BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TÔN VÂN TRANG

SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT)

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ

Hà Nội - 2003

2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TÔN VÂN TRANG SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 50408 Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ

PGS.,TS. Trần Trí Dõi

Người hướng dẫn khoa học:

Hà Nội - 2003

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4. Phương pháp nghiên cứu

5. Ý nghĩa của luận văn

6. Cấu trúc của luận văn

7. Cái mới của luận văn

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN

VĂN

1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu

1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu

1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu

1.4. So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ

1.5. Tiểu kết chương 1

CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ

CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ

TIẾNG VIỆT

2.1. Khái niệm cơ bản về thành ngữ

2.2. Vắn tắt vài nét về tình hình nghiên cứu thành ngữ trong Tiếng Anh

và Tiếng Việt.

2.3. Xác định thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới

hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM ) và tiêu chí phân loại TNBPCTKM

2.4. Phân loại TNBPCTKM

2.5. Tiểu kết chương 2

4

CHƢƠNG 3: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ

TIẾNG VIỆT

3.1. Những nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM

3.2. Những nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM

3.3. Những nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM

3.3.1. Mối liên hệ giữa ý nghĩa và hình ảnh của các TNBPCTKM trong

Tiếng Anh và Tiếng Việt

3.3.2. Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM

3.3.3. Sử dụng các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các

thành ngữ này

3.4. Tiểu kết chương 3

CHƢƠNG 4: MỘT VÀI SUY NGHĨ TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH

NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI

HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

4.1. Ứng dụng trong khi chuyển dịch thành ngữ từ Tiếng Việt sang Tiếng

Anh.

4.2. Ứng dụng trong giảng dạy

4.3. Tiểu kết chương 3

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

PHẦN PHỤ LỤC

5

QUY ƯỚC TRÌNH BÀY VÀ VIẾT TẮT

A. Quy ước trình bày ví dụ bằng hai thứ tiếng:

1. Các thành ngữ dẫn chứng đều được sắp xếp theo trật tự: tiếng Anh – tiếng

Việt. Phần trực dịch từng từ được để trong ngoặc kép sau dấu ngoặc đơn của

các thành ngữ tiếng Anh. Nghĩa của thành ngữ được để dưới dạng in nghiêng

sau dấu gạch nối.

Ví dụ: Get somebody’s nose out of joint (“cho mũi của ai ra khỏi khớp

nối”) – khinh người như mẻ, khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, khinh người

như rác.

2. Các ví dụ được trích dẫn trong luận văn được trình bày theo trật tự như sau:

Tiếng Anh - Tiếng Việt

Các thành ngữ trong ngữ cảnh được gạch dưới

Ví dụ:

At last, Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an

auction. Since many other stamp collection would also be bidding for it, he

realized that he would have to pay through the nose in order to have it.

Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu

giá mà ông tốn bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm muốn

mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng mua

được nó.

B. Quy ước viết tắt.

Trong luận văn, chúng tôi viết tắt một số theo cách dùng lần đầu là đầy

đủ, từ lần dùng thứ hai trở đi là từ viết tắt. Ví dụ: ngôn ngữ (NN), tiếng Anh

(TA). Chúng tôi có viết tắt một số từ như sau:

TNBPCTKM: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn

mặt)

TNBPCTCN: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người

BPCTCN: Bộ phận cơ thể con người

6

NN: Ngôn ngữ

TA: Tiếng Anh

TV: Tiếng Việt

NNN: Ngôn ngữ nguồn

NNĐ: Ngôn ngữ đích

NND: Ngôn ngữ dịch

VBĐ: Văn bản đích

7

DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ

Sơ đồ 2.1 Các đơn vị chỉ bộ phận cơ thể con người (giới hạn

ở khuôn mặt) tiếng Anh và tiếng Việt

Sơ đồ 2.2 Sơ đồ TNBPCTKM

Bảng 2.1 Bảng thống kê TNBPCTKM

Sơ đồ 3.1 Sự phân bố TNBPCTKM

Sơ đồ 3.2 Sụ phân bố TNBPCTKM theo từng tiểu nhóm

Bảng 3.1. Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và

tiếng Việt

Bảng 3.2 Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và

tiếng Việt (tiếp theo)

Sơ đồ 3.3 Cấu trúc TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt

Bảng 3.3 Phân loại TNBPCTKM trên mối liên hệ giữa ngữ

nghĩa và hình ảnh trong tiếng Anh và tiếng Việt.

Bảng 3.4 Thống kê các trường hợp về mối liên hệ giữa hình

ảnh và ý nghĩa thành ngữ.

Bảng 3.5 Bảng thống kê ý nghĩa của các thành ngữ có sử

dụng các bộ phận trên khuôn mặt con người

Bảng 3.6 Bảng thống kê cách dùng TN trong tiếng Anh và

tiếng Việt

Bảng 4.1 Cách chuyển dịch từ TV sang TA

8

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hiện nay, nhu cầu kiến thức ngôn ngữ (NN) nói chung và ngoại ngữ nói

riêng trong xã hội hiện đại ngày càng cao do mở rộng giao lưu văn hoá, kinh

tế, xã hội của Việt Nam với nước ngoài, nhất là với các nước nói tiếng Anh

(TA).

Để đáp ứng nhu cầu học, sử dụng và giảng dạy TA chuyên sâu, bên cạnh

việc giảng dạy TA theo các trình độ khác nhau, việc hiểu và sử dụng các

thành ngữ TA cũng rất là quan trọng. Một người có trình độ ngoại ngữ tốt

không chỉ có kiến thức về ngôn ngữ mình học, mà còn phải nắm vững cả NN

của dân tộc mình, kiến thức về đất nước, phong tục tập quán sinh hoạt, kiến

thức về văn hoá xã hội. Thành ngữ (TN), tục ngữ của các thứ tiếng là nguồn

tài liệu vô tận giúp ta tìm hiểu sâu sắc về đất nước, con người của NN mình

nghiên cứu, học tập. Do đó, luận văn này cố gắng tập trung nghiên cứu so

sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các

yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM), nhằm

giúp cho người sử dụng ngoại ngữ hiệu quả hơn.

Hiện nay đã có những nghiên cứu so sánh đối chiếu TN, nhưng những

nghiên cứu về so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh –

Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) thì chưa

có. Có thể nói đây là một luận văn đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này một

cách tương đối có hệ thống trên nền của hai ngôn ngữ Anh và Việt. Việc chọn

đề tài nghiên cứu so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ

Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt)

xuất phát từ nhu cầu thực tiễn học tập và giảng dạy ở các trường đại học

chuyên ngữ.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.

9

Mục đích của luận văn là mô tả sự giống nhau và khác biệt của

TNBPCTKM trong các thứ tiếng Anh và tiếng Việt trên các bình diện ngữ

nghĩa, cấu trúc, phong cách.

Từ đó, luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như sau:

- Khảo sát và đối chiếu TNBPCTKM Anh, Việt trong ngữ cảnh.

- Đưa ra các tiêu chí phân loại, các nhận xét khách quan về phương thức sử

dụng TNBPCTKM trong Tiếng Anh và Tiếng Việt để có thể làm rõ đặc trưng

dân tộc về tư duy của người Anh và người Việt trong phạm vi sử dụng

TNBPCTKM.

- Đưa ra các chỉ dẫn trong sử dụng TN các thứ tiếng.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TNBPCTKM của tiếng Anh và

tiếng Việt và phương thức thể hiện ý nghĩa của các TNBPCTKM của Tiếng

Anh và tiếng Việt. Đây là những TN thông dụng trong cuộc sống hàng ngày

của Anh hoặc Bắc Mỹ, được dùng phổ biến trong các sách học TA viết cho

người nước ngoài, trong từ điển TN tiếng Anh và tiếng Việt.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào TNBPCTKM trong các

thứ tiếng Anh và tiếng Việt. Về tư liệu khảo sát luận văn chỉ giới hạn tài liệu

nghiên cứu trong phạm vi những TN được coi là thông dụng (theo COBUILD

CORPUS và theo khảo sát kiến thức TN của người bản ngữ), hoặc những

thành ngữ có thể gây hiểu sai nghĩa đối với người Việt học tiếng Anh. Tất cả

những TN có chú giải “cổ” (trong từ điển), hoặc chưa gặp (trong khảo sát)

đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này, mặc dù có thể được

đề cập khi cần thiết.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp chính được áp dụng trong luận văn này là phương pháp

đối chiếu và phương pháp miêu tả.

Phương pháp so sánh đối chiếu:

10

TN TA là những đơn vị TN của ngôn ngữ nguồn (NNN). Tiếng Việt là

TN của ngôn ngữ đích (NNĐ).

Đối chiếu là phương pháp nghiên cứu dựa trên sự so sánh hai hay nhiều

ngôn ngữ để “phát hiện ra những nét giống nhau về cấu trúc, chức năng và

hoạt động của các phương tiện ngôn ngữ được nghiên cứu” [26;48], đồng thời

cũng chú ý cả cái khác nhau, xác định, nhận diện chúng.

Phương pháp miêu tả

Miêu tả trong ngôn ngữ học là phương pháp nghiên cứu một hay nhiều

ngôn ngữ ở một giai đoạn phát triển nhất định, chủ yếu tập trung vào phân

tích ngữ pháp. “Phương pháp miêu tả nhìn nhận ngôn ngữ như một hệ thống

cấu trúc” [5;68]. Nhiệm vụ nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là đối

chiếu phương thức thể hiện ý nghĩa của hai ngôn ngữ. Để đối chiếu được,

trước hết chúng tôi tiến hành miêu tả một cách đầy đủ và phân tích một cách

chi tiết các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Những miêu tả và

phân tích này dựa trên cơ sở lý thuyết của ngữ pháp hiện đại. Chúng sẽ làm cơ

sở cho chúng tôi so sánh tìm ra những sự giống nhau và khác nhau về nhóm

từ này trong hai ngôn ngữ, sau đó tiến hành khảo sát một số TN cụ thể.

Mục đích cuối cùng của luận văn là tìm ra những đặc điểm tương đồng và

dị biệt của TN Tiếng Anh và tiếng Việt và đưa ra những chỉ dẫn ngôn ngữ

học, đất nước và văn hoá đối với những người sử dụng các thứ tiếng trên.

5. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn sẽ đóng góp một phần cho việc giảng dạy và học tập ngoại

ngữ ở các trường đại học chuyên ngữ.

Mặc dù nghiên cứu so sánh đối chiếu về thành ngữ tiếng Anh và tiếng

Việt gần đây đã được quan tâm, và đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên

sâu về TN, song cho đến nay chưa có nghiên cứu so sánh phương thức thể

hiện ý nghĩa của TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt.

11

Thông qua việc xác định nét tương đồng và dị biệt giữa hai

TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt, luận văn này có thể đóng góp một

phần cho việc giảng dạy và học tập ở các trường đại học chuyên ngữ có hiệu

quả hơn, và đóng góp một phần không nhỏ trong việc tìm hiểu văn hoá, đất

nước, con người của hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng Anh thông qua việc

nghiên cứu TNBPCTKM.

Như vậy, luận văn có ý nghĩa thực tế thực sự. Kết quả nghiên cứu cũng

như ngữ liệu của luận văn có thể được áp dụng cho quá trình giảng dạy trong

các trường chuyên ngữ hoặc được sử dụng như tài liệu tham khảo cho công

tác giảng dạy và dịch thuật TN.

6. Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm 100 trang chính. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận

văn bao gồm 4 chương:

Chƣơng 1 Một số tiền đề lý thuyết phục vụ cho luận văn;

Chƣơng 2 Thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở

khuôn mặt) trong tiếng Anh và tiếng Việt;

Chƣơng 3 So sánh đối chiếu TNBPCTKM của tiếng Anh và tiếng Việt.

Chƣơng 4 Một vài suy nghĩ trong việc sử dụng TNBPCTKM trong tiếng

Anh và tiếng Việt.

7. Cái mới của luận văn

Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu mảng TNBPCTKM từ góc độ ngữ

nghĩa và phương thức thể hiện, qua đó tìm cách nhận dạng TN trên cơ sở đặc

điểm văn hoá và tư duy dân tộc của mỗi cộng đồng người bản ngữ.

12

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN

VĂN

1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu

Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu, với tư cách là một

phân ngành của ngôn ngữ học, có những tiền đề lý luận của nó.

Đã từ lâu, con người hướng sự chú ý của mình không chỉ giới hạn ở những

ngôn ngữ riêng lẻ, mà đồng thời một lúc vài ngôn ngữ. Chính điều đó đã dẫn

đến việc xuất hiện nhiều trào lưu, nhiều khuynh hướng nghiên cứu so sánh.

Khá quen thuộc với lịch sử ngôn ngữ học là: ngôn ngữ học so sánh – lịch sử,

ngôn ngữ học khu vực và loại hình học. Song việc phân chia ngôn ngữ học

đối chiếu (contrastive linguistics) thành một phân ngành độc lập thì mãi tới

gần đây mới có và còn không ít những vấn đề tranh luận.

Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu so sánh nói

chung. Nó bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ bất luận ngôn ngữ đó cùng hay

khác loại hình và ngữ hệ. Song phải nói rằng, nghiên cứu đối chiếu hình thành

một cách trực tiếp trong tiến trình tìm tòi của con người để nắm ngoại ngữ

một cách nhanh chóng, tốt hơn. Chính các yêu cầu của việc học và dạy ngoại

ngữ là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành phân ngành khoa học

này. Nhà ngôn ngữ học Pháp Di Pietơrô đã viết trong cuốn “Cấu trúc ngôn

ngữ qua đối chiếu” rằng: “Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời từ kinh nghiệm dạy

tiếng. Mỗi người học và dạy ngoại ngữ dễ dàng nhận ra một điều là trong

nhiều trường hợp tiếng mẹ đẻ đã cản trở không nhỏ việc hiểu và nắm thuần

thục ngoại ngữ. Vì vậy, việc tích luỹ những tri thức và kinh nghiệm sẽ giúp ta

khắc phục một cách có hiệu quả khó khăn này” [12; 41].

L.V. Secha cũng cho rằng nghiên cứu đối chiếu không chỉ giúp cho việc

học và dạy ngoại ngữ tốt hơn mà còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn tiếng mẹ

đẻ, vì “việc nghiên cứu đó giúp chúng ta thâm nhập vào thực chất của các quá

trình ngôn ngữ cũng như hiểu sâu hơn các quy luật điều khiển các quá trình

13

này” [24; 26]. Không còn nghi ngờ gì nữa chúng ta có thể đồng ý với nhận

định rằng: “Mặc dầu nghiên cứu đối chiếu viện dẫn cái lý do chủ yếu ở sự cần

thiết cho giáo học pháp ngoại ngữ với sự phát hiện những khác nhau cơ bản

giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chúng ta không thể không tính

đến tầm quan trọng của việc phân tích đối chiếu như một phương thức đánh

giá các định đề cũng như những đòi hỏi của chính lý luận ngôn ngữ học”

[41,76].

1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu

Lịch sử phát triển của những tri thức khoa học bao giờ cũng là một quá

trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ nghiên cứu đối

chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển biện chứng lịch sử đó. Ở

đây, trước hết cần nói đến mối quan hệ tương ứng trong cách dùng các thuật

ngữ: ngôn ngữ học so sánh, ngôn ngữ học đối chiếu.

Trong nghĩa thường dùng, hai từ so sánh và đối chiếu không khác nhau

nhiều về ý nghĩa. “So sánh” là xem xét để tìm ra những điểm giống, tương tự,

hoặc khác biệt nhau về số lượng, kích thước, phẩm chất, còn “Đối chiếu” là

so sánh hai sự vật có liên quan chặt chẽ với nhau. Đối chiếu nguyên bản với

bản dịch (Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên).

Như đã thấy, không hẳn định nghĩa trên đây là hoàn toàn chính xác,

nhưng chúng đã cho ta ý niệm về nội dung nghĩa các từ đang nói đến. Nếu

đưa nội dung này vào cách hiểu nội dung các kết hợp thuật ngữ “ngôn ngữ

học so sánh”, “ngôn ngữ học đối chiếu” là hoàn toàn không chính xác. Cách

hiểu nội dung thuật ngữ cần chính xác và có tính quy định hơn cách hiểu

thông thường.

Trong ngôn ngữ học, các thuật ngữ tiếng Việt: ngôn ngữ học so sánh tương

ứng với tiếng Anh Comparative linguistics. Đó là thuật ngữ để chỉ một phân

ngành của ngôn ngữ học và cái nội dung từ “so sánh” được hiểu một cách rất

xác định. Việc xem xét kỹ những tài liệu ngôn ngữ học cho thấy một số nhà

14

ngôn ngữ có ý thức phân biệt Ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng với

ngôn ngữ học so sánh – lịch sử.

Trong trường hợp thứ nhất thuật ngữ “so sánh” dường như chủ yếu chỉ

nhấn mạnh cách tư duy, về việc sử dụng so sánh như một phương pháp chung

của tư duy; và vì vậy, người ta cũng có thể nói: so sánh – lịch sử, so sánh loại

hình, so sánh đối chiếu v. v...

Song trường hợp thứ hai, thuật ngữ so sánh được dùng với nội dung

khái niệm ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Đây cũng là cách dùng có tính chất

rút gọn.

Thuật ngữ đối chiếu, đối sánh thường được dùng để chỉ phương pháp

hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ.

Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác nhau

hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi. Nguyên tắc nghiên cứu

chủ yếu là nguyên tắc đồng đại.

Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu người ta dùng phổ biến thuật

ngữ so sánh (comparative) để chỉ ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng và

nghĩa hẹp của từ này. Dần dần về sau thuật ngữ so sánh cũng dùng để chỉ cả

nội dung đối chiếu.

Trong ngôn ngữ học Anh, những thuật ngữ truyền thống được dùng

tương đối lâu dài. Chẳng hạn, trong các công trình của Haliday, Mackinton,

Tơrêvưn và một số tác giả khác, cho mãi đến 1964, vẫn dùng thuật ngữ so

sánh – comparative. Và ngay cả Elic mãi đến 1966 vẫn dùng thuật ngữ

comparative với nghĩa đối chiếu. Cho đến gần đây thuật ngữ “ngôn ngữ học

đối chiếu” – contrastive linguistics mới được dùng với nghĩa của nó một cách

phổ biến tức là chỉ một phân ngành nghiên cứu riêng – nghiên cứu đối chiếu.

Trong phần lớn tài liệu viết bằng các tiếng châu Âu cho thấy có sự

chuyển dần phân biệt so sánh đối chiếu và ngôn ngữ học so sánh lịch sử với

15

ngôn ngữ học đối chiếu. Việc dùng phân biệt đối chiếu và tương phản thì

không thật sự thể hiện rõ ràng.

Trong thực tiễn nghiên cứu, hàng loạt các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ,

việc phân tách ra cái giống nhau và khác nhau trong đối chiếu là rất khó. Nó

được thực hiện một cách đồng thời. Xác định cái khác nhau phải biết cái

giống nhau cùng tồn tại giữa các sự vật. Song bao giờ cái khác nhau cũng dễ

nhận thấy hơn. Vấn đề là ổn định hướng mục đích của các công trình nghiên

cứu. Tìm cái chung hay cái riêng, cái phổ quát hay loại biệt, nhằm mục đích

lý luận hay thực tiễn và cả phạm vi ứng dụng nào? Trả lời các câu hỏi đó là ở

các công trình cụ thể, của các nhà nghiên cứu cụ thể. Nói chung, nghiên cứu

đối chiếu giúp ta xác định cái giống nhau và khác nhau của các ngôn ngữ về

mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng.

1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu

Phương pháp đối chiếu hay phương pháp ngôn ngữ học đối chiếu có

một hệ thống nguyên tắc, thủ pháp nghiên cứu riêng. Nó khác với phương

pháp miêu tả và phương pháp so sánh – lịch sử. Nhưng đồng thời, phương

pháp nghiên cứu này có kế thừa và sử dụng nhiều yếu tố, thủ pháp của nghiên

cứu miêu tả và so sánh – lịch sử. Chính điều này tạo ra đặc điểm riêng, lợi thế

và triển vọng của phương pháp nghiên cứu đối chiếu.

Trước hết chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm chủ yếu của phương

pháp đối chiếu.

1. Xác lập cơ sở đối chiếu: Xác lập cơ sở đối chiếu là xác định đối tượng

nghiên cứu cụ thể, định rõ đặc điểm đối tượng và định hướng các hoạt động,

các bước nghiên cứu nhất định.

Cơ sở đối chiếu là những giống nhau và khác nhau hay những tương đồng

và loại biệt của phạm vi đối tượng được khảo sát. Thông thường các ngôn

ngữ, các hiện tượng càng giống nhau thì càng có nhiều điểm chung, dấu hiệu

16

chung. Nếu như hai hay một số ngôn ngữ, hiện tượng càng khác nhau thì

những điểm khác, dấu hiệu khác càng nhiều.

Cơ sở đối chiếu của phương pháp đối chiếu không chỉ khác với phương

pháp so sánh – lịch sử (đều là so sánh ngoài – giữa các ngôn ngữ với nhau)

mà còn phân biệt đối chiếu và đối lập. Trong ý nghĩa phương pháp đối chiếu

là dùng cho đối chiếu các hiện tượng, phạm trù của các ngôn ngữ khác nhau

để tìm giống và khác nhau; trong trường hợp chỉ có khác nhau thì có thể hiểu

là tương phản. Còn đối lập dùng cho sự đối chiếu các hiện tượng trong cùng

một ngôn ngữ. Trong nghĩa riêng, đối lập là khác nhau ở hai cực trong một

phạm vi, như: danh từ và động từ, chủ ngữ và vị ngữ, nguyên âm và phụ âm,

thể hoàn thành và không hoàn thành ...

Đối chiếu phân biệt ngôn ngữ - lời nói trong biểu hiện hiện tượng không

đối lập chúng, vì có hiện tượng chuyển hoá chức năng. Ở đối chiếu người ta

không thừa nhận các cặp ngang nhau mà thừa nhận các cặp đối chiếu có giống

và khác nhau mà thường giống nhau hoàn toàn là rất hiếm thấy.

2. Phạm vi đối chiếu: Trong xác định phạm vi thường được phân giới theo các

nguyên tắc sau:

Phân biệt đối chiếu ngôn ngữ và đối chiếu dấu hiệu. Đối chiếu ngôn ngữ

quy định phạm vi nghiên cứu là các ngôn ngữ khác nhau. Đó là cách đối chiếu

tổng thể, đại quan hoặc bao quát chung. Việc chọn ngôn ngữ đối chiếu cũng

có hai khả năng chính. 1) Lấy một ngôn ngữ làm cơ sở chỉ đạo, ngôn ngữ này

là ngôn ngữ đối tượng cần phân tích, làm sáng tỏ. Ngôn ngữ (hay các ngôn

ngữ) còn lại sẽ là phương tiện, là điều kiện cho phép làm sáng tỏ đặc điểm

của ngôn ngữ đối tượng. Ngôn ngữ đối tượng cần được tập trung làm sáng tỏ

có thể hoặc là chỉ có ý nghĩa cho nó, hoặc là có thể có đại diện cho một số

ngôn ngữ khác. Nó là cá thể riêng biệt và cũng có thể là cái mẫu, là tiêu điểm

chú ý của việc nghiên cứu xét về nhiều mặt. Chẳng hạn trong quá khứ ở

phương tây tiếng Latinh đã làm tiêu điểm, là cơ sở để đối chiếu với tiếng

17

Pháp, tiếng Đức, các tiếng Slavơ. 2) Khả năng thứ hai là cả hai hay các ngôn

ngữ đối chiếu đều được chú ý như nhau. Trường hợp như thế gọi là phân tích

đối chiếu song ngữ.

Trong phân tích đối chiếu song song, phạm vi các vấn đề đối chiếu là ở cả

hai ngôn ngữ. Nó được chú ý đồng đều về tất cả các mặt ở ngôn ngữ đưa vào

nghiên cứu. Khả năng này được vận dụng để tìm cái chung và riêng ở các

ngôn ngữ được nhiều nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các phổ quát và ứng dụng

thực tiễn trong phiên dịch. Thường những phân tích như thế được tiến hành

đối với các ngôn ngữ cùng loại hình, các ngôn ngữ có cùng hoặc gần gũi về

ngữ hệ. Ví dụ: những nghiên cứu đối chiếu song song tiếng Bun-ga-ri và tiếng

Ba-lan, tiếng Nga và tiếng Bun-ga-ri v. v...

Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu là phạm vi tất yếu phải có đối với

mọi sự nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu thường được tiến

hành trên các bình diện chính yếu sau đây:

 Đối chiếu phạm trù nhằm vào việc làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm

trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như phạm trù: thời, thế, xác định, không xác

định; phạm trù số, giống, cách, đa nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, đồng nghĩa...

 Đối chiếu cấu trúc, hệ thống nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm, cấu tạo, những

đặc điểm giống, khác, đặc trưng của các hệ thống lớn, hệ thống con được

nghiên cứu như hệ thống âm vị, hình vị, hệ thống từ loại, hệ thống câu đơn,

câu phức v.v...

 Đối chiếu chức năng và hoạt động nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm hoạt

động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ.

 Đối chiếu phong cách nhằm làm sáng tỏ hoạt động của các phong cách chức

năng, những nét chung và riêng của các thể hiện phong cách chức năng ở

ngôn ngữ được đối chiếu.

18

 Đối chiếu lịch sử – phát triển có quan hệ với nghiên cứu lịch đại. Phạm vi

đối chiếu này nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và các quá trình biến

đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu

vừa liên quan chặt chẽ với nghiên cứu so sánh – lịch sử, vừa quan hệ với loại

hình học lịch đại.

 Một số phương thức đối chiếu chủ yếu. Để thực hiện nghiên cứu đối chiếu

các ngôn ngữ người ta thường sử dụng một số phương thức chủ yếu sau đây:

Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc, đồng nhất/ khu biệt chức năng,

đồng nhất/ khu biệt hoạt động, đồng nhất/ khu biệt phong cách, đồng nhất/

khu biệt phát triển và đồng nhất/ khu biệt xã hội – lịch sử ngôn ngữ.

Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc thừa nhận rằng ngôn ngữ là một

cấu tạo có tính cấu trúc – hệ thống. Khi đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ nhất

thiết phải đối chiếu các yếu tố, các đơn vị, các cấp độ, các mặt cấu tạo nên cái

tổ chức cấu trúc – hệ thống đó. Chẳng hạn đối chiếu ngữ âm - âm vị, mặt hình

thái học v.v... Khi thực hiện phân tích đối chiếu thường bắt đầu đồng thời hai

khâu kế tiếp nhau. Phân tích đối lập (đối chiếu trong) các đơn vị, các hiện

tượng ở cả hai ngôn ngữ theo một quan điểm lý luận thống nhất và sau đó

thực hiện đối chiếu trên cơ sở các kết quả đạt được (đối chiếu đối lập ngoài –

giữa các ngôn ngữ). Cũng có thể tổng hợp các bước phân tích đối chiếu cấu

trúc theo công thức: đối lập (phân tích) - đối chiếu.

Phương thức đối chiếu chức năng thực hiện xác định mặt giống, khác nhau

về chức năng của các hiện tượng; sự kiện ở các ngôn ngữ. Trong tiếng Việt,

Nga, Bun-ga-ri, Đức có trọng âm từ. Nhưng chức năng của trọng âm trong

tiếng Nga, tiếng Bun-ga-ri giống nhau nhiều hơn. Ví dụ trọng âm có chức

năng biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa sắc thái tu từ –

biểu cảm v.v... Cùng một hiện tượng mà khả năng hoàn thành chức năng,

phạm vi hoạt động không giống nhau. Điều đó cũng có thể áp dụng cho dấu

hiệu khu biệt âm vị dài, ngắn trong tiếng Anh và tiếng Việt. Sự đối lập a (dài/

19

ngắn) i (dài/ngắn) trong tiếng Anh có ý nghĩa âm vị học, còn trong tiếng Việt

thì lại không có giá trị ấy.

Phương thức đồng nhất/ khu biệt hoạt động góp phần xác định sự thông

dụng, tính phổ biến hay hạn chế của các hiện tượng, sự kiện ngôn ngữ đều có

trong các ngôn ngữ đối chiếu. Phương thức này chỉ rõ các hiện tượng ngôn

ngữ xét về mặt phương diện nào đó là giống nhau (đều có) trong các ngôn

ngữ, nhưng ở ngôn ngữ này được sử dụng phổ biến, hoạt động mạnh còn ở

ngôn ngữ khác thì ngược lại. Chẳng hạn trong địa hạt từ vựng – ngữ nghĩa,

tiếng Bun-ga-ri, tiếng Việt đều có một số từ vay mượn từ tiếng Ấn - Âu

(Pháp, Latinh...) song số lượng từ mượn tiếng Pháp, Latinh trong tiếng Bun-

ga-ri khá nhiều, còn từ tiếng Nga cổ trong tiếng Bun-ga-ri không thể gọi là

vay mượn vì chúng có vốn từ gốc Slavơ cổ chung.

Phương thức đồng nhất/ khu biệt phong cách nhằm làm sáng tỏ những đặc

điểm thể hiện, vận dụng phong cách chức năng ở mỗi ngôn ngữ. Phương thức

này có thể tiến hành qua nhiều giới hạn: cùng một phong cách thể loại như thi

ca, báo chí, chính luận, tiểu thuyết, khoa học kỹ thuật v.v... hoặc cùng một

phương tiện tu từ biểu cảm như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ v.v... Phức tạp hơn cả

là đối chiếu hai hệ thống phương tiện thông tin văn bản và các thể loại văn

phong thuộc về các thời kỳ xã hội lịch sử văn hoá khác nhau. Trong trường

hợp này, đối chiếu phong cách không giới hạn ở tiêu chuẩn ngôn ngữ tín hiệu

mà cả ngôn ngữ - tâm lý, ngôn ngữ - xã hội, tâm lý học – xã hội. Phạm vi đối

chiếu của phương thức này có quan hệ với phương thức đồng nhất xã hội –

lịch sử.

Phương thức đồng nhất/ khu biệt phát triển dùng để xác định đặc điểm và

chiều hướng phát triển của các ngôn ngữ. Phương thức này giả định rằng: mỗi

ngôn ngữ, xét về bình diện động, luôn luôn có thay đổi, phát triển. Sự phát

triển ngôn ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc nội bộ, phạm vi hoạt động,

20

chức năng của nó trong quan hệ với những điều kiện, hoàn cảnh xã hội ở diện

tiến trình.

Phương thức đồng nhất/ khu biệt xã hội, lịch sử quy định, xem xét các

hiện tượng ngôn ngữ, không chỉ trong quan hệ với xã hội – lịch sử mà chủ

yếu là bình diện xã hội lịch sử trong vận dụng, sử dụng một hiện tượng này

khác của hệ thống ngôn ngữ. Cùng những từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng và

các hiện tượng, tượng trưng không giống nhau đối với các xã hội – ngôn ngữ,

dân tộc – ngôn ngữ khác nhau. Phương thức đồng nhất xã hội lịch sử trong

vận dụng ngôn ngữ sẽ cho chúng ta biết cái chung, cái riêng. Chính nhờ xác

định được những đặc trưng đó mà cho phép chúng ta không chỉ xác định được

loại hình phong cách chức năng mà cả loại hình giao tiếp – văn hoá ngôn

ngữ, giúp chúng ta hiểu ngôn ngữ qua lăng kính văn hoá và ngược lại văn hoá

qua hiện thực ngôn ngữ.

1.4.So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ

Ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ rất biện chứng. Từ lâu các nhà ngôn

ngữ học và văn hoá học đã nhìn thấy và nghiên cứu mối quan hệ này. Mối

quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ được thể hiện trong tất cả các cấp độ của

ngôn ngữ. Đặc biệt, thành ngữ là một trong những lĩnh vực thể hiện rất rõ mối

quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá.

Để góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ

trong thành ngữ, chúng tôi sẽ phân tích hình ảnh mắt và mặt trong thành ngữ

Việt – Anh để làm ví dụ.

Khảo sát thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy đa số thành ngữ mắt và

mặt trong tiếng Việt tập trung miêu tả vẻ bề ngoài của con người (cổ cong

mặt lệnh, đầu trâu mặt ngựa, mặt ủ mày chau, mặt sứa gan lim, con mắt là

mặt đồng cân, da ngà mắt phượng, mắt cú da lươn, mắt sắc như dao cau...).

Không chỉ sử dụng mắt và mặt để miêu tả vẻ bề ngoài, người Việt còn dùng

mắt và mặt để miêu tả tâm sinh lý của con người (đỏ như mắt cá chày, ham

21

lợi trước mắt quên hoạ sau lưng, chướng tai gai mắt, tay bắt mặt mừng, tắm

khi nào vuốt mặt khi ấy, ngoảnh mặt làm ngơ...).

Mắt trong tiếng Việt, ngoài chức năng miêu tả chức năng thị giác, mắt còn

được sử dụng miêu tả đánh giá con người, thái độ của con người (ví dụ: coi

đời bằng nửa con mắt, khuất mắt cho qua, sáng con mắt chặt đầu gối, nhắm

mắt bước qua...).

Tương tự như thành ngữ tiếng Việt, mắt (eye) trong tiếng Anh cũng được

sử dụng khá nhiều trong số lượng TNBPCTKM. Song, khác với thành ngữ

tiếng Việt, các TN TA có từ chỉ mắt chỉ tập trung miêu tả các hoạt động liên

quan tới chức năng thị giác của đôi mắt (ví dụ: cast an eye over something -

đặt mắt vào cái gì - nhìn lướt qua, keep one’s eye peeled for something – xem

xét một cách cẩn thận, tinh mắt, catch somebody’s eye – bắt mắt...). TN TA

cũng có miêu tả thái độ của con người, nhưng số lượng không đáng kể (ví dụ:

do something in the eye – xúc phạm hoặc làm nhục ai, find favour in

somebody’s eye – giành được thiện cảm của ai....). TN TA khác với TN TV là

hầu như không miêu tả tâm sinh lý con người.

Mặt (face) trong các TN TA thường dùng để miêu tả quan điểm, thái độ

(ví dụ: laugh in somebody’s face – cười vào mặt ai, coi thường người khác,

cut off one’s nose to spite one’s face – cắt mũi để trả đũa mặt – làm một hành

động dại dột, uống dấm để đỡ khát, set face against somebody – nhất quyết

chống lại ai...). Thành ngữ có từ chỉ mặt trong tiếng Anh hầu như không miêu

tả vẻ bề ngoài cũng như đánh giá con người như ở các thành ngữ tiếng Việt.

Chúng tôi đồng ý kiến với Bùi Khắc Việt về sự khác nhau giữa tính biểu

trưng và tính hình ảnh. Bùi Khắc Việt cho rằng: “Khái niệm biểu trưng rộng

hơn khái niệm tính hình ảnh. Do sự vật hoặc tính hình ảnh có một số phẩm

chất nào đó chung với điều nó biểu trưng gợi cho ta một ý niệm về nội dung

biểu hiện. Mối quan hệ giữa sự vật hoặc hình ảnh với ý nghĩa biểu trưng

trong nhiều trường hợp có tính chất ước lệ” [27]. Xét trong thành ngữ tiếng

22

Việt thì thành tố chỉ mắt và mặt biểu trưng cho con người. Do đó, thành ngữ

tiếng Việt đều bị chi phối bởi sắc thái nghĩa là con người, nên tập trung vào

miêu tả vẻ bề ngoài của con người, hoặc đánh giá tính cách của con người.

Trong tiếng Anh, do người Anh nhìn hình ảnh mắt và mặt có khác nên tính

biểu trưng trong thành ngữ cũng khác. Trước tiên, mắt bao giờ cũng được

người Anh coi là “cửa sổ tâm hồn”, nên các thành ngữ cũng bị chi phối bởi

sắc thái nghĩa như vậy, các thành ngữ có từ chỉ mắt tập trung miêu tả các hoạt

động liên quan tới chức năng thị giác của đôi mắt. Mặt được người Anh coi

đơn thuần chỉ là một bộ phận cơ thể con người, vì vậy nghĩa biểu trưng của

mặt trong tiếng Anh cũng khác với mặt trong các thành ngữ tiếng Việt, nó

không còn mang nghĩa biểu trưng là con người để mô tả vẻ bề ngoài, đánh giá

tính cách của con người nữa, mà mặt được sử dụng theo đúng ý nghĩa chức

năng của khuôn mặt.

Qua so sánh thành tố mắt và mặt trong tiếng Việt và tiếng Anh, chúng ta

thấy sự khác biệt văn hoá rất lớn giữa hai nền văn hoá này, trong khi sự tương

đồng là rất nhỏ. Điều này lý giải sự khác nhau trong ngữ nghĩa và cũng như

trong cách sử dụng các thành ngữ có chung hình ảnh là mắt và mặt. Để khắc

phục “rào cản” này, trong giảng dạy ngoại ngữ, nhất thiết phải coi yếu tố văn

hoá là một yếu tố quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức cho người học.

1.5. Tiểu kết chương 1

Chương 1 của luận văn nêu một vài nét khái quát về phương pháp so

sánh đối chiếu. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu

so sánh chung. Song ngôn ngữ học đối chiếu hình thành rất lâu sau hai ngành

ngôn ngữ học so sánh là ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, ngôn ngữ học khu

vực (ngữ vực) và loại hình học. Là một ngành mới ra đời nên ngôn ngữ học

đối chiếu vẫn đang là một ngành nghiên cứu gây nhiều tranh cãi.

Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày khái niệm về thuật ngữ so

sánh đối chiếu. Cho tới nay vẫn còn có nhiều tranh cãi về thuật ngữ so sánh

23

đối chiếu. Song khái niệm được sử dụng nhiều là: “nghiên cứu đối chiếu giúp

ta xác định được cái giống nhau và khác nhau của ngôn ngữ về mặt cấu trúc,

hoạt động và sự phát triển của chúng.”

Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày phương pháp so sánh đối

chiếu và có đưa ra một số ví dụ so sánh đối chiếu thành ngữ có những từ chỉ

mắt và mặt trong tiếng Việt và tiếng Anh theo phương pháp so sánh đối chiếu.

24

CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ CHỈ BỘ PHẬN CON NGƢỜI (GIỚI HẠN

Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

2.1. Khái niệm cơ bản về thành ngữ

Trước hết, về vị trí, TN thuộc bộ môn từ vựng học với các đối tượng

nghiên cứu là chính các đơn vị TN. Về cấu trúc, TN có diện mạo giống như

cụm từ nhưng là cụm từ đặc biệt. Là cụm từ bởi vì TN phải bao gồm ít nhất là

hai từ trở lên. Là cụm từ đặc biệt bởi TN có tổ chức cấu trúc nghiêm ngặt,

thường không được tự do thêm bớt hoặc thay đổi trật tự từ trong kết cấu. TN

có những đặc tính như có tính cố định cao, có tính biểu trưng, có nghĩa tổng

thể, và thường được dùng như những đơn vị có sẵn trong NN, cả trong NN

hội thoại thường nhật hoặc NN hội thoại của các nhân vật trong các tác phẩm

văn học, đồng thời có tính biểu cảm cao.

Có hàng trăm các định nghĩa khác nhau về TN ở các thứ tiếng khác nhau

trên thế giới. Tuy nhiên, đã là TN thì phải thoả mãn hầu hết các tiêu chí dưới

đây:

1. Những TN thực sự là những TN có nghĩa tổng thể hoặc gần như tổng thể

mang tính biểu trưng, nghĩa là, các từ thành phần có mối liên hệ nghĩa gần

như hoà quyện vào nhau và làm mất đi những nét nghĩa riêng của từng từ nếu

chúng đứng độc lập trong bối cảnh khác;

2. Những TN được coi là TN thực sự có thể có một cấu trúc chệch khỏi mô

hình cấu trúc bình thường trong NN. Nhưng không phải tất cả những kết cấu

“chệch hướng” đó đều là TN.

3. Nhìn chung, TN không dễ dàng chấp nhận việc tự do thêm bớt vào cấu trúc

của mình.

Như vậy, có thể chấp nhận một TN là một ngữ phức hợp có nghĩa tổng

thể thống nhất, mang tính biểu trưng cao, có hình thức cơ bản cố định và

trong từng trường hợp cụ thể có ý nghĩa phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp.

2.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu TN trong tiếng Anh và tiếng Việt

25

Có thể nói, TN TA đã được nghiên cứu khá hệ thống với các cách tiếp

cận khác nhau, phong phú và đa dạng. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu TN TA

đã phát triển hướng đi của mình là nghiên cứu TN từ góc độ NN học chức

năng, khác hẳn với lối đi truyền thống của các nhà nghiên cứu TN TV.

Cũng như các thứ tiếng khác, TN TA được các nhà nghiên cứu quan

tâm với ý kiến khác nhau về khái niệm, cấu trúc, và phân loại. Nhìn chung các

TN TA có cấu trúc thành phần cố định bao gồm có ít nhất là hai từ trở lên với

cấu trúc có thể là một cụm từ hoặc một câu. Trong Anh ngữ có một số tác giả

như Hockett (1958), Katz và Postal (1963) cho rằng TN cũng chỉ có thể bao

gồm một từ và khó được đại đa số chấp nhận. Hockett (1958) cho rằng ngữ

cảnh là điều kiện tiên quyết để xác định một TN thực sự là một TN hay

không, mặc dù ông không để ý tới một thực tế là TN cũng có thể là những tổ

hợp từ có khả năng kết hợp cố định (fixed collocation).

Trên thực tế, đại đa số các tác giả (Wood, 1986; Cowie et al. 1975,

1983; Long et al., 1979; Smith, 1925; Malkiel, 1959; Weinreich, 1969;

Makkai, 1972; Fernando và Flavell, 1981; Strassler, 1982; Pawley và Syder,

1983; Pawley, 1986) cho rằng TN là một biểu ngữ đa từ (multiword

expression) với những đặc điểm ngữ pháp khác hẳn với các cụm từ tự do khác

đó là tính TN, hay còn gọi là tính thống nhất về nghĩa (semantic unity) và tính

cố định hoặc tương đối cố định của các từ thành phần. Nói cách khác một tập

hợp từ càng có ít khả năng thay đổi một trong các từ thành phần bao nhiêu,

tập hợp từ đó càng có nhiều khả năng là TN bấy nhiêu. Một số những đặc

điểm khác nhau nữa là biểu ngữ đa từ có số lượng từ hạn chế, trong khi đó,

cụm từ tự do có số lượng mở rộng không hạn định. Tuy nhiên, trong bao

nhiêu trường hợp, TN có thể hiểu theo hai cách cả nghĩa bóng và nghĩa đen.

Ví dụ one in the eye (“một trong mắt” (nghĩa đen) và “thất bại ê chề” (nghĩa

thành ngữ;); play it by ear (“chơi nó bằng tai” (nghĩa đen) và “tuỳ cơ ứng

biến” (nghĩa bóng). Những TN như thế này được Makkai (1972) gọi là những

26

TN giải mã (decoding idioms), nghĩa là có tính mơ hồ, dễ gây hiểu sai. Những

loại khác Makkai gọi là mã hoá (encoding). Ví dụ music to one’s ear (“âm

nhạc đối với tai ai” – thông tin làm cho ai đó dễ chịu); walls have ears (“bức

tường có tai” – tai vách mạch rừng).

Như đã thấy, nếu như Hockett chỉ có một tiêu chí duy nhất như đã đề

cập ở đầu mục để xác định TN thì Makkai (1972) lại dùng một loạt các tiêu

chí như tổ hợp hình thái, tính nhạy cảm của một TN với việc lí giải theo nghĩa

đen, tính mơ hồ, tính không thể dự đoán nghĩa và cấu thành TN. Fernando và

Flavell (1981) lại sử dụng phương pháp phân tích nghĩa và cấu trúc để phân

biệt TN, nói cách khác, nghĩa TN giống như một kết hợp hoá học, ví dụ như

có nguyên tử ôxi và nguyên tử hydro (thể khí) kết hợp với nhau để tạo thành

một chất khác hẳn là nước (thể lỏng). Còn Kunin (1984) lại coi nghĩa là chuẩn

mực cơ bản để nhận dạng TN. Theo ông, TN là một cụm từ cố định có nghĩa

tổng thể khác hoàn toàn với nghĩa của từng thành phần tạo nên TN đó.

Về đặc điểm của TN TA, Antrushina (1985), Palmer (1981), Baker

(1994) và một số tác giả khác nhận xét rằng một trong những đặc điểm quan

trọng để có thể phân biệt TN với các cụm từ tự do là cấu trúc không đổi của

TN. Cụ thể là, thứ nhất, TN hạn chế khả năng thay đổi các từ trong thành

phần của TN. Ví dụ, the eye of the storm (mắt bão). Không thể thay storm

bằng những từ đồng nghĩa khác như hurricane, hay tornado; thứ hai, TN hạn

chế khả năng thêm từ vào thành phần TN. Ví dụ, không thể thêm từ big

(“to”), hay straight (“thẳng”) ... vào TN by a nose (“sát cạnh mũi”); và thứ ba,

TN không cho phép thay đổi hình thái ngữ pháp của mình. Ví dụ: from head

to foot, mà không thay được thành phần from head to feet. Thực ra trước đó,

Seidle và McMordie (1978) cũng đã tổng kết các đặc điểm của cấu trúc TN

TA, đó là tính bất quy tắc và phi lôgic ngữ pháp trong tổ chức TN (I am good

friends with him – “tôi là những người bạn tốt với nó”); tính mơ hồ về nghĩa

mặc dù hình thức ngữ pháp hợp lí (to have a bee in one’s bonnet; to be

27

obsessed by an idea – “bị một ý tưởng ám ảnh”); hoặc tính mơ hồ về nghĩa và

tính phi quy tắc về ngữ pháp (to go through thick and thin – “đi qua dày và

mỏng”).

Về việc phân loại TN, có những quan điểm và cách chia khác nhau dựa

trên những tiêu chí khác nhau. Glucksburg (1993) căn cứ vào tiêu chí nghĩa

chia TN TA ra làm hai loại mô hình chính. Mô hình thứ nhất (ví dụ những TN

dạng kick the bucket, by and large v.v...) gọi là “the direct look-up model”

(mô hình nhận dạng TN trực tiếp) – có ý nghĩa là không có mối quan hệ rõ

ràng nào giữa các thành phần và ý nghĩa của TN; ý nghĩa của TN được đúc

rút từ tổng thể cả TN đó và vì thế mà ý nghĩa của TN phần nhiều mang tính

võ đoán; và mô hình thứ hai (ví dụ carrying coals to Newcastle) là mô hình

thống nhất (the compositional model), ý nghĩa TN được đúc rút ra từ tổng hợp

cả nghĩa đen và nội dung minh họa và ít nhiều có mối liên hệ ẩn dụ với ý

nghĩa của TN.

Căn cứ vào khả năng kết hợp từ và đặc điểm ý nghĩa của TN, Carter

(1987: 63-4) chia TN TA thành ba loại như 1. TN hạn định kết hợp từ

(collocational restriction). Ví dụ, run a business; harbour doubt/ grudges/

uncertainty/ suspicion; 2. TN có cấu trúc ngữ pháp từ vựng

(lexicogrammatical structure): break somebody’s heart); smell a rat, the more

the merrier; 3. TN với các cấp độ nghĩa mờ nhạt khác nhau: long time no see,

a fat salary); a watched pot never boils; kick the bucket.

Mức độ biến thiên của từ vựng trong TN cũng khác nhau. Cụ thể hơn,

Carter (1987) còn xác định 12 loại kết hợp của TN với các biến thể khác nhau

có nghĩa đen, nghĩa bóng spill the beans (làm vãi đậu - để lộ bí mật); smell a

rat (ngửi thấy một con chuột cống – có điều gì đó không ổn đang xảy ra); say

no more; you’re telling me; on the one hand; on the other hand v..v...;

nothing loath; fancy free; be that as it may; upside-down; inside-out v.v...

28

Cacciari (1993) và Glucksburg (1991), căn cứ vào mức độ phân tích

nghĩa tổng hợp của TN dựa vào các yếu tố thành phần, chia TN TA thành 3

loại chính là 1. Loại AO (analyzable opaque idioms) – TN có thể phân tích

nghĩa nhưng mờ nhạt – là những TN có vẻ như không có mối liên hệ rõ ràng

giữa nghĩa TN và những yếu tố thành phần nhưng người ta vẫn có thể suy

diễn được nghĩa TN và cách sử dụng. Ví dụ: to kick the bucket (“đá chiếc xô”)

– chết, ngỏm, toi đời, về chầu ông vải, đi ngủ với giun, trở về với cát bụt; 2.

Loại AT (analyzable transparent) – TN có thể phân tích được nghĩa một cách

rõ ràng – là những TN mà có mối liên hệ rõ ràng giữa nghĩa TN và nghĩa

thành phần. Ví dụ: break the ice (“phá vỡ băng”). Trong đó break có nghĩa

TN là “thay đổi trạng thái, tình cảm” và ice có nghĩa là “những căng thẳng xã

hội”; to bring home the bacon (“mang về nhà thịt hun khói”) – “chăm lo, nuôi

dưỡng gia đình”, và loại 3. Loại M (quasi – metaphorical idioms) – TN giả ẩn

dụ – là những TN mà hình ảnh của các yếu tố thành phần cùng nhau tạo nên

nghĩa TN. Ví dụ: carry coals to Newcastle (“chở than về Newcastle”) - đại

loại như người Việt nói: chở củi về rừng, hãy cũng có thể tạo nên những câu

tương tự: mang nhãn lồng về Hưng Yên, mang vải đi Lục Ngạn.

Fernando (1996) dựa vào lý thuyết ngữ pháp chức năng của Halliday

(1985) chia TN TA ra làm hai nhóm chính: 1. TN ý niệm và 2. TN liên cá

nhân. TN ý niệm (ideational) hoặc chỉ rõ ý nghĩa của nội dung thông báo,

những hiện tượng kinh nghiệm bao gồm cả cảm giác, ảnh hưởng và đánh giá;

hoặc xác định bản chất của thông báo (ví dụ, cụ thể hay không cụ thể). Ví dụ:

tear down, spill the beans, wear different hats, give somebody an inch and

he’ll take a smile; turning point, out of the mouth of babes; have blood on

one’s hands; be in Queer Street; a back seat driver; a man about town, a

scarlet woman, a fat cat v.v... TN liên cá nhân (interpersonal idioms) là những

TN thực hiện hoặc một chức năng tương hỗ; hoặc xác định đặc điểm của

thông báo. Khi thực hiện chức năng liên cá nhân TN thường có vai trò khởi

29

xướng, duy trì hoặc kết thúc trao đổi thông báo. Do vậy, chúng thường được

liên tưởng tới những vấn đề giao tiếp xã giao, lịch sự thông thường hoặc

chúng có chức năng làm mẫu cho những lề thói của giao tiếp xã hội hoặc

trong một chừng mực nào đó có thể chứng minh cho nguyên tắc cộng tác của

Grice về sự chân thành, về khái niệm giá trị, về lối nói biểu thị sự ngắn gọn,

cô đọng... có khả năng khắc họa được bản chất của thông báo.

Liên quan tới chiến lược giao tiếp, TN có thể thực hiện những chức

năng chào hỏi, chức năng chỉ thị, chức năng thỏa thuận, chức năng thăm dò

và lấy ý kiến; chức năng phản bác. Về chức năng đánh giá thông báo, TN có

thể mô tả giá trị thông tin, sự chân thành, yêu cầu ngắn gọn, thể hiện sự thông

báo không chắc chắn v.v...

Như vậy, trong TA nhiều công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào

chức năng của TN trong giao tiếp xã hội, TN được chấp nhận trong hoạt động

thường ngày của NN và nó đã thực sự thoát khỏi vỏ bọc tĩnh tại của các tập

hợp từ trong từ điển. Việc nghiên cứu TN từ góc độ chức năng đã thực sự

đóng góp cho lý thuyết NN nói chung và ngành NN học ứng dụng nói riêng.

Trong Tiếng Việt, TN luôn được các nhà nghiên cứu NN, văn học dân

gian, văn hoá, nhân chủng học, dân tộc học, xã hội học v.v... quan tâm. Tuy

nhiên, việc nghiên cứu TN TV cho tới nay vẫn chưa thống nhất và còn có

nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề định nghĩa, phân loại, chức

năng... của các đơn vị TN. Có rất nhiều những nghiên cứu so sánh đối chiếu

TN các thứ tiếng với TN TV của các tác giả nhiều kinh nghiệm nghiên cứu

TN chuyên sâu (Trương Đông San, Nguyễn Đức Tồn v.v...), cũng như các tác

giả trẻ nghiên cứu TN ứng dụng cho giảng dạy ngoại ngữ (Phùng Trọng Toản,

Phạm T.B.N, v.v...). Tuy vậy, việc giới hạn, số lượng, thành phần của TN TV

hiện còn chưa giải quyết triệt để và thống nhất.

Năm 1943, Dương Quảng Hàm lần đầu tiên đặt vấn đề phân biệt ranh

giới (mặc dù chưa thật rõ rệt) giữa TN và tục ngữ. Theo quan điểm của nhà

30

nghiên cứu, tục ngữ được xem xét như một hiện tượng nhận thức xã hội, TN

được coi là các hiện tượng NN. Sau này, vấn đề về phân định TN, tục ngữ còn

được đề cập tới trong các nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan (1956, 1971),

Nguyễn Văn Tu (1968), Hồ Lê (1976), Nguyễn Văn Mệnh (1972), Cù Đình

Tú (1973), Chu Xuân Diên (1977) và một số tác giả khác.

Song song với việc phân biệt ranh giới TN, các nhà NN học Việt Nam

còn đề cập đến những vấn đề khác của TN như khái niệm, phân loại v.v... Tuy

nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu liên quan tới cấu trúc nội tại của TN.

Về phân loại TN, Nguyễn Thiện Giáp (1998) căn cứ vào cơ chế cấu tạo TN

chia TN TV thành hai loại chính. Đó là 1. TN hợp kết: ý nghĩa của chúng có

thể phân tích thành những yếu tố nghĩa tương ứng với ý nghĩa của từng bộ

phận tạo thành. Ví dụ: đỏ như mắt cá chày, anh hùng rơm và 2. TN hoà kết:

nghĩa của TN được hình thành trên cơ sở của một ẩn dụ toàn bộ. Nói cách

khác, ý nghĩa của TN không thể phân tích thành các yếu tố nghĩa tương ứng

với ý nghĩa của các bộ phận tạo thành. Ví dụ: ngứa tai gai mắt, mặt sứa gan

lim, mặt trơ trán bóng.

Như vậy, tình hình nghiên cứu TN ở Tiếng Anh và Tiếng Việt có thể có

một số nhận xét nổi bật như sau:

 TN được các nhà NN học quan tâm và nghiên cứu có hệ thống. Việc nghiên

cứu TN được tiến hành ở các lĩnh vực khác nhau: khái niệm, phân biệt TN với

các cụm từ tự do, tiêu chí xác định, phân loại TN v.v... TN TA được nghiên

cứu kỹ lưỡng hơn TN TV. Vấn đề nghiên cứu TN TA thể hiện ở những công

trình nghiên cứu phong phú cả về số lượng lẫn về chất.

 Về khái niệm TN mặc dù rất đa dạng nhưng nhìn chung TN được xác định

là những biểu ngữ đa từ có cấu trúc cố định hoặc tương đối cố định, thường

có nghĩa hình tượng, nghĩa TN thống nhất, TN có tính biểu cảm cao và

thường được sử dụng như những đơn vị có sẵn trong giao tiếp.

31

 Việc xác định nghĩa TN phải dựa vào ngữ cảnh dùng NN, có tính đến mối

quan hệ giữa các đối tác giao tiếp, môi trường giao tiếp và cách thức giao tiếp.

 Các xu hướng nghiên cứu ở TA và TV thể hiện ở các lĩnh vực sau:

- Phân biệt ranh giới TN với tục ngữ, cụm từ tự do, biểu ngữ đa từ v.v...

- Đưa ra tiêu chí và phân loại TN từ các góc độ khác nhau: cấu trúc, khả năng

kết hợp, số lượng từ trong TN chức năng, TN trong giao tiếp.

- Nghiên cứu TN ở mức độ chuyên sâu trong phạm vi TN của từng NN từ góc

độ ngữ nghĩa, cấu trúc, cội nguồn TN.

- Nghiên cứu TN song song hoặc đa ngữ với phương pháp chủ yếu là so sánh,

đối chiếu nhằm tìm ra những dị biệt và tương đồng của TN trong các thứ tiếng

khác nhau. Từ đó, rút ra những chỉ dẫn cho người học cũng như người nghiên

cứu về đặc trưng văn hoá dân tộc thông qua TN hay đưa ra những chỉ dẫn

trong giảng dạy tiếng nói chung, giảng dạy dịch nói riêng.

Nhìn chung, cả hai NN đều được quan tâm nhiều tới mảng TN. Mặc dù,

so với các lĩnh vực nghiên cứu khác, số lượng các nghiên cứu về so sánh đối

chiếu thành ngữ, tục ngữ không nhiều, song ở nước ta cũng đã có một số

nghiên cứu có tính hệ thống về so sánh, đối chiếu thành ngữ, tục ngữ trên cứ

liệu tiếng Anh và tiếng Việt, ví dụ như luận án PTS. ĐHQG HN của Nguyễn

Văn Mười (1996): “Ngôn ngữ tục ngữ với việc phản ánh các yếu tố văn hoá

và nhân sinh quan (Trên cứ liệu tục ngữ Việt - Anh)” và luận án TS. ĐHQG

HN của Trần Thị Lan (2002): “So sánh đối chiếu phương thức dịch thành ngữ

nhận xét đánh giá con người trong tiếng Anh, Nga và Việt”. Hai luận án vừa

nêu trên đều nghiên cứu về thành ngữ, đều sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ

nguồn, và tiếng Việt là ngôn ngữ đích để so sánh. Trong luận văn này, chúng

tôi chỉ nghiên cứu về phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ Anh-Việt

sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt), mà từ trước

tới nay chưa có một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống về vấn đề này.

Chúng tôi đã tiến hành một số khảo sát trắc nghiệm và dựa trên kinh nghiệm

32

giảng dạy tiếng Anh ở các trường Đại học chuyên ngữ và nhận thấy rằng việc

hiểu đúng và chuyển dịch đúng các TNBPCTKM là một vấn đề rất đáng

quan tâm, và vẫn còn có những sai phạm không đáng có. Hiểu đúng và sử

dụng thành ngữ một cách chính xác có nghĩa là phải có một kiến thức nền về

văn hoá. Sự khác biệt giữa hai nền văn hoá thể hiện rất rõ nét ở thành ngữ

của hai dân tộc này. Trong luận văn này, đối tượng so sánh là hai ngôn ngữ

hoàn toàn khác biệt về mặt địa lý và loại hình. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập

ở Nam Á, còn tiếng Anh là ngôn ngữ hoà kết ở Châu Âu. Sự khác biệt về mặt

địa lý và loại hình như vậy quy định những điểm giống nhau và khác nhau

của hai thứ tiếng. Chúng xuất hiện đồng thời trong hầu hết các bình diện ngôn

ngữ và thể hiện rất rõ nét ở thành ngữ nói chung và TNBPCTKM nói riêng.

Trong khuôn khổ một luận văn Cao học, chúng tôi muốn đóng góp một phần

nhỏ vào việc nghiên cứu thành ngữ ở tiếng Anh và tiếng Việt.

2.3. Xác định TNBPCTKM và tiêu chí phân loại TNBPCTKM

TNBPCTKM Tiếng Anh:

1. An eye for an eye (“một mắt cho một mắt”) - ăn miếng trả miếng.

2. Be all eyes (“toàn mắt”) – nhìn chăm chú, nhìn hút hồn, dán mắt vào

3. Have an eye for something (“có mắt cho cái gì”) – sành sỏi về cái gì, nhạy

bén về cái gì.

4. In the eye of somebody (“trong con mắt của ai”) – theo ý kiến đánh giá của

ai.

5. One’s face falls (“mặt rơi xuống”) – mặt xịu xuống, mất tinh thần, như

bánh đa nhúng nước, tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi.

6. On the face of it (“trên mặt của nó”) – xét theo bề ngoài.

7. Have a face to do something (“có mặt để làm cái gì”) – mặt dạn mày dày,

to gan lớn mật.

8. Keep one’s mouth shut (“giữ miệng đóng”) – không tiết lộ bí mật, câm như

hến, ngậm miệng ăn tiền.

33

9. By a nose (“cạnh bên mũi”) – sát nút, chỉ cách một lề rất nhỏ, nước đến

chân mới nhảy.

10. Get up one’s nose (“đánh thức mũi ai”) – làm cho ai bực tức, làm cho ai

nóng mũi, tức nổ đom đóm mắt.

11. Turn one’s nose up at something (“hếch mũi lên với cái gì”) – vênh mặt,

vênh váo như bố vợ phải đấm.

12. Go in one ear and out the other (“đi vào một tai và ra tai kia”) – vào tai

này ra tai kia, không chú ý, nước đổ đầu vịt, nước đổ lá khoai.

13. Be all ears (“toàn tai”) – chăm chú lắng nghe, giỏng tai lên.

14. One’s lips are sealed (“môi của ai bị gắn xi”) – không hoặc không được

bàn cãi hoặc tiết lộ cái gì; ngậm miệng, câm như hến.

15. Turn the other cheek (“giơ má kia ra”) – nhận một đòn đánh mạnh mà

không đánh lại.

16. Keep one’s chin up (“giữ cằm cao”) – vẫn vui vẻ trong khó khăn; không

nản chí, trơ như đá, vững như đồng.

TNBPCTKM tiếng Việt:

1. Có máu mặt – có đời sống sung túc, khá giả hơn người khác.

2. Đeo mo vào mặt – bị nhục nhã, bị chê cười không biết trốn vào đâu.

3. Đầu trâu mặt ngựa – bọn côn đồ hung ác như quỹ dữ.

4. Đầu tắt mặt tối – làm lụng khó nhọc, vất vả không lúc nào rảnh rỗi.

5. Mặt xanh nanh vàng – bị đói lâu ngày.

6. Bắt ruồi không đủ miệng cóc – làm ăn khó khăn.

7. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm - được chăm sóc, hầu hạ chu đáo,

đối xử tử tế.

8. Dại mồm dại miệng – nói năng vụng về, thiếu suy nghĩ làm hại đến mình.

9. Đấm mồm đấm miệng - đút lót, hối lộ, dùng vật chất để mua chuộc hòng

che dấu, ngăn ngừa sự phát giác tội lỗi.

10. Có trầu chẳng để môi thâm – có điều kiện không ai tội gì phải chịu khổ.

34

11. Đầu môi chót lưỡi – chỉ thấy trong lời nói mà không thấy trong việc làm,

không thực chất.

12. Hộc máu mồm máu mũi – nặng nhọc, vất vả.

13. Không kịp mở mắt – rất nhiều công việc phải làm, rất bận

14. Không nhắm được mắt - ôm hận trọn đời, chết mà còn đau khổ vì chưa

thực hiện được nguyện vọng hoặc làm điều gì trái với lương tâm.

15. Có con mắt mà không có con ngươi – không phân biệt được hay, dở, tốt,

xấu.

16. Bằng nửa con mắt – bất cần, ngạo mạn, coi thường tất cả.

17. Đầu áp má kề – vợ chồng đầm ấm, âu yếm, yêu thương nhau.

18.Đầu cua tai nheo - đầu đuôi , sự việc với những tình tiết lộn xộn.

19. Để ngoài tai – coi như không nghe thấy, không thèm để ý.

20. Đầu mày cuối mắt – liếc nhìn nhau, thể hiện tình cảm quyến luyến một

cách kín đáo.

Từ các ví dụ trên chúng ta thấy, TNBPCTKM phải là những TN có ít

nhất một từ chỉ bộ phận khuôn mặt như mặt, mũi, miệng, mắt, trán, cằm, má,

tai...

Dưới đây là tiêu chí cơ bản giúp xác định TNBPCTKM .

Trước hết, TNBPCTKM phải là một TN theo nghĩa đã được xác định

trong chương 2, nghĩa là phải 1/ có một cấu trúc cố định hoặc tương đối cố

định; 2/ có nghĩa bóng hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn; 3/ có nghĩa không

thể và không bao giờ có thể là tổng cộng nghĩa của các từ thành phần của

thành ngữ; 4/ có thể và thường phải sử dụng toàn bộ đơn vị TN trong quá

trình giao tiếp như một đơn vị từ vựng có sẵn và thường đóng vai trò định

danh như một danh từ, tính từ, động từ v.v...

Thứ hai, TNBPCTKM phải có ít nhất một từ chỉ bộ phận cơ thể con

người nhưng chỉ giới hạn trên khuôn mặt.

2.4. Phân loại TNBPCTKM

35

Căn cứ vào những tiêu chí xác định TNBPCTKM như trên, chúng tôi

đã chọn lựa được các đơn vị TNBPCTKM trong hai thứ tiếng với tổng số

mỗi loại là Anh: 237, Việt: 246. Chúng tôi sẽ phân loại TNBPCTKM theo

hai tiêu chí: phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa và phân loại theo cấu

trúc của TNBPCTKM .

2.4.1. Phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa.

Quan hệ logic giữa các đối tượng được gọi tên trong thực tế khách quan

và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ có một vai trò rất quan trọng trong việc tạo

nên ý nghĩa biểu niệm của từ. Trong các quan hệ ngữ nghĩa [12; 125-239] thì

quan hệ cấp loại có tác dụng nhiều nhất trong việc phân lập các từ thành

những trường từ vựng – ngữ nghĩa.

Trong mỗi ngôn ngữ đều có khoảng trên dưới 300 tên gọi các bộ phận

cơ thể con người, chúng lập thành một trường từ vựng – ngữ nghĩa riêng gọi

là trường bộ phận cơ thể người. Tính chất quan trọng của trường từ vựng –

ngữ nghĩa loại này là thể hiện ở chỗ đa số các tên gọi trong trường đều thuộc

vốn từ vựng cơ bản của một ngôn ngữ, chúng là lớp từ thuần bản ngữ nhất, ít

bị pha tạp bởi các quá trình ngôn ngữ, đóng vai trò là hạt nhân của hệ thống từ

vựng. Trong trường từ bộ phận cơ thể người, nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể

người giới hạn ở khuôn mặt cũng chiếm một vị trí tương đối quan trọng. Đối

với nhóm từ chỉ bộ phận cơ thể con người (BPCTCN) (giới hạn ở khuôn mặt)

trong tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi áp dụng lý thuyết về cả hai quan hệ

ngữ nghĩa là quan hệ cấp loại phân loại – loại và quan hệ cấp loại phân loại

toàn bộ – bộ phận để phân định, tập hợp các từ.

Một vấn đề mà chúng tôi cần nói thêm là cách trình bày bảng phân loại.

Bảng phân loại của chúng tôi được trình bày theo cách phân loại toàn thể – bộ

phận, thể hiện toàn cảnh giữa cái toàn thể với cái bộ phận theo trật tự cấp loại

từ bậc một đến bậc ba, tức là đi từ tên gọi chỉ toàn bộ đến các tên gọi chỉ bộ

phận tận cùng, nhỏ nhất của sự phân chia: các cấp loại được đánh số theo bậc

36

1, 2 và 3. Từ bậc một sau khi được phân thành những từ bậc hai đồng cấp

chúng tôi lần lượt trình bày sự phân chia bộ phận của mỗi từ sao cho hết các

từ dưới cấp của từ này theo tuyến trục dọc của nó. Làm như vậy sẽ giúp cho

nhận thức được quan hệ và những đặc thù ngữ nghĩa nhất định của tên gọi các

BPCTCN tiếng Anh và tiếng Việt. Trong bảng phân loại này, mỗi từ ở bậc hai

trở đi cho đến các từ tiếp giáp với bậc phân chia cuối cùng theo tuyến trục dọc

của từ ấy có thể cùng với các từ dưới cấp lập thành một miền của trường tên

gọi BPCTCN.

Biểu đồ sau đây sẽ tóm lược cách trình bày trong bảng phân chia của

chúng tôi.

Mặt Bậc 1:

Các yếu tố của khuôn mặt Bậc 2:

Các yếu tố của bộ phận khuôn mặt Bậc 3:

Sơ đồ 2.1. Các đơn vị chỉ bộ phận cơ thể con ngƣời (giới hạn ở khuôn

mặt)

tiếng Anh và tiếng Việt

(Phân loại theo quan hệ logic – ngữ nghĩa)

MẶT

Bậc 1

TRÁN

TAI

MŨI

MẮT

MIỆNG

Bậc 2

LÔNG MÀY

MI

MÔI

Bậc 3

Sơ đồ 2.1

Căn cứ vào những tiêu chí nêu trên, cũng như căn cứ vào chính TN đã

thu thập được, chúng tôi tổng kết TNBPCTKM trên sơ đồ gọi là sơ đồ về

37

TNBPCTKM tiếng Anh và tiếng Việt như dưới đây. Nhóm 1 là những TN có

từ chỉ mặt; nhóm 2 là nhóm những TN có những từ chỉ bộ phận trên

khuôn mặt; nhóm 3 là nhóm TN có những từ chỉ bộ phận của bộ phận

trên khuôn mặt.

38 Sơ đồ TNBPCTKM

TN có từ chỉ bộ phận của bộ phận khuôn mặt

TN có từ chỉ bộ phận của khuôn mặt

TN có từ chỉ mặt

TN có từ chỉ Trán

TN có từ chỉ Mũi

TN có từ chỉ Mắt

TN có từ chỉ Miệng

TN có từ chỉ Má

TN có từ chỉ Tai

TN có từ chỉ Môi

TN có từ chỉ Lông mày

TN có từ chỉ Lông Mi

TNBPCTKM

Sơ đồ 2.2

39

Bảng thống kê các thành ngữ có từ chỉ bộ cơ thể con ngƣời (giới hạn ở

khuôn mặt)

STT TNBPCTKM Anh Việt

1 Mặt 45 61

2 Trán 0 2

3 Tai 41 23

4 Mũi 30 8

5 Mắt 86 57

6 Miệng 18 76

7 Má 3 9

8 Lông mày 2 3

9 Lông mi 0 2

10 Môi 11 7

Bảng 2.1

Nhìn tổng thể từ danh mục TN minh họa và sơ đồ tổng quát của hai thứ

tiếng, ta có thể thấy TNBPCTKM được phân bố đều. Mặc dù vậy, số lượng

TN ở các tiểu nhóm trong các thứ tiếng khác nhau được phân bố không đồng

đều. Sự không đồng đều này xảy ra trong phạm vi từng NN, trong nhóm, và

trong các tiểu nhóm. Có những TN có thể tìm thấy rất nhiều trong thứ tiếng

này nhưng lại hầu như không thấy trong thứ tiếng khác.

Trong 10 bộ phận nêu trên thì có 5 bộ phận có tần số xuất hiện cao nhất

là: mắt, mặt, miệng, mũi, tai. Điều đó cho thấy ở cả hai quốc gia, người dân

bản địa cũng đánh giá 5 bộ phận cơ thể trên là quan trọng nhất trong khuôn

mặt. Tuy nhiên, mắt trong tiếng Anh có tần số xuất hiện nhiều hơn so với

tiếng Việt (Anh: 86, Việt: 57), miệng tiếng Việt có tần số xuất hiện cao hơn

rất nhiều so với tiếng Anh (Anh: 18, Việt: 76). Do đó có thể thấy rõ một điều

rằng, văn hoá của hai nước đã ảnh hưởng tới việc sử dụng các từ sử dụng bộ

40

phận cơ thể con người vào thành ngữ. Người phương Tây nói chung, người

Anh nói riêng thường coi trọng đôi mắt, coi đôi mắt là bộ phận quan trọng

nhất trên khuôn mặt, là “cửa sổ tâm hồn”, “đôi mắt” chính là con người, từ

đôi mắt có thể nhận biết được tính cách con người. Do đó hình ảnh “đôi mắt”

được người Anh gán cho một nghĩa biểu trưng để phản ánh con người. Còn

người Việt do ảnh hưởng của văn hoá phương Đông, đặc biệt là ảnh hưởng

của văn hoá Trung Quốc, đánh giá miệng là một bộ phận tương đối quan

trọng, đánh giá con người, sự vật, hiện tượng hay dùng miệng để dùng làm

hình ảnh so sánh. Miệng được sử dụng mang nghĩa biểu trưng khá rộng rãi.

2.4.2. Phân loại theo cấu trúc của TNBPCTKM

Cấu trúc của TN trước hết phải là cụm từ bao gồm ít nhất là từ hai từ

trở nên. Thứ hai, đó không phải là những tổ hợp từ tự do, do đó không thể

phân tích chúng thành từng đơn vị độc lập bởi trong từng trường hợp như vậy,

một TN sẽ không còn là TN nữa. Thứ ba, kiểu loại TN sẽ được xác định trên

cơ sở của loại từ nòng cốt trong TN đó: danh từ, tính từ v.v... Theo đó, những

TN có từ nòng cốt là danh từ sẽ được gọi là TN có cấu trúc của đoản ngữ

danh từ (a naked eye, da ngà mắt phượng). Những TN có từ chủ chốt là động

từ sẽ được gọi là TN có cấu trúc của đoản ngữ động từ (close one’s eyes to

something, đánh gẫy gối tối mặt).

Trong số các TNBPCTKM có thể thấy các loại có cấu trúc của đoản

ngữ (danh từ: the evil eye, an eye for an eye, the eye of the storm, a long face,

an ear for something, da chì mặt bủng, mắt trắng dã môi thâm sì), tính từ

(easy on the ear, wet behind the ears, plain as the nose on one’s face, dại

mồm dại miệng, bận chúi mắt chúi mũi), động từ (fly in the face of something,

have the face to do something, shoot one’s mouth off, follow one’s nose, keep

one’s ears open), giới từ (with a flea in one’s ear, with half an ear, in one’s

mind’s eye, in the public eye, on the face of it, in the face of something, down

in the mouth), mệnh đề (đơn, đủ thành phần) (butter wouldn’t melt in

41

somebody’s mouth, there’s many a slip twixt cup and lip, cơm vào miệng vẫn

còn rơi, con mắt là mặt đồng cân), cấu trúc so sánh (as plain as the nose on

one’s face, con mắt to hơn cái bụng). Các cấu trúc so sánh rất phổ biến trong

tiếng Anh và tiếng Việt. Cấu trúc đoản ngữ khá phổ biến trong tiếng Anh.

Tiếng Việt có những cấu trúc lồng chéo, biền ngẫu, song song (mắt nhắm mắt

mở, da trì mặt bủng, đinh tai nhức óc...) với 4 thành tố mà trong tiếng Anh

hầu như không tìm thấy được.

2.5. Tiểu kết chương 2

Trong chương này chúng tôi làm một số việc như sau:

1. Xác định khái niệm TN dùng trong luận văn, đồng thời điểm qua một vài

nét chính về tình hình nghiên cứu TN trong hai thứ tiếng. TN là những cụm từ

cố định bao gồm ít nhất là từ hai từ trở lên, có tính biểu cảm cao, có nghĩa

bóng và nghĩa tổng thể không bao giờ có thể là nghĩa tổng cộng của nghĩa các

thành tố tạo nên thành ngữ.

Từ góc độ ngữ nghĩa, TN có thể được chia ra các loại: có nghĩa rõ ràng có

thể phân tích được; có nghĩa mờ nhạt không phân tích được, và loại giả ẩn dụ.

Từ góc độ NN học chức năng, TN có thể được chia ra các loại: TN ý niệm

và TN liên cá nhân.

2. Xác định khái niệm, tiêu chí phân loại và xác định TNBPCTKM trong

tiếng Anh và tiếng Việt.

3. Phân tích và so sánh TNBPCTKM ở góc độ khác nhau: cấu trúc, ngữ

nghĩa.

42

CHƢƠNG 3. SO SÁNH ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ

TIẾNG VIỆT

3.1. Những nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM

Nhìn tổng thể, TNBPCTKM có thể tìm thấy ở trong cả hai thứ tiếng

với tỉ lệ phân bố ít chênh lệch nhau về số lượng: 246 (Việt) – 237 (Anh). TN

TV có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con người tìm được trong tổng số

khoảng 10.416 đơn vị TN trong từ điển TN TV do Vũ Dung chủ biên là 522

đơn vị, trong số này là 246 đơn vị là những TNBPCTKM, chiếm 47,13% tổng

số lượng các TN có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con người. TN TA

có những từ chỉ bộ phận cơ thể con người tìm được 458 đơn vị trên tổng số

20.000 đơn vị TN thống kê trong Từ điển TN TA của Cowie, Kunin v.v... Số

lượng TNBPCTKM trong tiếng Anh tìm được là 237 đơn vị, chiếm 51,75%

trong tổng số lượng các TN có sử dụng những từ chỉ bộ phận cơ thể con

người. Nếu xét từ góc độ tổng số lượng các đơn vị TN trong từng thứ tiếng

trong TV và TA, lượng TNBPCTKM chiếm không đáng kể, TNBPCTKM

trong tiếng Việt chỉ chiếm 2,36%, còn TNBPCTKM trong tiếng Anh chỉ

chiếm 1,18%. Tuy nhiên số lượng TNBPCTKM tìm thấy ở tiếng Anh và tiếng

Việt gần như tương đương, chênh lệch không đáng kể.

Sau đây là sơ đồ trình bày sự phân bố TNBPCTKM.

Sơ đồ 3.1 Sự phân bố TNBPCTKM

600

522

500

458

400

TNBPCTCN

300

246

237

TNBPCTKM

200

100

0

Anh

Viet

43

(Chú thích: - TNBPCTCN: thành ngữ có những từ chỉ bộ phận cơ thể con

người.)

Tiểu nhóm những TN có từ chỉ mặt, tai, mắt, mũi trong hai thứ tiếng có

số lượng tương đối đồng đều nhau. Nhóm TN có những từ chỉ mặt và mắt

trong hai ngôn ngữ này được thể hiện tương đối nhiều (mặt: TA: 45, TV: 61;

mắt: TA: 86, TV: 57 ). Còn những TN có từ chỉ miệng trong hai ngôn ngữ

này chênh lệch nhau một cách rõ rệt, những TN có từ chỉ miệng trong tiếng

Việt nhiều hơn hẳn so với tiếng Anh, hơn gấp bốn lần so với số lượng những

TN có từ chỉ miệng trong tiếng Anh (TV: 76, TA: 18). Số lượng những TN có

từ chỉ má trong tiếng Việt cũng chiếm ưu thế hơn, mặc dù số lượng không

đáng kể (TV: 9, TA: 3). Lượng những TN chỉ môi trong hai ngôn ngữ cũng

tương đương nhau, mặc dù ở tiếng Anh có phần trội hơn (TA: 11, TV: 7).

Còn số lượng những TN có từ chỉ lông mày, lông mi ở cả hai ngôn ngữ đều

không đáng kể, thậm chí còn không có (lông mày: TA: 2, TV: 3; lông mi: TA:

0, TV: 2).

Sự chênh lệch ở những tiểu nhóm TN đều thể hiện cách đánh giá và

tính phổ biến về cách đề cập tới tầm quan trọng của từng bộ phận trên khuôn

mặt con người của từng dân tộc. Đó chính là những nét văn hoá riêng của

từng dân tộc. Tên gọi mỗi một bộ phận trên khuôn mặt vốn chỉ đơn thuần là

những tên gọi thông thường để xác định và định vị những bộ phận đó, song

do ảnh hưởng của tư duy, văn hoá của từng dân tộc, các tên gọi đó lại được

gán cho một nghĩa biểu trưng, mang sắc thái văn hoá. Từ đó, tên gọi của từng

bộ phận trên khuôn mặt không chỉ mang ý nghĩa định danh mà còn được sử

dụng làm thành tố văn hoá. Do có sự khác biệt về quan niệm, tư duy, tín

ngưỡng và văn hoá giữa hai dân tộc, nên ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị tên

gọi này cũng khác.

Người Anh đánh giá bộ phận quan trọng nhất trên khuôn mặt là đôi

mắt, vì vậy ý nghĩa biểu trưng của của đôi mắt cũng được sử dụng nhiều nhất

44

trong TNBPCTKM. Đối với người Anh, Mỹ, đôi mắt không những là cơ quan

thị giác mà còn là “cửa sổ tâm hồn” (the door to the heart). Đôi mắt phản ánh

đầy đủ và sinh động thế giới nội tâm của con người. Đôi mắt chính là con

người. Người phương Tây nói chung và người Anh, Mỹ nói riêng, có cách

sống hướng ngoại, sôi nổi, cởi mở, không bị ràng buộc quá nhiều vào các

nguyên tắc, phong tục tập quán. Lối sống của họ là một lối sống tự do,

khoáng đạt, sống vì cái tôi nhiều, do đó nhiều khi không có được sự sâu sắc

như người phương Đông. Họ không phải là những người sống hướng nội, do

đó họ luôn biểu lộ mọi cảm xúc, tình cảm của mình qua đôi mắt. Chính vì thế

mà đôi mắt được người phương Tây đánh giá là bộ phận quan trọng nhất trên

khuôn mặt, còn các bộ phận khác trên khuôn mặt chỉ đơn thuần là những bộ

phận cơ thể, có chức năng, nhiệm vụ nhất định.

Còn người Việt thuộc nền văn hoá phương Đông, và đặc biệt ảnh

hưởng rất lớn từ văn hoá Trung Quốc, tính cộng đồng rất cao. Việt Nam là

một trong những cái nôi của văn minh lúa nước, văn minh nông nghiệp, văn

hoá Việt là văn hoá làng xã. Đặc điểm văn hoá của nền văn minh nông nghiệp

là tính cộng đồng cao và hiền hoà trong tính cách, ứng xử. Trong giao tiếp,

người Việt Nam thường có phương châm dĩ hoà vi quý, lấy sự hoà đồng, vui

vẻ làm trọng. Lối sống của người Việt cũng thiên về lối sống cộng đồng, gia

đình. Người Việt rất coi trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành

viên trong cộng đồng. Do đó, cái “đối nhân xử thế” được người Việt rất coi

trọng. “Lời ăn tiếng nói” chính là phản ánh con người. Điều này đã giải thích

tại sao miệng lại được đánh giá là một bộ phận quan trọng nhất nhì trên khuôn

mặt. Miệng có ý nghĩa biểu trưng khá lớn đối với người Việt.

Cũng giống như người phương Tây, mắt cũng được người Việt đánh

giá là một bộ phận rất quan trọng. Nếu miệng được người Việt coi là hành vi,

văn hoá của con người, thì mắt lại chính là tâm hồn của người đó. Và do ảnh

hưởng của văn hoá Trung Quốc, người Việt cũng rất coi trọng “hình dung

45

tướng mạo”, mỗi một bộ phận trên khuôn mặt đều thể hiện tính cách của con

người. Vì vậy, ngoài chức năng định danh, các đơn vị tên gọi của các bộ phận

trên khuôn mặt cũng đi vào thành ngữ với nghĩa biểu trưng riêng. Đấy chính

là lý do giải thích tại sao có những từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt như lông

mi, không xuất hiện trong TN TA nhưng vẫn xuất hiện trong TN TV, và có

những từ chỉ bộ phận trên khuôn mặt tần số xuất hiện trong TN TA không

nhiều, thì lại xuất hiện tương đối nhiều trong TN TV (ví dụ: miệng: TA: 18,

TV: 76).

Chính do phương thức sử dụng TNBPCTKM khác nhau này khiến cho

người dịch hoặc học và giảng dạy thành ngữ phải có cách xử lý tình huống

sâu và chính xác mới có thể chọn lựa cho mình TN phù hợp, nhất là trong

trường hợp có sự chênh lệch nhiều về số lượng cũng như chất lượng nghĩa

của TN. Đối với những trường hợp có TN tồn tại ở NN này nhưng lại vắng

mặt ở NN khác thì, về lý thuyết, người dịch, hoặc người học và giáo viên có

thể chọn phương pháp mô tả, hoặc vay mượn giúp cho độc giả, người học tiếp

thu được hình ảnh và tinh thần của TN ở văn bản nói.

Dưới đây là sơ đồ trình bày sự phân bố TN trong tiếng Anh và tiếng

90

80

70

60

50

40

30

20

M¾t Tr¸n Tai Mòi MÆt MiÖng M¸ L«ng mµy L«ng mi M«i

10

0

Anh

ViÖt

46

Việt. Sơ đồ 3.2. Sự phân bố TNBPCTKM theo từng tiểu nhóm

3.2. Những nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM.

Nghiên cứu số lượng TN thu được, chúng tôi có thể có một số nhận xét

khái quát tổng quát để phục vụ cho mục đích phân loại TNBPCTKM qua cấu

trúc của chúng.

1. TN có kết cấu so sánh phổ biến hơn trong TV, và ít hơn trong TA, mặc dù

số lượng của TN có kết cấu so sánh trong hai ngôn ngữ này không đáng kể

(Anh: 3, Việt: 11). Kết cấu so sánh thường được bắt đầu bằng 1 từ (TA),

nhưng cũng có thể bắt đầu bằng một cụm từ, theo đó là liên từ so sánh như và

một yếu tố cụ thể gắn với một thuộc tính của sự vật, hoặc hiện tượng quen

thuộc với cuộc sống sinh hoạt, lao động thường ngày của dân tộc đó. Ví dụ:

as plain as the nose on somebody’s face (rõ như mũi ở trên mặt), mắng như

tát nước vào mặt.

2. Tiếng Anh có nhiều TN có kết cấu đoản ngữ hơn so với tiếng Việt (Anh:

197, Việt: 156). Trong đó đoản ngữ động từ chiếm đa số: 143; đoản ngữ danh

từ: 23, đoản ngữ tính từ: 4, đoản ngữ giới từ: 27. Tuy nhiên khái niệm đoản

ngữ trong tiếng Việt tương đối đặc biệt thể hiện ở một loạt các TN có những

cặp đoản ngữ danh từ, động từ, hay tính từ đẳng lập. Hiện tượng này hầu như

không gặp trong TNBPCTKM của tiếng Anh.

3. TN có cấu trúc đoản ngữ động từ trong tiếng Anh đa dạng hơn so với tiếng

Việt ( Anh: 143, Việt: 53). Những biến thể của loại này được thể hiện bằng

những công thức sau:

Động từ + bổ ngữ (V + COMPL.)

Động từ + bổ ngữ trực tiếp (V + DIR.OBJ)

Động từ + bổ ngữ trực tiếp + bổ ngữ (V + DIR OBJ + COMPL)

Động từ + bổ ngữ gián tiếp (V + INDIR. OBJ)

Động từ + bổ ngữ trực tiếp + trạng ngữ (V + DIR OBJ + ADJUNCT)

47

4. Số lượng TN có cấu trúc giới từ trong tiếng Việt ít hơn hẳn so với tiếng

Anh, mặc dù số lượng trong cả hai ngôn ngữ này không đáng kể (Anh: 27,

Việt: 4).

5. Thành ngữ có cấu trúc mệnh đề ít xuất hiện trong tiếng Anh (16 trường

hợp) nhưng lại khá phổ biến trong tiếng Việt (76). Tuy nhiên các kết cấu

mệnh đề rất phổ biến trong tục ngữ tiếng Anh.

Dưới đây là bảng thống kê về phân bố cấu trúc của TN tiếng Anh và

tiếng Việt. Từ bảng thống kê này, chúng ta sẽ thấy phương thức dịch tương

đương hình thức sẽ khó có thể thực hiện được đối với TN TA sang TV. Xem

xét sự khác biệt về cấu trúc của TN giữa hai ngôn ngữ TA và TV là rất cần

thiết, để chúng ta có thể tìm ra cách chuyển dịch, học và giảng dạy thành ngữ

một cách có hiệu quả trong các trường chuyên ngữ.

48 Bảng 3.1. CẤU TRÚC CỦA TNBPCTKM TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

TIỂU LOẠI CÔNG THỨC TA TV

Động từ Động từ + bổ ngữ (V + COMPL) 197 156 Đoản ngữ

Động từ + tân ngữ trực tiếp (V + DIR. OBJ)

Động từ + tân ngữ trực tiếp + bổ ngữ (V + DIR OBJ + COMPL)

Động từ + tân ngữ gián tiếp (V + INDIR. OBJ)

Động từ + tân ngữ trực tiếp + trạng ngữ (V + DIR OBJ + ADJUNCT)

Danh từ Định ngữ + Tính từ + Danh từ (DETER + ADJ + N)

Định ngữ + Danh từ + Bổ ngữ (DERT. + N + COMPL)

Danh từ + Danh từ (N + N)

Đẳng lập (danh từ)

Bảng 3.1

49 Bảng 3.2. CẤU TRÚC CỦA TNBPCTKM TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT (tiếp theo)

TIỂU LOẠI CÔNG THỨC TA TV

Tính từ Trạng ngữ + Tính từ + Giới từ/ động từ nguyên dạng/ mệnh đề (ADV. Đoản ngữ

MODIF. + ADJ. + PREP. / INF./ CLAUSE)

Tính từ + Tính từ (ADJ. + ADJ.)

Giới từ Giới từ + Tân ngữ + of giới từ (PREP. + OBJ. OF PREP)

Tính từ + giới từ “như” + danh từ (ADJ + AS/ LIKE) 3 11 So sánh

Đơn Chủ ngữ + vị ngữ (S + V) 16 76 Mệnh đề

Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ (S + V + O)

Phức Chủ ngữ + vị ngữ chủ ngữ + vị ngữ (S – V + S - V)

Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ Chủ ngữ + vị ngữ + tân ngữ

(S V O + S V O)

Bảng 3.2

50

Sơ đồ Cấu trúc TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt

200

180

160

140

120

Anh

100

ViÖt

80

60

40

20

0

§o¶n ng÷ So s¸nh MÖnh ®Ò

Sơ đồ 3.3

Như vậy, có thể kết luận về cấu trúc TNBPCTKM như sau:

1. TNBPCTKM cả hai thứ tiếng đều có những cấu trúc đoản ngữ. Cấu trúc

đoản ngữ trong tiếng Anh có điểm khác so với cấu trúc đoản ngữ trong tiếng

Việt. Trong tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo khá phổ biến. Lối

dùng này thể hiện ở những cặp từ vựng (danh, động, tính, số) song song, đối

lập, lồng chéo với những từ hoặc đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa, hoặc không có

ý nghĩa từ vựng.

2. Số lượng TN có cấu trúc đoản ngữ so sánh trong hai ngôn ngữ được nghiên

cứu không nhiều lắm.

3. Số lượng TN có cấu trúc mệnh đề trong tiếng Việt tương đối lớn, trong khi

đó TNBPCTKM trong tiếng Anh lại chiếm không đáng kể.

Công cụ để giao tiếp là ngôn ngữ. Nhìn vào tiếng Việt, có thể thấy nó

phản ánh rõ hơn đâu hết linh hồn, tính cách của con người Việt Nam và

51

những đặc trưng cơ bản của nền văn hoá Việt Nam. Văn hoá Việt Nam là văn

hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình người. “Lối tư duy tổng hợp mọi yếu

tố, lối sống ưa ổn định và có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu

hướng trọng sự cân đối hài hoà trong ngôn từ - một biểu hiện khác của tính

biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt”

[28;161]. Theo loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa

một khối lượng lớn các từ song tiết; mỗi từ đơn lại hầu như đều có những biến

thể song tiết, cho nên trên thực tế ngôn từ Việt thì cấu trúc song tiết là chủ

đạo, vì vậy ta có thể thấy ở TNBPCTKM tiếng Việt xuất hiện một lượng lớn

các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo, có các cấu trúc hai vế đối ứng (lên mặt

xuống chân, mặt sứa gan lim, khôn thì ngậm miệng khoẻ thì cắp tay, môi hở

răng lạnh, coi bằng mắt bắt bằng tay...). Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu

thanh điệu, tự thân thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Vì vậy chúng

ta có thể thấy trong TNBPCTKM tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng

chéo, lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu được

người Việt sử dụng rất nhiều.

Các nước phương Tây hầu hết là những nước công nghiệp, đi theo con

đường tư bản chủ nghĩa. Người phương Tây nói chung và người Anh, Mỹ nói

riêng, coi trọng tính chính xác và chuẩn mực, luôn có cái nhìn rất thực tiễn.

Người Anh, Mỹ thiên về lối sống độc lập, thích có thay đổi và thử thách trong

cuộc sống, không dễ chấp nhận cuộc sống ổn định. Một điểm nổi bật trong

văn hoá Anh, Mỹ đó là sự coi trọng tính chính xác, chẳng hạn như việc đến

chỗ hẹn gặp đúng giờ, đi làm đúng giờ…, nếu đến muộn thì sẽ bị coi là bất lễ.

Điều này cũng được phản ánh khá rõ trong ngữ pháp của các ngôn ngữ

phương Tây nói chung và tiếng Anh nói riêng. Ngữ pháp của các ngôn ngữ

phương Tây là một thứ ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy móc. Do đó, trong các

TNBPCTKM tiếng Anh, ta có thể gặp rất nhiều dạng đoản ngữ (đoản ngữ

danh từ, đoản ngữ động từ, đoản ngữ tính từ…) có cấu trúc chặt chẽ: đã là

52

đoản ngữ động từ thì thành tố chính phải là một động từ, rồi có các bổ ngữ

(stick one’s nose into something, do something in the eye…); đã là đoản ngữ

danh từ thì thành tố chính phải là danh từ và có các định ngữ (a roving eye,

brown nose…)… mà chúng ta không hề thấy có các dạng cấu trúc đoản ngữ

bất thường, với các cách thay đổi trật tự từ không theo quy tắc nêu trên.

Tìm ra sự khác biệt và sự tương đồng trong cấu trúc của TNBPCTKM

ở cả hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt là hết sức cần thiết. Tìm ra được

những cấu trúc điển hình mục đích là để mô hình hoá các dạng thức dịch, hay

nói cách khác là cách thức chuyển dịch tương ứng một TN TV sang TA. Nhìn

chung, TN TV có cấu trúc rất đặc trưng với hai từ lồng chéo nhau hợp nghĩa

hay tách nghĩa bằng một từ chung (đầu mày cuối mắt, mặt nặng mày nhẹ

v.v...) khi chuyển sang TA sẽ có những kết cấu đoản ngữ: danh từ, tính từ,

động từ v.v... tương ứng, và khi chuyển dịch sang TA sẽ dễ hiểu và chính xác

hơn ( Ví dụ: mặt nặng mày nhẹ  mặt mày nặng nhẹ).

3.3. Những nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM

Nghĩa của TN không được xác định bằng cách suy luận nghĩa từ các từ

thành phần cũng như bằng tổng nghĩa của chúng. TN thường có nghĩa bóng.

Nghĩa của TN phải được xác định trong ngữ cảnh sử dụng tuỳ thuộc vào mối

quan hệ của những người tham gia vào quá trình giao tiếp.

Mục này sẽ chú trọng tới những mối liên hệ của hình ảnh ngữ nghĩa của

TN; khái niệm tích cực hay tiêu cực khi sử dụng TNBPCTKM ; cách sử dụng

các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các TN này, phương

thức thể hiện và tần suất dùng của các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng

Việt.

3.3.1. Mối liên hệ giữa ngữ nghĩa và hình ảnh của các TNBPCTKM trong

tiếng Anh và tiếng Việt.

Căn cứ vào kêt quả phân tích ngữ nghĩa và hình ảnh cấu thành nên TN,

các TNBPCTKM có thể có những dạng xuất hiện sau:

53

- giống nhau hoàn toàn hình ảnh và nghĩa (tương đương hoàn toàn)

- gần giống về hình ảnh, đồng nghĩa (tương đương bộ phận)

- khác nhau về hình ảnh, đồng nghĩa

- giống nhau về hình ảnh (hoàn toàn hoặc bộ phận), khác nhau về nghĩa (hoàn

toàn hoặc có nét nghĩa khác bổ sung)

- khác nhau về ý nghĩa, khác nhau về hình ảnh, mặc dù chỉ dùng chung các từ

chỉ bộ phận cơ thể khuôn mặt.

Phân loại TNBPCTKM trên mối liên hệ giữa ngữ nghĩa và hình ảnh

trong tiếng Anh và tiếng Việt.

Đơn vị TN

Tiểu loại Tiếng Anh Tiếng Việt

= ý nghĩa = hình Lose face Mất mặt

Face to face Mặt đối mặt ảnh

Have one’s nose in Chúi mũi vào = ý nghĩa  hình

something Không biết giấu mặt đi ảnh

Could not show one’s face đâu

Wet behind the ears Vắt mũi chưa sạch = ý nghĩa  hình

ảnh

See somebody with half Nhìn người bằng nửa con  ý nghĩa = hình

any eye (chỉ thoáng nhìn mắt (khinh thường, coi ảnh

một cái là đã trông thấy ai thường ai đó)

đó ngay)

An eye for an eye (ăn Mắt sắc như dao cau  ý nghĩa  hình

miếng trả miếng) Mưa bao giờ mát mặt bấy ảnh (mặc dù có

Shut your face (thôi nói giờ sử dụng chung từ

đi,) chỉ bộ phận

54

khuôn mặt)

Bảng 3.3

Thống kê các trƣờng hợp về mối liên hệ giữa hình ảnh và ý nghĩa thành

ngữ:

Tiểu loại Ý nghĩa Ý nghĩa Ý nghĩa trùng Ý nghĩa Ý nghĩa

và hình và hình và hình ảnh khác nhau khác nhau,

Tiếng ảnh trùng ảnh gần khác nhau nhưng hình hình ảnh sử

nhau hoàn toàn ảnh gần dụng khác trùng

nhau hoặc cục bộ trùng nhau nhau

Anh – Việt 20 71 6 1 352

Bảng 3.4

Nhận xét:

1. Số lượng TN trùng nhau hoàn toàn trong hai ngôn ngữ là 4,1%. Số lượng

TN trùng hợp nhau gần như hoàn toàn chiếm 14,7 %, tương đối nhiều.

2. Số lượng TN có ý nghĩa giống nhau mà hình ảnh khác nhau chiếm 1,2%.

Số lượng TN ý nghĩa khác nhau nhưng hình ảnh gần trùng nhau rất ít, chỉ

chiếm 0,2%.

3. Số lượng TN ý nghĩa khác nhau, sử dụng hình ảnh khác nhau (mặc dù có

sử chung từ chỉ bộ phận khuôn mặt chiếm đa số), chiếm 72,9%.

4. Số lượng TN không trùng nhau của TV và TA có nguồn gốc sâu xa: TA

chịu ảnh hưởng nhiều từ các thứ tiếng khác như Latinh và Pháp. Tiếng Anh là

ngôn ngữ biến hình, còn tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập. Mỗi dân tộc thường

có những khái niệm nhất định gắn cho mỗi vật, hiện tượng. “Trong TN, một

bộ phận quan trọng của bức tranh ngôn ngữ thế giới về cuộc sống thực tiễn

trong tổng thể các hiện thực văn hoá xã hội của một dân tộc, thể hiện tính

cách, tư duy của dân tộc đó – chính là hình tượng dân tộc. Về phương diện

này những từ then chốt thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc được gọi là các hình

tượng ổn định bằng ngôn từ” [29;136]. Các bộ phận trên khuôn mặt như mắt,

55

mũi, mồm, miệng... được coi là các từ then chốt và thường được dùng trong

nhiều thành ngữ chỉ hoạt động và tính cách con người. Mỗi dân tộc đều có

cách đánh giá nhất định cho mỗi bộ phận cơ thể con người nói chung và các

bộ phận trên khuôn mặt nói riêng. Có những bộ phận cơ thể con người được

người Việt đánh giá cao thì người Anh lại không có cách đánh giá như vậy.

Người Việt, do ảnh hưởng “nhân tướng học” của người Trung Quốc, nghiên

cứu về “hình dung tướng mạo” con người để suy đoán tính cách, hành động,

và số phận của con người, nên tất cả các bộ phận trên khuôn mặt được sử

dụng trong TN đều thiên về nét nghĩa miêu tả hình dáng, tính cách. Chẳng

hạn người Việt thường dùng hình ảnh mặt và miệng để tả hình dáng con

người (da chì mặt bủng – người ốm yếu, mặt hoa da phấn - người phụ nữ có

vẻ ngoài tươi đẹp, nõn nà, da ngà mắt phượng – người con gái đẹp, mắt trắng

môi thâm – người có tướng người bạc bẽo, bất nhân). Còn người Anh vốn chỉ

coi tất cả các bộ phận trên khuôn mặt đơn thuần là các bộ phận cơ thể của con

người mà thôi, ngoại trừ đôi mắt. Đôi mắt ngoài ý nghĩa định danh còn được

người Anh sử dụng với nét nghĩa biểu trưng cho con người, để mô tả tính

cách, hình dáng và tâm hồn con người (ví dụ: four eyes –bốn mắt (người cận

thị). Hình ảnh tai được người Việt sử dụng để nói về thái độ, hành vi của con

người (đỏ mặt tía tai – tức giận, đút nút lỗ tai – không thèm nghe không thèm

để ý), trong khi đó người Anh thường sử dụng hình ảnh tai để nói về khả

năng thính giác nhiều hơn (an ear for something – có tai cho cái gì (có khả

năng phân biệt được các âm thanh), easy on the ear – dễ nghe). Người Việt sử

dụng hình ảnh mũi để nói về tính cách, quan điểm (vắt mũi chưa sạch – còn

non dại chưa biết gì, vuốt mặt không nể mũi), trong khi đó người Anh lại dùng

hình ảnh mũi để ám chỉ về con người nhiều hơn (keep one’s nose clean – giữ

mũi mình sạch (giữ cho bản thân trong sạch). Hình ảnh má và chán hầu như

không được sử dụng trong TN tiếng Anh, nhưng người Việt lại dùng hai hình

ảnh này để tả về tính cách, dung mạo của con người (má đào mày liễu, phùng

56

má trợn mắt, trán bánh trưng lưng tôm càng). Một điểm khác biệt nữa là,

miệng trong thành ngữ tiếng Anh được sử dụng gần như hoàn toàn khác với

miệng được sử dụng trong thành ngữ Tiếng Việt. Miệng trong thành ngữ tiếng

Anh thường được sử dụng với nghĩa theo đúng chức năng của nó, là nói (VD:

keep one’s mouth shut – giữ miệng đóng – không tiết lộ bí mật, câm miệng

hến; live from hand to mouth – sống từ tay đến miệng – sống lần hồi cho qua

ngày, đoạn tháng), còn trong tiếng Việt, miệng được sử dụng với nghĩa rộng

hơn, để đánh giá tính cách, hành vi, thái độ của con người (VD: dại mồm dại

miệng – nói năng vụng về thiếu suy nghĩ; miệng bồ tát bụng dao găm – kẻ giả

dối, thái độ giả tạo, không thật lòng). Như vậy, đặc điểm mà các NN gắn cho

những bộ phận trên khuôn mặt không phải lúc nào cũng giống nhau.

Dưới đây là bảng thống kê các ý nghĩa được gắn cho các bộ phận trên

khuôn mặt con người

Bảng thống kê ý nghĩa của các thành ngữ có sử dụng các bộ phận trên

khuôn mặt con ngƣời

Bộ phận Ý nghĩa Tiếng Anh Tiếng Việt

Miêu tả vẻ bề ngoài của con - +

người

Mặt Miêu tả tính cách nội tâm + +

- + Miêu tả tâm sinh lý con người

+ + Miêu tả quan điểm

+ + Chỉ các hoạt động khác

- + Miêu tả vẻ bề ngoài

- + Đánh giá tính cách con người

+ + Thái độ coi thường, ngạo mạn

- + Tâm sinh lý con người

- + Thói quen

57

Mắt Chỉ các hoạt động theo dõi + -

Tình cảm dành cho người khác + -

Chuyện vô lý + -

Quan điểm + -

Chỉ các hoạt động khác + +

Đánh giá tính cách con người - +

Miệng Thái độ giả tạo - +

Hành động nửa vời - +

Nói năng vụng về, thiếu suy nghĩ - +

Kinh nghiệm trồng trọt & chăn - +

nuôi

Cách nói năng, cư xử + +

Bí mật, không tiết lộ + +

Thái độ xúc phạm, sỉ nhục người + -

khác

Xuất thân từ gia đình quyền quý + -

Chỉ các hoạt động khác + +

Hoàn cảnh túng thiếu - +

Còn trẻ dại - +

Quan điểm + +

Hành động côn đồ - +

Mũi Sự nhạy bén + -

Kiểm soát người khác + -

Xúc phạm, sỉ nhục người khác + -

Can thiệp vào chuyện của người + +

khác

Đánh giá tính cách con người + +

58

Chỉ các hoạt động khác + +

Tai Miêu tả hình dáng của con người - +

Hành vi + +

Tin dữ, bất ngờ, choáng váng - +

Thái độ bàng quan + +

Sự nhạy bén + -

Thái độ cảnh giác + -

Bận rộn + +

Chỉ các hoạt động khác + +

Hành động dại dột - +

Thái độ, hành động giả tạo - +

Đánh giá tính cách con người + +

Môi Kinh nghiệm ăn uống - +

Có cùng quan điểm + -

Chỉ các hoạt động khác + +

Miêu tả hình dáng con người - +

Má Tình cảm + +

Thái độ, hành vi - +

- + Lông mày Miêu tả hình dáng con người

- + Tình cảm quyến luyến

- + Trán Miêu tả hình dáng con người

Bảng 3.5

Nhìn chung, hình ảnh các bộ phận trên khuôn mặt con người được sử

dụng trong các thành ngữ đều khác nhau ở mỗi ngôn ngữ. Một số hình ảnh

được sử dụng giống nhau trong hai ngôn ngữ (mặt, mắt...), nhưng cũng có

một số hình ảnh có ở ngôn ngữ này mà không có ở ngôn ngữ kia (VD: lông

mày có ở tiếng Việt, nhưng lại không có trong tiếng Anh).

59

Nhìn chung, người Việt thường sử dụng TNBPCTKM để đánh giá con

người nhiều hơn người Anh.

3.3.2. Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM.

Các đặc trưng văn hoá dân tộc thường được minh chứng bằng hai con

đường tin cậy: khảo cổ học và NN học. Đó cũng chính là lý do chúng tôi

muốn lấy NN làm cơ sở cho các đánh giá và nhận định về thái độ của mỗi dân

tộc thông qua các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Tuy nhiên các

TNBPCTKM không phải lúc nào cũng có giá trị ngang bằng đối với thái độ

tích cực cũng như tiêu cực. Một số phẩm chất được coi là tích cực trong tư

duy của người Việt chưa hẳn đã được coi trọng trong TA và ngược lại. Hoặc

một số các bộ phận trên khuôn mặt được người Việt sử dụng với ý nghĩa tích

cực chưa hẳn đã được người Anh sử dụng theo sắc thái nghĩa như vậy. Ví dụ:

miệng (mouth) trong TA thường được sử dụng với ý nghĩa tích cực (born with

a silver spoon in one’s mouth – sinh ra đã có chiếc thìa bạc trong miệng – có

nguồn gốc quyền quý), thì người Việt lại thường sử dụng miệng với ý nghĩa

tiêu cực (mồm năm miệng mười, miệng hùm nọc rắn, há miệng chờ sung....)

Mắt trong tiếng Anh thường được sử dụng với ý nghĩa tích cực. Ví dụ:

have an eye for something – có mắt cho cái gì - là người sành sỏi, có giác

quan tinh tế về cái gì; have eyes in the back of one’s head – có mắt ở sau đầu

– sành sỏi, tinh tường, cái gì cũng thấy. Còn ở tiếng Việt, mắt lại được sử

dụng nhiều với cách nói tiêu cực. Ví dụ: mắt cú da lươn; mắt có mắt chọi,

răng có răng chọi; mắt trắng môi thâm...

Đánh giá tính cách con người. Một điểm đặc trưng trong các

TNBPCTKM là được sử dụng để đánh giá tính cách con người. Có thể thấy

số lượng TN TV đánh giá tính cách con người theo nghĩa tiêu cực khá phổ

biến. Những bộ phận cơ thể được sử dụng làm hình ảnh trong các TN đánh

giá tính cách con người có tần số xuất hiện nhiều là mặt, mắt, miệng, môi. Ví

dụ, để nói một con người độc ác, không lương thiện người Việt thường nói:

60

mặt người dạ thú, trở mặt như trở bàn tay, miệng bồ tát bụng dao găm, miệng

nam mô bụng bồ dao găm, mắt cú da lươn, mắt trắng môi thâm, đầu trâu mặt

ngựa.... Khi nói về một người có cách cư xử không đàng hoàng, người Việt

thường nói: mồm năm miệng mười, đầu môi chót lưỡi...., khi nói tới thái độ

coi thường, bất cần, ngạo mạn, người Việt sử dụng các thành ngữ: lên mặt

xuống chân, coi người bằng nửa con mắt, coi đời bằng nửa con mắt... Tương

tự như vậy, người Anh cũng thường sử dụng các TN có những từ mắt (eye),

mũi (nose), môi (lip) để đánh giá con người theo nghĩa tiêu cực: do something

in the eye ( làm cái gì trong mắt – xúc phạm ai), the evil eye ( cái nhìn độc

địa), a roving eye (mắt láo liên), blow one’s nose (hỉ mũi – coi thường ai),

poke one’s nose into something (thọc mũi vào chuyện người khác), curl one’s

lip (bĩu môi – coi thường ai)...

Các TNBPCTKM ở cả hai thứ tiếng cũng được sử dụng với ý nghĩa

tích cực. Khi nói người có chức quyền, hoặc giàu có, người Việt thường nói là

có máu mặt. Để tả những cô gái đẹp, người Việt thường nói mặt hoa da phấn,

da ngà mắt phượng, má đào mày liễu, mày ngài mắt phượng, con mắt lá răm

lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền... Số lượng các TN TA được sử dụng

theo nghĩa tích cực cũng có, nhưng không đáng kể, ví dụ: the apple of

somebody’s eye (cục cưng), born with a silver spoon in one’s mouth (có

nguồn gốc quyền quý)...

Rõ ràng, nếu xét những câu TNBPCTKM cả trong tiếng Anh và tiếng

Việt, chúng ta sẽ thấy nhiều điều khác nhau trong cách sử dụng TN mang

nghĩa tích cực và tiêu cực, vì có những điểm không tương đồng trong quan

niệm của con người ở mỗi một nền văn hoá khác nhau, do vậy khi sử dụng

thành ngữ để đánh giá con người phải hết sức thận trọng.

3.3.3. Sử dụng các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các

thành ngữ này

61

Qua những ngữ liệu thu thập được từ các tác phẩm văn học, tác phẩm

dịch, cũng như từ một số trích dẫn trong các nguồn từ điển của các thứ tiếng

trên, chúng tôi thấy các TNBPCTKM được sử dụng không giống nhau trong

hai thứ tiếng. Sự giống hay khác nhau thể hiện ở cách dùng một TN trực tiếp

hay gián tiếp trong các cuộc hội thoại thông qua hệ thống đại từ nhân xưng

của các thứ tiếng. Hệ thống đại từ nhân xưng được tóm lược ở ba ngôi chính,

trong đó (1) và (2) được coi là dùng TN trực tiếp để nhận xét về đối tác giao

tiếp hoặc nói về mình. Trong nhóm này đương nhiên bao gồm cả những

trường hợp dùng TN ở thức mệnh lệnh và (3) là những TN được dùng để nói

về đối tượng khác không trực tiếp tham gia vào quá trình giao tiếp. Trong

nhóm này bao gồm cả những trường hợp dùng TN dưới dạng vô nhân xưng

(phổ biến trong TV). Cụ thể các nhóm như sau:

1/ ngôi thứ nhất (chủ thể giao tiếp) bao gồm: I, we; tôi, chúng tôi/ chúng ta

2/ ngôi thứ hai (đối tác giao tiếp) bao gồm: you; các anh/ chị/ ông/ bà...

3/ ngôi thứ 3 bao gồm: s/he, it; (người) ấy, họ

Dưới đây là một số ví dụ cụ thể về các trường hợp dùng TN trực tiếp và gián

tiếp.

Trực tiếp:

1a. A: What about going to the cinema? (Bọn mình đi xem phim đi?)

B: Sure. And what’ll we do after that? (Đi. Thế sau đó mình sẽ làm gi?)

A: Oh, I don’t know. We’ll play it by ear (Mình cũng chưa biết nữa. Nhưng

mà cứ đi đã rồi tuỳ cơ ứng biến, việc gì phải tính toán trước làm gì cho mệt)

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

1b. A: Why were you teasing Sonia about her new hairdo? She really took

offense at what you said. (Sao cậu lại chọc cái kiểu đầu mới của Sonia? Nó

bực thật đấy)

B: I didn’t mean to offend her. I was simply making a tongue-in-check

remark when I said that it was too elaborate for a girl of her young, tender

62

age. (Nào tớ có định làm nó bực mình, tớ chỉ đùa chút thôi là vào tuổi đáng

yêu như cô nàng mà làm cái đầu thế thì hơi cầu kỳ quá).

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

2a. Mày có im cái miệng đi không? Mày cứ mồm năm miệng mười, cãi lại bố

mẹ cứ chem chẻm! (Hoàng Tuấn. Chị Dâu)

2b. Không biết thì nghe các cụ dạy bảo, chứ chúng mày con cháu vắt mũi

chưa sạch mà đòi khôn hơn ông vải sao được? (Nguyễn Như ý, và những

người khác, 1995:203)

Gián tiếp:

TN chỉ đối tượng gián tiếp qua lời dẫn của tác giả, tăng giá trị nhận xét

khách quan đối với tính cách của nhân vật.

1a. At last Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an

auction. Since many other stamp collectors would also be bidding for it, he

realized that he would have to Mr. Smith came upon the rare stamp he had

been seeking at an auction. Since many other stamp collectors would also be

bidding for it, he realized that he would have to pay through the nose in order

to have it.

Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu

giá mà ông tốn hao bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm

muốn mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng

mua được nó.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

1b. Jim doesn’t play tennis very much, but he’s always shooting off his mouth

about how good he is. Yet he’s fooling nobody.

Jim có võ vẽ chút ít về quần vợt nhưng lại hay ba hoa chích choè rằng

mình điêu luyện lắm. Nhưng loè được ai đâu.

(Longman Idioms Dictionary)

63

2a. Hồi Hà nội mới giải phóng (1954) Lan Vân hãy còn là một cô bé thò lò

mũi xanh (Báo Quân đội nhân dân, 6/10/74)

2b. Cái cô nàng mặt hoa da phấn đó mà lại là một phường lừa đảo. Thật

chẳng ai tin được! (Trần Văn Thước. Ngày xưa thương mến.)

Bảng thống kê cách dùng TN trong tiếng Anh và tiếng Việt

Lối dùng

Trực tiếp Gián tiếp

NN

Anh 77 223

Việt 147 203

Bảng 3.6

Bảng 3.6 được thống kê trên cơ sở của các dữ liệu TN thu thập từ các

tác phẩm văn học thông qua lối dùng TN của hệ thống nhân vật hoặc của

chính tác giả. Trong đó TA: 300 ví dụ, và TV: 350 ví dụ. TN TA có lối dùng

gián tiếp nhiều hơn hẳn so với lối dùng trực tiếp (223/77); TN TV dùng trực

tiếp và gián tiếp không bị chênh lệch nhau nhiều quá, mặc dù dùng gián tiếp

vẫn phổ biến hơn dùng trực tiếp (203/147). Do đó, chúng ta có thể thấy rõ

rằng các lối dùng TN gián tiếp rất phổ biến ở cả người Anh và người Việt.

Điều này cũng được chứng minh qua khảo sát trường hợp về lối dùng thành

ngữ của người Mỹ, vốn rất thận trọng, nhất là trong nhận xét đánh giá con

người mang tính chất xúc phạm cao. Đặc điểm nổi bật của cách sử dụng ngôn

từ của người Việt là dùng dạng vô nhân xưng, cho thấy tính chất “vòng vo”,

né tránh, hàm ẩn, không “thẳng thừng” trong phong cách giao tiếp của người

Việt, phù hợp với việc bao biện theo tình huống “khôn khéo trong ứng xử”

(tích cực) và lối sống “dĩ hoà vi quý”, “bóng gió”, “cạnh khoé” …(tiêu cực)

của người Việt (Trần Ngọc Thêm, 1996).

64

3.4. Tiểu kết chương 3.

Trong chương này, chúng tôi đã phân tích và so sánh TNBPCTKM ở các

góc độ khác nhau: cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Cụ thể là, thống kê, so sánh

các cấu trúc của TN hai thứ tiếng; thống kê so sánh hình ảnh ý nghĩa của

TNBPCTKM ở hai thứ tiếng; và thống kê so sánh lối dùng trực tiếp hay gián

tiếp của TNBPCTKM của hai thứ tiếng qua hệ thống đại từ nhân xưng được

dùng trong các tác phẩm văn học. Chúng tôi đã rút ra một số nhận xét:

- nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.

- nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.

- nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM trong cả hai ngôn ngữ.

Đặc điểm về lối dùng TN nhất là TNBPCTKM đặc biệt quan trọng và

có ý nghĩa đối với học sinh Việt Nam học tiếng Anh và những người nói tiếng

Anh học tiếng Việt. Những kiến thức về ngôn ngữ như thế này sẽ giúp cho

học viên hoàn thiện NN mình nghiên cứu và học tập.

65

CHƢƠNG 4: MỘT VÀI ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH

NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI

HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

4.1. Ứng dụng trong khi chuyển dịch thành ngữ từ Tiếng Việt sang Tiếng

Anh.

Theo kinh nghiệm của nhiều phiên dịch lâu niên, dịch xuôi (từ ngoại ngữ

sang tiếng mẹ đẻ) bao giờ cũng khó hơn dịch ngược (từ tiếng mẹ đẻ sang

ngoại ngữ). Lý do thật đơn giản: trong khi dịch nói, người phiên dịch không

phải lúc nào cũng “bắt” được hết tất cả các ý của diễn giả. Trong khi đó, nghe

tiếng mẹ đẻ bao giờ cũng dễ dàng hơn, vì thế, bằng mọi cách người dịch có

thể chuyển tải sang tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, đối với dịch viết, tình hình

không đơn giản như thế, thậm chí còn có thể gây nhiều “đau đầu” cho dịch

giả. Theo Lê Đình Tư (1995), dịch từ TV sang tiếng nước ngoài có hai khó

khăn điển hình sau:

1. Xét từ quan điểm phi NN: Khó khăn trong việc tìm kiếm các hình thức NN

tương đương. Ví dụ, Truyện Kiều khi chuyển dịch sang tiếng Ba Lan, hay

truyện thơ Evghênhi Ônhêghin khi dịch sang nhiều thứ tiếng khác, đã phải

chấp nhận lối chuyển dịch sang thể văn xuôi, do đó, giá trị nghệ thuật của tác

phẩm nhiều khi bị mất. Điều này chứng tỏ trình độ và khả năng ngoại ngữ của

dịch giả ở đây dường như không đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Cái quan

trọng hơn nằm ở chỗ liệu ngôn ngữ dịch (NND) đó có chấp nhận NN, hay thể

loại NN của nguyên tác hay không.

2. Xét từ quan điểm NN: khó khăn ở đây nằm ở chỗ TV là NN đơn lập, phân

tích trong khi đó, TA lại là NN biến hình. Tuy nhiên, đây không phải là cản

trở không thể khắc phục được trong quá trình chuyển dịch. Cái khó khăn

trong chuyển dịch từ TV sang tiếng nước ngoài thường được nhìn nhận ở

công đoạn khác như phân tích văn bản, và khi đó, cái khó lại thường tiềm ẩn ở

66

khả năng am hiểu tiếng mẹ đẻ của dịch giả, chứ chưa phải là khả năng ngoại

ngữ của dịch giả.

Thông thường, khi phân tích văn bản, người ta chú ý vào ba vấn đề chính:

cảnh huống (field), quan hệ giữa các nhân vật trong văn bản và quan hệ với

chính tác giả (tenor), phương thức NN dùng trong văn bản đó (mode). Thế

nhưng, trong TV tình hình nhiều khi phức tạp hơn nhiều. Cũng theo Lê Đình

Tư, các đơn vị hiện diện trên văn bản dường như rõ nghĩa, nhưng không cho

phép người ta phân tích văn bản theo các thao tác thông thường, tức là phân

tích văn bản trên cơ sở của hai trục quan hệ liên tưởng và quan hệ ngữ đoạn,

như đối với các văn bản bằng tiếng nước ngoài. Ví dụ: “tắm một cái cho nó

mát” – khi dịch sang tiếng nước ngoài sẽ còn là “tắm cho mát”, hoặc “tắm cho

mình mát”, hoặc là “tự mình tắm để (trở nên) mát” (bath to make yourself

cool); Anh lên xe trời đổ cơn mưa – khi anh lên xe thì trời mưa – thiếu yếu tố

liên kết, khi dịch sang TA, phải bổ sung từ liên kết. Tuy nhiên trên thực tế

không phải văn bản nào trong TV cũng đều rõ nghĩa. Hiện tượng “không rõ

ràng” trong TV khá phổ biến, được thể hiện ở một loạt các hình thức khác

nhau.

a. Đàn kêu tích tịch tình tang - đàn gì? Khi dịch sang TA sẽ phải yêu cầu một

loại từ chỉ một cây đàn cụ thể, không có loại đàn chung chung. Dạng nói

“chung chung” này rất điển hình trong TV. Cũng như người Việt không phân

biệt cụ thể chào buổi sáng, buổi trưa, buổi tối; hay ăn sáng, ăn trưa, ăn tối như

trong tiềm thức của người Anh.

b. “Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Câu thơ mô tả Kiều rất đẹp, nhưng cụ thể là cái gì đẹp thế nào thì không ai

biết được. Và khi dịch, chắc chắn người dịch phải xử lý câu theo dạng diễn

giải: Cô Kiều đẹp đến nỗi mà... Những câu dạng này khó có thể có được bản

67

dịch nào ưng ý được vì sẽ không có một dịch giả nào có khả năng chuyển

dịch chúng sang một NN châu Âu theo kết cấu mà NN đó cho phép.

c. “Cổ tay em trắng như ngà. Đôi mắt em sắc như là dao cau”

Dịch giả đã dịch là: My wrist is as white as ivory. My eyes are as sharp

as an erasor.

Có tác giả gợi ý chỉnh sửa là: your eyes are as sharp as a coconut-knife

(mắt em sắc như là dao bổ dừa)

Thứ nhất, đây là lời của người con trai mô tả bàn tay của người con gái,

có thể tạm diễn đạt là: cổ tay của em (mới đẹp làm sao) vì nó trắng nõn nà

như ngà voi, (mà) mắt em trông mới sắc làm sao vì nó giống như con dao

người ta dùng để bổ cau vậy. Do đó, nếu dùng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ

nhất thì câu thơ sẽ trở nên lố bịch: “Anh ơi, anh trông này, cổ tay em đây mới

trắng làm sao, như thể là ngà voi; mà mắt em đây này thì sắc như là con dao

cạo vậy”. Lỗi dịch thuật ở đây là lỗi về kiến thức nền về văn hoá nguồn.

Điểm thứ hai, liên quan tới từ chuyển tải văn hoá (realia) “dao cau”.

Dao cau là một loại công cụ dùng để bổ cau cho các bà các cô ăn trầu. Con

dao này là con dao truyền thống của người Việt được rèn bằng sắt, có màu

đen, chuôi thường làm bằng gỗ, lưỡi dao sắc lẹm, chỉ cắt một đường nhẹ thôi

là đã có thể bổ được quả cau dù non hay già. Nếu so sánh đôi mắt này với

“dao bổ dừa” rất có thể người đọc sẽ liên tưởng đến “dao quắm”, hoặc “dao

dựa” nhiều hơn. Do vậy, không thể dịch bằng hai từ này. Lỗi dịch ở đây cho

thấy tác giả thiếu kiến thức nền về NN và văn hoá nguồn, dẫn đến hậu quả

đáng tiếc xảy ra. Trong những trường hợp tương tự, cách tốt nhất là giữ

nguyên từ gốc rồi cung cấp chú giải phụ biên (theo nguyên tắc làm giàu

NNĐ).

Như vậy, khi dịch từ TV sang các thứ tiếng châu Âu khác, người dịch

phải chú ý tới các hiện tượng NN văn hoá cũng như những nhân tố ngoài NN

để lại dấu ấn trong TV, so sánh đối chiếu với các đặc điểm cụ thể của NND;

68

tiến hành các thao tác phân tích NN học ở các cấp độ khác nhau từ từ vựng tới

cấu trúc, thể loại, phong cách. Trên cơ sở đó mới tiến hành chọn lựa phương

thức phù hợp để chuyển dịch chúng sang tiếng nước ngoài. Các phương thức

này có thể là tương đương hoặc không tương đương giữa các NN với nhau.

Trên thực tế, phương thức chuyển dịch TN nói chung và TNBPCTKM

nói riêng từ TV sang TA hay bất cứ thứ tiếng nào khác đều không thể tiến

hành khác với những phương thức ở trên vừa đề cập. Có nghĩa là, khi dịch,

dịch giả cũng phải tiến hành các bước tìm hiểu ý nghĩa thực tế của TN, chọn

lựa các phương án dịch bằng một TN khác, dịch tự do, hay dịch diễn giải.

Điều đáng chú ý là TV là NN phân tích, do đó nếu như khi chuyển dịch từ TA

sang TV chúng ta chú ý nhiều tới các hình thức ngữ nghĩa hơn thì khi chuyển

dịch TN từ TV sang tiếng nước ngoài, điều phải quan tâm đầu tiên là có thể

chuyển dịch các TN đó theo cấu trúc của chính các TN đó ở mức độ khác

nhau. Tuy nhiên đây là cả một mảng đề tài lớn không thể trình bày trong

phạm vi luận văn này.

Chúng ta hãy xem xét các ví dụ sau được chuyển dịch từ TV sang TA.

Thành ngữ tiếng Việt -> Tiếng Anh Ý nghĩa Thành ngữ

1. Đầu tắt mặt tối a/ dark head and face [-] Làm lụng khó nhọc vất

b/ nose to the vả không lúc nào rảnh

grindstone [+] rỗi

2. Bẻm mép, lắm a/ have many mouths [-] Người nói năng linh

mồm b/ have a loose tongue tinh những chuyện

[+] không đáng tin

3. Miệng còn hơi sữa a/ Somebody still has Còn non dại, chưa biết

smell of milk in the gì, không đáng đếm xỉa

mouth [-] đến

b/ wet behind the ears

69

[+]

4. Có máu mặt a/ have face blood [-] Người có thế lực, địa vị

b/ a big head [+] trong xã hội

5. Xỏ mũi ai a/ stick through Lừa dối ai

somebody’s nose [-]

b/ feed someone a line

[+]

6. Đổ mồ hôi trán a/ sweat on the forehead Làm lụng hết sức vất

[-] vả, cực nhọc

b/ bend over backwards

[+]

7. Phải lác mắt a/ make somebody Làm cho ai sửng sốt,

crossed-eyed [-] ngạc nhiên

b/ knock someone’s

socks off [+]

amaze somebody []

8. No bụng đói con a/ full belly, hungry eye Bụng no rồi, không ăn

mắt [-] được nữa nhưng vẫn tỏ

b/ eyes are bigger than ra thèm muốn.

one’s stomach [+]

Bảng 4.1

Chú giải:

[-]: Là những yếu tố trực dịch từng từ, không thể hiểu được, không thể chấp

nhận được.

[+]: Là những yếu tố chuyển dịch trực tiếp, có thể hiểu được, có thể chấp

nhận được.

70

[]: Là những yếu tố chuyển dịch trực tiếp có thể chấp nhận được trong dịch

nói.

Trong các thành ngữ trên, xét về mặt cấu trúc, các thành ngữ đều là

những thành ngữ có cấu trúc đoản ngữ, không hề gây một cản trở gì cho

người dịch ở cấp độ trung bình. Nhưng xét về mặt ngữ nghĩa, thì hoàn toàn có

thể coi chúng là những thành tố “có vấn đề” trong dịch thuật, nghĩa là chúng

đều có một cái gì đó đặc trưng rất Việt Nam, những yếu tố ngoài NN không

chuyển dịch được bằng các yếu tố tương đương, hoặc dịch đơn thuần từ sang

từ, khi đọc câu dịch tiếng Anh, hoàn toàn là những câu dịch vô nghĩa, không

chấp nhận được và không hiểu được. Trong những trường hợp như vậy,

người dịch có thể dịch theo nghĩa của thành ngữ, tức là hiểu nghĩa của câu

thành ngữ tiếng Việt và chuyển dịch, giải thích theo đúng nghĩa đó, hoặc tìm

một thành ngữ tương đương trong tiếng Anh để thay thế.

Điều khó khăn khi chuyển dịch các TN từ TV sang tiếng nước ngoài

chưa hẳn là các TN đó có thể chuyển dịch được sang các thứ tiếng khác hay

không mà là ở chỗ chuyển dịch nghĩa đen của các từ thành phần như thế nào.

Do TN TV có cấu tạo rất đặc biệt nên nhiều khi chuyển dịch sang tiếng nước

ngoài thì tính TN của các TN TV không còn nữa. Ví dụ:

da chì mặt bủng = người ốm yếu (“pale and weak”)

tay bắt mặt mừng = gặp gỡ vui vẻ (“in high spirit”)

Một số lớn thành ngữ khác khi chuyển sang tiếng nước ngoài có cấu

trúc của các câu ghép, khi dịch không thể không đưa thêm các liên từ nối ý,

hay “biểu thức nối ý”. Đó cũng là điểm đáng chú ý của TN TV trong mối

tương quan với TN các thứ tiếng châu Âu khác như tiếng Anh. Ví dụ:

Có mặt thì mắng, vắng mặt thì thương (khi có.... thì....); có trầu chẳng

để môi thâm (bởi vì.... nên)...

71

Dịch thành ngữ không nên tiến hành theo một phương pháp cứng nhắc.

Tùy trường hợp cụ thể người dịch có thể chọn cho mình các lối dịch khác

nhau.

4.2. Ứng dụng trong giảng dạy.

TN, như đã trình bày, là đề tài hứng thú không bao giờ cạn đối với

người học ngoại ngữ. Ngay từ những ngày đầu tiên, học viên đã luôn luôn đặt

ra những câu hỏi về cách diễn đạt ý này hay ý khác trong tiếng mẹ đẻ của

mình ra tiếng nước ngoài. Do đó, dù muốn hay không, giáo viên nên chủ động

cung cấp những bài tập về TN cho học viên. Các dạng bài tập rất đa dạng và

được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: theo nhóm, theo cặp, hoặc

độc lập. Trong đó từ 1-9 là những dạng bài tập cơ học, có thể áp dụng rộng rãi

trong các giờ thực hành tiếng ở giai đoạn hoàn thiện nên có thể áp dụng ở giai

đoạn nâng cao và các giờ dạy dịch. Học viên có thể thực hiện độc lập cũng

như cộng tác, có hoặc không có hướng dẫn của giáo viên.

1. Khoanh tròn câu trả lời đúng.

2. Đóng vai.

3. Cắt đôi TN thành hai cột, lắp ghép thành TN hoàn chỉnh.

4. Viết một đoạn song thoại, độc thoại hay những đoạn ngắn có dùng một

hoặc nhiều TN.

5. Sắp xếp các cặp TN và ý nghĩa của TN ở các cột khác nhau.

6. Điền vào ô trống.

7. Sắp xếp TN theo từng nhóm cụ thể.

8. Kiểm tra trình độ hiểu biết về TN của học viên thông qua việc kết thúc câu.

9. Bài tập nhận dạng TN.

10. Chọn một từ tiếng Anh, tìm từ tương đương trong TV. Tìm những từ có

khả năng kết hợp với từ đó. Tạo một danh mục từ độc lập tương đương với

các tập hợp từ đó trong một NN khác. So sánh hai hoặc ba danh mục từ đó và

72

bình luận về những sự giống nhau hay khác nhau trong các cách thức kết hợp

từ.

11. Tạo một danh mục các tập hợp từ phổ biến của một từ TA (hoặc TV – tuỳ

theo sự lựa chọn của cá nhân). Sau đó đưa ra một số gợi ý về các tập hợp từ

phổ biến trong NNĐ chuyển tải nghĩa tương tự và bình luận về khác biệt

nghĩa (nếu có). Nếu không có tương đương có thể đưa ra giải pháp chuyển ý,

chú giải phụ biên để có thể diễn đạt được nghĩa nguyên gốc của tập hợp từ đó.

12. Tạo một danh mục TN quen thuộc với mọi người và có thể có những TN

tương đương trong các NN khác. Sau đó bình luận những sự khác biệt về

nghĩa, hình thức cấu trúc của TN, tình huống sử dụng của các TN đó.

13. Tạo danh mục những TN khó dịch trong tiếng Anh. Ví dụ như những

thành ngữ miêu tả truyền thống văn hoá, sinh hoạt của người Anh, sau đó cố

gắng diễn giải nghĩa của các TN đó hai lần; lần đầu càng vắn tắt càng tốt để

có thể chèn vào trong bất cứ văn bản nào; lần hai càng chi tiết càng tốt để có

thể dùng chú giải phụ biên dưới dạng footnote.

14. Cho một văn bản cụ thể với nhiều TN khác nhau rồi yêu cầu dịch. Sau đó

bình luận về các chiến thuật đã dùng để dịch các TN đó.

15. Cho một văn bản cụ thể với mục đích của bài dịch rõ ràng, ví dụ, dịch

quảng cáo. Nhiệm vụ của người dịch là gây được tác động rõ ràng lên người

đọc để họ ghi nhớ và mua nhiều hàng cho công ty. Mục đích của loại bài tập

này không chỉ đơn thuần là chuyển tải nội dung mà còn phải thực hiện chức

năng cụ thể nhằm tác động tới độc giả văn bản đích (VBĐ).

Nguyên tắc vàng: không dùng TN một khi chưa hiểu hết hoặc chưa

cảm nhận được TN đó để tránh những trường hợp sai sót đáng tiếc xảy ra.

Gợi ý: giáo viên có thể cùng học viên tạo ra một sổ tay TN học đường.

Trong giảng dạy dịch vấn đề hiểu ý đồ của tác giả là hết sức quan trọng.

Đó là điểm khởi đầu của mọi khởi đầu. Do đó, trước hết, cần phải hiểu được

mục đích của văn bản. Quay trở lại văn bản trên về quảng cáo mới xuất hiện

73

trong tiếng Anh. Rõ ràng đây là thể loại quảng cáo. NN của quảng cáo càng

ngắn gọn bao nhiêu, càng hiệu quả bấy nhiêu, và rất có thể nó được viết ra

trên những tấm băng rôn. Vì rằng nếu nó là một văn bản giảng bài về sự nguy

hiểm của uống rượu thì chắc chắn phải viết dài hơn. Đương nhiên, ngữ vực

dùng trong văn bản sẽ không thể cố định mà lệ thuộc vào đối tượng được

trình bày. Nếu đối tượng thuộc nhóm hàn lâm, ngữ vực phải ở mức độ trang

trọng. Nếu để nói cho trẻ em thì phong cách NN dùng phải khác, ít trang trọng

hơn nếu thực sự người nói muốn nâng hiệu lực của lời nói.

4.3. Tiểu kết chương 4.

Chương bốn của luận văn trình bày các ứng dụng của TNBPCTKM

trong dịch thuật và giảng dạy thành ngữ tại các trường Đại học và Chuyên

ngữ

Quy trình dịch TN là dịch thông qua quá trình luận nghĩa dựa trên các kiến

thức nền về văn hoá, NN, xã hội, tâm lí v.v... Tính chất luận giải nghĩa được

hay không, mặc dù mang nhiều tính chủ quan, nhưng đó là con đường đi

không thể bỏ qua trong dịch thuật. Tuy nhiên đó là việc làm không thể không

thực hiện được.

Dựa trên nguyên tắc cơ bản của dịch thuật và các bước tiến hành trong

khi xử lý văn bản dịch, chúng tôi nêu một số ứng dụng cụ thể trong dịch thuật

và giảng dạy ngoại ngữ, cũng như cho đối tượng là các nhà biên – phiên dịch

tương lai.

74

KẾT LUẬN

1. Luận văn đã nêu một vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu.

Ngôn ngữ học đối chiếu là một ngành mới ra đời, hình thành trong trào lưu

nghiên cứu so sánh chung. Chúng tôi cũng trình bày khái niệm về thuật ngữ

so sánh đối chiếu. Khái niệm được sử dụng nhiều nhất là: nghiên cứu đối

chiếu giúp ta xác định được cái giống nhau và khác nhau của ngôn ngữ về

mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng.

2. Trong luận văn này, chúng tôi đã xác định khái niệm TN dùng trong luận

văn, đồng thời điểm qua một vài nét chính về tình hình nghiên cứu TN trong

hai thứ tiếng: tiếng Anh và tiếng Việt. Các nhà nghiên cứu TN TA khai thác

chủ yếu các khía cạnh sử dụng của TN, với các tiêu chí phân loại và nhận

dạng TN trên cơ sở chức năng sử dụng của chúng trong giao tiếp. Còn đối với

TN TV, mặc dù chúng được khá nhiều các nhà NN học quan tâm, cả ở

phương diện so sánh đối chiếu, nhưng cho tới nay vẫn chưa hiện diện một

nghiên cứu chuyên sâu nào tạo một cái nhìn đầy đủ về TN TV có những từ

chỉ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt). Vấn đề nhìn nhận TN

TV trong môi trường giao tiếp thực tế hiện nay vẫn đang còn là mảnh đất mầu

mỡ cho các nhà Việt ngữ học.

Chúng tôi cũng đã xác định khái niệm, tiêu chí phân loại và xác định

TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đồng thời chúng tôi còn phân

tích và so sánh TNBPCTKM ở hai góc độ khác nhau là cấu trúc và ngữ nghĩa.

3. Trên tổng số 483 TNBPCTKM ở cả hai thứ tiếng, tác giả luận văn thống kê

được những phương thức thể hiện ý nghĩa của TNBPCTKM như sau:

a/ Về sự phân bố TNBPCTKM: số lượng TNBPCTKM tìm thấy ở tiếng Anh

và tiếng Việt gần như tương đương, chênh lệch không đáng kể. Tiểu nhóm

những TN có từ chỉ mặt, tai, mắt, mũi trong hai thứ tiếng có số lượng tương

đối đồng đều nhau. Nhóm TN có những từ chỉ mặt và mắt trong hai ngôn ngữ

này được thể hiện khá nhiều. Còn những TN có từ chỉ miệng trong hai ngôn

75

ngữ này chênh lệch nhau một cách rõ rệt, những TN có từ chỉ miệng trong

tiếng Việt nhiều hơn hẳn so với tiếng Anh, hơn gấp bốn lần so với số lượng

những TN có từ chỉ miệng trong tiếng Anh. Còn số lượng những TN có từ chỉ

những bộ phận khác ở cả hai ngôn ngữ đều không đáng kể .

Sự chênh lệch ở những tiểu nhóm TN đều thể hiện cách đánh giá và

tính phổ biến về cách đề cập tới tầm quan trọng của từng bộ phận trên khuôn

mặt con người của từng dân tộc. Do có sự khác biệt về quan niệm, tư duy, tín

ngưỡng và văn hoá giữa hai dân tộc, nên ý nghĩa biểu trưng của các đơn vị tên

gọi của các bộ phận trên khuôn mặt con người cũng khác. Người Anh đánh

giá bộ phận quan trọng nhất trên khuôn mặt là đôi mắt, vì vậy ý nghĩa biểu

trưng của của đôi mắt cũng được sử dụng nhiều nhất trong TNBPCTKM. Còn

người Việt thuộc nền văn hoá phương Đông, và đặc biệt ảnh hưởng rất lớn từ

văn hoá Trung Quốc, miệng lại được đánh giá là một bộ phận quan trọng nhất

nhì trên khuôn mặt. Do đó miệng có ý nghĩa biểu trưng khá lớn đối với người

Việt. Song song với miệng, mắt và mặt cũng được người Việt coi trọng.

b/ Về cấu trúc TNBPCTKM:

- TNBPCTKM cả hai thứ tiếng đều có những cấu trúc đoản ngữ. TN có cấu

trúc đoản ngữ có số lượng lớn nhất trong các ngôn ngữ được nghiên cứu. Cấu

trúc đoản ngữ trong tiếng Anh có điểm khác so với cấu trúc đoản ngữ trong

tiếng Việt. Trong tiếng Việt, các cấu trúc đoản ngữ lồng chéo khá phổ biến.

Lối dùng này thể hiện ở những cặp từ vựng (danh, động, tính, số) song song,

đối lập, lồng chéo với những từ hoặc đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa, hoặc không

có ý nghĩa từ vựng.

- Số lượng TN có cấu trúc đoản ngữ so sánh trong hai ngôn ngữ được nghiên

cứu không nhiều lắm.

- Số lượng TN có cấu trúc mệnh đề trong tiếng Việt tương đối lớn, trong khi

đó TNBPCTKM trong tiếng Anh lại chiếm không đáng kể.

76

Từ những khác biệt về cấu trúc giữa các TNBPCTKM ở TA và TV,

chúng ta có thể tìm ra những cấu trúc điển hình để mô hình hoá các dạng thức

dịch TN TV sang TA. Nhìn chung, TN TV có cấu trúc rất đặc trưng với hai từ

lồng chéo nhau hợp nghĩa hay tách nghĩa bằng một từ chung (đầu mày cuối

mắt, mặt nặng mày nhẹ v.v...) khi chuyển sang TA sẽ có những kết cấu đoản

ngữ: danh từ, tính từ, động từ v.v... tương ứng( Ví dụ: mặt nặng mày nhẹ 

mặt mày nặng nhẹ). Do đó, phương thức dịch tương đương hình thức sẽ khó

c/ Về ngữ nghĩa của TNBPCTKM:

có thể thực hiện được đối với TN TA sang TV.

Về hình ảnh: - Số lượng TN trùng nhau hoàn toàn trong hai ngôn ngữ là 4,1%. Số lượng

TN trùng hợp nhau gần như hoàn toàn chiếm 14,7 %, tương đối nhiều.

- Số lượng TN có ý nghĩa giống nhau mà hình ảnh khác nhau chiếm 1,2%. Số

lượng TN ý nghĩa khác nhau nhưng hình ảnh gần trùng nhau rất ít, chỉ chiếm

0,2%.

- Số lượng TN ý nghĩa khác nhau, sử dụng hình ảnh khác nhau (mặc dù có sử

chung từ chỉ bộ phận khuôn mặt chiếm đa số), chiếm 72,9%.

TA là ngôn ngữ chịu ảnh hưởng rất nhiều của các thứ tiếng khác như

Latinh và Pháp. Tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình, còn tiếng Việt là ngôn ngữ

đơn lập. Mỗi dân tộc thường có những khái niệm nhất định gắn cho mỗi vật,

hiện tượng và mỗi dân tộc đều có cách đánh giá nhất định cho mỗi bộ phận cơ

thể con người nói chung và các bộ phận trên khuôn mặt nói riêng. Hình ảnh

các bộ phận trên khuôn mặt con người được sử dụng trong thành ngữ khác

nhau ở hai ngôn ngữ. Một số hình ảnh được người Anh và người Việt sử dụng

giống nhau (mặt, mắt...), nhưng cũng có một số hình ảnh có ở ngôn ngữ này

mà không có ở ngôn ngữ kia (VD: lông mày có ở tiếng Việt, nhưng lại không

có trong tiếng Anh). Nhìn chung, người Việt thường sử dụng TNBPCTKM

để đánh giá con người nhiều hơn người Anh.

77

Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM.

Các TNBPCTKM không phải lúc nào cũng có giá trị ngang bằng đối

với thái độ tích cực cũng như tiêu cực. Một số phẩm chất được coi là tích cực

trong tư duy của người Việt chưa hẳn đã được coi trọng trong TA và ngược

lại. Hoặc một số các bộ phận trên khuôn mặt được người Việt sử dụng với ý

nghĩa tích cực chưa hẳn đã được người Anh sử dụng theo sắc thái nghĩa như

vậy. Một điểm đặc trưng trong các TNBPCTKM là được sử dụng để đánh giá

tính cách con người. Những bộ phận cơ thể được sử dụng để làm hình ảnh

trong các TN đánh giá tính cách con người có tần số xuất hiện nhiều là mặt,

mắt, miệng, môi, đánh giá con người theo cả nghĩa tích cực lẫn nghĩa tiêu cực.

Có thể thấy số lượng TN TV đánh giá tính cách con người theo nghĩa tích cực

và tiêu cực khá đồng đều, mặc dù đánh giá tiêu cực có phần trội hơn. Còn số

lượng các TN TA được sử dụng theo nghĩa tích cực không đáng kể, chủ yếu

là được sử dụng theo nghĩa tiêu cực.

Sử dụng trực tiếp hay gián tiếp:

TN TA có lối dùng gián tiếp nhiều hơn hẳn so với lối dùng trực tiếp.

TN TV dùng trực tiếp và gián tiếp không bị chênh lệch nhau nhiều quá, mặc

dù dùng gián tiếp vẫn phổ biến hơn dùng trực tiếp. Do đó, chúng ta có thể

thấy rõ rằng các lối dùng TN gián tiếp rất phổ biến ở cả người Anh và người

Việt. Sở dĩ như vậy là do người Mỹ, người Anh vốn rất thận trọng, nhất là

trong nhận xét đánh giá con người mang tính chất xúc phạm cao. Đặc điểm

nổi bật của cách sử dụng ngôn từ của người Việt là dùng dạng vô nhân xưng,

cho thấy tính chất “vòng vo”, né tránh, hàm ẩn, không “thẳng thừng” trong

phong cách giao tiếp của người Việt, phù hợp với việc bao biện theo tình

huống “khôn khéo trong ứng xử” (tích cực) và lối sống “dĩ hoà vi quý”, “bóng

gió”, “cạnh khoé” …(tiêu cực) của người Việt (Trần Ngọc Thêm, 1996).

4. Kết quả của các phân tích, đánh giá và nhận xét nêu trên đã giúp cho dịch

giả, người Việt Nam học tiếng Anh và người nói tiếng Anh học tiếng Việt có

78

có thể chuyển dịch hoặc sử dụng TN ở cả hai thứ tiếng một cách thuần thục

và chính xác hơn.

Thực hiện chức năng cơ bản của mình là chức năng giao tiếp, NN là

cầu nối giữa con người với con người trong cùng một xã hội, giữa con người

của xã hội này với con người của xã hội khác. Do vậy, hiểu biết lẫn nhau là

mục đích chính của quá trình giao tiếp. TN, tục ngữ là những lối nói đúc kết

của kinh nghiệm lâu đời, là lối sống, lối tư duy, là bản sắc của từng dân tộc.

Luận văn đề cập đến một vấn đề khá mới mẻ, tài liệu nghiên cứu không

nhiều, thời gian nghiên cứu có hạn sẽ không tránh khỏi những sai sót hạn chế.

Chúng tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của các nhà khoa

học, các chuyên gia tâm huyết với vấn đề này, các thầy giáo, cô giáo và bạn

đọc để tiếp tục hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn, góp phần vào quá trình

nghiên cứu kho tàng ngôn ngữ, văn hoá quý báu của dân tộc

79

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Phạm Văn Bình, (1999). Tục ngữ nước Anh và TN TA giàu hình ảnh. NXB

Hải Phòng.

2. Lê Ngọc Canh, (1999). Văn hoá dân gian. NXB Văn hoá thông tin,

Trường Cao đẳng Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Tài Cẩn, (1981). Một số vấn đề về ngôn ngữ học Việt Nam. Hà

Nội: NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

4. Đỗ Hữu Châu, (1996). Từ vựng ngữ nghĩa Tiếng Việt. NXB ĐHQG HN.

5. Nguyễn Văn Chiến, (1992). NN học đối chiếu và đối chiếu các NN Đông

Nam á. Trường ĐHSPNN Hà Nội.

6. Nguyễn Đức Dân, (1996). Ngữ nghĩa TN và tục ngữ, sự vận dụng. NN(3)

7. Nguyễn Đức Dân, (1998). Lôgic và TV. NXB Giáo dục. Hà nội.

8. Chu Xuân Diên, (1977). Tục ngữ Việt Nam. Hà nội.

9. Vũ Dung, Vũ Thuý Anh và Vũ Quang Hào, (1995). Từ điển thành ngữ và

tục ngữ Việt Nam. NXB Văn hoá.

10. Nguyễn Thiện Giáp, (1979). Về khái niệm thành ngữ Tiếng Việt. NN (3)

11. Nguyễn Thiện Giáp (1996). Từ và nhận diện từ TV. NXB Giáo dục Hà nội.

12. Bùi Thị Hải, (2001). Khảo sát sự biến đổi ý nghĩa của các từ ngừ Hán –

Việt từ Từ điển Việt Bồ La (1651) đến từ điển tiếng Việt (2000). Trường

ĐH KHXH & NV, Hà nội. Luận văn Thạc sỹ.

13. Hoàng Văn Hành, (1999). Kể chuyện TN, tục ngữ. NXB KHXH Hà nội.

14. Nguyễn Văn Hằng, (1999). TN bốn yếu tố trong TV hiện đại. NXB KHXH

Hà nội.

15. Nguyễn Xuân Hoà, (1992). Đối chiếu NN trong cách nhìn của ngữ dụng

học tương phản (thử nghiệm trên ngữ liệu các đơn vị thành ngữ). NN ,(1),

Tr 43-48.

80

16. Nguyễn Xuân Hoà, (1993). Vai trò của tri thức nền trong việc nghiên cứu

đối chiếu thành ngữ. Văn hoá dân gian, (4) Tr. 52-56.

17. Nguyễn Xuân Hoà, (2000). Nhân tố văn hoá xã hội trong đối chiếu NN.

Ngoại ngữ (12) Trường ĐHNN HN.

18. Hoàng Thọ Huyền, (1999). So sánh liên tưởng của người Anh và người

Việt trên cơ sở chuyển nghĩa bằng phương pháp ẩn dụ của một số danh từ

thuộc trường từ vựng chỉ bộ phận con người. Ngoại ngữ. Hà nội: Trường

ĐHNNHN, số đặc biệt kỉ niệm 40 năm thành lập trường. Tr. 48-52.

19. Nguyễn Bá Kim, (1999). Cẩm nang TN TA (3000 đơn vị). NXB Hà nội.

20. Trần Thị Lan, (2002). So sánh đối chiếu phương thức dịch thành ngữ nhận

xét đánh giá con người trong tiếng Anh, Nga và Việt. Luận án TS. ĐHQG

HN.

21. Nguyễn Lân, (1989). Từ điển TN và tục ngữ Việt Nam. NXBVH HN

22. Nguyễn Văn Mệnh, (1972). Về ranh giới giữa TN và tục ngữ. NN, (3)

23. Nguyễn Văn Mười, (1996). NN tục ngữ với việc phản ánh các yếu tố văn

hoá và nhân sinh quan (Trên cứ liệu tục ngữ Việt - Anh). Luận án PTS.

ĐHQG HN.

24. L.V. Sðcha, (1947). Dạy ngoại ngữ ở trong trường trung học. Vấn đề

chung về phương pháp luận.

25. Lã Thành, (1995). Dictionary of current English – Vietnamese idioms. Từ

điển Thành ngữ Anh – Việt thông dụng (25,000 thuật ngữ). NXB Khoa học

và kỹ thuật. Hà nội.

26. Lê Quang Thiêm. Nghiên cứu đốc chiếu các NN. NXB Đại học và giáo

dục chuyên nghiệp Hà nội.

27. Bùi Khẵc Viện. Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng Việt. Ngôn

ngữ số 1 – 1978.

28. Trần Ngọc Thêm, (1999). Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXB Giáo dục.

81

29. Trịnh Thị Kim Ngọc, (1999). Ngôn ngữ và văn hoá, tri thức nền và việc

giảng dạy tiếng nước ngoài. NXB Khoa học Xã hội.

TIẾNG ANH

30. Amy Tan. When heaven and earth changed places.

31. Broukal M. (1994). Idioms for everyday use. National Textbook Company

Press.

32. Cacciary C. (1993). The place of idioms in a literal and metaphorical

world. In C. Cacciari & P. Tabossi (end.) Idioms: processing, structure,

and interpretation (pp. 27. 50). Amsterdam: Elsevier Science Publisers

33. Catherine Coulter. The Heir.

34. Clark J. (1988). Word wise: a dictionary of English idioms. Harpa Limited.

35. Collins, A. (1992). 101 American English Proverbs. Passport books. USA.

36. Cowie, A.; Mackin, R. & McCraig, I. (1994). Oxford dictionary of English

idioms. Oxford: Oxford University Press.

37. Fernando, C., (1996). Idioms and idiomaticity. Oxford: Oxford University

Press.

38. Glucksberg, S. (1993). Idioms meanings and allusion content. In C.

Cacciari & P. Tabossi (eds.). Idioms: processing, structure, and

interpretation. pp. 3-26. Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.

39. Goodale, M. (1995). Collins Cobuild idioms workbook. Harper Collins

Publishers, Ltd.

40. Hazel Johansen. Barnyard Treasure.

41. Keith Mitchell. Learning How To Use Idioms.

42. Long et al, (1977) Longman dictionary of English idioms. London:

Longman

43. Longman idioms dictionary (over 6000 idioms). Longman 1998.

44. Makkai, A. (1972). Idioms structure in English. The Hague: Mounton

82

45. Makkai, A., Boatner, M. and Gates, J. (1995). Handbook of commonly

used American idioms. Illi. Barron’s

46. Mellisa Bank. The Girls’ Guide To Hunting and Fishing. 47. Muller, (1980). English idioms. 6th LAGUS Forum 1979. Columbia, SC:

Hornbeam Press, pp. 245-254

48. Rosamunde Pilcher. The Shell Seekers.

49. Ruth Seamans. Papa Haydn.

50. Tim Gillette. I apologize for...

51. Các trang Web:

www.geocities.com home.t-online.de www.idiom.co.uk www.pacificnet.net titania.cobuild.collins.co.uk www.eslcafe.com www.goenglish.com www.amazon.com www.elfs.com www.english-zone.com www.goenglish.com www.ossweb.com titania.cobuild.collins.co.uk

83

PHẦN PHỤ LỤC: 50 THÀNH NGỮ CÓ CÁC YẾU TỐ CHỈ BỘ PHẬN

CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT)

Nhóm 1: Thành ngữ có yếu tố chỉ Tai (ear)

1. Play it by ear (“chơi nó bằng tai”) – tuỳ hứng thôi, tuỳ hứng qua cầu thôi,

được đến đâu xâu tới đó, tuỳ cơ ứng biến.

Ví dụ:

A: What about going to the cinema?

Bọn mình đi xem phim đi!

B: Sure. And what’ll we do after that?

Đi. Thế sau đó mình sẽ làm gì?

A: Oh, I don’t know. Let play it by ear.

Mình cũng chưa biết nữa. Nhưng mà cứ đi đã rồi tuỳ cơ ứng biến, việc gì

phải tính toán trước làm gì cho mệt.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

2. All ears (“toàn tai”) – lắng tai nghe, giỏng tai lên.

Ví dụ:

A: Hey, are you listening to me?

Này, cậu có nghe mình nói không đấy?

B: Yes, go on, I’m all ears.

Thì cứ nói đi, mình đang giỏng tai lên mà nghe cậu nói đây còn gì.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

3. Believe one’s ears (“tin tai mình”) – tin ở tai mình, thật ngoài sức tưởng

tượng.

Ví dụ:

A: I couldn’t believe my ears when I heard Mary got married with such an old

man. He must be as old as her father.

Tôi thật là không thể tin được ở tai mình nữa. Con Mary lại đi lấy một cái

lão già như thế bao giờ. Lão ta phải bằng tuổi bố nó ấy chứ.

84

B: It’s no surprise! He is as rich as Rockefeller.

Chẳng có gì là ngạc nhiên cả. Lão ta giàu nứt đổ đổ vách, giàu như

Rockefeller cơ mà.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

4. Something goes in one ear and out the other (“cái gì đó vào một tai và ra

tai kia”) – vào tai này ra tai kia, nước đổ lá khoai, nước đổ đầu vịt.

Ví dụ:

I called them yesterday and explained exactly what I wanted, but

obviously it all went in one ear and out the other.

Hôm qua tôi đã gọi điện cho chúng nó và đã nói rõ việc tôi cần, nhưng

đúng là nước đổ đầu vịt.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

5. To be up to one’s ears (“lên đến tận tai”) – ngập đến tận mang tai, bù đầu

bù cổ, bận tối mắt tối mũi.

Ví dụ:

Herefordshire farmers have been up to their ears in potatoes because of

the high rainfall this year. They even don’t dare to think of a lunch, but only

their farming work.

Nông dân ở Herefordshire đang tối mắt tối mũi với đống khoai tây vì

năm nay mưa nhiều quá. Còn chẳng có thời gian mà nghĩ đến ăn trưa nữa,

chỉ có công việc đồng áng mà thôi.

(The Girls’ Guide To Hunting and Fishing by Mellisa Bank)

6. Wet behind the ears (“ẩm ướt sau tai”) – trẻ người non dạ, vắt mũi chưa

sạch, chưa ráo máu đầu.

We were wet behind the ears then, and we thought it would be great to

start a magazine to campaign against world poverty.

Bọn mình đúng là vắt mũi chưa sạch, cứ tưởng là xuất bản được một

tạp chí kêu gọi chống đói nghèo trên thế giới là to tát lắm rồi.

85

(Longman Idiom Dictionary)

7. Be smiling/ grinning from ear to ear (“cười từ tai tới tai”) – Ngoác miệng

đến tận mang tai.

Ví dụ:

A: Stop grinning from ear to ear! You are acting as an outsider. Don’t you

know you are getting on our nerves?

Đừng có cười ngoắc miệng đến tận mang tai như thế! Cậu cứ làm như cậu

là người ngoài cuộc không bằng. Cậu có biết là cậu đang làm cho bọn mình

bực mình lắm rồi không hả?

B: I couldn’t help but laugh, because you two look so funny!

Mình không thể nhịn được cười, cả hai người trông buồn cười quá đi.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

8. Make a pig’s ear of something (“làm một cái tai lợn của cái gì”) – chữa

lợn lành thành lợn què.

Ví dụ:

Mark was so thrifty that he even had his friend cut his hair to save his

money. This morning, he got Bill to do it, but unfortunately for him, Bill

made a pig’s ear of it. His new haircut looked terrible.

Mark tiết kiệm tới mức nó còn nhờ cả bạn nó cắt hộ tóc để tiết kiệm

tiền cắt tóc. Sáng nay, nó nhờ Bill cắt tóc, nhưng thật chẳng may cho nó, Bill

đã chữa lợn lành thành lợn què. Cái đầu mới của nó trông thật dễ sợ.

(The Shell Seekers by Rosamunde Pilcher)

9. Turn a deaf ear to something (“quay tai điếc tới cái gì”) – giả điếc, mũ ni

che tai.

Ví dụ:

The Prime Minister has turned a deaf ear to opposition demands that he

should call an early election.

86

Ông Thủ tướng đã giả điếc đối với các đề nghị của phe đối lập đòi ông ta

phải tổ chức một cuộc bầu cử nhanh chóng.

(Longman Idiom Dictionary)

10. Keep your/ an ear to the ground (“giữ một tai tới mặt đất”) – không ai

qua mặt được, rất tỉnh táo, nghe ngóng tình hình.

Smith was a politician who liked to keep an ear to the ground, rather

than spending all his time at party headquarters.

Ông Smith là một chính trị gia thích nghe ngóng tình hình, hơn là ngồi

lỳ ở văn phòng trụ sở của Đảng.

(Longman Idioms Dictionary)

Nhóm 1: Thành ngữ có yếu tố chỉ Mắt (eye)

11. Keep an eye on somebody (“giữ một mắt lên ai đó”) - để mắt đến, theo

dõi, trông coi.

Ví dụ:

(sound of china breaking) (tiếng vỡ của đồ sứ)

Mother: Oh, no! Bobby, I told you not to touch anything in Aunt Beth’s

house. Now you’ve broken her vase! Beth, I’m awfully sorry.

Mẹ: Thôi, Bobby, mẹ đã bảo con là không được động đến đồ đạc của Dì Beth

rồi mà. Con đã làm vỡ cái lọ hoa của Dì rồi. Dì Beth này, Dì tha lỗi cho cháu

nó nhé!

Aunt Beth: Oh, don’t worry about it. Accidents happen.

Dì Beth: Chị đừng có áy náy về việc đó. Không may thôi mà.

Mother: Besides, I knew Bobby was coming. I should have kept a closer eye

on Bobby. Let me buy you new vase.

Mẹ: Mà chị cũng biết là Bobby tới, đáng ra chị phải để mắt hơn tới Bobby.

Chị sẽ mua lại trả Dì cái lọ hoa mới.

Aunt Beth: You don’t need to do that. It’s O.K., really. That vase was getting

old. Now I have an excuse to buy a new one.

87

Dì Beth: Chị đừng làm thế, có việc gì đâu. Cái lọ hoa đó cũ quá rồi, giờ thì

em có cái cớ để mua cái mới rồi.

(I apologize for... by Tim Gillette.)

12. Shut/ close one’s eyes to something (“nhắm mắt với cái gì”) – nhắm mắt

làm ngơ, ngoảnh mặt làm ngơ, giả mù giả điếc, mũ ni che tai.

Ví dụ:

The world is endangered by pollution, but people shut their eyes to it.

Thế giới đang bị nạn ô nhiễm môi trường đe dọa, thế mà người ta vẫn ngoảnh

mặt làm ngơ.

(Longman Idioms Dictionary)

13. An eye for an eye (“một mắt cho một mắt”) - ăn miếng trả miếng, trả đũa,

gieo gì gặt nấy, gieo gió gặt bão, trồng cây chua ăn quả chua, trồng cây ngọt

ăn quả ngọt.

Ví dụ:

Angry protesters in the square demanded justice be done to their dead

friends and family members. Several people held signs that read “An eye for

an eye”.

Đám người phản đối đầy phẫn nộ ở quảng trường đòi phải thực hiện

công lý đối với bạn bè và người thân đã bị thiệt mạng của mình. Một vài

người còn giương cao khẩu hiệu “Gieo gió gặt bão”.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

14. Be all eyes (“toàn mắt”) – dán mắt vào, nhìn hút hồn

Ví dụ:

Mother: Bobby, it’s time for lunch. Don’t be all eyes to the computer, playing

games. Everybody is waiting for only you!

Mẹ: Bobby, ăn cơm thôi. Đừng có dán mắt vào máy tính mà chơi Trò Chơi

nữa. Cả nhà đang đợi có mình con thôi đó!

Bobby: I’m coming, Mom.

88

Bobby: Con tới ngay đây.

(I apologize for... by Tim Gillette.)

15. Give somebody the eye (“cho ai mắt”) – liếc mắt đưa tình, đầu mày cuối

mắt.

Ví dụ:

Sheila was a very jealous woman, but unfortunately her husband

seemed to be a playboy. She had to track him down. He was standing with

her, and kept giving any girl who walked past them the eye.

Sheila rất hay ghen, nhưng thật không may cho chị ta là chồng chị ta

lại có vẻ rất phóng túng. Chị ta phải theo sát chồng. Gã này đứng bên vợ mà

vẫn ngang nhiên đầu mày cuối mắt với bất kỳ cô gái nào đi ngang qua.

(The Girls’ Guide To Hunting And Fishing by Mellisa Bank)

16. See something with half any eye (“nhìn cái gì với nửa con mắt”) –

thoáng thấy ngay, con ruồi bay qua biết con đực hay con cái.

Ví dụ:

A: You can’t fool him into believing you! He can see your trick with half any

eye.

A: Cậu không lừa phỉnh được ông ta đâu. Ông ta chỉ thoáng cái là thấy ngay

trò lừa phỉnh của cậu thôi.

B: But perhaps this time is different. I’ll try and maybe my luck is in.

B: Lần này có thể sẽ khác thì sao. Mình sẽ thử, biết đâu vận may lại đến với

mình.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

17. Have eyes in the back of your head (“có mắt ở đằng sau đầu”) – Mọc

mắt sau lưng, đề cao cảnh giác,

Ví dụ:

A: You need to have eyes in the back of your head when you’re teaching a

class of ten-year-olds.

89

A: Cậu nhớ phải mọc mắt sau lưng khi dạy đám nhóc 10 tuổi đó đấy nhé!

B: Oh, really? I’ve never thought of it.

B: Thật thế à? Mình chưa từng lường đến tình huống đó.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

18. Somebody’s eyes are bigger than his/ her stomach (“mắt của ai đó to

hơn dạ dày của anh ta/ cô ta”) – no bụng đói con mắt.

Ví dụ:

Mother: Can’t you finish that? Your eyes were bigger than your stomach,

weren’t they?

Mẹ: Không ăn được hết à? Con đúng là chỉ no bụng đói con mắt.

Bobby: Yes, I’ll finish it. You see, I enjoy it.

Bobby: Con sẽ ăn hết ngay thôi. Con đang nhấm nháp đây mà mẹ.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

19. In a pig’s eye! (“trong mắt của một con lợn”) – có mà nằm mơ, ếch mọc

lông nách.

Ví dụ:

A: Dan got the highest mark on the math test.

A: Thằng Dan được điểm cao nhất ở môn toán đấy.

B: In a pig’s eye!

B: Có mà ếch mọc lông nách!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

20. Catch somebody’s eye (“bắt được mắt của ai”) – bắt mắt, đập vào mắt.

Ví dụ:

I bought a couple of skirts and a pair of sandals that caught my eye.

Tôi đã mua máy cái váy và một đôi dép sandal mà đã đập vào mắt tôi.

(Longman Idioms Dictionary)

Nhóm 3: Thành ngữ có yếu tố chỉ Mặt (Face)

90

21. Have the face to do something (“có mặt để làm cái gì”) – mặt dạn mày

dày.

Ví dụ:

A: Just one more time, I promise.

B: Chỉ một lần này nữa thôi, tôi hứa đấy.

B: How can you have the face to ask for more money when you do so little

work?

B: Sao anh lại có thể mặt dạn mày dày mà xin thêm tiền khi anh làm việc ít

đến thế??

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

22. One’s face falls (“mặt rơi xuống”) – tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi, tưng

hửng như mèo bị cắn tai.

Ví dụ:

Grace didn’t want to leave, that was obvious, but as Arabella just kept

looking at her, her face fell and she was forced to curstsy and quit the

bedchamber, her footfall heavy.

Grace rõ ràng lừng khừng không muốn đi, nhưng bị Arabella nhìn nên

cô nàng tiu ngỉu như mèo lành cụt đuôi, miễn cưỡng nhún gối chào rồi ra

khỏi phòng ngủ, lê bước nặng nề.

(The Heir by Catherine Coulter)

23. Cut off one’s nose to spite one’s face (“cắt mũi để chọc tức mặt”) – uống

giấm để đỡ khát.

Ví dụ:

A: Mark told me he would sell his own house to pay his wife’s bank loan.

A: Mark bảo tôi là cậu ấy sẽ bán nhà để trả món nợ ngân hàng cho cô vợ đấy.

B: Oh, really? He would cut off his nose to spite his face!

B: Thật thế à? Thế thì cậu ấy lại uống giấm để đỡ khát rồi!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

91

24. Lose face (“mất mặt”) – mất mặt, đeo mo vào mặt, không biết giấu mặt

vào đâu.

Ví dụ:

A: Yesterday Peter was caught red-handed with his cheat sheet. He will be

suspended from school at least one term.

A: Này, hôm qua Peter bị bắt quả tang quay cóp đấy. Nó sẽ bị đình chỉ học

tập ít nhất là một học kỳ.

B: It’s his fault. He was losing face!

B: Chẳng trách được ai, lỗi tại câu ta. Đúng là đeo mo vào mặt!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

25. Keep a straight face (“giữ mặt thẳng”) – mặt tỉnh queo, tỉnh bơ như

không.

Ví dụ:

Jan struggled to keep a straight face as their mother gave them a long

talk on how to behave towards young men.

Jan cố làm mặt tỉnh queo khi mẹ chúng giảng cho chúng một thôi một

hồi về cách cư xử đối với thanh niên.

(Longman Idioms Dictionary)

26. Drop off the face of the earth (“rơi xuống bề mặt của trái đất”) – lặn mất

tăm, mất hút con mẹ hàng lươn.

Ví dụ:

We have enough evidences to convict Spencer – the problem is finding

him. As far as I can tell, he’s just dropped off the face of the earth.

Chúng ta đã có đủ bằng chứng để kết tội Spencer – vấn đề là phải tìm

được hắn. Nhưng theo tôi thì hắn đã lặn mất tăm rồi.

(The Heir by Catherine Coulter)

27. Throw something back in somebody’s face (“ném ai đó đằng sau trên

khuôn mặt họ”) – phụ lòng ai, không nên không phải với ai.

92

Ví dụ:

My mum had trusted me to be with my boyfriend whenever I liked, and

now I had thrown it back in her face by getting pregnant. What can I say to

her now, Arabella?

Mẹ mình đã rất tin tưởngcho phép mình thoải mái đi chơi với người

yêu, thế mà bây giờ mình lại chót mang bầu, thật là không nên không phải với

mẹ. Mình biết nói sao với mẹ bây giờ hả Arabella?

(The Heir by Catherine Coulter)

28. You can do something until/ till you’re blue in the face (“bạn có thể

làm cái gì đó cho tới khi bạn xanh trên mặt”) – dã tràng xe cát, công dã tràng.

Ví dụ:

We can make laws about pollution or wildlife trade until we are blue in

the face, but without enough money to enforce them they will to be effective.

Chúng ta cứ đưa ra nào là luật về ô nhiễm, nào là luật về động vật

hoang dã, chỉ công dã tràng thôi, nếu không có đủ tiền để thi hành các cái

luật này thì cũng chẳng hiệu quả đâu.

(Longman Idioms Dictionary)

29. Show one’s face (“lộ khuôn mặt của ai”) - đá gà đá vịt, đáo qua đáo lại.

Ví dụ:

A: I didn’t see you in the meeting this morning? Where were you?

A: Tôi không thấy cậu họp sáng nay. Cậu ở đâu thế?

B: I was busy with a lot of work in the office.

B: Mình còn hàng đống việc ở văn phòng.

A: You should have shown your face at the meeting, just to make it clear what

was going on!

A: Thế thì cậu cũng phải đáo qua đáo lại buổi họp để mà biết là họp cái gì

chứ!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

93

30. To somebody’s face (“thẳng vào mặt ai”) – nói toạc móng heo, nói thẳng

toẹt.

Ví dụ:

A: I was so angry that I told him to his face what I thought of him.

A: Mình sôi máu lên, mình đã nói toạc móng heo với nó là mình nghĩ nó thế

nào rồi.

B: Oh, what a nuisance! How did he react to it?

B: Ôi, phiền toái rồi! Thế nó phản ứng thế nào?

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

Nhóm 4: Thành ngữ có yếu tố chỉ Miệng (Mouth)

31. Straight from the horse’s mouth (“thẳng từ mõm ngựa”) – nguồn tin

đáng tin cậy.

 Dùng để nói thông tin phát ra từ người biết rõ nhất

Ví dụ:

A: How did you find out that Jill was engaged?

Sao cậu biết là Jill đính hôn?

B: I got the information from a very reliable source.

Tớ nghe từ một nguồn tin rất tin cậy.

A: You mean Jill told you so herself?

Có nghĩa là chính Jill à?

B: That’s right. I got it straight from the horse’s mouth!

Phải. Chính cô ta.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

32. Shoot off one’s mouth (“bắn khỏi mồm”) – nói như súng liên thanh, ba

hoa thiên địa, phét lác, ba hoa chích choè...

Ví dụ:

Jim doesn’t play tennis very much, but he’s always shooting off his

mouth about how good he is. Yet he’s fooling nobody.

94

Jim có võ vẽ chút ít về quần vợt nhưng lại hay ba hoa chích choè rằng

mình điêu luyện lắm. Nhưng loè được ai đâu.

(Longman Idioms Dictionary)

33. Don’t look a gift horse in the mouth (“đừng có đếm một con ngựa được

quý trong miệng”) – Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ, mèo có bao giờ chê mỡ.

Ví dụ:

“Don’t look a gift horse in the mouth,” the ox advised. “Help me! If we find

treasure, I will gladly share it with you.’

“No way!” replied the old horse. “I’ve plowed all day, and now I’m going to

eat like a horse.” Then the gray mare galloped off to greener pastures.

“Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ,” Bò nói. “Giúp tôi một tay đi! Nếu chúng ta tìm

được kho báu, tôi sẽ sẵn sàng chia kho báu đó với anh.”

“Còn lâu nhé!” Ngựa già trả lời. “Tôi đã kéo cày cả ngày, bây giờ tôi sẽ ăn

như thuồng luồng cái đã. ” Rồi Ngựa xám phi nước đại tới những cánh đồng

cỏ xanh non.

(Barnyard Treasure by Hazel Johansen)

34. Live hand-to-mouth (“sống từ tay tới miệng”) – sống lần hồi, sống cho

qua ngày đoạn tháng.

Ví dụ:

For the next eight years, Joseph lived hand-to-mouth. He played at

parties, taught piano and violin lessons and arranged music. He continued his

music studies on his own. Slowly Haydn’s reputation grew.

Tám năm sau đó, Joseph sống lần hồi. Ông chơi nhạc ở các bữa tiệc,

dạy piano và violông và cải biên các thể loại nhạc. Ông tự học thêm về âm

nhạc. Dần dần Haydn được nhiều người biết đến.

(Papa Haydn by Ruth Seamans)

35. Put one’s money where one’s mouth is (“để tiền nơi miệng mình”) – nói

lời phải giữ lấy lời, giữ lời.

95

Ví dụ:

A: You’ve been promising to take us to Disneyland for the past two years.

Since the kids are free, how about putting your money where your mouth is?

A: Anh hứa là cho cả nhà đi Disneyland hai năm rồi. Lúc này các con đều rỗi

cả anh có định giữ lời không?

B: You don’t have to remind me. I have every intention of doing exactly what

I said I’d do. But you yourself know that in the past we have been unable to

go because of other financial obligations. Things have eased up and it looks

like we’ll be able to go this year.

B: Em không việc gì mà phải nhắc nhở anh như thế. Anh vẫn luôn giữ lời

nhưng chính em cũng biết trước đây chưa thể đi được vì kẹt. Năm nay khá lên

rồi mình sẽ đi được thôi.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

36. Somebody is all mouth and no trousers (“ai đó toàn mồm và không

quần”) – chỉ được cái võ mồm, chỉ giỏi cái mồm.

Ví dụ:

Terrace pretends that he’s really tough, but he’s all mouth and no

trousers.

Terrace cứ làm ra cái vẻ mình là một tay sừng sỏ lắm, nhưng cũng chỉ

được cái võ mồm thôi.

(Longman Idioms Dictionary)

37. Put words in somebody’s mouth (“đặt lời nói vào miệng ai”) – dựng

đứng dựng ngược chuyện, đặt điều, vu oan giá họa.

Ví dụ:

A: I can’t stand her any more. I’ve never commented on my boss’ unhappy

marriage, but she has put words in my mouth.

96

A: Mình không thể chịu được cô ta nữa rồi. Mình chưa bao giờ bàn luận về

cuộc hôn nhân không hạnh phúc của ông sếp mình, thế mà cô ta đã dựng

đứng dựng ngược chuyện lên

B: That’s the way she is. Don’t take it that bad!

B: Tính cô ta thế ấy mà. Đừng có coi chuyện đó nặng nề đến thế!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

38. Take the words out of somebody’s mouth (“lấy lời nói ra khỏi miệng

ai”) – cướp lời, chặn họng người khác.

Ví dụ:

The comte shrugged in vague agreement and let Magdalaine keep

talking about it. He just stared at her in silence, as whenever he uttered she

took the words out of his mouth.

Gã quý tộc đó nhún vai chẳng có vẻ đồng tình và mặc Magdalaine cứ

thao thao bất tuyệt về chuyện đó. Gã chỉ lặng lẽ chăm chú quan sát cô nàng,

cũng bởi lẽ cứ bao giờ gã định mở lời thì đã lại bị cô nàng cướp lời rồi còn

đâu.

(The Heir by Catherine Coulter)

39. Down in the mouth (“rơi trong miệng”) – mặt ủ mày chau.

Ví dụ:

I returned to our suddenly empty house and tried to figure things out.

While I was gone, the MPs had come and removed Jim’s belongings and the

rooms seemed barer and sadder than ever. The landlord was down in the

mouth waiting for me.

Tôi trở về cái tổ ấm bỗng chốc trở nên trống trải của chúng tôi và cố

xác định lại mọi thứ. Trong khi tôi đi, các nhân viên cảnh sát đã tới dọn đồ

đạc của Jim đi, căn phòng có vẻ trống trải và cô quạnh hơn bao giờ hết. Ông

chủ nhà mặt ủ mày chau đang đứng đợi tôi.

(When heaven and earth changed places by Amy Tan)

97

Nhóm 5: Thành ngữ có yếu tố chỉ các bộ phận khác trên khuôn mặt

40. Pay through the nose (“trả qua mũi”) – Trả cao, tiền núi, mất tiền đống.

Ví dụ:

At last, Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an

auction. Since many other stamp collection would also be bidding for it, he

realized that he would have to pay through the nose in order to have it.

Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu

giá mà ông tốn bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm muốn

mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng mua

được nó.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

41. Tongue-in-cheek (“lưỡi ở má”) – trêu chọc, cợt nhả, tếu táo.

Ví dụ:

A: Why were you teasing Sonia about her new hairdo? She really took

offense at what you said.

Sao cậu lại chọc cái kiểu đầu mới của Sonia? Nó bực thật đấy.

B: I didn’t mean to offend her. I was simply making a tongue-in-cheek remark

when I said that it was too elaborate for a girl of her young, tender age.

Nào tớ đâu có định làm nó bực mình, tớ chỉ đùa/ chọc chút thôi là vào

tuổi đáng yêu như cô nàng mà làm cái đầu thế thì hơi cầu kỳ quá.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

42. Somebody can’t see beyond the end of his/ her nose (“ai đó không thể

nhìn thấy bên ngoài giới hạn của cái mũi của cô ấy”) – bo bo chỉ biết mình.

Ví dụ:

The article says this city is full of people who can’t see beyond the end

of their noses. I strongly disagree.

Bài báo viết là thành phố này đầy kiểu người bo bo chỉ biết mình. Tôi

thật là không đồng ý với những lời lẽ như thế.

98

(Longman Idioms Dictionary)

43. Do something with your nose in the air (“làm cái gì với cái mũi ở trong

không khí”) – vênh vênh váo váo như gáo múc dừa, vênh vênh như bố vợ

phải đấm.

Ví dụ:

Now Richard watched her. She was sitting in the sitting room with her

nose in the air and pretended not to notice the rest of the people in the room.

Giờ thì Richard đang quan sát cô ả. Cô nàng ngồi trong phòng khách,

mặt vênh vênh váo váo, làm bộ như chẳng màng đến ai khác trong phòng.

(The Shell Seekers by Rosamunde Pilcher)

44. Have/ keep your nose to the grindstone (“Mũi chúi vào một hòn đá

nhọn”) – chân chỉ hạt bột, đầu tắt mặt tối, chúi mũi vào công việc.

Ví dụ:

A: Where is Mark?

A: Cậu thấy Mark đâu không?

B: He is keeping his nose to the grindstone. He will have to hand in his essay

to his teacher tomorrow, but he’s got half of it.

B. Cậu ta đang chúi mắt chúi mũi vào công việc. Cậu ta phải nộp bài cho

thầy vào ngày mai, mà bây giờ mới làm được có một nửa.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

45. Get somebody’s nose out of joint (“cho mũi của ai ra khỏi khớp nối”) –

khinh người như mẻ, khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, khinh người như rác.

Ví dụ:

A: What an annoying woman! She got our nose out of joint! Who does she

think she is?

B: Đúng là một con mẹ cảnh vẻ! Khinh khỉnh như chĩnh mắm thối! Không

hiểu chị ta nghĩ mình là ai cơ chứ?

B: Get her out of your mind!

99

B: Đừng có nghĩ đến chị ta làm gì!

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

46. My lips are sealed (“môi tôi bị gắn xi”) – câm miệng hến.

Ví dụ:

A: It’s Mickey’s favourite dessert, but he doesn’t know we’re having it yet.

A: Đó là món ăn tráng miệng mà Mark thích đấy, nhưng cậu ấy chưa biết là

chúng ta đang ăn đâu.

B: Don’t worry – my lips are sealed.

B: Yên tâm đi – tôi sẽ câm miệng hến.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

47. Keep your chin up (“giữ cằm cao”) – không nản chí, không lùi bước, trơ

như đá, vững như đồng.

Ví dụ:

A: Keep your chin up, dear. You will be lucly next time. I am sure you’ll find

a job soon.

A: Phải trơ như đá, vững như đồng ấy chứ, con à. Lần sau con sẽ may mắn.

Mẹ chắc là con sẽ tìm được việc ngay thôi.

B: I hope so, mom.

B: Con cũng mong thế, mẹ ạ.

(Learning How To Use Idioms by Keith Mitchell)

48. Live cheek by jowl (“sống má cạnh cằm”) – tối lửa tắt đèn có nhau.

Ví dụ:

Workers’ families lived cheek by jowl in the narrow streets under the

factory chimneys.

Các gia đình công nhân tắt lửa tối đèn có nhau trong các dãy phố nhỏ

hẹp dưới các ống khói của nhà máy.

(Longman Idioms Dictionary)

49. Raise eyebrows (“nhướn mày”) – trố mắt ngạc nhiên.

100

Ví dụ:

Great Britain raised many eyebrows at the Winter Olympics with an

impressive performance in the bobsleigh event.

Đội Anh đã làm nhiều người trố mắt ngạc nhiên tại Olympic Mùa Đông

với buổi trình diễn ấn tượng trong môn thi trượt tuyết.

(Longman Idioms Dictionary)

50. Not bat an eyelid (“không cử động mí mắt”) – thản nhiên như không,

không chớp mắt.

Ví dụ:

He listened to their criticism for his mistake without batting an eyelid

and sat comfortably in the armchair as though he was alone in the room.

Anh ta thản nhiên như không nghe họ phê bình mình và ngồi thoải mái

trong ghế như thế đang chỉ có một mình trong phòng.

(When heaven and earth changed places by Amy Tan)