ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------

HOÀNG THỊ NGA

CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------

HOÀNG THỊ NGA

CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 602201

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Tình

HÀ NỘI - 2015

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Văn Tình đã

luôn tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận

văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học -

Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo

môi trƣờng thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và

đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành

luận văn này.

Hà Nội, ngày tháng năm 2015

Tác giả

Hoàng Thị Nga

LỜI CAM ĐOAN

T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc

cña riªng t«i. C¸c sè liÖu tr×nh bµy trong ®Ò tµi lµ chÝnh x¸c.

KÕt qu¶ nghiªn cøu cña ®Ò tµi ch a tõng ® îc c«ng bè trong bÊt

kú mét c«ng tr×nh khoa häc nµo kh¸c.

Hoàng Thị Nga

MỤC LỤC

Trang

3 MỞ ĐẦU

6 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Một số khái niệm cơ bản 6

1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học 6

1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển 8

1.1.3 Cách phân loại từ điển 11

1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa 14

1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa 14

1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa 16

1.3. Cấu trúc của từ điển 18

1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích 18

1.3.2. Cấu trúc của từ điển bách khoa 20

1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển 24

1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích 24

1.4.2. Đặc điểm và phƣơng pháp định nghĩa khái niệm

trong từ điển bách khoa 30

Chƣơng 2: CẤU TRÚC VĨ MÔ – TÍNH TỔNG THỂ

35 CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

2.1. Đặt vấn đề 35

2.1.1. Khái niệm Địa danh Lịch sử Quân sự 35

2.2. Cấu trúc tổng thể 39

2.3. Tính hệ thống 39

2.3.1. Địa danh – một chỉ dẫn địa lí có giá trị văn hóa 39

2.3.2. Địa danh phản ánh những hoạt động quân sự 40

2.3.3. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô 47

2.4. Tiểu kết 51

Chƣơng 3 CẤU TRÚC VI MÔ – THÔNG TIN CHI TIẾT

53 CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

3.1 Đặt vấn đề 53

3.2 Thông tin chi tiết 53

3.2.1. Mục từ 53

3.2.2. Nội dung mục từ 56

3.2.3. Hình minh họa 57

3.2.4 Thƣ mục tham khảo 60

3.2.5. Tên ngƣời biên soạn 65

3.2.6. Tài liệu tham khảo 66

Chƣơng 4 TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH

67 LỊCH SỬ QUÂN SỰ

4.1. Đặt vấn đề 67

4.2. Cấu trúc vĩ mô và tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự 68

4.2.1. Cấu trúc vĩ mô 68

4.2.2. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô 69

4.3. Vấn đề tính hệ thống trong từ điển 71

4.3.1. Tính chuẩn mực của từ điển 72

4.3.2. Tính tiện dụng của từ điển và ảnh hƣởng của nó đến ngƣời

biên soạn 74

4.3.3. Quá trình biên soạn 74

4.3.4. Cách sử dụng từ điển 75

78 KẾT LUẬN

79 TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Từ điển là loại sách có chức năng xã hội rộng lớn. Nó cung cấp vốn

từ ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, giúp cho việc học tiếng

mẹ đẻ và học ngoại ngữ, mở rộng vốn hiểu biết của con ngƣời về sự vật,

khái niệm trong thế giới tự nhiên và xã hội. Từ điển là một sản phẩm khoa

học có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao

dân trí và mở rộng giao lƣu giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.

Trong thời đại ngày nay, số lƣợng phát hành, số lƣợng, chủng loại và

chất lƣợng của từ điển nói chung, từ điển bách khoa chuyên ngành nói riêng

là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển văn hoá, giáo dục,

khoa học kĩ thuật của một quốc gia. Chính vì vậy, việc nghiên cứu từ điển

học, cả lí luận và thực tiễn có tác dụng lớn trong việc nâng cao chất lƣợng

biên soạn từ điển.

Việc biên soạn và xuất bản từ điển ở nƣớc ta đã có nhiều dấu hiệu đổi

mới. Số lƣợng và chủng loại từ điển tăng trƣởng đáng kể trong vài ba năm

gần đây. Một số quyển từ điển đã phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của

ngƣời sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có nhiều quyển từ điển chất

lƣợng chƣa đáp ứng yêu cầu, thậm chí có những sai sót lớn về nội dung

cũng nhƣ in ấn.

Trong bối cảnh về sự ra đời và phát triển của từ điển học trên thế giới nói

chung, công tác nghiên cứu lí luận từ điển học và biên soạn từ điển ở nƣớc ta cũng

đƣợc hình thành trong thời gian có muộn. Gần đây, tuy đã đƣợc quan tâm chú ý và

có một số thành tựu đáng kể, nhƣng nhìn chung, từ điển học Việt Nam vẫn chƣa

phát triển kịp với yêu cầu của thời đại. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của các

bộ môn ngôn ngữ học khác và sự bùng nổ của công nghệ tin học, từ điển học ở một

số nƣớc phát triển đã có những bƣớc tiến mạnh mẽ và không ngừng.

Các nhà từ điển học đã phân chia ra hai loại từ điển công cụ: Từ

điển ngôn ngữ (gồm từ điển tƣờng giải, từ điển chính tả, từ điển đồng

3

nghĩa/trái nghĩa, từ điển song ngữ, đa ngữ...) và Từ điển tri thức (từ điển

bách khoa, bách khoa thƣ, bách khoa toàn thƣ...). Tuy nhiên, bất luận loại

từ điển nào cũng đều đƣợc biên soạn trên cơ sở của các cấu trúc vĩ mô

(cấu trúc tổng thể) và cấu trúc vi mô (cấu trúc chi tiết mục từ). Vì vậy,

việc xem xét cấu trúc hai mặt này là vấn đề phải quan tâm tới mọi loại

hình từ điển của nƣớc ta hiện nay.

Tình hình trên đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lí

luận và kinh nghiệm từ điển học. Luận văn với đề tài “Cấu trúc hai mặt và

tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự ” hi vọng có thể đóng

góp phần nào cho nhiệm vụ quan trọng và cấp bách này.

2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cấu trúc vĩ mô và cấu

trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự xuất bản năm 2006. Đi

sâu hơn nữa, luận văn tiến hành tìm hiểu các kiểu định nghĩa để từ đó rút ra

các mẫu định nghĩa trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Không chỉ

dừng lại ở đó, luận văn còn đi sâu tìm hiểu những nội dung đƣợc thể hiện và

cách tổ chức, sắp xếp các nội dung đó trong lời giải thích của một số nhóm

loại mục từ tiêu biểu trong Từ điển.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về cấu

trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Đó là: một số mẫu định

nghĩa đƣợc sử dụng; và, những nội dung đƣợc đƣa vào lời giải thích của

mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ đối chiếu, so

sánh yêu cầu của từ điển học hiện đại với thực tiễn biên soạn từ điển ở

nƣớc ta qua cuốn từ điển đƣợc chọn làm đối tƣợng nghiên cứu là Từ điển

Địa danh Lịch sử Quân sự . Trên cơ sở đó, hệ thống hoá, khái quát hoá, mô

hình hoá một số mẫu định nghĩa cơ bản, những nội dung đƣa vào lời giải

thích của mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .

4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: - So sánh - đối chiếu các kiểu định nghĩa, cách tổ chức nội dung thông tin trong cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa nói chung, Từ điển Địa danh lịch sử Quân sự nói riêng với từ điển giải thích, đồng thời, trong một số trƣờng hợp, đối chiếu với yêu cầu của lí thuyết từ điển học hiện đại.

- Phƣơng pháp hệ thống cấu trúc của từ điển học (một số phân ngành

của ngôn ngữ học ứng dụng).

- Phƣơng pháp miêu tả; phƣơng pháp thống kê - Vận dụng một số khái niệm và phƣơng pháp của logic học, đặc biệt

là phƣơng pháp quy nạp để khái quát một số vấn đề.

5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến vấn đề định nghĩa trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự. Trong tình hình các công trình nghiên cứu từ điển học ở Việt Nam nói chung và trong lực lƣợng vũ trang nói riêng còn quá ít, những kết quả nghiên cứu dù là bƣớc đầu của luận văn có thể góp một phần nhỏ vào việc bổ sung lí luận cho lĩnh vực khoa học này đặc biệt là những vấn đề liên quan tới từ điển địa danh lịch sử nói chung.

Trong một chừng mực nào đó, những kết quả nghiên cứu cụ thể của luận văn về các kiểu định nghĩa, cách xử lí các nội dung trong lời giải thích của mục từ có thể đƣợc vận dụng trong việc biên soạn nhằm nâng cao chất lƣợng, đảm bảo sự nhất quán, tăng sự hấp dẫn cho Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.

6. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết

cấu thành 4 chƣơng:

- Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết Từ điển học những vấn đề lí luận cơ bản - Chƣơng 2: Bàn về vấn đề liên quan đến cấu trúc vĩ mô – tính hệ

thống của Từ điển địa danh Lịch sử Quân sự.

- Chƣơng 3: Cấu trúc vi mô – thông tin chi tiết của Từ điển Địa danh

Lịch sử Quân sự.

- Chƣơng 4: Tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.

5

NỘI DUNG

Chương 1 . CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1. 1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học

Do nhu cầu của xã hội, một trong những loại sách ra đời sớm là từ điển.

Quyển từ điển đầu tiên trên thế giới là quyển từ vựng do ngƣời Hy Lạp biên

soạn thế kỉ V trƣớc Công nguyên; thu thập và giải thích các từ khó trong các tác

phẩm thời cổ đai, đặc biệt những tác phẩm của Homer. Ở Việt Nam, trƣớc đây

mấy thế kỉ, chỉ có những từ điển song ngữ đối chiếu nhƣ “An Nam — Lusitan —

La tinh” (“Việt - Bồ - La”) do Alexandre de Rhodes biên soạn, xuất bản ở Roma

năm 1651 ; tiếp theo là một số từ điển Hán - Việt cỡ nhỏ nhƣ “Tam thiên tự giải

âm” do Ngô Thì Nhậm biên soạn, xuất bản năm 1831, “Thiên tự văn giải âm”;

và một số quyển từ điển đối chiếu Pháp - Việt nhƣ Dictionnaire F'rancais-

Annamite et Aniiamite-Fratuiis (G.Aubaret, Paris, 1867), Petit Dictionnaire

Francais-Anmmite (PJ.B. Trƣơng Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1884). Cuối thế kỉ XIX

mới có quyển từ điển giải thích tiếng Việt đầu tiên, Đại Nam Quấc âm tự vị của

Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) và sau hơn ba mƣơi năm sau mới có quyển thứ

hai, Việt Nam Tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức ( 1931 ).

Cuối thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của khoa học, kinh tế, giáo dục

trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu về từ điển của xã hội tăng nhanh, từ điển đƣợc

biên soạn và xuất bản với số lƣợng lớn và nhiều chủng loại đa dạng. Đặc biệt,

gần đây, sự bùng nổ của công nghệ tin học đã tạo ra một bƣớc phát triển mới

trong các khâu biên soạn, in ấn từ điển; sản phẩm từ điển không chỉ là những

quyển sách bằng giấy mà còn ở dạng từ điển điện tử.

Ngƣợc lại với thời điểm ra đời của từ điển, từ điển học lại ra đời rất

muộn. Đến những năm bốn mƣơi của thế kỉ XX, lí thuyết từ điển học mới

đƣợc khởi xƣớng bằng bài viết “Thử bàn về lí thuyết đại cương về từ điển

6

học” của L.V.Serba. Đến năm 1971, bộ môn từ điển học đã có bƣớc ngoặt

đáng kể với sự ra đời của hai công trình: Giáo trình từ điển học của

Ladislav Zgusta, xuất bản ở Praha và Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng

tiếng Pháp về ngôn ngữ học và kí hiệu học của Josette Rey Debove, xuất

bản ở Paris. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học nói

chung, của ngữ nghĩa học, từ vựng học nói riêng, từ điển học cũng phát

triển mạnh mẽ.

Ở Việt Nam, nhiều bài viết có giá trị thể hiện sự quan tâm của các tác

giả trong lĩnh vực này, nhƣ: Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt

mới (Hoàng Phê, 1969); Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta (Vƣơng

Lộc, 1969); Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng

Việt (Đỗ Hữu Châu, 1969); Về việc giải thích nghĩa của từ nhiều nghĩa trong

từ điển tiếng Việt (Nguyên Văn Tu, 1969); Một số kinh nghiệm biên soạn từ

điển ngôn ngữ ở các nước xã hội chủ nghĩa (Bùi Khắc Việt, 1969); Việc chọn

và giải thích từ ngữ miền Nam trong một quyên từ điển tiếng Việt loại phổ

thông (Nguyễn Quang, 1970); Vấn đề biên soạn hư từ trong việc biên soạn từ

điển giải thích (Hồng Dân, 1971);... Các bài viết trên đã đề cập đến nhiều mặt,

nhiều vấn đề cần chú ý trong thực tế biên soạn từ điển tiếng Việt.

Đến năm 1997, mới có một công trình chuyên đề về từ điển học, Một

số vấn đề từ điển học, gồm tập hợp 9 bài viết, đúc kết những kinh nghiệm

biên soạn từ điển ở nƣớc ta và một số vấn đề lí luận từ điển học. Các bài

viết trong công trình này đã đi sâu vào một số vấn đề lí luận từ điển, nhƣ:

những nét khái quát về cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô, hệ thống các kiểu

chú, phƣơng pháp biên soạn từ điển đồng nghĩa... Tuy nhiên, các vấn đề mà

các tác giả đề cập đến trong công trình này đều là những vấn đề trong từ

điển giải thích, không có tác giả nào đề cập đến các vấn đề của từ điển

báeh khoa, nhất là vấn đề về các kiểu định nghĩa.

7

Ngày nay, từ điển học đã đƣợc coi là một bộ môn ngôn ngữ học ứng dụng

quan trọng, với đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là các loại hình từ điển, cấu trúc vĩ mô,

cấu trúc vi mô... Gần đây, giới từ điển học còn chú ý đến hai mặt khác nữa là lịch sử

của từ điển và việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác biên soạn từ điển.

1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển

1.1.2.1.Khái niệm từ điển

Từ điển là một công cụ đắc lực giúp cho con ngƣời nắm vững công cụ

ngôn ngữ và sử dụng có hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình, đồng

thời góp phần chuẩn hoá ngôn ngữ.

Theo tác giả Nguyễn Văn Tu, từ điển là “sách tra cứu bao gồm các từ,

ngữ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, giải thích ý nghĩa của các đơn vị

đƣợc miêu tả, cung cấp những thông tin khác nhau về chúng hoặc dịch chúng ra

một ngôn ngữ khác, hoặc ; thông báo những kiến thức về các đối tƣợng do

chúng biểu thị” .

Trong cuốn Giáo trình từ điển học (1971), L. Zgusta đã dẫn ra một định

nghĩa về từ điển của Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất:.

“Một cuốn từ điển là một danh mục đƣợc sắp xếp có hệ thống của các hình thức

ngôn từ đƣợc xã hội hoá, thu thập từ những thói quen nói năng của một cộng đồng

ngôn ngữ nhất định và đƣợc ngƣời biên soạn chú giải sao cho ngƣời đọc có một

trình độ nhất định hiểu đƣợc ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và biết

đƣợc nhũng điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ ấy”.

Trong công trình Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận cơ bản về

từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ

nhiệm, các tác giả cho rằng: “Từ điển là một công trình tra cứu, luôn chứa

các từ ngữ tách rời của vốn từ ngữ chung (hay một bộ phận các từ ngữ

chuyên biệt) của ngôn ngữ, kèm theo các thông tin (đầy đủ hoặc chỉ một số

thông tin) về chính tả, cách phát âm, ý nghĩa, cách dùng, các từ đồng nghĩa,

sự phái sinh và lịch sử của các từ ngữ đó. Để tiện tra cứu, ở phần lớn các từ

8

điển, các từ ngữ đƣợc sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái; các thông tin đƣợc

minh hoạ bằng những trích dẫn từ các tác phẩm văn học”.

Từ những định nghĩa và sự tƣờng giải về từ điển, có thể thấy một số

đặc tính chung trong từ điển nhƣ sau:

Từ điển là loại công trình dùng để tra cứu, giúp cho ngƣời đọc tìm

kiếm những thông tin qua các từ ngữ đƣợc tập hợp và trình bày (các đầu

mực từ). Các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, có thể đi

kèm là các thông tin phụ liên quan đến đầu mục này.

Trong mỗi mục từ, đƣợc trình bày có hệ thống là các nội dung thông

tin (tri thức) - phần còn lại ngoài các đầu mục từ, có vai trò giải thích nội

dung của đầu mục từ hoặc cung cấp các thông tin về đối tƣợng đã đƣợc nêu

trong đầu mục từ.

Chức năng của từ điển

1. Từ điển có chức năng cung cấp thông tin. Đây là chức năng cơ

bản của từ điển và chi phối các chức năng khác. Bằng cách diễn đạt tri thức

ngắn gọn, cô đọng nhất, từ điển là một phƣơng tiện hữu hiệu để tàng trữ và

cung cấp thông tin. các thông tin do từ điển cung cấp có thể là các thông tin

về ngôn ngữ, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học...

2. Từ điển giúp giải thích, cung cấp và hƣớng dẫn cách sử dụng từ

ngữ của một ngôn ngữ, do đó, từ điển còn có chức năng nữa là chức năng

phục vụ giao tiếp, giúp cho việc giao tiếp trong nội bộ một dân tộc cùng

sử dụng chung một ngôn ngữ hay giữa các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ

khác nhau.

3. Từ điển có chức năng hƣớng dẫn, giáo dục ngôn ngữ. Từ điển là

công cụ đắc lực trong việc dạy và học ngôn ngữ. Ngƣời sử dụng từ điển

thƣờng coi từ điển là ngƣời thầy không lời, là trọng tài trong các cuộc tranh

luận về từ ngữ.

9

4. Từ điển có chức năng chuẩn hoá ngôn ngữ. Ngôn ngữ rất đa dạng

và luôn luôn vận động phát triển. Hiện tƣợng một chuẩn mới hình thành

bên cạnh một chuẩn cũ luôn luôn tồn tại, nhất là trong lĩnh vực từ vựng. Cái

mới và cái cũ song song tồn tại trong một thời gian, thƣờng là cuối cùng cái

cũ nhƣờng chỗ cho cái mới, nhƣng không phải bao giờ cũng vậy. Từ điển

phải thƣờng xuyên đƣợc cập nhật, giới thiệu chuẩn ngôn ngữ trong sự biến

đổi, phát triển nên từ điển đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hoá

ngôn ngữ.

5. Ngoài các chức năng trên, từ điển còn có thêm chức năng phục vụ

nghiên cứu. Qua từ điển ngƣời ta có thế rút ra đƣợc những nguyên tắc, lí

luận về từ điển học, đồng thời cũng có thể lấy từ điển làm tƣ liệu nghiên

cứu nhiều lĩnh vực khác của ngôn ngữ học.

Đặc điểm của từ điển:

Để thực hiện các chức năng nêu trên, từ điển có những đặc điểm

riêng khác biệt với tất cả các loại sách khác.

1. Là một loại sách phục vụ nghiên cứu giáo dục, từ điển có tính khoa

học. Tính khoa học đƣợc thể hiện ở nhiều mặt, từ việc xác định nguyên tắc

biên soạn, phạm vi thu thập từ ngữ đến cách thức định nghĩa, cung cấp các

thông tin mở rộng. Đối với từ điển bách khoa, độ chính xác là thƣớc đo của

tính khoa học.

2. Từ điển thu thập và giải thích các từ ngữ đƣợc dùng trong đời sống

của con ngƣời, cũng có nghĩa là nó đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống

hiện thực, dù muốn hay không muốn, nó phản ánh một sự lí giải và một

cách đánh giá về các vấn đề văn hoá, khoa học, chính trị, xã hội. Theo

Hoàng Phê, từ điển phản ánh thế giới quan, quan điểm, lập trƣờng của

ngƣời biên soạn, dù rằng ngƣời biên soạn có đầy đủ ý thức hay không về

việc đó. Do đó, từ điển mang trong mình tính tƣ tƣởng.

10

3. Đặc điểm thứ ba của từ điển là tính tiện dụng. Từ điển là loại sách

công cụ mang tính phổ cập (trừ các từ điển chuyên ngành), có đối tƣợng sử

dụng là đông đảo ngƣời sử dụng ngôn ngữ ở những trình độ khác nhau.

Điều này đòi hỏi ở từ điển tính tiện dụng, dễ hiểu, dễ tra cứu. Điều này

dƣờng nhƣ ít nhiều mâu thuẫn với đặc điểm về tính khoa học của từ điển.

Mâu thuẫn đó làm cho công tác biên soạn từ điển càng trở nên khó khăn.

Dung hoà đƣợc mâu thuẫn này, đảm bảo đồng thời hai yêu cầu khoa học và

tiện dụng của từ điển là cả một nghệ thuật.

4. Một kết quả của sự dung hoà đó đƣợc biểu hiện qua phƣơng thức

trình bày của từ điển. Từ điển luôn đƣợc tổ chức theo hai cấu trúc: cấu trúc

vĩ mô (cấu trúc tổng thể hay cấu trúc bảng từ) và cấu trúc vi mô (cấu trúc

mục từ). Kiểu cấu trúc đó làm cho từ điển không lẫn lộn với các sách khác,

các thông tin trong từ điển đƣợc trình bày một cách vừa khoa học, vừa tiện

dùng. Với từ điển, tính khoa học và tính tiện dùng là hai đặc điểm cơ bản.

1.1.3 Cách phân loại từ điển

Trên thế giới đã từng có nhiều học giả nổi tiếng đề cập đến vấn đề phân loại

từ điển nhƣ Shcherba (1940), Makiel (1959, 1967), Cornyn (1967), Gelb §1968),

Zgusta (1971)... Ở Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Ngọc Trâm (2003), Dƣơng Kỳ

Đức (2000), Chu Bích Thu, Vũ Quang Hào (2005), Nguyễn Trọng Báu... Nhìn

chung, cách phân loại của các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức khái quát, chƣa đi vào

từng loại cụ thể. Đáng chú ý là cách phân loại của L.V.Sherba phân chia từ điển

theo 6 cặp đối lập:

1. Từ điển hàn lâm và từ điển tra cứu: từ điển hàn lâm phản ánh ý thức

ngôn ngữ hiện thực, thống nhất của cả cộng đồng trong một thời gian nhất định,

còn từ điển tra cứu không nhất thiết có sự thống nhất của cả cộng đồng, từ ngữ

có thể đƣợc thu thập ở những thời đại khác nhau, những địa phƣơng khác nhau.

2. Từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ: từ điển bách khoa cung cấp

thông tin về sự vật, hiện tƣợng, khái niệm; từ điển ngôn ngữ cung cấp thông tin

về kí hiệu ngôn ngữ.

11

3. Từ điển thesaurus (từ điển tổng toàn) và từ điển thông thường: từ

điển piesaurus thu thập toàn bộ từ ngữ có trong một ngôn ngữ (dù chỉ xuất hiện

một lần) và những lời tích dẫn có chứa các từ ngữ đó; từ điển thông thƣờng thì

chỉ thu thập những đơn vị từ có tính ổn định và một số thí dụ minh hoạ. Sự đối

lập giữa hai từ điển này thực ra là sự đối lập giữa tƣ liệu ngôn ngữ và hệ thống

ngôn ngữ.

4. Từ điển thông thường và từ điển ý niệm: từ điển thông thƣờng lấy

vỏ ngữ âm của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo trật tự chữ viết;

từ điển ý niệm lấy nội dung của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo

nhóm chủ đề.

5. Từ điển giải thích và từ điển đối dịch: từ điển giải thích nhằm làm

sáng tỏ bản chất kí hiệu của một ngôn ngữ bằng chính ngôn ngữ ấy. Từ

điển đối dịch nhằm làm hiểu rõ một ngôn ngữ khác.

6. Từ điển phi lịch sử và từ điển lịch sử: từ điển phi lịch sử phản ánh từ

ngữ trong một khoảng thời gian hiện thời còn từ điển lịch sử phản ánh cả quá

trình lịch sử, sự xuất hiện, sự biến đổi và thậm chí cả sự mất đi của các từ ngữ.

L.Zgusta phân loại cụ thể hơn cho từ điển ngôn ngữ và đƣa thêm một

tiêu chí về cỡ của từ điển. Ông cho rằng, sự phân loại đầu tiên, có tính chất

bao quát nhất là sự phân biệt giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.

Theo ông, “các từ điển ngôn ngữ chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ, tức là đề

cập đến các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ và tất cả các đặc tính ngôn ngữ

của chúng. Ngƣợc lại, các từ điển bách khoa chỉ đề cập chủ yếu đến các

denótate của các đơn vị từ vựng, chúng cho những thôrg tin vê thế giới

ngoài ngôn ngữ có tính chất vật chất hoặc phi vật chất”.

Tiếp tục phân loại từ điển ngôn ngữ, ông chia ra thành các loại cơ

bản theo bốn tiêu chí sau:

1. Theo tiêu chí thời gian, có sự đối lập giữa từ điển lịch đại và từ

điển đồng đại. Theo L.Zgusta, đây là một trong những sự phân loại quan

12

trọng nhất đối với các từ điển ngôn ngữ. Ông đã nêu ra các đặc điểm khác

biệt giữa hai loại là trong khi từ điển lịch đại chỉ quan tâm chủ yếu đến lịch

sử sự phát triển của từ ngữ cả về nghĩa và hình thức thì nhiệm vụ của từ

điển đồng đại là đề cập đến kho từ vựng của một ngôn ngữ trong một giai

đoạn phát triển nhất định của chúng. Đồng thời ông lƣu ý đến “tình trạng

luôn có sự chồng chéo giữa các lĩnh vực của từ điển lịch sử với lĩnh vực

của từ điển đồng đại” , “khái niệm về từ điển đƣợc coi là đồng đại chỉ có

tính chất tƣơng đối”.

2. Theo phạm vi thu thập toàn bộ hay một bộ phận từ vựng của một ngôn

ngữ, có từ điển phổ thông và từ điển hạn chế (hoặc đặc biệt). Tính chất “hạn

chế” hay “đặc biệt” của từ điển hạn chế là do quyết định của ngƣời biên soạn

chỉ lựa chọn thu thập một bộ phận hẹp từ ngữ nhất định. Có thể có nhiều tiêu

chuẩn lựa chọn, nên có nhiều loại từ điển hạn chế khác nhau, chằng hạn nhƣ từ

điển phƣơng ngữ, từ điển học sinh, từ điển thuật ngữ một ngành... Đối lập lại,

từ điển phố thông thu thập toàn bộ ngôn ngữ phổ thông, nghĩa là ngôn ngữ

chuẩn toàn dân đƣợc dùng một cách phổ biến. Loại này lại đƣợc chia nhỏ hơn

nữa, thành từ điển miêu tả - chuẩn và từ điển miêu tả - chung. Từ điển miêu tả

- chuẩn khác từ điển miêu tả - chung ở một tính chất cơ bản là nó không chỉ

“tìm ra cái gì là chuẩn trong thời kì từ điển đƣợc phát hành” mà còn định ra

tiêu chuẩn cho ngƣời sử dụng trong tƣơng lai. Nghĩa là từ điển miêu tả - chuẩn

không chỉ phản ánh những tính chất và quy tắc phổ biến của ngôn ngữ hiện

thời mà còn “lƣờng trƣớc tình hình sử dụng của tƣơng lai” dựa vào quy luật

phát triển của ngôn ngữ”.

3. Theo số lƣợng ngôn ngữ đƣợc miêu tả, có từ điển một thứ tiếng và từ

điển hai thứ tiếng (thƣờng rất ít từ điển có từ ba thứ tiếng trở lên). Mục đích của

từ điển hai thứ tiếng là giúp cho việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác

hoặc cho việc giao tiếp bằng một ngôn ngữ khác không phải là tiếng mẹ đẻ.. Do

13

tính không đồng hình giữa các ngôn ngữ, từ điển hai thứ tiếng gặp rất nhiều khó

khăn trong việc đƣa ra các đơn vị từ vựng tƣơng đƣơng.

4. Tiêu chí cuối cùng là dựa vào cỡ từ điển, có từ điển cỡ nhỏ và từ điển

cỡ lớn. Đây là một trong những mặt không thể nói đƣợc thật chính xác mà chỉ có

thể là sự đánh giá có tính chất ấn tƣợng. Cỡ của từ điển không chỉ là khối lƣợng

và nhƣ vậy số lƣợng mục từ của từ điển, có thế nói một cách chính xác, chỉ nêu

lên đƣợc một cách khái quát về khả năng thông tin của nó. Phần lớn phụ thuộc

vào bản thân mục từ đƣợc thực hiện nhƣ thế nào.

Trên đây chỉ là “khung” của các sự phân loại. Các tiêu chí ở mỗi sự phân loại

trên có thể tiếp tục đƣợc cụ thể hoá, và theo đó có thể phân loại từ điển thành nhiều

loại nhỏ hơn. Thêm nữa, do các tiêu chí tƣơng đối độc lập, nên có thể có sự phối

hợp một số tiêu chí trong sự phân loại từ điển. Điều này dẫn đến tình trạng là trên

thực tế các kiểu loại từ điển rất đa dạng, phong phú. Sự phân loại từ điển có ý nghĩa

đặc biệt.

1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa

1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa

Từ điển bách khoa đƣợc phát triển từ từ điển. Từ điển bách khoa xuất hiện

là do sự ảnh hƣởng qua lại và xích lại gần nhau giữa bách khoa toàn thƣ và từ

điển ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi nhận diện khái niệm từ điển bách khoa, một

mặt ngƣời ta cố gắng phân biệt nó với từ điển ngôn ngữ (chủ yếu là từ điển giải

thích); mặt khác, phân biệt nó với bách khoa thư.

Từ điển bách khoa có đặc điểm chung với các loại từ điển và bách khoa

thƣ ở chỗ, chúng đều là các công trình tra cứu, giúp ngƣời đọc tìm hiểu các

thông tin; các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhât định; các

thông tin trong mục từ đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Tuy nhiên,

ngƣời ta cũng nhận thấy giữa chúng có những sự khác biệt nhất định.

Từ điển giải thích cung cấp mọi thông tin về bản thân kí hiệu ngôn

ngữ, còn từ điển bách khoa cung cấp thông tin về sự vật, khái niệm đƣợc từ

14

ngữ biểu thị. Phạm vi thu thập của từ điển giải thích là các đơn vị từ vựng

của một ngôn ngữ. Còn từ điển bách khoa, do lấy sự vật, khái niệm làm đối

tƣợng, nên chỉ thu thập những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà

không phụ thuộc vào nhân tố ngƣời sử dụng hay hoàn cảnh nói năng.

Nhiệm vụ của từ điển bách khoa là cung cấp kiến thức về các đối tƣợng do

từ ngữ biếu thị, còn nhiệm vụ của từ điển ngôn ngữ là cung cấp kiến thức về

chính các đơn vị từ ngữ. Do nhiệm vụ khác nhau nhƣ vậy mà thông tin

trong từng mục từ của từ điển giải thích có thể là toàn bộ các thông tin về kí

hiệu ngôn ngữ, bao gồm rất nhiều mặt nhƣ thông tin về ngữ âm, từ vựng,

ngữ nghĩa, ngữ dụng, ngữ pháp...; ngƣợc lại, thông tin trong từ điển bách

khoa là các thông tin về sự vật, khái niệm mà từ đầu mục biểu thị, ngoài

phần định nghĩa còn có thể có thông tin mở rộng về lịch sử ra đời, quá trình

phát triển... Vì vậy, lời giải thích trong từ điển bách khoa sâu hơn. rộng hơn,

nhƣng cấu trúc vi mô thì thƣờng đơn giản hơn từ điển giải thích.

Định nghĩa trong từ điển bách khoa là định nghĩa khái niệm, là sự giải

thích chính xác, đầy đủ những đặc trƣng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ

ngữ biểu thị. Định nghĩa từ ngữ trong từ điển giải thích chỉ nhằm nêu lên

những đặc trƣng khu biệt của từ đủ để ngƣời sử dụng nhận biết và phân biệt

nó với những từ ngữ khác. Tuy nhiên, trên thực tế, “những đặc trƣng cơ bản

của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách khoa và

“những đặc trƣng cơ bản của từ ngữ trong từ điển giải thích không phải lúc

nào cũng có ranh giới rõ ràng. Nếu hình dung một từ mà từ đó quy chiếu

một sự vật thì không một tiêu chí khách quan nào có thể giúp chúng ta phân

biệt một định nghĩa về từ theo nghĩa phân tích từ đó về ngữ nghĩa, với một

định nghĩa về sự vật, vid trong định nghĩa ngƣời ta đi tới sự vật bằng từ và

từ bắt buộc phải trả trở về sự vật. Theo quan điểm chung của số đông các

nhà nghiên cứu, trong nội dung nghĩa từ bao giờ cũng có một hàm lƣợng

15

thông tin bách khoa. Xu hƣớng chung hiện nay của từ điển học hiện đại là

lời giải thích trong từ điển giải thích ngày càng có xu hƣớng gần với lời giải

thích trong từ điển bách khoa, nói một cách chính xác hơn, thông tin bách

khoa ngày càng đƣợc chú ý nhiều hơn trong từ điển giải thích.

Mặc dù đều là "công trình bách khoa", nhƣng giữa từ điển bách khoa và

bách khoa thƣ cũng có những khác biệt nhất định. Bách khoa thƣ có chức nàng

hệ thống hoá toàn bộ tri thức cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều

ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Từ điển bách khoa lại có chức năng

cung cấp những thông tin vắn tắt phổ cập về các khái niệm của một hay nhiều

ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Nếu nhƣ bách khoa thƣ đƣợc dùng

chủ yếu để giáo dục, tự học, tự nghiên cứu về nhiều mặt qua các chủ đề tri thức

độc lập, thì từ điển bách khoa lại chủ yếu đƣợc dùng để tra cứu, tìm kiếm thông

tin một cách nhanh chóng, số lƣơng mục từ trong bách khoa thƣ thƣờng ít nhƣng

chủ đề lại rất rộng và có biên độ dài. Ngƣợc lại, số lựợng mục từ trong từ điển

bách khoa nhiều, nhƣng chủ đề hẹp và có biên độ ngắn.

Nhƣ vậy, “từ điển bách khoa là một dạng công trình tra cứu có tính

chuyển tiếp giữa từ điển ngôn ngữ và bách khoa thƣ (vừa có tiêu chí chung với

từ điển ngôn ngữ vừa có tiêu chí chung với bách khoa thƣ); có chức năng cung

cấp những thông tin vắn tắt chung quanh các khái niệm khoa học, kĩ thuật, nghệ

thuật hay tri thức thực tiễn khác. Đây là loại sách chủ yếu để ngƣời ta tra cứu,

tìm hiểu”.

1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa

Trong công trình Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận cơ bản về

từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ

nhiệm, các tác giả cho rằng, từ điển bách khoa và bách khoa thƣ có nhiều điểm

khác nhau nhƣng có đặc điểm chung về tính sự kiện của thông tin đƣợc chuyền

tải trong các mục từ. Theo cách mà Nguyễn Kim Thản đề xuất, các tác giả đã sử

dụng công trình bách khoa làm tên gọi chung cho từ điển bách khoa và bách

16

khoa thƣ. Công trình bách khoa là loại công trình tra cứu phản ánh tri thức của

một xã hội. Theo các tác giả, có nhiều cách phân loại từ điển bách khoa, có thể

kể đến một số cách phân loại thƣờng gặp sau:

a, Dựa vào nội dung có thể phân các công trình bách khoa thành 2 loại

lớn: công trình bách khoa tổng hợp và công trình bách khoa chuyên ngành.

Công trình bách khoa tổng hợp là những công trình tra cứu điển hình của một

quốc gia, thƣờng bao gồm nhiều tập, trong đó trình bày tri thức về tất cả các

ngành khoa học, kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật. Thuộc về loại này có thể kể đến

Từ điển bách khoa Xô Viết của Liên Xô, Americana của Mĩ (30 tập), đại bách

khoa toàn thư Trung Qưôc (74 tập), Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập)...

Công trình bách khoa chuyên ngành trình bày tri thức về một ngành khoa học,

kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật nhất định (hoặc một bộ môn của một ngành khoa

học, một chuyên dề nào đó). Thuộc về loại này có thể kể đến Bách khoa toàn

thư Triết học của Liên Xô (5 tập 1960 -1970), bách khoa toàn thƣ về nhiếp ảnh

của Anh (1949), từ điển bách khoa sinh học của một tập thể tác giải Việt Nam

(năm 2003)...

b, Dựa vào quy mô có thể chia các công trình bách khoa thành hai loại

chủ yếu: Công trình bách khoa cỡ lớn và công trình bách khoa cỡ nhỏ. Công

trình bách khoa cỡ lớn thƣờng có dung lƣợng hàng chục tập trở lên, có khi tới

hàng trăm tập. Thí dụ: bách khoa thƣ thuần học của linh mục Mingne 168 tập,

bách khoa toàn thƣ Tây Ban Nha – Mỹ (1805 – 1933) gồm 80 tập bách khoa

toàn thƣ Xô Viết cỡ lớn in lần thứ nhất 66 tập...công trình bách khoa cỡ nhỏ

thƣờng từ vài ba tập đến chục tập.

c, dựa vào đối tƣợng phục vụ có thể phân chia thành công trình bách khoa

cho thiếu niên nhi đồng (bách khoa toàn thƣ trẻ em của Liên Xô)

d, dựa vào phƣơng tiện truyền đạt có thể phân chia các công trình bách

khoa thành: sách in đĩa CD mạng internet, âm thanh mùi vị.

17

e, theo phạm vi đề cập có thể phân chia các công trình bách khoa thành

các công trình bách khoa chung và công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân

tộc...). Công trình bách khoa chung là loại công trình cung cấp thông tin về toàn

thế giới và toàn quốc. Bách khoa thƣ của các nƣớc Anh, Mỹ, Pháp, Trung

Quốc...thuộc loại này. Công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân tộc...)là loại

công trình cung cấp thông tin về một bộ phận trong nƣớc, chẳng hặn Bách

khoa thư về Moskva, Bách khoa thư về Leningrat ở Liên Xô, Bách khoa

thư Hà Nội, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng ở Việt Nam.

1.3. Cấu trúc của từ điển

1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích

13.1.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích

Các mục từ trong từ điển giải thích đƣợc thu thập theo những tiêu chí

nhất định, tạo thành một bảng từ có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán,

có cấu trúc chặt chẽ. Đây là cấu trúc có quan hệ dọc, suốt từ đầu đến cuối

quyển từ điển, nên đƣợc gọi là cấu trúc vĩ mô. “Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc

bao gồm toàn thể các mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự xác định; còn

có thể gọi là cấu trúc bảng từ”.

Đối tƣợng chính của từ điển giải thích là từ vựng. Các đơn vị đƣợc thu

thập trong bảng từ của từ điển giải thích rất rộng và có cấu tạo đa dạng. Bảng

từ có thể bao gồm từ (chiếm phần lớn), các đơn vị lớn hơn từ (ngữ cố định,

thành ngữ...), các đơn vị nhỏ hơn từ (yếu tố cấu tạo từ),... số lƣợng các đơn vị

trong bảng từ phụ thuộc vào việc lựa chọn mục từ. vấn đề này nói chung rất

phức tạp, hiện nay chƣa có một tiêu chuấn chung nào vê việc lựa chọn mục

từ. Công việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ cỡ, loại từ điển, số lƣợng,

chủng loại của các nguồn tƣ liệu, ngữ cảm của ngƣời biên soạn.

Là sách công cụ dùng để tra cứu, từ điển bao giờ cũng đƣợc sap xếp

theo một trật tự nhất định. Tuỳ theo loại hình ngôn ngữ, có thế có nhiều

cách sấp xếp khác nhau, chẳng hạn, có thể sắp xếp theo trật tự chữ cái, theo

18

chủ đê, theo tần số, hoặc theo bộ chữ (đối với từ điển tiếng Hán),... Tuy

nhiên, cách sắp xếp phố biến nhất là xếp theo trật tự bảng chữ cái.

1.3.1.2. Cấu trúc vi mô của từ điển giải thích

Giống nhƣ các loại từ điển khác, cấu trúc vi mô của từ điển giải

thích cũng bao gồm hai phần chính: mục từ và các thông tin trong mục từ

đó. Nhƣ vậy, mục từ trong từ điển là đơn vị đặc biệt, đa chức năng, hay

còn gọi là đơn vị kép, nó vừa là đon vị cơ bản của cấu trúc vĩ mô (trong

mối quan hệ dọc, với hệ thông bảng từ), vừa là đơn vị của cấu trúc vi mô

(trong mối quan hệ ngang, với các thông tin về chính bản thân nó).

L.Zgusta gọi hai thành phần chính của cấu trúc vi mô là “phần đề”

(mục từ) và “phần chính” (các thông tin). J.Rey Debove coi mục từ trong

từ điển có cấu trúc nhƣ một câu, trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các

thông tin là vị ngữ. Hai quan niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản

của cấu trúc mục từ là tính “đề - thuyết”( phần đƣợc nêu ra và phần đƣợc

thuyết minh làm rõ). Trên cấu trúc bề mặt, “phần đề” chỉ gồm một yếu tố,

đó là mục từ, còn “phần thuyết” thƣờng là nhiều yếu tố, đó là các thông tin

nhiều mặt về mục từ. Nhƣng xét về cấu trúc sâu, mỗi cấu trúc vi mô bao

gồm nhiều cấu trúc đề - thuyết bình đẳng với nhau. Bởi vì mỗi thông tin

đều có quan hệ trực tiếp với mục tù' làm thành cấu trúc đề - thuyết, nhƣng

trên bề mặt, phần đề luôn luôn đƣợc tỉnh lƣợc (chỉ xuất hiện một lần duy

nhất). Nối giữa “phần đề” và “phần thuyết” là một số hệ từ. Những hệ từ

này có thể hiển ngôn hoặc không hiển ngôn nhƣng rất dễ đƣợc khôi phục ở

dạng hiển ngôn. Tiếp thu và phát triển quan niệm này vào nghiên cứu từ

điển tiếng Việt, Chu Bích Thu đã khai thác sâu hơn các mối liên kết trong

cấu trúc vi mô. Ngoài tính tỉnh lƣợc là đặc trƣng cơ bản, còn phải kể đến

các mối liên kết bằng phép liên kết tuyến tính và phép lặp.

Theo tác giả Chu Bích Thu, các loại thông tin thƣờng thấy trong cấu

trúc vi mô của từ điến giải thích là: chính tả, ngữ âm, từ loại, phong cách,

19

phạm vi sử dụng, kết hợp cú pháp, kết hợp từ vựng, định nghĩa, kết hợp từ

vựng - cú pháp, định hướng ngữ dụng, đồng nghĩa - trái nghĩa, ví dụ. Các

thông tin này dƣợc thê hiện bằng những phƣơng tiện đa dạng, tuỳ thuộc

vào từng ngôn ngữ, vào quan niệm từ điển học của những ngƣời’ biên

soạn. Thông thƣờng các thông tin về từ loại, phong cách, sắc thái... đƣợc

thể hiện bằng những kí hiệu viết tắt; các thône tin về ý nghĩa, cách dùng...

thƣờng đƣợc trình bày đầy đủ.

1.3.2 Cấu trúc của từ điển bách khoa

1.3.2.1 Cấu trúc vĩ mô của từ điển bách khoa

Cấu trúc vĩ mô trong từ điển bách khoa chính là bảng đầu mục từ -

tên gọi các khái niệm, sự vật, sự kiện, nhân vật... mà thông tin về chúng

đƣợc trình bày trong mục từ. Thông thƣờng, bảng mục từ của từ điển bách

khoa đƣợc lập dựa trên sự phân loại tri thức và khoa học của các ngành và

bộ môn; các cuốn từ điển, từ điển thuật ngữ; các ấn phẩm đã công bố và

các nguồn tƣ liệu khác...

Bảng đâu mục từ trong từ điên bách kh.03. chính là Viêc thê hiện cu

ths cúci việc phân loại tri thức, là bƣớc triển khai của phân loại tri thức và

liên kết nội dung, là bộ khung của từ điển bách khoa. Ngoài những đặc trƣng

cơ bản nhƣ tính tƣ tƣởng, tính khoa học, tính hiện đại, đồng thời bảo đảm

tính ngắn gọn, dễ tra cứu, bảng từ trong từ điển bách khoa phải quán triệt ba

mục tiêu, đó là: tính hiện thực trong phân loại khoa học; sự phát triển của các

ngành khoa học và xu hƣớng liên kết các bộ môn khoa học; khuynh hƣớng

xuất hiện các ngành khoa học mói

Bảng đầu mục từ mang tính khoa học phải đƣợc xây dựng trên cơ sở phân

loại tri thức đƣa vào từ điển bách khoa theo một chu trình khép kín, có tầng bậc và

cấp độ, đặc biệt là đầu mục từ phải mang tính khái niệm. Nó phải bao gồm đầy đủ

những khái niệm của các chuyên ngành khoa học. Mỗi chuyên ngành cũng phải

20

hoàn chỉnh về mặt kết cấu và nội dung, nghĩa là mỗi chuyên ngành, đến lƣợt mình,

cũng phải đầy đủ các bộ môn khoa học. Nó cũng phải phản ánh tính thống nhất và kế

thừa tri thức cổ kim, đƣợc ghi nhận qua các tên gọi (đầu mục từ) của các khái niệm.

Phân loại tri thức đƣợc coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chuẩn bị,

lập kế hoạch, xây dựng bảng từ, biên soạn nội dung và biên tập bản thảo. Tuỳ

pheo sự phát triển của khoa học ở từng thời kì, từng nƣớc, mục đích yêu cầu của

từng loại từ điển bách khoa và ý đồ của những ngƣời tổ chức mà chọn cách phân

loại. Việc phân loại tri thức không phải là liệt kê các thành phần tham gia một

cách |hình thức, mà là phải xác định đƣợc các mối quan hệ nội tại của từng

thành phần tham gia và giữa các thành phần. Chỉ khi nào lập đƣợc mạng lƣới

quan hệ và dựng đƣợc bộ khung cho từ điển bách khoa thì mớí coi là hoàn thành

phân loại tri thức.

Trong quá trình xây dựng bảng mục từ tổng hợp, cần tránh tính ngẫu

hứng, thiếu khách quan, thiếu quan điểm tổng thể, toàn diện, đôi khi còn có

biểu hiện thiên kiến, bản vị của một số ngƣời biên soạn. Do vậy, trƣớc khi

xây dựng bảng đầu mục từ phải nghiên cứu kĩ các hệ thống phân loại khoa

học và hình thành đƣợc bảng cấu trúc các chủ đề theo phân loại khoa học, các

ngành, phân ngành, các bộ môn khoa học, các khái niệm, các thuật ngữ, các

chủ đề tri thức, các sự kiện, các tổ chức, các địa danh, nhân vật... Trên cơ sở

bảng cấu trúc phân loại mục từ mới có thể xây dựng đƣợc một bảng mục từ

tổng hợp, để bảo đảm không trùng lặp, không bỏ sót, và từ đó hình thành

đƣợc các mục từ biệt lập và liên ngành, thuộc nhiều loại khác nhau, dƣới các

hình thức dài, trung bình và ngắn.

1.3.2.2 Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa

Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa là thiết kế bên trong (mục từ) của

từ điển bách khoa. Cấu trúc vi mô đƣa ra các thông tin mang tính sự kiện, chi

tiết về khái niệm, sự vật, hiện tƣợng, nhân vật... đƣợc nêu ra ở đầu mục từ.

21

Mục từ trong từ điển bách khoa phải là một khái niệm hoàn chỉnh

hoặc một chủ đề tri thức độc lập, có thể tra cứu, tìm đọc độc lập. Đối với

cùng một chủ đề, từ điển có thể trình bày với những kiến thức ở mức độ

nông sâu khác nhau đế thích hợp với các loại độc giả có trình độ văn hoá

khác nhau và có nhu cầu học tập, nghiên cứu khác nhau. Mục từ của từ

- Tính tri thức: yêu cầu tri thức phải chuẩn xác, chắc chắn;

- Tính tƣ liệu: yêu cầu tƣ liệu phải cơ bản, tinh gọn, chuẩn xác;

- Tính tra cứu: yêu cầu đảm bảo cho độc giả có thể tra tìm đƣợc rất

điển bách khoa cần hƣớng tới ba yêu cầu

nhanh, đọc đƣợc dễ dàng, nghĩa là phải giúp cho độc giả có thể sử dụng

thời gian ngắn nhất, có thể tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri

thức và tƣ liệu cần thiết.

Đối với những mục từ dài, trình bày những khái niệm quan trọng,

những chủ đề rộng thƣờng có phân tầng lớp, cấp bậc có ghi các tiêu đề.

Những tiêu đề này cũng là những đơn nguyên tri thức để tra cứu, tìm kiếm.

Đầu mục từ trong từ điển bách khoa là tên gọi mục từ có thể đƣợc biếu

thị bằng một khái niệm (từ, thuật ngữ), một tên riêng, hoặc một cụm từ có kèm

tên riêng, đặt ở đầu mục từ, đƣợc sắp xếp theo abc..., hoặc theo đề tài, tra cứu

theo chữ cái đầu của tiếng đầu tiên. Căn cứ vào hình thức của đầu mục từ có

thể xếp tất cả các đầu mục từ vào hai khối: khối khái niệm (từ, thuật ngữ) và

khối tên riêng (kế cả những cụm từ có kèm theo tên riêng).

Khối khái niệm (từ, thuật ngữ) là khối bao gồm nhũng khái niệm phổ

biến chung cho toàn thể nhân loại, khái niệm đặc thù của từng dân tộc hoặc

khái niệm riêng của từng ngành khoa học. Những khái niệm này có thế đƣợc

biểu thị bằng một từ, một thuật ngữ hoặc một cụm từ. Ví dụ: áo, áp thấp

nhiệt đới, bội chỉ nqân sách...

Khối tên riêng (đầu mục từ là tên riêng hoặc đầu mục từ ngoài danh

từ chung có kèm tên riêng). Khối này đƣợc phân ra các loại sau đây:

22

- Đầu mục từ chỉ tên ngƣời (nhân vật)

- Đầu mục từ chỉ tên đất (địa danh)

- Đầu mục từ chỉ các tổ chức, cơ quan...

- Đầu mục từ chỉ sự kiện

- Đầu mục từ chỉ quan niệm

- Đầu mục từ chỉ văn kiện - tài liệu lịch sử

- Đầu mục từ chỉ sự vật cụ thế (sự vật có tên riênghoặc kèm theo tên riêng)

- Đầu mục từ chỉ mật danh, danh pháp, khẩu hiệu,danh hiệu...

Việc xếp theo các loại trên cũng chỉ mang tính ƣớc lệ. Tuy nhiên, nó có

một ý nghĩa thực tiễn, vì có liên quan đến việc phân phối tỉ lệ, việc sắp xếp đầu

mục từ cho thuận tiện việc ữa cứu. Thông qua tỉ lệ các loại đầu mục từ và thông

qua việc sắp xểp, có thể đánh giá phần nào cấu trúc của cuốn từ điển bách khoa

và nội dung của nó.

Trong từ điển bách khoa, mục từ là đơn vị tra cứu chính, chứa đựng

những thông tin nhằm giải thích hoặc chỉ dẫn khoa học của các khái niệm,

tên gọi có mặt trong bảng từ chuyên ngành hoặc bảng từ tổng hợp. Thành

- Đầu mục từ (hoặc đề mục) tức tên gọi mục từ.

phần đầy đủ trong một mục từ có thể bao gồm:

- Định nghĩa, nội dung giải thích đầu mục từ và những chỉ dẫn khoa

- Minh hoạ, ảnh, bản đồ.

- Thƣ mục, tƣ liệu trích dẫn và xuất xứ của tƣ liệu.

học có liên quan đến đầu mục từ.

Tên tác giả biên soạn mục từ

Trong một mục từ không nhất thiết phải có đầy đủ năm thành phần

trên. Thành phần trong một mục từ nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào loại hình

mục từ và vào từng công trình bách khoa cụ thể. Dung lƣợng (kí hiệu in

hoặc con chữ) cũng không giống nhau, có mục từ chỉ vài ba chục kí hiệu in,

nhƣng cũng có mục từ cũng có tới vài chục nghìn kí hiệu in.

23

1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển

1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích

Định nghĩa là thành phần hạt nhân trong số các thông tin của cấu vi mô

trong một cuốn từ điển giải thích. Giải thích từ ngữ trong từ điển là công việc

quan trọng nhất, khó khăn nhất và thƣờng bị phê phán nhiều nhất.

Khảo sát định nghĩa trong một số cuốn từ điển, các tác giả của công trình

“ Một số vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt

Nam vể biên soạn các loại từ điến ngữ văn” đã chỉ ra các phƣơng pháp định

nghĩa đƣợc sử dụng trong các từ điển giải thích tiếng Việt:

 Phương pháp định nghĩa bằng phân tích (định nghĩa tự nhiên)

- kiểu giải thích thƣờng gặp trong đời sống. Giải thích tự nhiên là diễn đạt

Đặc điểm cơ bản của lời giải thích trong từ điển là cách giải thích tự nhiên

từ ngữ A bằng từ ngữ B, trong đó B và A phải có cùng nội dung, B phải đồng

nghĩa với A. Giải thích tự nhiên có hai đặc điểm: đây là một hoạt động tự nhiên

trong đời sống xã hội khi có yêu cầu làm cho ngƣời khác hiểu mình, bằng cách

sử dụng năng lực mở rộng, triển khai của ngôn ngữ; dùng cái dễ để giải thích cái

- HP: (Ngƣời, động vật) tự di chuyển bằng những động tác liên tiếp của

khó, cái biết rồi để giải thích cái chƣa biết. Ví dụ: mục từ đi có thể định nghĩa:

chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa trên mặt đất, vừa có chân giơ lên đặt tới chỗ

- KT: dời bƣớc; dùng cách gì làm cho ở chỗ này dời ra chỗ khác. Chân

khác. Trẻ đi chưa vững. Chân đi chữ bát. Cho ngựa đi thong thả bước một.

đi; đi xe; đi tầu.

DVT: Bƣớc chân mà tiến lên. Loài chim cũng như loài người đi bằng

hai chân; loài thú đi bốn chân.

DTD: Di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bƣớc chân. Trẻ tập

|- đi. Đi từng bước một. Đi bách bộ

* Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ bao:

Đây là phƣơng pháp định nghĩa của logic học. Nội dung của nó là quy sự

vật, hiện tƣợng, khái niệm vào khái niệm cùng loại rộng hơn, rồi vạch ra những

24

đặc trƣng khu biệt của khái niệm đƣợc giải thích. Phƣơng pháp định nghĩa này là

môt dạng đăc biệt của phƣơng pháp định nghĩa bằng phân tích.

Ví dụ: định nghĩa của danh mục từ hành

HP: Cây thân ngầm, hình dẹp, mang nhiều lá mọng nƣớc xếp úp vào nhau

thành một khối hình củ, dùng làm gia vị.

VT: Loại cây đơn tử diệp, thân ngầm, hình dẹp, mang nhiều lá vảy mọng

nƣớc và xếp úp vào nhau.

DVT: Một thứ rau có củ hăng hăng, cay cay, dùng làm gia vị. Thịt đầy

sanh, không hành không ngon.

TN: Loại rau nhƣ cây cỏ, có củ vị hăng và cay cay, thƣờng dùng làm đồ gia vị

* Phương pháp định nghĩa bằng dùng từ đồng nghĩa:

Là kiểu định nghĩa bằng cách đƣa ra từ đồng nghĩa với từ đang cần

định nghĩa. Đây là kiểu giải thích phổ biến trong từ điển và cũng là kiểu giải

thích từ ngữ thƣờng gặp trong giao tiếp.

Ví dụ: định nghĩa của mục từ heo

HP: (phg.) Lợn.

KT: Con lợn

DVT: Lợn. Heo sữa; heo con; thịt heo, lòng heo.

VT: dt Lợn.

NL: Từ miền Nam chỉ con lợn.

DTD: Lợn. Nói toạc móng heo (tng).

TN: Có nơi gọi là lợn, súc vật nuôi để ăn thịt

* Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ trái nghĩa:

Là phƣơng pháp định nghĩa bằng cách phủ định từ (hoặc các từ) có ý

nghĩa đối lập với từ đƣợc định nghĩa.

Ví dụ: định nghĩa của mục từ ngắn

HP: Có chiều dài dƣới mức bình thƣờng, hoặc không bằng so với các vật

khác; trái với dài. Áo may dài quá. cắt tóc ngắn. Năm ngón tay có ngón mài

ngón ngắn (tng.)

25

KT: Nói về một chiều so sánh với chiều khác mà kém. Trái với dài.

DVT: Trái với dài, về không gian. Áo ngắn; đường ngắn; ngắn tay

với chẳng tới trời.

vT: Có hai đầu gần nhau trong không gian hay thời gian. Phố ngắn;

Ngày vui chẳng đầy gang tay (K)

LVD; Vắn, cụt. Truyện ngắn; Cơn lạnh còn có cơn nóng, Cơn đắp áo

ngắn cơn chung áo dài.

NL: Có chiều dài rất hạn chế trong không gian hay trong thời gian. Đừng

chê lươn ngắn mà tham chạch dài (tng.); Ngày vui ngắn chẳng đầy gang (K);

- TN: Cụt, trái với dài. Tóc ngắn. Sào ngắn.

Sông sâu, sào ngắn khôn dò (cd).

 Phương pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn:

Là phƣơng pháp định nghĩa bằng cách đƣa từ đang cần định nghĩa

ra so sánh với một đối tƣợng của thế giới ngoài ngôn ngữ. Đối tƣợng

ngoài ngôn ngữ đƣợc chọn phải là cái điển hình nhất, phổ biến nhất, có

thuộc tính dễ gợi sự liên tƣởng nhất tới nghĩa của từ. Phƣơng pháp giải

thích này thƣờng đƣợc áp dụng với những từ biêu thị sự cảm nhận trực

tiếp hiện thực nhƣ cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh.

- HP: Có vị làm cho tê xót đầu lƣỡi, nhƣ vị của ớt. Quả ớt cay.

Ví dụ: định nghĩa của mục từ cay.

- KT: Nói cái vị hăng nồng làm cho tê tái đầu lƣỡi. Nghĩa bóng là

Rượu cay. Gừng cay muối mặn,

- DVT: Chỉ vị nóng nồng, thƣờng làm cho lƣỡi tê tái, của những chất

căm tức một việc gì.

- DTD: Có vị nồng, làm cho tê đầu lƣỡi. Cay như ớt. Rượu cay.

nhƣ ớt, tiêu.

Gùng cay muối mặn.

26

*Phương pháp định nghĩa bằng cách nêu chức năng của từ ngữ

Là phƣơng pháp dùng siêu ngôn nsữ miêu tả để nêu lên chức năng của

từ đƣợc định nghĩa. Đây là cách định nghĩa thƣờng áp dụng cho các hƣ từ.

HP: Từ biểu thị quan hệ liên hợp giữa hai sự vật, hiện tƣợng, quá trình, I

tính chất cùng loại, cùng phạm trù. Tôi và nó. Nó biết tiếng Hán, và tiếng Nhật.

Mưa to và gió lớn.

KT: Cùng, với. Tôi và anh. Người và vật

DVT: Cùng, với. Anh và em; người và vật. //Dùng đũa đưa đồ ăn vào

miệng: và cơm; và đồ ăn.//tl. Vài

LVD: Với, cùng, tiếng kèm theo ngƣời, vật hạy sự việc chót khi đã kể

nhiều rồi. Anh tìm nó và bảo nó đến đây.

NL: Từ dùng để nối hai từ, hai mệnh đề để thêm ý. Anh và tôi cùng đi; n

Cháu rất ngoan và học rất giỏi.

DTD: Từ biểu hiện quan hệ liên hợp giữa hai sự vật, hiện tƣợng, quá

trình, tính chất, hoạt động cùng loại. Tôi và anh; đẹp người đẹp nết; nói và làm

phải đi đôi với nhau.

Để nhận biết và phân biệt các sự vật, hiện tƣợng khác nhau trong thế

giới xung quanh, con ngƣời cần phải có khái niệm về các sự vật, hiện tƣợng

đó. Khi diễn đạt khái niệm ra bằng ngôn từ, chúng ta có lời định nghĩa.

Trong cuộc sống của mỗi con ngƣời, có lẽ ai cũng đã từng nhiều lần có nhu

cầu tạo lập và tạo lập đƣợc những định nghĩa để tìm hiểu và phân biệt các

sự vật, hiện tƣợng vô cùng đa dạng, phong phú xung quanh mình. Định

nghĩa chính là việc nêu lên những thuộc tính bản chất để nhận biết sự vật,

hiện tƣợng, đồng thời phân biệt nó vói các sự vật, hiện tƣợng khác

Tuy nhiên, định nghĩa khái niệm là một vấn đề hết sức phức tạp, nó

gắn liền với sự phát triển của các ngành khoa học, với logic học, triết học...

Trong tác phẩm Logic học phổ thông, tác giả Hoàng Chúng đã đƣa ra một số

đặc điểm cơ bản của định nghĩa khái niệm nhƣ sau:

27

Cấu trúc logic của định nghĩa thƣờng có dạng “A là B”: trong đó A là

khái niệm đƣợc định nghĩa, là khái niệm mới, cần đƣợc làm sáng tỏ; B là

khái niệm định nghĩa, trong đó nêu lên các dấu hiệu đặc trƣng, phân biệt

với những khái niệm khác đã đƣợc biết. Đến lƣợt mình, thành phần B lại có

nhiều cấu trúc logic khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào mối quan hệ rộng hơn,

hẹp hơn giữa các khái niệm ngƣời ta có thể có hai cách định nghĩa:

Định nghĩa những khái niệm mới hẹp hơn những khái niệm đã biết

bằng cách nêu ra chủng và sự khác nhau về loại theo công thức (A là dấu của

phép hội, đọc là và):

Khái niệm được định nghĩa - chủng

A sự khác nhau về loại

Đây là cấu trúc logic tiêu biểu nhất, đƣợc sử dụng phố biến để định nghĩa

khái niệm trong các ngành khoa học cũng nhƣ trong đời sống. Thí dụ nhƣ định

nghĩa cá: “Động vật có xương sống, sống ở nước, thở bằng mang, bơi bằng

vây”. Phân tích cấu trúc logic của định nghĩa này ta có: “động vật có xƣơng

sống’' là khái niệm rộng hơn “cá”; “sống ở dƣới nƣớc”, “thở bằng mang” và

“bơi bằng vây” là những đặc điểm để phân biệt “cá” với các loài động vật quen

gọi là “cá” nhƣng lại không phải là “cá” (cá sấu là loài bò sát, cá mực là loài

thân mềm, cá heo là loài thú vì chúng đẻ con và nuôi con bằng sữa theo đúng

đặc trƣng của loài thú); ngƣợc lại có những loài chúng ta tƣởng không phải là cá

thì chúng lại là cá đích thực. Ví dụ: lươn và chạch đều là cá vì chúng có đủ bốn

đặc trung nêu trên, mặc dù mang và vây của chúng rất nhỏ, nhƣng chúng vẫn

dùng mang đế thở và dùng vây để bơi.

Hoặc định nghĩa những khái niệm mới, rộng hơn những khái niệm đã

biết bằng cách liệt kê những khái niệm hẹp hơn đƣợc bao hàm trong khái

niệm ấy trong công thức (V là dấu của phép tuyển, đọc là hoặc):

Khái niệm được định nghĩa = BI

1/B2 VB3

28

Thí dụ, phân tích định nghĩa khái niệm tội hốii lộ “Bao gồm tội nhận

hối lộ, đƣa hối lộ và môi giới hối lộ”, ta có tội hối lộ là một khái niệm rộng

hơn các khái niệm “tội nhận hối lộ”, “tội đƣa hối lộ” và “tội môi giới hối lộ”,

nhƣng không nhất thiết phải bằng tong của cả ba khái niệm này, mà có thể

tƣơng đƣơng với một trong ba khái niệm đó. Nghĩa là ta có: “tội nhận hối lộ

là một loại tội hối lộ”, tƣơng tự nhƣ vậy với “tội đƣa hối lộ” và “tội môi giới

hối lộ”.

Theo quan niệm của logic học truyền thống, định nghĩa khái niệm

phải tuân theo ba quy tắc sau:

Quy tắc 1: Chỉ được sử dụng những khái niệm đã biết, đã đƣợc định

nghĩa từ trƣớc. Vi phạm quy tắc này có thể đƣa đến các định nghĩa vòng

quanh, định nghĩa luẩn quẩn.

Quy tắc 2: Định nghĩa phải tương xứng, nghĩa là khái niệm đƣợc định

nghĩa khái niệm định nghĩa phải đồng nhất (có cùng ngoại diên). Vi phạm quy

tắc này có thể đƣa đến định nghĩa quá rộng hoặc định nghĩa quá hẹp.

Quy tắc 3: Định nghĩa cần ngắn gọn, không chứa đựng những dấu hiệu

có thể suy đƣợc từ những dấu hiệu khác đã đƣợc nêu lên trong định nghĩa.

Trong tác phẩm Logic học, tác giả Vƣơng Tất Đạt cho rằng: “định nghĩa

phái niệm là thao tác logic nhờ đó phát hiện nội hàm của các khái niệm hoặc

xác lập ý nghĩa của các thuật ngữ, và tuỳ theo đối tƣợng cần định nghĩa, có định

thực tế (trả lời câu hỏi “đối tƣợng đƣợc biểu thị bằng thuật ngữ đó là gì”) định

nghĩa duy danh (trả lời câu hỏi “thuật ngữ ấy có nghĩa là gì”). Bằng những thao

tác khác nhau, có thể tạo nên những kiểu định nghĩa khác nhau:

nghĩa quá giống gần gũi và khác biệt về loài là định nghĩa trong đó chỉ ra

lớp đối tƣợng và các dấu hiệu nhờ đó đối tƣợng đƣợc định nghĩa tách ra từ lớp

đối tƣợng ấy;

nghĩa theo nguồn gốc là định nghĩa vạch ra nguồn gốc tạo thành đối

tƣợng đƣợc định nghĩa;

29

Phản ánh nghĩa qua việc chỉ ra quan hệ của đốii tượng với các mặt đốii

lập của nó đƣợc sử dụng để định nghĩa các khái niệm có ngoại diên cực kì rộng

- các phạm trù.

Ngoài ra còn có thể kế đến các thao tắc định nghĩa khác nhƣ miêu tả, nêu

đặc trưng, phân hiệt”.

1.4.2 Đặc điểm và phương pháp định nghĩa khái niệm trong từ

điển bách khoa

Từ điển học mƣợn cách định nghĩa của logic học, và tất nhiên, định

nghĩa khái niệm trong từ điển cũng phải tuân theo ba quy tắc nêu trên của

định nghĩa khái niệm trong logic.

Khi định nghĩa khái niệm cần phải xác định, phải chỉ ra đƣợc một

cách rõ ràng, dứt khoát khái niệm đƣợc định nghĩa, nghĩa là định nghĩa

phải nêu bật đƣợc những đặc trƣng bản chất nhất của khái niệm. Nội dung,

ranh giới giữa các khái niệm không cho phép sự mập mờ, nhập nhằng mà

phải rất rõ ràng, tách bạch. Định nghĩa khái niệm phải nêu một cách hoàn

toàn chính xác, đầy đủ nội dung nghĩa của khái niệm để ngƣời tiếp nhận nó

nhận biết và phân biệt với những khái niệm khác một cách rõ ràng. Định

nghĩa khái niệm trong từ điển vừa phải tuân theo các quy tắc của định nghĩa

khái niệm trong logic, đồng thời, phải đáp ứng các yêu cầu khoa học nhƣng

dễ hiểu; phải là một định nghĩa tự nhiên; vừa cụ thể lại vừa khái quát.

Định nghĩa khái niệm trong từ điển bản chất là giải thích nội dung

của khái niệm theo cách nói vòng. Yêu cầu của cách giải thích này là tự

nhiên, dễ hiểu và tƣơng đối chính xác. Hầu nhƣ rất khó đòi hỏi nó chính

xác một cách tuyệt đối nhƣ định nghĩa khái niệm trong logic học. Dù có

vay mƣợn thuật ngữ “định nghĩa”, có dựa trên cơ sở nền tảng các quy tắc

của định nghĩa khái niệm trong logic nhƣng định nghĩa khái niệm trong từ

điển “là một cách giải thích tự nhiên mà giá trị”. Định nghĩa cần phản ánh

30

đúng sự tồn tại của ngôn ngữ tự nhiên với những sự nhập nhăng không

tránh khỏi và những ranh giới không thể xác định một cách rõ ràng, tuân

theo một loại logic riêng của ngôn ngữ tự nhiên: logic mờ.

Định nghĩa khái niệm trong từ điển phải đủ cụ thể để có thể hiểu đƣợc

mội cách tƣơng đối chính xác nhƣng đồng thời lại phải khái quát để có thể

bao hàm đƣợc mọi khả năng, mọi khía cạnh của khái niệm.

Để đáp ứng yêu cầu dễ hiểu, một nguyên tắc của định nghĩa từ điển là

phải dùng từ dễ để giải thích từ khó, (dùng cái đã biết để giải thích cái chƣa

biết. “Từ dễ” đƣợc hiểu là những từ thông dụng, đƣợc sử dụng phổ biến, có

sắc thái trung tính; “từ khó” đƣợc hiểu là những từ ít dùng, từ cũ, từ cổ, từ địa

phƣơng,... “Cái chƣa biết” đƣơng nhiên là ý nghĩa của mục từ đang đƣợc giải

thích; “cái đã biết” ở đây đƣợc hiểu là toàn bộ những từ (trừ mục từ đang

đƣợc giải thích) có mặt trong cấu trúc vĩ mô. Nhƣ vậy, nói một cách khác, để

đáp ứng yêu cầu dễ hiểu, trong lời định nghĩa chỉ được dùng những từ được

thu thập trong quyển từ điển, nhưng tránh sử dụng những từ cũ, từ cổ, từ địa

phương..và tất nhiên là không đƣợc dùng từ đầu mục trong lời định nghĩa của

chính từ ấy.

“Một tính chất cơ bản khác của đinh nghĩa tự nhiên là không bao giờ

nó là một câu hoàn chỉnh”. Định nghĩa thƣờng là một ngữ và “thƣờng có hình

thức một nhóm từ hƣớng tâm”. Từ đóng vai trò “tâm” trong ngữ ấy thƣờng

có chức năng ngữ pháp tƣơng đƣơng với từ đầu mục. Nghĩa là thông thƣờng,

định nghĩa của một danh từ là một danh ngữ, định nghĩa của một động từ là

một động ngữ...

Đối với từ điển bách khoa, có thể xây dựng đƣợc các mẫu định nghĩa

(thông tin), tƣơng tự các mẫu định nghĩa các lớp, loại... từ ngữ, đối với từ điển

giải thích. Tuy nhiên, từ điển bách khoa do lấy sự vật, khái niệm làm đối

tƣợng, nên không thu thập những đơn vị từ vựng nhƣ yếu tố cấu tạo từ, những

31

từ có ý nghĩa quan hệ, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tình thái, chẳng hạn nhƣ hƣ

từ, đại từ và trợ từ. Từ điển bách khoa cũng không thu thập những tính từ so

sánh với nghĩa đánh giá nhƣ : lớn - bé, to - nhỏ, tốt - xấu... Những khái niệm

thông phƣờng nhƣ: bố, mẹ, nói, cƣời, đi, đứng...; các khái niệm rất khó vạch ra

nội hàm của nó, mà chỉ có thể chỉ ra bằng trực quan nhƣ các từ chỉ màu sắc, từ

tƣợng thanh, tƣợng hình... từ điển bách khoa cũng không thu thập. Từ điển bách

khoa chỉ thu thập những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà không phụ

thuộc bào nhân tố ngƣời sử dụng hay hoàn cảnh nói năng. Chính vì vậy, từ điển

bách khoa không sử dụng phƣơng pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn (phƣơng pháp

giải thích đƣợc áp dụng với những từ biểu thị cảm nhận trực tiếp hiện thực nhƣ

cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh) và phƣơng pháp định nghĩa bằng cách

nêu chức năng của từ ngữ (cách định nghĩa áp dụng cho các hƣ từ).

1.1.5 Nhận thức chung về Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự

Khi đề cập đến từ điển bách khoa và bách khoa thƣ, Vũ Quang Hào

cho rằng từ điển bách khoa chuyên ngành là loại từ điển bách khoa mà nôi

dung tri thức của nó phản ánh “tri thức khoa học của một chuyên ngành, một

lĩnh vực hoạt động thực tiễn”. là một lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Từ điển

Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự thuộc loại từ điển bách khoa chuyên

ngành - chuyên về lĩnh vực mang tính chất địa danh quân sự. Vì vậy, có thể

hiểu: Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là một bộ sách tra cứu

có tính chuyên ngành, trình bày một cách hệ thống, chính xác, ngắn gọn các

địa danh quân sự và các tri thức khác (địa lí, lịch sử) có liên quan mật thiết

đến địa danh quân sự, trên cơ sở hệ thống tư liệu, tài liệu đã được đánh giá,

tổng kết.

Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự do Nhà xuất bản Quân

đội Nhân dân xuất bản năm 2006 có 1.186 mục từ với độ dày 458 trang, khổ

13 x 19cm. Đây là công trình khoa học lớn, chứa đựng những vấn đề quan

trọng về địa danh vùng miền trong quân sự và những tri thức quan trọng

32

quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ

gìn đất nƣớc; đƣợc đúc kết trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và

trƣởng thành của lực lƣợng Quân đội nhân dân, góp phần quan trọng vào

việc thống nhất nhận thức về những vấn đề lí luận cơ bản của ngành, làm cơ

sở cho việc nghiên cứu, giảng dạy ớ các học viện, nhà trƣờng trong quân

đội và chỉ đạo thực tiễn các đơn vị quân đội trong cả nƣớc.

Căn cứ vào hình thức thế hiện, hệ thống mục từ của Từ điển thuật ngữ

Địa danh Lịch sử quân sự đƣợc phân thành. Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch

sử quân sự là một loại từ điển bách khoa chuyên ngành, các mục từ trong Từ

điển đều là các thực từ và đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái abc. Từ điển

thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự đã chú ý thu thập toàn bộ địa danh lịch

sử quân sự trong cả nƣớc đƣợc thể hiện qua các trận đánh, sơ đồ chiến lƣợc

của quân và dân ta trong suốt quá trình chiến đấu chống kẻ thù xâm lƣợc.

Ngoài phần bảng từ, Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự còn bao

gồm bảng, ảnh, hình vẽ - đƣợc bố trí xen kẽ trong bảng từ hoặc làm thành phụ lục.

Bảng, ảnh, hình vẽ cung cấp một số thông tin bổ sung, giúp cho việc hiểu nghĩa của

thuật ngữ - khái niệm đƣợc đầy đủ, cụ thể, chính xác hơn hoặc một cách có hệ

thống hơn.

Tiểu kết

Đối tƣợng tìm hiểu chủ yếu của luận văn là các mẫu định nghĩa, những

nội dung trong lời giải thích của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự, do

đó, luận văn liên quan đến mọi vấn đề của từ điển và từ điển học. Đó là các vấn

đề về đặc điểm, chức năng, sự phân loại, cấu trúc và các kiểu định nghĩa trong từ

điển. Đi sâu vào từng vấn đề là sự phân biệt giữa từ điển giải thích và từ điển

bách khoa, hai loại hình từ điển có sự giống nhau và khác nhau nhất định nhƣng

vấn đề định nghĩa khái niệm trong từ điển bách khoa và định nghĩa từ ngữ trong

từ điển giải thích luôn có sự nhập nhằng, khó phân biệt, bởi trên thực tế, “những

đặc trƣng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách

33

khoa và “những đặc trƣng cơ bản của từ ngữ” trong từ điển giải thích không phải

lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng. Đó là những vấn đề lí thuyết có liên quan trực

tiếp và là chỗ dựa cho các chƣơng tiếp theo của luận văn.

Từ điển Bách khoa là một loại sách công cụ có đặc thù riêng. Đây là loại

sách công cụ cung cấp những tri thức cơ bản nhất và chính xác nhất về một

ngành khoa học. Từ điển bách khoa có chức năng hệ thống hóa toàn bộ tri thức

cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều ngành khoa học hoặc hoạt

động thực tiễn. Nó dùng để tra cứu thông tin một cách nhanh chóng.

Bất kỳ một cuốn sách công cụ nào cũng đều phải có cấu trúc hai mặt:

. Cấu trúc vi mô: tính hệ thống dọc

. Cấu trúc vĩ mô: tính hệ thống ngang

Việc biên soạn Từ điển Bách khoa trong đó Từ điển Địa danh Lịch sử Quân

sự theo chúng tôi là một loại từ điển Bách khoa chuyên ngành. Vì vậy, việc tuân

thủ mọi nguyên tắc khi biên soạn theo quy trình. Trong chƣơng này chúng tôi có đề

cập nhiều vấn đề lí luận chung về từ điển học nó giúp ích cho việc:

1. Tổ chức biên soạn

2. Đánh giá về chất lƣợng và hiệu quả để rút ra kinh nghiệm và cách

thức biên soạn một cuốn từ điển bách khoa tƣơng tự.

34

Chƣơng 2

CẤU TRÚC VĨ MÔ – TÍNH TỔNG THỂ

CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

2.1. Đặt vấn đề

Trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, giành độc lập tự do, trên đất

nƣớc ta đã diễn ra biết bao sự kiện quan trọng nói chung và sự kiện quân sự

nói riêng. Mỗi sự kiện quân sự đó đều gắn với một địa danh, ghi dấu ấn tồn

tại, phát triển và biểu thị lòng yêu nƣớc nồng nàn, tinh thần đoàn kết chặt chẽ,

sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam.

Địa danh là một phần làm nên sự kiện lịch sử, nghiên cứu, tìm hiểu về

những địa danh lịch sử quân sự trên đất nƣớc ta, giúp cho bạn đọc hiểu thêm

về lịch sử quân sự Việt Nam về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc

ta trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc. Với ý nghĩa đó tôi tìm hiểu cuốn từ

điển “ thuật ngữ địa danh lịch sử Quân sự Việt Nam” mang đến những thông

tin bổ ích về một số địa danh hành chính và các yếu tố địa lý tự nhiên - nơi

diễn ra các sự kiện trong lịch sử quân sự Việt Nam; các căn cứ cách mạng và

kháng chiến, địa bàn hoạt động của các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa; địa danh có

ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của các nhà quân sự, lãnh tụ khởi nghĩa và

các hoạt động khác có vai trò nổi bật trong lĩnh vực quân sự. Nội dung cuốn

sách đƣợc bố cục theo từng địa phƣơng, mở đầu là Thủ đô Hà Nội và Thành

phố Hồ Chí Minh, các địa phƣơng còn lại xếp theo vần A, B, C...

Trong chƣơng này chúng tôi tìm hiểu cấu trúc vĩ mô (cấu trúc tổng thể)

nguyên tắc đầu tiên của bất cứ cuốn từ điển nào. Đây là nguyên tắc quan trọng

không thể thiếu trong bất kỳ một cuốn từ điển bách khoa nói chung.

2.1.1 Khái niệm Địa danh Lịch sử Quân sự

Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng có những điểm riêng biệt về

địa lý, lịch sử của nƣớc mình. Tên gọi địa lý hay còn gọi là địa danh của mỗi

35

nƣớc, mỗi vùng đều có những cách thức đặt tên mang đặc trƣng riêng của

vùng miền. Do đó, trong sự tồn tại thực tế của nó, địa danh rất phong phú và

đa dạng.

Thuật ngữ Toponima hay Toponoma đƣợc dịch là “tên gọi vị trí” là có

nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, để lý giải một cách đầy đủ và chính

xác khái niệm địa danh, theo chúng tôi đây là vấn đề không hề đơn giản. Nếu

hiểu theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Cách hiểu này mang tính bó

hẹp phạm vi của địa danh. Bởi địa danh không chỉ là tên gọi của các đối

tƣợng địa lý gắn với từng vùng đất cụ thể mà còn có thể là tên gọi đối tƣợng

địa lý cƣ trú sinh sống (địa danh hành chính), hay các công trình do con ngƣời

xây dựng (địa danh nhân văn), hoặc đối tƣợng địa hình thiên nhiên (địa danh

thiên nhiên).

Hiện nay chƣa có một định nghĩa thống nhất về địa danh, mỗi nhà

nghiên cứu đƣa ra một cách định nghĩa riêng tùy cách lập luận và hƣớng tiếp

cận của mình. Với tƣ cách một nhà ngôn ngữ học, Lê Trung Hoa đã nghiên

cứu địa danh dƣới góc độ ngôn ngữ học, ông đã đƣa ra các định nghĩa sau

“địa danh là những từ hoặc ngữ đƣợc dung để làm tên riêng của các địa danh

thiên nhiên, các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị

hành chính, các vùng lãnh thổ.

Hiện nay trong giới nghiên cứu địa danh vẫn chƣa có sự thống nhất

nhau về khái niệm địa danh. Trong Từ điển Hán Việt (1999), Đào Duy Anh

đã giải thích “Địa danh là tên gọi các miền đất”, trong Từ điển Tiếng

Việt (1999), Hoàng Phê lại quan niệm “Địa danh là tên đất, tên địa phƣơng”.

Gần với cách hiểu này, Nguyễn Văn Âu cũng xem địa danh là “tên gọi các địa

phƣơng hay tên gọi địa lý”. Định nghĩa một cách đầy đủ hơn, bao quát hơn

sau khi trình bày hàng loạt các vấn đề liên quan đến địa danh,

A.V.Supêranskaia trong cuốn Địa danh là gì đã viết nhƣ sau: “Địa danh học -

36

đó là một chuyên ngành của ngành ngôn ngữ học, nghiên cứu về lịch sử hình

thành, thay đổi và chức năng của các tên gọi địa lí. Thành tố lịch sử trong địa

danh học là bắt buộc” .

Có nhiều cách định nghĩa, lý giải về hệ thống địa danh. Trong phạm vi

tƣ liệu hiện có, chúng tôi chia thành hai quan điểm cơ bản. Quan điểm thứ nhất

nghiêng về nghiên cứu địa danh gắn với địa lý - văn hoá. Đại diện tiêu biểu cho

quan điểm này là Nguyễn Văn Âu, ông cho rằng: “Địa danh là tên đất, gồm tên

sông, núi, làng mạc... hay là tên các địa phƣơng, các dân tộc” .

Quan điểm thứ hai nghiêng về nghiên cứu địa danh theo góc độ ngôn

ngữ học. Đại diện cho quan điểm này là các tác giả Lê Trung Hoa, Nguyễn

Kiên Trƣờng, Từ Thu Mai, Phạm Xuân Đạm. Lê Trung Hoa quan niệm: “Địa

danh là những từ hoặc ngữ cố định đƣợc dùng làm tên riêng của địa hình thiên

nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ” . Kế

thừa qua điểm của Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trƣờng cũng khẳng định: “Địa

danh là tên riêng của các đối tƣợng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác

định trên bề mặt trái đất”. Từ Thu Mai cho rằng: “Địa danh là những từ ngữ chỉ

tên riêng của các đối tƣợng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” . Phạm

Xuân Đạm đƣa ra định nghĩa về địa danh và địa danh học nhƣ sau: “Địa danh

là lớp từ ngữ đặc biệt đƣợc định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối

tƣợng địa lý tự nhiên và nhân văn. Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ

học nghiên cứu hệ thống địa danh về các mặt: nguồn gốc, cấu trúc, ý nghĩa, sự

chuyển hoá,biến đổi, các phƣơng thức định danh” .

Tóm lại, Địa danh học là một phân ngành của Ngôn ngữ học, chuyên

nghiên cứu về nguồn gốc ý nghĩa và những biến đổi của địa danh. Ngoài ra,

cũng nhƣ Nhân danh học và Tộc danh học, Địa danh học là một bộ phận của

khoa Danh xƣng học và nó chuyên nghiên cứu cấu tạo địa danh, các phƣơng

thức đặt địa danh.

37

Nhƣ vậy, khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những

gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài ngƣời. Với ý này, lịch sử bao

trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác

và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu đƣa ra.

Theo Trần Thị Bích Ngọc, các định nghĩa chỉ đúng một phần, lịch sử

- Việc diễn ra trong quá khứ: những sự kiện(biến cố) diễn ra trong quá

đƣợc hiểu theo 3 ý chính đƣợc các nhà nghiên cứu đồng ý:

khứ cho đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi đƣợc, cố định trong không

- Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con ngƣời muốn nắm bắt

gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan.

quá khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện,

mang tính chất tƣơng đối và chủ quan của ngƣời ghi lại bằng những câu

- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hặc quá

chuyện kể.

trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là

câu chuyện kể đối với hiện tại.

Để hiểu lịch sử phải dựa vào cách viết sử của những sử gia từ xƣa đến

nay. Vì cũng theo Trần Thị Bích Ngọc giải thích, kiến thức về lịch sử thƣờng

đƣợc xem là bao gồm cả hai, kiến thức về những biến cố của quá khứ và

những kĩ năng suy nghĩa và giải thích quá khứ.

Theo chúng tôi có thể đƣa ra định nghĩa về Địa danh Lịch sử Quân sự

nhƣ sau: Địa danh Lịch sử Quân sự là một chỉ dẫn địa lí, mà ở đó đã xảy ra

những biến cố, những sự kiện liên quan tới các hoạt động quân sự trong lịch

sử, gắn với những sự kiện lịch sử.

Vì lí do trên mà trong luận văn này chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu các

tiêu chí cách phân loại làm nên tổng thể địa danh lịch sử quân sự Việt Nam

gắn với các sự kiện xảy ra trong thời gian, không gian cụ thể trải dài trong

vùng miền trên cả nƣớc và qua các diễn biến lịch sử.

38

2.2. Cấu trúc tổng thể

Nhƣ chúng ta đã biết, địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa

lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trƣờng, thời đại

mà nó chào đời. Có ngƣời cho rằng địa danh giống nhƣ “ vật hoá thạch” ;

ngƣời khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm” Nhƣ vậy, qua địa danh, ta

có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công

trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.

2.3. Tính hệ thống

2.3.1.Địa danh – một chỉ dẫn địa lí có giá trị văn hóa

Nhƣ chúng ta biết địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý

nhất định. Do đó phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trƣờng, thời đại mà

nó chào đời. Có ngƣời cho rằng địa danh giống nhƣ những vật cổ hóa thạch,

ngƣời khác lại cho rằng đấy là những tấm bia kỷ niệm. Nhƣ vậy, qua địa danh

ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về mặt địa lý, xã hội, các công trình

xây dựng, lịch sử văn hóa. Do vậy địa danh Việt Nam cũng không nằm ngoài

quy luật chung.

Ra đời trong môi trƣờng nào, địa danh sẽ phản ánh hoàn cảnh địa lý

môi trƣờng đó. Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tƣ duy mà tuy

duy luôn phản ánh thực tại mà nó tiếp nhận. Hiện thực văn hóa đi vào điạ

danh có thể phân chia thành ba phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.

Địa hình có thể chia làm hai dạng: Địa hình cao và địa hình thấp. Địa hình cao

gồm: Núi, đồi, gò, đống,… Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ, đầm,…Tên địa

hình đi vào địa danh trƣớc hết qua các danh từ chung đƣợc dùng làm tên gọi

các tiểu loại địa danh nhƣ núi, gò, sông, rạch nhƣ Núi Từ Bi, Gò Sặc, Sông

Côn,…Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã đƣợc Việt hoá) chỉ địa hình, còn

có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập nhƣ: sơn (núi), lâm (rừng), cốc

(hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển, bến sông), dƣơng, hải

39

(biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chƣa trở thành từ trong tiếng Việt nên

không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa danh: Đạm Thủy, Hố

Giang, Phƣớc Sơn,…Bên cạnh đó hình ảnh cây cỏ cũng đi vào hệ thống địa

danh của ngƣời Việt và địa danh tỉnh Bình Định cũng không nằm ngoài

trƣờng hợp đó: suối Cây Sung, Đồng Tre, chợ Cây Cốc,…

2.3.2. Địa danh phản ánh những hoạt động quân sự

Những hoạt động sinh tồn của con ngƣời luôn có quan hệ mật thiết với

địa danh, là một thành tố cấu thành những giá trị tinh thần mang tính dân tộc,

văn hóa của các tổ chức chính trị, hành chính và hoạt động kinh tế. Việt Nam

là một đất nƣớc đa dân tộc, từ đó dẫn đến sự đa dạng về ngôn ngữ kéo theo sự

phong phú về địa danh. Khu vực tỉnh Bình Định, hệ thống địa danh chủ yếu

có nguồn gốc từ ngôn ngữ Việt, Chăm và một số dân tộc khác. Thực tế này

một mặt kích thích sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu, tuy nhiên cũng gây ra

không ít khó khăn cho họ trong quá trình khảo sát, truy nguyên ý nghĩa của

các địa danh đó.

Trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi cơ

cấu tổ chức hành chính theo từng chế độ, đến nay đã có khoảng 60 tên gọi

đơn vị hành chính khác nhau. Nhiều tên gọi đƣợc sử dụng trƣớc kia nay đã bị

chìm vào quên lãng nhƣ: am, bãi, châu, phủ, tổng, trại trang, tấn,…Tuy nhiên

vẫn còn rất nhiều địa danh bảo lƣu các thành tố này: thành Hoàng Đế, phủ

Phù Ly, phủ Tuy Viễn…

Hoạt động kinh tế của loài ngƣời nói chung và đối với ngƣời Việt Nam

nói chung chủ yếu nằm trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngƣ

nghiệp, công nghiệp, thƣơng nghiệp. Hầu nhƣ tên sản phẩm của các ngành

này đều có đi vào địa danh. Chủ yếu thành tố là tên sản phẩm đứng sau các

từ chợ, hãng, xóm, nhà nhƣ chợ Cây Da, Chợ Gồm, Nhà Đá, Đập Đá. Qua

những địa danh này ta có cảm giác nhƣ đang đƣợc chứng kiến một bức tranh

vô cùng sinh động về đời sống kinh tế của một vùng đất trù phú xa xƣa.

40

Tính hệ thống chung hay còn gọi là cấu trúc vĩ mô của cuốn từ điển nó

thƣờng đƣợc hiểu là một hệ thống bảng mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự

nhất định. Thông thƣờng, bảng mục từ trong cuốn từ điển là nội dung cơ bản,

yếu tố chính của cấu trúc vi mô. Ngoài nó ra còn một số thành phần khác nữa

nhƣ tỉ lệ, quy tắc biên soạn, lời nói đầu, sách dẫn…

Tính hệ thống trong từ điển nói chung, trong từ điển bách khoa nói

riêng là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối việc tìm kiếm, xây dựng

các phƣơng pháp biên soạn.

Nguyên lý về tính hệ thống chung trong cuốn từ điển xuất phát từ quan

niệm ngôn ngữ là hệ thống - cấu trúc do F.D. Saussure đƣa ra đầu thế kỷ XX

và sau đó đƣợc các nhà cấu trúc luận phát triển. Nguyên lí tính hệ thống chung

trong cuốn từ điển đƣợc các nhà ngôn ngữ học trƣờng phái ngữ nghĩa học

Moscova phát triển về mặt lí luận và bƣớc đầu áp dụng trong biên soạn từ điển.

Tính hệ thống chung này chính là bảng đầu mục từ, tên gọi các khái

niệm, nhân vật, sự kiện, địa danh vùng miền… vốn là yếu tố của những hệ

thống, đƣợc phân loại theo trật tự nhất định. Các yếu tố này liên quan với

nhau theo liên kết dọc có tính quy tắc và gắn kết với nhau khăng khít. Với

thể lệ và quy tắc biên soạn thì bảng mục từ đƣợc sắp xếp theo thứ tự vần

chữ cái a, b, c. Ngoài việc sắp xếp bảng mục từ nhƣ trên cấu trúc chung

của từ điển địa danh lịch sử quân sự còn có các thành phần khác nhƣ: thể

lệ và quy tắc biên soạn, lời giới thiệu, hƣớng dẫn sử dụng, các phụ lục,

sách dẫn…phần này rất cần thiết và có ý nghĩa. Về thể lệ và quy tắc biên

soạn nhằm giúp cho độc giả hiểu biết sâu hơn, rõ hơn về đối tƣợng. Phần

này đƣợc đƣa ngay từ những trang đầu của cuốn từ điển. Vai trò của hệ

thống chuyển chú là nối liền các tri thức (mục từ) bị phân tách lại với

nhau. Độc giả dựa vào hệ thống chuyển chú sẽ hệ thống hóa đƣợc tri thức

có liên quan đến một chủ đề nào đó.

41

Bảng mục từ:

Việc lập bảng mục từ thể hiện đƣợc mối liên kết trong nội bộ hệ thống tri

thức khoa học và là tính chất cơ bản của bách khoa toàn thƣ, nhằm phục vụ việc

tìm kiếm, tra cứu đƣợc nhanh chóng. Việc lập bảng mục từ phân theo nhiều yếu

tố khác nhau chính là cơ sở để lập bảng mục từ theo thứ tự chữ cái a, b, c.

Từ điển địa danh lịch sử Quân sự đƣợc chia ra rất nhiều phần khác

nhau, việc lựa chọn các mục từ cũng dựa vào các yếu tố này. Điều này đảm

bảo cho việc lựa chọn hợp lý, cân đối hoàn chỉnh không bị thừa. Bảng mục từ

phân theo các yếu tố khác nhau nhằm thuận lợi cho việc theo dõi, biên soạn

và nghiên cứu.

* Tiêu chí phân loại trong cuốn từ điển đó là:

Nhƣ chúng ta đã biết để hiểu một cách nôm na nhất, địa danh có nghĩa

là tên đất. Về khái niệm địa danh theo tác giả Lê Trung Hoa “địa danh là

những từ hoặc ngữ đƣợc dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các

đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về

không gian hai chiều”. Tùy theo nhận thức mà mỗi ngƣời có thể có một khái

niệm về địa danh khác nhau, có định nghĩa về địa danh không giống nhau.

Một số nhà nghiên cứu khác đã không đồng tình, khi tác giả đƣa ra ý niệm

“không gian hai chiều” nhƣ cầu, đƣờng…Cầu, đƣờng có phải là không gian

hai chiều? tại sao đó là địa danh, mà không gian ba chiều lại không phải là địa

danh? Công trình xây dựng có phải là địa danh, hay ngƣời ta chỉ mƣợn địa

danh tại chỗ để đặt tên cho nó?. Từ nhiều nghiên cứu khác nhau chúng ta có

thể tam hiểu khái niệm địa danh nhƣ sau:

Địa danh là tên riêng của một vùng đất, mà vùng đó có thể có địa hình

khác nhau, hoặc một khu vực hành chính xác định; đƣợc đặt bởi ngƣời quản lí

và cƣ dân địa phƣơng, bằng chính ngôn ngữ mà cƣ dân đó sử dụng; địa danh

không hoàn toàn nhất thành bất biến mà có sự thay đổi nhất định theo thời

42

gian và biến cố lịch sử; một vùng đất có thể có nhiều tên gọi khác nhau cùng

một ngôn ngữ hoặc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngoài việc giúp nhận biết một

vùng đất cụ thể, địa danh còn dung để đặt tên cho các công trình xây dựng để

hình thành nên một địa danh.

Trong Từ điển thuật ngữ địa danh quân sự này, việc chọn mục từ nhƣ sau:

a) Đối với địa danh hành chính: là địa danh do chính quyền hoặc ngƣời

dân đặt tên, nhằm phục vụ cho mục đích quản lý của nhà nƣớc

b) Đối với địa danh gắn với chiến dịch, cuộc khởi nghĩa: Chúng tôi đƣa

những tên đất đã biết rõ từ nguyên hoặc đã có ngƣời giải thích từ nguyên.

Ngoài ra, những địa danh có tầm cỡ trong khu vực, đƣợc nhiều ngƣời biết

đến, nhƣng chƣa biết rõ nguồn gốc, ý nghĩa chúng tôi cũng nêu ra để tranh thủ

ý kiến của mọi ngƣời.

AI (tên Pháp: Éliane), cứ điểm kiên cố thuộc hệ thống phòng ngự phía

đông của phân khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Xây dựng trên

đồi Phu Lang Chƣơng cao 503m ở khu trung tâm Mƣờng Thanh, cách sở chỉ

huy của tƣớng Đờ Caxtơri 300m về phía đông, do một tiểu đoàn thuộc trung

đoàn Marôc 4 chốt giữ, kiểm soát hai cầu qua sông Nậm Rốm, khống chế các

cứ điểm Cl, C2 ở thấp hơn. Đêm 30 rạng ngày 31.3.1954, trung đoàn 174 (đại

đoàn 316) tiến công chiếm đƣợc 2/3 cứ điểm, nhƣng bị địch dựa vào

hầm ngầm, đƣa lực lƣợng phản kích, có pháo binh, xe tăng yểm trợ, giành lại

phần lớn. Sau khi bổ sung lực lƣợng của trung đoàn 102 (đại đoàn 308), ta

tiếp tục tiến công hai lần vào các đêm 31.3 và 1,4 nhƣng không dứt điểm.

Cùng với việc đẩy mạnh bao vây, khống chế, đánh địch phản kích tại các khu

vực, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng công binh đào đƣờng ngầm tới

sát vị trí địch trong lòng đồi Al, đặt khối bộc phá 1.000 kg để phá hầm ngầm,

đồng thời làm hiệu lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận. Đêm 6 rạng ngày

7.5, trung đoàn 174 tổ chức tiến công từ ba hƣớng vào các vị trí còn lại, chiếm

43

toàn bộ cứ điểm. Việc đánh chiếm AI là một trong những hoạt động tác chiến

kéo dài và gay go quyết liệt nhất, góp phần quyết định đƣa đến thắng lợi của

chiến dịch Điện Biên Phủ (13.3-7.5.1954).

c) Đối với địa danh là căn cứ địa cách mạng: căn cứ địa với tất cả các

hoạt động của nó, đã giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến tranh

chống xâm lƣợc, là một biểu tƣợng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách

mạng. Một nhân tố không thể thiếu, góp phần làm nên thắng lợi trọn vẹn của

cuộc chiến tranh giải phóng do nhân dân Việt Nam tiến hành trong suốt quá

trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc

Căn cứ địa là những khu vực tập kết các cơ quan đầu não và lực lƣợng

kháng chiến; là đầu mối hành lang chiến lƣợc

Ví dụ: Đồng Tháp Mƣời; Địa đạo Củ Chi; ATK Thái Nguyên…

d) Đối với địa danh mang tên nƣớc ngoài: Trong địa danh Lịch sử quân sự

địa danh mang tên nƣớc ngoài chiếm một số lƣợng hạn chế, địa danh này do

nƣớc ngoài du nhập vào đặc biệt là Pháp quá trình đô hộ đã đặt một số địa danh

Ví dụ: Andecxen; cầu Ia toove…

e) Địa danh phản ánh từ cổ, từ lịch sử: Trong địa danh của Việt Nam,

có nhiều từ cổ lịch sử. Từ cổ, lịch sử là những từ đƣợc sử dụng ngày xƣa,

nhƣng ngày nay đối tƣợng của có hiếm

44

Ví dụ: Ải Quan; Ái Châu; Châu Diên…

Ra đời trong môi trƣờng nào, địa danh phản ảnh hoàn cảnh địa lý ở đó.

Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tƣ duy mà tƣ duy luôn phản

ảnh hiện thực mà nó tiếp nhận. Hiện thực đi vào địa danh có thể chia làm ba

phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.

1.1. Địa hình có thể chia làm hai dạng: địa hình cao và địa hình thấp.

Địa hình cao gồm: núi, đồi, gò, đống,…Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ,

đầm,…Tên địa hình đi vào địa danh trƣớc hết qua các danh từ chung đƣợc

dùng làm tên gọi các tiểu loại địa danh nhƣ núi, gò, sông, rạch,…:núi Tản

Viên, gò Cẩm Đệm, sông Đà, rạch Cát,…Nhƣng quan trọng hơn là các danh

từ chung chỉ tên địa hình đã biến thành một yếu tố của địa danh: tỉnh Sông

Bé, huyện Giồng Trôm, cầu Kinh, hồ Ba Bể, huyện Đầm Dơi, xóm Cù Lao,

sông Ba Ngòi, vùng Bãi Bằng, bến Phà Rừng, vùng Thác Đài,…

Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã đƣợc Việt hoá gần nhƣ thuần

Việt) chỉ địa hình, còn có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập hệ

nhƣ: sơn (núi), lâm (rừng), cốc (hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển,

bến sông), dƣơng, hải (biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chƣa trở thành từ

trong tiếng Việt nên không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa

danh: Trƣờng Sơn, Tiền Giang, Gia Lâm, thôn Sài Đàm, An Khê, Long

Xuyên, thôn Phƣơng Chử, Hải Dƣơng,…

Đồng thời, nhiều từ chỉ địa hình thiên nhiên trong các ngôn ngữ thiểu

số ở Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ cũng đã đi vào địa danh:

rạch (prêk: sông nhỏ), vàm (piêm: ngã ba sông, rạch), đa, đak, ia (nƣớc,

sông), chƣ, ngok, pu/pù (núi), khuổi (suối),… Hầu hết các từ này vừa làm tiền

từ vừa làm yếu tố chính đứng trƣớc địa danh: rạch – Rạch Giá; vàm – Vàm

Cống; đa, đà, đạ – Đa Nhim, Đà Lạt, Đạ Đờng; đăk – Đăk Lăk; gia – Gia Sô;

chƣ – Chƣ Sê; ngok – Ngọc Linh; khuổi – Khuổi Cọ; pu – Pu Sam Sao.

45

Bảng mục từ phân theo vần chữ cái ABC

Để thuận tiện cho việc biên soạn và đọc thẩm định, bảng mục từ trong

từ điển địa danh lịch sử quân sự phân theo hệ thống và sắp xếp theo thứ tự

vần chữ cái a, b, c cho đến z.

Nói đến “cấu trúc vĩ mô” là nói đến cấu trúc bảng / khung mục từ. Lập bảng

khung mục từ là một khâu quan trọng nhất của công việc biên soạn, “hoàn thành tốt

công việc này chính là đã hoàn thành 50% công trình” [Hà Học Trạc 2004, 120].

Mặc dù là vấn đề mới, nhƣng cũng đã có nhiều tài liệu đề cập đến công việc này

(xin xem: [Hà Học Trạc 2004], [Совeтский Энцклопедический Словарь,

1986],[Лингвистический Енциклопедический Словарь, 1990]..

Khái niệm “cấu trúc vĩ mô” đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ biến

trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho thấy,

bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung nhƣ một hệ

thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ các quan niệm

nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả. Nguyễn Trọng Báu coi:

“Lựa chọn một bảng mục từ nhƣ thế nào cho bách khoa thƣ là cơ sở biểu hiện

thế giới quan giai cấp của ban biên tập. Đồng thời qua bảng mục từ có thể hình

dung ra khối lƣợng từ điển, kết cấu và các chủ để cho bách khoa toàn thƣ đề cập

tới”[Nguyễn Trọng Báu 1992]. Cách diễn đạt nhƣ trên có vẻ “đao to búa lớn”

(“thế giới quan giai cấp”) có vẽ hơi cũ, nhƣng rất đúng.

Nhƣ vậy, khái niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ

đầu mục. Từ “hệ thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn

ti, cấp bậc, cũng thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cách

trọn vẹn. Nếu không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta sẽ chỉ là các đơn

vị rời rạc, chẳng những chúng không có sự gắn kết, thiếu chọn lọc, có nguy cơ

không kiểm soát nổi, tùy tiện, cảm tính dẫn đến tình trạng không cân đối,

thậm chí thiếu, thừa.

46

2.3.3.Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, xoắn bện vào nhau

làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi đó là hệ thống dọc và hệ

thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti trong một chủ đề (một ngành

khoa học). Hệ thống ngang là mối quan hệ cân đối giữa các chủ đề (các ngành

khoa học) với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian, các mối

quan hệ hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế định lẫn

nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng nhƣ các đơn

nguyên nhỏ nhất.

2.3.3.1.Hệ thống dọc

Hệ thống này đƣợc Hà Ngọc Trạc hình dung: chủ đề bao gồm các lĩnh

vực khoa học, các ngành, phân ngành, các bộ môn khoa học, các khái niệm,

các thuật ngữ, các chủ đề tri thức, các sự kiện, các tổ chức, các địa danh, nhân

vật…. Ta có thể hình dung quan niệm này theo sơ đồ sau:

Chủ đề

Lĩnh vực, ngành

Bộ môn, phân ngành

Hai hệ thống dọc và ngang có quan hệ tƣơng liên chặt chẽ đến mức chúng

chế định, ảnh hƣởng lẫn nhau. Nếu chúng ta làm không làm tốt cấu trúc hệ thống

Khái niệm, thuật ngữ ngành (hệ thống dọc) thì cũng không thể làm tốt hệ thống các quan hệ đồng cấp

(hệ thống ngang), và ngƣợc lại. Ở các nƣớc phát triển, khi đã có hàng trăm năm

47

làm bách khoa thƣ, những kinh nghiệm thành lập hệ thống phân ngành rồi làm

nên bảng phân loại mục từ có lẽ không khó khăn lắm. Tuy vậy, không phải tất cả

các sản phẩm của họ đều không tìm thấy những điểm chƣa hài lòng [xem Hà

Học Trạc 2004]. Còn ở nƣớc ta, những khiếm khuyết có tính mất hệ thống

không khó tìm thấy hầu nhƣ ở tất cả các loại từ điển. Đây là điểm rất đang chú ý

khi chúng ta xây dựng quy chế thành lập bảng mục từ cho quyển Từ điển Địa

danh Lịch sử Quân sự Việt Nam trong tƣơng lai.

Việc liên kết giữa các hệ thống là công việc của một số phƣơng tiện chỉ

dẫn, trong đó có đóng góp của sự chuyển chú và bảng chỉ dẫn. Ở các loại từ

điển hiện nay, các bảng chỉ dẫn rất đƣợc chú ý. Còn đối với Từ điển Địa danh

Lịch sử Quân sự thì bảng này hầu nhƣ không thể thiếu, có thể in thành một

quyển sách riêng, gọi là index (sách dẫn). Còn thông tin chuyển chú là thông

tin chuyển hệ của các hệ thống con. Nếu nhƣ coi Từ điển Địa danh Lịch sử

Quân sự là một khối kiến thức khổng lồ, nó bao gồm rất nhiều hệ thống, tôn ti

khác nhau, ta gọi là các hệ thống nhánh, tiểu hệ thống, hệ thống con, thì vai

trò của chúng sẽ rất quan trọng trong viên hiệu chỉnh, liên kết, đan cài, dẫn

dắt ngƣời đọc đến với thông tin cần tìm nhanh nhất,

Có nhiều yếu tố chi phối tính hệ thống trong việc xây dựng Từ điển Địa

danh Lịch sử Quân sự. Trong này có yếu tố do đề tài quy định, có yếu tố do

cách tiếp cận, có yếu tố đối tƣợng phục vụ của Từ điển Địa danh Lịch sử

Quân sự hi phối. Chúng ta thử xem xét từng loại yếu tố nói trên.

Mỗi loại sách nhƣ vậy ta có các bảng phân loại mục từ khác nhau. Điều

này là dễ hiểu, dƣờng nhƣ ai cũng biết. Chính đầu đề của Từ điển Địa danh

Lịch sử Quân sự chỉ rõ mục đích biên soạn cho bản thân chúng. Cùng một

mục, ví dụ nhƣ lịch sử hoặc địa lí của một địa phƣơng sẽ có số lƣợng danh

xƣng, các khái niệm, thật ngữ sẽ rất khác với BKT tổng hợp quốc gia, hoặc rất

khác với các địa phƣơng khác. Cho nên, trong các sách về địa phƣơng sẽ ít đi

48

các đơn vị khái niệm, thuật ngữ chung, sẽ không có các địa danh, danh nhân

các địa phƣơng khác, mà tập trung phản ánh các đặc điểm vốn có của địa

phƣơng mình.

Khi tổng hợp phân bảng mục từ, có thể Từ điển Địa danh Lịch sử Quân

sự sẽ dung nạp các khái niệm, thuật ngữ theo cách của mình. Khi đó số lƣợng

các đơn vị liên ngành có điều kiện đƣợc thu thập dễ hơn, nhiều hơn, ít nhất là

so với khi số lƣợng mục từ này đƣợc xem xét để đƣa vào tổng hợp. Do đó mà

bảng mục từ, hay nói nhƣ chúng ta đang xem xét, hệ thống của chúng sẽ có sự

khác nhau.

b) Cách tiếp cận

Cách tiếp cận hệ thống để thiết kế một bảng kết cấu mục từ cũng có thể

có nhiều cách, Năm cách tiếp cận trên cho 5 bảng phân loại mục từ khác

nhau, mà cách tiếp cận nào cũng có lí riêng. Đƣơng nhiên là trong số các mục

từ đó đa phần là giống nhau, nghĩa là chúng chỉ là một đơn vị. Nhƣng xét từ

góc độ cấu trúc hệ thống vĩ mô thì đó là những danh mục mang tính độc lập

cao, nói đơn giản là khác nhau. Vả lại, do cách sắp xếp khác nhau nên chƣa

chắc số lƣợng mục từ, và cả bản thân các đơn vị ấy chƣa hẳn đã đồng nhất.

Cho nên, vấn đề là ta chọn đƣợc một cách tiếp cận có lợi nhất.

c) Quy mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự

Quy mô lớn nhỏ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đƣơng nhiên là

chi phối lớn đến bảng phân loại mục từ. Việc mở rộng đến đâu là do quy mô

(hay độ lớn) của sách, và điều này đòi hỏi các tác giả phải có sự cân đối trong

việc mở rộng vùng “biên”.

d) Do ngƣời biên soạn (các soạn giả) quyết định

Trên thực tế, tất cả các công đoạn làm việc, các vấn đề của công việc

biên soạn các sách, chứ không chỉ có Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự, đều

do các tác giả quyết định. Tuy nhiên, ngay cả khi cùng xác định một định

49

hƣớng, nhƣng các tác giả khác nhau cũng có ý kiến khác nhau. Điều này

thƣờng gặp ở các từ điển có cùng tên: hiện nay có rất nhiều quyển từ điển

tiếng Việt, từ điển phƣơng ngữ tiếng Việt, … đều có cùng tên gọi, cùng làm

việc trên một đối tƣợng, nhƣng đó là những quyển sách khác nhau rất nhiều,

cả về bảng từ, lời giải nghĩa cho đến chất lƣợng chung của quyển sách. Vì sao

vậy? Vì họ có cách giải quyết vấn đề khác nhau, cách tiếp cận tƣ liệu mà họ

có… rất khác nhau.

e) Do đối tƣợng phục vụ

Trên thực tế, đối tƣợng nào thì phải có sách phù hợp với đối tƣợng đó,

cho nên đối tƣợng độc giả luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với một

cuốn từ điển.

2.3.3.2.Hệ thống ngang

Hệ thống ngang cũng tồn tại ở mọi cấp độ phân chia chủ đề. Nếu đó là

các ngành thì đó là sự cân đối giữa các ngành với nhau, cả số lƣợng mục từ,

cả về số trang, cả về dung lƣợng mục từ. Đƣơng nhiên tƣơng ứng giữa ngành

và quyển chỉ là tƣơng đối, vì có thể có ngành phải chia làm nhiều phần

Mục từ là bộ phận chính trọng tâm quan trọng trong Từ điển thuật ngữ

Địa danh Lịch sử Quân sự. Việc nghiên cứu lí luận và những kinh nghiệm

biên soạn mới chỉ bắt đầu, vì vậy triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng

bƣớc làm sáng tỏ những quan điểm về cấu trúc vi mô của Từ điển thuật ngữ

Địa danh Lịch sử Quân sự là việc làm cần thiết.

Có thể nói, công việc kiểm tra tính hệ thống của cấu trúc vĩ mô luôn là

nhiệm vụ của các tác giả. Song, kiểm tra hệ thống của bảng phân mục từ bằng

gì? Và kiểm tra nhƣ thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?

Trả lời câu hỏi này quả là không dễ dàng. Về phƣơng pháp, chúng ta phải

dựa vào các đặc tính thƣờng trực của một BKT cần đạt tới để kiểm tra, coi nhƣ

đó là các yêu cầu cơ bản nhất là: 1) tính khoa học, 2) tính hệ thống, 3) tính tƣ

50

tƣởng, 4) tính hiện đại, 5) tính dân tộc, 6) tính dễ tra cứu. Việc dựa vào các yêu

cầu này để xem xét kết cấu bảng từ là cần thiết, nhƣng sẽ là khó đƣa ra đƣợc

nhiệm vụ kiểm tra cụ thể, chẳng khác gì ta lấy khẩu hiệu dăng đầy ngoài đƣờng

phố để kiểm tra hiện tình chính trị xã hội trong đời sống hiện thực. Bởi lẽ, tất cả

các tính chất ấy đã là đích nhắm đến của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự rồi,

và nó đã đƣợc tính đến khi làm hệ thống bảng từ đầu mục.

Theo chúng tôi, có hai từ cần chú ý khi kiểm tra tính hệ thống của bảng

từ đầu mục, mà nếu thỏa mãn sự đánh giá của hai từ này thì bảng từ đầu mục

bắt đầu đạt yêu cầu. Đó là hai chữ phù hợp và cân đối.

- Phù hợp để kiểm tra các hệ thống dọc (ngành khoa học), các hệ thống

con nằm trong hệ thống lớn. Phù hợp chính là sự hợp lí mang tính hệ thống -

cấu trúc. Nó nói đƣợc sự cần thiết có mặt của bản thân nó với tƣ cách một đơn

vị trong một tập hợp nào đó.

- Cân đối để kiểm tra hệ thống ngang (liên ngành). Các ngành có các hệ

thống thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng tƣơng đƣơng nhau về mặt số lƣợng,

không bên nhiều, bên ít, không quá “vênh” nhau về chất lƣợng của bảng từ

đầu mục cả về nội dung lẫn hình thức (sự tinh gọn, chính tả, phiên âm, …).

Nhƣ vậy, yêu cầu trong cấu trúc vĩ mô của Từ điển Địa danh Lịch sử

Quân sự phải có tính hệ thống nghiêm ngặt là một yêu cầu chính đáng, bởi

tầm quan trọng của chính loại ấn phẩm này đối với xã hội. Nghiên cứu vấn đề

này từ khái niệm cơ bản đến việc thử tìm hiểu cơ chế, bản chất của sự thể hiện

và các yếu tố ảnh hƣởng, rồi cách kiểm tra tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự là mong muốn của tác giả khi viết cuốn

từ điển này.

2.4. Tiểu kết

Qua từ điển địa danh lịch sử quân sự, ta thấy rõ hơn một số vấn đề nhƣ sau:

1. Sách công cụ không phải là một tập thể rời rạc. Nó chính là một

móc xích thống nhất của tiểu chủ đề làm nên hệ thống. Tuy nhiên, tính hệ

thống đó phải căn cứ vào đặc thù, tính chất của công cụ chứ không phải từ

51

điển nào cũng giống nhau (từ điển ngữ văn khác, từ điển so sánh khác…) và khi

thiết lập bảng từ ngƣời biên soạn bắt buộc phải tính đến đặc tính của các tiểu hệ

thống trên cơ sở thiết kế các mục từ theo các chủ đề khác nhau và số lƣợng các

mục từ này cũng phải đƣợc chọn lựa cân đối theo các tiêu chí cụ thể.

2. Việc làm đúng quy trình trong việc thiết lập bảng từ là công việc

đầu tiên. Là cơ sở đóng vai trò quyết định trong việc triển khai biên soạn các

sách. Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự cũng tuân thủ theo nguyên tắc đó,

nhƣng nó cũng dựa vào đặc thù riêng của từ điển này mà đƣa ra một cách

triển khai thích hợp.

3. Mục từ trong Từ điển Địa danh Quân sự không đơn thuần chỉ có

định nghĩa, giải thích mà còn có những thông tin về nguồn gốc xuất xứ hay

lịch sử phát sinh, phát triển khái niệm, thuật ngữ, giải đáp nhiều câu hỏi, giúp

cho việc tra cứu, tìm hiểu tri thức và tạo điều kiện cho việc tự học, tự nghiên

cứu, nâng cao trình độ, nắm đƣợc hoàn chỉnh, có hệ thống khái niệm, các chủ

đề tri thức mà độc giả quan tâm.

52

Chƣơng 3

CẤU TRÚC VI MÔ – THÔNG TIN CHI TIẾT

CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

3.1 Đặt vấn đề

Cấu trúc vi mô của các mục từ trong từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân

sự chỉ toàn bộ nội dung lƣợng thông tin lần lƣợt đƣợc giới thiệu trong mỗi

mục từ đó là thông tin cần thiết đƣợc áp dụng trong mỗi đơn nguyên tri thức

và đây là tri thức mỗi mục từ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự. Vì thế,

cấu trúc vi mô còn đƣợc gọi là kết cấu các mục từ.

Kết cấu các mục từ chủ yếu đƣợc thể hiện bằng các sƣờn dàn ý hay các

mẫu biên soạn cho từng loại mục từ. Thƣờng là đƣợc chính thức hóa trong

phần thể lệ biên soạn bách khoa thƣ. Mục đích của việc xây dựng các mẫu

biên soạn nhằm bảo đảm đƣợc tính chuẩn mực, tính hoàn chỉnh của nội dung,

tránh đƣợc những trùng lặp không đáng có.

Trong từ điển địa danh lịch sử quân sự, mỗi mục từ hoàn chỉnh sẽ có

- Tên đầu mục

- Nội dung mục từ: thứ tự diễn giải (thời gian, các địa điểm diễn ra các

kết cấu nhƣ sau:

- Hình minh họa(nếu có) đây chính là thông tin hỗ trợ, kênh hình là một

sự kiện, các nhân vật liên quan đến sự kiện

- Tên ngƣời biên soạn

- Thƣ mục tham khảo

yêu cầu cần thiết làm rõ văn bản.

3.2 Thông tin chi tiết

3.2.1. Mục từ

Mục từ là bộ phận trọng tâm chính của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân

sự. Việc nghiên cứu lí luận và những kinh nghiệm biên soạn, biên tập các

53

sách bách khoa thƣ ở Việt Nam chƣa nhiều, do công việc mới chỉ bắt đầu, vì

vậy triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng bƣớc làm sáng tỏ những quan

điểm về cấu trúc vi mô của mục từ bách khoa thƣ là việc làm cần thiết. Tìm

hiểu qua những bộ bách khoa toàn thƣ trên thế giới và ở Việt Nam để tìm ra

những giải pháp đúng đắn phục vụ công tác chuẩn bị lí luận biên soạn bộ

Bách khoa toàn thƣ Việt Nam.

Là một tri thức độc lập, bao gồm một từ hoặc một cụm từ phản ánh khái

quát về mặt nội dung hoặc có thể đại diện cho một khái niệm hoặc một chủ đề

của mục từ. Trong từ điển địa danh lịch sử quân sự, tên đầu mục từ phải là

yếu tố đại diện và mang tính khái quát cho nội dung của khái niệm howcj một

chủ đề tri thức đƣợc đề cập đến trong mục từ.

Hình thức trình bày tên đầu mục từ là phông chữ hoa, in đậm. Trong

trƣờng hợp có chú thích về cách gọi khác, tên gọi khác, chữ viết tắt…thƣờng

đặt trong ngoặc đơn, sau tên đầu mục từ.

Mục từ là đơn nguyên tra tìm cơ bản của bách khoa thƣ, giới thiệu có hệ

thống và hoàn chỉnh một chủ đề tri thức hoặc một khái niệm, giúp cho độc giả

tìm kiếm, tra cứu nhanh chóng, dễ dàng.

Trong các sách bách khoa thƣ và từ điển bách khoa, mục từ là bộ phận

cấu thành nên bộ sách.

Phân biệt mục từ bách khoa thƣ với mục từ của các loại từ điển khác

Mục từ bách khoa thƣ khác với mục từ của từ điển bách khoa, từ điển

thuật ngữ khoa học, từ điển đối chiếu và từ điển ngôn ngữ ở nội dung mục từ.

Mục từ bách khoa thƣ không đơn thuần chỉ có định nghĩa, giải thích mà

còn có những thông tin về nguồn gốc xuất xứ hay lịch sử phát sinh, phát triển

khái niệm, thuật ngữ, giải đáp đƣợc nhiều câu hỏi, giúp cho việc tra cứu, tìm

kiếm tri thức và tạo điều kiện cho việc tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình

độ, nắm đƣợc hoàn chỉnh, có hệ thống các khái niệm, các chủ đề tri thức mà

độc giả quan tâm.

54

Do mục từ bách khoa thƣ đƣợc trình bày khái quát có hệ thống các tri

thức, khái niệm, tổ chức, sự kiện, học thuyết, trƣờng phái, ngành và phân ngành

học thuật, vv. giúp độc giả có thể hiểu đƣợc một cách toàn diện, cơ bản, có hệ

thống thông qua mục từ chuyển dẫn mang tính khoa học chặt chẽ nhằm mục

đích liên kết tri thức trong từng ngành, cũng nhƣ những ngành khoa học có liên

quan với nhau (liên ngành).

Vì vậy, mục từ bách khoa thƣ đã phản ánh đƣợc ở một mức độ nào đó

những tính chất đặc thù riêng.

* Tính chất mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự

* Tính khoa học: Những tri thức của mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự

đƣợc phản ánh có căn cứ khoa học chuẩn xác, đã đƣợc thừa nhận và có tính ổn

định cao.

* Tính hiện đại: Mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự phải phản ánh

đƣợc những tri thức hiện đại, những tri thức mới phát sinh.

* Tính dân tộc: Mục từ bách khoa thƣ phản ánh những tri thức văn hóa, khoa

học cơ bản có tính phổ quát nhất trong kho tàng tri thức của dân tộc, theo

quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và phƣơng pháp biện chứng trong việc

đánh giá các sự kiện và tài liệu.

* Tính tra cứu: Những tri thức của mục từ bách khoa thƣ đảm bảo cho độc giả

có thể tra tìm đƣợc nhanh, đọc đƣợc dễ dàng, giúp cho độc giả có thể sử dụng

thời gian ngắn nhất, tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri thức và tƣ

liệu cần thiết.

*Tính súc tích, chuẩn mực: Những tri thức của mục từ bách khoa thƣ đƣợc

trình bày ngắn gọn, tiết kiệm văn bản, dễ tiếp thụ, sử dụng ngôn ngữ trong

sáng, chuẩn mực theo thể lệ biên soạn thống nhất.

Mục từ bách khoa thƣ chủ yếu có cấu trúc gồm những phần sau:

1. Tên đầu mục

55

2. Chú thích

3. Nội dung mục từ

4. Hình minh họa

5.Thƣ mục tham khảo

Ngoài ra, ở một số mục từ quan trọng và những mục từ chính của các

ngành khoa học có ghi tên tác giả ở cuối mục từ.

Tên đầu mục từ là một từ hoặc một cụm từ, phản ánh khái quát đƣợc về

mặt nội dung hoặc có thể đại diện cho khái niệm hoặc chủ đề của mục từ.

Thƣờng từ hoặc cụm từ có tính quy phạm, chuẩn mực, thông dụng đƣợc

quen dùng trong các sách giáo khoa, bài giảng và giáo trình chuyên ngành.

Tên đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo trật tự thuận, đảm bảo dễ tra tìm. Khi gắn

với tên riêng hoặc khi cần thiết có thể đảo thứ tự các từ.

Cho nên, lựa chọn tên đầu mục từ đã thể hiện đại diện cho khái niệm

hoặc chủ đề tri thức đƣợc ẩn chứa trong mục từ. Thông qua tên đầu mục từ đã

phần nào giúp độc giả tra tìm một cách dễ dàng những vấn đề mình quan tâm.

Nếu lựa chọn tên đầu mục không chuẩn mực, không quen dùng và không có

tính khoa học làm cho độc giả khó khăn khi tra tìm.

Đặc biệt, đối với những mục từ gốc, mục từ lớn của bách khoa thƣ

thƣờng đặt tiêu đề cho các tầng bậc, cấp độ để phản ánh hệ thống tri thức,

giúp tra cứu thuận tiện, có hiệu quả các mục từ bách khoa thƣ.

Hình thức trình bày tên đầu mục từ có co chữ lớn và đậm hơn co chữ ở

phần nội dung.

 Chú thích

Chú thích thƣờng nằm trong ngoặc đơn sau tên đầu mục từ, giải thích

nguồn gốc thuật ngữ, tên nguyên ngữ, tên Latinh, tên gọi tắt, tên hiệu, tên gọi

khác, năm sinh, năm mất, ngày thành lập, nơi thành lập, giai đoạn diễn biến

và phát triển, vv. Ngoài ra, ở phần chú thích có thể ghi thêm tên ngành hoặc

liên ngành có chung một khái niệm thuật ngữ hoặc chủ đề tri thức. Ví dụ:

56

- Những mục từ có gắn liền với tên riêng tiếng nƣớc ngoài nhƣ: địa

danh, sự kiện, nhân vật, định luật,vv. sau tên đầu mục từ có ghi tên nguyên

ngữ trong ngoặc đơn.

- Những mục từ khoáng vật, hóa chất, sinh học, nông nghiệp (cây, con)

có ghi thêm tên Latinh.

- Tên nhân vật trong và ngoài nƣớc có ghi thêm năm sinh, năm mất; tên

gọi khác, tên hiệu.

- Những mục từ tổ chức, sự kiện thƣờng ghi trong ngoặc đơn ngày

thành lập, nơi thành lập, giai đoạn diễn biến, vv.

- Những mục từ có chung một khái niệm, thuật ngữ thì ghi thêm tên

liên ngành nhƣ: toán, lí; kiến trúc, mĩ thuật; sử, quân sự, chính trị; văn,

ngôn ngữ…

3.2.2. Nội dung mục từ

Đây là phần chính, cốt lõi của mục từ bách khoa thƣ đƣợc trình bày

khái quát có hệ thống một khái niệm, một học thuyết, một trƣờng phái, một tổ

chức, một sự kiện, một ngành hoặc phân ngành học thuật, vv. để ngƣời đọc có

thể hiểu đƣợc toàn diện có hệ thống.

Đây là phần chính, cung cấp thông tin trong mỗi mục từ. Nội dung của

- Định nghĩa (giới thiệu chủ đề tri thức hoặc khái niệm đó)

- Nguồn gốc mục từ (xuất xứ hình thành tên đầu mục từ)

- Giới thiệu quá trình lịch sử hình thành của khái niệm hoặc của chủ đề

phần này bao gồm:

- Những nội dung tri thức cơ bản đƣợc đề cập đến hoặc có liên quan

tri thức đó;

- Những nội dung tham khảo

đến chủ đề;

57

Ngoài ra, các mục từ gốc (mục từ lớn) của từ điển thuật ngữ quân sự có

thể phân chia thành từng bậc (mục từ nhỏ) nhằm chi tiết hóa nội dung tri thức

của chủ đề lớn. Mỗi một tầng bậc đều có tên tiêu đề và mỗi một tên tiêu đề có

một nội dung hoàn chỉnh, có kết cấu chặt chẽ, giúp cho việc tra cứu thuận tiện

và hệ thống đƣợc kiến thức bao chứa trong mục từ gốc.

Nội dung mục từ bách khoa thƣ thƣờng có định nghĩa hoặc giải thích

tên đầu mục từ và mở rộng sâu hơn những kiến thức liên quan đến chủ đề đó.

Trong nội dung của mục từ bách khoa thƣ cũng có kết cấu chặt chẽ cho

từng loại hình mục từ, gồm những phần sau:

- Định nghĩa: nêu bản chất của khái niệm, sự vật (ở phần đầu tiên của

nội dung).

- Phát triển định nghĩa.

- Kết luận: khái quát ngắn gọn phạm vi, ý nghĩa, tác dụng và hƣớng

phát triển của chủ đề.

Đối với những mục từ gốc (mục từ dài) thƣờng đƣợc phân chia thành

từng bậc. Mỗi một từng bậc đều có tên tiêu đề và mỗi một tên tiêu đề đều có

một nội dung hoàn chỉnh, có kết cấu chặt chẽ, gồm 3 phần trên, giúp cho việc

tra cứu thuận tiện và hệ thống đƣợc kiến thức bao chứa trong mục từ gốc.

Đặt biệt, với mục từ chuyển dẫn chỉ có tên đầu mục từ và đƣợc chuyển

tới xem nội dung của mục từ khác.

3.2.3.Hình minh họa

Hình ảnh minh họa là một bộ phận quan trọng của mục từ bách khoa thƣ

giúp tiết kiệm đƣợc văn bản và có tác dụng làm sáng tỏ phần nội dung của mục từ.

Vì chính những hình ảnh minh họa đã mang tính tri thức. Thông qua hình minh họa

nhƣ: sơ đồ, biểu đồ, công thức, bản đồ, tranh, ảnh, vv. giúp cho độc giả có thêm

nhận thức về nội dung mục từ mà văn bản không lột tả hết đƣợc. Ngoài ra, hình ảnh

minh họa làm cho nội dung mục từ hấp dẫn, sinh động và khoa học hơn.

58

Do hình minh họa là bộ phận cấu thành quan trọng của một số mục từ, nên

hình minh họa phải mang tính văn hóa, tính khoa học, tính tƣ tƣởng và tính nghệ

thuật. Việc lựa chọn hình minh họa và chú thích hình minh họa phải đảm bảo phối

hợp chặt chẽ, làm cho nội dung mục từ thêm rõ nghĩa. Hình minh họa cho mục từ

bách khoa thƣ chủ yếu ở dạng ảnh đen, trắng, bản đồ (thế giới, châu lục, quốc gia,

tỉnh, thành phố…), bảng, biểu đồ, công thức và phụ bản màu theo chủ đề.

Hình minh họa cần có sự chọn lựa những tiêu bản điển hình, phù hợp tƣơng

thích với nội dung văn bản. Hình minh họa sắp xếp theo trình tự, kích thƣớc

VD:

Nghĩa trang Xã Ba Lòng

BA LÕNG, xã thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nằm ở thung

lũng trung lƣu sông Thạch Hãn, trung tâm chiến khu Ba Lòng, căn cứ kháng

chiến của tỉnh Quảng Trị trong Kháng chiến chống Pháp. Ngày 16.9.1948

quân dân Ba Lòng chiến đấu chống lại cuộc càn quét lớn của quân Pháp, diệt

400 địch, bảo vộ an toàn khu căn cứ.

59

BẾN THUỶ, cảng trên sông Lam, đông nam thành phố Vinh - Nghệ

An 5km, cách Cửa Hội 1 lkm theo đƣờng bộ, 25km theo đƣờng thuỷ. Đƣợc

xây dựng từ thời thuộc Pháp. Ngày 1.5.1930, công nhân Bến Thuỷ cùng nông

dân các xã lân cận biểu tình, mở đầu phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Trong

Kháng chiến chống Mỹ, Bến Thuỷ là đầu mối giao thông quan trọng, thƣờng

xuyên bị không quân và hải quân Mỹ đánh phá ác liệt song vẫn bảo đảm giao

thông thông suốt. Tập thể công nhân bến phà Bến Thuỷ đƣợc tuyên dƣơng

đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.

3.2.4.Thư mục tham khảo

Là phần đƣợc ghi sau nội dung mục từ, liệt kê các tên sách, tƣ liệu, báo

chí, vv. đƣợc sử dụng để biên soạn mục từ. Thƣ mục tham khảo có tên và địa

chỉ rõ ràng nên độc giả có thể tham khảo thêm để hiểu sâu rộng hơn những

khái niệm, chủ đề liên quan đến mục từ.

Thƣ mục tham khảo đƣợc viết và sắp xếp theo quy định thống nhất. Bao

gồm: tên tác giả, dịch giả, tên sách, nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản.

Hình minh họa đƣợc gọi là kênh hình, một bộ phận quan trọng trong từ điển

thuật ngữ quân sự giúp tiết kiệm đƣợc văn bản và có tác dụng làm sáng tỏ phần nội

dung của mục từ. Vì chính những hình ảnh minh họa đã mang tính tri thức. Thông

qua hình minh họa nhƣ: sơ đồ, biểu đồ, công thức, bản đồ, tranh ảnh…giúp cho độc

60

giả có thêm nhận thức về nội dung của mục từ mà văn bản không lột tả hết đƣợc.

Ngoài ra, hình ảnh minh họa làm cho nội dung mục từ hấp dẫn, sinh động và khoa

học hơn.

Trong từ điển thuật ngữ quân sự, những mục từ có thể có hình ảnh minh

họa gồm những mục từ về trận đánh, danh lam thắng cảnh, sơ đồ, bản đồ,

Tuy nhiên, không phải tất cả các mục từ bách khoa thƣ đều có thƣ mục

tham khảo, nhƣ bách khoa toàn thƣ Americana, Britannica, Grand Larousse…

chỉ có thƣ mục tham khảo ở những loại hình mục từ sau:

- Mục từ về ngành, phân ngành học thuật, lí luận cơ bản và các học thuyết.

- Mục từ về học phái, trƣờng phái có ảnh hƣởng, có uy tín.

- Mục từ về những phát minh quan trọng.

- Mục từ về nhân vật có cống hiến quan trọng và có ảnh hƣởng.

Hình thức trình bày của thƣ mục tham khảo có fon chữ khác với fon

chữ của phần nội dung.

Chủ yếu mục từ phân loại theo nội dung khoa học đƣợc xem là chuẩn xác nhất

1. Mục từ tổng quát: là mục từ có bài viết mang tính khái quát, tổng hợp

về ngành học thuật hoặc bộ môn khoa học.

2. Mục từ chỉ dẫn khoa học: là những mục từ có bài viết về thuật ngữ,

khái niệm, học thuyết, lí luận cơ bản, sự việc, hiện tƣợng, vv. của ngành hoặc

phân ngành học thuật.

3. Mục từ giải thích: là những mục từ có bài viết về tên nhân vật, tên

đất, tên dân tộc, tổ chức, sự kiện, tác phẩm, vv.

4. Mục từ chuyển dẫn: là những mục từ xem , xem thêm hay tham khảo

thêm nội dung của mục từ khác. Nhằm liên kết các tri thức nằm rải rác khắp

nơi trong bộ sách.

Có thể phân loại chi tiết hơn mỗi một loại hình mục từ trên thành những

loại hình mục từ cụ thể.

61

Ví dụ: ở loại hình mục từ giải thích

Mục từ tổ chức đƣợc phân nhỏ hơn thành loại mục từ:

+ Tổ chức chính trị - xã hội (đảng phái chính trị, tổ chức chính trị, đoàn

thể, hiệp hội; các tổ chức quốc tế).

+ Tổ chức kinh tế (tổng công ti, nhà máy, ngân hàng, hãng sản xuất…

trong nƣớc và nƣớc ngoài).

+ Tổ chức văn hóa – giáo dục (trƣờng, viện nghiên cứu, nhà xuất bản,

thƣ viện, viện bảo tàng, hãng thông tấn phát thanh, truyền hình, nhà hát, đoàn

nghệ thuật… trong nƣớc và nƣớc ngoài).

 Kết cấu các loại hình mục từ

Nghiên cứu những bộ bách khoa toàn thƣ trên thế giới, có thể rút ra kết

cấu nội dung các loại hình mục từ bách khoa thƣ để tham khảo. Đồng thời giúp

cho quá trình biên soạn, biên tập theo một chuẩn mực nhất quán, không thể viết

tùy tiện (ngẫu hứng). Xây dựng kết cấu các loại hình mục từ giúp cho tác giả có

một khuôn mẫu thống nhất, tránh viết thừa, viết thiếu và viết tràn lan.

Mỗi một loại hình mục từ có kết cấu chặt chẽ dựa theo những tiêu chí

đƣợc quy định cụ thể.

 Kết cấu loại hình mục từ tổng quát

Trƣớc phần mục từ của một ngành học thuật hay một bộ môn khoa học

trong bách khoa thƣ đều có bài viết có tính khát quát, tổng luận về ngành học

thuật hay bộ môn khoa học,

Bài viết khái quát ngoài việc nêu lên những tri thức cơ bản, những khái niệm

cơ bản, đối tƣợng, nội dung, lịch sử phát triển, hiện trạng, còn phải chú trọng giới

thiệu tác dụng quan trọng của ngành học thuật hoặc bộ môn khoa học đó đối với

nền khoa học, văn hóa và đời sống của nhân loại; ảnh hƣởng tƣơng hỗ đối với

ngành khoa học liên quan; quy luật phát triển và triển vọng tiền đồ của ngành.

- Kết cấu bài viết mục từ có tính tổng hợp của ngành hoặc phân ngành

học thuật gồm những phần sau:

62

- Định nghĩa và khái niệm cơ bản: vị trí của ngành hoặc phân ngành học

thuật trong hệ thống khoa học chung, lĩnh vực và đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu.

- Khởi nguồn, sự phát triển và hiện trạng của ngành hoặc phân ngành học thuật.

- Nội dung chủ yếu của ngành hoặc phân ngành học thuật.

- Quan hệ tƣơng hỗ với các ngành hoặc phân ngành học thuật lân cận.

- Mối quan hệ của ngành hoặc phân ngành học thuật với xã hội, chính

trị, kinh tế.

- Những vấn đề chủ yếu còn tồn tại trƣớc mắt và triển vọng.

- Hình minh họa.

- Thƣ mục tham khảo.

 Kết cấu loại hình mục từ chỉ dẫn khoa học

Những mục từ về thuật ngữ, khái niệm, học thuyết, lí luận cơ bản, sự việc,

hiện tƣợng, học phái, trƣờng phái… của ngành hoặc phân ngành học thuật.

 Kết cấu mục từ thuật ngữ, học thuyết và lí luận cơ bản

- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.

- Ngƣời sáng lập hoặc đặt nền móng.

- Quá trình hình thành và phát triển.

- Nội dung cơ bản.

- Tác dụng, ý nghĩa và ảnh hƣởng.

- Những vấn đề còn tồn tại.

- Xu thế phát triển.

- Hình minh họa (nếu cần).

 Kết cấu mục từ sự việc, hiện tượng, khái niệm cơ bản

- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.

- Phạm vi thời gian, không gian tồn tại sự việc, hiện tƣợng.

- Phân loại và miêu tả sự việc, hiện tƣợng.

- Sự phát sinh và phát triển của sự việc, hiện tƣợng.

63

- Mối quan hệ với các sự việc, hiện tƣợng khác.

- Lịch sử nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu.

- Lí luận giải thích sự việc, hiện tƣợng, giới thiệu học thuyết của các

nhà khoa học, những vấn đề đƣa ra tranh luận, triển vọng.

- Hình minh họa.

- Thƣ mục tham khảo.

 Kết cấu mục từ học phái, trường phái

- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.

- Lai lịch xuất xứ hình thành đầu mục từ

- Thời gian, địa điểm phát sinh, ngƣời sáng lập, bối cảnh lịch sử, quá

trình hình thành và diễn biến, quan hệ với các học phái, trƣờng phái khác.

- Nhân vật đại diện.

- Quan điểm, lí luận chủ yếu.

- Tác dụng và ảnh hƣởng (đối với học phái đang tồn tại cần giới thiệu

xu thế phát triển).

- Hình minh họa.

- Thƣ mục tham khảo.

 Kết cấu mục từ định luật, nguyên lí

- Nội dung định luật, nguyên lí.

- Ngƣời đề xƣớng, phát minh (năm phát minh), quá trình hình thành và

phƣơng pháp nghiên cứu.

- Tác dụng, ý nghĩa khoa học và ứng dụng.

- Thƣ mục tham khảo (nếu cần).

 Kết cấu loại hình mục từ giải thích

Những mục từ về tên ngƣời, tên đất, tên dân tộc, tổ chức, sự kiện, tác phẩm.

 Kết cấu mục từ tên đất (tên địa lí)

Những mục từ về quốc gia, vùng lãnh thổ; tỉnh, thành phố; quận, huyện

64

và những mục từ về địa lí tự nhiên (đồng bằng, cao nguyên, dãy núi, đảo,

vịnh, sông, hồ)… có kết cấu riêng cho từng loại hình. Trong bài viết này chỉ

xét đến cấu trúc của loại hình mục từ quốc gia và mục từ địa lí tự nhiên.

 Kết cấu mục từ quốc gia và vùng lãnh thổ

Mục từ quốc gia trong bách khoa thƣ giới thiệu một cách tổng hợp và

có hệ thống tình hình mọi mặt của mỗi quốc gia trên thế giới, từ cội nguồn

lịch sử đất nƣớc và tài nguyên thiên nhiên, dân cƣ, dân tộc, lịch sử, tôn giáo,

văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội cho đến cả danh lam thắng cảnh, phong tục

tập quán, vv. Do vậy, cấu trúc mục từ quốc gia gồm những phần sau:

 Kết cấu loại hình mục từ chuyển dẫn

Mục từ chuyển dẫn tới xem nội dung của mục từ khác đƣợc dùng trong

các trƣờng hợp: từ có khái niệm đồng nghĩa (còn gọi hay tên gọi khác), dạng

viết tắt, bút danh, tên hiệu, tên thật, vv. Có cấu trúc nhƣ sau:

TÊN ĐẦU MỤC TỪ xem Mục từ khác có nội dung.

Mục từ chuyển dẫn đƣợc sử dụng trong các trƣờng hợp sau:

+ Từ có khái niệm đồng nghĩa (còn gọi hay tên gọi khác), ví dụ:

KHỞI NGHĨA BÃI SẬY x. Bãi Sậy.

Nhƣ vậy, nghiên cứu phân loại các loại hình mục từ dựa vào nội dung

tri thức với kết cấu khoa học chặt chẽ của từng loại hình mục từ không những

đảm bảo cho quá trình biên soạn, biên tập đƣợc thống nhất mà còn giúp cho

việc quản lí tƣ liệu, bổ sung, cập nhật đƣợc nhanh chóng, dễ dàng.

Thực hiện biên soạn, biên tập theo đúng kết cấu chung cho từng loại

hình mục từ sẽ giải quyết bài toán tính hệ thống và tính liên kết thống nhất

trong mỗi một mục từ. Kết quả nghiên cứu phục vụ cho công tác biên soạn

các bộ Bách khoa thƣ sẽ đƣợc triển khai ở Việt Nam.

3.2.5. Tên người biên soạn

Theo quy định của thể lệ biên soạn thuật ngữ địa danh quân sự

65

3.2.6.Tài liệu tham khảo

Cuối mỗi mục từ là danh mục các tài liệu tham khảo Các tài liệu này

đƣợc mô tả nhƣ mục chuẩn xác, đầy đủ để ngƣời đọc có thể dựa vào đó để

đọc tài liệu tham khảo, bổ sung kiến thức.

Tiểu kết

Nhƣ vậy trình tự xuất hiện thứ tự trong mục từ chính là yếu tố quan trọng cho

ngƣời đọc tìm hiểu mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự khác với các

loại từ điển khác (khác với từ điển ngữ văn, từ điển giải thích, từ điển đối chiếu…).

Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự là loại từ điển tri thức vì vậy phải đƣa ra các

trình tự để làm nên một mục từ địa danh quân sự. Các trình tự đó phải sắp xếp theo

một thứ tự thống nhất, phải bảo đảm tính khoa học giúp cho ngƣời đọc tiện theo dõi

tìm hiểu.

Trong các mục từ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự sẽ có những

mục từ hoàn chỉnh (đầy đủ thông tin) nhƣng không nhất thiết mục từ nào cũng

đòi hỏi giới thiệu mọi thông tin mà tùy từng trƣờng hợp do yêu cầu mà ngƣời

biên soạn bỏ bớt một số thông tin.

Hình minh họa là một phần thông tin hỗ trợ cho văn bản mỗi mục từ.

Hình minh họa phải là những thông tin cần yếu phù hợp và điển hình

Các thông tin phụ trợ khác nhƣ: tên tác giả, thƣ mục tham khảo thực ra không

cần thiết lắm đối với Từ điển bách khoa. Tuy nhiên, vấn đề làm đƣợc điều này thì sẽ

làm tăng độ tin cậy và tăng tính thuyết phục của mục từ trong cuốn từ điển.

Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự vẫn còn bộc lộ một số khiếm khuyết

trong việc giới thiệu. Một số mục từ cần rút kinh nghiệm cho lần tái bản sau.

66

Chƣơng 4

TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ

4.1. Đặt vấn đề

Cuốn Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự thuộc hệ thống các

từ điển quân sự chuyên đề, do Ban biên tập từ điển bách khoa quân sự Việt

Nam sau một thời gian dài thu thập và tìm hiểu các tác giả đã biên soạn đƣợc

cơ bản các địa danh lịch sử quân sự Việt Nam. Đây là một công trình quy mô,

khoa học và hết sức ý nghĩa, đòi hỏi sự đam mê nghiên cứu và tập hợp một

cách hệ thống để độc giả có thể tìm hiểu và hình dung ra quá trình đấu tranh

và bảo vệ tổ quốc của ông cha ta góp một phần không nhỏ vào lịch sử hào

hùng của dân tộc.

Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là một loại sách tập hợp

các tri thức cơ bản, hệ thống của địa danh quân sự Việt Nam giúp cho việc tra

cứu, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu của đa số độc giả. Tri

thức về địa danh quân sự, các trận đánh, căn cứ địa cách mạng ngày càng trở

nên thông hiểu sâu sắc, độc giả có thể dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt và ghi nhớ.

Về tính hệ thống của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự.

Khái niệm “cấu trúc vĩ mô” đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ biến

trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho thấy,

bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung nhƣ một

hệ thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ các quan

niệm nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả. Nhƣ vậy, khái

niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ đầu mục. Từ “hệ

thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn ti, cấp bậc, cũng

thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cach trọn vẹn. Nếu

không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta chỉ đơn thuần sẽ chỉ là các đơn

vị rời rạc. Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, soắn bện vào

67

nhau làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi là hệ thống dọc và hệ

thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti, hệ thống ngang là mối quan hệ

cân đối giữa các chủ đề với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian,

các mối quan hệ, hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế

định lẫn nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng các đơn

nguyên nhỏ nhất.

Tính hệ thống liên quan tới cấu trúc vi mô của Từ điển thuật ngữ Địa

danh Lịch sử Quân sự. Bởi hệ thống bao gồm các tầng bậc hình thành từ các

tiểu hệ thống, dƣới cùng là các mục từ cụ thể. Mục từ là bộ phận trọng tâm

chính của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự nó giới thiệu một

cách có hệ thống và hoàn chỉnh một chủ đề tri thức cụ thể, giúp cho độc giả

tìm kiếm, tra cứu nhanh chóng, dễ dàng. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Địa

danh Lịch sử Quân sự, mục từ là bộ phận cấu thành nên cuốn sách. Vì vậy

triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng bƣớc làm sáng tỏ quan điểm về cấu

trúc vi mô của mục Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là việc

làm cần thiết.

4.2.Cấu trúc vĩ mô và tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô của Từ

điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự

4.2.1.Cấu trúc vĩ mô

Khái niệm cấu trúc vĩ mô đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ

biến trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho

thấy, bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung

nhƣ một hệ thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ

các quan niệm nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả.

Nguyễn Trọng Báu coi : “Lựa chọn một bảng mục từ nhƣ thế nào cho bách

khoa thƣ là cơ sở biểu hiện thế giới quan giai cấp của ban biên tập. Đồng thời

qua bảng mục từ có thể hình dung ra khối lƣợng từ điển, kết cấu và các chủ

thể để cho Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự đề cập tới.

68

Nhƣ vậy, khái niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ đầu

mục. Từ “hệ thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn ti, cấp bậc,

cũng thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cách trọn vẹn. Nếu

không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta sẽ chỉ là các đơn vị rời rạc, chẳng

những chúng không có sự gắn kết, thiếu chọn lọc, có nguy cơ không kiểm soát nổi,

tùy tiện, cảm tính dẫn đến tình trạng không cân đối, thậm chí thiếu, thừa.

4.2.2.Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô

4.2.2.1. Sự thể hiện của các hệ thống

Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, soắn bện vào nhau

làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi là hệ thống dọc và hệ

thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti trong một chủ đề (một ngành

khoa học). Hệ thống ngang là mối quan hệ cân đối giữa các chủ đề (các

ngành khoa học) với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian, các

mối quan hệ hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế định

lẫn nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, xƣng danh nhƣ các đơn

nguyên nhỏ nhất.

1. Tính liên thông của từ điển bách khoa

Từ điển Bách khoa là một công trình khoa học của một tập thể vì vậy

việc suy nghĩ, xác định chủ đề, đối tƣợng nội dung, kết cấu, thể lệ biên soạn,

văn phong trong đề tài…do ban biên tập họp bàn và thống nhất và chúng có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ điển bách khoa ngoài chức năng sách công

cụ về giáo dục, đào tạo, còn là loại sách công cụ hoàn bị nhất, bao gồm nhiều

chức năng công cụ khác nhau, nghĩa là phải đáp ứng một đối tƣợng độc giả

rộng rãi và một nhu cầu tra cứu tìm đọc đa dạng hơn nhiều so với sách khác.

Từ điển Bách khoa phaair đảm bảo các tính chất đó là tính toàn

diện, chính xác . Nó là một loại sách công cụ hoàn bị nhất, phải thiết kế

cấu trúc thế nào để đảm bảo cho ngƣời sử dụng tra cứu, tìm kiếm, học tập

69

thuận tiện nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Điều này phải dựa vào hình

thức biên soạn, sắp xếp mục từ và hệ thống các bộ phận hỗ trợ bổ sung

nhƣ mục lục phân loại mục từ, kênh hình, bản đồ, hệ thống chuyển chú,

thƣ mục tham khảo, niên biểu các sự kiện lớn, đặc biệt là bảng phân tích

chỉ dẫn nội dung…Tất cả những phần phụ thuộc này phải gắn kết chặt chẽ

với chính văn tức nội dung của các mục từ, là phần cốt lõi của từ điển

bách khoa.

2. Tính liên thông của từ điển địa danh lịch sử quân sự

Từ điển địa danh lịch sử quân sự là sách tra cứu, thông tin địa danh

quân sự phục vụ chủ yếu cán bộ trong lực lƣợng vũ trang nhân dân Việt Nam

và các độc giả quan tâm tới địa danh lịch sử liên quan đến các trận đánh trong

quá trình đấu tranh giữ nƣớc của ông cha ta.

Từ điển địa danh lịch sử quân sự có mục đích cung cấp những tri thức

cơ bản, tƣơng đối có hệ thống về lí luận và thực tiễn quân sự Việt Nam, giúp

cho việc giảng dạy và nghiên cứu, huấn luyện quân sự đồng thời làm cơ sở để

thống nhất từ ngữ quân sự tiếng việt.

Từ điển địa danh lich sử quân sự với khối lƣợng khoảng hơn 1000 từ

đƣợc lựa chon theo tiêu chí xác định với nhiều hình ảnh minh họa (bản đồ, sơ

đồ, hình ảnh) đƣợc lí giải theo đúng hệ thống khái niệm, phạm trù liên quan

đến lịch sử quân sự đó chính là tọa độ, trận đánh cứ điểm…. Nội dung các

mục từ đƣợc biên soạn căn cứ vào những tài liệu chính thức của quân đội, nhà

nƣớc Việt Nam. Từ điển địa danh lịch sử quân sự là lọa từ điển bách khoa

chuyên ngành mang đầy đủ đặc điểm của một cuốn từ điển (mang tính vi mô

và vĩ mô). Bị chi phối toàn bộ bởi hai cấu trúc trên,nó mang tính toàn diện

chuẩn xác và tinh gọn.

Tính chính xác trong từ điển địa danh lịch sử quân sự thể hiện là sách

quyền uy, không đƣợc phép đƣa vào những tri thức sai và viết phải tinh gọn

70

thì mới tải đƣợc hết kho tri thức của nhân loại. Để đảm bảo đƣợc tính toàn

diện khó khăn nhất là việc thu thập, chỉnh lí tổ chức kho tƣ liệu để không có

trung lặp, không bỏ sót.

Đây là một công trình tập thể, là sách công cụ hoàn bị nhất do đó

phải thiết kế cấu trúc thế nào để đảm bảo cho ngƣời sử dụng tra cứu, tìm

kiếm, học tập thuận tiện nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Điều này phải

dựa vào hình thức biên soạn, sắp xếp mục từ và hệ thống các bộ phận hỗ

trợ bổ sung nhƣ mục lục phân loại mục từ, kênh hình, bản đồ, hệ thống

chuyển chú, thƣ mục tham khảo

4.3. Vấn đề tính hệ thống trong từ điển

Đây là quan niệm đã có giá trị trong suốt một thời gian dài, dƣới ảnh

hƣởng quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống của F.D. Saussure và tinh thần

cấu trúc luận ngôn ngữ của Bloomphin, F. Boas, Sapir…. Khi đó bảng từ

trong từ điển luôn đƣợc coi là một hệ thống của các đơn vị từ vựng của một

ngôn ngữ, trong đó có rất nhiều hệ thống nhỏ. Mỗi hệ thống nhỏ lại gồm

những hệ thống nhỏ hơn. Tất cả các hệ thống này có quan hệ chặt chẽ với

nhau trong một cấu trúc phức tạp đa chiều. Việc lựa chọn từ trong từng hệ

thống luôn đƣợc xem xét trong những mối quan hệ nhiều chiều để tránh bỏ

sót những đơn vị có cùng chủng loại, cùng cấp độ. Việc giải thích chúng cũng

đƣợc xem xét tƣơng tự nhƣ vậy, để đảm bảo các đơn vị giống nhau về những

mặt nào đó cũng phải đƣợc xử lí theo cùng một mô hình định nghĩa. Nhƣ vậy,

công việc biên soạn từ điển không đơn giản chỉ là cung cấp lời giải nghĩa về

một từ nào đó mà còn phải cho thấy đƣợc bản chất từ đó khi xét trong quan hệ

với những từ khác thuộc cùng trƣờng nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu này những

phƣơng pháp, thủ pháp mà nhà biên soạn áp dụng có thể có nhiều. Phƣơng

pháp phân tích ngữ nghĩa và đối chiếu giữa các từ trong cùng trƣờng nghĩa

thƣờng đƣợc áp dụng và rất có hiệu quả. Thủ pháp khá quan trọng đã đem lại

71

thành công cho một vài cuốn từ điển có thƣơng hiệu trên thị trƣờng là xây

dựng các mẫu định nghĩa và các ngữ đoạn siêu ngôn ngữ. Chẳng hạn, mẫu

định nghĩa cho danh từ khác cho tính từ, động từ, trợ từ… Trong nội bộ nhóm

danh từ lại chia nhỏ ra nhiều nhóm khác nhƣ nhóm chỉ thực vật, động vật, đồ

dùng gia đình, công cụ sản xuất, công trình kiến trúc,v.v. Cách định nghĩa

mỗi nhóm có sự giống nhau và sự khu biệt nhất định, nhằm làm nổi rõ toàn bộ

giá trị ngữ nghĩa, ngữ pháp của từ ngữ. Các mẫu định nghĩa thực chất là sự

khái quát hóa cao nhất cấu trúc ngữ nghĩa của các trƣờng nghĩa. Do vậy, việc

xây dựng các mẫu định nghĩa vừa đảm bảo sự chính xác cao vừa tạo nên sự

nhất quán trong toàn cuốn từ điển. Đây là điều vô cùng quan trọng và cần

thiết trong công tác biên soạn, nhằm nâng cao chất lƣợng và rút ngắn tiến độ

biên soạn. Việc này cần đƣợc làm một cách cẩn thận, có sự nghiên cứu trên tƣ

liệu điều tra về các lớp từ vựng để có đƣợc các mẫu định nghĩa có tính bao

quát nhất. Điều quan trọng là phải phân lập và xác định đƣợc những thông tin

cơ bản nhất về từ, bao gồm cả thông tin ngôn ngữ và thông tin bách khoa. F.

Kifer nhận định việc đƣa thông tin ngôn ngữ vào từ điển có thể là trong những

trƣờng hợp sau: “1) thông tin chức năng, chẳng hạn nhƣ trong ý nghĩa của các

liên từ; 2) liệt kê các thuộc tính nguyên mẫu (prototipichnye); 3) tầm vực

(diapason) nhƣ nhau của các ý nghĩa trong các từ thuộc về cùng một trƣờng

ngữ nghĩa. Đặc điểm cuối cùng gắn với khả năng đƣa những ý nghĩa phái sinh

ra khỏi ý nghĩa cơ bản bằng quy tắc nhận thức. Do đặc trƣng của các quy tắc

này tất nhiên là hi vọng đƣợc rằng ngay tầm vực của các ý nghĩa phái sinh ở

các từ khác nhau cũng sẽ không khác nhau một cách căn bản”.

4.3.1. Tính chuẩn mực của từ điển

Từ điển luôn luôn đƣợc mọi ngƣời kì vọng nhƣ là một bộ khuôn mẫu về

cách dùng từ. Ngƣời ta thƣờng xem đó là những cẩm nang ngôn ngữ. Cả ngƣời

biên soạn và ngƣời đọc hầu hết đều bị ám ảnh bởi ý nghĩ này. Đó là lí do vì sao

72

mà nhiều khi ngƣời đọc bất bình khi thấy có gì đó không đúng trong từ điển.

Nhƣng điều này là có lí do. Thứ nhất là ngƣời làm từ điển luôn muốn thể hiện

sự tồn tại khách quan của việc dùng từ với ý thức tái tạo kho tàng ngôn ngữ đang

nói tới. Thứ hai là tất cả mọi ngƣời -trong đó có ngƣời đọc từ điển không thể biết

hết đƣợc mọi từ ngữ đang tồn tại, họ cần có từ điển để chỉ dẫn cho mình. Tuy

nhiên, dù ngƣời biên soạn đã rất cố gắng thì vẫn có những điều làm ảnh hƣởng

đến chất lƣợng của từ điển. Đó là vấn đề thời gian mà từ điển ra đời. Mỗi cuốn từ

điển đều hoàn thành sau rất nhiều năm sƣu tầm và biên soạn (từ vài năm đến vài

chục năm). Trong khi đó thì ngôn ngữ luôn luôn vận động và phát triển. Nhiều từ

ngữ mất đi, nhiều từ mới ra đời, nhiều từ biến đổi nghĩa và cách dùng…. Khi cuốn

từ điển hoàn thành thì cũng là khi ngƣời biên soạn lại tìm thấy nhiều chỗ cần đƣợc

sửa chữa, bổ khuyết. Phƣơng pháp và kĩ thuật biên soạn cũng có ảnh hƣởng nhiều

đến giá trị chuẩn mực của từ điển. Nếu từ điển đƣợc xây dựng trên khối lƣợng tƣ

liệu rộng và đủ độ tinh lọc thì chất lƣợng của nó đƣơng nhiên là tốt hơn một cuốn

chỉ làm theo kinh nghiệm và đƣợc làm một cách thủ công. Việc ứng dụng các

nghiên cứu lí thuyết ngôn ngữ học vào biên soạn từ điển góp phần làm tăng tính

chuẩn mực và tính hệ thống của từ điển. Kinh nghiệm cho thấy những cuốn từ

điển đƣợc làm một cách bài bản, có nghiên cứu lí thuyết làm nền tảng cho quá

trình biên soạn thì có tính chuẩn mực cao và đáng tin cậy hơn. Trình độ của ngƣời

làm từ điển có liên quan nhiều đến tính chuẩn mực của nó. Tuy nhiên, dù từ điển

có thể còn có sai sót này khác (mà đó là đƣơng nhiên) nhƣng vì chúng thƣờng

đƣợc làm với thái độ cẩn trọng và sự dày công khảo cứu của những ngƣời biên

soạn nên vẫn luôn có giá trị tra cứu mang tính kiểu mẫu. Đó là những cuốn từ điển

đƣợc biên soạn thực sự chứ không phải là loại từ điển đƣợc hoàn thành bằng cách

xào xáo, cóp nhặt thô thiển.

Tính chuẩn mực cần đƣợc xem là một yêu cầu bắt buộc của từ điển để

đáp ứng đúng nhu cầu của ngƣời đọc. Và đó cũng là yêu cầu mà ngƣời biên

soạn từ điển cần hƣớng tới.

73

4.3.2. Tính tiện dụng của từ điển và ảnh hưởng của nó đến người biên soạn

Quan niệm về tính hệ thống nhƣ trên đã đƣợc nhiều từ điển áp dụng suốt

mấy chục thập kỉ, cho đến nay nó đã đƣợc nhìn nhận một cách mềm dẻo hơn. Đó

là do ảnh hƣởng của quan niệm về tính tiện dụng cho ngƣời sử dụng. Vì suy cho

cùng, giá trị của từ điển là ở chỗ chúng đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời sử dụng.

Một cuốn từ điển phải có cấu trúc vĩ mô và vi mô phù hợp với nhu cầu

và mục đích của ngƣời sử dụng. Chẳng hạn, từ điển dành cho học sinh có thể

chỉ lấy những từ mà học sinh quan tâm và cần đƣợc hiểu rõ. Tính tiện dụng có

liên quan nhiều đến cách thu thập từ ngữ và định nghĩa. Nhiều cuốn từ điển

chọn cách định nghĩa đơn giản, gần gũi với cách nói hàng ngày trong xã hội,

không chú trọng nhiều đến văn phong khoa học. Đặc biệt là những cuốn cỡ

nhỏ, dành cho đại chúng. Nhiều từ đƣợc giải thích luôn bằng từ đồng nghĩa.

Điều đó làm giảm nhẹ tính hàn lâm của từ điển và cũng thu gọn dung lƣợng

trang giấy cần thiết. Tuy nhiên, nếu không cẩn thận sẽ đƣa ngƣời đọc vào sự

tra cứu vòng quanh, mất thời gian, đôi khi không có lối thoát. Xin minh

chứng bằng một vài ví dụ dẫn từ một số từ điển:

Chính vì nhu cầu tiện dụng mà ngƣời ta làm nên rất nhiều loại từ điển

ngữ văn khác nhau. Ai cần loại nào cũng dễ chọn. Kể từ những cuốn từ điển

đầu tiên trong lịch sử đến nay đã có nhiều thay đổi. Song có một sự thú vị là

tiếp theo những cuốn đầu tiên trong nhiều thế kỉ trƣớc mang cả tính bách khoa

lẫn ngữ văn là xu hƣớng tách biệt hai loại hình thông tin này. Cùng với đó là

trào lƣu chuyên biệt hóa mỗi loại hình từ điển (phát triển mạnh trong thế kỉ

20). Đến cuối thế kỉ 20, mặc dù vẫn có sự chuyên biệt hóa về mặt loại hình từ

điển, song đã bắt đầu một xu hƣớng mới: tích hợp các thông tin ngay trong

một cuốn từ điển. Khái niệm đơn ngữ và song ngữ, ngữ văn và bách khoa

đang có xu hƣớng không phải lúc nào cũng tách biệt hoàn toàn nữa.

4.3.3. Quá trình biên soạn

Quá trình biên soạn từ điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự bắt đầu

từ khâu chuẩn bị, điều tra nghiên cứu, đến khâu cuối cùng hoàn tất chế bản

74

đƣa ra in và phát hành, đây là một chuỗi công việc rất phức tạp. Việc tổ chức

thực hiện đƣợc thẩm duyệt một cách có hệ thống chặt chẽ, quá trình biên soạn

- công tác chuẩn bị, điều tra, nghiên cứu

- tổ chức đội ngũ biên soạn, biên tập, mạng lƣới tác giả.

- Thiết kế bảng cấu trúc phân loại mục từ và tuyển chọn mục từ.

- Tổ chức viết mục từ

- Thẩm định bản thảo

- Biên tập kỹ thuật

- Chế bản thành sách

- In, xuất bản, phát hành.

xuất bản có thể phân thành 8 công đoạn cơ bản nhƣ sau:

4.3.4.Cách sử dụng từ điển:

a.Tên gọi mục từ đƣợc sắp xếp theo trình tự chữ cái và dấu thanh nhƣ sau:

Trình tự chữ cái: A (Ă, Â), B, C, D, Đ, E (Ê), F, G, H, I, J, K, L, M, N,

N, O, (Ô, Ơ), P, Q, R, S, T, U, (Ƣ), V, X, Y, Z;

Trình tự dấu thanh: không dấu, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng.

b. Từ điển đƣợc sắp xếp không theo âm tiết mà theo kí tự (chữ cái, dấu số) nên

trình tự sắp xếp mục từ nhƣ sau: kí tự rỗng, số Arap (theo trật tự dãy số tự nhiên), chữ

cái Tiếng việt (đối với chữ cái nguyên âm xét trong quan hệ với từ phiên âm, không

tính đến dấu thanh). Trong trật tự sắp xếp không tính đến dấu nối (-)

Ví dụ: A1/A-1/A-4…A BIA…/A SẦU/…

c. Nếu một khái niệm đƣợc gọi bằng nhiều thuật ngữ, một sự vật, hiện

tƣợng đƣợc gọi bằng nhiều tên riêng, thì nói chung tất cả các thuật ngữ và tên

khác nhau đó đều đƣợc phản ánh trong từ điển ở vị trí vần của mình. Nhƣng

nội dung mục từ chỉ trình bày ở thuật ngữ (tên riêng) đƣợc quy ƣớc là thuật

ngữ (tên riêng) chính, còn các thuật ngữ (tên riêng) khác đều có dạng một

mục từ dẫn xem (mục từ giả) và đều quy về mục từ chính

Ví dụ:

75

BÓ CỦNG nh BỐ CỦNG

BA LŨY nh PHA LŨY

BÀ ĐINH nh BÀ ĐEN

Số lƣợng và kết cấu mục từ:

Cuốn từ điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự với 1186 mục từ, độ

dày 458 trang, khổ 13 X 19cm. Mục từ đƣợc trình bày ở trên là những chủ đề

tri thức độc lập hoặc những khái niệm đã đƣợc xác lập. Mục từ đảm bảo đủ 3

- Tính tri thức: yêu cầu tri thức phải chuẩn xác, vững chãi.

- Tính tƣ liệu: yêu cầu tƣ liệu phải cơ bản, tinh gọn, chuẩn xác.

- Tính tra cứu: yêu cầu đảm bảo độc giả có thể tra tìm đƣợc nhanh

yêu cầu:

nhất, đọc dễ dàng nhất, nghĩa là phải giúp cho độc giả có thể sử dụng thời

gian ngắn nhất, cách tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri thức và

tƣ liệu cần thiết.

Về mặt kết cấu, mục từ trong từ điển bách khoa nói chung và tƣ điển thuật

ngữ địa danh quân sự nói riêng thƣờng bao gồm: đầu mục từ, bài viết nội dung mục

từ, tranh ảnh minh họa, bản đồ, biểu đồ kèm theo mục từ, thƣ mục tham khảo.

Về mặt nội dung, bài viết mục từ thƣờng chia làm ba đoạn: định nghĩa

hoặc giải thích định tính, phần nội dung cơ bản, phần tƣ liệu bổ sung. Những

độc giả chỉ muốn biết những khái niệm chung, cơ bản thì đọc phần đầu là đủ.

Những độc giả muốn tìm hiểu sâu, cụ thể thì không những phải đọc hết cả ba

phần mà còn phải tìm đọc thêm trong các sách tham khảo.

Đối với những mục từ dài, trình bày những khái niệm quan trọng,

những chủ đề rộng thƣờng có phân tần lớp, cấp bậc, có ghi tên tiêu đề. Những

tiêu đề này cũng là những đơn nguyên tri thức để tra cứu, tìm kiếm.

Bảng cấu trúc phân loại mục từ là một khâu quan trọng trong quá trình

biên soạn một cuốn từ điển. Trên cơ sở của bảng cấu trúc này, sẽ hình thành

76

bảng mục lục phân loại mục từ và từ bảng mục lục, sẽ xây dựng bảng mục từ

tổng hợp. Để minh họa và làm sáng tỏ sự cần thiết giới thiệu bảng mục lục

phân loại theo trật tự chữ cái A, B, C. Cách sắp xếp này giúp độc giả tìm kiếm

nhanh chóng, dễ dàng những vấn đề cần tra cứu, nhƣng chỉ với cách sắp xếp

mục từ kiểu này sẽ hạn chế việc tự học, tự trang bị một cách có hệ thống, có

phân loại khoa học, có tầng bậc các kiến thức cơ bản cần thiết cho độc giả.

Tiểu Kết

Tính hệ thống trong từ điển nói chung, trong từ điển bách khoa chuyên

ngành nói riêng là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối việc tìm kiếm,

xây dựng các phƣơng pháp biên soạn. Với tƣ cách là một công trình tra cứu

Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự có vai trò quan trọng trong việc hệ thống

hóa nghiên cứu lịch sử địa danh quân sự của dân tộc Việt Nam. Do đó, việc

đảm bảo tính hệ thống là một trong những yêu cầu không thể thiếu nó góp

phần nâng cao giá trị chất lƣợng của cuốn Từ điển.

Việc nghiên cứu tính hệ thống (cấu trúc vĩ mô và vi mô của Từ điển

Địa danh Lịch sử Quân sự đòi hỏi phải có kiển thức phong phú và đa dạng,

phải có sự phối hợp chặt chẽ các phƣơng pháp biên soạn liên ngành và các

chuyên gia am hiểu lịch sử, địa danh.

Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đã thu thập tƣơng đối đầy đủ, toàn

diện các địa danh liên quan đến lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc

phản ánh lại toàn bộ quá trình đấu tranh giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam.

77

KẾT LUẬN

1. Luận văn đi sâu tìm hiểu về cấu trúc hai mặt và tính liên thông của từ

điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự, việc tìm hiểu những vấn đề lý thuyết

về từ điển học nhƣ đặc điểm, chức năng, sự phân loại, cấu trúc và các kiểu

định nghĩa trong từ điển là cần thiết. Đi sâu vào từng vấn đề là sự phân biệt

giữa cấu trúc vi mô, vĩ mô và tính liên thông của cuốn Từ điển Địa danh Lịch

sử Quân sự

2. Phần lớn các mục từ thuật ngữ -khái niệm trong từ điển Thuật ngữ

Địa danh Lịch sử Quân sự đều đƣợc định nghĩa, giải thích một cách cụ thể tỉ

mỉ đòi hỏi tác giả phải có kiến thức rất phong phú và đa dạng, phải có sự phối

hợp chặt chẽ các phƣơng pháp biên soạn liên ngành và các chuyên gia am

hiểu về địa lí cũng nhƣ lịch sử của Việt Nam.

3. Mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đều mang nội dung

thông tin quan trọng, chính xác nhằm giải thích, phản ánh nội dung tri thức để

làm nổi bật lên tính nội dung của chuyên ngành. Các mục từ trong Từ điển

Địa danh Lịch sử Quân sự là các mục từ về địa danh hành chính, căn cứ quân

sự, căn cứ địa cách mạng, địa danh liên quan tới cuộc khởi nghĩa, tên riêng,

các từ cổ lịch sử hay những từ mang yếu tố nƣớc ngoài. Đó là những đối

tƣợng cụ thể, ổn định ít thay đổi theo thời gian. Các nội dung trong mỗi mục

từ là những thông tin có liên quan trực tiếp đến đối tƣợng đƣợc đề cập.

4. Luận văn đã đề cập tới tính hệ thống của Từ điển Địa danh Lịch sử

Quân sự, một nguyên lí cơ bản, quan trọng chi phối việc tìm kiếm, xây

dựng các phƣơng pháp biên soạn trong từ điển nói chung và Từ điển Địa

danh Lịch sử Quân sự nói riêng

78

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Phê (1969), “Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt mới”,

ngôn ngữ, (2), tr.3 -18.

2. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”.

3. Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm (1997), “Một số vấn đề từ điển học”,

Một số vấn đề từ điển học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. F.de Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

5. Chu Bích Thu (1997), “Một số nét khái quát về cấu trúc vi mô của từ điển giải

thích”, trong Một số vấn đề từ điển học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Ngọc Trâm (1997), “Một vài nhận xét về cấu trúc vĩ mô của từ

điển giải thích Tiếng Việt”, trong Một số vấn đề từ điển học, NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự (Trung tâm từ điển bách

khoa Quân sự), NXB Quân đội Nhân dân 2006.

8. Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên), NXB Đà

Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng 2009.

9. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn TĐBK VN. Hà Nội 1995.

10. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục Hà Nội.

11. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

12. Hoàng Chứng (1997), Logic học phổ thông, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

13. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Vƣơng Tất Đạt (1998), Logic học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

16. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (2006), Lược sử Việt ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

79

17. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật - Nguyễn Minh Thuyết

(1995), Dẩn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

18. Phạm Văn Hảo (2011'), Tính hệ thống trong cẩu trúc vĩ mô của bách khoa

thư, Tạp chí Từ điến học và Bách khoa thƣ, số 2 (10).

19. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, (đặc điếm và cấu tạo),

NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

20. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Nguyễn Hữu Hoành, Một số nhận xét bước đầu về từ điển Việt - Dân tộc,

Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ.

22. Phạm Văn Tình, Hoàng Tuyền Linh, Cách thức chuyển chú trong Từ điển Ngữ

văn và Bách khoa thư, Từ điển học &Bách khoa thƣ, số 4(12), 2011.

23. Phạm Văn Tình, Cấu trúc hai mặt và tính liên thông của Bách khoa thư

Văn học, Trong Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Từ điển và Bách khoa

thƣ Việt Nam 2012 -2015.

80