BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TÔN VÂN TRANG
SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT)
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ
Hà Nội - 2003
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TÔN VÂN TRANG SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 50408 Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ
PGS.,TS. Trần Trí Dõi
Người hướng dẫn khoa học:
Hà Nội - 2003
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa của luận văn
6. Cấu trúc của luận văn
7. Cái mới của luận văn
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN
VĂN
1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu
1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu
1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
1.4. So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ
1.5. Tiểu kết chương 1
CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ
CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm cơ bản về thành ngữ
2.2. Vắn tắt vài nét về tình hình nghiên cứu thành ngữ trong Tiếng Anh
và Tiếng Việt.
2.3. Xác định thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới
hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM ) và tiêu chí phân loại TNBPCTKM
2.4. Phân loại TNBPCTKM
2.5. Tiểu kết chương 2
4
CHƢƠNG 3: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT
3.1. Những nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM
3.2. Những nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM
3.3. Những nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM
3.3.1. Mối liên hệ giữa ý nghĩa và hình ảnh của các TNBPCTKM trong
Tiếng Anh và Tiếng Việt
3.3.2. Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM
3.3.3. Sử dụng các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các
thành ngữ này
3.4. Tiểu kết chương 3
CHƢƠNG 4: MỘT VÀI SUY NGHĨ TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH
NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI
HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
4.1. Ứng dụng trong khi chuyển dịch thành ngữ từ Tiếng Việt sang Tiếng
Anh.
4.2. Ứng dụng trong giảng dạy
4.3. Tiểu kết chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
PHẦN PHỤ LỤC
5
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY VÀ VIẾT TẮT
A. Quy ước trình bày ví dụ bằng hai thứ tiếng:
1. Các thành ngữ dẫn chứng đều được sắp xếp theo trật tự: tiếng Anh – tiếng
Việt. Phần trực dịch từng từ được để trong ngoặc kép sau dấu ngoặc đơn của
các thành ngữ tiếng Anh. Nghĩa của thành ngữ được để dưới dạng in nghiêng
sau dấu gạch nối.
Ví dụ: Get somebody’s nose out of joint (“cho mũi của ai ra khỏi khớp
nối”) – khinh người như mẻ, khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, khinh người
như rác.
2. Các ví dụ được trích dẫn trong luận văn được trình bày theo trật tự như sau:
Tiếng Anh - Tiếng Việt
Các thành ngữ trong ngữ cảnh được gạch dưới
Ví dụ:
At last, Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an
auction. Since many other stamp collection would also be bidding for it, he
realized that he would have to pay through the nose in order to have it.
Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu
giá mà ông tốn bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm muốn
mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng mua
được nó.
B. Quy ước viết tắt.
Trong luận văn, chúng tôi viết tắt một số theo cách dùng lần đầu là đầy
đủ, từ lần dùng thứ hai trở đi là từ viết tắt. Ví dụ: ngôn ngữ (NN), tiếng Anh
(TA). Chúng tôi có viết tắt một số từ như sau:
TNBPCTKM: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn
mặt)
TNBPCTCN: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người
BPCTCN: Bộ phận cơ thể con người
6
NN: Ngôn ngữ
TA: Tiếng Anh
TV: Tiếng Việt
NNN: Ngôn ngữ nguồn
NNĐ: Ngôn ngữ đích
NND: Ngôn ngữ dịch
VBĐ: Văn bản đích
7
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
Sơ đồ 2.1 Các đơn vị chỉ bộ phận cơ thể con người (giới hạn
ở khuôn mặt) tiếng Anh và tiếng Việt
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ TNBPCTKM
Bảng 2.1 Bảng thống kê TNBPCTKM
Sơ đồ 3.1 Sự phân bố TNBPCTKM
Sơ đồ 3.2 Sụ phân bố TNBPCTKM theo từng tiểu nhóm
Bảng 3.1. Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và
tiếng Việt
Bảng 3.2 Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và
tiếng Việt (tiếp theo)
Sơ đồ 3.3 Cấu trúc TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt
Bảng 3.3 Phân loại TNBPCTKM trên mối liên hệ giữa ngữ
nghĩa và hình ảnh trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Bảng 3.4 Thống kê các trường hợp về mối liên hệ giữa hình
ảnh và ý nghĩa thành ngữ.
Bảng 3.5 Bảng thống kê ý nghĩa của các thành ngữ có sử
dụng các bộ phận trên khuôn mặt con người
Bảng 3.6 Bảng thống kê cách dùng TN trong tiếng Anh và
tiếng Việt
Bảng 4.1 Cách chuyển dịch từ TV sang TA
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, nhu cầu kiến thức ngôn ngữ (NN) nói chung và ngoại ngữ nói
riêng trong xã hội hiện đại ngày càng cao do mở rộng giao lưu văn hoá, kinh
tế, xã hội của Việt Nam với nước ngoài, nhất là với các nước nói tiếng Anh
(TA).
Để đáp ứng nhu cầu học, sử dụng và giảng dạy TA chuyên sâu, bên cạnh
việc giảng dạy TA theo các trình độ khác nhau, việc hiểu và sử dụng các
thành ngữ TA cũng rất là quan trọng. Một người có trình độ ngoại ngữ tốt
không chỉ có kiến thức về ngôn ngữ mình học, mà còn phải nắm vững cả NN
của dân tộc mình, kiến thức về đất nước, phong tục tập quán sinh hoạt, kiến
thức về văn hoá xã hội. Thành ngữ (TN), tục ngữ của các thứ tiếng là nguồn
tài liệu vô tận giúp ta tìm hiểu sâu sắc về đất nước, con người của NN mình
nghiên cứu, học tập. Do đó, luận văn này cố gắng tập trung nghiên cứu so
sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các
yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM), nhằm
giúp cho người sử dụng ngoại ngữ hiệu quả hơn.
Hiện nay đã có những nghiên cứu so sánh đối chiếu TN, nhưng những
nghiên cứu về so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh –
Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) thì chưa
có. Có thể nói đây là một luận văn đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này một
cách tương đối có hệ thống trên nền của hai ngôn ngữ Anh và Việt. Việc chọn
đề tài nghiên cứu so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ
Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt)
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn học tập và giảng dạy ở các trường đại học
chuyên ngữ.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
9
Mục đích của luận văn là mô tả sự giống nhau và khác biệt của
TNBPCTKM trong các thứ tiếng Anh và tiếng Việt trên các bình diện ngữ
nghĩa, cấu trúc, phong cách.
Từ đó, luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như sau:
- Khảo sát và đối chiếu TNBPCTKM Anh, Việt trong ngữ cảnh.
- Đưa ra các tiêu chí phân loại, các nhận xét khách quan về phương thức sử
dụng TNBPCTKM trong Tiếng Anh và Tiếng Việt để có thể làm rõ đặc trưng
dân tộc về tư duy của người Anh và người Việt trong phạm vi sử dụng
TNBPCTKM.
- Đưa ra các chỉ dẫn trong sử dụng TN các thứ tiếng.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TNBPCTKM của tiếng Anh và
tiếng Việt và phương thức thể hiện ý nghĩa của các TNBPCTKM của Tiếng
Anh và tiếng Việt. Đây là những TN thông dụng trong cuộc sống hàng ngày
của Anh hoặc Bắc Mỹ, được dùng phổ biến trong các sách học TA viết cho
người nước ngoài, trong từ điển TN tiếng Anh và tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào TNBPCTKM trong các
thứ tiếng Anh và tiếng Việt. Về tư liệu khảo sát luận văn chỉ giới hạn tài liệu
nghiên cứu trong phạm vi những TN được coi là thông dụng (theo COBUILD
CORPUS và theo khảo sát kiến thức TN của người bản ngữ), hoặc những
thành ngữ có thể gây hiểu sai nghĩa đối với người Việt học tiếng Anh. Tất cả
những TN có chú giải “cổ” (trong từ điển), hoặc chưa gặp (trong khảo sát)
đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này, mặc dù có thể được
đề cập khi cần thiết.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp chính được áp dụng trong luận văn này là phương pháp
đối chiếu và phương pháp miêu tả.
Phương pháp so sánh đối chiếu:
10
TN TA là những đơn vị TN của ngôn ngữ nguồn (NNN). Tiếng Việt là
TN của ngôn ngữ đích (NNĐ).
Đối chiếu là phương pháp nghiên cứu dựa trên sự so sánh hai hay nhiều
ngôn ngữ để “phát hiện ra những nét giống nhau về cấu trúc, chức năng và
hoạt động của các phương tiện ngôn ngữ được nghiên cứu” [26;48], đồng thời
cũng chú ý cả cái khác nhau, xác định, nhận diện chúng.
Phương pháp miêu tả
Miêu tả trong ngôn ngữ học là phương pháp nghiên cứu một hay nhiều
ngôn ngữ ở một giai đoạn phát triển nhất định, chủ yếu tập trung vào phân
tích ngữ pháp. “Phương pháp miêu tả nhìn nhận ngôn ngữ như một hệ thống
cấu trúc” [5;68]. Nhiệm vụ nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là đối
chiếu phương thức thể hiện ý nghĩa của hai ngôn ngữ. Để đối chiếu được,
trước hết chúng tôi tiến hành miêu tả một cách đầy đủ và phân tích một cách
chi tiết các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Những miêu tả và
phân tích này dựa trên cơ sở lý thuyết của ngữ pháp hiện đại. Chúng sẽ làm cơ
sở cho chúng tôi so sánh tìm ra những sự giống nhau và khác nhau về nhóm
từ này trong hai ngôn ngữ, sau đó tiến hành khảo sát một số TN cụ thể.
Mục đích cuối cùng của luận văn là tìm ra những đặc điểm tương đồng và
dị biệt của TN Tiếng Anh và tiếng Việt và đưa ra những chỉ dẫn ngôn ngữ
học, đất nước và văn hoá đối với những người sử dụng các thứ tiếng trên.
5. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn sẽ đóng góp một phần cho việc giảng dạy và học tập ngoại
ngữ ở các trường đại học chuyên ngữ.
Mặc dù nghiên cứu so sánh đối chiếu về thành ngữ tiếng Anh và tiếng
Việt gần đây đã được quan tâm, và đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu về TN, song cho đến nay chưa có nghiên cứu so sánh phương thức thể
hiện ý nghĩa của TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt.
11
Thông qua việc xác định nét tương đồng và dị biệt giữa hai
TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt, luận văn này có thể đóng góp một
phần cho việc giảng dạy và học tập ở các trường đại học chuyên ngữ có hiệu
quả hơn, và đóng góp một phần không nhỏ trong việc tìm hiểu văn hoá, đất
nước, con người của hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng Anh thông qua việc
nghiên cứu TNBPCTKM.
Như vậy, luận văn có ý nghĩa thực tế thực sự. Kết quả nghiên cứu cũng
như ngữ liệu của luận văn có thể được áp dụng cho quá trình giảng dạy trong
các trường chuyên ngữ hoặc được sử dụng như tài liệu tham khảo cho công
tác giảng dạy và dịch thuật TN.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 100 trang chính. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận
văn bao gồm 4 chương:
Chƣơng 1 Một số tiền đề lý thuyết phục vụ cho luận văn;
Chƣơng 2 Thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở
khuôn mặt) trong tiếng Anh và tiếng Việt;
Chƣơng 3 So sánh đối chiếu TNBPCTKM của tiếng Anh và tiếng Việt.
Chƣơng 4 Một vài suy nghĩ trong việc sử dụng TNBPCTKM trong tiếng
Anh và tiếng Việt.
7. Cái mới của luận văn
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu mảng TNBPCTKM từ góc độ ngữ
nghĩa và phương thức thể hiện, qua đó tìm cách nhận dạng TN trên cơ sở đặc
điểm văn hoá và tư duy dân tộc của mỗi cộng đồng người bản ngữ.
12
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN
VĂN
1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu
Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu, với tư cách là một
phân ngành của ngôn ngữ học, có những tiền đề lý luận của nó.
Đã từ lâu, con người hướng sự chú ý của mình không chỉ giới hạn ở những
ngôn ngữ riêng lẻ, mà đồng thời một lúc vài ngôn ngữ. Chính điều đó đã dẫn
đến việc xuất hiện nhiều trào lưu, nhiều khuynh hướng nghiên cứu so sánh.
Khá quen thuộc với lịch sử ngôn ngữ học là: ngôn ngữ học so sánh – lịch sử,
ngôn ngữ học khu vực và loại hình học. Song việc phân chia ngôn ngữ học
đối chiếu (contrastive linguistics) thành một phân ngành độc lập thì mãi tới
gần đây mới có và còn không ít những vấn đề tranh luận.
Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu so sánh nói
chung. Nó bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ bất luận ngôn ngữ đó cùng hay
khác loại hình và ngữ hệ. Song phải nói rằng, nghiên cứu đối chiếu hình thành
một cách trực tiếp trong tiến trình tìm tòi của con người để nắm ngoại ngữ
một cách nhanh chóng, tốt hơn. Chính các yêu cầu của việc học và dạy ngoại
ngữ là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành phân ngành khoa học
này. Nhà ngôn ngữ học Pháp Di Pietơrô đã viết trong cuốn “Cấu trúc ngôn
ngữ qua đối chiếu” rằng: “Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời từ kinh nghiệm dạy
tiếng. Mỗi người học và dạy ngoại ngữ dễ dàng nhận ra một điều là trong
nhiều trường hợp tiếng mẹ đẻ đã cản trở không nhỏ việc hiểu và nắm thuần
thục ngoại ngữ. Vì vậy, việc tích luỹ những tri thức và kinh nghiệm sẽ giúp ta
khắc phục một cách có hiệu quả khó khăn này” [12; 41].
L.V. Secha cũng cho rằng nghiên cứu đối chiếu không chỉ giúp cho việc
học và dạy ngoại ngữ tốt hơn mà còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn tiếng mẹ
đẻ, vì “việc nghiên cứu đó giúp chúng ta thâm nhập vào thực chất của các quá
trình ngôn ngữ cũng như hiểu sâu hơn các quy luật điều khiển các quá trình
13
này” [24; 26]. Không còn nghi ngờ gì nữa chúng ta có thể đồng ý với nhận
định rằng: “Mặc dầu nghiên cứu đối chiếu viện dẫn cái lý do chủ yếu ở sự cần
thiết cho giáo học pháp ngoại ngữ với sự phát hiện những khác nhau cơ bản
giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chúng ta không thể không tính
đến tầm quan trọng của việc phân tích đối chiếu như một phương thức đánh
giá các định đề cũng như những đòi hỏi của chính lý luận ngôn ngữ học”
[41,76].
1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu
Lịch sử phát triển của những tri thức khoa học bao giờ cũng là một quá
trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ nghiên cứu đối
chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển biện chứng lịch sử đó. Ở
đây, trước hết cần nói đến mối quan hệ tương ứng trong cách dùng các thuật
ngữ: ngôn ngữ học so sánh, ngôn ngữ học đối chiếu.
Trong nghĩa thường dùng, hai từ so sánh và đối chiếu không khác nhau
nhiều về ý nghĩa. “So sánh” là xem xét để tìm ra những điểm giống, tương tự,
hoặc khác biệt nhau về số lượng, kích thước, phẩm chất, còn “Đối chiếu” là
so sánh hai sự vật có liên quan chặt chẽ với nhau. Đối chiếu nguyên bản với
bản dịch (Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên).
Như đã thấy, không hẳn định nghĩa trên đây là hoàn toàn chính xác,
nhưng chúng đã cho ta ý niệm về nội dung nghĩa các từ đang nói đến. Nếu
đưa nội dung này vào cách hiểu nội dung các kết hợp thuật ngữ “ngôn ngữ
học so sánh”, “ngôn ngữ học đối chiếu” là hoàn toàn không chính xác. Cách
hiểu nội dung thuật ngữ cần chính xác và có tính quy định hơn cách hiểu
thông thường.
Trong ngôn ngữ học, các thuật ngữ tiếng Việt: ngôn ngữ học so sánh tương
ứng với tiếng Anh Comparative linguistics. Đó là thuật ngữ để chỉ một phân
ngành của ngôn ngữ học và cái nội dung từ “so sánh” được hiểu một cách rất
xác định. Việc xem xét kỹ những tài liệu ngôn ngữ học cho thấy một số nhà
14
ngôn ngữ có ý thức phân biệt Ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng với
ngôn ngữ học so sánh – lịch sử.
Trong trường hợp thứ nhất thuật ngữ “so sánh” dường như chủ yếu chỉ
nhấn mạnh cách tư duy, về việc sử dụng so sánh như một phương pháp chung
của tư duy; và vì vậy, người ta cũng có thể nói: so sánh – lịch sử, so sánh loại
hình, so sánh đối chiếu v. v...
Song trường hợp thứ hai, thuật ngữ so sánh được dùng với nội dung
khái niệm ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Đây cũng là cách dùng có tính chất
rút gọn.
Thuật ngữ đối chiếu, đối sánh thường được dùng để chỉ phương pháp
hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ.
Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác nhau
hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi. Nguyên tắc nghiên cứu
chủ yếu là nguyên tắc đồng đại.
Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu người ta dùng phổ biến thuật
ngữ so sánh (comparative) để chỉ ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng và
nghĩa hẹp của từ này. Dần dần về sau thuật ngữ so sánh cũng dùng để chỉ cả
nội dung đối chiếu.
Trong ngôn ngữ học Anh, những thuật ngữ truyền thống được dùng
tương đối lâu dài. Chẳng hạn, trong các công trình của Haliday, Mackinton,
Tơrêvưn và một số tác giả khác, cho mãi đến 1964, vẫn dùng thuật ngữ so
sánh – comparative. Và ngay cả Elic mãi đến 1966 vẫn dùng thuật ngữ
comparative với nghĩa đối chiếu. Cho đến gần đây thuật ngữ “ngôn ngữ học
đối chiếu” – contrastive linguistics mới được dùng với nghĩa của nó một cách
phổ biến tức là chỉ một phân ngành nghiên cứu riêng – nghiên cứu đối chiếu.
Trong phần lớn tài liệu viết bằng các tiếng châu Âu cho thấy có sự
chuyển dần phân biệt so sánh đối chiếu và ngôn ngữ học so sánh lịch sử với
15
ngôn ngữ học đối chiếu. Việc dùng phân biệt đối chiếu và tương phản thì
không thật sự thể hiện rõ ràng.
Trong thực tiễn nghiên cứu, hàng loạt các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ,
việc phân tách ra cái giống nhau và khác nhau trong đối chiếu là rất khó. Nó
được thực hiện một cách đồng thời. Xác định cái khác nhau phải biết cái
giống nhau cùng tồn tại giữa các sự vật. Song bao giờ cái khác nhau cũng dễ
nhận thấy hơn. Vấn đề là ổn định hướng mục đích của các công trình nghiên
cứu. Tìm cái chung hay cái riêng, cái phổ quát hay loại biệt, nhằm mục đích
lý luận hay thực tiễn và cả phạm vi ứng dụng nào? Trả lời các câu hỏi đó là ở
các công trình cụ thể, của các nhà nghiên cứu cụ thể. Nói chung, nghiên cứu
đối chiếu giúp ta xác định cái giống nhau và khác nhau của các ngôn ngữ về
mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng.
1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp đối chiếu hay phương pháp ngôn ngữ học đối chiếu có
một hệ thống nguyên tắc, thủ pháp nghiên cứu riêng. Nó khác với phương
pháp miêu tả và phương pháp so sánh – lịch sử. Nhưng đồng thời, phương
pháp nghiên cứu này có kế thừa và sử dụng nhiều yếu tố, thủ pháp của nghiên
cứu miêu tả và so sánh – lịch sử. Chính điều này tạo ra đặc điểm riêng, lợi thế
và triển vọng của phương pháp nghiên cứu đối chiếu.
Trước hết chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm chủ yếu của phương
pháp đối chiếu.
1. Xác lập cơ sở đối chiếu: Xác lập cơ sở đối chiếu là xác định đối tượng
nghiên cứu cụ thể, định rõ đặc điểm đối tượng và định hướng các hoạt động,
các bước nghiên cứu nhất định.
Cơ sở đối chiếu là những giống nhau và khác nhau hay những tương đồng
và loại biệt của phạm vi đối tượng được khảo sát. Thông thường các ngôn
ngữ, các hiện tượng càng giống nhau thì càng có nhiều điểm chung, dấu hiệu
16
chung. Nếu như hai hay một số ngôn ngữ, hiện tượng càng khác nhau thì
những điểm khác, dấu hiệu khác càng nhiều.
Cơ sở đối chiếu của phương pháp đối chiếu không chỉ khác với phương
pháp so sánh – lịch sử (đều là so sánh ngoài – giữa các ngôn ngữ với nhau)
mà còn phân biệt đối chiếu và đối lập. Trong ý nghĩa phương pháp đối chiếu
là dùng cho đối chiếu các hiện tượng, phạm trù của các ngôn ngữ khác nhau
để tìm giống và khác nhau; trong trường hợp chỉ có khác nhau thì có thể hiểu
là tương phản. Còn đối lập dùng cho sự đối chiếu các hiện tượng trong cùng
một ngôn ngữ. Trong nghĩa riêng, đối lập là khác nhau ở hai cực trong một
phạm vi, như: danh từ và động từ, chủ ngữ và vị ngữ, nguyên âm và phụ âm,
thể hoàn thành và không hoàn thành ...
Đối chiếu phân biệt ngôn ngữ - lời nói trong biểu hiện hiện tượng không
đối lập chúng, vì có hiện tượng chuyển hoá chức năng. Ở đối chiếu người ta
không thừa nhận các cặp ngang nhau mà thừa nhận các cặp đối chiếu có giống
và khác nhau mà thường giống nhau hoàn toàn là rất hiếm thấy.
2. Phạm vi đối chiếu: Trong xác định phạm vi thường được phân giới theo các
nguyên tắc sau:
Phân biệt đối chiếu ngôn ngữ và đối chiếu dấu hiệu. Đối chiếu ngôn ngữ
quy định phạm vi nghiên cứu là các ngôn ngữ khác nhau. Đó là cách đối chiếu
tổng thể, đại quan hoặc bao quát chung. Việc chọn ngôn ngữ đối chiếu cũng
có hai khả năng chính. 1) Lấy một ngôn ngữ làm cơ sở chỉ đạo, ngôn ngữ này
là ngôn ngữ đối tượng cần phân tích, làm sáng tỏ. Ngôn ngữ (hay các ngôn
ngữ) còn lại sẽ là phương tiện, là điều kiện cho phép làm sáng tỏ đặc điểm
của ngôn ngữ đối tượng. Ngôn ngữ đối tượng cần được tập trung làm sáng tỏ
có thể hoặc là chỉ có ý nghĩa cho nó, hoặc là có thể có đại diện cho một số
ngôn ngữ khác. Nó là cá thể riêng biệt và cũng có thể là cái mẫu, là tiêu điểm
chú ý của việc nghiên cứu xét về nhiều mặt. Chẳng hạn trong quá khứ ở
phương tây tiếng Latinh đã làm tiêu điểm, là cơ sở để đối chiếu với tiếng
17
Pháp, tiếng Đức, các tiếng Slavơ. 2) Khả năng thứ hai là cả hai hay các ngôn
ngữ đối chiếu đều được chú ý như nhau. Trường hợp như thế gọi là phân tích
đối chiếu song ngữ.
Trong phân tích đối chiếu song song, phạm vi các vấn đề đối chiếu là ở cả
hai ngôn ngữ. Nó được chú ý đồng đều về tất cả các mặt ở ngôn ngữ đưa vào
nghiên cứu. Khả năng này được vận dụng để tìm cái chung và riêng ở các
ngôn ngữ được nhiều nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các phổ quát và ứng dụng
thực tiễn trong phiên dịch. Thường những phân tích như thế được tiến hành
đối với các ngôn ngữ cùng loại hình, các ngôn ngữ có cùng hoặc gần gũi về
ngữ hệ. Ví dụ: những nghiên cứu đối chiếu song song tiếng Bun-ga-ri và tiếng
Ba-lan, tiếng Nga và tiếng Bun-ga-ri v. v...
Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu là phạm vi tất yếu phải có đối với
mọi sự nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu thường được tiến
hành trên các bình diện chính yếu sau đây:
Đối chiếu phạm trù nhằm vào việc làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm
trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như phạm trù: thời, thế, xác định, không xác
định; phạm trù số, giống, cách, đa nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, đồng nghĩa...
Đối chiếu cấu trúc, hệ thống nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm, cấu tạo, những
đặc điểm giống, khác, đặc trưng của các hệ thống lớn, hệ thống con được
nghiên cứu như hệ thống âm vị, hình vị, hệ thống từ loại, hệ thống câu đơn,
câu phức v.v...
Đối chiếu chức năng và hoạt động nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm hoạt
động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ.
Đối chiếu phong cách nhằm làm sáng tỏ hoạt động của các phong cách chức
năng, những nét chung và riêng của các thể hiện phong cách chức năng ở
ngôn ngữ được đối chiếu.
18
Đối chiếu lịch sử – phát triển có quan hệ với nghiên cứu lịch đại. Phạm vi
đối chiếu này nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và các quá trình biến
đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu
vừa liên quan chặt chẽ với nghiên cứu so sánh – lịch sử, vừa quan hệ với loại
hình học lịch đại.
Một số phương thức đối chiếu chủ yếu. Để thực hiện nghiên cứu đối chiếu
các ngôn ngữ người ta thường sử dụng một số phương thức chủ yếu sau đây:
Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc, đồng nhất/ khu biệt chức năng,
đồng nhất/ khu biệt hoạt động, đồng nhất/ khu biệt phong cách, đồng nhất/
khu biệt phát triển và đồng nhất/ khu biệt xã hội – lịch sử ngôn ngữ.
Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc thừa nhận rằng ngôn ngữ là một
cấu tạo có tính cấu trúc – hệ thống. Khi đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ nhất
thiết phải đối chiếu các yếu tố, các đơn vị, các cấp độ, các mặt cấu tạo nên cái
tổ chức cấu trúc – hệ thống đó. Chẳng hạn đối chiếu ngữ âm - âm vị, mặt hình
thái học v.v... Khi thực hiện phân tích đối chiếu thường bắt đầu đồng thời hai
khâu kế tiếp nhau. Phân tích đối lập (đối chiếu trong) các đơn vị, các hiện
tượng ở cả hai ngôn ngữ theo một quan điểm lý luận thống nhất và sau đó
thực hiện đối chiếu trên cơ sở các kết quả đạt được (đối chiếu đối lập ngoài –
giữa các ngôn ngữ). Cũng có thể tổng hợp các bước phân tích đối chiếu cấu
trúc theo công thức: đối lập (phân tích) - đối chiếu.
Phương thức đối chiếu chức năng thực hiện xác định mặt giống, khác nhau
về chức năng của các hiện tượng; sự kiện ở các ngôn ngữ. Trong tiếng Việt,
Nga, Bun-ga-ri, Đức có trọng âm từ. Nhưng chức năng của trọng âm trong
tiếng Nga, tiếng Bun-ga-ri giống nhau nhiều hơn. Ví dụ trọng âm có chức
năng biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa sắc thái tu từ –
biểu cảm v.v... Cùng một hiện tượng mà khả năng hoàn thành chức năng,
phạm vi hoạt động không giống nhau. Điều đó cũng có thể áp dụng cho dấu
hiệu khu biệt âm vị dài, ngắn trong tiếng Anh và tiếng Việt. Sự đối lập a (dài/
19
ngắn) i (dài/ngắn) trong tiếng Anh có ý nghĩa âm vị học, còn trong tiếng Việt
thì lại không có giá trị ấy.
Phương thức đồng nhất/ khu biệt hoạt động góp phần xác định sự thông
dụng, tính phổ biến hay hạn chế của các hiện tượng, sự kiện ngôn ngữ đều có
trong các ngôn ngữ đối chiếu. Phương thức này chỉ rõ các hiện tượng ngôn
ngữ xét về mặt phương diện nào đó là giống nhau (đều có) trong các ngôn
ngữ, nhưng ở ngôn ngữ này được sử dụng phổ biến, hoạt động mạnh còn ở
ngôn ngữ khác thì ngược lại. Chẳng hạn trong địa hạt từ vựng – ngữ nghĩa,
tiếng Bun-ga-ri, tiếng Việt đều có một số từ vay mượn từ tiếng Ấn - Âu
(Pháp, Latinh...) song số lượng từ mượn tiếng Pháp, Latinh trong tiếng Bun-
ga-ri khá nhiều, còn từ tiếng Nga cổ trong tiếng Bun-ga-ri không thể gọi là
vay mượn vì chúng có vốn từ gốc Slavơ cổ chung.
Phương thức đồng nhất/ khu biệt phong cách nhằm làm sáng tỏ những đặc
điểm thể hiện, vận dụng phong cách chức năng ở mỗi ngôn ngữ. Phương thức
này có thể tiến hành qua nhiều giới hạn: cùng một phong cách thể loại như thi
ca, báo chí, chính luận, tiểu thuyết, khoa học kỹ thuật v.v... hoặc cùng một
phương tiện tu từ biểu cảm như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ v.v... Phức tạp hơn cả
là đối chiếu hai hệ thống phương tiện thông tin văn bản và các thể loại văn
phong thuộc về các thời kỳ xã hội lịch sử văn hoá khác nhau. Trong trường
hợp này, đối chiếu phong cách không giới hạn ở tiêu chuẩn ngôn ngữ tín hiệu
mà cả ngôn ngữ - tâm lý, ngôn ngữ - xã hội, tâm lý học – xã hội. Phạm vi đối
chiếu của phương thức này có quan hệ với phương thức đồng nhất xã hội –
lịch sử.
Phương thức đồng nhất/ khu biệt phát triển dùng để xác định đặc điểm và
chiều hướng phát triển của các ngôn ngữ. Phương thức này giả định rằng: mỗi
ngôn ngữ, xét về bình diện động, luôn luôn có thay đổi, phát triển. Sự phát
triển ngôn ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc nội bộ, phạm vi hoạt động,
20
chức năng của nó trong quan hệ với những điều kiện, hoàn cảnh xã hội ở diện
tiến trình.
Phương thức đồng nhất/ khu biệt xã hội, lịch sử quy định, xem xét các
hiện tượng ngôn ngữ, không chỉ trong quan hệ với xã hội – lịch sử mà chủ
yếu là bình diện xã hội lịch sử trong vận dụng, sử dụng một hiện tượng này
khác của hệ thống ngôn ngữ. Cùng những từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng và
các hiện tượng, tượng trưng không giống nhau đối với các xã hội – ngôn ngữ,
dân tộc – ngôn ngữ khác nhau. Phương thức đồng nhất xã hội lịch sử trong
vận dụng ngôn ngữ sẽ cho chúng ta biết cái chung, cái riêng. Chính nhờ xác
định được những đặc trưng đó mà cho phép chúng ta không chỉ xác định được
loại hình phong cách chức năng mà cả loại hình giao tiếp – văn hoá ngôn
ngữ, giúp chúng ta hiểu ngôn ngữ qua lăng kính văn hoá và ngược lại văn hoá
qua hiện thực ngôn ngữ.
1.4.So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ
Ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ rất biện chứng. Từ lâu các nhà ngôn
ngữ học và văn hoá học đã nhìn thấy và nghiên cứu mối quan hệ này. Mối
quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ được thể hiện trong tất cả các cấp độ của
ngôn ngữ. Đặc biệt, thành ngữ là một trong những lĩnh vực thể hiện rất rõ mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.
Để góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ
trong thành ngữ, chúng tôi sẽ phân tích hình ảnh mắt và mặt trong thành ngữ
Việt – Anh để làm ví dụ.
Khảo sát thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy đa số thành ngữ mắt và
mặt trong tiếng Việt tập trung miêu tả vẻ bề ngoài của con người (cổ cong
mặt lệnh, đầu trâu mặt ngựa, mặt ủ mày chau, mặt sứa gan lim, con mắt là
mặt đồng cân, da ngà mắt phượng, mắt cú da lươn, mắt sắc như dao cau...).
Không chỉ sử dụng mắt và mặt để miêu tả vẻ bề ngoài, người Việt còn dùng
mắt và mặt để miêu tả tâm sinh lý của con người (đỏ như mắt cá chày, ham
21
lợi trước mắt quên hoạ sau lưng, chướng tai gai mắt, tay bắt mặt mừng, tắm
khi nào vuốt mặt khi ấy, ngoảnh mặt làm ngơ...).
Mắt trong tiếng Việt, ngoài chức năng miêu tả chức năng thị giác, mắt còn
được sử dụng miêu tả đánh giá con người, thái độ của con người (ví dụ: coi
đời bằng nửa con mắt, khuất mắt cho qua, sáng con mắt chặt đầu gối, nhắm
mắt bước qua...).
Tương tự như thành ngữ tiếng Việt, mắt (eye) trong tiếng Anh cũng được
sử dụng khá nhiều trong số lượng TNBPCTKM. Song, khác với thành ngữ
tiếng Việt, các TN TA có từ chỉ mắt chỉ tập trung miêu tả các hoạt động liên
quan tới chức năng thị giác của đôi mắt (ví dụ: cast an eye over something -
đặt mắt vào cái gì - nhìn lướt qua, keep one’s eye peeled for something – xem
xét một cách cẩn thận, tinh mắt, catch somebody’s eye – bắt mắt...). TN TA
cũng có miêu tả thái độ của con người, nhưng số lượng không đáng kể (ví dụ:
do something in the eye – xúc phạm hoặc làm nhục ai, find favour in
somebody’s eye – giành được thiện cảm của ai....). TN TA khác với TN TV là
hầu như không miêu tả tâm sinh lý con người.
Mặt (face) trong các TN TA thường dùng để miêu tả quan điểm, thái độ
(ví dụ: laugh in somebody’s face – cười vào mặt ai, coi thường người khác,
cut off one’s nose to spite one’s face – cắt mũi để trả đũa mặt – làm một hành
động dại dột, uống dấm để đỡ khát, set face against somebody – nhất quyết
chống lại ai...). Thành ngữ có từ chỉ mặt trong tiếng Anh hầu như không miêu
tả vẻ bề ngoài cũng như đánh giá con người như ở các thành ngữ tiếng Việt.
Chúng tôi đồng ý kiến với Bùi Khắc Việt về sự khác nhau giữa tính biểu
trưng và tính hình ảnh. Bùi Khắc Việt cho rằng: “Khái niệm biểu trưng rộng
hơn khái niệm tính hình ảnh. Do sự vật hoặc tính hình ảnh có một số phẩm
chất nào đó chung với điều nó biểu trưng gợi cho ta một ý niệm về nội dung
biểu hiện. Mối quan hệ giữa sự vật hoặc hình ảnh với ý nghĩa biểu trưng
trong nhiều trường hợp có tính chất ước lệ” [27]. Xét trong thành ngữ tiếng
22
Việt thì thành tố chỉ mắt và mặt biểu trưng cho con người. Do đó, thành ngữ
tiếng Việt đều bị chi phối bởi sắc thái nghĩa là con người, nên tập trung vào
miêu tả vẻ bề ngoài của con người, hoặc đánh giá tính cách của con người.
Trong tiếng Anh, do người Anh nhìn hình ảnh mắt và mặt có khác nên tính
biểu trưng trong thành ngữ cũng khác. Trước tiên, mắt bao giờ cũng được
người Anh coi là “cửa sổ tâm hồn”, nên các thành ngữ cũng bị chi phối bởi
sắc thái nghĩa như vậy, các thành ngữ có từ chỉ mắt tập trung miêu tả các hoạt
động liên quan tới chức năng thị giác của đôi mắt. Mặt được người Anh coi
đơn thuần chỉ là một bộ phận cơ thể con người, vì vậy nghĩa biểu trưng của
mặt trong tiếng Anh cũng khác với mặt trong các thành ngữ tiếng Việt, nó
không còn mang nghĩa biểu trưng là con người để mô tả vẻ bề ngoài, đánh giá
tính cách của con người nữa, mà mặt được sử dụng theo đúng ý nghĩa chức
năng của khuôn mặt.
Qua so sánh thành tố mắt và mặt trong tiếng Việt và tiếng Anh, chúng ta
thấy sự khác biệt văn hoá rất lớn giữa hai nền văn hoá này, trong khi sự tương
đồng là rất nhỏ. Điều này lý giải sự khác nhau trong ngữ nghĩa và cũng như
trong cách sử dụng các thành ngữ có chung hình ảnh là mắt và mặt. Để khắc
phục “rào cản” này, trong giảng dạy ngoại ngữ, nhất thiết phải coi yếu tố văn
hoá là một yếu tố quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức cho người học.
1.5. Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn nêu một vài nét khái quát về phương pháp so
sánh đối chiếu. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu
so sánh chung. Song ngôn ngữ học đối chiếu hình thành rất lâu sau hai ngành
ngôn ngữ học so sánh là ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, ngôn ngữ học khu
vực (ngữ vực) và loại hình học. Là một ngành mới ra đời nên ngôn ngữ học
đối chiếu vẫn đang là một ngành nghiên cứu gây nhiều tranh cãi.
Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày khái niệm về thuật ngữ so
sánh đối chiếu. Cho tới nay vẫn còn có nhiều tranh cãi về thuật ngữ so sánh
23
đối chiếu. Song khái niệm được sử dụng nhiều là: “nghiên cứu đối chiếu giúp
ta xác định được cái giống nhau và khác nhau của ngôn ngữ về mặt cấu trúc,
hoạt động và sự phát triển của chúng.”
Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày phương pháp so sánh đối
chiếu và có đưa ra một số ví dụ so sánh đối chiếu thành ngữ có những từ chỉ
mắt và mặt trong tiếng Việt và tiếng Anh theo phương pháp so sánh đối chiếu.
24
CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ CHỈ BỘ PHẬN CON NGƢỜI (GIỚI HẠN
Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm cơ bản về thành ngữ
Trước hết, về vị trí, TN thuộc bộ môn từ vựng học với các đối tượng
nghiên cứu là chính các đơn vị TN. Về cấu trúc, TN có diện mạo giống như
cụm từ nhưng là cụm từ đặc biệt. Là cụm từ bởi vì TN phải bao gồm ít nhất là
hai từ trở lên. Là cụm từ đặc biệt bởi TN có tổ chức cấu trúc nghiêm ngặt,
thường không được tự do thêm bớt hoặc thay đổi trật tự từ trong kết cấu. TN
có những đặc tính như có tính cố định cao, có tính biểu trưng, có nghĩa tổng
thể, và thường được dùng như những đơn vị có sẵn trong NN, cả trong NN
hội thoại thường nhật hoặc NN hội thoại của các nhân vật trong các tác phẩm
văn học, đồng thời có tính biểu cảm cao.
Có hàng trăm các định nghĩa khác nhau về TN ở các thứ tiếng khác nhau
trên thế giới. Tuy nhiên, đã là TN thì phải thoả mãn hầu hết các tiêu chí dưới
đây:
1. Những TN thực sự là những TN có nghĩa tổng thể hoặc gần như tổng thể
mang tính biểu trưng, nghĩa là, các từ thành phần có mối liên hệ nghĩa gần
như hoà quyện vào nhau và làm mất đi những nét nghĩa riêng của từng từ nếu
chúng đứng độc lập trong bối cảnh khác;
2. Những TN được coi là TN thực sự có thể có một cấu trúc chệch khỏi mô
hình cấu trúc bình thường trong NN. Nhưng không phải tất cả những kết cấu
“chệch hướng” đó đều là TN.
3. Nhìn chung, TN không dễ dàng chấp nhận việc tự do thêm bớt vào cấu trúc
của mình.
Như vậy, có thể chấp nhận một TN là một ngữ phức hợp có nghĩa tổng
thể thống nhất, mang tính biểu trưng cao, có hình thức cơ bản cố định và
trong từng trường hợp cụ thể có ý nghĩa phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp.
2.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu TN trong tiếng Anh và tiếng Việt
25
Có thể nói, TN TA đã được nghiên cứu khá hệ thống với các cách tiếp
cận khác nhau, phong phú và đa dạng. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu TN TA
đã phát triển hướng đi của mình là nghiên cứu TN từ góc độ NN học chức
năng, khác hẳn với lối đi truyền thống của các nhà nghiên cứu TN TV.
Cũng như các thứ tiếng khác, TN TA được các nhà nghiên cứu quan
tâm với ý kiến khác nhau về khái niệm, cấu trúc, và phân loại. Nhìn chung các
TN TA có cấu trúc thành phần cố định bao gồm có ít nhất là hai từ trở lên với
cấu trúc có thể là một cụm từ hoặc một câu. Trong Anh ngữ có một số tác giả
như Hockett (1958), Katz và Postal (1963) cho rằng TN cũng chỉ có thể bao
gồm một từ và khó được đại đa số chấp nhận. Hockett (1958) cho rằng ngữ
cảnh là điều kiện tiên quyết để xác định một TN thực sự là một TN hay
không, mặc dù ông không để ý tới một thực tế là TN cũng có thể là những tổ
hợp từ có khả năng kết hợp cố định (fixed collocation).
Trên thực tế, đại đa số các tác giả (Wood, 1986; Cowie et al. 1975,
1983; Long et al., 1979; Smith, 1925; Malkiel, 1959; Weinreich, 1969;
Makkai, 1972; Fernando và Flavell, 1981; Strassler, 1982; Pawley và Syder,
1983; Pawley, 1986) cho rằng TN là một biểu ngữ đa từ (multiword
expression) với những đặc điểm ngữ pháp khác hẳn với các cụm từ tự do khác
đó là tính TN, hay còn gọi là tính thống nhất về nghĩa (semantic unity) và tính
cố định hoặc tương đối cố định của các từ thành phần. Nói cách khác một tập
hợp từ càng có ít khả năng thay đổi một trong các từ thành phần bao nhiêu,
tập hợp từ đó càng có nhiều khả năng là TN bấy nhiêu. Một số những đặc
điểm khác nhau nữa là biểu ngữ đa từ có số lượng từ hạn chế, trong khi đó,
cụm từ tự do có số lượng mở rộng không hạn định. Tuy nhiên, trong bao
nhiêu trường hợp, TN có thể hiểu theo hai cách cả nghĩa bóng và nghĩa đen.
Ví dụ one in the eye (“một trong mắt” (nghĩa đen) và “thất bại ê chề” (nghĩa
thành ngữ;); play it by ear (“chơi nó bằng tai” (nghĩa đen) và “tuỳ cơ ứng
biến” (nghĩa bóng). Những TN như thế này được Makkai (1972) gọi là những
26
TN giải mã (decoding idioms), nghĩa là có tính mơ hồ, dễ gây hiểu sai. Những
loại khác Makkai gọi là mã hoá (encoding). Ví dụ music to one’s ear (“âm
nhạc đối với tai ai” – thông tin làm cho ai đó dễ chịu); walls have ears (“bức
tường có tai” – tai vách mạch rừng).
Như đã thấy, nếu như Hockett chỉ có một tiêu chí duy nhất như đã đề
cập ở đầu mục để xác định TN thì Makkai (1972) lại dùng một loạt các tiêu
chí như tổ hợp hình thái, tính nhạy cảm của một TN với việc lí giải theo nghĩa
đen, tính mơ hồ, tính không thể dự đoán nghĩa và cấu thành TN. Fernando và
Flavell (1981) lại sử dụng phương pháp phân tích nghĩa và cấu trúc để phân
biệt TN, nói cách khác, nghĩa TN giống như một kết hợp hoá học, ví dụ như
có nguyên tử ôxi và nguyên tử hydro (thể khí) kết hợp với nhau để tạo thành
một chất khác hẳn là nước (thể lỏng). Còn Kunin (1984) lại coi nghĩa là chuẩn
mực cơ bản để nhận dạng TN. Theo ông, TN là một cụm từ cố định có nghĩa
tổng thể khác hoàn toàn với nghĩa của từng thành phần tạo nên TN đó.
Về đặc điểm của TN TA, Antrushina (1985), Palmer (1981), Baker
(1994) và một số tác giả khác nhận xét rằng một trong những đặc điểm quan
trọng để có thể phân biệt TN với các cụm từ tự do là cấu trúc không đổi của
TN. Cụ thể là, thứ nhất, TN hạn chế khả năng thay đổi các từ trong thành
phần của TN. Ví dụ, the eye of the storm (mắt bão). Không thể thay storm
bằng những từ đồng nghĩa khác như hurricane, hay tornado; thứ hai, TN hạn
chế khả năng thêm từ vào thành phần TN. Ví dụ, không thể thêm từ big
(“to”), hay straight (“thẳng”) ... vào TN by a nose (“sát cạnh mũi”); và thứ ba,
TN không cho phép thay đổi hình thái ngữ pháp của mình. Ví dụ: from head
to foot, mà không thay được thành phần from head to feet. Thực ra trước đó,
Seidle và McMordie (1978) cũng đã tổng kết các đặc điểm của cấu trúc TN
TA, đó là tính bất quy tắc và phi lôgic ngữ pháp trong tổ chức TN (I am good
friends with him – “tôi là những người bạn tốt với nó”); tính mơ hồ về nghĩa
mặc dù hình thức ngữ pháp hợp lí (to have a bee in one’s bonnet; to be
27
obsessed by an idea – “bị một ý tưởng ám ảnh”); hoặc tính mơ hồ về nghĩa và
tính phi quy tắc về ngữ pháp (to go through thick and thin – “đi qua dày và
mỏng”).
Về việc phân loại TN, có những quan điểm và cách chia khác nhau dựa
trên những tiêu chí khác nhau. Glucksburg (1993) căn cứ vào tiêu chí nghĩa
chia TN TA ra làm hai loại mô hình chính. Mô hình thứ nhất (ví dụ những TN
dạng kick the bucket, by and large v.v...) gọi là “the direct look-up model”
(mô hình nhận dạng TN trực tiếp) – có ý nghĩa là không có mối quan hệ rõ
ràng nào giữa các thành phần và ý nghĩa của TN; ý nghĩa của TN được đúc
rút từ tổng thể cả TN đó và vì thế mà ý nghĩa của TN phần nhiều mang tính
võ đoán; và mô hình thứ hai (ví dụ carrying coals to Newcastle) là mô hình
thống nhất (the compositional model), ý nghĩa TN được đúc rút ra từ tổng hợp
cả nghĩa đen và nội dung minh họa và ít nhiều có mối liên hệ ẩn dụ với ý
nghĩa của TN.
Căn cứ vào khả năng kết hợp từ và đặc điểm ý nghĩa của TN, Carter
(1987: 63-4) chia TN TA thành ba loại như 1. TN hạn định kết hợp từ
(collocational restriction). Ví dụ, run a business; harbour doubt/ grudges/
uncertainty/ suspicion; 2. TN có cấu trúc ngữ pháp từ vựng
(lexicogrammatical structure): break somebody’s heart); smell a rat, the more
the merrier; 3. TN với các cấp độ nghĩa mờ nhạt khác nhau: long time no see,
a fat salary); a watched pot never boils; kick the bucket.
Mức độ biến thiên của từ vựng trong TN cũng khác nhau. Cụ thể hơn,
Carter (1987) còn xác định 12 loại kết hợp của TN với các biến thể khác nhau
có nghĩa đen, nghĩa bóng spill the beans (làm vãi đậu - để lộ bí mật); smell a
rat (ngửi thấy một con chuột cống – có điều gì đó không ổn đang xảy ra); say
no more; you’re telling me; on the one hand; on the other hand v..v...;
nothing loath; fancy free; be that as it may; upside-down; inside-out v.v...
28
Cacciari (1993) và Glucksburg (1991), căn cứ vào mức độ phân tích
nghĩa tổng hợp của TN dựa vào các yếu tố thành phần, chia TN TA thành 3
loại chính là 1. Loại AO (analyzable opaque idioms) – TN có thể phân tích
nghĩa nhưng mờ nhạt – là những TN có vẻ như không có mối liên hệ rõ ràng
giữa nghĩa TN và những yếu tố thành phần nhưng người ta vẫn có thể suy
diễn được nghĩa TN và cách sử dụng. Ví dụ: to kick the bucket (“đá chiếc xô”)
– chết, ngỏm, toi đời, về chầu ông vải, đi ngủ với giun, trở về với cát bụt; 2.
Loại AT (analyzable transparent) – TN có thể phân tích được nghĩa một cách
rõ ràng – là những TN mà có mối liên hệ rõ ràng giữa nghĩa TN và nghĩa
thành phần. Ví dụ: break the ice (“phá vỡ băng”). Trong đó break có nghĩa
TN là “thay đổi trạng thái, tình cảm” và ice có nghĩa là “những căng thẳng xã
hội”; to bring home the bacon (“mang về nhà thịt hun khói”) – “chăm lo, nuôi
dưỡng gia đình”, và loại 3. Loại M (quasi – metaphorical idioms) – TN giả ẩn
dụ – là những TN mà hình ảnh của các yếu tố thành phần cùng nhau tạo nên
nghĩa TN. Ví dụ: carry coals to Newcastle (“chở than về Newcastle”) - đại
loại như người Việt nói: chở củi về rừng, hãy cũng có thể tạo nên những câu
tương tự: mang nhãn lồng về Hưng Yên, mang vải đi Lục Ngạn.
Fernando (1996) dựa vào lý thuyết ngữ pháp chức năng của Halliday
(1985) chia TN TA ra làm hai nhóm chính: 1. TN ý niệm và 2. TN liên cá
nhân. TN ý niệm (ideational) hoặc chỉ rõ ý nghĩa của nội dung thông báo,
những hiện tượng kinh nghiệm bao gồm cả cảm giác, ảnh hưởng và đánh giá;
hoặc xác định bản chất của thông báo (ví dụ, cụ thể hay không cụ thể). Ví dụ:
tear down, spill the beans, wear different hats, give somebody an inch and
he’ll take a smile; turning point, out of the mouth of babes; have blood on
one’s hands; be in Queer Street; a back seat driver; a man about town, a
scarlet woman, a fat cat v.v... TN liên cá nhân (interpersonal idioms) là những
TN thực hiện hoặc một chức năng tương hỗ; hoặc xác định đặc điểm của
thông báo. Khi thực hiện chức năng liên cá nhân TN thường có vai trò khởi
29
xướng, duy trì hoặc kết thúc trao đổi thông báo. Do vậy, chúng thường được
liên tưởng tới những vấn đề giao tiếp xã giao, lịch sự thông thường hoặc
chúng có chức năng làm mẫu cho những lề thói của giao tiếp xã hội hoặc
trong một chừng mực nào đó có thể chứng minh cho nguyên tắc cộng tác của
Grice về sự chân thành, về khái niệm giá trị, về lối nói biểu thị sự ngắn gọn,
cô đọng... có khả năng khắc họa được bản chất của thông báo.
Liên quan tới chiến lược giao tiếp, TN có thể thực hiện những chức
năng chào hỏi, chức năng chỉ thị, chức năng thỏa thuận, chức năng thăm dò
và lấy ý kiến; chức năng phản bác. Về chức năng đánh giá thông báo, TN có
thể mô tả giá trị thông tin, sự chân thành, yêu cầu ngắn gọn, thể hiện sự thông
báo không chắc chắn v.v...
Như vậy, trong TA nhiều công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào
chức năng của TN trong giao tiếp xã hội, TN được chấp nhận trong hoạt động
thường ngày của NN và nó đã thực sự thoát khỏi vỏ bọc tĩnh tại của các tập
hợp từ trong từ điển. Việc nghiên cứu TN từ góc độ chức năng đã thực sự
đóng góp cho lý thuyết NN nói chung và ngành NN học ứng dụng nói riêng.
Trong Tiếng Việt, TN luôn được các nhà nghiên cứu NN, văn học dân
gian, văn hoá, nhân chủng học, dân tộc học, xã hội học v.v... quan tâm. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu TN TV cho tới nay vẫn chưa thống nhất và còn có
nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề định nghĩa, phân loại, chức
năng... của các đơn vị TN. Có rất nhiều những nghiên cứu so sánh đối chiếu
TN các thứ tiếng với TN TV của các tác giả nhiều kinh nghiệm nghiên cứu
TN chuyên sâu (Trương Đông San, Nguyễn Đức Tồn v.v...), cũng như các tác
giả trẻ nghiên cứu TN ứng dụng cho giảng dạy ngoại ngữ (Phùng Trọng Toản,
Phạm T.B.N, v.v...). Tuy vậy, việc giới hạn, số lượng, thành phần của TN TV
hiện còn chưa giải quyết triệt để và thống nhất.
Năm 1943, Dương Quảng Hàm lần đầu tiên đặt vấn đề phân biệt ranh
giới (mặc dù chưa thật rõ rệt) giữa TN và tục ngữ. Theo quan điểm của nhà
30
nghiên cứu, tục ngữ được xem xét như một hiện tượng nhận thức xã hội, TN
được coi là các hiện tượng NN. Sau này, vấn đề về phân định TN, tục ngữ còn
được đề cập tới trong các nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan (1956, 1971),
Nguyễn Văn Tu (1968), Hồ Lê (1976), Nguyễn Văn Mệnh (1972), Cù Đình
Tú (1973), Chu Xuân Diên (1977) và một số tác giả khác.
Song song với việc phân biệt ranh giới TN, các nhà NN học Việt Nam
còn đề cập đến những vấn đề khác của TN như khái niệm, phân loại v.v... Tuy
nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu liên quan tới cấu trúc nội tại của TN.
Về phân loại TN, Nguyễn Thiện Giáp (1998) căn cứ vào cơ chế cấu tạo TN
chia TN TV thành hai loại chính. Đó là 1. TN hợp kết: ý nghĩa của chúng có
thể phân tích thành những yếu tố nghĩa tương ứng với ý nghĩa của từng bộ
phận tạo thành. Ví dụ: đỏ như mắt cá chày, anh hùng rơm và 2. TN hoà kết:
nghĩa của TN được hình thành trên cơ sở của một ẩn dụ toàn bộ. Nói cách
khác, ý nghĩa của TN không thể phân tích thành các yếu tố nghĩa tương ứng
với ý nghĩa của các bộ phận tạo thành. Ví dụ: ngứa tai gai mắt, mặt sứa gan
lim, mặt trơ trán bóng.
Như vậy, tình hình nghiên cứu TN ở Tiếng Anh và Tiếng Việt có thể có
một số nhận xét nổi bật như sau:
TN được các nhà NN học quan tâm và nghiên cứu có hệ thống. Việc nghiên
cứu TN được tiến hành ở các lĩnh vực khác nhau: khái niệm, phân biệt TN với
các cụm từ tự do, tiêu chí xác định, phân loại TN v.v... TN TA được nghiên
cứu kỹ lưỡng hơn TN TV. Vấn đề nghiên cứu TN TA thể hiện ở những công
trình nghiên cứu phong phú cả về số lượng lẫn về chất.
Về khái niệm TN mặc dù rất đa dạng nhưng nhìn chung TN được xác định
là những biểu ngữ đa từ có cấu trúc cố định hoặc tương đối cố định, thường
có nghĩa hình tượng, nghĩa TN thống nhất, TN có tính biểu cảm cao và
thường được sử dụng như những đơn vị có sẵn trong giao tiếp.
31
Việc xác định nghĩa TN phải dựa vào ngữ cảnh dùng NN, có tính đến mối
quan hệ giữa các đối tác giao tiếp, môi trường giao tiếp và cách thức giao tiếp.
Các xu hướng nghiên cứu ở TA và TV thể hiện ở các lĩnh vực sau:
- Phân biệt ranh giới TN với tục ngữ, cụm từ tự do, biểu ngữ đa từ v.v...
- Đưa ra tiêu chí và phân loại TN từ các góc độ khác nhau: cấu trúc, khả năng
kết hợp, số lượng từ trong TN chức năng, TN trong giao tiếp.
- Nghiên cứu TN ở mức độ chuyên sâu trong phạm vi TN của từng NN từ góc
độ ngữ nghĩa, cấu trúc, cội nguồn TN.
- Nghiên cứu TN song song hoặc đa ngữ với phương pháp chủ yếu là so sánh,
đối chiếu nhằm tìm ra những dị biệt và tương đồng của TN trong các thứ tiếng
khác nhau. Từ đó, rút ra những chỉ dẫn cho người học cũng như người nghiên
cứu về đặc trưng văn hoá dân tộc thông qua TN hay đưa ra những chỉ dẫn
trong giảng dạy tiếng nói chung, giảng dạy dịch nói riêng.
Nhìn chung, cả hai NN đều được quan tâm nhiều tới mảng TN. Mặc dù,
so với các lĩnh vực nghiên cứu khác, số lượng các nghiên cứu về so sánh đối
chiếu thành ngữ, tục ngữ không nhiều, song ở nước ta cũng đã có một số
nghiên cứu có tính hệ thống về so sánh, đối chiếu thành ngữ, tục ngữ trên cứ
liệu tiếng Anh và tiếng Việt, ví dụ như luận án PTS. ĐHQG HN của Nguyễn
Văn Mười (1996): “Ngôn ngữ tục ngữ với việc phản ánh các yếu tố văn hoá
và nhân sinh quan (Trên cứ liệu tục ngữ Việt - Anh)” và luận án TS. ĐHQG
HN của Trần Thị Lan (2002): “So sánh đối chiếu phương thức dịch thành ngữ
nhận xét đánh giá con người trong tiếng Anh, Nga và Việt”. Hai luận án vừa
nêu trên đều nghiên cứu về thành ngữ, đều sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ
nguồn, và tiếng Việt là ngôn ngữ đích để so sánh. Trong luận văn này, chúng
tôi chỉ nghiên cứu về phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ Anh-Việt
sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt), mà từ trước
tới nay chưa có một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống về vấn đề này.
Chúng tôi đã tiến hành một số khảo sát trắc nghiệm và dựa trên kinh nghiệm
32
giảng dạy tiếng Anh ở các trường Đại học chuyên ngữ và nhận thấy rằng việc
hiểu đúng và chuyển dịch đúng các TNBPCTKM là một vấn đề rất đáng
quan tâm, và vẫn còn có những sai phạm không đáng có. Hiểu đúng và sử
dụng thành ngữ một cách chính xác có nghĩa là phải có một kiến thức nền về
văn hoá. Sự khác biệt giữa hai nền văn hoá thể hiện rất rõ nét ở thành ngữ
của hai dân tộc này. Trong luận văn này, đối tượng so sánh là hai ngôn ngữ
hoàn toàn khác biệt về mặt địa lý và loại hình. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập
ở Nam Á, còn tiếng Anh là ngôn ngữ hoà kết ở Châu Âu. Sự khác biệt về mặt
địa lý và loại hình như vậy quy định những điểm giống nhau và khác nhau
của hai thứ tiếng. Chúng xuất hiện đồng thời trong hầu hết các bình diện ngôn
ngữ và thể hiện rất rõ nét ở thành ngữ nói chung và TNBPCTKM nói riêng.
Trong khuôn khổ một luận văn Cao học, chúng tôi muốn đóng góp một phần
nhỏ vào việc nghiên cứu thành ngữ ở tiếng Anh và tiếng Việt.
2.3. Xác định TNBPCTKM và tiêu chí phân loại TNBPCTKM
TNBPCTKM Tiếng Anh:
1. An eye for an eye (“một mắt cho một mắt”) - ăn miếng trả miếng.
2. Be all eyes (“toàn mắt”) – nhìn chăm chú, nhìn hút hồn, dán mắt vào
3. Have an eye for something (“có mắt cho cái gì”) – sành sỏi về cái gì, nhạy
bén về cái gì.
4. In the eye of somebody (“trong con mắt của ai”) – theo ý kiến đánh giá của
ai.
5. One’s face falls (“mặt rơi xuống”) – mặt xịu xuống, mất tinh thần, như
bánh đa nhúng nước, tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi.
6. On the face of it (“trên mặt của nó”) – xét theo bề ngoài.
7. Have a face to do something (“có mặt để làm cái gì”) – mặt dạn mày dày,
to gan lớn mật.
8. Keep one’s mouth shut (“giữ miệng đóng”) – không tiết lộ bí mật, câm như
hến, ngậm miệng ăn tiền.
33
9. By a nose (“cạnh bên mũi”) – sát nút, chỉ cách một lề rất nhỏ, nước đến
chân mới nhảy.
10. Get up one’s nose (“đánh thức mũi ai”) – làm cho ai bực tức, làm cho ai
nóng mũi, tức nổ đom đóm mắt.
11. Turn one’s nose up at something (“hếch mũi lên với cái gì”) – vênh mặt,
vênh váo như bố vợ phải đấm.
12. Go in one ear and out the other (“đi vào một tai và ra tai kia”) – vào tai
này ra tai kia, không chú ý, nước đổ đầu vịt, nước đổ lá khoai.
13. Be all ears (“toàn tai”) – chăm chú lắng nghe, giỏng tai lên.
14. One’s lips are sealed (“môi của ai bị gắn xi”) – không hoặc không được
bàn cãi hoặc tiết lộ cái gì; ngậm miệng, câm như hến.
15. Turn the other cheek (“giơ má kia ra”) – nhận một đòn đánh mạnh mà
không đánh lại.
16. Keep one’s chin up (“giữ cằm cao”) – vẫn vui vẻ trong khó khăn; không
nản chí, trơ như đá, vững như đồng.
TNBPCTKM tiếng Việt:
1. Có máu mặt – có đời sống sung túc, khá giả hơn người khác.
2. Đeo mo vào mặt – bị nhục nhã, bị chê cười không biết trốn vào đâu.
3. Đầu trâu mặt ngựa – bọn côn đồ hung ác như quỹ dữ.
4. Đầu tắt mặt tối – làm lụng khó nhọc, vất vả không lúc nào rảnh rỗi.
5. Mặt xanh nanh vàng – bị đói lâu ngày.
6. Bắt ruồi không đủ miệng cóc – làm ăn khó khăn.
7. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm - được chăm sóc, hầu hạ chu đáo,
đối xử tử tế.
8. Dại mồm dại miệng – nói năng vụng về, thiếu suy nghĩ làm hại đến mình.
9. Đấm mồm đấm miệng - đút lót, hối lộ, dùng vật chất để mua chuộc hòng
che dấu, ngăn ngừa sự phát giác tội lỗi.
10. Có trầu chẳng để môi thâm – có điều kiện không ai tội gì phải chịu khổ.
34
11. Đầu môi chót lưỡi – chỉ thấy trong lời nói mà không thấy trong việc làm,
không thực chất.
12. Hộc máu mồm máu mũi – nặng nhọc, vất vả.
13. Không kịp mở mắt – rất nhiều công việc phải làm, rất bận
14. Không nhắm được mắt - ôm hận trọn đời, chết mà còn đau khổ vì chưa
thực hiện được nguyện vọng hoặc làm điều gì trái với lương tâm.
15. Có con mắt mà không có con ngươi – không phân biệt được hay, dở, tốt,
xấu.
16. Bằng nửa con mắt – bất cần, ngạo mạn, coi thường tất cả.
17. Đầu áp má kề – vợ chồng đầm ấm, âu yếm, yêu thương nhau.
18.Đầu cua tai nheo - đầu đuôi , sự việc với những tình tiết lộn xộn.
19. Để ngoài tai – coi như không nghe thấy, không thèm để ý.
20. Đầu mày cuối mắt – liếc nhìn nhau, thể hiện tình cảm quyến luyến một
cách kín đáo.
Từ các ví dụ trên chúng ta thấy, TNBPCTKM phải là những TN có ít
nhất một từ chỉ bộ phận khuôn mặt như mặt, mũi, miệng, mắt, trán, cằm, má,
tai...
Dưới đây là tiêu chí cơ bản giúp xác định TNBPCTKM .
Trước hết, TNBPCTKM phải là một TN theo nghĩa đã được xác định
trong chương 2, nghĩa là phải 1/ có một cấu trúc cố định hoặc tương đối cố
định; 2/ có nghĩa bóng hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn; 3/ có nghĩa không
thể và không bao giờ có thể là tổng cộng nghĩa của các từ thành phần của
thành ngữ; 4/ có thể và thường phải sử dụng toàn bộ đơn vị TN trong quá
trình giao tiếp như một đơn vị từ vựng có sẵn và thường đóng vai trò định
danh như một danh từ, tính từ, động từ v.v...
Thứ hai, TNBPCTKM phải có ít nhất một từ chỉ bộ phận cơ thể con
người nhưng chỉ giới hạn trên khuôn mặt.
2.4. Phân loại TNBPCTKM
35
Căn cứ vào những tiêu chí xác định TNBPCTKM như trên, chúng tôi
đã chọn lựa được các đơn vị TNBPCTKM trong hai thứ tiếng với tổng số
mỗi loại là Anh: 237, Việt: 246. Chúng tôi sẽ phân loại TNBPCTKM theo
hai tiêu chí: phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa và phân loại theo cấu
trúc của TNBPCTKM .
2.4.1. Phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa.
Quan hệ logic giữa các đối tượng được gọi tên trong thực tế khách quan
và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ có một vai trò rất quan trọng trong việc tạo
nên ý nghĩa biểu niệm của từ. Trong các quan hệ ngữ nghĩa [12; 125-239] thì
quan hệ cấp loại có tác dụng nhiều nhất trong việc phân lập các từ thành
những trường từ vựng – ngữ nghĩa.
Trong mỗi ngôn ngữ đều có khoảng trên dưới 300 tên gọi các bộ phận
cơ thể con người, chúng lập thành một trường từ vựng – ngữ nghĩa riêng gọi
là trường bộ phận cơ thể người. Tính chất quan trọng của trường từ vựng –
ngữ nghĩa loại này là thể hiện ở chỗ đa số các tên gọi trong trường đều thuộc
vốn từ vựng cơ bản của một ngôn ngữ, chúng là lớp từ thuần bản ngữ nhất, ít
bị pha tạp bởi các quá trình ngôn ngữ, đóng vai trò là hạt nhân của hệ thống từ
vựng. Trong trường từ bộ phận cơ thể người, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể
người giới hạn ở khuôn mặt cũng chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Đối
với nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể con người (BPCTCN) (giới hạn ở khuôn mặt)
trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi áp dụng lý thuyết về cả hai quan hệ
ngữ nghĩa là quan hệ cấp loại phân loại – loại và quan hệ cấp loại phân loại
toàn bộ – bộ phận để phân định, tập hợp các từ.
Một vấn đề mà chúng tôi cần nói thêm là cách trình bày bảng phân loại.
Bảng phân loại của chúng tôi được trình bày theo cách phân loại toàn thể – bộ
phận, thể hiện toàn cảnh giữa cái toàn thể với cái bộ phận theo trật tự cấp loại
từ bậc một đến bậc ba, tức là đi từ tên gọi chỉ toàn bộ đến các tên gọi chỉ bộ
phận tận cùng, nhỏ nhất của sự phân chia: các cấp loại được đánh số theo bậc
36
1, 2 và 3. Từ bậc một sau khi được phân thành những từ bậc hai đồng cấp
chúng tôi lần lượt trình bày sự phân chia bộ phận của mỗi từ sao cho hết các
từ dưới cấp của từ này theo tuyến trục dọc của nó. Làm như vậy sẽ giúp cho
nhận thức được quan hệ và những đặc thù ngữ nghĩa nhất định của tên gọi các
BPCTCN tiếng Anh và tiếng Việt. Trong bảng phân loại này, mỗi từ ở bậc hai
trở đi cho đến các từ tiếp giáp với bậc phân chia cuối cùng theo tuyến trục dọc
của từ ấy có thể cùng với các từ dưới cấp lập thành một miền của trường tên
gọi BPCTCN.
Biểu đồ sau đây sẽ tóm lược cách trình bày trong bảng phân chia của
chúng tôi.
Mặt Bậc 1:
Các yếu tố của khuôn mặt Bậc 2:
Các yếu tố của bộ phận khuôn mặt Bậc 3:
Sơ đồ 2.1. Các đơn vị chỉ bộ phận cơ thể con ngƣời (giới hạn ở khuôn
mặt)
tiếng Anh và tiếng Việt
(Phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa)
MẶT
Bậc 1
TRÁN
TAI
MŨI
MẮT
MIỆNG
MÁ
Bậc 2
LÔNG MÀY
MI
MÔI
Bậc 3
Sơ đồ 2.1
Căn cứ vào những tiêu chí nêu trên, cũng như căn cứ vào chính TN đã
thu thập được, chúng tôi tổng kết TNBPCTKM trên sơ đồ gọi là sơ đồ về
37
TNBPCTKM tiếng Anh và tiếng Việt như dưới đây. Nhóm 1 là những TN có
từ chỉ mặt; nhóm 2 là nhóm những TN có những từ chỉ bộ phận trên
khuôn mặt; nhóm 3 là nhóm TN có những từ chỉ bộ phận của bộ phận
trên khuôn mặt.
38 Sơ đồ TNBPCTKM
TN có từ chỉ bộ phận của bộ phận khuôn mặt
TN có từ chỉ bộ phận của khuôn mặt
TN có từ chỉ mặt
TN có từ chỉ Trán
TN có từ chỉ Mũi
TN có từ chỉ Mắt
TN có từ chỉ Miệng
TN có từ chỉ Má
TN có từ chỉ Tai
TN có từ chỉ Môi
TN có từ chỉ Lông mày
TN có từ chỉ Lông Mi
TNBPCTKM
Sơ đồ 2.2
39
Bảng thống kê các thành ngữ có từ chỉ bộ cơ thể con ngƣời (giới hạn ở
khuôn mặt)
STT TNBPCTKM Anh Việt
1 Mặt 45 61
2 Trán 0 2
3 Tai 41 23
4 Mũi 30 8
5 Mắt 86 57
6 Miệng 18 76
7 Má 3 9
8 Lông mày 2 3
9 Lông mi 0 2
10 Môi 11 7
Bảng 2.1
Nhìn tổng thể từ danh mục TN minh họa và sơ đồ tổng quát của hai thứ
tiếng, ta có thể thấy TNBPCTKM được phân bố đều. Mặc dù vậy, số lượng
TN ở các tiểu nhóm trong các thứ tiếng khác nhau được phân bố không đồng
đều. Sự không đồng đều này xảy ra trong phạm vi từng NN, trong nhóm, và
trong các tiểu nhóm. Có những TN có thể tìm thấy rất nhiều trong thứ tiếng
này nhưng lại hầu như không thấy trong thứ tiếng khác.
Trong 10 bộ phận nêu trên thì có 5 bộ phận có tần số xuất hiện cao nhất
là: mắt, mặt, miệng, mũi, tai. Điều đó cho thấy ở cả hai quốc gia, người dân
bản địa cũng đánh giá 5 bộ phận cơ thể trên là quan trọng nhất trong khuôn
mặt. Tuy nhiên, mắt trong tiếng Anh có tần số xuất hiện nhiều hơn so với
tiếng Việt (Anh: 86, Việt: 57), miệng tiếng Việt có tần số xuất hiện cao hơn
rất nhiều so với tiếng Anh (Anh: 18, Việt: 76). Do đó có thể thấy rõ một điều
rằng, văn hoá của hai nước đã ảnh hưởng tới việc sử dụng các từ sử dụng bộ
40
phận cơ thể con người vào thành ngữ. Người phương Tây nói chung, người
Anh nói riêng thường coi trọng đôi mắt, coi đôi mắt là bộ phận quan trọng
nhất trên khuôn mặt, là “cửa sổ tâm hồn”, “đôi mắt” chính là con người, từ
đôi mắt có thể nhận biết được tính cách con người. Do đó hình ảnh “đôi mắt”
được người Anh gán cho một nghĩa biểu trưng để phản ánh con người. Còn
người Việt do ảnh hưởng của văn hoá phương Đông, đặc biệt là ảnh hưởng
của văn hoá Trung Quốc, đánh giá miệng là một bộ phận tương đối quan
trọng, đánh giá con người, sự vật, hiện tượng hay dùng miệng để dùng làm
hình ảnh so sánh. Miệng được sử dụng mang nghĩa biểu trưng khá rộng rãi.
2.4.2. Phân loại theo cấu trúc của TNBPCTKM
Cấu trúc của TN trước hết phải là cụm từ bao gồm ít nhất là từ hai từ
trở nên. Thứ hai, đó không phải là những tổ hợp từ tự do, do đó không thể
phân tích chúng thành từng đơn vị độc lập bởi trong từng trường hợp như vậy,
một TN sẽ không còn là TN nữa. Thứ ba, kiểu loại TN sẽ được xác định trên
cơ sở của loại từ nòng cốt trong TN đó: danh từ, tính từ v.v... Theo đó, những
TN có từ nòng cốt là danh từ sẽ được gọi là TN có cấu trúc của đoản ngữ
danh từ (a naked eye, da ngà mắt phượng). Những TN có từ chủ chốt là động
từ sẽ được gọi là TN có cấu trúc của đoản ngữ động từ (close one’s eyes to
something, đánh gẫy gối tối mặt).
Trong số các TNBPCTKM có thể thấy các loại có cấu trúc của đoản
ngữ (danh từ: the evil eye, an eye for an eye, the eye of the storm, a long face,
an ear for something, da chì mặt bủng, mắt trắng dã môi thâm sì), tính từ
(easy on the ear, wet behind the ears, plain as the nose on one’s face, dại
mồm dại miệng, bận chúi mắt chúi mũi), động từ (fly in the face of something,
have the face to do something, shoot one’s mouth off, follow one’s nose, keep
one’s ears open), giới từ (with a flea in one’s ear, with half an ear, in one’s
mind’s eye, in the public eye, on the face of it, in the face of something, down
in the mouth), mệnh đề (đơn, đủ thành phần) (butter wouldn’t melt in
41
somebody’s mouth, there’s many a slip twixt cup and lip, cơm vào miệng vẫn
còn rơi, con mắt là mặt đồng cân), cấu trúc so sánh (as plain as the nose on
one’s face, con mắt to hơn cái bụng). Các cấu trúc so sánh rất phổ biến trong
tiếng Anh và tiếng Việt. Cấu trúc đoản ngữ khá phổ biến trong tiếng Anh.
Tiếng Việt có những cấu trúc lồng chéo, biền ngẫu, song song (mắt nhắm mắt
mở, da trì mặt bủng, đinh tai nhức óc...) với 4 thành tố mà trong tiếng Anh
hầu như không tìm thấy được.
2.5. Tiểu kết chương 2
Trong chương này chúng tôi làm một số việc như sau:
1. Xác định khái niệm TN dùng trong luận văn, đồng thời điểm qua một vài
nét chính về tình hình nghiên cứu TN trong hai thứ tiếng. TN là những cụm từ
cố định bao gồm ít nhất là từ hai từ trở lên, có tính biểu cảm cao, có nghĩa
bóng và nghĩa tổng thể không bao giờ có thể là nghĩa tổng cộng của nghĩa các
thành tố tạo nên thành ngữ.
Từ góc độ ngữ nghĩa, TN có thể được chia ra các loại: có nghĩa rõ ràng có
thể phân tích được; có nghĩa mờ nhạt không phân tích được, và loại giả ẩn dụ.
Từ góc độ NN học chức năng, TN có thể được chia ra các loại: TN ý niệm
và TN liên cá nhân.
2. Xác định khái niệm, tiêu chí phân loại và xác định TNBPCTKM trong
tiếng Anh và tiếng Việt.
3. Phân tích và so sánh TNBPCTKM ở góc độ khác nhau: cấu trúc, ngữ
nghĩa.
42
CHƢƠNG 3. SO SÁNH ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT
3.1. Những nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM
Nhìn tổng thể, TNBPCTKM có thể tìm thấy ở trong cả hai thứ tiếng
với tỉ lệ phân bố ít chênh lệch nhau về số lượng: 246 (Việt) – 237 (Anh). TN
TV có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con người tìm được trong tổng số
khoảng 10.416 đơn vị TN trong từ điển TN TV do Vũ Dung chủ biên là 522
đơn vị, trong số này là 246 đơn vị là những TNBPCTKM, chiếm 47,13% tổng
số lượng các TN có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con người. TN TA
có những từ chỉ bộ phận cơ thể con người tìm được 458 đơn vị trên tổng số
20.000 đơn vị TN thống kê trong Từ điển TN TA của Cowie, Kunin v.v... Số
lượng TNBPCTKM trong tiếng Anh tìm được là 237 đơn vị, chiếm 51,75%
trong tổng số lượng các TN có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con
người. Nếu xét từ góc độ tổng số lượng các đơn vị TN trong từng thứ tiếng
trong TV và TA, lượng TNBPCTKM chiếm không đáng kể, TNBPCTKM
trong tiếng Việt chỉ chiếm 2,36%, còn TNBPCTKM trong tiếng Anh chỉ
chiếm 1,18%. Tuy nhiên số lượng TNBPCTKM tìm thấy ở tiếng Anh và tiếng
Việt gần như tương đương, chênh lệch không đáng kể.
Sau đây là sơ đồ trình bày sự phân bố TNBPCTKM.
Sơ đồ 3.1 Sự phân bố TNBPCTKM
600
522
500
458
400
TNBPCTCN
300
246
237
TNBPCTKM
200
100
0
Anh
Viet
43
(Chú thích: - TNBPCTCN: thành ngữ có những từ chỉ bộ phận cơ thể con
người.)
Tiểu nhóm những TN có từ chỉ mặt, tai, mắt, mũi trong hai thứ tiếng có
số lượng tương đối đồng đều nhau. Nhóm TN có những từ chỉ mặt và mắt
trong hai ngôn ngữ này được thể hiện tương đối nhiều (mặt: TA: 45, TV: 61;
mắt: TA: 86, TV: 57 ). Còn những TN có từ chỉ miệng trong hai ngôn ngữ
này chênh lệch nhau một cách rõ rệt, những TN có từ chỉ miệng trong tiếng
Việt nhiều hơn hẳn so với tiếng Anh, hơn gấp bốn lần so với số lượng những
TN có từ chỉ miệng trong tiếng Anh (TV: 76, TA: 18). Số lượng những TN có
từ chỉ má trong tiếng Việt cũng chiếm ưu thế hơn, mặc dù số lượng không
đáng kể (TV: 9, TA: 3). Lượng những TN chỉ môi trong hai ngôn ngữ cũng
tương đương nhau, mặc dù ở tiếng Anh có phần trội hơn (TA: 11, TV: 7).
Còn số lượng những TN có từ chỉ lông mày, lông mi ở cả hai ngôn ngữ đều
không đáng kể, thậm chí còn không có (lông mày: TA: 2, TV: 3; lông mi: TA:
0, TV: 2).
Sự chênh lệch ở những tiểu nhóm TN đều thể hiện cách đánh giá và
tính phổ biến về cách đề cập tới tầm quan trọng của từng bộ phận trên khuôn
mặt con người của từng dân tộc. Đó chính là những nét văn hoá riêng của
từng dân tộc. Tên gọi mỗi một bộ phận trên khuôn mặt vốn chỉ đơn thuần là
những tên gọi thông thường để xác định và định vị những bộ phận đó, song
do ảnh hưởng của tư duy, văn hoá của từng dân tộc, các tên gọi đó lại được
gán cho một nghĩa biểu trưng, mang sắc thái văn hoá. Từ đó, tên gọi của từng
bộ phận trên khuôn mặt không chỉ mang ý nghĩa định danh mà còn được sử
dụng làm thành tố văn hoá. Do có sự khác biệt về quan niệm, tư duy, tín
ngưỡng và văn hoá giữa hai dân tộc, nên ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị tên
gọi này cũng khác.
Người Anh đánh giá bộ phận quan trọng nhất trên khuôn mặt là đôi
mắt, vì vậy ý nghĩa biểu trưng của của đôi mắt cũng được sử dụng nhiều nhất
44
trong TNBPCTKM. Đối với người Anh, Mỹ, đôi mắt không những là cơ quan
thị giác mà còn là “cửa sổ tâm hồn” (the door to the heart). Đôi mắt phản ánh
đầy đủ và sinh động thế giới nội tâm của con người. Đôi mắt chính là con
người. Người phương Tây nói chung và người Anh, Mỹ nói riêng, có cách
sống hướng ngoại, sôi nổi, cởi mở, không bị ràng buộc quá nhiều vào các
nguyên tắc, phong tục tập quán. Lối sống của họ là một lối sống tự do,
khoáng đạt, sống vì cái tôi nhiều, do đó nhiều khi không có được sự sâu sắc
như người phương Đông. Họ không phải là những người sống hướng nội, do
đó họ luôn biểu lộ mọi cảm xúc, tình cảm của mình qua đôi mắt. Chính vì thế
mà đôi mắt được người phương Tây đánh giá là bộ phận quan trọng nhất trên
khuôn mặt, còn các bộ phận khác trên khuôn mặt chỉ đơn thuần là những bộ
phận cơ thể, có chức năng, nhiệm vụ nhất định.
Còn người Việt thuộc nền văn hoá phương Đông, và đặc biệt ảnh
hưởng rất lớn từ văn hoá Trung Quốc, tính cộng đồng rất cao. Việt Nam là
một trong những cái nôi của văn minh lúa nước, văn minh nông nghiệp, văn
hoá Việt là văn hoá làng xã. Đặc điểm văn hoá của nền văn minh nông nghiệp
là tính cộng đồng cao và hiền hoà trong tính cách, ứng xử. Trong giao tiếp,
người Việt Nam thường có phương châm dĩ hoà vi quý, lấy sự hoà đồng, vui
vẻ làm trọng. Lối sống của người Việt cũng thiên về lối sống cộng đồng, gia
đình. Người Việt rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành
viên trong cộng đồng. Do đó, cái “đối nhân xử thế” được người Việt rất coi
trọng. “Lời ăn tiếng nói” chính là phản ánh con người. Điều này đã giải thích
tại sao miệng lại được đánh giá là một bộ phận quan trọng nhất nhì trên khuôn
mặt. Miệng có ý nghĩa biểu trưng khá lớn đối với người Việt.
Cũng giống như người phương Tây, mắt cũng được người Việt đánh
giá là một bộ phận rất quan trọng. Nếu miệng được người Việt coi là hành vi,
văn hoá của con người, thì mắt lại chính là tâm hồn của người đó. Và do ảnh
hưởng của văn hoá Trung Quốc, người Việt cũng rất coi trọng “hình dung
45
tướng mạo”, mỗi một bộ phận trên khuôn mặt đều thể hiện tính cách của con
người. Vì vậy, ngoài chức năng định danh, các đơn vị tên gọi của các bộ phận
trên khuôn mặt cũng đi vào thành ngữ với nghĩa biểu trưng riêng. Đấy chính
là lý do giải thích tại sao có những từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt như lông
mi, không xuất hiện trong TN TA nhưng vẫn xuất hiện trong TN TV, và có
những từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt tần số xuất hiện trong TN TA không
nhiều, thì lại xuất hiện tương đối nhiều trong TN TV (ví dụ: miệng: TA: 18,
TV: 76).
Chính do phương thức sử dụng TNBPCTKM khác nhau này khiến cho
người dịch hoặc học và giảng dạy thành ngữ phải có cách xử lý tình huống
sâu và chính xác mới có thể chọn lựa cho mình TN phù hợp, nhất là trong
trường hợp có sự chênh lệch nhiều về số lượng cũng như chất lượng nghĩa
của TN. Đối với những trường hợp có TN tồn tại ở NN này nhưng lại vắng
mặt ở NN khác thì, về lý thuyết, người dịch, hoặc người học và giáo viên có
thể chọn phương pháp mô tả, hoặc vay mượn giúp cho độc giả, người học tiếp
thu được hình ảnh và tinh thần của TN ở văn bản nói.
Dưới đây là sơ đồ trình bày sự phân bố TN trong tiếng Anh và tiếng
90
80
70
60
50
40
30
20
M¾t Tr¸n Tai Mòi MÆt MiÖng M¸ L«ng mµy L«ng mi M«i
10
0
Anh
ViÖt
46
Việt. Sơ đồ 3.2. Sự phân bố TNBPCTKM theo từng tiểu nhóm
3.2. Những nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM.
Nghiên cứu số lượng TN thu được, chúng tôi có thể có một số nhận xét
khái quát tổng quát để phục vụ cho mục đích phân loại TNBPCTKM qua cấu
trúc của chúng.
1. TN có kết cấu so sánh phổ biến hơn trong TV, và ít hơn trong TA, mặc dù
số lượng của TN có kết cấu so sánh trong hai ngôn ngữ này không đáng kể
(Anh: 3, Việt: 11). Kết cấu so sánh thường được bắt đầu bằng 1 từ (TA),
nhưng cũng có thể bắt đầu bằng một cụm từ, theo đó là liên từ so sánh như và
một yếu tố cụ thể gắn với một thuộc tính của sự vật, hoặc hiện tượng quen
thuộc với cuộc sống sinh hoạt, lao động thường ngày của dân tộc đó. Ví dụ:
as plain as the nose on somebody’s face (rõ như mũi ở trên mặt), mắng như
tát nước vào mặt.
2. Tiếng Anh có nhiều TN có kết cấu đoản ngữ hơn so với tiếng Việt (Anh:
197, Việt: 156). Trong đó đoản ngữ động từ chiếm đa số: 143; đoản ngữ danh
từ: 23, đoản ngữ tính từ: 4, đoản ngữ giới từ: 27. Tuy nhiên khái niệm đoản
ngữ trong tiếng Việt tương đối đặc biệt thể hiện ở một loạt các TN có những
cặp đoản ngữ danh từ, động từ, hay tính từ đẳng lập. Hiện tượng này hầu như
không gặp trong TNBPCTKM của tiếng Anh.
3. TN có cấu trúc đoản ngữ động từ trong tiếng Anh đa dạng hơn so với tiếng
Việt ( Anh: 143, Việt: 53). Những biến thể của loại này được thể hiện bằng
những công thức sau:
Động từ + bổ ngữ (V + COMPL.)
Động từ + bổ ngữ trực tiếp (V + DIR.OBJ)
Động từ + bổ ngữ trực tiếp + bổ ngữ (V + DIR OBJ + COMPL)
Động từ + bổ ngữ gián tiếp (V + INDIR. OBJ)
Động từ + bổ ngữ trực tiếp + trạng ngữ (V + DIR OBJ + ADJUNCT)
47
4. Số lượng TN có cấu trúc giới từ trong tiếng Việt ít hơn hẳn so với tiếng
Anh, mặc dù số lượng trong cả hai ngôn ngữ này không đáng kể (Anh: 27,
Việt: 4).
5. Thành ngữ có cấu trúc mệnh đề ít xuất hiện trong tiếng Anh (16 trường
hợp) nhưng lại khá phổ biến trong tiếng Việt (76). Tuy nhiên các kết cấu
mệnh đề rất phổ biến trong tục ngữ tiếng Anh.
Dưới đây là bảng thống kê về phân bố cấu trúc của TN tiếng Anh và
tiếng Việt. Từ bảng thống kê này, chúng ta sẽ thấy phương thức dịch tương
đương hình thức sẽ khó có thể thực hiện được đối với TN TA sang TV. Xem
xét sự khác biệt về cấu trúc của TN giữa hai ngôn ngữ TA và TV là rất cần
thiết, để chúng ta có thể tìm ra cách chuyển dịch, học và giảng dạy thành ngữ
một cách có hiệu quả trong các trường chuyên ngữ.
48 Bảng 3.1. CẤU TRÚC CỦA TNBPCTKM TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
TIỂU LOẠI CÔNG THỨC TA TV
Động từ Động từ + bổ ngữ (V + COMPL) 197 156 Đoản ngữ
Động từ + tân ngữ trực tiếp (V + DIR. OBJ)
Động từ + tân ngữ trực tiếp + bổ ngữ (V + DIR OBJ + COMPL)
Động từ + tân ngữ gián tiếp (V + INDIR. OBJ)
Động từ + tân ngữ trực tiếp + trạng ngữ (V + DIR OBJ + ADJUNCT)
Danh từ Định ngữ + Tính từ + Danh từ (DETER + ADJ + N)
Định ngữ + Danh từ + Bổ ngữ (DERT. + N + COMPL)
Danh từ + Danh từ (N + N)
Đẳng lập (danh từ)
Bảng 3.1
49 Bảng 3.2. CẤU TRÚC CỦA TNBPCTKM TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT (tiếp theo)
TIỂU LOẠI CÔNG THỨC TA TV
Tính từ Trạng ngữ + Tính từ + Giới từ/ động từ nguyên dạng/ mệnh đề (ADV. Đoản ngữ
MODIF. + ADJ. + PREP. / INF./ CLAUSE)
Tính từ + Tính từ (ADJ. + ADJ.)
Giới từ Giới từ + Tân ngữ + of giới từ (PREP. + OBJ. OF PREP)
Tính từ + giới từ “như” + danh từ (ADJ + AS/ LIKE) 3 11 So sánh
Đơn Chủ ngữ + vị ngữ (S + V) 16 76 Mệnh đề
Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ (S + V + O)
Phức Chủ ngữ + vị ngữ chủ ngữ + vị ngữ (S – V + S - V)
Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ
(S V O + S V O)
Bảng 3.2
50
Sơ đồ Cấu trúc TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt
200
180
160
140
120
Anh
100
ViÖt
80
60
40
20
0
§o¶n ng÷ So s¸nh MÖnh ®Ò
Sơ đồ 3.3
Như vậy, có thể kết luận về cấu trúc TNBPCTKM như sau:
1. TNBPCTKM cả hai thứ tiếng đều có những cấu trúc đoản ngữ. Cấu trúc
đoản ngữ trong tiếng Anh có điểm khác so với cấu trúc đoản ngữ trong tiếng
Việt. Trong tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo khá phổ biến. Lối
dùng này thể hiện ở những cặp từ vựng (danh, động, tính, số) song song, đối
lập, lồng chéo với những từ hoặc đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa, hoặc không có
ý nghĩa từ vựng.
2. Số lượng TN có cấu trúc đoản ngữ so sánh trong hai ngôn ngữ được nghiên
cứu không nhiều lắm.
3. Số lượng TN có cấu trúc mệnh đề trong tiếng Việt tương đối lớn, trong khi
đó TNBPCTKM trong tiếng Anh lại chiếm không đáng kể.
Công cụ để giao tiếp là ngôn ngữ. Nhìn vào tiếng Việt, có thể thấy nó
phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và
51
những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam. Văn hoá Việt Nam là văn
hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình người. “Lối tư duy tổng hợp mọi yếu
tố, lối sống ưa ổn định và có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu
hướng trọng sự cân đối hài hoà trong ngôn từ - một biểu hiện khác của tính
biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt”
[28;161]. Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa
một khối lượng lớn các từ song tiết; mỗi từ đơn lại hầu như đều có những biến
thể song tiết, cho nên trên thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết là chủ
đạo, vì vậy ta có thể thấy ở TNBPCTKM tiếng Việt xuất hiện một lượng lớn
các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo, có các cấu trúc hai vế đối ứng (lên mặt
xuống chân, mặt sứa gan lim, khôn thì ngậm miệng khoẻ thì cắp tay, môi hở
răng lạnh, coi bằng mắt bắt bằng tay...). Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu
thanh điệu, tự thân thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Vì vậy chúng
ta có thể thấy trong TNBPCTKM tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng
chéo, lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu được
người Việt sử dụng rất nhiều.
Các nước phương Tây hầu hết là những nước công nghiệp, đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Người phương Tây nói chung và người Anh, Mỹ nói
riêng, coi trọng tính chính xác và chuẩn mực, luôn có cái nhìn rất thực tiễn.
Người Anh, Mỹ thiên về lối sống độc lập, thích có thay đổi và thử thách trong
cuộc sống, không dễ chấp nhận cuộc sống ổn định. Một điểm nổi bật trong
văn hoá Anh, Mỹ đó là sự coi trọng tính chính xác, chẳng hạn như việc đến
chỗ hẹn gặp đúng giờ, đi làm đúng giờ…, nếu đến muộn thì sẽ bị coi là bất lễ.
Điều này cũng được phản ánh khá rõ trong ngữ pháp của các ngôn ngữ
phương Tây nói chung và tiếng Anh nói riêng. Ngữ pháp của các ngôn ngữ
phương Tây là một thứ ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy móc. Do đó, trong các
TNBPCTKM tiếng Anh, ta có thể gặp rất nhiều dạng đoản ngữ (đoản ngữ
danh từ, đoản ngữ động từ, đoản ngữ tính từ…) có cấu trúc chặt chẽ: đã là
52
đoản ngữ động từ thì thành tố chính phải là một động từ, rồi có các bổ ngữ
(stick one’s nose into something, do something in the eye…); đã là đoản ngữ
danh từ thì thành tố chính phải là danh từ và có các định ngữ (a roving eye,
brown nose…)… mà chúng ta không hề thấy có các dạng cấu trúc đoản ngữ
bất thường, với các cách thay đổi trật tự từ không theo quy tắc nêu trên.
Tìm ra sự khác biệt và sự tương đồng trong cấu trúc của TNBPCTKM
ở cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt là hết sức cần thiết. Tìm ra được
những cấu trúc điển hình mục đích là để mô hình hoá các dạng thức dịch, hay
nói cách khác là cách thức chuyển dịch tương ứng một TN TV sang TA. Nhìn
chung, TN TV có cấu trúc rất đặc trưng với hai từ lồng chéo nhau hợp nghĩa
hay tách nghĩa bằng một từ chung (đầu mày cuối mắt, mặt nặng mày nhẹ
v.v...) khi chuyển sang TA sẽ có những kết cấu đoản ngữ: danh từ, tính từ,
động từ v.v... tương ứng, và khi chuyển dịch sang TA sẽ dễ hiểu và chính xác
hơn ( Ví dụ: mặt nặng mày nhẹ mặt mày nặng nhẹ).
3.3. Những nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM
Nghĩa của TN không được xác định bằng cách suy luận nghĩa từ các từ
thành phần cũng như bằng tổng nghĩa của chúng. TN thường có nghĩa bóng.
Nghĩa của TN phải được xác định trong ngữ cảnh sử dụng tuỳ thuộc vào mối
quan hệ của những người tham gia vào quá trình giao tiếp.
Mục này sẽ chú trọng tới những mối liên hệ của hình ảnh ngữ nghĩa của
TN; khái niệm tích cực hay tiêu cực khi sử dụng TNBPCTKM ; cách sử dụng
các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các TN này, phương
thức thể hiện và tần suất dùng của các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng
Việt.
3.3.1. Mối liên hệ giữa ngữ nghĩa và hình ảnh của các TNBPCTKM trong
tiếng Anh và tiếng Việt.
Căn cứ vào kêt quả phân tích ngữ nghĩa và hình ảnh cấu thành nên TN,
các TNBPCTKM có thể có những dạng xuất hiện sau:
53
- giống nhau hoàn toàn hình ảnh và nghĩa (tương đương hoàn toàn)
- gần giống về hình ảnh, đồng nghĩa (tương đương bộ phận)
- khác nhau về hình ảnh, đồng nghĩa
- giống nhau về hình ảnh (hoàn toàn hoặc bộ phận), khác nhau về nghĩa (hoàn
toàn hoặc có nét nghĩa khác bổ sung)
- khác nhau về ý nghĩa, khác nhau về hình ảnh, mặc dù chỉ dùng chung các từ
chỉ bộ phận cơ thể khuôn mặt.
Phân loại TNBPCTKM trên mối liên hệ giữa ngữ nghĩa và hình ảnh
trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Đơn vị TN
Tiểu loại Tiếng Anh Tiếng Việt
= ý nghĩa = hình Lose face Mất mặt
Face to face Mặt đối mặt ảnh
Have one’s nose in Chúi mũi vào = ý nghĩa hình
something Không biết giấu mặt đi ảnh
Could not show one’s face đâu
Wet behind the ears Vắt mũi chưa sạch = ý nghĩa hình
ảnh
See somebody with half Nhìn người bằng nửa con ý nghĩa = hình
any eye (chỉ thoáng nhìn mắt (khinh thường, coi ảnh
một cái là đã trông thấy ai thường ai đó)
đó ngay)
An eye for an eye (ăn Mắt sắc như dao cau ý nghĩa hình
miếng trả miếng) Mưa bao giờ mát mặt bấy ảnh (mặc dù có
Shut your face (thôi nói giờ sử dụng chung từ
đi,) chỉ bộ phận
54
khuôn mặt)
Bảng 3.3
Thống kê các trƣờng hợp về mối liên hệ giữa hình ảnh và ý nghĩa thành
ngữ:
Tiểu loại Ý nghĩa Ý nghĩa Ý nghĩa trùng Ý nghĩa Ý nghĩa
và hình và hình và hình ảnh khác nhau khác nhau,
Tiếng ảnh trùng ảnh gần khác nhau nhưng hình hình ảnh sử
nhau hoàn toàn ảnh gần dụng khác trùng
nhau hoặc cục bộ trùng nhau nhau
Anh – Việt 20 71 6 1 352
Bảng 3.4
Nhận xét:
1. Số lượng TN trùng nhau hoàn toàn trong hai ngôn ngữ là 4,1%. Số lượng
TN trùng hợp nhau gần như hoàn toàn chiếm 14,7 %, tương đối nhiều.
2. Số lượng TN có ý nghĩa giống nhau mà hình ảnh khác nhau chiếm 1,2%.
Số lượng TN ý nghĩa khác nhau nhưng hình ảnh gần trùng nhau rất ít, chỉ
chiếm 0,2%.
3. Số lượng TN ý nghĩa khác nhau, sử dụng hình ảnh khác nhau (mặc dù có
sử chung từ chỉ bộ phận khuôn mặt chiếm đa số), chiếm 72,9%.
4. Số lượng TN không trùng nhau của TV và TA có nguồn gốc sâu xa: TA
chịu ảnh hưởng nhiều từ các thứ tiếng khác như Latinh và Pháp. Tiếng Anh là
ngôn ngữ biến hình, còn tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Mỗi dân tộc thường
có những khái niệm nhất định gắn cho mỗi vật, hiện tượng. “Trong TN, một
bộ phận quan trọng của bức tranh ngôn ngữ thế giới về cuộc sống thực tiễn
trong tổng thể các hiện thực văn hoá xã hội của một dân tộc, thể hiện tính
cách, tư duy của dân tộc đó – chính là hình tượng dân tộc. Về phương diện
này những từ then chốt thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc được gọi là các hình
tượng ổn định bằng ngôn từ” [29;136]. Các bộ phận trên khuôn mặt như mắt,
55
mũi, mồm, miệng... được coi là các từ then chốt và thường được dùng trong
nhiều thành ngữ chỉ hoạt động và tính cách con người. Mỗi dân tộc đều có
cách đánh giá nhất định cho mỗi bộ phận cơ thể con người nói chung và các
bộ phận trên khuôn mặt nói riêng. Có những bộ phận cơ thể con người được
người Việt đánh giá cao thì người Anh lại không có cách đánh giá như vậy.
Người Việt, do ảnh hưởng “nhân tướng học” của người Trung Quốc, nghiên
cứu về “hình dung tướng mạo” con người để suy đoán tính cách, hành động,
và số phận của con người, nên tất cả các bộ phận trên khuôn mặt được sử
dụng trong TN đều thiên về nét nghĩa miêu tả hình dáng, tính cách. Chẳng
hạn người Việt thường dùng hình ảnh mặt và miệng để tả hình dáng con
người (da chì mặt bủng – người ốm yếu, mặt hoa da phấn - người phụ nữ có
vẻ ngoài tươi đẹp, nõn nà, da ngà mắt phượng – người con gái đẹp, mắt trắng
môi thâm – người có tướng người bạc bẽo, bất nhân). Còn người Anh vốn chỉ
coi tất cả các bộ phận trên khuôn mặt đơn thuần là các bộ phận cơ thể của con
người mà thôi, ngoại trừ đôi mắt. Đôi mắt ngoài ý nghĩa định danh còn được
người Anh sử dụng với nét nghĩa biểu trưng cho con người, để mô tả tính
cách, hình dáng và tâm hồn con người (ví dụ: four eyes –bốn mắt (người cận
thị). Hình ảnh tai được người Việt sử dụng để nói về thái độ, hành vi của con
người (đỏ mặt tía tai – tức giận, đút nút lỗ tai – không thèm nghe không thèm
để ý), trong khi đó người Anh thường sử dụng hình ảnh tai để nói về khả
năng thính giác nhiều hơn (an ear for something – có tai cho cái gì (có khả
năng phân biệt được các âm thanh), easy on the ear – dễ nghe). Người Việt sử
dụng hình ảnh mũi để nói về tính cách, quan điểm (vắt mũi chưa sạch – còn
non dại chưa biết gì, vuốt mặt không nể mũi), trong khi đó người Anh lại dùng
hình ảnh mũi để ám chỉ về con người nhiều hơn (keep one’s nose clean – giữ
mũi mình sạch (giữ cho bản thân trong sạch). Hình ảnh má và chán hầu như
không được sử dụng trong TN tiếng Anh, nhưng người Việt lại dùng hai hình
ảnh này để tả về tính cách, dung mạo của con người (má đào mày liễu, phùng
56
má trợn mắt, trán bánh trưng lưng tôm càng). Một điểm khác biệt nữa là,
miệng trong thành ngữ tiếng Anh được sử dụng gần như hoàn toàn khác với
miệng được sử dụng trong thành ngữ Tiếng Việt. Miệng trong thành ngữ tiếng
Anh thường được sử dụng với nghĩa theo đúng chức năng của nó, là nói (VD:
keep one’s mouth shut – giữ miệng đóng – không tiết lộ bí mật, câm miệng
hến; live from hand to mouth – sống từ tay đến miệng – sống lần hồi cho qua
ngày, đoạn tháng), còn trong tiếng Việt, miệng được sử dụng với nghĩa rộng
hơn, để đánh giá tính cách, hành vi, thái độ của con người (VD: dại mồm dại
miệng – nói năng vụng về thiếu suy nghĩ; miệng bồ tát bụng dao găm – kẻ giả
dối, thái độ giả tạo, không thật lòng). Như vậy, đặc điểm mà các NN gắn cho
những bộ phận trên khuôn mặt không phải lúc nào cũng giống nhau.
Dưới đây là bảng thống kê các ý nghĩa được gắn cho các bộ phận trên
khuôn mặt con người
Bảng thống kê ý nghĩa của các thành ngữ có sử dụng các bộ phận trên
khuôn mặt con ngƣời
Bộ phận Ý nghĩa Tiếng Anh Tiếng Việt
Miêu tả vẻ bề ngoài của con - +
người
Mặt Miêu tả tính cách nội tâm + +
- + Miêu tả tâm sinh lý con người
+ + Miêu tả quan điểm
+ + Chỉ các hoạt động khác
- + Miêu tả vẻ bề ngoài
- + Đánh giá tính cách con người
+ + Thái độ coi thường, ngạo mạn
- + Tâm sinh lý con người
- + Thói quen
57
Mắt Chỉ các hoạt động theo dõi + -
Tình cảm dành cho người khác + -
Chuyện vô lý + -
Quan điểm + -
Chỉ các hoạt động khác + +
Đánh giá tính cách con người - +
Miệng Thái độ giả tạo - +
Hành động nửa vời - +
Nói năng vụng về, thiếu suy nghĩ - +
Kinh nghiệm trồng trọt & chăn - +
nuôi
Cách nói năng, cư xử + +
Bí mật, không tiết lộ + +
Thái độ xúc phạm, sỉ nhục người + -
khác
Xuất thân từ gia đình quyền quý + -
Chỉ các hoạt động khác + +
Hoàn cảnh túng thiếu - +
Còn trẻ dại - +
Quan điểm + +
Hành động côn đồ - +
Mũi Sự nhạy bén + -
Kiểm soát người khác + -
Xúc phạm, sỉ nhục người khác + -
Can thiệp vào chuyện của người + +
khác
Đánh giá tính cách con người + +
58
Chỉ các hoạt động khác + +
Tai Miêu tả hình dáng của con người - +
Hành vi + +
Tin dữ, bất ngờ, choáng váng - +
Thái độ bàng quan + +
Sự nhạy bén + -
Thái độ cảnh giác + -
Bận rộn + +
Chỉ các hoạt động khác + +
Hành động dại dột - +
Thái độ, hành động giả tạo - +
Đánh giá tính cách con người + +
Môi Kinh nghiệm ăn uống - +
Có cùng quan điểm + -
Chỉ các hoạt động khác + +
Miêu tả hình dáng con người - +
Má Tình cảm + +
Thái độ, hành vi - +
- + Lông mày Miêu tả hình dáng con người
- + Tình cảm quyến luyến
- + Trán Miêu tả hình dáng con người
Bảng 3.5
Nhìn chung, hình ảnh các bộ phận trên khuôn mặt con người được sử
dụng trong các thành ngữ đều khác nhau ở mỗi ngôn ngữ. Một số hình ảnh
được sử dụng giống nhau trong hai ngôn ngữ (mặt, mắt...), nhưng cũng có
một số hình ảnh có ở ngôn ngữ này mà không có ở ngôn ngữ kia (VD: lông
mày có ở tiếng Việt, nhưng lại không có trong tiếng Anh).
59
Nhìn chung, người Việt thường sử dụng TNBPCTKM để đánh giá con
người nhiều hơn người Anh.
3.3.2. Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM.
Các đặc trưng văn hoá dân tộc thường được minh chứng bằng hai con
đường tin cậy: khảo cổ học và NN học. Đó cũng chính là lý do chúng tôi
muốn lấy NN làm cơ sở cho các đánh giá và nhận định về thái độ của mỗi dân
tộc thông qua các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Tuy nhiên các
TNBPCTKM không phải lúc nào cũng có giá trị ngang bằng đối với thái độ
tích cực cũng như tiêu cực. Một số phẩm chất được coi là tích cực trong tư
duy của người Việt chưa hẳn đã được coi trọng trong TA và ngược lại. Hoặc
một số các bộ phận trên khuôn mặt được người Việt sử dụng với ý nghĩa tích
cực chưa hẳn đã được người Anh sử dụng theo sắc thái nghĩa như vậy. Ví dụ:
miệng (mouth) trong TA thường được sử dụng với ý nghĩa tích cực (born with
a silver spoon in one’s mouth – sinh ra đã có chiếc thìa bạc trong miệng – có
nguồn gốc quyền quý), thì người Việt lại thường sử dụng miệng với ý nghĩa
tiêu cực (mồm năm miệng mười, miệng hùm nọc rắn, há miệng chờ sung....)
Mắt trong tiếng Anh thường được sử dụng với ý nghĩa tích cực. Ví dụ:
have an eye for something – có mắt cho cái gì - là người sành sỏi, có giác
quan tinh tế về cái gì; have eyes in the back of one’s head – có mắt ở sau đầu
– sành sỏi, tinh tường, cái gì cũng thấy. Còn ở tiếng Việt, mắt lại được sử
dụng nhiều với cách nói tiêu cực. Ví dụ: mắt cú da lươn; mắt có mắt chọi,
răng có răng chọi; mắt trắng môi thâm...
Đánh giá tính cách con người. Một điểm đặc trưng trong các
TNBPCTKM là được sử dụng để đánh giá tính cách con người. Có thể thấy
số lượng TN TV đánh giá tính cách con người theo nghĩa tiêu cực khá phổ
biến. Những bộ phận cơ thể được sử dụng làm hình ảnh trong các TN đánh
giá tính cách con người có tần số xuất hiện nhiều là mặt, mắt, miệng, môi. Ví
dụ, để nói một con người độc ác, không lương thiện người Việt thường nói:
60
mặt người dạ thú, trở mặt như trở bàn tay, miệng bồ tát bụng dao găm, miệng
nam mô bụng bồ dao găm, mắt cú da lươn, mắt trắng môi thâm, đầu trâu mặt
ngựa.... Khi nói về một người có cách cư xử không đàng hoàng, người Việt
thường nói: mồm năm miệng mười, đầu môi chót lưỡi...., khi nói tới thái độ
coi thường, bất cần, ngạo mạn, người Việt sử dụng các thành ngữ: lên mặt
xuống chân, coi người bằng nửa con mắt, coi đời bằng nửa con mắt... Tương
tự như vậy, người Anh cũng thường sử dụng các TN có những từ mắt (eye),
mũi (nose), môi (lip) để đánh giá con người theo nghĩa tiêu cực: do something
in the eye ( làm cái gì trong mắt – xúc phạm ai), the evil eye ( cái nhìn độc
địa), a roving eye (mắt láo liên), blow one’s nose (hỉ mũi – coi thường ai),
poke one’s nose into something (thọc mũi vào chuyện người khác), curl one’s
lip (bĩu môi – coi thường ai)...
Các TNBPCTKM ở cả hai thứ tiếng cũng được sử dụng với ý nghĩa
tích cực. Khi nói người có chức quyền, hoặc giàu có, người Việt thường nói là
có máu mặt. Để tả những cô gái đẹp, người Việt thường nói mặt hoa da phấn,
da ngà mắt phượng, má đào mày liễu, mày ngài mắt phượng, con mắt lá răm
lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền... Số lượng các TN TA được sử dụng
theo nghĩa tích cực cũng có, nhưng không đáng kể, ví dụ: the apple of
somebody’s eye (cục cưng), born with a silver spoon in one’s mouth (có
nguồn gốc quyền quý)...
Rõ ràng, nếu xét những câu TNBPCTKM cả trong tiếng Anh và tiếng
Việt, chúng ta sẽ thấy nhiều điều khác nhau trong cách sử dụng TN mang
nghĩa tích cực và tiêu cực, vì có những điểm không tương đồng trong quan
niệm của con người ở mỗi một nền văn hoá khác nhau, do vậy khi sử dụng
thành ngữ để đánh giá con người phải hết sức thận trọng.
3.3.3. Sử dụng các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các
thành ngữ này
61
Qua những ngữ liệu thu thập được từ các tác phẩm văn học, tác phẩm
dịch, cũng như từ một số trích dẫn trong các nguồn từ điển của các thứ tiếng
trên, chúng tôi thấy các TNBPCTKM được sử dụng không giống nhau trong
hai thứ tiếng. Sự giống hay khác nhau thể hiện ở cách dùng một TN trực tiếp
hay gián tiếp trong các cuộc hội thoại thông qua hệ thống đại từ nhân xưng
của các thứ tiếng. Hệ thống đại từ nhân xưng được tóm lược ở ba ngôi chính,
trong đó (1) và (2) được coi là dùng TN trực tiếp để nhận xét về đối tác giao
tiếp hoặc nói về mình. Trong nhóm này đương nhiên bao gồm cả những
trường hợp dùng TN ở thức mệnh lệnh và (3) là những TN được dùng để nói
về đối tượng khác không trực tiếp tham gia vào quá trình giao tiếp. Trong
nhóm này bao gồm cả những trường hợp dùng TN dưới dạng vô nhân xưng
(phổ biến trong TV). Cụ thể các nhóm như sau:
1/ ngôi thứ nhất (chủ thể giao tiếp) bao gồm: I, we; tôi, chúng tôi/ chúng ta
2/ ngôi thứ hai (đối tác giao tiếp) bao gồm: you; các anh/ chị/ ông/ bà...
3/ ngôi thứ 3 bao gồm: s/he, it; (người) ấy, họ
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về các trường hợp dùng TN trực tiếp và gián
tiếp.
Trực tiếp:
1a. A: What about going to the cinema? (Bọn mình đi xem phim đi?)
B: Sure. And what’ll we do after that? (Đi. Thế sau đó mình sẽ làm gi?)
A: Oh, I don’t know. We’ll play it by ear (Mình cũng chưa biết nữa. Nhưng
mà cứ đi đã rồi tuỳ cơ ứng biến, việc gì phải tính toán trước làm gì cho mệt)
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
1b. A: Why were you teasing Sonia about her new hairdo? She really took
offense at what you said. (Sao cậu lại chọc cái kiểu đầu mới của Sonia? Nó
bực thật đấy)
B: I didn’t mean to offend her. I was simply making a tongue-in-check
remark when I said that it was too elaborate for a girl of her young, tender
62
age. (Nào tớ có định làm nó bực mình, tớ chỉ đùa chút thôi là vào tuổi đáng
yêu như cô nàng mà làm cái đầu thế thì hơi cầu kỳ quá).
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
2a. Mày có im cái miệng đi không? Mày cứ mồm năm miệng mười, cãi lại bố
mẹ cứ chem chẻm! (Hoàng Tuấn. Chị Dâu)
2b. Không biết thì nghe các cụ dạy bảo, chứ chúng mày con cháu vắt mũi
chưa sạch mà đòi khôn hơn ông vải sao được? (Nguyễn Như ý, và những
người khác, 1995:203)
Gián tiếp:
TN chỉ đối tượng gián tiếp qua lời dẫn của tác giả, tăng giá trị nhận xét
khách quan đối với tính cách của nhân vật.
1a. At last Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an
auction. Since many other stamp collectors would also be bidding for it, he
realized that he would have to Mr. Smith came upon the rare stamp he had
been seeking at an auction. Since many other stamp collectors would also be
bidding for it, he realized that he would have to pay through the nose in order
to have it.
Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu
giá mà ông tốn hao bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm
muốn mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng
mua được nó.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
1b. Jim doesn’t play tennis very much, but he’s always shooting off his mouth
about how good he is. Yet he’s fooling nobody.
Jim có võ vẽ chút ít về quần vợt nhưng lại hay ba hoa chích choè rằng
mình điêu luyện lắm. Nhưng loè được ai đâu.
(Longman Idioms Dictionary)
63
2a. Hồi Hà nội mới giải phóng (1954) Lan Vân hãy còn là một cô bé thò lò
mũi xanh (Báo Quân đội nhân dân, 6/10/74)
2b. Cái cô nàng mặt hoa da phấn đó mà lại là một phường lừa đảo. Thật
chẳng ai tin được! (Trần Văn Thước. Ngày xưa thương mến.)
Bảng thống kê cách dùng TN trong tiếng Anh và tiếng Việt
Lối dùng
Trực tiếp Gián tiếp
NN
Anh 77 223
Việt 147 203
Bảng 3.6
Bảng 3.6 được thống kê trên cơ sở của các dữ liệu TN thu thập từ các
tác phẩm văn học thông qua lối dùng TN của hệ thống nhân vật hoặc của
chính tác giả. Trong đó TA: 300 ví dụ, và TV: 350 ví dụ. TN TA có lối dùng
gián tiếp nhiều hơn hẳn so với lối dùng trực tiếp (223/77); TN TV dùng trực
tiếp và gián tiếp không bị chênh lệch nhau nhiều quá, mặc dù dùng gián tiếp
vẫn phổ biến hơn dùng trực tiếp (203/147). Do đó, chúng ta có thể thấy rõ
rằng các lối dùng TN gián tiếp rất phổ biến ở cả người Anh và người Việt.
Điều này cũng được chứng minh qua khảo sát trường hợp về lối dùng thành
ngữ của người Mỹ, vốn rất thận trọng, nhất là trong nhận xét đánh giá con
người mang tính chất xúc phạm cao. Đặc điểm nổi bật của cách sử dụng ngôn
từ của người Việt là dùng dạng vô nhân xưng, cho thấy tính chất “vòng vo”,
né tránh, hàm ẩn, không “thẳng thừng” trong phong cách giao tiếp của người
Việt, phù hợp với việc bao biện theo tình huống “khôn khéo trong ứng xử”
(tích cực) và lối sống “dĩ hoà vi quý”, “bóng gió”, “cạnh khoé” …(tiêu cực)
của người Việt (Trần Ngọc Thêm, 1996).
64
3.4. Tiểu kết chương 3.
Trong chương này, chúng tôi đã phân tích và so sánh TNBPCTKM ở các
góc độ khác nhau: cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Cụ thể là, thống kê, so sánh
các cấu trúc của TN hai thứ tiếng; thống kê so sánh hình ảnh ý nghĩa của
TNBPCTKM ở hai thứ tiếng; và thống kê so sánh lối dùng trực tiếp hay gián
tiếp của TNBPCTKM của hai thứ tiếng qua hệ thống đại từ nhân xưng được
dùng trong các tác phẩm văn học. Chúng tôi đã rút ra một số nhận xét:
- nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.
- nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.
- nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.
Đặc điểm về lối dùng TN nhất là TNBPCTKM đặc biệt quan trọng và
có ý nghĩa đối với học sinh Việt Nam học tiếng Anh và những người nói tiếng
Anh học tiếng Việt. Những kiến thức về ngôn ngữ như thế này sẽ giúp cho
học viên hoàn thiện NN mình nghiên cứu và học tập.
65
CHƢƠNG 4: MỘT VÀI ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH
NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI
HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
4.1. Ứng dụng trong khi chuyển dịch thành ngữ từ Tiếng Việt sang Tiếng
Anh.
Theo kinh nghiệm của nhiều phiên dịch lâu niên, dịch xuôi (từ ngoại ngữ
sang tiếng mẹ đẻ) bao giờ cũng khó hơn dịch ngược (từ tiếng mẹ đẻ sang
ngoại ngữ). Lý do thật đơn giản: trong khi dịch nói, người phiên dịch không
phải lúc nào cũng “bắt” được hết tất cả các ý của diễn giả. Trong khi đó, nghe
tiếng mẹ đẻ bao giờ cũng dễ dàng hơn, vì thế, bằng mọi cách người dịch có
thể chuyển tải sang tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, đối với dịch viết, tình hình
không đơn giản như thế, thậm chí còn có thể gây nhiều “đau đầu” cho dịch
giả. Theo Lê Đình Tư (1995), dịch từ TV sang tiếng nước ngoài có hai khó
khăn điển hình sau:
1. Xét từ quan điểm phi NN: Khó khăn trong việc tìm kiếm các hình thức NN
tương đương. Ví dụ, Truyện Kiều khi chuyển dịch sang tiếng Ba Lan, hay
truyện thơ Evghênhi Ônhêghin khi dịch sang nhiều thứ tiếng khác, đã phải
chấp nhận lối chuyển dịch sang thể văn xuôi, do đó, giá trị nghệ thuật của tác
phẩm nhiều khi bị mất. Điều này chứng tỏ trình độ và khả năng ngoại ngữ của
dịch giả ở đây dường như không đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Cái quan
trọng hơn nằm ở chỗ liệu ngôn ngữ dịch (NND) đó có chấp nhận NN, hay thể
loại NN của nguyên tác hay không.
2. Xét từ quan điểm NN: khó khăn ở đây nằm ở chỗ TV là NN đơn lập, phân
tích trong khi đó, TA lại là NN biến hình. Tuy nhiên, đây không phải là cản
trở không thể khắc phục được trong quá trình chuyển dịch. Cái khó khăn
trong chuyển dịch từ TV sang tiếng nước ngoài thường được nhìn nhận ở
công đoạn khác như phân tích văn bản, và khi đó, cái khó lại thường tiềm ẩn ở
66
khả năng am hiểu tiếng mẹ đẻ của dịch giả, chứ chưa phải là khả năng ngoại
ngữ của dịch giả.
Thông thường, khi phân tích văn bản, người ta chú ý vào ba vấn đề chính:
cảnh huống (field), quan hệ giữa các nhân vật trong văn bản và quan hệ với
chính tác giả (tenor), phương thức NN dùng trong văn bản đó (mode). Thế
nhưng, trong TV tình hình nhiều khi phức tạp hơn nhiều. Cũng theo Lê Đình
Tư, các đơn vị hiện diện trên văn bản dường như rõ nghĩa, nhưng không cho
phép người ta phân tích văn bản theo các thao tác thông thường, tức là phân
tích văn bản trên cơ sở của hai trục quan hệ liên tưởng và quan hệ ngữ đoạn,
như đối với các văn bản bằng tiếng nước ngoài. Ví dụ: “tắm một cái cho nó
mát” – khi dịch sang tiếng nước ngoài sẽ còn là “tắm cho mát”, hoặc “tắm cho
mình mát”, hoặc là “tự mình tắm để (trở nên) mát” (bath to make yourself
cool); Anh lên xe trời đổ cơn mưa – khi anh lên xe thì trời mưa – thiếu yếu tố
liên kết, khi dịch sang TA, phải bổ sung từ liên kết. Tuy nhiên trên thực tế
không phải văn bản nào trong TV cũng đều rõ nghĩa. Hiện tượng “không rõ
ràng” trong TV khá phổ biến, được thể hiện ở một loạt các hình thức khác
nhau.
a. Đàn kêu tích tịch tình tang - đàn gì? Khi dịch sang TA sẽ phải yêu cầu một
loại từ chỉ một cây đàn cụ thể, không có loại đàn chung chung. Dạng nói
“chung chung” này rất điển hình trong TV. Cũng như người Việt không phân
biệt cụ thể chào buổi sáng, buổi trưa, buổi tối; hay ăn sáng, ăn trưa, ăn tối như
trong tiềm thức của người Anh.
b. “Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Câu thơ mô tả Kiều rất đẹp, nhưng cụ thể là cái gì đẹp thế nào thì không ai
biết được. Và khi dịch, chắc chắn người dịch phải xử lý câu theo dạng diễn
giải: Cô Kiều đẹp đến nỗi mà... Những câu dạng này khó có thể có được bản
67
dịch nào ưng ý được vì sẽ không có một dịch giả nào có khả năng chuyển
dịch chúng sang một NN châu Âu theo kết cấu mà NN đó cho phép.
c. “Cổ tay em trắng như ngà. Đôi mắt em sắc như là dao cau”
Dịch giả đã dịch là: My wrist is as white as ivory. My eyes are as sharp
as an erasor.
Có tác giả gợi ý chỉnh sửa là: your eyes are as sharp as a coconut-knife
(mắt em sắc như là dao bổ dừa)
Thứ nhất, đây là lời của người con trai mô tả bàn tay của người con gái,
có thể tạm diễn đạt là: cổ tay của em (mới đẹp làm sao) vì nó trắng nõn nà
như ngà voi, (mà) mắt em trông mới sắc làm sao vì nó giống như con dao
người ta dùng để bổ cau vậy. Do đó, nếu dùng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ
nhất thì câu thơ sẽ trở nên lố bịch: “Anh ơi, anh trông này, cổ tay em đây mới
trắng làm sao, như thể là ngà voi; mà mắt em đây này thì sắc như là con dao
cạo vậy”. Lỗi dịch thuật ở đây là lỗi về kiến thức nền về văn hoá nguồn.
Điểm thứ hai, liên quan tới từ chuyển tải văn hoá (realia) “dao cau”.
Dao cau là một loại công cụ dùng để bổ cau cho các bà các cô ăn trầu. Con
dao này là con dao truyền thống của người Việt được rèn bằng sắt, có màu
đen, chuôi thường làm bằng gỗ, lưỡi dao sắc lẹm, chỉ cắt một đường nhẹ thôi
là đã có thể bổ được quả cau dù non hay già. Nếu so sánh đôi mắt này với
“dao bổ dừa” rất có thể người đọc sẽ liên tưởng đến “dao quắm”, hoặc “dao
dựa” nhiều hơn. Do vậy, không thể dịch bằng hai từ này. Lỗi dịch ở đây cho
thấy tác giả thiếu kiến thức nền về NN và văn hoá nguồn, dẫn đến hậu quả
đáng tiếc xảy ra. Trong những trường hợp tương tự, cách tốt nhất là giữ
nguyên từ gốc rồi cung cấp chú giải phụ biên (theo nguyên tắc làm giàu
NNĐ).
Như vậy, khi dịch từ TV sang các thứ tiếng châu Âu khác, người dịch
phải chú ý tới các hiện tượng NN văn hoá cũng như những nhân tố ngoài NN
để lại dấu ấn trong TV, so sánh đối chiếu với các đặc điểm cụ thể của NND;
68
tiến hành các thao tác phân tích NN học ở các cấp độ khác nhau từ từ vựng tới
cấu trúc, thể loại, phong cách. Trên cơ sở đó mới tiến hành chọn lựa phương
thức phù hợp để chuyển dịch chúng sang tiếng nước ngoài. Các phương thức
này có thể là tương đương hoặc không tương đương giữa các NN với nhau.
Trên thực tế, phương thức chuyển dịch TN nói chung và TNBPCTKM
nói riêng từ TV sang TA hay bất cứ thứ tiếng nào khác đều không thể tiến
hành khác với những phương thức ở trên vừa đề cập. Có nghĩa là, khi dịch,
dịch giả cũng phải tiến hành các bước tìm hiểu ý nghĩa thực tế của TN, chọn
lựa các phương án dịch bằng một TN khác, dịch tự do, hay dịch diễn giải.
Điều đáng chú ý là TV là NN phân tích, do đó nếu như khi chuyển dịch từ TA
sang TV chúng ta chú ý nhiều tới các hình thức ngữ nghĩa hơn thì khi chuyển
dịch TN từ TV sang tiếng nước ngoài, điều phải quan tâm đầu tiên là có thể
chuyển dịch các TN đó theo cấu trúc của chính các TN đó ở mức độ khác
nhau. Tuy nhiên đây là cả một mảng đề tài lớn không thể trình bày trong
phạm vi luận văn này.
Chúng ta hãy xem xét các ví dụ sau được chuyển dịch từ TV sang TA.
Thành ngữ tiếng Việt -> Tiếng Anh Ý nghĩa Thành ngữ
1. Đầu tắt mặt tối a/ dark head and face [-] Làm lụng khó nhọc vất
b/ nose to the vả không lúc nào rảnh
grindstone [+] rỗi
2. Bẻm mép, lắm a/ have many mouths [-] Người nói năng linh
mồm b/ have a loose tongue tinh những chuyện
[+] không đáng tin
3. Miệng còn hơi sữa a/ Somebody still has Còn non dại, chưa biết
smell of milk in the gì, không đáng đếm xỉa
mouth [-] đến
b/ wet behind the ears
69
[+]
4. Có máu mặt a/ have face blood [-] Người có thế lực, địa vị
b/ a big head [+] trong xã hội
5. Xỏ mũi ai a/ stick through Lừa dối ai
somebody’s nose [-]
b/ feed someone a line
[+]
6. Đổ mồ hôi trán a/ sweat on the forehead Làm lụng hết sức vất
[-] vả, cực nhọc
b/ bend over backwards
[+]
7. Phải lác mắt a/ make somebody Làm cho ai sửng sốt,
crossed-eyed [-] ngạc nhiên
b/ knock someone’s
socks off [+]
amaze somebody []
8. No bụng đói con a/ full belly, hungry eye Bụng no rồi, không ăn
mắt [-] được nữa nhưng vẫn tỏ
b/ eyes are bigger than ra thèm muốn.
one’s stomach [+]
Bảng 4.1
Chú giải:
[-]: Là những yếu tố trực dịch từng từ, không thể hiểu được, không thể chấp
nhận được.
[+]: Là những yếu tố chuyển dịch trực tiếp, có thể hiểu được, có thể chấp
nhận được.
70
[]: Là những yếu tố chuyển dịch trực tiếp có thể chấp nhận được trong dịch
nói.
Trong các thành ngữ trên, xét về mặt cấu trúc, các thành ngữ đều là
những thành ngữ có cấu trúc đoản ngữ, không hề gây một cản trở gì cho
người dịch ở cấp độ trung bình. Nhưng xét về mặt ngữ nghĩa, thì hoàn toàn có
thể coi chúng là những thành tố “có vấn đề” trong dịch thuật, nghĩa là chúng
đều có một cái gì đó đặc trưng rất Việt Nam, những yếu tố ngoài NN không
chuyển dịch được bằng các yếu tố tương đương, hoặc dịch đơn thuần từ sang
từ, khi đọc câu dịch tiếng Anh, hoàn toàn là những câu dịch vô nghĩa, không
chấp nhận được và không hiểu được. Trong những trường hợp như vậy,
người dịch có thể dịch theo nghĩa của thành ngữ, tức là hiểu nghĩa của câu
thành ngữ tiếng Việt và chuyển dịch, giải thích theo đúng nghĩa đó, hoặc tìm
một thành ngữ tương đương trong tiếng Anh để thay thế.
Điều khó khăn khi chuyển dịch các TN từ TV sang tiếng nước ngoài
chưa hẳn là các TN đó có thể chuyển dịch được sang các thứ tiếng khác hay
không mà là ở chỗ chuyển dịch nghĩa đen của các từ thành phần như thế nào.
Do TN TV có cấu tạo rất đặc biệt nên nhiều khi chuyển dịch sang tiếng nước
ngoài thì tính TN của các TN TV không còn nữa. Ví dụ:
da chì mặt bủng = người ốm yếu (“pale and weak”)
tay bắt mặt mừng = gặp gỡ vui vẻ (“in high spirit”)
Một số lớn thành ngữ khác khi chuyển sang tiếng nước ngoài có cấu
trúc của các câu ghép, khi dịch không thể không đưa thêm các liên từ nối ý,
hay “biểu thức nối ý”. Đó cũng là điểm đáng chú ý của TN TV trong mối
tương quan với TN các thứ tiếng châu Âu khác như tiếng Anh. Ví dụ:
Có mặt thì mắng, vắng mặt thì thương (khi có.... thì....); có trầu chẳng
để môi thâm (bởi vì.... nên)...
71
Dịch thành ngữ không nên tiến hành theo một phương pháp cứng nhắc.
Tùy trường hợp cụ thể người dịch có thể chọn cho mình các lối dịch khác
nhau.
4.2. Ứng dụng trong giảng dạy.
TN, như đã trình bày, là đề tài hứng thú không bao giờ cạn đối với
người học ngoại ngữ. Ngay từ những ngày đầu tiên, học viên đã luôn luôn đặt
ra những câu hỏi về cách diễn đạt ý này hay ý khác trong tiếng mẹ đẻ của
mình ra tiếng nước ngoài. Do đó, dù muốn hay không, giáo viên nên chủ động
cung cấp những bài tập về TN cho học viên. Các dạng bài tập rất đa dạng và
được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: theo nhóm, theo cặp, hoặc
độc lập. Trong đó từ 1-9 là những dạng bài tập cơ học, có thể áp dụng rộng rãi
trong các giờ thực hành tiếng ở giai đoạn hoàn thiện nên có thể áp dụng ở giai
đoạn nâng cao và các giờ dạy dịch. Học viên có thể thực hiện độc lập cũng
như cộng tác, có hoặc không có hướng dẫn của giáo viên.
1. Khoanh tròn câu trả lời đúng.
2. Đóng vai.
3. Cắt đôi TN thành hai cột, lắp ghép thành TN hoàn chỉnh.
4. Viết một đoạn song thoại, độc thoại hay những đoạn ngắn có dùng một
hoặc nhiều TN.
5. Sắp xếp các cặp TN và ý nghĩa của TN ở các cột khác nhau.
6. Điền vào ô trống.
7. Sắp xếp TN theo từng nhóm cụ thể.
8. Kiểm tra trình độ hiểu biết về TN của học viên thông qua việc kết thúc câu.
9. Bài tập nhận dạng TN.
10. Chọn một từ tiếng Anh, tìm từ tương đương trong TV. Tìm những từ có
khả năng kết hợp với từ đó. Tạo một danh mục từ độc lập tương đương với
các tập hợp từ đó trong một NN khác. So sánh hai hoặc ba danh mục từ đó và
72
bình luận về những sự giống nhau hay khác nhau trong các cách thức kết hợp
từ.
11. Tạo một danh mục các tập hợp từ phổ biến của một từ TA (hoặc TV – tuỳ
theo sự lựa chọn của cá nhân). Sau đó đưa ra một số gợi ý về các tập hợp từ
phổ biến trong NNĐ chuyển tải nghĩa tương tự và bình luận về khác biệt
nghĩa (nếu có). Nếu không có tương đương có thể đưa ra giải pháp chuyển ý,
chú giải phụ biên để có thể diễn đạt được nghĩa nguyên gốc của tập hợp từ đó.
12. Tạo một danh mục TN quen thuộc với mọi người và có thể có những TN
tương đương trong các NN khác. Sau đó bình luận những sự khác biệt về
nghĩa, hình thức cấu trúc của TN, tình huống sử dụng của các TN đó.
13. Tạo danh mục những TN khó dịch trong tiếng Anh. Ví dụ như những
thành ngữ miêu tả truyền thống văn hoá, sinh hoạt của người Anh, sau đó cố
gắng diễn giải nghĩa của các TN đó hai lần; lần đầu càng vắn tắt càng tốt để
có thể chèn vào trong bất cứ văn bản nào; lần hai càng chi tiết càng tốt để có
thể dùng chú giải phụ biên dưới dạng footnote.
14. Cho một văn bản cụ thể với nhiều TN khác nhau rồi yêu cầu dịch. Sau đó
bình luận về các chiến thuật đã dùng để dịch các TN đó.
15. Cho một văn bản cụ thể với mục đích của bài dịch rõ ràng, ví dụ, dịch
quảng cáo. Nhiệm vụ của người dịch là gây được tác động rõ ràng lên người
đọc để họ ghi nhớ và mua nhiều hàng cho công ty. Mục đích của loại bài tập
này không chỉ đơn thuần là chuyển tải nội dung mà còn phải thực hiện chức
năng cụ thể nhằm tác động tới độc giả văn bản đích (VBĐ).
Nguyên tắc vàng: không dùng TN một khi chưa hiểu hết hoặc chưa
cảm nhận được TN đó để tránh những trường hợp sai sót đáng tiếc xảy ra.
Gợi ý: giáo viên có thể cùng học viên tạo ra một sổ tay TN học đường.
Trong giảng dạy dịch vấn đề hiểu ý đồ của tác giả là hết sức quan trọng.
Đó là điểm khởi đầu của mọi khởi đầu. Do đó, trước hết, cần phải hiểu được
mục đích của văn bản. Quay trở lại văn bản trên về quảng cáo mới xuất hiện
73
trong tiếng Anh. Rõ ràng đây là thể loại quảng cáo. NN của quảng cáo càng
ngắn gọn bao nhiêu, càng hiệu quả bấy nhiêu, và rất có thể nó được viết ra
trên những tấm băng rôn. Vì rằng nếu nó là một văn bản giảng bài về sự nguy
hiểm của uống rượu thì chắc chắn phải viết dài hơn. Đương nhiên, ngữ vực
dùng trong văn bản sẽ không thể cố định mà lệ thuộc vào đối tượng được
trình bày. Nếu đối tượng thuộc nhóm hàn lâm, ngữ vực phải ở mức độ trang
trọng. Nếu để nói cho trẻ em thì phong cách NN dùng phải khác, ít trang trọng
hơn nếu thực sự người nói muốn nâng hiệu lực của lời nói.
4.3. Tiểu kết chương 4.
Chương bốn của luận văn trình bày các ứng dụng của TNBPCTKM
trong dịch thuật và giảng dạy thành ngữ tại các trường Đại học và Chuyên
ngữ
Quy trình dịch TN là dịch thông qua quá trình luận nghĩa dựa trên các kiến
thức nền về văn hoá, NN, xã hội, tâm lí v.v... Tính chất luận giải nghĩa được
hay không, mặc dù mang nhiều tính chủ quan, nhưng đó là con đường đi
không thể bỏ qua trong dịch thuật. Tuy nhiên đó là việc làm không thể không
thực hiện được.
Dựa trên nguyên tắc cơ bản của dịch thuật và các bước tiến hành trong
khi xử lý văn bản dịch, chúng tôi nêu một số ứng dụng cụ thể trong dịch thuật
và giảng dạy ngoại ngữ, cũng như cho đối tượng là các nhà biên – phiên dịch
tương lai.
74
KẾT LUẬN
1. Luận văn đã nêu một vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu.
Ngôn ngữ học đối chiếu là một ngành mới ra đời, hình thành trong trào lưu
nghiên cứu so sánh chung. Chúng tôi cũng trình bày khái niệm về thuật ngữ
so sánh đối chiếu. Khái niệm được sử dụng nhiều nhất là: nghiên cứu đối
chiếu giúp ta xác định được cái giống nhau và khác nhau của ngôn ngữ về
mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng.
2. Trong luận văn này, chúng tôi đã xác định khái niệm TN dùng trong luận
văn, đồng thời điểm qua một vài nét chính về tình hình nghiên cứu TN trong
hai thứ tiếng: tiếng Anh và tiếng Việt. Các nhà nghiên cứu TN TA khai thác
chủ yếu các khía cạnh sử dụng của TN, với các tiêu chí phân loại và nhận
dạng TN trên cơ sở chức năng sử dụng của chúng trong giao tiếp. Còn đối với
TN TV, mặc dù chúng được khá nhiều các nhà NN học quan tâm, cả ở
phương diện so sánh đối chiếu, nhưng cho tới nay vẫn chưa hiện diện một
nghiên cứu chuyên sâu nào tạo một cái nhìn đầy đủ về TN TV có những từ
chỉ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt). Vấn đề nhìn nhận TN
TV trong môi trường giao tiếp thực tế hiện nay vẫn đang còn là mảnh đất mầu
mỡ cho các nhà Việt ngữ học.
Chúng tôi cũng đã xác định khái niệm, tiêu chí phân loại và xác định
TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đồng thời chúng tôi còn phân
tích và so sánh TNBPCTKM ở hai góc độ khác nhau là cấu trúc và ngữ nghĩa.
3. Trên tổng số 483 TNBPCTKM ở cả hai thứ tiếng, tác giả luận văn thống kê
được những phương thức thể hiện ý nghĩa của TNBPCTKM như sau:
a/ Về sự phân bố TNBPCTKM: số lượng TNBPCTKM tìm thấy ở tiếng Anh
và tiếng Việt gần như tương đương, chênh lệch không đáng kể. Tiểu nhóm
những TN có từ chỉ mặt, tai, mắt, mũi trong hai thứ tiếng có số lượng tương
đối đồng đều nhau. Nhóm TN có những từ chỉ mặt và mắt trong hai ngôn ngữ
này được thể hiện khá nhiều. Còn những TN có từ chỉ miệng trong hai ngôn
75
ngữ này chênh lệch nhau một cách rõ rệt, những TN có từ chỉ miệng trong
tiếng Việt nhiều hơn hẳn so với tiếng Anh, hơn gấp bốn lần so với số lượng
những TN có từ chỉ miệng trong tiếng Anh. Còn số lượng những TN có từ chỉ
những bộ phận khác ở cả hai ngôn ngữ đều không đáng kể .
Sự chênh lệch ở những tiểu nhóm TN đều thể hiện cách đánh giá và
tính phổ biến về cách đề cập tới tầm quan trọng của từng bộ phận trên khuôn
mặt con người của từng dân tộc. Do có sự khác biệt về quan niệm, tư duy, tín
ngưỡng và văn hoá giữa hai dân tộc, nên ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị tên
gọi của các bộ phận trên khuôn mặt con người cũng khác. Người Anh đánh
giá bộ phận quan trọng nhất trên khuôn mặt là đôi mắt, vì vậy ý nghĩa biểu
trưng của của đôi mắt cũng được sử dụng nhiều nhất trong TNBPCTKM. Còn
người Việt thuộc nền văn hoá phương Đông, và đặc biệt ảnh hưởng rất lớn từ
văn hoá Trung Quốc, miệng lại được đánh giá là một bộ phận quan trọng nhất
nhì trên khuôn mặt. Do đó miệng có ý nghĩa biểu trưng khá lớn đối với người
Việt. Song song với miệng, mắt và mặt cũng được người Việt coi trọng.
b/ Về cấu trúc TNBPCTKM:
- TNBPCTKM cả hai thứ tiếng đều có những cấu trúc đoản ngữ. TN có cấu
trúc đoản ngữ có số lượng lớn nhất trong các ngôn ngữ được nghiên cứu. Cấu
trúc đoản ngữ trong tiếng Anh có điểm khác so với cấu trúc đoản ngữ trong
tiếng Việt. Trong tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo khá phổ biến.
Lối dùng này thể hiện ở những cặp từ vựng (danh, động, tính, số) song song,
đối lập, lồng chéo với những từ hoặc đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa, hoặc không
có ý nghĩa từ vựng.
- Số lượng TN có cấu trúc đoản ngữ so sánh trong hai ngôn ngữ được nghiên
cứu không nhiều lắm.
- Số lượng TN có cấu trúc mệnh đề trong tiếng Việt tương đối lớn, trong khi
đó TNBPCTKM trong tiếng Anh lại chiếm không đáng kể.
76
Từ những khác biệt về cấu trúc giữa các TNBPCTKM ở TA và TV,
chúng ta có thể tìm ra những cấu trúc điển hình để mô hình hoá các dạng thức
dịch TN TV sang TA. Nhìn chung, TN TV có cấu trúc rất đặc trưng với hai từ
lồng chéo nhau hợp nghĩa hay tách nghĩa bằng một từ chung (đầu mày cuối
mắt, mặt nặng mày nhẹ v.v...) khi chuyển sang TA sẽ có những kết cấu đoản
ngữ: danh từ, tính từ, động từ v.v... tương ứng( Ví dụ: mặt nặng mày nhẹ
mặt mày nặng nhẹ). Do đó, phương thức dịch tương đương hình thức sẽ khó
c/ Về ngữ nghĩa của TNBPCTKM:
có thể thực hiện được đối với TN TA sang TV.
Về hình ảnh: - Số lượng TN trùng nhau hoàn toàn trong hai ngôn ngữ là 4,1%. Số lượng
TN trùng hợp nhau gần như hoàn toàn chiếm 14,7 %, tương đối nhiều.
- Số lượng TN có ý nghĩa giống nhau mà hình ảnh khác nhau chiếm 1,2%. Số
lượng TN ý nghĩa khác nhau nhưng hình ảnh gần trùng nhau rất ít, chỉ chiếm
0,2%.
- Số lượng TN ý nghĩa khác nhau, sử dụng hình ảnh khác nhau (mặc dù có sử
chung từ chỉ bộ phận khuôn mặt chiếm đa số), chiếm 72,9%.
TA là ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất nhiều của các thứ tiếng khác như
Latinh và Pháp. Tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình, còn tiếng Việt là ngôn ngữ
đơn lập. Mỗi dân tộc thường có những khái niệm nhất định gắn cho mỗi vật,
hiện tượng và mỗi dân tộc đều có cách đánh giá nhất định cho mỗi bộ phận cơ
thể con người nói chung và các bộ phận trên khuôn mặt nói riêng. Hình ảnh
các bộ phận trên khuôn mặt con người được sử dụng trong thành ngữ khác
nhau ở hai ngôn ngữ. Một số hình ảnh được người Anh và người Việt sử dụng
giống nhau (mặt, mắt...), nhưng cũng có một số hình ảnh có ở ngôn ngữ này
mà không có ở ngôn ngữ kia (VD: lông mày có ở tiếng Việt, nhưng lại không
có trong tiếng Anh). Nhìn chung, người Việt thường sử dụng TNBPCTKM
để đánh giá con người nhiều hơn người Anh.
77
Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM.
Các TNBPCTKM không phải lúc nào cũng có giá trị ngang bằng đối
với thái độ tích cực cũng như tiêu cực. Một số phẩm chất được coi là tích cực
trong tư duy của người Việt chưa hẳn đã được coi trọng trong TA và ngược
lại. Hoặc một số các bộ phận trên khuôn mặt được người Việt sử dụng với ý
nghĩa tích cực chưa hẳn đã được người Anh sử dụng theo sắc thái nghĩa như
vậy. Một điểm đặc trưng trong các TNBPCTKM là được sử dụng để đánh giá
tính cách con người. Những bộ phận cơ thể được sử dụng để làm hình ảnh
trong các TN đánh giá tính cách con người có tần số xuất hiện nhiều là mặt,
mắt, miệng, môi, đánh giá con người theo cả nghĩa tích cực lẫn nghĩa tiêu cực.
Có thể thấy số lượng TN TV đánh giá tính cách con người theo nghĩa tích cực
và tiêu cực khá đồng đều, mặc dù đánh giá tiêu cực có phần trội hơn. Còn số
lượng các TN TA được sử dụng theo nghĩa tích cực không đáng kể, chủ yếu
là được sử dụng theo nghĩa tiêu cực.
Sử dụng trực tiếp hay gián tiếp:
TN TA có lối dùng gián tiếp nhiều hơn hẳn so với lối dùng trực tiếp.
TN TV dùng trực tiếp và gián tiếp không bị chênh lệch nhau nhiều quá, mặc
dù dùng gián tiếp vẫn phổ biến hơn dùng trực tiếp. Do đó, chúng ta có thể
thấy rõ rằng các lối dùng TN gián tiếp rất phổ biến ở cả người Anh và người
Việt. Sở dĩ như vậy là do người Mỹ, người Anh vốn rất thận trọng, nhất là
trong nhận xét đánh giá con người mang tính chất xúc phạm cao. Đặc điểm
nổi bật của cách sử dụng ngôn từ của người Việt là dùng dạng vô nhân xưng,
cho thấy tính chất “vòng vo”, né tránh, hàm ẩn, không “thẳng thừng” trong
phong cách giao tiếp của người Việt, phù hợp với việc bao biện theo tình
huống “khôn khéo trong ứng xử” (tích cực) và lối sống “dĩ hoà vi quý”, “bóng
gió”, “cạnh khoé” …(tiêu cực) của người Việt (Trần Ngọc Thêm, 1996).
4. Kết quả của các phân tích, đánh giá và nhận xét nêu trên đã giúp cho dịch
giả, người Việt Nam học tiếng Anh và người nói tiếng Anh học tiếng Việt có
78
có thể chuyển dịch hoặc sử dụng TN ở cả hai thứ tiếng một cách thuần thục
và chính xác hơn.
Thực hiện chức năng cơ bản của mình là chức năng giao tiếp, NN là
cầu nối giữa con người với con người trong cùng một xã hội, giữa con người
của xã hội này với con người của xã hội khác. Do vậy, hiểu biết lẫn nhau là
mục đích chính của quá trình giao tiếp. TN, tục ngữ là những lối nói đúc kết
của kinh nghiệm lâu đời, là lối sống, lối tư duy, là bản sắc của từng dân tộc.
Luận văn đề cập đến một vấn đề khá mới mẻ, tài liệu nghiên cứu không
nhiều, thời gian nghiên cứu có hạn sẽ không tránh khỏi những sai sót hạn chế.
Chúng tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các nhà khoa
học, các chuyên gia tâm huyết với vấn đề này, các thầy giáo, cô giáo và bạn
đọc để tiếp tục hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn, góp phần vào quá trình
nghiên cứu kho tàng ngôn ngữ, văn hoá quý báu của dân tộc
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Phạm Văn Bình, (1999). Tục ngữ nước Anh và TN TA giàu hình ảnh. NXB
Hải Phòng.
2. Lê Ngọc Canh, (1999). Văn hoá dân gian. NXB Văn hoá thông tin,
Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Tài Cẩn, (1981). Một số vấn đề về ngôn ngữ học Việt Nam. Hà
Nội: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
4. Đỗ Hữu Châu, (1996). Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt. NXB ĐHQG HN.
5. Nguyễn Văn Chiến, (1992). NN học đối chiếu và đối chiếu các NN Đông
Nam á. Trường ĐHSPNN Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Dân, (1996). Ngữ nghĩa TN và tục ngữ, sự vận dụng. NN(3)
7. Nguyễn Đức Dân, (1998). Lôgic và TV. NXB Giáo dục. Hà nội.
8. Chu Xuân Diên, (1977). Tục ngữ Việt Nam. Hà nội.
9. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh và Vũ Quang Hào, (1995). Từ điển thành ngữ và
tục ngữ Việt Nam. NXB Văn hoá.
10. Nguyễn Thiện Giáp, (1979). Về khái niệm thành ngữ Tiếng Việt. NN (3)
11. Nguyễn Thiện Giáp (1996). Từ và nhận diện từ TV. NXB Giáo dục Hà nội.
12. Bùi Thị Hải, (2001). Khảo sát sự biến đổi ý nghĩa của các từ ngừ Hán –
Việt từ Từ điển Việt Bồ La (1651) đến từ điển tiếng Việt (2000). Trường
ĐH KHXH & NV, Hà nội. Luận văn Thạc sỹ.
13. Hoàng Văn Hành, (1999). Kể chuyện TN, tục ngữ. NXB KHXH Hà nội.
14. Nguyễn Văn Hằng, (1999). TN bốn yếu tố trong TV hiện đại. NXB KHXH
Hà nội.
15. Nguyễn Xuân Hoà, (1992). Đối chiếu NN trong cách nhìn của ngữ dụng
học tương phản (thử nghiệm trên ngữ liệu các đơn vị thành ngữ). NN ,(1),
Tr 43-48.
80
16. Nguyễn Xuân Hoà, (1993). Vai trò của tri thức nền trong việc nghiên cứu
đối chiếu thành ngữ. Văn hoá dân gian, (4) Tr. 52-56.
17. Nguyễn Xuân Hoà, (2000). Nhân tố văn hoá xã hội trong đối chiếu NN.
Ngoại ngữ (12) Trường ĐHNN HN.
18. Hoàng Thọ Huyền, (1999). So sánh liên tưởng của người Anh và người
Việt trên cơ sở chuyển nghĩa bằng phương pháp ẩn dụ của một số danh từ
thuộc trường từ vựng chỉ bộ phận con người. Ngoại ngữ. Hà nội: Trường
ĐHNNHN, số đặc biệt kỉ niệm 40 năm thành lập trường. Tr. 48-52.
19. Nguyễn Bá Kim, (1999). Cẩm nang TN TA (3000 đơn vị). NXB Hà nội.
20. Trần Thị Lan, (2002). So sánh đối chiếu phương thức dịch thành ngữ nhận
xét đánh giá con người trong tiếng Anh, Nga và Việt. Luận án TS. ĐHQG
HN.
21. Nguyễn Lân, (1989). Từ điển TN và tục ngữ Việt Nam. NXBVH HN
22. Nguyễn Văn Mệnh, (1972). Về ranh giới giữa TN và tục ngữ. NN, (3)
23. Nguyễn Văn Mười, (1996). NN tục ngữ với việc phản ánh các yếu tố văn
hoá và nhân sinh quan (Trên cứ liệu tục ngữ Việt - Anh). Luận án PTS.
ĐHQG HN.
24. L.V. Sðcha, (1947). Dạy ngoại ngữ ở trong trường trung học. Vấn đề
chung về phương pháp luận.
25. Lã Thành, (1995). Dictionary of current English – Vietnamese idioms. Từ
điển Thành ngữ Anh – Việt thông dụng (25,000 thuật ngữ). NXB Khoa học
và kỹ thuật. Hà nội.
26. Lê Quang Thiêm. Nghiên cứu đốc chiếu các NN. NXB Đại học và giáo
dục chuyên nghiệp Hà nội.
27. Bùi Khẵc Viện. Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng Việt. Ngôn
ngữ số 1 – 1978.
28. Trần Ngọc Thêm, (1999). Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXB Giáo dục.
81
29. Trịnh Thị Kim Ngọc, (1999). Ngôn ngữ và văn hoá, tri thức nền và việc
giảng dạy tiếng nước ngoài. NXB Khoa học Xã hội.
TIẾNG ANH
30. Amy Tan. When heaven and earth changed places.
31. Broukal M. (1994). Idioms for everyday use. National Textbook Company
Press.
32. Cacciary C. (1993). The place of idioms in a literal and metaphorical
world. In C. Cacciari & P. Tabossi (end.) Idioms: processing, structure,
and interpretation (pp. 27. 50). Amsterdam: Elsevier Science Publisers
33. Catherine Coulter. The Heir.
34. Clark J. (1988). Word wise: a dictionary of English idioms. Harpa Limited.
35. Collins, A. (1992). 101 American English Proverbs. Passport books. USA.
36. Cowie, A.; Mackin, R. & McCraig, I. (1994). Oxford dictionary of English
idioms. Oxford: Oxford University Press.
37. Fernando, C., (1996). Idioms and idiomaticity. Oxford: Oxford University
Press.
38. Glucksberg, S. (1993). Idioms meanings and allusion content. In C.
Cacciari & P. Tabossi (eds.). Idioms: processing, structure, and
interpretation. pp. 3-26. Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.
39. Goodale, M. (1995). Collins Cobuild idioms workbook. Harper Collins
Publishers, Ltd.
40. Hazel Johansen. Barnyard Treasure.
41. Keith Mitchell. Learning How To Use Idioms.
42. Long et al, (1977) Longman dictionary of English idioms. London:
Longman
43. Longman idioms dictionary (over 6000 idioms). Longman 1998.
44. Makkai, A. (1972). Idioms structure in English. The Hague: Mounton
82
45. Makkai, A., Boatner, M. and Gates, J. (1995). Handbook of commonly
used American idioms. Illi. Barron’s
46. Mellisa Bank. The Girls’ Guide To Hunting and Fishing. 47. Muller, (1980). English idioms. 6th LAGUS Forum 1979. Columbia, SC:
Hornbeam Press, pp. 245-254
48. Rosamunde Pilcher. The Shell Seekers.
49. Ruth Seamans. Papa Haydn.
50. Tim Gillette. I apologize for...
51. Các trang Web:
www.geocities.com home.t-online.de www.idiom.co.uk www.pacificnet.net titania.cobuild.collins.co.uk www.eslcafe.com www.goenglish.com www.amazon.com www.elfs.com www.english-zone.com www.goenglish.com www.ossweb.com titania.cobuild.collins.co.uk
83
PHẦN PHỤ LỤC: 50 THÀNH NGỮ CÓ CÁC YẾU TỐ CHỈ BỘ PHẬN
CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT)
Nhóm 1: Thành ngữ có yếu tố chỉ Tai (ear)
1. Play it by ear (“chơi nó bằng tai”) – tuỳ hứng thôi, tuỳ hứng qua cầu thôi,
được đến đâu xâu tới đó, tuỳ cơ ứng biến.
Ví dụ:
A: What about going to the cinema?
Bọn mình đi xem phim đi!
B: Sure. And what’ll we do after that?
Đi. Thế sau đó mình sẽ làm gì?
A: Oh, I don’t know. Let play it by ear.
Mình cũng chưa biết nữa. Nhưng mà cứ đi đã rồi tuỳ cơ ứng biến, việc gì
phải tính toán trước làm gì cho mệt.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
2. All ears (“toàn tai”) – lắng tai nghe, giỏng tai lên.
Ví dụ:
A: Hey, are you listening to me?
Này, cậu có nghe mình nói không đấy?
B: Yes, go on, I’m all ears.
Thì cứ nói đi, mình đang giỏng tai lên mà nghe cậu nói đây còn gì.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
3. Believe one’s ears (“tin tai mình”) – tin ở tai mình, thật ngoài sức tưởng
tượng.
Ví dụ:
A: I couldn’t believe my ears when I heard Mary got married with such an old
man. He must be as old as her father.
Tôi thật là không thể tin được ở tai mình nữa. Con Mary lại đi lấy một cái
lão già như thế bao giờ. Lão ta phải bằng tuổi bố nó ấy chứ.
84
B: It’s no surprise! He is as rich as Rockefeller.
Chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Lão ta giàu nứt đổ đổ vách, giàu như
Rockefeller cơ mà.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
4. Something goes in one ear and out the other (“cái gì đó vào một tai và ra
tai kia”) – vào tai này ra tai kia, nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt.
Ví dụ:
I called them yesterday and explained exactly what I wanted, but
obviously it all went in one ear and out the other.
Hôm qua tôi đã gọi điện cho chúng nó và đã nói rõ việc tôi cần, nhưng
đúng là nước đổ đầu vịt.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
5. To be up to one’s ears (“lên đến tận tai”) – ngập đến tận mang tai, bù đầu
bù cổ, bận tối mắt tối mũi.
Ví dụ:
Herefordshire farmers have been up to their ears in potatoes because of
the high rainfall this year. They even don’t dare to think of a lunch, but only
their farming work.
Nông dân ở Herefordshire đang tối mắt tối mũi với đống khoai tây vì
năm nay mưa nhiều quá. Còn chẳng có thời gian mà nghĩ đến ăn trưa nữa,
chỉ có công việc đồng áng mà thôi.
(The Girls’ Guide To Hunting and Fishing by Mellisa Bank)
6. Wet behind the ears (“ẩm ướt sau tai”) – trẻ người non dạ, vắt mũi chưa
sạch, chưa ráo máu đầu.
We were wet behind the ears then, and we thought it would be great to
start a magazine to campaign against world poverty.
Bọn mình đúng là vắt mũi chưa sạch, cứ tưởng là xuất bản được một
tạp chí kêu gọi chống đói nghèo trên thế giới là to tát lắm rồi.
85
(Longman Idiom Dictionary)
7. Be smiling/ grinning from ear to ear (“cười từ tai tới tai”) – Ngoác miệng
đến tận mang tai.
Ví dụ:
A: Stop grinning from ear to ear! You are acting as an outsider. Don’t you
know you are getting on our nerves?
Đừng có cười ngoắc miệng đến tận mang tai như thế! Cậu cứ làm như cậu
là người ngoài cuộc không bằng. Cậu có biết là cậu đang làm cho bọn mình
bực mình lắm rồi không hả?
B: I couldn’t help but laugh, because you two look so funny!
Mình không thể nhịn được cười, cả hai người trông buồn cười quá đi.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
8. Make a pig’s ear of something (“làm một cái tai lợn của cái gì”) – chữa
lợn lành thành lợn què.
Ví dụ:
Mark was so thrifty that he even had his friend cut his hair to save his
money. This morning, he got Bill to do it, but unfortunately for him, Bill
made a pig’s ear of it. His new haircut looked terrible.
Mark tiết kiệm tới mức nó còn nhờ cả bạn nó cắt hộ tóc để tiết kiệm
tiền cắt tóc. Sáng nay, nó nhờ Bill cắt tóc, nhưng thật chẳng may cho nó, Bill
đã chữa lợn lành thành lợn què. Cái đầu mới của nó trông thật dễ sợ.
(The Shell Seekers by Rosamunde Pilcher)
9. Turn a deaf ear to something (“quay tai điếc tới cái gì”) – giả điếc, mũ ni
che tai.
Ví dụ:
The Prime Minister has turned a deaf ear to opposition demands that he
should call an early election.
86
Ông Thủ tướng đã giả điếc đối với các đề nghị của phe đối lập đòi ông ta
phải tổ chức một cuộc bầu cử nhanh chóng.
(Longman Idiom Dictionary)
10. Keep your/ an ear to the ground (“giữ một tai tới mặt đất”) – không ai
qua mặt được, rất tỉnh táo, nghe ngóng tình hình.
Smith was a politician who liked to keep an ear to the ground, rather
than spending all his time at party headquarters.
Ông Smith là một chính trị gia thích nghe ngóng tình hình, hơn là ngồi
lỳ ở văn phòng trụ sở của Đảng.
(Longman Idioms Dictionary)
Nhóm 1: Thành ngữ có yếu tố chỉ Mắt (eye)
11. Keep an eye on somebody (“giữ một mắt lên ai đó”) - để mắt đến, theo
dõi, trông coi.
Ví dụ:
(sound of china breaking) (tiếng vỡ của đồ sứ)
Mother: Oh, no! Bobby, I told you not to touch anything in Aunt Beth’s
house. Now you’ve broken her vase! Beth, I’m awfully sorry.
Mẹ: Thôi, Bobby, mẹ đã bảo con là không được động đến đồ đạc của Dì Beth
rồi mà. Con đã làm vỡ cái lọ hoa của Dì rồi. Dì Beth này, Dì tha lỗi cho cháu
nó nhé!
Aunt Beth: Oh, don’t worry about it. Accidents happen.
Dì Beth: Chị đừng có áy náy về việc đó. Không may thôi mà.
Mother: Besides, I knew Bobby was coming. I should have kept a closer eye
on Bobby. Let me buy you new vase.
Mẹ: Mà chị cũng biết là Bobby tới, đáng ra chị phải để mắt hơn tới Bobby.
Chị sẽ mua lại trả Dì cái lọ hoa mới.
Aunt Beth: You don’t need to do that. It’s O.K., really. That vase was getting
old. Now I have an excuse to buy a new one.
87
Dì Beth: Chị đừng làm thế, có việc gì đâu. Cái lọ hoa đó cũ quá rồi, giờ thì
em có cái cớ để mua cái mới rồi.
(I apologize for... by Tim Gillette.)
12. Shut/ close one’s eyes to something (“nhắm mắt với cái gì”) – nhắm mắt
làm ngơ, ngoảnh mặt làm ngơ, giả mù giả điếc, mũ ni che tai.
Ví dụ:
The world is endangered by pollution, but people shut their eyes to it.
Thế giới đang bị nạn ô nhiễm môi trường đe dọa, thế mà người ta vẫn ngoảnh
mặt làm ngơ.
(Longman Idioms Dictionary)
13. An eye for an eye (“một mắt cho một mắt”) - ăn miếng trả miếng, trả đũa,
gieo gì gặt nấy, gieo gió gặt bão, trồng cây chua ăn quả chua, trồng cây ngọt
ăn quả ngọt.
Ví dụ:
Angry protesters in the square demanded justice be done to their dead
friends and family members. Several people held signs that read “An eye for
an eye”.
Đám người phản đối đầy phẫn nộ ở quảng trường đòi phải thực hiện
công lý đối với bạn bè và người thân đã bị thiệt mạng của mình. Một vài
người còn giương cao khẩu hiệu “Gieo gió gặt bão”.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
14. Be all eyes (“toàn mắt”) – dán mắt vào, nhìn hút hồn
Ví dụ:
Mother: Bobby, it’s time for lunch. Don’t be all eyes to the computer, playing
games. Everybody is waiting for only you!
Mẹ: Bobby, ăn cơm thôi. Đừng có dán mắt vào máy tính mà chơi Trò Chơi
nữa. Cả nhà đang đợi có mình con thôi đó!
Bobby: I’m coming, Mom.
88
Bobby: Con tới ngay đây.
(I apologize for... by Tim Gillette.)
15. Give somebody the eye (“cho ai mắt”) – liếc mắt đưa tình, đầu mày cuối
mắt.
Ví dụ:
Sheila was a very jealous woman, but unfortunately her husband
seemed to be a playboy. She had to track him down. He was standing with
her, and kept giving any girl who walked past them the eye.
Sheila rất hay ghen, nhưng thật không may cho chị ta là chồng chị ta
lại có vẻ rất phóng túng. Chị ta phải theo sát chồng. Gã này đứng bên vợ mà
vẫn ngang nhiên đầu mày cuối mắt với bất kỳ cô gái nào đi ngang qua.
(The Girls’ Guide To Hunting And Fishing by Mellisa Bank)
16. See something with half any eye (“nhìn cái gì với nửa con mắt”) –
thoáng thấy ngay, con ruồi bay qua biết con đực hay con cái.
Ví dụ:
A: You can’t fool him into believing you! He can see your trick with half any
eye.
A: Cậu không lừa phỉnh được ông ta đâu. Ông ta chỉ thoáng cái là thấy ngay
trò lừa phỉnh của cậu thôi.
B: But perhaps this time is different. I’ll try and maybe my luck is in.
B: Lần này có thể sẽ khác thì sao. Mình sẽ thử, biết đâu vận may lại đến với
mình.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
17. Have eyes in the back of your head (“có mắt ở đằng sau đầu”) – Mọc
mắt sau lưng, đề cao cảnh giác,
Ví dụ:
A: You need to have eyes in the back of your head when you’re teaching a
class of ten-year-olds.
89
A: Cậu nhớ phải mọc mắt sau lưng khi dạy đám nhóc 10 tuổi đó đấy nhé!
B: Oh, really? I’ve never thought of it.
B: Thật thế à? Mình chưa từng lường đến tình huống đó.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
18. Somebody’s eyes are bigger than his/ her stomach (“mắt của ai đó to
hơn dạ dày của anh ta/ cô ta”) – no bụng đói con mắt.
Ví dụ:
Mother: Can’t you finish that? Your eyes were bigger than your stomach,
weren’t they?
Mẹ: Không ăn được hết à? Con đúng là chỉ no bụng đói con mắt.
Bobby: Yes, I’ll finish it. You see, I enjoy it.
Bobby: Con sẽ ăn hết ngay thôi. Con đang nhấm nháp đây mà mẹ.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
19. In a pig’s eye! (“trong mắt của một con lợn”) – có mà nằm mơ, ếch mọc
lông nách.
Ví dụ:
A: Dan got the highest mark on the math test.
A: Thằng Dan được điểm cao nhất ở môn toán đấy.
B: In a pig’s eye!
B: Có mà ếch mọc lông nách!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
20. Catch somebody’s eye (“bắt được mắt của ai”) – bắt mắt, đập vào mắt.
Ví dụ:
I bought a couple of skirts and a pair of sandals that caught my eye.
Tôi đã mua máy cái váy và một đôi dép sandal mà đã đập vào mắt tôi.
(Longman Idioms Dictionary)
Nhóm 3: Thành ngữ có yếu tố chỉ Mặt (Face)
90
21. Have the face to do something (“có mặt để làm cái gì”) – mặt dạn mày
dày.
Ví dụ:
A: Just one more time, I promise.
B: Chỉ một lần này nữa thôi, tôi hứa đấy.
B: How can you have the face to ask for more money when you do so little
work?
B: Sao anh lại có thể mặt dạn mày dày mà xin thêm tiền khi anh làm việc ít
đến thế??
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
22. One’s face falls (“mặt rơi xuống”) – tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi, tưng
hửng như mèo bị cắn tai.
Ví dụ:
Grace didn’t want to leave, that was obvious, but as Arabella just kept
looking at her, her face fell and she was forced to curstsy and quit the
bedchamber, her footfall heavy.
Grace rõ ràng lừng khừng không muốn đi, nhưng bị Arabella nhìn nên
cô nàng tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi, miễn cưỡng nhún gối chào rồi ra
khỏi phòng ngủ, lê bước nặng nề.
(The Heir by Catherine Coulter)
23. Cut off one’s nose to spite one’s face (“cắt mũi để chọc tức mặt”) – uống
giấm để đỡ khát.
Ví dụ:
A: Mark told me he would sell his own house to pay his wife’s bank loan.
A: Mark bảo tôi là cậu ấy sẽ bán nhà để trả món nợ ngân hàng cho cô vợ đấy.
B: Oh, really? He would cut off his nose to spite his face!
B: Thật thế à? Thế thì cậu ấy lại uống giấm để đỡ khát rồi!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
91
24. Lose face (“mất mặt”) – mất mặt, đeo mo vào mặt, không biết giấu mặt
vào đâu.
Ví dụ:
A: Yesterday Peter was caught red-handed with his cheat sheet. He will be
suspended from school at least one term.
A: Này, hôm qua Peter bị bắt quả tang quay cóp đấy. Nó sẽ bị đình chỉ học
tập ít nhất là một học kỳ.
B: It’s his fault. He was losing face!
B: Chẳng trách được ai, lỗi tại câu ta. Đúng là đeo mo vào mặt!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
25. Keep a straight face (“giữ mặt thẳng”) – mặt tỉnh queo, tỉnh bơ như
không.
Ví dụ:
Jan struggled to keep a straight face as their mother gave them a long
talk on how to behave towards young men.
Jan cố làm mặt tỉnh queo khi mẹ chúng giảng cho chúng một thôi một
hồi về cách cư xử đối với thanh niên.
(Longman Idioms Dictionary)
26. Drop off the face of the earth (“rơi xuống bề mặt của trái đất”) – lặn mất
tăm, mất hút con mẹ hàng lươn.
Ví dụ:
We have enough evidences to convict Spencer – the problem is finding
him. As far as I can tell, he’s just dropped off the face of the earth.
Chúng ta đã có đủ bằng chứng để kết tội Spencer – vấn đề là phải tìm
được hắn. Nhưng theo tôi thì hắn đã lặn mất tăm rồi.
(The Heir by Catherine Coulter)
27. Throw something back in somebody’s face (“ném ai đó đằng sau trên
khuôn mặt họ”) – phụ lòng ai, không nên không phải với ai.
92
Ví dụ:
My mum had trusted me to be with my boyfriend whenever I liked, and
now I had thrown it back in her face by getting pregnant. What can I say to
her now, Arabella?
Mẹ mình đã rất tin tưởngcho phép mình thoải mái đi chơi với người
yêu, thế mà bây giờ mình lại chót mang bầu, thật là không nên không phải với
mẹ. Mình biết nói sao với mẹ bây giờ hả Arabella?
(The Heir by Catherine Coulter)
28. You can do something until/ till you’re blue in the face (“bạn có thể
làm cái gì đó cho tới khi bạn xanh trên mặt”) – dã tràng xe cát, công dã tràng.
Ví dụ:
We can make laws about pollution or wildlife trade until we are blue in
the face, but without enough money to enforce them they will to be effective.
Chúng ta cứ đưa ra nào là luật về ô nhiễm, nào là luật về động vật
hoang dã, chỉ công dã tràng thôi, nếu không có đủ tiền để thi hành các cái
luật này thì cũng chẳng hiệu quả đâu.
(Longman Idioms Dictionary)
29. Show one’s face (“lộ khuôn mặt của ai”) - đá gà đá vịt, đáo qua đáo lại.
Ví dụ:
A: I didn’t see you in the meeting this morning? Where were you?
A: Tôi không thấy cậu họp sáng nay. Cậu ở đâu thế?
B: I was busy with a lot of work in the office.
B: Mình còn hàng đống việc ở văn phòng.
A: You should have shown your face at the meeting, just to make it clear what
was going on!
A: Thế thì cậu cũng phải đáo qua đáo lại buổi họp để mà biết là họp cái gì
chứ!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
93
30. To somebody’s face (“thẳng vào mặt ai”) – nói toạc móng heo, nói thẳng
toẹt.
Ví dụ:
A: I was so angry that I told him to his face what I thought of him.
A: Mình sôi máu lên, mình đã nói toạc móng heo với nó là mình nghĩ nó thế
nào rồi.
B: Oh, what a nuisance! How did he react to it?
B: Ôi, phiền toái rồi! Thế nó phản ứng thế nào?
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
Nhóm 4: Thành ngữ có yếu tố chỉ Miệng (Mouth)
31. Straight from the horse’s mouth (“thẳng từ mõm ngựa”) – nguồn tin
đáng tin cậy.
Dùng để nói thông tin phát ra từ người biết rõ nhất
Ví dụ:
A: How did you find out that Jill was engaged?
Sao cậu biết là Jill đính hôn?
B: I got the information from a very reliable source.
Tớ nghe từ một nguồn tin rất tin cậy.
A: You mean Jill told you so herself?
Có nghĩa là chính Jill à?
B: That’s right. I got it straight from the horse’s mouth!
Phải. Chính cô ta.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
32. Shoot off one’s mouth (“bắn khỏi mồm”) – nói như súng liên thanh, ba
hoa thiên địa, phét lác, ba hoa chích choè...
Ví dụ:
Jim doesn’t play tennis very much, but he’s always shooting off his
mouth about how good he is. Yet he’s fooling nobody.
94
Jim có võ vẽ chút ít về quần vợt nhưng lại hay ba hoa chích choè rằng
mình điêu luyện lắm. Nhưng loè được ai đâu.
(Longman Idioms Dictionary)
33. Don’t look a gift horse in the mouth (“đừng có đếm một con ngựa được
quý trong miệng”) – Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ, mèo có bao giờ chê mỡ.
Ví dụ:
“Don’t look a gift horse in the mouth,” the ox advised. “Help me! If we find
treasure, I will gladly share it with you.’
“No way!” replied the old horse. “I’ve plowed all day, and now I’m going to
eat like a horse.” Then the gray mare galloped off to greener pastures.
“Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ,” Bò nói. “Giúp tôi một tay đi! Nếu chúng ta tìm
được kho báu, tôi sẽ sẵn sàng chia kho báu đó với anh.”
“Còn lâu nhé!” Ngựa già trả lời. “Tôi đã kéo cày cả ngày, bây giờ tôi sẽ ăn
như thuồng luồng cái đã. ” Rồi Ngựa xám phi nước đại tới những cánh đồng
cỏ xanh non.
(Barnyard Treasure by Hazel Johansen)
34. Live hand-to-mouth (“sống từ tay tới miệng”) – sống lần hồi, sống cho
qua ngày đoạn tháng.
Ví dụ:
For the next eight years, Joseph lived hand-to-mouth. He played at
parties, taught piano and violin lessons and arranged music. He continued his
music studies on his own. Slowly Haydn’s reputation grew.
Tám năm sau đó, Joseph sống lần hồi. Ông chơi nhạc ở các bữa tiệc,
dạy piano và violông và cải biên các thể loại nhạc. Ông tự học thêm về âm
nhạc. Dần dần Haydn được nhiều người biết đến.
(Papa Haydn by Ruth Seamans)
35. Put one’s money where one’s mouth is (“để tiền nơi miệng mình”) – nói
lời phải giữ lấy lời, giữ lời.
95
Ví dụ:
A: You’ve been promising to take us to Disneyland for the past two years.
Since the kids are free, how about putting your money where your mouth is?
A: Anh hứa là cho cả nhà đi Disneyland hai năm rồi. Lúc này các con đều rỗi
cả anh có định giữ lời không?
B: You don’t have to remind me. I have every intention of doing exactly what
I said I’d do. But you yourself know that in the past we have been unable to
go because of other financial obligations. Things have eased up and it looks
like we’ll be able to go this year.
B: Em không việc gì mà phải nhắc nhở anh như thế. Anh vẫn luôn giữ lời
nhưng chính em cũng biết trước đây chưa thể đi được vì kẹt. Năm nay khá lên
rồi mình sẽ đi được thôi.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
36. Somebody is all mouth and no trousers (“ai đó toàn mồm và không
quần”) – chỉ được cái võ mồm, chỉ giỏi cái mồm.
Ví dụ:
Terrace pretends that he’s really tough, but he’s all mouth and no
trousers.
Terrace cứ làm ra cái vẻ mình là một tay sừng sỏ lắm, nhưng cũng chỉ
được cái võ mồm thôi.
(Longman Idioms Dictionary)
37. Put words in somebody’s mouth (“đặt lời nói vào miệng ai”) – dựng
đứng dựng ngược chuyện, đặt điều, vu oan giá họa.
Ví dụ:
A: I can’t stand her any more. I’ve never commented on my boss’ unhappy
marriage, but she has put words in my mouth.
96
A: Mình không thể chịu được cô ta nữa rồi. Mình chưa bao giờ bàn luận về
cuộc hôn nhân không hạnh phúc của ông sếp mình, thế mà cô ta đã dựng
đứng dựng ngược chuyện lên
B: That’s the way she is. Don’t take it that bad!
B: Tính cô ta thế ấy mà. Đừng có coi chuyện đó nặng nề đến thế!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
38. Take the words out of somebody’s mouth (“lấy lời nói ra khỏi miệng
ai”) – cướp lời, chặn họng người khác.
Ví dụ:
The comte shrugged in vague agreement and let Magdalaine keep
talking about it. He just stared at her in silence, as whenever he uttered she
took the words out of his mouth.
Gã quý tộc đó nhún vai chẳng có vẻ đồng tình và mặc Magdalaine cứ
thao thao bất tuyệt về chuyện đó. Gã chỉ lặng lẽ chăm chú quan sát cô nàng,
cũng bởi lẽ cứ bao giờ gã định mở lời thì đã lại bị cô nàng cướp lời rồi còn
đâu.
(The Heir by Catherine Coulter)
39. Down in the mouth (“rơi trong miệng”) – mặt ủ mày chau.
Ví dụ:
I returned to our suddenly empty house and tried to figure things out.
While I was gone, the MPs had come and removed Jim’s belongings and the
rooms seemed barer and sadder than ever. The landlord was down in the
mouth waiting for me.
Tôi trở về cái tổ ấm bỗng chốc trở nên trống trải của chúng tôi và cố
xác định lại mọi thứ. Trong khi tôi đi, các nhân viên cảnh sát đã tới dọn đồ
đạc của Jim đi, căn phòng có vẻ trống trải và cô quạnh hơn bao giờ hết. Ông
chủ nhà mặt ủ mày chau đang đứng đợi tôi.
(When heaven and earth changed places by Amy Tan)
97
Nhóm 5: Thành ngữ có yếu tố chỉ các bộ phận khác trên khuôn mặt
40. Pay through the nose (“trả qua mũi”) – Trả cao, tiền núi, mất tiền đống.
Ví dụ:
At last, Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an
auction. Since many other stamp collection would also be bidding for it, he
realized that he would have to pay through the nose in order to have it.
Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu
giá mà ông tốn bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm muốn
mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng mua
được nó.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
41. Tongue-in-cheek (“lưỡi ở má”) – trêu chọc, cợt nhả, tếu táo.
Ví dụ:
A: Why were you teasing Sonia about her new hairdo? She really took
offense at what you said.
Sao cậu lại chọc cái kiểu đầu mới của Sonia? Nó bực thật đấy.
B: I didn’t mean to offend her. I was simply making a tongue-in-cheek remark
when I said that it was too elaborate for a girl of her young, tender age.
Nào tớ đâu có định làm nó bực mình, tớ chỉ đùa/ chọc chút thôi là vào
tuổi đáng yêu như cô nàng mà làm cái đầu thế thì hơi cầu kỳ quá.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
42. Somebody can’t see beyond the end of his/ her nose (“ai đó không thể
nhìn thấy bên ngoài giới hạn của cái mũi của cô ấy”) – bo bo chỉ biết mình.
Ví dụ:
The article says this city is full of people who can’t see beyond the end
of their noses. I strongly disagree.
Bài báo viết là thành phố này đầy kiểu người bo bo chỉ biết mình. Tôi
thật là không đồng ý với những lời lẽ như thế.
98
(Longman Idioms Dictionary)
43. Do something with your nose in the air (“làm cái gì với cái mũi ở trong
không khí”) – vênh vênh váo váo như gáo múc dừa, vênh vênh như bố vợ
phải đấm.
Ví dụ:
Now Richard watched her. She was sitting in the sitting room with her
nose in the air and pretended not to notice the rest of the people in the room.
Giờ thì Richard đang quan sát cô ả. Cô nàng ngồi trong phòng khách,
mặt vênh vênh váo váo, làm bộ như chẳng màng đến ai khác trong phòng.
(The Shell Seekers by Rosamunde Pilcher)
44. Have/ keep your nose to the grindstone (“Mũi chúi vào một hòn đá
nhọn”) – chân chỉ hạt bột, đầu tắt mặt tối, chúi mũi vào công việc.
Ví dụ:
A: Where is Mark?
A: Cậu thấy Mark đâu không?
B: He is keeping his nose to the grindstone. He will have to hand in his essay
to his teacher tomorrow, but he’s got half of it.
B. Cậu ta đang chúi mắt chúi mũi vào công việc. Cậu ta phải nộp bài cho
thầy vào ngày mai, mà bây giờ mới làm được có một nửa.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
45. Get somebody’s nose out of joint (“cho mũi của ai ra khỏi khớp nối”) –
khinh người như mẻ, khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, khinh người như rác.
Ví dụ:
A: What an annoying woman! She got our nose out of joint! Who does she
think she is?
B: Đúng là một con mẹ cảnh vẻ! Khinh khỉnh như chĩnh mắm thối! Không
hiểu chị ta nghĩ mình là ai cơ chứ?
B: Get her out of your mind!
99
B: Đừng có nghĩ đến chị ta làm gì!
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
46. My lips are sealed (“môi tôi bị gắn xi”) – câm miệng hến.
Ví dụ:
A: It’s Mickey’s favourite dessert, but he doesn’t know we’re having it yet.
A: Đó là món ăn tráng miệng mà Mark thích đấy, nhưng cậu ấy chưa biết là
chúng ta đang ăn đâu.
B: Don’t worry – my lips are sealed.
B: Yên tâm đi – tôi sẽ câm miệng hến.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
47. Keep your chin up (“giữ cằm cao”) – không nản chí, không lùi bước, trơ
như đá, vững như đồng.
Ví dụ:
A: Keep your chin up, dear. You will be lucly next time. I am sure you’ll find
a job soon.
A: Phải trơ như đá, vững như đồng ấy chứ, con à. Lần sau con sẽ may mắn.
Mẹ chắc là con sẽ tìm được việc ngay thôi.
B: I hope so, mom.
B: Con cũng mong thế, mẹ ạ.
(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)
48. Live cheek by jowl (“sống má cạnh cằm”) – tối lửa tắt đèn có nhau.
Ví dụ:
Workers’ families lived cheek by jowl in the narrow streets under the
factory chimneys.
Các gia đình công nhân tắt lửa tối đèn có nhau trong các dãy phố nhỏ
hẹp dưới các ống khói của nhà máy.
(Longman Idioms Dictionary)
49. Raise eyebrows (“nhướn mày”) – trố mắt ngạc nhiên.
100
Ví dụ:
Great Britain raised many eyebrows at the Winter Olympics with an
impressive performance in the bobsleigh event.
Đội Anh đã làm nhiều người trố mắt ngạc nhiên tại Olympic Mùa Đông
với buổi trình diễn ấn tượng trong môn thi trượt tuyết.
(Longman Idioms Dictionary)
50. Not bat an eyelid (“không cử động mí mắt”) – thản nhiên như không,
không chớp mắt.
Ví dụ:
He listened to their criticism for his mistake without batting an eyelid
and sat comfortably in the armchair as though he was alone in the room.
Anh ta thản nhiên như không nghe họ phê bình mình và ngồi thoải mái
trong ghế như thế đang chỉ có một mình trong phòng.
(When heaven and earth changed places by Amy Tan)