ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐÀO THÁI SƠN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐÀO THÁI SƠN

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Tạ Văn Thông

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

khảo sát, thống kê, nghiên cứu, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa

từng công bố ở bất kì công trình nào khác.

Tác giả

Đào Thái Sơn

Xác nhận Xác nhận

của khoa chuyên môn của người hướng dẫn khoa học

PGS.TS Tạ Văn Thông

i

LỜI CẢM ƠN

Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ

văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã

trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Tạ Văn Thông,

thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn nhà thơ Ma Trường Nguyên đã cung cấp những

tư liệu trong quá trình thực hiện luận văn.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2016

Tác giả luận văn

Đào Thái Sơn

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii

MỤC LỤC ......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ..................................................................... vi

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 6

7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 7

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ........................................................................................................................ 8

1.1. Các khái niệm chung .................................................................................... 8

1.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật ....................... 8

1.1.2. Ngôn ngữ thơ và đặc trưng ngôn ngữ thơ ............................................... 11

1.1.3. Các khái niệm về nghĩa, trường từ vựng, thể, vần, nhịp , dòng, khổ, đoạn, tiêu đề và biểu tượng ................................................................................ 19

1.2. Nhà thơ Ma Trường Nguyên – cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác. ............................................................................................................. 33

1.2.1. Tiểu sử ..................................................................................................... 33

iii

1.2.2. Quá trình hoạt động văn học ................................................................... 34

1.2.3. Thơ Ma Trường Nguyên .......................................................................... 36

1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 38

Chương 2. ĐẶC ĐIỂM THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC ............................................................................................................ 39

2.1. Đặc điểm về thể thơ, vần, nhịp trong thơ Ma Trường Nguyên .................. 39

2.1.1. Đặc điểm về thể thơ ................................................................................. 39

2.1.2. Đặc điểm về vần thơ ................................................................................ 48

2.1.3. Đặc điểm về nhịp thơ ............................................................................... 59

2.2. Đặc điểm về cách tổ chức bài thơ ............................................................... 63

2.2.1. Đặc điểm về tiêu đề ................................................................................. 63

2.2.2. Đặc điểm về dòng thơ .............................................................................. 64

2.2.3. Đặc điểm về khổ thơ, đoạn thơ ................................................................ 66

2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 68

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN XÉT VỀ MẶT TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA .................................................................................... 70

3.1. Một số trường từ vựng - ngữ nghĩa nổi bật ................................................ 70

3.1.1. Quê hương và cảnh sắc thiên nhiên ........................................................... 70

3.1.2. Con người và những mối quan hệ xã hội ................................................... 76

3.1.3. Những vật dụng trong đời sống hàng ngày ............................................. 78

3.1.4. Chiến tranh và không khí chiến đấu trong những ngày gian khổ. ............ 81

3.2. Một số biểu tượng ngôn ngữ học thường gặp ............................................... 84

iv

3.2.1. Khái quát về các biểu tượng ngôn ngữ học thường gặp trong thơ Ma Trường Nguyên ............................................................................................. 84

3.2.2. Biểu tượng “hoa” ..................................................................................... 85

3.2.3. Biểu tượng “núi” ...................................................................................... 89

3.2.4. Biểu tượng “dòng sông” .......................................................................... 92

3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 95

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 97

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 100

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số lần xuất hiện các thể thơ .............................................................. 39

Bảng 2.2. Bảng phân loại thể thơ 7 chữ, 8 chữ ................................................. 46

Bảng 2.3. Vần trong các thể thơ ........................................................................ 48

Bảng 2.4. Các loại vần xét theo vị trí gieo vần và mức độ hoà âm ................... 49

Bảng 2.5. Các loại vần trong thơ Ma Trường Nguyên xét theo thanh điệu. .......................................................................................................... 56

Bảng 2.6. Bảng thống kê một số loại nhịp thường gặp trong thơ Ma Trường Nguyên ........................................................................................... 59

Bảng 2.7. Số lượng chữ trong tiêu đề thơ .......................................................... 63

Bảng 2.8. Số lượng dòng trong thơ ..................................................................... 64

Bảng 2.9. Số lượng khổ thơ .................................................................................. 66

Bảng 3.1. Số lần xuất hiện của các từ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp biểu thị cảnh vật quê hương ............................................................................................ 70

Bảng 3.2. Số lần xuất hiện các từ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp biểu hiện thiên nhiên ........................................................................................................ 73

Bảng 3.3. Con người và những mối quan hệ xã hội ............................................... 76

Bảng 3.4. Số lần xuất hiện các từ ngữ chỉ đồ vật trong thơ ............................. 79

Bảng 3.5. Số lần xuất hiện các từ ngữ chỉ chiến tranh trong thơ ...................... 81

Bảng 3.6. Các biểu tượng thường gặp trong thơ ..................................................... 84

Bảng 3.7. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘hoa“ trong thơ Ma Trường Nguyên .................................................................................................. 86

Bảng 3.8. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘núi“ trong thơ ............ 89

Bảng 3.9. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘dòng sông“ ................ 92

vi

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ nói riêng

là một trong những hướng nghiên cứu được chú ý trong ngôn ngữ học hiện đại.

Trong những năm gần đây, thơ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc nhìn

ngôn ngữ học để chỉ ra các quy luật, ngôn từ trong tác phẩm. Có thể khẳng

định: Việc tìm hiểu ngôn ngữ thơ dưới góc nhìn ngôn ngữ học giúp người đọc

nhận ra phong cách nghệ thuật và ý đồ của tác giả trong việc xây dựng hình

tượng nghệ thuật của tác phẩm qua hình thức ngôn từ. Nghiên cứu đặc điểm

ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên là một trong những đề tài nằm trong hướng

đi cần thiết đó.

1.2. Ma Trường Nguyên là một nhà thơ người dân tộc thiểu số (Tày),

sinh ra và lớn lên ở “thủ đô gió ngàn”- mảnh đất “địa linh nhân kiệt” trong cuộc

kháng chiến 9 năm trường kì anh dũng của dân tộc ta. Chính quê hương ATK

(Định Hóa, Thái Nguyên) với cảnh sắc nên thơ, trữ tình và những người dân

chân chất, mộc mạc, đằm thắm nhưng dũng cảm, kiên cường đã thổi vào tâm

hồn ông chất men say và cái nhìn sắc sảo trước hiện thực của văn chương. Để

rồi như các nhà văn đồng nghiệp cùng thời với ông nhận xét, thì “Ma Trường

Nguyên, cần mẫn viết như một chú ong thợ”. Ông đã cho ra đời 16 tập thơ,

trường ca, kí và tiểu thuyết, trong đó có nhiều tác phẩm viết về đề tài miền núi.

Đã có nhiều bài viết về tác giả Ma Trường Nguyên và các tác phẩm của ông

trên các báo Văn nghệ, tạp chí Văn học và một số bài viết trong sách, báo chí

Trung ương, địa phương..., song hầu hết mới đi vào một vài khía cạnh chung về

phương diện nội dung và chủ đề tư tưởng. Đặc điểm ngôn ngữ thơ của Ma

Trường Nguyên hầu như vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Đó chính là những lí do để đề tài: “Đặc điểm ngôn ngữ thơ Ma Trường

Nguyên" được chọn làm hướng nghiên cứu trong luận văn này.

1

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Ngôn ngữ từ xưa đến nay là chất liệu không thể thiếu của văn

chương, là một trong những yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến sự sáng tạo tác

phẩm văn chương nói chung. Bùi Minh Toán cho rằng: “Dường như mối quan

hệ giữa ngôn ngữ và văn chương như là hai lĩnh vực trong nền văn hoá dân

tộc, trong đó ngôn ngữ vừa là một thành tố của văn hoá, vừa là một phương

tiện (chất liệu) của văn hoá (bao gồm văn chương) nhưng chưa được quan tâm

đúng mức”[33; tr 56].

Từ đó, nghiên cứu văn học nhất thiết không thể bỏ qua mặt ngôn ngữ của

các tác phẩm, không chỉ bởi vì mọi yếu tố, mọi bình diện khác của văn học đều

chỉ có thể được biểu đạt qua ngôn ngữ, mà còn vì sáng tạo ngôn ngữ là một

trong những mục đích quan trọng, cũng là một phần không nhỏ trong sự đóng

góp vào những giá trị độc đáo, riêng biệt của văn chương. Nhận thức được ý

nghĩa của việc chỉ ra các đặc điểm ngôn ngữ trong thơ ca, cho đến nay nhiều nhà

ngôn ngữ học đã quan tâm tìm hiểu vấn đề này khi nghiên cứu ngôn ngữ trong thơ

nói chung và của thơ tiếng Việt nói riêng. Có thể kể đến một số công trình sau:

- Mai Ngọc Chừ (1990), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học,

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

- Hữu Đạt (1993), Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Viện HLKH Nga, Viện

ngôn ngữ học, Mockva. 243 tr (bản bằng tiếng Việt và tiếng Nga).

- Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

- Roman Jakobson (2008), Thi học và Ngữ học (Trần Duy Châu biên

khảo), Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

- Bùi Mình Toán (2012, Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

...

2

Các tác phẩm này khi viết về ngôn ngữ trong sự tương tác với văn chương

dường như đều đã đưa ra những ý kiến về việc ngôn ngữ thể loại thơ phải phục

tùng nguyên tắc cấu tạo tác phẩm trữ tình. Nó phải giúp cho việc bộc lộ cảm

xúc trực tiếp được dễ tiếp nhận hơn. Ngoài ra, các tác giả còn chú ý đến sự giao

thoa giữa các thể loại. Và, không chỉ làm rõ quan điểm của mình bằng những

câu thơ, bài thơ cụ thể, các tác giả còn đưa ra nhiều sơ đồ giúp người đọc có

được cái nhìn khái quát. Tiêu biểu như công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn

Phan Cảnh đã vận dụng lí thuyết về thi pháp học của Jakobson để nghiên cứu

đặc trưng của ngôn ngữ thơ trong mối quan hệ với ngôn ngữ văn xuôi và đưa ra

lối phân tích thơ căn cứ vào hai thao tác cơ bản trong hoạt động ngôn ngữ là

lựa chọn và kết hợp.

Theo ông, nguyên lí của văn xuôi là “nhằm vào việc miêu tả bức tranh

hiện thực, văn xuôi làm việc trước hết bằng thao tác kết hợp” [2; tr 51] còn

trong thơ, “tính tương đồng của các đơn vị ngôn ngữ lại được dùng để xây

dựng các thông báo” [2; tr 52]. Vì thế, với văn xuôi “lặp lại là điều tối

kị”trong khi đó “chính cái điều văn xuôi rất kị ấy lại là thủ pháp làm việc của

thơ” [2; tr 52].

Lịch sử nghiên cứu văn học, xét về một phương diện cũng chính là lịch sử

của nghiên cứu ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn học vừa là điều kiện, lại vừa là

kết quả của quá trình vận động, biến đổi của văn học qua các thời kỳ, giai đoạn.

Sự thay đổi văn học cũng đi liền với sự thay đổi của ngôn ngữ văn học, và qua

đó phản ánh sự biến đổi của đời sống xã hội, của tư duy, của môi trường văn hóa

tinh thần và các giá trị của quan niệm thẩm mĩ.

2.2. Ma Trường Nguyên là một nghệ sĩ đa tài. Ông không chỉ làm thơ,

viết văn mà còn viết tiểu luận, phê bình. Ông bắt đầu bằng sáng tác thơ, rồi sau

viết văn xuôi. Tác giả tâm sự rất hồn nhiên: “Cái gì mà thơ không nói được thì

tôi nói trong tiểu thuyết; và ngược lại, cái gì không nói được trong tiểu thuyết

tôi nói trong thơ”.

3

Qua lời tự bạch trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (Nxb Hội nhà

văn, 1997), Ma Trường Nguyên viết: “ Tôi sống thật như tôi. Tôi tự nhủ không

phải viết như thế nào? mà sống thế nào để viết”[19; tr 74]. Sống thật để viết thật.

Viết từ cái tâm hồn không có chút giả dối. Chỗ mạnh và cái hay của tác phẩm

Ma Trường Nguyên phần lớn là ở chỗ đó.

Đã có nhiều nhà văn, nhà thơ viết về Ma Trường Nguyên với những tâm

sự chân thật. Trung Trung Đỉnh cho đó là “Người đốt lửa bằng trái tim” với

“dáng vẻ chân tình đến thật thà và hiền lành”. Ngô Quang Miện sau khi đọc

xong thơ Ma Trường Nguyên đã cảm nhận: “Bắt gặp cái mộc mạc, hồn nhiên

của những con người sống giữa thiên nhiên. Những câu thơ không khắc họa,

không xoáy sâu nhưng để lại cái gì đó như một hương cây cỏ nguyên sơ, giữa

một bầu không khí ban mai trong trẻo”. Phạm Tiến Duật cho đó là “tâm hồn

nhiều say đắm”. Hồ Thủy Giang gọi đó là “một trái tim thức cùng năm tháng”

và “hiền lành một cách bẩm sinh”. Nguyễn Đức Thiện cho rằng Ma Trường

Nguyên “nói năng chất phác, thật thà của người Tày gốc”, và “chất rừng núi,

chất dân tộc đã được thể hiện sâu sắc không chỉ ở tả cảnh, tả người mà nó còn

đậm đà trong tình cảm”….

Có thể nói, những lời nhận xét về Ma Trường Nguyên và các tác phẩm

của ông đã giúp ta hình dung được phần nào phong cách và quan niệm về văn

chương của ông, Đó đều là những cảm nhận gần với những gì độc giả bắt gặp

trong con người và thơ Ma Trường Nguyên.

Thực hiện đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên”, tác giả

luận văn hi vọng sẽ có những đóng góp mới, bù đắp vào những khoảng thiếu hụt

trong việc nghiên cứu và tìm hiểu về ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Các tác phẩm của Ma Trường Nguyên rất đa dạng về thể loại và đề tài,

Đó là các thể loại như thơ, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình…Có thể tìm hiểu về

4

sự nghiệp văn chương của ông dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên luận

văn này chỉ tập trung tìm hiểu về ngôn ngữ (chất liệu văn chương) trong thơ

của ông.

Tư liệu khảo sát gồm 5 tập thơ, trong đó bao gồm 182 bài thơ viết bằng

tiếng Việt. Cụ thể đó là 5 tập thơ:

Trái tim không ngủ (thơ), Hội Văn nghệ Bắc Thái, 1988;

Câu hát vắt qua vai (thơ) Hội Văn nghệ Thái Nguyên, 2005;

Cây nêu (thơ), NXB Hội nhà văn, 2006;

Bắc cầu vồng thăm nhau (thơ) NXB Hội nhà văn, 2007;

Mở núi (thơ và trường ca), NXB Hội nhà văn, 2011.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn này nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật trong các tác phẩm thơ

của Ma Trường Nguyên, nhưng chỉ tập trung nghiên cứu các tác phẩm thơ

được viết bằng tiếng Việt của ông.

Luận văn chủ yếu tập trung vào các đặc điểm hình thức (thể, vần, nhịp,

cách tổ chức bài thơ…) và các đặc điểm về ngữ nghĩa (một số trường từ vựng,

ngữ nghĩa và một số biểu tượng ngôn ngữ học thường gặp).

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên hướng tới mục đích là để chỉ ra

được những nét đặc sắc của ngôn ngữ trong thơ Ma Trường Nguyên, đồng thời

cho thấy được phần nào những đặc điểm phong cách nghệ thuật trong thơ ông.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xác định cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài. Tìm hiểu về nhà thơ Ma

Trường Nguyên và sự nghiệp của ông.

5

- Tập hợp tư liệu, thực hiện khảo sát, thống kê và phân loại các tác phẩm

trong thơ Ma Trường Nguyên.

- Miêu tả những đặc điểm về mặt hình thức và từ vựng - ngữ nghĩa trong

các tác phẩm thơ Ma Trường Nguyên.

- Chỉ ra phong cách, những nét văn hóa, cái nhìn của tác giả trước hiện

thực được đề cập trong thơ của ông, được thể hiện qua chất liệu ngôn ngữ.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê – phân loại: Được sử dụng để thu thập và phân

loại, tìm ra các quy luật xuất hiện của các câu thơ, bài thơ chứa đựng hiện tượng

ngôn ngữ cần nghiên cứu trong ngôn ngữ nghệ thuật

- Phương pháp miêu tả : Được sử dụng để miêu tả các đặc điểm ngôn

ngữ nghệ thuật trong thơ Ma Trường Nguyên.

6. Đóng góp của luận văn

6.1.Về lí luận

Các kết quả luận văn có thể đóng góp thêm tư liệu và cách nhìn nhận

trong việc tìm hiểu về thơ và ngôn ngữ thơ, đặc biệt là trong nghiên cứu ngôn

từ nghệ thuật và phong cách ngôn ngữ.

6.2.Về thực tiễn

Góp phần vào việc tìm hiểu ngôn ngữ trong thơ nói chung và ngôn ngữ

trong thơ Ma Trường Nguyên nói riêng, cũng như tạo nên cách tiếp cận ngôn

ngữ trong thơ đối với các phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu về thơ

và ngôn ngữ trong thơ tốt hơn.

Vì vậy, kết quả luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giáo viên và học

sinh khi cần đọc – hiểu tác phẩm văn chương nói chung và thơ Ma Trường

Nguyên nói riêng.

6

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,

nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn

Chương 2: Đặc điểm về hình thức trong thơ Ma Trường Nguyên

Chương 3: Đặc điểm về ngữ nghĩa trong thơ Ma Trường Nguyên.

7

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Các khái niệm chung

1.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

1.1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Ngôn ngữ mang tính nghệ thuật

được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng

hơn nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách

chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn

bản và khoa học”[16; tr 125].

Theo cuốn Lí luận văn học ( Phương Lựu chủ biên), Ngôn ngữ nghệ thuật

là: “...một hệ thống các phương thức, quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ

của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói “ngôn ngữ ba lê”,

“ngôn ngữ chèo”, “ngôn ngữ điện ảnh”. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ

thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó”[24; tr 185]. Ngôn ngữ nghệ thuật

còn được gọi là ngôn ngữ văn học, chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn

chương. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân đã

được nghệ thuật hóa. Ngôn ngữ ấy đã được chọn lọc, gọt rũa, trau chuốt... và đặc

biệt ngôn ngữ ấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ, xúc cảm

được nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Điều này khác hẳn với

những cảm xúc khoa học – những rung động thông qua suy lý và chứng minh.

Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật là một yếu tố quan trọng thể hiện cá tính

sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Và ngôn ngữ nghệ thuật chính là

ngôn ngữ nhân dân, ngôn ngữ dân tộc được tác giả vận dụng tổ chức trong tác

phẩm để tạo ra hiệu quả và giá trị thẩm mỹ

8

1.1.1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ tài năng là người nghệ sĩ

biết sáng tạo “chất liệu” ngôn ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình,

xây dựng hình tượng nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một giọng

điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lẫn được. Cho đến nay, giới

nghiên cứu lý luận văn học vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về phong

cách nghệ thuật của nhà văn. Chỉ biết rằng phong cách chỉ dùng cho những nhà

văn từng trải cách viết đã định hình, đã khẳng định trên văn đàn.

Theo quan niệm của Hegel: “... phong cách bao hàm tính chất độc đáo và cả

tính võ đoán mang ý nghĩa cảm hứng chủ quan của nghệ sĩ. Khái niệm phong

cách là phương tiện biểu hiện, hay có khi là quy luật nghệ thuật của một loại

hình nghệ thuật nào đó như phong cách thơ, phong cách nhạc kịch”[18; tr 37].

Nhà ngôn ngữ học Đào Thản cho rằng: "Những nét biến hóa riêng của tác giả

trong việc sử dụng ngôn ngữ nhằm mục đich diễn đạt nội dung. Nó bao gồm

các yếu tố được luôn luôn tái hiện và hình thành bền vững trong ngôn ngữ”

[32; tr 60].

Trong văn chương Việt Nam cổ không có những khái niệm hay thuật ngữ

về lý luận văn học một cách rõ ràng về phong cách. Tuy nhiên, sách bàn về thơ,

“sách nói chuyện làm thơ”, dưới tên gọi “thi thoại”, đã được Nguyễn Dữ đề cập

từ thế kỷ XVI qua Kim Hoa thi thoại kí, một trong những truyện hư cấu trong tác

phẩm Truyền kỳ mạn lục. Cuộc nói chuyện thơ giả tưởng giữa ba nhà thơ đương

thời Ngô Chi Lan, Phù Thúc Hoành, Thái Thuận, mang dáng dấp bàn về “phong

cách các nhà thơ”, tưởng như thật hoang đường những khá thực tế trong lịch sử

văn học: “...Thơ của ông Chuyết Am kỳ lạ mà tiêu tao; thơ ông Vu Liêu mạnh mẽ

khích động; thơ ông Tùng Xuyên như chàng trai xông trận, có vẻ sấn sổ; thơ ông

Cúc Pha như một cô gái chơi xuân, có vẻ mềm yếu”[7;tr 219]. Từ một số quan

9

niệm ta có thể hiểu: Phong cách là tính độc đáo thống nhất đa dạng của sự sáng

tạo nghệ thuật đã đến độ chín muồi của người nghệ sĩ. Phong cách gắn liền

sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Những nhà văn, nhà thơ có phong cách ngôn

ngữ là những người biết sử dụng ngôn ngữ toàn dân, của dân tộc để tạo nên

một giọng điệu riêng, một chất giọng riêng không hề nhầm lẫn mà được mọi

ngưòi thừa nhận. Chất giọng riêng ấy trưóc hết thể hiện ngôn ngữ, sự sáng tạo

ngôn ngữ. Sự sáng tạo ngôn ngữ này chính là sự đóng góp của nhà văn làm

phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc. Bởi vậy, khi khảo sát phong

cách ngôn ngữ nhà văn, nhà thơ chính là khảo sát chất giọng riêng của nhà văn,

nhà thơ, tìm ra qui luật riêng trong việc sử dụng ngôn ngữ và sự đóng góp của

nhà văn, nhà thơ ấy trên phương diện ngôn ngữ. Cần hiểu phong cách ngôn ngữ

chính là sự đi “chệch” một cách nghệ thuật so với toàn thể nói một cách khác

nhà văn, nhà thơ có phong cách là người biết chọn một đường đi, một lối cảm

nhận, một cách diễn đạt ở trình độ nghệ thuật cao. Sự đi chệch ấy trong phong

cách học gọi là sự lệch chuẩn ngôn ngữ nhằm taọ ra một đặc trưng không giống

ai, không thể nhầm lẫn với bất cứ ai ở những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi.

Bên cạnh thành tựu nghiên cứu phong cách của Lí luận văn học, không

thể không đề cập những bước tiến của Phong cách học - một khoa học chuyên

ngành của Ngôn ngữ học. Đặt nhiệm vụ nghiên cứu mọi phong cách chức năng

của lời nói, Phong cách học không thể né tránh ngôn ngữ văn chương. Và trong

các thuộc tính của ngôn ngữ văn chương, tính cá thể là điều được nhấn mạnh.

Đó là cơ sở để nói đến khái niệm phong cách ngôn ngữ của tác giả trong tác

phẩm văn học. Nó không hề mâu thuẫn với quan điểm của các nhà lí luận khi

họ xem phong cách là biểu hiện của sự độc đáo, cá biệt của một nhà văn. Như

vậy, bên cạnh khái niệm phong cách nghệ thuật, còn tồn tại khái niệm phong

cách ngôn ngữ của tác giả. Xét trong tương quan, phong cách ngôn ngữ là sự

biểu hiện rõ nét, sinh động của phong cách nghệ thuật.

10

1.1.2. Ngôn ngữ thơ và đặc trưng ngôn ngữ thơ

1.1.2.1 Ngôn ngữ thơ

Trước tiên, phải khẳng định ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của

văn học. Vì vậy, văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. M.Gorki

khẳng định: "ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học"[13; tr 178]. Từ đó có

thể hiểu: "ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học" (dẫn theo

Đái Xuân Ninh, [28, tr 149]). Thơ là một thể loại sáng tác của văn học nghệ

thuật. Do đó ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ của văn học nghệ thuật.

Nếu xét về phạm vi thể loại, ngôn ngữ thơ được hiểu là một đặc trưng về

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hoá, khái quát hoá hiện thực khách

quan theo cách tổ chức riêng của thơ ca

Trên thế giới, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cũng đã chỉ ra sự khác

nhau giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi. Jacobson đã từng nói rằng:

“chức năng của thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu

trên trục kết hợp” [22; tr 83], ông nhấn mạnh cơ chế hoạt động của ngôn ngữ

thơ là cơ chế lựa chọn và cơ chế kết hợp. Bên cạnh đó, trên các nguyên lí của

F. de Saussure trong giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Jacobson còn chỉ ra

trong thơ hình thức ngữ âm là vô cùng quan trọng. Ông nhấn mạnh các yếu tố

âm thanh như âm vận, điệp âm, điệp vận, khổ thơ,… là những đơn vị thuộc

bình diện hình thức. Có thể nói, đây là những cơ sở xuất phát quan trọng trong

việc nhận diện ngôn ngữ thơ. Trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ

thơ, tác giả Nguyễn Phan Cảnh cũng đã dựa vào lí thuyết hệ hình để xem xét

thơ từ phương thức lựa chọn ngôn từ trong các hệ hình, để tạo ra hiệu quả biểu

đạt cao nhất. Ông còn nêu ra lí thuyết trường nét dư. Trong đó tác giả chỉ ra

rằng để thiết lập nên các tổ chức ngôn ngữ trên trục lựa chọn và trục kết hợp,

nhà thơ phải sử dụng đến thao tác loại bỏ trường nét dư, chính là quá trình

hình thành thể thơ. Nét dư được loại bỏ càng nhiều thì hàm lượng thông tin

11

càng cao và càng đòi hỏi ở người tiếp nhận năng lực tiếp nhận và kết cấu “lạ”

do việc loại bỏ các yếu tố ngôn ngữ có hàm lượng thông tin thấp mà ra.

Về cách tổ chức của ngôn ngữ thơ, tác giả Hữu Đạt đã diễn đạt một cách

cụ thể rằng đó là “được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất với

cách tổ chức ngôn ngữ có vần điệu và các quy luật phối âm riêng của từng

ngôn ngữ” [8, tr 25].

Từ những cách hiểu về ngôn ngữ thơ ca nói trên, ta có thể đi đến kết

luận: Trong một phạm vi hẹp của thể loại, ngôn ngữ thơ được hiểu là một tập

hợp nói chung các đặc trưng ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hóa,

khái quát hóa hiện thực khách quan theo tổ chức riêng của thơ ca.

1.1.2.2 Đặc trưng ngôn ngữ thơ

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ

thuật. Vì vậy ngôn ngữ thơ trước hết là ngôn ngữ văn học, là ngôn ngữ mang tính

nghệ thuật được dùng trong văn học. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ là: “tính chính

xác, tính hàm xúc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm” [16; tr 183].

Xét ở phạm vi thể loại, ngôn ngữ thơ được biểu hiện là một chùm đặc

trưng về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp nhằm biểu trưng hoá, khái quát hóa hiện

thực khách quan theo cách tổ chức riêng của thơ. Đặc trưng của thơ được thể

hiện trên ba bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp

a. Về ngữ âm

Thơ là hình thức tổ chức ngôn ngữ đặc biệt mang thuộc tính thẩm mĩ về

ngữ âm. Do vậy, hình thức ngữ âm trong thơ là vô cùng quan trọng, các yếu tố

âm thanh như: âm, vần, điệu là những yếu tố tạo nên tính nhạc của thơ. Đây

cũng là điểm nổi bật để phân biệt thơ và văn xuôi. Tuy nhiên, đặc điểm này thể

hiện một cách khác nhau tuỳ vào cách cơ cấu, cách cấu tạo và tổ chức khác

nhau của mỗi ngôn ngữ. Tiếng Việt có số lượng thanh điệu phong phú (6

thanh), số lượng các đơn vị nguyên âm và phụ âm đa dạng (14 nguyên âm, 21

12

phụ âm). Những đơn vị này được khai thác để tổ chức bài thơ. Và cũng chính

những đơn vị này tạo nên âm hưởng, tiết tấu và nhạc điệu trong thơ: khi du

dương, khi trầm bổng, khi dìu dặt ngân nga, khi dồn dập. Vì thế khi khai thác

tính nhạc trong thơ chúng ta cần chú ý những đối lập sau:

- Sự đối lập về trầm / bổng, khép/ mở của các nguyên âm làm đỉnh vần.

- Sự đối lập vang / ồn giữa hai dãy phụ âm mũi và phụ âm tắc vô thanh

trong các phụ âm cuối.

- Sự đối lập về cao/ thấp, bằng /trắc giữa các thanh điệu.

Bên cạnh sự đối lập đó, cần phải chú ý đến vần và nhịp bởi hai yếu tố

này cũng góp phần quan trọng trong việc tạo tính nhạc cho ngôn ngữ thơ ca.

Tính nhạc trong ngôn ngữ đưa thơ ca xích lại gần với âm nhạc. Vì vậy, mà từ

xa xưa, nhiều hình thức ca hát dân tộc đã lấy thơ ca dân gian làm chất liệu sáng

tác âm nhạc, và trong nền âm nhạc hiện đại, nhiều bài thơ được các nhạc sĩ phổ

nhạc thành công như: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Đợi của Vũ Quần

Phương, Em đi chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Biển nỗi nhớ và em của

Hữu Thỉnh

Nhạc thơ là thứ nhạc đặc trưng, nó khác với âm nhạc thông thường.

Nhạc thơ được tạo thành bởi các yếu tố vần điệu và nhịp điệu.

a1.Về vần điệu

Trong thơ vần có một vị trí quan trọng. Vần là yếu tố lặp lại của một bộ

phận âm tiết. Ở các khổ thơ, câu thơ, vần có chức năng tổ chức, chức năng liên

kết các câu thơ (dòng thơ) thành khổ thơ, các khổ thơ thành bài thơ. Có thể

hình dung: "Vần như sợi dây ràng buộc các dòng thơ lại với nhau, do đó giúp

người đọc được thuận miệng, nghe thuận tai và làm cho người nghe dễ thuộc,

dễ nhớ" [5; tr. 215].

13

Vần còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự hoà âm giữa các câu thơ. Đơn vị

biểu diễn vần trong thơ tiếng Việt là âm tiết, trong các vần thơ bao giờ cũng có

sự cộng hưởng, sự hoà xướng với nhau của hai âm tiết có vần. Sự hiệp vần giữa

âm tiết này với âm tiết khác tạo sự hòa âm cho các cặp vần. Ngoài ra, nói đến

tác dụng hoà phối, kết hợp, tương hỗ của các yếu tố cấu tạo âm tiết còn phải kể

đến sợ hòa xướng, đối lập nhau giữa các yếu tố tương ứng giữa hai yếu tố hiệp

vần. Đó là sự hòa âm giữa hai thanh điệu của âm tiết này với âm tiết kia; giữa

âm chính, âm cuối của âm tiết này với âm chính, âm cuối của âm tiết kia. Vì

vậy âm tiết của tiếng Việt có vai trò rất lớn trong việc xác lập các vần thơ. Tất

cả các yếu tố cấu tạo nên âm tiết tiếng Việt đều tham gia vào việc tạo nên sự

khác biệt của vần thơ Việt Nam, trong đó, thanh điệu và âm chính, âm cuối là

yếu tố chính tham gia vào việc tạo nên sự hòa âm cho các vần thơ.

Trong thơ, vần được phân loại theo ba cách: theo vị trí các tiếng hiệp

vần, theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần và theo đường nét thanh điệu

trong các tiếng hiệp vần. Theo vị trí các tiếng hiệp vần, thơ Việt Nam có hai

loại vần: vần chân và vần lưng. Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần,

trong thơ phân biệt vần chính và vần thông. Theo đường nét thanh điệu trong các

tiếng hiệp vần, truyền thống thơ Việt Nam đã phân biệt vần bằng và vần trắc.

a2. Về nhịp điệu

Có thể hiểu nhịp điệu là điệu tính được tạo ra từ sự luân phiên các ngữ

đoạn ngữ lưu. Theo F. de Sausure: "Dòng âm thanh chỉ là một đường thẳng,

một dải liên tục trong đó thính giả không thấy sự phân chia nào đầy đủ và

chính xác, muốn có sự phân chia như vậy phải viện ý nghĩa... Nhưng khi đã biết

cần phải gắn cho mỗi bộ phận của chuỗi âm thanh một ý nghĩa và một vai trò

gì thì ta sẽ thấy những bộ phận đó tách ra và cái dải vô hình kia sẽ phân ra

từng đoạn" [30; tr. 9].

14

Như vậy, nhịp điệu của giao tiếp thông thường được hình thành từ tính

phân phối ngữ nghĩa. Trong thơ, nhịp điệu là kết quả hoà phối âm thanh được

tạo ra từ sự ngắt nhịp. Nhịp điệu chỉ cách thức nhất định khi phát âm hay còn

gọi là sự ngắt nhịp. Cho đến nay, ngắt nhịp trong thơ có thể phân thành hai loại

là ngắt nhịp cú pháp và ngắt nhịp tâm lí. Nhịp thơ gắn kết tình cảm, cảm xúc,

là những ngân vang trong tâm hồn nhà thơ. Các trạng thái xúc động, rung cảm,

cảm xúc... đều ảnh hưởng đến việc lựa chọn và tổ chức của câu thơ. Hai loại

nhịp này có khi hoà quyện vào nhau, có khi tách bạch tuỳ vào cấu trúc ngôn từ

của dòng thơ, thể thơ và cảm hứng của nhà thơ. Như vậy, nhịp thơ là cái được

nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kì, cánh quãng hoặc luân

phiên theo thời gian của những chỗ ngừng nghỉ, ngắt hơi trên những đơn vị cơ

bản như câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, thậm chí cả đoạn thơ. Yếu tố tạo nên nhịp

điệu là những chỗ ngừng nghỉ trong sự phân bố mau thưa theo sự chuyển định

của thể thơ hoặc theo sự đa dạng của cảm xúc, thi hứng. Nhịp thơ khác với nhịp

văn xuôi. Nhịp thơ không hoàn toàn trùng với nhịp cú pháp. Trong một số thể

thơ cách luật, ngắt nhịp bị chi phối bởi yếu tố tâm lý và cấu trúc âm điệu. Cách

ngắt nhịp, tạo nhịp trong thơ hết sức đa dạng, muôn màu muôn vẻ, tùy vào từng

bài thơ cụ thể. Nhịp trong thơ thể hiện bản sắc của từng nhà thơ, bộc lộ cá tính

thi ca rõ nét.

Ví dụ: Trong thơ lục bát, sự ngắt nhịp trước hết diễn ra dưới áp lực của

vần lưng và xu hướng tăng song tiết hoá của tiếng Việt. Vì vậy, trong thể thơ

này lúc nào cũng chứa một loại nhịp đặc thù là nhịp tâm lý. Nhịp này xuất hiện

khi bối cảnh không đủ sức cho nhịp lẻ tồn tại. Nhịp tâm lý có nguồn gốc từ sự

đồng hóa nhịp lẻ bởi tính nhịp nhàng của nhịp đôi trong dòng thơ và giữa các

cặp 6/8 với nhau. Nhịp chẵn 2/2/2; 2/2/2/2 và tiết tấu nhịp đôi đã hình thành từ

lâu và trở thành nét đặc trưng của tiếng Việt. Loại nhịp này dễ dàng tương hợp

với mỗi dòng thơ lục bát vốn có số tiếng chẵn. Tuy nhiên, không loại trừ nhịp

lẻ mặc dù loại nhịp này không có tính ưu thế vì người Việt vốn ưa cân đối, hài

15

hoà. Nếu nhịp lẻ có xuất hiện thì cũng ưu tiên nhịp lẻ cân đối 3/3, sau đó mới đến

các loại nhịp lẻ khác.

Trong thơ tự do, có những câu thơ rất gần gũi với văn xuôi song lại có

sức ngân vang rất lớn. Hiệu quả đó là do nhà thơ đã có ý cho vào đó một số âm

tiết làm cho câu thơ dài và trùng với đơn vị cú pháp của văn xuôi, làm cho

người đọc có cảm tưởng như đang bơi trên một dòng chảy không dứt của một

chuỗi ngôn từ đầy ấn tượng, câu thơ có sức ngân vang rất lớn. Theo tác giả Mai

Ngọc Chừ thì nhịp điệu là "tiền đề cho hiện tượng gieo vần" [6, tr.28]. Nhịp

điệu là kết quả hòa phối âm thanh, liên kết các yếu tố ngữ âm lại với nhau để

tạo ra nhạc tính, tạo ra sự trầm bổng trong thơ.

Như vậy, vần và nhịp là những đơn vị ngữ âm không thể thiếu trong

ngôn ngữ thi ca. Trong đó tuy vần và nhịp là hai hiện tượng khác nhau nhưng

chúng có mối quan hệ hữu cơ và tương hỗ lẫn nhau, cái này là tiền đề của cái

kia. Chúng bổ sung cho nhau tạo nên một bộ mặt hoàn chỉnh của những yếu tố

hình thức thơ ca.

a3. Về thanh điệu

Thanh điệu được thể hiện đồng thời với các âm vị khác trong âm tiết. Sự

thể hiện của chúng do đó ít nhiều chịu sự tác động của các âm vị cấu thành âm

tiết. Sự phân bố của các thanh điệu phải được xét trong mối tương quan với các

thành phần âm tiết.

Âm đầu kết hợp với phần vần lỏng lẻo, nó không tham gia vào việc bảo

đảm trường độ cố định của âm tiết. Ở những âm tiết bắt đầu bằng phụ âm hữu

thanh, đường nét điển hình cho mỗi thanh điệu nằm ở phần vần. Sự thể hiện và

do đó sự phân bố thanh điệu ít liên quan đến âm đầu.Âm đệm, ngoài âm vị zêrô

ra, tiếng Việt chỉ có một bán nguyên âm [-u -] đảm nhiệm thành phần này.

Cũng như âm đầu nó ít ảnh hưởng đến sự phân bố của các thanh điệu.

16

Âm chính kết hợp với âm cuối tạo nên âm hưởng cơ bản của âm tiết. Nếu

âm cuối là phụ âm tắc - vô thanh thì sự thể hiện âm điệu bị hạn chế, vì một

phần trường độ của âm tiết về cuối là một khoảng im lặng. Những thanh điệu

nào mà đường nét âm điệu đòi hỏi phải có một thời gian thích đáng mới thể

hiện được tính đặc thù của mình, thì không thể nào xuất hiện trong điều kiện

như thế được.

Nếu âm cuối là âm mũi, bán nguyên âm hay âm vị zêrô thì đường nét âm

điệu đặc trưng cho từng thanh điệu có điều kiện thể hiện được đầy đủ. Rõ ràng

là sự phân bố của các thanh phụ thuộc nhiều vào thành phần âm cuối.

Thanh không dấu, thanh huyền có đường nét âm điệu bằng phẳng.

Đường nét này yêu cầu có một trường độ nhất định mới bộc lộ được tính chất

bằng phẳng của chúng. Do đó hai thanh này không bao giờ được phân bố trong

các âm tiết có âm cuối vô thanh.

Thanh sắc và thanh nặng có đường nét không bằng phẳng nhưng đơn

giản - một – trái với các thanh ngã, hỏi. trong tư thế đối lập “đổi hướng - không

đổi hướng” về đường nét của âm điệu, nếu như một vế đã được xác định rõ nét

ở thanh ngã và thanh hỏi, tức là đường nét đổi hướng của hai thanh được thể

hiện đầy đủ, thì vế kia không cần thiết phải được minh xác hoàn toàn trong

cách thể hiện nữa. Nghĩa là tính chất một hướng của âm điệu ở các thanh sắc,

nặng không cần phải bộc lộ một cách chi tiết trong cách phát âm kéo dài. Vì

vậy, hai thanh sắc nặng có thể được phân bố ngay cả trong những âm tiết có âm

cuối tắc – vô thanh /p, t, k/.

b. Về ngữ nghĩa

Thơ là một loại hình nghệ thuật đặc thù. Ngôn ngữ thơ là một phương

diện hình thức góp phần đặc biệt quan trọng làm nên phong cách, diện mạo của

thơ. Vì vậy, ngôn từ khi đưa vào thơ đều đã được sự lựa chọn của tác giả.

17

Từ ngữ khi đi vào thơ hoạt động rất đa dạng, linh hoạt và biến hoá. Văn

xuôi không hạn chế số lượng âm tiết, từ ngữ, câu chữ, còn trong thơ, tuỳ theo

từng thể thơ mà ngôn ngữ có những cấu trúc nhất định. Khi đi vào thơ, do áp

lực của cấu trúc và ngữ nghĩa, ngôn từ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen,

nghĩa gốc, nghĩa ban đầu của nó mà được xác lập những nghĩa mới tinh tế, đa

dạng hơn nhiều. Chính vì thế, mỗi từ ngữ trong thơ chứa đựng sức mạnh tiềm

tàng, ẩn chứa những thông điệp thẩm mĩ tinh tế, sâu sắc. Vì vậy, ngữ nghĩa

trong thơ phong phú hơn nhiều so với ngữ nghĩa trong văn xuôi và trong giao

tiếp hàng ngày. Trong thơ mỗi đơn vị ngôn từ đều chứa tất cả mọi giá trị sáng

tạo mang tính nghệ thuật ngoài giá trị ý niệm chung của ngôn từ.

Dù nhịp điệu đóng vai trò quan trọng trong thơ song một mình nó không

thể tạo nên giá trị bài thơ. Ngữ nghĩa và ngữ âm là hai mặt cơ bản để cấu thành

tác phẩm thi ca. Điều kì diệu của ngôn từ trong thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ vừa

gọi tên sự vật vừa gợi những liên tưởng khiến người đọc phát hiện ra những nét

tiềm tàng mà trong giao tiếp hàng ngày không có được. Đó là sức mạnh của

ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Ngôn ngữ thơ là

ngôn ngữ khơi gợi và thực hiện chức năng thẩm mỹ. Các đơn vị ngôn ngữ

trong bài thơ phải được lựa chọn sắp xếp theo những cách thức nhất định của

từng nhà thơ. Hiệu quả biểu đạt theo nguyên tắc ý tại ngôn ngoại là mục đích

muôn đời của thi ca. Cho nên, khi nghiên cứu ngôn ngữ thi ca ta phải chỉ ra

được các phương thức tạo lập những đơn vị ngôn ngữ có hiệu quả biểu đạt cao,

tức là có giá trị tu từ. Đặc trưng ngữ nghĩa này tạo cho ngôn ngữ thơ một sức

cuốn hút kỳ lạ đối với người đọc, người nghe. Bởi đến với thơ, chúng ta không

chỉ tiếp nhận bằng mắt, bằng tai mà bằng cả tình cảm, cảm xúc, bằng trí tưởng

tượng, liên tưởng và bằng điệu tâm hồn. Điều đó làm cho ngôn ngữ thơ không

chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn đóng vai trò tiếng nói nội tâm đồng điệu.

Trong quá trình vận động của ngôn ngữ thơ, cái biểu hiện và cái được biểu hiện

đã xâm nhập chuyển hoá vào nhau tạo nên cái khoảng không ngữ nghĩa vô

cùng cho thi ca.

18

c. Về ngữ pháp

Nếu như Phan Ngọc từng cho rằng: "Thơ là một tổ chức ngôn ngữ hết

sức quái đản" [26, tr.18], thì sự “quái đản” đó trước hết thể hiện rõ trong bình

diện ngữ pháp của ngôn ngữ thi ca.

Đầu tiên, đó là sự phân chia ranh giới các dòng thơ. Có người quan niệm

mỗi dòng thơ tương ứng với một câu thơ nhưng trong thực tế ranh giới giữa câu

thơ và dòng thơ không hoàn toàn trùng nhau. Có những câu thơ bao gồm nhiều

dòng thơ, có dòng thơ lại bao gồm nhiều câu thơ. Các thành phần trong dòng,

trong câu hay bị đảo lộn trật tự. Các từ nhiều lúc không sắp xếp theo trật tự

bình thường và điều này khác với văn xuôi. Đặc điểm này được thể hiện rất rõ

trong thơ ca hiện đại ở hiện tượng câu vắt dòng.

Cấu trúc trong ngôn ngữ thơ thường không tuân theo quy tắc bắt buộc và

chặt chẽ như câu trong văn xuôi và ngữ pháp thông dụng. Do vậy, nhà thơ có

quyền sử dụng những kiểu câu như đảo ngữ, tách biệt. Câu vắt dòng, câu trùng

điệp... mà không làm ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận văn bản. Mặt khác,

chính nó lại mở ra những giá trị mới, ý nghĩa mới cho ngôn ngữ thi ca. Chính

sự quái đản về cú pháp của ngôn ngữ thơ giúp nhà thơ diễn đạt được những lớp

nghĩa phức tạp, tinh tế vô cùng của sự vật trong sự hữu hạn của câu chữ và tạo

nên phong cách của từng nhà thơ.

Tóm lại, qua ba cấp độ về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp, ta thấy ngôn

ngữ thơ ca là ngôn ngữ nghệ thuật đặc thù, nó không chỉ là sản phẩm thể hiện

tài năng, sáng tạo của tác giả mà còn là đối tượng không kém phần lý thú của

người đồng sáng tạo. Với đặc trưng nghệ thuật ấy, ngôn ngữ thơ ca có khả năng

vô tận trong việc khám phá, miêu tả những trạng thái tinh tế, bí ẩn của thế giới

tâm hồn con người.

1.1.3. Các khái niệm về nghĩa, trường từ vựng, thể, vần, nhịp , dòng,

khổ, đoạn, tiêu đề và biểu tượng

19

1.1.3.1. Khái niệm “nghĩa”

Khái niệm về nghĩa là một trong những khái niệm phức tạp và khó có câu

trả lời thống nhất trong ngôn ngữ học hiện nay. Có quan niệm cho rằng nghĩa là

khái niệm tồn tại gắn với từ ở trạng thái tĩnh, trạng thái hệ thống, nhưng cũng có

quan điểm cho rằng nghĩa bao gồm cả hai trạng thái - tĩnh và động…

Theo Từ điển tiếng Việt thì “nghĩa” có hai cách hiểu: “1. Nội dung diễn

đạt của một kí hiệu, đặc biệt của kí hiệu ngôn ngữ: giải nghĩa từ; tìm hiểu

nghĩa của câu ca dao. 2. Cái nội dung làm thành giá trị: điều đó cũng chẳng có

nghĩa gì; trở thành vô nghĩa”[29; tr 678].

Còn theo cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học giải thích về

nghĩa như sau:

“1. Sự phản ánh đối tượng của hiện thực (các hiện tượng các quan hệ,

phẩm chất, quá trình) vào trong nhận thức trở thành một yếu tố của ngôn ngữ

nhờ tạo nên mối quan hệ thường trực, liên tục với một chuỗi âm thanh nhất

định nhờ đó sự phản ánh hiện thực trong nhận thức được thể hiện thực hóa. Sự

phản ánh hiện thực này tham gia trong mặt nội dung trong quan hệ với mặt âm

thanh như là vỏ vật chất cần thiết không chỉ để biểu hiện nghĩa và thông báo

nó cho người khác, mà cần thiết cho chính sự hình thành, nảy sinh, tồn tại và

phát triển của nó”.

2. Toàn bộ các chức của toàn bộ các đơn vị ngôn ngữ; tất cả những điều

được các đơn vị ngôn ngữ này biểu hiện phản ánh là mặt nội dung của chúng.

Ví dụ: Nghĩa chuyển; nghĩa số lượng; nghĩa nguyên nhân”[21; tr 26].

Nghĩa của từ không thể là một thực thể độc lập với ngôn ngữ trong đó

tồn tại, mà chỉ là một khái niệm về sự vật khách quan được phản ánh vào trong

mặt ngôn ngữ. Mặt được biểu đạt, tức nghĩa của từ được xác định bởi những

mối quan hệ của chúng với những từ khác trong hệ thống. Nói cách khác, nghĩa

của từ là một tập hợp các nét khu biệt (còn gọi là nét nghĩa, hay nghĩa vị). Đó là

20

những tiêu chí mà tiếng nói giữ lại để nhận biết một loại đối tượng nào đó trong

những vật thể của hiện thực. Như vậy, nghĩa của từ là một cấu trúc có thể phân

xuất ra những yếu tố cấu tạo nhỏ nhất, giống như các nét khu biệt trong âm vị

học. Ví dụ: Nghĩa của từ anh trong tiếng Việt gồm các nghĩa vị: “đàn ông”,

“sinh trước”,”trong quan hệ gia đình với người cùng thế hệ:…v.v

Trong cuốn 777 khái niệm ngôn ngữ học của tác giả Nguyễn Thiện Giáp

quan niệm về nghĩa như sau:

“ Nghĩa của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của

từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là

hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó hiển thị cái gì” [12; tr 102].

Tác giả Đỗ Hữu Châu khẳng định, trước hết, khi nói đến nghĩa là nói đến

nghĩa của một cái gì đó đã biết, đã tiếp nhận. Dùng thuật ngữ cua F.de.

Saussure và rộng hơn cách hiểu thông thường, cái biểu đạt không chỉ là những

vật cảm tính như vỏ ngữ âm của một từ, một câu, một hình vẽ, màu sắc mà còn

có thể là những hiện tượng trong cuộc sống, những hiện tượng vật chất, những

hiện tượng tinh thần, một hành động, một việc làm, kể cả một cách thức nói

năng, thậm chí còn có thể là một ý nghĩa của một câu đã biết (nội dung câu hỏi,

nội dung lời thanh minh…). Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, có thể dùng thuật ngữ

“ngoại biểu” thay cho thuật ngữ “cái biểu đạt” của F. de. Saussure.

Như vậy, có thể hiểu về nghĩa theo quan niệm rộng là toàn bộ nội dung,

thông tin mà người nói/viết muốn truyền đạt thong qua một đơn vị ngôn ngữ

nào đó và bằng một cách thức nhất định

Qúa trình hình thành nghĩa của từ như sau: Sự vật, hiện tượng trong thực

tế khách quan phản ánh vào trong tư duy của con người thành khái niệm (về sự

vật, hiện tượng). Các khái niệm đó đi vào hệ thống ngôn ngữ, được ngôn ngữ

hóa, trở thành nghĩa của từ.

1.1.3.2. Khái niệm “trường từ vựng”

21

Trường từ vựng là một lĩnh vực nghiên cứu từ vựng học xuất hiện từ

những năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Lí thuyết này bắt nguồn từ những tiền đề

duy tâm của trường phái W. Humboldt và phần nào từ những tư tưởng của

F.de Sausure về tính cấu trúc của ngôn ngữ. Tư tưởng cơ bản của lí thuyết này

là khảo sát từ vựng một cách hệ thống.

Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Saussure đã chỉ ra “Giá trị

của bất cứ yếu tố nào cũng do những yếu tố xung quanh quy định” [30; tr 224]

và “Phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những

yếu tố chứa đựng” [30; tr 220]. Người có công lao đưa lý thuyết trường vào

ngôn ngữ học là hai nhà ngôn ngữ học người Đức J. Trier và L. Weisgerber.

Theo Trier, “Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở trong trường, nhờ những

quan hệ của nó với các từ khác cũng thuộc trường ấy. Trong hệ thống, tất cả

chỉ nhận được ý nghĩa qua cái toàn thể. Có nghĩa là từ của ngôn ngữ nào đó

không phải là đại diện tách biệt của ý nghĩa, ngược lại mỗi một từ có ý nghĩa

chỉ là vì có các từ khác liên hệ trực tiếp với nó”(dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp,

[11; tr 110]).

Ở Việt Nam, người đầu tiên áp dụng lý thuyết trường vào nghiên cứu từ

vựng tiếng Việt là tác giả Đỗ Hữu Châu. Khi định nghĩa về trường, ông cho

rằng: “Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị từ vựng căn cứ vào một nét

đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa” [3; tr 35]. Dựa theo quan điểm của F. de

Saussure về hai dạng quan hệ là quan hệ ngang và quan hệ dọc, tác giả đã phân

chia thành hai loại trường nghĩa là trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến

tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến). Từ hai loại trường nghĩa

đó, tác giả lại phân chia trường nghĩa dọc thành trường biểu vật và trường biểu

niệm rồi đến trường tuyến tính và trường liên tưởng. Phân biệt trường từ vựng

và trường nghĩa, tác giả Nguyễn Thiện Giáp quan niệm: “Trường nghĩa là

phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn nhau về ý nghĩa”; còn “Trường

22

từ vựng của một trường nghĩa là tập hợp những từ ngữ có những đơn vị từ

vựng cơ sở cùng thuộc trường nghĩa này”[11; tr 437].

Theo Vũ Đức Nghiệu, Nguyễn Văn Hiệp: “Trường ngữ nghĩa (còn được

gọi là trường từ vựng) là những tiểu hệ thống, những tổ chức của từ vựng, gồm

những từ ngữ có quan hệ về nghĩa với nhau một cách có hệ thống” [25; tr 339].

Ví dụ: Các từ: bố, mẹ, ông, bà, cụ, kị, tổ, anh, chị, em, cô, dì, chú, bác, cậu, mợ,

cháu, chắt… lập thành trường ngữ nghĩa những từ chỉ quan hệ thân tộc.

Theo Đỗ Việt Hùng thì: “Các đơn vị từ vựng không tồn tại tách biệt, rời nhau

mà luôn có những mối quan hệ nhất định. Điều đó làm cho từ vựng không thuần túy

chỉ là tập hợp các từ và đơn vị tương đương với từ mà còn là một hệ thống với

những mối quan hệ nhất định. Một trong những mối quan hệ mà các nhà khoa học

thường tập trung làm rõ là quan hệ về nghĩa giữa các đơn vị từ vựng. Các từ ngữ

đồng nhất về nghĩa được tập trung thành các nhóm được gọi là trường nghĩa (hay

là trường từ vựng hoặc trường từ vựng – ngữ nghĩa)”[20; tr 10].

Cho đến nay, dường như chưa có một sự nhất trí cao về khái niệm

trường từ vựng – ngữ nghĩa. Vì vậy, dựa theo những quan niệm của các nhà

nghiên cứu đi trước, chúng tôi nhận thấy một cách hiểu chung về từ trường từ

vựng – ngữ nghĩa để làm cơ sở cho việc nghiên cứu: “Mỗi một tập hợp từ có

quan hệ với nhau về nghĩa (meaning) như vậy tạo thành một tiểu hệ thống ngữ

nghĩa được gọi là “trường từ vựng”, “trường nghĩa” hay “trường từ vựng -

ngữ nghĩa” [10; tr 38]. Ví dụ: Trường từ vựng chỉ bộ phận của con người bao

gồm các từ: đầu, mình, chân, tay, mắt, miệng, da, răng, lưỡi, tim, phổi, họng,

ruột, gan, dạ dày…Có thể hình dung khái niệm trường trường từ vựng - ngữ

nghĩa bằng một ví dụ sau đây: Trường ý niệm về người hay con người bao gồm

các nhóm từ chỉ các mối quan hệ về nghĩa với nó như: Về giới tính có các từ:

nam, nữ, gái, trai, đàn ông, đàn bà,...Về tuổi tác có các từ như: trẻ con, thiếu

nhi, nhi đồng, thanh niên, trung niên, phụ lão,... Về ngoại hình có các từ: cao,

thấp, béo, gầy, lùn, dong dỏng , què, cụt, khập khiễng, gù,... Về hoạt động có

23

các từ : đi, nói, cười, ăn, nằm, học, chơi, nhìn, ngó, ném, đá, chạy, nhảy, đứng,

ngồi,...Về nghề nghiệp có các từ: công nhân, nông nhân, giáo viên, học sinh, bác sĩ, nghệ sĩ, kỹ sư, thầy thuốc,...

Đến lượt mình, mỗi từ trong một nhó m từ như vây lai có thể kết hợp với những từ trong nhó m khác làm thành ma ̣ng lướ i các mố i quan hê ̣ gồ m nhiều tầng bâc rất phứ c tap. Ví dụ, trong tiểu trường về hoạt động của con người lại có thể phân loại thành các nhóm trường nhỏ hơn nữa như:

- Hoạt động chân tay như: đi, đứng, chạy, đạp, sút, tát, đấm, đá, ném, xô,

đẩy, kéo, giật, lôi, co, vác, phóng, lao, lia,...

- Hoạt động bằng miệng như: nói, hát, ho, kêu, gào, hét, la, mắng,

thổi, huýt,...

- Hoạt động trí óc như: nghĩ, nghĩ ngợi, tư duy, nghiền ngẫm, suy tư, suy

tưởng, suy luận, suy sét, suy đoán, phán xét, suy nghĩ, phán đoán,...

1.1.3.3. Khái niệm "thể thơ"

Sự lựa chọn thể loại văn học nói chung, thể thơ nói riêng đều xuất phát

từ sự đòi hỏi của nội dung từ cái nhìn của tác giả, nói cách khác là cái “tông,

tạng” trên trục lựa chọn của mỗi tác giả. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng:

"Mỗi thể loại có nội dung riêng của nó, nội dung ấy chỉ thích hợp với một quan

điểm nhìn nhất định". [26; tr 18]

Riêng với thơ, đến nay có thể kể đến các thể thơ như: thơ Đường luật,

thơ hai chữ, thơ ba chữ, thơ bốn chữ, thơ năm chữ, thơ lục bát, thơ sáu chữ,

thơ bảy chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi…. Mỗi thể loại đều có ưu thế và nhược

điểm riêng, có thể loại chỉ thịnh hành trong một giai đoạn nhất định, có thể loại

đi suốt hành trình thơ Việt, có thể loại đóng khung trong một hình thức cố

định, có những thể loại rất linh hoạt và có những biến tấu đa dạng. Sự phân

24

định các thể loại được tiến hành chủ yếu dựa trên các yếu tố: số tiếng của mỗi

dòng, số dòng thơ, cách phối thanh và hiệp vần.

- Một số khái niệm về các thể thơ nổi bật :

+ Thể thơ năm chữ: là một trong những thể thơ truyền thống của Việt

Nam. Trong công trình Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, Bùi Văn Nguyên

- Hà Minh Đức đã khẳng định: thể thơ này "phổ biến trong trong tục ngữ và hát

giặm Nghệ Tĩnh" [ 27, tr. 156]. Với số lượng mỗi dòng năm tiếng, thể thơ năm

chữ đã hình thành từ văn học dân gian, phổ biến là câu đố, vè, tục ngữ và hát

dặm Nghệ Tĩnh. Các bài hát giặm gồm nhiều khổ thơ năm chữ, theo nhịp 3/2, là

một thể ca gieo vần lưng và vần chân (chủ yếu là vần chân). Vần chân trong hát

giặm có hai chức năng: vần bằng liên kết với các câu trong một khổ với nhau. Từ

đầu thế kỉ XX, thể thơ này được khá nhiều nhà thơ sử dụng để sáng tác, tạo nên

nhiều thi phẩm có giá trị nghệ thuật.

+ Thể thơ bảy chữ và tám chữ: là hai thể thơ khá phổ biến trong tục ngữ,

ca dao, dân ca người Việt và một số truyện thơ Tày Nùng. Ở đây, cần phân biệt

thể thơ bảy chữ của Việt Nam với thể thơ thất ngôn của Trung Quốc. Khác với

thể thơ thất ngôn của Trung Quốc, thể thơ bảy chữ trong thơ Việt có những nét

riêng. Nếu nhịp của thể thơ thất ngôn là nhịp 4/3 thì nhịp trong thơ bảy chữ của

người Việt là nhịp 3/4. Nếu vần trong thơ thất ngôn thường là vần chân thì vần

trong thơ bảy chữ của người Việt có thể là vần liền, vần chân và vần lưng. Nếu

như lời thơ trong thơ cổ nói chung, thơ thất ngôn nói riêng là lời thơ "siêu cá

thể" - lời "vô chủ thể" (theo cách nói của Lixêvich) thì lời thơ trong thơ bảy

chữ của người Việt là lời thơ của một chủ thể sáng tạo có cá tính độc đáo. Thể

thơ bảy chữ và thể thơ tám chữ là hai thể thơ được sử dụng khá nhiều trong thơ

Việt hiện đại, đặc biệt là trong phong trào Thơ mới.

+ Thể thơ lục bát: là thể thơ truyền thống tiêu biểu của dân tộc, nói như

Trần Khánh Thành: "Thơ lục bát là nhịp thở giống nòi" (dẫn theo Bùi Thị Báu [1;

25

tr.1]). Thơ lục bát là một thể tổ hợp giữa một câu 6 chữ (câu lục) và một câu 8 chữ

(câu bát), mỗi bài thơ có số câu không hạn định, có bài chỉ có một cặp câu (gồm 2

câu thơ), có bài dài đến hàng trăm hàng nghìn câu. Âm luật của thể thơ lục bát

mang những đặc trưng của ngữ âm tiếng Việt, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày,

có sự luân phiên bằng trắc cân đối, trầm bổng hài hoà. Nhịp thơ đều đặn như hơi

thở, dễ đọc, dễ ngâm, dễ thuộc. Dòng lục và dòng bát kết hợp hài hoà với nhau cả

bằng vần chân và vần lưng, âm trước gọi âm sau, câu trước rủ câu sau, vừa quấn

quýt, vừa đưa đẩy trôi đi trong điệu nhạc uyển chuyển êm đềm.

Trong thơ ca dân gian, thể thơ lục bát được sử dụng phổ biến trong ca dao,

dân ca và các làn điệu tuồng, chèo, các bài hát vè, các tập diễn ca. Trong văn học

Việt Nam thế kỷ XVIII, thể thơ lục bát đạt đến đỉnh cao trong kiệt tác Truyện

Kiều của Nguyễn Du. Đã có những tác giả ghi dấu ấn của mình trong thể thơ này

như Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy… và trong dòng chảy lịch sử của thể

thơ dân tộc, Ma Trường Nguyên đã tiếp nối thế hệ các nhà thơ đi trước, tạo nên

những vần thơ lục bát vô cùng giản dị, tự nhiên và đằm thắm, lắng sâu và da

diết, gợi nhiều suy tư, trăn trở về tình yêu, cuộc sống và con người.

+ Thể thơ tự do: là thể thơ “không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất

định về số câu, số chữ, về niêm, luật, vần, đối…”[28; tr 318]. Nó phân biệt với

thơ văn xuôi ở chỗ “văn bản có phân dòng và xếp song song thành hàng, thành

khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể có vần” [28, tr.318-319]. Thơ tự do

xuất hiện ngay từ khi phong trào thơ Mới ra đời và ngày càng được khẳng định

vị trí của mình trong nền thơ hiện đại với nhiều tìm tòi mới. Thơ tự do là thể

thơ không tuân theo những quy tắc về cách luật cố định. Thơ tự do phóng túng

trong cách biểu đạt, nhịp điệu khoáng đạt được cấu tạo bằng những câu thơ tự

nhiên, đa dạng về tổ chức kết cấu, có số lượng từ ngữ co giãn linh hoạt. Về mặt

hình thức, thơ tự do có thể có vần nhưng nó không trở thành một quy tắc chặt

chẽ mà nhịp điệu lại nổi lên như một yếu tố chủ đạo. Nhịp điệu ở đây không do

26

các yếu tố cách luật xác định như trong thơ Đường, thơ lục bát…mà do những

quy tắc nội tại, cảm xúc của nhà thơ.

Sự phát triển của thơ tự do là để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thơ ca phải

đi sâu vào các đề tài rộng lớn của cuộc sống, bắt nhịp với hơi thở thời đại. Thơ

tự do không phải là hình thức định trước của các nhà thơ khi sáng tác, mà là

một hình thức định trước của các nhà thơ tìm đến với độ chín của tâm hồn, tìm

thấy ở đó sự diễn tả phù hợp nhất cho những trạng thái tinh vi của đời sống tinh

thần, tình cảm, cho những đối tượng mà mình tâm đắc nhất.

1.1.3.4. Khái niệm "vần thơ"

Khi bàn về thơ, không thể không nói tới vần, bởi vần là yếu tố khách

quan hiển nhiên và phổ biến trong bất cứ nền thơ ca của bất kỳ một dân tộc

nào. Thơ ca truyền thống có hệ thống thi pháp hết sức chặt chẽ, đòi hỏi người

làm thơ phải tuân thủ nghiêm ngặt. Trong đó, thơ phải có vần và gieo vần đúng

qui định là một trong những nguyên tắc có tính quy phạm cao của luật thơ. Do

đó, khi sáng tác các nhà thơ luôn ý thức điều ấy như một sự tự giác. Ngày nay,

thơ có sự cách tân về nhiều mặt, đặc biệt là có sự nới lỏng về thi pháp, vần

trong thơ cũng không chịu sự bó buộc như trước. Tuy vậy, vần vẫn là một yếu

tố quan trọng trong thơ. Trong lịch sử phát triển của thơ ca, các nhà nghiên cứu

đã chú ý khảo sát, tìm hiểu định nghĩa về vần, song cho đến nay vẫn chưa tìm

được tiếng nói thống nhất. Có thể dẫn ra một số ý kiến tiêu biểu của Dương

Quảng Hàm, các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học và Mai Ngọc Chừ.

Xét vần trong cấu trúc hình thức của câu thơ, bài thơ, nhà nghiên cứu

Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Vần (chữ Nho là Vận) là những tiếng thanh

âm hoà hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu thơ để hưởng ứng nhau” [15; tr.143].

Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: vần là “một phương

tiện tổ chức văn bản dựa trên cơ sở sự lặp lại không hoàn toàn các tiếng ở

27

những vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính hài hòa, liên kết của các

dòng thơ và giữa các dòng thơ” [16; tr. 192].

Từ góc độ ngôn ngữ học, Mai Ngọc Chừ trong công trình Vần thơ Việt

Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học đã định nghĩa về vần như sau: “Vần là sự

hòa âm, cộng hưởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định giữa hai từ

hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất

định như liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp” [5; tr.12].

Như vậy, dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung, các nhà

nghiên cứu đều thống nhất trên một số điểm: vần là sự hoà âm, cộng hưởng

theo những quy luật ngữ âm nhất định, có tác dụng liên kết dòng thơ, nhấn

mạnh sự ngừng nhịp, tạo nên tính hài hoà cho bài thơ.

Như vậy, có thể ví vần như là những chiếc cầu bắc qua các dòng thơ để

nối chúng lại với nhau thành từng đoạn, từng khổ, từng bài hoàn chỉnh. Nói

cách khác, vần là thứ chất liệu cổ truyền không thể thiếu trong cấu tạo và sử

dụng ngôn ngữ.

Trong thơ Việt Nam, đơn vị hiệp vần chính là âm tiết. Theo Mai Ngọc Chừ:

"Tất cả các yếu tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt đều tham gia vào việc tạo nên sự khác

biệt và hoà âm trong thơ. Sự kết hợp chặt chẽ giữa âm đầu, âm chính, âm cuối có

vai trò quyết định đến sự hoà âm của các tiếng hiệp vần với nhau" [5; tr 91].

Về vấn đề phân loại vần thơ, nhìn chung các tác giả đều thống nhất phân

loại vần theo 3 cách: theo vị trí các tiếng hiệp vần, theo mức độ hoà âm giữa

các tiếng hiệp vần và theo đường nét của thanh điệu trong các tiếng hiệp vần.

- Thơ Việt Nam có hai loại vần: vần chân và vần lưng.

- Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần trong thơ Việt Nam phân

biệt vần chính, vần thông và vần ép.

- Theo đường nét thanh điệu, trong các tiếng hiệp vần truyền thống thơ

Việt Nam phân biệt vần bằng, vần trắc.

28

1.1.3.5. Khái niệm "nhịp thơ"

Vần tuy là một yếu tố quan trọng trong thơ nhưng không bắt buộc phải

có trong mọi bài thơ, thể thơ nhất là trong thơ tự do. Trong khi đó sự tồn tại của

nhịp một yếu tố có mối liên hệ khăng khít với vần lại mang tính tất yếu, phổ

quát. Là một bộ môn nghệ thuật, cũng như âm nhạc văn học nói chung cũng

như thơ ca nói riêng bao giờ cũng quan tâm đến vấn đề nhịp điệu, bởi nếu như

không có nhịp điệu, người ta không thể nhận thức nổi, nhận thức đúng về nội

quy của một chuỗi âm thanh, chuỗi ngôn ngữ được phát ra. Tuy vậy cho đến

nay vần chưa có một định nghĩa thống nhất, phổ quát về nhịp nói chung và nhịp

thơ nói riêng. Có thể nêu lên một số cách hiểu về nhịp sau đây:

- Theo Gô gôn: “Nhịp, bản thân sự chuyển động của thơ, sự tổng hợp

giữa ngữ điệu, cách láy, chổ ngừng và cách đảo đó là một ma thuật có tác dụng

làm say mê và lôi cuốn mạnh mẽ với bạn đọc. Âm thanh mạnh mẽ, đa dạng của

thơ cũng như âm nhạc có tổ chức làm chấn động, khêu gợi tâm tình, không có

cái đó thì thơ có mang theo tư tưởng sâu sắc bao nhiêu cũng không dẫn đến ấn

tượng cần thiết” (dẫn theo Hồ Văn Hải, [14; tr 52]). Đưa ra định nghĩa này, Gô

gôn dường như đã đồng nhất nhịp (điệu) với nhạc điệu. Trong thực tế, nhịp

điệu và nhạc điệu là không đồng nhất. Nhịp chỉ là một nhân tố tạo nên nhạc

điệu. Nhịp điệu là phương tiện, còn nhạc điệu là hiệu quả của việc sử dụng các

phương tiện trong đó có nhịp điệu.

Theo Hà Minh Đức, nhịp chỉ là một yếu tố cấu thành nhịp điệu: “Nhịp

điệu trong một bài thơ không chỉ bộc lộ ở cách ngắt thành những đoạn tiết tấu

mà do nhiều nhân tố tạo thành. Thanh điệu của từ, thanh điệu của đoạn tiết tấu,

vần thơ… đều tham gia vào tổ chức nhịp điệu” [9, tr. 384].

Trong công trình Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, Bùi Văn

Nguyên và Hà Minh Đức cho rằng: "nhịp điệu là sự láy lại một cách đều đặn

29

và nhịp nhàng những đoạn tiết tấu của câu thờ mà sự sắp xếp những tiết tấu đó

lại do quy luật của thanh điệu chi phối. Nhịp rất linh hoạt và cơ động tạo thành

do sự phối hợp những quy luật riêng về âm thanh. Thể thơ là những hình thức

biểu hiện cụ thể và xác định của nhịp”... [27, Tr. 236].

Từ những ý kiến trên, có thể hiểu nhịp chỉ là một nhân tố của nhịp điệu.

Theo đó, nhịp thơ được hiểu là sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng hoặc

luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt trên những đơn vị văn

bản như câu thơ.

1.1.3.6. Khái niệm về "dòng thơ", "khổ thơ", "đoạn thơ"

- Về dòng thơ: Sự phân chia dòng thơ là đặc điểm quan trọng nhất của

ngôn ngữ thơ. Dòng thơ là đơn vị nhỏ nhất có giá trị độc lập trong tổ chức một

tác phẩm thơ. Câu trong văn xuôi được xác định tính từ chữ cái viết hoa đầu

dòng đến dấu chấm hết câu, còn trong thơ, cách xác định đó không hoàn toàn

chính xác. Thông thường, số âm tiết của dòng thơ phải bằng nhau (4 chữ, 5

chữ, 7 chữ…), như thế giữa dòng trên và dòng dưới sẽ có một sự cân xứng. Độ

dài của dòng thơ phụ thuộc vào đặc điểm ngôn ngữ để người nghe, người đọc

dễ dàng tiếp nhận.

- Về khổ thơ: Khổ thơ là sự phối hợp của các dòng thơ. Các khổ thơ

thường có số dòng tương ứng nhau (4 dòng hoặc 5 dòng) và số chữ tương đối

đều nhau. Khi trình bày thành văn bản, các khổ thơ trong một bài thơ đứng nối

tiếp nhau và được phân cách bằng môt khoảng thừa trắng. Trong những bài thơ

ngắn, khổ thơ có thể trùng với đoạn thơ. Về mặt hình thức, đoạn thơ cũng giống

như khổ thơ tức là cũng có sự hài hòa cân đối nào đó.

- Về đọan thơ: Thuật ngữ đoạn thơ được dùng để nói đến một số khổ thơ,

dòng thơ thể hiện một ý, một nội dung trọn vẹn. Bởi vậy, số lượng dòng thơ

trong một đoạn thơ không ổn định như trong một khổ thơ mà có thể ngắn dài

30

tùy theo ý thơ, mạch thơ… Sự phân chia đoạn vì thế thường theo ý nghĩa và

làm sáng tỏ ý nghĩa.

1.1.3.7. Khái niệm về "tiêu đề"

Theo Hồ Lê: “Tiêu đề là tên riêng một nội dung hoặc đặc trưng của một

văn bản, một tập hợp nhiều văn bản (như: tờ báo, tạp chí, kỉ yếu, tuyển tập…)

hoặc của một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy nó có tư cách của một đơn vị ngôn

giao” [23; tr 96].

Còn theo Trịnh Sâm thì: “Tiêu đề xuất hiện như những tên gọi khác

nhau, hàm chứa những thông tin ngắn gọn, nhằm giới thiệu các vấn đề của đời

sống, đến đông đảo công chúng.” [31; Tr 11]. Theo cách hiểu thông thường,

Trịnh Sâm cho rằng khái niệm tiêu đề còn ứng với những sở chỉ khác nhau:

"Đó là những dòng chữ ở bìa các cuốn sách, trên các biển hiệu buôn bán, trên

các tấm pano quảng cáo, là tên các tổ chức xã hội, cơ quan, xí nghiệp, trường

học, tên các nhãn hiệu hàng hóa, là tựa đề của nhữn bức tranh, ảnh, vở múa,

bức tượng, bản nhạc, vở kịch, cuốn phim, tít các bài báo, bài thơ, truyện ngắn,

tiểu phẩm, đầu đề của các tác phẩm…” [31; Tr 12].

Tiêu đề tác phẩm luôn giữ vai trò như một cột mốc đánh dấu từng chặng

đường thâm nhập cuộc sống của tác giả. Nếu Nguyễn Tuân không đi thực tế

Tây Bắc, với khát khao khám phá chất vàng mười của thiên nhiên và con người

nơi đây, chắc chắn không thể có những trang viết tài hoa độc đáo như trong tuỳ

bút “Sông Đà”. Tên gọi “Sông Đà” đã trở thành biểu tượng cho một chuyến đi,

nó nói lên bài học về kinh nghiệm sống, vốn sống đối với người sáng tác.

Nguyễn Huy Tưởng đi chiến dịch biên giới 1950, viết “Kí sự Cao Lạng”. Tô

Hoài đi cùng bộ đội tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc năm 1952, ông có

điều kiện thấu hiểu cuộc sống tủi nhục của đồng bào các dân tộc miền núi dưới

ách phong kiến thực dân, nên viết thành công“ Truyện Tây Bắc”. Khi Tố Hữu

giác ngộ lí tưởng cộng sản, ông có tập thơ “Từ ấy”. Những tên gọi như“Xiềng

31

xích”,“Ra trận”,“Giải phóng”, “Lên Tây Bắc”... đều phản ánh được từng

chặng đường hoạt động cách mạng của nhà thơ Tố Hữu. Nếu như, đối với các

nhà văn - chiến sĩ, tiêu đề thường in đậm cảm quan chính trị và nhiệt hứng yêu

nước cao đẹp; thì ngược lại, đối với sáng tác của nhà văn lãng mạn, ngay từ

tiêu đề, người đọc có thể nhận thấy rõ một vài gợi ý về cái “tháp ngà nghệ

thuật” do anh ta dựng nên. Tiêu đề, với tư cách yếu tố cận văn bản, xuất hiện

hầu hết ở các tác phẩm văn học viết. Việc đặt tiêu đề hay không đặt tiêu đề liên

hệ mật thiết với ý thức sáng tạo cá nhân, với ý thức sở hữu văn bản.

1.1.3.8. Khái niệm về "biểu tượng"

Biểu tượng là một khái niệm đang được đẩy mạnh nghiên cứu trên thế giới

bởi đến nay khái niệm biểu tượng vẫn là một lĩnh vực chứa đựng nhiều bí ẩn.

Trong Tiếng Anh biểu tượng được viết bằng chữ “symbol”. Thuật ngữ “symbol”

được bắt nguồn từ Hi Lạp “symbolon” có nghĩa là ký hiệu, lời nói, dấu hiệu,

triệu chứng…Cũng có thuyết cho rằng symbol bắt nguồn từ động từ Hi Lạp

là “symballo” có nghĩa là “ném vào một vị trí”, “liên kết”, “suy nghĩ về”…

Theo tiếng Hán: “biểu” có nghĩa là: “bày ra”, “trình bày”, “dấu hiệu”, để

người ta dễ nhận biết một điều gì đó. “Tượng” có nghĩa là “hình tượng”. Biểu

tượng là một hình tượng nào đó được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký

hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa mang tính trừu tượng.

Ở Việt Nam, có một số định nghĩa về biểu tượng như sau. Theo Từ điển

Tiếng Việt (GS Hoàng Phê chủ biên): "Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng, là

hình ảnh của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ

lại trong đầu óc khi tác dụng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt"[29; tr 17)].

Theo Từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng: "Biểu tượng là hình ảnh các vật

thể, cảnh tượng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tưởng tượng. Khác với

tri giác, biểu tượng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện

tại, thì biểu tượng liên quan đến quá khứ và tương lai"[6; tr 18].

32

Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn

Khắc Phi): “Biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận

thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau

khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt”[16; Tr 23].

Theo Nguyễn Văn Hậu: “Biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ - ký hiệu

tượng trưng của văn hoá. Nó được sáng tạo nhờ vào năng lực “tượng trưng

hoá” của con người, theo phương thức dùng hình ảnh này để bày tỏ ý nghĩa kia

nhằm để nhận thức và khám phá ra một giá trị trừu tượng nào đó. Biểu tượng

được xem là “tế bào” cuả văn hóa và là hạt nhân “di truyền xã hội” đầu tiên

của nhân loại. Nó quy định mọi hành vi ứng xử và giao tiếp của con người

đồng thời liên kết họ lại thành một cộng đồng riêng biệt”[17].

1.2. Nhà thơ Ma Trường Nguyên – cuộc đời, con người và sự nghiệp

sáng tác.

1.2.1. Tiểu sử

Ma Trường Nguyên là tên thật, cũng là bút danh của nhà thơ dân tộc

Tày sinh ngày 17/5/1944 tại xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

Ông sinh ra và lớn lên bên dòng Khuối Quỵnh nhỏ bé, nơi mà sau này, như nhà

thơ bộc bạch, đã in dấu khuôn mặt của những người thân yêu của ông, nơi ghi

dáng hình xứ sở, để rồi có những ảnh hưởng đến tâm hồn, đến quan niệm nghệ

thuật của ông. Quê hương ông cũng từng trải qua những biến dời của lịch sử, là

nơi cuộc đời Ma Trường Nguyên được đắm mình, trải nghiệm với từng việc làm,

từng sự kiện, cả những cái được và cái mất, cái vui, cái buồn của đồng bào dân

tộc ông trong những biến động chung của đất nước trong thế kỷ XX.

Ma Trường Nguyên hội tụ trong tâm hồn những giá trị văn hóa truyền

thống đặc sắc của dân tộc mình. Ngay từ nhỏ, nhà thơ đã được đắm mình trong

một không gian giàu nét văn hóa. Ông nội của nhà thơ là người thuộc rất nhiều

câu truyện cổ tích, những bài hát ví, hát lượn; cha là người hay chữ Nho, chữ

33

Nôm, Tày và hát lượn hay nhất vùng. Vùng núi quê hương ông có thiên nhiên

tươi đẹp, giàu truyền thống văn hóa và lịch sử. Chính môi trường gia đình, quê

hương đã khiến Ma Trường Nguyên có động lực mạnh mẽ để học tập, trau dồi

vốn sống, vốn văn hóa, rèn luyện bút lực, sức sáng tạo. Có thể nói tất thảy

những giá trị văn hóa độc đáo ấy đã góp phần tạo nên quan niệm thẩm mỹ của

ông. Chính tình yêu quê hương tha thiết, sự gắn bó máu thịt với dòng Khuối

Quỵnh chảy từ chân núi Hồng, thác nước Hin Lạn nước tuôn trắng xóa, những

đồi cọ, rừng sim,... đã làm nên cốt cách Ma Trường Nguyên thấm đậm trong

những dòng thơ giàu chất dân tộc miền núi nói chung và dân tộc Tày của ông

nói riêng.

Cuộc đời nhà thơ Ma Trường Nguyên với bao thăng trầm, gian nan, thử

thách, nhất là những năm tháng vật lộn giữa mưa bom, bão đạn... Sự từng trải,

vốn sống, vốn văn hoá Tày... đã hun đúc nên bề dày sáng tác. Với ông, cả hai

thể loại thơ và văn xuôi đều là sở trường. Những gì không thể hiện hết trong

tiểu thuyết, trong văn xuôi thì được thể hiện trong thơ. Những gì không nói

được trong thơ thì giãi bày trong tiểu thuyết. Thơ và văn xuôi đều là nơi gửi

gắm hành trình lịch sử, nơi bộc lộ trung thực cuộc sống đa sắc diện của mỗi con

người, mỗi cuộc đời. Hành trình đến với văn chương của Ma Trường Nguyên

có lẽ là duyên nợ. Môi trường văn hóa gia đình, quê hương, tố chất với văn thơ

trong con người Ma Trường Nguyên và sự động viên, cổ vũ của bạn bè, đồng

nghiệp đã giúp ông vững bước đi trên con đường văn chương đầy khó khăn,

thử thách.

1.2.2. Quá trình hoạt động văn học

Cuộc đời của ông trải qua nhiều gian nan, gắn liền với công cuộc đấu

tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng tỉnh Thái Nguyên. Sau thời gian tham gia

quân đội, phục vụ chiến đấu trong đơn vị pháo cao xạ, Ma Trường Nguyên làm

phóng viên báo Quân khu 3, là biên tập viên Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc. Sau

34

đó, Ma Trường Nguyên học Trường viết văn Nguyễn Du, ngôi trường đã đào

tạo cho nền văn học nước nhà những tác giả tài danh. Tốt nghiệp Trường Viết

văn Nguyễn Du, Ma Trường Nguyên về công tác tại tỉnh Thái Nguyên quê ông.

Trải qua quá trình công tác, nhà văn đã từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan

trọng trong các cơ quan tỉnh Thái Nguyên: Phó giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin

(1985), Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên (1998 - 2003), Bí

thư Đảng đoàn Hội Văn nghệ, Tổng biên tập báo Văn nghệ tỉnh Thái Nguyên.

Các tác phẩm chính đã xuất bản gồm có: Mát xanh rừng cọ (trường ca,

1985); Trái tim không ngủ (thơ, 1988); Mũi tên ám khói (tiểu thuyết,

1991); Gió hoang (tiểu thuyết, 1992); Tình xứ mây (tiểu thuyết, 1993); Trăng

yêu (tiểu thuyết, 1993); Bến đời (tiểu thuyết, 1995); Rễ người dài (tiểu thuyết,

1996); Tiếng lá rừng gọi đôi (thơ, 1996); Cơn dông thời niên thiếu (truyện,

1997); Mùa hoa hải đường (tiểu thuyết, 1998); Dòng suối tuổi thơ tôi (tự

truyện, 2004); Câu hát vắt qua vai (thơ, 2005); Cây nêu (thơ, 2006); Bắc cầu

vồng thăm nhau (thơ, 2007); Những người bạn (Ký, 2009); Hiện đại mà dân

tộc (Tiểu luận, 2010); Trên cánh đồng chữ nghĩa (Tiểu luận, 2011); Mở núi

(thơ, 2011); Các nhà văn nói về nghề (Tiểu luận, 2013). Một điều đáng chú ý ở

đời sống và đời viết của Ma Trường Nguyên là dù bận rộn với những công việc

từ hành chính đến quản lý thì ông vẫn dành phần lớn tâm lực cho văn chương,

viết như một sự trải nghiệm, viết như một sự thôi thúc trả món nợ cuộc đời như

ông đã từng chia sẻ.

Với những cố gắng vượt bậc trong văn nghiệp, các tác phẩm của Ma

Trường Nguyên đã được bạn đọc đón nhận và trân trọng. Ông cũng đã dành

được sự ghi nhận, đánh giá cao của xã hội. Sau Vi Hồng, Ma Trường Nguyên

là nhà văn thứ hai của tỉnh Thái Nguyên tham gia Hội Nhà văn Việt Nam.

Chặng đường lao động nghệ thuật miệt mài với những tìm tòi, sáng tạo đã đem

đến cho tác giả miền núi này nhiều giải thưởng cả ở trung ương và địa phương:

Giải thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt

35

Nam (tiểu thuyết Rễ người dài), Giải thưởng của Hội Văn học nghệ thuật các

dân tộc thiểu số Việt Nam (tập thơ Cây nêu và tập tiểu luận Hiện đại mà dân

tộc), 4 lần giải thưởng văn học 5 năm của tỉnh Thái Nguyên (giải C cho tập thơ

Trái tim không ngủ, giải B cho tiểu thuyết Mũi tên ám khói và Mùa hoa hải

đường, giải B cho tập thơ Câu hát vắt qua vai).

Tháng 6 năm 2009, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên đã tổ

chức cuộc hội thảo chuyên đề “Nhà văn Ma Trường Nguyên - Tác giả, tác

phẩm”. Tham dự Hội thảo gồm những người làm công tác nghiên cứu - phê

bình văn học (Lâm Tiến, Trần Văn Tác, Bùi Như Lan) và các nhà thơ, nhà văn

Thái Nguyên (Nguyễn Thúy Quỳnh, Mai Liễu, Nguyễn Đức Hạnh, Vũ Đình

Toàn, Hồ Thủy Giang.v.v...). Hội thảo đã khẳng định đóng góp của ngòi bút

Ma Trường Nguyên đối với thành tựu văn học tỉnh Thái Nguyên và tập trung

tìm hiểu sáng tác của Ma Trường Nguyên trên cả hai mảng: văn xuôi và thơ.

Các giải thưởng và sự vinh danh lớn lao mà nhà thơ Ma Trường Nguyên

giành được là một minh chứng cho một quá trình sáng tác không biết mệt mỏi

của ông. Nó cũng chính là những mốc son ghi nhận thành tựu và sự đóng góp

của ông đối với nền văn nghệ Thái Nguyên nói riêng và nền văn nghệ dân tộc

nói chung.

1.2.3. Thơ Ma Trường Nguyên

Ma Trường Nguyên bắt đầu sự nghiệp của mình bằng thơ. Bài thơ đầu

tiên là bài Cờ hồng được in trong tập thơ Tiếng trống đông - xuân, xuất bản

năm 1960, khi Ma Trường Nguyên mới 16 tuổi. Trong một thời gian dài từ năm

1960, khi ra mắt bài thơ đầu tiên, đến năm 1990, Ma Trường Nguyên chỉ sáng

tác thơ. Nhà thơ đã lần lượt công bố các tập thơ in chung: Đường qua kỉ niệm

(1975), Rừng sáng (1980), Quê núi (1987) và các tập thơ in riêng: Mát xanh

rừng cọ (1985), Trái tim không ngủ (1988).

36

Sau một thời gian dài tập trung vào viết tiểu thuyết và các tập truyện kí

Ma Trường Nguyên mới trở lại với thơ với lần lượt ba tập thơ: Câu hát vắt qua

vai (2005), Cây nêu (2006), Bắc cầu vồng thăm nhau (2007). Và gần đây nhất

là tập thơ Mở núi được tác giả viết vào năm 2011.

Tập thơ in riêng đầu tiên của Ma Trường Nguyên là tập trường ca Mát

xanh rừng cọ. Ông viết tại Trường Đại học Viết văn Nguyễn Du, năm 1982. Có

thể suy đoán Ma Trường Nguyên viết trường ca này trong "trào lưu" viết

trường ca sau 1975, khi Hữu Thỉnh viết Đường tới thành phố, Thanh Thảo

viết Dấu chân qua trảng cỏ, Anh Ngọc viết Sông Mê Kông bốn mặt, Nguyễn

Đức Mậu viết Trường ca sư đoàn... Trường ca Mát xanh rừng cọ gồm 3 phần,

31 đoạn, viết về một người con của quê hương miền núi, lớn lên dưới tán cọ

xanh, cầm súng lên đường đánh Mỹ rồi lại trở về xây dựng quê hương giàu đẹp.

Chưa thể nói Ma Trường Nguyên đã thành công với trường ca này, nhưng có

thể nhìn thấy rất rõ ảnh hưởng của lối kể chuyện trường thiên và giọng điệu

trần thuật, phô diễn ngôn từ gần với diễn xướng dân gian trong then Tày.

Bao nhiêu năm sống nơi thị thành mà Ma Trường Nguyên vẫn giữ

nguyên cái gốc gác của một người con dân tộc Tày. Thơ ông cũng vậy, cái gì

cũng như nắm được, sờ được và nhìn thấy được. Đặt thơ Ma Trường Nguyên

trong nền thơ hiện đại của dân tộc Tày sẽ thấy đâu đấy phảng phất chút hương

liệu dân tộc hài hòa và chìm đắm trong những câu hát then, hát lượn. Vì như

chúng ta đã biết, trong truyền thống văn hoá của người Tày, các dạng thức đầu

tiên của thơ trong hoạt động văn học là ca từ của hát lượn, hát then. Dân ca Tày

tự thân đã mang bóng dáng của thơ, cho dù các yếu tố như vần điệu, niêm luật

chưa phải là yêu cầu nghiêm ngặt. Những cách tổ chức ngôn ngữ của lượn,

then, phong slư, phuối pác cung cấp cho nhà thơ Tày các phương tiện để biểu

đạt. Nên không ngẫu nhiên mà về hình thức, việc sử dụng các thể thơ 5 chữ, 7

chữ giữ vai trò chủ đạo trong sáng tác của nhiều nhà thơ Tày. Đó là tiền đề rất

37

quan trọng để các nhà thơ người Tày nói chung, và Ma Trường Nguyên nói

riêng, kế thừa khi bắt nhịp với thơ Việt Nam hiện đại.

Cũng như nhiều nhà thơ người dân tộc Tày, Ma Trường Nguyên đã đi từ

hình thức của tổ chức ngôn ngữ trong diễn xướng dân gian đến với hình thức

hiện đại của thơ, bằng sự kế thừa có chọn lọc và linh hoạt. Tuy nhiên, sự kế

thừa trên đây còn có nguyên nhân từ một số đặc điểm phổ biến trong sự phát

triển của thơ Việt Nam nói chung trong thế kỷ XX.

Tóm lại, sự trưởng thành của thơ Ma Trường Nguyên cùng với chất rừng

núi, chất dân tộc đã được thể hiện thật sâu sắc không chỉ ở tả cảnh và tả người,

mà nó còn đậm đà trong tình cảm. Thơ Ma Trường Nguyên là sự kết hợp của

lối tự sự của diễn xướng dân gian với mạch trữ tình dàn trải, và sự kết hợp ấy

rất ổn định qua thời gian, hình thành một kiểu viết riêng của Ma Trường

Nguyên. Đó là điểm nổi bật của thơ ông.

1.3. Tiểu kết

Những vấn đề cơ bản về lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài đã được

trình bày cụ thể trong chương này, một là quan điểm về ngôn ngữ và phong cách

ngôn ngữ nghệ thuật, hai là các khái niệm có liên quan trực tiếp đến những nội

dung được trình bày trong luận văn như ngôn ngữ thơ, đặc trưng ngôn ngữ thơ,

nghĩa, trường từ vựng, thể, vần, nhịp, dòng, khổ, đoạn và tiêu đề, từ đó có thể có

được cái nhìn tổng quát và toàn diện nhất về bố cục và nội dung sẽ được trình

bày trong các chương tiếp theo. Cuối cùng là một số ý về cuộc đời và con người

của nhà thơ từ đó làm tiền đề để thấy được thơ Ma Trương Nguyên và cuộc đời

Ma Trường Nguyên thường gắn liền với nhau đặc biệt mặc dù một người Tày

chính gốc nhưng Ma Trường Nguyên viết nhiều và đa dạng về tiếng Việt, ông đã

kết hợp nhuần nhuyễn vốn sống, vốn văn hoá Tày với những cái nhìn đầy hiện

thực qua những năm tháng vật lộn giữa mưa bom, bão đạn và cuộc đời, từ đó

làm rõ hơn vai trò của một người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Những đặc

trưng này chính là cơ sở lí thuyết quan trọng để chúng tôi tìm hiểu về đặc điểm

ngôn ngữ trong thơ Ma Trường Nguyên.

38

Chương 2

ĐẶC ĐIỂM THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

XÉT VỀ MẶT HÌNH THỨC

2.1. Đặc điểm về thể thơ, vần, nhịp trong thơ Ma Trường Nguyên

2.1.1. Đặc điểm về thể thơ

2.1.1.1. Khái quát

Khảo sát các tập thơ của Ma Trường Nguyên, có thể thấy Ma Trường

Nguyên đã sử dụng rất nhiều thể thơ:4 chữ (tiếng), 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ,8 chữ, lục

bát, tự do. Có thể thấy rõ hơn về số lượng và thể loại trong thơ Ma Trường

Nguyên ở bảng dưới đây:

Bảng 2.1. Số lần xuất hiện các thể thơ

STT Thể loại Số lần xuất hiện

Tỉ lệ Số lượng

1 Tự do 33,5% 61

2 5 chữ 27,5% 50

3 Lục bát 21,4% 39

4 6 chữ 9,3% 17

5 7 và 8 chữ 5,5% 10

6 4 chữ 2,8% 5

Tổng cộng 100% 182

Trong luận văn này, chủ yếu đi vào trình bày đặc điểm của những thể thơ

nổi bật thường được Ma Trường Nguyên sử dụng.

2.1.1.2. Thể thơ tự do

Theo kết quả khảo sát, thống kê, trong 182 bài thơ thì có đến 61 bài thơ

được viết theo thể thơ tự do, chiếm tỉ lệ 33,5 %. Đây cũng là thể loại chiếm tỉ lệ

39

lớn nhất trong các sáng tác thơ của Ma Trường Nguyên. Điều này cho thấy thể

thơ tự do là một trong những thể thơ được tác giả thường xuyên sử dụng nhất

và đó cũng là xu thế chung trong thơ hiện đại. Các bài thơ tự do nổi bật trong

thơ Ma Trường Nguyên như: Cây nêu, Hoa trước ngày mới mọc trong tập thơ

Cây Nêu; Mở núi, Anh ra đi trong tập Mở núi; Câu hát vắt qua vai, Em thoảng

đển như người xin lửa trong tập Câu hát vắt qua vai…

Như chúng ta đã biết, thơ tự do là thể loại thơ phá vỡ các quy phạm cổ

điển để hình thành một qui phạm mới, đó là qui phạm phải theo mạch cảm xúc

gạt bỏ (chứ không chung sống) với những gì cản trở mạch cảm xúc.

Xuất hiện trong phong trào Thơ mới rồi chuyển mình qua hai cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ, cho đến nay, thơ tự do đã thực sự khẳng định

được vị trí của mình trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Thể thơ tự do là thể

thơ không bị hạn định về số lượng câu chữ, cũng không chịu sự ràng buộc, chi

phối của bất cứ quy tắc nào, do đó, thơ tự do có thể đi sát, phản ánh chân thực

cuộc sống muôn màu muôn vẻ, nó chuyển tải được hầu như toàn bộ tư tưởng,

tình cảm của nhà thơ, đồng thời thể hiện cái nhìn nghệ thuật mới của thơ.

Khảo sát 61 bài thơ viết theo thể thơ tự do của Ma Trường Nguyên, có thể

thấy chỉ có 10 bài thơ có câu dài, ngắn xen kẽ nhau. Phần lớn các bài thơ tự do

trong thơ Ma Trường Nguyên có số dòng, số chữ tương đối cân đối. Thơ tự do

Ma Trường Nguyên dường như chỉ là biến thể của thể thơ bốn chữ, năm chữ:

Cách thức biến thể trong thơ bốn chữ, năm chữ thường là cả rút gọn và

cả mở rộng số chữ trong câu.Ví dụ:

Trong bài Làn trăng, tác giả đã rút gọn số chữ trong thể bốn chữ thành thể

tự do với bốn chữ và hai chữ đan xen nhau.

Trăng soi đỉnh trời

Vằng vặc

40

Đêm trầm mặc

Chơi vơi

Man mác khí trời

Làn hơi

Quấn quyện

(Làn trăng)

Hay mở rộng số chữ với từ thơ bốn chữ thành thơ tư do với năm chữ, sáu chữ

Tim anh uống say

Bàn tay em chăm chút

Tìm lại câu nói em thôi

Đã kết trái rồi

(Câu nói kết trái)

Hoặc cách thức biến thể của thể thơ 7 chữ, 8 chữ như là mở rộng số chữ

trong bài thơ lên đến 9 chữ

Ngôi sao đêm lúc hiện lúc mờ

Anh đứng ngắm sao về phương ấy

Chốp đỉnh núi trên làn mây xốp nổi

Em ở phương nào? Vẫn chỗ gặp dừng chân

(Ngôi sao lạ)

Mặc dù về hình thức, thơ tự do của Ma Trường Nguyên khá gần với thơ

truyền thống, tuy nhiên, trong nhiều bài thơ, Ma Trường Nguyên đã thể hiện

những nỗ lực cách tân thơ của mình khi tác giả khai thác triệt để sự phong phú

linh hoạt của thể thơ này. Như đã nói ở trên, thể thơ tự do là thể thơ không bị

hạn định về số lượng câu chữ, cũng không chịu sự ràng buộc, chi phối của bất

cứ quy tắc nào. Và trong thơ Ma Trường Nguyên có những bài thơ mà tác giả

41

đã làm cho nó “tự do” hơn khi ông hầu như không sử dụng một loại dấu câu

nào trong toàn bài thơ. Ví dụ:

Đồi cao sương biếc cuộn

Mơn man gió sớm tìm

Nhịp đất dồi lên dập xuống

Ngủ lim dim

Đồi nhú mọng muồi sim

Tiếng chim lừng vang hót

Trong bài thơ trên, không thấy xuất hiện bất kì một dấu chấm câu nào.

Hình thức này tạo cho câu thơ, bài thơ độ mở nhất định để độc giả đồng sáng

tạo (bởi không có dấu chấm câu nên câu thơ, bài thơ ngừng nghỉ ở đâu là tuỳ

vào cảm nhận của người đọc).

Như vậy, có thể thấy, trong các tập thơ của mình, thể thơ tự do là thể thơ

được nhà thơ Ma Trường Nguyên sử dụng với tỉ lệ cao nhất. Nếu như các nhà

thơ cùng thời như Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo… hướng vào cách tân

thể thơ này một cách mạnh mẽ thì Ma Trường Nguyên lại có xu hướng làm cho

nó gần gũi hơn với thơ truyền thống. Tuy nhiên, không phải vì thế mà thơ tự do

trong các tập thơ của Ma Trường Nguyên xơ cứng. Trong nhiều bài thơ, Ma

Trường Nguyên vẫn làm cho thơ tự do linh hoạt hơn bằng nhiều cách như dung

hợp nhiều thể thơ khác nhau. Chính điều này đã góp phần quan trọng vào việc

kích thích sự đồng sáng tạo của người đọc và biểu hiện nội dung của tác phẩm.

2.1.1.3. Thể thơ 5 chữ

Trong các tập thơ của Ma Trường Nguyên, số lượng các bài thơ 5 chữ

rất phổ biến có đến 50/182 bài chiếm tỉ lệ 27,5%, đứng thứ 2 trong tất cả các

thể loại (chỉ sau thơ tự do). Thể thơ năm chữ của nhà thơ Ma Trường Nguyên

42

tiếp thu một cách sáng tạo âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát của hát giặm. Xen kẽ

nhịp nhàng, nhuần nhuyễn, tự nhiên nhịp thơ 2/3, 3/2 để nhấn mạnh, tạo ấn

tượng, thể hiện cảm xúc hoài niệm, đằm thắm, thiết tha một cách chân thực

mộc mạc,đầy sức sáng tạo, cụ thể ở những bài như: Bắc cầu vồng thăm nhau,

màu hoa soi tím trong tập “Bắc cầu vồng thăm nhau”; Quả còn gieo lửa dậy,

Biệt nhau về trong tập “Mở núi”; Mặt suối, Gặp tiễn xuân đi trong tập “Câu hát

vắt qua vai”. Ví dụ:

Đón em về bản núi

Đi tết thăm người thân

Ngã ba rừng mở hội

Người đón người đón xuân

(Quả còn gieo lửa dậy)

Thể thơ 5 chữ là thể thơ rất gần gũi với đồng dao, dễ đọc, dễ nhớ. Khi sử

dụng thể thơ này, Ma Trường Nguyên thường viết về chủ đề tình yêu như một

sự bày tỏ thẳng thẳn một cách trực tiếp:

Em đã về bên anh

Như trời xanh trở lại

Núi khát gặp suối lành

Dưới mùa xuân hoa trái

(Bên nhau như sông núi)

Nhịp thơ 2/3, 3/2 đều đặn,nhẹ nhàng nhưng dễ cuốn hút, phong cách thơ

tự nhiên, gần gũi nhưng cũng rất chân thật, đã mang lại cho thể thơ 5 chữ của

nhà thơ Ma Trường Nguyên một phong cách rất riêng biệt, cuốn hút và có sức

hấp dẫn với người đọc.

43

2.1.1.4. Thể thơ lục bát

Khảo sát các tập thơ của Ma Trường Nguyên , Có thể thấy số lượng các

bài thơ lục bát là 39/182 bài (chiếm 21,4 %). Trong tương quan với số lượng

những thể thơ khác trong các tập thơ của tác giả thì có thể khẳng định,tỉ lệ thơ

lục bát trong thơ Ma Trường Nguyên khá lớn. Điều đó chứng tỏ, nhịp điệu êm

đềm của thể thơ dân tộc vẫn luôn đồng hành cùng nhà thơ trên hành trình sáng

tạo nghệ thuật.

Thơ lục bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản sắc và phong vị quê hương.

Thơ lục bát của Ma Trường Nguyên cũng không nằm ngoài ngoại lệ ấy, chủ đề về

cảnh sắc quê hương đất nước, sự lao động miệt mài của nhân dân là những nguồn

cảm hứng chính thường xuất hiện trong thơ lục bát của Ma Trường Nguyên. Ví dụ:

Con về đường núi đèo De

Bên này Rục Rã bên kia Tân Trào

Thác Khuôn nước đổ ào ào

Chim reo trong lá xôn xao núi Hồng

(Mùa xuân trên đèo De)

Điều đáng chú ý là có những bài thơ lục bát chỉ với 14 câu thơ nhưng đã

có đến 7 thành ngữ, quán ngữ được tác giả sử dụng khá linh hoạt :

Thức khuya dậy sớm làm thơ

Như người cấy lúa tra ngô ngoài đồng

Câu thơ viết ở trong phòng

Cũng đẫm mưa ướt gió đông lệ thường

Cũng là một nắng hai sương

Đội trời chân chạp gai vương dốc đồi

44

Mùa màng nhờ đất sinh sôi

Vần thơ như trái tim người sản sinh

Thất thu là chuyện thường tình

Cứ gieo lại gặt tự mình quanh năm

Không vay vẫn kiếp nợ nần

“Kéo cày trả nợ” ái ân suốt đời

Như nông dân đứng giữa trời

Gánh mưa vác gió…vẫn cười làm thơ.

(Người đi cày trên cánh đồng lặng im)

Các thành ngữ,quán ngữ như: “đội trời đạp đất”, “thức khuya dậy sớm”,

“một nắng hai sương”, “kéo cày trả nợ”, “gánh mưa vác gió”, “cứ gieo lại

gặt”, “mưa ướt gió đông”… chứng tỏ nhà thơ đã áp dụng nhuần nhuyễn các

phương thức truyền thống vào thơ lục bát của mình. Điều đó càng tôn thêm vẻ

đẹp đậm đà bản sắc dân tộc trong thơ lục bát của Ma Trường Nguyên

Bên cạnh việc tái hiện cảnh sắc, không gian của quê hương, Ma Trường

Nguyên còn sử dụng thể thơ lục bát để viết về những kỉ niệm, cảm xúc của thời

quá vãng.

Đã từng làm báo chiến tranh

Bom rơi đạn nổ tung hoành hiểm nguy

Chiến trường tiếng gọi ra đi

Ngọn bút – cây súng quản gì hi sinh

(Nhà báo – Chiến sĩ)

45

Cũng có đôi khi, âm điệu nhẹ nhành, êm ả của thơ lục bát trở thành điểm

tựa để Ma Trường Nguyên lắng lại, tìm về hồi ức của một thời đã qua:

Đi tìm nhau – nửa tâm hồn

Không nhau thăm thẳm cô đơn nổi chìm

Mình tôi không thể thành duyên

Mình tôi không thể làm nên ái tình

(Đi tìm)

Như vậy có thể thấy rằng, thể thơ lục bát được Ma Trường Nguyên sử

dụng một cách tự nhiên, giản dị để khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc,

không gian của quê hương đất Việt cũng như gửi gắm những kỷ niệm, những

hồi ức đầy cảm xúc của một thời đã qua. Và, dưới những vần thơ lục bát êm

đềm, người đọc vẫn có thể nhận thấy một hồn thơ luôn trăn trở, suy tư về cuộc

đời, giọng thơ vì thế mà lắng đọng, thiết tha. Đó là điểm riêng của thơ lục bát

Ma Trường Nguyên.

2.1.1.5. Thể thơ 7 chữ, 8 chữ

Khảo sát các tác phẩm được viết theo thể thơ 7 chữ và thể thơ 8 chữ

trong thơ Ma Trường Nguyên, có thể hiểu hơn về thể loại này thông qua bảng

thống kê dưới đây:

Bảng 2.2. Bảng phân loại thể thơ 7 chữ, 8 chữ

STT Thể loại Số lần xuất hiện

Số lượng Tỉ lệ

1 7 chữ 4 40%

2 8 chữ 1 10%

3 7 đến 8 chữ 5 50%

Tổng số 10 100%

46

Hầu hết các bài thơ sáng tác theo hai thể thơ này không dài. Theo

Nguyễn Phan Cảnh: “Cái mạnh của thơ 7 chữ là nét hàn lâm", "cái mạnh của

thơ 8 chữ là chất hoành tráng" [2, tr.150]. Thật vậy, trong các tập thơ của Ma

Trường Nguyên mỗi bài thơ viết theo thể 7 chữ, 8 chữ có dung lượng không

nhiều, chỉ có khoảng 10/182 bài được sáng tác theo thể thơ này, chiếm 5,5%,

nhưng cũng như thể 5 chữ, Ma Trường Nguyên đã gửi gắm vào tác phẩm của

mình những hoài niệm, những suy tư, trăn trở, sự chiêm nghiệm qua những câu

thơ đầy tính triết lý. Ví dụ:

Nuôi thân không đủ lại nuôi con

Tám giọt máu tươi thật vuông tròn

Kiếm ăn từng bữa no kề đói

Đàn con thơ dại tựa chim non

(Ông tôi)

Cũng có những lúc, thể thơ 7 chữ, 8 chữ được Ma Trường Nguyên sử

dụng để viết nên những câu thơ trữ tình đầy cảm xúc.

Em biết nhà thơ hay lãng mạn

Muốn yêu lại sợ chẳng chung tình

Anh bảo : có em đang độc chiếm

Còn sợ gì ai đứng vây quanh ?

(Sợ)

Trong công trình Ngôn ngữ thơ, khi nhấn mạnh vẻ đẹp của thể thơ 7 chữ,

8 chữ, Nguyễn Phan Cảnh cũng đưa ra hạn chế của hai thể thơ này. Tác giả cho

rằng, làm thơ 7 tiếng, "nếu yếu sức thì rơi vào vịnh", "nếu làm không khéo thì

thành ra tấu" [2, tr.151]. Trong các tập thơ của mình, Ma Trường Nguyên đã

vượt qua giới hạn của câu chữ để gửi gắm vào hai thể thơ này những nội dung

đầy cảm xúc, rất chân thực và khéo léo.

47

2.1.2. Đặc điểm về vần thơ

2.1.2.1. Khái quát về các loại vần trong thơ Ma Trường Nguyên

Khảo sát 182 bài thơ trong 6 tập thơ của nhà thơ Ma Trường Nguyên,

chúng tôi thống kê được 847 cặp vần. Như vậy, có thể thấy, số lượng vần trong

thơ Ma Trường Nguyên tương đối lớn. Sở dĩ có hiện tượng này là bởi các thể

thơ có vần như thể 5 chữ (tiếng), 6 chữ, 7 chữ, lục bát chiếm tỉ lệ cao (66,5%).

Cùng với đó thể thơ tự do vẫn có hình thức gần gũi với thơ truyền thống nên

vần vẫn là yếu tố quan trọng của chỉnh thể bài thơ. Trong một chừng mực nhất

định, số lượng vần thơ là minh chứng rõ nhất cho thấy sự giản dị, quen thuộc

và gần gũi với thơ ca truyền thống của thơ Ma Trường Nguyên. Ví dụ trong

bảng dưới đây:

Bảng 2.3. Vần trong các thể thơ

STT Thể loại Ví dụ

Nụ cười em bén

Ánh mắt em vây 1 Bốn chữ Anh trong con kén

Em buộc ngất ngây

Anh nhón chân lặng phắc

Lên đường em hẹn thương

2 Năm chữ Gặp chim chào rúc rác

Rợp cánh bay bạt sương

Qủa táo lễ rằm tháng chín

Em vẫn để giành cho anh 3 Sáu chữ Rằm không đến hôm sau đến

En cười đôi mắt long lanh

Đường tàu điện ngầm như cung điện

Xuyên sâu lòng đất dưới đô thành 4 Bảy chữ Hai bên tàu chạy đi và đến

Ghế đợi dừng chân sạch mát lành

48

Nếu em nhìn đắm thực tình

Để anh cho ánh mắt mình đan thêu 5 Lục bát Một lần ánh mắt được yêu

Kết trong tim đập nhịp đều đặn nhau

Em thoáng đến rồi đi

Như khách miền rừng xin lửa 6 Tự do Anh là ngày đầu xuân tung cánh cửa

Đón em san ấm xẻ nồng

Cũng qua khảo sát, có thể thấy Ma Trường Nguyên sử dụng đa dạng các

loại vần. Điều này được thể hiện qua hai bảng thống kê dưới đây.

Bảng 2.4. Các loại vần xét theo vị trí gieo vần và mức độ hoà âm

Số lần xuất hiện

STT Loại vần

Số lượng Tỉ lệ

650 76,7% Vần chân Vị trí 1 197 23,3% gieo vần Vần lưng

847 100% Tổng cộng

693 81,8% Vần chính Mức độ 121 14,3% 2 Vần thông hòa âm 33 3,9% Vần ép

847 100% Tổng cộng

Có thể thấy Ma Trường Nguyên sử dụng vị trí gieo vần và mức độ hòa

âm có sự chênh lệnh khá rõ ràng, ở vị trí gieo vần ông sử dụng vần chân là chủ

yếu và tỉ lệ chiếm tới 76,7%,còn dưới góc độ mức độ hòa âm, vần chính là loại

vần được dùng nhiều nhất trong thơ Ma Trường Nguyên với 693 lần xuất hiện

và tỉ lệ lên tới 81,8%. Những số liệu này sẽ nói lên phần nào các đặc điểm về

những loại vần tiêu biểu nhất được nhà thơ sử dụng thường xuyên.

49

2.1.2.2. Vần trong thơ Ma Trường Nguyên xét về vị trí gieo vần

a. Vần chân

Xét về vị trí gieo vần, trong thơ Ma Trường Nguyên có cả vần chân và vần lưng. Trong đó, vần chân chiếm số lượng và tỉ lệ cao hơn (650 cặp vần chiếm 76.7 %). Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, vần chân trong thơ Ma Trường Nguyên được sử dụng tương đối linh hoạt. Trong đó, có cả vần chân liên tiếp (vần liền), vần chân giãn cách và vần ôm.

- Vần chân liên tiếp: là loại vần mà các âm tiết hiệp vần liên tiếp với nhau giữa các dòng thơ. Vần chân liên tiếp được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, với các mô hình: AA, AABA, AABB. Trong thơ Ma Trường Nguyên, có thể thấy, tác giả chủ yếu sử dụng vần theo mô hình AA và AABA. Ví dụ:

- Mô hình AA:

Mùa xuân đụng sàn rung giát mai

Rượu xuân chung uống cong vút cần dài

Vồng ngực em phập phồng nhip cồng dội

Khai mở hội xuân đất Mường ơi!

(Tiền em mừng tuổi xuân)

- Mô hình AABA:

Vót tre sớm tối rát bàn tay

Quanh quẩn xóm trên bản dưới này

Tay đục tay cưa nuôi lấy miệng

Nhà không cửa vách trống lung lay

Nuôi thân không đủ lại nuôi con

Tám giọt máu tươi thật vuông tròn

Kiếm ăn từng bữa no kề đói

Đàn con thơ dại tựa chim non

(Ông tôi)

50

Sử dụng vần chân liên tiếp trong thơ nhằm mang lại hiệu quả diễn đạt

trong các bài thơ, làm cho mạch thơ mạch cảm xúc được vận động một cách

liên tục, liền mạch.

- Vần chân giãn cách: là loại vần trong đó 2 âm tiết cuối bắt vần với

nhau và hai âm tiết cuối của dòng chẵn bắt vần với nhau. Các âm tiết hiệp vần

xen kẽ nhau liên tiếp tạo thành thế giãn cách với mô hình ABAB. Ví dụ:

Tiếng đàn tính bồng bềnh mây núi đá

Tay em nâng năm ngón dẻo thon

Má em đào rượu hồng men lá

Câu ‘‘lượn” ngân vắt vẻo đỉnh chon von

(Anh kịp về trảy hội Xuân Dương)

- Vần ôm: là loại vần phối hợp hai kiểu liên tiếp và giãn cách. Vần ôm xuất hiện trong thơ Ma Trường Nguyên không nhiều, nhưng hiệu quả của nó mang lại không nhỏ, loại vần này đã tạo nên sự cuộn chặt, hoà quyện dòng cảm xúc lại với nhau. Sự phân bổ của vần ôm trong thơ có nhiều kiểu khác nhau. Chẳng hạn, âm tiết cuối của dòng thứ nhất bắt vần với âm tiết cuối của dòng thơ cuối và âm tiết cuối của hai dòng giữa bắt vần với nhau theo mô hình ABBA. Ví dụ:

Em trần trụi nguyên hình

Em thiên thần ảo ảnh

Cũng từ em so sánh

Khi em còn trẻ và xinh

(Khi em còn trẻ và xinh)

b. Vần lưng

Vần lưng còn gọi là yêu vận, là vần mà tiếng hiệp vần nằm giữa dòng

thơ. Đây là một nét đặc sắc của vần thơ Việt Nam. Bùi Văn Nguyên và Hà

51

Minh Đức đã nhận xét “Thơ ta khác thơ Trung Quốc ở chỗ thiên về vần

lưng”[27, tr 27]. Vần lưng được thể hiện rõ trong thơ lục bát, tuy nhiên, nó

cũng được thể hiện rõ trong các thể thơ khác, tạo nên sự hài hòa và sức liên kết

chặt chẽ giữa các dòng thơ. Số lượng vần lưng trong thơ của thơ nữ Thái

Nguyên chỉ có trong các bài thơ lục bát.

Vần lưng gieo vần theo tiêu chí là âm tiết cuối của vế trên (câu lục) bắt vần

với âm tiết nằm ở giữa vế dưới (câu bát), thường là những âm tiết có vị trí chẵn.

So với vần chân, vần lưng (yên vận) trong thơ Ma Trường Nguyên có số

lượng ít hơn. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều kiểu dạng, nhiều mô hình. Vần lưng

trong thơ Ma Trường Nguyên chủ yếu được xác định trong các bài thơ làm theo

thể lục bát.

Qua khảo sát 39 bài thơ lục bát của Ma Trường Nguyên thì hiện tượng

gieo vần lưng trong thơ ông hầu như không nằm ngoài quy luật gieo vần của

thơ lục bát truyền thống. Ví dụ:

Dẫu xuân đến chẳng dám gần

Mặc hoa nở dậy trong tuần sắc hương

Mắt ngời ngợi đọng hạt sương

Lung linh luyến nắng vương vương lá cành

(Lối xuân)

Có thể nói rằng, nhờ những vần lưng níu nhau trực tiếp trong từng câu

thơ mà các bài thơ lục bát có sự nhịp nhàng, uyển chuyển, linh hoạt. Đồng thời

nó cũng gợi lên những âm điệu đặc biệt và góp phần làm tăng sức gợi cảm cho

tứ thơ.

2.1.2.3. Vần trong thơ Ma Trường Nguyên xét ở mức độ hòa âm.

Trong tiếng Việt, các âm tiết khi tham gia vào thơ luôn bị chi phối theo

một quy luật chung nhằm làm cho vần thơ đạt đến một vẻ đẹp nhất định. Quy

52

luật chung đó là: tất cả các yếu tố âm thanh trong một âm tiết được gieo vần

cần phải nằm trong mối liên hệ chế ước và bù đắp lên nhau tạo cho các âm tiết

gieo vần không giống hoàn toàn nhưng vẫn phải bảo đảm sự hoà âm.

Trong thơ Ma Trường Nguyên, xét theo mức độ hoà âm, có đủ các loại

vần: vần chính, vần thông và vần ép. Trong đó, vần chính chiếm số lượng cao

nhất (693 cặp vần, chiếm 81,8 %). Vần thông có số lượng cao thứ hai (121 cặp

vần, chiếm 14,3%). Vần ép có số lượng ít nhất (33 cặp, chiếm 3,9%). Đặc điểm

này tương tự như đặc điểm vần thơ truyền thống. Đây cũng là một minh chứng

nữa cho thấy sự giản dị, gần gũi của thơ Ma Trường Nguyên.

a. Vần chính

Xét về mặt hoà âm, vần chính là vần đạt hiệu quả cao nhất so với các vần

còn lại. Nó đòi hỏi hai âm tiết hiệp vần với nhau phải có sự đồng nhất những

phần chủ yếu tạo ra sự hoà âm cụ thể như sau:

- Đồng nhất ở đặc trưng truyền điệu (cùng bằng (B) hoặc cùng trắc (T))

- Đồng nhất ở thành phần âm cuối.

- Phụ âm đầu (nếu có) phải khác nhau.

Tuy nhiên ở các thành phần khác có thể đồng nhất nhưng không được

phép điệp vần, tối thiểu phải có sự khác nhau ở một trong ba thành phần âm

đầu, âm đêm (có/không), thanh điệu (trong phạm vi nhóm bằng hoặc trắc).

Ví dụ:

Vẫn còn xuân tiết tháng giêng

Biết em đến vẫn nhớ nghiêng cả lòng

Tương tư thấp thỏm đợi mong

Hẹn em rồi vẫn như trong bất ngờ

(Vẫn còn xuân)

53

Trong thơ Ma Trường Nguyên, vần chính xuất hiện tương đối nhiều và

có tác dụng quan trọng trong việc tạo nên sự hoà âm cho bài thơ.

b. Vần thông

Đây là loại vần được tạo nên bởi sự hoà phối âm tiết giữa các tiếng được

gieo vần, trong đó các âm tiết được phân bổ như sau:

- Âm chính: cùng một dòng hoặc cùng một độ mở

- Âm cuối: hoặc giống nhau hoặc cùng một nhóm

- Thanh điệu cùng thanh hoặc cùng truyền điệu

Ví dụ:

Núi ngây trong mây bọc

Con chim đang ăn mồi rơi xuống đất

Con sóc đang ăn chuyền chân bám vào cây

Con gà gô quên bới đất rừng dày

(Câu hát vắt qua vai)

Trong các câu thơ trên “cây” hiệp vần với “dày” âm chính cùng dòng

sau không tròn môi nhưng khác nhau độ mở. âm cuối

giống nhau.

Nhưng mà anh đến mọi nơi

Anh đi chẳng ai cản lối

Vào nhà ai cũng hồ hởi

Chẳng chê anh xấu lây người

(Người ta bảo…)

54

Cặp vần “ôi” - “ơi” trong hai âm tiết “lối” và “hởi” ” trong câu thơ trên

là vần thông: thanh điệu cùng truyền điệu và âm cuối đồng nhất nhưng âm chính

có sự khác biệt chút ít. Âm chính “ô”- “ơ” đều là nguyên âm tròn môi nhưng

khác nhau độ mở.

Cùng với vần chính, vần thông cũng là loại vần có vai trò quan trọng

trong việc hoà âm cho bài thơ, tạo tính nhạc cho thơ Ma Trường Nguyên.

c. Vần ép.

Vần ép là những trường hợp trong đó các cặp vần hiệp vần với nhau theo

những kiểu sau:

Thanh điệu và âm cuối phải phân bố hoàn toàn giống như ở vần thông tức

là hai yếu tố này hoặc là đồng nhất hoàn toàn hoặc đồng nhất đặc trưng nhất định.

Nguyên âm làm âm chính ở hai âm tiết hợp vần với nhau vừa không

đồng nhất đặc trưng âm sắc vừa không đặc trưng âm lượng, có nghĩa là đi ra

ngoài những ràng buộc về mặt ngữ âm vốn có ở loại vần thông.

Ví dụ:

Đứng trên Vạn lý trường thành

Cùng em chụp một tấm hình trên cao

(Đứng trên Vạn lý trường thành)

2.1.2.4. Vần trong thơ Ma Trường Nguyên xét về sự hòa phối thanh điệu

Trong các vần thơ, chức năng hòa phối của thanh điệu được biểu hiện ở

chỗ các âm tiết tham gia hiệp vần với nhau thành cặp bao giờ cũng mang hai

thanh cùng âm điệu, hoặc là cùng bằng, hoặc là cùng trắc. Hai âm tiết có thể

đồng nhất phần vần hoặc phần đoạn tính nhưng thanh điệu không phân bố theo

quy luật trên thì không thể bắt vần với nhau ( theo quan niệm từ xưa đến nay),

vì thế nó sẽ phá vỡ sự hoà âm.

55

Qua khảo sát 182 bài thơ của Ma Trường Nguyên, có thể thấy yếu tố

thanh điệu được phân bố cụ thể ở bảng sau:

Bảng 2.5. Các loại vần trong thơ Ma Trường Nguyên xét theo thanh điệu

Số lần xuất hiện

STT Đường nét Âm vực

Số lượng Tỉ lệ

232 37% Cao

112 17,9% Thấp 1 Bằng

283 45,1% Cao - Thấp

627 100% Tổng cộng

92 41,8% Cao

41 18,6% 2 Trắc Thấp

87 39,6% Cao - Thấp

220 100% Tổng cộng

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, trong những tập thơ này, tác giả

đã sử dụng cả hai loại thanh bằng và thanh trắc. Tuy nhiên số lượng hai loại

thanh này là khác nhau. Qua thống kê ta thấy thanh bằng có 627 thanh, chiếm

74 %; thanh trắc có 220 thanh, chiếm 26%. Như vậy, Ma Trường Nguyên đã sử

dụng thanh bằng nhiều hơn thanh trắc. Các âm tiết hiệp vần trong thơ Ma

Trường Nguyên thường mang hai thanh cùng bằng hoặc cùng trắc, tức là đồng

nhất ở một đặc trưng ngữ âm rất quan trọng của thanh điệu. Trong thơ ca truyền

thống, nguyên tắc cùng thanh điệu có thể coi là bất di bất dịch và Ma Trường

Nguyên đã có sự kế thừa truyền thống. Tuy nhiên, trong việc bố trí các thanh

điệu theo nguyên tắc cùng thanh điệu thì ông vừa phối thanh cùng thanh điệu

cùng âm vực và vừa phối thanh cùng thanh điệu khác âm vực, ví dụ như:

56

Bao câu muốn bày ra đấy

Líu lưỡi đi rồi khó đẩy

(Chỉ có lúc này thôi)

Ta thấy, “đấy” với “đẩy” cùng nhóm trắc nhưng khác âm vực, “đấy”

thuộc âm cao, “đẩy” thuộc âm vực thấp

Hay:

Sống đời có mẹ lâu nay

Mẹ là lửa ấm đêm dày đông sang

(Mẹ về trời tận nước cùng)

“nay” với “dày” cùng nhóm bằng nhưng khác nhau âm vực, "nay" âm

vực cao, “dày” âm vực thấp. Cách bố trí thanh điệu trong các cặp vần cùng

nhóm bằng hoặc nhóm trắc nhưng các thanh khác nhau về âm vực đã khai thác

sự đối lập trầm bổng của thanh điệu nhằm góp phần tạo âm hưởng cho câu thơ,

bài thơ.

2.1.2.5. Vai trò của vần trong thơ Ma Trường Nguyên

Hiệp vần theo cách hiểu truyền thống xưa là phải tuân thủ những nguyên

tắc nhất định. Qua khảo sát thơ Ma Trường Nguyên , chúng tôi nhận thấy vần

thơ của Ma Trường Nguyên vừa chặt chẽ vừa đa dạng. Một mặt, Ma Trường

Nguyên tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc hiệp vần, đảm bảo sự hoà âm ở

các vị trí thanh điệu, âm chính, âm cuối theo đúng quy luật ngữ âm. Tuy nhiên,

nếu dừng lại ở điểm này thì chưa thể thấy hết được điểm đặc trưng của vần

trong thơ Ma Trường Nguyên. Ngoài vai trò hoà phối ngữ âm, tạo âm hưởng

cho câu thơ, bài thơ, vần trong thơ Ma Trường Nguyên còn có tác dụng rất lớn

trong việc biểu hiện nội dung và cảm xúc.Thật vậy, trong bài thơ Đứng nghiêm

chào Bác lại lên đường, Ma Trường Nguyên sử dụng một loạt các thanh bằng

57

trong cùng một dòng thơ kết hợp với vần thơ có độ mở rộng(nguyên âm /a/,/e/),

âm vực cao. Hình thức này đã làm cho tạo cho người đọc cảm giác như được

nghe những lời tâm sự đầy trang nghiêm và kính trọng khi đứng trước quê

hương Bác Hồ.

Đường ra mặt trận sớm nay

Đến thăm nhà Bác đất này – làng Sen

Con đường đất đỏ thân quen

Đầm hoa sen nở tre nghiêng ngọn chào

(Đứng nghiêm chào Bác lại lên đường)

Trong tác phẩm Chỉ có lúc này thôi Ma Trường Nguyên lại sử dụng

nhiều vần trắc, tạo cho người đọc cảm giác về tâm trạng nhớ nhung, day dứt

đầy đủ cảm xúc,cung bậc của tình yêu.

Chỉ có trong lúc này thôi

Cái nhớ bù đầy xa vắng

Lấp đi khoảng sau đằng đẵng

Tóm lại, trong thơ Ma Trường Nguyên sử dụng đa dạng và linh hoạt các

loại vần. Vần thơ trong thơ Ma Trường Nguyen gần gũi với vần thơ truyền

thống, có tác dụng hoà phối ngữ âm, tạo tính nhạc cho bài thơ. Bên cạnh đó,

Ma Trường Nguyên luôn nỗ lực trong việc khai thác khả năng biểu hiện của

vần để gửi gắm vào đó cảm xúc của mình. Đó là đặc trưng của vần thơ trong

thơ Ma Trường Nguyên.

58

2.1.3. Đặc điểm về nhịp thơ

2.1.3.1. Khái quát về các loại nhịp trong thơ Ma Trường Nguyên

So với văn xuôi, nhịp điệu của thơ có tính tổ chức cao hơn hẳn, đến mức

nó trở thành yếu tố đặc trưng nhất của thơ. Bởi chức năng cơ bản của thơ là

biểu hiện, bộc lộ cảm xúc mà cảm xúc lại là một yếu tố khó nắm bắt nên nhịp

điệu trong thơ vừa phải đảm trách việc phân định lớp lang của dòng cảm xúc,

vừa thuyết minh cho chính dòng cảm xúc ấy. Trong tác phẩm thơ, câu thơ,

dòng thơ rất ít khi được tổ chức một cách đầy đặn như câu văn xuôi mà thường

được rút gọn ở mức tối thiểu nên nhịp điệu trở thành yếu tố tạo nên tính hàm

súc cho ngôn ngữ thơ, có thể hiểu hơn về nhịp trong thơ Ma Trường Nguyên

thông qua bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.6. Bảng thống kê một số loại nhịp thường gặp

trong thơ Ma Trường Nguyên

STT Nhịp Ví dụ

Em / trần trụi nguyên hình 1 1/4 Em / thiên thần ảo ảnh

Qua ngày / nhớ một ngày 2 2/3 Qua đêm / nhớ đêm trọn

Đầu nghiêng nghiêng / lắng gió 3 3/2 Tóc ngập ngừng / buông lay

Một mùa thu / cùng đến sáng trong 4 3/4 Hương cốm bay / một vùng gió mới

Tay đục tay cưa / nuôi lấy miệng 5 4/3 Nhà không cửa vách / trống lung lay

59

2.1.3.2. Cách tổ chức nhịp điệu trong thơ Ma Trường Nguyên

a. Nhịp trong thơ 5 chữ

Trong truyền thống, thể thơ 5 chữ thường được ngắt nhịp 3/2. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, nhịp thơ 5 chữ trong thơ Ma Trường Nguyên không chỉ là nhịp 3/2 mà còn xen kẽ cả nhịp 2/3, 1/4. Ví dụ:

Cây phượng già / bờ sông

Một mùa hè / hoa nở

Tôi tình cờ / gặp gỡ

Với em / dưới bóng hồng

Em / đắm nhìn sông trong

Hoa mọc / rung rinh nước

(Màu hoa soi tím)

Có khi trong một khổ thơ lại chỉ sử dụng một nhịp 2/3 để tạo cho người

đọc một cảm xúc dàn trải, đều đặn:

Vườn xuân / cây bóng tỏa

Lặng lẽ / lộc đâm chồi

Xạc xào / muôn cành lá

Làn gió / rung rinh cười

(Vườn xuân)

Như vậy, nhịp thơ 5 chữ trong thơ Ma Trường Nguyên đa dạng và linh

hoạt hơn so với nhịp thơ 5 chữ truyền thống. Chính điều này đã tạo cho thơ 5

chữ của Ma Trường Nguyên sự uyển chuyển trong việc chuyển tải những cảm

xúc tự nhiên nhất của nhân vật trữ tình.

b. Nhịp trong thơ 7 chữ, 8 chữ

Trong thơ Ma Trường Nguyên nhịp thơ 7 chữ, 8 chữ có sự kế thừa nhịp

4/3 truyền thống. Bên cạnh đó, cũng giống như thể thơ 5 chữ, Ma Trường

60

Nguyên đã tạo nên những loại nhịp mới nhằm diễn tả một cách tự nhiên nhất

mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhịp thơ 7 chữ và 8 chữ trong thơ Ma

Trường Nguyên vì thế mà rất đa dạng. Tùy vào cảm xúc và nội dung mà có thể

có cách ngắt nhịp khác nhau. Đó có thể là nhịp 3/ 4 hoặc 4/3 - nhịp điệu thường

thấy của thơ 7 chữ - nhịp điệu của tâm trạng và cảm xúc yên bình, lắng đọng:

Một mùa thu / cùng đến sáng trong

Hương cốm bay / một vùng gió mới

Thổi tóc em / vương vào tiếng nói

Câu thơ buồn / đọng mắt em rơi

(Như mùa thu cùng đến)

Như vậy, trên cái nhịp truyền thống 4/3 của thất ngôn đường luật, Ma Trường Nguyên đã tạo nên những cách ngắt nhịp độc đáo, đa dạng nhằm diễn tả chính xác nội dung câu thơ, làm cho ý thơ liền mạch, khúc chiết. Đồng thời, Ma Trường Nguyên cũng đã tổ chức nhịp câu thơ 7 chữ hết sức cân đối, tạo âm hưởng khoẻ khoắn, dứt khoát cho câu thơ, bài thơ.

c. Nhịp trong thơ lục bát

Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, nhịp thơ lục bát trong thơ Ma Trường Nguyên chủ yếu kế thừa nhịp của thơ lục bát truyền thống, nhịp chẵn 2/2/2 câu lục 2/2/2/2 câu bát hoặc 4/4 câu bát. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, nhịp điệu truyền thống của thể lục bát đã được Ma Trường Nguyên biến đổi để biểu đạt cảm xúc và nội dung của câu thơ, bài thơ.Chẳng hạn, trong bài thơ “Mùa xuân cùng hẹn Thần Sa” để diễn tả tấm lòng bồi hồi, xúc động khi đến thăm Thần Sa nhà thơ đã tạo cho câu thơ một nhip điệu bất thường:

Tấm lòng đỏ rực,/ hát ca

Gặp nắng xuân hết/ trăm hoa đỏ ngời

Thần sa – /nôi của loài người

Em nghe không? /Tiếng ru hời bay xa…

61

Nhìn chung, nhịp trong thơ lục bát của Ma Trường Nguyên vẫn là nhịp chẵn, phần lớn kế thừa nhịp lục bát truyền thống. Nhưng trên cái nền nhịp truyền thống ấy, cấu thơ lục bát của Ma Trường Nguyên đôi khi cũng có những biến đổi để biểu đạt cảm xúc và nội dung, tạo nên nét độc đáo trong thơ.

d. Nhịp trong thơ tự do

Thể thơ tự do là thể thơ không bị ràng buộc bởi niêm, luật, vận, đối,

không bị bó hẹp trong giới hạn câu chữ. Vì thế, cách ngắt nhịp của thơ tự do

cũng rất đa dạng. Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy nhịp ở các bài thơ tự

do không cố định mà nó có sự biến đổi đa dạng, điều này phù hợp với nội dung

khám phá và thể hiện các mặt đa dạng phức tạp của hiện thực đời sống và tâm

trạng con người.Ví dụ:

Cơn buồn đen/ bồ hóng 3/2

Nàng đi/ vứt lại/ sau lưng 2/2/2

Dập tắt /lửa lòng cháy bỏng 2/4

Quấn chặt/ rộp phồng 2/2

(Cơn buồn đen bồ hóng)

Trăng soi /đỉnh trời 2/2

Vằng vặc 2/0

Đên trầm mặc 3/0

Chơi vơi 2/0

(Làn trăng)

Như vậy có thể thấy rằng, nhịp thơ tự do của Ma Trường Nguyên hết sức

linh hoạt. Chỗ ngừng ngắt trong thơ tự do có thể ngắn, dài khác nhau, nhịp chẵn

lẻ cũng khác thường. Sự ngừng nhịp trong thơ tự do của ông không tuân thủ theo

một mô hình nào. Nhịp điệu như vậy đã giúp người đọc thoát khỏi cái khuôn sáo

nhịp điệu đều đặn, cố hữu. Cách tổ chức nhịp điệu thơ tự do cho phép nhà thơ

62

phá tung mọi ràng buộc, tìm kiếm những ngân vang mới lạ trong nhịp điệu cuộc

sống cộng hưởng với ngân vang trong nhịp điệu tâm hồn nhà thơ để tạo nên

những vần thơ lay động và ám ảnh hồn người.

2.2. Đặc điểm về cách tổ chức bài thơ

2.2.1. Đặc điểm về tiêu đề

Tiêu đề là yếu tố tinh thần cơ bản đầu tiên, cơ bản của nội dung thơ giúp

cho người đọc nhớ và phân biệt với những bài thơ khác Để làm rõ hơn số lượng

chữ trong trong tiêu đề có thể tham khảo qua bảng khảo sát dưới đây:

Bảng 2.7. Số lượng chữ trong tiêu đề thơ

STT Số lượng (bài) Số chữ Tỉ lệ

1 Một 9 5%

2 Hai đến ba 47 25,8%

3 Bốn đến năm 95 52,2%

4 Sáu đến bảy 27 14,8

5 Tám đến chín 4 2,2%

Tổng số 182 100%

Các bài thơ có tiêu đề một chữ như: Đồi, Tuyết, Đừng, Tiếc, Sợ, từ 2 đến 3

chữ: Chủ nhật, Mặt suối, Đi tìm… Từ 4 đến 5 chữ: Xuân này có nhau, Một ngày

cho em, Tiếng cười tuổi thanh xuân… Từ 6 đến 7 chữ: Em đẹp làm anh vươn tới,

Nghe thơ em viết cho người khác, Sao em không cứu anh ra?... Từ 8 đến 9 chữ

như: Người đi cày trên cánh đồng lặng im, Em cứ đến và em đừng có đến…

Điểm nổi bật ở tiêu đề của những bài thơ này chính là những tâm sự của

nhà thơ, rất dễ hiểu, được miêu tả, phản ánh phù hợp với nội dung. Một số bài

thơ nói về những kỉ niệm khi nhà thơ đặt chân đến một vùng đất mới, một chân

trời mới như: Tối Can-cu-ta, Đêm Ta-sken, Khách sạn Vốt Tốc, Đêm trăng

Nga, Đến Nam Ninh, Bến Thượng Hải...Một số bài lại có tiêu đề về quê hương,

về những địa danh thân quen của nhà thơ như: Mùa xuân trên đèo De, Hồ Núi

63

Cốc, nơi bắt đầu, Quê tôi xóm Đồng Chẩn… hoặc là những việc hết sức bình

dị, những công việc thường ngày của nhà thơ đã được khắc họa trong thơ ông:

Nói chuyện với con qua điện thoại, Tôi làm thợ ảnh, kết nạp Đảng trên quê

hương Đinh Bộ Lĩnh… tiêu đề khá rõ ràng cho nên người đọc có thể nghĩ ngay,

hình dung ngay đến nội dung bài thơ đó sẽ nói gì. Những tiêu đề như thế rất

hay và sát, đồng thời cũng nói lên tâm trạng của nhà thơ.

Tuy nhiên, không phải tiêu đề nào cũng có thể nói hết ý nghĩa mà tác giả

cần diễn đạt. Có một số tác phẩm chúng ta cần tìm hiểu kỹ toàn bài thơ mới

phát hiện ra ý nghĩa mà tiêu đề chứa đựng chuyển tải. Bài “Chân dung” thực

chất là nói về đôi mắt khi yêu, khi nhìn vào đôi mắt nhau sẽ hiện lên tình yêu,

bài “Làm mới lại anh” thực chất là nói về tình cảm của cô gái có thể khiến

chàng trai bừng tỉnh,làm mới lại mình.

Tóm lại, các tiêu đề đã thể hiện được những ý tưởng sáng tạo táo bạo của tác giả, ông đã đạt được thành công như mong muốn là gửi gắm được nhiều cảm xúc, suy tư, kín đáo tế nhị, khó diễn đạt trong một lời vào những tiêu đề đơn giản và ấn tượng.

2.2.2. Đặc điểm về dòng thơ

Qua khảo sát thơ Ma Trường Nguyên, có thể rút ra số lượng dòng trong

182 bài thơ qua bảng sau:

Bảng 2.8. Số lượng dòng trong thơ

Số lượng (bài) STT Số dòng thơ Tỉ lệ

1 Dưới 10 dòng 27 14,8%

2 Trên 10 dòng 45 24,7%

3 Trên 20 dòng 71 39%

4 Trên 30 dòng 28 15,4%

5 Trên 40 dòng 11 6,1%

Tổng số 182 100%

Từ khảo sát trên đây có thể thấy rằng Ma Trường Nguyên không bị ràng buộc về số dòng trong một bài thơ. Bài thơ có thể nhiều hay ít dòng là tùy

64

thuộc vào dung lượng nội dung và cấu tứ của từng bài thơ. Bài thơ dùng ít dòng nhất là 4 dòng có 14 bài đó là các bài thơ như: tiếc, sợ, liều, không, đừng…

Ví dụ:

Em biết nhà thơ hay lãng mạn

Muốn yêu lại sợ chẳng chung tình

Anh bảo: Có em đang độc chiếm

Còn sợ gì ai đứng vây quanh

(Sợ)

Những bài thơ nhiều dòng có đến 11 bài trên 40 dòng, tiêu biểu như: Hà

Nội trong nhịp đạp chân con, Người ta bảo, Theo đuổi hình bóng đẹp…

Ví dụ:

Từ nhịp đạp thầm của con khe khẽ

Ông bà ngã ngực xuyên bom đạn Mỹ

Mẹ vuốt mặt cùng ông bà cùng cha ra đi

Cầm lấy súng

Long đất quê hương máu giặc đầm đìa

...

(Hà Nội trong nhịp đạp chân con)

Điều dễ nhận ra trong thơ Ma Trường Nguyên chính là tuy số lượng

dòng thơ, câu thơ của một bài thơ khá nhiều nhưng nó không tạo ra cảm giác

thừa, không làm cho bài thơ trở nên rối rắm, khó hiểu. Ngược lại, những dòng

thơ điệp trùng liên tiếp một mặt vừa đảm bảo vần điệu, nhịp điệu cho thơ, mặt

khác lại có thể diễn tả được nhiều sự kiện, nhiều cảm xúc chất chứa, dồn nén.

Bên cạnh đó là những bài thơ có số dòng ít (4 dòng ) cũng thể hiện sự súc tích,

ngắn gọn, ý tại ngôn ngoại gợi sự hấp dẫn cho bài thơ.

65

2.2.3. Đặc điểm về khổ thơ, đoạn thơ

Qua khảo sát thơ Ma Trường Nguyên, có thể rút ra số lượng khổ thơ trong

182 bài qua bảng sau:

Bảng 2.9. Số lượng khổ thơ

STT Số khổ thơ Số lượng (bài) Tỉ lệ

1 1 khổ 25 13,7%

2 2 khổ 12 6,6%

3 3 khổ 25 13,7%

4 4 khổ 33 18,1%

5 5 khổ 29 15,9%

6 6 khổ 17 9,3%

7 7 khổ 14 7,7%

8 8 khổ 15 8,3%

9 9 khổ 5 2,8%

10 10 khổ 1 0,6%

11 11 khổ 3 1,7%

12 12 khổ 1 0,6%

13 13 khổ 1 0,6%

14 15 khổ 1 0,6%

Tổng số 182 100%

Như vậy, có thể thấy trong cấu trúc của một bài thơ thì nhà thơ Ma Trường

Nguyên thường xuyên sử dụng 4 khổ trong một bài là phổ biến hơn cả (33 bài,

18,1%), tiêu biểu như các bài: Lối xuân, Vườn xuân, Hũ rượu mắt em, Ác mộng…

Ví dụ:

Mùa xuân đã đến với anh

Dẫu hoa đua nở thắm cành từ lâu

66

Lời chào xuân vẫn ngọt ngào

Như xuân không biết phai màu là chi

...

(Lối xuân)

Các bài thơ dạng 5 khổ, 3 khổ, 1 khổ cũng chiếm số lượng khá lớn như các

bài: Đàn ông thời nay, Tôi làm thợ ảnh (1 khổ), Vùng cao, Sóng mặn (3 khổ) Mặt

suối, Dáng núi anh hùng (5 khổ)…

Ví dụ: Thơ một khổ như bài Em với thác Giềng:

Nụ cười em giữa núi rừng sơn cước

Để núi bớt hoang vu

Để anh bớt dại khờ

Tự nhiên như sông núi

Đặc biệt, có những bài có trên 10 khổ và các khổ có số lượng dòng thơ,

câu thơ khá dài tuy nhiên mạch cảm xúc không vì thế mất đi mà còn cộng

hưởng và thấm đẫm chất thơ Ma Trường Nguyên. Các bài thơ trên 10 khổ như:

Mở núi, Ông tôi,Tìm gốc cây xưa…

Về cách phân đoạn trong thơ Ma Trường Nguyên thì nhiều bài thơ của

thể thơ 5 chữ, bảy chữ, đặc biệt là thơ tự do có nhiều đoạn và mỗi đoạn gồm

nhiều câu (các câu dài ngắn khác nhau) trường hợp này khá phổ biến trong thơ

Ma Trường Nguyên:

Hoàng hôn tím buông xõa

Tiếng chim rơi đứt nối lặng im

Mặt đất êm lặng êm bước chân em

Sóng bước

...

(Làn tóc xõa)

67

Như vậy, đặc điểm về khổ thơ, đoạn thơ trong các tác phẩm thơ Ma

Trường Nguyên thường vẫn phân chia theo khổ, đoạn như các tác phẩm thơ

truyền thống. Tuy nhiên thông qua nhiều tác phẩm khác nhau có thể thấy cách

xây dựng khổ thơ, đoạn thơ trong thơ Ma Trường Nguyên cũng đã phần nhiều

cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại bởi khi cần xây dựng

những đoạn thơ, khổ thơ với cấu trúc hiện đại khác nhau thì nhà thơ vẫn có

những bài thơ mà những khổ, đoạn thơ đầy phá cách và mang hơi hướng hiện

đại hơn. Điều này cho thấy sự đa dạng trong phong cách và nghệ thuật sử dụng

ngôn từ trong thơ của Ma Trường Nguyên nói chung cũng như sự linh hoạt và

năng động trong bố cục của những khổ thơ, đoạn thơ nói riêng.

2.3. Tiểu kết

Những đặc điểm về hình thức trong thơ Ma Trường Nguyên đã được trình

bày trong chương này, trong đó có thể rút ra một số kết luận chính sau đây:

Một là về thể thơ, Ma Trường Nguyên đã sử dụng đa dạng các thể thơ như

4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, trường ca, lục bát, tự do. Trong đó, thể tự do là

thể thơ được nhà thơ thường xuyên sử dụng nhất. Tuy nhiên, đối với các thể thơ

khác Ma Trường Nguyên cũng cho thấy được sự cần mẫn của mình khi hầu hết

các thể loại nhà thơ đều có sự trải nghiệm và để lại dấu ấn riêng đối với từng thể

loại thơ

Hai la về vần thơ, Số lượng vần trong thơ Ma Trường Nguyên tương đối

lớn (847 cặp vần). Số lượng vần thơ cũng như cách sử dụng vần trong thơ của

Ma Trường Nguyên là minh chứng rõ nhất cho thấy sự giản dị, quen thuộc và

gần gũi với thơ truyền thống của thơ Ma Trường Nguyên.

Cuối cùng về cách tổ chức bài thơ có một số đặc điểm đó là:

- Về tiêu đề: Ma Trường Nguyên thường sử dụng tiêu đề từ 2 đến 5 âm

tiết (145/182 bài).

68

- Về dòng thơ: Qua khảo sát có thể thấy số lượng bài thơ có sự chênh

lệnh về số dòng là không nhiều, qua đó có thể thấy Ma Trường Nguyên hầu

như không bị ràng buộc về số dòng trong một bài thơ.

- Về khổ thơ, đoạn thơ: Ma Trường Nguyên thường vẫn phân chia theo

khổ, đoạn như các tác phẩm thơ truyền thống. Tuy nhiên thông qua nhiều tác

phẩm khác nhau có thể thấy cách xây dựng khổ thơ, đọan thơ trong thơ Ma

Trường Nguyên cũng đã phần nhiều cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa truyền

thống và hiện đại bởi khi cần xây dựng những đoạn thơ, khổ thơ với cấu trúc

hiện đại khác nhau thì nhà thơ vẫn có những bài thơ mà những khổ, đoạn thơ đầy

phá cách và mang hơi hướng hiện đại hơn.

69

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN XÉT VỀ MẶT

TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA

3.1. Một số trường từ vựng - ngữ nghĩa nổi bật

3.1.1. Quê hương và cảnh sắc thiên nhiên

3.1.1.1. Quê hương

Thông qua khảo sát, chúng tôi có được bảng về từ ngữ chỉ cảnh vật quê

hương như sau:

Bảng 3.1. Số lần xuất hiện của các từ ngữ trực tiếp

hoặc gián tiếp biểu thị cảnh vật quê hương

STT Từ ngữ Ví dụ Số lần

xuất

hiện

Vùng cao núi bọc mây trời 55 1 núi Núi trùm khăn bạc ngủ ngồi lim dim

Ngủ đêm với giấc của rừng 7 2 đồi Cọ xanh ôm xuống giữa lưng sườn đồi

Ngõ phố rạo rực xuân 6 3 ngõ Xôn xao mưa phùn rắc

Câu thơ anh một con thuyền 4 4 con thuyền Vẫn lao lướt tới tận miền em neo

Trên nương đồng trai gái 4 5 nương Hẹn mùa đầy xuân sang

Qua ngõ rừng em bước 6 nhà sàn 3 Lên cầu thang nhà sàn

70

Như ánh trăng tan vào mái rạ 7 mái rạ 3 Như hạt mưa xuân giăng mắc tóc ai thề

Xanh ngọn tre làng câu dân ca ai hát 8 ngọn tre 2 Vầng trăng bóng ngả la đà

Anh nói với em về cây nêu ngày tết 9 cây nêu 2 Trên bản nhà sàn dựng vút trước sân

Cối nước giã bên nương 10 cối nước 2 Ngập ngừng gạo lúa mới

Những câu hát nhỏ xinh chùm hoa khế 11 ao 1 Nở bên ao đàn cá đớp tung tăng

Trường làng tiếng trống điểm rung 12 trường làng 1 Núi ngồi thức dậy bỗng vùng chăn mây

Chợ đã tan hết buổi 13 chợ 1 Câu lượn đuổi phía sau

... ... ... ...

Là một người con của dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất núi rừng Tây Bắc, thơ Ma Trường Nguyên dường như vẫn giữ nguyên hồn của một người dân tộc. Điều này thể hiện rõ nhất ở tiêu đề của những tập thơ mà nhà thơ đã xuất bản: Mở núi, Câu hát vắt qua vai, Bắc cầu vồng thăm nhau, Mát xanh rừng cọ... Không chỉ có vậy ông còn thổi hồn vào những hình ảnh hết sức bình dị, từ hình ảnh con người đến hình ảnh cỏ cây, hoa lá hay những cảnh vật đơn giản, gần gũi... thông qua những hình ảnh như vậy, lối diễn đạt và thể hiện đầy cảm hứng về quê hương trong thơ ông đã được in dấu đậm nét trong lòng độc giả. Các bài thơ: Quả còn gieo lửa dậy, Mở núi, Quê tôi xóm Đồng Chẩn, Con về quê núi, Vùng cao, Mùa xuân trên đèo De, Anh kịp về trảy hội Xuân Dương... mang đầy đủ những đặc trưng của quê hương, của tình cảm đặc biệt mà nhà thơ dành cho mảnh đất nơi mình sinh ra và lớn lên vì thế chất thơ trong những bài thơ này đều mộc mạc, tình cảm và chứa đựng đầy đủ cái hồn của một người dân tộc.

71

Đặc biệt có những bài thơ có nhiều từ ngữ mang âm hưởng Tày, nhưng

thể hiện bằng ngôn ngữ Việt lại rất điêu luyện, không bị sa vào lạm dụng phía

bên này hay phía bên kia (của cách sử dụng ngôn từ). Như trong bài Mở núi đó

là việc thể hiện cái hồn của quê hương hết sức sâu đậm như sau:

Trai mường Báo nhớ gái mường Sao

Gái mường Sao thương trai mường Báo

Nhìn lên ngọn Pú Cấy cao ngật ngão

Nhờ gió khiêng lòng vượt thăm nhau

Hay trong bài thơ Vùng Cao cũng có đoạn:

Vùng cao núi bọc mây trời

Núi trùm khăn bạc ngủ ngồi lim dim

Râm ran tiếp nối lời chim

Chông chênh nhà gác nép chìm đêm trăng

Cảnh sắc quê hương, đặc biệt là cảnh sắc núi rừng luôn luôn là chủ đề

xoay quanh những vần thơ của Ma Trường Nguyên, từ đó tạo nên một phong

cách rất riêng, một chất giọng đặc biệt đối với quê hương của mình và những

hình ảnh bình dị, thân quen đó luôn luôn có sức hấp dẫn đối với người đọc.

3.1.1.2. Thiên nhiên

Thiên nhiên luôn là đề tài vô tận cho những sáng tạo trong thi ca. Các nhà

thơ, nhà văn nhất là các nhà thơ truyền thống rất coi trọng thiên nhiên và họ quan

niệm lấy cảnh ngự tình. Nhờ vào cảnh sắc của thiên nhiên họ bày tỏ cảm xúc của

mình dù là sự vui buồn, hạnh phúc hay cô độc... Lớp từ chỉ thiên nhiên không

chỉ gợi lên bức tranh về quê hương của thi nhân mà còn ít nhiều nhắc đến tình

yêu của tác giả gửi gắm vào từng trang thơ của mình. Để làm rõ hơn điều đó ta

có thể quan sát bảng dưới thống kê dưới đây.

72

Bảng 3.2. Số lần xuất hiện các từ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp biểu hiện

thiên nhiên trong thơ

Số lần

STT Từ ngữ Ví dụ xuất

hiện

Tìm về hoa dại trên đồi

Mất em rồi hoa cũng mất 1 hoa 56 Ở đâu, đời này mặt đất

Con người và giấc mơ hoa

Một mình đứng đợi ai 2 dòng sông 40 In bóng dòng sông vắng

Như ngọn gió chơi vơi 3 gió 21 Theo tháng ngày luân chuyển

Mà nắng dòng sông mở 4 nắng 20 Vào lòng người bâng khuâng

Mây bay lên núi 5 mây 19 Nắng bay xuống đồng

Trăng khuyết trăng lại tròn vằng vặc 6 trăng 16 Tình em có với cùng tuổi tác hằng đêm

Câu hát vắt qua vai dẻo sức

Anh liền mang câu hát đi ra 7 rừng 9 Xuyên thấu rừng già

Băng qua rừng trẻ

Cầm lấy súng 8 đất 8 Loang đất quê hương máu giặc đầm đìa

Anh ra thôn ngoài

Nhớ vùng ra ngõ 9 thác 7 Anh leo thác đổ

Nhớ tỏa ào ào

73

Ở phía trời em xa 10 cầu vồng 5 Bỗng cầu vồng xuất hiện

Một ngôi sao tít trời cao xa ngái 11 ngôi sao 4 Lẻ loi vệt sáng hoang mờ

Đón anh về thăm trường em chiều ngoại khóa 12 trời 3 Trời nắng vàng bỗng nhẹ rây mưa

Bất ngờ giữa cánh đồng xanh 13 đá 3 Chon von núi Đuổm như thành đá vươn

Em là tuyết long lanh núi 14 tuyết 2 Anh yêu anh nhớ khôn cùng

Đôi mắt em ngời ánh biếc 15 ngọn lửa 2 Đôi môi ngọn lửa cháy lên

Con thuyền chao khảo sóng 16 sóng 1 Nước dào dạt gió lên

... ... ... ...

Thiên nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên là đối tượng của những nỗi

niềm yêu thương da diết được nhà thơ gửi gắm vào từng câu chữ, thông qua

hình ảnh về thiên nhiên tác giả gợi mở một thế giới chứa đựng rất nhiều cảm

xúc chân thực và mộc mạc:

Em là tuyết long lanh núi

Anh yêu anh nhớ khôn cùng

Em đẹp cao sang quý phái

Là mây mềm mại không trung

(Tuyết)

Hay đôi khi hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông như một lời phản chiếu,

một cách miêu tả trực quan đầy thú vị về tâm hồn và tình cảm của nhà thơ:

74

Mặc cho núi đứng ngất ngây

Mặc cho chim rừng ngơ ngác

Mặc cho gà gô quên bới đất

Mặc cho sóc bám lưng chừng cây

Mặc cho sương rơi ngược lên mây

Không bằng anh lấy câu hát em về

Xây hạnh phúc

(Câu hát vắt qua vai)

Không chỉ phản ánh thiên nhiên qua cảm xúc về tâm hồn, Ma Trường Nguyên

với đặc trưng của một người con dân tộc Tày còn thể hiện những hình ảnh thiên

nhiên vùng rừng núi phía Bắc đầy sâu sắc thông qua vẻ đẹp rất đặc trưng của

thiên nhiên nơi đây:

Bất ngờ giữa cánh đồng xanh

Chon von núi Đuổm như thành đá vươn

Mái che mát cổng rợp đường

Đỉnh cao ba ngọn vút vòm trời trong

(Dáng núi anh hùng)

Cảm xúc về thiên nhiên trong thơ Ma Trường Nguyên rất đa dạng và

nhiều màu sắc, cảm hứng về thiên nhiên trong thơ ông gợi mở và thể hiện được

nhiều hình ảnh khác nhau, qua đó có thể thấy trường từ vựng về thiên nhiên

trong thơ ông mang đầy đủ phong cách thi ca Ma Trường Nguyên, vô cùng đặc

sắc và đa dạng, đó cũng chính là một trong những yếu tố tạo nên hình ảnh thơ

rất độc đáo của Ma Trường Nguyên.

75

3.1.2. Con người và những mối quan hệ xã hội

Thống kê cho thấy nhà thơ đã sử dụng rất nhiều lần các từ ngữ chỉ con

người và các mối quan hệ xã hội trong thơ ông. Có thể hình dung những điều

này qua bảng sau:

Bảng 3.3. Các từ chỉ con người và mối quan hệ xã hội

Số lần

xuất STT Từ ngữ Ví dụ

hiện

Lúc em đứng khi em ngồi 354 1 em Nhìn dáng bề nào cũng đẹp

Bao giờ cho được gần em

Anh sẽ ghé bờ vai mềm nói nhỏ 274 2 anh

Anh sẽ nói câu này rất khó Vẫn nhốt trong lòng chưa dám ló ra

Con đang học chữ của thầy 68 con 3 Nước nhà giặc Mỹ thả đầy đạn bọm

Trời đông u ám lạnh lùng 50 mẹ 4 Mẹ về trời tận nước cùng rồi ư

Cha đi công tác xa nhà 16 5 bố (cha) Lời cha dặn dưới tán hoa đồi chè

Chị thảnh thơi mà nước mắt em rơi

Người chị dâu lấy người anh trưởng họ 16 6 chị Em ngây thơ đi lại mặt cùng anh chị

Ngắt hoa dại dọc đường tặng chị

Ông tôi góa bụa sống lẻ loi 6 7 ông Tám đứa con thơ phận mồ côi

4 8 bà Bà tôi sớm chiều đi đào củ Giữa rừng sâu núi vắng hoang vu

76

Cho con học chữ đến khi 9 thầy 3 Chữ thầy học hết con thì mới thôi

Súng nhỏ, súng to, xe pháo,gạo mì... 10 chiến sĩ 3 Theo chiến sĩ đêm ngày đi cứu nước

Thấy lính địch rần rần trút xuống 12 địch 3 Những cánh quân khép chặt bốn bên

Nhưng bây giờ con như thế biết đâu thương 13 2 binh Là thương binh chắc gì...cô ấy lại...

Lúa đồng xanh biếc rì rào cô dân 14 1 quân Cô dân quân đứng canh đầu bờ đê

... ... ... ...

Ma Trường Nguyên là nhà thơ của núi rừng nhưng lại là người đa cảm,

với một mảnh hồn trong trẻo như Nguyễn Đức Thiện đã từng nhận xét: ‘‘Trong

Ma Trường Nguyên vẫn còn nguyên vẹn sự trẻ trung, trẻ trung và trong sáng,

nhất là khi viết những bài thơ về tình yêu. Không thấy sự ủ rũ, thất tình như

thường gặp mà ngay cả khi viết về thất tình, Ma Trường Nguyên cũng làm cho

nó trong sáng lên, tươi tắn lên’’[39]

Anh, em, ông, bà, con, thầy, mẹ... đã có một thế giới nhân vật rất đông

đảo trong thơ Ma Trường Nguyên, trong đó hai từ được tác giả sử dụng nhiều

nhất là anh (274 lần/34,6%) và em (354 lần/44,6%), ngay cả tiêu đề ta cũng bắt

gặp hình ảnh chứa đựng nhiều lần hai từ này: Anh muốn nói được câu này, bài

thơ đợi em, em cứ đến và em đừng có đến, em đẹp làm anh vươn tới... điều đó

chứng tỏ cảm hứng chủ đạo đối với trường nghĩa nhân vật trữ tình trong các tác

phẩm của Ma Trường Nguyên là về tình yêu, đó cũng là nguồn cảm hứng

xuyên suốt trong các tập thơ của ông.

Hình ảnh một chàng trai đa tình, đa cảm với một tình yêu thuần khiết,

luôn luôn khát khao, say đắm đã in dấu ấn đặc biệt với người đọc như:

77

Em đẹp làm anh mê mẩn/Đời này em sẽ của anh

Em đẹp làm anh khao khát/Suốt đời vươn tới thành anh

(Em đẹp làm anh vươn tới)

Do xác định được mối quan hệ giữa tình yêu và cuộc sống nên thơ tình

Ma Trường Nguyên luôn trong sáng, chân thật, rộng mở. Với những hình ảnh

bình thường, cụ thể, độc đáo, gần gũi, thân quen với người miền núi, thơ Ma

Trường Nguyên luôn có sức hấp dẫn riêng với người đọc, đặc biệt là thơ tình

của Ma Trường Nguyên.

Ngoài những hình ảnh về tình yêu,trong thơ Ma Trường Nguyên khi nhắc

đến các hình tượng nhân vật trữ tình còn có một số hình ảnh được tác giả khắc họa

sâu đậm như tình cảm với Bác, trong các bài: Một trăm năm, thưa Bác; Đứng

nghiêm chào Bác lại lên đường. Với Đảng: Kết nạp Đảng trên quê hương Đinh

Bộ Lĩnh, Dâng hoa trước tượng đài.Với gia đình: Ông tôi, Nhớ người anh họ,

Tiễn chị về, Hà Nội trong nhịp đạp chân con...

Trường nghĩa nhân vật trữ tình trong thơ Ma Trường Nguyên chiếm số

lượng lớn trong thơ ông, hình ảnh về các chủ thể được nhắc đến trong thơ Ma

Trường Nguyên rất phong phú và đa dạng, điều đó thể hiện một tâm hồn thơ tự do,

đa sắc và một nguồn cảm hứng dào dạt nhưng cũng rất tinh tế và chăm chút, Đó

cũng là điều đặc biệt mà thơ Ma Trường Nguyên mang đến.

3.1.3. Những vật dụng trong đời sống hàng ngày

Trong thơ Ma Trường Nguyên, hình ảnh đồ vật thường gắn liền với đời

sống, với những ví von trong tình cảm, với những biểu tượng bình dị và gần gũi

với con người, cụ thể thông qua bảng thống kê dưới đây ta có thể biết được rõ

hơn những biểu tượng đồ vật nào thường được Ma Trường Nguyên thường

xuyên sử dụng:

78

Bảng 3.4. Số lần xuất hiện các từ ngữ chỉ đồ vật trong thơ

STT Ví dụ Từ ngữ Số lần xuất hiện

Rung mành thoảng một làn hương 1 mành 7 Chợt đôi mắt gặp nhìn vương vấn nhìn

Ai gần kế gần nâng áo 2 áo 4 Cho ai tay nắm tay kề

Quần áo chàm cất đáy ba lô 3 ba lô 3 Kỷ niệm suốt quãng đời thơ trẻ

Núi buồn mây quấn khăn tang 4 khăn 3 Giọt sương lã chã lệ tràn trắng rơi

Hẹn một ngày nào chung mộng gối tình chăn 5 chăn 3 Anh ra đi cho hạnh phúc ngàn năm

Ông tôi đóng cối với đan lờ 6 lờ 3 Một đời hồn xác đã trói gô

Vào cối xay quay vòng số mệnh 7 cối 2 Gia tài không đủ góc lờ trơ

Hẹn một ngày nào chung mộng gối tình chăn 8 gối 2 Anh ra đi cho hạnh phúc ngàn năm

Rượu xuân em nâng rót 9 mâm 2 Người ngồi chật quanh mâm

Trai múa khèn chân xoay tít 10 ô 2 Gái xòe ô múa bằng hoa

Không bé như manh chiếu hẹp 11 chiếu 2 Ngoài chăn chẳng biết gì hơn

Đũa cầm lên đặt lại 12 đũa 1 Mắt nhìn mắt ngon say

Chày buông nắng giục loe hồi 13 chày 1 Tiếng chân thậm thịch tiếng cười râm ran

79

Giữa gian nhà Bác đứng đây 14 mũ 1 Nghiêm trang con đứng giơ tay mũ chào

... ... ... ...

Các từ ngữ chỉ đồ vật là những từ ngữ vô cùng phổ biến trong đời sống

hàng ngày tuy nhiên trong văn học cụ thể là thơ ca thì còn ít được quan tâm,

các từ ngữ chỉ đồ vật mang ý nghĩa về thế giới nhân tạo, về sản phẩm trí tuệ của

con người hay nói cách khác nếu tự nhiên bắt buộc chúng ta cũng như mọi sinh

vật khác trên mặt đất phải thích nghi để tồn tại, thì ‘‘đồ vật” chính là sản phẩm

của trí tuệ con người nhằm “tiện nghi hoá” đời sống, khắc phục hạn chế của

bản thân đồng thời hoá giải những khó khăn mà tự nhiên mang đến. Bởi vậy,

các đồ dùng, vật dụng liên quan đến đời sống của người dân có thể bộc lộ một

phần tính cách dân tộc, tư duy ngôn ngữ của con người.

Mặc dù trường từ vựng có yếu tố chỉ đồ vật chỉ chiếm số lượng khá nhỏ

so với các trường từ vựng khác , nhưng độ phức tạp thì không khác gì so với

toàn bộ hệ thống trường từ vựng mà nhà thơ đã sử dụng. Các từ ngữ chỉ đồ vật

trong thơ Ma Trường Nguyên trước hết không chỉ đơn thuần nói về đồ vật hay

các đặc tính của nó mà còn nói về tính cách của con người,các vấn đề xã

hội,cách ứng xử của con người trong đời sống xã hội.

Đặc biệt, có rất nhiều hình ảnh so sánh liên tưởng mà nhà thơ đã sử dụng

liên quan tới đồ vật, đó đều là những hình ảnh rất gần gũi với con người:

Núi buồn mây quấn khăn tang

Giọt sương lã chã lệ tràn trắng rơi

(Mẹ về trời tận nước cùng)

Trong quá trình thực hiện phép liên tưởng, so sánh, một đồ vật có

thể được mỗi nhà thơ khác nhau liên tưởng tới các đặc điểm, thuộc tính khác

80

nhau của một hay nhiều sự vật, hiện tượng của đời sống xã hội. Điều đó phản

ánh mức độ liên hệ gắn bó nhất định của đồ vật với thuộc tính nào đó của

chúng và đặc điểm nào đó của sự vật hiện tượng xã hội trong mối liên tưởng.

Và như vậy, khi một nhà thơ nào đó càng dùng nhiều liên tưởng cho một đồ vật

thì chứng tỏ sự hiểu biết của nhà thơ đó về đồ vật gắn với các sự vật, hiện

tượng trong xã hội là càng sâu sắc.

Ngoài các trường hợp từ ngữ chỉ đồ vật được liên tưởng hoặc mang ý

nghĩa tượng trưng thì trong thơ Ma Trường Nguyên các từ ngữ chỉ đồ vật với ý

nghĩa đơn thuần miêu tả vật dụng hàng ngày cũng khá phổ biến. Các đồ vật

được nhắc tới nhiều lần nhất chính là các đồ vật được liên tưởng nhiều nhất:

mành (7 lần), áo (4 lần), ba lô (3 lần)...

Cuối cùng, các trường từ vựng chỉ đồ vật này thông qua qua số lượng và

cách nhà thơ miêu tả bằng nhiều hình ảnh và các biện tu từ khác nhau đã chứng

tỏ óc quan sát tinh tế và nhạy cảm của nhà thơ cùng với đó là việc sử dụng các

trường từ vựng chỉ đồ vật như một vai trò quan trọng để chỉ ra những nét đặc

thù riêng về ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Việt Nam.

3.1.4. Chiến tranh và không khí chiến đấu trong những ngày gian khổ

Thông qua bảng thống kê dưới đây ta hình dung phần nào về những gì

tác giả muốn gửi gắm qua trường từ vựng chỉ chiến tranh.

Bảng 3.5. Số lần xuất hiện các từ ngữ chỉ chiến tranh trong thơ

Số lần

xuất STT Từ ngữ Ví dụ

hiện

Ông bà ngã ngực xuyên bom đạn Mỹ 16 1 đạn Mẹ vuốt mặt ông bà cùng cha ra đi

81

Cầm lấy súng 13 2 súng Loang đất quê hương máu giặc đầm đìa

Phía trước đạn nổ 13 3 bom Đằng sau bom vùi

Trong lòng mẹ mang giọt máu con người 7 4 giọt máu Mẹ lội suối leo đồi

Những loại pháo ta bỗng nổ liên hồi 4 5 pháo Các đơn vị bắn theo góc là, phương vị

Từng mũi tên chi chít dọc ngang 2 6 mũi tên Sư đoàn trưởng vạch trên bản đồ đường tiến

Lô cốt thứ hai đạn quét chéo xiên 2 7 lô cốt Ngán ngã xuống tay tiểu liên nắm chặt

Cái chết giặc gieo rung dập núi đồi 1 8 cái chết Trong bụng mẹ chân con đang đập gấp

Hướng về nơi sáng nổ ta đi

Súng dập dồn gọi lòng ta tha thiết 1 9 xe pháo Súng nhỏ, súng to, xe pháo, gạo mì...

Theo chiến sĩ đêm ngày đi cứu nước

Dùng lưỡi lê cạy bung lưới sắt 1 10 lựu đạn Tuồn lựu đạn vào ổ súng câm ngay

... ... ... ...

Trường từ vựng chỉ chiến tranh là một trong những hình ảnh rất đặc biệt

trong thơ Ma Trường Nguyên, mặc dù không chiếm nhiều tỉ lệ trong thơ ông

nhưng đối với một nhà thơ - một chiến sĩ đã từng trải qua những tháng ngày

gian khổ, hiểm nguy thì hình ảnh chiến tranh và không khí chiến đấu những

tháng ngày đó chắc chắn luôn được lưu giữ trong tâm trí nhà thơ, và những

hình ảnh ấy đã được tác giả trải lòng qua một số bài thơ, đặc biệt tập trường ca

82

Mát xanh rừng cọ chứa đựng cả một câu truyện về không khí chiến đấu và

những tháng ngày chiến tranh khi ấy.

Ma Trường Nguyên đưa những hình ảnh chiến tranh vào thơ của mình

một cách trực diện và thẳng thắn, chính những hình ảnh như vậy tạo nên không

khí thơ viết về chiến tranh rất chân thực và khốc liệt. Các trường từ vựng về

chiến tranh trong thơ ông luôn dồn dập và tạo nên một cách tiếp cận khác hẳn

như khi viết về các trường từ vựng khác:

Phía trước đạn nổ

Đằng sau bom vùi

Giặc muốn giết con mới là hòn máu đỏ

Muốn con ngạt thở trong thai

(Hà Nội trong nhịp đạp chân con)

Có một Ma Trường Nguyên rất khác khi viết về chiến tranh, một Ma

Trường Nguyên dữ dội và chân thật, hình ảnh đó là một Ma Trường Nguyên

khác hẳn với vẻ si tình, ngây ngô của chàng trai Tày khi viết về tình yêu, hay

cái nhìn mơ mộng khi viết về thiên nhiên, quê hương, đất nước. Ma Trường

Nguyên có thể lột tả dường như mọi thứ đơn sơ nhất của cái không khí chiến

đấu cực kì gian khổ lúc bấy giờ:

Lệnh xuất kích: Mở màn chiến dịch

Tiếng pháo gầm, bộc phá nổ tung

Cứ điểm giặc tựa nam châm cuốn hút

Đạn của ta căng vút cầu vồng

(Phần I: Búp nhọn - Trường ca Mát xanh rừng cọ)

Cảm xúc vể chiến tranh trong thơ Ma Trường Nguyên có nhiều nét đặc

trưng rất riêng, và sự đóng góp của trường nghĩa chiến tranh trong thơ Ma

83

Trường Nguyên vì thế lại càng đặc biệt, đây có thể coi là một nét nổi bật khác

lạ trong thơ ông giúp cho thơ ông thêm phần phong phú và đặc sắc.

Hệ thống các trường thiên nhiên, quê hương, con người, đồ vật và chiến

tranh trong thơ Ma Trường Nguyên có thể nói là khá phong phú và đa dạng.

Điều đặc biệt, các từ ngữ trong các trường nghĩa này đều được nhà thơ lựa chọn

và sử dụng một cách kĩ càng và hợp lý. Chính điều ấy đã cho thấy được sự

nghiêm túc với nghệ thuật và cái tài của nhà thơ đối với các tác phẩm của chính

mình, chính vì vậy thơ Ma Trường Nguyên luôn tạo nên được cảm giác tươi

mới cho độc giả nhiều thế hệ.

3.2. Một số biểu tượng ngôn ngữ học thường gặp

3.2.1. Khái quát về các biểu tượng ngôn ngữ học thường gặp trong thơ Ma

Trường Nguyên

Thông qua khảo sát, chúng tôi có được bảng về các biểu tượng thường gặp

trong thơ Ma Trường Nguyên như sau:

Bảng 3.6. Các biểu tượng thường gặp trong thơ

STT Ví dụ Biểu tượng Số lần xuất hiện

Cây phượng già bờ song hoa 56 1 Một mùa hè hoa nở

Con chim về tổ núi 2 núi 55 Đã hót ấm trời xa

Dòng sông dâng lên âu yếm bãi bờ 3 dòng sông 40 Khi lui rồi mới biết mình phía dưới

Trăng soi đỉnh trời 4 trăng 18 Vằng vặc

84

Đêm trầm mặc

Chơi vơi

Biển Cửa Lò nói chi biển 12 5 Anh nghe không được rõ

... ... ... ...

Trong thơ của Ma Trường Nguyên, biểu tượng là một phần quan trọng

tạo nên nhiều cảm xúc nghệ thuật tinh tế, dù là biểu tượng toàn bài hay biểu

tượng từng đoạn, từng câu thì đó đều là những chất xúc tác vừa tạo nên âm

hưởng, vừa tạo nên ý nghĩa cho toàn bộ bài thơ. Trong các khái niệm vê biểu

tượng thường gặp, luận văn đã cố gắng đưa vào áp dụng khái niệm có tính ứng

dụng thiết thực nhất, vì vậy, biểu tượng trong luận văn này sẽ được thể hiện

thông qua số lần xuất hiện và cách thức tác giả nhấn mạnh vào các biểu tượng

trong ý nghĩa của toàn bộ bài thơ.

Các biểu tượng ngôn ngữ học thường được Ma Trường Nguyên sử dụng

nhiều nhất là: núi, hoa và dòng sông.

3.2.2. Biểu tượng “hoa”

Hoa, tự ngàn xưa, luôn là biểu tượng của cái đẹp, của sự sống căng đầy nhựa

khí. Mỗi nền văn hoá, mỗi dân tộc, mỗi con người đều “kí thác” ở mỗi loài hoa

những ẩn ngữ văn hoá khác nhau. Vì lẽ đó, nó “mang vác” trong mình mỗi thứ

ngôn ngữ không giống nhau.

Khảo sát qua 6 tập thơ của Ma Trường Nguyên kết quả là: có 56 từ (tiếng)

hoa được nhắc đến, những từ này có thể dùng độc lập hoặc được dùng để cấu

tạo từ, trong đó có đa dạng rất nhiều loài, trạng thái, tính chất... của hoa như:

màu hoa, nụ hoa, bóng hoa, hoa khế, hoa sen, hoa dâm bụt, hoa dại... Các bài

thơ có tiêu đề về hoa cũng chiếm số lượng tương đối trong thơ ông: Hoa đào và

thi sĩ, Sắc vàng hoa hồ điệp, Màu hoa soi tím, Tìm về thời hoa dại, Dưới tán

hoa trạng nguyên…

85

Có thể hình dung được được dạng thức, đặc điểm mà biểu tượng hoa được

nhắc đến trong thơ Ma Trường Nguyên theo bảng thống kê dưới đây:

Bảng 3.7. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘hoa“ trong thơ

Ma Trường Nguyên

STT Từ ngữ Ví dụ Số lần xuất hiện

Cây hoa dại e ấp mừng 1 hoa dại 5 Nụ cười nở bừng chúm chím

Ngẩn ngơ hoa đào nở

Kề cận cửa sổ nhà 2 hoa đào 5 Xuân về bông dấu nụ

Chúm chím mỉm cười mơ

Cây phượng già bờ sông 3 hoa nở 4 Một mùa hè hoa nở

Màu hoa tung ánh lửa 4 màu hoa 3 Như tim người xa nhớ

Di trên đường phố Nam Ninh

5 mùa hoa 3 Gặp mùa hoa bằng lăng tím

ngát

Dưới tán hoa đỏ chói 6 hoa đỏ 3 Em không nói lặng nhìn

Vẫn mơ về rừng hoa dại 7 hoa rừng 3 Nhớ em bông hoa rừng xanh

Cũng mùa hè ấy xa 8 hoa phượng 2 Cây phượng hoa vân nở

Tôi tình cờ gặp gỡ 9 hoa hồng 2 Với em dưới bóng hồng

86

Hoa trạng nguyên đỏ chói hoa 10 1 trạng nguyên Rạo rực ngõ nhà em

Dọc trên đường phố Nam Ninh hoa 11 1 bằng lăng Bằng lăng rụng tràn tím lối

Hoa trong thơ Ma Trường Nguyên xuất hiện với hai ý nghĩa, thứ nhất: Với

tính chất là dấu hiệu của thực vật đến kì sinh trưởng dồi dào, hoa trước hết là

“hiện thân của sự sống”. Với thuộc tính đẹp điển hình, hoa là biểu tượng của

cái đẹp, của trạng thái “thiên đường mặt đất”. Thứ hai, với tính chất không bền

vững, mau nở, nhanh tàn, hoa trở thành biểu tượng về người con người đặc biệt

là người phụ nữ mong manh, yếu đuối, về cuộc đời trôi nổi... chính vì thế,

nghiên cứu biểu tượng hoa trong thơ Ma Trường Nguyên sẽ đi theo hai hướng

này là chính.

Đầu tiên, biểu tượng "hoa" như một ý nghĩa của thiên nhiên, đây cũng là ý

nghĩa chính của biểu tượng hoa trong thơ Ma Trường Nguyên. Trong 56 trường

hợp được khảo sát có 45 trường hợp quy chiếu của hoa là thiên nhiên. Hoa trong

hình ảnh thiên nhiên của thơ ông luôn luôn rạng rỡ, khoe sắc, khoe hương…

“ Con chim đánh rơi tiếng hót vào lòng

Nên tiếng hát em cứ trong veo dịu ngọt

Hoa trên rừng nhờ má em khoe sắc

Nở hắt ánh tươi rực rỡ chói bừng.”

(Tiếng hát mặt trời mọc)

Trong thơ Ma Trường Nguyên, "hoa" là hiện thân của sự sống, nhưng đó

không phải là một mầm sống cô lập. Sự sống của hoa còn toát lên từ sợi dây kết

nối với các thực thể xung quanh, với vạn vật rất đỗi quen thân. “Hoa” đi với

“nước” (Hoa mọc rung rinh nước), với lửa (Màu hoa tung ánh lửa), với rừng

(Hoa trên rừng nhờ má em khoe sắc) v.v… trong những biến thể kết hợp cân

87

xứng, hài hoà. “Hoa” đặt trong trường liên tưởng đó lại càng được tôn thêm

cảm thức thực vật ngập tràn sự sống.

Biểu tượng thứ hai về ý nghĩa của hoa trong thơ Ma Trường Nguyên là

biểu tượng về hoa với tình yêu, hoa mau nở và nhanh tàn nên còn là biểu tượng

cho tính phù du của cuộc đời cũng như đặc tính thoảng qua của cái đẹp, hay

những sáng tạo mong manh, ngắn ngủi, trong thơ Ma Trường Nguyên cũng vậy,

dù chỉ có 11 lần hoa mang ý nghĩa tượng trưng cho cuộc đời, cho tình yêu trong

tổng số 56 lần biểu tượng hoa được nhắc đến nhưng những ý nghĩa này mang lại

nhiều sắc thái biểu cảm hơn cho biểu tượng hoa trong thơ Ma Trường Nguyên.

Dù có là trạng thái khi tình cảm đó thăng hoa, rực rỡ nhất.

Sáng anh đến vòm trời đầy sắc tím

Hay tình em quyến luyến nở thành hoa

(Bốn bài thơ hoa)

Thậm chí cả những hình ảnh chia ly, xa rời…hình ảnh của hoa cũng

không thể thiếu, thậm chí nó còn tô đậm thêm phần rõ nét hơn cho nỗi buồn, nỗi

sầu của người ở lại.

Tìm về hoa dại trên đồi

Mất em rồi hoa cũng mất

Ở đâu, đời này mặt đất

Con người và giấc mơ hoa

(Tìm về thời hoa dại)

Như vậy, có thể thấy “hoa” là một yếu tố không thể thiếu trong con mắt

một người yêu cái đẹp như Ma Trường Nguyên, hoa mang nhiều biểu tượng và

ý nghĩa cũng như sắc thái rất riêng biệt và được nhà thơ tận dụng triệt để trong

sáng tác của mình. Chính từ cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp kết hợp với

hình ảnh giàu tính biểu đạt mà trong thơ Ma Trương Nguyên biểu tượng “hoa”

luôn luôn ngập tràn hương sắc và thấm đượm những tầng nghĩa văn hoá sâu xa.

88

3.2.3. Biểu tượng “núi”

Có thể hình dung được dạng thức, đặc điểm mà biểu tượng núi được

nhắc đến trong thơ Ma Trường Nguyên theo bảng thống kê dưới đây:

Bảng 3.8. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘núi“ trong thơ

Ví dụ Số lần STT Từ ngữ xuất hiện

Đẹp mối tình sang đỉnh núi gương trăng 1 đỉnh núi 8 Ta cùng soi để chung tuần trăng mật

Bên nhau như sông núi 2 sông núi 3 Dưới trời cao thẳm xanh

Ngọn núi chắn mặt cao hơn 3 ngọn núi 3 Che khuất mặt em đẹp đẽ

Lộc xuân người miền núi 4 miền núi 2 Ăn một chút lấy may

Tay vung gươm lóa nắng trời 5 núi rừng 2 Đầu thù rụng xuống hoa tươi núi rừng

Con chim về tổ núi 6 tổ núi 2 Đã hót ấm trời xa

Cây còn chạm chóp núi 7 chóp núi 2 Quả còn chạm đỉnh mây

Anh về đến ngõ núi mường 8 ngõ núi 1 Quên bó củi trên vai đang vác

Hú vang… lũng núi quạnh côi 9 lũng núi 1 Có em dắt ra đồng ruộng

… … … …

89

Núi là một biểu tượng có nhiều ý nghĩa văn hóa - thẩm mỹ độc đáo. Hình

ảnh núi vừa là tượng trưng cho vẻ đẹp phồn sinh của thiên nhiên,vừa là biểu

hiện của ý nghĩa tình cảm, tình yêu trong cuộc sống (sơn thủy hữu tình).Trong

thơ Ma Trường Nguyên, núi trở thành một chất liệu đặc biệt của nhiều người

đọc bởi nó không đơn thuần là những biểu tượng đẹp mà là một cấu tứ khá thú

vị trong lối thơ của tác giả này. Núi không những gắn bó với tuổi thơ của một

người, với tuổi tác của một cộng đồng mà đã nhanh chóng chuyển hoá thành

hai nhân vật trữ tình luôn được nhắc đến.

Khảo sát qua 6 tập thơ của Ma Trường Nguyên kết quả là: có 55 từ

(tiếng) núi được nhắc đến, những từ này có thể dùng độc lập hoặc được dùng

để cấu tạo từ trong đó có rất nhiều dạng thức và đặc điểm của núi như: đỉnh

núi, tổ núi, hoa núi, rừng núi, thung núi, lũng núi, núi chiều, bóng núi, chóp

núi, dãy núi... Có thể thấy núi như là linh hồn, là chất liệu quan trọng được nhà

thơ Ma Trường Nguyên thường xuyên sử dụng và xoay quanh biểu tượng này.

Điều này càng được khẳng định khi nhà thơ sử dụng nhiều từ núi trong tiêu đề

bài thơ (Con về quê núi, Dáng núi anh hùng, Bên nhau như sông núi…) và tiêu

đề một tập thơ (Mở núi).

Có thể thấy, trong hoạt động sáng tạo của mình, Ma Trường Nguyên luôn

có ý thức tìm về thiên nhiên, hướng tới không gian thiên nhiên đẹp, trong sạch

và thuần khiết để nuôi dưỡng, thanh tẩy hồn mình trước những xô bồ, hỗn tạp

của đời sống. Cho nên nói đến núi trong thơ ông, đầu tiên là nói đến một hình

ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp phồn sinh của thiên nhiên, đời sống.

Câu hát vướng vào núi chiều

Núi ngây trong mây bọc

(Câu hát vắt qua vai)

Trong quan niệm xưa nay, núi luôn được xem là yếu tố tĩnh, cố định,

nhưng khi bước vào thế giới thơ Ma Trường Nguyên, nó không còn được hình

90

dung như một sự vật bất động, vô tri vô giác nữa, ngược lại như một sinh thể

luôn chuyển động, luôn “hồi sinh”, “tái sinh”, và mang hơi thở, bóng dáng,

nhịp sống vốn chỉ có ở con người như:

Núi buồn mây quấn khăn tang

Giọt sương lã chã lệ tràn trắng rơi

(Mẹ về trời đất tận cùng)

Và:

Mặc cho núi đứng ngất ngây

Mặc cho chim rừng ngơ ngác

(Câu hát vắt qua vai)

Chính nhờ vào cách ngắt nhịp thơ hết sức đa dạng, linh hoạt, cùng với

biểu tượng núi được sử dụng vô cùng sinh động, uyển chuyển khiến câu thơ trở

nên “phóng túng”, xuất hiện như một tất yếu, thể hiện sự chuyển động liên tục,

mạnh mẽ của mọi sự vật và sự cuộn xiết của mạch cảm xúc. Núi trong thơ Ma

Trường Nguyên không đơn thuần là những biểu tượng đẹp mà là một cấu tứ

khá thú vị trong lối thơ của tác giả này. Núi không những gắn bó với tuổi thơ

của một người, với tuổi tác của một cộng đồng mà đã nhanh chóng chuyển hoá

thành nhân vật trữ tình luôn được nhắc đến.

Như vậy, trong thơ Ma Trường Nguyên, núi là một biểu tượng có nhiều

ý nghĩa văn hóa - thẩm mỹ độc đáo. Nó vừa là tượng trưng cho vẻ đẹp phồn

sinh của thiên nhiên, đời sống, vừa là biểu hiện của hình tượng nhân vật trữ

tình trong thơ. Nhưng hơn hết bằng/qua núi ta sẽ khám phá được những phẩm

tính đặc thù của cái tôi thi nhân. Là một nhà thơ có ý thức sáng tạo, cách tân và

làm việc không ngừng, Ma Trường Nguyên chính là một người “gieo hạt giống

mới” đầy cần mẫn và hiệu quả trên cánh đồng thi ca Việt Nam hiện đại.

91

3.2.4. Biểu tượng “sông”

Có thể hình dung được dạng thức, đặc điểm mà biểu tượng dòng sông

được nhắc đến trong thơ Ma Trường Nguyên theo bảng thống kê dưới đây:

Bảng 3.9. Một số từ ngữ có liên quan đến biểu tượng ‘‘dòng sông“

Số lần STT Từ ngữ Ví dụ xuất hiện

Mà nắng dòng sông mở 1 dòng sông 14 Vào lòng người bâng khuâng

Sông giấu mình đi trong đêm

2 sông Hiện thành tiếng sóng 9

Vọng hai bờ núi sáng đèn trăng

Con sông óng ả nghiêng 3 7 con sông Theo chiều ngân câu hát

Một đoạn sông bến lở 4 đoạn sông 6 In cát dấu chân nhòa

Biết là bến sông trong 5 bến sông 3 Nước đã ngầu lên lũ

Cất gọi cùng nhau thương nặng trong lòng 1 6 miền sông Đến miền sông chung tình câu hát

… … …

Trong văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng, dòng sông được gợi

nhắc bình dị, trong trẻo, hiền hòa. Nói đến sông là nói về tình yêu quê hương, đất

nước, nói đến sông là nói đến những hình ảnh sóng đôi như sông với cầu, sông với

bến, từ đó giúp ta liên tưởng đến nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Biểu tượng

92

dòng sông vì thế là đề tài quen thuộc, quyến luyến bước chân của nhiều nhà văn,

nhà thơ, trong đó không thể thiếu dòng sông trong thơ Ma Trường Nguyên.

Qua thống kê cho thấy có 40 lần từ (tiếng) dòng sông được xuất hiện trong

6 tập thơ đã khảo sát của nhà thơ Ma Trường Nguyên, dù số lượng chưa phải là

nhiều nhất nhưng biểu tượng dòng sông cũng đã nằm trong số những hình ảnh

được tác giả phác họa nhiều lần trong thơ của mình. Điều đó chứng tỏ dòng sông

chiếm một vị trí quan trọng trong cảm hứng sáng tác của Ma Trường Nguyên.

Hình ảnh dòng sông thường được nhắc đến trong thơ Ma Trường Nguyên là hình

ảnh của dòng sông quê rất đỗi bình dị, hài hòa nhưng đâu đó chính dòng sông

quê ấy của Ma Trường Nguyên thi thoảng cũng rạo rực, sâu lắng, dạt dào giống

như cảm xúc của con người vậy. Hình ảnh dòng sông trong thơ Ma Trường

Nguyên có sự kết hợp rất đa dạng và phong phú với những hình ảnh biểu tượng

khác tạo nên những hình ảnh biểu đạt với nhiều cảm xúc khác nhau: với bến

(Biết là bến sông trong), với trăng (Sông trở trăn đi xa), với hoa (Những mùa

hoa ven sông)… Cũng giống như biểu tượng về hoa, biểu tượng dòng sông theo

J. E. Cirlot: “Dòng sông là một biểu tượng lưỡng nghĩa bởi vì nó tương ứng với

quyền năng sáng tạo của cả tự nhiên lẫn thời gian. Một mặt, nó biểu thị cho sự

màu mỡ và việc tưới tiêu đều đặn cho đất đai; và mặt khác nó biểu trưng cho

dòng thời gian bất khả qui hồi và hệ quả dẫn đến, nó biểu trưng cho cái ý

nghĩa về sự mất mát và lãng quên”.[4; tr 30]

Trong thơ Ma Trường Nguyên ta cũng bắt gặp hai ý nghĩa này của dòng sông.

Đầu tiên, dòng sông biểu tượng cho sự màu mỡ và việc tưới tiêu đều đặn

của đất đai cũng như biểu tượng của dòng chảy hiền hòa, hay gắn liền với hình

ảnh làng quê (dòng sông, bến nước, con đò). Trong thơ Ma Trường Nguyên ý

nghĩa của hình ảnh này xuất hiện 35 lần trong tổng số 40 lần (chiếm 87,5%), vì

thế có thể nói dòng sông trong thơ Ma Trường Nguyên chủ yếu nhắc tới yếu tố

hiện thực, gắn liền với biểu tượng làng quê bình dị, chân thực.

93

Chẳng hạn như:

Biết dòng sông đã trôi

Nước ngầu qua mùa lũ

(Bên sông bóng ám)

Hay:

Con sông óng ả nghiêng

Theo chiều ngân câu hát

Loang dải xanh ánh bạc

Cuồn cuộn trôi mênh mông

(Tiếng hát dòng sông)

Hình ảnh dòng sông hiền hòa, thân thuộc, giản dị có lẽ là hình ảnh gợi nhớ trong kí ức của nhà thơ Ma Trường Nguyên rất nhiều kỉ niệm, chính bởi thế mà biểu tượng dòng sông trong thơ Ma Trường Nguyên thường mang lại hình ảnh này cho người đọc, cũng bởi chính hình ảnh này rất giống với phong cách thơ Ma Trường Nguyên, chẳng triết lý sâu xa, cũng không gồng lên cường điệu, hình ảnh ấy hiện lên một cách rất hiện thực và hài hòa, cho nên có thể nói biểu tượng dòng sông quê này như một phần biểu tượng thơ Ma Trường Nguyên vậy, giản dị, thật thà nhưng có sức hút mãnh liệt, khiến người đọc thiết tha, say đắm.

Ý nghĩa biểu tượng thứ hai mà dòng sông khắc họa nên trong thơ Ma Trường Nguyên là ý nghĩa biểu trưng cho dòng thời gian bất khả qui hồi và hệ quả dẫn đến, nó biểu trưng cho cái ý nghĩa về sự mất mát và lãng quên. Có thể thấy với ý nghĩa này số lượng xuất hiện không nhiều chỉ 5 trong tổng số 40 lần (chiếm 12,5%), nhưng nó lại mang lại sự tương phản, sự khác biệt và những tầng ý nghĩa sâu sắc hơn trong thơ Ma Trường Nguyên.

Giống như câu thơ thể hiện sự mất mát dưới đây:

Dòng sông dâng lên âu yếm bãi bờ

Khi lui rồi mới biết mình phía dưới

(Em cứ đến và em đừng có đến)

94

Rõ ràng việc đưa hình ảnh dòng sông và bãi bờ vào câu thơ này mang lại

một ý ghĩa tượng trưng vô cùng độc đáo và sự diễn tả rất thú vị, ý nghĩa của cả

bài thơ như được mở ra và tạo nên sự thu hút hơn rất nhiều,rõ ràng hình ảnh

dòng sông đã ở một khía cạnh khác, khía cạnh của sự diễn tả tâm hồn, sự day

dứt và mất mát thông qua những dòng thơ đầy say đắm.

Hay như câu thơ:

Nước dòng sông e ấp ngập ngừng

Sóng đánh trong lòng sâu hồi hộp

(Gặp lại tuổi xuân em)

Rõ ràng đây không thể là dòng sông bình thường được, dòng sông mà biết

đến cả “e ấp”, “ngại ngùng” hay phải chăng đó là sự diễn tả chính tâm tư, tình

cảm của nhân vật nhờ dòng sông nói hộ lòng mình?. Chính hình ảnh dòng sông

với ý nghĩa không chân thực, không phải dòng sông quê đầy thơ mộng này của

Ma Trường Nguyên mà chúng ta mới thấy được hình ảnh biểu đạt sâu rộng và

sức ảnh hưởng mạnh mẽ của biểu tượng dòng sông trong thơ ông, dù ít nhưng nó

mang lại tính biểu tượng rất cao và góp phần làm cho biểu tượng ý nghĩa trong

thơ Ma Trường Nguyên thêm phần phong phú và thú vị.

3.3. Tiểu kết

Ở chương này tập trung nghiên cứu về đặc điểm ngữ nghĩa trong thơ Ma

Trường Nguyên, trước hết là về trường từ vựng. Có thể nói, trường từ vựng

trong thơ Ma Trường Nguyên có nhiều nét đặc trưng gần gũi với cách nghĩ,

cách nói của quần chúng, nhân dân. Qua số lượng các trường từ vựng được đưa

vào chúng ta thấy được một bức tranh đầy sinh động với đầy đủ những đặc tính

và tính chất của sự vật, hiện tượng được nhắc tới. Với số lượng và phương pháp

sử dụng trường từ vựng trong thơ khá lớn có thể thấy Ma Trường Nguyên có

một vốn ngôn ngữ, vốn văn hóa rất rộng, cùng với tình yêu quê hương, dân tộc

95

và cảm hứng nghệ thuật, thiên nhiên – xã hội miền núi đã làm nên những đặc

điểm nổi bật nhất của thơ Ma Trường Nguyên trên dương diện trường từ vựng .

Tiếp theo là việc sử dụng những biểu tượng ngôn ngữ học trong thơ, theo khảo sát thì Ma Trường Nguyên thường xuyên sử dụng những biểu tượng mang tính chất gắn bó với đời sống hàng ngày như núi, hoa, dòng sông... việc sử dụng hiệu quả các biểu tượng này là minh chứng rất rõ cho hình ảnh thiên nhiên – xã hội miền núi trong thơ Ma Trường Nguyên, đó dường như cũng chính là cách nghĩ, cách nói, cách thể hiện của người dân tộc Tày thông qua ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc.

Tìm hiểu về trường từ vựng, ngữ nghĩa và biểu tượng ngôn ngữ học trong thơ Ma Trường Nguyên chính là một phương pháp ngắn gọn giúp cho ý nghĩa, cảm xúc và hình ảnh giàu tính nghệ thuật trong thơ được truyền đạt một cách nhanh hơn đến với bạn đọc. Đó cũng là mục đích chính mà việc nghiên cứu ở chương 3 này hướng tới.

96

KẾT LUẬN

1. Ma Trường Nguyên là nhà thơ đa tài. Ông tạo được một sự nghiệp văn

chương đa dạng với đầy đủ các thể loại và đều đã để lại dấu ấn, đóng góp cho

sự phát triển của văn học các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có

công trình nghiên cứu nào tìm hiểu đầy đủ và có hệ thống về đặc điểm ngôn

ngữ thơ Ma Trường Nguyên, mà chỉ có những phân tích, nhận định, đánh giá

khái quát về thơ Ma Trường Nguyên. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu về

đặc điểm ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên để thấy được những nét thành

công, những nét đặc sắc trong thơ Ma Trường Nguyên, tác giả hi vọng đây sẽ là

tài liệu tham khảo bổ ích trong công tác dạy và học văn học địa phương ở tỉnh

Thái Nguyên nói riêng và cho công tác giảng dạy, nghiên cứu thơ ca dân tộc

thiểu số Việt Nam hiện đại trong nhà trường các cấp nói chung.

2.Với đề tài: Đặc điểm ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên, chúng tôi tiến

hành nghiên cứu, tìm hiểu về các vấn đề sau:

Ở chương 1, chúng tôi tìm hiểu khái quát về cơ sở lí luận và thực tiễn

liên quan đến đề tài. Ở chương 2, chúng tôi tập trung vào đặc điểm thơ Ma

Trường Nguyên xét về mặt hình thức, trong đó đi sâu vào các phương diện thể,

vần, nhịp và cách tổ chức bài thơ trong thơ Ma Trường Nguyên. Ở chương 3,

luận văn tâp trung nghiên cứu đặc điểm từ vựng - ngữ nghĩa, trong đó có hai ý

chính là các trường từ vựng ngữ nghĩa tiêu biểu và các biểu tượng ngôn ngữ

học thường gặp trong thơ Ma Trường Nguyên.

3. Sau khi tìm hiểu nghiên cứu, luận văn đã cố gắng làm sáng tỏ những

đặc điểm nổi bật về hình thức cũng như từ vựng - ngữ nghĩa của thơ Ma

Trường Nguyên. Về hình thức: Ma Trường Nguyên sử dụng đa dạng các thể

97

thơ khác nhau và dù ở thể thơ nào thì nhà thơ cũng để lại dấu ấn độc đáo của

mình. Vần và nhịp trong thơ Ma Trường Nguyên có đặc điểm gần với thơ ca

truyền thống của dân tộc, cách sử dụng và số lượng vần, nhịp tương đối lớn

cũng là một đặc điểm nổi bật trong ngôn ngữ thơ Ma Trường Nguyên. Cách tổ

chức bài thơ cũng tạo nên cảm giác dễ hiểu, phù hợp với nội dung như: tiêu đề

thường là ngắn gọn và miêu tả đúng ý nghĩa của bài thơ, dòng thơ không có sự

chênh lệnh quá lớn và hầu như không bị ràng buộc về số dòng trong một bài

thơ. Cách xây dựng khổ, đoạn có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại

Về mặt từ vựng – ngữ nghĩa, có thể thấy thơ Ma Trường Nguyên có

nhiều nét đặc trưng gần gũi với cách nghĩ, cách nói của quần chúng, nhân dân.

Điều này trước tiên thể hiện ở số lượng và phương pháp sử dụng trường từ

vựng trong thơ ông khá lớn, có thể thấy Ma Trường Nguyên sử dụng nhiều và

đa dạng các loại trường từ vựng khác nhau, từ quê hương, thiên nhiên, con

người đến đồ vật, chiến tranh... với sự đa dạng ấy, Ma Trường Nguyên dường

như có đầy đủ ý tưởng, đầy đủ "vốn" để sáng tạo, để thơ ông có thể phản ánh

được một cái nhìn toàn diện và mang lại màu sắc mới lạ nhất cho bạn đọc, đó

cũng là cái đích mà nhà thơ muốn hướng tới. Cùng với đó, những biểu tượng

ngôn ngữ học trong thơ với tính chất thường gắn liền với quê hương, với đất

nước như núi, hoa, dòng sông... lại càng có thể khẳng định trên phương diện

ngữ nghĩa, Ma Trường Nguyên vẫn luôn miệt mài tìm kiếm những vẻ đẹp của dân

tộc mình, quê hương mình để giới thiệu với bạn đọc.

4. Qua kết quả nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ thơ Ma Trường

Nguyên, với những đặc điểm nổi bật về hình thức và từ vựng - ngữ nghĩa như

trên đã nêu, luận văn đã khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà

thơ Ma Trường Nguyên - đại diện tiêu biểu cho các nhà thơ dân tộc Tày - trong

bộ phận thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Qua đó, không chỉ

góp tư liệu tham khảo bổ ích vào việc giảng dạy văn học địa phương mà còn

giúp cho các thế hệ trẻ thấy được, hiểu được những giá trị phong phú và đặc

98

sắc của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Luận văn là tài liệu

tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học phần văn học thiểu số nói riêng và

trong chuyên ngành văn học nói chung ở các trường sư phạm.

5. Nếu được nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai

đề tài mới từ kết quả nghiên cứu của luận văn, như: thơ Ma Trường Nguyên từ

góc nhìn văn hóa; Thế giới nghệ thuật trong thơ Ma Trường Nguyên; bản sắc

văn hóa Tày trong thơ Ma Trường Nguyên; sự giao thoa, tiếp biến giữa văn hóa

Việt - Tày trong thơ Ma Trường Nguyên...

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thị Báu (2005), Thơ lục bát qua Nguyễn Bính - Tố Hữu - Nguyễn

Duy, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, H.

2. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hoá thông tin, H.

3. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993) Đại cương ngôn ngữ học (tập 1

& tập 2), Nxb Giáo Dục, H.

4. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002- tái bản lần 8), Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.

5. Mai Ngọc Chừ (1990), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học,

Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.

6. Vũ Dũng (2000), Từ điển tâm lý học, Nxb khoa học xã hội, H.

7. Nguyễn Dữ (1998), Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn nghệ và hội nghiên cứu Giảng dạy văn học TPHCM, Tp Hồ Chí Minh. TR 219

8. Hữu Đạt (1993), Ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Viện HLKH Nga, Viện

ngôn ngữ học, Mockva. 243 tr (bản bằng tiếng Việt và tiếng Nga)

9. Hà Minh Đức (2003), Lý luận văn học, phần 1, Nxb Giáo dục, H.

10. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (1997),

Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo Dục, H.

11. Nguyễn Thiện Giáp (1999), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo Dục, H.

12. Nguyễn Thiện Giáp, (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nhà xuất

bản Đại học quốc gia, H.

13. M.Gorki (1970), Nói chuyện với nhà văn trẻ. Trong tập Gorki bàn về văn học, Nxb Văn học, H.

14. Hồ Văn Hải (2008), Thơ lục bát Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hoá

thông tin. H.

100

15. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, H

16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật

ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

17. Nguyễn Văn Hậu (2009), Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn

hóa, Bài đăng trên trang web: vanhoahoc.edu.vn, ngày 19/08/2009.

18. Hêghen (1999), Mỹ học, tập 1, Nxb Văn học, H.

19. Hội nhà văn Việt Nam (1997), Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội

Nhà văn Việt Nam, H.

20. Đỗ Việt Hùng (2011), Giáo trình từ vựng học, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.

21. Nguyễn Như Ý, chủ biên; Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc

Lệ (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.

22. Roman Jakobson (2008), Thi học và Ngữ học (Trần Duy Châu biên

khảo), Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.

23. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, quyển 2, Tính quy luật của cơ chế

ngôn giao, Nxb Khoa học xã hội, H.

24. Phương Lựu (Chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc

Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáo

dục, H.;

25. Vũ Đức Nghiệu (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp, (2009), Dẫn luận ngôn

ngữ học, Nxb Đại học quốc gia, H.

26. Phan Ngọc (1991), “Thơ là gì?” Tạp chí văn học, (1), tr.18-24.

27. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, 2003, Thơ ca Việt Nam hình thức và

thể loại, NXB Đại Học Quốc Gia, H.

28. Đái Xuân Ninh (1986), Ngôn ngữ học: "khuynh hướng - lĩnh vực -

khái niệm" tập 2, Nxb Khoa học xã hội, H.

29. Hoàng Phê (chủ biên), (1988), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa

học xã hội, H.

101

30. F. de Saussure (2004), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb

KHXH, H.

31. Trịnh Sâm (1994), Cấu trúc của tiêu đề văn bản Tiếng Việt trong

phong cách ngôn ngữ thông tấn báo chí. Tạp chí KHXH, Số 22, Viện KHXH

Tp.HCM

32. Đào Thản (1962), “Mấy vấn đề ngôn ngữ hiện nay”, Nghiên cứu Văn học,

(số 5), tr.60.

33. Bùi Mình Toán, 2012, Ngôn ngữ với văn chương, Nxb Giáo dục, H.

34. Các bài viết về nhà thơ Ma Trường Nguyên trên trang Web:

-http://nguyenthuyquynh.vnweblogs.com/a242843/ba-phac-thao-ve-tho-

ma-truong-nguyen.html

-http://www.maxreading.com/sach-hay/cac-nha-tho-viet-nam-the-ky-

20/ma-truong-nguyen-7386.html

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id

=404

- http://www.vanhocviet.org/van-hoc-cac-dan-toc-ts/-phm-v-tr-chuyn-vi-ma-

trng-nguyn

102

PHỤ LỤC

(Một số hình ảnh về nhà thơ và các tác phẩm)

Phụ lục 1: NHÀ THƠ VÀ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG VỀ THƠ ÔNG

Nhà thơ Ma Trường Nguyên với cương vị nguyên Tổng biên tập Báo

Văn nghệ Thái Nguyên phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 25 năm ngày báo Văn

nghệ Thái Nguyên ra số đầu tiên ngày 29/06/2016

Chân dung Nhà thơ Ma Trường Nguyên

Hội thảo Nhà văn Ma Trường Nguyên - tác giả, tác phẩm tại Thái

Nguyên vào năm 2009

Phụ lục 2: QUÊ HƯƠNG NHÀ THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

Đồi Tỉn Keo, dưới chân núi Hồng, nơi khởi phát chiến dịch Điện Biên Phủ

Xã Phú Đình, huyện Định Hóa – quê hương của nhà thơ

Ma Trường Nguyên

Phụ lục 3: TÁC PHẨM THƠ MA TRƯỜNG NGUYÊN

- Một số trang bìa tác phẩm

Tập thơ ‘‘Câu hát vắt qua vai’’ xuất bản năm 2005 tại Hội Văn học

Nghệ thuật Thái Nguyên

Tập thơ “Cây nêu’’ xuất bản tại Nhà xuất bản Hội nhà văn

vào năm 2006

Tập thơ ‘‘Bắc Cầu vồng thăm nhau’’ xuất bản năm 2007

tại Nhà xuất bản Hội nhà văn

Tập thơ “Mở Núi’’ xuất bản năm 2011 tại Nhà xuất bản Hội nhà văn

- Một số trang trong tập thơ

Lời bình của nhà thơ Phạm Tiến Duật trong tập thơ

“Bắc cầu vồng thăm nhau’’

Một số trang thơ tiêu biểu