm Lạc Địa vùng Lạc Địa (BaT)…
(b2) Loại địa danh chỉ công trình xây dựng chuyển sang địa danh chỉ địa
hình thiên nhiên, địa danh hành chính và địa danh vùng
* Chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên nhiên:
Kênh Ngang sông Kênh ngang (MC), cầu Ván rạch Cầu Ván (GT)…
* Chuyển sang địa danh hành chính:
Chợ Mới ấp Chợ Mới (MC), cầu Cống ấp Cầu Cống (MC), cầu Vĩ ấp
Cầu Vĩ (BaT)…
* Chuyển sang địa danh chỉ vùng:
Chợ Phước Hiệp vùng Phước Hiệp (MC), chợ Cái Mơn vùng Cái Mơn
(CL), cầu Bến Đò xóm Bến Đò (BĐ), cầu Bờ Chùa xóm Bờ Chùa (BaT), cầu
K20 khu K20…
(b3) Loại địa danh hành chính chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên
nhiên, chỉ công trình xây dựng và địa danh chỉ vùng
* Chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên nhiên:
Quận Sóc Sãi rạch Sóc Sãi (CT), làng An Thạnh rạch An Thạnh (TP),
làng Lương Phú rạch Lương Phú (GT)…
* Chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng:
Thôn An Hiệp cầu An Hiệp (BaT), ấp 6 cầu Ấp 6 (BĐ), Thôn Phú
Thành cầu Phú Thành (TX), ấp Chợ Xép chợ Xép (MC), xã Vĩnh Bình chợ
Vĩnh Bình (CL)…
* Chuyển sang địa danh chỉ vùng:
65
Ấp Giồng Đắc xóm Giồng Đắc (MC), ấp Cống xóm Cống (CL), ấp Bờ
Bàu xóm Bờ Bàu (BaT), thôn Đại Điền vùng Đại Điền (TP), làng Định
Thủy vùng Định Thủy (MC)…
(b4) Địa danh vùng chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, chỉ công
trình xây dựng và địa danh hành chính
* Chuyển sang địa danh chỉ địa hình thiên nhiên: xóm Cái Bông rạch Cái
Bông (BaT), xóm Trại Cá – rạch Trại Cá (GT)…
* Chuyển sang địa danh chỉ công trình xây dựng: xóm Bình Nguyên cầu
Bình Nguyên (TX), xóm Dứa (MC)- lộ Xóm Dứa (MC)…
* Chuyển sang địa danh hành chính: Xóm Bến Vựa ấp Bến Vựa, xóm Chùa
ấp Chùa (TP), vùng Bưng Lớn xã Phú Long, xã Lộc Thuận, xã Định Trung
(BĐ)…
c. Nhân danh, hiệu danh, vật danh chuyển thành địa danh
(c1) Nhân danh chuyển thành địa danh:
Phương thức đặt địa danh kiểu này phổ biến ở địa danh hành chính và địa danh
chỉ công trình xây dựng, thông thường chủ thể chuyển hóa tên của các nhân vật lịch
sử, các danh nhân hay những người có uy tính và tạo địa danh. Ở Bến Tre tên
đường chiếm ưu thế, mục đích là để tôn vinh, để tưởng nhớ. Các địa danh: đường
Bùi Quang Chiêu (MC), đường Lê Lợi (TX), đường Nguyễn Đình Chiểu (BaT),
đường Võ Thị Phò (BĐ), ấp Ông Cốm (MC), xã Hương Điểm (GT)…
(c2) Hiệu danh chuyển thành địa danh:
Hiệu danh được dùng để chuyển hóa thành địa danh thường là tên các công
trình xây dựng có ở đó, chủ yếu là công trình xây dựng của tín ngưỡng như đình,
chùa, miếu… hay tên của các tổ chức xã hội có ý nghĩa đặc biệt nào đó. Cách này
không phổ biến nhiều ở địa danh hành chính. Các địa danh: phà Rạch Miễu (CT),
cầu Sổ Số Kiến Thiết (BĐ), rạch Miễu Bà (CT), rạch Cầu Tàu (TP), lộ Trường
Đảng (MC)…
66
(c3) Vật danh chuyển thành địa danh:
Thông thường vật danh khi chuyển hóa thành địa danh thì những vật danh này
phổ biến, gần gũi hay có liên quan đến sự kiện nào đó trong vùng. Các địa danh
như: giồng Trâu Cheo (BĐ), ngã ba Sân Trâu (TP), rạch Cái Sấu (MC), ngã năm
Chuồng Chó (CT), giồng Ông Hổ (BĐ), vàm Cá Mập (GT)…
d. Chuyển hóa từ địa danh thuộc ngôn ngữ khác
Dùng địa danh ngoài địa bàn cư trú để đặt địa danh cho địa bàn của mình, nói
khác hơn có nghĩa là “vay mượn”.Vay mượn nhân danh, hiệu danh, vật danh ở nơi
khác để đặt địa danh và mượn những từ ngữ Hán Việt, ngôn ngữ nước ngoài để
định danh cho đối tượng.
Theo Nguyễn Kiên Trường vay mượn không chỉ bao hàm ý “mượn” thuần túy,
đôi khi gây cách hiểu về sự vay mượn như “vay mượn” trong từ vựng, hiện tượng
“trôi” địa danh theo di dân, phản ánh xu hướng tâm lí và văn hóa, chính trị của các
chủ thể khi đi “mượn”[1996, tr.85-86].
Qua khảo sát địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy lớp địa danh này chuyển
hóa bằng nhiều hình thức khác nhau như phiên âm hay dịch nghĩa, có thể trực tiếp
hay gián tiếp, Việt hóa địa danh của ngôn ngữ khác về mặt ngữ âm.
(d1) Mượn địa danh ngoài địa bàn:
Phương thức đặt địa danh kiểu này gắn liền với quá trình di cư, lập nghiệp, hay
giao lưu, mua bán của người xưa. Ở Bến Tre, làn sóng di dân là những lưu dân
người Việt hầu hết là người miền Trung và những lưu dân người Hoa. Khi di dân
thường họ mang theo địa danh nơi cư trú cũ đến để đặt tên cho vùng đất mới: như
địa danh Mỏ Cày (MC), Cửa Đại, Cửa Tiểu (BĐ)… đều có ở miền Trung, hay họ
lấy những thành tố của địa danh nơi khác để gọi như địa danh có thành tố “thủ” có
nhiều nơi ở Nam Bộ như Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Ngữ ở thành phố Hồ Chí Minh,
Thủ Đoàn, Thủ Thừa ở Long An, Xáng Thủ, Tắt Thủ ở Cà Mau… để tạo địa danh ở
Bến Tre như Chợ Thủ (BĐ), thủ Ba Lai (BĐ), ấp Thủ Sẻ (MC), bến phà Thủ Ngữ
(GT)…
67
Một số địa danh ra đời gắn với việc lưu dân như Ba Tri Cá trại (BaT), Cái Da
trại (GT)…
(d2) Vay mượn từ ngữ Hán Việt:
Do hoàn cảnh lịch sử, chính trị của đất nước bị đô hộ hơn 1000 năm Bắc
thuộc, nên việc ảnh hưởng ngôn ngữ Hán trong quá trình đặt địa danh là điều dễ
hiểu. Ngoài việc dùng phổ biến ngôn ngữ thuần Việt để đặt địa danh thì một bộ
phận từ ngữ gốc Hán được mượn để gọi tên, phổ biến là địa danh hành chính.
Chiếm tỷ lệ cao là tên ấp và tên xã.
Các địa danh đó là: ấp Phú Chánh (TX), ấp Tân An Thượng (CT), ấp Long
Hội (BĐ), ấp Mỹ Hòa (GT), ấp Tân Lộc (MC), ấp Long Khánh (CL), xã Hòa Lợi
(TP), xã Minh Đức (MC), xã Thạnh Phước (BĐ), huyện Bình Đại, huyện Châu
Thành (CT)…
(d3) Vay mượn địa danhh gốc khác:
Đầu thế kỉ XVII, cũng như toàn vùng Đồng Nai- Gia Định, Bến Tre là một
vùng đất mới, là nơi cộng cư của nhiều lưu dân đến khai phá, làm ăn, sinh sống.
Ngoài những lưu dân người Việt đến từ miền Trung, miền Bắc và lưu dân người
Hoa, còn có cư dân tại chỗ- người Khơme đang sinh sống và làm ăn trên các giồng
đất cao. Và cũng do nhiều đợt chuyển cư liên tục, giao lưu mua bán, chiến tranh cho
nên ở Bến Tre ngoài các dân tộc Kinh, Hoa, Khơme còn có một số ít dân tộc sinh
sống rãi rác ở đây như dân tộc Chăm, Mường Nùng, Mã Lai, Pháp, Mỹ...Vì vậy
việc mượn ngôn ngữ các dân tộc khác, đặc biệt là ngôn ngữ Hoa, Khơme, Pháp để
đặt địa danh ở Bến Tre đã được phổ biến và sự tiếp nhận một số địa danh có nguồn
gốc từ ngôn ngữ của dân tộc diễn ra một cách tự phát và tự giác. Hình thức vay
mượn để đặt địa danh là phiên âm (transcription), nghĩa là đọc theo âm của ngôn
ngữ gốc và dịch nghĩa (translation) (dịch nghĩa toàn bộ và dịch nghĩa bộ phận).
* Vay mượn địa danh gốc Khơme:
Theo cuộc tổng điều tra dân số toàn quốc lần thứ II, ngày 1.4.1989 dân tộc
Khơmer chiếm 193 người trên tổng số 1.214.329 dân số ở Bến Tre, chiếm 0,015%.
68
Một số từ gốc Khơmer xuất hiện nhiều trong phương ngữ Nam Bộ cũng như
ở Bến Tre thể hiện qua địa danh là “bưng” “bâng”( péang) (chỗ đất trũng có
nước quanh năm); rạch prêk (dòng nước tự nhiên nhỏ hơn sông, lớn hơn xẽo); cổ
koh (cồn, cù lao); vàm piêm/ păm (ngã ba sông rạch); Sóc/ Sốc srôk
(huyện, quê hương, xứ sở, nước).
Các địa danh đó là: Cái Cối (MC) Prêk Thbal; rạch cát Prêk Ksach; Cái
Mơn (CL) Prêk Khmum (rạch mật ong); Cửa Đại (BĐ) Păm Prêk Kompon
Thom (vàm, rạch lớn); Bưng Lớn (BĐ) Péang Thom (vũng, ao lớn); Bến Tre
Prêk Rưsei (rạch tre); Rạch Ba Tri Cá (BaT) Prêk Bati Phsar Trei ( rạch ? cá);
Ba Vát (MC) Pears Watt (chùa phật)…
* Vay mượn địa danh gốc Pháp:
Phương thức đặt địa danh vay mượn gốc Pháp không nhiều chủ yếu qua một
số địa danh nhưng đã được Việt hóa hay thay thế bằng địa danh Việt : kinh Turc
(CT)(dân địa phương gọi là kênh Sơn Mã), kênh Xáng (BĐ), kênh Champeaux
(BĐ)…
2.2. Đặc điểm về mặt cấu tạo
Khi nghiên cứu địa danh, ngoài việc tìm hiểu về đặc điểm ý nghĩa mà tên gọi
phản ánh, các nhà địa danh học phải hiểu được phương thức tạo lập hay cấu thành
của địa danh. Nói cách khác là phải chỉ ra được các yếu tố từ ngữ cấu tạo nên địa
danh, đó là xác định được về mặt cấu tạo ngữ pháp trong cấu trúc nội bộ của một
địa danh, chỉ ra được những phương thức cấu thành theo quy luật định danh của địa
bàn, của vùng phương ngữ. Ngoài ra, nguyên tắc đặt tên là một trong những phương
diện của cấu tạo địa danh. Chủ thể khi đặt tên thường dựa vào lí do gì đó để gọi
(nguyên tắc phi võ đoán, đôi khi có những cách gọi không có lí do gì). Nguyên tắc
này được dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học và phi ngôn ngữ. Nhờ vậy địa danh
mang đậm màu sắc tâm lý, văn hóa của một vùng.
2.2.1. Phân loại địa danh ở Bến Tre
Qua hệ thống phân loại chung của địa danh Việt Nam đã nêu ở trên, địa danh ở
Bến Tre cũng không nằm ngoài cách phân loại đó vì: “Trong những điều kiện như
69
nhau hoặc gần giống nhau về địa hình, thường lập lại những địa danh như nhau” [Lê
Trung Hoa, 1991 tr.36]. Qua thu thập 4948 địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận
thấy:
2.2.1.1. Dựa vào đối tượng (hay loại hình) địa danh ở Bến Tre được phân
loại như sau: 1- Địa danh tự nhiên: có 1273 chiếm 25,72% như: bàu Sen (BaT), cồn
Bần (TP), sông Cái Cấm (MC)…Thông thường địa danh tự nhiên thường đứng sau
những tiền từ như: bãi, bàu, bưng, cồn, cù lao, sông, rạch, xẽo…; 2- Địa danh hành
chính: có 1114 chiếm 22,51% thường đứng sau các tiền từ như: ấp, huyện, khu phố,
thị trấn…Ví như ấp Phú Chánh(TX), ấp Long Hòa (CT), khu phố Bình Khởi (TX),
thị trấn Chợ Lách (CL), xã Định Thủy (MC)…; 3- Địa danh chỉ công trình xây
dựng: có 2425 chiếm 49,00% thường đứng sau các tiền từ như: bến đò, cảng cá,
cầu, chợ, cống, đập, đường, kênh, mương, lộ.. Đó là các địa danh:bến đò Sa Kê
(MC), cảng cá Bình Thắng (BĐ), cầu Tre Bông (CT), chợ Giồng Luông (TP), cống
Rạch Bàu (CL), lộ Bà Mè (MC)…; 4- Địa danh vùng có 136 chiếm 2,74% gồm các
địa danh đứng sau các tiền từ như: khu, vùng, xóm. Ở Bến Tre địa danh vùng chiếm
số lượng không nhiều. Ví như: vùng Lạc Địa (BaT), vùng 1(BĐ), xóm Chòi Bà
Thược (MC), xóm Gò (BaT)…
2.2.1.2. Dựa vào ngữ nguyên, chúng tôi phân loại địa danh ở Bến Tre như
sau:
* Địa danh thuần Việt:
Chiếm số lượng lớn với 4948 địa danh thì có 2833 địa danh chiếm 57,25%.
Trong số các địa danh thuần Việt ở Bến Tre, phần lớn tồn tại ở địa danh tự nhiên,
địa danh chỉ công trình xây dựng và địa danh vùng. Điều đó cho thấy ý thức bảo tồn
bản sắc ngôn ngữ văn hóa Việt của người xưa, mặc cho thời gian hay chiến tranh
cũng không thể phủ định được. Những địa danh đó là: bàu Giá (BĐ), chợ Giồng Giá
(BaT), đập Cầu Lá (MC), đê Cồn Lát (CT), rạch Cái Gà (CL), xóm Bún (MC)…
* Địa danh không thuần Việt:
Chiếm phần lớn là địa danh Hán Việt, một số địa danh gốc Khơme và vài địa
danh gốc Pháp.
70
Địa danh Hán Việt có 1915 chiếm 38,70%, phần lớn tập trung ở địa danh hành
chính. Đó là các địa danh: ấp Phú Hào (TX), cầu Quan (CL), chợ Thới Thuận (BĐ),
kênh Tân Xuân (BaT), rạch Yên Hào (BĐ), xã Phước Long (GT)…
Có 174 địa danh gốc Khơmer, chiếm 3,51% như: chợ Ba Vát (MC), kênh Sơn
Đốc (CT), sông Thom (MC), rạch Sóc Sãi (CT)…
Địa danh gốc Pháp tồn tại không nhiều như: kênh Turc (CT), kênh Champeaux
(BĐ), cống Maxken (GT)…
* Địa danh chưa rõ nguồn gốc và địa danh hỗn hợp: có 26 địa danh chiếm
0,53%. Đó là các địa danh: cầu Việc Giữa (BĐ), kênh Mắc Miễu (BĐ), sông Ba Tri
(BaT), rạch An Bường Bé (TP)…
2.2.1.3. Dựa vào số lượng âm tiết : Căn cứ vào số lượng âm tiết (tiếng),
chúng tôi chia địa danh Bến Tre thành địa danh đơn tiết (địa danh chỉ có một tiếng
hay một âm tiết) và địa danh đa tiết (gồm có 2 tiếng trở lên hay hai âm tiết trở lên).
* Địa danh đơn tiết:
Là địa danh phần lớn có một tiếng, chủ yếu là địa danh thuần Việt. Ở Bến Tre
có 676 địa danh chiếm 13,66% như: ao Ghe (BĐ), bàu Rót (CT), bến Chổi (TP),
cồn Dơi (CT), sông Thom (MC), rạch Cừ (TP), lộ Mới (CL), ấp Chợ (CT)…
* Địa danh đa tiết:
Địa danh có hai tiếng trở lên, chiếm nhiều trong địa danh Bến Tre. Theo thống
kê có 4272 địa danh đa tiết, chiếm 86,33%, trong đó địa danh hai âm tiết chiếm
nhiều nhất như cầu Hòa Lộc (MC), cảng cá Giao Long (GT), bến đò Hòa Mỹ
(CL)…, có 449 địa danh ba âm tiết, chiếm 9,07% như: cống An Hòa Tây (BaT),
giồng Cây Sống Rắn (BaT), cầu Cái Chát Lớn (MC), ngã tư Chợ Khâu Băng (TP),
địa danh có bốn âm tiết chiếm số lượng không đáng kể như: đường Ngã Ba Biên
Thùy (BĐ), kênh Mười Chín Tháng Năm (BĐ), kênh Rạch Nò Cầu Nhỏ (BaT)…và
vài địa danh có năm âm tiết và sáu âm tiết như: kênh Ấp 2 Mặt Trời Mọc (BaT),
chợ Đầu Mối Nông Thủy Sản (TX), chợ Đầu Mối Thủy Sản Đê Đông (BĐ), một địa
danh có chín âm tiết: cầu Tổ Nhân Dân Tự Quản Số 32 (BaT).
71
2.2.2. Mô hình cấu trúc của địa danh
Thông thường một địa danh được cấu thành bởi hai bộ phận: thành tố chung
và tên riêng. Thành tố chung thường được xếp vào một hệ thống khái niệm nào đó
như: bến, sông, xóm, vùng…, còn tên riêng dùng để khu biệt giữa các đối tượng với
nhau, như vậy địa danh là bộ phận tên riêng. Ví như bến Tranh, rạch Bến Tranh,
sông Cái, rạch Sông Cái, cửa Đại, vàm Cửa Đại, xóm Bún, vùng Lạc Địa…. Như
vậy mỗi địa danh đều nằm trong một phức thể địa danh gồm thành tố chung và tên
riêng. Quan hệ giữa thành tố chung và tên riêng là quan hệ giữa cái hạn định và cái
được hạn định. Việc xem xét bản chất thành tố, xác định vai trò và quan hệ của
chúng là cần thiết. Về quan hệ giữa cái hạn định và cái được hạn định trong một
phức thể địa danh có khi cái hạn định giữ vai trò là thành tố chung nhưng trong một
phức thể địa danh khác nó có sự chuyển hóa từ chung thành riêng đến một vị trí nào
đó theo một kết cấu bao hàm. Ví như giồng Dầu rạch Giồng Dầu, cồn Lát đê
Cồn Lát…
Để tiện nhận định rõ mô hình cấu trúc của một địa danh, chúng tôi quy A là
thành tố chung, B là tên riêng (địa danh), là đặc điểm riêng của đối tượng, dùng để
khu biệt đối tượng. Mỗi thành tố có vai trò, chức năng riêng, yếu tố A giúp phân
biệt loại hình đối tượng, yếu tố B có chức năng khu biệt đối tượng.
Nguyễn Kiên Trường cho rằng: “Địa danh Hải Phòng và nhiều nơi khác
thường được cấu tạo từ hai bộ phận: danh từ chung tức thuật ngữ địa lý (sông, núi,
xóm, thôn…) và tên riêng khu biệt đối tượng sông Bạch Đằng, núi Đồ Sơn, xóm
Chùa, thôn Văn Đẩu…) [1996, tr.55].
Trong khi đó, trong luận án của mình, Trần Văn Dũng không chấp nhận quan
điểm của Nguyễn Kiên Trường. Tác giả cho rằng “Ở một số địa danh ta có thể loại
bỏ hoàn toàn thành tố A mà không làm người tiếp nhận hiểu sai thành tố B, vì lúc
này B đã hoàn toàn đảm nhiệm được vai trò của cả hai thành tố. Chẳng hạn, có thể
nói đi Hà Nội, về Vinh, vào Huế, vào Đà Nẵng, vào Quy Nhơn, vào Phan Rang, vào
Phan Thiết, vào Nha Trang, lên Đà Lạt, đến Sài Gòn…mà không cần sự có mặt của
yếu tố thành phố” [ 2005, tr.81].
72
Chúng tôi nhận thấy rằng trường hợp tác giả Trần Văn Dũng nêu ở trên chỉ
phù hợp với một số những địa danh có ý nghĩa chỉ sự vật và những địa danh nổi
tiếng, được nhiều người biết đến. Chẳng hạn như khi ai đó nói xuống Cần Thơ mà
không cần nói có yếu tố thành phố ta vẫn hiểu được người đó muốn đi Cần Thơ chứ
không phải đi Bến Tre chẳng hạn. Còn khi chúng ta đề cập đến địa danh chỉ tên
người hay địa danh bằng số dứt khoát trước địa danh phải có thành tố chung. Không
ai có thể nói đi Hồ Chí Minh, xuống Trần Văn Thời mà phải nói đi thành phố Hồ
Chí Minh hay xuống huyện Trần Văn Thời, hay đi phường 1(TX), về ấp 3 (MC) thì
cũng không thể nói đi 1, về 3. Ngoài ra những địa danh không nổi tiếng trong một
ấp hay một thôn như: xóm Cối (MC), xóm Trại (BaT)…nếu ta bỏ đi thành tố chung
thì khi nói đi Cối, xuống Trại không ai có thể hiểu được và có thể hiểu sai. Còn với
địa danh chỉ có một âm tiết dứt khoát phải có thành tố chung đứng trước: lộ Mới
(BaT), ngã ba Bền (MC)…
Vì vậy vấn đề xác định thành tố chung trong địa danh đến nay vẫn chưa có sự
thống nhất ở các nhà nghiên cứu.
2.2.3. Vấn đề thành tố chung trong địa danh ở Bến Tre
2.2.3.1. Một số quan niệm về thành tố chung
Vấn đề thành tố chung trong địa danh được các nhà ngôn ngữ học quan tâm.
Theo nhà nghiên cứu Kurt Zilliacus thì tự bản thân thành tố chung có thể phản ánh:
1- Loại hình của nơi chốn (the type of the place); 2- Tên gọi của nơi chốn ấy (the
name of the place); 3- Đặc điểm rất đặc biệt của nơi chốn ấy (a special feature of
the place) [Nguyễn Tấn Anh, 2008, tr.61]. Còn A.I.Popov khi tìm hiểu về địa danh
Ấn - Âu cho rằng: “Bất cứ hiện tượng hàng loạt nào (lặp lại, tương tự) trong toàn bộ
địa danh, luôn cần được nghiên cứu cẩn thận” [Nguyễn Kiên Trường, 1996, tr.57],
yếu tố lập lại đó (thành tố chung) thường biểu hiện thể và giống của địa danh và
cũng là đặc trưng của một ngôn ngữ.
Ở tiếng Việt, theo tác giả Lê Trung Hoa thì: “Các địa danh Nam Bộ có một
đặc điểm nổi rõ rất dễ nhận thấy, đó là sự xuất hiện của hàng loạt thành tố chung
73
(chẳng hạn như thành tố Gò: Gò Công, Gò Vấp, Gò Quao…; Cái: Cái Răng, Cái
Mơn, Cái Sắn…)” [Nguyễn Kiên Trường, 1996, tr.57].
Theo Lê Trung Hoa mỗi địa danh có thể chia làm hai thành tố: thành tố chung
và thành tố riêng.Thành tố chung là thành tố xuất hiện ở nhiều địa danh và thường ở
đầu địa danh, còn thành tố riêng là thành tố chỉ xuất hiện ở một vài địa danh và
thường ở cuối địa danh. [2006, tr.120].
Mặt khác, có một số tác giả Việt Nam khi nghiên cứu về địa danh lại xem
thành tố chung là danh từ chung. Năm 1996, trong luận án nghiên cứu về địa danh
Hải Phòng, Nguyễn Kiên Trường cho rằng: “Thành tố chung là danh từ chỉ loại đối
tượng địa lý, các danh từ này có tần số xuất hiện cao nhưng đã chuyển hóa thành tên
riêng hoặc một bộ phận của tên riêng. Chúng tôi không xem thành tố chung là các
từ thường xuyên xuất hiện nhưng không phải là danh từ chung có vai trò tương
đương một thuật ngữ địa lý mà chỉ xếp chúng vào nhóm từ có sức “sản sinh” cao
trong địa danh [tr.59].
Từ Thu Mai (2004), cũng xem thành tố chung là những danh từ, (danh ngữ)
chung được dùng để chỉ loại hình của đối tượng địa lý và cho rằng các nhà nghiên
cứu có cách hiểu giống nhau chỉ chưa có sự thống nhất về tên gọi, tác giả đã chỉ ra
rằng: “Thành tố chung trong phức thể địa danh được hiểu là những danh từ (danh
ngữ) chung, được dùng để chỉ loại hình của một lớp đối tượng địa lý có cùng thuộc
tính bản chất. Thành tố chung thường đứng trước địa danh để phản ánh loại hình đối
tượnng được định danh”[tr.58].
Dựa trên mô hình cấu tạo tổng quát về địa danh của Nguyễn Kiên Trường,
Trần Văn Dũng (2005) hiểu “thành tố chung (A) bao giờ cũng là một danh từ, kết
hợp với (B) cũng là một danh từ hay danh ngữ. Danh từ chung (thành tố A) có chức
năng chỉ một lớp đối tượng có cùng một thuộc tính. Trong phức thể địa danh tiếng
Việt, danh từ chung (thành tố A) thường đứng trước tên riêng: thôn Duy Hòa, xã
Hòa Thắng…Danh từ chung trong địa danh Việt Nam vừa có ý nghĩa về mặt hình
thức - tạo nên chủ thể của đối tượng, vừa có ý nghĩa về mặt nội dung - xác định loại
hình của đối tượng gọi tên. Danh từ chung (thành tố A) trong phức thể địa danh
74
Việt Nam còn có khả năng chuyển hóa thành tên riêng (thường là danh từ chung
đơn tiết dễ chuyển thành tên riêng) và trở thành thành tố chung (AB), tức dễ chuyển
hóa thành (B) hoặc dễ xâm nhập vào (B). Nói cách khác, (A) có khả năng chuyển
hóa thành (B) hoặc thành một bộ phận của (B) [tr.72].
Theo A.V. Superanskaja thì thuật ngữ tên chung và tên riêng là để phân biệt
hai bộ phận trong cấu trúc của cụm từ “ Những mục tiêu địa lý có hai loại tên: tên
chung để xếp chúng vào hệ thống khái niệm nào đó (núi, sông, thành phố, làng mạc)
và tên riêng biệt của từng vật thể” [Từ Thu Mai, tr.54].
Theo cách hiểu của chúng tôi, tên chung thường gắn với một lớp đối tượng
cùng loại, còn tên riêng chỉ gọi tên cho một đối tượng cá biệt, đơn nhất và xác định,
Chức năng cơ bản của tên chung là là để biểu niệm, chức năng của tên riêng là để
định danh riêng cho đối tượng cụ thể.
Định danh là một nhu cầu của con người trước thế giới khách quan, là một nhu
cầu của ngôn ngữ, định danh để phân biệt các đối tượng này với đối tượng khác.
Khi định danh người ta có thể dựa vào phương thức định danh trực tiếp như: sử
dụng tổ hợp âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các đặc trưng của đối tượng, mô
phỏng âm thanh, phái sinh, ghép từ, cấu tạo các biểu ngữ, đặc ngữ, sao phỏng, vay
mượn [Nguyễn Đức Tồn, tr.39] và phương thức định danh gián tiếp qua phương
thức chuyển nghĩa. Các chủ thể khi đặt tên cho địa danh thường dựa vào phương
thức định danh trực tiếp. Các chủ thể tự tạo ra địa danh dựa trên một số thuộc tính
có liên quan đến sự vật để đặt tên và chuyển hóa những địa danh có sẵn để gọi tên
cho đối tượng. Hay họ có thể vay mượn phần tên riêng hay cả phức thể địa danh từ
những ngôn ngữ khác…Ví dụ: Địa danh hành chính ở Tây Nguyên vay mượn từ
tiếng Mnông, Banar, Giarai…như: Cư có nghĩa là núi: xã Cư Êbur, huyện Cư Jut…;
Đăk có nghĩa là nước: xã Đăk Song, huyện Đăc Nông…; Êa có nghĩa là nước: xã
Êa Kao, huyện Êa Sup…[Lê Trung Hoa, 2006, tr.118].
Có thể qua định danh, ta thấy được khả năng tư duy của con người, nhờ các
tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế khách quan tồn tại trong lí trí của chúng ta,
phân biệt với các sự vật cùng loại và khác loại. Qua định danh ta còn thấy được tư
75
duy của đồng ngôn ngữ và tâm lí dân tộc, bản sắc dân tộc của ngôn ngữ đó, thậm
chí cách định danh còn cho thấy đặc điểm loại hình của ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ
phản ánh thế giới khách quan, phản ánh khả năng tư duy của con người với hiện
thực cuộc sống. Trong cách gọi tên của địa danh cũng vậy, đặc trưng của một vùng
đất thể hiện rất rõ nét. Và thành tố chung thường phản ánh địa lý của một vùng lãnh
thổ nhất định. Với Bến Tre, các từ chỉ địa hình sông nước, kênh ngòi, bến bãi, địa
hình, địa vật là những thành tố chung dễ phân biệt nhất. Quan niệm về thành tố
chung ở các tác giả, nhìn chung chưa có sự thống nhất trong cách gọi tên nhưng
chung quy có thể hiểu như sau: Cái được gọi là thành tố chung trong địa danh nói
chung và địa danh ở Bến Tre nói riêng là các từ hay ngữ có tần số xuất hiện cao và
được lập đi lập lại trong toàn bộ địa danh và thường đứng vị trí đầu của địa danh: Ví
dụ như thành tố giồng: giồng Sầm (BĐ), giồng Keo (MC), giồng Dơi (CT)…
Trong một phức thể địa danh, thành tố chung có tính khái quát cao, còn địa
danh mang tính cụ thể. Các thành tố chung có tính cố định trong một địa danh, tuy
nhiên ở một địa danh khác thành tố chung được chuyển hóa vào tên riêng hoặc một
bộ phận của tên riêng. Chính sự chuyển hóa này đã làm cho địa danh thêm phong
phú, đa dạng. Ví dụ: vàm Đình (CT) đập Vàm Đình; rạch Mương Dưới (BĐ)
cống Rạch Mương Dưới; cồn Cát (MC) khém Cồn Cát…Nhìn chung sự chuyển
hóa các thành tố chung có cấu tạo đơn tiết thường dễ chuyển hóa thành địa danh
hơn các thành tố có cấu tạo đa tiết.
2.2.3.2. Một số thành tố chung thường gặp trong địa danh ở Bến Tre
Tìm hiểu về một số thành tố chung ở địa danh, chủ yếu chúng ta nghiên cứu về
nguồn gốc và ý nghĩa của chúng.Vấn đề này được nhiều nhà nghiên cứu mày mò
tìm hiểu. Tuy nhiên cách giải thích của các tác giả hoàn toàn chưa có sự thống nhất.
Khảo sát địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy số lượng thành tố chung xuất hiện
rất đa dạng, tuy nhiên sự hiểu biết của người viết còn hạn chế nên chỉ đưa ra một số
thành tố chung tiêu biểu thường gặp trong địa danh tỉnh nhà cũng như một số thành
tố chung chưa được giải thích một cách xác đáng.
76
a.. Thành tố “bến”
Về thành tố bến xuất hiện với tầng số cao trong địa danh Nam Bộ nói chung
và địa danh Bến Tre nói riêng như: Bến Thủ (BĐ), Bến Miễu (GT), Bến Lở (MC),
Bến Găng (TP)…thành tố bến có ý nghĩa là bến sông, bến nước. Ở Bến Tre thành tố
bến chiếm …Thành tố bến kết hợp trong địa danh rất phong phú như: bến + tên
người; bến + chức danh; bến+ địa hình; bến + đặc điểm, bến + tên động vật và
chiếm số lượng lớn là thành tố bến + tên thực vật, những thực vật đó xuất hiện gần
gũi hay có nhiều ở bến sông hay bến nước đó. Ví dụ như: bến Dưa (TP), bến Xoài
(MC), bến Giồng Cây Trôm (BĐ)…Ngoài ra thành tố bến kết hợp với tên thực vật
để tạo thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh: tỉnh Bến Tre, (chúng tôi sẽ giải thích ý
nghĩa này rõ hơn ở chương 3).
Phần lớn thành tố bến là chỉ bến sông hay bến nước. Tuy nhiên ở Bình Đại
thuộc xã Phú Vang có một địa danh bến Bạ, nơi đây không phải là bến mà là một
bãi cát ghe thuyền đến gặp nơi nào thì đậu nơi ấy. Nên địa danh này có tên là bến
Bạ .Địa danh cấu thành từ đặc tính của sự vật. Hay ở Ba Tri có một địa danh là bến
Xe mà bến xe là nơi đậu lại chứ bến không phải chỉ bến sông hay bến nước.
b.. Thành tố “bà”
Thành tố bà xuất hiện trong địa danh Bến Tre thường gắn với tên người - người
có công, tạo lập hay làm chủ một cái cồn, cái cầu hay con rạch, con giồng…
Ví dụ như: giồng Bà Thủ (GT), cồn Bà Tư (BĐ), cầu Bà Mụ (TX)…
Bà Thủ người có công khai phá, lập nghiệp từ rất xưa có tên là Thủ, cũng có thể
là vợ góa của một ông thủ bổn hay thủ chỉ, thủ ngự. Và giồng Bà Thủ đã đi vào dân
gian:
Ai bước chân lên giồng Bà Thủ
Còn nhớ chăng ủ rũ cái lũ tàn tham
Thằng Tây nó chết ngổn ngang ngày mồng hai tết…
Tuy nhiên, ở Bến Tre thành tố bà xuất hiện trong những địa danh còn là do biến
âm mà thành. Ví dụ như: rạch Bờ Kè Bà Kè (CT), cầu Bờ Bồi Bà Bồi (BaT),
cầu Bờ Giá Bà Giá (BĐ)…
77
Sự biến âm ở các thành tố còn xuất hiên trong địa danh Nam Bộ. Theo Lê Trung
Hoa thì rạch Bà Băng (TPHCM) vốn là tên một con đường lớn băng qua một cánh
đồng ở xã Tân Xuân. Con rạch và chiếc cầu ở khu vực này cũng mang tên Bờ Băng.
Một số người nói chệch thành Bà Băng [1991, tr.109]. Theo tác giả thì từ “bàu”,
“bờ”, “bà” cùng có phụ âm đầu “b” cùng có chính âm ở dòng giữa (ă, ơ,a) cùng
mang thanh huyền nên “bàu”, “bờ” dễ biến thành “bà” [1991, tr.110].
c. Thành tố “cái”
Thành tố cái xuất hiện nhiều trong địa danh Nam Bộ nói chung và trong địa
danh Bến Tre nói riêng. Lâu nay các tác giả chưa thật thống nhất về ý nghĩa của
thành tố này. Hầu hết các tác giả cho cái là sông lớn hay sông mẹ trái với con sông
nhỏ là sông con, sông bé. Điều này đã được Lê Bá Thảo trong (1960) nhận định:
“Cái có nghĩa là mẹ. Nhân dân ta đã ví các con sông lớn chạy qua địa phận mình ở
như con sông Mẹ, còn các con sông nhỏ đổ vào con sông Cái gọi là sông con”. Hay
Võ Văn Trực (1983) khẳng định: “ Sông Cái có nghĩa là sông Mẹ, mẹ của nhiều
phụ lưu ríu rít đôi bên tả hữu ngạn”. Phan Quang (1981) giải thích cái là “từ Việt cổ
dùng để chỉ các con sông”. Riêng Bình Nguyên Lộc thì “Cái có khi cũng chỉ là một
từ để chỉ sông có gốc Đa Đảo”. Từ này tồn tại chủ yếu ở phía Nam nước ta như ở
Nam Bộ có: cái Mây, cái Tre, cái Quanh, cái Lạch, cái Gớc, cái Dàu, cái Bi, cái
Tàu, cái Cót...” [Nguyễn Văn Âu, 2000, tr.54-55].
Còn nhà văn Sơn Nam trong “Đồng bằng sông Cửu Long hay Văn minh miệt
vườn”(1979) cho rằng: “Mấy con rạch từ sông cái chảy vào ruộng thường mang
tiếng Cái đứng đầu: Cái Sắn, Cái Bè, Cái Thia, Cái Mơn….Đồng bào địa phương
thường phát âm lơ lớ không rõ rệt là tiếng cái hay là cải. Phải chăng cái là kẻ theo
nghĩa Kẻ Chợ, Kẻ Sặt?” [tr.25].
Bùi Đức Tịnh (1994) thì “Cái là một từ tố xuất hiện rất thường ở phần đầu của
nhiều địa danh, phổ biến nhất là tên của các con sông rạch… Cái là tiếng rút gọn
của sông cái, chỉ con sông lớn có nhiều sông nhỏ, rạch, xẽo, mương…đổ ra đó”.
Sau đó tác giả cho biết: “ Từ tố cái xuất phát từ “sông cái”, “rạch cái” hay “đường
cái”. Tiếp theo tác giả lại cho rằng: “Nguồn gốc của tất cả các địa danh bắt đầu bằng
78
cái chắc chắn là không đơn giản như thế”, tác giả cho rằng địa danh Cái Răng có
nguồn gốc Khơme K’ran và “cái kết hợp mật thiết không tách rời với từ liền sau
cũng có thể là việt hóa của một từ Khơme hay của dân tộc khác chưa xác định được.
Một khả năng nữa không thể loại trừ là cái đã chuyển biến từ một tiếng Việt rất xưa
ngày nay không còn thông dụng như kẻ có nghĩa là xứ, nơi, chỗ) chẳng hạn”[tr.93-
-94].
Tác giả Hoàng Xuân Phương (1994) có ghi: “Cái, Cả, Ngả có chữ viết và âm
gần gũi với Cổ, Câu, Kẻ thường dùng để gọi tên làng xóm ở Bắc Bộ và phần ngoài
Trung Bộ. Trên đường di chuyển về phương Nam, Cổ, Câu, Kẻ hóa thành Cái, Cả,
Ngả ở miền Nam là một câu trọn nghĩa gồm ba ý: Một là tác động khai hoang vùng
đất mới vào một thời điểm nhất định của lịch sử dân tộc Việt. Hai là xướng tên hoặc
đặc tính của người tiên phong đi khai hoang và tổ chức đời sống. Ba là xác định nơi
được khai hoang và tiếp nhận con người đến định cư” [Nguyễn Tấn Anh, tr.70].
Nguyễn Phương Thảo (1985) cho rằng: “Thành tố cái trong các địa danh được
cấu thành theo mẫu cái + x vốn gốc của nó là từ từ Khơme prêk. Thành tố này nằm
trong nhóm từ có liên quan đến sông nước, chúng tôi thống kê thấy 38 địa danh
được đặt theo mẫu cái + x như Cái Quao, Cái Bông, Cái Mít…”[tr.66].
Tác giả Lê Trung Hoa [2006, tr.252-253] đã đưa ra một số ý kiến về thành tố
cái của các giả khác và có nhận xét, nhận định sau đây:
Trong “Đại Nam quốc âm tự vị (1895-1896) Huỳnh Tịnh Của có ghi ngả tắt:
ngả sông con vắn đàng hơn sông cái. Cái tắt:id. /như trên/. Lê Trung Hoa cho rằng
cả hai yếu tố tắt đều là tính từ, có cùng một nghĩa là “vắn đàng hơn sông cái” còn
cái là danh từ đồng nghĩa với ngả: ngả sông.
Ở những chổ khác, Huỳnh Tịnh Của cũng ghi “Cái Bát: tên riêng ngả rạch ở
về tay mặt thuộc hạt Tây Ninh, Cái Con: tên riêng một ngọn sông nhỏ”.
Lê Trung Hoa nhận thấy: “Bát là ở phía tay mặt, đối lập với cạy là ở phía tay trái.
Và cái bát, cái cạy, ngả bát, ngả cạy vốn là những từ ngữ chỉ các con rạch ở phía
tay phải và tay trái, sau trở thành địa danh. Và cái con vốn có nghĩa là sông nhỏ hay
là rạch sau trở thành địa danh. Do đó cái có nghĩa như rạch.
79
Cuối thế kỉ XIX, Trương Vĩnh Ký có lập bảng đối chiếu một số địa danh Việt có
quan hệ với địa danh Khơmer trong đó một số yếu tố cái tương ứng với prêk, nghĩa
là con rạch: Cái Cát: Prêk Ksach (rạch cát); Cái Cối: Prêk Thbal (rạch cối xay); Cái
Chanh: Prêk Kroc (rạch chanh)…
Và trong Gia định thành thông chí, Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam
Việt, Nam Kỳ Lục tỉnh dư địa chí và tư liệu viết tay của Trương Vĩnh Ký, cái được
dịch thành giang (sông, rạch): Cái Mới: Tân Giang; Cái Mít: Ba La Giang; Cái
Thia: Thi Giang.
Lê Trung Hoa cùng có chung nhận định: “Ý nghĩa cái là nhánh sông hay con
rạch khá phù hợp với thực tế” và tác giả còn nêu lên “Với cách hiểu cái là rạch, ta
có thể thay cái bằng rạch mà sự kết hợp giữa rạch và các thành tố đứng sau trong
địa danh cũng rất thích hợp…Vì cái đồng nghĩa với rạch, ngả sông như thế cho nên
ở khắp Nam Bộ, có 33 cặp địa danh có cách kết hợp giống nhau; trùng nhau ở yếu
tố sau, còn yếu tố trước, một bên là cái, một bên là ngả, rạch: Cái Bát- Ngả Bát; Cái
Cạn- Rạch Cạn; Cái Cui- Rạch Cui…Và tác giả kết luận cái là danh từ có nghĩa là
nhánh sông hay con rạch [2006, tr.255-256].
Qua cách nhìn nhận của nhiều tác giả về thành tố cái trong địa danh chúng ta
thấy rằng:
Thứ nhất: Hoàng Xuân Phương cho rằng: Cái bắt nguồn từ Kẻ mà ra. Ta thấy
xét về mặt ngữ âm có vần [ai] có thể chuyển đổi thành vần [e], thanh sắc có thể
chuyển đổi với thanh hỏi là điều hợp lý. Nhưng xét về mặt ngữ nghĩa kẻ là từ chỉ
nơi chốn, trong khi đó - theo trên - cái là từ thường chỉ sông rạch. Mặt khác nghĩa
của một từ chỉ nơi chốn chuyển sang nghĩa chỉ sông rạch là rất hiếm và ngược lại.
Lý giải cho điều này Lê Trung Hoa có ghi: “Tiền từ kẻ khi được chép trên văn bản
Hán thường được gọi là cổ. Cá biệt được ghi bằng từ cửu: Cửu Chân (Thanh Hóa).
Nhưng quần chúng thường vẫn gọi theo tên cũ với từ kẻ…..Theo Phan Huy Lê, kẻ
đổi sang cổ từ thế kỉ VI hoặc sớm hơn. Còn Huyền Nam cho rằng từ Kẻ Giả chuyển
sang Cổ Sở phải qua trung gian Kẻ Sở mà tổ chức sở xuất hiện sớm nhất ở nước ta
là thời Lý. Để chứng minh cho lập luận của mình Huyền Nam viết: “Kẻ là một tổ
80
chức cơ sở hiện vẫn còn bóng dáng ở các tổ chức cơ sở của những dân tộc như:
Chứt, Bru và Cơ Tu. Nói chung tổ chức kẻ nhỏ hơn một xóm, trải qua một quá trình
phát triển lâu dài nhiều đơn vị kẻ trở thành những đơn vị tương đương với làng,
thôn, xã có khi chiếm gần phạm vi một nửa huyện hiện nay. Không những thế, ở thế
kỉ XVII, kẻ còn chỉ cả một vùng rộng lớn như Kẻ Chợ (kinh thành Thăng Long) và
Kẻ Quảng (Quảng Nam và Quảng Ngãi [Lê Trung Hoa, 2006, tr.181-182].
Trần Đình Vĩnh trong bài viết “Mô hình cấu trúc địa danh đồng bằng Bắc Bộ”
có viết: “Kẻ là đơn vị hành chính thời phong kiến cũng như làng, hương, thôn song
nó là đơn vị hành chính đặc biệt, có vai trò kinh tế chính trị đặc biệt, đầu thế kỉ XX,
Bắc Kì còn tồn tại tới 84 đơn vị như: Kẻ Sặt, Kẻ Trèm, Kẻ Vẽ, Kẻ Vác…”[tr.420].
Điều trên cho thấy cái và kẻ không cùng nguồn gốc, cái không từ kẻ mà ra.
Thứ hai: Cái không có quan hệ nguồn gốc Khơme. Vì trong bảng địa danh
Việt có quan hệ với địa danh Khơme đã nêu trên thì các cập địa danh tương ứng về
nghĩa giữa hai ngôn ngữ, chứ không tương ứng về âm: Ví dụ như: Cái Trầu – Prêk
Mlu (rạch trầu), Cái Muối – Prêk Ambil (rạch muối)…
Như vậy cái có quan hệ nguồn gốc Khơme với từ prêk như Nguyễn Phương
Thảo nêu không? Xét về mặt ngữ âm thì giữa prêk và cái không có sự tương ứng về
mặt ngữ âm, cho nên prêk khó chuyển thành cái mặc dù prêk có nghĩa là sông.
Thứ ba: Theo Bùi Đức Tịnh thì cái là tiếng rút gọn của sông Cái. Vậy liệu cái
có bằt nguồn từ cái trong sông Cái không?
Ta biết rằng cái trong sông Cái có nghĩa là lớn, mà hầu như số rạch mang yếu
tố cái thuộc loại vừa và nhỏ, không lớn. Ngoài ra thành tố cái vốn là danh từ cho
nên có thể kết hợp với tính từ để tạo thành từ ghép như :cái Mơn Nhỏ (CL), cái
Cấm (MC), cái Tắt (CL)…còn cái trong sông Cái là một tính từ thì không thể có
khả năng kết hợp được.
Ở Bến Tre, thành tố Cái chiếm 35 địa danh như: Cái Bần (TP), Cái Bông
(BaT), Cái Cấm (MC), Cái Cau (BĐ), Cái Cá (TX), Cái Mít (GT), Cái Cối
(TX)….Một số trường hợp địa danh có yếu tố sau trùng nhau, còn yếu tố trước một
81
bên là cái, một bên là ngả, rạch: Ví dụ: rạch Ngả Cạy – rạch Cái Cạy (TP), Cái Mít-
Rạch Mít (CL)…
Có nhiều trường hợp thành tố cả dùng thay cho thành tố cái như: Cái Chát
Lớn- Cả Chát Lớn (MC), Cái Cá- Cả Cá (TP), Cái Hàng- Cả Hàng (CL), cái Quao-
Cả Quao (MC)…Liệu cái và cả quan hệ gì với nhau hay không? Theo Đại Nam
Quốc âm tự vị “Cả là từ gọi tắt của từ tổ hương cả. Là chức hương trưởng lớn nhất
trong làng.Thường chọn người tuổi tác, công nghiệp”. Tuy nhiên, Hoàng Xuân
Phương cho biết “Phần lớn chữ cái được phát âm thành cả. Cái Sao cũng là Cả Sao,
Cái Côn thành Cả Côn, Cái Cao thành Cả Cao”[tr.24-25].
Khảo sát địa danh ở Bến tre rất nhiều trường hợp cả dùng thay cho cái và cả
hai trường hợp được người dân dùng song song với nhau Điều này có thể khẳng
định từ cả là biến âm của từ cái. Và xét về mặt ý nghĩa cả và cái không cùng ý
nghĩa với nhau.
Tóm lại có thể kết luận cái là danh từ có nghĩa chỉ nhánh sông hay con rạch
điều này cũng rất phù hợp cho một vùng sông nước như Bến Tre.
d. Thành tố “cù lao”
Bến Tre là một vùng đất đặc biệt khác với các vùng lân cận của đồng bằng
sông Cửu Long đó là cù lao, cuối sông, sát biển. Địa hình Bến Tre được tạo nên bởi
ba dãy cù lao lớn: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hóa. Xung quanh các con
giồng cao ráo, phần lớn các cù lao đều ngập nước. Buổi ban đầu khai phá con người
dừng chân trên những mảnh đất giồng, dần dần tiến xuống chinh phục những vùng
ngập nước, cồn bãi dọc theo những giồng cát.
Ngoài ba cù lao lớn tạo nên địa hình Bến Tre, thành tố cù lao xuất hiện trong
địa danh Bến Tre cũng khá nhiều như: cù lao Lá (BaT), cù lao Ông Chưởng (CT),
cù lao Cái Gà (CL), cù lao Dung (MC)…
Vậy thành tố cù lao có ý nghĩa và nguồn gốc như thế nào?
Theo Bùi Đức Tịnh thì “cù lao có lẽ do Việt hóa tiếng dân tộc miền biển
poulo. Cù lao không phải chỉ là cồn trở nên rộng lớn và có nhiều người sinh sống
trên đó …cù lao còn chỉ vùng đất tương đối hẹp kẹp giữa hai cửa sông và được giới
82
hạn bởi hai cửa sông ấy và bờ biển như các cù lao Minh và cù lao Bảo của Bến Tre”
[tr.15].
“Cù lao là do từ Mã Lai pulaw, là do cồn đất to nổi lên giữa sông, giữa biển:
xóm Cù Lao, cù lao Xếp…”[Lê Trung Hoa, 1991, tr.40].
Theo Huỳnh Minh “giữa sông Hàm Luông có một cái cồn nhỏ, gọi nôm na là
cù lao Đất hoặc cồn Đất” [2001, tr.45].
Vương Hồng Sển có ghi: “Cù lao Qưới Sơn (CT) có tục danh là cồn Tàu
[tr.275], và trong “Địa chí Bến Tre” khi giải thích về,nguồn gốc ý nghĩa của cồn
Phụng, các tác giả cho rằng cồn Phụng còn có tên là cù lao Đạo Dừa [2001,tr.1297].
Qua trên, ta có thể thấy rằng xét về mặt ngữ âm thì pulaw hay polou có vỏ
ngữ âm tương ứng với cù lao. Hơn nữa xét về mặt ý nghĩa thì pulaw là một cồn đất
nổi lên giữ sông hay giữa biển. Như vậy có thể kết luận thành tố cù lao được Việt
hóa từ tiếng Mã Lai: Pulaw. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt ý nghĩa thành tố cù lao
và thành tố cồn. Mặc dù một số tác giả nêu trên đồng cách gọi cù lao và cồn cũng
như một số người dân Bến Tre cũng cho cồn là cù lao. Ví dụ cồn Dài - cù lao Dài
(MC); cồn Ốc - cù lao Ốc (GT)…vì họ nghĩ rằng, cái cồn đất nổi lên giữa sông hay
giữa biển gọi là cồn hay cù lao cũng hợp. Điều đó không hoàn toàn phù hợp vì cù
lao và cồn cũng là vùng đất nổi lên giữa sông, giữa biển nhưng với vùng đất mới
nổi lên thì người ta gọi là cồn, theo thời gian, nếu như cồn nào mà cư dân đến lập
nghiệp sinh sống lâu dài với số lượng lớn thì người ta chuyển cồn sang gọi là cù
lao. Cho nên có sự phân biệt giữa cồn và cù lao qua việc gọi tên của người dân Bến
Tre như cù lao Bảo, cù lao Minh, cù lao An Hóa chứ không ai có thể gọi cồn Bảo,
cồn Minh hay cồn An Hóa.
đ. Thành tố “giồng”:
Khảo sát địa danh ở Bến Tre, thành tố “giồng” chiếm 173 địa danh. Trên cù
lao Bến Tre có rất nhiều giồng như cù lao An Hóa có giồng Ông Hổ, giồng Ông
Đế, giồng Kiến, giồng Binh, giồng Đầu Trâu…, ở cù lao Bảo có giồng Tre, giồng
Trôm, Giồng Chuối, giồng Trơn, giồng Chàm…thì ở cù lao Minh có giồng Văn,
giồng Võ, giồng Phú Hựu, giồng Buôn, giồng Bồn Bồn….
83
Theo Vương Hồng Sển thì giồng là “cuộc đất cao, do sóng đánh và gió thổi
làm nên ở Nam Bộ, có nhiều cát hợp thành đụn thành giồng, rất ít nước, nhưng khi
đào được giếng thì nước rất tốt, trong và ngọt: đất giồng, ruộng giồng, giếng giồng.
như Giồng Ông Tố ở Gia Định, Giồng Én ở Tân An” [1993, tr.377].
Còn theo Địa chí Bến Tre “giồng là phần đất cao hình thành do sự tác động
của dòng chảy của con sông và sóng biển trong quá trình lấn biển diễn ra trong hàng
chục thế kỷ qua. Giồng thường xuất hiện theo dạng hình cánh cung hay dạng rẽ
quạt, có độ cao từ 2m đến 5m, tầng đất cát dày từ 1m đến 6m. Càng xa bờ các giồng
càng thấp dần” [2001, tr.445].
Nguyễn Phương Thảo có ghi: “Giồng là một thành tố chung chỉ chỗ đất cao
hơn ruộng, thường nhiều cát, ít nước, thích hợp với việc trồng các loại khoai, đậu và
các cây ăn trái” [1985, tr.66].
Bùi Đức Tịnh cho rằng giồng là “chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó nông dân cất
nhà ở và trồng rau đậu và một số loại cây ăn trái” [tr.18].
Lê Trung Hoa nhận định: “ Giồng: âm trại của vồng. (Ở Nam Bộ có nhiều từ
nói và viết trại kiểu này: sấm vãn- sấm giảng,chuối và- chuối già)” [1991, tr.40].
Thật ra giồng là biến âm của vồng. Do người dân Nam Bộ nói chung và người
dân Bến Tre nói riêng khi phát âm có sự lẫn lộn giữa phụ âm đầu [ v-] và [gi-].Các
kiểu này thường gặp như: Vồng Vuông - Giồng Vuông (BĐ), Vồng Xã - Giồng Xã
(CL), Vồng Bùng Binh - Giồng Bùng Binh (BĐ), Vồng Chùa - Giồng Chùa (MC)…
Ở Bến Tre giồng là điểm định cư sớm nhất và có lịch sử canh tác lâu dài hơn. Trong
buổi đầu khai phá, những lưu dân chọn các giồng cát làm nơi dừng chân vì nơi đây
thường khô ráo thoáng mát, đất xốp nhẹ, dễ canh tác. Đất giồng có những nét hấp
dẫn và đáng yêu riêng, đi vào ca dao không biết tự bao giờ :
Mẹ mong gả thiếp về giồng
Ăn bông bí luộc dưa hồng nấu canh.
Vì thế trong tỉnh có “gần 20 dải giồng cát chạy song song từ trong ra ngoài
với chiều cao từ 3m đấn 5m” [Nguyễn Thanh Lợi, tr.74].
84
Ở địa danh Bến Tre thành tố giồng chiếm số lượng cao vì Bến Tre là vùng đất
của những cù lao, tạo ra một đặc trưng riêng cho Bến Tre và một địa danh có thành
tố giồng mang tên đơn vị hành chính cấp huyện: huyện Giồng Trôm.
2.2.4. Đặc điểm về mặt cấu tạo của địa danh ở Bến Tre
Khảo sát địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy số lượng âm tiết (tiếng) trong
địa danh rất phong phú. Tên đối tượng ít nhất có một âm tiết và nhiều nhất có chín
âm tiết. Chiếm phần lớn là địa danh có cấu tạo hai âm tiết, các địa danh này được
đặt bằng ngôn ngữ thuần Việt và ngôn ngữ Hán Việt. Còn đặt tên đối tượng có một
âm tiết chủ yếu bằng ngôn ngữ thuần Việt. Loại 3 âm tiết chủ yếu thêm yếu tố hạn
định chỉ thứ tự, vị trí, phương hướng hay đặc điểm, tính chất của đối tượng, còn địa
danh có bốn, năm âm tiết chủ yếu là địa danh chuyển hóa.
Căn cứ vào số lượng âm tiết và ý nghĩa, chúng tôi chia địa danh Bến Tre
thành hai kiểu cấu tạo chính: kiểu địa danh có cấu tạo đơn và kiểu địa danh có cấu
tạo phức. Qua đây, chúng ta sẽ thấy được nhiều từ loại khác nhau được dùng để cấu
tạo nên địa danh như thế nào.
2.2.4.1. Địa danh có cấu tạo đơn
Địa danh có cấu tạo đơn là những địa danh chỉ có một yếu tố (một từ đơn tiết
hay một từ đơn đa tiết) đi kèm với thành tố chung. Ở Bến Tre địa danh thuần Việt
và không thuần Việt đều có kiểu cấu tạo này.
a. Địa danh thuần Việt:
Về từ loại các địa danh này có thể vốn là danh từ, động từ, tính từ hay số từ.
Nhưng trên quan điểm đồng đại, ba từ loại sau đã chuyển thành danh từ:
- Danh từ: giồng Rừng (BĐ), xóm Cối (TX), ao Ghe (BĐ), bàu Dừa (BaT), chợ
Giồng (CL), chợ Bồn Bồn (TP), kênh Lồ Ồ (MC)…
- Động từ: cầu Sập (MC), chợ Xép (MC), xẽo Rên (TP), cầu Sập (CL), hồ Cạp
(TP)…
- Tính từ: lộ Mới (CL), chợ Cũ (BaT), rạch Cụt (BĐ)…
- Số từ: ấp 1(MC), phường 7 (TX), vùng 1 (BĐ)…
85
Trong giao tiếp, địa danh Nam Bộ nói chung và địa danh Bến Tre hầu như
không sử dụng độc lập một tiếng như phương ngữ Bắc Bộ, Trung Bộ . Ví dụ: Bưởi,
Nhổn (Hà Nội), Chèm, Cồng (Thanh Hóa), Lường (Nghệ Tĩnh)…
b. Địa danh không thuần Việt:
(b1) Địa danh gốc Hán:
Chiếm số lượng lớn trong địa danh đơn tiết, đối tượng tên gọi thể hiện nhiều ý
nghĩa khác nhau, bao gồm những nhóm sau:
- Nhóm từ chỉ chức danh: ấp Phủ (MC), rạch Quan (TP), bến Thủ (BĐ)…
- Nhóm từ chỉ tôn giáo, tín ngưỡng: bến Đình (BĐ), bến Miễu (GT), vàm Đình
(CT), rạch Miễu (CT)…
- Nhóm chỉ nguồn gốc dân cư: cầu Việt Hoa (MC), giồng Võ (MC)…
- Nhóm từ chỉ địa hình, kiến trúc, xây dựng: cầu Mống (MC), xẽo Tượng
(BĐ)…
- Nhóm từ chỉ phương vị: đê Đông (BĐ), đê Tây (BĐ)…
- Nhóm từ chỉ diện tích, kích thước: cửa Đại (BĐ), cửa Tiểu (BĐ), giồng
Trường (TP)…
- Nhóm từ chỉ sự thịnh vượng, tốt đẹp, hạnh phúc, ước mơ: cù lao Minh, cầu
Vĩ (CT), ấp Vĩnh (TP), ấp Thới (TP)…
- Nhóm từ chỉ nơi làm việc của tầng lớp thống trị: bến Dinh (TP), vàm Đồn
(MC)…
- Nhóm từ chỉ tính chất, đặc điểm, hình dạng: rạch Mây (BĐ), cồn Tiên (CT),
cống Mun (BaT), cồn Đâm (TP)…
(b2) Địa danh gốc Khơme: sông Thom (MC)…
(b3) Địa danh gốc Pháp: kênh Turc, (CT), kênh Xáng (CL)…
2.2.4.2. Địa danh có cấu tạo phức
Dựa vào mối quan hệ cú pháp của các thành tố có nghĩa trong địa danh (hai
thành tố có nghĩa trở lên) mà phân thành địa danh có cấu tạo phức bao gồm: 1- Loại
gồm các thành tố có quan hệ đẳng lập; 2- Loại gồm các thành tố có quan hệ chính
phụ; 3- Loại gồm các thành tố có quan hệ chủ vị
86
a. Quan hệ đẳng lập
Các thành tố trong địa danh thuộc cùng từ loại, cùng chức năng, không có
thành tố nào đóng vai trò chính hay thành tố nào đóng vai trò phụ, quan hệ giữa các
thành tố là bình đẳng.
(a1) Địa danh thuần Việt:
Loại địa danh này chiếm số lượng thấp: cầu Ranh Phú Phụng (CL) [cầu Ranh
(CL)+ Phú Phụng (CL)]; giồng Trôm Mỏ Cày (MC) [giồng Trôm (MC) + Mỏ Cày
(MC)]…
(a2) Địa danh Hán Việt:
Loại địa danh này có cách cấu tạo từ các thành tố cùng loại, có quan hệ bình
đẳng, biểu thị ý nghĩa khái quát, các thành tố có quan hệ không chặt chẽ. Các thành
tố trong địa danh có cách cấu tạo này thường là tính từ và danh từ: ấp Lộc Thới
(BĐ), ấp Tân Vinh (CT), chợ An Hòa (TX), chợ Quới Sơn (CT), xã Tân Thành
Bình (MC)…
Những địa danh Hán Việt được tạo thành bằng phương thức ghép cũng được
xếp vào loại này: Châu Thành Đông + Châu Thành Tây= Châu Thành; Châu Hưng+
Phú Thuận= Châu Phú Hưng (BĐ)…
b. Quan hệ chính phụ
Các thành tố trong địa danh có quan hệ không ngang bằng nhau. Có một thành
tố đóng vai trò chính và thành tố còn lại là thành tố phụ, làm hạn định thành tố
chính, làm sáng rõ ý nghĩa cho thành tố chính và thành tố chính có ý nghĩa trung
tâm trong kết cấu, quy định đặc điểm ngữ pháp của thành tố phụ. Các thành tố có
quan hệ chặt chẽ.
(b1) Địa danh thuần Việt:
Ở Bến Tre, địa danh có cấu tạo kiểu này thường thành tố chính đứng trước thành
tố phụ, theo quan hệ chính phụ. Thành tố chính thường là danh từ hay danh ngữ còn
thành tố phụ là tính từ, số từ, danh từ hay danh ngữ.
- Động từ + tính từ: cầu Sập Nhỏ (MC), cầu Đúc Lớn (CL)…
87
- Danh từ + tính từ: rạch Cầu Đen (GT), rạch Cầu Đỏ (GT), đập Heo Què
(TP)…
- Danh từ + số từ: giồng Quéo 1 (BaT), giồng Quéo 2 (BaT), cầu Kênh 1(
BĐ), cầu Kênh 2 (BĐ)…
- Danh từ + danh từ: rạch Bà Sanh (CL), rạch Xẽo Tre (MC), cống Rạch Lá
(BaT), ngã ba Cây Trâm (MC)…
- Danh từ + động từ: rạch Nước Chảy (TP), ngã ba Nhà Việc Cháy (BaT)…
- Danh từ + danh từ + danh từ: đường Nguyễn Đình Chiểu (MC), xóm Gãnh Bà
Hiền (BaT)…
- Danh từ + danh ngữ: giồng Cây Sống Rắn (BĐ), cầu Rạch Hồ Giữa (BĐ)…
- Danh ngữ + danh từ: kênh Cánh Đồng Phụng (BaT), cống Ngã Tư Huyện
(CT)…
- Danh ngữ + số từ: cầu Con Kênh 1 (MC), cầu Con Kênh 2 (MC), cầu Kênh
Sườn 1 (BaT), cầu Kênh Sườn 2 (BaT)…
- Danh ngữ + tính từ: cầu Cái Chát Lớn (MC), cầu Cái Chát Nhỏ (MC)…
- Danh ngữ + danh ngữ: vòng xoay Ngã Ba Cây Trôm (BĐ), rạch Ngã Tư Bà
Hiếu (BaT)…
- Danh từ + ngữ động từ: cầu Công Ty Xổ Số Kiến Thiết (BĐ)…
- Danh từ + danh từ + động từ: lộ Sông Tàu Chạy (MC)…
(b2) Địa danh không thuần Việt:
* Địa danh Hán Việt:
Chiếm một số lượng lớn, chủ yếu là địa danh hành chánh, được cấu tạo như
sau:
- Tính từ + danh từ: lộ Phú Long (CL), phường Phú Khương (TX)…
- Danh từ + tính từ: huyện Bình Đại (BĐ), xã Long Thới (CT)…
- Động từ + tính từ: huyện Thạnh Phú (TP), xã Thạnh Trị (BĐ)…
- Tính từ + động từ : xã Phước Hiệp (MC), xã An Hiệp (CT)…
- Số từ + danh từ: chợ Song Lân (CL), xã Tam Hiệp (BĐ)…
88
- Danh ngữ + tính từ: ấp Tân An Thượng (CT), ấp Thạnh Trị Thượng (TP) ấp
Thạnh Trị Hạ (TP), Hưng Khánh Trung (CL)…
- Danh ngữ + số từ: khu Bình An 1 (CL), khu Bình An 2 (CL), ấp Phước
Thạnh 1 (GT), ấp Phước Thạnh 2 (GT)…
- Danh ngữ + danh từ: xã Tân Thanh Tây (MC), ấp Tân Huề Đông (CL), Tân
Huề Tây (CL), huyện Mỏ Cày Nam (MC), huyện Mỏ Cày Bắc (MC)…
- Danh ngữ + động từ: xã Đa Phước Hội (MC), xã Tân Lợi Thạnh (GT)…
* Địa danh hỗn hợp:
Chiếm số lượng ít trong cấu tạo của địa danh ở Bến Tre, chủ yếu các địa danh
này được cấu thành bởi ít nhất một yếu tố thuần Việt và một hay nhiều yếu tố không
thuần Việt. Nguyên nhân do quá trình tiếp xúc, tiếng Việt đã vay mượn các ngôn
ngữ khác và mô phỏng một bộ phận nào đó hoặc vay mượn để tạo mới địa danh. Và
các địa danh này hoàn toàn đã được Việt hóa và đã được người bản ngữ chấp nhận.
- Việt- Khơme: rạch Cá Tra (CT), sông Chợ Thom (MC)…
- Khơme- Việt: lộ Bưng Giồng Dơi (CT), rạch Vàm Hồ (BaT), đập Vàm Đồn
(MC)…
- Việt- Pháp: đập Kênh Xáng( TP)…
- Việt- Hán Việt: chợ Bãi Ngao (BaT), ấp Cầu Vĩ (BaT)…
- Hán Việt- Việt: ấp An Lộc Giồng (MC), ngã ba Lộ Mới (CT)…
- Hán Việt – Khơme : ấp Tiên Đông Vàm ( CT)…
c. Quan hệ chủ vị
Các thành tố trong địa danh có mối quan hệ chủ- vị. Quan hệ chủ ngữ, vị ngữ
giữa các thành tố cấu thành địa danh ở Bến tre chiếm số lượng ít như : xóm Bến Lở
(MC), chợ Kinh Gãy (CL), ngã ba Nhà Việc Cháy (BaT)…
2.3. Nguyên nhân biến đổi của địa danh
2.3.1. Vài nét về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ, ngữ âm
của tiếng Bến Tre
2.3.1.1. Về mặt ngữ âm của phương ngữ Nam Bộ
89
Khi xác định phân chia vùng phương ngữ thì vùng phương ngữ đó phải có
những đặc trưng riêng về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Như Hoàng
Thị Châu đã nói: “Một phương ngữ được xác định bằng một tập hợp những đặc
trưng ở nhiều mặt: ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng ngữ nghĩa dối lập với phương ngữ
khác”[1989, tr 80]. Và phương ngữ Nam Bộ cũng nằm trong quy luật đó.
Ở đây chúng tôi chỉ khái quát lên về đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam
Bộ để đi đến tìm hiểu đặc điểm ngữ âm của tiếng Bến Tre để từ đó làm sáng rõ về
sự biến đổi về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của địa danh ở Bến Tre.
- Về thanh điệu: Tiếng Nam Bộ chỉ có năm thanh điệu đó là: ngang, huyền,
hỏi, sắc, nặng (thanh hỏi, sắc, nặng phát âm nhẹ nhàng hơn tiếng toàn dân, và người
Nam Bộ phát âm không phân biệt thanh hỏi, thanh ngã, trong khi tiếng toàn dân có
6 thanh điệu: ngang, huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng).
- Về phụ âm đầu: So với 22 phụ âm trong hệ thống phụ âm của tiếng Việt thì
phương ngữ Nam Bộ chỉ có 19 phụ âm, không có 3 phụ âm cong lưỡi [s, tr, r]
không có phụ âm môi- răng [v], phụ âm đầu [v,z] đều phát âm là [z], khi đó [z] lại
phát âm là [j]. Ngoài ra một số vùng ở miền tây Nam Bộ [ r] phát âm thành [g], (ví
dụ: làm rồi – làm gồi), [tr ] phát âm thành [t], (ví dụ: trời ơi- tời ơi…).
Các phụ âm tắc / k-, h-,?-/ khi đứng trước uy, ua, uơ thì phát âm như nhau. Ví
dụ: qua, hoa phát âm đều thành wa.
- Về phần vần: Âm đệm /-w-/ bị biến mất. Ví dụ: loan- lan, luyến- liến, có khi
âm điệm nhấn thành âm chính. Ví dụ: loan- lon.
Các nguyên âm đôi [ iê, ươ, uô] khi kết hợp với phụ âm cuối [m,p] thì mất yếu
tố sau. Ví dụ: liêm- lim; lượm- lụm; luộm thuộm- lụm thụm; lên liếp- lên líp;
mướp- mứp (mớp)…
Các nguyên âm đơn [o, ơ] đứng trước phụ âm cuối [-m,-p] đều phát âm thành
[ô]. Ví dụ: hom, hơm đều phát âm là hôm.
Âm chính /ă/ trong vần “ay” đọc thành “a”. Ví dụ: lay – lai
Một số vùng phát âm vần -iêm, -êm thành -im; Ví dụ: điếm- đím, đêm- đim…
- Về phụ âm cuối:
90
Phát âm không phân biệt [nh,ch], chúng được phát âm thành [n],[t]. Ví dụ:
lênh đênh phát âm thành lân đân, kích thích nói thành kứt thứt…
Phát âm giống nhau giữa [-in]. [-it] và [-inh], [-ich]; [-un] [-ut] và ]-ung] [-uc].
Phát âm không phân biệt [n] với [ng]: ví dụ: lan- lang, [-t ] với [-k]. Ví dụ: tắt-
tắc.
Cặp phụ âm [- gm, -kp] là những âm vị độc lập, xuất hiên trong cùng hoàn cảnh
ngữ âm: [ -ưngm -ưkp] -ung -uc đối lập với [-g, -k] -ưng -ưc. [ -ângm -âkp] -ông -ôc đối lập với [-âng -âk] -âng -âc.
Cặp phụ âm cuối [-ng], [-k] đứng sau được các nguyên âm dòng sau, dòng giữa và nguyên âm dòng trước [e]. Nhưng [e] có sự chuyển sắc trung hòa ea. Ví dụ: lén phén- [leang5 pheang5].
Phụ âm cuối [-m], [-p] tác động đến nguyên âm đứng trước chúng làm cho các
nguyên âm tròn môi như: um tùm đọc thành ưm từm, lụp xụp đọc thành lựp xựp…
2.3.1.2. Về mặt ngữ âm của tiếng Bến Tre
Tiếng địa phương Bến Tre nhìn chung cũng không nằm ngoài hệ thống của
phương ngữ Nam Bộ trừ một vài điểm. Từ xưa, do quá trình di dân từ miền Ngũ
Quảng vào đất Bến Tre nên việc hội tụ của tiếng nói địa phương khác nhau từ miền
ngoài mang tới là không tránh khỏi, tuy nhiên tiếng Nam Bộ nói chung hay tiếng
Bến Tre tương đối thống nhất hơn tiếng Bắc và tiếng Trung và vùng Nam Bộ “thổ
ngữ hầu như vắng bóng, ngoại trừ khả năng có thể lẻ tẻ không bao nhiêu thổ ngữ
trên một số hòn đảo nhỏ hoặc trên một số vùng xa xôi, hẻo lánh nào đó tại Đồng
Nai, Sông Bé” [Hồ Lê, 1992, tr.230]. Tiếng Bến Tre vẫn còn lưu lại một số đặc
điểm cổ của tiếng Việt miền Nam Trung Bộ.
- Về thanh điệu: Tiếng Bến Tre phát âm cũng không phân biệt được thanh hỏi
và thanh ngã: xẽo phát âm thành xẻo, dưỡng lão phát âm thành dưởng lảo…
- Về phụ âm đầu: Phát âm lẫn lộn giữa âm[s] và [x]. Ví dụ: sao sáng phát âm
thành xao xáng, sung sướng- xung xướng …, không phân biệt được [tr] [ch] [t]. Ví
dụ: con trâu phát âm thành con châu, con tâu…Không phân biệt được âm [tr] và [t]
cũng là một nét đặc trưng của tiếng địa phương Bến Tre.
91
Phụ âm [ r] phát âm không cong lưỡi và không phân biệt giữa [r] và [g]: làm
rồi phát âm thành làm gồi, rủng rỉnh phát âm thành gủng gỉnh…Ở Bến Tre cũng
như một số địa phương khác ở Nam Bộ các phụ âm cong lưỡi như [s],[r],[tr] được
thay bằng các phụ âm không cong lưỡi như [x], [g], [t], [ch].
Phụ âm [z-] được phát âm thành bán nguyên âm [j-]. Hai phụ âm xát [ph],[kh]
phát âm như phụ âm tắc, bật hơi.
Không phân biệt các âm tắc thanh hầu: quế, huế phát âm thành wế…
- Về phần vần: Cũng như phương ngữ Nam Bộ, âm đệm biến mất: toán phát
âm thành tán hay tón, tuyến phát âm thành tiến, toét loét phát âm thành tét lét…
Phát âm không phân biệt giữa [o,ô.ơ]. Ví dụ: họp, hợp, hộp đều phát âm thành
hợp.
Nguyên âm [ă] biến thành [a]. Ví dụ: tay- tai…
Nguyên âm đôi [iê, ươ, uô] biến thành nguyên âm: tiếp khách- típ khách;
mướm sữa- múm sữa, nhuộm áo- nhụm áo (nhộm áo)… Phát âm [-ươi] thành [-ưi],
[-oi] thành [-ôi].
- Về âm cuối: Phát âm không phân biệt các âm như: [n],[ng]: lớn cớn phát âm
thành lớng cớng…; [t], [c] bật dậy phát âm là bậc dậy…,phụ âm cuốn [n] phát âm
thành [nh]: in sách phát âm thành inh sách…, [-t] và [-ch]: số ít phát âm thành số
ích…
Như trên trình bày chỉ là một số nét cơ bản về đặc điểm ngữ âm của phương
ngữ Nam Bộ cũng như tiếng địa phương Bến Tre. Góp phần ít nhiều cho thấy được
sự biến đổi về mặt ngữ âm của địa danh ở Bến Tre.
2.3.2. Nguyên nhân chuyển biến
Điạ danh gắn với tên gọi của một vùng đất, tạo ra những nét đặc trưng của một
địa phương nào đó. Qua địa danh, chúng ta thấy được tâm tư, tình cảm của con
người. Địa danh giúp con người định danh được đối tượng, phân biệt đối tượng này
với đối tượng khác. Điều đó cho thấy địa danh có tính bảo lưu cao. Tuy nhiên, nói
như vậy không có nghĩa địa danh tồn tại một cách bất biến, nó thuộc về ngôn ngữ
mà ngôn ngữ là một hiên tượng xã hội, cho nên sự ra đời tồn tại và phát triển của
92
địa danh đều chịu sự chi phối của đời sống xã hội. Có những địa danh được lưu
truyền theo thời gian, nhưng có không ít những địa danh vì nguyên nhân nào đó mà
phải thay đổi và đây là một hiện tượng mang tính quy luật của xã hội. Nếu không
nắm được những quy luật về sự biến đổi của địa danh thì việc nghiên cứu trở nên
khó khăn và phức tạp đôi khi đi vào “cảm tính”.
Nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa của một nhà địa danh học là tìm ra được
nguyên nhân quá trình xuất hiện của một địa danh hay phải có nhiệm vụ truy tìm
cho bằng được nguồn gốc của một địa danh và sự tồn tại của nó có ý nghĩa như thế
nào đối với cộng đồng người bản ngữ. Tuy nhiên, địa danh là một hiện tượng ngôn
ngữ, cho nên nó không tồn tại một cách bất biến mà theo thời gian phải có sự biến
đổi. Một địa danh khi có sự biến đổi, nó có thể lưu giữ lại một phần của cái cũ và
cũng có khi triệt tiêu hoàn toàn cái cũ. Bởi ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, và
được nhiều cộng đồng dân cư sử dụng, vay mượn dưới nhiều dạng thức khác nhau,
cho nên sự chệch chuẩn so với dạng gốc là điều không tránh khỏi trong địa danh.
Việc tìm ra được nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của một địa danh là điều không
đơn giản. Khi nghiên cứu về mặt chuyển biến của địa danh, ngoài kiến thức ngôn
ngữ, đòi hỏi chúng ta phải có kiến thức tổng hợp về văn hóa, dân tộc, tâm lý, tôn
giáo, lịch sử, địa lý…
Một địa danh khi đã có sự biến đổi so với dạng gốc là nó có sự biến đổi về mặt
ngữ âm và sự biến đổi về mặt ngữ nghĩa. Địa danh có sự biến đổi rất phức tạp,
nhưng cũng tuân theo quy luật của nó.Thứ nhất, sự biến đổi về mặt ngữ âm của một
địa danh kéo theo sự biến đổi về mặt ngữ nghĩa của địa danh đó; thứ hai là giữ
nguyên ngữ âm nhưng nghĩa có sự biến đổi; thứ ba là ngữ âm bị thay đổi nhưng
nghĩa của địa danh vẫn giữ nguyên.
Qua việc khảo sát địa danh ở Bến Tre cùng với công tác điền dã, chúng tôi
nhận thấy có hai nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi địa danh ở Bến Tre đó là
nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ ( nguyên nhân xã hội) và nguyên nhân ngôn ngữ.
93
2.3.2.1. Nguyên nhân bên ngoài ngôn ngữ
Trong quá trình giao tiếp, sử dụng và ghi chép, một số địa danh ở Bến Tre đã
có sự biến đổi về mặt ngữ âm và cách viết. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thay
đổi vỏ ngữ âm của địa danh, chứ không phải chỉ do cách phát âm lẫn lộn mà có, còn
những địa danh viết sai chính tả là do cách phát âm như thế nào thì ghi như thế ấy.
Những thay đổi về mặt ngữ âm cũng dẫn đến sự thay đổi về mặt ngữ nghĩa của địa
danh.
a. Nguyên nhân văn tự:
Trong quá trình vẽ bản đồ hay trong khi dịch các sách cổ, in ấn một số người
đã không hiểu rõ tên gốc của địa danh nên đã làm sai lệch.
Trong bản đồ hành chính huyện Mỏ Cày có ghi một địa danh: ngã ba Nhà
Nguyễn nhưng nhưng kì thực ở đó không để lại một dấu vết gì của chế độ nhà
Nguyễn cả. Người dân nơi đây gọi là ngã ba Nhà Nguyện vì nơi đó có một ngôi
chùa và dân chúng thường đến đó để cúng vái, cầu nguyện. Hay địa danh rạch Băng
Cung ở Thạnh Phú trong bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre của Pháp năm 1882 ghi là
rạch Ban Cung và trong Nam Kì lục tỉnh dư địa chí ghi là Băng Côn. Nguyên nhân
là do người Nam Bộ phát âm không phân biệt giữa các nguyên âm “a” và “ă”, “u”
và “ ô”, phụ âm cuối “n”và “ng” nên dẫn đến ngữ âm của địa danh bị sai lệch. Rạch
có tên Băng Cung vì con rạch này băng (chảy) qua nhiều xã, từ xã Đại Điền đến xã
An Thạnh rồi gặp lại sông Hàm Luông ở xã Giao Thạnh như hình cách cung. Địa
danh được cấu thành theo vị trí của địa hình và băng cung là cách nói không có
trong từ điển, không có trong tiếng Việt.
Hay trong các văn bản hành chính của tỉnh, có khi địa danh chợ Xép được ghi
chép là chợ Xếp. Xếp ở đây không có nghĩa là người chỉ huy hay đứng đầu một
vùng nào đó dùng để đặt tên cho chợ, còn xép có nghĩa là một vùng đất nằm trong
khu vực của hai con rạch, một con rạch chạy bao quanh hình vòng cung, một con
rạch cắt ngang. Chợ họp trên vùng đất đó nên gọi là chợ Xép.
Trong quá trình dịch các văn bản Hán sang ngôn ngữ tiếng Việt, một số địa
danh đã bị sai lệch như trong các bản dịch của Đại Nam nhất thống chí, Gia Định
94
thành thông chí như: chợ Mỹ Lồng chợ Mỹ Lung (GT), sông Hàm Luông sông
Hàm Long (BTre)…
Trong quá trình người Hoa, người Pháp, người Mĩ…đến Bến Tre, họ chủ
trương đọc địa danh người Việt theo âm của họ, viết theo kiểu của họ như: Bến Tre
theo cách đọc của người Hoa Quảng Đông họ đổi Bến Tre thành Tân Tri và đọc là
Bưng Chi. Như cách đọc của người Pháp về một số địa danh Nam Bộ như: Mỹ Tho
thành Mitơ, Cần Thơ thành Can tơ, Cổ Chiên thành Co khien…
Một số địa danh Việt do Hán hóa được lưu truyền trong dân gian và lưu giữ
trong sách vở đã dẫn đến sự thay đổi về mặt ngữ âm và ít nhiều sai lệch về ý nghĩa:
cù lao Dài (MC) Trường Châu, giồng Ông Tố (GT) Lão Tố Đống, cù lao
Dung Hổ Châu, cù lao Đất (BaT) – Thổ Châu, cù lao Cát – Sa Châu…, lại có
trường hợp chỉ có một từ thuần Việt mà khi dịch ra từ Hán Việt thì có hai ba từ đối
ứng: bãi Ngao (Ba Tri) dịch thành Ngao Châu hay Ngao Chử; rạch Cát được dịch là
Sa Giang hay Sa Hà.
b. Nguyên nhân kỵ húy:
Vấn đề kỵ húy xảy ra ở mỗi thời đại. Các địa danh mà trùng với tên vua chúa
thì đều phải thay đổi. Ở Bến Tre địa danh Hàm Luông lúc ban đầu có tên là Hàm
Long nhưng vì kiêng úy dưới thời vua Gia Long nên đọc chệch long thành luông.
Điều này cũng xảy ra nhiều ở như vùng Nam Bộ như địa danh Vĩnh Long
(Vĩnh Thanh cũ) thì vào năm 1831, Minh Mạng thứ 12 vì húy tên lăng của Hiếu
Minh hoàng hậu là Vĩnh Thanh lăng mà Vĩnh Thanh trấn sửa lại là Vĩnh Long trấn,
sau sửa lại là tỉnh Vĩnh Long. [Nguyễn Duy Oanh, tr.79].
Ngài ra tục hèm cũng dẫn đến sự thay đổi hay đọc chệch âm ở địa danh.
c. Nguyên nhân tâm lý:
Dưới thời nhà Nguyễn, địa danh Bến Tre ít mang số đếm. Các tổng, phủ, dinh,
châu, thôn, làng thường lấy tên hiệu hay tục danh: An Bình Đông, huyện Kiến
Đăng, trấn Định Tường lấy tục danh là Cái Bè dinh…Từ thời thuộc Pháp, địa danh
hành chính dùng hình thức số điếm xuất hiện ở Bến Tre và sau đó được dùng phổ
biến và ngày càng nhiều và lan sang các địa danh chỉ công trình xây dựng hay địa
95
danh vùng. Nguyên nhân là cách dùng số điếm ngắn gọn, dễ nhớ, dễ ghi và đó cũng
do ảnh hưởng cách dùng số đếm của người phương Tây như: Năm 1892 người Pháp
lập ra chợ Bến Tre, gần đây ở Bến Tre tiếp tục được xây cất thêm một chợ Bến Tre
nữa và hiện nay có chợ Bến Tre 1 và chợ Bến Tre 2 (TX), chợ Qưới Sơn – chợ ấp 4
Qưới Sơn (CT), ấp thới Lợi 1, ấp thới Lợi 2 (BĐ)…
Ngược lại do tâm lý cách đặt địa danh bằng chữ tạo được sự thẩm mĩ và cũng
để tránh sự trùng hợp, nhầm lẫn, một số địa danh bằng số ở Bến Tre chuyển sang
địa danh bằng chữ: ấp 1 ấp Phước Lợi (BĐ), ấp 2 ấp Vinh Châu (BĐ), ấp 2
ấp Thạnh Hưng (TP)…
Yếu tố trong địa danh cũ có ý nghĩa ít quen thuộc nên được thay thế bằng yếu
tố mới có ý nghĩa gần gũi hơn. Ví dụ địa danh ấp Cá Đuối ở Bình Đại thực ra là do
đọc trại của Cà Đuối mà ra (đó là hiện tượng đồng hóa thanh điệu). Cà Đuối là một
loại cây có gỗ màu xanh đỏ, có lõi màu vàng chanh, không bị mối mọt ăn, thân
thường được dùng làm sườn nhà hoặc đóng ghe thuyền rất tốt. Nhưng do loại cây
này không phổ biến, quen thuộc nên yếu tố cà bị đổi thành cá.
Địa danh cũ không còn phù hợp với ý nguyện của con người nên thay thế
bằng địa danh mới và được hiểu theo nghĩa mới. Ở Mỏ cày trước kia có một cây cầu
Sắt Lớn, gọi là cầu Sắt Lớn vì còn phân biệt với cầu Sắt Nhỏ. Địa danh được cấu
thành từ chất liệu của sự vật. Sau đó cầu Sắt Lớn được xây lại bằng cầu xi măng,
cốt thép và người ta đổi tên khác cho phù hợp với ý nguyện của con người, tên cầu
trùng với tên huyện: cầu Mỏ Cày, tên cầu được đặt theo vị trí của địa hình. Hay như
chợ Cầu Ván ở Thạnh Phú, tên chợ được đặt theo tên cầu, nhưng khi chợ dời về
trung tâm xã Giao Thạnh, và người dân gọi chợ theo tên xã: chợ Giao Thạnh.
d. Nguyên nhân chính trị:
Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hình thành và biến đổi
địa danh. Khi hình thành một tổ chức, một đảng phái, dòng tộc nào đó họ có xu
hướng thay đổi địa danh theo chủ kiến của họ.
96
Sự thay đổi, sáp nhập hay chia tách các địa danh hành chính cũng dẫn đến sự
thay đổi về mặt ý nghĩa của địa danh. Sự thay đổi, sáp nhập hay chia tách này chủ
yếu xảy ra trong thời kì Pháp thuộc, của Việt Nam cộng hòa và sau năm 1975.
Ở thời Pháp thuộc huyện Thạnh Phú gồm 2 tổng Minh Phú và Minh Trị với
các làng gồm Phú Khánh, Đại Điền, Thới Thạnh, Quới Điền, Thạnh Phú, An Thạnh,
An Qui, An Nhơn, Giao Thạnh và Thạnh Phong. Đến năm 1948, Ủy Ban kháng
chiến hành chính tỉnh Bến Tre lập thêm 3 xã Giang Hà, Phan Nhứt Tánh và Thạnh
Phú 2. Đến năm 1951, ba xã trên bị giải thể, hai xã An Qui, An Nhơn nhập lại thành
xã Qui Nhơn đến năm 1954 lại tách ra như cũ. Sau 1975 hai xã An Nhơn và An
Qui, Đại Điền và Thạnh Phú được nhập lại sau đó một năm lại tách ra.
Thích dùng dùng từ Hán Việt văn hoa tao nhã để thay thế: quận Sóc Sãi ( xứ
có nhiều sư sãi) đổi tên là quận Hàm Long (hàm của rồng) vào năm 1958.
Sau ngày giải phóng, sự sáp nhập và chia tách các đơn vị hành chính diễn ra
nhiều nơi ở Nam Bộ, địa danh ở tỉnh Bến Tre cũng có sự thay đổi nhằm mục đích
phục vụ cho nhu cầu của xã hội mới. Ví dụ: Năm 1984 chia xã Tân Hào (GT) thành
hai xã Tân Hào và Tân Lợi Thạnh, tách ấp Sơn Quy, một phần ấp Bình An, ấp
Phụng Châu của xã Sơn Định nhập vào thị trấn Chợ Lách, hay xã Bình Yên ở huyện
Bình Đại được chia thành hai xã là xã Châu Hưng và Phú Thuận…
Mối quan hệ về mặt chính trị cũng dẫn đến sự thay đổi địa danh: Ngày 9-1-
1984 UBND tỉnh Bến Tre quyết định xã Lương Hòa huyện Giồng Trôm làm địa
phương kết nghĩa với Cu Ba lấy tên là làng Môncađa.
2.3.2.2. Nguyên nhân ngôn ngữ
Bên cạnh những nguyên nhân xã hội tác động đến sự biến đổi địa danh - biến đổi
về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa của địa danh ở Bến Tre - nguyên nhân về mặt ngôn ngữ
tác động không nhỏ đến sự biến đổi này. Ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy, mà địa
danh thuộc về ngôn ngữ. Cho nên địa danh là sản phẩm của tư duy thông qua ngôn
ngữ của dân tộc và được lưu lại bằng chữ viết. Vì vậy, quy luật ngôn ngữ đã tác
động mạnh mẽ đến sự biến đổi về mặt ngữ âm của địa danh. Như nhà địa danh học
người Pháp Charles Rostaing khẳng định: “Địa danh là một từ như các từ khác, chịu
97
sự tác động của quy luật ngữ âm học” [Lê Trung Hoa,1991, tr.109]. Mà đặc biệt là
ngữ âm học địa phương. Cho nên ngữ âm địa phương là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến sự chuyển biến của địa danh.
a. Ngữ âm địa phương:
Người Nam Bộ nói chung và người Bến Tre nói riêng phát âm như thế nào thì
viết như thế ấy “phát âm lẫn lộn một nửa số phụ âm đầu, ba phần tư số vần, và một
phần ba số thanh của tiếng Việt chuẩn [Hoàng Thị Châu, 1989, tr.59].
Người dân địa phương khi phát âm thường ít phân biệt các phụ âm đầu như
ch,tr,t; s,x; v,d,gi; các âm chính như o,ô; ă,â, một số vần tận cùng là: t-, c-; n-, ng-;
thanh hỏi với thanh ngã đã dẫn đến nhiều địa danh bị biến đổi và dễ dẫn đến sự sai
lệch.
- Lẫn lộn giữa s- và x-: lộ Sườn đọc là lộ Xườn (BĐ), kênh Cây Sộp (CL) viết
là kênh Cây Xộp, chợ Bến Sung đọc là chợ Bến Xung (TP)…Sộp là tên một loại
cây to, lá xanh sậm, mọc chùm dày, đọt trăng trắng, ăn chua chua chát chát.
- Lẫn lộn giữa v-, d-, gi-
Ở Bến Tre đọc lẫn lộn và viết sai các phụ âm đầu v, d,gi trong địa danh xảy ra
nhiều. Ví dụ: đọc và viết sai địa danh Vồng Trôm thành Giồng Trôm (GT), đìa Da
(Ba Tri) đọc và viết thành đìa Gia, bãi Vọp đọc và ghi là bãi Dọp (BaT), chợ Bến
Dinh (TP) viết thành chợ Bến Vinh… Dinh có nghĩa là nơi quân đội đóng hay nơi
quan lại ở là phù hợp với nghĩa chợ Bến Dinh ở đây, còn vinh có nghĩa là hưng
thịnh, vinh hoa phú quý không phù hợp. Địa danh Giồng Trôm, giồng do nói chệch
của vồng mà ra (giồng là vùng đất cao hơn ruộng, nhiều cát, ít nước thích hợp trồng
khoai đậu), Giồng Trôm là vùng đất có nhiều cây trôm mọc.
- Lẫn lộn giữa r- và g-
Ở Ba Tri có xóm Gãnh Bà Hiền nhiều người quen gọi là rãnh Bà Hiền, lộ Bãi
Rác (CL) mọi người đọc là lộ Bãi Gác…
- Lẫn lộn giữa -a-, -ă-,-â- , -au- với –ao-
Ở chợ Lách có rạch Gành Hàu Lớn và rạch Gành Hàu Nhỏ nhưng đọc và viết
là rạch Gành Hào Lớn và rạch Gành Hào Nhỏ. Gành hàu là vực có nhiều con hàu,
98
còn hào không có nghĩa gì. Bàu Mây ở Bình Đại viết là Bầu Mây, gò Cây Cà Dăm
đọc và viết là gò Cây Cà Dâm (TX), rừng Mắm ghi là rừng Mấm (BĐ)…
- Lẫn lộn giữa -ô-, -o-, -ơ-, -u-
Ở Mỏ Cày có một địa danh cầu Mống vì có hình dáng giống cái Mống nhưng
khi viết tên cầu người ta ghi là cầu Móng. Chợ Thom ở Mỏ Cày nhiều sách ghi là
chợ Thơm, chợ Thôm. Cửa Băng Cung trong Nam Kì lục tỉnh dư địa chí ghi là cửa
Băng Côn (TP),Chợ Mỹ Lồng- chợ Mỹ Lung (GT)…
- Lẫn lộn giữa -uôi- và -ui-
Ở Thạnh Phú có cái rạch Mũi, nhiều người nghĩ rạch ở đậy có nhiều muỗi nên
ghi là rạch Muỗi.
Hay giồng Cui ở huyện Giồng Trôm, giồng có nhiều cây cui, có người nhầm ghi
là giồng Cuôi…
- Lẫn lộn giữa -iê- và -a-, -e- và -ă-, -ư- và -ơ-
Đầm Liệt Địa nói chệch thành Lạc Địa (BT). Theo cấu tạo của chữ Hán thì Lạc
Địa không có nghĩa hoặc sai ngữ pháp. Gọi Liệt Địa vì vùng ngập nước không có
cây cao, chỉ có lùm bụi thấp và cỏ dại. Theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh
Tịnh Của thì liệt địa có nghĩa là sát đất…
Kênh Chẹt Sậy ở Giồng Trôm, có người gọi là Chặt Sậy. Chẹt sậy mới có nghĩa.
Chẹt là chổ hẹp. Kênh Chẹt Sậy là đường con nước chạy qua lùm sậy um tùm bị che
khuất.
Xã Hương Mỹ (MC) có khi đọc và viết là Hưng Mỹ, ấp Hương Nhơn đọc là ấp
Hưng Nhơn (MC)…
- Lẫn lộn -n và -ng
Kênh Đìa Muồng ở Bình Đại có người ghi là kênh Đìa Muồn. Muồng là tên cây,
loại cây cỏ lá nhỏ, màu xanh, thường dùng làm thuốc trị bệnh. Giồng Bàng viết là
giồng Bàn (TP), rạch Cái Hàn (MC) đọc và viết là rạch Cái Hàng. Hàn có nghĩa là
chắn ngang sông rạch, cản trở lưu thông, vật chắn ngang có thể là đá hay lòng cầu.
- Lẫn lộn giữa -c và -t
99
Rạch Ngả Bát ở Bình Đại viết thành Ngả Bác, giồng Ôn Sác viết thành Ôn Sát
(BĐ), rạch Ngả Tắt phần nhiều ghi thành Ngả Tắc (BĐ).
- Lẫn lộn giữa thanh hỏi và thanh ngã
Chiếm nhiều ở địa danh Bến Tre, thường đọc như thế nào viết thế ấy, có khi
không rõ nghĩa của địa danh: Sóc Sãi ghi là Sóc Sải(CT), vàm Rỏng ghi và đọc là
vàm Rõng, vàm Rỗng (TP). Vàm Rỏng là ngã ba con rạch chạy ra Băng Cung (TP).
Rỏng là đường nước tự nhiên, khuyết sâu xuống, có nước đọng nhỏ hơn rạch, lâu
ngày thủy triều lên xuống có thể bào mòn thành con rạch, chợ Cống Xẽo Vườn ghi
là chợ Cống Xẻo Vườn (TP), chợ Ngã Ba (GT) đọc là chợ Ngả Ba (GT) hay địa
danh cửa Tiểu ở Bình Đại nhưng trong Nam Kì lục tỉnh dư địa chí ghi là cữa Tiễu…
Ngoài ra một số thành tố cái phát âm thành cả. Ví dụ: cái Chát Lớn đọc và ghi là
cả Chát Lớn (MC)(bản đồ các quận của tỉnh Kiến Hòa năm 1966 ghi là Cả Chát
Lớn), Cái Mơn (CL) đọc là Cả Mơn, Cái Quao (MC) đọc và ghi là Cả Quao
(MC)…và một số người dân địa phương nói là Cải Quao, Cải Mơn…
b. Nguyên nhân rút gọn
Hiện tượng rút gọn cũng khá phổ biến ở địa danh của Bến Tre. Thông thường rút
gọn ở địa danh hai âm tiết và ba âm tiết.
Ở Giồng Trôm và các huyện khác của tỉnh Bến Tre, thông thường thành tố giồng
thường đi với tên một người nào đó có công khai hoang hay một vật chuẩn nào đó.
Ví dụ như giồng Ông Đồng, giồng Ông Chủ, giồng Bà Lực, giồng Xoài, giồng
Quýt… Do thói quen rút gọn, nên từ tố “ông” “bà” biến mất. Như bà Lực người có
công khai hoang vùng Tân Hào, hiến đất cho làng lập chợ Hương Điểm, lúc đầu
người ta gọi là giồng Bà Lực về sau gọi tắt là giồng Lực.
Cửa Khâu Băng ở Thạnh Phú là cửa sông đổ ra biển Đông. Nơi đây vào tháng 3
năm 1963 đã đón chuyến tàu chi viện vũ khí đầu tiên và sau đó nơi tiếp nhận vũ khí,
hàng hóa từ miền Bắc vào. Cửa Khâu Băng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp
Quốc gia. Nhưng người dân nơi đây thường nói rút gọn là Khâu Băng.
Hay chợ (đầu mối thủy sản) Đê Đông gọi tắt là chợ Đê Đông (BĐ)…
100
c. Nguyên nhân ngữ nghĩa
Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm biến đổi về mặt ngữ âm của
địa danh ở Bến Tre. Thông thường do nói sao viết vậy hay in sai, bỏ dấu sai, nên
người dân địa phương có người gọi theo nghĩa cũ, có người gọi theo nghĩa mới.
Hoặc do tâm lí của người dân thấy yếu tố cũ của địa danh ít quen thuộc, hay không
thẩm mĩ nên thay thế bằng yếu tố khác.
Sông Tiên Thủy có tục danh là Sóc Sãi Hạ ở về hướng đông sông Hàm Luông,
cách tỉnh lỵ 96 dặm. Nước sông chia làm hai phái: phái hướng Nam thì trong vắt,
phái hướng Bắc thì đục ngầu như sông Kình, sông Vệ ở bên Tàu, trong đục khác
nhau cho nên mới đặt là “tiên”. [Nam kì lục tỉnh dư địa chí, tr 62].
Cù lao Thanh Sơn có tục danh là cù lao Cái Cấm. Người dân đổi tên vì có dân
làng Thanh Sơn ở đó. Hay ngã ba Tháp ở thị xã Bến Tre đường đi Tiên Thủy, thời
thuộc Pháp có xây một đài tưởng niệm để niệm lính Pháp chết trên đất Bến Tre. Sau
năm 1945, tháp này bị đập bỏ nhưng bây giờ vẫn gọi là ngã ba Tháp. Có một thời
người ta gọi là ngã ba Ống Quần, gọi tên theo hình dáng sự vật.
Hay rạch Kỳ Hà ở Định Thủy huyện Mỏ Cày vốn có tên gốc là rạch Kỳ Đà.
Do người dân địa phương nói chệch mà thành. Trên bản đồ tin tức năm 1965 của Mĩ
ghi là rạch Kỳ Đà. Kỳ Đà là tên con vật từng có ở đây. Còn Kỳ Hà thì có nghĩa là
“sông lạ”, địa danh này có ở thành phố Hồ Chí Minh…
d. Giao lưu, tiếp xúc, vay mượn ngôn ngữ
Sự giao lưu, tiếp xúc, vay mượn ngôn ngữ để đặt địa danh hay Việt hóa địa
danh tiếng nước ngoài cho phù hợp với cách nói và viết của người bản địa cũng làm
cho địa danh ở Bến Tre có sự chuyển biến. Sự vay mượn ngôn ngữ tiếng Khơme
xuất hiện không ít trong địa danh ở Bến Tre. Một số từ gốc Khơme thường xuất
hiện trong địa danh ở Bến Tre, xét về mặt ngữ âm thì chúng có quan hệ với nhau
trong địa danh gốc nhưng xét về mặt ý nghĩa đã có sự biến đổi: Hóc Môn (dòng
nước nhỏ), tiếng Khơme là Kompon Kakòh (cây gõ), cù lao Tròn, tiếng Khơme là
Koh Kbal Khla (cồn, đầu cọp), Cái Nhum (nhum: cây hay mọc ven bờ sông rạch
thuộc họ cọ lùn, thân có gai như cây chà là), tiếng Khơme có nghĩa là Srôk Kompon
101
Trà On (xứ, bến, ông Ôn)…Hay kênh Turc, kênh đào dưới thời viên tham biện
Turc, năm 1873 kênh nối liền sông Hàm Luông và sông Ba Lai thuộc huyện Châu
Thành, địa danh được đặt theo tên người, nhưng sau đó dân địa phương Việt hóa
đổi tên thành kênh Sơn Mã.
2.4. Tiểu kết
1. Những nguyên tắc chủ yếu mà chúng tôi đưa ra trong việc đặt tên cho đối
tượng, cụ thể là các phương thức định danh, chủ yếu là dựa vào tính phổ biến, tính
nổi trội của địa danh ở Bến Tre. Với phương thức tự tạo trong quá trình đặt địa
danh, các chủ thể đã phát huy được tính tự tôn dân tộc, giữ được bản sắc của dân
tộc, giữ lại những dấu ấn đặc sắc của địa phương mình. Còn ở phương thức chuyển
hóa cho thấy được khả năng sáng tạo trong việc tạo mới địa danh không những phổ
biến ở các địa danh thuần Việt mà cả địa danh vay mượn của các ngôn ngữ khác,
góp phần làm giàu cho địa danh Bến Tre nói riêng và địa danh Việt Nam nói chung.
2. Qua khảo sát về đặc điểm cấu tạo của địa danh ở Bến Tre, chúng tôi vài
nhận xét cơ bản sau đây:
- Địa danh gắn liền với tư duy của người bản địa, phản ánh cách nhìn, cách
nghĩ của con người. Như Nađêgiơlin cho rằng: “ Địa danh là ngôn ngữ của quả đất
là quyển sách ghi lại lịch sử loài người qua các tên gọi địa lý” [Địa chí Bình Đại, tr.
210].Thông thường sự cấu thành của địa danh tuân theo quy luật tư duy chung của
con người vùng đó. Hầu hết địa danh ở Bến Tre là địa danh thuần Việt, một số là
địa danh Hán Việt và địa danh gốc khác. Có hai kiều cấu tạo chính của địa danh:
kiểu có cấu tạo đơn và kiểu có cấu tạo phức. Ở địa danh có cấu tạo phức thì có các
quan hệ: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị. Và đây là kiểu cấu
tạo chiếm số lượng lớn của địa danh ở Bến Tre. Các thành tố trong quan hệ đẳng lập
có vai trò và chức năng như nhau, còn trong quan hệ chính phụ có một thành tố
đóng vai trò chính, còn thành tố còn lại giữ vai trò phụ. Trong quan hệ này có cả địa
danh thuần Việt và địa danh không thuần Việt, thành tố chính thông thường đứng
trước thành tố phụ, các thành tố kiểu có cấu tạo là động từ kết hợp với tính từ, danh
từ kết hợp với số từ, danh từ kết hợp với tính từ hoặc danh từ kết hợp với danh từ
102
hay danh ngữ…Ngoài ra ở địa danh hỗn hợp có kiểu cấu tạo ít nhất một yếu tố
thuần Việt kết hợp với một yếu tố không thuần Việt để tạo mới địa danh và điều này
góp phần làm cho địa danh Bến Tre thêm phong phú, hấp dẫn. Cuối cùng địa danh
có cấu tạo chủ vị ở Bến Tre chiếm số luợng ít.
- Về nhận định thành tố chung trong địa danh có nhiều ý kiến rất khác nhau.
Riêng ở Bến Tre, vấn đề nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Số luợng
thành tố chung trong địa danh ở Bến Tre chiếm không nhiều nhưng khái quát lên
được diện mạo của một vùng đất, quá trình tiếp xúc ngôn ngữ của dân tộc ta với dân
tộc khác, quá trình di dân lưu trú, đặc biệt qua tìm hiểu vấn đề thành tố chung còn
giúp ta tìm hiểu về đặc điểm từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ âm của một vùng. Các thành
tố chung còn là cơ sở để nhận định cấu trúc của một địa danh. Ngoài ra, tính chuyển
hóa của thành tố chung vào địa danh góp phần tạo nên tính đa dạng cho địa danh ở
Bến Tre nói riêng và địa danh Việt Nam nói chung nhưng vẫn tạo được sắc thái
riêng cho mỗi vùng đất.
3. Về đặc điểm chuyển biến của địa danh ở Bến Tre không những giúp chúng
ta tìm ra căn nguyên của sự biến đổi mà nó còn góp phần giúp chúng ta biết nhận
định chính xác việc nói và viết đúng một địa danh. Hai nguyên nhân chính làm biến
đổi của địa danh ở đây là nguyên nhân xã hội và nguyên nhân ngôn ngữ. Trong đó
nguyên nhân xã hội là thước phim quay chậm ngược dòng lịch sử giúp chúng ta tìm
ra nguồn gốc của sự biến đổi. Hơn nữa sự biến đổi địa danh về mặt ngữ âm góp
phần cho chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về phương ngữ của một vùng, tâm tư và
tình cảm của người bản xứ, làm phong phú vốn từ vựng của ngôn ngữ địa phương,
phân định được vùng phương ngữ trong mối quan hệ với các vùng phương ngữ khác
trong đó không thể không kể đến nguyên nhân ngôn ngữ, vai trò của ngôn ngữ trong
quá trình nghiên cứu địa danh.
103
Chương 3: GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC, ĐẶC DIỂM
VỀ NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH
4.3 Phản ánh hiện thực
Như đã trình bày, địa danh ra đời gắn liền với khả năng tư duy của người bản
địa, phản ánh cách nhìn, cách nghĩ và tâm tư tình cảm của con người. Mặc dù địa
danh được cấu thành từ vốn từ chung nhưng không vì thế mà nó mang tính võ đoán
(hay tính không có lí do). Địa danh nằm trong hệ thống từ ngữ gọi tên riêng, biểu
hiện một chức năng ngữ nghĩa nào đó. Ý nghĩa của tên riêng trong địa danh không
nằm trong khuôn khổ giao tiếp mà chỉ có chức năng định danh, phân biệt đối tượng
này với đối tượng khác. Địa danh ra đời có tính lí do riêng của nó như địa danh
được đặt theo hình dạng, kích thước, tính chất đặc điểm, theo phương vị, nguồn gốc
dân cư, nơi có nhiều động, thực vật sinh sống ở đó, đặt theo tên người hay nghề
nghiệp…Chủ thể khi đặt tên địa danh đều dựa trên cơ sở nào đó, có khi dựa trên
trên cơ sở khách quan như dựa vào đặc điểm nổi bật về tự nhiên hay xã hội của đối
tượng để gọi, thông thường thể hiện ở địa danh thuần Việt, có khi việc định danh
đối tượng cũng theo cảm nhận chủ quan của người đặt, nhằm thể hiện ước nguyện
của con người, thể hiện bằng yếu tố Hán Việt chủ yếu xuất hiện ở địa danh hành
chính. Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các địa danh đều phản ánh hiện thực và
có ý nghĩa không võ đoán, có khi nó cũng được đặt tên một cách tùy tiện. Ở Nam
Bộ cũng như ở Bến Tre, một số địa danh tồn tại mà không rõ lí do, hoặc không tìm
được lí do hay tên gọi của nó không phải lúc nào cũng phản ánh đúng bản chất của
đối tượng. Ví dụ như: Khâu Băng (TP), Hóc Quả (BĐ), Ba Tri…Trong Gia Định
thành thông chí, Trịnh Hoài Đức đã nói: “Đại để là theo cách gọi của người địa
phương để đặt tên mà thôi. Không câu nệ hỏi từ đâu, đừng đắm đuối vào những
tiếng nghe cũ ở các sách đời xưa chép lại thì mới được” [tr.20].
Muốn giải mã chính xác một địa danh - giá trị phản ánh hiện thực của nó -
ngoài kiến thức về ngôn ngữ học đòi hỏi chúng ta phải có sự kết hợp cái nhìn toàn
cảnh về xã hội, lịch sử, địa lý, văn hóa… của vùng đất mà chúng ta nghiên cứu, có
như vậy chúng ta mới thể hiện được đầy đủ ý nghĩa, cái hiện thực mà địa danh phản
104
ánh. Tuy nhiên, muốn hiểu một cách rõ ràng, chính xác về nó là điều không đơn
giản như Nguyễn Kiên Trường đã nói: “Đặc điểm có tính chuẩn xác và được xác
định chắc chắn hơn, đủ tin cậy hơn về hiện thực khách quan, ví dụ việc xác định có
bao nhiêu loại hình đối tượng địa lý mà địa danh phản ánh (đồi, núi, sông,
suối…hoặc bao nhiêu tên cây cỏ, động vật… trên một địa bàn); còn đặc điểm về
hiện thực trong tâm lý văn hóa con người …thì việc giải mã là rất khó khăn, nhất là
đối với địa danh cổ” [1996, tr.91].
Muốn tìm ra giá trị phản ánh hiện thực của địa danh ở Bến Tre, nơi hội tụ của
nhiều vùng cộng cư khác nhau, tạo nên tính đa dạng của hiện thực được phản ánh
trong địa danh. Điều đó đòi hỏi người làm luận văn phải đứng trên phương diện lịch
đại, đồng đại để xem xét một cách có hệ thống, đáp ứng phần nào làm sáng rõ về
các mặt lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, xã hội, ngôn ngữ…mà địa danh phản ánh.
3.3.1. Địa danh phản ánh về mặt địa lý tự nhiên
Bến Tre là một bộ phận cửa sông của vùng đồng bằng sông Cửu Long, được
bồi đắp bởi phù sa của con sông này, là một vùng đồng bằng châu thổ, thấp và bằng
phẳng. Do phù sa bồi đắp, nên Bến Tre có những dải đất nổi lên cao hơn chung
quanh từ 1 đến 1,5m tạo nên những giồng đất, giồng đất lớn dài trung bình từ 3km
đến 4km. Các giồng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống của người
dân như sinh sống, làm ăn, trồng hoa màu…cho nên những địa danh ra đời gắn liền
với các con giồng đã phản ánh được một vùng đất giàu phù sa này như: giồng Lớn,
giồng Châu Hưng, giồng Lộc Thuận ở Bình Đại, giồng Dâu, giồng Xã, giồng Nứa ở
chợ Lách, giồng Trường, giồng Bà Thủ, giồng Ông Tố ở Giồng Trôm hay giồng
Dầu, giồng Giữa, giồng Trôm ở Mỏ Cày…
Ngoài ra, vùng đất Bến Tre được tạo thành bởi ba dãy cù lao lớn, có hệ thống
sông ngòi chằng chịt, nào là sông, rạch, kênh, xẽo, khém, hóc…cho nên có rất nhiều
địa danh ra đời phản ánh rất rõ diện mạo của miền sông nước gồm tên sông, tên
rạch, tên kênh, tên xẽo…Mật độ nguồn nước ngọt chiếm phần lớn trong tỉnh, cùng
với sự xâm nhập của nước mặn từ biển Đông tràn vào tạo nên sự phong phú đa dạng
cho một quần thể động, thực vật xuất hiện ở Bến Tre. Qua địa danh, chúng ta có thể
105
biết được sự xuất hiện các loài động, thực vật đã từng xuất hiện ở đây nhưng vì một
lí do nào đó mà đã không còn nữa hay di chuyển nơi khác và qua địa danh còn phản
ánh được một quần thể sinh vật đang tồn tại đa dạng ở Bến Tre, góp phần làm điểm
đến cho các ngành du lịch sinh thái. Đối với các động, thực vật đã biến mất, thì qua
địa danh, chúng sẽ là nguồn tài liệu quý giá cho các ngành sinh vật học, cổ vật học
nghiên cứu. Ví dụ như khi nhắc đến Bến Tre, người ta thường nghe kể về chuyện
cọp, những giai thoại bắt cọp, diệt cọp, thuần hóa cọp. Bên cạnh những miếu thờ
cọp, những người bất hạnh bị cọp vồ, thì ở huyện nào trong tỉnh cũng có những địa
danh về cọp. Bàn về vấn đề này trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức
viết: “Xứ này có nhiều cá sấu và cọp dữ, nên dân cư đã thường quen, không sợ hãi,
dù trẻ con, đàn bà cầm dao cắt cỏ và đòn xóc cũng bắt được cọp” [tr 151]. Các địa
danh đó là: giồng Ông Hổ (BĐ), giồng Rọ (GT) (một loại bẫy cọp), bưng Hai Hổ
(BaT), cù lao Hổ (BaT)…, qua địa danh còn cho thấy được vết tích của những loài
thú dữ, cá sấu, rắn rết…của một thời như: rạch Cái Cấm (MC), bàu Sấu (GT), vàm
Cá Mập (GT), hang Cá Mú (TX), rạch Cái Sấu (MC), cồn Hươu (TP), cồn Dơi
(CT), giồng Trâu Cheo (BĐ) …và các loài thực vật phong phú được phản ánh qua
địa danh như: bưng Láng Sen (BaT), rạch Cái Cối (TX), cái Bông (BaT), ngã ba
Cây Trôm (BĐ)…
Qua địa danh, chúng ta còn hình dung được đặc điểm của địa hình, địa vật của
một vùng đất qua thời gian đã bị biến đổi hay mất đi chỉ còn lưu lại tên gọi trên bản
đồ, sách vở. Từ địa danh giúp chúng ta có thể khôi phục lại vị trí đơn vị hành chính
hay một địa bàn, khu vực nào đó đã mất đi vị trí ban đầu.
3.3.2. Địa danh phản ánh về mặt lịch sử
Theo nhà ngôn ngữ học người Pháp Rostaing (1965) thì địa danh trở thành
“vật hóa thạch” [tr.6], ghi lại những cái mốc quan trọng của lịch sử theo dòng thời
gian như quá trình di cư, làm ăn và sinh sống của một tộc người nào đó, hay qua địa
danh, chúng ta biết về tiến trình lịch sử của một địa bàn, những biến cố chính trị của
vùng đất, những sự kiện lịch sử của dân tộc. Địa danh còn phản ánh tên gọi của các
danh nhân văn hóa, là tấm bia sống động khắc họa tên tuổi của các anh hùng lịch sử
106
và được lưu danh ngàn đời, giáo dục các con cháu đời sau noi gương, học tập.
Ngoài ra, địa danh còn là nguồn tài liệu nghiên cứu sự di trú của các dân tộc cho các
nhà sử học khám phá.
3.1.2.1. Địa danh phản ánh tiến trình, các sự kiện lịch sử, chính trị
Quá trình lưu dân từ miền Bắc, miền Trung đến Bến Tre khai hoang và định cư
vào khoảng thế kỉ XVII- XVIII. Vùng ven biển Ba Tri, là nơi người dân đến lưu trú
sớm nhất và Thái Hữu Xưa, người đất Quảng Ngãi, đến đây đầu tiên khai hoang,
sinh sống. Đến năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759), thì mới có lệnh cho lập làng, chỗ
nào dân cư thưa thớt thì hợp thành trại và ông được cử làm cai trại đầu tiên ở đây.
Một số tên trại còn tồn tại đến ngày nay như: Ba Tri Cá trại, Cái Da trại (BaT)… và
Thái Hữu Xưa còn xin lập tên làng là Bình Đông.
Sau CMT8 1945, do tình hình chính trị của đất nước, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân
dân tỉnh Bến Tre quyết định thay đổi tên gọi. Tỉnh Bến Tre được đổi tên thành tỉnh
Đồ Chiểu (năm 1946, đến 1948 thì đổi lại là tỉnh Bến Tre), thành lập một huyện
mới có tên là Tán Kế, lị sở đặt tại Giồng Trôm - tên người anh hùng có công lớn
trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã hy sinh năm 1869, (tên thật là Lê Quang
Quan) - và để tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, ở Bến Tre và ở các thành phố lớn
như thành phố Hồ Chí Minh tên các con đường đều gắn với các nhân vật lịch sử này
và các anh hùng khác trên đất Bến Tre.
Sau hiệp định Genève (1954), chính quyền Ngô Đình Diệm nhập cù lao An
Hóa, cù lao Minh và cù lao Bảo và thành lập tỉnh Kiến Hòa (từ thời Gia Long năm
1808 đã có tên gọi này) thay cho tỉnh Bến Tre, thành lập quận Trúc Giang thay cho
quận Châu Thành, lập thêm ba quận mới là Giồng Trôm, Bình Đại và Hàm Long.
Như vậy qua việc đổi tên, thành lập một số địa danh, chúng ta biết rõ được tình
hình chính trị, những sự kiện lịch sử của tỉnh nhà. Một số địa danh hành chính trong
tỉnh trước kia mặc dù hiện nay không còn giữ chức vụ của nó nữa nhưng khi gọi tên
các địa danh này người dân Bến Tre không có ai không biết như: Đồ Chiểu, Kiến
Hòa, Sóc Sãi, Hàm Long, Trúc Giang…và một số địa danh được chuyển hóa và còn
107
lưu giữ đến ngày nay như hồ Trúc Giang (TX), sông Sóc Sãi (hay Tiên Thủy)
(CT)…
3.1.2.2. Địa danh còn lưu giữ kết quả của quá trình di cư và lưu trú của
một cộng đồng dân cư, một tộc người nào đó
Như đã trình bày ở chương 1, trước khi người miền Bắc, miền Trung vào khai
hoang mở đất thì trên đất Bến Tre đã có người Khơme lưu trú, cùng với làn sóng di
dân người Trung Hoa và một số ít các dân tộc thiểu số khác. Họ làm ăn sinh sống và
lần lượt các địa danh xuất hiện phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của họ hay họ muốn
thông qua tên gọi để lưu giữ lại những nét văn hóa của cộng đồng. Ở Bến Tre, nhan
nhản các địa danh này xuất hiện bên cạnh các địa danh thuần Việt như: vàm Láng
Chái (TP), bưng Cốc (BaT), chợ Thom (MC), rạch Cổ Rạng (TP), giồng Nầng
(BaT), cầu Trùng Sình (GT), cầu Sùng Tân (MC), chợ Bang Tra (MC)...Trong đó,
địa danh Bang Tra ra đời trong thời kì người Hoa đến lưu trú ở vùng đất thuộc
huyện Mỏ Cày bây giờ. Lúc đó vùng này dân cư còn thưa thớt, chưa lập xóm, lập
chợ, cư dân người Hoa đến đây làm ăn, sinh sống, trao đổi mua bán hàng hóa từ
vùng này sang vùng khác. Nhận thấy nơi đây là một vùng đất trù phú, “đất lành
chim đậu”, một trong những người Hoa đó là ông Huỳnh Trà đã bỏ tiền ra lập chợ
và thành lập bang hội như: bang muối, bang gạo, bang vải… Mỗi một bang thì có
bang trưởng quản lí, dàn xếp và mở rộng làm ăn, buôn bán. Để tưởng nhớ người có
công, nhân dân trong vùng đã lấy tên và chức vụ của ông để đặt tên cho vùng đất
này là Bang Trà. Đến thời thuộc Pháp, do ảnh hưởng cách đọc của người Pháp,
ngôn ngữ không có thanh điệu, dần dần người dân gọi là Bang Tra. Địa danh Bang
Tra hiện nay thuộc xã Nhuận Phú Tân, huyện Mỏ Cày.
3.1.2.3. Địa danh mang tên các danh nhân
Chiếm số lượng không nhỏ, đó là những người có công với đất nước, các bậc
hiền tài hay các anh hùng liệt sĩ. Địa danh giúp chúng ta càng tự hào và thêm yêu
vùng đất nơi mình sinh sống, về các nhân vật lịch sử địa phương như: Võ Trường
Toản, Phan Thanh Giản, Nguyễn Ngọc Thăng, Tán Kế, Nguyễn Đình Chiểu, Phan
108
Văn Trị, Trương Vĩnh Ký, Sương Nguyệt Anh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Thị
Định, Hoàng Lam, Trần Văn Ơn, Lê Anh Xuân…
3.1.2.4. Địa danh mang thành tố ông, bà, cả, cai, thầy, chủ, hội đồng,
tổng…
Địa danh phản ánh được ý nghĩa tích cực về sự đóng góp của họ cho nhân dân
trong vùng trong quá trình khai hoang, lập ấp, xây đựng đường xá, cầu cống…. Đó
là các địa danh: cầu Ông Bồng (MC), giồng Ông Tố (GT), đập Ông Chói (CT),kênh
Ông Tổng (MC), cầu Bà Mụ (TX), giồng Bà Thủ (GT), chợ Bà Khoai (BĐ), chợ Bà
Hiền (BaT), rạch Bà Cả (BĐ), đìa Bà Thầy (MC), đập Hội Đồng Mẹo, rạch Tổng
Can (TP), kênh Đốc Phủ Xũng (BĐ), lộ Chủ Tính (BĐ), lộ Thầy Cai (BaT), cầu
Thầy Hội (BaT)….Qua đó còn cho chúng ta biết rõ về chức danh, vị trí của họ trong
xã hội.
3.1.2.5. Địa danh phản ánh những chiến công oai hùng trong lịch sử
Các địa danh đó là: vùng Ba Châu (GT), gò Trụi (BaT), vùng Tân Xuân (BaT),
đồn Vàm Nước Trong (MC), vàm Băng Cung (TP), giồng Gạch (BaT)...Trong đó
địa danh vàm Nước Trong tái hiện được một trận đánh kiên cường, oanh liệt của
người dân xã Định Thủy thuộc huyện Mỏ Cày trong công cuộc Đồng khởi 17-1-
1960. Bằng bạo lực chính trị, nhân dân xã Định Thủy đã hạ được đồn Vàm Nước
Trong của địch ngay từ đầu của cuộc khởi nghĩa giành quyền làm chủ ở nông thôn.
Địa danh còn cho chúng ta thấy được các di chỉ, các công trình xây dựng ra đời
trong công cuộc chống ngoại xâm, cho dù theo thời gian chúng còn tồn tại hay
không tồn tại thì đó cũng là những chứng tích có giá trị cho các nhà khảo cổ học,
lịch sử học nghiên cứu. Đó là các địa danh: ngã ba Tháp (TX), Kênh Giải Phóng
(BaT), kênh Phụ Nữ (TP), thủ Ba Lai (BĐ), vàm Đồn (MC)…
Có thể nói địa danh như là một nhân chứng sống tái hiện lịch sử của một vùng
đất ở mỗi thời kì.
109
3.3.3. Địa danh phản ánh về mặt kinh tế xã hội
Địa danh, phần nào lột tả được bộ mặt kinh tế của đời sống người dân Bến Tre
qua nhiều giai đoạn khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau, cho ta thấy được sự cần
cù, thông minh của con người trong mọi hoàn cảnh sống.
3.1.3.1. Địa danh phản ánh về nghề nghiệp và sản phẩm
Chiếm nhiều trong địa danh ở Bến Tre là địa danh chỉ địa hình thiên nhiên và
địa danh chỉ vùng. Đó là các địa danh: giồng Gạch (BaT), rạch Cái Cối (TX), ngã
ba Bến Rớ (BaT), rạch Vải (CL), xóm Lò Vôi (MC), xóm Hàng Cồng (BĐ), đường
Lò Rèn (BĐ)…
Ở địa danh ngã ba Bến Rớ, chúng ta bắt gặp một từ thuộc về nghề của người
làm nghề chài lưới: rớ (dụng cụ đánh bắt cá, ở Nam Bộ còn nhiều từ chỉ dụng cụ
đánh bắt cá như: lưới, nò, đục…). Ngã ba này là nơi gặp nhau của rạch Bần Quỳ và
sông Ba Tri Cá Trại ở huyện Ba Tri, nơi đây người dân dựng một số giàn rớ để bắt
cá tôm. Địa danh này đã đi vào ca dao:
Bao phen quạ nói với diều
Ngã ba Bến Rớ có nhiều cá tôm.
Hay loại địa danh phản ánh sản phẩm làm ra từ nghề nghiệp của con người
như địa danh giồng Gạch thuộc làng An Lái tổng Bảo An, nay thuộc xã An Hiệp
huyện Ba Tri. Năm 1823, tổng Bảo An được thăng thành huyện , người dân mở một
cái lò gạch nơi chân giồng để lấy đất nung gạch xây huyện đường. Địa danh này
không những cho biết nghề nghiệp và phản ánh sản phẩm làm ra của người dân Ba
Tri trong buổi đầu xây dựng mà nó còn đi vào thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu
trong bài điếu về người anh hùng dân tộc Phan Tòng:
110
Lòng son xin có hai vầng tạc
Giồng Gạch thà không một tấm thân.
3.1.3.2. Địa danh phản ánh ngành nghề trong lĩnh vực hoạt động kinh tế
Các lĩnh vực thường gặp như: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp xuất hiện từ xưa đến nay trong sinh hoạt của người dân Bến
Tre, đó là các địa danh: Ba Tri Cá Trại (BaT), Ba Tri Cá (GT), Ba Tri Rơm (GT),
xẽo Nò (TP), rạch Chòi Câu (BĐ), xóm Bánh Tráng (MC), ngã năm Chuồng Chó
(CT), rạch Lò (CT), cầu Cống Đá (BĐ), rạch Thợ Cối (TP), cầu Làng Nghề (CL),
rạch Thủy Sản (TP), chợ Tiệm Tơm (BaT), chợ Bến Vựa (BaT)…
Qua các tiền từ của địa danh, chúng ta còn biết được các làng nghề nổi tiếng ở
Bến Tre hay các địa điểm trao đổi, mua bán thủy hải sản như: làng nghề hoa kiểng
Cái Mơn (CL), làng nghề thủ công mỹ nghệ Châu Thành (CT), làng nghề rượu Phú
Lễ (BaT), làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc (GT), cảng cá Bình
Thắng (BĐ), cảng cá Giao Long (CT)…
3.3.4. Địa danh phản ánh về mặt văn hóa
Văn hóa phản ánh trong địa danh thể hiện được khả năng tư duy của người bản
ngữ, các hình thức biểu hiện văn hóa của một cộng đồng. Qua định danh, qua cách
đặt tên cho mỗi sự vật, hiện tượng thường phụ thuộc vào “đặc trưng văn hóa dân tộc
của tư duy” được thể hiện rõ ở thiên hướng “ưa thích”, hay một sự nổi trội về đối
tượng theo một kiểu tư duy nào đó, cách nghĩ, cách nói ở một dân tộc nhất định.
Mỗi sự vật, hiện tượng được biểu hiện bằng nhiều thuộc tính khác nhau, khi định
danh cho đối tượng người ta thường dựa vào thuộc tính nổi trội của sự vật hiện
tượng đó. Cùng một sự vật hiện tượng, nhưng ở mỗi dân tộc có cách gọi tên khác
nhau và cảm nhận về chúng cũng khác nhau, thậm chí cách gọi tên cho đối tượng có
khác nhau ở những người sống cùng một nước, trong một phạm vi ngôn ngữ. Đó là
do đặc trưng văn hóa dân tộc quy định. Đại đa số cư dân Nam Bộ và tỉnh Bến Tre
có nguồn gốc từ miền Thuận- Quảng. Trên con đường di dân, những lưu dân Việt
đã tiếp thu những tập tục tín ngưỡng của các cư dân bản địa khác. Văn hóa Bến Tre
111
là sự tổng hợp của nhiều nền văn hóa của các tộc người khác. Và điều này cũng đã
tạo nên sự đa dạng về văn hóa được phản ánh trong địa danh.
Nét văn hóa được thể hiện trong địa danh ở Bến Tre cũng không nằm ngoài
những vấn đề nêu trên. Khả năng tư duy của người bản ngữ thể hiện rất rõ nét văn
hóa của một vùng đất, mang sắc thái của nhiều vùng dân tộc. Nhưng yếu tố văn hóa
Việt vẫn giữ vai trò chính, mang đậm chất văn hóa của cư dân Nam Bộ và đậm đà
bản sắc văn hóa của người dân Bến Tre.
3.1.4.1. Địa danh phản ánh về mặt tâm lý
Địa danh thể hiện ước vọng của con người: ước vọng bình an, ước vọng đổi
đời, ước vọng về sự thịnh vượng, giàu có chiếm gần 80 trong địa danh hành chính
thuộc từ Hán Việt của địa danh Nam Bộ. Ở Bến Tre, ước vọng nêu trên cũng chiếm
số lượng lớn trong địa danh hành chính. Thông thường người dân thường dùng các
mỹ tự thể hiện ý nghĩa tốt đẹp: tân (mới, bắt đầu), bình (bằng phẳng, yên ổn, hoàn
hảo), phúc, phước (tốt lành), phú (giàu có), long (tốt, thịnh vượng), an (êm đềm,
bình an), mỹ (đẹp), vĩnh (lâu dài)…ý nguyện đặt tên của chủ thể cũng theo một trình
tự thời gian, và biểu hiện ý nguyện theo từng giai đoạn của hoàn cảnh sống: thời
gian đầu là thời kì khai hoang mở đất nên sự yên ổn được đặt lên trên hết, tiếp đó là
mọi việc sẽ tốt lành và sau cuối là sự giàu sang, hưng thịnh vĩnh cửu. Nội dung trên
chiếm phần lớn ở địa danh hành chính của Bến Tre, chủ yếu là địa danh chỉ xã, ấp,
yếu tố đầu của tên xã thường đặt cho yếu tố đầu của tên ấp. Ví như xã Bình Phú ở
thị xã có các ấp: Bình Thành, Bình Thạnh, Bình Công; xã Vĩnh Thành ở chợ Lách
có các ấp: Vĩnh Chính, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Phú, Vĩnh Hưng 1, Vĩnh Hưng 2…Địa
danh còn phản ánh mong ước về cuộc sống giàu lễ nghĩa, nhân ái như: ấp Phước
Thiện (CT), xã Hưng Lễ (GT), ấp Thanh Tịnh (CL), xã Minh Đức (MC)…
Có những địa danh hành chính được đặt theo “tứ quý” thể hiện ước vọng giàu
sang, phú quý của con người như ở xã Long Mỹ huyện Giồng Trôm có các ấp như
ấp Linh Long, Linh Lân, Linh Quy, Linh Phụng.
Thích dùng số từ để đặt tên: thường đặt cho tên người và tên ấp. Đó là tâm lý
chung của người dân Nam Bộ và cả người dân Bến Tre, có lẽ do dễ đọc, dễ nhớ,
112
còn đặt cho tên người thì có vẻ gần gũi như thứ tự vai vế trong một gia đình. Như
các địa danh: rạch Dượng Một (BĐ), cầu Hai Tường (CL), cồn Ông Mười Phượng
(TP); hay ấp 1, ấp 11, ấp 12 thuộc xã Tân Hào huyện Giồng Trôm, ấp 1, ấp 2, ấp 3,
ấp 4 thuộc thị trấn Mỏ Cày…
Tâm lý chung của người dân Bến Tre là thích dùng những gì gần gũi có ở
xung quanh họ để đặt tên. Chiếm số nhiều là địa danh chỉ tên thực vật và động vật
như: rạch Cây Mắm (TP), ngã ba Cây Trâm (MC), lộ Cam (CT), đìa Tre (BaT),
giồng Kiến (BĐ), xóm Cò (BaT), cầu Cá Trê (MC), cồn Ngao (BĐ)…
Tính thẫm mỹ được thể hiện rõ trong cách gọi tên mà địa danh phản ánh như
ở Ba Tri có một xóm tên là Trùm Cu, tên gọi có vẻ như thô tục và người địa phương
đọc chệch đi là xóm Tràm Cu.
3.1.4.2. Địa danh phản ánh về mặt tín ngưỡng tôn giáo
Bến Tre cũng như các tỉnh ở Nam Bộ, trong buổi đầu của công cuộc khai phá
đã được Trịnh Hoài Đức cho biết trong Gia Định thành thông chí như sau: “Gia
Định là đất nước miền nam của nước Việt, khi mới bắt đầu khai thác dân lưu tán
của nước ta và người Đường (người Hoa), người Tây phương, Phú Lang Sa (Pháp),
Hồng Mao (Anh), Mã Cao (Áo Môn), các nước phương Tây (gọi là Tây Dương),
người Cao Miên, người Chà Và, người Sơn Nam theo đạo Bái Nhật (thờ thần mặt
trời)…” [tr.143].
Ngoài ra còn phải kể đến người Chăm, người Khơme và các tộc người khác.
Một vùng đất đa dân tộc với nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, đan xen trộn lẫn.
Trong đó thì “Sự vận hành và phát triển của tín ngưỡng dân gian mang tính chất hòa
trộn ấy lại diễn ra trong ảnh huởng chi phối không chỉ của tam giáo Nho, Phật, Lão
mà còn cả nhân tố ngoại lai khác như đạo Hồi, đạo Thiên Chúa nữa” [Địa chí Bến
Tre, 2001, tr.902].
Kết quả thống kê về tín ngưỡng tôn giáo được phản ánh qua địa danh ở Bến
Tre liên quan đến nghề nghiệp của người dân địa phương đó là nghề trồng lúa nước,
nghề làm vườn, trồng giồng và nghề đánh bắt hải sản. Công việc của họ là theo mùa
vụ và môi trường sản xuất, cho nên họ luôn mong muốn là mưa thuận gió hòa, mùa
113
màng bội thu, cuộc sống no đủ. Nên họ có nhu cầu tâm linh riêng. Và cái điều trả
lời cho sự tín ngưỡng tôn giáo của người dân Bến Tre được thể hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau trong đó có sự phản ánh qua địa danh. Xuất phát từ nhu cầu
tâm linh đó của người dân Bến Tre không phải ngẫu nhiên mà tập trung phản ánh
nhiều ở địa danh chỉ địa hình tự nhiên như: rạch Miễu (CT), giồng Chùa (TP), giồng
Miễu (BaT), mương Nhà Thờ (BĐ), rạch Miễu Bà (CT), rạch Thuộc Đạo (CT), vàm
Kênh Ông Cha (CT), rạch Cầu Đình (MC)…
3.1.4.3. Địa danh phản ánh các hoạt động du lịch, vui chơi, giải trí
Bến Tre là tỉnh cuối nguồn của sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông, được bao
bọc bởi bốn con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông và sông Cổ Chiên.
Lãnh thổ của tỉnh được hợp thành bởi ba dãy cù lao lớn: cù lao Bảo, cù lao An Hóa
và cù lao Minh, có ba vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ và nước mặn, tạo nên hệ
động, thực vật rất phong phú. Rất thích hợp cho môi trường phát triển du lịch sinh
thái và du lịch miệt vườn. Từ xưa các địa danh phản ánh về sự giàu có trù phú của
vùng đất sớm đi vào dân gian qua những câu hát truyền miệng như:
Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ, biển thừa cá tôm
Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày
Xoài chua, cam ngọt Ba Lai
Bắp thì chợ Giữa, giồng khoai Mỹ Hòa
Mắm, bần ven đất phù sa
Bà Hiền, Tân Thủy hằng hà cá tôm
Quýt đường vú sữa ngổn ngang
Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri
Xẽo Sâu cau tốt ai bì
Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong
Muối khô ở Gãnh mặn nồng
Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng
114
Ngày nay, với sự phát triển của ngành du lịch sinh thái, du khách trong và
ngoài nước biết đến Bến Tre nhiều hơn thông qua những địa danh nổi tiếng thu hút
khá đông người đến tham quan, vui chơi giải trí như cồn Phụng thuộc xã Tân
Thạch, huyện Châu Thành, cồn Quy (CT), cồn Ốc (TP), cồn Tiên thuộc xã Tiên
Long huyện Châu Thành. Cồn Tiên có bãi cát vàng dài và đẹp, hàng năm vào mồng
năm tháng năm (âm lịch) có hàng vạn người đến tắm, vui chơi thưởng thức trái cây
hay sân chim Vàm Hồ ở Ba Tri, làng hoa kiểng Chợ Lách, làng nghề thủ công mỹ
nghệ Châu Thành…
3.1.4.4. Đặc trưng văn hóa – ngôn ngữ trong việc cấu thành địa danh
Sự vật được gọi tên theo cách tri nhận ở mỗi người có sự khác nhau: “Với khả
năng đặt tên sự vật, con người hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong
tồn tại cảm tính và cả trong tồn tại lí tính của nó” [Phụ nữ Bến Tre, tr.41]. Ngôn ngữ
được sử dụng để định danh cho đối tượng mang nhiều màu sắc khác nhau tùy vào
nhận thức của chủ thể trong quá trình gọi tên. Ở địa danh cũng vậy, các yếu tố ngôn
ngữ được sử dụng để phản ánh về khả năng tư duy của con người trong quá trình
gọi tên về các đối tượng địa lý có sự khác nhau, tạo nên được nét đặc trưng văn hóa
trong việc cấu thành địa danh.
Xét thấy trong địa danh chỉ địa hình tự nhiên ở Bến Tre ngôn ngữ được sử
dụng chủ yếu là thuần Việt, còn địa danh hành chính sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ
Hán Việt. Vậy nguyên nhân của sự khác biệt là gì?
Khảo sát địa danh có cấu tạo bằng ngôn ngữ thuần Việt, chúng ta thấy lối tri
nhận của con người là trực quan, sự tri giác cụ thể về sự vật, hiện tượng, nhận thức
về sự vật như thế nào thì phản ánh, gọi tên như thế. Trong tình trạng chung đất nước
bị đô hộ, cùng với sự pha trộn của các tộc người khác, tạo ra nhiều sắc thái văn hóa
khác nhau. Nhưng địa danh được đặt bằng ngôn ngữ thuần Việt, được hình thành và
phát triển phong phú trong buổi đầu người bản ngữ xây dựng địa bàn cư trú. Điều
đó cho thấy ý thức dân tộc, nét văn hóa trong cộng đồng người Việt là rất cao, trong
đó có Bến Tre.
115
Tuy nhiên do nhu cầu về quản lí hành chính mà “hầu hết các địa danh Hán
Việt là do nhu cầu cần có tên gọi chính thức cho các làng xã và nhu cầu có tên gọi
chính thức là nhu cầu cần thiết lập sự quản lý hành chính quản lý nhà nước ở khu
vực đó” [Trần Trí Dõi, 2001, tr.54]. Hơn nữa, chữ Hán được xem là văn tự chính
thức trong các hoạt động xã hội và được các tầng lớp bác học sử dụng, trong quá
trìnhh soạn thảo các văn bản, phiên âm, dịch nghĩa thì các địa danh thuần Việt
chuyển sang chữ Hán như cù lao Đất - Thổ Châu, cù lao Nai - Lộc Châu, sông Cái
Mít - Ba La Giang, sông Ba Tri Cá - Châu Thới Giang...
Một nguyên nhân tiếp theo không thể không nói đến trong quá trình sử dụng
các địa danh được tạo thành bằng ngôn ngữ Hán Việt là do ảnh hưởng của yếu tố
văn hóa xã hội chi phối. Các đặc điểm về giai tầng xã hội như trình độ văn hóa, giới
tính, thành phần xuất thân có tác động trực tiếp và tạo nên các đặc điểm ngôn ngữ
trong sử dụng, trong quá trình lựa chọn những từ ngữ trong vốn từ chung để tạo nên
địa danh. Loại địa danh được cấu thành bằng các từ ngữ Hán Việt là do các tầng lớp
trí thức tạo thành nên lối tư duy có vẻ mang tính suy lí, liên tưởng và hàm ý. Mang
vẻ hoa mĩ, trang trọng và bác học. Như Thái Văn Kiểm đã từng nói: “Những địa
danh văn hoa thì phần nhiều do nhà cầm quyền và các bậc trí thức đặt ra và những
danh từ Hán Việt bao hàm ý nghĩa thanh cao, tỏ rõ nguyện vọng an cư, hòa bình và
thịnh vượng [Nguyễn Tấn Anh, tr.151].
Như vậy tính bình dân hay bác học qua địa danh tự nhiên và địa danh hành
chính ở Bến Tre đã tạo nên được tính hệ thống, tính tầng bậc và đan xen của địa
danh cũng như nét văn hóa đặc trưng của một vùng đất “Địa linh nhân kiệt” này.
3.1.4.5. Địa danh phản ánh nét văn hóa trong quần cư, sinh hoạt
Các tỉnh Nam Bộ hình thành cách nay hơn 300 trăm, so với cả nước thì đây là
một vùng đất mới. Đến thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn còn nhận xét rằng: “Ở phủ Gia
Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào
toàn là rừng rặm hàng ngàn dặm” [Địa chí Bến Tre, tr.283]. Năm 1759, chúa
Nguyễn ban bố lệnh lập làng và đến 1779, Nguyễn Ánh mới chia lại địa giới hành
chính và Bến Tre được đặt thành một tổng - tổng Tân An thuộc châu Định Viễn,
116
dinh Long Hồ. Đến năm 1808, tổng Tân An đựợc nâng lên thành huyện, gồm hai
tổng: tổng An Bảo và tổng Tân Minh. Từ khi các tổ chức hành chính ra đời thì ở
Bến Tre các địa danh hành chính xuất hiện phục vụ cho nhu cầu quản lí của giai cấp
thống trị. Địa danh ở Nam Bộ nói chung và Bến Tre nói riêng trong giai đoạn này
xuất hiện nhiều yếu tố tân ở đầu cao hơn hẳn các địa danh hành chính mang yếu tố
khác (chiếm khoảng 10), mục đích là nhằm đánh dấu một vùng đất mới trong buổi
đầu “khai thiên lập ấp” của những lưu dân đến đất Bến Tre như: Tân Thành Đông,
Tân Sơn, Tân Hào, Tân Định…(thuộc tổng An Bảo); Tân Thiện, Tân Nhuận, Tân
Quới, Tân Điền…thuộc tổng Tân Minh.
Thời nhà Nguyễn việc, thông thương, mua bán ở Nam Bộ phát triển sớm vì:
“Từ thế kỉ cuối thế kỉ XVI, khi người Việt đến đây khai phá, lập nghiệp thì chính là
lúc phương Tây nhòm ngó và đặt chân vào, cho nên dễ hiểu là tại sao là Đàng
Trong lại chịu ảnh hưởng kinh tế hàng hóa tiểu tư sản cao hơn đàng Ngoài” [Trần
Ngọc Thêm, 1998, tr.603]. Hơn nữa, Nam Bộ có hệ thống sông ngòi, kênh rạch
chằng chịt, những thị tứ, chợ búa mọc lên ở nơi giáp nước, vàm sông thuận lợi cho
việc thu mua chế biến chuyên chở. Nghề buôn bán trên các tuyến đường sông phát
triển nhanh chóng. Còn trên đường bộ, địa hình sông nước đòi hỏi phải có nhiều cây
cầu hình thành thuận lợi cho việc trao đổi, mua bán. Do vị thế địa hình, Bến Tre
được xem như là “ngã tư đường” về mặt giao thương giữa các tỉnh miền Đông và
miền Tây nên việc mua bán cũng rất thịnh vượng. Để đáp ứng về nhu cầu đi lại, trao
đổi, mua bán của con người, nhiều chợ và cầu (riêng tên cầu xuất hiện nhiều từ thời
Pháp thuộc) ở Bến Tre xuất hiện và cũng như ở Nam Bộ, tên chợ và tên cầu xuất
hiên nhiều hơn các vùng khác trên đất nước. Theo Đại Nam nhất thống chí, vùng
Lục tỉnh vào giữa thế kỉ XIX có 93 chợ lớn nhỏ, thì ở Bến Tre chiếm 14 chợ. Địa
danh chợ Ba Việt (Ba Vát) thuộc lỵ sở huyện Tân Minh, chợ Hội An ở huyện Duy
Minh (cù lao Minh ngày nay), chợ Sóc Sãi, chợ An Đức (chợ Mỹ Lung, Mỹ Lồng
ngày nay), chợ Lương Điền ở huyện Bảo Hựu (cù lao Bảo ngày nay), chợ Bình
Hòa, chợ Hưng Thạnh, chợ Hưng Nhượng, chợ An Bình Đông, chợ Vĩnh Đức thuộc
117
huyện Bảo An (cù lao Bảo ngày nay)…là những chợ mua bán tấp nập nhất [Đại
Nam nhất thống chí, tập 5, tr.131-132].
Hầu như ở các tỉnh Nam Bộ, địa danh hành chính từ Hán Việt thường trùng tên
với nhau, trùng cả trong một tỉnh, ấp trùng tên ấp trong một huyện, ấp trùng tên xã,
huyện trùng tên ấp… . Ví dụ như huyện Thạnh Phú có 3 ấp trùng tên ấp An Hòa có
ở xã An Thuận, xã Mỹ An, và xã An Nhơn; huyện Giồng Trôm ở Bến Tre trùng với
ấp Giồng Trôm ở Mỏ Cày; ấp An Nhơn ở Mỏ Cày trùng tên với xã An Nhơn ở
Thạnh Phú…Hay huyện Châu Thành, tỉnh nào cũng có. Điều này qua địa danh cho
thấy quá trình lưu dân phản ánh được việc mang theo tên đất tên làng của họ, và nhu
cầu về tên đất thì nhiều mà những từ Hán Việt có ý nghĩa tốt đẹp dùng để đặt tên có
giới hạn nên mới có hiện tượng này. Điều này thể hiện tính cộng đồng trong quá
trình lưu trú của con người là rất cao.
Việc dùng tên gọi thuần Việt hay tên Nôm tồn tại song song với tên gọi Hán
Việt có trong địa danh dùng trong sinh hoạt hằng ngày của con người như: Bãi
Ngao - Ngao Châu, Cái Mít - Ba La Giang, rạch Cát - Sa Giang…là một trong
những cách giữ gìn bản sắc văn hóa của một đất nước bị thống trị “ngàn năm giặc
Tàu, trăm năm giặc Tây” như dân tộc ta là một điều rất đáng khâm phục.
3.3.5. Địa danh phản ánh về mặt ngôn ngữ và văn học
3.1.5.1. Địa danh phản ánh về mặt ngôn ngữ
Địa danh phản ánh rất phong phú đời sống xã hội, phản ánh khả năng tư duy
của con người trước các sự vật, hiện tượng khác nhau thông qua ngôn ngữ. Địa
danh hình thành, phát triển và chuyển biến đều chịu sự tác động của quy luật ngôn
ngữ. Mặc dù vậy, nhưng tính bất biến ở địa danh là rất cao. Nó sẽ là nguồn cứ liệu
cho các ngành khoa học có liên quan nghiên cứu.
Đối với một dân tộc, hay một tộc người nào đó, ngôn ngữ sử dụng khác nhau
sẽ tạo nên một hệ thống địa danh khác nhau. Ngay trong một ngôn ngữ, ở những
vùng khác nhau, vào những thời kì khác nhau cũng tạo ra sự khác biệt. Điều này tạo
nên sự phản ánh hiện thực ở địa danh rất phong phú và đa dạng
118
Khi nghiên cứu về địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy rằng giá trị phản
ánh hiện thực về mặt ngôn ngữ ở địa danh phổ biến ở các mặt sau:
a. Về phương ngữ:
Địa danh được xem như là một “mã số” ổn định của một vùng đất, và được lưu
giữ, truyền bá lâu dài, nhờ vậy mà những thông tin trong địa danh là nguồn tài liệu
quý giá đối với các nhà ngôn ngữ học, trước hết là phương ngữ học.
Sự cấu thành ở địa danh tuân theo lối tư duy của người bản ngữ, sự tri giác về
đối tượng dưới sự tác động của môi trường sống được phản ánh rõ qua địa danh
thuần Việt. Những từ ngữ được dùng để đặt địa danh thì rất bình dị, mộc mạc, giàu
hình ảnh, âm thanh gần gũi với đời sống người dân, phản ánh được sự tri giác của
con người về thế giới xung quanh mình như: rạch Gừa (BĐ), cầu Cá Lóc (TX), vàm
Vườn Chuối (CT), rạch Ruộng Muối (BaT), chợ Giồng Keo (MC), cầu Lồ Ồ (TX),
chợ Ngã Năm (TX)…
“Nhiều địa danh được sinh ra trong các phương ngữ, từ chất liệu phương ngữ”
[Lê Trung Hoa, 2006, tr.37]. Chính do cái đặc thù của địa phương mà ở Bến Tre
ngoài các địa danh có nhóm từ chỉ địa hình sông nước, đặt theo tên thực vật và động
vật có riêng ở đó, tên người có công cho vùng đất Bến Tre, hay những câu chuyện
kể gắn liền với sinh hoạt của quần chúng thì những địa danh gắn đặt theo tên giồng
cũng chiếm tỉ lệ cao. Và sự cấu thành ấy chịu ảnh hưởng theo lối tri nhận của người
địa phương và phản ánh được đặc trưng riêng của vùng đất này. Ví dụ: giồng Đầu
Trâu ở Bình Đại đã phản ánh được những nét riêng của một vùng đất mới trong
buổi đầu khai phá. Địa chí tỉnh Mỹ Tho ghi ‘làng Tân Định có 430 ha đất hoang có
rừng, cọp, nai, chồn; làng Bình Đại có nhiều dã thú lớn”. Trâu ở đây là loại trâu
rừng, vùng đất này xưa kia có rất nhiều cọp dữ hay bắt trâu rừng ăn thịt, rồi bỏ đầu
tại nơi đó. Và địa danh giồng Đầu Trâu ra đời [Bình Đại địa chí, tr.217].
Tính phương ngữ còn thể hiện qua cách ghép các từ ngữ để tạo địa danh:
Phần lớn các địa danh Hán Việt có cấu tạo từ hai tiếng trở lên thì yếu tố mang nghĩa
phụ đứng trước, còn yếu tố mang nghĩa chính đứng sau như: ấp Sơn Long (CL), xã
Thanh Tân (MC), xã Châu Bình (CT)…còn ở địa danh thuần Việt thì ngược lại, yếu
119
tố chính đứng trước và yếu tố phụ đứng sau: cầu Sắt Lớn (MC), chợ Ngã Năm
(TX), cầu Tre Bông (CT), lộ Bờ Dừa (CL)….Điều này cho thấy địa danh ở Bến Tre
có cấu tạo ghép thì trật tự các yếu tố giống với từ ghép chính phụ của tiếng Việt.
b. Về từ nguyên:
Địa danh cho thấy các từ ngữ cổ, từ ngữ lịch sử mà trước đây ông cha ta đã
dùng nhưng hiện nay không còn phổ biến trong sinh hoạt của đời sống con người
mà chỉ còn tồn tại trong địa danh. Sự lưu giữ các từ cổ trong địa danh góp phần
giúp cho các nhà ngôn ngữ học lịch sử phát hiện ra nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình
phát triển của nó trong từng thời kì, về vốn từ vựng của tiếng Việt trong các giai
đoạn trước đó.
Ở Bến Tre, địa danh được tạo thành từ tiếng Việt cổ tồn tại không nhiều, có
những địa danh có thể hiểu được ý nghĩa nhưng vẫn có những địa danh không dễ
hiểu chút nào và có nhiều ý kiến khác nhau về các địa danh này. Đó sẽ là “nguồn
kiến thức bí ẩn, lí thú” của ông cha ta để lại cho các nhà khoa học đời sau nghiên
cứu. Các địa danh đó là: Ba Tri, Sơn Đốc (CT), ngã Cạy (TP), giồng Trum Đông, ấp
Vú Màng…Đây là các địa danh có thể được lấy trong kho từ vựng của tiếng Việt cổ
mà đến nay chúng tôi chưa hiểu rõ được ý nghĩa. Như nhà ngôn ngữ học Xô Viết
Xtankêvich nhận xét “Mỗi nét lạ của phương ngôn, thổ ngữ thường thường chính là
một vết tích của một tình trạng cổ còn sót lại hoặc một nét mới mới manh nha”
[Nguyễn Phương Thảo, tr.66].
c. Về sự giao thoa, tiếp xúc và chuyển di ngôn ngữ:
Do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, bên cạch các địa danh hình thành có nguồn
gốc bản địa thì sự giao thoa, tiếp xúc, vay mượn về mặt ngôn ngữ giữa cộng đồng
người Việt với các tộc người, dân tộc khác thể hiện rất rõ qua địa danh. Qua khảo
sát địa danh ở Bến Tre, chúng tôi nhận thấy rằng hiện nay vẫn còn còn lưu giữ
nhiều từ ngữ vay mượn của tiếng Khơme, Chăm, Hoa, Pháp…Sự vay mượn có thể
được giữ nguyên về mặt ngữ âm, ngữ nghĩa, có khi biến đổi về mặt ngữ âm, có khi
chuyển hóa về mặt ngữ nghĩa như: Cái Mơn (CL), Ba Vát (MC), xóm Bưng (BaT),
cầu Bưng Lớn (BĐ), Hóc Quả (BĐ), cống Hóc Môn (MC), cầu Trùng Sình (GT),
120
kênh Tiêu Lạc Địa (BaT), cầu Việt Sử (GT), rạch Dinh (TP), ngã ba Nhà Việc,
giồng Xaboong (BĐ), rạch Bà Tây (BĐ), kênh Turc (CT)…
3.1.5.2. Địa danh phản ánh về mặt văn học
Văn học Bến Tre mang đậm màu sắc địa phương, là một kho tàng di sản văn
hóa vật thể quý giá gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Qua các tác
phẩm học, ta thấy được những tâm tư, tình cảm và tư tuởng của người dân gửi gắm
trong đó về tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước, khát vọng hạnh phúc, tình
yêu đôi lứa, chống áp bức và cảm thông cho những người bị áp bức…Trong đó địa
danh đã đi vào các tác phẩm văn học Bến Tre qua từng thời kì khác nhau đã để lại
một giá trị lưu giữ nhất định, phản ánh được hiện tượng thiên nhiên xảy ra xung
quanh họ, về địa bàn cư trú, ca ngợi về một thành quả lao động, về những người có
công, phản ánh sự phong phú, giàu có của một vùng đất, hay những địa danh giải
thích những hiện tượng kì lạ của thiên nhiên, gắn với những cảm quan huyền thoại
của con người, tìm về nguồn gốc thiêng liêng của một vùng đất nơi con người cư
trú…, tất cả khẳng định lòng tự hào của người dân xứ dừa về địa phương mình.
Trong nền văn học dân gian và văn học viết địa danh xuất hiện nhiều, tồn tại và
phản ánh được nhiều mặt ý nghĩa khác nhau của cuộc sống con người Bến Tre tập
trung chủ yếu ở văn học dân gian. Nền văn học này gắn với thời kì khai hoang mở
đất của con người Bến Tre và qua những câu chuyện kể, câu hát, câu hò được
truyền miệng từ đời này sang đời khác, đã phản ánh rất rõ về vị trí địa lý, tiến trình
lịch sử văn hóa của dân tộc tạo cho văn học dân gian Bến Tre có dáng vẻ riêng
nhưng mang đậm sắc thái Nam Bộ.
a. Địa danh phản ánh qua những câu chuyện cổ:
Địa danh xuất hiện trong những câu chuyện cổ thông thường phản ánh thời kì
đầu khai phá vùng đất mới của ông cha ta, sự chống chọi của con người với thiên
nhiên khắc nghiệt và chiến đấu với các loài thú dữ. Theo Trịnh Hoài Đức nhận xét
trong Gia Định thành thông chí thì: “ Xứ này có nhiều cá sấu và cọp dữ” [Văn học
dân gian Bến Tre, tr.45], hay “Phía nam trấn Định Tường một dặm, trước kia là
rừng hoang làm hang hầm cho hùm beo ở [Địa chí Bến Tre, tr.283]. Những địa danh
121
xuất hiện trong những câu chuyện cổ còn cho thấy sự tín ngưỡng của ông cha ta
muốn tìm về nguồn gốc thiêng liêng của đất mình cư trú.
Để nhớ ơn người có công phát thuốc chữa bệnh cứu dân nghèo, một địa danh
ra đời gắn với công ơn của người có công. Chuyện kể về hai vợ chồng nhà kia, tính
tình thiệt thà, người vợ hay làm phước, một lần do đỡ đẻ cho vợ cọp, bà được
thưởng một con heo rừng. Tin lành đồn xa, dân trong vùng đều gọi là bà thầy. Mỗi
khi có người rước chữa bệnh bà đều đến.
Một ngày nọ ở tận Bến Tranh, có người bệnh nặng, rước thầy chạy thuốc bao
nơi không khỏi. Khi bà đến, các thầy pháp còn cúng vái linh đình. Thấy người đàn
bà có vẻ quê mùa, bọn thầy pháp tỏ vẻ không tin về tài chữa bệnh của bà. Cách trị
bệnh của bà rất đơn giản, bà lấy trong bọc ra mấy lá cây vò lấy nước cho bệnh nhân
uống và đắp vào chỗ đau. Một lát sau người bệnh nói cười như thường làm cho đám
thầy pháp thêm kính nể.
Một lần bà bệnh nặng không ngồi dậy nổi, bảo chồng đi trị bệnh thay, nhưng
không được ăn gì của người nhà bệnh nhận, nếu không bệnh nhân sẽ chết.Vì không
thể từ chối trước lời mời của gia chủ, người chồng mới ăn vài miếng thì bệnh nhân
lăn đùng ra chết.
Vừa tới sân nhà, ông đã bị bà mắng. Mấy bữa sau bà mất. Để nhớ ơn bà đã
chữa bệnh cho bà con trong vùng, người dân gọi cái đìa lớn ở gần nhà bà là đìa Bà
Thầy. Và đến bây giờ người dân Định Thủy ở Mỏ Cày vẫn gọi cái đìa ở gần nhà bà
là đìa Bà Thầy.
Còn nhiều địa danh ra đời gắn với những câu chuyện cổ, đã phản ánh được
phần nào diện mạo của một vùng đất mới, về quá trình sinh hoạt của người dân Bến
Tre. Bằng trí tưởng tượng huyền bí, con người phản ánh những địa danh có thật mà
cho đến ngày nay, nó vẫn còn tồn tại và được người dân lưu truyền kể cho nhau
nghe.
b. Địa danh phản ánh qua ca dao, dân ca và phương ngôn:
Nơi để con người bộc lộ những cảm xúc, tâm tư tình cảm của mình một cách
thực nhất và hiệu quả nhất trong đời sống hằng ngày của người bình dân xưa là
122
những câu ca dao, những làn điệu dân ca. Những bài ca dao, dân ca thường bộc lộ
tình cảm của người dân Bến Tre về quê hương, tự hào về sự giàu có của vùng đất
nơi mình sinh sống. Còn phương ngôn Bến Tre thì giới thiệu về các sản vật của các
địa phương khác nhau. Sự giàu có của một vùng đất được người đời biết đến đó là
nhờ thông qua những địa danh, và người bản xứ luôn cảm thấy tự hào khi nhắc đến
các địa danh đó. Nói về Bến Tre là gắn với đặc sản xứ dừa:
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông sen trắng nhớ đồng quê Tháp Mười
Cảnh vật và con người Bến Tre đã quyến rũ biết bao người:
Bến Tre đẹp lắm ai ơi
Bậu về bên đó cho tôi về cùng
Sự giàu có về các đặc sản của địa danh huyện thị cũng được nhắc nhiều trong
ca dao, mỗi vùng quê được giới thiệu một sản vật:
Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn
Bình Đại biển cá sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng
Tình yêu đôi lứa không tách rời với tình yêu quê hương đất nước: lời tỏ tình
giữa chàng trai và cô gái kín đáo và tế nhị, những sản vật được nhắc đến gắn với
một địa danh nhất định.
Cô gái:
Nghe anh đi đó đi đây, cho em hỏi thử câu này
Bánh phồng bánh tráng đất này đâu ngon?
Chàng trai:
Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
Măng cụt Hàm Luông vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn
Anh đây nói thiệt sao em còn so đo.
Về sản vật của Bến Tre, Trịnh Hoài Đức đã từng giới thiệu trong Gia Định
thành thông chí “Có những vườn cau đứng rậm như rừng, quả lớn lại sai” [Địa chí
123
Bến Tre, tr.293], hay Bôrắc chép trong Nam Kỳ và dân cư năm 1894 có ghi: “ Bến
Tre xuất khẩu năm mặt hàng chính: lúa gạo, dừa khô, lụa cam, cau và trầu” [Văn
học Bến Tre, tr 59].
Hay những địa danh gắn với những chiến công oanh liệt của người phụ nữ xứ
dừa và ca ngợi về họ đã đi vào ca dao:
Thấy bóng khăn rằn anh biết rằng em tới
Màu khăn Đồng Khởi của phụ nữ Bến Tre
Con sông Hàm Luông giặc Mỹ chạy re
Cầu Ba Lai đó giặc lật xe chết hoài
Quê hương Đồng Khởi rạng ngời
Tinh thần cách mạng đỏ trời vàng sao.
Còn những câu phương ngôn thì như lời nói cửa miệng, người dân thường
dùng để ca ngợi về những đặc sản, làng nghề của đất Bến Tre như:
- Muối hột Cầu Ngang, khoai lang ở Gãnh
- Lụa Ba Tri, chiếu Nhơn Thạnh
- Mắm còng Châu Bình
- Nan Mỏ Cày, thuốc giồng Mỏ Cày
- Cây trái Cái Mơn
- Cau Xẽo Sâu
- Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc…
Có thể thấy rằng, địa danh là một kho tàng, là nguồn tư liệu phong phú giúp
cho con người sống ở khắp nơi không những trong nước mà cả trên thế giới tiếp cận
để hiểu về con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, lịch sử, địa lý Việt Nam; về
ngôn ngữ, về phong tục tập quán của từng vùng… Một số nội dung tiêu biểu mà địa
danh phản ánh phần nào đã khái quát lên được diện mạo về con người và vùng đất
Bến Tre, mặc cho thời gian có làm thay đổi vạn vật nhưng địa danh vẫn mãi là “tấm
bia sống” để con người chiêm nghiệm, khám phá. Nói như vậy cũng không có
nghĩa, không phải luôn luôn và không phải tất cả các biến cố đã qua đều được phản
ánh trong địa danh.
124
4.4 Nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở Bến Tre
Thật thú vị khi công việc của người nghiên cứu về địa danh phát hiện ra được
nguồn gốc và ý nghĩa một địa danh nào đó. Bởi lẽ địa danh ra đời, tồn tại và phát
triển thường gắn với một giai đoạn nhất định, một vùng đất nhất định theo quy luật
tư duy chung của người bản địa. Tuy nhiên, theo thời gian, mọi vật đều có thể thay
đổi và bị che khuất khó có thể xác định được nguồn gốc và ý nghĩa ban đầu. Địa
danh cũng vậy có khi chúng ta nhận ra được nguồn gốc nhưng khó biết được đầy đủ
ý nghĩa của nó.
“Giải mã” được đầy đủ, chính xác giúp người khác hiểu đúng về nguồn gốc và
ý nghĩa của địa danh là một việc làm không hề đơn giản. Công việc này, đòi hỏi
người giải mã phải có vốn sống phong phú, kiến thức sâu rộng, tích hợp nhiều tài
liệu có liên quan của các nhà nghiên cứu đi trước, nhận xét, đánh giá và đưa ra chủ
kiến hợp lí. Một việc không thể bỏ qua là công tác điền dã, có đi thực tế được nghe
và thấy có thể giúp nhiều trong việc truy nguyên nguồn gốc của địa danh, lợi thế
hơn khi người nghiên cứu địa danh là người bản ngữ, tình yêu quê hương, bản làng
sẽ giúp họ vượt qua những rào cản về tâm lí, phong tục tập quán, ngôn ngữ cũng
như lớn lên và sinh sống nơi đó sẽ giúp ích nhiều cho họ tìm ra nguồn gốc và ý
nghĩa của một địa danh.
Việc tìm hiểu đúng nguồn gốc và ý nghĩa của một địa danh đồng nghĩa với
việc chúng ta xác định đúng được bản chất của nó. Nhưng công việc này không hề
đơn giản, mà có thể nói là rất khó khăn, phức tạp. Như Bùi Đức Tịnh đã từng nói
ông đã trải qua những lúc bực mình vì gặp những trường hợp hiểu sai hay dịch sai
các địa danh trong sách tham khảo. Và ông còn cho biết thêm vấn đề xác định
nguồn gốc địa danh Nam Bộ rất phức tạp. Và địa danh ở Bến Tre cũng vậy, đối với
địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng thì mặc nhiên đã được mọi người chấp
nhận, tuy nhiên cũng có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và ý nghĩa
của một số địa danh mà cho đến nay vẫn còn đang bị tranh luận. Và trong một
chừng mực cố gắng có thể, người làm luận văn sẽ đưa ra một số nhận định về nguồn
125
gốc và ý nghĩa của địa danh ở Bến Tre và chắc chắn không thể không có những
thiếu sót, rất mong nhận được sự cải chính.
Có những địa danh ở Bến Tre rõ ràng dễ dàng tìm ra được nguồn gốc và ý
nghĩa. Điều này là do Bến Tre là một vùng đất mới, thời gian không quá lâu để
khuất lấp các sự kiện, biến cố có liên quan đến quá trình ra đời của địa danh và sự
tồn tại của nó có ý nghĩa gì. Hơn nữa số địa danh thuần Việt chiếm số lượng lớn
trong địa danh ở Bến Tre, từ ngữ thì bình dị, gọi tên thì theo cảm quan của người
bản ngữ, các sự vật hiện tượng được gọi tên gắn với sinh hoạt hằng ngày của con
người và có ở xung quanh con người, còn những địa danh Hán Việt chúng ta dễ
dàng nhận ra được ý nghĩa gửi gắm trong đó đều có ý nghĩa tốt đẹp, thể hiện nguyện
vọng ước mơ của con người bằng những từ ngữ hoa mĩ. Còn các địa danh gốc khác
thì một số địa danh đã bị Việt hóa theo cách đọc của người Việt nhưng ngữ âm vẫn
còn xa lạ với người Việt. Ngoài ra những địa danh có liên quan đến các sự kiện lịch
sử của dân tộc hay gắn với sự thay đổi về địa giới hành chính của đất nước thì dễ
dàng tìm ra được nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Điều khó khăn và phức tạp nhất để tìm ra nguồn gốc và ý nghĩa chưa rõ ràng
của môt địa danh. Một trong những lí do là do người Nam Bộ và người Bến Tre khi
phát âm không phân biệt âm đầu, âm chính, âm cuối và thanh hỏi, thanh ngã, phát
âm như thế nào thì ghi như thế ấy, dẫn đến nhiều địa danh bị sai lệch và gây ra việc
khó hiểu có khi không hiểu được nghĩa của địa danh.
Một số địa danh còn lưu giữ trên bản đồ, sách vở do in ấn sai, do hiểu sai, ghi
chép sai mà dẫn đến sự hiểu nhầm. Những địa danh có thành tố là từ, ngữ địa
phương, từ ngữ lịch sử hay từ ngữ cổ cũng là một trở ngại lớn khi truy tìm ra căn
nguyên của nó. Đối với địa danh đơn tiết trong tiếng Khơme, khi đã bị Việt hóa
hoàn toàn về mặt ngữ âm thì cũng khó tìm ra nguồn gốc và ý nghĩa của chúng. Hay
đối với một số địa danh đa tiết, ta có thể hiểu một trong những yếu tố cấu thành nó,
nhưng để hiểu hoàn toàn cả địa danh thì cũng không dễ. Có những địa danh được
mang theo trong quá trình di trú của con người và được dùng đặt tên cho vùng đất
mới, nếu là từ ngữ địa phương, từ cổ thì cũng khó hiểu được nguồn gốc và ý nghĩa.
126
Ví dụ như địa danh Hóc Quả ở Bình Đại có người gọi là Hóc Hỏa. Theo địa chí tỉnh
Mỹ Tho giải thích hóc là chổ khúc sông uốn thành vòng cong, còn thành tố quả hay
hỏa chưa rõ được nghĩa và cũng có thể hiểu đó là tên người. Thật ra địa danh Hóc
Hỏa có ở thành phố Hồ Chí Minh. Theo Lê Trung Hoa [1991, tr.67] thì hóc là “rạch
nhỏ”. Ngoài ra thì ở Bến Tre hiện nay một số địa danh vẫn còn đang bị tranh luận
và chưa xác định được nguồn gốc hay ý nghĩa của nó.
Ở đây, chúng tôi giải thích về nguồn gốc và ý nghĩa của một số địa danh thuần
Việt và không thuần Việt tiêu biểu ở Bến Tre.
3.3.6. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng
Ở Bến Tre, địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng tập trung nhiều ở địa
danh chỉ địa hình tự nhiên, địa danh hành chính. Còn địa danh chỉ công trình xây
dựng và địa danh chỉ vùng chủ yếu chuyển hóa từ hai loại địa danh trên.
Đầu tiên là các địa danh được bắt nguồn từ từ nguyên học dân gian, có thể nói
đây là cách giải thích phổ biến thông thường mà người dân bản địa đa phần ai cũng
có thể giải thích ở bất kì lúc nào, bất cứ ở đâu mỗi khi ai đó thắc mắc về nguồn gốc
của một địa danh nào đó. Bởi lẽ đó là cách giải thích “không căn cứ vào quy luật
ngữ âm, sự biến đổi ngữ nghĩa, không chú ý về thành phần ngữ pháp và sự biến đổi
của nó mà chỉ căn cứ vào sự giống nhau ngẫu nhiên về mặt ngữ âm” [Nguyễn Tấn
Anh, tr.139]. Hay nói khác hơn là không cần đến kiến thức ngôn ngữ học để giải
thích mà chỉ chú ý đến hình thức bên ngoài của từ để lý giải hay có khi người ta dựa
vào trực cảm của bản thân để nhận biết sự việc, đôi khi cũng nhầm lí tưởng hóa về
con người và vùng đất nơi mình cư trú. Như địa danh rạch Bà Hét ở huyện Châu
Giang, tỉnh Bến Tre. Tương truyền rằng bà là một nữ tướng tự nguyện ủng hộ nghĩa
quân Tây Sơn trong cuộc chiến chống quân Xiêm. Bà có tài năng là hét lớn khiến
cho quân giặc khiếp sợ. Để nhớ ơn bà, dân địa phương dùng con rạch nơi bà phục
kích đặt tên là rạch Bà Hét. Nhưng kì thực thì ở Bến Tre không có huyện Châu
Giang, vì vậy cách giải thích đó là theo từ nguyên dân gian. Hay địa danh cù lao
Cái Cấm ở Mỏ Cày có tên Hán là cù lao Thanh Sơn có nghĩa là “trông như non
xanh chống trời” [Gia Định thành thông chí, tr.63]. Nhưng khi giải thích theo từ
127
nguyên dân gian thì tục danh Cái Cấm ra đời là do nơi đây ngày xưa có rất nhiều cá
sấu, nhiều người người qua đây bị sấu đớp mất, cho nên làng mới lập ra qui ước khi
qua lại nơi này phải chờ đến năm ba người họp lại thành toán mới đi qua, cấm đi lẻ
một mình. Cách giải thich của từ nguyên dân gian có vẻ hợp lý.
Dễ dàng nhận thấy nguồn gốc, ý nghĩa ở các địa danh gắn với những sự kiện
lịch sử như kênh Phụ Nữ: vì con kênh này được đào là do công của phụ nữ ở hai
huyện là Mỏ Cày và Thạnh Phú nhằm để khai thông con đường thủy nội địa ở cù
lao Minh (không đi bằng con sông lớn Hàm Luông và sông Cổ Chiên, nhằm tránh
sự kiểm soát của địch), con kênh được khởi công từ tháng 12 năm 1947 và hoàn
thành vào ngày Quốc tế phụ nữ 8-3-1948, nối từ vàm Đồn ở xã Hương Mỹ huyện
Mỏ Cày qua các xã Đại Điền, Phú Khánh, Quới Điền của huyện Thạnh Phú đến
sông Băng Cung.
Để ghi nhớ công ơn của chị em phụ nữ hai huyện, Ủy ban kháng chiến hành
chính tỉnh Bến Tre lấy từ Phụ Nữ đặt tên cho con kênh này. Con kênh được đặt theo
lứa tuổi của người có công.
Một điều đáng lưu ý là ở địa danh của Bến Tre, quê hương của phong trào
Đồng khởi, quê hương của đội quân tóc dài kiên cường bất khuất trung hậu đảm
đang đã đi vào lịch sử, bên cạnh những câu chuyện về thành tích của các “ông” gắn
với những chiến công được dùng để đặt tên cho địa danh, thì các bà, những phụ nữ
giỏi giang trong công cuộc khai hoang, lập làng, chợ búa đã được khắc họa trong kí
ức của nhân dân. Ngày nay trên quê hương Bến Tre ở các xã ở Bình Đại, Thạnh
Phú, Ba Tri địa danh mang tên “bà” chiếm nhiều: rạch Bà Khoai, rạch Bà Thầy
Vân, rạch Bà Tư Rựa, rạch Bà Tam, rạch Bà Hiền…, hàng chục cái giồng tương
đương diện tích của một xóm, một ấp mang tên “bà” tập trung ở huyện Giồng Trôm
và Ba Tri: giồng Bà Nhiên, giồng Bà Khoai, giồng Bà Trường, giồng Bà Tang,
giồng Bà Thủ, giồng Bà Trương…Ngoài ra còn có nhiều cầu, chợ mang tên “bà”.
Như trên đã nói, ở Bến Tre có rất nhiều địa danh tự nhiên mang thành tố “bà”
nhưng địa danh mang kì tích anh hùng đáng quý là địa danh cồn Bà Tư. Cồn này lúc
đầu có tên là cồn Trẹt (nơi tập trung những chiếc trẹt mà ngư dân kéo lên khỏi nước
128
để tránh dập hỏng mỗi khi họ về bến, theo Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh
Của giải thích thì trẹt là loại ghe trãng lòng mà ngư dân ven biển dùng để khai thác
hải sản ven bờ) ở xã Thới Thuận huyện Bình Đại, ở nơi đây có bà tên làVõ Thị Phò
thường được gọi là Bà Tư. Ở cồn này, giặc Mỹ đã bao lần khủng bố, càn quét mà bà
kiên quyết bám trụ lấy cồn, vừa sản xuất vừa nuôi giấu cán bộ, tiếp tế cho trại
thương binh và bà còn dùng ngọn đèn dầu cháy sáng của mình để làm tín hiệu cho
du kích, cán bộ cách mạng về tình hình đường sá an toàn hay có địch để mà đi về.
Và để ghi ơn công lao to lớn của bà cái tên cồn Trẹt bị thay thế bằng cồn Bà Tư,
ngày nay họa hoằn lắm người ta mới nói là cồn Trẹt.
Còn địa danh Mỏ Cày gắn với tên huyện được giải thích theo từ nguyên học
dân gian thì hồi lưu dân người Việt đến lập nghiệp, đất đai còn rộng rãi nhưng hiểm
trở, hoang vu. Khắp nơi là rừng rậm, dày rịt với nhiều thú dữ rắn rết, chim muông.
Trong các loài thú dữ người ta sợ nhất là cọp, vì chúng bắt người ăn thịt. Buổi đầu
đến khai hoang, những lưu dân này làm năm ba nhà ở thành một cụm để nương tựa
vào nhau. Lâu lâu cọp vào bắt heo, bắt gà đôi khi còn bắt cả người. Dân làng bảo
nhau lấy tre vuốt nhọn rào làng. Từ đó cọp không dám vào làng nữa nhưng khi dân
làng đi làm ruộng rẫy, vào rừng thì hay bị chúng làm hại.
Một hôm có một chàng trai đi cày, mang theo cái mõ tre. Buổi chiều sau khi
cày xong, anh thả trâu cho ăn cỏ rồi dùng mõ đánh gọi trâu về, không ngờ có con
cọp đang rình không rõ bắt người hay trâu, nghe tiếng mõ, cọp cong đuôi chạy vô
rừng, những con cọp khác thấy con cọp này chạy cũng co cẳng chạy theo. Những
người dân đi chặt củi, nghe tiếng mõ thấy cọp chạy tán toạn, nắp kín xem xảy ra
chuyện gì và họ nhận ra rằng cọp sợ tiếng mõ. Từ đó dân làng khi đi cày thường
mang theo mõ gõ để đuổi cọp. Về sau khi dân cư đông đúc hơn họ gọi vùng này là
vùng Mõ Cày. Mõ Cày nhưng người Nam Bộ và người Bến Tre phát âm không
phân biệt dấu hỏi, dấu ngã, lâu ngày nói chệch thành Mỏ Cày. Và người dân còn
cho rằng đất Bến Tre xưa kia hoang vu, nhiều thú dữ nên cách giải thích này là hợp
lí. Tuy nhiên cách giải thích theo từ nguyên học dân gian chỉ phù hợp với suy nghĩ
129
cảm tính, dự đoán của người bình dân và bằng chứng đưa ra chưa đủ sức thuyết
phục.
Ngoài ra vùng này còn lưu hành một lời kể nữa cho rằng địa danh Mỏ Cày là
địa danh xuất hiện do cách gọi chệch của người người Pháp khi họ tới đây. Vì là ở
trong vùng có mấy ngôi mộ cổ, người Pháp gọi là mộ cai, dần dà gọi chệch là Mỏ
Cày. Cách giải thích này mang tính khập khiểng vì chỉ dựa vào mấy ngôi mộ cổ mà
người Pháp đọc là mộ cai và sau đó đọc chệch là mỏ cày để đặt tên cho một vùng
đất là không hợp lí và Mỏ Cày là địa danh hoàn toàn thuần Việt, và nghĩa của nó
không có quan hệ gì với nghĩa mô cai cả.
Bùi Đức Tịnh cũng chấp nhận địa danh Mõ Cày là đúng.Tác giả không giải
thích một cách trực tiếp mà điểm qua như vầy: “Trường hợp của con sông mà các tư
liệu chữ Hán gọi là “Lê Đầu Giang” ở tỉnh Bến Tre. Chữ Hán “lê” có nghĩa là đi
cày, cái cày và người nghiên cứu phải biết rõ vùng Mõ Cày mới thấy ra rằng “Lê
Đầu Giang” phải dịch là Sông Mõ Cày”[1999, tr.80].
Theo Lê Trung Hoa (1988), thì thực ra mỏ cày vốn là một từ của tiếng Việt
dùng để gọi tên một bộ phận của cái cày, từ tay nắm đến lưỡi cày. Mỏ cày có hình
cong gần giống như hình chữ Z, nên những vẫn có hình dáng tương tự thì gọi là mỏ
cày như sao Mỏ Cày. Cũng vậy, đoạn đường quốc lộ 1A phía Bắc thị trấn huyện
Mộ Đức tỉnh Quãng Ngãi địa hình có hình cong như cái mỏ cày nên gọi vùng này là
Mỏ Cày.[tr.46 - 49].
Qua việc khảo sát trên bản đồ, và cách giải thích của Lê Trung Hoa, chúng tôi
nhận thấy địa hình ở Bến Tre có đặc điểm như sau: sông Hàm Luông chảy đến làng
Đa Phước Hội thì chia làm ba nhánh: một nhánh chảy vào kinh Thom, một nhánh
chảy vào rạch cầu Ông Bồng, một nhánh chảy vào kênh Ông Huyện. Nơi giáp hai
nhánh sông tạo thành một một khu đất hình cong trông như hình cái mỏ cày. Và địa
danh này đặt tên dựa vào hình dáng của sự vật. Từ tên một vùng đất sau này trở
thành tên huyện, huyện Mỏ Cày.
130
Hiện nay, người dân vẫn đọc và viết nhầm lẫn Mỏ Cày thành Mõ Cày. Do
người Nam Bộ phát âm và viết không phân biệt giữa dấu hỏi và dấu ngã, cho nên
trong các sách, báo, bản hiệu và ở bến xe miền Tây, các xe vẫn còn ghi là Mõ Cày.
Ngoài ra những địa danh chỉ địa hình tự nhiên thông thường chủ thể khi đặt địa
danh dựa vào những vật thể có ở đó hay tính chất, hình dáng của chúng để gọi, điều
đó chúng ta dễ dàng nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa của chúng như giồng Trôm,
gò Trụi (BaT), bàu Dơi (GT), giồng Miễu (TP) cồn Tàu (BĐ)…Hay những địa danh
gọi theo nghề nghiệp của con người, làng nghề của một vùng nào đó thì rất dễ nhận
biết về nguồn gốc và ý nghĩa. Ví dụ như xóm Cối (MC), xóm Muối (BaT),giồng
Gạch (BaT), làng nghề hoa kiểng Cái Mơn (Chợ Lách)…
Ngoài ra ở Bến Tre còn có một số địa danh khác như địa danh gốc Hán, địa
danh gốc Chăm, địa danh gốc Pháp nhưng chiếm số lượng không đáng kể. Ở đây
chúng tôi có tìm hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh gốc Khơme vì nó chiếm
một số lượng không ít trong địa danh ở Bến Tre và hơn nữa trong quá trình tạo địa
danh các chủ thể có khi mượn nguyên gốc của tiếng Khơme và Việt hóa theo cách
đọc của người Việt có khi kết hợp giữa yếu tố Việt và yếu tố Khơme để tạo địa
danh và điều này tạo nên sự phong phú cho địa danh ở đây.
Về địa danh có nguồn gốc Khơme Nam Bộ đã được Trương Vĩnh Ký sưu tầm,
tập hợp hơn hai trăm địa danh đã được L. Malleret chép lại trong cuốn Le Cisbassac
và Lê Hương cũng đã cho in trong Người Việt gốc Miên năm 1969. Những địa danh
mà Trương Vĩnh Ký sưu tầm có thể chia làm năm nhóm:
1. Nhóm không có liên hệ gì về ngữ âm và ngữ nghĩa giữa các địa danh, trong
nhóm này thì ngoài địa danh gốc Khơme còn có địa danh bằng tiếng Khơme tương
ứng, hay có một yếu tố gốc Khơme nhưng có cấu tạo theo kiểu của địa danh Việt :
Ví dụ như Tây Ninh: Srok Rôn Damrey (xứ chuồng voi).
2. Nhóm không có quan hệ về ngữ âm và ngữ nghĩa, loại này có thể do người
sưu tầm chưa đúng về nguồn gốc, hoặc do chúng ta chưa xác định đúng ý nghĩa của
các yếu tố trong địa danh gốc : Ví dụ như: Cái Nhút: Srôk Krobei Khliec (xứ trâu
cò- trắng).
131
3. Nhóm bao gồm những địa danh có một vài yếu tố có quan hệ về ngữ nghĩa
so với địa danh gốc, nhóm này có thể do người Việt dịch tiếng Khơme ra tiếng Việt
và ngược lại cũng có khi người Việt và người Khơme đặt địa danh theo nhận thức
của mỗi dân tộc về cùng một đối tượng. Ví dụ: vùng Cái Cối: Srôk Prêk Thbal (xứ,
rạch, cái cối).
4. Nhóm gồm những địa danh có một vài yếu tố có quan hệ về mặt ngữ âm
với tiếng Khơme trong địa danh gốc. Ví dụ như cù lao Nga: Koh Phna (cù lao,?).
5. Nhóm địa danh có quan hệ cả về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa: vùng Vũng
Thơm: Kompon Thom (vũng, lớn).
Nhìn chung những địa danh gốc Khơme mà Trương Vĩnh Ký sưu tầm được là
một tài liệu quý giúp chúng ta tham khảo, nghiên cứu về nguồn gốc các địa danh
của dân tộc này.
Sau đây là một số địa danh có nguồn gốc Khơme ở Bến Tre.
- Địa danh Cái Mơn (CL): Như đã trình bày ở chương 2 trong thành tố chung
thì thành tố cái không có nguồn gốc từ tiếng Khơme vì không có từ hay từ tổ nào có
âm gần giống như thế mà có nghĩa chỉ con rạch. Như vậy cái là một từ Việt cổ chỉ
nhánh sông hay con rạch, nó ít khi được dùng độc lập và nó kết hợp với một yếu tố
mơn để tạo ra địa danh Cái Mơn. Theo Từ điển tiếng Việt thì yếu tố mơn có bốn
nghĩa nhưng cả bốn nghĩa này đều không có nghĩa nào kết hợp thích hợp với thành
tố cái để cấu tạo nên địa danh này. Như vậy yếu tố mơn trong địa danh Cái Mơn có
nguồn gốc như sau:
Cái Mơn ngoài việc nổi tiếng về lắp ghép cây kiểng và sản xuất cây ăn trái, thì
nơi đây có nhà thờ Thiên chúa rất lâu đời (1872) của họ đạo Cái Mơn. Theo một
linh mục phụ trách lâu năm ở họ đạo Cái Mơn thì mơn là do nói trại âm của tiếng
Khơme Khmum mà thành (khmum có nghĩa là mật ong) và xưa kia ở con rạch này
có nhiều tổ mật ong.Theo thiển ý của chúng tôi thì phụ âm đầu “kh” là âm xát và
khi phát âm nó dễ bị rơi rụng theo lối đọc của người Việt. Xét về chuyển biến ngữ
âm thì nguyên âm cùng dòng giữa “u” thường đi đôi với “ơ”. Ví như: khù- khờ, lu-
lơ, mù- mờ…
132
Như vậy Cái Mơn là một địa danh ghép lai, một phần là bản ngữ một phần là
ngoại lai và có cấu tạo gọi theo tên vật thể có ở đó.
- Địa danh Sóc Sãi ở Châu Thành có người ghi là Sốc Sãi như trong Địa dư
tỉnh Bến Tre của Bùi Văn Xuân (1930), còn bản đồ tin tức của Mỹ ghi về địa danh
tỉnh Vĩnh Long có khi ghi là Sóc như: sóc Cỏ Sang, sóc Chuối, sóc Xoài, có lúc ghi
là Sốc như: ấp Sốc Côn, ấp Sốc Khương.
Nguyễn Phương Thảo cũng ghi là Sốc Sãi và cho rằng “sốc là một thành tố
độc lập của tiếng Việt cổ mà cho đến nay chưa khôi phục được ý nghĩa” [1985,
tr.65].
Theo chúng tôi thì địa danh Sóc Sãi được cấu tạo ghép bằng một yếu tố
Khơme và một yếu tố Việt. Trong đó yếu tố sóc là do từ Khơme Srốk mà thành (có
nghĩa là xứ, làng, xã) còn sãi là sư sãi người Khơme ở (người đàn ông giữ chùa hay
sư ông). Như vậy địa danh này có nghĩa là xứ có nhiều ông sãi. Và thực tế nơi đây
xưa kia có chùa người Khơme ở đó.
Sóc Sãi trước đây là một quận của tỉnh Bến Tre trước Cách Mạng tháng 8-
1945, sau CMT8- 1945 lập thành huyện Sóc Sãi. Ngoài ra Sóc Sãi hạ còn là tục
danh của sông Tiên Thủy ngày nay “sông Tiên Thủy (tục danh là Sốc Sãi hạ) ở về
hướng đông sông Hàm Luông…Ngoài vàm sông có nhiều cá sấu lớn bằng chiếc
ghe.” [Duy Minh Thị, 1944, tr.62-63].
- Địa danh chỉ công trình xây dựng được chuyển hóa từ địa danh tự nhiên
chiếm khá nhiều ở địa danh của Bến Tre như sông Mỏ Cày, chợ Mỏ Cày, cầu Mỏ
Cày; rạch Miễu, phà Rạch Miễu, cầu Rạch Miễu. Các địa danh rạch Miễu, phà Rạch
Miễu, cầu Rạch Miễu hiện nay thuộc xã Tân Thạch huyện Châu Thành. Về nguồn
gốc thì nguyên xưa, nơi đầu con rạch đổ ra sông Tiền có một ngôi miễu bà, nên dân
địa phương gọi là rạch Miễu. Đây là một địa danh một yếu tố là gốc Khơme và một
yếu tố là gốc Việt. Trong đó yếu tố rạch bắt nguồn từ tiếng Khơme prêk mà thành
(dòng nước tự nhiên nhỏ hơn sông). Đến đầu thế kỉ XX, nhằm đáp ứng nhu cầu
thông thương cho người dân, bến phà được xây dựng và lấy tên là phà Rạch Miễu
và số ít người dân ở đây gọi phà Rạch Miễu thêm một cái tên gắn với tên xã là phà
133
Tân Thạch. Đến năm 2009, cầu Rạch Miễu hoàn thành nối liền hai tỉnh Bến Tre -
Tiền Giang và các tỉnh lân cận, tạo cho Bến Tre một diện mạo mới trong phát triển
kinh tế và hội nhập.
- Hay địa danh được chọn đặt có nguyên gốc là tiếng Khơme như ở Ba Tri có
một ấp tên là Lâm Vồ thuộc xã An Bình Tây. Xưa kia ở đây có cây lâm vồ và người
dân dùng tên cây để gọi cho tên ấp. Mà lâm vồ có nguồn gốc từ tiếng Khơme đọc là
đờ pô có nghĩa là cây bồ đề. Xét về mặt ngữ âm thì đờ pô và lâm vồ có quan hệ với
nhau. Như vậy địa danh này được đặt theo mối quan hệ về mặt ngữ âm và ý nghĩa.
Hiện nay cây ở đây không còn nữa nhưng địa danh vẫn còn.
Nhìn chung những địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng chủ yếu có cấu
tạo đơn giản, dễ nhận thấy đó là những địa danh bắt nguồn từ từ nguyên học dân
gian hay những địa danh ra đời bắt nguồn từ lịch sử, đặt địa danh dựa vào hình
dáng, tính chất của sự vật. Còn những địa danh có nguồn gốc nửa Việt nửa Khơme
do tính chất cấu tạo “lạ lẫm” của nó so với địa danh thuần Việt nên cũng dễ xác
định được nguồn gốc và ý nghĩa của nó vẫn còn gần gũi với ý nghĩa ngôn ngữ tiếng
Việt hiện đại, với những địa danh nguyên gốc Khơme thì khi chủ thể đặt địa danh
thường dựa vào mối quan hệ gần gũi về mặt ngữ âm hay ngữ nghĩa với địa danh
thuần Việt để gọi tên cho đối tượng và đó là cơ sở để chúng ta xác nhận.
3.3.7. Địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa còn tranh luận
Bên cạnh các địa danh có nguồn gốc và ý nghĩa rõ ràng thì ở Bến Tre hiện nay
vẫn còn nhiều ý kiến giải thích khác nhau xoay quanh một địa danh, hay một số địa
danh vẫn chưa xác định được nguồn gốc và ý nghĩa. Biến đổi, biến động, sự chuyển
biến của địa danh là những nguyên nhân dẫn đến việc khó xác định được nguồn gốc
và ý nghĩa của nó. Bên cạnh những nguyên nhân về mặt xã hội như chiến tranh,
thiên tai, di dân, lịch sử, tâm lý, văn hóa...thì những địa danh mà sử dụng các từ ngữ
địa phương, từ ngữ cổ, từ ngữ của các tộc người khác nhau…thì cũng không dễ truy
nguyên nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh. Muốn có những cứ liệu mang tính hệ
thống để xác định chính xác nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh không phải là công
việc một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có thời gian và công sức. Ở đây chúng tôi
134
không phản bác những ý kiến khác nhau của các tác giả khi lí giải về nguồn gốc và
ý nghĩa của địa danh ở Bến Tre, mà trên cơ sở đó sẽ đưa ra nhận định, đánh giá
chung để góp phần làm sáng rõ những địa danh đang còn tranh luận.
a. Địa danh Bến Tre
Nguyễn Văn Âu nhận xét về địa danh ở Bến Tre như sau: “Tuy là vùng đất
mới, song địa danh ở đây không phải là đơn giản” [2000, tr.142]. Điều này được
thấy rõ hơn qua việc có nhiều ý kiến rất khác nhau khi giải thích về địa danh Bến
Tre.
Trong “Địa chí Bến Tre” có ghi địa danh Bến Tre có cấu tạo: địa thế tự nhiên
+ tên loại thảo mộc. Với hai cách hiểu:
1- Nơi có nhiều tre mọc như Sóc Tre, Bến Giá; 2- Nơi buôn bán tre nứa từ
phía thượng nguồn xuôi về như Bến Tranh, Bến Súc. Và khẳng định Bến Tre là từ
thuần Việt. Và ở thời Ngô Đình Diệm Bến Tre đổi thành Trúc Giang (sông tre).
Thực ra từ thời Minh Mạng Bến Tre đã được Hán hóa là Trúc Giang.
Tương tự, Nguyễn Phương Thảo cũng cho rằng danh từ riêng Bến Tre cần phải
đặt trong hệ thống các địa danh theo mẫu: bến+x ở Bến Tre như bến Rớ, bến Miễu,
bến Chùa, bến Giá, bến Cát…xóm Bến Trại, rạch Bến Xe và cho rằng chúng được
đặt theo một kiểu tư duy chung” [1985,tr. 64].
Theo Đinh Xuân Vịnh trong Sổ tay địa danh Việt Nam (1996) thì từ Bến Tre
xuất phát từ gốc Khơme Srok Tre với nghĩa là Sóc Tre hay Bến Tre.
Mở đầu quyển khảo cứu “Monographie de la province de Bến Tre” của
Imp.L.Ménard năm 1903 có ghi “Bến Tre était autrefois occupé par les Cambdgiens
qui l’appelèrent Sốc Tre (pays des bambous), à cause de nombreux giồng couverts
de bambous dont le pays était parsemé. Plus tard, les Annamites fondèrent un
marché qu’ils appelèrent BếnTre (débarcadère en bambous). Le rạch qui passe
devant le marché et va se perdre dans le Hàm Luông, porte le même nom”.
Tạm dịch: Bến Tre ngày xưa người Khơme chiếm trước và gọi là Sốc Tre …vì
trong xứ trên các giồng có tre mọc đầy. Sau đó người An Nam lập chợ buôn bán và
135
gọi chợ Bến Tre, tức bờ sông hay bến bằng tre. Con rạch chảy ngang chợ này trổ
nước xuống cửa Hàm Luông cũng mang tên rạch Bến Tre y như vậy.
Trái ngược với các ý kiến trên, tác giả Vương Hồng Sển cho rằng Bến Tre là
do hiểu sai từ tiếng Khơme Srok kompong Trey hay Srok kompong Treay mà trey
hay treay có nghĩa là cá (Ví dụ như là trey kinh thor: cá sặt lớn hay cá dù tho). Theo
tác giả như vậy thì Sork kompong trey hay Sork kompong treay sẽ có nghĩa là Bến
Cá và khi Hán hóa thì sẽ là Ngư Tân chứ không phải là Trúc Giang [1993, tr.151].
Để minh chứng cho điều này, tác giả còn nói thêm ở Bến Tre còn nhiều địa
danh liên quan đến cá như: cầu Cá Lóc, cầu Cá Trê, Cái Bông (loại cá lóc lớn con
hơn và mình có hoa)…Và theo điển tích, Bến Tre vốn là xứ sinh sản và sản xuất cá,
tôm cho nên từ xưa Khơme gọi là Srok Treay (sốc tre), nhưng sau này người
Khơme gọi theo người Việt là bến có nhiều tre. Và để phân biệt với Cần Thơ cũng
có nhiều tre mà người Khơme gọi là rusei: prêk Rusei (sông tre) để gọi Cần Thơ và
prêk Kompong Rusei (sông vũng tre để gọi Bến Tre) [tr.151].
Cùng ý kiến với Vương Hồng Sển, tác giả Lã Xuân Thọ trong Đồng Nai văn
tập, số 13, cũng đã cho rằng không thể có sự nhầm lẫn như vậy được. Như vậy theo
quan niệm này thì Sork Kompong Trey sẽ là Xứ Cá, Bến Cá [Nguyễn Văn Âu,
2000, tr.142].
Còn nhận định của Nguyễn Duy Oanh về địa danh Bến Tre thì nội dung hầu
như bao gồm tất cả các ý kiến được nêu ở trên. Có hai thuyết mà tác giả đưa ra:
Thứ nhất: Bến Tre trước kia là sốc của người Miên có tên là Sốc Tre (Srok
Trey hay Sork Treay). Trey có nghĩa là cá như: Trey Prek -cá sông; Trey Sramot- cá
biển; Trey Damrey- cá voi…Có lẽ xứ này trước kia có nhiều cá nên hiện giờ còn
nhiều con rạch mang tên rạch Cá Lóc, rạch Cá Trê, rạch Ba Tri Cá…Điều đó còn
minh chứng qua nhiều câu ca dao sau đây:
Sông Bến Tre nhiều hang cá ngát
Đường Ba Vát gió mát tận xương
Anh có thương em thì nối sợi chỉ hường
Chớ bán rao cho lắm, hãy chừa đường xuống lên.
136
Hoặc
Ba phen quạ nói với diều
Ngã ba Bến Rớ có nhiều cá tôm
Hoặc
Chợ Ba Tri thiếu gì cá biển
Anh thương nàng anh nguyện về đây
Thứ hai: có thuyết cho rằng Sốc Tre là vùng có nhiều tre. Vùng này có nhiều
giồng mà trên đó tre mọc um tùm. Tác giả cho rằng theo thuyết trên chính vì Sốc
Tre có nhiều tre nên ghe thuyền ghé bến này chở tre, mà ra danh từ Bến Tre. Tác
giả còn nói thêm rằng Bến Tre là do những chữ “bến thuế của sốc tre “thu ngắn lại
[1971, tr.16-17].
Bùi Đức Tịnh thì cũng không chấp nhận ý kiến là ngày xưa ở bến sông có tre
mọc nhiều hoặc có sự buôn bán tre phát triển ở vùng đất Bến Tre vì ngày nay không
để lại dấu vết gì để chứng tỏ. Theo tác giả thì về phương diện ngôn ngữ “tre” là một
hình thức Việt hóa của từ Khơme “trây” có nghĩa là cá, và tác giả còn nói thêm là
thực tế chợ Bến Tre từ trước đến nay bán khá nhiều cá, vừa cá biển vừa cá đồng và
gần chợ có cây cầu mang tên cầu Cá Lóc [tr.60].
Theo cách giải thích của những người dân sống nơi đây thì Bến Tre là bến có
nhiều tre mọc.
Như vậy có hai luồng ý kiến khác nhau trong việc nhận định về nguồn gốc và
ý nghĩa của địa danh Bến Tre, một bên cho rằng địa danh này được cấu thành theo
địa thế tự nhiên+ tên loài cây có nhiều ở đó. Kiểu này thì địa danh Bến Tre là từ
thuần Việt. Ý kiến thứ hai thì lại ngược lại, địa danh Bến Tre có nguồn gốc Khơme:
Sork Kompong Trey/Treay (nghĩa là: xứ bến cá).
Mỗi cách lí giải của các tác giả đều đưa ra những bằng chứng để thuyết phục,
nhưng chung qui cũng còn rất mơ hồ, biết rằng trước khi lưu dân từ miền Trung vào
đất Bến Tre lập nghiệp thì đã có người Khơme sinh sống trước ở đó: “Trước khi
Nam Kỳ trở thành một bộ phận của Việt Nam, người Việt đã lập ở đó những tổ
chức. Những nhóm người di cư đã xây dựng làng xóm, hay tới ở chung với người
137
Cao Miên” [Địa chí Bến Tre, tr.284], nhưng chỉ dựa vào những địa danh còn lưu lại
ở đây là xứ có nhiều cá, tôm để thuyết phục thì chưa đủ hợp lí vì hầu như ở các tỉnh
miền tây Nam Bộ, xứ nào cũng nhiều tôm, cá, mặc dù tiếng Khơme Sork Kompong
Trey có âm gần với tiếng Sốc Tre. Còn những ý kiến mà cho rằng ở vùng đất cù lao
này xưa kia có nhiều tre mọc nên gọi là Bến Tre thì đã được Châu Đạt Quan (một
xứ thần của nhà Nguyên bên Trung Quốc) trong chuyến đi sứ sang kinh đô Angkor
của nước Chân Lạp vào năm 1296 bằng đường thủy qua ngõ sông Cửu Long, đã
miêu tả vùng đất Nam Bộ trong đó có Bến Tre như sau: “Những cửa rộng của dòng
sông lớn chảy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây
mây dài tạo thành nhiều chổ trú sum sê. Khắp nơi vang tiếng chim hót và tiếng thú
kêu. Vào nửa trong cửa sông, người ta mới thấy những cánh đồng hoang không có
một gốc cây nào. Xa nửa tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng
nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài
hàng trăm dặm” [Địa chí Bến Tre, tr.24 -25].
Như vậy có thể nói địa danh Bến Tre được cấu thành theo cách gọi tên của loài
cây mọc có nhiều ở đó. Và kiểu cấu tạo này xuất hiện nhiều trong địa danh ở đây
như Bến Tranh, Bến Chanh, Bến Xoài.... Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khách
quan hay chủ quan mà vùng đất này không còn những con đường dốc đầy tre chạy
dài hàng trăm dặm nữa mà thay vào đó là những hàng dừa bạt ngàn xanh mát, sum
sê trĩu quả.
Tuy nhiên việc xác định đúng, chính xác, thuyết phục địa danh Bến Tre thì
không dễ dàng gì, vì cho đến nay các nhà nghiên cứu cũng còn đang bỏ ngỏ chưa đi
đến kết luận cuối cùng. Cho nên tác giả Nguyễn Văn Âu trong quá trình tìm hiểu
địa danh này, ở cuối bài đã nói: “Cho tới nay địa danh Bến Tre vẫn cần được tiếp
tục nghiên cứu để vấn đề được sáng tỏ hơn vì đây là một vùng đất nông nghiệp trù
phú với một truyền thống đấu tranh kiên cường trong lịch sử dân tộc…” [2000,
tr.142). Còn Bùi Đức Tịnh thì: “Về địa danh Bến Tre, không nên chỉ hiểu theo lối
đơn giản mà bỏ mất khả năng tìm một từ nguyên có thể thích hợp với điều kiện lịch
sử và thực tế hơn” [ tr. 60].
138
b. Địa danh Ba Vát
Ba Vát vào cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX là một trung tâm kinh tế, chính
trị sầm uất của vùng đất cù lao. Điều đó Trịnh Hoài Đức khi viết về chợ Ba Vát (lúc
đó có tên là Ba Việt vì khi phiên âm Hán Việt chữ Hán không có từ Vát nên phải
phiên thế bằng từ Việt) như sau: “Chợ này ở bờ phía đông con rạch, có phố xá liền
lạc, ghe thuyền đậu tiếp tục” [Địa chí Bến Tre, tr.576]. Huyện lỵ Tân An (bao gồm
cù lao Bảo và cù lao Minh) từng đặt ở đây vào thế kỉ XIX. Sau khi Pháp xâm lược,
Ba Vát không còn là vùng trung tâm của đất cù lao và chợ cũng không còn phồn
thịnh như trước.
Địa danh Ba Vát cho đến nay vẫn tồn tại hai cách giải thích:
Theo giải thích của từ nguyên dân gian thì tương truyền rằng nghĩa quân Tây
Sơn đã đánh thắng quân nhà Nguyễn ba lần ở đây và ba lần hay ba bận còn được
hiểu là ba giác. Và do người Nam Bộ phát âm không phân biệt được “d, gi, v” và
nên Ba Vát là do ba giác mà thành.
Đồng ý với cách giải thích của từ nguyên dân gian có tác giả Nguyễn Phươmg
Thảo: “Theo chúng tôi, Ba Vát hay Ba Giác chỉ là từ nguyên học dân gian, một từ
Việt cổ” [1985, tr.65].
Địa chí Bến Tre thì cho rằng Ba Vát là địa danh gốc Khơme và Ba Vát là do
Pears Watt (có nghĩa là chùa Phật) của tiếng Khơme mà ra.
Trong Tự vị tiếng Việt miền Nam, Vương Hồng Sển không đồng ý với cách
giải thích Ba Vát có nguồn gốc từ tiếng Khơme Pears Watt. Tác giả nói rằng
“Phương pháp viết sử không được nói mà không dẫn điển”. Theo tác giả Ba Vát rất
gần chữ Pos vêk (nghĩa là rắn hổ) nhưng tác giả không giải thích gì hơn. Ngoài ra,
tác giả còn lưu ý, chữ viết ghi là Ba Việt nhưng khi đọc là Ba Vát, điều này chỉ có
dân bản xứ mới hiểu [tr.53].
Cách giải thích về địa danh Ba Vát của tác giả Vương Hồng Sển không dựa
trên một cơ sở nào, vì vậy không đủ sức để thuyết phục.
Không giải thích một cách trực tiếp về địa danh Ba Vát, nhưng khi nhắc đến
địa danh này, tác giả Nguyễn Duy Oanh cũng nhận định như “Địa chí Bến Tre”, tác
139
giả cho rằng “Ba Vát có nghĩa là chùa phật, do tiếng Cao Miên Pears Watt. Hồi còn
của Cao Miên, nghĩa là trước năm 1757, họ cất nhiều chùa ở đây. Ở Mỏ Cày còn
chùa Trà Nồng, di tích của người Miên” [1971, tr.208].
Thật ra cách giải thích của địa chí Bến Tre và của tác giả Nguyễn Duy Oanh là
hợp lí, bởi vì tính theo thời gian thì đến năm 1777 thì mới diễn ra trận đánh giữa
quân Tây Sơn và chúa Nguyễn so với mốc thời gian người Khơme xây chùa thì trễ
đến 20 năm. Một khoảng thời gian đủ để cho địa danh ra đời. Vả lại xét về mặt ngữ
âm thì phụ âm đầu [p] có thể chuyển thành [b], ví dụ: phòng- buồng, phán- bán, bộ-
pho…, [w] có thể chuyển thành [v], còn xét về mặt ngữ nghĩa thì Pears Watt có
nghĩa là chùa phật và theo Nguyễn Duy Oanh cho biết thì xưa kia người Khơme xây
cất rất nhiều chùa ở đó và thực ra hiện nay ở Ba Vát có chùa Linh Quang tự còn thờ
một đầu Phật cổ của người Khơme và thực tế ở Mỏ Cày hiện nay còn để lại di tích
của người Khơme là chùa Trà Nồng ở ấp An Vĩnh.
Địa danh Ba Vát, ngày xưa, trong sách vở ghi là Ba Việt “Ở ngay bờ sông, có
chợ Ba Việt, nhà cửa trù mật” [Gia Định thành thông chí, tr.199], nhưng khi nói thì
phát âm là Ba Vát và cho đến nay nói và viết người ta đều dùng Ba Vát. Điều này
cũng dễ nhận thấy đó là do khi phát âm có sự biến đổi âm chính cùng vị trí [iê][a]
như (đầm Liệt Địa- đầm Lạc Địa ở Ba Tri, niết bàn –nát bàn, miệt thị- mạt thị…),
còn thanh điệu nặng biến đổi thành thanh điệu sắt là do hiện tượng đồng hóa. Tương
tự như: nước miệng- nước miếng; bén ngọt- bén ngót; mê mệt- mê mết, lông mí-
lông mi…Ngoài ra địa danh Ba Vát có người đọc là Ba Vạt hay Ba Vác. Có cách
phát âm đó là do người Nam Bộ cũng không phân biệt được phụ âm cuối [t] và [c].
Vì vậy Ba Vát và Ba Việt hoàn toàn có thể chuyển đổi cho nhau.
c. Địa danh Ba Tri
Theo từ nguyên dân gian giải thích, ở Ba Tri, xưa kia lưu dân người Việt đến
vùng đất này sớm nhất để khai hoang lập nghiệp. Ngoài nghề trồng lúa, đánh bắt
thủy hải sản, có một bộ phận lưu dân từ miền Trung chuyên làm nghề dệt vải, ươm
tơ và dệt lụa, sinh sống của họ là bằng nghề này. Nghề ươm tơ, dệt lụa của Ba Tri
phát triển mạnh vào thập niên đầu thế kỉ XX. Lụa, vải Ba Tri rất đẹp, được nhuộm
140
đen bằng trái mặc nưa, khi đưa lên nhìn thì thấy có dợn sóng. Theo dân gian giải
thích thì trong địa danh Ba Tri, thành tố “ba” có nghĩa là sóng, “tri” là lụa đen. Ba
Tri là thứ lụa đen có dợn sóng. Và lụa Ba Tri đã đi vào ca dao tồn tại bên cạnh các
sản vật khác của Bến Tre:
Quýt đường, vú sữa ngổn ngang
Dừa xang Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri.
Hiện nay, ở Ba Tri vẫn còn lưu lại địa danh giồng Bông, chợ Cái Bông liên
quan đến nghề nuôi tằm, dệt vải.
Trong việc tìm hiểu thành tố “ba”, tác giả Nguyễn Phương Thảo cho rằng lâu
nay có nhiều cách lí giải địa danh Ba Tri: thứ nhất, Ba Tri có nghĩa là sóng lụa (như
cách giải thích của từ nguyên dân gian); thứ hai, là ông già thứ ba tên Tri; thứ ba,
để kỉ niệm cuộc tình duyên của vua Chân Lạp và công chúa Ngọc Vạn. Khi Ngọc
Vạn sinh công chúa nhà vua đặt tên cho vùng đất là Butterei (tiếng Khơme nghĩa là
công chúa). Sau khi đưa ra các cách giải thích đó, tác giả không đồng tình Ba Tri
có nghĩa là sóng lụa, vì trước đây Ba Tri được viết trong đó “tri” nghĩa là đen, sau
này viết “tri’ nghĩa là biết. Tác giả còn phản ứng với việc Ba Tri có liên quan đến
cuộc kết hôn giữa vua chân Lạp và công chúa Ngọc Vạn, còn nghĩ Ba Tri có nguồn
gốc từ tiếng Khơme Butterei, thì những địa danh Ba Thia, Ba Si, Ba Vát, Ba Thắc ở
Nam Bộ và ở Bến Tre sẽ phiên âm sang tiếng Khơme như thế nào. Và cuối cùng
ông cho rằng Ba Tri là một từ Việt cổ và cũng có thể lấy danh từ Ba Tri trong Ba
Tri Cá Trại [tr.64].
Nguyễn Duy Oanh cũng đưa ra ba cách lí giải về địa danh Ba Tri, ngoài cách lí
giải theo từ nguyên dân gian: Ba Tri là thứ lụa đen có dợn sóng và cũng đưa ra cách
lí giải Ba Tri có nguồn gốc từ tiếng Khơme Butterei nhằm để kỉ niệm mối tình 2
dòng máu Miên- Việt. Ngoài ra, tác giả còn cho rằng: “Theo các bậc bô lão, trước
kia Ba Tri là do chữ Ba Si mà thành,có lẽ chữ “si” không đẹp tai. Vả lại theo tự
dạng thì chữ “si” có bộ “nạch” ở trước. Bộ này trong Nam gọi là khuôn bịnh, có ý
tưởng không tốt đẹp. Vì lẽ đó chữ “si” viết trại ra chữ “tri” [tr.244].
141
Theo suy nghĩ của chúng tôi, khi chủ thể đặt địa danh Ba Tri thì tên gọi này có
một ý nghĩa lớn đối với người dân bản địa. Bởi lẽ ở Bến Tre, ngoài việc chúng ta
nghe danh “ông già Ba Tri”- người biểu tượng cho sự kiên nhẫn, gan lỳ, biết luyện
chí, biết tiến lên, bất chấp gian khổ- đó chính là Thái Hữu Kiểm, một ông già đã
dám đi bộ từ Ba Tri ra kinh đô Huế khởi kiện giúp cho chợ Ba Tri không còn ngăn
sông cách đập và được vua Minh Mạng chấp thuận. Vì vậy, người dân nơi đây còn
gọi chợ Ba Tri là chợ Đập. Hay ông cai hạc Trần Văn Hạc, người có công giúp
Nguyễn Ánh thoát khỏi sự truy tầm của nghĩa quân Tây Sơn - cũng được xem là
“ông già Ba Tri” thứ hai. Như vậy địa danh Ba Tri được dùng để đặt tên gắn với
những người có công, góp sức. Kết luận về “ông già Ba Tri”, Thái Hữu Võ cho
rằng: “Trong khi trấn tỉnh Vĩnh Long, thường nghe người ta gọi đùa kẻ nào già cả
mà còn mạnh ăn hay nhiều vợ là già Ba Tri. Kinh lược sứ Phan Thanh Giản phải
giảng đi giảng lại cho họ hiểu “già Ba Tri” là người già mà quắc thước, can đảm, là
người có công sửa làng, giúp nước lập chợ, mở đường chứ không phải già mà ăn
nhiều, lắm vợ” [Nguyễn Duy Oanh, tr. 266]. Ngoài ra danh từ “Ba Tri” còn xuất
hiện nhiều ở địa danh ở Bến Tre như: Ba Tri Cá, Ba Tri Rơm, Ba Tri Ớt.
Trong “Tự vị tiếng Việt miền Nam”, Vương Hồng Sển có ghi Ba Tri Cá (sông,
rạch) có tiếng Khơme là: prêk Bati Phsàr Trei (rạch, ?, chợ, cá); Ba Tri Rơm (sông,
rạch) có tiếng Khơme là prêk Bati Barei) (rạch, ?, rơm), Ba Tri Ớt (sông, rạch) có
tiếng Khơme là prêk Bati Camkà Motés (sông, rạch, ?, vườn, ớt). Khi giải thích
nghĩa Bati Barei (Ba Tri Rơm), tác giả cho rằng Ba Tri bắt nguồn từ tiếng Khơme
Baissey (lá lót vật cúng kiếng) mà thành, ban đầu người ta nói Ba Si, rồi nói Ba Se,
rồi biến âm thành Ba Tri, còn barei viết thành baray, sau thành ba rài (ao chứa
nước) để tiếp dẫn qua ruộng thiếu nước [tr 579-581].
Theo cách nhìn nhận của các tác giả về địa danh Ba Tri, cho đến nay nguồn
gốc và ý nghĩa của nó vẫn chưa ngả ngũ, có tác giả thì cho nó có nguồn gốc từ tiếng
Khơme, có tác giả lại cho rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ, và ý nghĩa của nó
cũng chưa xác định được rõ ràng. Còn theo cách giải thích của từ nguyên dân gian,
142
thì các từ điển của tiếng Việt hiện nay hầu như chưa có cách giải thích nào về việc
cho rằng ba có nghĩa là sóng và tri có nghĩa là lụa đen cả.
Nếu như giả thuyết Ba Tri bắt nguồn từ bati của tiếng Khơme mà Vương Hồng
Sển nêu thì xét về mặt ngữ âm [t] và [tr] có sự chuyển đổi như: Tà Men - Trà Men,
Tà Vích - Trà Quýt (Sóc Trăng), Tà Ôn - Trà Ôn (Vĩnh Long), đặc biệt người Bến
Tre khi phát âm cũng không phân biệt hai âm này: trăng trối - tăng tối; trâu trắng -
tâu tắng…nhưng nghĩa của Ba Tri thì vẫn chưa xác định được. Và như chúng tôi có
trình bày ở trên, khi gọi tên Ba Tri, địa danh này phải có một ý nghĩa nhất định đối
với người dân bản địa, một điểm đến đầu tiên của lưu dân người Việt khi định cư ở
vùng đất này.
Việc xác định về nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh Ba Tri đòi hỏi phải có hệ
thống và hợp lí, tạm thời chúng tôi chỉ nêu ra ý kiến của một số tác giả về địa danh
này và kết luận cuối cùng phải nhờ đến các nhà nghiên cứu khác.
d. Địa danh Cổ Chiên
Sông Cổ Chiên là con sông ranh giới giữa tỉnh Bến Tre, tỉnh Trà Vinh và Vĩnh
Long. Đây là một trong ba con sông góp phần bồi tụ nên vùng đất Bến Tre ngày
nay.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh
này.Từ nguyên dân gian giải thích bằng hai thuyết sau:
Thuyết thứ nhất: Theo dân gian lưu truyền thì sông Cổ Chiên ngày nay ngày
xưa có tên là sông Cổ Chiêng. Tương truyền rằng trong thời kì Nguyễn Ánh bôn tẩu
tránh sự truy sát của nghĩa quân Tây Sơn, khi vượt sông từ Vĩnh Long sang Bến
Tre, trong lúc tìm cách vào bờ, quay chèo nghe bị đứt, khiến ghe bị chòng chành,
chiêng cổ để trên mui nên bị rơi xuống sông. Sau này người dân biết chuyện đặt tên
sông là Cổ Chiêng, lâu ngày đọc trại là Cổ Chiên.
Thuyết thứ hai: Tương truyền sông này có nhiều điều kì lạ. Dân thương hồ
thường gặp nhiều hình ma bóng xế xuất hiện trên sông, làm nhiều người khiếp sợ.
Một hôm có một vị pháp sư không biết từ đâu đến khuyên mọi người nên lập đàn
tràng cầu siêu cho các hồn ma bóng xế, đó chính là các tử sĩ bỏ mình trong cuộc
143
thủy chiến chưa siêu thoát. Cúng tế xong hình ma biến mất, tuy nhiên nước sông
chảy mạnh hơn, nghe văng vẳng như có tiếng chiêng, tiếng trống khi to khi nhỏ, khi
chậm khi nhanh từ đáy sông vang lên. Do đó, lúc đầu sông có tên là Cổ Chinh, về
sau nói trại thành Cổ Chiên, lâu ngày thành quen. (Theo tiếng Hán thì cổ có nghĩa là
trống, chiêng là đọc trại của chinh. Nếu từ Hán Việt là Cổ Chinh thì từ tiếng Việt
phải là Chiêng Cổ, yếu tố chinh là Hán Việt, chiêng là Việt).
Theo chúng tôi thấy, cách giải thích của từ nguyên dân gian thì khi phát âm [i]
có thể chuyển thành [iê], chinh có thể biến thành chiêng như trong trường hợp:
kính- kiếng, bích- biếc… Ngoài ra, người Nam Bộ phát âm và viết không phân biệt
“-n” và “-ng”, cho nên hai âm chiêng và chiên cũng dễ chuyển đổi cho nhau.
Tuy nhiên, cách giải thích theo từ nguyên dân gian chỉ mang tính ngẫu nhiên
và chưa đủ sức thuyết phục.
Nguyễn Phương Thảo cho rằng trong địa danh Cổ Chiên, thì thành tố cổ là
biến âm của từ Khơme: Koh (nghĩa là cù lao, đảo, hay cồn), còn thành tố chiên là
một từ không ai xác định và khi tác giả đưa ra câu thơ “ Mùi tinh chiên vấy vá đã ba
năm” (mùi tanh hôi của chó dê) thì kết luận rằng chiên là từ gốc Hán. Cuối cùng tác
giả kết luận: “Trường hợp một địa danh mà thành tố trước là tiếng Khơme, thành tố
sau là tiếng Hán, liệu có xảy ra với quy luật của vay mượn của từ vựng tiếng Việt
hay không? Chắc là không. Trong Tên làng xã Việt Nam thế kỉ XIX (thuộc các tỉnh
từ Nghệ Tĩnh trở ra, chúng tôi thống kê được 60 địa danh theo mẫu cổ +x, biết đâu
Cổ Chiên là những từ cổ của kho từ vựng tiếng Việt trước thế kỉ XIX [tr.64].
Đành rằng những địa danh mang thành tố cổ ở Nam Bộ phần lớn bắt nguồn từ
koh của tiếng Khơme có nghĩa là hòn đảo, cù lao hay cồn. Nhưng với yếu tố cổ
trong địa danh Bắc Bộ không phải là từ Việt cổ mà là từ Hán Việt. Nó là hình thức
của tiền từ kẻ khi được chép trên văn bản Hán. Cho nên cách giải thích của Nguyễn
Phương Thảo Cổ Chiên là một từ Việt cổ thì không hợp lí.
Theo Bùi Đức Tịnh: “Một số địa danh đã bị thay đổi vì được ghi âm bằng chữ
Quốc ngữ theo cách phát âm của người Pháp hoặc cách viết chữ Quốc ngữ của
người Pháp. Do cách ghi này mà một số cửa trong chín cửa của sông Cửu Long có
144
tên thay đổi từ sách này sang sách khác: Cỏ Chiên hay Cổ Chiên? Có lẽ đúng hơn là
Cỏ Chiên” [tr.85-86].
Như vậy, theo tác giả nhìn nhận thì Cỏ Chiên do nói trại của Cổ Chiên mà ra.
Mà cỏ chiên là loại cỏ gì cho đến nay chưa ai biết. Vả lại, ở Nam Bộ, địa danh ra
đời thường gắn với tên các loài thực vật trồng nhiều hay mọc nhiều ở nơi đó. Và
trên thực tế, không có loài cây nào tên cỏ chiên mọc ở đó.
Theo chúng tôi nhận thấy thì Cổ Chiên có nguồn gốc từ tiếng Khơme. Như các
tác giả đã nêu, thành tố cổ là do yếu tố koh của tiếng Khơme mà thành, mà koh có
nghĩa là hòn đảo, cù lao hay cồn. Mà theo Nam Kì lục tỉnh dư địa chí ghi thì từ xưa
thông ra cửa biển Cổ Chiên có rất nhiều sông nhỏ và cù lao hiện diện: “Cửa biển Cổ
Chiên rộng 1.716 trượng, nước lớn lên 32 thước, nước ròng xuống 13 thước. Cách
hướng nam tỉnh lỵ 143 dặm, hai bên nhiều sông nhỏ sanh sản dừa nước, dân ở đó
chằm lá đi bán các xứ làm kế sinh nhai. Trong sông có cù lao Cổ Chiên, đầu đối với
sông Tầm Vu, đuôi ăn sông Long Toàn (tục danh là rạch Thâu Râu), bề dài 45 dặm,
bề ngang 10 dặm. Ngoài biển bờ hướng Nam hai dặm đến cù lao Phù (Nổi), rừng rú
rậm rạp. Ngoài biển, về hướng đông 33 dặm đến cù lao Đại “lớn” dài 12 dặm, bề
ngang bằng phân nửa bề dài, đầu hướng bắc là Cồn Ngao (Ngao Chử), về hướng
nam là cù lao Ba Động (Tam Động) dài 4 dặm” [tr. 69-70].
Hơn nữa, trong bảng đối chiếu địa danh Việt và Khơme của Trương Vĩnh Ký
có ghi Cửa Cổ Chiên tiếng Khơme là Păm prêk Alon Kon mà Păm prêk có nghĩa là
cửa sông hay vàm sông. Còn alon kon dùng để gọi một khí cụ tựa như cái chiêng
của người Việt. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa thì địa danh Khơme và
địa danh Việt không có quan hệ với nhau. Nhưng trên cơ sở những gì chúng tôi
phân tích thì địa danh Cổ Chiên có nguồn gốc Khơme thì có vẻ hợp lí hơn. Khi
phân tích các thành tố cần phải cẩn trọng. Những gì chúng tôi nêu chỉ mang tính gợi
ra một hướng đi mới trong quá trình nghiên cứu nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh
ở Bến Tre.
145
4.5 Tiểu kết
1. Địa danh ở Bến Tre phản ánh hiện thực cuộc sống rất phong phú và đa dạng,
bao quát được diện mạo của vùng đất cù lao xứ dừa.
Có những đặc điểm chung với địa danh ở Nam Bộ, địa danh ở Bến Tre phản
ánh được những nét vốn có của vùng đất này, địa danh phản ánh rõ về vị trí địa lý
của một vùng đất cù lao sông ngòi chằng chịt kết hợp với những dãy đất giồng cát
trải dài, bồi tụ phù sa, phản ánh được hệ sinh thái động thực vật nước ngọt và nước
mặn đặc trưng của nơi này.
Lịch sử đã ghi tạc những chiến công, kì tích của các thế hệ cha ông, những tấm
gương đáng kính để con cháu đời sau noi theo, tiếp bước và địa danh là tấm bia lịch
sử tạc vào sử sách lưu danh ngàn đời, giúp cho các thế hệ sau hiểu được công cuộc
khai phá đầy nguy hiểm, vất vả nhưng đáng tự hào của thế hệ cha ông trong buổi
đầu khai hoang mở cõi…
Khó khăn là thế, nhưng qua địa danh chúng ta rất đáng tự hào về sự giàu có
của quê hương, sự phát triển kinh tế qua từng thời kì khác nhau của địa phương
mình. Bên cạnh sự giàu có về giá trị vật chất, con người Bến Tre luôn hướng tới
những giá trị về mặt tinh thần, luôn hướng tới cái đẹp, góp phần làm đẹp con người
qua cách đặt tên cho vùng đất mình thể hiện qua địa danh như: Thừa Long, Thừa
Tiên, Lộc Thới…
Ngoài ra, qua địa danh chúng ta còn thấy được nhu cầu tín ngưỡng, sự phong
phú về các loại đạo ở Bến Tre, đặc biệt dù cho trải qua bao đổi thay của cuộc sống,
sự giao lưu, tiếp xúc với các tộc người khác nhau nhưng người dân Bến Tre vẫn
luôn gìn giữ bản sắc văn hóa vốn có của quê hương mình trên tinh thần trong sự
tổng hòa của nền văn hóa Việt Nam.
2. Xét về mặt nguồn gốc và ý nghĩa, địa danh của Bến Tre cũng rất phức tạp,
nhưng với kiến thức có hạn, người viết chỉ khơi mở một số điểm đáng lưu ý của địa
danh tỉnh nhà, ngoài ra có đưa ra những nhận xét, đánh giá của mình về việc nhìn
nhận quan điểm của các tác giả đi trước khi bàn về vấn đề này.
146
Địa danh ở Bến Tre, chủ yếu có nguồn gốc thuần Việt, mặc cho sự biến
chuyển của không gian, sự trôi qua của thời gian, địa danh nơi đây vẫn giữ được
tiếng nói của dân tộc trong mấy thế kỉ qua.
Những địa danh có nguồn gốc Khơme khi đi vào địa danh Việt đã được Việt
hóa hoàn toàn chủ yếu bằng con đường truyền miệng, hoặc có thể gián tiếp bằng
con đường văn tự, sách báo. Nguyên nhân có hiện tượng xuất hiện nhiều địa danh
có nguồn gốc Khơme chủ yếu là do quá trình cộng cư, tiếp xúc, giao lưu của một
tập thể nào đó, hay chăng một vài cá thể sử dụng rành rọt cả hai ngôn ngữ cũng dễ
dẫn đến sự vay mượn này.
Có những địa danh phản ánh rất rõ nét về nguồn gốc cũng như ý nghĩa của nó.
Điều này dễ dàng nhận ra ở địa danh thuần Việt. Tuy nhiên thật sự đau đầu với
những địa danh tồn tại cho đến ngày nay mà chưa xác định nó có nguồn gốc từ đâu,
và sự ra đời của nó có ý nghĩa gì hay những địa danh hiện nay không còn tồn tại
trong kho từ vựng của ngôn ngữ hiện đại, và cả những địa danh không rõ được
nguồn gốc xuất phát, trước khi người Khơme đến định cư, những địa danh xác định
được nguồn gốc nhưng ý nghĩa của nó không ăn nhập gì với tên gọi của nó cả, chủ
yếu là địa danh vay mượn.
Qua việc xác định về nguồc gốc địa danh, giúp cho chúng ta chúng ta có cái
nhìn toàn cảnh về sự tượng đồng và dị biệt giữa các ngôn ngữ, góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng cho địa danh.
147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua bước đầu khảo sát địa danh ở Bến Tre, bên cạnh những thuận lợi, chúng
tôi gặp không ít những khó khăn, trở ngại để giải quyết được rốt ráo vấn đề tưởng
như đơn giản này. Bắt tay vào nghiên cứu địa danh, một lĩnh vực cũ mà lại mới, bởi
lẽ địa danh ra đời, tồn tại, biến đổi và phát triển qua từng thời kì khác nhau, gắn với
một vùng đất nhất định, phản ánh nét đặc trưng của địa phương. Vì vậy, công việc
của chúng tôi là làm thế nào phản ánh được những đặc điểm chung của địa danh
Việt Nam, trên cơ sở đó lột tả được những nét rất riêng mà địa danh phản ánh trên
vùng đất cù lao này.
Qua việc nghiên cứu tài liệu trên sách báo, bản đồ kết hợp với công tác điền
dã, chúng tôi cố gắng phác thảo ra một diện mạo của địa danh tỉnh nhà trong một
thời gian quy định cho phép, “diện mạo” đó sẽ được sáng sủa, rõ ràng hơn nếu sau
này có nhiều người bắt tay vào thực hiện.
Từ những vấn đề đã nêu trong từng chương, từng mục, chúng tôi có một số kết
luận sơ bộ như sau:
1. Ở chương 1, với phần những tiền đề lý luận và thực tiễn, chúng ta có được
một cái nhìn tổng quan về địa danh trong nước và cả thế giới. Mỗi dân tộc, mỗi
ngôn ngữ có cách nhìn nhận khác nhau về cách xác định đối tượng, cách phân loại
địa danh cũng như nội hàm của khái niệm địa danh. Dù vậy, các nhà địa danh học
Việt Nam cũng đã tham khảo, vận dụng trên cơ sở có đối chiếu, so sánh, rút ra cho
mình một hướng đi mới, một cách nhìn nhận hệ thống hơn cho việc nghiên cứu lĩnh
vực địa danh Việt Nam vốn còn non trẻ.
Vấn đề viết hoa địa danh hiện vẫn còn đang rối rắm, mỗi người một cách viết,
đôi khi tùy tiện. Vì vậy chúng tôi có đề cập sơ qua về những quy cách viết hoa địa
danh, góp phần hóa giải được những vướng mắc, những lúng túng khi chúng ta gặp
phải, viết phải một địa danh nào đó.
Cũng ở chương này, chúng tôi có đề cập đến vị trí địa lý và lịch sử của tỉnh
Bến Tre, một miền đất châu thổ của vùng đồng bằng sông Cửu Long, quanh năm
148
được phù sa bồi tụ. Được tạo thành bởi ba dãy cù lao lớn, địa hình Bến Tre có
những nét đặc thù, khí hậu thuận lợi cho việc sinh hoạt và sản xuất.
Việc xác định nguồn gốc dân cư, quá trình thiên di, sự giao thoa, tiếp xúc
ngôn ngữ cũng là một nét riêng của vùng đất này.
Lịch sử của tỉnh Bến Tre cho chúng ta có cái nhìn toàn cảnh về lịch sử phát
triển của một vùng đất, từ lúc con người khai hoang, lập địa đến việc lập xóm, lập
ấp cũng như sự thành lập, chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính góp phần cho
chúng ta một nhận định đúng đắn trong việc tìm hiểu các địa danh hành chính tỉnh
nhà.
Bước khởi đầu tìm hiểu về vị trí địa lý, lịch sử và dân cư ở Bến Tre đã góp
phần thấy được sự hình thành, tồn tại và biến đổi của địa danh nơi đây.
2. Sang chương 2, chúng tôi đề cập đến phương thưc đặt địa danh ở Bến Tre.
Trong hai phương thức định danh phương thức tự tạo và phương thức chuyển hóa,
thì phương thức tự tạo chiếm số lượng lớn. Với sự biểu hiện của phương thức tự tạo
chúng ta phần nào thấy được sự tự tôn của dân tộc, sự khẳng định mình của chủ thể
khi đặt địa danh cho địa phương mình. Còn ở phương thức chuyển hóa cũng góp
phần tạo nên việc xác định nguồn gốc của một địa danh, sự hình thành một địa danh
mới có ý nghĩa như thế nào và đã tạo nên được sự đa dạng cho địa danh ở Bến Tre.
Ngoài ra, chúng tôi còn đề cập một vấn đề có liên quan đến cấu tạo của từ
tiếng Việt, về ngôn ngữ của tiếng Việt, đó là về đặc điểm cấu tạo, về thành tố
chung, về sự biến đổi về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa của địa danh.
Qua việc tìm hiểu về cấu tạo của địa danh ở Bến Tre, giúp chúng ta nhận thấy
rất rõ sự chuyển hóa từ loại trong địa danh thuần Việt và không thuần Việt, xác định
đặc điểm đơn lập của tiếng Việt, sự kết hợp không thể thiếu giữa thành tố chung và
tên riêng trong một phức thể địa danh. Ngoài địa danh có cấu tạo đơn còn có địa
danh có cấu tạo phức, ở địa danh có cấu tạo phức mà các yếu tố có quan hệ chính
phụ với nhau chủ yếu theo phương thức ghép, góp phần làm phong phú cho phương
thức ghép của từ tiếng Việt cũng như các yếu tố trong địa danh có quan hệ chủ -vị
lại liên quan đến ngành ngữ pháp học truyền thống.
149
Có thể nói ngoài việc sử dụng các yếu tố có sẵn của ngôn ngữ dân tộc, phát
huy năng lực sản sinh của chúng, chủ thể còn sử dụng, kết hợp linh hoạt các yếu tố
vay mượn để cấu tạo nên địa danh ở Bến Tre một cách hiệu quả và còn làm phong
phú cho vốn từ vựng của tiếng Việt.
Việc tìm hiểu phương diện thành tố chung, bước đầu cho chúng ta một phân
định rõ ràng đâu là thành tố chung, đâu là địa danh khi xem xét trong một phức thể
địa danh, từ đó chúng ta có thể xác định được mối quan hệ giữa tên chung và tên
riêng hay mối quan hệ giữa cái được hạn định và cái hạn định trong quá trình định
danh các sự vật hiện tượng.
Tùy theo mỗi loại hình địa danh khác nhau mà các thành tố chung có sự
chuyển hóa nhiều hay ít vào vị trí tên riêng hay một bộ phận tên riêng trong địa
danh, tạo nên tính tầng bậc, đa dạng cho địa danh về cấu tạo và ý nghĩa phản ánh.
Việc xác định ý nghĩa và nguồn gốc của một số thành tố chung trong địa danh
ở Bến Tre, góp phần làm sáng rõ đặc điểm về từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ âm của một
ngôn ngữ cũng như thấy đuợc quá trình di trú, tiếp xúc của các tộc người trong lịch
sử.
Có những địa danh ra đời tồn tại và phát triển cho đến ngày nay, có những địa
danh theo thời gian đã có sự biến đổi, việc xác định về mặt chuyển biến của địa
danh góp phần giúp chúng ta xác định được nguồn gốc ban đầu của nó cũng như
những nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi ở địa danh, giúp chúng ta có được một
sự nhìn nhận rõ ràng về quá trình thay đổi của địa phương mình.
Về sự chuyển biến của địa danh ở Bến Tre, chủ yếu chuyển biến về mặt ngữ
âm và ngữ nghĩa.Có hai nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi này là nguyên nhân xã hội
và nguyên nhân ngôn ngữ. Qua việc xác định được những nguyên nhân làm cho địa
danh ở đây có sự chuyển biến đã giúp cho người tiếp cận có được cái nhìn thông
suốt về lịch sử, địa lý, chính trị, dân tộc, tâm lý, văn hóa của một vùng đất, về
phương ngữ của địa phương mình, cũng như những biểu hiện đa dạng các ý nghĩa
mà địa danh phản ánh.
150
3. Chương 3 cũng là chương cuối chúng tôi đề cập đến đặc điểm về nguồn gốc
và ý nghĩa của địa danh cũng như sự tồn tại của địa danh phản ánh hiện thực gì của
cuộc sống con người.
Bên cạnh các địa danh có nguồn gốc rõ ràng, còn có một số địa danh tồn tại
cho đến ngày nay vẫn còn đang tranh luận về nguồn gốc và ý nghĩa. Nó được ví như
một “mã số” cần được giải mã. Ở phần này chúng tôi có đề cập đến một số địa danh
gốc Khơme, qua đó để thấy được quá trình tiếp xúc ngôn ngữ giữa các dân tộc, sự
tiếp xúc ngôn ngữ có thể diễn ra trực tiếp hay gián tiếp, của cá nhân hay tập thể, tất
cả đều chứng minh được sức sống mãnh liệt của địa danh, vừa bảo lưu nguồn gốc
vừa tiếp nhận cái mới của ngôn ngữ tiếng Việt.
Ở địa danh chưa xác định được nguồn gốc chúng tôi có đưa ra một số ý kiến
của các tác giả đi trước nhằm mục đích mong muốn các nhà nghiên cứu sau thích
thú lĩnh vực này bắt tay vào thực hiện để tìm ra căn nguyên của địa danh đó. Còn ở
các địa dang đang tranh luận, chúng tôi cố gắng đưa ra nhận định của mình, mong
muốn phần nào giải tỏa được những thắc mắc mà một số người khi đề cập đến
nguồn gốc và ý nghĩa của nó. Mặc dù kết quả của việc nhận định có hợp lí hay
không hợp lí người viết cũng đã đứng trên lập trường của người dân bản địa để mà
nhìn nhận suy xét nhưng cũng không có nghĩa là không sử dụng đến kiến thức ngôn
ngữ học và ngành khoa học có liên quan, vì vấn đề này rất khó khăn và phức tạp,
chỉ trong một thời gian ngắn mà có thể tìm ra được đúng nguồn gốc và ý nghĩa của
nó.
Có người ví sự tồn tại của địa danh như là một “tấm bia lịch lịch sử- văn hóa”
của đất nước hay địa danh như một “vật hóa thạch”, “một đài kỷ niệm”. Điều đó rất
phù hợp, vì địa danh tồn tại không phải chỉ để tồn tại mà sự hiện diện của nó đã ghi
tạc được những dấu ấn của thời đại từ lúc nó ra đời. Qua địa danh chúng ta biết
được nhiều về đặc điểm của một vùng đất, về lịch sử, địa lý, văn hóa, ngôn ngữ của
người bản địa cũng như về các hoạt động chính trị, xã hội, kinh tế của địa phương.
Địa danh đã vẽ lên được một bức tranh toàn cảnh sống động, đưa đến những thông
151
tin rất thực, hữu ích, nhiều mặt vào một thời điểm nhất định mà địa danh phản ánh
trong lịch sử được minh chứng qua tên gọi của nó.
4. Thông qua những cứ liệu và việc nghiên cứu, tìm hiểu về địa danh ở Bến
Tre, chúng tôi xin có những ý kiến đóng góp giúp cho địa danh tỉnh nhà có được
tính hệ thống hơn.
- Cần có sự nhất quán trong cách nói và cách viết địa danh cả trong giao tiếp,
trong các văn bản và các phương tiện thông tin đại chúng. Cách thể hiện đúng một
địa danh phản ánh được nét văn hóa của người sử dụng, nét văn hóa của dân tộc.
- Cần nên phục hồi lại các địa danh đã viết sai trong các chế độ trước thể hiện
qua bản đồ, sách vở.Vì ý nghĩa mà địa danh phản ánh thể hiện rất nhiều mặt của đời
sống xã hội, hiểu sai ý nghĩa của nó dễ dẫn đến nhiều hệ lụy đáng tiếc.
- Khi lựa chọn đặt tên cho địa danh chỉ công trình xây dựng như tên cầu hay
tên đường cần thể hiện được bản chất của sự kiện mà nó ra đời, phản ánh được nét
đặc trưng của vùng đất.
- Đối với địa danh hành chính khi đặt tên cần đảm bảo được tính dân tộc, tính
truyền thống, tính đạo đức, chính trị, tính thẫm mĩ, tính địa phương cũng như tính
tiện dụng và đại chúng của nó. Địa danh phản ánh trình độ quản lí của địa phương,
đòi hỏi tránh sự dụng các địa danh bị trùng lập ở các cấp trên địa bàn góp phần phân
định rạch ròi vị trí địa lý của một vùng, giúp cho việc quản lí dễ dàng hơn trong đó
có việc thay địa danh bằng số sang địa danh bằng chữ cũng rất cần thiết.
- Cái mới ra đời thay thế cho cái cũ, địa danh cũng vậy, khi thay đổi hay đặt
mới địa danh phải đảm bảo được tính kế thừa, bảo lưu cũng như tính liên tục trên cơ
sở đảm bảo được tính nguyên tắc của địa danh, phát huy diện mạo văn hóa, giáo dục
của địa danh. Cần đảm bảo tính hệ thống của địa danh.
- Cần có một cuốn tài liệu sưu tầm về địa danh tỉnh nhà từ xưa đến nay, nên có
một cuốn từ điển về địa danh ở Bến Tre. Điều đó cũng góp phần giúp cho mọi
người hiểu con người và vùng đất “đồng khởi” anh hùng.
- Mặc dù đã cố gắng hết sức, người viết cũng không phải không mắc những
thiếu sót và cũng đã chưa giải quyết một cách thỏa đáng các vấn đề đặt ra trong luận
152
văn. Dù vậy ít nhiều gì chúng tôi cũng đã góp phần giúp cho địa danh ở Bến Tre có
được tính toàn diện hơn, và hy vọng cũng gợi mở một số điều cơ bản cho ngành địa
danh học Việt Nam vốn còn non trẻ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt từ điển, Nxb Trường thi, Sài Gòn.
2. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa,
Huế.
3. Nguyễn Tấn Anh (2008), Những đặc điểm chính của địa danh ở Vĩnh Long
( sơ bộ có so sánh với địa danh một số vùng khác), Luận văn thạc sĩ khoa học
Ngữ văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới
các đơn vị hành chính 1945 – 1997, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Âu (1993), Địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban biên tập báo Đồng Khởi (1985), Bến Tre 10 năm xây dựng, Sở Văn
hóa thông tin Bến Tre.
8. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bến Tre (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến
Tre, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản huyện Ba Tri (1984), Ba Tri đất và
người, Bến Tre.
10. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản huyện Bình Đại (1987), Bình Đại
địa chí, Bến Tre.
11. Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản huyện Giồng Trôm (2006), Giồng
Trôm xưa và nay, Bến Tre.
12. Ban chấp hành Quân sự tỉnh Bến Tre (1985), Cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước của nhân dân Bến Tre, Bến Tre.
13. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Bến Tre (1985), Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam tỉnh Bến Tre 1930-1985, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
14. Bản đồ tỉnh Bến Tre (1941, 1954), Nha địa chánh Nam Kỳ, Sài Gòn.
15. Bản đồ tỉnh Kiến Hòa (1959), Nha Tổng giám đốc điền địa và đồ bản Sài
Gòn, Sài Gòn.
16. Bản đồ tin tức (1965), số L.7014 về tỉnh Kiến Hòa.
17. Bản đồ hành chính Trúc Giang (1967), Phân cục địa dư Đà lạt ấn hành.
18. Bản đồ sông ngòi Kiến Hòa (1967), Sở nghiên cứu Hoa Kỳ.
19. Bản đồ hành chính tỉnh Kiến Hòa (1970), In tại liên đội 1 địa hình (thuộc
công binh).
20. Bản đồ đất tỉnh Bến Tre (1991), Phân viện quy hoạch và thiết kế Nông
nghiệp.
21. Bến Tre đất và người (1985), Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Bến Tre.
22. Nguyễn Chí Bền (1986), Văn học chữ viết Bến Tre từ khởi thủy đến 1975,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Bến Tre (1985), Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước của nhân dân Bến Tre, Bến Tre.
24. Lê Đình Bích (2005), “Đi tìm bản sắc văn hóa Nam Bộ qua hệ thống định
vị địa danh – ngôn ngữ”, Tạp chí Ngữ học trẻ 2004, Nxb Đại học sư phạm ,
Hà Nội, tr.278-281.
25. Nguyễn Tài Cẩn (1971), “Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kì xuất
hiện của chữ Nôm”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 1), tr.26-43.
26. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong Tiếng Việt hiện đại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Tài Cẩn (1981), Ngữ pháp Tiếng Việt: Tiếng, từ ghép, đoản ngữ.
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
28. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm Tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Văn Của (1971), Thời sự cẩm nang, Sài Gòn.
30. Huỳnh Cư (1985), Đồng Khởi ở Bến Tre, Nxb thành phố Hồ chí Minh.
31. Huỳnh Tịnh Paulus Của (1998), Đại Nam Quốc âm tự vị, Nxb Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh.
32. Thái Văn Chải (1986), “Những từ ngữ gốc Khơme trong phương ngôn
Nam Bộ”, Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông, Kỷ
yếu hội nghị IV giữa các nước xã hội chủ nghĩa về ngôn ngữ phương
Đông, Viện ngôn ngữ học Hà Nội, tr.467-468.
33. Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khơme: Ngữ âm – Từ vựng- Ngữ pháp, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
34. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
35. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
36. Đỗ Hữu Châu ( 2000), “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ”, Tạp chí Ngôn
ngữ (số 10), tr.1-18.
37. Hoàng Thị Châu (1964), “Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á
qua một vài tên sông”, Thông báo khoa học Văn học- Ngôn ngữ, Trường
Đại học tổng hợp Hà Nội, tr.94-106.
38. Hoàng Thị Châu (1967), “Về việc tìm sử liệu trong ngôn ngữ dân tộc”,
Nghiên cứu lịch sử (số 100), tr.44-47.
39. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên mọi miền đất nước (phương ngữ
học), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
41. Hoàng Thị Châu (2007), “Địa danh nước ngoài trên bản đồ thế giới: Khái
niệm, thuật ngữ và phương thức nhập nội địa danh”, http:/ /
ngonngu.net/index.php?fld=tiengviet&sub=hientai&pst=diadanh-nhapnoi-
htchau.
42. Nguyễn Thị Hồng Chi (2006), “Vài nét về địa danh ở Bến Tre, Ngữ học
trẻ, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.315-320.
43. Nguyễn Phương Chi- Hoàng Tử Quân (1984), “Tên gọi và cách gọi tên”,
Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr.22-24.
44. Trần Tùng Chinh (2003), “Bước đầu tìm hiểu truyện kể dân gian về các
địa danh ở Nam Bộ”, Thông tin khoa học (số 12), Trường Đại học An Giang,
tr.12-14.
45. Nguyễn Văn Chiến (2004), Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Hồng Dân (1981), “Từ ngữ phương ngôn và vấn đề chuẩn hóa từ vựng
tiếng Việt”, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
47. Vũ Quang Dũng (2004), “Tên làng xã Việt Nam nơi bảo lưu những yếu tố
ngôn ngữ, lịch sử và văn hóa”, Văn hóa dân gian một chặng đường nghiên
cứu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.523-532.
48. Trần Văn Dũng (2005), Những đặc điểm chính của địa danh ở Dak Lăk,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, trường Đại học Vinh, Vinh.
49. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
50. Trần Trí Dõi (2001a), “Không gian ngôn ngữ và tính kế thừa đa chiều của
địa danh (qua phân tích một vài địa danh Việt Nam)”, Ngôn ngữ và sự phát
triển văn hóa xã hội, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.7-19.
51. Trần Trí Dõi (2001b), “Vấn đề địa danh biên giới Tây Nam: Một vài nhận
xét và kiến nghị”, Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội, Hà Nội,
tr.43-67.
52. Nguyễn Dược - Nguyễn Trung Hải (2003), Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
53. Ngọc Dương (1960), Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn.
54. Trần Bạch Đằng (1986), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Nxb thành
phố Hố Chí Minh.
55. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Vĩnh Long
(Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
56. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết nghiên cứu Địa bạ Nam Kì lục tỉnh,
Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
57. Dương Xuân Định - Nguyễn Văn Bá, dịch tiếng Việt (1930) Monographie
de la province Bến Tre, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bến Tre (1980),
tài liệu ronéo.
58. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt địa dư toàn biên, Viện sử
học và Nxb Văn hóa, Hà Nội.
59. Lê Quí Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
60. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, (Đỗ Mộng Khương -
Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Đinh Văn Đức - Nguyễn Văn Ấp (1983), “Một vài nhận xét về các đặc
điểm ngữ pháp của loại từ tiếng Việt thế kỉ XVII, Tạp chí Ngôn ngữ (số 2),
tr.43-51.
62. Lê Văn Đức (1970), Việt Nam tự điển, Sài Gòn, Khai trí.
63. Ngô Đức Thịnh chủ biên (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung
học Chuyên nghiệp, Hà Nội.
65. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
66. Mai Thanh Hải (1996), “Địa danh - Một phần diện mạo văn hóa”, Báo
Thanh Niên ngày 26-1, tr.5.
67. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
68. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb Trẻ, thành
phố Hồ Chí Minh.
69. Cao Xuân Hạo - Hoàng Dũng (2005), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đối
chiếu Anh – Việt, Việt – Anh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
70. Lê Trung Hoa (1988a), “Tìm hiểu ý nghĩa và nguồn gốc một số thành tố
chung “ Cái” trong địa danh Nam Bộ”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông
Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
71. Lê Trung Hoa (1988b), “Nguồn gốc các địa danh Hóc Môn, Mỏ Cày, Cần
Giuộc”, Kiến thức ngày nay (số 3- số 4), tr.46-49.
72. Lê Trung Hoa (1991), Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
73. Lê Trung Hoa (1999), “Xác định nguồn gốc một số từ”, Tạp chí Ngôn ngữ
số 9, tr.17-21.
74. Lê Trung Hoa (2000a), “Chung quanh thuật ngữ Địa danh”, Tạp chí Xưa
và Nay (số 27B), tr.14-15.
75. Lê Trung Hoa (2000b), “Hiện tượng đồng hóa trong một số từ ngữ song
tiết tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (số 4), tr.52-54.
76. Lê Trung Hoa (2002a), “Địa danh bằng chữ và địa danh bằng số”, Tạp chí
Xưa và Nay (số 114), tr.30-32.
77. Lê Trung Hoa (2002b), “Địa danh hành chính ở Việt Nam”, Tạp chí Xưa
và Nay (số 120), tr.11-12.
78. Lê Trung Hoa (2002c), “Hiện tượng “mượn âm” trong một số từ ngữ tiếng
Việt”, Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.135-143.
79. Lê Trung Hoa (2002d), “Những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch một
số địa danh Việt Nam”, Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các
ngôn ngữ dân tộc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.144-151.
80. Lê Trung Hoa (2002e), “Một số từ ngữ Khơme trong phương ngữ Nam
Bộ”, Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông và các ngôn ngữ dân tộc, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.144-151.
81. Lê Trung Hoa (2002g), “Vấn đề dịch các địa danh thuần Việt ở Nam Bộ từ
các văn bản Hán”, Nam Bộ và Nam Trung Bộ- Những vấn đề lịch sử thế kỉ
XVII- XIX, Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tr.178-181.
82. Lê Trung Hoa (2003a), “Địa danh Khơme và gốc Khơme ở Nam Bộ”,
Khoa học Xã hội và Nhân văn trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nxb thành
phố Hồ Chí Minh, tr.369-377.
83. Lê Trung Hoa (chủ biên)- Nguyễn Đình Tư (2003b), Từ điển địa danh
thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
84. Lê Trung Hoa (2005), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt
văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
85. Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
86. Thái Hoàng (1982), “Bàn về tên làng ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học số
1, tr.54-60.
87. Hoàng Học (1979), Từ điển Khơme – Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
88. Đào Văn Hội (1962), Phong tục miền Nam qua mấy vần ca dao, Nxb Sống
Mới, Sài Gòn.
89. Đào Văn Hội (1967), Lịch trình hành chính Nam phần, Nxb Văn khoa Sài
Gòn, Sài Gòn.
90. Nguyễn Quang Hồng (1982), Các lớp từ địa phương và chức năng của
chúng trong ngôn ngôn ngữ văn hóa tiếng Việt, Kỷ yếu hội nghị khoa học,
Hà Nội.
91. Nguyễn Văn Huy ( 2001), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
92. Nguyễn Văn Huệ (2005), Xu hướng đơn tiết hóa và sự biến đổi của các
phụ âm đầu trong ngôn ngữ khu vực nam Đông Dương, Luận án tiến sĩ
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, thành phố Hồ Chí Minh.
93. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, Sài Gòn.
94. Văn Đình Hy, dịch tiếng Việt (1902), Monographie de la province de My
Tho, tài liệu đánh máy của trường Cao đẳng sư phạm Bến Tre.
95. Thái Văn Kiểm (1960), Đất Việt trời Nam, Nxb Nguồn sống, Sài Gòn.
96. Trương Vĩnh Ký (1997), Tiểu giáo trình địa lý xứ Nam Kì (Nguyễn Đình
Đầu lược dịch và chú thích), Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
97. Nguyễn Văn Khang (2007), Ngôn ngữ xã hội – Những vấn đề cơ bản, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
98. Lê Trọng Khánh (1999), “Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh
ngôn ngữ Việt cổ”, Nghiên cứu Đông Nam Á (số 2), tr.40-61.
99. Lê Đình Khẩn (2002), Từ vựng gốc Hán trong Tiếng Việt, Nxb Đại học
Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.
100. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Những khác biệt về từ
vựng- ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
101. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
102. Hồ Lê và những người khác (1992), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam
Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
103. Nguyễn Thanh Lợi (2005), “Địa danh ở Bến Tre”, Tạp chí Ngôn ngữ (số
6), tr.70-75.
104. Nguyễn Thanh Lợi (2006), “Địa danh kỵ húy trong lịch sử”, Ngữ học trẻ,
Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội, tr.315-320.
105. Vương Lộc (2001), Từ điển từ cổ, Nxb Đà Nẵng.
106. Nguyễn Xuân Lương (1996), “Vài nét về địa danh sáu tỉnh đồng bằng biên
giới Tây Nam”, Tuyển tập báo cáo toàn văn Hội thảo Khoa học “Biên giới
Tây Nam”, Hà Nội (số 2), tr.92-121.
107. Hoàng Văn Ma (2002), “Về địa danh Tày Nùng”, Những vấn đề ngôn ngữ
học (kỷ yếu hội nghị khoa học 2001), Viện ngôn ngữ học, Hà Nội, tr.202-
213.
108. Huỳnh Minh (1965), Kiến Hòa xưa và nay, Nxb Cánh bằng.
109. Huỳnh Minh (2001) Kiến Hòa (Bến Tre) xưa, Nxb Thanh niên. Hà Nội.
110. Huỳnh Minh (2002), Vĩnh Long xưa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
111. Từ Thu Mai (2004), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, Luận án Tiến sĩ,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
112. Sơn Nam (1973), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Đông Phố.
113. Sơn Nam (1979), Đồng bằng sông Cửu Long hay Văn minh miệt vườn, Sài
Gòn.
114. Sơn Nam (1997), Đất Gia Định xưa, Nxb Trẻ thành phố Hồ Chí Minh.
115. Phùng Quang Nghinh (1994), Khảo sát địa danh sông trên bản đồ Quốc
gia, Luận văn tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học tổng hợp, Hà Nội.
116. Đinh Văn Nhật (1984), “Phương pháp vận dụng địa danh học trong nghiên
cứu địa lý học, lịch sử cổ đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số
5), tr.72-80.
117. Nguyễn Tri Niên (1982), Một số ý kiến về những hiện tượng tương ứng về
từ vựng giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân, Kỷ yếu hội nghị khoa
học, Hà Nội.
118. Đỗ Văn Ninh (2001), “Không gian phân bố lớp địa danh cổ có từ tố Chiềng
từ Việt Nam đến Thái Lan”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 3),
tr.66-70.
119. Nguyễn Duy Oanh (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (1757-
1945), Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài Gòn.
120. Ngô Minh Oanh (2002), “Bối cảnh của quá trình mở đất về phía Nam của
người Việt thế kỉ XVII- XVIII”, Nam Bộ và Nam Trung Bộ, những vấn đề
lịch sử thế kỉ XVII- XIX, Trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
tr.165-168.
121. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn
ngữ, Hà Nội.
122. Nguyễn Liên Phong (1909), Nam Kì phong tục nhân vật diễn ca, Nhà in
Phát Toàn, Sài Gòn.
123. Hoàng Xuân Phương (1994), “Ý nghĩa gọi tên đất bằng chữ Cái, Cả, Ngả”
ở đồng bằng Nam Bộ. Tạp chí Thất Sơn (số 11), tr.23-25.
124. Thạch Phương - Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
125. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ ký, bản tiếng Việt của Lê
Hương, Nxb Kỉ nguyên mới, Sài Gòn.
126. Trần Chấn Quế, Châu Nguyệt Trân (2002), 80 phương pháp đặt tên (biên
dịch Nguyễn Kim Ngân), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
127. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận
Hóa.
128. Quốc sử quán triều Nguyễn (1978), Đại nam thực lục, bản tiếng Việt của tổ
lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
129. Huỳnh Kim Quy (1978), “Từ mượn gốc Khơme và Quảng Đông, Triều
Châu trong phương ngữ Nam Bộ”, Nghiên cứu một số đặc điểm của
phương ngữ Nam Bộ- Tư liệu của Ban Ngữ văn, Viện Khoa hộc Xã hội tại
thành phố Hồ Chí Minh.
130. Trịnh Sâm (2002), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí
Minh.
131. Saussure, F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
132. Vương Hồng Sển (1993), Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
133. Nguyễn Lương Tài (2000), “Nên nói đúng, viết đúng và hiểu đúng tên đất
và tên làng”, Tạp chí Cửa Việt (số 3), tr.36-38.
134. Tòa thông ngôn quan thống đốc (1896), Lịch An Nam thông dụng trong
Nam Kì, Nhà in Quảng hạt, Sài Gòn.
135. Trần Thanh Tâm (1976), “Thử bàn về địa danh Việt Nam”, Nghiên cứu
lịch sử (số 3), tr.60-73 và (số 4), tr.63-68.
136. Nguyễn Thái (1998), Huyền thoại về tên đất, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội.
137. Nguyễn Phương Thảo (1985), “Những đặc điểm cấu thành các địa danh ở
Bến Tre” Tạp chí Dân tộc học (số 2), tr.63-72.
138. Nguyễn Phương Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ những phác thảo,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
139. Nguyễn Phương Thảo- Hoàng Thị Bích Liên (1998), Văn học dân gian Bến
Tre, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
140. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
141. Phạm Tất Thắng (2003), “Một cách phân loại tên riêng trong tiếng Việt”,
Tạp chí Ngôn ngữ (số 2), tr.31-37.
142. Phạm Tất Thắng (2004), “ Mối quan hệ giữa tên riêng và tên chung”,
Những vấn đề ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.350-355.
143. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
144. Trần Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb thành phố
Hồ Chí Minh..
145. Bùi Thiết (1987), “Sự hình thành và diễn biến của các tên làng người Việt
cho đến năm 1945”, Nghiên cứu lịch sử (số 232-233), tr.16-25.
146. Duy Minh Thị (1944), “Nam Kì Lục tỉnh địa dư chí, (bản tiếng Việt của
Thượng Tân Thị), Tạp chí Đại Việt, Sài Gòn.
147. Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên) (2000), Định cư của người Hoa trên đất
Nam Bộ, từ thế kỉ XVII đến năm 1945), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
148. Đinh Lê Thư (2003), “Bước đầu tìm hiểu hệ thống địa danh tỉnh Trà Vinh”,
Khoa học xã hội và Nhân văn trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nxb thành
phố Hồ Chí Minh, tr.398-409.
149. Dương Xuân Thượng (2000), “Năm Thìn gẫu chuyện về những dòng sông
mang tên Long”, Tạp chí Thế giới mới (số 373), tr. 79-82.
150. Vương Toàn (1999), Giao lưu văn hóa và ngôn ngữ Việt- Pháp, Nxb thành
phố Hồ Chí Minh.
151. Huỳnh Công Tín (2003), “Địa danh ở đồng bằng Nam Bộ”, Tạp chí Ngữ
học Trẻ, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
152. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
153. Bùi Đức Tịnh (1999), Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, Nxb Văn
nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
154. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa, dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
155. Nguyễn Đình Tư (2000), “Về một số địa danh trong sách Lược khảo nguồn
gốc địa danh Nam Bộ”, tạp chí Xưa và Nay (số 76B), tr.30-33.
156. Nguyễn Đình Tư (2008), Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb chính
trị Quốc gia.
157. Bùi Đức Tuyến chủ biên (1998), Việt Nam toàn cảnh, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
158. Nguyễn Trãi (1976), “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb khoa học Xã
hội, Hà Nội.
159. Võ Nữ Hạnh Trang (2006), Văn hóa qua địa danh Việt ở tỉnh Đồng Nai,
Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thành
phố Hồ Chí Minh.
160. Trần Trọng Trí (2004), “Dấu ấn sông nước qua một số phương ngữ Nam
Bộ”, Tạp chí Văn hóa lịch sử An Giang (số 9), tr.7-9.
161. Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên tự điển Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí
Minh.
162. Nguyễn Kiên Trường (1996), Những đặc điểm chính của địa danh Hải
Phòng (Sơ bộ so sánh với địa danh một số vùng khác), Luận án phó Tiến sĩ
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
163. Nguyễn Kiên Trường (1999), “Góp thêm cứ liệu nghiên cứu địa danh”,
Những vấn đề văn hóa, văn học và ngôn ngữ học, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, tr.329-347.
164. Trần Đình Vĩnh (2002), “Tính có lý do một số địa danh trong phương ngữ
Bắc”, Những vấn đề ngôn ngữ học (Kỷ yếu hội nghị khoa học 2001), Viện
Ngôn ngữ học.
165. Bùi Văn Xuân (1930a), Địa dư tiểu học tỉnh Bến Tre, Nhà in Vanvovan
Bến Tre.
166. Bùi Văn Xuân (1930b), Địa dư tỉnh Bến Tre, nhà in Khéo Vân Võ Văn.
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
1. Dauzat (1948), La toponymie Francaise, Payot, Paris.
2. Imp.L.Ménard (1903), Monographie de la province de Bến Tre, 7ê
fascicule, Sài Gòn.
3. Rostaing (1965), Les noms de lieux, PUF, Paris.
4. Geoffrey K.Pullum an Willam A.ladusaw (1986), Phonnetic Symbol Guide,
The University of Chicago Press, Chicago and London.
PHỤ LỤC
DANH MỤC THỐNG KÊ ĐỊA DANH Ở BẾN TRE
1. ĐỊA DANH TỰ NHIÊN
1.1. AO: 2 địa danh
TT Địa danh Vị trí TT Địa danh Vị trí
1 Bà Trại MC 2 Ghe BĐ
1.2. BÃI: 3 địa danh
TT Địa danh 1 Điệp 2 Ngang Vị trí BĐ BĐ TT Địa danh 3 Ngao Vị trí BaT
1.3. BÃI BIỂN: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Thới Thuận Vị trí BĐ TT Địa danh Thừa Đức 2 Vị trí BĐ
1.4. BÀU: 12 địa danh
TT Địa danh 1 Bèo 2 Cừ 3 Dơi 4 Dừa 5 Giá 6 Giống Vị trí BaT BaT GT BaT BĐ BaT TT Địa danh 7 Mây 8 Rót 9 Sấu 10 Sấu 11 Sen 12 Vôi Vị trí BĐ CT GT BĐ BaT BĐ
1.5. BẾN: 32 địa danh
TT Địa danh 1 Bạ 2 Cát 3 Chanh 4 Chổi 5 Chùa 6 Dinh 7 Đình 8 Dong 9 Dưa 10 Găng 11 Giá Vị trí BĐ BĐ BaT TP MC TP BĐ MC TP TP GT Vị trí TT Địa danh 12 Giồng BĐ 13 Giồng Cây Trôm BĐ BĐ 14 Giồng Giếng BaT 15 Kênh BĐ 16 Kinh MC 17 Lở TP 18 Luông GT 19 Miễu BĐ 20 Ngang CT 21 Rớ BaT 22 Thang
TT Địa danh 23 Thủ 24 Thuế 25 Trại 26 Trại 27 Tranh Vị trí BĐ TP TP BaT GT TT Địa danh 28 Tre 29 Vịnh 30 Vựa 31 Xe 32 Xoài Vị trí Btre TP BaT BaT MC
1.6. BIỂN: 4 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bình Đại Vị trí BaT BĐ TT Địa danh 3 Đông 4 Thạnh Phú Vị trí BeTr TP
1.7. BỜ: 6 địa danh
TT Địa danh 1 Bà Mè 2 Bàu 3 Kênh Vị trí MC BaT MC TT Địa danh 4 Kênh 5 Lá 6 Mù U Vị trí BaT MC MC
1.8. BƯNG: 8 địa danh
Vị trí BaT BaT BaT BaT TT Địa danh Láng Nhỏ 5 Láng Sen 6 Lớn 7 Trôm 8 Vị trí BaT BaT BĐ BaT
TT Địa danh 1 Cốc 2 Hai Hổ Lạc Địa 3 Láng Có 4 1.9. CÁI: 35 địa danh
TT Địa danh 1 Bần 2 Bè Sâu 3 Bông 4 Bông 5 Cá 6 Cá 7 Cá 8 Cấm 9 Cát 10 Cau 11 Cau 12 Chát Lớn 13 Chát Nhỏ Vị trí TP MC MC BaT BaT TX TP MC TP TP MC BĐ MC TT Địa danh 14 Cối 15 Gà 16 Hàng 17 Lứt 18 Mít 19 Mít 20 Mít 21 Mơn 22 Muồng 23 Ngang 24 Nhum 25 Nứa 26 Ớt Vị trí TX CL MC BaT CL TP GT CL CL BĐ CL CT CT
TT Địa danh 32 Tre 33 Trê 34 Ván 35 Xoài Vị trí MC CL MC CL
TT Địa danh 27 Quao 28 Sơn 29 Tắc 30 Tắc 31 Tôm Vị trí MC CL CL MC CL
1.10. CÁNH ĐỒNG: 9 địa danh
TT Địa danh 1 Bé 2 Bưng Lớn 3 Cả Quao 4 Cỏ Chỉ 5 Gò Vị trí GT BaT BĐ BaT BĐ TT Địa danh 6 Hương Mỹ 7 Muối 8 Phụng 9 Rẫy Vị trí MC BaT MC BaT
1.11. CỒN: 86 địa danh
TT Địa danh 1 An Lương 2 Bà Tam 3 Bà Tư 4 Bần 5 Bần 6 Bần Mít 7 Bình An 8 Bổn Thôn 9 Bùn 10 Bửng 11 Cái Gà 12 Cao 13 Cao 14 Cát 15 Cát 16 Cát 17 Cát Tiên 18 Chài Mười 19 Chen 20 Chim 21 Chim 22 Chuối Vị trí CL BĐ BĐ MC BĐ BaT CL CT CL TP CL TP BĐ CL TX CT CT BĐ MC CT BaT BaT TT Địa danh 23 Cò 24 Cò 25 Dài 26 Đâm 27 Đất 28 Đất 29 Điệp 30 Dơi 31 Dơi 32 Dung 33 Giăng 34 Hố 35 Hố 36 Hố 37 Hột Vịt 38 Hươu 39 Kẽm 40 Khánh Hội 41 Lắc 42 Lát 43 Lát 44 Lát Vị trí CT BĐ TP TP BĐ MC TP CT BaT MC BĐ MC BĐ BaT CT TP BĐ BĐ CL CT CL MC
TT Địa danh 45 Linh 46 Lợi 47 Lợi 48 Lớn 49 Lớn 50 Long Thạnh 51 MÍt 52 Nẩy 53 Ngao 54 Nghiêu 55 Nhàn 56 Nổi 57 Ốc 58 Ông Chài Mười 59 Ông Lễ 60 Ông Mười Phượng 61 Phú Bình 62 Phú Đa 63 Phú Lễ 64 Phụng 65 Quy Vị trí BĐ TP BaT TP MC CL TP MC BaT BĐ BaT GT CT CT TP TP TP CL BaT BĐ CT TT Địa danh 66 Quy Phú Lễ 67 Rừng 68 Sân Banh 69 Tam Hiệp 70 Tân Dinh 71 Tân Tây 72 Tàu 73 Tàu 74 Tàu 75 Thành Long 76 Thổ Châu 77 Thới Trung 78 Thôn Đại 79 Thùng 80 Thùng 81 Tiên 82 Tiên 83 Tiên Lợi 84 Tra 85 Trẹt 86 Tròn Vị trí BaT TP BĐ BĐ CT CT CT BĐ BaT MC GT BĐ CT BĐ MC TP CT CT TP BĐ CT
1.12. CÙ LAO: 28 địa danh
TT Địa danh 1 An Hóa 2 Bàn 3 Bảo 4 Bùng 5 Cái Gà 6 Đất 7 Đất 8 Dê 9 Dung 10 Heo 11 Hổ 12 Kiến Vị trí CT+ BĐ MC GT+BaT CL CL CL CT BaT CT CT TX BaT TT Địa danh 13 Lá 14 Lác 15 Lăng 16 Linh 17 Long Hòa 18 Minh 19 Nai 20 Ốc 21 Ốc 22 Ông Chưởng 23 Phú Đa 24 Tân Vinh Vị trí MC CL MC GT BĐ MC+CL+TP MC CT BaT CT MC CL
TT Địa danh 25 Tàu 26 Thanh Tân Vị trí BaT CT TT Địa danh 27 Thành Thới A 28 Tiên Long Vị trí MC CT
1.13. CỬA: 5 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Lai 2 Cổ Chiên Đại 3 Vị trí BĐ MC BĐ TT Địa danh Tiểu 4 5 Hàm Luông Vị trí BĐ MC
1.14. ĐẦM: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Kê Vị trí BaT TT Địa danh 2 Lạc Địa Vị trí BaT
1.15. ĐÌA: 30 địa danh
TT Địa danh 1 Biển 2 Bò 3 Cá Rô 4 Cá Trê 5 Cây Trâm 6 Chòi Mới 7 Chuối 8 Cóc 9 Cừ 10 Da 11 Đôi 12 Dứa 13 Giữa 14 Gò 15 Gò Vị trí CL MC MC BaT MC BaT GT BaT CL GT BĐ MC GT BaT MC TT Địa danh 16 Gừa 17 Hỏa 18 Hương 19 Lớn 20 Lưu 21 Muồng 22 Ngươn 23 Nông 24 Ông Bốn 25 Ráng 26 Thành Đồng 27 Tranh 28 Tre 29 Tròn 30 Trực Vị trí BĐ GT GT BaT BaT MC BaT MC MC MC CL BaT BaT BaT BaT
1.16. ĐỘNG: 1 địa danh
TT Địa danh Thừa Tiên 1 Vị trí BĐ
1.17. GIỒNG: 173 địa danh
TT Địa danh 1 Ấp 4 2 Bà Khắc 3 Bà Lực 4 Bà Ngang 5 Bà Nhiên 6 Bà Phi 7 Bà Thiệm 8 Bà Thủ 9 Bà Trang 10 Bà Trụ 11 Ba Trường 12 Bà Trương 13 Bàng 14 Bàng 15 Bàu Bèo 16 Bảy 17 Binh 18 Bình Hòa 19 Bồn Bồn 20 Bông 21 Bùng Binh 22 Cà 23 Cái Cát 24 Cát 25 Cát 26 Cây Cui 27 Cây Me 28 Cây Sống Rắn 29 Cây Tre 30 Chà Là 31 Chàm 32 Chanh 33 Chanh 34 Châu Hưng 35 Chùa 36 Chùa Vị trí BaT BaT GT CL BĐ TP TP GT BaT BĐ GT BĐ TP BaT MC TP BĐ GT TP BaT BĐ BĐ TP TP BĐ BĐ BaT BĐ BĐ TP BaT TP MC BĐ BĐ TP TT Địa danh 37 Chùa 38 Chùa 39 Chùa 40 Chùa 41 Chùa 42 Chuối 43 Chuối 44 Củ Chi 45 Cúc 46 Cui 47 Cui 48 Cụt 49 Da 50 Da 51 Đắc 52 Dài 53 Dài 54 Dài 55 Dài 56 Dâu 57 Dâu 58 Dâu 59 Dâu 60 Dầu 61 Đầu Trâu 62 Đề 63 Đình 64 Dơi 65 Dứa 66 Duối 67 Dưới 68 Gạch 69 Găng 70 Giá 71 Giá 72 Giếng Vị trí BaT CL MC CT GT TP BaT BaT BaT GT MC BaT BaT CT MC TP BaT BĐ MC MC CL CT CL MC BĐ BĐ BaT CT GT BaT BaT BaT BaT BaT MC BaT
TT Địa danh 73 Giếng 74 Giồng Quéo 75 Giữa 76 Giữa 77 Giữa 78 Giữa 79 Gò Chùa 80 Gò Chùa 81 Heo 82 Keo 83 Kiến 84 Kiến 85 Lá Đang 86 Lân 87 Lớn 88 Lớn 89 Lớn 90 Luông 91 Lứt 92 Miễu 93 Miễu 94 Mít 95 Mít 96 Mù U 97 Mỹ Chánh 98 Mỹ Nhơn 99 Nầng 100 Nầng 101 Nâu 102 Ngãi 103 Ngang 104 Ngánh 105 Nhỏ 106 Nhỏ 107 Nhựt 108 Nổi Vị trí BĐ BaT TP MC BĐ CL BaT TP BĐ MC BĐ GT GT BaT BĐ BĐ MC TP BaT TP BaT GT CL BaT BaT BaT BĐ BaT MC TP TP BĐ BĐ GT BaT TP TT Địa danh 109 Nứa 110 Ổi 111 Ổi 112 Ôn Sác 113 Ông Ban 114 Ông Đế 115 Ông Đồng 116 Ông Hổ 117 Ông Hổ 118 Ông Khuông 119 Ông Neo 120 Ông Ngoan 121 Ông Ngợi 122 Ông Ngồng 123 Ông Tố 124 Ớt 125 Quéo 126 Quéo 127 Quéo 1 128 Quéo 2 129 Quí 130 Quới 131 Quý 132 Quýt 133 Quýt 134 Rạch 135 Rọ 136 Rừng 137 Sầm 138 Sầm 139 Sao 140 Sao 141 Sậy 142 Sậy 143 Thiệm 144 Thom Vị trí CL CL GT BĐ BĐ BĐ GT BĐ GT GT BĐ BaT BĐ BĐ GT TP BĐ BaT BaT BaT BaT BĐ BaT GT BĐ TP TP BĐ TP BĐ BaT BĐ BĐ GT TP MC
TT Địa danh 145 Tràm 146 Tràm 147 Trâm 148 Tranh 149 Trâu Cheo 150 Tre 151 Tre 152 Tre 153 Tre 154 Tre Quạ 155 Trôm 156 Trôm 157 Trơn 158 Trung 159 Trường Vị trí BaT GT TP CT BĐ BaT TP BĐ GT GT MC GT BaT BaT GT TT Địa danh 160 Tú Điền 161 Ướt 162 Văn 163 Võ 164 Vuông 165 Xã 166 Xa Boong 167 Xép 168 Xoài 169 Xoài 170 Xoài 171 Xoài 172 Xoài Bộng 173 Xồm Vị trí MC TP MC MC BĐ CL BĐ MC TP BaT GT TX BĐ GT
1.18. GÒ: 19 địa danh
TT Địa danh 1 Cây Cà Dâm 2 Chùa 3 Chuối 4 Cốc 5 Cốc 6 Da 7 Dinh 8 Lô 1 Lô 2 9 10 Lức Vị trí TX BaT CL BaT CL GT BaT GT GT BaT TT Địa danh 11 Mắc Miễu 12 Me 13 Me 14 Mới 15 Ổi 16 Ông Đảng 17 Táo 18 Tra 19 Trụi Vị trí BĐ BaT CL BĐ CL GT BaT BaT BaT
1.19. HÓC: 1 địa danh
TT Địa danh 1 Quả Vị trí BĐ
1.20. HỒ: 11 địa danh
TT Địa danh 1 Cạp 2 Cát Vị trí TP TP TT Địa danh 3 Chẹt 4 Chốt Vị trí BaT TP
TT Địa danh 5 Cỏ 6 Cót 7 Cưa Vị trí TP TP TP TT Địa danh 8 Đôi 9 Giữa 11 Trúc Giang Vị trí TP BĐ TX
1.21. KHÉM: 10 địa danh
Thuyền
TT Địa danh 1 Bắc Kỳ 2 Cái Sơn 3 Cạn 4 Chẹt 5 Cồn Bần Vị trí BaT CL MC TP MC TT Địa danh 6 Cồn Cát 7 Dưới 8 Heo 9 10 Trên Vị trí MC BĐ CT TP BĐ
1.22. LÁNG: 3 địa danh
TT Địa danh 1 Biển 2 Cò Vị trí BĐ BaT TT Địa danh Sen 3 Vị trí BaT
1.23. MƯƠNG: 20 địa danh
TT Địa danh 1 Bà 2 Bí 3 Cát 4 Câu 5 Chạy 6 Chùa 7 Đào 8 Điều 9 Đôi 10 Dưới Vị trí BaT BaT MC BĐ MC TP BaT MC BĐ BĐ TT Địa danh 11 Lá 12 Lộ 13 Nhà Thờ 14 Nhỏ 15 Ông 16 Ông Hảo 17 Thôn Bảy 18 Thôn Sáu 19 Trên 20 Tự Túc Vị trí BĐ TP BĐ BĐ MC BĐ BĐ BĐ BĐ TP
1.24. NGÃ BA: 35 địa danh
TT Địa danh 1 Bần Mít 2 Bền 3 Bến Đình 4 Bến Vong 5 Bồn Bồn 6 Cây Da Vị trí TP MC BĐ TP TP TP TT Địa danh 7 Cây Điệp 8 Cây Gừa 9 Cây Trâm 10 Cây Trôm 11 Chẹt Sậy 12 Chùa Vị trí GT TP MC BĐ GT MC
TT Địa danh 25 Sân Trâu 26 Sông Eo Lói 27 Út Khoe 28 Út Nghị 29 Vàm Hồ 30 Bến Đình 31 Bến Rớ 32 Cái Nứa 33 Cây Trâm 34 Mương Chạy 35 Mương Điều
TT Địa danh 13 Chùa Bửu Linh 14 Cồn Điệp 15 Cột Dây Thép 16 Cù Nèo 17 Đê 18 Đê Đông 19 Giồng 20 Giồng Trâm 21 Giồng Võ 22 Lâm Vồ 23 Năm Xê 24 Ông Kính Vị trí CL TP CL TP TP BĐ CL TP MC BaT TP BaT Vị trí TP TP CL CL BĐ BĐ CT CT MC MC MC
1.25. NGÃ TƯ: 3 địa danh
TT Địa danh 1 Cây Da Trắc 2 Vị trí TP BĐ TT Địa danh 3 Tư Trừu Vị trí BaT
1.26. NGÃ NĂM: 1 địa danh
TT Địa danh 1 Chuồng Chó Vị trí CT
1.27. RẠCH: 538 địa danh
TT Địa danh 1 An Bình 2 An Bường 3 An Bường Bé 4 An Bường Lớn 5 An Phú 6 An Thạnh 7 An Vĩnh 8 Ấp 10 9 Ấp 2 10 Bà 11 Bà Bừa 12 Bà Cả 13 Bà Cần 14 Bà Chủ Vị trí MC TP TP TP TP TP MC MC BĐ TP MC BĐ TP MC TT Địa danh 15 Ba Đáy 16 Bà Địa 17 Ba Dong 18 Bà Dung 19 Ba Đước 20 Bà Giải 21 Bà Hiền 22 Bà Hoa 23 Bà Hốt 24 Bà Hương 25 Bà Kè 26 Bà Khoai 27 Ba Lai 28 Ba Lạc Vị trí CL BĐ GT CL TP TP BaT TP GT TP CT BĐ CT GT
TT Địa danh 29 Ba Luông 30 Bà Lựu 31 Bà Lựu 32 Bà Mụ 33 Bà Mương Nhỏ 34 Bà Ngươn 35 Bà Nhật 36 Bà Nhuộm 37 Bà Pháp 38 Bà Pho 39 Ba Pho 40 Bà Phó 41 Ba Phụng 42 Bà Phụng 43 Bà Sài 44 Bà Sanh 45 Ba Si 46 Bà Tam 47 Ba Tánh 48 Bà Tây 49 Bà Thi 50 Bà Thôn 51 Bà Thuật 52 Ba Tràm 53 Bà Trang 54 Bà Trang 55 Ba Tri 56 Ba Tri Cá 57 Ba Tri Rơm 58 Bà Vị 59 Bắc Kỳ 60 Bái Đắc 61 Bần 62 Bần Cối 63 Bần Quỳ 64 Bần Quỳ Vị trí CT CT MC BĐ BĐ MC BĐ BĐ TP TP MC TP MC CL TP CL MC CT TP BĐ MC CT BĐ TP BĐ CL BaT GT GT BĐ TP CT MC TP GT BaT TT Địa danh 65 Băng Cung 66 Bao 67 Bàu 68 Bàu Hang 69 Bảy Cang 70 Bảy Nghĩa 71 Bảy Vân 72 Bến 73 Bến Bàu 74 Bến Chổi 75 Bến Chùa 76 Bến Đá 77 Bến Đình 78 Bến Đình 79 Bến Dong 80 Bến Găng 81 Bến Giá 82 Bến Giồng 83 Bến Kinh 84 Bến Láng 85 Bến Luông Trên 86 Bến Rớ 87 Bến Thăng 88 Bến Xa 89 Bến Xoài 90 Biện Lễ 91 Bình Chánh 92 Bình Phú 93 Bình Trung 94 Bộ Pháo 95 Bông 96 Bóng Cá 97 Bùn 98 Bưng Cát 99 Bửu 100 Cá Vị trí TP MC CL MC TP TP TP BaT GT TP GT BĐ BĐ CL TP TP TP TP TP GT TP CT GT TP MC TP GT TX BĐ CL TP BĐ TP MC CT CT
TT Địa danh 101 Cả Bần 102 Cả Bảy 103 Cả Cá 104 Cả Cại 105 Cả Cau 106 Cá Chốt 107 Cá Chuối 108 Cả Cọp 109 Cá Đuối 110 Cá Lóc 111 Cả Mém 112 Cả Mới 113 Cả Ngang 114 Cả Nhỏ 115 Cả Quản 116 Cả Rán Cạn 117 Cá Tra 118 Cá Trê 119 Cá Trê 120 Cái 121 Cái 122 Cai Bài 123 Cái Bãi Sâu 124 Cái Bần 125 Cái Bần 126 Cái Bát 127 Cái Bè 128 Cái Bè Sâu 129 Cái Bông 130 Cái Cá 131 Cái Cá 132 Cái Cam 133 Cái Cấm 134 Cái Cát 135 Cái Cát 136 Cái Cau Vị trí TP TP TP MC BĐ BĐ CT MC BĐ CT TP BĐ BĐ BĐ CT TP CT TX CT BĐ CL TP MC TP MC GT MC MC BaT CL TP CT MC TP BĐ BĐ TT Địa danh 137 Cái Cau 138 Cái Chát Lớn 139 Cái Chát Nhỏ 140 Cái Chui 141 Cái Cỏ 142 Cái Cối 143 Cái Dọc 144 Cái Gà 145 Cái Hàng 146 Cái Lác 147 Cái Lứt 148 Cái Mít 149 Cái Môn 150 Cái Mơn 151 Cái Muồng 152 Cái Ngang 153 Cái Ớt 154 Cái Quao 155 Cái Sấu 156 Cái Sơn 157 Cái Sơn 158 Cái Tắt 159 Cái Tắt 160 Cái Tràm 161 Cái Trăng 162 Cái Trăng 163 Cái Trầu 164 Cái Tre 165 Cái Trê 166 Cái Vang 167 Cái Váng 168 Cái Xép 169 Cái Xoài 170 Cạn 171 Cát Dưới 172 Câu Vị trí MC MC MC CT CT MC MC CL MC MC MC GT CT CL BĐ MC CL MC MC CL CT MC CL CT CT BĐ MC CL MC BĐ TP CT CL BĐ TP TP
TT Địa danh 173 Câu 174 Cầu Bưng 175 Cầu Đất 176 Cầu Đen 177 Cầu Đình 178 Cầu Đỏ 179 Cầu Đúc 180 Cầu Đúc 1 181 Cầu Đúc 2 182 Cầu Đúc 3 183 Cầu Góc 184 Cầu Lộ 185 Cầu Mới 186 Cầu Mống 187 Cầu Phèn 188 Cầu Quan 189 Cầu Sắt 190 Cầu Sắt 191 Cầu Tàu 192 Cầu Ván 193 Cây Da 194 Cây Mắm 195 Chà Là 196 Chanh 197 Chanh Lớn 198 Chanh Nhỏ 199 Chày Đạp 200 Chim 201 Chim 202 Chim 203 Chín Thước 204 Chợ 205 Chợ Mới 206 Chổi 207 Chòi Câu 208 Chồn Vị trí MC CL MC GT MC GT MC BĐ BĐ BĐ MC BĐ CL MC MC CL BĐ MC TP MC CT TP TP CL CT CT CL BĐ TP MC TP CL CT CL BĐ CL TT Địa danh 209 Chùa 210 Chùa 211 Cỏ 212 Cổ Diệt 213 Cốc 214 Cóc Bạc 215 Con Hươu 216 Con Lương 217 Con Mênh 218 Con Ốc 219 Cống 220 Cống Bể 221 Cống Kiếm Hòa 222 Cống Lớn 223 Cống Nhỏ 224 Cừ 225 Cửa Hải 226 Cửa Hàng Dừa 227 Cùng 228 Cụt 229 Cụt 230 Đập 231 Đập Kênh Xáng 232 Đất Sét 233 Đầu Sấu 234 Dày 235 Đáy Bông 236 Đìa 237 Đìa Dứa 238 Đìa Gia 239 Đìa Muồng 240 Đìa Tre 241 Điều 242 Điều 243 Dinh 244 Đình Vị trí CT CL TP BĐ BaT BĐ TP BĐ TP TP CL BĐ TP MC MC TP TP BĐ BĐ BĐ MC MC TP GT TP TP TP CL MC GT MC BaT BaT MC TP TP
TT Địa danh 245 Đình 246 Đình 247 Định Thu 248 Đôi 249 Đồn 250 Dong 251 Dong 252 Dong 253 Đồng Dài 254 Đồng Khởi 255 Đồng Sậy 256 Dừa 257 Dượng Một 258 Eo Lói 259 Giá 260 Già 261 Giao Điền 262 Giao Hòa 263 Giao Khẩu 264 Giò Gà 265 Giồng 266 Giồng 267 Giồng 268 Giồng Bảy 269 Giồng Chùa 270 Giồng Dầu 271 Giồng Đế 272 Giồng Duối 273 Giồng Giếng 274 Giồng Hồ 275 Giồng Luông 276 Giồng Luông 277 Giồng Quí 278 Giồng Sầm 279 Giồng Thủ 280 Giồng Trôm Vị trí CT MC BĐ TP MC GT MC CL MC MC CL TP BĐ TP BaT BĐ TP CT MC TP MC CL TP TP MC MC BĐ BaT BĐ BĐ MC TP GT BĐ GT GT TT Địa danh 281 Giồng Trơn 282 Gò Miếu 283 Gọi 284 Gừa 285 Hai Cung 286 Hai Hân 287 Hai Hòa 288 Hai Trực 289 Hai Xã 290 Hàng Đước 291 Hàu Lớn 292 Hàu Nhỏ 293 Heo Hầm 294 Heo Què 295 Hồ Cá 296 Hồ Cạp 297 Hồ Cát 298 Hồ Chốt 299 Hồ Cỏ 300 Hồ Cục 301 Hồ Đôi 302 Hồ Giữa 303 Hồ Lắc 304 Hồ Máng Đen 305 Hòa Khánh 306 Hòa Quới 307 Hoàng Thọ 308 Hóc Hỏa 309 Học Sinh 310 Hương Mỹ 311 Hương Sư 312 K26 313 Kênh 314 Kênh Điều 315 Kênh Xáng 316 Keo Bửng Vị trí BaT TP TP BĐ CT MC BĐ BĐ TP TP CL CL TP TP TP TP TP TP TP TP TP BĐ TP TP CL CL CL BĐ BĐ MC TP CL MC CT MC BĐ
TT Địa danh 317 Khai Luông 318 Khai Luông 319 Khâu Băng 320 Khém 321 Khém 322 Khém Cạn 323 Khém Chẹt 324 Khém Dưới 325 Khém Thuyền 326 Khém Trên 327 Khiêm 328 Khu Nò 329 Kiến 330 Kinh 331 Kinh Xáng 332 Kỳ Hà 333 Lá 334 Lá 335 Lách 336 Láng 337 Láng Cháy 338 Láng Mới 339 Láng Tròn 340 Lò 341 Lò 342 Lộ Quẹo 343 Lộ Tràm 344 Lòi 345 Lớn 346 Long Hòa 1 347 Long Khánh 348 Long Phụng 349 Long Trường 350 Lún 351 Lương Phú 352 Mây Vị trí BĐ CT TP MC BĐ MC TP BĐ TP BĐ BĐ TP MC CL BĐ MC TP BaT CL BĐ TP MC BĐ TP CT CT GT TP MC BĐ CL BĐ BĐ CT GT BĐ TT Địa danh 353 Me 354 Miễu 355 Miễu 356 Miễu 357 Miễu Bà 358 Mít 359 Mỏ Cày 360 Mũi 361 Mương 362 Mương Câu 363 Mương Đào 364 Mương Đào 365 Mương Đôi 366 Mương Dưới 367 Mương Lá 368 Mương Lấp 369 Mương Trên 370 Mỹ Nhiên 371 Mỹ Sơn Trên 372 Năm Bẹ 373 Năm Đà 374 Năm Lai 375 Năm Luỵến 376 Năm Miên 377 Ngã Bát 378 Ngã Cạy 379 Ngã Tắt 380 Ngã Tư Bà Hiếu 381 Ngã Tư Đìa Bần 382 Ngác 383 Ngang 384 Nghĩa Trang 385 Ngọn Lớn 386 Ngọn Ngã Tư 387 Nhà Thờ 388 Nhà Thờ Vị trí CT BĐ TP CT CT CL MC TP CL BĐ BaT MC BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BaT MC BĐ BĐ TP TP BĐ BĐ TP BĐ GT GT TP BĐ CT MC MC TP MC
TT Địa danh 389 Nhỏ 390 Nò 391 Nò 392 Nò 393 Nứa 394 Nước Chảy 395 Ông Bồng 396 Ông Cai 397 Ông Chùm 398 Ông Cốm 399 Ông Cự 400 Ông Đa 401 Ông Đại 402 Ông Đình 403 Ông Hút 404 Ông Kèo 405 Ông Lê 406 Ông Mười 407 Ông Năm 408 Ông Náo 409 Ông Ngợi 410 Ông Sến 411 Ông Sú 412 Ông Sỹ 413 Ông Tam 414 Ông Táo 415 Ông Tạo 416 Ông Thảo 417 Ông Tiên 418 Ông Trương 419 Ông Tú 420 Ông Vồn 421 Ớt 422 Phú Hưng 423 Phú Hữu 424 Phú Hữu Vị trí BĐ BaT GT BĐ CT TP MC CT BaT MC BĐ CT BĐ MC MC CL BĐ BĐ TP BĐ BĐ MC TP TP MC BĐ MC MC TP MC TP CT TP BĐ CT BĐ TT Địa danh 425 Phú Thành 426 Phú Thuận 427 Phú Vang 428 Phụng 429 Phước Lý 430 Quan 431 Quảng Điền 432 Quảng Ngãi 433 Ranh 434 Ranh 435 Rích 436 Rô 437 Rợp 438 Rừng 439 Ruộng Muối 440 Ruột Ngựa 441 Sân Bay 442 Sâu 443 Sâu 444 Sâu 445 Sấu 446 Sáu Bắp 447 Sáu Dũng 448 Số 1 449 Số 2 450 So Đũa 451 So Đũa 452 Sóc Sãi 453 Sơn 454 Sơn Đốc 455 Sơn Mã 456 Sơn Mã 457 Sông Cả 458 Sư 459 Sung 460 Tài Phú Vị trí CT BĐ BĐ CL MC TP CT CL TP CL BĐ TP GT MC BaT CT TX TP CL MC CT TP BĐ GT GT BaT TP GT CT GT BaT CT MC GT CL GT
TT Địa danh 461 Tám Chòi 462 Tám Hoàng 463 Tám Nhật 464 Tám Quản 465 Tám Tiều 466 Tân Định 467 Tân Du 468 Tân Hương 469 Tân Phong 470 Tân Phú 471 Tân Thạch 472 Tân Thông 473 Tắt 474 Thác Lác 475 Thành 476 Thành Triệu 477 Thầy Thông 478 Thị Điểm 479 Thị Nhiều 480 Thợ Cẩm 481 Thợ Cối 482 Thỏ Đa 483 Thọ Hội 484 Thọ Nguyệt 485 Thom 486 Thông Lưu 487 Thông Lưu 488 Thông Phát 489 Thủ Cửu 490 Thừa Mỹ 491 Thuộc Đạo 492 Thủy Sản 493 Tiệm 494 Tổng Can 495 Tổng Đường 496 Trại Cá Vị trí MC CT BĐ CT MC BĐ BĐ MC TP CT CT MC CL MC BĐ CT BaT BĐ BĐ TP TP MC GT TP MC TP CL BĐ GT BĐ CT TP TP TP CT GT TT Địa danh 497 Tràm 498 Tràm 499 Trần Anh 500 Trăng 501 Tre Bông 502 Triệu Phan 503 Trũng Giá 504 Trường 505 Tự Chảy 506 Tư Ngọng 507 Tư Phòng 508 Ụ 509 Vải 510 Vàm Cả Lức 511 Vàm Hồ 512 Vàm Hồ 513 Vàm Hồ 514 Vàm Hồ 515 Vàm Kênh 516 Vẹt 517 Viện 518 Vong 519 Võng 520 Vọp 521 Vọp 522 Vũng Luông 523 Xa Che 524 Xã Cương 525 Xã Thân 526 Xẽo 527 Xẽo Đước 528 Xẽo Kênh 529 Xẽo Lớn 530 Xẽo Phèn 531 Xẽo Quê 532 Xẽo Sâu Vị trí CL GT MC BĐ CT CT TP TP BaT BĐ TP BaT CL TP BĐ BaT CT GT MC TP TP MC GT BaT TP BĐ CT CT MC MC TP TP TP TP TP GT
TT Địa danh 533 Xẽo Sâu 534 Xẽo Tre 535 Xẽo Tượng Vị trí BaT MC BĐ TT Địa danh 536 Xếp Cò 537 Xuân Tầng 538 Yên Hào Vị trí CT TP BĐ
1.28. RỪNG: 14 địa danh
TT Địa danh 1 Bần 2 Bần 3 Bụi 4 Chà Là 5 Cốc 6 Dẹt 7 Đước Vị trí TP BĐ BĐ TP BaT TP TP TT Địa danh 8 Đước 9 Lá 10 Lá 11 Mấm 12 Mấm 13 Ông Gốc 14 Sú Vị trí BĐ TP BĐ BĐ TP BĐ TP
1.29. SÔNG: 69 địa danh
TT Địa danh 1 An Bình 2 An Quy 3 Ba Lai 4 Ba Vát 5 Băng Cung 6 Bang Tra 7 Bến Tre 8 Bình Chánh 9 Bình Phú 10 Bình Thắng 11 Bình Trung 12 Cả Chát Lớn 13 Cả Rán Sâu 14 Cái Bần 15 Cái Bè 16 Cái Cấm 17 Cái Chát 18 Cái Gà 19 Cái Hàn 20 Cái Hàn 21 Cái Mơn 22 Cầu Dừa Vị trí MC MC BĐ MC TP MC BTre GT MC BĐ BĐ MC TP TP MC MC MC CL MC CL CL MC TT Địa danh 23 Cầu Ông Ngò 24 Cầu Sập 25 Cầu Tréo 26 Cầu Ván 27 Cổ Chiên 28 Cửa Đại 29 Dòng Quéo 30 Eo Lói 31 Giao Hòa 32 Giao Hòa 33 Giồng Luông 34 Giồng Trôm 35 Hàm Luông 36 Hòa Lộc 37 Hoàng Thọ 38 Hương Điểm 39 Kênh Tư 40 Khâu Băng 41 Mỏ Cày 42 Mương Điều 43 Mỹ Sơn 44 Ngã Ba Vị trí MC MC CT BĐ BTre BĐ MC TP BĐ CT TP GT BTre MC CL GT MC TP MC MC CL TP
TT Địa danh 58 Tân Điền 59 Tân Hương 60 Thanh Điền 61 Thạnh Trị 62 Thom 63 Thông Lưu 64 Tiền 65 Vàm Hồ 66 Vàm Mơn 67 Vàm Rỗng 68 Vĩnh Hòa 69 Xép Vị trí MC MC CL BĐ MC CL CT CT CL TP CL MC
TT Địa danh 45 Nhà Nguyện 46 Nhỏ 47 Nước Chảy 48 Ông Húc 49 Phú Thạnh 50 Rạch Bần 51 Rạch Cầu Góc 52 Rạch Cừ 53 Rạch Ranh 54 Rạch Sâu 55 Sâu 56 Sóc Sãi 57 Sụp Vị trí MC CT MC MC CT MC MC TP MC MC BaT CT CL
1.30. TRUÔNG: 1 địa danh
TT Địa danh 1 Mây Vị trí BĐ
1.31. VÀM: 43 địa danh
TT Địa danh 1 Bà Hét 2 Ba Lai 3 Bến Cát 4 Bến Dong 5 Bính 6 Bình Phú 7 Bình Thắng 8 Bình Trung 9 Bưng Lớn 10 Cả Cau 11 Cả Hàn 12 Cá Mập 13 Cả Nhỏ 14 Cả Quản 15 Cả Tắc 16 Cái Gà 17 Cái Quao Vị trí CT BĐ BĐ TP BĐ TX BĐ BĐ BĐ BĐ MC GT BĐ CT MC CL MC TT Địa danh 18 Cổ Chiên 19 Đình 20 Đồn 21 Giao Hòa 22 Giồng Bãi 23 Hàm Luông 24 Hồ 25 Hồ 26 Kênh 27 Kênh Điều 28 Kênh Ông Cha 29 Khâu Băng 30 Kỳ Hà 31 Lách 32 Láng Cháy 33 Lộc Thuận 34 Mơn Vị trí MC CT MC CT TP CT CT BaT BĐ CT CT TP MC CL TP BĐ MC
TT Địa danh 35 Nước Trong 36 Ông Đốc 37 Quéo 38 Rỏng 39 Sông Mã Vị trí MC CT MC TP CT TT Địa danh 40 Thom 41 Thông Quan 42 Vòng 7 43 Vườn Chuối Vị trí MC TP TP CT
1.32. VŨNG: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Luông Vị trí BĐ TT Địa danh Sình 2 Vị trí GT
1.33. XẼO: 65 địa danh
TT Địa danh 1 Bà Cai 2 Bà Hào 3 Ba Lức 4 Bà Phương 5 Ba Thảo 6 Bà Từ 7 Bảy Nhiên 8 Bích 9 Bô Nô 10 Cả Mém 11 Cầu 12 Cây Bần 13 Cây Xoài 14 Cối 15 Cột 16 Đá 17 Đập 18 Đình 19 Đó 20 Đò 21 Dưa 22 Đước 23 Gia 24 Giồng Dong Vị trí TP TP TP TP TP TP TP TP GT TP TP TP MC TP TP BĐ TP TP BĐ BaT TP TP TP TP TT Địa danh 25 Giữa 26 Kênh 27 Khánh 28 Lá 29 Lái Đơn 30 Lé 31 Lớn 32 Lớn 33 Lương Sấm 34 Mấm Lớn 35 Miễu 36 Ngay 37 Ngọn Tầm Bức 38 Nhỏ 39 Nò 40 Nò 41 Ông Đạo 42 Ông Đệ 43 Ông Hòa 44 Ông Thân 45 Ông Tú 46 Phèn 47 Phụng 48 Quê Vị trí TP TP TP BĐ TP TP TP BĐ TP TP TP TP MC TP MC TP TP TP BĐ TP TP TP TP TP
TT Địa danh 49 Rạch Sâu 50 Rạch Thùng 51 Ranh 52 Ranh 53 Rên 54 Rủ Rạch Đôi 55 Sâu 56 Sáu Cương 57 Tám thành Vị trí MC MC TP BĐ TP TP BaT TP TP TT Địa danh 58 Thằng Tương 59 Tràm Cu 60 Tre 61 Trỗ 62 Trú 63 Tự Túc 64 Tượng 65 Vườn Vị trí TP BĐ TP TP BaT TP BĐ TP
2. ĐỊA DANH CHỈ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
2.1. BẾN ĐÒ: 84 địa danh
Vị trí TT Địa danh MC 1 An Định BaT 2 An Đức BaT 3 An Hiệp BaT 4 An Ngãi Tây MC 5 An Qưới MC 6 An Thới BaT 7 An Thủy BĐ 8 Ao Vuông BĐ 9 Ấp 1 MC 10 Ấp 10 BĐ 11 Ấp 3 MC 12 Ấp 9 CT 13 Ấp 9 CT 14 Ba Dũng CT 15 Ba Rô BaT 16 Ba Tri MC 17 Ba Vát MC 18 Bang Tra MC 19 Bang Tra BaT 20 Bảo Thạnh 21 Bình Khánh Đông MC 22 Bình Khánh Tây MC CL 23 Bình Phụng TT Địa danh 24 Bình Thắng 25 Cả Hàn 26 Cẩm Sơn 27 Cát Lở 28 Cây Dương 29 Châu Hưng 30 Cồn Tiên Long 31 Định Thủy 32 Gãnh 33 Hòa Định 34 Hòa Mỹ 35 Hương Mỹ 36 Khánh Hội 37 Lộc Thuận 38 Long Định 39 Măng Thít 40 Minh Đức 41 Mười Giàn 42 Phú Đa 43 Phú Đức 44 Phú Hòa 45 Phú Long 46 Phú Sơn Vị trí BĐ MC MC MC MC BĐ CT MC BaT BĐ CL MC CT BĐ BĐ CL MC MC CL CT CL BĐ CT
TT Địa danh 47 Phú Thuận 48 Phú Túc 49 Phú Xuân 50 Phước Hiệp 51 Phước Lý 52 Rạch Gừa 53 Rạch Sâu 54 Sa Kê 55 Sơn Hòa 56 Sông Thuận 57 Tam Hiệp 58 Tân Hưng 59 Tân Phong 60 Tân Phú 61 Tân Phú Tây 62 Tân Trung 63 Tân Xuân 64 Thành An 65 Thanh Long Vị trí BĐ CT CL MC MC BĐ MC MC CT CT BĐ BaT CL CT MC MC BaT MC MC Vị trí TT Địa danh MC 66 Thạnh Ngãi MC 67 Thanh Tân CT 68 Thanh Tân MC 69 Thành Thới MC 70 Thành Thới B CT 71 Thành Triệu MC 72 Thanh Xuân 3 MC 73 Thầy Tống BĐ 74 Thới Lai MC 75 Thom BĐ 76 Thủ BaT 77 Thủ Ba Lai CT 78 Tiên Lợi CL 79 Tiên Thủy BaT 80 Trại Già 81 Trường Thịnh MC 82 Vàm Nước Trong MC MC 83 Vàm Tầm Bức CT 84 Vĩnh Kim
2.2. BẾN PHÀ: 8 địa danh
TT Địa danh 1 Cái Kè 2 Cầu Ván 3 Cổ Chiên 4 Hàm Luông Vị trí CL TP MC MC TT Địa danh 5 Rạch Miễu Tân Phú 6 Thới Lộc 7 Thủ Ngữ 8 Vị trí CT CT CL GT
2.3. BẾN XE: 9 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bến Tre 3 Bình Đại 4 Châu Thành 5 Chợ Lách Vị trí BaT TX BĐ CT CL TT Địa danh 6 Mỏ Cày 7 8 9 Tân Thạch Thạnh Phú Tiên Thủy Vị trí MC CT TP CT
2.4. CẢNG CÁ: 5 địa danh
TT Địa danh 1 Bình Thắng 2 Giao Long 3 Mũi Tàu Vị trí BĐ CT CT TT Địa danh Thạnh Phú 4 Tiệm Tôm 5 Vị trí TP BaT
2.5. CĂN CỨ: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Lạc Địa Vị trí BaT TT Địa danh 2 Y Tư Vị trí MC
2.6. CẦU: 806 địa danh
TT Địa danh 327 1 1 tháng 5 2 17 tháng 1 3 19 tháng 5 4 1A 5 2 tháng 9 6 22 tháng 12 7 27 tháng 7 8 30 tháng 4 9 30 tháng 4 10 4A 11 8 tháng 3 12 13 9A 14 An Điền 15 An Điền 16 An Đức 17 An Hiệp 18 An Hiệp 19 An Hiệp 1 20 An Hiệp 2 21 An Hóa 22 An Hòa 23 An Ngãi Tây 24 An Quy 25 Ấp 1 26 Ấp 2 Vị trí BaT TX MC BĐ GT CL BĐ BĐ GT BĐ BaT MC BaT TP CL BaT CT BaT BaT BaT CT MC BaT CL BĐ BaT TT Địa danh 27 Ấp 2 28 Ấp 3 29 Ấp 3 30 Ấp 3 31 Ấp 4 32 Ấp 4 33 Ấp 5 34 Ấp 5 35 Ấp 6 36 Ấp 7 37 Ấp 7 Mỹ Hưng 38 Ấp 8 39 Ấp 9 40 Ấp Thủ Sở 41 Bà Bảy 42 Bà Bèo 43 Bà Biếu 44 Bà Bồi 45 Bà Bông 46 Bà Cả 47 Ba Chà 48 Bà Chịu 49 Ba Cho 50 Bà Chơn 51 Bà Chức 52 Ba Cò Vị trí BĐ GT BaT BĐ GT TP BaT BĐ BĐ GT TP BaT BaT MC CT BaT CL BaT CL BĐ BĐ BaT BĐ MC BĐ CT
TT Địa danh 53 Ba Cưng 54 Ba Cuối 55 Ba Đa 56 Ba Đáng 57 Ba Đáy 58 Bà Đề 59 Ba Đen 60 Ba Điểm 61 Ba Đổ 62 Ba Đức 63 Ba Đùng 64 Ba Gấm 65 Bà Giá 66 Ba Gốc 67 Bà Hạc 68 Ba Hoặc 69 Ba Hoài 70 Ba Hư 71 Bà Kế 72 Ba Khải 73 Ba Lạc 74 Ba Lạc 75 Ba Lai 76 Ba Lẹ 77 Ba Lọ 78 Bà Lòng 79 Ba Luông 80 Ba Lưỡng 81 Bà Lựu 82 Ba Mau 83 Ba Miệng 84 Ba Mùi 85 Ba Ngay 86 Ba Sáng 87 Ba Sương 88 Ba Tấn Vị trí TX CL BĐ BĐ CL CL CL BĐ CL BaT CT CL BĐ BaT MC BĐ BaT BĐ BĐ BĐ CT GT TX BĐ CL MC CT BĐ CT CT CL CT BĐ BĐ BaT BĐ TT Địa danh Vị trí 89 Ba Thệ BaT 90 Bà Thôn CT 91 Ba Tôn CL 92 Ba Tri BaT 93 Bà Tư BĐ 94 Bà Vách TX 95 Ba Vát MC 96 Ba Vĩ BĐ 97 Ba Xã MC 98 Ba Xem CT 99 Ba Y CT 100 Bần CL 101 Bàn Đá BĐ 102 Bánh Tráng MC 103 Bàu Kiến GT CT 104 Bàu Rót 105 Bảy Chiến Thắng BĐ BĐ 106 Bảy Chư CL 107 Bảy Đèn CT 108 Bảy Đình MC 109 Bảy Đơ CL 110 Bảy Dũng CL 111 Bảy Lê BĐ 112 Bảy Liêm CT 113 Bảy Liễu CL 114 Bảy Mạnh CL 115 Bảy Ô BĐ 116 Bảy Sang CL 117 Bảy Thể BaT 118 Bảy Thới BĐ 119 Bảy Thời BĐ 120 Bảy Thôn CL 121 Bảy Tôn CL 122 Bến Bè MC 123 Bến Chùa MC 124 Bến Đình
TT Địa danh 125 Bến Đò 126 Bến Đò 127 Bến Giồng 128 Bến Tre 1 129 Bến Tre 2 130 Bến Vựa 131 Bến Xoài 132 Bếp Lý 133 Biện Dưởng 134 Bình Chánh 135 Bình Chiến 136 Bình Đông 137 Bình Nguyên 138 Bình Phú 139 Bình Phú 1 140 Bình Phú 2 141 Bình Phụng 142 Bờ Chùa 143 Bờ Dầu 144 Bờ Đê 145 Bờ Kênh 146 Bờ Mù U 147 Bờ Quýt 148 Bông Bụp 149 Bưng 150 Bưng 151 Bưng Lớn 152 Bưởi 153 Bửu Lâm 154 Cả Bướm 155 Cái Chát Lớn 156 Cái Chát Nhỏ 157 Cá Chuối 158 Cả Đuối 159 Cả Giỏi 160 Cả Hàn Vị trí CL BĐ BĐ TX TX BaT MC MC BĐ GT BĐ MC TX TX BĐ BĐ CL BaT CT BaT BaT MC CT CT MC CL BĐ CL CT BĐ MC MC CT BĐ CT MC TT Địa danh 161 Cá Lóc 162 Cả Muồng 163 Cả Ngang 164 Cá Ngát 165 Cả Nhỏ 166 Cả Tra 167 Cá Trê 168 Cá Trê 169 Cái Cá 170 Cái Cấm 171 Cái Chát Lớn 172 Cái Chát Nhỏ 173 Cái Cỏ 174 Cái Cối 175 Cái Gấm 176 Cai Khang 177 Cái Mới 178 Cái Ớt B 179 Cái Sơn 180 Cái Trăng 181 Cái Tre 182 Cái Vang 183 Cái Xoài 184 Cây Bàng 185 Cây Da 186 Cây Da 187 Cây Da Đôi 188 Cây Dừa 189 Cây Dương 190 Cây Gõ 191 Cây Mai 192 Cây Sộp 193 Cây Xoài 194 Chà Đạp 195 Chan Chán 196 Châu Minh Vị trí TX BĐ BĐ GT BĐ CT TX MC TX MC MC MC CT TX CT CT BĐ CL CL CT CL BĐ CL BĐ CT GT BaT MC MC MC MC CL MC CL CL CL
TT Địa danh 197 Châu Phú 198 Châu Thới 199 Cháy 200 Chẹt Sậy 201 Chín Bi 202 Chín Cống 203 Chín Dầu 204 Chín Hồng 205 Chín Nhân 206 Chín Sữa 207 Chín Tắc 208 Chín Thảo 209 Chín Trận 210 Chín Tưởng 211 Chín Vô 212 Chợ 213 Chợ 214 Chợ 215 Chợ Ấp 9 216 Chợ Đình 217 Chợ Mới 218 Chợ Xép 219 Chú Bí 220 Chú Lừng 221 Chùa 222 Chùa 223 Chùa 224 Chùa Băng Chỉnh 225 Chùa Tuyên Linh 226 Chùm Gắng 227 Cồn Cát 228 Con Kênh 1 229 Con Kênh 2 230 Cồn Ông Cha 231 Cống 232 Cống Vị trí GT GT CL TX BĐ CL CL BaT BaT CT BĐ BĐ BaT CL MC CL CT MC CT MC MC MC BĐ BĐ BaT BĐ MC CL MC BaT BĐ MC MC BĐ CL MC Vị trí TT Địa danh BĐ 233 Cống Cầu BĐ 234 Cống Đá MC 235 Cống Đá BaT 236 Cống Lá 237 Cống Lớn MC 238 Công Ty Xổ Số Kiến Thiết BĐ BaT 239 Cống Vàm Hồ CL 240 Cột Dây Thép BaT 241 Đám Lá CT 242 Dân Lập BĐ 243 Dân Lập BaT 244 Đập Lá MC 245 Đập Lá MC 246 Dầu BaT 247 Đầu Gò MC 248 Dây BĐ 249 Đê Tây BĐ 250 Di Dân CL 251 Đìa Cừ BĐ 252 Đìa Gừa BaT 253 Đìa Lớn BaT 254 Đìa Lưu BaT 255 Đìa Tre BaT 256 Đìa Trực CL 257 Điền CL 258 Đình BaT 259 Đình BĐ 260 Đình MC 261 Đình CL 262 Đình Bình An MC 263 Đình Rắn CT 264 Đò GT 265 Đỏ CL 266 Đội Thuế MC 267 Đồng Khởi GT 268 Dứa
TT Địa danh 269 Dừa 270 Dừa 271 Đúc 272 Đúc Sập 273 Đường Lòng 274 Đường Ranh 275 Gia Thạnh 276 Giác Long 277 Giồng 278 Giồng Bà Trụ 279 Giồng Bình 280 Giồng Bông 281 Giồng Chàm 282 Giồng Cốc 283 Giồng Cui 284 Giồng Dầu 285 Giồng Đế 286 Giồng Đình 287 Giồng Dưới 288 Giồng Găng 289 Giồng Ké 290 Giồng Keo 291 Giồng Nầng 292 Giồng Ngoan 293 Giồng Quới 294 Giồng Quýt 295 Giồng Sau 296 Giồng Trường 297 Gò 298 Gò Đàng 299 Gò Dinh 300 Gò Me 301 Gò Ổi 302 Gò Tra 303 Hai Bê 304 Hai Bình Vị trí CL MC MC GT BaT GT MC CL BaT BĐ BĐ BaT BaT BaT MC MC BĐ BaT BaT BaT BaT MC BaT BaT BĐ BĐ BĐ GT BaT TX BaT BaT CL BaT CL CL TT Địa danh 305 Hai Cần 306 Hai Chát 307 Hai Chiểu 308 Hai Công 309 Hai Cung 310 Hai Cưng 311 Hai Danh 312 Hai Đầu 313 Hai Di 314 Hai Điểm 315 Hai Diên 316 Hai Đính 317 Hai Đởm 318 Hai Dũng 319 Hai Hạnh 320 Hai Hòa 321 Hai Kê 322 Hai Khoắn 323 Hai Lục 324 Hai Mỹ 325 Hai Ngươn 326 Hai On 327 Hai Phí 328 Hai Quận 329 Hai Quang 330 Hai Ro 331 Hai Sáng 332 Hai Sạt 333 Hai Sơn 334 Hai Tấn 335 Hai Thưởng 336 Hai Tôn 337 Hai Trọng 338 Hai Trứ 339 Hai Trực 340 Hai Tuấn Vị trí BaT CL CL BaT CT CL CL CT CL CL CT CT BaT BĐ BĐ BĐ BĐ BaT CL BĐ CL BĐ CL BĐ CL BaT BĐ CT BĐ CT CL CL BĐ BaT BĐ BaT
TT Địa danh Vị trí 341 Hai Tường CL 342 Hậu Cứ CL 343 Hòa Bình BaT 344 Hòa Lộc MC 345 Hòa Lộc CL 346 Hòa Nghĩa CL 347 Hòa Phú MC 348 Hỏa Tiển BaT 349 Hội CT 350 Hội Đồng CT 351 Hưng Chánh BĐ 352 Hưng Long MC 353 Hương Điểm GT 354 Hương Mỹ MC 355 Hương Sư CT 356 K 20 GT 357 Kênh 3 tháng 2 BĐ 358 Kênh Ba Quang BĐ 359 Kênh Cũ CT 360 Kênh Đào BaT 361 Kênh Đê Bao BĐ 362 Kênh Đê Tây BĐ 363 Kênh Điều GT 364 Kênh Điều CT BĐ 365 Kênh Đình 366 Kênh Đồng Khởi MC BaT 367 Kênh Giữa BĐ 368 Kênh Giữa BĐ 369 Kênh Khu Phố 3 CL 370 Kênh Lứt BĐ 371 Kênh Mắc Miễu BĐ 372 Kênh Miễu BaT 373 Kênh Mới 374 Kênh Mới BĐ 375 Kênh Môi Trường BaT BaT 376 Kênh N2 TT Địa danh 377 Kênh Ngang 378 Kênh Ngang 379 Kênh Nổi 380 Kênh Ranh 381 Kênh Số 1 382 Kênh Sườn Ấp 1 383 Kênh Sườn Ấp 2 384 Kênh Tự Chảy 385 Kênh UB 386 Kênh Xáng 387 Kênh Xáng 388 Kênh Xáng 389 Khém Dưới 390 Khém Trên 391 Khu Phố 1 Phường 8 392 Kiến Vàng 393 Kiến Vàng 394 Kinh 395 Kinh 396 Kinh 397 Kinh Bảo Vàng 398 Kinh Cũ 399 Kinh Điều 400 Kinh Gãy 401 Kinh Giồng Xã 402 Kinh Lộ 403 Kinh Nông Dân 404 Kinh Tế Mới 405 Kinh Xáng 406 Kinh Xáng 407 Km 18 408 Lá 409 Lâm Văn Tư 410 Làng Nghề 411 Liên Xã 412 Liên Xã Vị trí BaT MC BĐ GT BĐ BaT BaT BaT CT BaT CT BĐ BĐ BĐ TX TX BĐ GT CL TX CL CL CT CL CL CL MC BaT TX BĐ BĐ MC BaT CL BaT CT
Vị trí TT Địa danh BaT 413 Liên Xã Lộ Mới CT 414 Lình BĐ 415 Lộ BĐ 416 Lộ 16 BĐ 417 Lộ 19 BĐ 418 Lộ Ấp 4 BĐ 419 Lộ Bờ Dâu BaT 420 Lộ Đá BaT 421 Lộ Giữa BĐ 422 Lộ Làng CL 423 Lộ Mới TX 424 Lộ Mới BĐ 425 Lộ Mới MC 426 Lộ Mới BĐ 427 Lộ Ngang TX 428 Lồ Ồ MC 429 Lồ Ồ MC 430 Lò Quay CT 431 Lộ Quẹo GT 432 Lộ Quẹo MC 433 Lộ Quẹo BaT 434 Lớn BĐ 435 Lớn CL 436 Long Khánh BĐ 437 Long Phụng BĐ 438 Long Thạnh GT 439 Lương Ngang GT 440 Lương Quới BaT 441 Lưu Niệm CL 442 Mai CL 443 Miễu BĐ 444 Miễu 445 Miễu Lộ Phú Nhuận TX 446 Miễu Lộ Tiểu Dự Án TX CT 447 Mô MC 448 Mỏ Cày TT Địa danh 449 Mới 450 Mới 451 Môn Nước 452 Mống 453 Một Tôn 454 Mười Bình 455 Mười Bửu 456 Mười Cưa 457 Mười Đẹt 458 Mười Điểm 459 Mười Dình 460 Mười Đôn 461 Mười Hai 462 Mười Lũy 463 Mười Phật 464 Mười Pho 465 Mười Phúc 466 Mười Phùng 467 Mười Sao 468 Mươi Sư 469 Mười Thắng 470 Mười Thành 471 Mười Thất 472 Mười Thị 473 Mười Xinh 474 Mương Điều 475 Mương Me 476 Mương Miễu 477 Mỹ Nhơn 478 Mỹ Quí 479 Mỹ Thạnh 480 Mỹ Trạch 481 Năm Be 482 Năm Bé 483 Năm Bình 484 Năm Bon Vị trí CL CT BaT MC BĐ BĐ BaT CL BĐ BĐ BaT CT CL BĐ MC CL BĐ BĐ CL CT CL BĐ BĐ BĐ CL MC BĐ BĐ BaT BaT GT MC BĐ CT CT BaT
TT Địa danh 485 Năm Bông 486 Năm Bong Bóng 487 Năm Cang 488 Năm Cao 489 Năm Chấm 490 Năm Châu 491 Năm Đá 492 Năm Đấu 493 Năm Điểm 494 Năm Định 495 Năm Hậu 496 Năm Hiến 497 Năm Hoài 498 Năm Khiểm 499 Năm Lãnh 500 Năm Lê 501 Năm Lễ 502 Năm Ngáy 503 Năm Ngươu 504 Năm Ó 505 Năm Phú 506 Năm Quảng 507 Năm Quế 508 Năm Sứ 509 Năm Tấn 510 Năm Thêm 511 Năm Thoi 512 Năm Thưởng 513 Năm Thượt 514 Năm Trừ 515 Năm Ù 516 Năm Vằn 517 Năm Xạ 518 Năm Xuyến 519 Ngã Bát 520 Ngãi Đăng Vị trí CL CL BĐ CL BaT CL CT CL CL BĐ CT CT CL BaT BĐ BaT CT CT BaT GT CL BĐ CT CT CL CL CT BĐ CT BĐ BĐ CL BaT BaT CL MC Vị trí TT Địa danh BaT 521 Ngãi Tây BaT 522 Ngang CT 523 Ngang BĐ 524 Ngang CT 525 Nghĩa Trang MC 526 Nghĩa Trang CL 527 Ngựa 528 Nguyễn Khánh BaT 529 Nguyễn Tấn Mẫn BaT 530 Nguyễn Tấn Ngãi GT 531 Nguyễn Văn Đặng BaT MC 532 Nhà Nguyện CT 533 Nhà Thờ CL 534 Nhà Thờ MC 535 Nhà Thờ TX 536 Nhà Thương BĐ 537 Nhật Minh BaT 538 Nhỏ BĐ 539 Nhỏ GT 540 Nò MC 541 Nước Chảy MC 542 Nước Trong CL 543 Ông BĐ 544 Ông Bái CL 545 Ông Bài BĐ 546 Ông Bang BĐ 547 Ông Bộ MC 548 Ông Bồng CT 549 Ông Cai MC 550 Ông Cai Tổng CL 551 Ông Cò MC 552 Ông Cớm CT 553 Ông Đa CT 554 Ông Địa BaT 555 Ông Điện MC 556 Ông Đình
TT Địa danh 557 Ông Hổ 558 Ông Lân 559 Ông Ngò 560 Ông Phổ 561 Ông Tạo 562 Ông Thảo 563 Ông Thung 564 Ông Trứ 565 Phú An 566 Phú Đa 567 Phú Đông 568 Phú Hào 569 Phú Hòa 570 Phú Hòa 1 571 Phú Hòa 2 572 Phú Hòa 3 573 Phú Hội 574 Phú Hưng 575 Phú Lễ 576 Phú Long 577 Phú Long 578 Phú Luông 579 Phú Mỹ 580 Phú Ngãi 581 Phú Nhuận 582 Phú Phụng 583 Phú Thành 584 Phú Thạnh 585 Phú Vang 586 Phú Xuân 587 Phước Lý 588 Phước Mỹ 589 Phước Tuy 590 Quốc 591 Quới Thành 592 Rạch Vị trí BĐ MC MC BĐ MC MC MC MC MC CL MC TX CL GT GT GT CL BĐ BaT CT CT CT BĐ BaT TX CL TX BĐ BĐ CL MC GT BaT BaT CT BĐ TT Địa danh 593 Rạch Bần 594 Rạch Bần 595 Rạch Cái 596 Rạch Cái Trầu 597 Rạch Cạn 598 Rạch Chùa 599 Rạch Chùa 600 Rạch Điều 601 Rạch Điều 602 Rạch Đình 603 Rạch Hàu Lớn 604 Rạch Hàu Nhỏ 605 Rạch Hồ Giữa 606 Rạch Kinh 607 Rạch Lá 608 Rạch Lò 609 Rạch Me 610 Rạch Miễu 611 Rạch Nứa 612 Rạch Ong 613 Rạch Phụng 614 Rạch Ranh 615 Rạch Rích 616 Rạch Sâu 617 Rạch Sấu 618 Rạch Sơn 619 Rạch Sự 620 Rạch Thành 621 Rạch Vinh 622 Rạch Vong 623 Rạch Vọp 624 Ranh 625 Ranh Phú Phụng 626 Ranh Tổng 627 Sân Bay 628 Sập Vị trí MC TP CL MC BĐ CT CL MC CL CT CL CL BĐ CL BaT CT CT CT CT MC CL CL BĐ CL CT CT TX BĐ MC TX BaT CT CL MC TX MC
TT Địa danh 629 Sắt Lớn 630 Sắt Nhỏ 631 Sáu Ấm 632 Sáu Anh 633 Sáu Bò 634 Sáu Cái 635 Sáu Chiến 636 Sáu Cưng 637 Sáu Dên 638 Sáu Diễn 639 Sáu Êm 640 Sáu Hoành 641 Sáu Hùng 642 Sáu Kế 643 Sáu Mây 644 Sáu Ngoãn 645 Sáu Quãnh 646 Sáu Tài 647 Sáu Tằng 648 Sáu Thiểu 649 Sáu Thới 650 Sáu Tín 651 Sáu Trọng 652 Số 1 653 Số 1 654 Số 1 655 Số 1 656 Số 1 657 Số 10 658 Số 2 659 Số 2 660 Số 2 661 Số 2 662 Số 2 663 Số 3 664 Số 3 Vị trí MC MC BaT BaT CL BaT BĐ BĐ BaT BĐ CL BĐ BaT BaT BaT CL BaT BaT CL CL BĐ BĐ CL BaT GT CL CT BĐ CT BaT GT CL CT BĐ GT CL TT Địa danh 665 Số 3 666 Số 3 667 Số 4 668 Số 4 669 Số 4 670 Số 5 671 Số 5 672 Số 6 673 Số 7 674 Số 8 675 Số 9 676 Sơn 677 Sơn Đông 678 Sơn Mã 679 Sơn Phú 680 Sơn Phú 1 681 Sơn Phú 2 682 Sông Dọc 683 Sông Lưu 684 Song Mã 685 Sùng Tân 686 Sụp 687 Tài Phú 688 Tám Chiến 689 Tám Chiến 690 Tám Điền 691 Tám Đôi 692 Tám Hải 693 Tám Hoàng 694 Tám Lộng 695 Tám Mướt 696 Tám Quản 697 Tám Râu 698 Tám Sanh 699 Tám Thôi 700 Tân Bình Vị trí CT BĐ GT CL CT GT CT CT CT CT CT CL TX CT GT GT GT CT CL CT MC CL GT BaT CT CL BaT CT CT BĐ CL CT CL CL CL MC
Vị trí TT Địa danh BĐ 701 Tân Định MC 702 Tân Huề BĐ 703 Tân Hưng MC 704 Tân Nhuận TP 705 Tân Phong CT 706 Tân Phú CL 707 Tân Quý BaT 708 Tân Xuân GT 709 Tắt MC 710 Thanh Bắc MC 711 Thanh Bình MC 712 Thành Long BĐ 713 Thanh Niên BĐ 714 Thạnh Trị CT 715 Thành Triệu CL 716 Thanh Trung BĐ 717 Thanh Vàng CL 718 Thầy Cai TX 719 Thầy Cai BaT 720 Thầy Hội BaT 721 Thị Trấn BĐ 722 Thiên Mỹ MC 723 Thom BĐ 724 Thôn Phát BĐ 725 Thủ CT 726 Thủ BĐ 727 Thừa Lợi BĐ 728 Thừa Mỹ CL 729 Tiệm CT 730 Tiên Thủy BaT 731 Tổ 8 BĐ 732 Tổ 8 733 Tổ 9 BĐ 734 Tổ Nhân Dân Tự Quản 32 BaT CL 735 Trạm Y Tế BĐ 736 Trần Văn Tiếu Vị trí TT Địa danh CT 737 Tre Bông CT 738 Triệu Phan TX 739 Trôm CL 740 Trung Hòa MC 741 Trung Hòa GT 742 Trung Nhuận 743 Trùng Sình GT 744 Trung Ương Đoàn BaT BaT 745 Trường Đảng CT 746 Trường Học BĐ 747 Tư Bé CL 748 Tư Cung BaT 749 Tư Đấu CT 750 Tư Hai BĐ 751 Tư Hãnh BaT 752 Tư Hiền CT 753 Tư Long CL 754 Tư Mộc CL 755 Tư Sánh CL 756 Tư Thông CT 757 Tư Thuận CL 758 Tư Triều CL 759 Tư Trợ CL 760 Tư Trùm BĐ 761 Tư Voi CL 762 Tư Xem BaT 763 Tượng CL 764 Út Khoe CL 765 Út Nam CL 766 Út Tề BaT 767 Út Xê CL 768 Ủy Ban CT 769 Ủy Ban CL 770 V 100 Công BĐ 771 Vàm Hồ MC 772 Vàm Thanh Hà
TT Địa danh 773 Ván 774 Ván 775 Văn Tám 776 Vật Tư 777 Vĩ 778 Vĩ 779 Việc Giữa 780 Việt Hoa 781 Việt Sử 782 Vĩnh An 783 Vĩnh An 784 Vĩnh Chính 785 Vĩnh Hòa 786 Vĩnh Hòa 787 Vòng Xoáy 788 Vũng Luông 789 Xã Cương Vị trí BĐ MC BaT CT TX BaT BĐ MC GT BĐ BaT CL CL BaT CL BĐ CT TT Địa danh 790 Xã Diệu 791 Xã Lắm 792 Xây 793 Xẽo Môn 794 Xẽo Ông Tượng 795 Xẽo Tràm Cu 796 Xẽo Tre 797 Xẽo Trong 798 Xẽo Trú 799 Xép 800 Xóm Chỉ 801 Xóm Chùa 802 Xóm Cối 803 Xóm Lưới 804 Xóm Mới 805 Xóm Quả 806 Yên Hòa Vị trí BaT CL BaT GT BaT BĐ MC GT BaT CL CL BĐ MC BĐ BĐ BaT BĐ
2.7. CỐNG: 307 địa danh
TT Địa danh 887 1 1B- N3 2 2B 3 4 9B 5 An Bình Tây 6 An Đức 7 An Hóa 8 An Hòa Tây 9 Ao Vuông 10 Ấp 2 11 Bà Biếu 12 Ba Chi 13 Bà Chơn 14 Ba Chữ 15 Ba Cô 16 Ba Cường 17 Bà Dung Vị trí GT BaT BaT GT BaT BaT CT BaT BĐ CT CL CL MC CL BaT CL CL TT Địa danh 18 Bà Hạp 19 Bà Hiền 20 Ba Hoa 21 Bà Hu 22 Bà Khắc 23 Ba Khương 24 Ba Kiểu 25 Ba Lai 26 Ba Lẹ 27 Ba Lô 28 Ba Lư 29 Ba Minh 30 Bà Mô 31 Ba Nghị 32 Ba Sánh 33 Bà Tham 34 Ba Trơn Vị trí TP BaT CL GT BaT CL CL BĐ CL BaT CL CL GT CL CL CL BaT
TT Địa danh 35 Bần Quỳ 36 Bảy Bá 37 Bảy Cường 38 Bảy Đèn 39 Bảy Đèo 40 Bảy Đốc 41 Bảy Đùm 42 Bảy Liêm 43 Bảy Ngài 44 Bảy Ngô 45 Bảy Ngon 46 Bảy Nhiếp 47 Bảy Sanh 48 Bảy Tí 49 Bể 50 Bé Hai 51 Bến Đò Gãnh 52 Bình Bát 53 Bình Lợi 54 Bình Lợi 55 Bình Tây 56 Bình Thành 57 Bình Thành 1 58 Bình Thành 2 59 Bình Thành 3 60 Bình Thuận 61 Bờ Đình 62 Bưng Cát 63 Cả 64 Cả Long 65 Cả Lức 66 Cả Muồng 67 Cả Rạn Sâu 68 Cái Bần 69 Cái Bông 70 Cái Cá Vị trí GT CL GT CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL BĐ CL BaT MC BaT GT BaT GT GT GT GT GT BaT MC TP BĐ MC BĐ TP TP BaT TP Vị trí TT Địa danh CT 71 Cái Cấm TP 72 Cái Lứt MC 73 Cái Lứt GT 74 Cái Mít BĐ 75 Cái Muồng BĐ 76 Cấp MC 77 Cầu Đá MC 78 Cầu Dong CL 79 Cầu Mai MC 80 Cầu Mai BaT 81 Cầu Ngang TP 82 Cầu Tàu BaT 83 Cầu Vĩ CT 84 Cầu Vĩ GT 85 Cây Da MC 86 Cây Keo BaT 87 Cây Mai BĐ 88 Cây Mương Đôi CT 89 Cây Sung BĐ 90 Chà Là GT 91 Châu Bình GT 92 Châu Phú CL 93 Chín Ca CL 94 Chín Đông CL 95 Chín Giác CL 96 Chín Hai BaT 97 Chín Lớn CL 98 Chín Phối CL 99 Chín Thưởng CL 100 Chín Tượng MC 101 Chín Út TX 102 Chợ Giữa 103 Chợ Hương Điểm GT TP 104 Chùa CL 105 Chùa GT 106 Cô Ba
TT Địa danh 107 Cô Ba 108 Cổ Ráng 109 Đá 110 Đạo Bông 111 Đất Thánh 112 Đầu Kênh Nổi 113 Đình 114 Dinh Điền 115 Đường Khai 116 Giao Hòa 117 Giồng Hổ 118 Giồng Lân 119 Giồng Nhựt 120 Giồng Quéo 1 121 Giồng Quéo 2 122 Giồng Quí 123 Giồng Trôm 1 124 Giồng Trôm 2 125 Giồng Trường 126 Gò Chùa 127 Gò Dưa 128 Hai Chiểu 129 Hai Cửa 130 Hai Đê 131 Hai Đởm 132 Hai Hoài 133 Hai Khuyên 134 Hai Kinh 135 Hai Leo 136 Hai Liêm 137 Hai Linh 138 Hai Ngoắc 139 Hai Nhỏ 140 Hai Sa 141 Hai Thu 142 Hai Xã Vị trí BaT TP MC CL CL BĐ CL BĐ BaT CT BĐ BaT BaT BaT BaT BaT GT GT GT BaT BaT CL BaT CL BaT CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL TT Địa danh 143 Hai Xệ 144 Hồ Sen 145 Hoàng Oanh 146 Hóc Môn 147 Hội Đồng Mẹo 148 Hội Đồng Tỉnh 149 Hưng Nhượng 150 Hương Điểm 151 K20 152 Kênh Giữa 153 Láng Sen 154 Láng Sen 155 Láng Sen 1 156 Láng Sen 2 157 Lê Hoàng 158 Lộ 885 159 Lộ Chồi 160 Lộ Chùa 161 Lộ Quẹo 162 Lộ Vĩnh Hòa 163 Long Hòa 1 164 Long Hòa 2 165 Lương Hòa 1 166 Lương Hòa 2 167 Lương Hòa 3 168 Maxken 169 Mun 170 Mười Cửa 171 Mười Đầy 172 Mười Hai 173 Mười Lời 174 Mười Phước 175 Muời Rạng 176 Mười Soát 177 Mương Bà 178 Mương Bí Vị trí CL GT CL MC CT GT GT GT GT BaT BaT GT BaT BaT CL BaT BaT CT BaT BaT BĐ BĐ GT GT GT GT BaT BaT CL CL CL CL CL CL BaT BaT
Vị trí TT Địa danh BaT 179 Mương Đào GT 180 Mỹ Thạnh 1 GT 181 Mỹ Thạnh 2 BĐ 182 N1 BĐ 183 N2 CL 184 Năm Bộ CL 185 Năm Bông BĐ 186 Nam Đà CL 187 Năm Da CL 188 Năm Đô BĐ 189 Năm Hưng CL 190 Năm Khương CL 191 Năm Mực CL 192 Năm Nghiêm CL 193 Năm Nôi CL 194 Năm Phát CL 195 Năm Phước CL 196 Năm Tân GT 197 Hương Điểm BaT 198 Năm Xạ CL 199 Năm Xuân 200 Ngã Ba GT 201 Ngã Ba Cây Trâm MC CT 202 Ngã Tư Huyện GT 203 Nhà Thờ BĐ 204 Nò Sâu CL 205 Ông Bái BĐ 206 Ông Bộ CL 207 Ông Bùi CL 208 Ông Đấu CL 209 Ông Ép CL 210 Ông Hà BĐ 211 Ông Hổ GT 212 Ông Hoằn TX 213 Ông Tướng GT 214 Phong Mỹ Vị trí TT Địa danh GT 215 Phong Nẫm CT 216 Phú Hưng CT 217 Phú Nhuận CT 218 Quới Sơn CL 219 Rạch Bàu BĐ 220 Rạch Chim CL 221 Rạch Chợ CL 222 Rạch Chổi CL 223 Rạch Chồn CL 224 Rạch Chùa GT 225 Rạch Điều BaT 226 Rạch Điều BĐ 227 Rạch Khém Trên BaT 228 Rạch Lá BĐ 229 Rạch Miểu 230 Rạch Mương CL 231 Rạch Mương Dưới BĐ 232 Rạch Mương Trên BĐ GT 233 Rạch Nò BaT 234 Rạch Nò CL 235 Rạch Sung BĐ 236 Rạch Thị Điềm BaT 237 Rạch Ụ TP 238 Ráng Sâu BaT 239 Rừng Cốc CL 240 Sáu Đắng CL 241 Sáu Liêm CL 242 Sáu Tấn CL 243 Số 1 CL 244 Số 12 BaT 245 Số 15 CL 246 Số 2 BĐ 247 Số 3 GT 248 Sơn Đốc GT 249 Sơn Phú GT 250 Tạm
TT Địa danh 280 Tổng Can 281 Trại Già 282 Trẹm 283 Trưởng Yên 284 Tư Bụng 285 Tư Cầm 286 Tư Đê 287 Tư Giáo 288 Tư Hùng 289 Tư Sanh 290 Tư Tam 291 Tư Thuận 292 Tư Tòng 293 Tư Trợ 294 Tư Tươi 295 Tường Đa 296 Út Bòn 297 Út Lụa 298 Út Nhậm 299 Vàm Đồn 300 Vàm Hồ 301 Vinh Điền 302 Xã Phú Nhuận 303 Xẽo Đá 304 Xẽo Đôi 305 Xẽo Sâu 306 Xẽo Vườn 307 Yên Hào Vị trí TP BaT GT BaT CL CL CL CL CL CT CL CL CL CL CL CT CL CL CL MC BaT BĐ TX BĐ BaT BaT TP BĐ
Vị trí TT Địa danh BaT 251 Tám Cuộc TP 252 Tám Dóc CT 253 Tám Hà CL 254 Tám Nghề CL 255 Tám Tống CL 256 Tám Trợ BaT 257 Tám Tung GT 258 Tân Bình GT 259 Tân Hòa BaT 260 Tân Hòa BaT 261 Tân Hưng MC 262 Tân Hương TP 263 Tân Lợi GT 264 Tân Thanh GT 265 Tân Thanh 1 GT 266 Tân Thanh 2 267 Tân Thủy BaT 268 Tập Đoàn Thị Trấn GT MC 269 Thanh Tân BĐ 270 Thị Nhiều BaT 271 Thị Trấn GT 272 Thị Trấn MC 273 Thị Trấn GT 274 Thủ Cựu BĐ 275 Thủ Sử CT 276 Thương Binh GT 277 Tiêu 2B BaT 278 Tiêu Khu Rạch Lá CL 279 Toàn Phát
2.8. CÔNG VIÊN: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Bến Tre Vị trí TX TT Địa danh 2 Châu Thành Vị trí CT
2.9. CHỢ: 171 địa danh
Vị trí TT Địa danh BaT 1 An Bình Tây TP 2 An Điền BaT 3 An Đức CT 4 An Hiệp BaT 5 An Hiệp CT 6 An Hóa TX 7 An Hòa BaT 8 An Hòa BaT 9 An Hòa Tây BaT 10 An Ngãi Tây BaT 11 An Ngãi Trung BaT 12 An Phú Trung TP 13 An Qui CT 14 Âp 4 TP 15 Ấp 6 BĐ 16 Âp Phước Bình BĐ 17 Ấp Phước Lợi MC 18 Ba Vát BaT 19 Bãi Ngao MC 20 Bang Tra BaT 21 Bảo Thạnh BaT 22 Bảo Thuận BaT 23 Bến Bàu TP 24 Bến Dinh TP 25 Bến Sung GT 26 Bến Tranh TX 27 Bến Tre BaT 28 Bến Vựa GT 29 Bình Hòa 30 Bình Khánh Đông MC GT 31 Bình Long TX 32 Bình Phú BĐ 33 Bình Thới TP 34 Bồn Bồn Vị trí TT Địa danh CL 35 Cái Gà TP 36 Cái Lức GT 37 Cái Mít CL 38 Cái Mơn CT 39 Cái Nứa MC 40 Cái Quao CL 41 Cái Sơn CL 42 Cái Tre MC 43 Cẩm Sơn TX 44 Cầu Bà Mụ MC 45 Cầu Bắc MC 46 Cầu Mống CT 47 Cây Da GT 48 Châu Bình BĐ 49 Châu Hưng GT 50 Châu Phú GT 51 Châu Thới TP 52 Cồn Hươu TP 53 Cống Xẽo Vườn TX 54 Đầu Mối Nông Thủy Sản 55 Đầu Mối Thủy Sản Đê Đông BĐ TP 56 Dệt Thảm MC 57 Định Thủy BĐ 58 Định Trung MC 59 Gia Thạnh CT 60 Giao Long CL 61 Giồng TP 62 Giồng Chùa MC 63 Giồng Dầu BaT 64 Giồng Giá MC 65 Giồng Keo TP 66 Giồng Luông TP 67 Giồng Miễu TP 68 Giồng Ớt
Vị trí TT Địa danh MC 69 Giồng Văn TX 70 Giữa MC 71 Hòa Lộc TP 72 Hòa Lợi CL 73 Hòa Nghĩa GT 74 Hưng Phong GT 75 Hương Điểm CT 76 Hữu Định MC 77 Kênh MC 78 Kênh Ngang TX 80 Khu Vực Phường 7 CL 81 Kinh Gãy CL 82 Kinh Lai Phụng GT 83 Linh Phụng BĐ 84 Lộc Thành BĐ 85 Lộc Thuận BĐ 86 Long Định 87 Long Hòa BĐ 88 Long Thới (Cái Nhum) CL GT 89 Lương Quới GT 90 Mới TP 91 Mỹ An BaT 92 Mỹ Hòa BaT 93 Mỹ Lợi BaT 94 Mỹ Nhơn GT 95 Mỹ Thạnh TX 96 Mỹ Thạnh An GT 97 Ngã Ba TP 98 Ngã Ba Sân Trâu TX 99 Ngã Năm CT 100 Ngã Tư MC 101 Ngã Tư An Hòa TX 102 Nhơn Thạnh GT 103 Phú Điền CT 104 Phú Đức TP 105 Phú Khánh TT Địa danh 106 Phú Lễ 107 Phú Lộc Hạ 108 Phú Long 109 Phú Long Phụng 110 Phú Mỹ 111 Phú Ngãi 112 Phú Nhuận 113 Phú Phụng 114 Phú Thuận 115 Phú Túc 116 Phú Vang 117 Phước Hậu 118 Phước Hiệp 119 Phước Mỹ 120 Phước Tường 121 Phước Tuy 122 Quới Điền 123 Quới Sơn 124 Quới Thành 125 Sơn Đốc 126 Sơn Đông 127 Sơn Phú 128 Song Lân 129 Tân Bình 130 Tân Huề Đông 131 Tân Hưng 132 Tân Hương 133 Tân Phong 134 Tân Phú 135 Tân Phú Tây 136 Tân Thạch 137 Tân Thành 138 Tân Thành 139 Tân Thiện 140 Tân Thông 2 141 Tân Trung Vị trí BaT MC CL TP CT BaT TX CL BĐ CT BĐ CT MC GT CT BaT TP CT CT GT TX GT CL BaT CT BaT MC TP CT MC CT TX BaT MC MC MC
TT Địa danh 142 Tân Xuân 143 Thành An 144 Thạnh Thọ 145 Thành Thới A 146 Thạnh Trị 147 Thành Triệu 148 Thanh Trung 149 Thị Trấn Ba Tri 150 Thị Trấn Bình Đại 151 Thị Trấn Chợ Lách 152 Thị Trấn Giồng Trôm 153 Thị Trấn Mỏ Cày 154 Thới Lai 155 Thới Lộc 156 Thới Thuận Vị trí BaT MC BaT MC BĐ CT CL BaT BĐ CL GT MC BĐ CL BĐ Vị trí TT Địa danh MC 157 Thom BĐ 158 Thừa Đức MC 159 Tích Khánh BaT 160 Tiệm Tôm CT 161 Tiên Long CT 162 Tiên Thủy MC 163 Trường Thịnh 164 Tường Đa CT 165 Vang Quới Đông BĐ BĐ 166 Vang Quới Tây BaT 167 Vĩnh An CL 168 Vĩnh Bình CL 169 Vĩnh Hòa GT 170 Vũng Sình MC 171 Xép
2.10. ĐÊ: 45 địa danh
TT Địa danh 1 An Hòa Tây 2 Ba Lai 3 Bảo Thạnh 4 Bảo Thuận 5 Biển 6 Đường Tắt 7 Giồng Quí 8 Hàm Luông 9 Rạch Lá 10 Rừng Cốc 11 Tân Thủy 12 Tân Xuân 13 Vĩnh An 14 Biển 15 Bình Thắng 16 Bình Thới 17 Đông 18 Quốc Phòng 19 Tây Vị trí BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ TT Địa danh 20 Thạnh Phước 21 Thừa Đức 22 An Hiệp 23 Bổn Thôn 24 Cồn Cò 25 Cồn Dơi 26 Cồn Khánh Hội 27 Cồn Lát 28 Cồn Tiên Lợi 29 Phú Ninh 30 Quới Thành 31 Tân Bắc 32 Tân Tây 33 Thành Triệu 34 Thôn Đại 35 Tiên Thủy 36 Ấp 8 37 Khánh Bắc 38 Cổ Chiên Vị trí BĐ BĐ CT CT CT CT CT CT CT CT CT CT CT CT CT CT GT MC MC
TT Địa danh 39 Cồn Bần 40 Cồn Cát 41 Cồn Dung 42 Cồn Nẩy Vị trí MC MC MC MC Vị trí TT Địa danh 43 Sông Cái Cấm MC 44 Sông Hàm Luông MC MC 45 Vàm Đồn
2.11. ĐẬP: 26 địa danh
TT Địa danh 1 Bà Chơn 2 Ba Lai 3 Bến Dong Nhỏ 4 Cả Rán Cạn 5 Cái Bần 6 Cái Quao 7 Cầu Lá 8 Cống Chùa 9 Đ1 10 Đ3 11 Đình 12 Giồng Chùa 13 Hiên Ngang Vị trí MC BĐ TP TP TP MC MC TP TP TP MC TP GT TT Địa danh 14 Khém Heo 15 Lá 16 Mười Kèo 17 Nhì Đình 18 Ông Chói 19 Phú Mỹ 20 Rạch Dòng 21 Rạch Trôm 22 Tàng Dù 23 Vàm Đất Bụng 24 Vàm Đình 25 Xẽo Ngang 26 Xếp Thủ Vị trí CT MC MC TP CL MC TP CT TP CT CT TP CT
2.12. ĐƯỜNG: 209 địa danh
TT Địa danh 3 tháng 2 1 30 tháng 4 2 30 tháng 4 3 30 tháng 4 4 5 An Bình Tây 6 An Điền 7 An Hiệp 8 An Hòa Tây 9 An Ngãi Tây 10 An Phú Trung 11 An Thới 12 An Thủy 13 Ấp Long Hưng Vị trí TX TX BaT BĐ BaT TP BaT BaT BaT BaT MC BaT BĐ Vị trí TT Địa danh BĐ 14 Ba Đa BĐ 15 Bà Nhiên BĐ 16 Bà Nhựt BĐ 17 Bắc Nam BaT 18 Bãi Ngao BaT 19 Bảo Thạnh BaT 20 Bảo Thuận BĐ 21 Bến Cò 22 Bến Giồng BĐ 23 Bình Khánh Đông MC BĐ 24 Bình Lộc TX 25 Bình Phú MC 26 Bình Tây
Vị trí TT Địa danh BĐ 27 Bình Thắng BaT 28 Bình Thành BĐ 29 Bình Thới BĐ 30 Bình Trung MC 31 Bùi Quang Chiêu 32 Bùi Sĩ Hùng BĐ 33 Cách Mạng Tháng Tám TX MC 34 Cẩm Sơn BĐ 35 Cầu Chùa BĐ 36 Cầu Suối BaT 37 Cây Da Đôi BĐ 38 Cây Dương BĐ 39 Cây Quéo TX 40 Chi Lăng 1 TX 41 Chi Lăng 2 BaT 42 Chu Văn An BaT 43 Cồn Đất MC 44 Công Lý MC 45 Đa Phước Hội TX 46 Đại Lộ Đồng Khởi BaT 47 Đê Biển BaT 48 Đê Sông Ba Lai MC 49 Đê Sông Cổ Chiên BaT 50 Đê Sông Hàm Luông BĐ 51 Đê Tây MC 52 Định Thủy TX 53 Đoàn Hoàng Minh TX 54 Đống Đa BĐ 55 Đồng Khởi BaT 56 Đồng Năng BĐ 57 Đường Sân Banh BĐ 58 Giồng Bà Trương BĐ 59 Giồng Binh BĐ 60 Giồng Cây Tre BĐ 61 Giồng Chùa BĐ 62 Giồng Giữa Vị trí TT Địa danh BĐ 63 Giồng Kiến BĐ 64 Giồng Lớn BĐ 65 Giồng Ngánh BĐ 66 Giồng Nhỏ BĐ 67 Giồng Sao BĐ 68 Giồng Tre BaT 69 Giồng Trôm TX 70 Hai Bà Trưng MC 71 Hòa Lộc BaT 72 Hoàng Diệu BaT 73 Hoàng Hoa Thám TX 74 Hoàng Lam BĐ 75 Hưng Chánh MC 76 Hưng Khánh Trung TX 77 Hùng Vương MC 78 Hương Mỹ BĐ 79 Huỳnh Tấn Phát MC 80 Khánh Thạnh Tân TX 81 Lãnh Binh Thăng TX 82 Lê Đại Hành TX 83 Lê Lai MC 84 Lê Lai TX 85 Lê Lợi BaT 86 Lê Lợi BaT 87 Lê Lương BĐ 88 Lê Phát Dân TX 89 Lê Quí Đôn BaT 90 Lê Tặng CT 91 An Hiệp- Tường Đa CT 92 Phước Thạnh- An Hóa CT 93 Quới Thành- Phú Đức CT 94 Sơn Hòa - Mỹ Thành CT 95 Sơn Hòa - Tiên Thủy 96 Tam Phước- Phước Thạnh CT CT 97 Tân Thạch- An Khánh CT 98 Thành Triệu- Phú Túc
Vị trí TT Địa danh 99 Tiên Long- Tân Phú CT 100 Tiên Thủy- Tiên Long CT BĐ 101 Lộ 18 BĐ 102 Lộ Bờ Dâu BĐ 103 Lộ Cây Trâm BĐ 104 Lộ Chủ Tính MC 105 Lộ Dây Thép BĐ 106 Lộ Giồng BĐ 107 Lộ Làng CT 108 Lộ Ngang BĐ 109 Lộ Ngang BĐ 110 Lò Rèn TX 111 Lộ Số 4 BĐ 112 Lộ Sườn BĐ 113 Long Hòa 2 BĐ 114 Long Phú BĐ 115 Long Quới TX 116 Lý Thường Kiệt BaT 117 Mạc Đĩnh Chi BĐ 118 Mắc Miễu BĐ 119 Mậu Thân BĐ 120 Miễu MC 121 Minh Đức BaT 122 Mỹ Chánh BaT 123 Mỹ Nhơn BaT 124 Mỹ Thạnh TX 125 Nam Kì Khởi Nghĩa BĐ 126 Ngã Ba Biên Thùy MC 127 Ngãi Đăng TX 128 Ngô Quyền BaT 129 Nguyễn Bích TX 130 Nguyễn Bỉnh Khiêm TX 131 Nguyễn Đình Chiểu BaT 132 Nguyễn Đình Chiểu BĐ 133 Nguyễn Đình Chiểu 134 Nguyễn Đình Chiểu MC TT Địa danh 135 Nguyễn Du 136 Nguyễn Du 137 Nguyễn Du 138 Nguyễn Huệ 139 Nguyễn Thị Định 140 Nguyễn Trãi 141 Nguyễn Trãi 142 Nguyễn Tri Phương 143 Nguyễn Trung Trực 144 Nguyễn Văn Tư 145 Nguyễn Thị Định 146 Nhà Thờ 147 Nhuận Phú Tân 148 Khu Ao Sen 149 Khu Chợ Chùa 150 Khu Phường 7 151 Khu Sao Mai 152 Ô2 153 Ông Bái 154 Ông Táo 155 Phan Đình Phùng 156 Phan Ngọc Tòng 157 Phan Ngọc Tòng 158 Phan Thanh Giản 159 Phú Hưng 160 Phú Hưng 161 Phú Lễ 162 Phú Mỹ 1 163 Phú Mỹ 2 164 Phú Ngãi 165 Phú Sơn 166 Phú Thạnh 167 Phú Trạch 168 Phước Hiệp 169 Phước Mỹ Trung 170 Phước Tuy Vị trí TX BaT MC TX TX TX BaT BaT TX TX BĐ BĐ MC TX TX TX TX BaT BĐ BĐ TX TX BaT MC TX BĐ BaT BĐ BĐ BaT MC BĐ MC MC MC BaT
TT Địa danh 191 Thủ Khoa Huân 192 Tỉnh 887 Cũ 193 Trạm Đăng Kiểm 194 Trần Bình Trọng 195 Trần Hưng Đạo 196 Trần Ngọc Giải 197 Trần Quốc Toản 198 Trần Quốc Tuấn 199 Trưng Nhị 200 Trưng Trắc 201 Trương Định 202 Trương Định 203 Trường Thịnh 204 Trương Vĩnh Ký 205 Vàm Đồn 206 Vĩnh An 207 Vĩnh Hòa 208 Võ Thị Phò 209 Võ Trường Toản
TT Địa danh 171 Quang Trung 172 Rạch Cạn 173 Rạch Gừa 174 Sương Nguyệt Anh 175 Tân Bình 176 Tân Hưng 177 Tán Kế 178 Tân Phú Tây 179 Tân Thành Bình 180 Tân Trung 181 Tân Xuân 182 Tẻ 183 Thành An 184 Thạnh Ngãi 185 Thanh Tân 186 Thành Thới A 187 Thành Thới B 188 Thạnh Trị 189 Thị Trấn 190 Thủ Khoa Huân Vị trí BaT BĐ BĐ BaT MC BaT TX MC MC MC BaT TX MC MC MC MC MC BĐ BaT TX Vị trí BaT TX TX BaT BaT BĐ BaT TX BaT BaT TX BaT MC MC MC BaT BaT BĐ BaT
2.13. HUYỆN LỘ: 61 địa danh
1 2 3 4 5 6 7 8 9
TT Địa danh 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 10 11 10 12 11 13 12 14 12 Vị trí BaT+CT+GT CT CT CT TX BĐ BĐ BĐ BĐ GT BaT GT BaT BaT TT Địa danh 15 13 16 14 17 14 18 15 19 16 20 16 21 17 22 18 23 19 24 20 25 21 26 21 27 21 28 22 Vị trí BĐ BaT BaT BĐ BaT BaT MC MC MC MC CL CL MC MC
TT Địa danh 23 29 24 30 25 31 26 32 27 33 28 34 29 35 30 36 31 37 32 38 33 39 34 40 35 41 36 42 37 43 38 44 39 45 Vị trí MC TP TP TP TP TP TP TP CL CL CL CL CL CL CL CL CL TT Địa danh 40 46 41 47 173 48 173 49 175 50 176 51 177 52 178 53 179 54 180 55 181 56 182 57 183 58 184 59 187 60 188 61 Vị trí BĐ CL BaT+CT+GT CT CT CL CL CL CL CL CL CL CL CL CT CT
2.14. KÊNH: 425 địa danh
Vị trí TT Địa danh BĐ 3 tháng 2 1 GT 30 tháng 4 2 GT 3KA 3 GT+BaT 9A 4 BaT 9A 5 BaT 6 9B GT 9B 7 CT 8 An Hóa BĐ 9 Ao Vuông BĐ 10 Ấp 1 BaT 11 Ấp 1 An Hội BĐ 12 Ấp 2 13 Ấp 2 An Bình Tây BaT 14 Ấp 2 Mặt Trời Mọc BaT BaT 15 Ấp 3 BaT 16 Ấp 4 TT Địa danh 17 Ấp 4 18 Ấp 5 19 Ấp 5 20 Ấp 6 21 Ấp 6 22 Ấp 8 23 Ấp Bảo Hòa 24 Ấp Bến Vựa 25 Ấp Bờ Bàu 26 Ấp Giồng Dài 27 B 28 Bà Chà 29 Bà Chịu 30 Ba Chương 31 Bà Hiền 32 Ba Kiên Vị trí BĐ GT BT BaT GT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BĐ BaT BĐ BaT BĐ
TT Địa danh 33 Ba Mét Năm 34 Bà Mụ 35 Ba Nhân 36 Ba Nhẫn 37 Ba Tấn 38 Ba Tây 39 Bà Tây 40 Ba Tiết 41 Ba Trân 42 Ba Tri 43 Ba Tri Rơm 44 Ba Trung 45 Ba Trương 46 Bắc Kỳ 47 Bảo Vàng 48 Bàu Cá 49 Bàu Giá 50 Bàu Mây 51 Bàu Vôi 52 Bảy Hạnh 53 Bảy sang 54 Bảy Thôn 55 Bến Thang 56 Bến Thang Cũ 57 Bến Dong 58 Bình Bát 59 Bình Khương 60 Bình Lợi 61 Bình Tây 62 Bình Thành 63 Bờ Bàu 64 Bờ Đáy 65 Bờ Đáy 66 Bổn Hơn 67 Bưng Cát 68 Cả Rán Sâu Vị trí BaT BĐ BĐ MC BĐ GT BĐ BĐ GT BaT GT BĐ BĐ BĐ CL MC BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BaT BaT BaT MC GT GT MC GT BaT BĐ GT BĐ MC TP TT Địa danh 69 Cái Bông 70 Cái Cá 71 Cái Cai 72 Cái Cau 73 Cái Cui 74 Cái Mít 75 Cái Muồng 76 Cái Quao 77 Cai Thông 78 Căn Cứ 79 Cánh Đồng Phụng 80 Cặp Đê Nông Trường 81 Cặp lộ 885 82 Cầu Lón 83 Cầu Miễu 84 Cầu Nhỏ 85 Cầu Sập 86 Cầu Sắt 87 Cầu Sắt 88 Cầu Suối 89 Cầu Tàu 90 Cây Cui 91 Cây Da 92 Cấy Dương 93 Cây Me 94 Cây Me Ấp 2 95 Cây Ổi 96 Cây Sộp 97 Cây Sung 98 Chà Là 99 Chà Và 100 Champeaux 101 Châu Hà 102 Chẹt Sậy 103 Chiến Lược 104 Chín A Vị trí BT TP TP BĐ CT GT BĐ MC BaT BT BaT BaT BaT BĐ BĐ BĐ BaT BaT BĐ BĐ TP BĐ GT BaT BĐ BaT BĐ CL CT TP MC BĐ BĐ GT CL GT
Vị trí BĐ BĐ TP
TT Địa danh 105 Chín Lù 106 Chín Tây 107 Chín Thước 108 Chợ An Hòa Tây BaT BĐ 109 Chú Lừng MC 110 Chùa GT 111 Cô Ba BaT 112 Cô Ba Cấp Đê BĐ 113 Cô Muồng TP 114 Cổ Ráng BaT 115 Cống Đá BĐ 116 Cống Đá BaT 117 Cống Lá BaT 118 Cống Mun CT 119 Cũ GT 120 Dang Dở MC 121 Đào 122 Đào Trung Đông MC BĐ 123 Dầu Gió BĐ 124 Đê Bao BĐ 125 Đê Tây BaT 126 Đìa Tre CT 127 Điều BĐ 128 Đình TP 129 Dinh Cùng BĐ 130 Dinh Điền 131 Đình Lương Hòa GT BĐ 132 Đốc Phủ Xũng BaT 133 Đồng Cỏ Chỉ MC 134 Đồng Khởi CL 135 Đổng Khởi A BaT 136 Đồng Muối BaT 137 Đồng Rẫy BĐ 138 Đồng Xuân BaT 139 Đường Long CT 140 Đường Tỉnh 886 Vị trí TT Địa danh TP 141 Eo Lói CL 142 Gãy BaT 143 Giải Phóng BĐ 144 Giáo Dương BĐ 145 Giao Hòa CT 146 Giao Hòa BaT 147 Giồng Ấp 4 BaT 148 Giồng Bông BaT 149 Giồng Duối BaT 150 Giồng Găng BĐ 151 Giồng Kiến CL 152 Giồng Nứa BĐ 153 Giồng Quới BaT 154 Giồng Quýt BĐ 155 Giồng Sầm BaT 156 Giồng Sao BĐ 157 Giồng Say GT 158 Giồng Trôm MC 159 Giồng Võ CL 160 Giồng Xã BaT 161 Giữa BĐ 162 Giữa MC 163 Giữa Đồng GT 164 Gò Da GT 165 Gò Dưa GT 166 Gò Lá 167 Gò Lô 1 Bình Phú GT 168 Gò Lô 2 Bình Tiên GT GT 169 Gò Ông Đản GT 170 Gò Vôi GT 171 Hai Điền BĐ 172 Hai Hòa BĐ 173 Hai Mau MC 174 Hai Ngáo BĐ 175 Hai Tâm BĐ 2 tháng 9 176
TT Địa danh 177 Hai Trọng 178 Hai Trực 179 Hai Vân 180 Hiên Ngang 181 Hồ Chẹt 182 Hội Đồng Tinh 183 Hương Điểm 184 Hương Mỹ 185 Hữu Định 186 Huyện Quới 187 K20 188 Kênh 49 189 Kênh Leo 190 Khu Phố 1 191 Khu Phố 2 192 Khu Phố 3 193 Kiến Vàng 194 Láng 195 Láng Sen Vị trí BĐ BĐ GT GT BaT GT GT MC CT TP GT MC BĐ GT GT BĐ BĐ BĐ BaT TT Địa danh 213 Miểu Nhánh 1 214 Miểu Nhánh 2 215 Miễu Ông 216 Minh Thật 217 Mỏ Cày 218 Mới 219 Mới 220 Mới 221 Mười Biếu 222 Mười Cảnh 223 19 tháng 5 224 Mười Chúc 225 Mười Cộng 226 Mười Thị 227 Mười Trọn 228 Mương Bà 229 Mương Bí 230 Mương Đào 231 Mương Lá Vị trí BĐ BĐ GT MC MC BaT MC BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BaT BaT BaT BĐ
196 BaT 232 Mương Nhỏ BĐ Láng Sen An Phú Trung
197 Lê Nắm 198 Liên Xã 199 Lộ 2 200 Lộ Dài 201 Lộ Dài 202 Lớn 203 Long Hòa 1 204 Long Hòa 2 205 Lòng Ống 206 Long Quới 207 Lư Hội 208 Ma Cau 209 Mắc Miễu 210 Mặt Trời Mọc 211 Miễu 212 Miễu BĐ BĐ GT BT GT MC BĐ BĐ GT BĐ GT MC BĐ BaT BĐ GT 233 Mỹ Chánh 234 Mỹ Nhiên 235 Mỹ Nhơn 236 Mỹ Quý 237 N 4 238 N 9 239 N3 240 Năm Bình 241 Năm Hò 242 Năm Hường 243 Năm Ngổng 244 Năm Tới 245 Ngã Ba 246 Ngang 247 Ngang 248 Ngang BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT GT BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BaT BĐ MC
Vị trí TT Địa danh BĐ 249 Ngay BĐ 250 Nhà Chùa BĐ 251 Nhà Máy GT 252 Nhà Thờ TP 253 Nhà Thờ BĐ 254 Nhà Thờ BĐ 255 Nhà Thờ Ấp 4 BĐ 256 Nhánh 19-20 BĐ 257 Nhánh 21-22 MC 258 Nổi BĐ 259 Nổi 260 Nổi Châu Hưng BĐ 261 Nội Đồng Tiểu Vùng 1 GT 262 Nội Đồng Tiểu Vùng 2 GT BĐ 263 Nổi Long Hòa BĐ 264 Nông Hội BĐ 265 Nữ BĐ 266 Ông Ba Xíu CL 267 Ông Bái BĐ 268 Ông Bộ BĐ 269 Ông Cha MC 270 Ông Dân BĐ 271 Ông Địa CT 272 Ông Đốc BĐ 273 Ông Hai BĐ 274 Ông Hổ BĐ 275 Ông Năm BĐ 276 Ông Xược BĐ 277 Ông Xuyên GT 278 Phong Mỹ GT 279 Phong Nẫm BĐ 280 Phú Mỹ TP 281 Phụ Nữ BĐ 282 Phụ Nữ MC 283 Phú Thạch BĐ 284 Phú Thuận Vị trí TT Địa danh GT 285 Phú Thuận BaT 286 Phước Tuy BaT 287 Quân Khu 9 BĐ 288 Rạch Bà Cả BĐ 289 Rạch Bà Địa BĐ 290 Rạch Bà Mụ BĐ 291 Rạch Bà Nhuộm BaT 292 Rạch Ba Tri GT 293 Rạch Bần Quỳ BaT 294 Rạch Bến BĐ 295 Rạch Bến Đình BĐ 296 Rạch Cá Đuối BĐ 297 Rạch Cả Mới BĐ 298 Rạch Cả Ngang BĐ 299 Rạch Cả Nhỏ BĐ 300 Rạch Cái TP 301 Rạch Cái Bần BaT 302 Rạch Cái Bộng BĐ 303 Rạch Cạn BĐ 304 Rạch Cầu Đúc 1 BĐ 305 Rạch Cầu Đúc 2 BĐ 306 Rạch Cầu Đúc 3 BĐ 307 Rạch Chim BaT 308 Rạch Cốc BĐ 309 Rạch Cụt BaT 310 Rạch Điều BĐ 311 Rạch Dượng Một BĐ 312 Rạch Già BĐ 313 Rạch Giồng Đế BĐ 314 Rạch Gừa BaT 315 Rạch Lá BĐ 316 Rạch Long Phụng 317 Rạch Long Trường BĐ BĐ 318 Rạch Mây TP 319 Rạch Mũi BĐ 320 Rạch Mương Lá
TT Địa danh 321 Rạch Năm Bẹ 322 Rạch Năm Đà 323 Rạch Năm Miên 324 Rạch Nhỏ 325 Rạch Nò Cầu Nhỏ 326 Rạch Ông Chùm 327 Rạch Ông Táo 328 Rạch Phú Vang 329 Rạch Tám Nhật 330 Rạch Thông Phát 331 Rạch Tư Ngọng 332 Rạch Vàm Hồ 333 Rạch Vọp 334 Ranh 335 Ranh Giồng Trôm 336 Rau Ngỗ 337 Rẫy 338 Rừng Cốc 339 Sân Kho Bình Phú 340 Sáu Chiến 341 Sáu Đen 342 Sáu Ngạn 343 Sáu Thước 344 Số 1 345 Số 1 Dưới 346 Số 1 Trên 347 Số 2 348 Số 2 Dưới 349 Số 2 Trên 350 Số 3 351 Số 3 352 Số 5 353 Số 5 354 Sơn Cát 355 Sơn Đốc 356 Sơn Mã Vị trí BĐ BĐ BĐ BĐ BaT BaT BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BĐ BaT BaT BaT TP BĐ BaT GT BĐ BĐ BĐ MC MC BĐ BĐ TP BĐ BĐ MC BĐ MC BĐ BaT GT CT TT Địa danh 357 Sườn Ấp 2 358 T6 359 Tắt 360 Tắt 361 Tám Hòa 362 Tám Lọ 363 Tám Sinh 364 Tám Tỷ 365 Tân Định 366 Tân Hòa 367 Tân Hòa B 368 Tân Huề 369 Tân Hưng 370 Tân Hưng 371 Tân Hương 372 Tân Thủy 373 Tân Trung 374 Tân Xuân 375 Tàng Dù 376 Thanh Niên 377 Thanh Niên 378 Thầy Hội 379 Thom 380 Thủ Cửu 381 Thương Binh 382 Tiêu Lạc Địa 383 Tiêu T4 384 Tiêu T6 385 Tổ 9 386 Tổng Can 387 Tổng Hay 388 Triềng Dòng 389 Tràm Cu 390 Tự Chảy 391 Tư Danh 392 Tư Huân Vị trí BĐ BĐ GT GT GT BĐ BĐ BĐ BĐ MC MC MC BaT CL MC BaT MC BaT TP BĐ GT BaT MC GT CT BaT BĐ BĐ BĐ TP GT MC BĐ BaT BĐ BĐ
TT Địa danh 393 Tư Hưng 394 Tư Lùn 395 Tư Phủ 396 Tư Răng 397 Tư Trữ 398 Turc 399 UB 400 Út Bù 401 Văn Thanh Nhàn 402 Vành Đai 403 Việc Giữa 404 Vĩnh An 405 Vinh Đập 406 Vĩnh Phúc 407 Vĩnh Thành 408 Vườn Dừa 409 Xà Vị trí GT GT BĐ BĐ BaT CT CT BĐ TP GT BĐ BaT TP MC CL BĐ BĐ TT Địa danh 410 Xã Diệu 411 Xáng 412 Xáng 413 Xáng 414 Xáng 415 Xáng 10 416 Xáng 10 B 417 Xáng Mới 418 Xáng Mút 419 Xẽo Đôi 420 Xẽo Lớn 421 Xẽo Ranh 422 Xẽo Tre 423 Xẽo Vườn 424 Xóm Giồng 425 Xuôi Vị trí BaT BĐ CL CT MC BaT BaT BĐ MC BaT BĐ BĐ MC TP GT GT
2.15. LÀNG NGHỀ: 17 địa danh
TT Địa danh 1 TT Địa danh 10 Vị trí (Hoa kiểng) Thạnh Ngãi MC
2 (Hoa kiểng) Thanh Tân 11
3 4 12 13 MC BĐ BaT
5 14 MC CT
6 15 Vị trí (Bánh phồng) Phú Lễ BaT (Bánh phồng) Sơn GT Đốc (Bánh tráng) Mỹ Lồng GT (Cá khô) An Thủy BaT (Chỉ sơ dừa) An Thạnh (Chỉ sơ dừa) Khánh Thạnh Tân MC CT
7 16 BaT (Muối) Thạnh Phước (Rượu) Phú Lễ (Thủ công mỹ nghệ) An Hiệp (Thủ công mỹ nghệ) Châu Thành (Thủ công mỹ nghệ) Tân Thạch CT
8 17 MC (Thủy sản) Bình Thắng BĐ
9 (Đan lát) Phước Tuy (Dệt chiếu) Thành Thới B (Hoa kiểng) Chợ Lách- Cái Mơn CL
2.16. LỘ: 156 địa danh
Vị trí TT Địa danh TX 19 tháng 5 1 MC 2 26 tháng 3 MC 3 An Định BaT 4 An Đức MC 5 An Thạnh MC 6 An Thới CL 7 Ao Cá BĐ 8 Ấp 2 BaT 9 Ấp 3 BaT 10 Ấp 6 BaT 11 Ấp 9 BĐ 12 Ấp Long Hòa BaT 13 Bà Đình MC 14 Bà Mè CT 15 Bái Lễ BaT 16 Bãi Ngao CL 17 Bãi Rác BaT 18 Bàu Dừa 19 Bảy Thước BaT 20 Bình Khánh Đông MC 21 Bình Khánh Tây MC TX 22 Bình Phú CL 23 Bình Tây MC 24 Bình Tây CL 25 Bình Thanh BaT 26 Bờ Bé TX 27 Bờ Đắp MC 28 Bờ Đắp BĐ 29 Bờ Dâu BĐ 30 Bờ Đò CL 31 Bờ Dừa CT 32 Bờ Dừa CL 33 Bờ Gòn CT 34 Bờ Xoài CT 35 Bưng Giồng Dơi MC 36 Cà Dâm TT Địa danh 37 Cái Đô 38 Cam 39 Cẩm Sơn 40 Cầu Chùm Gắng 41 Cầu Mới 42 Cầu Nhà Việc 43 Cầu Quao 44 Cây Dương 45 Cây Dương 46 Cây Gừa 47 Chín Mừng 48 Chủ Tính 49 Chùa 50 Chùa 51 Đa Phước Hội 52 Đất Cúng 53 Dây Thép 54 Đìa Lớn 55 Điệp 56 Đình 57 Đình 58 Đình Phú Tự 59 Giá Thẻ 60 Giồng 61 Giồng Cà 62 Giồng Da 63 Giồng Kiến 64 Giồng Ngoan 65 Giồng Nứa 66 Giồng Tranh 67 Giồng Võ 68 Giồng Xoài 69 Giữa 70 Hồ Sen 71 Hòa Bình Dưới 72 Hòa Lộc Vị trí CL CT MC BaT TX TX MC CL MC MC CL BĐ BaT CT MC MC MC BaT CT BaT MC TX TP BĐ BĐ CT BĐ BaT CL CT MC TX BaT BaT BaT MC
Vị trí TT Địa danh CL 73 Hòa Lộc 1 CL 74 Hội CT 75 Hội Đồng Mẹo CL 76 Hưng Hòa 77 Hương Mỹ MC 78 Khánh Thạnh Tân MC CL 79 Kinh Cũ BĐ 80 Làng BaT 81 Lăng BaT 82 Liên Xã BĐ 83 Lò Rèn MC 84 Mặt Hàng MC 85 Miễu MC 86 Minh Đức CL 87 Mới BaT 88 Mới BĐ 89 Mới MC 90 Mới BaT 91 Mới Ấp 2 BaT 92 19 tháng 5 93 Mỹ Thành TX 94 Ngã Ba Ông Táo BĐ MC 95 Ngãi Đăng CT 96 Ngang BĐ 97 Ngang CT 98 Ngang CL 99 Nhơn Phú TX 100 Nhơn Thạnh CT 101 Ông Bồi CT 102 Ông Hổ MC 103 Ông Tổng TX 104 Phú Hữu CL 105 Phú Long TX 106 Phú Nhuận 107 Phú Trạch MC 108 Phước Mỹ Trung MC Vị trí TT Địa danh TX 109 Phường 6 CL 110 Quốc Âm Tự BaT 111 Rẫy BĐ 112 Sau CL 113 Sáu Khởi MC 114 Số 2 MC 115 Số 3 TX 116 Sơn Đông CL 117 Sơn Quy CL 118 Sông Lưu MC 119 Sông Tàu Chạy MC 120 Sùng Tân BĐ 121 Sườn CT 122 Tam Dương 123 Tân Bình MC 124 Tân Thành Bình MC MC 125 Tân Trung MC 126 Tập Đoàn BĐ 127 Tẻ MC 128 Thành An MC 129 Thanh Bắc MC 130 Thanh Đông MC 131 Thanh Hòa MC 132 Thanh Nam MC 133 Thạnh Ngãi MC 134 Thanh Tân MC 135 Thành Thới A MC 136 Thành Thới B CT 137 Thành Triệu TX 138 Thầy Cai BaT 139 Thầy Cai MC 140 Thầy Cai CT 141 Thầy Cai BaT 142 Thầy Thông MC 143 Thị Trấn CT 144 Thơ
TT Địa danh 145 Thợ Điếc 146 Tiểu Dự Án 147 Tổ 3 Cầu Vĩ 148 Trại 149 Trâm Bầu 150 Trụ Bon Vị trí MC TX BaT BaT MC MC TT Địa danh 151 Trung Hòa 152 Vàm Bình Phú 153 Vĩnh Chính 154 Vĩnh Hòa 155 Vĩnh Hòa 156 Xóm Dong Vị trí CL TX CL BaT MC MC
2.17. NGÃ BA: 38 địa danh
TT Địa danh 1 An Hiệp 2 Ấp 3 An Đức 4 3B 5 Ba Vát 6 Bền 7 Bình Thành 8 Bưng Cát 9 Châu Hòa 10 Chín Dậu 11 Chợ Xép 12 Chuồng Chó 13 Đê Đông 14 Hương Mỹ 15 Lộ Bà Đình 16 Lộ 19 tháng 5 17 Lộ Đất 18 Lộ Mới 19 Lộ Mống Vị trí CT MC BaT BaT MC MC GT MC GT MC MC BĐ BĐ MC BaT BaT CT CT CT TT Địa danh 20 Lương Quới 21 Mương Ông 22 Mỹ Chánh 23 Mỹ Thạnh 24 Mộng Thu 25 Nhà Máy Đường 26 Nhà Thương 27 Nhà Việc Cháy 28 Nhà Việc 29 Phú Hòa 30 Phú Ngãi 31 Phong Nẫm 32 Quới Thành 33 Sơn Đốc 34 Tân Xuân 35 Tiên Thủy 36 Tháp 37 Thom 38 Vàm Đồn Vị trí GT MC BaT BaT CL CT BĐ BaT BaT TP BaT GT CT GT BaT CT TX MC MC
2.18. NGÃ TƯ: 26 địa danh
TT Địa danh 1 An Bình Tây 2 An Định 3 An Định 4 An Hòa Vị trí BaT MC MC MC TT Địa danh 5 An Ngãi Trung 6 Cầu Sắt 7 Châu Thành 8 Chợ Khâu Băng Vị trí BaT BaT CT TP
TT Địa danh 9 Cống Bà Chí 10 Giồng Luông 11 Huyện 12 Mỹ Hòa 13 Nhà Hát 14 Nhà Thương 15 Phú Khương 16 Tán Dù 17 Tân Long Vị trí CT TP CT BaT BaT TP TX BĐ MC TT Địa danh 18 Tân Trung 19 Tân Trung 20 Thạnh Phước 21 Thành Thiện 22 Thạnh Trị 23 Thạnh Trung 24 Thừa Đức 25 Trường Thịnh 26 Tuần Đậu Vị trí MC MC BĐ MC BĐ CL BĐ MC CT
2.19. NGÃ NĂM: 2 địa danh
TT Địa danh 1 Ngã Năm Vị trí TX TT Địa danh 2 Nhị Tì Vị trí CT
2.20. QUỐC LỘ: 2 địa danh
TT Địa danh 57 1 Vị trí MC+CL+TP TT Địa danh 60 2 Vị trí MC+CT+TX
2.21. SÂN VẬN ĐỘNG: 8 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bến Tre 3 Bình Đại 4 Châu Thành Vị trí BaT TX BĐ CT TT Địa danh 5 Chợ Lách 6 Giồng Trôm 7 Mỏ Cày 8 Thạnh Phú Vị trí CL GT MC TP
2.22. TỈNH LỘ: 8 địa danh
TT Địa danh 882 1 883 2 884 3 885 4 Vị trí MC CT CT BaT Vị trí TT Địa danh TX 886 5 GT 887 6 888 7 TP 883B BĐ 8
2.23. TRẠI GIAM: 6 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bình Phú 3 Châu Bình Vị trí BaT TX GT TT Địa danh 4 K 20 5 K 26 6 Mỏ Cày Vị trí GT CL MC
2.24. VÒNG XOAY: 2 địa danh
Vị trí
TT Địa danh 1 Bình Phú Vị trí TX TT Địa danh 2 Ngã Ba Cây Trôm BĐ
3. ĐỊA DANH VÙNG
3.1. KHU: 4 địa danh
Vị trí
TT Địa danh 1 2 Trù mật An Hiệp CT BaT Trù mật Ba Tri TT Địa danh Vị trí BĐ 3 Trù mật Bình Đại 4 Trù mật Thành Thới MC
3.2. VÙNG: 6 địa danh
TT Địa danh 1 1 2 2 3 3 Vị trí BĐ BĐ BĐ TT Địa danh 4 Cầu Hòa Lạc Địa 5 6 Nghĩa Huấn Vị trí GT BaT GT
3.3. XÓM: 126 địa danh
TT Địa danh 1 Bà Câu 2 Bà Nhiên 3 Bà Thôn 4 Bắc Kỳ 5 Bàu Gốc 6 Bến 7 Bến Chòi 8 Bến Trại 9 Bến Trại 10 Bình Nguyên 11 Bìu Gà 12 Bún 13 Bưng 14 Cả Gà 15 Cái Bè Sâu 16 Cai Ngãi 17 Cầu 18 Cây Tràm 19 Cây Trâm 20 Chợ Cũ Vị trí BĐ BĐ BĐ CT GT TP TP BaT TP TX BaT MC BaT CL GT TX TX BĐ BĐ BaT TT Địa danh 21 Chợ Cũ 22 Chòi 23 Chồi 24 Chòi Bà Thược 25 Chòm Bần 26 Cò 27 Cối 28 Cồn Hươu 29 Cồn Kẽm 30 Cống 31 Cù Lao 32 Cửa Tiểu 33 Củi 34 Đầm 35 Đầm 36 Đầm 37 Đạo 38 Đầu Gà 39 Đầu Giồng 40 Đầu Trâu Vị trí BĐ BaT GT TP CL BaT TX TP BĐ CL BĐ BĐ BĐ BaT TP BaT BĐ TX BaT BĐ
Vị trí TT Địa danh BaT 41 Đáy BĐ 42 Đáy BĐ 43 Đìa Đôi GT 44 Dinh MC 45 Dứa BĐ 46 Đùi BaT 47 Gãnh Bà Hiền BaT 48 Giá BaT 49 Giò Gà GT 50 Giồng BĐ 51 Giồng CL 52 Giồng Bà Ngang BĐ 53 Giồng Bà Nhiên BaT 54 Giồng Bà Trang 55 Giồng Bà Trương BĐ 56 Giồng Bông BaT 57 Giồng Bùng Binh BĐ BĐ 58 Giồng Cà BĐ 59 Giồng Cây Me BaT 60 Giồng Cây Me TP 61 Giồng Chùa BaT 62 Giồng Chuối BaT 63 Giồng Cúc GT 64 Giồng Cui MC 65 Giồng Cui BaT 66 Giồng Cụt BaT 67 Giồng Dài MC 68 Giồng Dâu CL 69 Giồng Dâu BaT 70 Giồng Gạch BaT 71 Giồng Giá TX 72 Giồng Giá BaT 73 Giồng Giếng BĐ 74 Giồng Giếng TP 75 Giồng Hồ BaT 76 Giồng Lứt TT Địa danh Vị trí 77 Giồng Miễu BaT 78 Giồng Mù U BaT BĐ 79 Giồng Ông Neo 80 Giồng Ông Ngoan BaT BaT 81 Giồng Quéo BĐ 82 Giồng Rừng BaT 83 Giồng Sao BĐ 84 Giồng Sao BaT 85 Giồng Tràm TP 86 Giồng Tre BaT 87 Gò CL 88 Gò Cốc BĐ 89 Gò Mắc Miễu BĐ 90 Gò Mới BĐ 91 Hai Hổ BĐ 92 Hàng Cồng BĐ 93 Hốt Hỏa BĐ 94 Hương Diệu TX 95 Kênh GT 96 Kênh Rạp Rợp GT 97 Kiến Vàng BĐ 98 Kiến Vàng BaT 99 Lá Đang GT 100 Lá Đang BĐ 101 Lạc BaT 102 Lâm Đô MC 103 Lộ Đất Cúng MC 104 Lò Vôi BaT 105 Lưới BĐ 106 Mắc Miễu BaT 107 Mới BĐ 108 Mới BĐ 109 Muối MC 110 Nền Tự CL 111 Ngọn GT 112 Nhà Thờ
TT Địa danh 113 Nhà Thờ 114 Ông Hàm 115 Quả 116 Rạch Cùng 117 Rẫy 118 Rẫy 119 Rều Dưới Vị trí BĐ CL BaT BĐ BaT MC TP TT Địa danh 120 Rều Trên 121 Ruộng 122 Sân Cát 123 Thủ 124 Thủ Ba Lai 125 Trại 126 Trại Cá Vị trí TP TX BaT TP BĐ BaT BĐ
4. ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH
4.1. ẤP: 818 địa danh
TT Địa danh Vị trí 10 1 TP 20 2 TP 30 3 TP 40 4 TP 50 5 TP 60 6 TP 1 Xã Hữu Định 7 CT 1 (Tân Thanh 1) 8 BaT 1 (Tân Thành) 9 BaT 1 Thị trấn 10 BaT 1 Thị trấn 11 MC 1 Xã An Hiệp 12 BaT 1 Xã An Phước 13 CT 1 Xã Bình Thắng 14 BĐ 1 Xã Bình Thới 15 BĐ 1 Xã Châu Bình 16 GT BĐ 1 Xã Định Trung 17 1 Xã Hưng Nhượng GT 18 BĐ 1 Xã Long Hòa 19 GT 1 Xã Lương Quới 20 GT 1 Xã Lươngg Hòa 21 BaT 1 Xã Mỹ Nhơn 22 TX 1 Xã Nhơn Thạnh 23 GT 1 Xã Phong Mỹ 24 TX 1 Xã Phú Nhuận 25 GT 1 Xã Phước Long 26 TT Địa danh 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 1 Xã Sơn Đông 1 Xã Sơn Phú 1 Xã Tam Hiệp 1 Xã Tân Hào 1 Xã Thới Lai 1 Xã Thuận Điền 1 (Tân Định) 10 Xã Hưng Lễ 11 Xã Hưng Lễ 11 Xã Tân Hào 12 Xã Hưng Lễ 12 Xã Tân Hào 13 Xã Tân Hào 14 Xã Tân Hào 15 Xã Tân Hào 1A 1B 2 (Tân Bình) 2 (Tân Thanh 2) 2 Thị trấn 2 Xã An Phước 2 Xã An Hiệp 2 Xã Bình Hòa 2 Xã Bình Thắng 2 Xã Bình Thới 2 Xã Châu Bình Vị trí TX GT BĐ GT BĐ GT BaT GT GT GT GT GT GT GT GT GT GT BaT BaT MC CT BaT GT BĐ BĐ GT
TT Địa danh 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 Vị trí BĐ 2 Xã Định Trung 2 Xã Hưng Nhượng GT CT 2 Xã Hữu Định GT 2 Xã Lương Hòa GT 2 Xã Lương Quới BaT 2 Xã Mỹ Nhơn GT 2 Xã Phong Mỹ GT 2 Xã Phong Nẫm TX 2 Xã Phú Nhuận GT 2 Xã Phước Long TX 2 Xã Sơn Đông GT 2 Xã Sơn Phú BĐ 2 Xã Tam Hiệp GT 2 Xã Tân Hào BĐ 2 Xã Thới Lai GT 2 Xã Thuận Điền TX 2A GT 2A TX 2B GT 2B BaT 3 (Tân Thị) MC 3 Thị trấn BaT 3 Xã An Đức BaT 3 Xã An Hiệp CT 3 Xã An Phước GT 3 Xã Bình Hòa BĐ 3 xã Bình Thắng BĐ 3 Xã Bình Thới GT 3 Xã Châu Bình BĐ 3 Xã Định Trung 3 Xã Hưng Nhượng GT CT 3 Xã Hữu Định BĐ 3 Xã Long Hòa GT 3 Xã Lương Hòa GT 3 Xã Lương Quới BaT 3 Xã Mỹ Nhơn Vị trí TT Địa danh TX 3 Xã Nhơn Thạnh 89 GT 3 Xã Phong Mỹ 90 GT 3 Xã Phong Nẫm 91 TX 3 Xã Phú Nhuận 92 GT 3 Xã Phước Long 93 TX 3 Xã Sơn Đông 94 GT 3 Xã Sơn Phú 95 3 Xã Tam Hiệp BĐ 96 3 Xã Thạnh Phú Đông GT 97 BĐ 3 Xã Thới Lai 98 GT 3 Xã Thuận Điền 99 BaT 100 4 (Tân An) BaT 101 4 (Tân An) MC 102 4 Thị Trấn BaT 103 4 Xã An Đức BaT 104 4 Xã An Hiệp CT 105 4 Xã An Phước GT 106 4 Xã Bình Hòa BĐ 107 4 Xã Bình Thắng BĐ 108 4 Xã BÌnh Thới GT 109 4 Xã Châu Bình BĐ 110 4 Xã Định Trung GT 111 4 Xã Hưng Nhượng CT 112 4 Xã Hữu Định BĐ 113 4 Xã Long Hòa GT 114 4 Xã Lương Hòa BaT 115 4 Xã Mỹ Nhơn TX 116 4 Xã Nhơn Thạnh GT 117 4 Xã Phong Mỹ GT 118 4 Xã Phong Nẫm TX 119 4 Xã Phú Nhuận GT 120 4 Xã Phước Long TX 121 4 Xã Sơn Đông GT 122 4 Xã Sơn Phú 123 4 Xã Tam Hiệp BĐ 124 4 Xã Thạnh Phú Đông GT
Vị trí TT Địa danh BĐ 125 4 Xã Thới Lai GT 126 4 Xã Thuận Điền BaT 127 5 (Tân Hòa) GT 128 5 Thị trấn BaT 129 5 Xã An Đức BaT 130 5 Xã An Hiệp BaT 131 5 Xã An Thủy BĐ 132 5 Xã Bình Thắng GT 133 5 Xã Châu Bình BĐ 134 5 Xã Định Trung GT 135 5 Xã Hưng Nhượng BĐ 136 5 Xã Long Hòa GT 137 5 Xã Lương Hòa GT 138 5 Xã Mỹ Thạnh GT 139 5 Xã Phước Long GT 140 5 Xã Sơn Phú GT 141 5 Xã Thạnh Phú Đông GT 142 5 Xã Thuận Điền BaT 143 6 (Tân Điểm) GT 144 6 Thị trấn BaT 145 6 Xã An Đức BaT 146 6 Xã An Hiệp BaT 147 6 Xã An Thủy GT 148 6 Xã Bình Hòa BĐ 149 6 Xã Bình Thắng GT 150 6 Xã Châu Bình GT 151 6 Xã Lương Hòa GT 152 6 Xã Mỹ Thạnh GT 153 6 Xã Phước Long GT 154 6 Xã Sơn Phú GT 155 6 Xã Thạnh Phú Đông GT 156 6 Xã Thuận Điền BaT 157 7 Xã An Đức 158 7 Xã An Hiệp BaT 159 7 Xã An Thủy (An Thạnh) BaT GT 160 7 Xã Châu Bình TT Địa danh Vị trí 161 7 Xã Hưng Lễ GT 162 7 Xã Hưng Lễ GT GT 163 7 Xã Mỹ Thạnh 164 7 Xã Phước Long GT 165 7 Xã Sơn Phú GT 166 7 Xã Thuận Điền GT BaT 167 8 Xã An Đức BaT 168 8 Xã An Hiệp BaT 169 8 Xã An Thủy GT 170 8 Xã Châu Bình GT 171 8 Xã Hưng Lễ 172 8 Xã Phước Long GT GT 173 8 Xã Sơn Phú BaT 174 9 Xã An Đức BaT 175 9 Xã An Hiệp 176 9 Xã Hưng Lễ GT 177 9 Xã Phước Long GT TP 178 An Bình TP 179 An Bình TP 180 An Bình TP 181 An Bình MC 182 An Bình BaT 183 An Bình 1 BaT 184 An Bình 2 TP 185 An Điền TP 186 An Điền TP 187 An Định BaT 188 An Định 1 BaT 189 An Định 2 CT 190 An Hòa BaT 191 An Hòa BaT 192 An Hòa BaT 193 An Hòa TP 194 An Hòa TP 195 An Hòa TP 196 An Hòa
TT Địa danh 197 An Hòa 198 An Hòa 199 An Hòa 200 An Hòa 201 An Hòa 202 An Hóa Đông 203 An Hóa Tây 204 An Hòa Thạnh 205 An Hội A 206 An Hội B 207 An Huề 208 An Khánh 1 209 An Khánh 2 210 An Khương 211 An Khương 212 An Khương A 213 An Khương B 214 An Lộc 215 An Lộc Giồng 216 An Lộc Thị 217 An Lợi 218 An Lợi 219 An Lợi 220 An Mỹ 221 An Ngãi 222 An Nghĩa 223 An Nhơn 224 An Nhơn 225 An Nhơn 226 An Nhơn 1 227 An Nhơn 2 228 An Ninh 229 An Ninh 230 An Phong 231 An Phú 232 An Phú Vị trí MC MC MC CL MC MC MC CT TP TP TP MC MC TP TP TP TP MC MC MC BaT BaT MC CT TP CT BaT BaT BaT MC MC TP MC MC CT BaT TT Địa danh 233 An Phú 234 An Phú 1 235 An Phú 2 236 An Phú Thạnh 237 An Phước 238 An Phước 239 An Quới 240 An Quới 241 An Quới 242 An Quy 243 An Quy 244 An Quy 245 An Quy 246 An Quý 247 An Thái 248 An Thạnh 249 An Thạnh 250 An Thạnh 251 An Thạnh 252 An Thạnh 253 An Thạnh 254 An Thạnh 255 An Thạnh A 256 An Thạnh B 257 An Thiện 258 An Thiện 259 An Thới 260 An Thới 261 An thới 262 An Thới 263 An Thới A 264 An Thới B 265 An Thuận 266 An Thuận 267 An Thuận 268 An Thuận B Vị trí TP BaT BaT CT MC MC BaT BaT MC BaT TP MC MC BaT BaT CT BaT BaT BaT TP MC CL TX TX MC MC BaT TP MC MC CT CT GT BaT MC TX
TT Địa danh 269 An Thủy 270 An Trạch Đông 271 An Trạch Tây 272 An Trường 273 An Vĩnh 1 274 An Vĩnh 2 275 Ao Vuông 276 Bảo Hòa 277 Bàu Dơi 278 Bến Dựa 279 Bến Xoài 280 Bình An 281 Bình An 282 Bình An 283 Bình An A 284 Bình An B 285 Bình Chiến 286 Bình Công 287 Bình Đông 288 Bình Đông 289 Bình Đông 290 Bình Hòa 291 Bình Huề 1 292 Bình Huề 2 293 Bình Khánh 294 Bình Lộc 295 Bình Lợi 296 Bình Phú 297 Bình Phú 298 Bình Phú 299 Bình Sơn 300 Bình Tây 301 Bình Tây 302 Bình Tây 303 Bình Thanh 304 Bình Thành Vị trí TP MC MC MC MC MC BĐ BaT GT BaT MC CT GT CL CL CL BĐ TX GT MC MC BĐ BĐ BĐ TP BĐ GT BĐ GT MC MC MC MC CL CL TX TT Địa danh 305 Bình Thạnh 306 Bình Thạnh 1 307 Bình Thạnh 2 308 Bình Thạnh 3 309 Bình Thới 310 Bình Thuận 311 Bình Tiên 312 Bình Tiến 1 313 Bình Tiên 2 314 Bờ Bàu 315 Cái Tắc 316 Căn Cứ 317 Cầu Cống 318 Cầu Vĩ 319 Cây Dầu 320 Chánh 321 Châu Thành 322 Chợ 323 Chợ 324 Chợ Cũ 325 Chợ Mới 326 Chợ Xếp 327 Cống 328 Đại An 329 Đại Thôn 330 Định Bình 331 Định Hưng 332 Định Nghĩa 333 Định Nhơn 334 Định Thái 335 Định Thọ 336 Đông An 337 Đông Hòa 338 Đông Kinh 339 Đông Lợi 340 Đông Nam Vị trí TX BĐ BĐ BĐ MC GT GT GT GT BaT CL GT MC BaT BaT CT CT CT GT MC MC MC CL CL TP CL MC MC MC MC CT MC MC CL MC CL
TT Địa danh 341 Đông Thành 342 Đông Thạnh 343 Đông Thuận 344 Đông Trị 345 Gia Phước 346 Gia Thạnh 347 Giao Tân 348 Giồng Chủ 349 Giồng Chùa 350 Giồng Chùa 351 Giồng Đắc 352 Giồng Đồng 353 Giồng Giữa 354 Giồng Kiến 355 Giồng Lớn 356 Giồng Lứt 357 Giồng Nâu 358 Giồng Quéo 359 Giồng Sao 360 Giồng Sâu 361 Giồng Tre 362 Giồng Trôm 363 Giồng Trôm 364 Giồng Xếp 365 Gò Chùa 366 Gò Da 367 Hàm Luông 368 Hiệp Phước 369 Hồ Sen 370 Hòa 371 Hòa 1 372 Hòa 2 373 Hòa An 374 Hòa Bình 375 Hòa Bình 376 Hòa Chánh Vị trí MC MC MC MC CL MC TP GT GT MC MC GT MC BĐ MC GT MC BaT BaT GT BĐ BaT MC MC BaT BaT CT MC GT TP CL CL CT BaT MC CT Vị trí TT Địa danh CT 377 Hòa Hưng MC 378 Hòa Hưng CL 379 Hòa Khánh CL 380 Hòa Lộc CT 381 Hòa Long MC 382 Hòa Long MC 383 Hòa Nghĩa MC 384 Hòa Phú 1 MC 385 Hòa Phú 2 MC 386 Hòa Phước CL 387 Hòa Phước CT 388 Hòa Thanh CT 389 Hòa Thạnh CL 390 Hòa Thạnh CL 391 Hòa Thọ MC 392 Hòa Thới CL 393 Hòa Thuận MC 394 Hòa Thuận 1 MC 395 Hòa Thuận 2 CT 396 Hòa Trung MC 397 Hội An MC 398 Hội Thành MC 399 Hội Yên BĐ 400 Hưng Chánh GT 401 Hưng Điền GT 402 Hưng Long BĐ 403 Hưng Nhơn BaT 404 Hưng Nhơn CL 405 Hưng Nhơn GT 406 Hưng Phú GT 407 Hưng Quý 408 Hưng Thạnh BĐ 409 Khánh Hội Đông CT CT 410 Khánh Hội Tây MC 411 Khánh Thạnh TP 412 Khu Phố
TT Địa danh 413 Kinh Gãy 414 Kinh Mới 415 Lân Bắc 416 Lân Đông 417 Linh Lân 418 Linh Long 419 Linh Phụng 420 Linh Quy 421 Lộc Hạ 422 Lộc Hiệp 423 Lộc Sơn 424 Lộc Thành 425 Lộc Thới 426 Long Hiệp 427 Long Hòa 428 Long Hòa 429 Long Hòa 1 430 Long Hòa 2 431 Long Hội 432 Long Huê 433 Long Khánh 434 Long Ngoại 435 Long Nội 436 Long Nội 437 Long Phú 438 Long Quới 439 Long Quới 440 Long Thạnh 441 Long Thuận 442 Long Trạch 443 Long Vinh 444 Lương Phú 1 445 Lương Phú 2 446 Miếu Điền 447 Minh Nghĩa 448 Mỹ Vị trí CL BaT CL CL GT GT GT GT BĐ CL BĐ BĐ BĐ CL CT CL BĐ BĐ BĐ CL CL GT CT GT BĐ BĐ CL CT BĐ MC CL GT GT GT MC TP Vị trí TT Địa danh TX 449 Mỹ An A TX 450 Mỹ An B TX 451 Mỹ An C CT 452 Mỹ Đức MC 453 Mỹ Đức CT 454 Mỹ Hòa GT 455 Mỹ Hòa BaT 456 Mỹ Hòa BaT 457 Mỹ Lợi CT 458 Mỹ Phú BaT 459 Mỹ Quý CL 460 Mỹ Sơn GT 461 Mỹ Thạnh MC 462 Mỹ Trạch BaT 463 Mỹ Trung GT 464 Nghĩa Huấn CL 465 Nhơn Phú MC 466 Nhuận Trạch MC 467 Ông Cớm MC 468 Ông Thung TP 469 Phong TP 470 Phủ MC 471 Phủ GT 472 Phú An CL 473 Phú Bình TX 474 Phú Chánh TX 475 Phú Chiến CL 476 Phú Đa TX 477 Phú Dân MC 478 Phú Đăng CT 479 Phú Định MC 480 Phú Đông 1 481 Phú Đông 2 MC 482 Phú Đông Thượng MC TX 483 Phú Hào CL 484 Phú Hiệp
Vị trí TT Địa danh CT 485 Phú Hòa BĐ 486 Phú Hòa GT 487 Phú Hòa TP 488 Phú Hòa CL 489 Phú Hòa CT 490 Phú Hội BĐ 491 Phú Hưng TX 492 Phú Hữu MC 493 Phú Hữu CT 494 Phú Khương BaT 495 Phú Khương CT 496 Phú Lễ MC 497 Phú Lộc Hạ 1 498 Phú Lộc Hạ 2 MC 499 Phú Lộc Thượng MC TX 500 Phú Lợi BaT 501 Phú Lợi 502 Phú Lợi TP MC 503 Phú Lợi Hạ 504 Phú Lợi Thượng MC CT 505 Phú Long BĐ 506 Phú Long BaT 507 Phú Long CL 508 Phú Long TP 509 Phú Long Phụng CT 510 Phú Mỹ BĐ 511 Phú Mỹ MC 512 Phú Mỹ CT 513 Phú Ngãi CT 514 Phú Nhơn CT 515 Phú Ninh CT 516 Phú Phong MC 517 Phú Quới CL 518 Phú Quới MC 519 Phú Sơn GT 520 Phú Tân Vị trí TT Địa danh MC 521 Phú Tây 522 Phú Tây Hạ MC 523 Phú Tây Thượng MC TX 524 Phú Thành CT 525 Phú Thành BĐ 526 Phú Thành CT 527 Phú Thạnh BĐ 528 Phú Thạnh BaT 529 Phú Thạnh CL 530 Phú Thạnh 531 Phú Thạnh BaT 532 Phú Thành Đông CT CT 533 Phú Thành Tây CL 534 Phú Thới CT 535 Phú Thuận GT 536 Phú Thuận BaT 537 Phú Thuận CL 538 Phú Thuận MC 539 Phú Trạch 1 MC 540 Phú Trạch 2 GT 541 Phú Trị CT 542 Phú Tường CT 543 Phú Xuân CT 544 Phú Xuân CL 545 Phú Xuân CL 546 Phụng CL 547 Phụng Đức CL 548 Phụng Đức A CL 549 Phụng Đức B GT 550 Phụng Ngoại BĐ 551 Phước Bình MC 552 Phước Điền CT 553 Phước Định MC 554 Phước Hảo CT 555 Phước Hậu MC 556 Phước Hậu
Vị trí TT Địa danh CT 557 Phước Hòa BĐ 558 Phước Hòa CT 559 Phước Hựu MC 560 Phước Khánh CT 561 Phước Lễ BĐ 562 Phước Lợi MC 563 Phước Lý MC 564 Phước Tân CT 565 Phước Thạnh BĐ 566 Phước Thạnh BaT 567 Phước Thạnh CT 568 Phước Thạnh 1 CT 569 Phước Thạnh 2 CT 570 Phước Thiện BaT 571 Phước Thới CT 572 Phước Trạch MC 573 Phước Trung CT 574 Phước Tự CT 575 Phước Xuân CL 576 Quân An CL 577 Quân Bình CT 578 Quới An CT 579 Quới Hòa Đông CT 580 Quới Hòa Tây CT 581 Quới Hưng CT 582 Quới Lợi 583 Quới Thạnh Đông CT CT 584 Quới Thạnh Tây TP 585 Quý An TP 586 Quý Bình TP 587 Quý Đức TP 588 Quý Hòa TP 589 Quý Khương TP 590 Quý Lợi TP 591 Quý Mỹ TP 592 Quý Thạnh TT Địa danh 593 Quý Thạnh A 594 Quý Thạnh B 595 Quý Thế 596 Rạch Gừa 597 Sơn Châu 598 Sơn Lân 599 Sơn Long 600 Sơn Phụng 601 Sơn Quy 602 Song Lân 603 Song Phú 604 Sùng Tân 605 Tài Đại 606 Tân An 607 Tân An 608 Tân An 609 Tân An Thị 610 Tân An Thượng 611 Tân Bắc 612 Tân Bình 613 Tân Bình 614 Tân Bình 615 Tân Bình 616 Tân Điều 617 Tân Đông 618 Tân Đức A 619 Tân Đức B 620 Tân Hậu 1 621 Tân Hậu 2 622 Tân Hòa 623 Tân Hòa 624 Tân Hòa A 625 Tân Hòa B 626 Tân Hòa Ngoài 627 Tân Hòa Trong 628 Tân Huề Đông Vị trí TP TP TP BĐ CL CL CL CL CL CL CT MC MC BĐ MC CL CT CT CT BĐ GT BaT MC MC CT MC MC MC MC GT MC MC MC MC MC CT
TT Địa danh Vị trí 629 Tân Huề Tây CT 630 Tân Hưng BĐ 631 Tân Hưng MC 632 Tân Hưng CL 633 Tân Khai BaT 634 Tân Lễ 1 MC 635 Tân Lễ 2 MC 636 Tân Lộc MC 637 Tân Lợi GT 638 Tân Lợi MC 639 Tân Long BĐ 640 Tân Long 1 MC 641 Tân Long 2 MC 642 Tân Long 3 MC 643 Tân Mỹ MC 644 Tân Nam CT 645 Tân Ngãi MC 646 Tân Nhuận MC MC 647 Tân Phong 648 Tân Phong Ngoại CT CT 649 Tân Phong Nội CT 650 Tân Phú BaT 651 Tân Phú CL 652 Tân Phú MC 653 Tân Phú 1 654 Tân Phú 2 MC 655 Tân Phú Đông A MC 656 Tân Phú Đông B MC MC 657 Tân Phú Tây A MC 658 Tân Phú Tây B GT 659 Tân Phước MC 660 Tân Phước MC 661 Tân Quới 1 662 Tân Quới 2 MC 663 Tân Quới Đông A MC 664 Tân Quới Đông B MC Vị trí TT Địa danh CT 665 Tân Quới Ngoại CT 666 Tân Quới Nội MC 667 Tân Quới Tây A MC 668 Tân Quới Tây B CT 669 Tân Quy BaT 670 Tân Quý CT 671 Tân Tây BaT 672 Tân Thành MC 673 Tân Thạnh CL 674 Tân Thạnh 675 Tân Thành Hạ MC 676 Tân Thành Thượng MC MC 677 Tân Thiện CL 678 Tân Thới MC 679 Tân Thông 1 MC 680 Tân Thông 2 MC 681 Tân Thông 3 MC 682 Tân Thông 4 MC 683 Tân Thông 5 684 Tân Thuận MC 685 Tân Thuận Ngoài MC 686 Tân Thuận Trong MC CT 687 Tân Vinh CL 688 Tây Lộc TP 689 Thạnh TP 690 Thạnh Lợi TP 691 Thạnh An MC 692 Thanh Bắc CT 693 Thanh Bình TP 694 Thạnh Bình MC 695 Thanh Bình 1 MC 696 Thanh Bình 2 CL 697 Thanh Điền MC 698 Thanh Đông MC 699 Thạnh Đông BaT 700 Thạnh Hải
TT Địa danh 701 Thạnh Hải 702 Thanh Hòa 703 Thạnh Hòa 704 Thạnh Hòa 705 Thành Hóa 1 706 Thành Hóa 2 707 Thanh Hưng 708 Thạnh Hưng 709 Thạnh Hưng 710 Thạnh Hưng 711 Thạnh Hưng A 712 Thạnh Hưng B 713 Thạnh Khương 714 Thạnh Khương 715 Thạnh Lại 716 Thạnh Lễ 717 Thạnh Lộc 718 Thạnh Lộc 719 Thạnh Lợi 720 Thành Long 721 Thạnh Mỹ 722 Thanh Nam 723 Thạnh Nghĩa 724 Thạnh Ninh 725 Thạnh Phó 726 Thạnh Phú 727 Thanh Phước 728 Thạnh Phước 729 Thạnh Phước 730 Thạnh Quý 731 Thạnh Quý A 732 Thạnh Quý B 733 Thanh Sơn 734 Thanh Sơn 1 735 Thanh Sơn 2 736 Thanh Sơn 3 Vị trí TP MC TP TP MC MC MC CT TP TP TP TP BaT TP TP BaT BaT TP TP MC TP MC BaT BaT MC BaT MC BaT TP BaT TP TP MC MC MC MC TT Địa danh Vị trí 737 Thanh Sơn 4 MC 738 Thanh Tây MC 739 Thạnh Tây MC 740 Thạnh Thọ BaT 741 Thạnh Thới A TP 742 Thạnh Thới B TP 743 Thanh Thủy MC 744 Thanh Tịnh CL TP 745 Thạnh Trị Hạ 746 Thạnh Trị Thượng TP 747 Thạnh Trị Thượng TP CL 748 Thanh Trung MC 749 Thanh Vân MC 750 Thanh Xuân 1 MC 751 Thanh Xuân 2 MC 752 Thanh Xuân 3 CL 753 Thanh Yên MC 754 Thị CL 755 Thiện Lương TP 756 Thới BĐ 757 Thới An GT 758 Thới An MC 759 Thới Đức GT 760 Thới Hòa MC 761 Thới Hòa BĐ 762 Thới Hòa 1 BĐ 763 Thới Hòa 2 MC 764 Thới Khương BĐ 765 Thới Lợi 1 BĐ 766 Thới Lợi 2 GT 767 Thới Thuận GT 768 Thới Trị MC 769 Thủ Sẻ BĐ 770 Thừa Lợi BĐ 771 Thừa Long BĐ 772 Thừa Thạnh
Vị trí TT Địa danh BĐ 773 Thừa Tiên BĐ 774 Thừa Trung CT 775 Thuận Điền MC 776 Tích Đức MC 777 Tích Khách MC 778 Tích Phúc CT 779 Tiên Chánh 780 Tiên Đông CT 781 Tiên Đông Thượng CT CT 782 Tiên Đông Vàm CT 783 Tiên Hưng CT 784 Tiên Lợi CT 785 Tiên Phú 1 CT 786 Tiên Phú 2 CT 787 Tiên Tây Thượng CT 788 Tiên Thạnh CL 789 Trung Hiệp MC 790 Trung Xuân TP 791 Vĩnh CL 792 Vĩnh Bắc BĐ 793 Vinh Châu CL 794 Vĩnh Chính BĐ 795 Vinh Điều TT Địa danh 796 Vĩnh Đức Đông 797 Vĩnh Đức Tây 798 Vĩnh Đức Trung 799 Vĩnh Hiệp 800 Vĩnh Hòa 801 Vinh Hội 802 Vinh Huê 803 Vĩnh Hưng 1 804 Vĩnh Hưng 2 805 Vĩnh Khánh 806 Vĩnh Lộc 807 Vĩnh Lợi 808 Vĩnh Phú 809 Vinh Thái 810 Vĩnh Trị 811 Vinh Trung 812 Vinh Xương 813 Xẽo Nhỏ 814 Xẽo Sâu 815 Xẽo Sâu 816 Xóm Cối 817 Xóm Gò 818 Xóm Mới Vị trí BaT BaT BaT CL MC BĐ BĐ CL CL MC CL BaT CL BĐ MC BĐ BĐ GT GT BaT MC MC BaT
4.2. CHI KHU: 1 địa danh
TT Địa danh 1 Đôn Nhơn Vị trí MC
4.3. HUYỆN: 8 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bình Đại 3 Châu Thành 4 Chợ Lách Vị trí BaT BĐ CT CL TT Địa danh 5 Giồng Trôm 6 Mỏ Cày Bắc 7 Mỏ Cày Nam Thạnh Phú 8 Vị trí GT MC MC TP
4.4. KHU: 69 địa danh
TT Địa danh 36 Phú Thạnh 37 Phú Thạnh 1 38 Phú Thạnh 2 39 Phú Thới 40 Phú Thuận 41 Phụng Đức A 1 42 Phụng Đức A 2 43 Phụng Đức B 44 Quân An 1 45 Quân An 2 46 Quân An 3 47 Quân Bình 2 48 Rạch Mít 49 Rạch Ngọn 50 Rừng Xanh 51 Sơn Long 52 Sơn Quy 53 Song Lân 1 54 Song Lân 2 55 Tân An 56 Tân Hưng 57 Tân Thới 58 Thanh Điền 59 Thanh Tịnh 60 Thanh Trung 1 61 Thanh Trung 2 62 Thiện Lương 2 63 Thiện Lương 3 64 Vĩnh Chính 65 Vĩnh Hiệp 1 66 Vĩnh Hiệp 2 67 Vĩnh Hưng 1 68 Vĩnh Hưng 2 69 Yên Tịnh
TT Địa danh 1 An Thạnh 1 2 An Thạnh 2 3 Ấp Chợ 1 4 Ấp Chợ 2 5 Ấp Cống 1 6 Ấp Cống 2 7 Bình An 8 Bình An 1 9 Bình An 2 10 Bình Thạnh 1 11 Bình Thạnh 2 12 Bưng Trích 13 Đông Nam 14 Gia Phước 15 Hòa Hai 16 Hòa Lộc 17 Hòa Phước 18 Hòa Thuận 19 Hưng Nhơn 20 Kênh Gãy 21 Lân Bắc 22 Lân Đông 1 23 Lân Đông 2 24 Lân Đông 3 25 Lộc Hiệp 1 26 Lộc Hiệp 2 27 Lộc Hiệp 3 28 Long Hiệp 29 Long Hòa 30 Long Huê 31 Long Quới 32 Long Vinh 33 Mỹ Sơn 1 34 Mỹ Sơn 2 35 Phú Long Vị trí CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL Vị trí CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL MC CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL CL
4.5. KHU PHỐ: 58 địa danh
TT Địa danh 1 1 1 2 1 3 1 4 1 5 1 6 1 7 1 8 1 9 1 10 1 11 1 12 1 13 1 14 2 15 2 16 2 17 2 18 2 19 2 20 2 21 2 22 2 23 2 24 2 25 2 26 2 27 2 28 3 29 Vị trí P1 TX P2 TX P3 TX P4 TX P5 TX P7 TX P8 TX TX TT CT TT BĐ TT GT TT BaT TT MC TT CL P1 TX P2 TX P3 TX P4 TX P5 TX P7 TX P8 TX TX TT CT TT BĐ TT GT TT BaT TT MC TT CL P1 TX TT Địa danh 3 30 3 31 3 32 3 33 3 34 3 35 3 36 3 37 3 38 3 39 3 40 3 41 4 42 4 43 4 44 4 45 4 46 4 47 4 48 5 49 5 50 6 51 6 52 7 53 54 8 55 Bình Khởi 56 Bình Lợi 57 Bình Nghĩa 58 Bình Thắng Vị trí P2 TX P3 TX P4 TX P5 TX P7 TX P8 TX TX TT CT TT BĐ TT GT TT BaT TT CL P5 TX P7 TX P8 TX TX TT CT TT BaT TT CL TX TT BaT TX TT BaT TX TX TX TX TX TX
4.6. PHƯỜNG: 9 địa danh
TT Địa danh 1 2 3 Phú Khương 1 2 Vị trí TX TX TX TT Địa danh 3 4 4 5 5 6 Vị trí TX TX TX
TT Địa danh 6 7 7 8 Vị trí TX TX TT Địa danh 8 9 Vị trí TX
4.7. THỊ TRẤN: 7 địa danh
TT Địa danh 1 Ba Tri 2 Bình Đại 3 Châu Thành 4 Chợ Lách Vị trí BaT BĐ CT CL TT Địa danh 5 Giồng Trôm 6 Mỏ Cày 7 Thạnh Phú Vị trí GT MC TP
4.8. THỊ XÃ: 1 địa danh
TT Địa danh 1 Bến Tre Vị trí BTre
4.9. XÃ: 143 địa danh
TT Địa danh 1 An Khánh 2 An Bình Tây 3 An Đức 4 An Hiệp 5 An Hòa Tây 6 An Ngãi Tây 7 An Ngãi Trung 8 An Phú Trung 9 An Thủy 10 Bảo Thạnh 11 Bảo Thuận 12 Mỹ Chánh 13 Mỹ Hòa 14 Mỹ Nhơn 15 Mỹ Thạnh 16 Phú Lễ 17 Phú Ngãi 18 Phước Tuy 19 Tân Hưng 20 Tân Mỹ 21 Tân Thủy Vị trí CT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT BaT Vị trí TT Địa danh BaT 22 Tân Xuân BaT 23 Vĩnh An BaT 24 Vĩnh Hòa BĐ 25 Bình Thắng BĐ 26 Bình Thới BĐ 27 Châu Hưng BĐ 28 Đại Hòa Lộc BĐ 29 Định Trung BĐ 30 Lộc Thuận BĐ 31 Long Định BĐ 32 Long Hòa BĐ 33 Phú Long BĐ 34 Phú Thuận BĐ 35 Phú Vang BĐ 36 Tam Hiệp BĐ 37 Thạnh Phước BĐ 38 Thạnh Trị BĐ 39 Thới Lai BĐ 40 Thới Thuận BĐ 41 Thừa Đức 42 Vang Quới Đông BĐ
Vị trí TT Địa danh BĐ 43 Vang Quới Tây 44 Hòa Nghĩa CL 45 Hưng Khánh Trung CL CL 46 Long Thới CL 47 Phú Phụng CL 48 Phú Sơn CL 49 Sơn Định CL 50 Tân Thiềng CL 51 Vĩnh Bình CL 52 Vĩnh Hòa CL 53 Vĩnh Thành CT 54 An Hiệp CT 55 An Hóa CT 56 An Phước CT 57 Giao Hòa CT 58 Giao Long CT 59 Hữu Định CT 60 Mỹ Thành CT 61 Phú An Hòa CT 62 Phú Đức CT 63 Phú Túc CT 64 Phước Thạnh CT 65 Quới Thành CT 66 Sơn Hòa CT 67 Tam Phước CT 68 Tân Phú CT 69 Tân Thạch CT 70 Thành Triệu CT 71 Tiên Long CT 72 Tiên Thủy CT 73 Tường Đa GT 74 Bình Hòa GT 75 Bình Thành GT 76 Châu Bình GT 77 Châu Hòa GT 78 Hưng Lễ Vị trí TT Địa danh GT 79 Hưng Nhượng GT 80 Hưng Phong GT 81 Long Mỹ GT 82 Lương Hòa GT 83 Lương Phú GT 84 Lương Quới GT 85 Mỹ Thạnh GT 86 Phong Mỹ GT 87 Phong Nẫm GT 88 Phước Long GT 89 Sơn Phú GT 90 Tân Hào GT 91 Tân Lợi Thạnh 92 Tân Thanh GT 93 Thạnh Phú Đông GT GT 94 Thuận Điền MC 95 An Định 96 An Thạnh MC MC 97 An Thới 98 Bình Khánh Đông MC 99 Bình Khánh Tây MC MC 100 Cẩm Sơn MC 101 Đa Phước Hội MC 102 Định Thủy MC 103 Hòa Lộc 104 Hương Mỹ MC 105 Khánh Thạnh Tân MC MC 106 Minh Đức MC 107 Ngãi Đăng MC 108 Nhuận Phú Tân 109 Phước Hiệp MC 110 Phước Mỹ Trung MC MC 111 Tân Bình 112 Tân Phú Tây MC 113 Tân Thành Bình MC MC 114 Tân Thanh Tây
TT Địa danh 130 Mỹ An 131 Mỹ Hưng 132 Phú Khánh 133 Quới Điền 134 Tân Phong 135 Thạnh Hải 136 Thạnh Phong 137 Thới Thạnh 138 Bình Phú 139 Mỹ Thạnh An 140 Nhơn Thạnh 141 Phú Hưng 142 Phú Nhuận 143 Sơn Đông
TT Địa danh 115 Tân Trung 116 Thành An 117 Thạnh Ngãi 118 Thanh Tân 119 Thành Thới A 120 Thành Thới B 121 An Điền 122 An Nhơn 123 An Quy 124 An Thạnh 125 An Thuận 126 Bình Thạnh 127 Đại Điền 128 Giao Thạnh 129 Hòa Lợi Vị trí MC MC MC MC MC MC TP TP TP TP TP TP TP TP TP Vị trí TP TP TP TP TP TP TP TP TX TX TX TX TX TX