ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------
HOÀNG THỊ NGA
CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------
HOÀNG THỊ NGA
CẤU TRÚC HAI MẶT VÀ TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 602201
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Tình
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Văn Tình đã
luôn tận tình hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Ngôn ngữ học -
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo
môi trƣờng thuận lợi để tôi học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng, xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Hoàng Thị Nga
LỜI CAM ĐOAN
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc
cña riªng t«i. C¸c sè liÖu tr×nh bµy trong ®Ò tµi lµ chÝnh x¸c.
KÕt qu¶ nghiªn cøu cña ®Ò tµi ch a tõng ® îc c«ng bè trong bÊt
kú mét c«ng tr×nh khoa häc nµo kh¸c.
Hoàng Thị Nga
MỤC LỤC
Trang
3 MỞ ĐẦU
6 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Một số khái niệm cơ bản 6
1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học 6
1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển 8
1.1.3 Cách phân loại từ điển 11
1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa 14
1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa 14
1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa 16
1.3. Cấu trúc của từ điển 18
1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích 18
1.3.2. Cấu trúc của từ điển bách khoa 20
1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển 24
1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích 24
1.4.2. Đặc điểm và phƣơng pháp định nghĩa khái niệm
trong từ điển bách khoa 30
Chƣơng 2: CẤU TRÚC VĨ MÔ – TÍNH TỔNG THỂ
35 CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
2.1. Đặt vấn đề 35
2.1.1. Khái niệm Địa danh Lịch sử Quân sự 35
2.2. Cấu trúc tổng thể 39
2.3. Tính hệ thống 39
2.3.1. Địa danh – một chỉ dẫn địa lí có giá trị văn hóa 39
2.3.2. Địa danh phản ánh những hoạt động quân sự 40
2.3.3. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô 47
2.4. Tiểu kết 51
Chƣơng 3 CẤU TRÚC VI MÔ – THÔNG TIN CHI TIẾT
53 CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
3.1 Đặt vấn đề 53
3.2 Thông tin chi tiết 53
3.2.1. Mục từ 53
3.2.2. Nội dung mục từ 56
3.2.3. Hình minh họa 57
3.2.4 Thƣ mục tham khảo 60
3.2.5. Tên ngƣời biên soạn 65
3.2.6. Tài liệu tham khảo 66
Chƣơng 4 TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH
67 LỊCH SỬ QUÂN SỰ
4.1. Đặt vấn đề 67
4.2. Cấu trúc vĩ mô và tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô
của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự 68
4.2.1. Cấu trúc vĩ mô 68
4.2.2. Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô 69
4.3. Vấn đề tính hệ thống trong từ điển 71
4.3.1. Tính chuẩn mực của từ điển 72
4.3.2. Tính tiện dụng của từ điển và ảnh hƣởng của nó đến ngƣời
biên soạn 74
4.3.3. Quá trình biên soạn 74
4.3.4. Cách sử dụng từ điển 75
78 KẾT LUẬN
79 TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ điển là loại sách có chức năng xã hội rộng lớn. Nó cung cấp vốn
từ ngữ và cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, giúp cho việc học tiếng
mẹ đẻ và học ngoại ngữ, mở rộng vốn hiểu biết của con ngƣời về sự vật,
khái niệm trong thế giới tự nhiên và xã hội. Từ điển là một sản phẩm khoa
học có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển văn hoá, giáo dục, nâng cao
dân trí và mở rộng giao lƣu giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau.
Trong thời đại ngày nay, số lƣợng phát hành, số lƣợng, chủng loại và
chất lƣợng của từ điển nói chung, từ điển bách khoa chuyên ngành nói riêng
là một tiêu chí quan trọng để đánh giá trình độ phát triển văn hoá, giáo dục,
khoa học kĩ thuật của một quốc gia. Chính vì vậy, việc nghiên cứu từ điển
học, cả lí luận và thực tiễn có tác dụng lớn trong việc nâng cao chất lƣợng
biên soạn từ điển.
Việc biên soạn và xuất bản từ điển ở nƣớc ta đã có nhiều dấu hiệu đổi
mới. Số lƣợng và chủng loại từ điển tăng trƣởng đáng kể trong vài ba năm
gần đây. Một số quyển từ điển đã phần nào đáp ứng đƣợc yêu cầu của
ngƣời sử dụng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có nhiều quyển từ điển chất
lƣợng chƣa đáp ứng yêu cầu, thậm chí có những sai sót lớn về nội dung
cũng nhƣ in ấn.
Trong bối cảnh về sự ra đời và phát triển của từ điển học trên thế giới nói
chung, công tác nghiên cứu lí luận từ điển học và biên soạn từ điển ở nƣớc ta cũng
đƣợc hình thành trong thời gian có muộn. Gần đây, tuy đã đƣợc quan tâm chú ý và
có một số thành tựu đáng kể, nhƣng nhìn chung, từ điển học Việt Nam vẫn chƣa
phát triển kịp với yêu cầu của thời đại. Trong khi đó, cùng với sự phát triển của các
bộ môn ngôn ngữ học khác và sự bùng nổ của công nghệ tin học, từ điển học ở một
số nƣớc phát triển đã có những bƣớc tiến mạnh mẽ và không ngừng.
Các nhà từ điển học đã phân chia ra hai loại từ điển công cụ: Từ
điển ngôn ngữ (gồm từ điển tƣờng giải, từ điển chính tả, từ điển đồng
3
nghĩa/trái nghĩa, từ điển song ngữ, đa ngữ...) và Từ điển tri thức (từ điển
bách khoa, bách khoa thƣ, bách khoa toàn thƣ...). Tuy nhiên, bất luận loại
từ điển nào cũng đều đƣợc biên soạn trên cơ sở của các cấu trúc vĩ mô
(cấu trúc tổng thể) và cấu trúc vi mô (cấu trúc chi tiết mục từ). Vì vậy,
việc xem xét cấu trúc hai mặt này là vấn đề phải quan tâm tới mọi loại
hình từ điển của nƣớc ta hiện nay.
Tình hình trên đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lí
luận và kinh nghiệm từ điển học. Luận văn với đề tài “Cấu trúc hai mặt và
tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự ” hi vọng có thể đóng
góp phần nào cho nhiệm vụ quan trọng và cấp bách này.
2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là cấu trúc vĩ mô và cấu
trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự xuất bản năm 2006. Đi
sâu hơn nữa, luận văn tiến hành tìm hiểu các kiểu định nghĩa để từ đó rút ra
các mẫu định nghĩa trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Không chỉ
dừng lại ở đó, luận văn còn đi sâu tìm hiểu những nội dung đƣợc thể hiện và
cách tổ chức, sắp xếp các nội dung đó trong lời giải thích của một số nhóm
loại mục từ tiêu biểu trong Từ điển.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về cấu
trúc vi mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự . Đó là: một số mẫu định
nghĩa đƣợc sử dụng; và, những nội dung đƣợc đƣa vào lời giải thích của
mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ đối chiếu, so
sánh yêu cầu của từ điển học hiện đại với thực tiễn biên soạn từ điển ở
nƣớc ta qua cuốn từ điển đƣợc chọn làm đối tƣợng nghiên cứu là Từ điển
Địa danh Lịch sử Quân sự . Trên cơ sở đó, hệ thống hoá, khái quát hoá, mô
hình hoá một số mẫu định nghĩa cơ bản, những nội dung đƣa vào lời giải
thích của mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự .
4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: - So sánh - đối chiếu các kiểu định nghĩa, cách tổ chức nội dung thông tin trong cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa nói chung, Từ điển Địa danh lịch sử Quân sự nói riêng với từ điển giải thích, đồng thời, trong một số trƣờng hợp, đối chiếu với yêu cầu của lí thuyết từ điển học hiện đại.
- Phƣơng pháp hệ thống cấu trúc của từ điển học (một số phân ngành
của ngôn ngữ học ứng dụng).
- Phƣơng pháp miêu tả; phƣơng pháp thống kê - Vận dụng một số khái niệm và phƣơng pháp của logic học, đặc biệt
là phƣơng pháp quy nạp để khái quát một số vấn đề.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến vấn đề định nghĩa trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự. Trong tình hình các công trình nghiên cứu từ điển học ở Việt Nam nói chung và trong lực lƣợng vũ trang nói riêng còn quá ít, những kết quả nghiên cứu dù là bƣớc đầu của luận văn có thể góp một phần nhỏ vào việc bổ sung lí luận cho lĩnh vực khoa học này đặc biệt là những vấn đề liên quan tới từ điển địa danh lịch sử nói chung.
Trong một chừng mực nào đó, những kết quả nghiên cứu cụ thể của luận văn về các kiểu định nghĩa, cách xử lí các nội dung trong lời giải thích của mục từ có thể đƣợc vận dụng trong việc biên soạn nhằm nâng cao chất lƣợng, đảm bảo sự nhất quán, tăng sự hấp dẫn cho Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.
6. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết
cấu thành 4 chƣơng:
- Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết Từ điển học những vấn đề lí luận cơ bản - Chƣơng 2: Bàn về vấn đề liên quan đến cấu trúc vĩ mô – tính hệ
thống của Từ điển địa danh Lịch sử Quân sự.
- Chƣơng 3: Cấu trúc vi mô – thông tin chi tiết của Từ điển Địa danh
Lịch sử Quân sự.
- Chƣơng 4: Tính liên thông của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự.
5
NỘI DUNG
Chương 1 . CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1. 1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của từ điển và từ điển học
Do nhu cầu của xã hội, một trong những loại sách ra đời sớm là từ điển.
Quyển từ điển đầu tiên trên thế giới là quyển từ vựng do ngƣời Hy Lạp biên
soạn thế kỉ V trƣớc Công nguyên; thu thập và giải thích các từ khó trong các tác
phẩm thời cổ đai, đặc biệt những tác phẩm của Homer. Ở Việt Nam, trƣớc đây
mấy thế kỉ, chỉ có những từ điển song ngữ đối chiếu nhƣ “An Nam — Lusitan —
La tinh” (“Việt - Bồ - La”) do Alexandre de Rhodes biên soạn, xuất bản ở Roma
năm 1651 ; tiếp theo là một số từ điển Hán - Việt cỡ nhỏ nhƣ “Tam thiên tự giải
âm” do Ngô Thì Nhậm biên soạn, xuất bản năm 1831, “Thiên tự văn giải âm”;
và một số quyển từ điển đối chiếu Pháp - Việt nhƣ Dictionnaire F'rancais-
Annamite et Aniiamite-Fratuiis (G.Aubaret, Paris, 1867), Petit Dictionnaire
Francais-Anmmite (PJ.B. Trƣơng Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1884). Cuối thế kỉ XIX
mới có quyển từ điển giải thích tiếng Việt đầu tiên, Đại Nam Quấc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895) và sau hơn ba mƣơi năm sau mới có quyển thứ
hai, Việt Nam Tự điển của Hội Khai trí Tiến Đức ( 1931 ).
Cuối thế kỉ XX, cùng với sự phát triển của khoa học, kinh tế, giáo dục
trên phạm vi toàn cầu, nhu cầu về từ điển của xã hội tăng nhanh, từ điển đƣợc
biên soạn và xuất bản với số lƣợng lớn và nhiều chủng loại đa dạng. Đặc biệt,
gần đây, sự bùng nổ của công nghệ tin học đã tạo ra một bƣớc phát triển mới
trong các khâu biên soạn, in ấn từ điển; sản phẩm từ điển không chỉ là những
quyển sách bằng giấy mà còn ở dạng từ điển điện tử.
Ngƣợc lại với thời điểm ra đời của từ điển, từ điển học lại ra đời rất
muộn. Đến những năm bốn mƣơi của thế kỉ XX, lí thuyết từ điển học mới
đƣợc khởi xƣớng bằng bài viết “Thử bàn về lí thuyết đại cương về từ điển
6
học” của L.V.Serba. Đến năm 1971, bộ môn từ điển học đã có bƣớc ngoặt
đáng kể với sự ra đời của hai công trình: Giáo trình từ điển học của
Ladislav Zgusta, xuất bản ở Praha và Nghiên cứu từ điển hiện đại bằng
tiếng Pháp về ngôn ngữ học và kí hiệu học của Josette Rey Debove, xuất
bản ở Paris. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học nói
chung, của ngữ nghĩa học, từ vựng học nói riêng, từ điển học cũng phát
triển mạnh mẽ.
Ở Việt Nam, nhiều bài viết có giá trị thể hiện sự quan tâm của các tác
giả trong lĩnh vực này, nhƣ: Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt
mới (Hoàng Phê, 1969); Một vài nhận xét về từ điển giải thích của ta (Vƣơng
Lộc, 1969); Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng
Việt (Đỗ Hữu Châu, 1969); Về việc giải thích nghĩa của từ nhiều nghĩa trong
từ điển tiếng Việt (Nguyên Văn Tu, 1969); Một số kinh nghiệm biên soạn từ
điển ngôn ngữ ở các nước xã hội chủ nghĩa (Bùi Khắc Việt, 1969); Việc chọn
và giải thích từ ngữ miền Nam trong một quyên từ điển tiếng Việt loại phổ
thông (Nguyễn Quang, 1970); Vấn đề biên soạn hư từ trong việc biên soạn từ
điển giải thích (Hồng Dân, 1971);... Các bài viết trên đã đề cập đến nhiều mặt,
nhiều vấn đề cần chú ý trong thực tế biên soạn từ điển tiếng Việt.
Đến năm 1997, mới có một công trình chuyên đề về từ điển học, Một
số vấn đề từ điển học, gồm tập hợp 9 bài viết, đúc kết những kinh nghiệm
biên soạn từ điển ở nƣớc ta và một số vấn đề lí luận từ điển học. Các bài
viết trong công trình này đã đi sâu vào một số vấn đề lí luận từ điển, nhƣ:
những nét khái quát về cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô, hệ thống các kiểu
chú, phƣơng pháp biên soạn từ điển đồng nghĩa... Tuy nhiên, các vấn đề mà
các tác giả đề cập đến trong công trình này đều là những vấn đề trong từ
điển giải thích, không có tác giả nào đề cập đến các vấn đề của từ điển
báeh khoa, nhất là vấn đề về các kiểu định nghĩa.
7
Ngày nay, từ điển học đã đƣợc coi là một bộ môn ngôn ngữ học ứng dụng
quan trọng, với đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu là các loại hình từ điển, cấu trúc vĩ mô,
cấu trúc vi mô... Gần đây, giới từ điển học còn chú ý đến hai mặt khác nữa là lịch sử
của từ điển và việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác biên soạn từ điển.
1.1.2. Chức năng và đặc điểm cơ bản của từ điển
1.1.2.1.Khái niệm từ điển
Từ điển là một công cụ đắc lực giúp cho con ngƣời nắm vững công cụ
ngôn ngữ và sử dụng có hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình, đồng
thời góp phần chuẩn hoá ngôn ngữ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tu, từ điển là “sách tra cứu bao gồm các từ,
ngữ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, giải thích ý nghĩa của các đơn vị
đƣợc miêu tả, cung cấp những thông tin khác nhau về chúng hoặc dịch chúng ra
một ngôn ngữ khác, hoặc ; thông báo những kiến thức về các đối tƣợng do
chúng biểu thị” .
Trong cuốn Giáo trình từ điển học (1971), L. Zgusta đã dẫn ra một định
nghĩa về từ điển của Bergl mà ông cho là một trong những định nghĩa tốt nhất:.
“Một cuốn từ điển là một danh mục đƣợc sắp xếp có hệ thống của các hình thức
ngôn từ đƣợc xã hội hoá, thu thập từ những thói quen nói năng của một cộng đồng
ngôn ngữ nhất định và đƣợc ngƣời biên soạn chú giải sao cho ngƣời đọc có một
trình độ nhất định hiểu đƣợc ý nghĩa của từng hình thức ngôn ngữ riêng rẽ và biết
đƣợc nhũng điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng đồng ngôn ngữ ấy”.
Trong công trình Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận cơ bản về
từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ
nhiệm, các tác giả cho rằng: “Từ điển là một công trình tra cứu, luôn chứa
các từ ngữ tách rời của vốn từ ngữ chung (hay một bộ phận các từ ngữ
chuyên biệt) của ngôn ngữ, kèm theo các thông tin (đầy đủ hoặc chỉ một số
thông tin) về chính tả, cách phát âm, ý nghĩa, cách dùng, các từ đồng nghĩa,
sự phái sinh và lịch sử của các từ ngữ đó. Để tiện tra cứu, ở phần lớn các từ
8
điển, các từ ngữ đƣợc sắp xếp theo trật tự bảng chữ cái; các thông tin đƣợc
minh hoạ bằng những trích dẫn từ các tác phẩm văn học”.
Từ những định nghĩa và sự tƣờng giải về từ điển, có thể thấy một số
đặc tính chung trong từ điển nhƣ sau:
Từ điển là loại công trình dùng để tra cứu, giúp cho ngƣời đọc tìm
kiếm những thông tin qua các từ ngữ đƣợc tập hợp và trình bày (các đầu
mực từ). Các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhất định, có thể đi
kèm là các thông tin phụ liên quan đến đầu mục này.
Trong mỗi mục từ, đƣợc trình bày có hệ thống là các nội dung thông
tin (tri thức) - phần còn lại ngoài các đầu mục từ, có vai trò giải thích nội
dung của đầu mục từ hoặc cung cấp các thông tin về đối tƣợng đã đƣợc nêu
trong đầu mục từ.
Chức năng của từ điển
1. Từ điển có chức năng cung cấp thông tin. Đây là chức năng cơ
bản của từ điển và chi phối các chức năng khác. Bằng cách diễn đạt tri thức
ngắn gọn, cô đọng nhất, từ điển là một phƣơng tiện hữu hiệu để tàng trữ và
cung cấp thông tin. các thông tin do từ điển cung cấp có thể là các thông tin
về ngôn ngữ, văn hoá, xã hội, kinh tế, khoa học...
2. Từ điển giúp giải thích, cung cấp và hƣớng dẫn cách sử dụng từ
ngữ của một ngôn ngữ, do đó, từ điển còn có chức năng nữa là chức năng
phục vụ giao tiếp, giúp cho việc giao tiếp trong nội bộ một dân tộc cùng
sử dụng chung một ngôn ngữ hay giữa các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ
khác nhau.
3. Từ điển có chức năng hƣớng dẫn, giáo dục ngôn ngữ. Từ điển là
công cụ đắc lực trong việc dạy và học ngôn ngữ. Ngƣời sử dụng từ điển
thƣờng coi từ điển là ngƣời thầy không lời, là trọng tài trong các cuộc tranh
luận về từ ngữ.
9
4. Từ điển có chức năng chuẩn hoá ngôn ngữ. Ngôn ngữ rất đa dạng
và luôn luôn vận động phát triển. Hiện tƣợng một chuẩn mới hình thành
bên cạnh một chuẩn cũ luôn luôn tồn tại, nhất là trong lĩnh vực từ vựng. Cái
mới và cái cũ song song tồn tại trong một thời gian, thƣờng là cuối cùng cái
cũ nhƣờng chỗ cho cái mới, nhƣng không phải bao giờ cũng vậy. Từ điển
phải thƣờng xuyên đƣợc cập nhật, giới thiệu chuẩn ngôn ngữ trong sự biến
đổi, phát triển nên từ điển đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hoá
ngôn ngữ.
5. Ngoài các chức năng trên, từ điển còn có thêm chức năng phục vụ
nghiên cứu. Qua từ điển ngƣời ta có thế rút ra đƣợc những nguyên tắc, lí
luận về từ điển học, đồng thời cũng có thể lấy từ điển làm tƣ liệu nghiên
cứu nhiều lĩnh vực khác của ngôn ngữ học.
Đặc điểm của từ điển:
Để thực hiện các chức năng nêu trên, từ điển có những đặc điểm
riêng khác biệt với tất cả các loại sách khác.
1. Là một loại sách phục vụ nghiên cứu giáo dục, từ điển có tính khoa
học. Tính khoa học đƣợc thể hiện ở nhiều mặt, từ việc xác định nguyên tắc
biên soạn, phạm vi thu thập từ ngữ đến cách thức định nghĩa, cung cấp các
thông tin mở rộng. Đối với từ điển bách khoa, độ chính xác là thƣớc đo của
tính khoa học.
2. Từ điển thu thập và giải thích các từ ngữ đƣợc dùng trong đời sống
của con ngƣời, cũng có nghĩa là nó đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống
hiện thực, dù muốn hay không muốn, nó phản ánh một sự lí giải và một
cách đánh giá về các vấn đề văn hoá, khoa học, chính trị, xã hội. Theo
Hoàng Phê, từ điển phản ánh thế giới quan, quan điểm, lập trƣờng của
ngƣời biên soạn, dù rằng ngƣời biên soạn có đầy đủ ý thức hay không về
việc đó. Do đó, từ điển mang trong mình tính tƣ tƣởng.
10
3. Đặc điểm thứ ba của từ điển là tính tiện dụng. Từ điển là loại sách
công cụ mang tính phổ cập (trừ các từ điển chuyên ngành), có đối tƣợng sử
dụng là đông đảo ngƣời sử dụng ngôn ngữ ở những trình độ khác nhau.
Điều này đòi hỏi ở từ điển tính tiện dụng, dễ hiểu, dễ tra cứu. Điều này
dƣờng nhƣ ít nhiều mâu thuẫn với đặc điểm về tính khoa học của từ điển.
Mâu thuẫn đó làm cho công tác biên soạn từ điển càng trở nên khó khăn.
Dung hoà đƣợc mâu thuẫn này, đảm bảo đồng thời hai yêu cầu khoa học và
tiện dụng của từ điển là cả một nghệ thuật.
4. Một kết quả của sự dung hoà đó đƣợc biểu hiện qua phƣơng thức
trình bày của từ điển. Từ điển luôn đƣợc tổ chức theo hai cấu trúc: cấu trúc
vĩ mô (cấu trúc tổng thể hay cấu trúc bảng từ) và cấu trúc vi mô (cấu trúc
mục từ). Kiểu cấu trúc đó làm cho từ điển không lẫn lộn với các sách khác,
các thông tin trong từ điển đƣợc trình bày một cách vừa khoa học, vừa tiện
dùng. Với từ điển, tính khoa học và tính tiện dùng là hai đặc điểm cơ bản.
1.1.3 Cách phân loại từ điển
Trên thế giới đã từng có nhiều học giả nổi tiếng đề cập đến vấn đề phân loại
từ điển nhƣ Shcherba (1940), Makiel (1959, 1967), Cornyn (1967), Gelb §1968),
Zgusta (1971)... Ở Việt Nam, phải kể đến Nguyễn Ngọc Trâm (2003), Dƣơng Kỳ
Đức (2000), Chu Bích Thu, Vũ Quang Hào (2005), Nguyễn Trọng Báu... Nhìn
chung, cách phân loại của các tác giả mới chỉ dừng lại ở mức khái quát, chƣa đi vào
từng loại cụ thể. Đáng chú ý là cách phân loại của L.V.Sherba phân chia từ điển
theo 6 cặp đối lập:
1. Từ điển hàn lâm và từ điển tra cứu: từ điển hàn lâm phản ánh ý thức
ngôn ngữ hiện thực, thống nhất của cả cộng đồng trong một thời gian nhất định,
còn từ điển tra cứu không nhất thiết có sự thống nhất của cả cộng đồng, từ ngữ
có thể đƣợc thu thập ở những thời đại khác nhau, những địa phƣơng khác nhau.
2. Từ điển bách khoa và từ điển ngôn ngữ: từ điển bách khoa cung cấp
thông tin về sự vật, hiện tƣợng, khái niệm; từ điển ngôn ngữ cung cấp thông tin
về kí hiệu ngôn ngữ.
11
3. Từ điển thesaurus (từ điển tổng toàn) và từ điển thông thường: từ
điển piesaurus thu thập toàn bộ từ ngữ có trong một ngôn ngữ (dù chỉ xuất hiện
một lần) và những lời tích dẫn có chứa các từ ngữ đó; từ điển thông thƣờng thì
chỉ thu thập những đơn vị từ có tính ổn định và một số thí dụ minh hoạ. Sự đối
lập giữa hai từ điển này thực ra là sự đối lập giữa tƣ liệu ngôn ngữ và hệ thống
ngôn ngữ.
4. Từ điển thông thường và từ điển ý niệm: từ điển thông thƣờng lấy
vỏ ngữ âm của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo trật tự chữ viết;
từ điển ý niệm lấy nội dung của từ làm cơ sở, các đơn vị đƣợc sắp xếp theo
nhóm chủ đề.
5. Từ điển giải thích và từ điển đối dịch: từ điển giải thích nhằm làm
sáng tỏ bản chất kí hiệu của một ngôn ngữ bằng chính ngôn ngữ ấy. Từ
điển đối dịch nhằm làm hiểu rõ một ngôn ngữ khác.
6. Từ điển phi lịch sử và từ điển lịch sử: từ điển phi lịch sử phản ánh từ
ngữ trong một khoảng thời gian hiện thời còn từ điển lịch sử phản ánh cả quá
trình lịch sử, sự xuất hiện, sự biến đổi và thậm chí cả sự mất đi của các từ ngữ.
L.Zgusta phân loại cụ thể hơn cho từ điển ngôn ngữ và đƣa thêm một
tiêu chí về cỡ của từ điển. Ông cho rằng, sự phân loại đầu tiên, có tính chất
bao quát nhất là sự phân biệt giữa từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.
Theo ông, “các từ điển ngôn ngữ chủ yếu đề cập đến ngôn ngữ, tức là đề
cập đến các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ và tất cả các đặc tính ngôn ngữ
của chúng. Ngƣợc lại, các từ điển bách khoa chỉ đề cập chủ yếu đến các
denótate của các đơn vị từ vựng, chúng cho những thôrg tin vê thế giới
ngoài ngôn ngữ có tính chất vật chất hoặc phi vật chất”.
Tiếp tục phân loại từ điển ngôn ngữ, ông chia ra thành các loại cơ
bản theo bốn tiêu chí sau:
1. Theo tiêu chí thời gian, có sự đối lập giữa từ điển lịch đại và từ
điển đồng đại. Theo L.Zgusta, đây là một trong những sự phân loại quan
12
trọng nhất đối với các từ điển ngôn ngữ. Ông đã nêu ra các đặc điểm khác
biệt giữa hai loại là trong khi từ điển lịch đại chỉ quan tâm chủ yếu đến lịch
sử sự phát triển của từ ngữ cả về nghĩa và hình thức thì nhiệm vụ của từ
điển đồng đại là đề cập đến kho từ vựng của một ngôn ngữ trong một giai
đoạn phát triển nhất định của chúng. Đồng thời ông lƣu ý đến “tình trạng
luôn có sự chồng chéo giữa các lĩnh vực của từ điển lịch sử với lĩnh vực
của từ điển đồng đại” , “khái niệm về từ điển đƣợc coi là đồng đại chỉ có
tính chất tƣơng đối”.
2. Theo phạm vi thu thập toàn bộ hay một bộ phận từ vựng của một ngôn
ngữ, có từ điển phổ thông và từ điển hạn chế (hoặc đặc biệt). Tính chất “hạn
chế” hay “đặc biệt” của từ điển hạn chế là do quyết định của ngƣời biên soạn
chỉ lựa chọn thu thập một bộ phận hẹp từ ngữ nhất định. Có thể có nhiều tiêu
chuẩn lựa chọn, nên có nhiều loại từ điển hạn chế khác nhau, chằng hạn nhƣ từ
điển phƣơng ngữ, từ điển học sinh, từ điển thuật ngữ một ngành... Đối lập lại,
từ điển phố thông thu thập toàn bộ ngôn ngữ phổ thông, nghĩa là ngôn ngữ
chuẩn toàn dân đƣợc dùng một cách phổ biến. Loại này lại đƣợc chia nhỏ hơn
nữa, thành từ điển miêu tả - chuẩn và từ điển miêu tả - chung. Từ điển miêu tả
- chuẩn khác từ điển miêu tả - chung ở một tính chất cơ bản là nó không chỉ
“tìm ra cái gì là chuẩn trong thời kì từ điển đƣợc phát hành” mà còn định ra
tiêu chuẩn cho ngƣời sử dụng trong tƣơng lai. Nghĩa là từ điển miêu tả - chuẩn
không chỉ phản ánh những tính chất và quy tắc phổ biến của ngôn ngữ hiện
thời mà còn “lƣờng trƣớc tình hình sử dụng của tƣơng lai” dựa vào quy luật
phát triển của ngôn ngữ”.
3. Theo số lƣợng ngôn ngữ đƣợc miêu tả, có từ điển một thứ tiếng và từ
điển hai thứ tiếng (thƣờng rất ít từ điển có từ ba thứ tiếng trở lên). Mục đích của
từ điển hai thứ tiếng là giúp cho việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác
hoặc cho việc giao tiếp bằng một ngôn ngữ khác không phải là tiếng mẹ đẻ.. Do
13
tính không đồng hình giữa các ngôn ngữ, từ điển hai thứ tiếng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đƣa ra các đơn vị từ vựng tƣơng đƣơng.
4. Tiêu chí cuối cùng là dựa vào cỡ từ điển, có từ điển cỡ nhỏ và từ điển
cỡ lớn. Đây là một trong những mặt không thể nói đƣợc thật chính xác mà chỉ có
thể là sự đánh giá có tính chất ấn tƣợng. Cỡ của từ điển không chỉ là khối lƣợng
và nhƣ vậy số lƣợng mục từ của từ điển, có thế nói một cách chính xác, chỉ nêu
lên đƣợc một cách khái quát về khả năng thông tin của nó. Phần lớn phụ thuộc
vào bản thân mục từ đƣợc thực hiện nhƣ thế nào.
Trên đây chỉ là “khung” của các sự phân loại. Các tiêu chí ở mỗi sự phân loại
trên có thể tiếp tục đƣợc cụ thể hoá, và theo đó có thể phân loại từ điển thành nhiều
loại nhỏ hơn. Thêm nữa, do các tiêu chí tƣơng đối độc lập, nên có thể có sự phối
hợp một số tiêu chí trong sự phân loại từ điển. Điều này dẫn đến tình trạng là trên
thực tế các kiểu loại từ điển rất đa dạng, phong phú. Sự phân loại từ điển có ý nghĩa
đặc biệt.
1.2. Nhận thức chung về từ điển bách khoa
1.2.1. Chức năng, đặc điểm của từ điển bách khoa
Từ điển bách khoa đƣợc phát triển từ từ điển. Từ điển bách khoa xuất hiện
là do sự ảnh hƣởng qua lại và xích lại gần nhau giữa bách khoa toàn thƣ và từ
điển ngôn ngữ. Chính vì vậy, khi nhận diện khái niệm từ điển bách khoa, một
mặt ngƣời ta cố gắng phân biệt nó với từ điển ngôn ngữ (chủ yếu là từ điển giải
thích); mặt khác, phân biệt nó với bách khoa thư.
Từ điển bách khoa có đặc điểm chung với các loại từ điển và bách khoa
thƣ ở chỗ, chúng đều là các công trình tra cứu, giúp ngƣời đọc tìm hiểu các
thông tin; các đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự nhât định; các
thông tin trong mục từ đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Tuy nhiên,
ngƣời ta cũng nhận thấy giữa chúng có những sự khác biệt nhất định.
Từ điển giải thích cung cấp mọi thông tin về bản thân kí hiệu ngôn
ngữ, còn từ điển bách khoa cung cấp thông tin về sự vật, khái niệm đƣợc từ
14
ngữ biểu thị. Phạm vi thu thập của từ điển giải thích là các đơn vị từ vựng
của một ngôn ngữ. Còn từ điển bách khoa, do lấy sự vật, khái niệm làm đối
tƣợng, nên chỉ thu thập những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà
không phụ thuộc vào nhân tố ngƣời sử dụng hay hoàn cảnh nói năng.
Nhiệm vụ của từ điển bách khoa là cung cấp kiến thức về các đối tƣợng do
từ ngữ biếu thị, còn nhiệm vụ của từ điển ngôn ngữ là cung cấp kiến thức về
chính các đơn vị từ ngữ. Do nhiệm vụ khác nhau nhƣ vậy mà thông tin
trong từng mục từ của từ điển giải thích có thể là toàn bộ các thông tin về kí
hiệu ngôn ngữ, bao gồm rất nhiều mặt nhƣ thông tin về ngữ âm, từ vựng,
ngữ nghĩa, ngữ dụng, ngữ pháp...; ngƣợc lại, thông tin trong từ điển bách
khoa là các thông tin về sự vật, khái niệm mà từ đầu mục biểu thị, ngoài
phần định nghĩa còn có thể có thông tin mở rộng về lịch sử ra đời, quá trình
phát triển... Vì vậy, lời giải thích trong từ điển bách khoa sâu hơn. rộng hơn,
nhƣng cấu trúc vi mô thì thƣờng đơn giản hơn từ điển giải thích.
Định nghĩa trong từ điển bách khoa là định nghĩa khái niệm, là sự giải
thích chính xác, đầy đủ những đặc trƣng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ
ngữ biểu thị. Định nghĩa từ ngữ trong từ điển giải thích chỉ nhằm nêu lên
những đặc trƣng khu biệt của từ đủ để ngƣời sử dụng nhận biết và phân biệt
nó với những từ ngữ khác. Tuy nhiên, trên thực tế, “những đặc trƣng cơ bản
của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách khoa và
“những đặc trƣng cơ bản của từ ngữ trong từ điển giải thích không phải lúc
nào cũng có ranh giới rõ ràng. Nếu hình dung một từ mà từ đó quy chiếu
một sự vật thì không một tiêu chí khách quan nào có thể giúp chúng ta phân
biệt một định nghĩa về từ theo nghĩa phân tích từ đó về ngữ nghĩa, với một
định nghĩa về sự vật, vid trong định nghĩa ngƣời ta đi tới sự vật bằng từ và
từ bắt buộc phải trả trở về sự vật. Theo quan điểm chung của số đông các
nhà nghiên cứu, trong nội dung nghĩa từ bao giờ cũng có một hàm lƣợng
15
thông tin bách khoa. Xu hƣớng chung hiện nay của từ điển học hiện đại là
lời giải thích trong từ điển giải thích ngày càng có xu hƣớng gần với lời giải
thích trong từ điển bách khoa, nói một cách chính xác hơn, thông tin bách
khoa ngày càng đƣợc chú ý nhiều hơn trong từ điển giải thích.
Mặc dù đều là "công trình bách khoa", nhƣng giữa từ điển bách khoa và
bách khoa thƣ cũng có những khác biệt nhất định. Bách khoa thƣ có chức nàng
hệ thống hoá toàn bộ tri thức cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều
ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Từ điển bách khoa lại có chức năng
cung cấp những thông tin vắn tắt phổ cập về các khái niệm của một hay nhiều
ngành khoa học hoặc hoạt động thực tiễn. Nếu nhƣ bách khoa thƣ đƣợc dùng
chủ yếu để giáo dục, tự học, tự nghiên cứu về nhiều mặt qua các chủ đề tri thức
độc lập, thì từ điển bách khoa lại chủ yếu đƣợc dùng để tra cứu, tìm kiếm thông
tin một cách nhanh chóng, số lƣơng mục từ trong bách khoa thƣ thƣờng ít nhƣng
chủ đề lại rất rộng và có biên độ dài. Ngƣợc lại, số lựợng mục từ trong từ điển
bách khoa nhiều, nhƣng chủ đề hẹp và có biên độ ngắn.
Nhƣ vậy, “từ điển bách khoa là một dạng công trình tra cứu có tính
chuyển tiếp giữa từ điển ngôn ngữ và bách khoa thƣ (vừa có tiêu chí chung với
từ điển ngôn ngữ vừa có tiêu chí chung với bách khoa thƣ); có chức năng cung
cấp những thông tin vắn tắt chung quanh các khái niệm khoa học, kĩ thuật, nghệ
thuật hay tri thức thực tiễn khác. Đây là loại sách chủ yếu để ngƣời ta tra cứu,
tìm hiểu”.
1.2.2. Cách phân loại từ điển bách khoa
Trong công trình Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận cơ bản về
từ điển học và bách khoa thư Việt Nam do tác giả Phạm Hùng Việt làm chủ
nhiệm, các tác giả cho rằng, từ điển bách khoa và bách khoa thƣ có nhiều điểm
khác nhau nhƣng có đặc điểm chung về tính sự kiện của thông tin đƣợc chuyền
tải trong các mục từ. Theo cách mà Nguyễn Kim Thản đề xuất, các tác giả đã sử
dụng công trình bách khoa làm tên gọi chung cho từ điển bách khoa và bách
16
khoa thƣ. Công trình bách khoa là loại công trình tra cứu phản ánh tri thức của
một xã hội. Theo các tác giả, có nhiều cách phân loại từ điển bách khoa, có thể
kể đến một số cách phân loại thƣờng gặp sau:
a, Dựa vào nội dung có thể phân các công trình bách khoa thành 2 loại
lớn: công trình bách khoa tổng hợp và công trình bách khoa chuyên ngành.
Công trình bách khoa tổng hợp là những công trình tra cứu điển hình của một
quốc gia, thƣờng bao gồm nhiều tập, trong đó trình bày tri thức về tất cả các
ngành khoa học, kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật. Thuộc về loại này có thể kể đến
Từ điển bách khoa Xô Viết của Liên Xô, Americana của Mĩ (30 tập), đại bách
khoa toàn thư Trung Qưôc (74 tập), Từ điển bách khoa Việt Nam (4 tập)...
Công trình bách khoa chuyên ngành trình bày tri thức về một ngành khoa học,
kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật nhất định (hoặc một bộ môn của một ngành khoa
học, một chuyên dề nào đó). Thuộc về loại này có thể kể đến Bách khoa toàn
thư Triết học của Liên Xô (5 tập 1960 -1970), bách khoa toàn thƣ về nhiếp ảnh
của Anh (1949), từ điển bách khoa sinh học của một tập thể tác giải Việt Nam
(năm 2003)...
b, Dựa vào quy mô có thể chia các công trình bách khoa thành hai loại
chủ yếu: Công trình bách khoa cỡ lớn và công trình bách khoa cỡ nhỏ. Công
trình bách khoa cỡ lớn thƣờng có dung lƣợng hàng chục tập trở lên, có khi tới
hàng trăm tập. Thí dụ: bách khoa thƣ thuần học của linh mục Mingne 168 tập,
bách khoa toàn thƣ Tây Ban Nha – Mỹ (1805 – 1933) gồm 80 tập bách khoa
toàn thƣ Xô Viết cỡ lớn in lần thứ nhất 66 tập...công trình bách khoa cỡ nhỏ
thƣờng từ vài ba tập đến chục tập.
c, dựa vào đối tƣợng phục vụ có thể phân chia thành công trình bách khoa
cho thiếu niên nhi đồng (bách khoa toàn thƣ trẻ em của Liên Xô)
d, dựa vào phƣơng tiện truyền đạt có thể phân chia các công trình bách
khoa thành: sách in đĩa CD mạng internet, âm thanh mùi vị.
17
e, theo phạm vi đề cập có thể phân chia các công trình bách khoa thành
các công trình bách khoa chung và công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân
tộc...). Công trình bách khoa chung là loại công trình cung cấp thông tin về toàn
thế giới và toàn quốc. Bách khoa thƣ của các nƣớc Anh, Mỹ, Pháp, Trung
Quốc...thuộc loại này. Công trình bách khoa riêng (địa phƣơng dân tộc...)là loại
công trình cung cấp thông tin về một bộ phận trong nƣớc, chẳng hặn Bách
khoa thư về Moskva, Bách khoa thư về Leningrat ở Liên Xô, Bách khoa
thư Hà Nội, Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng ở Việt Nam.
1.3. Cấu trúc của từ điển
1.3.1. Cấu trúc của từ điển giải thích
13.1.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển giải thích
Các mục từ trong từ điển giải thích đƣợc thu thập theo những tiêu chí
nhất định, tạo thành một bảng từ có tính hệ thống, đảm bảo sự nhất quán,
có cấu trúc chặt chẽ. Đây là cấu trúc có quan hệ dọc, suốt từ đầu đến cuối
quyển từ điển, nên đƣợc gọi là cấu trúc vĩ mô. “Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc
bao gồm toàn thể các mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự xác định; còn
có thể gọi là cấu trúc bảng từ”.
Đối tƣợng chính của từ điển giải thích là từ vựng. Các đơn vị đƣợc thu
thập trong bảng từ của từ điển giải thích rất rộng và có cấu tạo đa dạng. Bảng
từ có thể bao gồm từ (chiếm phần lớn), các đơn vị lớn hơn từ (ngữ cố định,
thành ngữ...), các đơn vị nhỏ hơn từ (yếu tố cấu tạo từ),... số lƣợng các đơn vị
trong bảng từ phụ thuộc vào việc lựa chọn mục từ. vấn đề này nói chung rất
phức tạp, hiện nay chƣa có một tiêu chuấn chung nào vê việc lựa chọn mục
từ. Công việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ cỡ, loại từ điển, số lƣợng,
chủng loại của các nguồn tƣ liệu, ngữ cảm của ngƣời biên soạn.
Là sách công cụ dùng để tra cứu, từ điển bao giờ cũng đƣợc sap xếp
theo một trật tự nhất định. Tuỳ theo loại hình ngôn ngữ, có thế có nhiều
cách sấp xếp khác nhau, chẳng hạn, có thể sắp xếp theo trật tự chữ cái, theo
18
chủ đê, theo tần số, hoặc theo bộ chữ (đối với từ điển tiếng Hán),... Tuy
nhiên, cách sắp xếp phố biến nhất là xếp theo trật tự bảng chữ cái.
1.3.1.2. Cấu trúc vi mô của từ điển giải thích
Giống nhƣ các loại từ điển khác, cấu trúc vi mô của từ điển giải
thích cũng bao gồm hai phần chính: mục từ và các thông tin trong mục từ
đó. Nhƣ vậy, mục từ trong từ điển là đơn vị đặc biệt, đa chức năng, hay
còn gọi là đơn vị kép, nó vừa là đon vị cơ bản của cấu trúc vĩ mô (trong
mối quan hệ dọc, với hệ thông bảng từ), vừa là đơn vị của cấu trúc vi mô
(trong mối quan hệ ngang, với các thông tin về chính bản thân nó).
L.Zgusta gọi hai thành phần chính của cấu trúc vi mô là “phần đề”
(mục từ) và “phần chính” (các thông tin). J.Rey Debove coi mục từ trong
từ điển có cấu trúc nhƣ một câu, trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các
thông tin là vị ngữ. Hai quan niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản
của cấu trúc mục từ là tính “đề - thuyết”( phần đƣợc nêu ra và phần đƣợc
thuyết minh làm rõ). Trên cấu trúc bề mặt, “phần đề” chỉ gồm một yếu tố,
đó là mục từ, còn “phần thuyết” thƣờng là nhiều yếu tố, đó là các thông tin
nhiều mặt về mục từ. Nhƣng xét về cấu trúc sâu, mỗi cấu trúc vi mô bao
gồm nhiều cấu trúc đề - thuyết bình đẳng với nhau. Bởi vì mỗi thông tin
đều có quan hệ trực tiếp với mục tù' làm thành cấu trúc đề - thuyết, nhƣng
trên bề mặt, phần đề luôn luôn đƣợc tỉnh lƣợc (chỉ xuất hiện một lần duy
nhất). Nối giữa “phần đề” và “phần thuyết” là một số hệ từ. Những hệ từ
này có thể hiển ngôn hoặc không hiển ngôn nhƣng rất dễ đƣợc khôi phục ở
dạng hiển ngôn. Tiếp thu và phát triển quan niệm này vào nghiên cứu từ
điển tiếng Việt, Chu Bích Thu đã khai thác sâu hơn các mối liên kết trong
cấu trúc vi mô. Ngoài tính tỉnh lƣợc là đặc trƣng cơ bản, còn phải kể đến
các mối liên kết bằng phép liên kết tuyến tính và phép lặp.
Theo tác giả Chu Bích Thu, các loại thông tin thƣờng thấy trong cấu
trúc vi mô của từ điến giải thích là: chính tả, ngữ âm, từ loại, phong cách,
19
phạm vi sử dụng, kết hợp cú pháp, kết hợp từ vựng, định nghĩa, kết hợp từ
vựng - cú pháp, định hướng ngữ dụng, đồng nghĩa - trái nghĩa, ví dụ. Các
thông tin này dƣợc thê hiện bằng những phƣơng tiện đa dạng, tuỳ thuộc
vào từng ngôn ngữ, vào quan niệm từ điển học của những ngƣời’ biên
soạn. Thông thƣờng các thông tin về từ loại, phong cách, sắc thái... đƣợc
thể hiện bằng những kí hiệu viết tắt; các thône tin về ý nghĩa, cách dùng...
thƣờng đƣợc trình bày đầy đủ.
1.3.2 Cấu trúc của từ điển bách khoa
1.3.2.1 Cấu trúc vĩ mô của từ điển bách khoa
Cấu trúc vĩ mô trong từ điển bách khoa chính là bảng đầu mục từ -
tên gọi các khái niệm, sự vật, sự kiện, nhân vật... mà thông tin về chúng
đƣợc trình bày trong mục từ. Thông thƣờng, bảng mục từ của từ điển bách
khoa đƣợc lập dựa trên sự phân loại tri thức và khoa học của các ngành và
bộ môn; các cuốn từ điển, từ điển thuật ngữ; các ấn phẩm đã công bố và
các nguồn tƣ liệu khác...
Bảng đâu mục từ trong từ điên bách kh.03. chính là Viêc thê hiện cu
ths cúci việc phân loại tri thức, là bƣớc triển khai của phân loại tri thức và
liên kết nội dung, là bộ khung của từ điển bách khoa. Ngoài những đặc trƣng
cơ bản nhƣ tính tƣ tƣởng, tính khoa học, tính hiện đại, đồng thời bảo đảm
tính ngắn gọn, dễ tra cứu, bảng từ trong từ điển bách khoa phải quán triệt ba
mục tiêu, đó là: tính hiện thực trong phân loại khoa học; sự phát triển của các
ngành khoa học và xu hƣớng liên kết các bộ môn khoa học; khuynh hƣớng
xuất hiện các ngành khoa học mói
Bảng đầu mục từ mang tính khoa học phải đƣợc xây dựng trên cơ sở phân
loại tri thức đƣa vào từ điển bách khoa theo một chu trình khép kín, có tầng bậc và
cấp độ, đặc biệt là đầu mục từ phải mang tính khái niệm. Nó phải bao gồm đầy đủ
những khái niệm của các chuyên ngành khoa học. Mỗi chuyên ngành cũng phải
20
hoàn chỉnh về mặt kết cấu và nội dung, nghĩa là mỗi chuyên ngành, đến lƣợt mình,
cũng phải đầy đủ các bộ môn khoa học. Nó cũng phải phản ánh tính thống nhất và kế
thừa tri thức cổ kim, đƣợc ghi nhận qua các tên gọi (đầu mục từ) của các khái niệm.
Phân loại tri thức đƣợc coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chuẩn bị,
lập kế hoạch, xây dựng bảng từ, biên soạn nội dung và biên tập bản thảo. Tuỳ
pheo sự phát triển của khoa học ở từng thời kì, từng nƣớc, mục đích yêu cầu của
từng loại từ điển bách khoa và ý đồ của những ngƣời tổ chức mà chọn cách phân
loại. Việc phân loại tri thức không phải là liệt kê các thành phần tham gia một
cách |hình thức, mà là phải xác định đƣợc các mối quan hệ nội tại của từng
thành phần tham gia và giữa các thành phần. Chỉ khi nào lập đƣợc mạng lƣới
quan hệ và dựng đƣợc bộ khung cho từ điển bách khoa thì mớí coi là hoàn thành
phân loại tri thức.
Trong quá trình xây dựng bảng mục từ tổng hợp, cần tránh tính ngẫu
hứng, thiếu khách quan, thiếu quan điểm tổng thể, toàn diện, đôi khi còn có
biểu hiện thiên kiến, bản vị của một số ngƣời biên soạn. Do vậy, trƣớc khi
xây dựng bảng đầu mục từ phải nghiên cứu kĩ các hệ thống phân loại khoa
học và hình thành đƣợc bảng cấu trúc các chủ đề theo phân loại khoa học, các
ngành, phân ngành, các bộ môn khoa học, các khái niệm, các thuật ngữ, các
chủ đề tri thức, các sự kiện, các tổ chức, các địa danh, nhân vật... Trên cơ sở
bảng cấu trúc phân loại mục từ mới có thể xây dựng đƣợc một bảng mục từ
tổng hợp, để bảo đảm không trùng lặp, không bỏ sót, và từ đó hình thành
đƣợc các mục từ biệt lập và liên ngành, thuộc nhiều loại khác nhau, dƣới các
hình thức dài, trung bình và ngắn.
1.3.2.2 Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa
Cấu trúc vi mô của từ điển bách khoa là thiết kế bên trong (mục từ) của
từ điển bách khoa. Cấu trúc vi mô đƣa ra các thông tin mang tính sự kiện, chi
tiết về khái niệm, sự vật, hiện tƣợng, nhân vật... đƣợc nêu ra ở đầu mục từ.
21
Mục từ trong từ điển bách khoa phải là một khái niệm hoàn chỉnh
hoặc một chủ đề tri thức độc lập, có thể tra cứu, tìm đọc độc lập. Đối với
cùng một chủ đề, từ điển có thể trình bày với những kiến thức ở mức độ
nông sâu khác nhau đế thích hợp với các loại độc giả có trình độ văn hoá
khác nhau và có nhu cầu học tập, nghiên cứu khác nhau. Mục từ của từ
- Tính tri thức: yêu cầu tri thức phải chuẩn xác, chắc chắn;
- Tính tƣ liệu: yêu cầu tƣ liệu phải cơ bản, tinh gọn, chuẩn xác;
- Tính tra cứu: yêu cầu đảm bảo cho độc giả có thể tra tìm đƣợc rất
điển bách khoa cần hƣớng tới ba yêu cầu
nhanh, đọc đƣợc dễ dàng, nghĩa là phải giúp cho độc giả có thể sử dụng
thời gian ngắn nhất, có thể tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri
thức và tƣ liệu cần thiết.
Đối với những mục từ dài, trình bày những khái niệm quan trọng,
những chủ đề rộng thƣờng có phân tầng lớp, cấp bậc có ghi các tiêu đề.
Những tiêu đề này cũng là những đơn nguyên tri thức để tra cứu, tìm kiếm.
Đầu mục từ trong từ điển bách khoa là tên gọi mục từ có thể đƣợc biếu
thị bằng một khái niệm (từ, thuật ngữ), một tên riêng, hoặc một cụm từ có kèm
tên riêng, đặt ở đầu mục từ, đƣợc sắp xếp theo abc..., hoặc theo đề tài, tra cứu
theo chữ cái đầu của tiếng đầu tiên. Căn cứ vào hình thức của đầu mục từ có
thể xếp tất cả các đầu mục từ vào hai khối: khối khái niệm (từ, thuật ngữ) và
khối tên riêng (kế cả những cụm từ có kèm theo tên riêng).
Khối khái niệm (từ, thuật ngữ) là khối bao gồm nhũng khái niệm phổ
biến chung cho toàn thể nhân loại, khái niệm đặc thù của từng dân tộc hoặc
khái niệm riêng của từng ngành khoa học. Những khái niệm này có thế đƣợc
biểu thị bằng một từ, một thuật ngữ hoặc một cụm từ. Ví dụ: áo, áp thấp
nhiệt đới, bội chỉ nqân sách...
Khối tên riêng (đầu mục từ là tên riêng hoặc đầu mục từ ngoài danh
từ chung có kèm tên riêng). Khối này đƣợc phân ra các loại sau đây:
22
- Đầu mục từ chỉ tên ngƣời (nhân vật)
- Đầu mục từ chỉ tên đất (địa danh)
- Đầu mục từ chỉ các tổ chức, cơ quan...
- Đầu mục từ chỉ sự kiện
- Đầu mục từ chỉ quan niệm
- Đầu mục từ chỉ văn kiện - tài liệu lịch sử
- Đầu mục từ chỉ sự vật cụ thế (sự vật có tên riênghoặc kèm theo tên riêng)
- Đầu mục từ chỉ mật danh, danh pháp, khẩu hiệu,danh hiệu...
Việc xếp theo các loại trên cũng chỉ mang tính ƣớc lệ. Tuy nhiên, nó có
một ý nghĩa thực tiễn, vì có liên quan đến việc phân phối tỉ lệ, việc sắp xếp đầu
mục từ cho thuận tiện việc ữa cứu. Thông qua tỉ lệ các loại đầu mục từ và thông
qua việc sắp xểp, có thể đánh giá phần nào cấu trúc của cuốn từ điển bách khoa
và nội dung của nó.
Trong từ điển bách khoa, mục từ là đơn vị tra cứu chính, chứa đựng
những thông tin nhằm giải thích hoặc chỉ dẫn khoa học của các khái niệm,
tên gọi có mặt trong bảng từ chuyên ngành hoặc bảng từ tổng hợp. Thành
- Đầu mục từ (hoặc đề mục) tức tên gọi mục từ.
phần đầy đủ trong một mục từ có thể bao gồm:
- Định nghĩa, nội dung giải thích đầu mục từ và những chỉ dẫn khoa
- Minh hoạ, ảnh, bản đồ.
- Thƣ mục, tƣ liệu trích dẫn và xuất xứ của tƣ liệu.
học có liên quan đến đầu mục từ.
Tên tác giả biên soạn mục từ
Trong một mục từ không nhất thiết phải có đầy đủ năm thành phần
trên. Thành phần trong một mục từ nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào loại hình
mục từ và vào từng công trình bách khoa cụ thể. Dung lƣợng (kí hiệu in
hoặc con chữ) cũng không giống nhau, có mục từ chỉ vài ba chục kí hiệu in,
nhƣng cũng có mục từ cũng có tới vài chục nghìn kí hiệu in.
23
1.4. Các kiểu định nghĩa của từ điển
1.4.1. Các kiểu định nghĩa trong từ điển giải thích
Định nghĩa là thành phần hạt nhân trong số các thông tin của cấu vi mô
trong một cuốn từ điển giải thích. Giải thích từ ngữ trong từ điển là công việc
quan trọng nhất, khó khăn nhất và thƣờng bị phê phán nhiều nhất.
Khảo sát định nghĩa trong một số cuốn từ điển, các tác giả của công trình
“ Một số vấn đề cơ bản về lí luận và phương pháp luận của thế giới và Việt
Nam vể biên soạn các loại từ điến ngữ văn” đã chỉ ra các phƣơng pháp định
nghĩa đƣợc sử dụng trong các từ điển giải thích tiếng Việt:
Phương pháp định nghĩa bằng phân tích (định nghĩa tự nhiên)
- kiểu giải thích thƣờng gặp trong đời sống. Giải thích tự nhiên là diễn đạt
Đặc điểm cơ bản của lời giải thích trong từ điển là cách giải thích tự nhiên
từ ngữ A bằng từ ngữ B, trong đó B và A phải có cùng nội dung, B phải đồng
nghĩa với A. Giải thích tự nhiên có hai đặc điểm: đây là một hoạt động tự nhiên
trong đời sống xã hội khi có yêu cầu làm cho ngƣời khác hiểu mình, bằng cách
sử dụng năng lực mở rộng, triển khai của ngôn ngữ; dùng cái dễ để giải thích cái
- HP: (Ngƣời, động vật) tự di chuyển bằng những động tác liên tiếp của
khó, cái biết rồi để giải thích cái chƣa biết. Ví dụ: mục từ đi có thể định nghĩa:
chân, lúc nào cũng vừa có chân tựa trên mặt đất, vừa có chân giơ lên đặt tới chỗ
- KT: dời bƣớc; dùng cách gì làm cho ở chỗ này dời ra chỗ khác. Chân
khác. Trẻ đi chưa vững. Chân đi chữ bát. Cho ngựa đi thong thả bước một.
đi; đi xe; đi tầu.
DVT: Bƣớc chân mà tiến lên. Loài chim cũng như loài người đi bằng
hai chân; loài thú đi bốn chân.
DTD: Di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bƣớc chân. Trẻ tập
|- đi. Đi từng bước một. Đi bách bộ
* Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ bao:
Đây là phƣơng pháp định nghĩa của logic học. Nội dung của nó là quy sự
vật, hiện tƣợng, khái niệm vào khái niệm cùng loại rộng hơn, rồi vạch ra những
24
đặc trƣng khu biệt của khái niệm đƣợc giải thích. Phƣơng pháp định nghĩa này là
môt dạng đăc biệt của phƣơng pháp định nghĩa bằng phân tích.
Ví dụ: định nghĩa của danh mục từ hành
HP: Cây thân ngầm, hình dẹp, mang nhiều lá mọng nƣớc xếp úp vào nhau
thành một khối hình củ, dùng làm gia vị.
VT: Loại cây đơn tử diệp, thân ngầm, hình dẹp, mang nhiều lá vảy mọng
nƣớc và xếp úp vào nhau.
DVT: Một thứ rau có củ hăng hăng, cay cay, dùng làm gia vị. Thịt đầy
sanh, không hành không ngon.
TN: Loại rau nhƣ cây cỏ, có củ vị hăng và cay cay, thƣờng dùng làm đồ gia vị
* Phương pháp định nghĩa bằng dùng từ đồng nghĩa:
Là kiểu định nghĩa bằng cách đƣa ra từ đồng nghĩa với từ đang cần
định nghĩa. Đây là kiểu giải thích phổ biến trong từ điển và cũng là kiểu giải
thích từ ngữ thƣờng gặp trong giao tiếp.
Ví dụ: định nghĩa của mục từ heo
HP: (phg.) Lợn.
KT: Con lợn
DVT: Lợn. Heo sữa; heo con; thịt heo, lòng heo.
VT: dt Lợn.
NL: Từ miền Nam chỉ con lợn.
DTD: Lợn. Nói toạc móng heo (tng).
TN: Có nơi gọi là lợn, súc vật nuôi để ăn thịt
* Phương pháp định nghĩa bằng cách dùng từ trái nghĩa:
Là phƣơng pháp định nghĩa bằng cách phủ định từ (hoặc các từ) có ý
nghĩa đối lập với từ đƣợc định nghĩa.
Ví dụ: định nghĩa của mục từ ngắn
HP: Có chiều dài dƣới mức bình thƣờng, hoặc không bằng so với các vật
khác; trái với dài. Áo may dài quá. cắt tóc ngắn. Năm ngón tay có ngón mài
ngón ngắn (tng.)
25
KT: Nói về một chiều so sánh với chiều khác mà kém. Trái với dài.
DVT: Trái với dài, về không gian. Áo ngắn; đường ngắn; ngắn tay
với chẳng tới trời.
vT: Có hai đầu gần nhau trong không gian hay thời gian. Phố ngắn;
Ngày vui chẳng đầy gang tay (K)
LVD; Vắn, cụt. Truyện ngắn; Cơn lạnh còn có cơn nóng, Cơn đắp áo
ngắn cơn chung áo dài.
NL: Có chiều dài rất hạn chế trong không gian hay trong thời gian. Đừng
chê lươn ngắn mà tham chạch dài (tng.); Ngày vui ngắn chẳng đầy gang (K);
- TN: Cụt, trái với dài. Tóc ngắn. Sào ngắn.
Sông sâu, sào ngắn khôn dò (cd).
Phương pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn:
Là phƣơng pháp định nghĩa bằng cách đƣa từ đang cần định nghĩa
ra so sánh với một đối tƣợng của thế giới ngoài ngôn ngữ. Đối tƣợng
ngoài ngôn ngữ đƣợc chọn phải là cái điển hình nhất, phổ biến nhất, có
thuộc tính dễ gợi sự liên tƣởng nhất tới nghĩa của từ. Phƣơng pháp giải
thích này thƣờng đƣợc áp dụng với những từ biêu thị sự cảm nhận trực
tiếp hiện thực nhƣ cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh.
- HP: Có vị làm cho tê xót đầu lƣỡi, nhƣ vị của ớt. Quả ớt cay.
Ví dụ: định nghĩa của mục từ cay.
- KT: Nói cái vị hăng nồng làm cho tê tái đầu lƣỡi. Nghĩa bóng là
Rượu cay. Gừng cay muối mặn,
- DVT: Chỉ vị nóng nồng, thƣờng làm cho lƣỡi tê tái, của những chất
căm tức một việc gì.
- DTD: Có vị nồng, làm cho tê đầu lƣỡi. Cay như ớt. Rượu cay.
nhƣ ớt, tiêu.
Gùng cay muối mặn.
26
*Phương pháp định nghĩa bằng cách nêu chức năng của từ ngữ
Là phƣơng pháp dùng siêu ngôn nsữ miêu tả để nêu lên chức năng của
từ đƣợc định nghĩa. Đây là cách định nghĩa thƣờng áp dụng cho các hƣ từ.
HP: Từ biểu thị quan hệ liên hợp giữa hai sự vật, hiện tƣợng, quá trình, I
tính chất cùng loại, cùng phạm trù. Tôi và nó. Nó biết tiếng Hán, và tiếng Nhật.
Mưa to và gió lớn.
KT: Cùng, với. Tôi và anh. Người và vật
DVT: Cùng, với. Anh và em; người và vật. //Dùng đũa đưa đồ ăn vào
miệng: và cơm; và đồ ăn.//tl. Vài
LVD: Với, cùng, tiếng kèm theo ngƣời, vật hạy sự việc chót khi đã kể
nhiều rồi. Anh tìm nó và bảo nó đến đây.
NL: Từ dùng để nối hai từ, hai mệnh đề để thêm ý. Anh và tôi cùng đi; n
Cháu rất ngoan và học rất giỏi.
DTD: Từ biểu hiện quan hệ liên hợp giữa hai sự vật, hiện tƣợng, quá
trình, tính chất, hoạt động cùng loại. Tôi và anh; đẹp người đẹp nết; nói và làm
phải đi đôi với nhau.
Để nhận biết và phân biệt các sự vật, hiện tƣợng khác nhau trong thế
giới xung quanh, con ngƣời cần phải có khái niệm về các sự vật, hiện tƣợng
đó. Khi diễn đạt khái niệm ra bằng ngôn từ, chúng ta có lời định nghĩa.
Trong cuộc sống của mỗi con ngƣời, có lẽ ai cũng đã từng nhiều lần có nhu
cầu tạo lập và tạo lập đƣợc những định nghĩa để tìm hiểu và phân biệt các
sự vật, hiện tƣợng vô cùng đa dạng, phong phú xung quanh mình. Định
nghĩa chính là việc nêu lên những thuộc tính bản chất để nhận biết sự vật,
hiện tƣợng, đồng thời phân biệt nó vói các sự vật, hiện tƣợng khác
Tuy nhiên, định nghĩa khái niệm là một vấn đề hết sức phức tạp, nó
gắn liền với sự phát triển của các ngành khoa học, với logic học, triết học...
Trong tác phẩm Logic học phổ thông, tác giả Hoàng Chúng đã đƣa ra một số
đặc điểm cơ bản của định nghĩa khái niệm nhƣ sau:
27
Cấu trúc logic của định nghĩa thƣờng có dạng “A là B”: trong đó A là
khái niệm đƣợc định nghĩa, là khái niệm mới, cần đƣợc làm sáng tỏ; B là
khái niệm định nghĩa, trong đó nêu lên các dấu hiệu đặc trƣng, phân biệt
với những khái niệm khác đã đƣợc biết. Đến lƣợt mình, thành phần B lại có
nhiều cấu trúc logic khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào mối quan hệ rộng hơn,
hẹp hơn giữa các khái niệm ngƣời ta có thể có hai cách định nghĩa:
Định nghĩa những khái niệm mới hẹp hơn những khái niệm đã biết
bằng cách nêu ra chủng và sự khác nhau về loại theo công thức (A là dấu của
phép hội, đọc là và):
Khái niệm được định nghĩa - chủng
A sự khác nhau về loại
Đây là cấu trúc logic tiêu biểu nhất, đƣợc sử dụng phố biến để định nghĩa
khái niệm trong các ngành khoa học cũng nhƣ trong đời sống. Thí dụ nhƣ định
nghĩa cá: “Động vật có xương sống, sống ở nước, thở bằng mang, bơi bằng
vây”. Phân tích cấu trúc logic của định nghĩa này ta có: “động vật có xƣơng
sống’' là khái niệm rộng hơn “cá”; “sống ở dƣới nƣớc”, “thở bằng mang” và
“bơi bằng vây” là những đặc điểm để phân biệt “cá” với các loài động vật quen
gọi là “cá” nhƣng lại không phải là “cá” (cá sấu là loài bò sát, cá mực là loài
thân mềm, cá heo là loài thú vì chúng đẻ con và nuôi con bằng sữa theo đúng
đặc trƣng của loài thú); ngƣợc lại có những loài chúng ta tƣởng không phải là cá
thì chúng lại là cá đích thực. Ví dụ: lươn và chạch đều là cá vì chúng có đủ bốn
đặc trung nêu trên, mặc dù mang và vây của chúng rất nhỏ, nhƣng chúng vẫn
dùng mang đế thở và dùng vây để bơi.
Hoặc định nghĩa những khái niệm mới, rộng hơn những khái niệm đã
biết bằng cách liệt kê những khái niệm hẹp hơn đƣợc bao hàm trong khái
niệm ấy trong công thức (V là dấu của phép tuyển, đọc là hoặc):
Khái niệm được định nghĩa = BI
1/B2 VB3
28
Thí dụ, phân tích định nghĩa khái niệm tội hốii lộ “Bao gồm tội nhận
hối lộ, đƣa hối lộ và môi giới hối lộ”, ta có tội hối lộ là một khái niệm rộng
hơn các khái niệm “tội nhận hối lộ”, “tội đƣa hối lộ” và “tội môi giới hối lộ”,
nhƣng không nhất thiết phải bằng tong của cả ba khái niệm này, mà có thể
tƣơng đƣơng với một trong ba khái niệm đó. Nghĩa là ta có: “tội nhận hối lộ
là một loại tội hối lộ”, tƣơng tự nhƣ vậy với “tội đƣa hối lộ” và “tội môi giới
hối lộ”.
Theo quan niệm của logic học truyền thống, định nghĩa khái niệm
phải tuân theo ba quy tắc sau:
Quy tắc 1: Chỉ được sử dụng những khái niệm đã biết, đã đƣợc định
nghĩa từ trƣớc. Vi phạm quy tắc này có thể đƣa đến các định nghĩa vòng
quanh, định nghĩa luẩn quẩn.
Quy tắc 2: Định nghĩa phải tương xứng, nghĩa là khái niệm đƣợc định
nghĩa khái niệm định nghĩa phải đồng nhất (có cùng ngoại diên). Vi phạm quy
tắc này có thể đƣa đến định nghĩa quá rộng hoặc định nghĩa quá hẹp.
Quy tắc 3: Định nghĩa cần ngắn gọn, không chứa đựng những dấu hiệu
có thể suy đƣợc từ những dấu hiệu khác đã đƣợc nêu lên trong định nghĩa.
Trong tác phẩm Logic học, tác giả Vƣơng Tất Đạt cho rằng: “định nghĩa
phái niệm là thao tác logic nhờ đó phát hiện nội hàm của các khái niệm hoặc
xác lập ý nghĩa của các thuật ngữ, và tuỳ theo đối tƣợng cần định nghĩa, có định
thực tế (trả lời câu hỏi “đối tƣợng đƣợc biểu thị bằng thuật ngữ đó là gì”) định
nghĩa duy danh (trả lời câu hỏi “thuật ngữ ấy có nghĩa là gì”). Bằng những thao
tác khác nhau, có thể tạo nên những kiểu định nghĩa khác nhau:
nghĩa quá giống gần gũi và khác biệt về loài là định nghĩa trong đó chỉ ra
lớp đối tƣợng và các dấu hiệu nhờ đó đối tƣợng đƣợc định nghĩa tách ra từ lớp
đối tƣợng ấy;
nghĩa theo nguồn gốc là định nghĩa vạch ra nguồn gốc tạo thành đối
tƣợng đƣợc định nghĩa;
29
Phản ánh nghĩa qua việc chỉ ra quan hệ của đốii tượng với các mặt đốii
lập của nó đƣợc sử dụng để định nghĩa các khái niệm có ngoại diên cực kì rộng
- các phạm trù.
Ngoài ra còn có thể kế đến các thao tắc định nghĩa khác nhƣ miêu tả, nêu
đặc trưng, phân hiệt”.
1.4.2 Đặc điểm và phương pháp định nghĩa khái niệm trong từ
điển bách khoa
Từ điển học mƣợn cách định nghĩa của logic học, và tất nhiên, định
nghĩa khái niệm trong từ điển cũng phải tuân theo ba quy tắc nêu trên của
định nghĩa khái niệm trong logic.
Khi định nghĩa khái niệm cần phải xác định, phải chỉ ra đƣợc một
cách rõ ràng, dứt khoát khái niệm đƣợc định nghĩa, nghĩa là định nghĩa
phải nêu bật đƣợc những đặc trƣng bản chất nhất của khái niệm. Nội dung,
ranh giới giữa các khái niệm không cho phép sự mập mờ, nhập nhằng mà
phải rất rõ ràng, tách bạch. Định nghĩa khái niệm phải nêu một cách hoàn
toàn chính xác, đầy đủ nội dung nghĩa của khái niệm để ngƣời tiếp nhận nó
nhận biết và phân biệt với những khái niệm khác một cách rõ ràng. Định
nghĩa khái niệm trong từ điển vừa phải tuân theo các quy tắc của định nghĩa
khái niệm trong logic, đồng thời, phải đáp ứng các yêu cầu khoa học nhƣng
dễ hiểu; phải là một định nghĩa tự nhiên; vừa cụ thể lại vừa khái quát.
Định nghĩa khái niệm trong từ điển bản chất là giải thích nội dung
của khái niệm theo cách nói vòng. Yêu cầu của cách giải thích này là tự
nhiên, dễ hiểu và tƣơng đối chính xác. Hầu nhƣ rất khó đòi hỏi nó chính
xác một cách tuyệt đối nhƣ định nghĩa khái niệm trong logic học. Dù có
vay mƣợn thuật ngữ “định nghĩa”, có dựa trên cơ sở nền tảng các quy tắc
của định nghĩa khái niệm trong logic nhƣng định nghĩa khái niệm trong từ
điển “là một cách giải thích tự nhiên mà giá trị”. Định nghĩa cần phản ánh
30
đúng sự tồn tại của ngôn ngữ tự nhiên với những sự nhập nhăng không
tránh khỏi và những ranh giới không thể xác định một cách rõ ràng, tuân
theo một loại logic riêng của ngôn ngữ tự nhiên: logic mờ.
Định nghĩa khái niệm trong từ điển phải đủ cụ thể để có thể hiểu đƣợc
mội cách tƣơng đối chính xác nhƣng đồng thời lại phải khái quát để có thể
bao hàm đƣợc mọi khả năng, mọi khía cạnh của khái niệm.
Để đáp ứng yêu cầu dễ hiểu, một nguyên tắc của định nghĩa từ điển là
phải dùng từ dễ để giải thích từ khó, (dùng cái đã biết để giải thích cái chƣa
biết. “Từ dễ” đƣợc hiểu là những từ thông dụng, đƣợc sử dụng phổ biến, có
sắc thái trung tính; “từ khó” đƣợc hiểu là những từ ít dùng, từ cũ, từ cổ, từ địa
phƣơng,... “Cái chƣa biết” đƣơng nhiên là ý nghĩa của mục từ đang đƣợc giải
thích; “cái đã biết” ở đây đƣợc hiểu là toàn bộ những từ (trừ mục từ đang
đƣợc giải thích) có mặt trong cấu trúc vĩ mô. Nhƣ vậy, nói một cách khác, để
đáp ứng yêu cầu dễ hiểu, trong lời định nghĩa chỉ được dùng những từ được
thu thập trong quyển từ điển, nhưng tránh sử dụng những từ cũ, từ cổ, từ địa
phương..và tất nhiên là không đƣợc dùng từ đầu mục trong lời định nghĩa của
chính từ ấy.
“Một tính chất cơ bản khác của đinh nghĩa tự nhiên là không bao giờ
nó là một câu hoàn chỉnh”. Định nghĩa thƣờng là một ngữ và “thƣờng có hình
thức một nhóm từ hƣớng tâm”. Từ đóng vai trò “tâm” trong ngữ ấy thƣờng
có chức năng ngữ pháp tƣơng đƣơng với từ đầu mục. Nghĩa là thông thƣờng,
định nghĩa của một danh từ là một danh ngữ, định nghĩa của một động từ là
một động ngữ...
Đối với từ điển bách khoa, có thể xây dựng đƣợc các mẫu định nghĩa
(thông tin), tƣơng tự các mẫu định nghĩa các lớp, loại... từ ngữ, đối với từ điển
giải thích. Tuy nhiên, từ điển bách khoa do lấy sự vật, khái niệm làm đối
tƣợng, nên không thu thập những đơn vị từ vựng nhƣ yếu tố cấu tạo từ, những
31
từ có ý nghĩa quan hệ, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tình thái, chẳng hạn nhƣ hƣ
từ, đại từ và trợ từ. Từ điển bách khoa cũng không thu thập những tính từ so
sánh với nghĩa đánh giá nhƣ : lớn - bé, to - nhỏ, tốt - xấu... Những khái niệm
thông phƣờng nhƣ: bố, mẹ, nói, cƣời, đi, đứng...; các khái niệm rất khó vạch ra
nội hàm của nó, mà chỉ có thể chỉ ra bằng trực quan nhƣ các từ chỉ màu sắc, từ
tƣợng thanh, tƣợng hình... từ điển bách khoa cũng không thu thập. Từ điển bách
khoa chỉ thu thập những từ có ý nghĩa biểu vật, biểu niệm cụ thể mà không phụ
thuộc bào nhân tố ngƣời sử dụng hay hoàn cảnh nói năng. Chính vì vậy, từ điển
bách khoa không sử dụng phƣơng pháp định nghĩa bằng chỉ dẫn (phƣơng pháp
giải thích đƣợc áp dụng với những từ biểu thị cảm nhận trực tiếp hiện thực nhƣ
cảm nhận về màu sắc, mùi vị, âm thanh) và phƣơng pháp định nghĩa bằng cách
nêu chức năng của từ ngữ (cách định nghĩa áp dụng cho các hƣ từ).
1.1.5 Nhận thức chung về Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự
Khi đề cập đến từ điển bách khoa và bách khoa thƣ, Vũ Quang Hào
cho rằng từ điển bách khoa chuyên ngành là loại từ điển bách khoa mà nôi
dung tri thức của nó phản ánh “tri thức khoa học của một chuyên ngành, một
lĩnh vực hoạt động thực tiễn”. là một lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Từ điển
Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự thuộc loại từ điển bách khoa chuyên
ngành - chuyên về lĩnh vực mang tính chất địa danh quân sự. Vì vậy, có thể
hiểu: Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là một bộ sách tra cứu
có tính chuyên ngành, trình bày một cách hệ thống, chính xác, ngắn gọn các
địa danh quân sự và các tri thức khác (địa lí, lịch sử) có liên quan mật thiết
đến địa danh quân sự, trên cơ sở hệ thống tư liệu, tài liệu đã được đánh giá,
tổng kết.
Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự do Nhà xuất bản Quân
đội Nhân dân xuất bản năm 2006 có 1.186 mục từ với độ dày 458 trang, khổ
13 x 19cm. Đây là công trình khoa học lớn, chứa đựng những vấn đề quan
trọng về địa danh vùng miền trong quân sự và những tri thức quan trọng
32
quan hệ trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn đất nƣớc; đƣợc đúc kết trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và
trƣởng thành của lực lƣợng Quân đội nhân dân, góp phần quan trọng vào
việc thống nhất nhận thức về những vấn đề lí luận cơ bản của ngành, làm cơ
sở cho việc nghiên cứu, giảng dạy ớ các học viện, nhà trƣờng trong quân
đội và chỉ đạo thực tiễn các đơn vị quân đội trong cả nƣớc.
Căn cứ vào hình thức thế hiện, hệ thống mục từ của Từ điển thuật ngữ
Địa danh Lịch sử quân sự đƣợc phân thành. Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch
sử quân sự là một loại từ điển bách khoa chuyên ngành, các mục từ trong Từ
điển đều là các thực từ và đƣợc sắp xếp theo thứ tự chữ cái abc. Từ điển
thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự đã chú ý thu thập toàn bộ địa danh lịch
sử quân sự trong cả nƣớc đƣợc thể hiện qua các trận đánh, sơ đồ chiến lƣợc
của quân và dân ta trong suốt quá trình chiến đấu chống kẻ thù xâm lƣợc.
Ngoài phần bảng từ, Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự còn bao
gồm bảng, ảnh, hình vẽ - đƣợc bố trí xen kẽ trong bảng từ hoặc làm thành phụ lục.
Bảng, ảnh, hình vẽ cung cấp một số thông tin bổ sung, giúp cho việc hiểu nghĩa của
thuật ngữ - khái niệm đƣợc đầy đủ, cụ thể, chính xác hơn hoặc một cách có hệ
thống hơn.
Tiểu kết
Đối tƣợng tìm hiểu chủ yếu của luận văn là các mẫu định nghĩa, những
nội dung trong lời giải thích của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử quân sự, do
đó, luận văn liên quan đến mọi vấn đề của từ điển và từ điển học. Đó là các vấn
đề về đặc điểm, chức năng, sự phân loại, cấu trúc và các kiểu định nghĩa trong từ
điển. Đi sâu vào từng vấn đề là sự phân biệt giữa từ điển giải thích và từ điển
bách khoa, hai loại hình từ điển có sự giống nhau và khác nhau nhất định nhƣng
vấn đề định nghĩa khái niệm trong từ điển bách khoa và định nghĩa từ ngữ trong
từ điển giải thích luôn có sự nhập nhằng, khó phân biệt, bởi trên thực tế, “những
đặc trƣng cơ bản của khái niệm, sự vật mà từ ngữ biểu thị” trong từ điển bách
33
khoa và “những đặc trƣng cơ bản của từ ngữ” trong từ điển giải thích không phải
lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng. Đó là những vấn đề lí thuyết có liên quan trực
tiếp và là chỗ dựa cho các chƣơng tiếp theo của luận văn.
Từ điển Bách khoa là một loại sách công cụ có đặc thù riêng. Đây là loại
sách công cụ cung cấp những tri thức cơ bản nhất và chính xác nhất về một
ngành khoa học. Từ điển bách khoa có chức năng hệ thống hóa toàn bộ tri thức
cơ bản và chuyên sâu, nhiều mặt về một hay nhiều ngành khoa học hoặc hoạt
động thực tiễn. Nó dùng để tra cứu thông tin một cách nhanh chóng.
Bất kỳ một cuốn sách công cụ nào cũng đều phải có cấu trúc hai mặt:
. Cấu trúc vi mô: tính hệ thống dọc
. Cấu trúc vĩ mô: tính hệ thống ngang
Việc biên soạn Từ điển Bách khoa trong đó Từ điển Địa danh Lịch sử Quân
sự theo chúng tôi là một loại từ điển Bách khoa chuyên ngành. Vì vậy, việc tuân
thủ mọi nguyên tắc khi biên soạn theo quy trình. Trong chƣơng này chúng tôi có đề
cập nhiều vấn đề lí luận chung về từ điển học nó giúp ích cho việc:
1. Tổ chức biên soạn
2. Đánh giá về chất lƣợng và hiệu quả để rút ra kinh nghiệm và cách
thức biên soạn một cuốn từ điển bách khoa tƣơng tự.
34
Chƣơng 2
CẤU TRÚC VĨ MÔ – TÍNH TỔNG THỂ
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
2.1. Đặt vấn đề
Trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc, giành độc lập tự do, trên đất
nƣớc ta đã diễn ra biết bao sự kiện quan trọng nói chung và sự kiện quân sự
nói riêng. Mỗi sự kiện quân sự đó đều gắn với một địa danh, ghi dấu ấn tồn
tại, phát triển và biểu thị lòng yêu nƣớc nồng nàn, tinh thần đoàn kết chặt chẽ,
sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam.
Địa danh là một phần làm nên sự kiện lịch sử, nghiên cứu, tìm hiểu về
những địa danh lịch sử quân sự trên đất nƣớc ta, giúp cho bạn đọc hiểu thêm
về lịch sử quân sự Việt Nam về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc
ta trong quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc. Với ý nghĩa đó tôi tìm hiểu cuốn từ
điển “ thuật ngữ địa danh lịch sử Quân sự Việt Nam” mang đến những thông
tin bổ ích về một số địa danh hành chính và các yếu tố địa lý tự nhiên - nơi
diễn ra các sự kiện trong lịch sử quân sự Việt Nam; các căn cứ cách mạng và
kháng chiến, địa bàn hoạt động của các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa; địa danh có
ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của các nhà quân sự, lãnh tụ khởi nghĩa và
các hoạt động khác có vai trò nổi bật trong lĩnh vực quân sự. Nội dung cuốn
sách đƣợc bố cục theo từng địa phƣơng, mở đầu là Thủ đô Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh, các địa phƣơng còn lại xếp theo vần A, B, C...
Trong chƣơng này chúng tôi tìm hiểu cấu trúc vĩ mô (cấu trúc tổng thể)
nguyên tắc đầu tiên của bất cứ cuốn từ điển nào. Đây là nguyên tắc quan trọng
không thể thiếu trong bất kỳ một cuốn từ điển bách khoa nói chung.
2.1.1 Khái niệm Địa danh Lịch sử Quân sự
Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng có những điểm riêng biệt về
địa lý, lịch sử của nƣớc mình. Tên gọi địa lý hay còn gọi là địa danh của mỗi
35
nƣớc, mỗi vùng đều có những cách thức đặt tên mang đặc trƣng riêng của
vùng miền. Do đó, trong sự tồn tại thực tế của nó, địa danh rất phong phú và
đa dạng.
Thuật ngữ Toponima hay Toponoma đƣợc dịch là “tên gọi vị trí” là có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, để lý giải một cách đầy đủ và chính
xác khái niệm địa danh, theo chúng tôi đây là vấn đề không hề đơn giản. Nếu
hiểu theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Cách hiểu này mang tính bó
hẹp phạm vi của địa danh. Bởi địa danh không chỉ là tên gọi của các đối
tƣợng địa lý gắn với từng vùng đất cụ thể mà còn có thể là tên gọi đối tƣợng
địa lý cƣ trú sinh sống (địa danh hành chính), hay các công trình do con ngƣời
xây dựng (địa danh nhân văn), hoặc đối tƣợng địa hình thiên nhiên (địa danh
thiên nhiên).
Hiện nay chƣa có một định nghĩa thống nhất về địa danh, mỗi nhà
nghiên cứu đƣa ra một cách định nghĩa riêng tùy cách lập luận và hƣớng tiếp
cận của mình. Với tƣ cách một nhà ngôn ngữ học, Lê Trung Hoa đã nghiên
cứu địa danh dƣới góc độ ngôn ngữ học, ông đã đƣa ra các định nghĩa sau
“địa danh là những từ hoặc ngữ đƣợc dung để làm tên riêng của các địa danh
thiên nhiên, các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, các đơn vị
hành chính, các vùng lãnh thổ.
Hiện nay trong giới nghiên cứu địa danh vẫn chƣa có sự thống nhất
nhau về khái niệm địa danh. Trong Từ điển Hán Việt (1999), Đào Duy Anh
đã giải thích “Địa danh là tên gọi các miền đất”, trong Từ điển Tiếng
Việt (1999), Hoàng Phê lại quan niệm “Địa danh là tên đất, tên địa phƣơng”.
Gần với cách hiểu này, Nguyễn Văn Âu cũng xem địa danh là “tên gọi các địa
phƣơng hay tên gọi địa lý”. Định nghĩa một cách đầy đủ hơn, bao quát hơn
sau khi trình bày hàng loạt các vấn đề liên quan đến địa danh,
A.V.Supêranskaia trong cuốn Địa danh là gì đã viết nhƣ sau: “Địa danh học -
36
đó là một chuyên ngành của ngành ngôn ngữ học, nghiên cứu về lịch sử hình
thành, thay đổi và chức năng của các tên gọi địa lí. Thành tố lịch sử trong địa
danh học là bắt buộc” .
Có nhiều cách định nghĩa, lý giải về hệ thống địa danh. Trong phạm vi
tƣ liệu hiện có, chúng tôi chia thành hai quan điểm cơ bản. Quan điểm thứ nhất
nghiêng về nghiên cứu địa danh gắn với địa lý - văn hoá. Đại diện tiêu biểu cho
quan điểm này là Nguyễn Văn Âu, ông cho rằng: “Địa danh là tên đất, gồm tên
sông, núi, làng mạc... hay là tên các địa phƣơng, các dân tộc” .
Quan điểm thứ hai nghiêng về nghiên cứu địa danh theo góc độ ngôn
ngữ học. Đại diện cho quan điểm này là các tác giả Lê Trung Hoa, Nguyễn
Kiên Trƣờng, Từ Thu Mai, Phạm Xuân Đạm. Lê Trung Hoa quan niệm: “Địa
danh là những từ hoặc ngữ cố định đƣợc dùng làm tên riêng của địa hình thiên
nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ” . Kế
thừa qua điểm của Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trƣờng cũng khẳng định: “Địa
danh là tên riêng của các đối tƣợng địa lý tự nhiên và nhân văn có vị trí xác
định trên bề mặt trái đất”. Từ Thu Mai cho rằng: “Địa danh là những từ ngữ chỉ
tên riêng của các đối tƣợng địa lý có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” . Phạm
Xuân Đạm đƣa ra định nghĩa về địa danh và địa danh học nhƣ sau: “Địa danh
là lớp từ ngữ đặc biệt đƣợc định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối
tƣợng địa lý tự nhiên và nhân văn. Địa danh học là một ngành của ngôn ngữ
học nghiên cứu hệ thống địa danh về các mặt: nguồn gốc, cấu trúc, ý nghĩa, sự
chuyển hoá,biến đổi, các phƣơng thức định danh” .
Tóm lại, Địa danh học là một phân ngành của Ngôn ngữ học, chuyên
nghiên cứu về nguồn gốc ý nghĩa và những biến đổi của địa danh. Ngoài ra,
cũng nhƣ Nhân danh học và Tộc danh học, Địa danh học là một bộ phận của
khoa Danh xƣng học và nó chuyên nghiên cứu cấu tạo địa danh, các phƣơng
thức đặt địa danh.
37
Nhƣ vậy, khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những
gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài ngƣời. Với ý này, lịch sử bao
trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác
và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu đƣa ra.
Theo Trần Thị Bích Ngọc, các định nghĩa chỉ đúng một phần, lịch sử
- Việc diễn ra trong quá khứ: những sự kiện(biến cố) diễn ra trong quá
đƣợc hiểu theo 3 ý chính đƣợc các nhà nghiên cứu đồng ý:
khứ cho đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi đƣợc, cố định trong không
- Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con ngƣời muốn nắm bắt
gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan.
quá khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện,
mang tính chất tƣơng đối và chủ quan của ngƣời ghi lại bằng những câu
- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hặc quá
chuyện kể.
trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là
câu chuyện kể đối với hiện tại.
Để hiểu lịch sử phải dựa vào cách viết sử của những sử gia từ xƣa đến
nay. Vì cũng theo Trần Thị Bích Ngọc giải thích, kiến thức về lịch sử thƣờng
đƣợc xem là bao gồm cả hai, kiến thức về những biến cố của quá khứ và
những kĩ năng suy nghĩa và giải thích quá khứ.
Theo chúng tôi có thể đƣa ra định nghĩa về Địa danh Lịch sử Quân sự
nhƣ sau: Địa danh Lịch sử Quân sự là một chỉ dẫn địa lí, mà ở đó đã xảy ra
những biến cố, những sự kiện liên quan tới các hoạt động quân sự trong lịch
sử, gắn với những sự kiện lịch sử.
Vì lí do trên mà trong luận văn này chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu các
tiêu chí cách phân loại làm nên tổng thể địa danh lịch sử quân sự Việt Nam
gắn với các sự kiện xảy ra trong thời gian, không gian cụ thể trải dài trong
vùng miền trên cả nƣớc và qua các diễn biến lịch sử.
38
2.2. Cấu trúc tổng thể
Nhƣ chúng ta đã biết, địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa
lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trƣờng, thời đại
mà nó chào đời. Có ngƣời cho rằng địa danh giống nhƣ “ vật hoá thạch” ;
ngƣời khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm” Nhƣ vậy, qua địa danh, ta
có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công
trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.
2.3. Tính hệ thống
2.3.1.Địa danh – một chỉ dẫn địa lí có giá trị văn hóa
Nhƣ chúng ta biết địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý
nhất định. Do đó phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trƣờng, thời đại mà
nó chào đời. Có ngƣời cho rằng địa danh giống nhƣ những vật cổ hóa thạch,
ngƣời khác lại cho rằng đấy là những tấm bia kỷ niệm. Nhƣ vậy, qua địa danh
ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về mặt địa lý, xã hội, các công trình
xây dựng, lịch sử văn hóa. Do vậy địa danh Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy luật chung.
Ra đời trong môi trƣờng nào, địa danh sẽ phản ánh hoàn cảnh địa lý
môi trƣờng đó. Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tƣ duy mà tuy
duy luôn phản ánh thực tại mà nó tiếp nhận. Hiện thực văn hóa đi vào điạ
danh có thể phân chia thành ba phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.
Địa hình có thể chia làm hai dạng: Địa hình cao và địa hình thấp. Địa hình cao
gồm: Núi, đồi, gò, đống,… Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ, đầm,…Tên địa
hình đi vào địa danh trƣớc hết qua các danh từ chung đƣợc dùng làm tên gọi
các tiểu loại địa danh nhƣ núi, gò, sông, rạch nhƣ Núi Từ Bi, Gò Sặc, Sông
Côn,…Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã đƣợc Việt hoá) chỉ địa hình, còn
có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập nhƣ: sơn (núi), lâm (rừng), cốc
(hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển, bến sông), dƣơng, hải
39
(biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chƣa trở thành từ trong tiếng Việt nên
không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa danh: Đạm Thủy, Hố
Giang, Phƣớc Sơn,…Bên cạnh đó hình ảnh cây cỏ cũng đi vào hệ thống địa
danh của ngƣời Việt và địa danh tỉnh Bình Định cũng không nằm ngoài
trƣờng hợp đó: suối Cây Sung, Đồng Tre, chợ Cây Cốc,…
2.3.2. Địa danh phản ánh những hoạt động quân sự
Những hoạt động sinh tồn của con ngƣời luôn có quan hệ mật thiết với
địa danh, là một thành tố cấu thành những giá trị tinh thần mang tính dân tộc,
văn hóa của các tổ chức chính trị, hành chính và hoạt động kinh tế. Việt Nam
là một đất nƣớc đa dân tộc, từ đó dẫn đến sự đa dạng về ngôn ngữ kéo theo sự
phong phú về địa danh. Khu vực tỉnh Bình Định, hệ thống địa danh chủ yếu
có nguồn gốc từ ngôn ngữ Việt, Chăm và một số dân tộc khác. Thực tế này
một mặt kích thích sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu, tuy nhiên cũng gây ra
không ít khó khăn cho họ trong quá trình khảo sát, truy nguyên ý nghĩa của
các địa danh đó.
Trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi cơ
cấu tổ chức hành chính theo từng chế độ, đến nay đã có khoảng 60 tên gọi
đơn vị hành chính khác nhau. Nhiều tên gọi đƣợc sử dụng trƣớc kia nay đã bị
chìm vào quên lãng nhƣ: am, bãi, châu, phủ, tổng, trại trang, tấn,…Tuy nhiên
vẫn còn rất nhiều địa danh bảo lƣu các thành tố này: thành Hoàng Đế, phủ
Phù Ly, phủ Tuy Viễn…
Hoạt động kinh tế của loài ngƣời nói chung và đối với ngƣời Việt Nam
nói chung chủ yếu nằm trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngƣ
nghiệp, công nghiệp, thƣơng nghiệp. Hầu nhƣ tên sản phẩm của các ngành
này đều có đi vào địa danh. Chủ yếu thành tố là tên sản phẩm đứng sau các
từ chợ, hãng, xóm, nhà nhƣ chợ Cây Da, Chợ Gồm, Nhà Đá, Đập Đá. Qua
những địa danh này ta có cảm giác nhƣ đang đƣợc chứng kiến một bức tranh
vô cùng sinh động về đời sống kinh tế của một vùng đất trù phú xa xƣa.
40
Tính hệ thống chung hay còn gọi là cấu trúc vĩ mô của cuốn từ điển nó
thƣờng đƣợc hiểu là một hệ thống bảng mục từ đƣợc sắp xếp theo một trật tự
nhất định. Thông thƣờng, bảng mục từ trong cuốn từ điển là nội dung cơ bản,
yếu tố chính của cấu trúc vi mô. Ngoài nó ra còn một số thành phần khác nữa
nhƣ tỉ lệ, quy tắc biên soạn, lời nói đầu, sách dẫn…
Tính hệ thống trong từ điển nói chung, trong từ điển bách khoa nói
riêng là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối việc tìm kiếm, xây dựng
các phƣơng pháp biên soạn.
Nguyên lý về tính hệ thống chung trong cuốn từ điển xuất phát từ quan
niệm ngôn ngữ là hệ thống - cấu trúc do F.D. Saussure đƣa ra đầu thế kỷ XX
và sau đó đƣợc các nhà cấu trúc luận phát triển. Nguyên lí tính hệ thống chung
trong cuốn từ điển đƣợc các nhà ngôn ngữ học trƣờng phái ngữ nghĩa học
Moscova phát triển về mặt lí luận và bƣớc đầu áp dụng trong biên soạn từ điển.
Tính hệ thống chung này chính là bảng đầu mục từ, tên gọi các khái
niệm, nhân vật, sự kiện, địa danh vùng miền… vốn là yếu tố của những hệ
thống, đƣợc phân loại theo trật tự nhất định. Các yếu tố này liên quan với
nhau theo liên kết dọc có tính quy tắc và gắn kết với nhau khăng khít. Với
thể lệ và quy tắc biên soạn thì bảng mục từ đƣợc sắp xếp theo thứ tự vần
chữ cái a, b, c. Ngoài việc sắp xếp bảng mục từ nhƣ trên cấu trúc chung
của từ điển địa danh lịch sử quân sự còn có các thành phần khác nhƣ: thể
lệ và quy tắc biên soạn, lời giới thiệu, hƣớng dẫn sử dụng, các phụ lục,
sách dẫn…phần này rất cần thiết và có ý nghĩa. Về thể lệ và quy tắc biên
soạn nhằm giúp cho độc giả hiểu biết sâu hơn, rõ hơn về đối tƣợng. Phần
này đƣợc đƣa ngay từ những trang đầu của cuốn từ điển. Vai trò của hệ
thống chuyển chú là nối liền các tri thức (mục từ) bị phân tách lại với
nhau. Độc giả dựa vào hệ thống chuyển chú sẽ hệ thống hóa đƣợc tri thức
có liên quan đến một chủ đề nào đó.
41
Bảng mục từ:
Việc lập bảng mục từ thể hiện đƣợc mối liên kết trong nội bộ hệ thống tri
thức khoa học và là tính chất cơ bản của bách khoa toàn thƣ, nhằm phục vụ việc
tìm kiếm, tra cứu đƣợc nhanh chóng. Việc lập bảng mục từ phân theo nhiều yếu
tố khác nhau chính là cơ sở để lập bảng mục từ theo thứ tự chữ cái a, b, c.
Từ điển địa danh lịch sử Quân sự đƣợc chia ra rất nhiều phần khác
nhau, việc lựa chọn các mục từ cũng dựa vào các yếu tố này. Điều này đảm
bảo cho việc lựa chọn hợp lý, cân đối hoàn chỉnh không bị thừa. Bảng mục từ
phân theo các yếu tố khác nhau nhằm thuận lợi cho việc theo dõi, biên soạn
và nghiên cứu.
* Tiêu chí phân loại trong cuốn từ điển đó là:
Nhƣ chúng ta đã biết để hiểu một cách nôm na nhất, địa danh có nghĩa
là tên đất. Về khái niệm địa danh theo tác giả Lê Trung Hoa “địa danh là
những từ hoặc ngữ đƣợc dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các
đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về
không gian hai chiều”. Tùy theo nhận thức mà mỗi ngƣời có thể có một khái
niệm về địa danh khác nhau, có định nghĩa về địa danh không giống nhau.
Một số nhà nghiên cứu khác đã không đồng tình, khi tác giả đƣa ra ý niệm
“không gian hai chiều” nhƣ cầu, đƣờng…Cầu, đƣờng có phải là không gian
hai chiều? tại sao đó là địa danh, mà không gian ba chiều lại không phải là địa
danh? Công trình xây dựng có phải là địa danh, hay ngƣời ta chỉ mƣợn địa
danh tại chỗ để đặt tên cho nó?. Từ nhiều nghiên cứu khác nhau chúng ta có
thể tam hiểu khái niệm địa danh nhƣ sau:
Địa danh là tên riêng của một vùng đất, mà vùng đó có thể có địa hình
khác nhau, hoặc một khu vực hành chính xác định; đƣợc đặt bởi ngƣời quản lí
và cƣ dân địa phƣơng, bằng chính ngôn ngữ mà cƣ dân đó sử dụng; địa danh
không hoàn toàn nhất thành bất biến mà có sự thay đổi nhất định theo thời
42
gian và biến cố lịch sử; một vùng đất có thể có nhiều tên gọi khác nhau cùng
một ngôn ngữ hoặc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngoài việc giúp nhận biết một
vùng đất cụ thể, địa danh còn dung để đặt tên cho các công trình xây dựng để
hình thành nên một địa danh.
Trong Từ điển thuật ngữ địa danh quân sự này, việc chọn mục từ nhƣ sau:
a) Đối với địa danh hành chính: là địa danh do chính quyền hoặc ngƣời
dân đặt tên, nhằm phục vụ cho mục đích quản lý của nhà nƣớc
b) Đối với địa danh gắn với chiến dịch, cuộc khởi nghĩa: Chúng tôi đƣa
những tên đất đã biết rõ từ nguyên hoặc đã có ngƣời giải thích từ nguyên.
Ngoài ra, những địa danh có tầm cỡ trong khu vực, đƣợc nhiều ngƣời biết
đến, nhƣng chƣa biết rõ nguồn gốc, ý nghĩa chúng tôi cũng nêu ra để tranh thủ
ý kiến của mọi ngƣời.
AI (tên Pháp: Éliane), cứ điểm kiên cố thuộc hệ thống phòng ngự phía
đông của phân khu trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Xây dựng trên
đồi Phu Lang Chƣơng cao 503m ở khu trung tâm Mƣờng Thanh, cách sở chỉ
huy của tƣớng Đờ Caxtơri 300m về phía đông, do một tiểu đoàn thuộc trung
đoàn Marôc 4 chốt giữ, kiểm soát hai cầu qua sông Nậm Rốm, khống chế các
cứ điểm Cl, C2 ở thấp hơn. Đêm 30 rạng ngày 31.3.1954, trung đoàn 174 (đại
đoàn 316) tiến công chiếm đƣợc 2/3 cứ điểm, nhƣng bị địch dựa vào
hầm ngầm, đƣa lực lƣợng phản kích, có pháo binh, xe tăng yểm trợ, giành lại
phần lớn. Sau khi bổ sung lực lƣợng của trung đoàn 102 (đại đoàn 308), ta
tiếp tục tiến công hai lần vào các đêm 31.3 và 1,4 nhƣng không dứt điểm.
Cùng với việc đẩy mạnh bao vây, khống chế, đánh địch phản kích tại các khu
vực, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng công binh đào đƣờng ngầm tới
sát vị trí địch trong lòng đồi Al, đặt khối bộc phá 1.000 kg để phá hầm ngầm,
đồng thời làm hiệu lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận. Đêm 6 rạng ngày
7.5, trung đoàn 174 tổ chức tiến công từ ba hƣớng vào các vị trí còn lại, chiếm
43
toàn bộ cứ điểm. Việc đánh chiếm AI là một trong những hoạt động tác chiến
kéo dài và gay go quyết liệt nhất, góp phần quyết định đƣa đến thắng lợi của
chiến dịch Điện Biên Phủ (13.3-7.5.1954).
c) Đối với địa danh là căn cứ địa cách mạng: căn cứ địa với tất cả các
hoạt động của nó, đã giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến tranh
chống xâm lƣợc, là một biểu tƣợng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Một nhân tố không thể thiếu, góp phần làm nên thắng lợi trọn vẹn của
cuộc chiến tranh giải phóng do nhân dân Việt Nam tiến hành trong suốt quá
trình đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc
Căn cứ địa là những khu vực tập kết các cơ quan đầu não và lực lƣợng
kháng chiến; là đầu mối hành lang chiến lƣợc
Ví dụ: Đồng Tháp Mƣời; Địa đạo Củ Chi; ATK Thái Nguyên…
d) Đối với địa danh mang tên nƣớc ngoài: Trong địa danh Lịch sử quân sự
địa danh mang tên nƣớc ngoài chiếm một số lƣợng hạn chế, địa danh này do
nƣớc ngoài du nhập vào đặc biệt là Pháp quá trình đô hộ đã đặt một số địa danh
Ví dụ: Andecxen; cầu Ia toove…
e) Địa danh phản ánh từ cổ, từ lịch sử: Trong địa danh của Việt Nam,
có nhiều từ cổ lịch sử. Từ cổ, lịch sử là những từ đƣợc sử dụng ngày xƣa,
nhƣng ngày nay đối tƣợng của có hiếm
44
Ví dụ: Ải Quan; Ái Châu; Châu Diên…
Ra đời trong môi trƣờng nào, địa danh phản ảnh hoàn cảnh địa lý ở đó.
Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tƣ duy mà tƣ duy luôn phản
ảnh hiện thực mà nó tiếp nhận. Hiện thực đi vào địa danh có thể chia làm ba
phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.
1.1. Địa hình có thể chia làm hai dạng: địa hình cao và địa hình thấp.
Địa hình cao gồm: núi, đồi, gò, đống,…Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ,
đầm,…Tên địa hình đi vào địa danh trƣớc hết qua các danh từ chung đƣợc
dùng làm tên gọi các tiểu loại địa danh nhƣ núi, gò, sông, rạch,…:núi Tản
Viên, gò Cẩm Đệm, sông Đà, rạch Cát,…Nhƣng quan trọng hơn là các danh
từ chung chỉ tên địa hình đã biến thành một yếu tố của địa danh: tỉnh Sông
Bé, huyện Giồng Trôm, cầu Kinh, hồ Ba Bể, huyện Đầm Dơi, xóm Cù Lao,
sông Ba Ngòi, vùng Bãi Bằng, bến Phà Rừng, vùng Thác Đài,…
Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã đƣợc Việt hoá gần nhƣ thuần
Việt) chỉ địa hình, còn có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập hệ
nhƣ: sơn (núi), lâm (rừng), cốc (hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển,
bến sông), dƣơng, hải (biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chƣa trở thành từ
trong tiếng Việt nên không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa
danh: Trƣờng Sơn, Tiền Giang, Gia Lâm, thôn Sài Đàm, An Khê, Long
Xuyên, thôn Phƣơng Chử, Hải Dƣơng,…
Đồng thời, nhiều từ chỉ địa hình thiên nhiên trong các ngôn ngữ thiểu
số ở Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ cũng đã đi vào địa danh:
rạch (prêk: sông nhỏ), vàm (piêm: ngã ba sông, rạch), đa, đak, ia (nƣớc,
sông), chƣ, ngok, pu/pù (núi), khuổi (suối),… Hầu hết các từ này vừa làm tiền
từ vừa làm yếu tố chính đứng trƣớc địa danh: rạch – Rạch Giá; vàm – Vàm
Cống; đa, đà, đạ – Đa Nhim, Đà Lạt, Đạ Đờng; đăk – Đăk Lăk; gia – Gia Sô;
chƣ – Chƣ Sê; ngok – Ngọc Linh; khuổi – Khuổi Cọ; pu – Pu Sam Sao.
45
Bảng mục từ phân theo vần chữ cái ABC
Để thuận tiện cho việc biên soạn và đọc thẩm định, bảng mục từ trong
từ điển địa danh lịch sử quân sự phân theo hệ thống và sắp xếp theo thứ tự
vần chữ cái a, b, c cho đến z.
Nói đến “cấu trúc vĩ mô” là nói đến cấu trúc bảng / khung mục từ. Lập bảng
khung mục từ là một khâu quan trọng nhất của công việc biên soạn, “hoàn thành tốt
công việc này chính là đã hoàn thành 50% công trình” [Hà Học Trạc 2004, 120].
Mặc dù là vấn đề mới, nhƣng cũng đã có nhiều tài liệu đề cập đến công việc này
(xin xem: [Hà Học Trạc 2004], [Совeтский Энцклопедический Словарь,
1986],[Лингвистический Енциклопедический Словарь, 1990]..
Khái niệm “cấu trúc vĩ mô” đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ biến
trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho thấy,
bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung nhƣ một hệ
thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ các quan niệm
nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả. Nguyễn Trọng Báu coi:
“Lựa chọn một bảng mục từ nhƣ thế nào cho bách khoa thƣ là cơ sở biểu hiện
thế giới quan giai cấp của ban biên tập. Đồng thời qua bảng mục từ có thể hình
dung ra khối lƣợng từ điển, kết cấu và các chủ để cho bách khoa toàn thƣ đề cập
tới”[Nguyễn Trọng Báu 1992]. Cách diễn đạt nhƣ trên có vẻ “đao to búa lớn”
(“thế giới quan giai cấp”) có vẽ hơi cũ, nhƣng rất đúng.
Nhƣ vậy, khái niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ
đầu mục. Từ “hệ thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn
ti, cấp bậc, cũng thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cách
trọn vẹn. Nếu không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta sẽ chỉ là các đơn
vị rời rạc, chẳng những chúng không có sự gắn kết, thiếu chọn lọc, có nguy cơ
không kiểm soát nổi, tùy tiện, cảm tính dẫn đến tình trạng không cân đối,
thậm chí thiếu, thừa.
46
2.3.3.Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô
Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, xoắn bện vào nhau
làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi đó là hệ thống dọc và hệ
thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti trong một chủ đề (một ngành
khoa học). Hệ thống ngang là mối quan hệ cân đối giữa các chủ đề (các ngành
khoa học) với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian, các mối
quan hệ hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế định lẫn
nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng nhƣ các đơn
nguyên nhỏ nhất.
2.3.3.1.Hệ thống dọc
Hệ thống này đƣợc Hà Ngọc Trạc hình dung: chủ đề bao gồm các lĩnh
vực khoa học, các ngành, phân ngành, các bộ môn khoa học, các khái niệm,
các thuật ngữ, các chủ đề tri thức, các sự kiện, các tổ chức, các địa danh, nhân
vật…. Ta có thể hình dung quan niệm này theo sơ đồ sau:
Chủ đề
Lĩnh vực, ngành
Bộ môn, phân ngành
Hai hệ thống dọc và ngang có quan hệ tƣơng liên chặt chẽ đến mức chúng
chế định, ảnh hƣởng lẫn nhau. Nếu chúng ta làm không làm tốt cấu trúc hệ thống
Khái niệm, thuật ngữ ngành (hệ thống dọc) thì cũng không thể làm tốt hệ thống các quan hệ đồng cấp
(hệ thống ngang), và ngƣợc lại. Ở các nƣớc phát triển, khi đã có hàng trăm năm
47
làm bách khoa thƣ, những kinh nghiệm thành lập hệ thống phân ngành rồi làm
nên bảng phân loại mục từ có lẽ không khó khăn lắm. Tuy vậy, không phải tất cả
các sản phẩm của họ đều không tìm thấy những điểm chƣa hài lòng [xem Hà
Học Trạc 2004]. Còn ở nƣớc ta, những khiếm khuyết có tính mất hệ thống
không khó tìm thấy hầu nhƣ ở tất cả các loại từ điển. Đây là điểm rất đang chú ý
khi chúng ta xây dựng quy chế thành lập bảng mục từ cho quyển Từ điển Địa
danh Lịch sử Quân sự Việt Nam trong tƣơng lai.
Việc liên kết giữa các hệ thống là công việc của một số phƣơng tiện chỉ
dẫn, trong đó có đóng góp của sự chuyển chú và bảng chỉ dẫn. Ở các loại từ
điển hiện nay, các bảng chỉ dẫn rất đƣợc chú ý. Còn đối với Từ điển Địa danh
Lịch sử Quân sự thì bảng này hầu nhƣ không thể thiếu, có thể in thành một
quyển sách riêng, gọi là index (sách dẫn). Còn thông tin chuyển chú là thông
tin chuyển hệ của các hệ thống con. Nếu nhƣ coi Từ điển Địa danh Lịch sử
Quân sự là một khối kiến thức khổng lồ, nó bao gồm rất nhiều hệ thống, tôn ti
khác nhau, ta gọi là các hệ thống nhánh, tiểu hệ thống, hệ thống con, thì vai
trò của chúng sẽ rất quan trọng trong viên hiệu chỉnh, liên kết, đan cài, dẫn
dắt ngƣời đọc đến với thông tin cần tìm nhanh nhất,
Có nhiều yếu tố chi phối tính hệ thống trong việc xây dựng Từ điển Địa
danh Lịch sử Quân sự. Trong này có yếu tố do đề tài quy định, có yếu tố do
cách tiếp cận, có yếu tố đối tƣợng phục vụ của Từ điển Địa danh Lịch sử
Quân sự hi phối. Chúng ta thử xem xét từng loại yếu tố nói trên.
Mỗi loại sách nhƣ vậy ta có các bảng phân loại mục từ khác nhau. Điều
này là dễ hiểu, dƣờng nhƣ ai cũng biết. Chính đầu đề của Từ điển Địa danh
Lịch sử Quân sự chỉ rõ mục đích biên soạn cho bản thân chúng. Cùng một
mục, ví dụ nhƣ lịch sử hoặc địa lí của một địa phƣơng sẽ có số lƣợng danh
xƣng, các khái niệm, thật ngữ sẽ rất khác với BKT tổng hợp quốc gia, hoặc rất
khác với các địa phƣơng khác. Cho nên, trong các sách về địa phƣơng sẽ ít đi
48
các đơn vị khái niệm, thuật ngữ chung, sẽ không có các địa danh, danh nhân
các địa phƣơng khác, mà tập trung phản ánh các đặc điểm vốn có của địa
phƣơng mình.
Khi tổng hợp phân bảng mục từ, có thể Từ điển Địa danh Lịch sử Quân
sự sẽ dung nạp các khái niệm, thuật ngữ theo cách của mình. Khi đó số lƣợng
các đơn vị liên ngành có điều kiện đƣợc thu thập dễ hơn, nhiều hơn, ít nhất là
so với khi số lƣợng mục từ này đƣợc xem xét để đƣa vào tổng hợp. Do đó mà
bảng mục từ, hay nói nhƣ chúng ta đang xem xét, hệ thống của chúng sẽ có sự
khác nhau.
b) Cách tiếp cận
Cách tiếp cận hệ thống để thiết kế một bảng kết cấu mục từ cũng có thể
có nhiều cách, Năm cách tiếp cận trên cho 5 bảng phân loại mục từ khác
nhau, mà cách tiếp cận nào cũng có lí riêng. Đƣơng nhiên là trong số các mục
từ đó đa phần là giống nhau, nghĩa là chúng chỉ là một đơn vị. Nhƣng xét từ
góc độ cấu trúc hệ thống vĩ mô thì đó là những danh mục mang tính độc lập
cao, nói đơn giản là khác nhau. Vả lại, do cách sắp xếp khác nhau nên chƣa
chắc số lƣợng mục từ, và cả bản thân các đơn vị ấy chƣa hẳn đã đồng nhất.
Cho nên, vấn đề là ta chọn đƣợc một cách tiếp cận có lợi nhất.
c) Quy mô của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự
Quy mô lớn nhỏ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đƣơng nhiên là
chi phối lớn đến bảng phân loại mục từ. Việc mở rộng đến đâu là do quy mô
(hay độ lớn) của sách, và điều này đòi hỏi các tác giả phải có sự cân đối trong
việc mở rộng vùng “biên”.
d) Do ngƣời biên soạn (các soạn giả) quyết định
Trên thực tế, tất cả các công đoạn làm việc, các vấn đề của công việc
biên soạn các sách, chứ không chỉ có Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự, đều
do các tác giả quyết định. Tuy nhiên, ngay cả khi cùng xác định một định
49
hƣớng, nhƣng các tác giả khác nhau cũng có ý kiến khác nhau. Điều này
thƣờng gặp ở các từ điển có cùng tên: hiện nay có rất nhiều quyển từ điển
tiếng Việt, từ điển phƣơng ngữ tiếng Việt, … đều có cùng tên gọi, cùng làm
việc trên một đối tƣợng, nhƣng đó là những quyển sách khác nhau rất nhiều,
cả về bảng từ, lời giải nghĩa cho đến chất lƣợng chung của quyển sách. Vì sao
vậy? Vì họ có cách giải quyết vấn đề khác nhau, cách tiếp cận tƣ liệu mà họ
có… rất khác nhau.
e) Do đối tƣợng phục vụ
Trên thực tế, đối tƣợng nào thì phải có sách phù hợp với đối tƣợng đó,
cho nên đối tƣợng độc giả luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với một
cuốn từ điển.
2.3.3.2.Hệ thống ngang
Hệ thống ngang cũng tồn tại ở mọi cấp độ phân chia chủ đề. Nếu đó là
các ngành thì đó là sự cân đối giữa các ngành với nhau, cả số lƣợng mục từ,
cả về số trang, cả về dung lƣợng mục từ. Đƣơng nhiên tƣơng ứng giữa ngành
và quyển chỉ là tƣơng đối, vì có thể có ngành phải chia làm nhiều phần
Mục từ là bộ phận chính trọng tâm quan trọng trong Từ điển thuật ngữ
Địa danh Lịch sử Quân sự. Việc nghiên cứu lí luận và những kinh nghiệm
biên soạn mới chỉ bắt đầu, vì vậy triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng
bƣớc làm sáng tỏ những quan điểm về cấu trúc vi mô của Từ điển thuật ngữ
Địa danh Lịch sử Quân sự là việc làm cần thiết.
Có thể nói, công việc kiểm tra tính hệ thống của cấu trúc vĩ mô luôn là
nhiệm vụ của các tác giả. Song, kiểm tra hệ thống của bảng phân mục từ bằng
gì? Và kiểm tra nhƣ thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?
Trả lời câu hỏi này quả là không dễ dàng. Về phƣơng pháp, chúng ta phải
dựa vào các đặc tính thƣờng trực của một BKT cần đạt tới để kiểm tra, coi nhƣ
đó là các yêu cầu cơ bản nhất là: 1) tính khoa học, 2) tính hệ thống, 3) tính tƣ
50
tƣởng, 4) tính hiện đại, 5) tính dân tộc, 6) tính dễ tra cứu. Việc dựa vào các yêu
cầu này để xem xét kết cấu bảng từ là cần thiết, nhƣng sẽ là khó đƣa ra đƣợc
nhiệm vụ kiểm tra cụ thể, chẳng khác gì ta lấy khẩu hiệu dăng đầy ngoài đƣờng
phố để kiểm tra hiện tình chính trị xã hội trong đời sống hiện thực. Bởi lẽ, tất cả
các tính chất ấy đã là đích nhắm đến của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự rồi,
và nó đã đƣợc tính đến khi làm hệ thống bảng từ đầu mục.
Theo chúng tôi, có hai từ cần chú ý khi kiểm tra tính hệ thống của bảng
từ đầu mục, mà nếu thỏa mãn sự đánh giá của hai từ này thì bảng từ đầu mục
bắt đầu đạt yêu cầu. Đó là hai chữ phù hợp và cân đối.
- Phù hợp để kiểm tra các hệ thống dọc (ngành khoa học), các hệ thống
con nằm trong hệ thống lớn. Phù hợp chính là sự hợp lí mang tính hệ thống -
cấu trúc. Nó nói đƣợc sự cần thiết có mặt của bản thân nó với tƣ cách một đơn
vị trong một tập hợp nào đó.
- Cân đối để kiểm tra hệ thống ngang (liên ngành). Các ngành có các hệ
thống thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng tƣơng đƣơng nhau về mặt số lƣợng,
không bên nhiều, bên ít, không quá “vênh” nhau về chất lƣợng của bảng từ
đầu mục cả về nội dung lẫn hình thức (sự tinh gọn, chính tả, phiên âm, …).
Nhƣ vậy, yêu cầu trong cấu trúc vĩ mô của Từ điển Địa danh Lịch sử
Quân sự phải có tính hệ thống nghiêm ngặt là một yêu cầu chính đáng, bởi
tầm quan trọng của chính loại ấn phẩm này đối với xã hội. Nghiên cứu vấn đề
này từ khái niệm cơ bản đến việc thử tìm hiểu cơ chế, bản chất của sự thể hiện
và các yếu tố ảnh hƣởng, rồi cách kiểm tra tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô
của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự là mong muốn của tác giả khi viết cuốn
từ điển này.
2.4. Tiểu kết
Qua từ điển địa danh lịch sử quân sự, ta thấy rõ hơn một số vấn đề nhƣ sau:
1. Sách công cụ không phải là một tập thể rời rạc. Nó chính là một
móc xích thống nhất của tiểu chủ đề làm nên hệ thống. Tuy nhiên, tính hệ
thống đó phải căn cứ vào đặc thù, tính chất của công cụ chứ không phải từ
51
điển nào cũng giống nhau (từ điển ngữ văn khác, từ điển so sánh khác…) và khi
thiết lập bảng từ ngƣời biên soạn bắt buộc phải tính đến đặc tính của các tiểu hệ
thống trên cơ sở thiết kế các mục từ theo các chủ đề khác nhau và số lƣợng các
mục từ này cũng phải đƣợc chọn lựa cân đối theo các tiêu chí cụ thể.
2. Việc làm đúng quy trình trong việc thiết lập bảng từ là công việc
đầu tiên. Là cơ sở đóng vai trò quyết định trong việc triển khai biên soạn các
sách. Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự cũng tuân thủ theo nguyên tắc đó,
nhƣng nó cũng dựa vào đặc thù riêng của từ điển này mà đƣa ra một cách
triển khai thích hợp.
3. Mục từ trong Từ điển Địa danh Quân sự không đơn thuần chỉ có
định nghĩa, giải thích mà còn có những thông tin về nguồn gốc xuất xứ hay
lịch sử phát sinh, phát triển khái niệm, thuật ngữ, giải đáp nhiều câu hỏi, giúp
cho việc tra cứu, tìm hiểu tri thức và tạo điều kiện cho việc tự học, tự nghiên
cứu, nâng cao trình độ, nắm đƣợc hoàn chỉnh, có hệ thống khái niệm, các chủ
đề tri thức mà độc giả quan tâm.
52
Chƣơng 3
CẤU TRÚC VI MÔ – THÔNG TIN CHI TIẾT
CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
3.1 Đặt vấn đề
Cấu trúc vi mô của các mục từ trong từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân
sự chỉ toàn bộ nội dung lƣợng thông tin lần lƣợt đƣợc giới thiệu trong mỗi
mục từ đó là thông tin cần thiết đƣợc áp dụng trong mỗi đơn nguyên tri thức
và đây là tri thức mỗi mục từ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự. Vì thế,
cấu trúc vi mô còn đƣợc gọi là kết cấu các mục từ.
Kết cấu các mục từ chủ yếu đƣợc thể hiện bằng các sƣờn dàn ý hay các
mẫu biên soạn cho từng loại mục từ. Thƣờng là đƣợc chính thức hóa trong
phần thể lệ biên soạn bách khoa thƣ. Mục đích của việc xây dựng các mẫu
biên soạn nhằm bảo đảm đƣợc tính chuẩn mực, tính hoàn chỉnh của nội dung,
tránh đƣợc những trùng lặp không đáng có.
Trong từ điển địa danh lịch sử quân sự, mỗi mục từ hoàn chỉnh sẽ có
- Tên đầu mục
- Nội dung mục từ: thứ tự diễn giải (thời gian, các địa điểm diễn ra các
kết cấu nhƣ sau:
- Hình minh họa(nếu có) đây chính là thông tin hỗ trợ, kênh hình là một
sự kiện, các nhân vật liên quan đến sự kiện
- Tên ngƣời biên soạn
- Thƣ mục tham khảo
yêu cầu cần thiết làm rõ văn bản.
3.2 Thông tin chi tiết
3.2.1. Mục từ
Mục từ là bộ phận trọng tâm chính của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân
sự. Việc nghiên cứu lí luận và những kinh nghiệm biên soạn, biên tập các
53
sách bách khoa thƣ ở Việt Nam chƣa nhiều, do công việc mới chỉ bắt đầu, vì
vậy triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng bƣớc làm sáng tỏ những quan
điểm về cấu trúc vi mô của mục từ bách khoa thƣ là việc làm cần thiết. Tìm
hiểu qua những bộ bách khoa toàn thƣ trên thế giới và ở Việt Nam để tìm ra
những giải pháp đúng đắn phục vụ công tác chuẩn bị lí luận biên soạn bộ
Bách khoa toàn thƣ Việt Nam.
Là một tri thức độc lập, bao gồm một từ hoặc một cụm từ phản ánh khái
quát về mặt nội dung hoặc có thể đại diện cho một khái niệm hoặc một chủ đề
của mục từ. Trong từ điển địa danh lịch sử quân sự, tên đầu mục từ phải là
yếu tố đại diện và mang tính khái quát cho nội dung của khái niệm howcj một
chủ đề tri thức đƣợc đề cập đến trong mục từ.
Hình thức trình bày tên đầu mục từ là phông chữ hoa, in đậm. Trong
trƣờng hợp có chú thích về cách gọi khác, tên gọi khác, chữ viết tắt…thƣờng
đặt trong ngoặc đơn, sau tên đầu mục từ.
Mục từ là đơn nguyên tra tìm cơ bản của bách khoa thƣ, giới thiệu có hệ
thống và hoàn chỉnh một chủ đề tri thức hoặc một khái niệm, giúp cho độc giả
tìm kiếm, tra cứu nhanh chóng, dễ dàng.
Trong các sách bách khoa thƣ và từ điển bách khoa, mục từ là bộ phận
cấu thành nên bộ sách.
Phân biệt mục từ bách khoa thƣ với mục từ của các loại từ điển khác
Mục từ bách khoa thƣ khác với mục từ của từ điển bách khoa, từ điển
thuật ngữ khoa học, từ điển đối chiếu và từ điển ngôn ngữ ở nội dung mục từ.
Mục từ bách khoa thƣ không đơn thuần chỉ có định nghĩa, giải thích mà
còn có những thông tin về nguồn gốc xuất xứ hay lịch sử phát sinh, phát triển
khái niệm, thuật ngữ, giải đáp đƣợc nhiều câu hỏi, giúp cho việc tra cứu, tìm
kiếm tri thức và tạo điều kiện cho việc tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình
độ, nắm đƣợc hoàn chỉnh, có hệ thống các khái niệm, các chủ đề tri thức mà
độc giả quan tâm.
54
Do mục từ bách khoa thƣ đƣợc trình bày khái quát có hệ thống các tri
thức, khái niệm, tổ chức, sự kiện, học thuyết, trƣờng phái, ngành và phân ngành
học thuật, vv. giúp độc giả có thể hiểu đƣợc một cách toàn diện, cơ bản, có hệ
thống thông qua mục từ chuyển dẫn mang tính khoa học chặt chẽ nhằm mục
đích liên kết tri thức trong từng ngành, cũng nhƣ những ngành khoa học có liên
quan với nhau (liên ngành).
Vì vậy, mục từ bách khoa thƣ đã phản ánh đƣợc ở một mức độ nào đó
những tính chất đặc thù riêng.
* Tính chất mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự
* Tính khoa học: Những tri thức của mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự
đƣợc phản ánh có căn cứ khoa học chuẩn xác, đã đƣợc thừa nhận và có tính ổn
định cao.
* Tính hiện đại: Mục từ Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự phải phản ánh
đƣợc những tri thức hiện đại, những tri thức mới phát sinh.
* Tính dân tộc: Mục từ bách khoa thƣ phản ánh những tri thức văn hóa, khoa
học cơ bản có tính phổ quát nhất trong kho tàng tri thức của dân tộc, theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và phƣơng pháp biện chứng trong việc
đánh giá các sự kiện và tài liệu.
* Tính tra cứu: Những tri thức của mục từ bách khoa thƣ đảm bảo cho độc giả
có thể tra tìm đƣợc nhanh, đọc đƣợc dễ dàng, giúp cho độc giả có thể sử dụng
thời gian ngắn nhất, tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri thức và tƣ
liệu cần thiết.
*Tính súc tích, chuẩn mực: Những tri thức của mục từ bách khoa thƣ đƣợc
trình bày ngắn gọn, tiết kiệm văn bản, dễ tiếp thụ, sử dụng ngôn ngữ trong
sáng, chuẩn mực theo thể lệ biên soạn thống nhất.
Mục từ bách khoa thƣ chủ yếu có cấu trúc gồm những phần sau:
1. Tên đầu mục
55
2. Chú thích
3. Nội dung mục từ
4. Hình minh họa
5.Thƣ mục tham khảo
Ngoài ra, ở một số mục từ quan trọng và những mục từ chính của các
ngành khoa học có ghi tên tác giả ở cuối mục từ.
Tên đầu mục từ là một từ hoặc một cụm từ, phản ánh khái quát đƣợc về
mặt nội dung hoặc có thể đại diện cho khái niệm hoặc chủ đề của mục từ.
Thƣờng từ hoặc cụm từ có tính quy phạm, chuẩn mực, thông dụng đƣợc
quen dùng trong các sách giáo khoa, bài giảng và giáo trình chuyên ngành.
Tên đầu mục từ đƣợc sắp xếp theo trật tự thuận, đảm bảo dễ tra tìm. Khi gắn
với tên riêng hoặc khi cần thiết có thể đảo thứ tự các từ.
Cho nên, lựa chọn tên đầu mục từ đã thể hiện đại diện cho khái niệm
hoặc chủ đề tri thức đƣợc ẩn chứa trong mục từ. Thông qua tên đầu mục từ đã
phần nào giúp độc giả tra tìm một cách dễ dàng những vấn đề mình quan tâm.
Nếu lựa chọn tên đầu mục không chuẩn mực, không quen dùng và không có
tính khoa học làm cho độc giả khó khăn khi tra tìm.
Đặc biệt, đối với những mục từ gốc, mục từ lớn của bách khoa thƣ
thƣờng đặt tiêu đề cho các tầng bậc, cấp độ để phản ánh hệ thống tri thức,
giúp tra cứu thuận tiện, có hiệu quả các mục từ bách khoa thƣ.
Hình thức trình bày tên đầu mục từ có co chữ lớn và đậm hơn co chữ ở
phần nội dung.
Chú thích
Chú thích thƣờng nằm trong ngoặc đơn sau tên đầu mục từ, giải thích
nguồn gốc thuật ngữ, tên nguyên ngữ, tên Latinh, tên gọi tắt, tên hiệu, tên gọi
khác, năm sinh, năm mất, ngày thành lập, nơi thành lập, giai đoạn diễn biến
và phát triển, vv. Ngoài ra, ở phần chú thích có thể ghi thêm tên ngành hoặc
liên ngành có chung một khái niệm thuật ngữ hoặc chủ đề tri thức. Ví dụ:
56
- Những mục từ có gắn liền với tên riêng tiếng nƣớc ngoài nhƣ: địa
danh, sự kiện, nhân vật, định luật,vv. sau tên đầu mục từ có ghi tên nguyên
ngữ trong ngoặc đơn.
- Những mục từ khoáng vật, hóa chất, sinh học, nông nghiệp (cây, con)
có ghi thêm tên Latinh.
- Tên nhân vật trong và ngoài nƣớc có ghi thêm năm sinh, năm mất; tên
gọi khác, tên hiệu.
- Những mục từ tổ chức, sự kiện thƣờng ghi trong ngoặc đơn ngày
thành lập, nơi thành lập, giai đoạn diễn biến, vv.
- Những mục từ có chung một khái niệm, thuật ngữ thì ghi thêm tên
liên ngành nhƣ: toán, lí; kiến trúc, mĩ thuật; sử, quân sự, chính trị; văn,
ngôn ngữ…
3.2.2. Nội dung mục từ
Đây là phần chính, cốt lõi của mục từ bách khoa thƣ đƣợc trình bày
khái quát có hệ thống một khái niệm, một học thuyết, một trƣờng phái, một tổ
chức, một sự kiện, một ngành hoặc phân ngành học thuật, vv. để ngƣời đọc có
thể hiểu đƣợc toàn diện có hệ thống.
Đây là phần chính, cung cấp thông tin trong mỗi mục từ. Nội dung của
- Định nghĩa (giới thiệu chủ đề tri thức hoặc khái niệm đó)
- Nguồn gốc mục từ (xuất xứ hình thành tên đầu mục từ)
- Giới thiệu quá trình lịch sử hình thành của khái niệm hoặc của chủ đề
phần này bao gồm:
- Những nội dung tri thức cơ bản đƣợc đề cập đến hoặc có liên quan
tri thức đó;
- Những nội dung tham khảo
đến chủ đề;
57
Ngoài ra, các mục từ gốc (mục từ lớn) của từ điển thuật ngữ quân sự có
thể phân chia thành từng bậc (mục từ nhỏ) nhằm chi tiết hóa nội dung tri thức
của chủ đề lớn. Mỗi một tầng bậc đều có tên tiêu đề và mỗi một tên tiêu đề có
một nội dung hoàn chỉnh, có kết cấu chặt chẽ, giúp cho việc tra cứu thuận tiện
và hệ thống đƣợc kiến thức bao chứa trong mục từ gốc.
Nội dung mục từ bách khoa thƣ thƣờng có định nghĩa hoặc giải thích
tên đầu mục từ và mở rộng sâu hơn những kiến thức liên quan đến chủ đề đó.
Trong nội dung của mục từ bách khoa thƣ cũng có kết cấu chặt chẽ cho
từng loại hình mục từ, gồm những phần sau:
- Định nghĩa: nêu bản chất của khái niệm, sự vật (ở phần đầu tiên của
nội dung).
- Phát triển định nghĩa.
- Kết luận: khái quát ngắn gọn phạm vi, ý nghĩa, tác dụng và hƣớng
phát triển của chủ đề.
Đối với những mục từ gốc (mục từ dài) thƣờng đƣợc phân chia thành
từng bậc. Mỗi một từng bậc đều có tên tiêu đề và mỗi một tên tiêu đề đều có
một nội dung hoàn chỉnh, có kết cấu chặt chẽ, gồm 3 phần trên, giúp cho việc
tra cứu thuận tiện và hệ thống đƣợc kiến thức bao chứa trong mục từ gốc.
Đặt biệt, với mục từ chuyển dẫn chỉ có tên đầu mục từ và đƣợc chuyển
tới xem nội dung của mục từ khác.
3.2.3.Hình minh họa
Hình ảnh minh họa là một bộ phận quan trọng của mục từ bách khoa thƣ
giúp tiết kiệm đƣợc văn bản và có tác dụng làm sáng tỏ phần nội dung của mục từ.
Vì chính những hình ảnh minh họa đã mang tính tri thức. Thông qua hình minh họa
nhƣ: sơ đồ, biểu đồ, công thức, bản đồ, tranh, ảnh, vv. giúp cho độc giả có thêm
nhận thức về nội dung mục từ mà văn bản không lột tả hết đƣợc. Ngoài ra, hình ảnh
minh họa làm cho nội dung mục từ hấp dẫn, sinh động và khoa học hơn.
58
Do hình minh họa là bộ phận cấu thành quan trọng của một số mục từ, nên
hình minh họa phải mang tính văn hóa, tính khoa học, tính tƣ tƣởng và tính nghệ
thuật. Việc lựa chọn hình minh họa và chú thích hình minh họa phải đảm bảo phối
hợp chặt chẽ, làm cho nội dung mục từ thêm rõ nghĩa. Hình minh họa cho mục từ
bách khoa thƣ chủ yếu ở dạng ảnh đen, trắng, bản đồ (thế giới, châu lục, quốc gia,
tỉnh, thành phố…), bảng, biểu đồ, công thức và phụ bản màu theo chủ đề.
Hình minh họa cần có sự chọn lựa những tiêu bản điển hình, phù hợp tƣơng
thích với nội dung văn bản. Hình minh họa sắp xếp theo trình tự, kích thƣớc
VD:
Nghĩa trang Xã Ba Lòng
BA LÕNG, xã thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nằm ở thung
lũng trung lƣu sông Thạch Hãn, trung tâm chiến khu Ba Lòng, căn cứ kháng
chiến của tỉnh Quảng Trị trong Kháng chiến chống Pháp. Ngày 16.9.1948
quân dân Ba Lòng chiến đấu chống lại cuộc càn quét lớn của quân Pháp, diệt
400 địch, bảo vộ an toàn khu căn cứ.
59
BẾN THUỶ, cảng trên sông Lam, đông nam thành phố Vinh - Nghệ
An 5km, cách Cửa Hội 1 lkm theo đƣờng bộ, 25km theo đƣờng thuỷ. Đƣợc
xây dựng từ thời thuộc Pháp. Ngày 1.5.1930, công nhân Bến Thuỷ cùng nông
dân các xã lân cận biểu tình, mở đầu phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Trong
Kháng chiến chống Mỹ, Bến Thuỷ là đầu mối giao thông quan trọng, thƣờng
xuyên bị không quân và hải quân Mỹ đánh phá ác liệt song vẫn bảo đảm giao
thông thông suốt. Tập thể công nhân bến phà Bến Thuỷ đƣợc tuyên dƣơng
đơn vị Anh hùng lực lƣợng vũ trang nhân dân.
3.2.4.Thư mục tham khảo
Là phần đƣợc ghi sau nội dung mục từ, liệt kê các tên sách, tƣ liệu, báo
chí, vv. đƣợc sử dụng để biên soạn mục từ. Thƣ mục tham khảo có tên và địa
chỉ rõ ràng nên độc giả có thể tham khảo thêm để hiểu sâu rộng hơn những
khái niệm, chủ đề liên quan đến mục từ.
Thƣ mục tham khảo đƣợc viết và sắp xếp theo quy định thống nhất. Bao
gồm: tên tác giả, dịch giả, tên sách, nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản.
Hình minh họa đƣợc gọi là kênh hình, một bộ phận quan trọng trong từ điển
thuật ngữ quân sự giúp tiết kiệm đƣợc văn bản và có tác dụng làm sáng tỏ phần nội
dung của mục từ. Vì chính những hình ảnh minh họa đã mang tính tri thức. Thông
qua hình minh họa nhƣ: sơ đồ, biểu đồ, công thức, bản đồ, tranh ảnh…giúp cho độc
60
giả có thêm nhận thức về nội dung của mục từ mà văn bản không lột tả hết đƣợc.
Ngoài ra, hình ảnh minh họa làm cho nội dung mục từ hấp dẫn, sinh động và khoa
học hơn.
Trong từ điển thuật ngữ quân sự, những mục từ có thể có hình ảnh minh
họa gồm những mục từ về trận đánh, danh lam thắng cảnh, sơ đồ, bản đồ,
Tuy nhiên, không phải tất cả các mục từ bách khoa thƣ đều có thƣ mục
tham khảo, nhƣ bách khoa toàn thƣ Americana, Britannica, Grand Larousse…
chỉ có thƣ mục tham khảo ở những loại hình mục từ sau:
- Mục từ về ngành, phân ngành học thuật, lí luận cơ bản và các học thuyết.
- Mục từ về học phái, trƣờng phái có ảnh hƣởng, có uy tín.
- Mục từ về những phát minh quan trọng.
- Mục từ về nhân vật có cống hiến quan trọng và có ảnh hƣởng.
Hình thức trình bày của thƣ mục tham khảo có fon chữ khác với fon
chữ của phần nội dung.
Chủ yếu mục từ phân loại theo nội dung khoa học đƣợc xem là chuẩn xác nhất
1. Mục từ tổng quát: là mục từ có bài viết mang tính khái quát, tổng hợp
về ngành học thuật hoặc bộ môn khoa học.
2. Mục từ chỉ dẫn khoa học: là những mục từ có bài viết về thuật ngữ,
khái niệm, học thuyết, lí luận cơ bản, sự việc, hiện tƣợng, vv. của ngành hoặc
phân ngành học thuật.
3. Mục từ giải thích: là những mục từ có bài viết về tên nhân vật, tên
đất, tên dân tộc, tổ chức, sự kiện, tác phẩm, vv.
4. Mục từ chuyển dẫn: là những mục từ xem , xem thêm hay tham khảo
thêm nội dung của mục từ khác. Nhằm liên kết các tri thức nằm rải rác khắp
nơi trong bộ sách.
Có thể phân loại chi tiết hơn mỗi một loại hình mục từ trên thành những
loại hình mục từ cụ thể.
61
Ví dụ: ở loại hình mục từ giải thích
Mục từ tổ chức đƣợc phân nhỏ hơn thành loại mục từ:
+ Tổ chức chính trị - xã hội (đảng phái chính trị, tổ chức chính trị, đoàn
thể, hiệp hội; các tổ chức quốc tế).
+ Tổ chức kinh tế (tổng công ti, nhà máy, ngân hàng, hãng sản xuất…
trong nƣớc và nƣớc ngoài).
+ Tổ chức văn hóa – giáo dục (trƣờng, viện nghiên cứu, nhà xuất bản,
thƣ viện, viện bảo tàng, hãng thông tấn phát thanh, truyền hình, nhà hát, đoàn
nghệ thuật… trong nƣớc và nƣớc ngoài).
Kết cấu các loại hình mục từ
Nghiên cứu những bộ bách khoa toàn thƣ trên thế giới, có thể rút ra kết
cấu nội dung các loại hình mục từ bách khoa thƣ để tham khảo. Đồng thời giúp
cho quá trình biên soạn, biên tập theo một chuẩn mực nhất quán, không thể viết
tùy tiện (ngẫu hứng). Xây dựng kết cấu các loại hình mục từ giúp cho tác giả có
một khuôn mẫu thống nhất, tránh viết thừa, viết thiếu và viết tràn lan.
Mỗi một loại hình mục từ có kết cấu chặt chẽ dựa theo những tiêu chí
đƣợc quy định cụ thể.
Kết cấu loại hình mục từ tổng quát
Trƣớc phần mục từ của một ngành học thuật hay một bộ môn khoa học
trong bách khoa thƣ đều có bài viết có tính khát quát, tổng luận về ngành học
thuật hay bộ môn khoa học,
Bài viết khái quát ngoài việc nêu lên những tri thức cơ bản, những khái niệm
cơ bản, đối tƣợng, nội dung, lịch sử phát triển, hiện trạng, còn phải chú trọng giới
thiệu tác dụng quan trọng của ngành học thuật hoặc bộ môn khoa học đó đối với
nền khoa học, văn hóa và đời sống của nhân loại; ảnh hƣởng tƣơng hỗ đối với
ngành khoa học liên quan; quy luật phát triển và triển vọng tiền đồ của ngành.
- Kết cấu bài viết mục từ có tính tổng hợp của ngành hoặc phân ngành
học thuật gồm những phần sau:
62
- Định nghĩa và khái niệm cơ bản: vị trí của ngành hoặc phân ngành học
thuật trong hệ thống khoa học chung, lĩnh vực và đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu.
- Khởi nguồn, sự phát triển và hiện trạng của ngành hoặc phân ngành học thuật.
- Nội dung chủ yếu của ngành hoặc phân ngành học thuật.
- Quan hệ tƣơng hỗ với các ngành hoặc phân ngành học thuật lân cận.
- Mối quan hệ của ngành hoặc phân ngành học thuật với xã hội, chính
trị, kinh tế.
- Những vấn đề chủ yếu còn tồn tại trƣớc mắt và triển vọng.
- Hình minh họa.
- Thƣ mục tham khảo.
Kết cấu loại hình mục từ chỉ dẫn khoa học
Những mục từ về thuật ngữ, khái niệm, học thuyết, lí luận cơ bản, sự việc,
hiện tƣợng, học phái, trƣờng phái… của ngành hoặc phân ngành học thuật.
Kết cấu mục từ thuật ngữ, học thuyết và lí luận cơ bản
- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.
- Ngƣời sáng lập hoặc đặt nền móng.
- Quá trình hình thành và phát triển.
- Nội dung cơ bản.
- Tác dụng, ý nghĩa và ảnh hƣởng.
- Những vấn đề còn tồn tại.
- Xu thế phát triển.
- Hình minh họa (nếu cần).
Kết cấu mục từ sự việc, hiện tượng, khái niệm cơ bản
- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.
- Phạm vi thời gian, không gian tồn tại sự việc, hiện tƣợng.
- Phân loại và miêu tả sự việc, hiện tƣợng.
- Sự phát sinh và phát triển của sự việc, hiện tƣợng.
63
- Mối quan hệ với các sự việc, hiện tƣợng khác.
- Lịch sử nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu.
- Lí luận giải thích sự việc, hiện tƣợng, giới thiệu học thuyết của các
nhà khoa học, những vấn đề đƣa ra tranh luận, triển vọng.
- Hình minh họa.
- Thƣ mục tham khảo.
Kết cấu mục từ học phái, trường phái
- Định nghĩa và khái niệm cơ bản.
- Lai lịch xuất xứ hình thành đầu mục từ
- Thời gian, địa điểm phát sinh, ngƣời sáng lập, bối cảnh lịch sử, quá
trình hình thành và diễn biến, quan hệ với các học phái, trƣờng phái khác.
- Nhân vật đại diện.
- Quan điểm, lí luận chủ yếu.
- Tác dụng và ảnh hƣởng (đối với học phái đang tồn tại cần giới thiệu
xu thế phát triển).
- Hình minh họa.
- Thƣ mục tham khảo.
Kết cấu mục từ định luật, nguyên lí
- Nội dung định luật, nguyên lí.
- Ngƣời đề xƣớng, phát minh (năm phát minh), quá trình hình thành và
phƣơng pháp nghiên cứu.
- Tác dụng, ý nghĩa khoa học và ứng dụng.
- Thƣ mục tham khảo (nếu cần).
Kết cấu loại hình mục từ giải thích
Những mục từ về tên ngƣời, tên đất, tên dân tộc, tổ chức, sự kiện, tác phẩm.
Kết cấu mục từ tên đất (tên địa lí)
Những mục từ về quốc gia, vùng lãnh thổ; tỉnh, thành phố; quận, huyện
64
và những mục từ về địa lí tự nhiên (đồng bằng, cao nguyên, dãy núi, đảo,
vịnh, sông, hồ)… có kết cấu riêng cho từng loại hình. Trong bài viết này chỉ
xét đến cấu trúc của loại hình mục từ quốc gia và mục từ địa lí tự nhiên.
Kết cấu mục từ quốc gia và vùng lãnh thổ
Mục từ quốc gia trong bách khoa thƣ giới thiệu một cách tổng hợp và
có hệ thống tình hình mọi mặt của mỗi quốc gia trên thế giới, từ cội nguồn
lịch sử đất nƣớc và tài nguyên thiên nhiên, dân cƣ, dân tộc, lịch sử, tôn giáo,
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội cho đến cả danh lam thắng cảnh, phong tục
tập quán, vv. Do vậy, cấu trúc mục từ quốc gia gồm những phần sau:
Kết cấu loại hình mục từ chuyển dẫn
Mục từ chuyển dẫn tới xem nội dung của mục từ khác đƣợc dùng trong
các trƣờng hợp: từ có khái niệm đồng nghĩa (còn gọi hay tên gọi khác), dạng
viết tắt, bút danh, tên hiệu, tên thật, vv. Có cấu trúc nhƣ sau:
TÊN ĐẦU MỤC TỪ xem Mục từ khác có nội dung.
Mục từ chuyển dẫn đƣợc sử dụng trong các trƣờng hợp sau:
+ Từ có khái niệm đồng nghĩa (còn gọi hay tên gọi khác), ví dụ:
KHỞI NGHĨA BÃI SẬY x. Bãi Sậy.
Nhƣ vậy, nghiên cứu phân loại các loại hình mục từ dựa vào nội dung
tri thức với kết cấu khoa học chặt chẽ của từng loại hình mục từ không những
đảm bảo cho quá trình biên soạn, biên tập đƣợc thống nhất mà còn giúp cho
việc quản lí tƣ liệu, bổ sung, cập nhật đƣợc nhanh chóng, dễ dàng.
Thực hiện biên soạn, biên tập theo đúng kết cấu chung cho từng loại
hình mục từ sẽ giải quyết bài toán tính hệ thống và tính liên kết thống nhất
trong mỗi một mục từ. Kết quả nghiên cứu phục vụ cho công tác biên soạn
các bộ Bách khoa thƣ sẽ đƣợc triển khai ở Việt Nam.
3.2.5. Tên người biên soạn
Theo quy định của thể lệ biên soạn thuật ngữ địa danh quân sự
65
3.2.6.Tài liệu tham khảo
Cuối mỗi mục từ là danh mục các tài liệu tham khảo Các tài liệu này
đƣợc mô tả nhƣ mục chuẩn xác, đầy đủ để ngƣời đọc có thể dựa vào đó để
đọc tài liệu tham khảo, bổ sung kiến thức.
Tiểu kết
Nhƣ vậy trình tự xuất hiện thứ tự trong mục từ chính là yếu tố quan trọng cho
ngƣời đọc tìm hiểu mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự khác với các
loại từ điển khác (khác với từ điển ngữ văn, từ điển giải thích, từ điển đối chiếu…).
Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự là loại từ điển tri thức vì vậy phải đƣa ra các
trình tự để làm nên một mục từ địa danh quân sự. Các trình tự đó phải sắp xếp theo
một thứ tự thống nhất, phải bảo đảm tính khoa học giúp cho ngƣời đọc tiện theo dõi
tìm hiểu.
Trong các mục từ của Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự sẽ có những
mục từ hoàn chỉnh (đầy đủ thông tin) nhƣng không nhất thiết mục từ nào cũng
đòi hỏi giới thiệu mọi thông tin mà tùy từng trƣờng hợp do yêu cầu mà ngƣời
biên soạn bỏ bớt một số thông tin.
Hình minh họa là một phần thông tin hỗ trợ cho văn bản mỗi mục từ.
Hình minh họa phải là những thông tin cần yếu phù hợp và điển hình
Các thông tin phụ trợ khác nhƣ: tên tác giả, thƣ mục tham khảo thực ra không
cần thiết lắm đối với Từ điển bách khoa. Tuy nhiên, vấn đề làm đƣợc điều này thì sẽ
làm tăng độ tin cậy và tăng tính thuyết phục của mục từ trong cuốn từ điển.
Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự vẫn còn bộc lộ một số khiếm khuyết
trong việc giới thiệu. Một số mục từ cần rút kinh nghiệm cho lần tái bản sau.
66
Chƣơng 4
TÍNH LIÊN THÔNG CỦA TỪ ĐIỂN ĐỊA DANH LỊCH SỬ QUÂN SỰ
4.1. Đặt vấn đề
Cuốn Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự thuộc hệ thống các
từ điển quân sự chuyên đề, do Ban biên tập từ điển bách khoa quân sự Việt
Nam sau một thời gian dài thu thập và tìm hiểu các tác giả đã biên soạn đƣợc
cơ bản các địa danh lịch sử quân sự Việt Nam. Đây là một công trình quy mô,
khoa học và hết sức ý nghĩa, đòi hỏi sự đam mê nghiên cứu và tập hợp một
cách hệ thống để độc giả có thể tìm hiểu và hình dung ra quá trình đấu tranh
và bảo vệ tổ quốc của ông cha ta góp một phần không nhỏ vào lịch sử hào
hùng của dân tộc.
Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là một loại sách tập hợp
các tri thức cơ bản, hệ thống của địa danh quân sự Việt Nam giúp cho việc tra
cứu, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu của đa số độc giả. Tri
thức về địa danh quân sự, các trận đánh, căn cứ địa cách mạng ngày càng trở
nên thông hiểu sâu sắc, độc giả có thể dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt và ghi nhớ.
Về tính hệ thống của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự.
Khái niệm “cấu trúc vĩ mô” đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ biến
trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho thấy,
bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung nhƣ một
hệ thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ các quan
niệm nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả. Nhƣ vậy, khái
niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ đầu mục. Từ “hệ
thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn ti, cấp bậc, cũng
thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cach trọn vẹn. Nếu
không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta chỉ đơn thuần sẽ chỉ là các đơn
vị rời rạc. Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, soắn bện vào
67
nhau làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi là hệ thống dọc và hệ
thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti, hệ thống ngang là mối quan hệ
cân đối giữa các chủ đề với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian,
các mối quan hệ, hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế
định lẫn nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, danh xƣng các đơn
nguyên nhỏ nhất.
Tính hệ thống liên quan tới cấu trúc vi mô của Từ điển thuật ngữ Địa
danh Lịch sử Quân sự. Bởi hệ thống bao gồm các tầng bậc hình thành từ các
tiểu hệ thống, dƣới cùng là các mục từ cụ thể. Mục từ là bộ phận trọng tâm
chính của Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự nó giới thiệu một
cách có hệ thống và hoàn chỉnh một chủ đề tri thức cụ thể, giúp cho độc giả
tìm kiếm, tra cứu nhanh chóng, dễ dàng. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ Địa
danh Lịch sử Quân sự, mục từ là bộ phận cấu thành nên cuốn sách. Vì vậy
triển khai nghiên cứu lí luận nhằm từng bƣớc làm sáng tỏ quan điểm về cấu
trúc vi mô của mục Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự là việc
làm cần thiết.
4.2.Cấu trúc vĩ mô và tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô của Từ
điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự
4.2.1.Cấu trúc vĩ mô
Khái niệm cấu trúc vĩ mô đƣợc nêu ra từ lâu và đƣợc dùng khá phổ
biến trong nghiên cứu về từ điển học. Trong cụm từ này có từ “cấu trúc”, cho
thấy, bảng từ, dù đơn giản hay phức tạp, nhiều hay ít, đều đƣợc hình dung
nhƣ một hệ thống có cấu trúc tầng bậc, đƣợc xây dựng công phu, thể hiện rõ
các quan niệm nhƣ một chiến lƣợc biên soạn cụ thể của đội ngũ tác giả.
Nguyễn Trọng Báu coi : “Lựa chọn một bảng mục từ nhƣ thế nào cho bách
khoa thƣ là cơ sở biểu hiện thế giới quan giai cấp của ban biên tập. Đồng thời
qua bảng mục từ có thể hình dung ra khối lƣợng từ điển, kết cấu và các chủ
thể để cho Từ điển thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự đề cập tới.
68
Nhƣ vậy, khái niệm “cấu trúc vĩ mô” có thể hiểu là hệ thống bảng từ đầu
mục. Từ “hệ thống” bản thân nó cũng gợi ra tính cấu trúc, với những tôn ti, cấp bậc,
cũng thể hiện các yếu tố và các mối quan hệ giữa chúng một cách trọn vẹn. Nếu
không có tính hệ thống, bảng từ của chúng ta sẽ chỉ là các đơn vị rời rạc, chẳng
những chúng không có sự gắn kết, thiếu chọn lọc, có nguy cơ không kiểm soát nổi,
tùy tiện, cảm tính dẫn đến tình trạng không cân đối, thậm chí thiếu, thừa.
4.2.2.Tính hệ thống trong cấu trúc vĩ mô
4.2.2.1. Sự thể hiện của các hệ thống
Trên thực tế, có hai loại hệ thống tồn tại song song, soắn bện vào nhau
làm nên bảng phân loại mục từ, chúng tôi tạm gọi là hệ thống dọc và hệ
thống ngang. Hệ thống dọc là cấu trúc tôn ti trong một chủ đề (một ngành
khoa học). Hệ thống ngang là mối quan hệ cân đối giữa các chủ đề (các
ngành khoa học) với nhau. Đấy là ở bậc cao nhất. Ở các bậc trung gian, các
mối quan hệ hệ thống này vẫn tồn tại trong sự tƣơng liên và có sự chế định
lẫn nhau. Bậc cuối cùng là các thuật ngữ, khái niệm, xƣng danh nhƣ các đơn
nguyên nhỏ nhất.
1. Tính liên thông của từ điển bách khoa
Từ điển Bách khoa là một công trình khoa học của một tập thể vì vậy
việc suy nghĩ, xác định chủ đề, đối tƣợng nội dung, kết cấu, thể lệ biên soạn,
văn phong trong đề tài…do ban biên tập họp bàn và thống nhất và chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Từ điển bách khoa ngoài chức năng sách công
cụ về giáo dục, đào tạo, còn là loại sách công cụ hoàn bị nhất, bao gồm nhiều
chức năng công cụ khác nhau, nghĩa là phải đáp ứng một đối tƣợng độc giả
rộng rãi và một nhu cầu tra cứu tìm đọc đa dạng hơn nhiều so với sách khác.
Từ điển Bách khoa phaair đảm bảo các tính chất đó là tính toàn
diện, chính xác . Nó là một loại sách công cụ hoàn bị nhất, phải thiết kế
cấu trúc thế nào để đảm bảo cho ngƣời sử dụng tra cứu, tìm kiếm, học tập
69
thuận tiện nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Điều này phải dựa vào hình
thức biên soạn, sắp xếp mục từ và hệ thống các bộ phận hỗ trợ bổ sung
nhƣ mục lục phân loại mục từ, kênh hình, bản đồ, hệ thống chuyển chú,
thƣ mục tham khảo, niên biểu các sự kiện lớn, đặc biệt là bảng phân tích
chỉ dẫn nội dung…Tất cả những phần phụ thuộc này phải gắn kết chặt chẽ
với chính văn tức nội dung của các mục từ, là phần cốt lõi của từ điển
bách khoa.
2. Tính liên thông của từ điển địa danh lịch sử quân sự
Từ điển địa danh lịch sử quân sự là sách tra cứu, thông tin địa danh
quân sự phục vụ chủ yếu cán bộ trong lực lƣợng vũ trang nhân dân Việt Nam
và các độc giả quan tâm tới địa danh lịch sử liên quan đến các trận đánh trong
quá trình đấu tranh giữ nƣớc của ông cha ta.
Từ điển địa danh lịch sử quân sự có mục đích cung cấp những tri thức
cơ bản, tƣơng đối có hệ thống về lí luận và thực tiễn quân sự Việt Nam, giúp
cho việc giảng dạy và nghiên cứu, huấn luyện quân sự đồng thời làm cơ sở để
thống nhất từ ngữ quân sự tiếng việt.
Từ điển địa danh lich sử quân sự với khối lƣợng khoảng hơn 1000 từ
đƣợc lựa chon theo tiêu chí xác định với nhiều hình ảnh minh họa (bản đồ, sơ
đồ, hình ảnh) đƣợc lí giải theo đúng hệ thống khái niệm, phạm trù liên quan
đến lịch sử quân sự đó chính là tọa độ, trận đánh cứ điểm…. Nội dung các
mục từ đƣợc biên soạn căn cứ vào những tài liệu chính thức của quân đội, nhà
nƣớc Việt Nam. Từ điển địa danh lịch sử quân sự là lọa từ điển bách khoa
chuyên ngành mang đầy đủ đặc điểm của một cuốn từ điển (mang tính vi mô
và vĩ mô). Bị chi phối toàn bộ bởi hai cấu trúc trên,nó mang tính toàn diện
chuẩn xác và tinh gọn.
Tính chính xác trong từ điển địa danh lịch sử quân sự thể hiện là sách
quyền uy, không đƣợc phép đƣa vào những tri thức sai và viết phải tinh gọn
70
thì mới tải đƣợc hết kho tri thức của nhân loại. Để đảm bảo đƣợc tính toàn
diện khó khăn nhất là việc thu thập, chỉnh lí tổ chức kho tƣ liệu để không có
trung lặp, không bỏ sót.
Đây là một công trình tập thể, là sách công cụ hoàn bị nhất do đó
phải thiết kế cấu trúc thế nào để đảm bảo cho ngƣời sử dụng tra cứu, tìm
kiếm, học tập thuận tiện nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất. Điều này phải
dựa vào hình thức biên soạn, sắp xếp mục từ và hệ thống các bộ phận hỗ
trợ bổ sung nhƣ mục lục phân loại mục từ, kênh hình, bản đồ, hệ thống
chuyển chú, thƣ mục tham khảo
4.3. Vấn đề tính hệ thống trong từ điển
Đây là quan niệm đã có giá trị trong suốt một thời gian dài, dƣới ảnh
hƣởng quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống của F.D. Saussure và tinh thần
cấu trúc luận ngôn ngữ của Bloomphin, F. Boas, Sapir…. Khi đó bảng từ
trong từ điển luôn đƣợc coi là một hệ thống của các đơn vị từ vựng của một
ngôn ngữ, trong đó có rất nhiều hệ thống nhỏ. Mỗi hệ thống nhỏ lại gồm
những hệ thống nhỏ hơn. Tất cả các hệ thống này có quan hệ chặt chẽ với
nhau trong một cấu trúc phức tạp đa chiều. Việc lựa chọn từ trong từng hệ
thống luôn đƣợc xem xét trong những mối quan hệ nhiều chiều để tránh bỏ
sót những đơn vị có cùng chủng loại, cùng cấp độ. Việc giải thích chúng cũng
đƣợc xem xét tƣơng tự nhƣ vậy, để đảm bảo các đơn vị giống nhau về những
mặt nào đó cũng phải đƣợc xử lí theo cùng một mô hình định nghĩa. Nhƣ vậy,
công việc biên soạn từ điển không đơn giản chỉ là cung cấp lời giải nghĩa về
một từ nào đó mà còn phải cho thấy đƣợc bản chất từ đó khi xét trong quan hệ
với những từ khác thuộc cùng trƣờng nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu này những
phƣơng pháp, thủ pháp mà nhà biên soạn áp dụng có thể có nhiều. Phƣơng
pháp phân tích ngữ nghĩa và đối chiếu giữa các từ trong cùng trƣờng nghĩa
thƣờng đƣợc áp dụng và rất có hiệu quả. Thủ pháp khá quan trọng đã đem lại
71
thành công cho một vài cuốn từ điển có thƣơng hiệu trên thị trƣờng là xây
dựng các mẫu định nghĩa và các ngữ đoạn siêu ngôn ngữ. Chẳng hạn, mẫu
định nghĩa cho danh từ khác cho tính từ, động từ, trợ từ… Trong nội bộ nhóm
danh từ lại chia nhỏ ra nhiều nhóm khác nhƣ nhóm chỉ thực vật, động vật, đồ
dùng gia đình, công cụ sản xuất, công trình kiến trúc,v.v. Cách định nghĩa
mỗi nhóm có sự giống nhau và sự khu biệt nhất định, nhằm làm nổi rõ toàn bộ
giá trị ngữ nghĩa, ngữ pháp của từ ngữ. Các mẫu định nghĩa thực chất là sự
khái quát hóa cao nhất cấu trúc ngữ nghĩa của các trƣờng nghĩa. Do vậy, việc
xây dựng các mẫu định nghĩa vừa đảm bảo sự chính xác cao vừa tạo nên sự
nhất quán trong toàn cuốn từ điển. Đây là điều vô cùng quan trọng và cần
thiết trong công tác biên soạn, nhằm nâng cao chất lƣợng và rút ngắn tiến độ
biên soạn. Việc này cần đƣợc làm một cách cẩn thận, có sự nghiên cứu trên tƣ
liệu điều tra về các lớp từ vựng để có đƣợc các mẫu định nghĩa có tính bao
quát nhất. Điều quan trọng là phải phân lập và xác định đƣợc những thông tin
cơ bản nhất về từ, bao gồm cả thông tin ngôn ngữ và thông tin bách khoa. F.
Kifer nhận định việc đƣa thông tin ngôn ngữ vào từ điển có thể là trong những
trƣờng hợp sau: “1) thông tin chức năng, chẳng hạn nhƣ trong ý nghĩa của các
liên từ; 2) liệt kê các thuộc tính nguyên mẫu (prototipichnye); 3) tầm vực
(diapason) nhƣ nhau của các ý nghĩa trong các từ thuộc về cùng một trƣờng
ngữ nghĩa. Đặc điểm cuối cùng gắn với khả năng đƣa những ý nghĩa phái sinh
ra khỏi ý nghĩa cơ bản bằng quy tắc nhận thức. Do đặc trƣng của các quy tắc
này tất nhiên là hi vọng đƣợc rằng ngay tầm vực của các ý nghĩa phái sinh ở
các từ khác nhau cũng sẽ không khác nhau một cách căn bản”.
4.3.1. Tính chuẩn mực của từ điển
Từ điển luôn luôn đƣợc mọi ngƣời kì vọng nhƣ là một bộ khuôn mẫu về
cách dùng từ. Ngƣời ta thƣờng xem đó là những cẩm nang ngôn ngữ. Cả ngƣời
biên soạn và ngƣời đọc hầu hết đều bị ám ảnh bởi ý nghĩ này. Đó là lí do vì sao
72
mà nhiều khi ngƣời đọc bất bình khi thấy có gì đó không đúng trong từ điển.
Nhƣng điều này là có lí do. Thứ nhất là ngƣời làm từ điển luôn muốn thể hiện
sự tồn tại khách quan của việc dùng từ với ý thức tái tạo kho tàng ngôn ngữ đang
nói tới. Thứ hai là tất cả mọi ngƣời -trong đó có ngƣời đọc từ điển không thể biết
hết đƣợc mọi từ ngữ đang tồn tại, họ cần có từ điển để chỉ dẫn cho mình. Tuy
nhiên, dù ngƣời biên soạn đã rất cố gắng thì vẫn có những điều làm ảnh hƣởng
đến chất lƣợng của từ điển. Đó là vấn đề thời gian mà từ điển ra đời. Mỗi cuốn từ
điển đều hoàn thành sau rất nhiều năm sƣu tầm và biên soạn (từ vài năm đến vài
chục năm). Trong khi đó thì ngôn ngữ luôn luôn vận động và phát triển. Nhiều từ
ngữ mất đi, nhiều từ mới ra đời, nhiều từ biến đổi nghĩa và cách dùng…. Khi cuốn
từ điển hoàn thành thì cũng là khi ngƣời biên soạn lại tìm thấy nhiều chỗ cần đƣợc
sửa chữa, bổ khuyết. Phƣơng pháp và kĩ thuật biên soạn cũng có ảnh hƣởng nhiều
đến giá trị chuẩn mực của từ điển. Nếu từ điển đƣợc xây dựng trên khối lƣợng tƣ
liệu rộng và đủ độ tinh lọc thì chất lƣợng của nó đƣơng nhiên là tốt hơn một cuốn
chỉ làm theo kinh nghiệm và đƣợc làm một cách thủ công. Việc ứng dụng các
nghiên cứu lí thuyết ngôn ngữ học vào biên soạn từ điển góp phần làm tăng tính
chuẩn mực và tính hệ thống của từ điển. Kinh nghiệm cho thấy những cuốn từ
điển đƣợc làm một cách bài bản, có nghiên cứu lí thuyết làm nền tảng cho quá
trình biên soạn thì có tính chuẩn mực cao và đáng tin cậy hơn. Trình độ của ngƣời
làm từ điển có liên quan nhiều đến tính chuẩn mực của nó. Tuy nhiên, dù từ điển
có thể còn có sai sót này khác (mà đó là đƣơng nhiên) nhƣng vì chúng thƣờng
đƣợc làm với thái độ cẩn trọng và sự dày công khảo cứu của những ngƣời biên
soạn nên vẫn luôn có giá trị tra cứu mang tính kiểu mẫu. Đó là những cuốn từ điển
đƣợc biên soạn thực sự chứ không phải là loại từ điển đƣợc hoàn thành bằng cách
xào xáo, cóp nhặt thô thiển.
Tính chuẩn mực cần đƣợc xem là một yêu cầu bắt buộc của từ điển để
đáp ứng đúng nhu cầu của ngƣời đọc. Và đó cũng là yêu cầu mà ngƣời biên
soạn từ điển cần hƣớng tới.
73
4.3.2. Tính tiện dụng của từ điển và ảnh hưởng của nó đến người biên soạn
Quan niệm về tính hệ thống nhƣ trên đã đƣợc nhiều từ điển áp dụng suốt
mấy chục thập kỉ, cho đến nay nó đã đƣợc nhìn nhận một cách mềm dẻo hơn. Đó
là do ảnh hƣởng của quan niệm về tính tiện dụng cho ngƣời sử dụng. Vì suy cho
cùng, giá trị của từ điển là ở chỗ chúng đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời sử dụng.
Một cuốn từ điển phải có cấu trúc vĩ mô và vi mô phù hợp với nhu cầu
và mục đích của ngƣời sử dụng. Chẳng hạn, từ điển dành cho học sinh có thể
chỉ lấy những từ mà học sinh quan tâm và cần đƣợc hiểu rõ. Tính tiện dụng có
liên quan nhiều đến cách thu thập từ ngữ và định nghĩa. Nhiều cuốn từ điển
chọn cách định nghĩa đơn giản, gần gũi với cách nói hàng ngày trong xã hội,
không chú trọng nhiều đến văn phong khoa học. Đặc biệt là những cuốn cỡ
nhỏ, dành cho đại chúng. Nhiều từ đƣợc giải thích luôn bằng từ đồng nghĩa.
Điều đó làm giảm nhẹ tính hàn lâm của từ điển và cũng thu gọn dung lƣợng
trang giấy cần thiết. Tuy nhiên, nếu không cẩn thận sẽ đƣa ngƣời đọc vào sự
tra cứu vòng quanh, mất thời gian, đôi khi không có lối thoát. Xin minh
chứng bằng một vài ví dụ dẫn từ một số từ điển:
Chính vì nhu cầu tiện dụng mà ngƣời ta làm nên rất nhiều loại từ điển
ngữ văn khác nhau. Ai cần loại nào cũng dễ chọn. Kể từ những cuốn từ điển
đầu tiên trong lịch sử đến nay đã có nhiều thay đổi. Song có một sự thú vị là
tiếp theo những cuốn đầu tiên trong nhiều thế kỉ trƣớc mang cả tính bách khoa
lẫn ngữ văn là xu hƣớng tách biệt hai loại hình thông tin này. Cùng với đó là
trào lƣu chuyên biệt hóa mỗi loại hình từ điển (phát triển mạnh trong thế kỉ
20). Đến cuối thế kỉ 20, mặc dù vẫn có sự chuyên biệt hóa về mặt loại hình từ
điển, song đã bắt đầu một xu hƣớng mới: tích hợp các thông tin ngay trong
một cuốn từ điển. Khái niệm đơn ngữ và song ngữ, ngữ văn và bách khoa
đang có xu hƣớng không phải lúc nào cũng tách biệt hoàn toàn nữa.
4.3.3. Quá trình biên soạn
Quá trình biên soạn từ điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự bắt đầu
từ khâu chuẩn bị, điều tra nghiên cứu, đến khâu cuối cùng hoàn tất chế bản
74
đƣa ra in và phát hành, đây là một chuỗi công việc rất phức tạp. Việc tổ chức
thực hiện đƣợc thẩm duyệt một cách có hệ thống chặt chẽ, quá trình biên soạn
- công tác chuẩn bị, điều tra, nghiên cứu
- tổ chức đội ngũ biên soạn, biên tập, mạng lƣới tác giả.
- Thiết kế bảng cấu trúc phân loại mục từ và tuyển chọn mục từ.
- Tổ chức viết mục từ
- Thẩm định bản thảo
- Biên tập kỹ thuật
- Chế bản thành sách
- In, xuất bản, phát hành.
xuất bản có thể phân thành 8 công đoạn cơ bản nhƣ sau:
4.3.4.Cách sử dụng từ điển:
a.Tên gọi mục từ đƣợc sắp xếp theo trình tự chữ cái và dấu thanh nhƣ sau:
Trình tự chữ cái: A (Ă, Â), B, C, D, Đ, E (Ê), F, G, H, I, J, K, L, M, N,
N, O, (Ô, Ơ), P, Q, R, S, T, U, (Ƣ), V, X, Y, Z;
Trình tự dấu thanh: không dấu, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng.
b. Từ điển đƣợc sắp xếp không theo âm tiết mà theo kí tự (chữ cái, dấu số) nên
trình tự sắp xếp mục từ nhƣ sau: kí tự rỗng, số Arap (theo trật tự dãy số tự nhiên), chữ
cái Tiếng việt (đối với chữ cái nguyên âm xét trong quan hệ với từ phiên âm, không
tính đến dấu thanh). Trong trật tự sắp xếp không tính đến dấu nối (-)
Ví dụ: A1/A-1/A-4…A BIA…/A SẦU/…
c. Nếu một khái niệm đƣợc gọi bằng nhiều thuật ngữ, một sự vật, hiện
tƣợng đƣợc gọi bằng nhiều tên riêng, thì nói chung tất cả các thuật ngữ và tên
khác nhau đó đều đƣợc phản ánh trong từ điển ở vị trí vần của mình. Nhƣng
nội dung mục từ chỉ trình bày ở thuật ngữ (tên riêng) đƣợc quy ƣớc là thuật
ngữ (tên riêng) chính, còn các thuật ngữ (tên riêng) khác đều có dạng một
mục từ dẫn xem (mục từ giả) và đều quy về mục từ chính
Ví dụ:
75
BÓ CỦNG nh BỐ CỦNG
BA LŨY nh PHA LŨY
BÀ ĐINH nh BÀ ĐEN
Số lƣợng và kết cấu mục từ:
Cuốn từ điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự với 1186 mục từ, độ
dày 458 trang, khổ 13 X 19cm. Mục từ đƣợc trình bày ở trên là những chủ đề
tri thức độc lập hoặc những khái niệm đã đƣợc xác lập. Mục từ đảm bảo đủ 3
- Tính tri thức: yêu cầu tri thức phải chuẩn xác, vững chãi.
- Tính tƣ liệu: yêu cầu tƣ liệu phải cơ bản, tinh gọn, chuẩn xác.
- Tính tra cứu: yêu cầu đảm bảo độc giả có thể tra tìm đƣợc nhanh
yêu cầu:
nhất, đọc dễ dàng nhất, nghĩa là phải giúp cho độc giả có thể sử dụng thời
gian ngắn nhất, cách tra cứu thuận lợi nhất, tìm đọc đƣợc những tri thức và
tƣ liệu cần thiết.
Về mặt kết cấu, mục từ trong từ điển bách khoa nói chung và tƣ điển thuật
ngữ địa danh quân sự nói riêng thƣờng bao gồm: đầu mục từ, bài viết nội dung mục
từ, tranh ảnh minh họa, bản đồ, biểu đồ kèm theo mục từ, thƣ mục tham khảo.
Về mặt nội dung, bài viết mục từ thƣờng chia làm ba đoạn: định nghĩa
hoặc giải thích định tính, phần nội dung cơ bản, phần tƣ liệu bổ sung. Những
độc giả chỉ muốn biết những khái niệm chung, cơ bản thì đọc phần đầu là đủ.
Những độc giả muốn tìm hiểu sâu, cụ thể thì không những phải đọc hết cả ba
phần mà còn phải tìm đọc thêm trong các sách tham khảo.
Đối với những mục từ dài, trình bày những khái niệm quan trọng,
những chủ đề rộng thƣờng có phân tần lớp, cấp bậc, có ghi tên tiêu đề. Những
tiêu đề này cũng là những đơn nguyên tri thức để tra cứu, tìm kiếm.
Bảng cấu trúc phân loại mục từ là một khâu quan trọng trong quá trình
biên soạn một cuốn từ điển. Trên cơ sở của bảng cấu trúc này, sẽ hình thành
76
bảng mục lục phân loại mục từ và từ bảng mục lục, sẽ xây dựng bảng mục từ
tổng hợp. Để minh họa và làm sáng tỏ sự cần thiết giới thiệu bảng mục lục
phân loại theo trật tự chữ cái A, B, C. Cách sắp xếp này giúp độc giả tìm kiếm
nhanh chóng, dễ dàng những vấn đề cần tra cứu, nhƣng chỉ với cách sắp xếp
mục từ kiểu này sẽ hạn chế việc tự học, tự trang bị một cách có hệ thống, có
phân loại khoa học, có tầng bậc các kiến thức cơ bản cần thiết cho độc giả.
Tiểu Kết
Tính hệ thống trong từ điển nói chung, trong từ điển bách khoa chuyên
ngành nói riêng là một trong những nguyên lí cơ bản chi phối việc tìm kiếm,
xây dựng các phƣơng pháp biên soạn. Với tƣ cách là một công trình tra cứu
Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự có vai trò quan trọng trong việc hệ thống
hóa nghiên cứu lịch sử địa danh quân sự của dân tộc Việt Nam. Do đó, việc
đảm bảo tính hệ thống là một trong những yêu cầu không thể thiếu nó góp
phần nâng cao giá trị chất lƣợng của cuốn Từ điển.
Việc nghiên cứu tính hệ thống (cấu trúc vĩ mô và vi mô của Từ điển
Địa danh Lịch sử Quân sự đòi hỏi phải có kiển thức phong phú và đa dạng,
phải có sự phối hợp chặt chẽ các phƣơng pháp biên soạn liên ngành và các
chuyên gia am hiểu lịch sử, địa danh.
Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đã thu thập tƣơng đối đầy đủ, toàn
diện các địa danh liên quan đến lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc
phản ánh lại toàn bộ quá trình đấu tranh giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam.
77
KẾT LUẬN
1. Luận văn đi sâu tìm hiểu về cấu trúc hai mặt và tính liên thông của từ
điển thuật ngữ địa danh lịch sử quân sự, việc tìm hiểu những vấn đề lý thuyết
về từ điển học nhƣ đặc điểm, chức năng, sự phân loại, cấu trúc và các kiểu
định nghĩa trong từ điển là cần thiết. Đi sâu vào từng vấn đề là sự phân biệt
giữa cấu trúc vi mô, vĩ mô và tính liên thông của cuốn Từ điển Địa danh Lịch
sử Quân sự
2. Phần lớn các mục từ thuật ngữ -khái niệm trong từ điển Thuật ngữ
Địa danh Lịch sử Quân sự đều đƣợc định nghĩa, giải thích một cách cụ thể tỉ
mỉ đòi hỏi tác giả phải có kiến thức rất phong phú và đa dạng, phải có sự phối
hợp chặt chẽ các phƣơng pháp biên soạn liên ngành và các chuyên gia am
hiểu về địa lí cũng nhƣ lịch sử của Việt Nam.
3. Mục từ trong Từ điển Địa danh Lịch sử Quân sự đều mang nội dung
thông tin quan trọng, chính xác nhằm giải thích, phản ánh nội dung tri thức để
làm nổi bật lên tính nội dung của chuyên ngành. Các mục từ trong Từ điển
Địa danh Lịch sử Quân sự là các mục từ về địa danh hành chính, căn cứ quân
sự, căn cứ địa cách mạng, địa danh liên quan tới cuộc khởi nghĩa, tên riêng,
các từ cổ lịch sử hay những từ mang yếu tố nƣớc ngoài. Đó là những đối
tƣợng cụ thể, ổn định ít thay đổi theo thời gian. Các nội dung trong mỗi mục
từ là những thông tin có liên quan trực tiếp đến đối tƣợng đƣợc đề cập.
4. Luận văn đã đề cập tới tính hệ thống của Từ điển Địa danh Lịch sử
Quân sự, một nguyên lí cơ bản, quan trọng chi phối việc tìm kiếm, xây
dựng các phƣơng pháp biên soạn trong từ điển nói chung và Từ điển Địa
danh Lịch sử Quân sự nói riêng
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Phê (1969), “Về việc biên soạn một quyển từ điển tiếng Việt mới”,
ngôn ngữ, (2), tr.3 -18.
2. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”.
3. Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm (1997), “Một số vấn đề từ điển học”,
Một số vấn đề từ điển học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. F.de Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
5. Chu Bích Thu (1997), “Một số nét khái quát về cấu trúc vi mô của từ điển giải
thích”, trong Một số vấn đề từ điển học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Ngọc Trâm (1997), “Một vài nhận xét về cấu trúc vĩ mô của từ
điển giải thích Tiếng Việt”, trong Một số vấn đề từ điển học, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Từ điển Thuật ngữ Địa danh Lịch sử Quân sự (Trung tâm từ điển bách
khoa Quân sự), NXB Quân đội Nhân dân 2006.
8. Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên), NXB Đà
Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng 2009.
9. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn TĐBK VN. Hà Nội 1995.
10. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục Hà Nội.
11. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
12. Hoàng Chứng (1997), Logic học phổ thông, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Đức Dân (1996), Logic và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Vƣơng Tất Đạt (1998), Logic học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, NXB Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
16. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (2006), Lược sử Việt ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
79
17. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật - Nguyễn Minh Thuyết
(1995), Dẩn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. Phạm Văn Hảo (2011'), Tính hệ thống trong cẩu trúc vĩ mô của bách khoa
thư, Tạp chí Từ điến học và Bách khoa thƣ, số 2 (10).
19. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, (đặc điếm và cấu tạo),
NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
20. Vũ Quang Hào (2005), Kiểm kê từ điển học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Hữu Hoành, Một số nhận xét bước đầu về từ điển Việt - Dân tộc,
Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ.
22. Phạm Văn Tình, Hoàng Tuyền Linh, Cách thức chuyển chú trong Từ điển Ngữ
văn và Bách khoa thư, Từ điển học &Bách khoa thƣ, số 4(12), 2011.
23. Phạm Văn Tình, Cấu trúc hai mặt và tính liên thông của Bách khoa thư
Văn học, Trong Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Từ điển và Bách khoa
thƣ Việt Nam 2012 -2015.
80