ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN ĐỨC ANH
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN ĐỨC ANH
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CỦA NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 8 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THU QUỲNH
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thu Quỳnh. Các số liệu, những
kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Nguyễn Đức Anh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn “Tình
hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh
Lạng Sơn”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy, cô
giáo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên để hoàn thành luận văn này.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt đến TS. Nguyễn Thu Quỳnh
- người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ về kiến thức, tài liệu và phương pháp
để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám hiệu,
Phòng Đào tạo (bộ phận Sau Đại học), Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên, các thầy giáo, cô giáo đã tham gia quản lý, giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
- Lãnh đạo, cán bộ và nhân dân hai xã Khánh Long, xã Cao Minh, huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
- Lãnh đạo, cán bộ các phòng, ban: Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Tràng Định, Phòng Văn hóa Thông tin huyện Tràng Định, Phòng Dân tộc - Lao
động Thương binh và Xã hội huyện Tràng Định.
- Ban Giám hiệu, GV và HS trường THPT Tràng Định, Trường Trường
phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học - Trung học cơ sở Cao Minh, Trường phổ
thông dân tộc bán trú Tiểu học Trung học cơ sở Khánh Long.
- Đặc biệt, cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, thầy cô đã động viên,
cổ vũ, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tuy
nhiên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý
kiến đóng góp và sự chỉ dẫn của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp!
ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ...................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 3
3. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 6
7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 7
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................................... 8
1.1. Dẫn nhập ....................................................................................................... 8
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 8
1.2.1. Vấn đề nghiên cứu về cảnh huống ngôn ngữ và tình hình sử dụng
ngôn ngữ .............................................................................................................. 8
1.2.2. Vấn đề nghiên cứu về dân tộc Mông, người Na Mẻo và tiếng Na Mẻo ..... 13
1.3. Cơ sở lí luận và thực tiễn ............................................................................ 16
1.3.1. Những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu .................................. 16
1.3.2. Những đặc điểm khái quát về địa lí, tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã
hội, dân cư ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn ............................................... 26
1.3.3. Những đặc điểm khái quát về người Mông (Na Mẻo) và tiếng Na
Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.......................................................... 28
iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 30
Chương 2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG SINH
HOẠT HÀNG NGÀY CỦA NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG
ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN ............................................................................... 31
2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 31
2.2. Tình trạng đa ngữ là chủ yếu của người na mẻo trong sinh hoạt
hàng ngày .......................................................................................................... 31
2.2.1. Số lượng các ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày .......... 31
2.2.2. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ và vai trò của các ngôn ngữ trong
sinh hoạt hàng ngày ........................................................................................... 32
2.3. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người na mẻo ..... 39
2.3.1. Khả năng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người Na Mẻo
theo sự phân biệt về giới tính ............................................................................ 41
2.3.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về độ tuổi ................................................................. 43
2.3.3. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về học vấn ............................................................... 45
2.3.4. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về nghề nghiệp ........................................................ 48
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 50
Chương 3. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG NHÀ
TRƯỜNG VÀ TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG CỦA
NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN ........... 52
3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 52
3.2. Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường .......................................... 52
3.2.1. Tình trạng đơn ngữ là chủ yếu của HS người Na Mẻo trong nhà trường ... 52
iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.2.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường của HS người Na Mẻo ........ 55
3.3. Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo .............................................................................................................. 67
3.3.1. Tình trạng đa ngữ là chủ yếu của người Na Mẻo trong hoạt động
truyền thông ....................................................................................................... 67
3.3.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của
người Na Mẻo ................................................................................................... 71
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 82
Chương 4. ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO
TỒN NGÔN NGỮ VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ CHO NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH
LẠNG SƠN ....................................................................................................... 83
4.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 83
4.2. Đề xuất chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn và nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Na Mẻo cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn ...... 83
4.2.1. Ý kiến của người Na Mẻo và cán bộ, lãnh đạo địa phương .................... 83
4.2.2. Ý kiến của người nghiên cứu ................................................................... 86
4.3. Đề xuất chính sách và giải pháp nhằm nâng cao khả năng sử dụng TV
cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn................................... 90
4.3.1. Ý kiến của người Na Mẻo và các cán bộ, lãnh đạo địa phương .............. 90
4.3.2. Ý kiến của người nghiên cứu ................................................................... 93
4.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 99
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 105
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............ 110
v Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DTTS Dân tộc thiểu số
GV Giáo viên
HS Học sinh
TH THCS CM Tiểu học Trung học cơ sở Cao Minh
TH THCS KL Tiểu học Trung học cơ sở Khánh Long
TMĐ Tiếng mẹ đẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TV Tiếng Việt
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng 2.1. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày .......... 32
Bảng 2.2: Các ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của
người Na Mẻo phân theo hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp ........ 33
Bảng 2.3: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của
người Na Mẻo................................................................................ 39
Bảng 2.6: Khả năng ngôn ngữ của người Na Mẻo theo sự phân biệt về
học vấn .......................................................................................... 45
Bảng 2.7: Khả năng ngôn ngữ của người Na Mẻo theo sự phân biệt
về nghề nghiệp ............................................................................. 48
Bảng 3.1. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường .................... 52
Bảng 3.2: Các ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường của HS Na
Mẻo phân theo hoàn cảnh giao tiếp và đối tượng giao tiếp ......... 53
Bảng 3.3: Lỗi chính tả của HS người Na Mẻo .............................................. 57
Bảng 3.4: Lỗi dùng từ của HS người Na Mẻo .............................................. 60
Bảng 3.5. Số lượng câu trong bài kiểm tra của học sinh người Na Mẻo
phân theo cấu tạo .......................................................................... 63
Bảng 3.6. Số lượng câu trong bài kiểm tra của HS người Na Mẻo .............. 65
Bảng 3.7. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động truyền thông ...... 67
Bảng 3.8: Các ngôn ngữ được sử dụng trong truyền thông của người
Na Mẻo phân theo loại hình truyền thông .................................... 68
Bảng 3.9: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của
người Na Mẻo theo sự phân biệt về loại hình truyền thông ............ 71
Bảng 3.10: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về độ tuổi ........................... 75
Bảng 3.11: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về học vấn ......................... 77
Bảng 3.12: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về nghề nghiệp .................. 80
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng đối với loài người. Nó
không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là một thành tố của văn hóa mang
đầy đủ những đặc trưng của một quốc gia, dân tộc. Bởi vậy, ngôn ngữ là một
trong những điều kiện đầu tiên để xác định thành phần dân tộc, khẳng định sự
tồn vong của một tộc người và có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước. Với tầm quan trọng của ngôn ngữ, Đảng và Nhà nước ta luôn có
những chính sách bảo tồn phát triển ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ các dân
tộc thiểu số (DTTS) nói riêng. Trong đó, nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn
ngữ là một trong những nội dung quan trọng giúp cho những nhà hoạch định
chính sách có cái nhìn toàn cảnh về bức tranh ngôn ngữ ở quốc gia mình, từ đó,
đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Tràng Định là một huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lạng Sơn có
diện tích tự nhiên là 995,23 km2; dân số là 59.050 người. Đặc thù là huyện
vùng núi, biên giới nên mảnh đất này là nơi hội tụ nhiều DTTS của khu vực
trung du và miền núi phía Bắc như Tày, Nùng, Dao, Mông, Hoa. Trong đó,
nhóm người Na Mẻo hiện được xếp vào dân tộc Mông sống tập trung ở xã
Cao Minh và xã Khánh Long thuộc huyện Tràng Định, có số dân là 838 người
(chiếm khoảng 10,4% dân số toàn huyện). Với số dân ít, tình trạng xen cư
diễn ra phổ biến (người Na Mẻo nơi đây sống cùng các dân tộc Tày, Nùng,
Dao), sự lưu truyền ngôn ngữ giữa các thế hệ trong cộng đồng người Na Mẻo
không thực sự liên tục, người sử dụng thường xuyên tiếng Na Mẻo không
nhiều, tập trung chủ yếu độ tuổi trung niên và cao niên, phần lớn giới trẻ hiện
nay ít hoặc không sử dụng tiếng nói của dân tộc mình khiến ngôn ngữ này
đang đứng trước nguy cơ bị mai một, thậm chí tiêu vong. Thực tế trên cho
thấy, chính quyền địa phương nếu không đưa ra các chính sách kịp thời, phù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hợp thì việc mai một ngôn ngữ của người Na Mẻo là điều hoàn toàn có thể
xảy ra. Nghiên cứu tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn là một cách để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
của người Na Mẻo, trong đó bảo tồn ngôn ngữ, văn hóa chính là mục đích
quan trọng nhất người viết muốn hướng tới.
1.3. Bản thân tác giả là cũng là người DTTS, sinh ra và lớn lên trên mảnh
đất Tràng Định giàu truyền thống văn hóa, lịch sử. Nhận thức được thực trạng sử
dụng ngôn ngữ ở huyện Tràng Định nói chung, của người Na Nẻo nói riêng, với
tình yêu quê hương, xứ sở, thông qua luận văn này, tác giả mong muốn bày tỏ
tình yêu đối với mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, đồng thời, luôn thường
trực một tâm ý gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền, đặc biệt là tiếng
nói khi những biểu hiện mai một của nó ngày càng rõ rệt.
1.4. Việc nghiên cứu về ngôn ngữ mai một ở Việt Nam đã được các nhà
khoa học quan tâm. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn các ngôn
ngữ mai một ở Việt Nam chưa được giải quyết. Trong bối cảnh đó, đề tài cấp
quốc gia: Nghiên cứu chính sách và giải pháp bảo tồn những ngôn ngữ dân tộc
thiểu số có nguy cơ mai một (Mã số: ĐTĐLXH - 01/18) được thực hiện trong kế
hoạch 2018-2020. Đề tài do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lí, Trường Đại học
Sư phạm, thuộc Đại học Thái Nguyên là cơ quan thực hiện đề tài. Đề tài có các
nhiệm vụ chính sau đây:
Điều tra nghiên cứu, xác lập danh sách ngôn ngữ mai một ở Việt Nam;
Phân loại, đánh giá các ngôn ngữ mai một theo mức độ ở Việt Nam;
Xây dựng bộ cơ sở dữ liệu ngôn ngữ mai một ở Việt Nam.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, việc thu thập tư liệu các ngôn ngữ có nguy
cơ mai một là rất cần thiết. Đề tài tập trung điều tra nghiên cứu 33 ngôn ngữ được
dự báo có nguy cơ tiêu vong. Một trong 33 ngôn ngữ đó là ngôn ngữ Na Mẻo.
Xuất phát từ những lí do trên, đề tài“Tình hình sử dụng ngôn ngữ của
người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn”1 đã được lựa chọn để thực
1 Luận văn là sản phẩm NCKH Nhà nước. Mã số ĐTĐLXH – 01/18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện trong luận văn này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Từ việc tìm hiểu và khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na
Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, luận văn nhằm mô tả những đặc điểm
về tình hình sử dụng ngôn ngữ của nhóm người Na Mẻo ở địa phương này. Qua
đó, giải thích nguyên nhân, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển ngôn
ngữ; đưa ra những kiến nghị, giải pháp về sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt
hàng ngày, trong hoạt động giáo dục và truyền thông của đồng bào Na Mẻo ở
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
2.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và miêu tả tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
- Giải thích, phân tích thực trạng tình hình sử dụng ngôn ngữ của người
Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất một số chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn, nâng cao khả năng
sử dụng ngôn ngữ cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình sử dụng các ngôn ngữ trong
sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục và trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Các cộng tác viên được chọn là người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, cụ thể
là xã Cao Minh và Khánh Long, vì đây là các địa phương được cho là quê hương
của người Na Mẻo, đồng thời có số lượng người Na Mẻo cư trú đông và tập trung
nhất (so với các địa phương khác có đồng bào Na Mẻo sinh sống). Cụ thể.
- Để tìm hiểu tình hình sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày và
trong truyền thông, chúng tôi lựa chọn đối tượng nghiên cứu là 125 người,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được phân bố ở các địa bàn cư trú như sau: xã Cao Minh 93 người (chiếm
74,4%), xã Khánh Long 32 người (chiếm 25,6%). Tiêu chí lựa chọn mẫu điều
tra được nhóm nghiên cứu đặt ra là đối tượng phải đảm bảo độ phủ về lứa tuổi,
nghề nghiệp, trình độ văn hóa, giới tính:
+ Về giới tính: nam 60 người (chiếm 48,2% ) và nữ 65 người (chiếm 51,8%).
+ Về độ tuổi: dưới 18: 40 người (chiếm 32%); từ 18-30: 30 người (chiếm
24%); từ 30-60: 30 người (chiếm 24%); trên 60: 25 người (chiếm 20%)
+ Về nghề nghiệp: làm ruộng: 60 người (chiếm 48%); Học sinh: 40
người (chiếm 32%); Cán bộ: 25 người (chiếm 20%)
+ Về học vấn: Không đi học: 23 người (chiếm 18,4%); Tiểu học: 35 người
(chiếm 28%); Trung học cơ sở: 27 người (chiếm 21,6%); Trung học phổ thông: 25
người (chiếm 20%); Trung cấp, Cao đằng, Đại học: 15 người (chiếm 12%).
- Để tìm hiểu về tình hình sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường, chúng tôi
lựa chọn 40 mẫu điều tra (40 HS người Na Mẻo) trên cơ sở số lượng HS bậc tiểu
học và Trung học cơ sở đang học tập tại Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu
học Trung học cơ sở Cao Minh (TH THCS CM), Trường Phổ thông dân tộc bán
trú Tiểu học Trung học cơ sở Khánh Long (TH THCS KL). Tiêu chí lựa chọn
mẫu điều tra được nhóm nghiên cứu đặt ra là mẫu điều tra phải đảm bảo độ phủ
về lứa tuổi, cấp học, đảm bảo tỉ lệ về giới tính. Số lượng cụ thể như sau:
- Trường TH THCS CM:
+ Theo lớp học: Lớp 5: 7 HS; Lớp 7: 6 HS; Lớp 9: 7 HS
+ Theo giới tính: Nam: 8 HS; Nữ 10 HS
- Trường TH THCS KL
+ Lớp 5: 6 HS; Lớp 7: 7 HS; Lớp 9: 7 HS
+ Theo giới tính: Nam 12 HS; Nữ 10 HS
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát: Với đề tài này, luận văn giới hạn phạm vi khảo sát ở
hai xã Khánh Long, Cao Minh để tìm hiểu kĩ hơn thực tế sử dụng ngôn ngữ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người Na Mẻo.
Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu một số
vấn đề như:
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày (bao gồm việc
sử dụng TV, TMĐ và ngôn ngữ của dân tộc khác trong các phạm vi giao tiếp
khác như ở gia đình, ở làng bản, ở trường học, ở chợ, trong lễ hội…
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân đối với
HS các cấp trong xã. Thái độ ngôn ngữ của HS nơi đây đối với việc sử dụng
ngôn ngữ làm phương tiện truyền thụ kiến thức và vấn đề học TMĐ.
- Thực trạng sử dụng ngôn ngữ (TV, tiếng DTTS) trong hoạt động truyền thông
Từ kết quả thu được, chúng tôi thử đề xuất một số chính sách và giải
pháp trong việc bảo tồn và phát triển TMĐ của người Na Mẻo, vấn đề giáo dục
và sử dụng TV, tiếng DTTS trong hoạt động giáo dục và đời sống xã hội của
đồng bào Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp ngôn ngữ học điền dã
Phương pháp ngôn ngữ học điền dã được sử dụng trong việc thu thập tư
liệu bao gồm việc điền dã, phỏng vấn, quan sát các tình huống giao tiếp. Cụ thể,
chúng tôi sẽ tiến hành điều tra thực tế bằng anket kết hợp với quan sát, trò chuyện
và phỏng vấn sâu. Bảng phỏng vấn sâu và nội dung trò chuyện đã được chuẩn bị
sẵn với các phần chính như: tình hình sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng
ngày, tình hình sử dụng ngôn ngữ trong giáo dục và tình hình sử dụng ngôn ngữ
trong hoạt động truyền thông.
5.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả (gồm các thủ pháp giải thích bên trong và thủ pháp
giải thích bên ngoài) được sử dụng khi trình bày thực trạng, mô tả những đặc
điểm về tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định
tỉnh Lạng Sơn. Từ đó, phân tích về cảnh huống ngôn ngữ của người dân ở đây.
Trên cơ sở đó, phân tích, đề xuất những chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nâng cao năng lực sử dụng TV, TMĐ của người Na Mẻo.
5.3. Phương pháp điều tra xã hội ngôn ngữ học
Phương pháp điều tra xã hội ngôn ngữ bao gồm nhiều phương pháp nhỏ
khác nhau như phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, điều tra bằng thảo luận
nhóm, phỏng vấn sâu.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ như
thủ pháp khảo sát, thống kê để định lượng các yếu tố có liên quan đến tình hình
sử dụng ngôn ngữ, từ đó có cơ sở để rút ra các nhận xét, kết luận về đối tượng
được khảo sát.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lí luận
Luận văn “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống về tình hình sử dụng ngôn ngữ và thái độ của người Na Mẻo
đối với việc sử dụng ngôn ngữ ở địa phương này. Kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ cung cấp thêm tài liệu cho nghiên cứu cảnh huống ngôn ngữ ở một địa
phương theo định hướng nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội. Đồng thời, luận
văn có thể mang lại những kinh nghiệm nghiên cứu quý cho những người quan
tâm trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, luận văn có thể coi là sự đóng góp về tư liệu và cách nhìn
nhận phục vụ cho việc dạy học, truyền thông và phát triển văn hóa trên địa bàn
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được coi là những luận cứ có giá
trị để Đảng và Nhà nước ta nói chung, các nhà lãnh đạo ở huyện Tràng Định,
tỉnh Lạng Sơn nói riêng hoạch định chính sách về ngôn ngữ - xã hội tại huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn trong mối quan hệ với các địa phương khác trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục - truyền thông.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận
văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của
người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
Chương 3: Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường và trong hoạt
động truyền thông của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
Chương 4: Đề xuất chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn ngôn ngữ
và nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ cho người Na Mẻo ở huyện Tràng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Định, tỉnh Lạng Sơn
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Dẫn nhập
Chương này trình bày một cách tổng quan có lựa chọn các công trình
nghiên cứu liên quan đến cảnh huống ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ
từ các quan điểm khác nhau và xác định cơ sở lí thuyết cho đề tài từ những
nghiên cứu mang tính lý luận về cảnh huống ngôn ngữ, tình hình sử dụng ngôn
ngữ, song ngữ / đa ngữ, năng lực giao tiếp, thái độ ngôn ngữ, vấn đề giáo dục
ngôn ngữ ở vùng đồng bào DTTS, vấn đề truyền thông ở vùng đồng bào DTTS.
Ngoài ra, chương này còn đưa ra các cơ sở thực tế cho đề tài. Đó là các đặc điểm
khái quát về tự nhiên, kinh tế xã hội, dân cư,... ở địa bàn khảo sát. Nội dung của
chương được chia làm 2 phần chính: phần 1 trình bày tổng quan tình hình nghiên
cứu, phần 2 là cơ sở lí thuyết và cơ sở thực tiễn.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Vấn đề nghiên cứu về cảnh huống ngôn ngữ và tình hình sử dụng
ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất đối với con người,
đồng thời nó cũng là công cụ của tư duy, là một thành tố không thể thiếu của văn
hóa. Nhìn vào ngôn ngữ của một dân tộc, chúng ta biết được những đặc trưng
trong văn hóa, đời sống của dân tộc ấy. Bởi lẽ, ngôn ngữ là một trong những tiêu
chí để xác định thành phần dân tộc. Việc xác định được tình hình sử dụng ngôn
ngữ, cảnh huống ngôn ngữ của một dân tộc, một địa phương cụ thể có thể giúp
hoạch định được đường lối, chính sách phát triển ngôn ngữ cho dân tộc hoặc địa
phương đó, từ đó góp phần bảo tồn, phát triển bền vững vùng DTTS.
Từ trước đến nay đã có khá nhiều công trình, bài viết của các tác giả
nghiên cứu về cảnh huống ngôn ngữ. Trên thế giới, một số tên tuổi đi đầu trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lĩnh vực nghiên cứu này là A. E. Karlinskij, V. C. Rubalkin., Mikhal’chenko V.
Ju với các công trình Những vấn đề dân tộc - ngôn ngữ ở Liên bang Nga; Cảnh
huống ngôn ngữ và chính sách ngôn ngữ ở Liên Bang Nga. Trạng thái và viễn
cảnh. Những công trình này đã trở thành những tài liệu tham khảo quý cho giới
ngôn ngữ học, khi các tác giả đã phân tích những đặc điểm trong cảnh huống
ngôn ngữ, đồng thời đi sâu tìm hiểu về các chính sách ngôn ngữ ở một quốc gia
đông dân tộc như Liên bang Nga.
Theo R. Hall, nghiên cứu cảnh huống ở các cộng đồng song ngữ cần tập
trung một số nội dung sau đây:
- Hoàn cảnh, trong đó xuất hiện các trạng thái song ngữ như: 1) Việc
cùng tồn tại các nhóm thuộc hai đơn vị ngôn ngữ khác nhau; 2) Áp lực của
nhóm này đối với một nhóm khác (thực dân hóa); 3) Nhu cầu tiếp xúc với thế
giới bên ngoài thuộc các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, v.v…
- Các điều kiện làm cho song ngữ phát triển như: 1) Các ngôn ngữ hoàn
toàn xa lạ (thực dân hóa); 2) Các ngôn ngữ thân thuộc; 3) Các ngôn ngữ thân
thuộc gần hơn; 4) Các ngôn ngữ chuẩn hóa có liên hệ chặt chẽ với nhau; 5) Các
ngôn ngữ chưa chuẩn hóa có liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Tình hình ở các quốc gia đa ngữ gồm: 1) Số lượng người nói ngôn ngữ
hay ngôn ngữ khác như nhau; 2) Số lượng người nói ngôn ngữ thứ hai nhiều
hơn số lượng người nói ngôn ngữ thứ nhất (TMĐ); 3) Số lượng người nói ngôn
ngữ thứ nhất (TMĐ) đông hơn số lượng người nói ngôn ngữ thứ hai.
- Ý nghĩa của tác động qua lại giữa các nhóm ngôn ngữ. Cụ thể: 1) Sự
tác động qua lại trên cơ sở bình đẳng về chính trị và bình đẳng truớc pháp luật;
2) Sự tác động qua lại trên cơ sở bình đẳng về chính trị nhưng không bình đẳng
truớc pháp luật.
- Ảnh hưởng của các nhân tố tập trung của người nói đối với ngôn ngữ
thứ hai. Các nhà ngôn ngữ học xã hội đã dựa vào các quan niệm trên để đưa ra
ba tiêu chí tổng hợp về cảnh huống ngôn ngữ, đó là: tiêu chí về lượng, tiêu chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
về chất và tiêu chí về thái độ ngôn ngữ.
- Tiêu chí về lượng gồm: Số lượng ngôn ngữ trong xã hội đa ngữ, số
lượng biến thể ngôn ngữ trong xã hội đa phương ngữ; Số lượng người sử dụng
từng ngôn ngữ, biến thể ngôn ngữ trong quan hệ với số lượng chung cư dân
khu vực đó; Phạm vi giao tiếp của từng ngôn ngữ trong quan hệ chung với số
lượng các phạm vi giao tiếp; Số lượng ngôn ngữ, biến thể ngôn ngữ nổi trội
về mặt chức năng.
- Tiêu chí về chất gồm các thông số: Các ngôn ngữ trong xã hội đa ngữ
có phải là biến thể của một ngôn ngữ, hay là các ngôn ngữ độc lập; Quan hệ
giữa các ngôn ngữ về cấu trúc và cội nguồn: các ngôn ngữ giống nhau hay khác
nhau về loại hình, cội nguồn, mức độ quan hệ cội nguồn; Tính chất cân bằng
hay không cân bằng về chức năng của các ngôn ngữ.
- Tiêu chí về thái độ ngôn ngữ thể hiện thái độ của cư dân đối với với
từng ngôn ngữ, biến thể của ngôn ngữ của cộng đồng mình hay cộng đồng khác
về tính hữu ích, giá trị văn hóa
Ở Việt Nam, nghiên cứu ngôn ngữ DTTS từ lâu đã trở thành mảnh đất
màu mỡ cho các nhà khoa học. Lĩnh vực này không chỉ thu hút những chuyên
gia về ngôn ngữ học mà còn tập hợp được một đội ngũ những nhà nghiên cứu
từ khắp các chuyên ngành khác nhau. Trong đó, nghiên cứu về cảnh huống
ngôn ngữ luôn được các nhà khoa học quan tâm.
Năm 2002, Viện Ngôn ngữ học cho xuất bản công trình Cảnh huống và
chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. Trong tài liệu này, các tác giả đã phân tích,
đánh giá một cách kĩ lưỡng, khảo sát cụ thể tỉ mỉ nhằm đưa ra những đặc điểm
về cảnh huống trong bức tranh ngôn ngữ ở nước ta.
Nguyễn Đức Tồn với công trình Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở
Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế (2016) đã đưa ra khá đầy đủ, hệ thống những cơ sở lí luận, thực tiễn,
kinh nghiệm về lĩnh vực nghiên cứu này ở hai nước Liên bang Nga và Việt
Nam. Tác giả đã chỉ ra những đặc điểm về cảnh huống ngôn ngữ của 3 vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đông Bắc, Trung Bộ, Nam Bộ, từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp đối
với chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam. Tuy vậy, công trình này mới chỉ nghiên
cứu dựa trên một vài trường hợp cụ thể (như Thái Nguyên, Hà Giang, Đắc Lăk)
mà chưa nghiên cứu sâu bức tranh chung về cảnh huống ngôn ngữ của một khu
vực nhỏ hơn địa giới tỉnh (các huyện).
Ngôn ngữ, chữ viết các DTTS ở Việt Nam (những vấn đề chung) (2016)
do các tác giả Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi, Tạ Văn Thông biên soạn
đã dành một dung lượng khá lớn trình bày về cảnh huống ngôn ngữ các DTTS ở
Việt Nam. Các tác giả đã trích dẫn nhiều khái niệm cảnh huống ngôn ngữ của
một số nhà nghiên cứu, từ đó chỉ ra rõ các nội dung của cảnh huống ngôn ngữ
nói chung. Các tác giả cũng đi sâu phân tích các đặc điểm của cảnh huống ngôn
ngữ Việt Nam như đặc điểm về số lượng dân tộc, ngôn ngữ, đặc điểm về quan hệ
cội nguồn, loại hình, đặc điểm về sự hình thành và phát triển của các dân tộc,
ngôn ngữ, thái độ ngôn ngữ ở các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam. Tuy vậy, đây
đều là những cơ sở lí luận chung, tập thể tác giả chưa đi sâu nghiên cứu tình hình
sử dụng ngôn ngữ ở một địa bàn cụ thể.
Nghiên cứu về cảnh huống ngôn ngữ ở một địa phương cụ thể gần đây
cũng đã có nhiều công trình khoa học, đặc biệt là những nghiên cứu của các
học viên cao học, nghiên cứu sinh. Ba luận văn Thạc sĩ Cảnh huống ngôn ngữ
ở Hà Giang (Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2001) Cảnh huống ngôn ngữ ở Thái
Nguyên ( Dương Thị Thanh Hoa, 2010), Cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Sìn Hồ
tỉnh Lai Châu (Nguyễn Thái Dũng, 2015) cùng với bài báo Một vài đặc điểm về
cảnh huống ngôn ngữ ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La (Bùi Thanh Hoa) và
khóa luận tốt nghiệp Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Nùng ở huyện Yên
Thế tỉnh Bắc Giang (Nông Thị Ánh, 2018) là những công trình đã nghiên cứu
cảnh huống ngôn ngữ ở một địa phương, cụ thể là trong phạm vi một huyện,
tỉnh. Các tác giả đã chỉ ra tình hình sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc tại các
địa phương Hà Giang, Thái Nguyên, Yên Thế, Thuận Châu,... trong các hoàn
cảnh, với các mục đích khác nhau như giao tiếp, học tập, giáo dục, buôn bán,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyền thông... từ đó phân tích, lí giải nguyên nhân và đưa ra một số kiến nghị
về chính sách ngôn ngữ. Những công trình này có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở
để các nhà hoạch định chính sách đưa ra những biện pháp cụ thể về chính sách
ngôn ngữ ở các địa phương kể trên.
Là một trong những đặc điểm quan trọng trong việc xác lập cảnh huống
ngôn ngữ, tình hình sử dụng ngôn ngữ cũng là một đối tượng nghiên cứu được
nhiều nhà khoa học quan tâm như Hoàng Văn Ma với Cảnh huống tiếng Nùng
(2002); Phạm Văn Hảo, Vũ Bá Hùng và Hà Quang Năng với bài nghiên cứu Cảnh
huống tiếng Thái (2002),... Nguyễn Hữu Hoành đã cho công bố nhiều bài viết như
Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Hmông, Tình hình giao tiếp ngôn ngữ của
các DTTS trên địa bàn xã Noong Lay, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Hay như
tác giả Tạ Văn Thông với bài Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong trường tiểu học
Chiềng Xôm; Tạ Văn Thông và Nguyễn Hữu Hoành với bài Đời sống ngôn ngữ
của người Dao cũng là những nghiên cứu có nhiều đóng góp. Ngoài ra, cũng đã
có nhiều báo cáo tổng kết về công tác dân tộc của một số cơ quan ban ngành có đề
cập đến vấn đề này. Chẳng hạn, báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Thuận
về Tình hình sử dụng tiếng dân tộc Chăm trong đời sống hàng ngày tại Ninh
Thuận. Gần đây nhất, tác giả Nguyễn Trung Kiên cũng có một công trình nghiên
cứu về vấn đề này mang tên Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ của người
Mông tại hai địa bàn trong huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La. Trong bài viết này, tác giả
đã mô tả tình hình và thái độ sử dụng TV, TMĐ, tiếng khác và ngoại ngữ của
người Mông ở bản Khe Cái (xã Tà Xùa) và bản Mòn (xã Hua Nhàn) thuộc huyện
Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Tác giả phân tích khá chi tiết khả năng ngôn ngữ và tình
hình sử dụng ngôn ngữ của người Mông trong những hoàn cảnh và đối tượng giao
tiếp khác nhau từ đó làm nổi bật thói quen sử dụng ngôn ngữ của họ. Những công
trình trên, mặc dù có thể có những cách tiếp cận khác nhau, song hầu hết các tác
giả đều đã đưa ra những số liệu cụ thể, khẳng định tình hình sử dụng ngôn ngữ ở
các vùng DTTS ở nước ta hiện nay là khá phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và có những giải pháp phù hợp.
Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam nói chung, theo khảo sát của
chúng tôi, các công trình xuất bản trong nước đã nghiên cứu một cách khá chi
tiết, bài bản về những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến cảnh huống
ngôn ngữ, tình hình sử dụng ngôn ngữ. Song, số lượng các công trình nghiên
cứu toàn diện các vấn đề thuộc tình hình sử dụng ngôn ngữ của một nhóm
người ở một địa phương chung rất ít ỏi, đặc biệt là người Na Mẻo ở một huyện
Tràng Định là chưa có. Như vậy, có thể nói luận văn “Tình hình sử dụng ngôn
ngữ của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn” được xác định là
hoàn toàn mới, không có sự trùng lặp với công trình của những người đi trước.
1.2.2. Vấn đề nghiên cứu về dân tộc Mông, người Na Mẻo và tiếng Na Mẻo
Mông (H’Mông, Hmông) là một trong những DTTS có dân số đông ở Việt
Nam, sống chủ yếu trên những vùng núi có độ cao từ 1.000 m trở lên ở các tỉnh
miền núi phía Bắc, miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An và các tỉnh Tây Nguyên. Cùng
với 53 dân tộc anh em, người Mông luôn là một phần trong sự thống nhất của khối
đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú văn hoá các dân tộc Việt Nam.
Người Mông được phân biệt thành nhiều nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông
Đu (Mông Đen), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Si (Mông Đỏ), Mông Sua
(Mông Xanh), Mông Xúa (Mông Mán) và nhóm Na Mẻo. Sở dĩ người Mông
được phân biệt thành các nhóm như vậy là dựa trên sự khác nhau về trang phục và
ngôn ngữ giữa các nhóm Mông. Ví dụ người Mông Trắng mặc váy màu trắng,
người Mông Đen thì mặc váy thiên về màu đen nhiều hơn. Ngoài ra, các nhóm
người Mông còn được phân biệt dựa trên ngôn ngữ. Mỗi nhóm Mông có những từ
vựng cơ bản giống nhau nhưng cũng có rất nhiều từ địa phương khác nhau.
Nghiên cứu về dân tộc này, từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học trong nhiều lĩnh vực như dân tộc học, văn hóa học, nhân học, lịch sử,
ngôn ngữ học,... Một số công trình khoa học có thể kể đến như Bảo tồn và phát
huy văn hóa dân tộc mông trên chương trình truyền hình tiếng mông VTV5 của Lí
Thị Dinh; Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao đời sống về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn hóa xã hội của đồng bào dân tộc Hmông trên địa bàn tỉnh Lào Cai của Ban
Dân vận Tỉnh Ủy Lào Cai, Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin Lành ở tỉnh
Lào Cai của Nguyễn Quỳnh Trâm,... Các công trình trên đã phần nào cho thấy
được bức tranh đời sống văn hóa xã hội của dân tộc Mông. Nghiên cứu sâu về
ngôn ngữ của dân tộc này, theo tìm hiểu của chúng tôi, cần phải kể đến Ngữ pháp
tiếng Hmông của nhóm tác giả Nguyễn Văn Lợi, Tạ Văn Thông, Hoàng Văn Ma,
Lý Thị Hoa. Các tác giả đã làm rõ không chỉ về nguồn gốc của tộc người này mà
còn cho thấy những đặc điểm trong ngữ pháp của tiếng Mông hiện nay.
Cần lưu ý rằng, dân tộc Mông và ngôn ngữ Mông ở Việt Nam không đồng
nhất. Tức là không phải cứ là người Mông thì nói tiếng Mông. Theo nhóm tác giả
Nguyễn Văn Lợi, Tạ Văn Thông, Hoàng Văn Ma, Lý Thị Hoa, khi di cư đến Việt
Nam cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, ngoài bộ phận có tên tự gọi là Mông, còn
có một nhóm khác tự gọi là Na Miểu Sla vốn thuộc nhóm Miêu Đen ở đông Quý
Châu. Ban đầu, họ di cư đến Thạch An (Cao Bằng), Tràng Định (Lạng Sơn), sau
đó lại chuyển đến một số địa điểm khác ở Sơn Dương (Tuyên Quang), Kon Tum.
Trong việc xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam, nhóm người Na Miểu Sla
được xác định là nhóm địa phương của dân tộc Mèo (tên trước năm 1979) hay dân
tộc Mông sau này. Kết quả là ở Việt Nam, dân tộc Mông gồm hai bộ phận: một bộ
phận tự gọi là Hmông, một bộ phận tự gọi là Na Miểu Sla (Na Mẻo). Về ngôn
ngữ, tiếng nói của hai nhóm này hoàn toàn khác nhau: tiếng nói của nhóm Na
Miểu Sla không thuộc nhóm ngôn ngữ Mông.
Cho đến nay, theo tìm hiểu của tác giả luận văn, chưa có nhiều công
trình chính thức nào nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về tiếng Na Mẻo. Gần đây
nhất, tác giả luận văn đã công bố bài viết Giao tiếp ngôn ngữ của HS người Na
Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Qua tìm hiểu, người Na Mẻo ở Việt
Nam di cư từ Trung Quốc sang, mặc dù được xếp vào dân tộc Mông nhưng
nhóm người này có ngôn ngữ và văn hóa khác biệt hoàn toàn với các nhóm dân
cư đồng tộc khác. Tuy nhiên, chúng tôi mới chỉ tập trung làm rõ đặc điểm sử
dụng ngôn ngữ của HS người Na Mẻo, tức là trong môi trường giáo dục, còn
những hoàn cảnh khác như sinh hoạt hàng ngày, hoạt động truyền thông, bài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
viết chưa làm sáng tỏ.
Trong một số bài viết, các tác giả đã nhắc tới tiếng Na Mẻo với tư cách là
một ngôn ngữ DTTS có nguy cơ mai một. Trong thang mức độ nguy cấp,
Nguyễn Văn Lợi đã chia ra 4 cấp: Ngôn ngữ nguy cấp cao - Số lượng người nói
dưới 100 người; Ngôn ngữ nguy cấp - Số lượng người nói dưới 1000 người;
Ngôn ngữ đang bị mai một - Số lượng người nói dưới 10000 người; Ngôn ngữ
có nguy cơ mai một - Số lượng người nói dưới 50000 người. Theo đó, tiếng Na
Mẻo ở Việt Nam được xếp vào nhóm Ngôn ngữ đang bị mai một, tức số lượng
người nói dưới 10000 người.
Tương tự, dựa vào năm mức độ mai một mà UNESCO đề nghị, Trần Trí
Dõi cũng đưa ra bảng xếp loại:
(1) Ngôn ngữ đã tiêu vong
(2) Ngôn ngữ, thổ ngữ đang ở tình trạng cực kì nguy cấp
(3) Ngôn ngữ, thổ ngữ có nguy cơ bị mai một nghiêm trọng
(4) Ngôn ngữ, thổ ngữ có nguy cơ mai một rõ ràng
(5) Ngôn ngữ, thổ ngữ dễ bị tổn thương
Trong đó, tác giả xếp tiếng Na Mẻo là ngôn ngữ dễ bị tổn thương
Tổ chức UNESCO phân loại các ngôn ngữ mai một theo mức độ mai một
từ thấp - dễ bị tổn thương, đến mức cao nhất là ngôn ngữ tiêu vong như sau:
1- Dễ bị tổn thương - hầu hết trẻ em của tộc người đều nói ngôn ngữ mẹ
đẻ, nhưng bị giới hạn ở một số lĩnh vực giao tiếp nhất định (ví dụ: trong giao
tiếp gia đình, làng bản).
2- Chắc chắn bị đe dọa - Trẻ em không còn học ngôn ngữ với tư cách
ngôn ngữ mẹ đẻ trong gia đình.
3- Bị đe dọa nghiêm trọng - ngôn ngữ tộc người được ông bà và các thế
hệ già sử dụng; trong khi thế hệ cha mẹ có thể hiểu ngôn ngữ đó, tuy nhiên họ
không sử dụng để giao tiếp với con cái họ.
4- Cực kỳ nguy cấp - những người có thể sử dụng ngôn ngữ là thế hệ già,
và họ sử dụng ngôn ngữ không thường xuyên, chỉ trong một vài lĩnh vực.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
5- Tiêu vong: không còn ai sử dụng với tư cách ngôn ngữ mẹ đẻ.
Dựa vào tư liệu khảo sát và quan sát, chúng tôi nhận thấy, tiếng Na Mẻo
hiện nay là một ngôn ngữ dễ bị tổn thương. Bởi lẽ hầu hết trẻ em người Na
Mẻo có thể nói được TMĐ, song chủ yếu được sử dụng trong gia đình, làng
xóm. Các hoàn cảnh rộng hơn ở ngoài xã hội như đi họp, đi chợ,... trẻ em Na
Mẻo không nói ngôn ngữ của dân tộc mình.
Như vậy, có thể thấy, dù ở thang đo nào, tiếng Na Mẻo cũng là ngôn ngữ
đang có nguy cơ mai một hoặc đang bị mai một. Điều đó cho ta thấy, cần có
những chính sách phù hợp để bảo tồn văn hóa người Na Mẻo nói chung và ngôn
ngữ Na Mẻo nói riêng.
1.3. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.3.1. Những vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.3.1.1. Cảnh huống ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ
Cảnh huống ngôn ngữ là một khái niệm cơ bản của ngôn ngữ học xã hội.
Nó có vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa ra các chính sách ngôn ngữ.
Hiện nay, khái niệm cảnh huống ngôn ngữ này vẫn được định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau nhưng nhìn chung, các nhà khoa học đã đưa ra được những đặc
điểm cơ bản của cảnh huống ngôn ngữ.
Ở nước ngoài, có nhiều tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về vấn đề
này như V. YU. Mikhailchenko, A. E. Karlinskij, Iu. A. Zhluktenko, V. C.
Rubalkin, V. A. Tkachenko… V.YU. Mikhalchenko cho rằng: “Cảnh huống
ngôn ngữ là sự phân bố đã được hình thành trong suốt thời gian dài trên một
lãnh thổ nhất định những hình thức tồn tại khác nhau (ngôn ngữ văn học, khẩu
ngữ, các phương ngữ) và những hình thức thể hiện khác nhau (nói và viết) của
các ngôn ngữ đang hành chức trên lãnh thổ này” [50, tr.138]
Các nhà khoa học trong nước như Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Văn Lợi,
Trần Trí Dõi,.. cũng có nhiều công trình nghiên cứu cảnh huống ngôn ngữ.
Tác giả Nguyễn Văn Lợi nêu lên quan điểm về cảnh huống ngôn ngữ
như sau: “Cảnh huống ngôn ngữ là toàn bộ các hình thái tồn tại (bao gồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cả các phong cách) của một ngôn ngữ, hay toàn bộ các ngôn ngữ trong mối
quan hệ tương hỗ về lãnh thổ - xã hội và sự tương tác về mặt chức năng,
trong giới hạn của một khu vực địa lí, hay một lãnh thổ hành chính- chính trị
nhất định” [23, tr.35]
Trong Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, các tác giả cho
rằng cảnh huống ngôn ngữ được hiểu là khái niệm thuộc văn hoá tinh thần (hay
văn hoá phi vật thể) của cộng đồng tộc người hay liên cộng đồng tộc người,
định hình trong tiến trình lịch sử lâu dài trên một vùng lãnh thổ (một quốc gia
hay một khu vực) phản ánh trạng thái tồn tại và các hình thái thể hiện sự hành
chức của ngôn ngữ, quan hệ giữa các ngôn ngữ về mặt cội nguồn và loại hình,
sự tiếp xúc và tác động qua lại giữa các ngôn ngữ với nhau [51, tr.7].
Một số tác giả cũng đửaa quan điểm của mình về vấn đề này. Theo họ,
“cảnh huống ngôn ngữ với tư cách là giai đoạn phát triển nhất định của đời
sống ngôn ngữ xã hội, một mặt thường được quyết định một cách tự phát bởi
những nhân tố dân tộc dân số học, xã hội kinh tế hiện hành và những nhân tố
thuần ngôn ngữ học, mặt khác bằng chính sách ngôn ngữ được thi hành một
cách có ý thức dựa trên những nguyên tắc hệ tư tưởng và pháp luật của một chế
độ xã hội nhất định, một giai cấp hoặc một tầng lớp thống trị nhất định. Cảnh
huống ngôn ngữ không những bị thay đổi cùng sự thay đổi của chế độ xã hội, mà
còn tiến triển trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội” [49, tr.88].
Điểm chung của các tác giả khi đưa ra khái niệm về cảnh huống ngôn
ngữ đó là đều nhấn mạnh vào số lượng ngôn ngữ được sử dụng và sự hành
chức của các ngôn ngữ ấy trong một địa phương nhất định, bao gồm cả sự tiếp
xúc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các ngôn ngữ.
Như vậy, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về khái niệm cảnh huống ngôn
ngữ, tuy nhiên, trong công trình này, để làm cơ sở lí luận cho đề tài, chúng tôi theo
quan điểm của Nguyễn Văn Khang trong công trình Ngôn ngữ học xã hội đã định
nghĩa. Theo tác giả “Cảnh huống ngôn ngữ là tình hình tồn tại và hành chức của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các ngôn ngữ hoặc các hình thức của ngôn ngữ trong phạm vi cộng đồng xã hội
hay lãnh thổ”. [19, tr.58]. Với cách hiểu này, cảnh huống ngôn ngữ chỉ có thể giới
hạn trong phạm vi một ngôn ngữ hay một biến thể của ngôn ngữ (phương ngữ địa
lí hay phương ngữ xã hội).
Khi nghiên cứu về cảnh huống ngôn ngữ, các tác giả cũng tập trung làm
rõ các nhân tố hình thành. Theo V.YU. Mikhalchenko [50, tr.138], các nhân tố
hình thành nên cảnh huống ngôn ngữ, đó là:
- Các nhân tố dân tộc- nhân khẩu: Thành phần dân tộc của cư dân trong
một khu vực, cách cư trú của những người thuộc các dân tộc khác nhau như:
định cư hay du cư, phân tán hay tập trung..., sự phân hóa xã hội, trình độ học
vấn của họ...
- Các nhân tố ngôn ngữ học: Trạng thái cấu trúc và chức năng của một
ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ này có các phong cách chức năng, hệ thuật ngữ,
truyền thống chữ viết...hay không?
- Các nhân tố vật chất: Có các từ điển, sách hội thoại, các tài liệu để
giảng dạy, đội ngũ GV, hệ thống các lớp học ngôn ngữ... hay không?
- Nhân tố con người: Những định hướng có giá trị của người bản ngữ, sự
đồng ý học ngôn ngữ mới của họ...
Ngoài đưa ra các cách hiểu về cảnh huống ngôn ngữ, nhiều nhà khoa học
còn đưa ra cách phân loại. Tác giả Nguyễn Đức Tồn đã đưa ra một số cách
phân loại cảnh huống ngôn ngữ như sau:
- Dựa vào số lượng các ngôn ngữ, có thể chia cảnh huống ngôn ngữ một
thành tố và cảnh huống ngôn ngữ đa thành tố.
- Theo tiêu chí định chất, có thể chia ra quốc gia có cảnh huống ngôn
ngữ đơn ngữ (chỉ có 01 ngôn ngữ với các biến thể của ngôn ngữ này) và cảnh
huống ngôn ngữ đa ngữ. Các quốc gia đa ngữ có thể chia thành quốc gia có
cảnh huống ngôn ngữ đồng nguồn và quốc gia có cảnh huống ngôn ngữ phi
đồng nguồn (xét theo quan hệ cội nguồn) và cảnh huống ngôn ngữ đồng hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và cảnh huống ngôn ngữ phi đồng hình (xét về mặt loại hình).
- Theo tiêu chí năng lực giao tiếp của các ngôn ngữ, có thể chia thành
cảnh huống ngôn ngữ cân bằng (trong đó các ngôn ngữ có năng lực giao tiếp
ngang bằng nhau) và cảnh huống ngôn ngữ phi cân bằng (khi các ngôn ngữ có
năng lực giao tiếp không ngang bằng nhau).
Tựu chung lại, khi nói đến cảnh huống ngôn ngữ, cần làm rõ những nhân
tố về quan hệ cội nguồn và loại hình, về sự phân bố và biến đổi cư dân của các
cộng đồng tộc người trong một khu vực đang xét, về trình độ phát triển và các
chức năng xã hội của các ngôn ngữ, về sự tiếp xúc và tương tác giữa các ngôn
ngữ, về vị thế xã hội của TV và ngôn ngữ các DTTS, về trạng thái song ngữ và
đa ngữ, về vấn đề chữ viết.
Mặc dù đã có rất nhiều những khái niệm về cảnh huống ngôn ngữ hay
những công trình khoa học nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ của một
dân tộc, tuy nhiên, các tác giả đều chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về tình
hình sử dụng ngôn ngữ. Theo tìm hiểu của chúng tôi, các nhà khoa học Nga đã
đưa ra cách giải thích về khái niệm tình trạng ngôn ngữ là toàn bộ tất cả những
dạng biến thể xét cả về mặt chức năng, cũng như các phương tiện để biểu hiện/
thực hiện chức năng ấy. Các thành tố đặc trưng cho trạng thái ngôn ngữ được
hoàn thành từ các phong cách chức năng, ví dụ như phong cách hành chính,
khoa học và các hình thức tồn tại của ngôn ngữ ấy như phương ngữ, thổ ngữ,
các dạng thức, hình thức hiện thực hóa (Dạng thức viết, dạng thức nói) [52,
tr.272]. Tuy nhiên, để đưa ra cơ sở lí thuyết phục vụ cho đề tài, chúng tôi theo
quan điểm của Nguyễn Văn Lợi. Tác giả cho rằng “Tình hình sử dụng ngôn
ngữ (language use) là việc hành chức của các ngôn ngữ được sử dụng trong
các phạm vi giao tiếp, phong cách chức năng, đồng thời, là chức năng giao
tiếp, chức năng xã hội của các ngôn ngữ ấy ở một địa phương nhỏ”. Tức là, để
nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ của một dân tộc tại một địa phương
nhất định, cần làm rõ đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của họ trong các hoàn cảnh
giao tiếp khác nhau (như trong sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, trong hoạt
động truyền thông) và với những đối tượng giao tiếp khác nhau (như người cha
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mẹ, ông bà, anh chị em, hàng xóm, thầy cô,…).
Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện Tràng
Định, tỉnh Lạng Sơn cũng chính là đề cập đến vấn đề cảnh huống ngôn ngữ ở địa
phương: tình hình dân số và phân bố dân cư, số lượng các ngôn ngữ và chức
năng các ngôn ngữ, hiện tượng song ngữ - đa ngữ, khả năng sử dụng các ngôn
ngữ, thái độ của người dân đối với các ngôn ngữ, tình hình giáo dục ngôn ngữ ...
1.3.1.2. Song ngữ / đa ngữ
Khi nói đến song ngữ, điều phải nói đến đầu tiên chính là năng lực sử
dựng hai hay trên hai ngôn ngữ của cá nhân song ngữ. Tuy nhiên để đạt được
mức độ sử dụng hoàn toàn như nhau đối với cả hai ngôn ngữ là rất khó khăn.
Theo Nguyễn Văn Khang “Song ngữ để chỉ hiện tượng sử dụng hai hay trên
hai ngôn ngữ của người song ngữ” [19, tr.113].
Cho đến nay người ta mới chỉ phân chia khả năng song ngữ của các cá
nhân song ngữ ra thành hai loại lớn, là: song ngữ hoàn toàn và song ngữ không
hoàn toàn (song ngữ bộ phận):
- Song ngữ hoàn toàn là khả năng nắm một cách chủ động, tự do như
nhau hai ngôn ngữ đến mức có thể tư duy trực tiếp bằng từng ngôn ngữ mà
không cần dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác - ngôn ngữ lí tưởng.
- Song ngữ bộ phận (song ngữ không hoàn toàn, song ngữ có điều kiện)
là trong một phạm vi cơ bản, người sử dụng có thể trình bày được ý nghĩ của
mình mà người khác hiểu được, thụ cảm được, đồng thời lại có thể hiểu được
điều người khác trình bày bằng chính ngôn ngữ đó. Đây là hiện tượng song
ngữ phổ biến.
Một trong những khái niệm liên quan trực tiếp đến khái niệm “song
ngữ” được gọi là “giao thoa”. Tác giả Nguyễn Văn Khang trình bày về giao
thoa từ hai bình diện:
- Thứ nhất là mối tương quan giữa các cấu trúc cùng các yếu tố trong cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trúc của hai hoặc hơn hai ngôn ngữ
- Thứ hai là nghiên cứu giao thoa nhằm làm sáng tỏ toàn bộ những
hiểu biết về hai (hoặc hơn hai) ngôn ngữ để có thể sử dụng chúng trong
giao tiếp, truyền đạt được điều mình muốn nói cho người khác và lĩnh hội
được điều người khác muốn truyền đạt cho mình. Mặc dù được chia tách
thành hai bình diện nhưng theo tác giả các bình diện này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Giao thoa (ngôn ngữ) là hiện tượng lệch khỏi chuẩn của một ngôn ngữ
nào đó trong lời nói của những người biết từ hai ngôn ngữ trở lên. Như vậy,
hiện tượng giao thoa ở các cá nhân song ngữ có tác động đến hiện tượng song
ngữ xã hội.
Về thuật ngữ đa ngữ, theo tìm hiểu, trước đây, người ta chỉ sử dụng thuật
ngữ song ngữ trong nghiên cứu ngôn ngữ, có lẽ vì giai đoạn đầu chỉ tập trung
nghiên cứu hai loại ngôn ngữ, số lượng những nguời biết hai ngôn ngữ có tỉ lệ
lớn. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử- xã hội, số người biết nhiều ngôn
ngữ- đa ngữ đã tăng lên và thuật ngữ đa ngữ được sử dụng rộng rãi. Đề cập đến
vấn đề này, Nguyễn Văn Khang trong đưa ra hái niệm đa ngữ gồm hai nội dung
(1) Hiện tượng một cá nhân có thể biết và sử dụng được hai hoặc trên hai
ngôn ngữ để biểu đạt. Nói cách khác, đó là nâng lực sử dụng hai hoặc trên hai
ngôn ngữ của một cá nhân
(2) Hiện tượng trong một cộng đồng xã hội sử dụng hai hoặc trên hai
ngôn ngữ để giao tiếp. Nói cách khác, đó là hiện tượng các ngôn ngữ cùng hành
chức trong một xã hội. [19, tr.114].
Tóm lại, song ngữ /đa ngữ là hiện tượng phổ biến ở tất cả các quốc gia
đa dân tộc trên thế giới. Trong nghiên cứu tình hình sử dụng ngôn ngữ của
người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, có thể thấy đây cũng chính
là một hiện tượng song ngữ / đa ngữ. Vì bên cạnh TMĐ, người Na Mẻo còn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thể sử dụng TV hay tiếng của một dân tộc khác cùng chung sống.
1.3.1.3. Năng lực giao tiếp
Tác giả Richard Ohmann đã đưa ra nhận xét về năng lực giao tiếp: Sự
khác biệt về năng lực giao tiếp có liên quan đến sự bình đẳng hay không
bình đẳng của xã hội [Dẫn theo 19, tr.185]. Năng lực giao tiếp bao gồm năng
lực tạo mã (vận dụng) và giải mã (lí giải) được thể hiện ở các mặt của hành
vi nói năng.
Đầu tiên, đó là việc sử dụng biến thể ngôn ngữ thích hợp với bối cảnh
giao tiếp. Thứ hai, có thể vận dụng ngôn ngữ như là một thủ pháp để điều tiết
mối quan hệ giữa con người với nhau. Xét theo khía cạnh này, có thể thấy năng
lực giao tiếp của người nói bao hàm cả việc tìm hiểu địa vị vốn có và hệ thống
vai của người giao tiếp ở trong một xã hội nhất định.
Ngoài ra, năng lực giao tiếp còn được nghiên cứu ở các lĩnh vực khác
của ngôn ngữ như: năng lực tạo diễn ngôn (văn bản); vấn đề lịch sự trong giao
tiếp. Theo Nguyễn Văn Khang thì: “Năng lực giao tiếp có thể được hiểu là
năng lực vận dụng ngôn ngữ để tiến hành giao tiếp xã hội” [19, tr.183]. Nội
dung của khái niệm năng lực giao tiếp là sự kết hợp linh hoạt của ba tham tố:
cấu trúc ngôn ngữ; vận dụng ngôn ngữ; đời sống xã hội. Theo tác giả, “con
người có được năng lực giao tiếp là nhờ quá trình xã hội hóa con người trong
quá trình xã hội hóa vừa học vừa tự điều chỉnh để hoàn thiện bản lĩnh về hành
vi ngôn ngữ...” [19, tr.183]. Mặt khác, trình độ giao tiếp của mỗi cá nhân con
người phụ thuộc vào các quan hệ như hoàn cảnh gia đình, sự từng trải xã hội
của từng cá nhân và cả những nhu cầu thực tế.
1.3.1.4. Thái độ ngôn ngữ
Thái độ ngôn ngữ là một vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc
lựa chọn ngôn ngữ để sử dụng ở các DTTS. Nó liên quan mật thiết đến việc bảo
tồn, duy trì phát triển TMĐ hay sự tiêu vong của ngôn ngữ TMĐ ở các DTTS
nước ta. Theo Nguyễn Văn Khang, thái độ ngôn ngữ có thể được hiểu là “sự
đánh giá về giá trị và khuynh hướng hành vi của một cộng đồng hay cá nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đối với một ngôn ngữ hoặc một hiện tượng ngôn ngữ nào đó” [19, tr.85]
Xét về phân loại, có thể chia thái độ ngôn ngữ theo ba loại lớn: thái độ
trung thành đối với ngôn ngữ; thái độ tự ti về ngôn ngữ; thái độ kì thị đối với
ngôn ngữ.
- Thái độ trung thành đối với ngôn ngữ thể hiện qua việc tiếp nhận, sử
dụng ngôn ngữ của dân tộc mình mặc dù đã thoát khỏi cộng đồng mình. Và thái
độ phản cảm với những người cùng dân tộc mình nhưng không còn nói tiếng
của địa phương mình nữa.
- Thái độ tự ti về ngôn ngữ là thái độ xuất hiện ở việc tiếp xúc giữa ngôn
ngữ của dân tộc có số lượng người sử dụng tương đối ít, lịch sử tương đối ngắn,
lưu truyền không sâu rộng với ngôn ngữ có số lượng người sử dụng tương đối
đông, lịch sử lâu dài, được lưu truyền sâu rộng.
- Thái độ kì thị về ngôn ngữ là thái độ phân biệt đối xử do thành kiến. Kì
thị ngôn ngữ này đồng nghĩa với việc đề cao, coi trọng ngôn ngữ khác.
1.3.1.5. Vấn đề giáo dục ngôn ngữ ở vùng đồng bào DTTS
Giáo dục ngôn ngữ là một vấn đề cấp thiết không chỉ được Đảng và Nhà
nước quan tâm mà còn là sự quan tâm chung của toàn xã hội. Bởi lẽ ngôn ngữ
là mã văn hóa, là nơi thể hiện tư duy của một quốc gia dân tộc, đồng thời nó là
“chìa khóa” giúp mỗi người trong xã hội kết nối với thế giới bên ngoài. Đặc
biệt, giáo dục ngôn ngữ ở vùng đồng bào DTTS lại càng quan trọng hơn cả.
Hoạt động này không chủ dừng lại ở dạy và học TV mà còn giúp các em có
tình yêu với TMĐ. Có thể hiểu giáo dục ngôn ngữ là hoạt động của GV tác
động tới HS (hay người học nói chung), nhằm làm cho HS có được một năng
lực ngôn ngữ nhất định.
Tác giả Tạ Văn Thông đã đưa ra các mô hình về giáo dục ngôn ngữ ở
vùng đồng bào các DTTS Việt Nam như sau:
Mô hình thứ nhất: “giáo dục thả nổi”: HS DTTS (có TMĐ không phải là
TV) và HS người Kinh (có TMĐ là TV) đều chỉ được giáo dục bằng một cách :
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dạy - học TV và dạy - học bằng TV.
Mô hình thứ hai: dạy và học “bơi” trong TV lúc ban đầu trước khi “thả
nổi”: dạy tập nói TV cho HS DTTS trước khi vào Tiểu học, trong các lớp Mẫu
Giáo, bằng cách làm quen với các từ ngữ, câu... của TV, có thể với sự trợ giúp
“có chừng mực” của TMĐ của HS.
Mô hình thứ ba: dạy - học TMĐ và bằng TMĐ của HS trước, sau đó
chuyển dần sang dạy - học TV và bằng TV, còn TMĐ của HS lùi xuống vị trí là
một môn học.
Mô hình thứ tư: bắt đầu dạy - học TV và bằng TV, TMĐ của HS chỉ được
dạy - học như một môn học (có thể ở giai đoạn bất kì trong từng cấp học) [56, tr.4].
Trước tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định,
tỉnh Lạng Sơn, tác giả luận văn cũng mong muốn hướng tới một trạng thái đa ngữ
có văn hóa cho đồng bào dân tộc nơi đây, đồng thời chỉ ra một mô hình giáo dục
có hiệu quả, phù hợp với CHNN tại cộng đồng người Na Mẻo. Theo chúng tôi,
mô hình giáo dục phù hợp với HS người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng
Sơn đó là mô hình thứ 2 - dạy và học “bơi” trong TV. Bởi lẽ, chúng tôi nhận thấy,
trong những năm đầu tới trường, các em còn gặp nhiều khó khăn khi học TV. Nếu
được tiếp xúc với TV từ trước, cộng với sự trợ giúp có chừng mực của TMĐ, thiết
nghĩ, khả năng ngôn ngữ của các em sẽ được nâng cao.
1.3.1.6. Vấn đề truyền thông ở vùng đồng bào DTTS
Từ trước tới nay, truyền thông luôn đóng vai trò quan trọng trong việc
cung cấp thông tin, phản ánh sự thực của đời sống xã hội. Thế nhưng, truyền
thông ở vùng đồng bào DTTS dường như chưa được quan tâm đúng mức. Tuy
vậy, hiện nay, với sự đầu tư trang thiết bị hiện đại, các đài truyền hình từ trung
ương tới địa phương đang dần hoàn thiện nhũng kênh thông tin dành cho bà
con vùng đồng bào DTTS.
Có thể hiểu truyền thông DTTS là việc làm truyền thông (báo chí, truyền
hình, phát thanh) cho đối tượng chuyên biệt là đồng bào DTTS. Theo khái niệm
này, ngôn ngữ truyền thông là điều đáng quan tâm hơn cả bởi đây chính là yếu
tố then chốt của hoạt đồng truyền thông danh cho bà con dân tộc. Theo Tạ Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thông, một số cơ sở ngôn ngữ của truyền thông DTTS như:
- Người Kinh có số dân chiếm gần tuyệt đối. TV là ngôn ngữ quốc gia,
có số lượng người nói chiếm 87%. Điều này tạo điều kiện thuận lợi phát huy vị
thế của TV.
- Phân bố đan xen là hiện tượng phổ biến của tất cả cộng đồng thuộc các
ngôn ngữ ở các khu vực ở nước ta.
- Chức năng xã hội của một ngôn ngữ cụ thể: là tiêu chí quan trọng để
đánh giá vị thế của một ngôn ngữ và là nhân tố quan trọng trong tiến trình phát
triển của ngôn ngữ DTTS.
- TV là ngôn ngữ chung, thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho xu thế
phát triển song ngữ / đa ngữ, trong đó hình thức phổ biến là song ngữ dân tộc -
Việt… và đẩy mạnh xu thế thống hợp, quy tụ…
- Sự tác động có ý thức của xã hội vào đời sống ngôn ngữ, mà biểu hiện
tập trung là chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước ta.
- Về quan hệ cội nguồn và loại hình, sự gần gũi giữa các ngôn ngữ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc giữa TV và tiếng DTTS đồng thời tăng cường vai
trò của TV.
- Xác định ngôn ngữ dùng để phát thanh (có thể tạm dựa trên mấy tiêu
chuẩn sau: có đông người nói; có nhiều dân tộc cùng sử dụng; có nền văn hóa
truyền thống dày dặn; có giao lưu văn hóa rộng rãi; có ý nghĩa chính trị - đối
ngoại quan trọng).
- Đào tạo cán bộ biên tập và phát thanh tiếng dân tộc (tiêu chuẩn: nói
thành thạo TMĐ; trẻ, có học vấn tương đối khá; có điều kiện (năng khiếu) để
đào tạo lâu dài).
- Tâm lí không muốn rời quê hương làng bản để đi học và làm việc tại
các thành phố hoặc thủ đô.
- Lựa chọn chữ viết cho phù hợp đối với những dân tộc chưa có chữ viết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Chính sách đối với những người làm phát thanh bằng tiếng dân tộc
Có thể thấy, vấn đề truyền thông DTTS đã trở thành một trong những
nhiệm vụ chính yếu và cấp bách của các cơ quan truyền thông trung ương cũng
như địa phương có đồng bào DTTS sinh sống. Việc tìm hiểu tình hình sử dụng
ngôn ngữ của người Na Mẻo ở Lạng Sơn trong lĩnh vực truyền thông cũng
chính là đề cập tới những công việc liên quan đến công tác này.
1.3.2. Những đặc điểm khái quát về địa lí, tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội,
dân cư ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
1.3.2.1. Về địa lí tự nhiên
Tràng Định là một huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lạng Sơn với diện
tích tự nhiên là 995 km². Trước đây, huyện Tràng Định thuộc tỉnh Cao Bằng,
nhưng từ năm 1956 thì chuyển về tỉnh Lạng Sơn. Huyện nằm ở phía bắc tỉnh
Lạng Sơn, phía bắc giáp huyện Thạch An (Cao Bằng), phía tây giáp huyện Na
Rì (Bắc Kạn), phía đông giáp Quảng Tây (Trung Quốc), phía nam là huyện
Bình Gia và Văn Lãng. Về đơn vị hành chính, tính đến năm 2018, huyện Tràng
Định có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Thất Khê
(huyện lỵ) và 22 xã: Bắc Ái, Cao Minh, Chi Lăng, Chí Minh, Đại Đồng, Đào
Viên, Đề Thám, Đoàn Kết, Đội Cấn, Hùng Sơn, Hùng Việt, Kháng Chiến,
Khánh Long, Kim Đồng, Quốc Khánh, Quốc Việt, Tân Minh, Tân Tiến, Tân
Yên, Tri Phương, Trung Thành, Vĩnh Tiến. Năm 2019, theo Nghị quyết 37 của
Bộ Chính trị về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã, huyện
Tràng Định chỉ còn 21 xã (tách xã Bắc Ái sáp nhập vào các xã khác).
Địa hình Tràng Định bị chia cắt mạnh, nhiều núi đất xen kẽ các thung
lũng ven sông, suối và thung lũng núi đá vôi. Độ cao trung bình 200 - 500 m,
độ dốc trung bình 25 - 300. Trên địa bàn Tràng Định có sông Bắc Khê chảy
qua. Tràng Định nằm trong vùng khí hậu á nhiệt đới gió mùa nên thiên nhiên đã
ưu ái cho Tràng Định nhiều thắng cảnh đẹp và sản vật quý như mận Thất Khê,
lê Tràng Định. Không chỉ vậy, Tràng Định còn là quê hương của nhiều món ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngon nổi tiếng như vịt quay, lợn quay, khau nhục,...
1.3.2.2. Về kinh tế, văn hóa, xã hội, dân cư
Dân số của Tràng Định là 61.755 người (năm 2016). Với đặc trưng là
một huyện miền núi nên nơi đây là nơi tập trung sinh sống của nhiều dân tộc
anh em như Tày, Nùng, Dao, Mông, Hoa,... Trong đó, dân tộc Tày Nùng có số
dân đông hơn cả, lần lượt là 28199 người và 25604 người. Chính vì vậy, tiếng
Tày Nùng là ngôn ngữ phổ thông vùng không chỉ ở Tràng Định mà còn trong
phạm vi toàn tỉnh.
Về giáo dục, Tràng Định là một huyện vùng cao biên giới của tỉnh Lạng
Sơn, bởi vậy còn gặp nhiều khó khăn. Song, được sự quan tâm của các cấp ủy
đảng, chính quyền, ngành giáo dục và đào tạo huyện Tràng Định trong những
năm vừa qua đã không ngừng cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ, tạo môi
trường học tập thân thiện, tích cực cho các em HS. Với đặc thù là một huyện có
nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống, công tác giáo dục, nhất là nâng cao năng
lực TV cho các em HS DTTS luôn được chú ý. Hệ thống giáo dục huyện Tràng
Định bao gồm đầy đủ các cấp học theo hệ thống giáo dục quốc dân, từ Mầm non
đến Trung học phổ thông. Theo đó, năm học 2018-2019, toàn huyện Tràng Định
có 11.403 HS, 57 trường từ Mầm non đến THCS, 1155 cán bộ quản lý, GV nhân
viên trong biên chế. Các nhiệm vụ, các hoạt động chuyên môn của ngành đạt
hiệu quả tương đối cao. Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ quản lí, GV được chú trọng, chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng
cao. Tỷ lệ huy động trẻ mầm non, HS phổ thông ra lớp và tỷ lệ trẻ, HS được ăn
bán trú tại trường đều được duy trì 100%. Không xảy ra dịch bệnh nghiêm trọng
và hiện tượng ngộ độc thực phẩm. chất lượng giáo dục tiểu học và trung học cở
hoàn thành lớp học đều đạt trên 98%; số HS được khen thưởng trên 59%...
Tuy nhiên, ngành giáo dục Tràng Định vẫn còn nhiều khó khăn. Trước
hết phải kể đến một số khó khăn từ tập quán, phong tục của một số dân tộc,
chẳng hạn như sự phân biệt nam nữ, tục dựng vợ gả chồng sớm… Nhiều em
sau khi học xong Tiểu học đã không tiếp tục học lên cấp Trung học cơ sở, hoặc
có nhiều em bỏ học giữa chừng. Bởi vậy, số lượng người lớn có trình độ văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hóa tiểu học là lớn nhất. Hơn nữa, những HS DTTS ở vùng sâu, vùng xa ít giao
tiếp xã hội, tiếng phổ thông chưa thuần thục, nên khi học khó tiếp thu, dẫn đến
tâm lí chán nản và bỏ học. Mặt khác, GV phần lớn là người ở vùng khác đến
công tác hoặc phần nhiều là người Kinh, người Tày Nùng chưa thông thạo
tiếng DTTS nên khó truyền đạt, giải thích bài vở cặn kẽ cho HS. Điều này dẫn
đến tình trạng có những HS bị rỗng kiến thức.
Về truyền thông, huyện Tràng Định hiện nay đã có đài phát thanh riêng.
Ngôn ngữ được sử dụng trong phát thanh truyền hình chủ yếu là TV. Hầu hết
người dân đều có ti vi hoặc đài, điện thoại, đều được tiếp cận với phim ảnh, với
các hoạt động thông tin tuyên truyền. Công tác phát thanh bằng ngôn ngữ dân
tộc được đầu tư nâng cấp cả về cơ sở vật chất lẫn chất lượng mỗi chương trình,
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Tuy vậy, việc phát thanh
bằng tiếng Na Mẻo cho cộng đồng người Na Mẻo là chưa có. Mặc dù có nhiều
thuận lợi và đã đạt được một số thành tựu trong những năm qua, song công tác
truyền thông ở vùng DTTS vẫn gặp không ít những khó khăn, còn không ít
những hạn chế. Các cơ sở vật chất tối thiểu về y tế văn hóa, thể thao, phát
thanh… đều đã xuống cấp và không đồng bộ, ảnh hưởng đến việc triển khai tổ
chức, thực hiện các hoạt động, chương trình; Hoạt động văn hóa thông tin mặc
dù đã có chú ý nhiều hơn, tích cực hơn và có hiệu quả hơn trong việc sử dụng,
phát huy ngôn ngữ các DTTS nhưng cũng còn nhiều hạn chế, chưa nhiều, chưa
đều, chưa đồng bộ, chưa thường xuyên và chưa chuẩn về mặt chất lượng…;
Trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thông tin còn thiếu và yếu ở
nhiều khâu, đa số nắm không vững tiếng DTTS, không thâm nhập được sâu
vào thực tế; Các chương trình phát thanh và truyền hình còn ít về thời lượng
phát sóng, nghèo nàn về nội dung và hình thức thể hiện, chưa thực sự hấp dẫn
và lôi cuốn đồng bào.
1.3.3. Những đặc điểm khái quát về người Mông (Na Mẻo) và tiếng Na Mẻo
ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
Tại Lạng Sơn, người Na Mẻo sống tập trung ở xã Cao Minh và xã Khánh
Long thuộc huyện Tràng Định, có số dân là 838 người (chiếm khoảng 10,4%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân số toàn huyện). Dân số dân ít, tình trạng xen cư diễn ra phổ biến (người Na
Mẻo nơi đây sống cùng các dân tộc Tày, Nùng, Dao), sự lưu truyền ngôn ngữ
giữa các thế hệ trong cộng đồng người Na Mẻo không thực sự liên tục, người
sử dụng thường xuyên tiếng Na Mẻo không nhiều, khiến ngôn ngữ này đang
đứng trước nguy cơ bị mai một.
Người Na Mẻo hay còn gọi là Na Miểu, là một nhóm hiện được xếp vào
dân tộc Mông. Theo tìm hiểu của chúng tôi, người Na Mẻo thuộc nhóm Miêu
Đen (Hắc Miêu) di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam và một số nước Đông
Nam Á từ thế kỉ XVII-XVIII. Sau năm 1975, ở các nước Đông Nam Á và một
số nước khác có người Mông cư trú, tên gọi Miêu được thay bằng Hmông (hay
Mông). Nhưng trên thực tế, tên gọi Miêu, Na Miểu, Na Mẻo mới là tên ban đầu
của họ và họ cũng tự nhận mình là Na Mẻo chứ không nhận là Mông.
Tiếng Na Mẻo thuộc họ ngôn ngữ Mông - Miền, cùng với các ngôn ngữ
Mông và Dao. Họ ngôn ngữ Mông - Miền (còn gọi là ngữ hệ Mông - Miền, hệ
ngôn ngữ Miêu - Dao, ngữ hệ Miêu - Dao) là một hệ ngôn ngữ nhỏ phân bố
tại miền nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Trước đây, các ngôn ngữ này
được xếp loại như một bộ phận của ngữ hệ Hán - Tạng và đã có lúc được xếp
vào Nam Á. Đến nay, căn cứ trên các cứ liệu và các kết quả nghiên cứu mới,
các nhà ngôn ngữ học đã thống nhất xếp chúng thành một ngữ hệ riêng - ngữ
hệ Mông - Miền. Các nhà ngôn ngữ học xác định họ này thành 35 ngôn ngữ
khác nhau. Ở Việt Nam, thuộc họ Mông - Miền gồm các ngôn ngữ: Mông,
Mùn, Miền, Na Mẻo,…
Hiện nay, người Na Mẻo không có chữ viết riêng của dân tộc mình.
Điều đó ảnh hưởng không ít đến việc bảo tồn và phát triển tiếng Na Mẻo.
Đồng thời, cũng chưa hề có những phương án đặt chữ viết cho người Na Mẻo
được đề ra, ngay cả người Na Mẻo cũng không mấy mặn mà với việc sáng tạo
ra chữ viết của họ bởi họ cho rằng không thể có chữ viết riêng cho người Na
Mẻo. So với nhiều dân tộc khác có chữ viết, đây là một điều thiệt thòi lớn đối
với cộng đồng người Na Mẻo ở Việt Nam nói chung và ở huyện Tràng Định,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
1.4. Tiểu kết
Qua những vấn đề mang tính tổng quan liên quan đến luận văn, chúng tôi
bước đầu đưa ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, vấn đề cảnh huống ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ là
những vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu từ lâu trong nghiên cứu ngôn ngữ
học. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận
cũng như thực tiễn về vấn đề này từ những góc độ khác nhau. Những công trình
này đóng góp rất nhiều cho lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ DTTS và là cơ sở cho
việc thực hiện luận văn
Thứ hai, nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ của một dân tộc ở
một địa phương cần chú ý mô tả và phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của
họ trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau (như trong sinh hoạt hàng ngày,
trong giáo dục, trong hoạt động truyền thông) và với những đối tượng giao tiếp
khác nhau (như người cha mẹ, ông bà, anh chị em, hàng xóm, thầy cô,…).
Đồng thời, phải chỉ ra số lượng các ngôn ngữ và chức năng các ngôn ngữ, hiện
tượng song ngữ - đa ngữ, khả năng sử dụng các ngôn ngữ, thái độ của người
dân đối với các ngôn ngữ, tình hình giáo dục ngôn ngữ ...
Thứ ba, các lí thuyết và phương pháp nghiên cứu của luận văn đều dựa trên cơ
sở lí luận của ngôn ngữ học xã hội. Những khái niệm liên quan đến đề tài như khái
niệm cảnh huống ngôn ngữ, tình hình sử dụng ngôn ngữ, song ngữ/ đa ngữ, ...được
sử dụng trong luận văn cũng được xác lập trên cơ sơ lí luận của ngôn ngữ học xã hội.
Thứ tư, người Na Mẻo hiện đang được xếp vào một nhánh của người
Hmông. Tuy nhiên, về văn hóa và ngôn ngữ, họ đều khác biệt với các nhóm
dân cư đồng tộc khác. Hiện nay, người Na Mẻo sinh sống tại một số tỉnh như
Lạng Sơn, Bắc Kạn. Cho đến nay, họ chỉ có tiếng nói riêng, không có chữ viết.
Ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, người Na Mẻo sống tập trung tại hai xã
Khánh Long và Cao Minh. Tuy nhiên, do lối sống cộng canh, cộng cư cùng
nhiều dân tộc khác trên địa bàn nên sự mai một ngôn ngữ và văn hóa của dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tộc này có thể nhìn thấy rõ.
Chương 2
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG SINH HOẠT
HÀNG NGÀY CỦA NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH,
TỈNH LẠNG SƠN
2.1. Dẫn nhập
Chương này tập trung miêu tả tình hình sử dụng ngôn ngữ trong sinh
hoạt hàng ngày của người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Như đã
trình bày ở phần cơ sở lí luận, có nhiều phương diện khác nhau để nghiên cứu
cảnh huống ngôn ngữ, tình hình sử dụng ngôn ngữ. Trong luận văn, khi nghiên
cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo, chúng tôi lựa chọn
những nội dung phù hợp với phạm vi nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn
ngữ của một nhóm người trên địa bàn một huyện. Theo đó, luận văn sẽ mô tả
tình trạng đa ngữ và khả năng sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo trong sinh
hoạt hàng ngày. Trạng thái đa ngữ được làm sáng tỏ qua các nội dung: số lượng
các ngôn ngữ được sử dụng, thực trạng sử dụng và vai trò của các ngôn ngữ.
Đồng thời, luận văn cũng chỉ rõ khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt
hàng ngày ở người Na Mẻo theo các biến độc lập: giới tính, nghề nghiệp, trình
độ văn hóa, độ tuổi.
2.2. Tình trạng đa ngữ là chủ yếu của người na mẻo trong sinh hoạt
hàng ngày
2.2.1. Số lượng các ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày
a. Kết quả khảo sát
Cũng như nhiều dân tộc khác ở Tràng Định, người Na Mẻo nơi đây có
thể sử dụng hơn hai ngôn ngữ. Vì vậy, trạng thái ngôn ngữ chủ yếu ở đây là đa
ngữ. Để điều tra số lượng các ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng
ngày, chúng tôi đã tiến hành khảo sát thông qua các bảng hỏi. Với câu hỏi
“Ông/ bà biết những thứ tiếng nào...” và “Ông/ bà thường sử dụng ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nào trong những trường hợp sau đây”, chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 2.1. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày
Ngôn ngữ Số lượng (người nói) Tỉ lệ (%)
TV 125/125 100%
TMĐ 125/125 100%
Tiếng Tày Nùng 90/125 72%
Tiếng Dao 28/125 22,4%
b. Nhận xét
- Trong 125 người Na Mẻo được khảo sát có 125 người (chiếm 100%) sử
dụng TV, có 125 người (chiếm 100%) sử dụng TMĐ, có 90 người (chiếm 72%)
sử dụng tiếng Tày Nùng, có 28 người (chiếm 22,4%) sử dụng tiếng Dao. Như
vậy, có thể thấy, ngôn ngữ được nhiều người sử dụng nhất đó là TMĐ và TV
(chiếm 100%). Ngoài ra, người dân còn sử dụng tiếng Tày Nùng và tiếng Dao.
Trong đó tiếng Dao được ít người sử dụng nhất (chiếm 22,4%).
- Không có người nào chỉ biết TMĐ, như vậy trạng thái ngôn ngữ của
người Na Mẻo trong sinh hoạt hàng ngày hoàn toàn là song ngữ hoặc đa ngữ,
không có đơn ngữ.
- Tất cả những người được khảo sát đều biết TV. Bởi vậy, trạng thái song
ngữ phổ biến là Na Mẻo - Việt (chiếm 100%). Hầu hết trong các hoàn cảnh giao
tiếp khác nhau, từ giao tiếp trong gia đình đến giao tiếp ngoài xã hội, từ hoàn cảnh
quy thức đến hoàn cảnh phi quy thức, người Na Mẻo đều có thể sử dụng song ngữ
TMĐ - TV. Trạng thái song ngữ phổ biến ở thế hệ trẻ, nhất là những người dưới
18 tuổi. Điều này một mặt cho thấy ý thức gìn giữ TMĐ, một mặt phản ánh một
xu thế sử dụng TV đang có chiều hướng gia tăng ở lớp người này. Lớp thứ hai
thường dùng song ngữ là thanh niên, độ tuổi từ 18 đến 30.
2.2.2. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ và vai trò của các ngôn ngữ trong sinh
hoạt hàng ngày
a. Kết quả khảo sát
Ở huyện Tràng Định, người Na Mẻo sống tập trung ở hai xã Khánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Long và Cao Minh. Giữa các xã, các bản có mối quan hệ mật thiết với nhau
trong nhiều mặt của đời sống, có sự tương đồng về tập quán, thói quen trong
lao động sản xuất cũng như sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng... Mặt khác, người
Na Mẻo còn cư trú xen kẽ cùng các dân tộc khác như Tày Nùng, Dao.. Điều
đó không chỉ dẫn đến việc tiếp biến về ngôn ngữ mà còn ảnh hưởng đến nhiều
mặt văn hóa khác. Dựa vào số lượng các dân tộc sống xen kẽ với người Na
Mẻo, có thể thấy rằng bên cạnh TMĐ và TV, người Na Mẻo còn có thể biết
và giao tiếp bằng một, hai hay thậm chí nhiều hơn hai ngôn ngữ khác của
những dân tộc cùng chung sống. Để tìm hiểu cụ thể hơn các ngôn ngữ được
sử dụng trong những hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp khác nhau, chúng tôi
đã tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 2.2: Các ngôn ngữ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày
của người Na Mẻo phân theo hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp
Ngôn ngữ
Việt Na Mẻo Na Mẻo -Việt Việt - Tày Nùng Na Mẻo -Tày Nùng Việt - Tày Nùng - Dao Hoàn cảnh
Na Mẻo - Việt- Tày Nùng 5/125 Na Mẻo- Việt- Tày Nùng- Dao 2/125 66/125 44/125 8/125 nói với
52,8% 35,2% 6,4% 4% 1,6% bố mẹ
8/83 nói với 75/83 9,7% vợ 90,4% chồng
Nói
với 36/66 29/66 1/66
các 54,5% 44% 1,5%
con
nói với
2/125 khách 123/125
1,6% người 98,4%
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Kinh
117/125 93,6% 8/125 6,4% Trong gia đình
nói với khách dân tộc mình
44/125 35,2% 70/125 56% 20/125 16%
nói với khách dân tộc khác
68/68 100% cầu cúng
ngoài 69/77 89,6% 8/77 10,4% họp ở UBND xã
xã ở chợ 48/125 38,4% 44/125 35,2% 26/125 20,8% 7/125 5,6%
hội 66/116 56,9% 18/116 15,5% 30/116 25,8% 2/116 1,8%
sinh hoạt văn hóa văn nghệ
b. Nhận xét
- Như trên đã trình bày, ngoài tiếng dân tộc mình, người Na Mẻo còn biết
các ngôn ngữ khác như: TV, tiếng Tày Nùng, tiếng Dao. Mỗi ngôn ngữ đều có vị
trí và vai trò riêng. Tuy nhiên, chung quy lại, TMĐ vẫn chiếm ưu thế trong hoàn
cảnh giao tiếp gia đình, còn TV lại được sử dụng nhiều khi giao tiếp ngoài xã hội.
Như trên đã nói, trạng thái song ngữ phổ biến là Na Mẻo - Việt. Ngoài ra,
còn có hiện tượng song ngữ Na Mẻo - Tày Nùng và Việt - Tày Nùng. Trạng thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
song ngữ Na Mẻo - Tày Nùng chỉ xuất hiện trong một hoàn cảnh đó là khi nói
chuyện với bố mẹ, song chiếm tỉ lệ thấp 6,4%. Tìm hiểu sâu hơn trường hợp này
chúng tôi nhận thấy, trong các gia đình này đều có người Tày Nùng sinh sống.
Trạng thái song ngữ Việt - Tày Nùng được sử dụng phổ biến hơn. Cụ thể xuất
hiện trong cả giao tiếp trong gia đình và ngoài xã hội. Đặc biệt, khi nói chuyện
với người dân tộc khác (không phải người Kinh, không phải người dân tộc
mình), có đến 52,8% người Na Mẻo được hỏi lựa chọn tiếng Tày Nùng. Điều
này được lí giải rằng hàng xóm của những người Na Mẻo tại địa bàn khảo sát là
những người Tày Nùng, do vậy, họ sẽ sử dụng ngôn ngữ này khi giao tiếp.
Ngoài ra, tỉ lệ người sử dụng tiếng Tày Nùng và tiếng Kinh khi nói ở chợ cũng
khá cao so với các hoàn cảnh có cùng trạng thái ngôn ngữ khác (chiếm 20,8%).
- Trạng thái đa ngữ có một dạng là sử dụng được 3 ngôn ngữ. Ngoài TV
và TMĐ, nhiều người Na Mẻo còn sử dụng cả tiếng Tày Nùng, tiếng Dao, tạo
nên trạng thái đa ngữ: Na Mẻo - Việt - Tày Nùng hay Việt - Tày Nùng - Dao.
Trạng thái đa ngữ cao nhất là sử dụng được 4 ngôn ngữ: Na Mẻo - Việt - Tày
Nùng - Dao (chiếm 21,6%). Tuy nhiên trạng thái này chỉ được sử dụng trong
một hoàn cảnh giao tiếp duy nhất là nói với bố mẹ với tỉ lệ rất thấp 1,6%. Hai
trạng thái đa ngữ con lại mặc dù được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh song số
người sử dụng cũng khá thấp, chẳng hạn tỉ lệ người sử dụng đa ngữ Na Mẻo -
Việt - Tày Nùng là 4% khi nói với bố mẹ, 1,5% nói với các con; trạng tháng
Việt - Tày Nùng - Dao cũng chỉ dùng trong hai hoàn cảnh là nói ở chợ (5,6%)
và nói với người dân tộc khác (12%). Tuy nhiên, một điều đặc biệt là, trạng thái
đa ngữ Na mẻo - Việt - Tày Nùng lại chiếm một tỉ lệ khá cao so với các hoàn
cảnh còn lại với 35,2%. Điều này cho thấy, số người Na Mẻo sử dụng cả ba
ngôn ngữ này để nói ở chợ là tương đối nhiều.
Mặc dù đây là những con số khiêm tốn song cũng đáng chú ý, vì phần
nào cho thấy một thực tế là tùy hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà người Na Mẻo sử
dụng những ngôn ngữ thích hợp. Cụ thể như sau:
Trong giao tiếp gia đình, khi nói với người thân, hầu hết người Na Mẻo ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
độ tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) sử dụng TMĐ. Còn TV chỉ đóng vai trò
phụ trợ, được người Na Mẻo sử dụng đan xen với TMĐ. Như vậy, chức năng
của TV trong hoàn cảnh này thấp hơn nhiều so với TMĐ của họ. Tuy nhiên, đối
với người Na Mẻo từ 18 tuổi trở xuống, TV cũng tỏ rõ vị thế của mình khi có tới
35/40 số trẻ em được phỏng vấn trả lời rằng sử dụng TV trong giao tiếp gia đình.
Có thể thấy, đối với người trẻ tuổi, phạm vi sử dụng TV đã được mở rộng, trong
khi đó, phạm vi sử dụng của tiếng Na Mẻo đang bị thu hẹp dần.
TMĐ tỏ rõ vai trò của mình trong những hoàn cảnh mang tính chất
văn hóa, nội bộ cao như: cầu cúng, nói chuyện với khách là người dân tộc
mình. Minh chứng cho điều này là số người sử dụng TMĐ rất lớn (đạt tỉ lệ
100% với cầu cúng và khi nói chuyện với khách là người dân tộc mình) bởi
lẽ người Na Mẻo quan niệm phải nói chuyện với tổ tiên bằng tiếng dân tộc
mình mới thành tâm, những người đã khuất mới hiểu được (các thế hệ trước
không biết tiếng Kinh).
Còn đối với TV, trong phạm vi gia đình, tỉ lệ dùng ngôn ngữ này lại vượt
trội trong hoàn cảnh khi người Na Mẻo nói với khách là người Kinh (chiếm
98,4 %) hay nói với khách là người dân tộc khác (không phải người Kinh và
người dân tộc mình) (chiếm 35,2%).
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở cách sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo đó
là vai trò quan trọng của tiếng Tày Nùng. Đây là ngôn ngữ phổ thông vùng nên
số lượng người sử dụng ngôn ngữ này rất lớn. Điều đó thể hiện ở phạm vi sử
dụng được thống kê qua bảng số liệu trên. Xét trong cả hai phạm vi giao tiếp là
trong gia đình hay ngoài xã hội, chỉ trong 3 hoàn cảnh, người Na Mẻo không sử
dụng tiếng Tày Nùng đó là nói với vợ chồng, khi cầu cúng và nói với khách
đến nhà là người dân tộc mình. Những hoàn cảnh này đều mang tính nội bộ cao
và hầu như chỉ sử dụng TMĐ. Còn lại, dù trong hoàn cảnh giao tiếp nội bộ như
nói với con, nói chuyện với bố mẹ hay ca hát, họp trong xã, người Na Mẻo vẫn
sử dụng tiếng Tày Nùng. Như vậy có thể thấy vị trí quan trọng của ngôn ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
này trong đời sống cộng đồng người Na Mẻo.
Khi giao tiếp ngoài xã hội, tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na
Mẻo trở nên phức tạp hơn. Với việc mở rộng hoàn cảnh giao tiếp và đối tượng
giao tiếp, ngôn ngữ sử dụng ở ngoài xã hội có phần phong phú đang dạng hơn.
Chẳng hạn, theo điều tra, trong các cuộc họp ở UBND xã, huyện, TV đóng vai
trò quan trọng, được sử dụng với tỉ lệ lớn, đơn ngữ lên tới 89,6%, song ngữ
Việt - Tày Nùng là 10,4%. Người Na Mẻo khi đi họp ở xã, huyện thường
không sử dụng tiếng dân tộc mình. TMĐ chỉ được sử dụng ở các cuộc họp
thôn, làng trong khi nói chuyện. Còn nếu giao tiếp quy thức (phát biểu, trình
bày ý kiến), họ vẫn sử dụng tiếng Kinh.
Ở những nơi công cộng khác như chợ, bưu điện thì tình hình lại càng đa
dạng, phong phú. Ở chợ, trạng thái đơn ngữ và đa ngữ TMĐ - TV- TMĐ có tỉ
lệ cao tương đương nhau (đơn ngữ Việt là 38,4%, tiếp đến là đa ngữ ngữ TMĐ
- Việt - Tày Nùng với 35,2%). Trong khi đó trạng thái song ngữ Việt -Tày
Nùng chiếm 20,8 % và Việt - Tày Nùng - Dao chiếm 5,6%. Sở dĩ tiếng Tày
Nùng được sử dụng nhiều vì chúng tôi khảo sát ở cả hai chợ phiên của xã (chợ
Áng Mò) và chợ phiên của huyện (chợ Thất Khê). Nếu như ở xã, TMĐ vẫn
được người Na Mẻo sử dụng ít nhiều thì ở huyện 100% người Na Mẻo nói
tiếng Kinh và tiếng Tày Nùng bởi trung tâm huyện không có người Na Mẻo và
cũng không có ai biết tiếng Na Mẻo.
- Số lượng người nói mỗi ngôn ngữ hay tỉ lệ phần trăm được thống kê ở
trên đã nói lên vai trò của mỗi ngôn ngữ. Hiện nay, đối với người Na Mẻo,
TMĐ, TV là những phương tiện ngôn ngữ dùng trong giao tiếp quan trọng
nhất. Điều này được thể hiện ở chỗ:
TMĐ có mặt trong hầu hết các hoàn cảnh giao tiếp: 52,8% khi nói với bố
mẹ, 90,4% khi nói với vợ, chồng; 93,6% khi nói với khách là người dân tộc
mình; ... Đặc biệt trong sinh hoạt tín ngưỡng (cầu cúng, nói chuyện với tổ tiên),
người Na Mẻo chỉ sử dụng TMĐ với tỉ lệ tuyệt đối 100%. Có hai hoàn cảnh
không có sự tham gia của tiếng Na Mẻo đó là khi nói chuyện với khách người
Kinh hoặc người dân tộc khác (không phải người Kinh và người dân tộc mình)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và họp ở ủy ban xã, huyện mới không thấy có sự xuất hiện của TMĐ.
Nhìn vào bảng số liệu, cũng có thể thấy vị thế của TV trong giao tiếp của
cộng đồng người Na Mẻo. Nếu như TMĐ chiếm ưu thế chủ yếu trong một số
hoàn cảnh giao tiếp hẹp, mang tính chất nội bộ dân tộc thì TV lại có phạm vi hành
chức rộng hơn, xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp khác nhau và chiếm tỉ lệ
cao: 98,8% khi nói chuyện với người Kinh và người thuộc dân tộc khác (không
phải người Kinh và người dân tộc mình); 89,6% trong các cuộc họp ở UNND xã,
huyện... Nếu nhận xét kĩ sẽ thấy, tỉ lệ giao tiếp bằng TV còn cao hơn nhiều nếu
tính đến cả những trường hợp song ngữ, đa ngữ trong đó có TV và ngôn ngữ khác.
Chẳng hạn có 25,8% người Na Mẻo sử dụng cả TV và TMĐ trong ca hát, 35,2%
sử dụng cả TV, Na Mẻo, Tày Nùng khi nói chuyện ở chợ. Những con số này đã
cho thấy, TV đóng một vai trò quan trọng trong giao tiếp của người Na Mẻo.
Bên cạnh đó, không thể phủ nhận vai trò của tiếng Tày Nùng. Với vị thế
của một ngôn ngữ vùng, tiếng Tày Nùng tham gia vào hầu hết các hoàn cảnh giao
tiếp của người Na Mẻo. Chỉ có duy nhất hoạt động cầu cúng, người Na Mẻo
không sử dụng tiếng Tày Nùng, còn lại trong 9 hoàn cảnh được kể trên, người Na
Mẻo đều sử dụng ngôn ngữ phổ thông vùng. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nếu
như TV và TMĐ có thể được dùng độc lập trong một số hoàn cảnh giao tiếp thì
tiếng Tày Nùng lại không như vậy. Trong cùng một hoàn cảnh giao tiếp, người Na
Mẻo thường nói ngôn ngữ này cùng với các ngôn ngữ khác. Chẳng hạn mô hình
song ngữ Việt - Tày Nùng được sử dụng khi người Na Mẻo đi chợ (chiếm 20,8%)
hay nói với khách dân tộc khác (không phải Kinh và dân tộc mình) (chiếm 56%).
- Số lượng người Na Mẻo có sử dụng tiếng Dao rất ít, chỉ được sử dụng
trong những phạm vi rất hẹp và dùng đan xen với những ngôn ngữ khác: 1,6,%
khi nói với người bố mẹ (Na Mẻo - Việt - Tày Nùng - Dao); 20% khi nói với
người dân tộc khác (không phải người Kinh và người dân tộc mình) (Việt - Tày
Nùng -Dao); 5,6% khi ở chợ (Việt - Tày Nùng - Dao). Trong tương quan với
TV và tiếng Na Mẻo, thì vai trò của những ngôn ngữ này rất mờ nhạt. Theo
điều tra, những người sử dụng tiếng Dao chủ yếu là học từ vợ chồng, bố mẹ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
họ cũng chỉ sử dụng trong giao tiếp ở một số hoàn cảnh hẹp.
Như vậy, có thể rút ra kết luận, mức độ sử dụng các ngôn ngữ của người
Na Mẻo là không đồng đều. Người Na Mẻo thường ưu tiên nhiều hơn cho
TMĐ và tiếng Tày Nùng. Hầu hết trong tất cả các hoàn cảnh giao tiếp, đối
tượng giao tiếp người Na Mẻo đều có thể sử dụng hai ngôn ngữ đó. Đối với
một số ngôn ngữ khác như: tiếng Dao... tùy thuộc vào hoàn cảnh khác nhau mà
có sự lựa chọn khác nhau.
2.3. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người na mẻo
a. Kết quả khảo sát
Năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ còn được thể hiện ở khả năng đối với
từng ngôn ngữ. Với tổng số 125 người như trên, qua câu hỏi: “Khả năng biết
các ngôn ngữ như thế nào?” . Kết quả khảo sát thu được như sau:
Bảng 2.3: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày
của người Na Mẻo
khả năng biết chữ ngôn ngữ nghe được, nói được nghe được, không nói được không biết chữ
TMĐ 125/125 (100%) 125/125 (100%)
TV 125/125 (100%) 117/125 (93,6%) 8/125 (6,4%)
Tày Nùng 85/125 (68%) 5/125 (4%) 125/125 (100%)
Dao 23/125 (18,4%) 5/125 (4%) 125/125 (100%)
b. Nhận xét
- Có thể thấy, người Na Mẻo nghe nói thành thạo cả hai ngôn ngữ: TMĐ
và TV. Với TMĐ, không có ai chỉ nghe mà không nói được, điều này cho thấy
sự truyền thừa ngôn ngữ trong gia đình bước đầu được thực hiện khá tốt. Không
có ai biết viết chữ của dân tộc mình. Theo điều tra của chúng tôi, với câu hỏi
“Gia đình ông/bà có tài liệu nào ghi chép bằng tiếng dân tộc mình không”, phần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lớn người Na Mẻo trả lời Không. Có một vài người trả lời có. Khi chúng tôi đề
nghị được xem cuốn gia phả, sách chúng ghi chép đó thì thấy rằng ngôn ngữ
được dùng là tiếng Hán. Hỏi một số cụ già trong bản, các cụ cho biết từ khi sinh
ra đã không biết chữ của dân tộc mình. Như vậy có thể khẳng định một điều
rằng, hiện tại người Na Mẻo chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình.
- Đối với TV, ngoài khả năng nghe được, nói được thành thạo, một con số
đáng lưu tâm ở đây là số người biết chữ và không biết chữ. 93,6% số người được
khảo sát biết chữ, 6,4% còn lại không biết chữ. Điều đó phản ánh một thực tế là
có một bộ phận người Na Mẻo rất ít được tiếp xúc với TV. Theo khảo sát thì đó
hầu hết là những người lớn tuổi và chưa từng được đi học. Đặc biệt có một
trường hợp là nữ còn trẻ tuổi nhưng không biết chữ do không được đi học. Đó là
chị Dương Thị Hiệp (sinh năm 1989). Vì là phụ nữ, nhà lại đông anh chị em nên
chị không được gia đình cho đi học. Thưc tế này cho thấy tư tưởng trọng nam
khinh nữ vẫn còn nặng nề trong các gia đình người Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng
Sơn. Khảo sát kĩ hơn trường hợp này, chúng tôi nhận thấy, ngay cả với kĩ năng
nghe, nói được cũng ở một mức độ nhất định, cách phát âm còn nhiều lỗi sai về
âm đầu và âm cuối. Đặc biệt, theo như khảo sát của chúng tôi, có nhiều người Na
Mẻo trả lời phỏng vấn rằng “biết chữ” nhưng thực chất khi kiểm tra lại, họ chỉ
biết kí chữ kí của mình chữ không viết được những nội dung khác. Những người
này đã từng biết chữ (tham gia lớp xóa mù chữ), nhưng lâu không viết nên hiện
tại đã quên mặt chữ. Như vậy, tình trạng tái mù chữ ở người Na Mẻo còn khá
nhiều, và trong quan niệm của họ kí được là “biết chữ”.
- Tiếng Tày Nùng vì là ngôn ngữ phổ thông vùng nên số người sử dụng
được khá lớn: 68,8% người Na Mẻo nghe được nói được tiếng Tày Nùng, 4%
chỉ nghe được nhưng không nói được. Con số này cho thấy rõ vai trờ to lớn của
tiếng Taỳ Nùng đối với người Na Mẻo, chỉ xếp sau tiếng dân tộc mình và tiếng
Kinh. Tìm hiểu kĩ hơn con số 4% nghe được không biết nói, chúng tôi nhận
thấy, số người chỉ nghe được nhưng không nói được chủ yếu là dưới 18 tuổi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường.
Nhìn chung, trong sinh hoạt hàng ngày, người Na Mẻo dùng nhiều TV
và TMĐ hơn. Hai thứ tiếng này được dùng đan xen (trừ một số tình huống có
tính chất đặc thù như cầu cúng, nói ở trường) và có vai trò quan trọng ngang
nhau trong đời sống của người Na Mẻo. Kĩ năng đối với hai ngôn ngữ này cũng
hoàn thiện hơn so với những ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, như đã nói, năng lực
sử dụng hai thứ tiếng này (và các tiếng khác) là không đồng đều giữa các thế hệ
(độ tuổi), giới tính, học vấn và nghề nghiệp.
Để có thể đánh giá cụ thể và chi tiết hơn về năng lực ngôn ngữ của người
Na Mẻo trên địa bàn huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi sẽ đánh giá
trên những biến độc lập như giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp.
2.3.1. Khả năng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người Na Mẻo
theo sự phân biệt về giới tính
a. Kết quả khảo sát
Bảng 2.4. Khả năng sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo
theo sự phân biệt về giới tính
giới tính nam nữ ngôn ngữ/ khả năng
60/60 (100%)
TMĐ
65/65(100%) 65/65(100%) 65/65(100%)
TV Tày Nùng
Dao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
60/60 (100%) 60/60 (100%) 60/60 (100%) 39/60 (65%) 2/60 (3,3%) 19/60 (31,7%) 14/60 (23,3%) 3/60 (5%) 43/60 (71,6%) 57/65 (87,7%) 8/65 (12,3%) 47/65 (72,3 %) 3/65 (4,6%) 15/65 (23,1%) 9/65 (13,8%) 2/65 (3,1%) 54/65 (83,1%) nghe được, nói được nghe được, không biết nói biết chữ không biết chữ nghe được, nói được nghe được,không biết nói biết chữ không biết chữ nghe được, nói được nghe được, không biết nói biết chữ không biết chữ Không biết nghe được, nói được nghe được,không biết nói biết chữ không biết chữ Không biết
b. Nhận xét
- Không có ai có trạng thái đơn ngữ, tất cả đều là song ngữ, đa ngữ ở cả
nam và nữ. Ở trạng thái đa ngữ TMĐ - Việt - Tày Nùng, nữ giới có tỉ lệ cao
hơn (chiếm 77%). Song, ở mô hình đa ngữ TMĐ - TV - Tiếng tày Nùng - tiếng
Dao, nam giới lại có tỉ lệ cao hơn (chiếm 28,3%). Tuy vậy, sự chênh lệch ở các
mô hình đa ngữ đã nêu không lớn, điều đó thể hiện sự đồng đều trong khả năng
sử dụng các ngôn ngữ ở người Na Mẻo.
- Đối với TMĐ, tỉ lệ ở từng khả năng đều giống nhau, tức người Na Mẻo
dù là giới tính nào đều có khả năng nghe và nói tiếng dân tộc của mình. Không
có ai nghe được, không nói được. Tương tự, không có ai biết chữ. Điều này,
chúng tôi đã nói ở phần trên.
- Đối với TV, 100% cả nam và nữ người Na Mẻo nghe nói thành thạo.
Tuy nhiên con số này không đạt tuyệt đối đối với khả năng viết. Chỉ có 87,7%
nữ giới Na Mẻo biết chữ trong khi con số này ở nam giới là 100%. Điều này
cho chúng ta thấy, phụ nữ Na Mẻo chưa được quan tâm đúng mức về quyền
học tập của mình. Con số này cũng là một minh chứng cho sự bất bình đẳng
giới đang xảy ra tại địa phương này với người Na Mẻo.
- Đối với tiếng Tày Nùng, mặc dù tỉ lệ nghe được, nói được ở cả hai giới
khá cao nhưng nhìn cụ thể, nữ giới Na Mẻo có tỉ lệ cao hơn với 72,3%, nam
giới chỉ là 65%. Tuy nhiên, tỉ lệ nghe được, không biết nói ở nam giới lại thấp
hơn nữ giới. Mặc dù sự chênh lệch của những con số này không cao nhưng
cũng cho thấy được phần nào năng lực tiếng phổ thông vùng ở người Na Mẻo
theo sự phân biệt về giới.
- Đối với tiếng Dao, tỉ lệ người biết ngôn ngữ này tương đối thấp (như đã
trình bày). Trong đó, nam giới Na Mẻo có tỉ lệ nghe được nói được cao hơn
gấp rưỡi tỉ lệ của nữ (nam giới là 23,3%; nữ giới 13,8%). Số liệu này phản ánh
được năng lực tiếng Dao của đàn ông Na Mẻo cao hơn phụ nữ. Họ thường là
những người đi làm ăn buôn bán trong các xã lân cận, trong huyện nên năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lực tiếng Dao của họ tốt hơn hẳn do có điều kiện được giao tiếp với người dân
tộc Dao. Tỉ lệ nam giới người Na Mẻo nghe được không biết nói cao hơn nữ
giới. Mặc dù kĩ năng nói ngôn ngữ này chưa thật sự hoàn thiện, vẫn còn số ít
người chỉ dừng lại ở mức nghe được, song thực tế cũng cho thấy năng lực tiếng
Dao của nam giới cao hơn nữ giới.
2.3.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người Na
Mẻo theo sự phân biệt về độ tuổi
a. Kết quả khảo sát
Bảng 2.5: Khả năng sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo
theo sự phân biệt về độ tuổi
dưới 18 độ tuổi ngôn ngữ/ khả năng
nghe được, nói được
40/40 (100%) TMĐ nghe được, không biết nói biết chữ
không biết chữ
nghe được, nói được
Từ 30 đến 60 30/30 (100%) 30/30 (100%) 30/30 (100%) nghe được, không biết nói
TV biết chữ 40/40 (100%) 40/40 (100%) 40/40 (100%)
không biết chữ
nghe được, nói được
28/30 (93,3%) 2/30 (6,7%) 27/30 (90%) Trên 60 25/25 (100%) 25/25 (100%) 25/25 (100%) 21/25 (84%) 4/25 (16%) 24/25 (96%) nghe được, không biết nói
Tày Nùng biết chữ
không biết chữ từ 18 đến 30 30/30 (100%) 30/30 (100%) 30/30 (100%) 28/30 (93,3%) 2/30 (6,7%) 24/30 (80%) 2/30 (6,7%) 26 (65%)
nghe được, nói được
24/25 (96%) 10/25 (40%) nghe được, không biết nói Dao
biết chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không biết chữ 10/40 (25%) 3/40 (2%) 13/40 (32,5%) 2/40 (5%) 2/40 (5%) 4/40 (10%) 27/30 (90%) 11/30 (36,7%) 3/30 (10%) 14/30 (46,7%) 10/25 (40%)
b. Nhận xét
- Đối với TMĐ, người Na Mẻo ở độ tuổi nào cũng đều nghe được, nói
được. Đây quả là một dấu hiệu tích cực đối với yêu cầu bảo tồn ngôn ngữ dân
tộc Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn, bởi lẽ ngay cả ở nhóm dưới 18 tuổi, tỉ lệ
này cũng đạt tuyệt đối 100%.
- Về khả năng TV, số liệu cho thấy, ở các nhóm tuổi khác nhau, người
Na Mẻo đều có khả năng nghe được, nói được. Kể cả ở nhóm người không
được đi học, họ vẫn biết TV. Thực trạng này minh chứng cho khả năng tự học
TV của người Na Mẻo khá tốt. Tuy nhiên tỉ lệ người Na Mẻo thành thạo kĩ
năng viết giảm dần theo độ tuổi, cao nhất ở nhóm dưới 18 tuổi, vì các em đều
đang tiếp xúc với TV trong trường học. Hai nhóm có tỉ lệ biết viết gần tương
đương nhau là nhóm 18-30 và 30-60. Trong khi đó, những người cao tuổi là
nhóm có tỉ lệ biết chữ thấp nhất (chiếm 80%). Mặc dù vậy, ở cả 4 nhóm tuổi
trên, tỉ lệ biết chữ đều rất cao (trên 80%).
- Nếu như khả năng TV tỉ lệ nghịch với độ tuổi (tuổi càng cao biết TV
càng ít) thì năng lực tiếng Tày Nùng lại ngược lại. Nhóm tuổi trên 60 có năng lực
ngôn ngữ này tốt nhất, chiếm 96%, trong khi đó, năng lực tiếng Tày Nùng ở nhóm
dưới 18 là thấp nhất, chỉ có 10/40 (chiếm 25%) người nghe được, nói được. Cá
biệt, khả năng nghe được, không nói được chỉ tồn tại ở giới trẻ Na Mẻo, cụ thể là
từ 30 tuổi trở xuống (2% đối với nhóm dưới 18 tuổi và 6,7% với nhóm 18-30
tuổi). Như vậy, người trung niên, người già Na Mẻo hầu hết nói thành thạo tiếng
Tày Nùng, thanh niên ở mức khá, còn thiếu niên, trẻ em ở mức thấp. Không có ai
biết chữ Tày Nùng ở tất cả các độ tuổi.
- Khả năng đối với tiếng Dao tăng dần theo độ tuổi, tuổi càng cao tỉ lệ
này càng lớn. Nếu như ở dộ tuổi dưới 18, tỉ lệ nghe được, nói được tiếng Dao
chỉ là 5% thì ở nhóm 30-60, tỉ lệ là 36,7%. Con số này với nhóm trên 60 là
40%. Mặc dù tỉ lệ ày tăng dần theo độ tuổi nhưng cần lưu ý một thực tế, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
30 người được khảo sát ở độ tuổi 18-30, không một ai biết tiếng Dao dù chỉ ở
năng lực nghe được, không nói được. Đây là một điều khá đặc biệt đối với tình
hình sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo chia theo độ tuổi. Tỉ lệ nghe được,
không biết nói ở nhóm 30-60 cao hơn so với nhóm dưới 18 tuổi. (tương ứng là
10% - 5%). Cũng giống như tiếng Tày Nùng, không có người Na Mẻo nào có
khả năng viết bằng tiếng Dao.
2.3.3. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người Na
Mẻo theo sự phân biệt về học vấn
a. Kết quả khảo sát
Để thấy được khả năng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày ở người
Na Mẻo theo sự phân biệt về học vẫn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu
được kết quả:
Bảng 2.6: Khả năng ngôn ngữ của người Na Mẻo
theo sự phân biệt về học vấn
học vấn
Tiểu học Không có học vấn Trung học Cơ sở Trung học phổ thông ngôn ngữ/khả năng
nghe được, nói được 23/23 (100%) 35/35 (100%) 27/27 (100%) 25/25 (100%) Đại học, Cao đẳng, Trung học 15/15 (100%) TMĐ
nghe được, không biết nói
biết chữ
không biết chữ 23/23 (100%) 35/35 (100%) 27/27 (100%) 25/25 (100%) 15/15 (100%)
nghe được, nói được 23/23 (100%) 35/35 (100%) 27/27 (100%) 25/25 (100%) 15/15 (100%) TV
nghe được, không biết nói
biết chữ 0/23 (0%) 32/35 (91,4%) 27/27 (100%) 25/25 (100%) 15/15 (100%)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không biết chữ 23/23 (100%) 3/35 (8,6%)
nghe được, nói được 23/23 (100%) 17/35 (48,5%)
Tày Nùng nghe được, không biết nói
biết chữ
không biết chữ
nghe được, nói được 15/15 (100%) 4/28 (14,3%) 15/15 (100%) 5/15 (33,3%) 23/23 (100%) 3/23 (13%) 17/35 (48,8%) 8/35 (22,9%) Dao
nghe được, không biết nói
biết chữ
không biết chữ 10/27 (37%) 3/27 (11,1%) 13/27 (48,1%) 6/27 (22,2%) 2/27 (7,4%) 8/27 (29,6%) 20/25 (80%) 2/25 (8%) 25/25 (100%) 1/25 (4%) 3/25 (12%) 4/25 (16%) 5/25 (20%) 3/23 (13%) 8/35 (22,9%)
b. Nhận xét
- Tiếng Na Mẻo được dùng đồng đều ở các trình độ học vấn khác nhau.
Đặc biệt, ở kĩ năng nghe nói, 100% số người được khảo sát ở các trình độ đều
có khả năng nghe hiểu, dù ở trình đô học vấn nào. Ở một số dân tộc khác,
những người học ĐH, CĐ thường học ở thành phố, có sự giao lưu với xã hội
hiện dai bên ngoài, dó đó ảnh hưởng ít nhiều đến khả năng nói TMĐ, tuy nhiên,
trong số 15 người có trình độ này được khảo sát, chúng tôi nhận thấy, năng lực
TMĐ của họ vẫn rất tốt, bởi lẽ, phần lớn họ là cán bộ đang làm việc và công tác
tại xã, huyện nên có điều kiện tiếp xúc với người dân tộc mình.
- Cũng giống như TMĐ, TV có số lượng người biết đạt tuyệt đối 100%.
Tuy vậy với từng kĩ năng, ở mỗi nhóm trình độ học vấn lại có sự khác biệt rõ
nét. Khả năng đối với TV của những người Na Mẻo có trình độ học vấn Trung
học cơ sở, Trung học phổ thông, Đại học, Cao đẳng và Trung học thành thạo
hơn rất nhiều so với những người không có học vấn. Mặc dù ở các nhóm tuổi
đều có người biết chữ nhưng chỉ có 3 nhóm tỉ lệ biết chữ đạt 100% là Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học cơ sở, Trung học phổ thông, Đại học, Cao đẳng và Trung học. Trong khi
đó, nhóm Không có học vấn không có ai biết chữ. Nhóm Tiểu học cũng có
8,6% số người không biết viết TV. Tỉ lệ của nhóm này thấp hơn nhiều nhóm
không đi học. Thực tế này đặt ra một bài toán về giáo dục TV cho đồng bào
DTTS còn gặp không ít khó khăn, bởi lẽ, hiện tượng người tái mù chữ vẫn còn
tồn tại khá nhiều.
- Có 90/120 người Na Mẻo biết tiếng Tày Nùng, tập trung phần lớn ở 3
nhóm học vấn Không đi học, Trung học phổ thông và Đại học, Cao dẳng Trung
học ( tỉ lệ lần lượt là 100% - 88% - 100%). Nhóm không đi học do có sự tiếp
xúc phổ biến với người Tày Nùng ở các quan hệ xã hội (hàng xóm, chợ búa,...)
mà học được tiếng Tày Nùng, hai nhóm còn lại được tiếp xúc ở nơi làm việc
(cơ quan, trường học,...) cũng có được năng lực ngôn ngữ Tày Nùng khá tốt. Sở
dĩ chỉ đánh giá khá tốt bởi trong 88% người có trình độ học vấn biết tiếng Tày
Nùng thì có 8% chỉ nghe được, không nói được. Tỉ lệ này rơi vào những người
đang độ tuổi đến trường (học THPT ở huyện). Hai nhóm học vấn có tỉ lệ người
biết tiếng Tày Nùng thấp dưới 50% là Tiểu học (48,5%) và Trung học cơ sở
(48,1%). Những người chỉ nghe được không nói được tiếng Tày Nùng ở nhóm
Trung học cơ sở vẫn nằm trong HS đang học tập ở các trường trong xã.
- Tiếng Dao có tỉ lệ người biết ở các nhóm học vấn không chênh lệch
lớn. Nhóm học vấn có tỉ lệ người biết tiếng Dao cao nhất là Đại học, Cao đẳng,
Trung cấp do nhóm này có điều kiện học tập và tiếp xúc nhiều với người Dao ở
trường học và nơi làm việc (Trụ sở UBND xã Cao Minh, Khánh Long ngoài
cán bộ Tày Nùng còn có nhiều người Dao). Hai nhóm có tỉ lệ biết tiếng Dao
tương đương là Tiểu học (22,9%) và Trung học cơ sở (29,6%). Hai nhóm có tỉ
lệ biết tiếng Dao thấp nhất là Không có học vấn (13%) và Trung học phổ thông
(16%). Trong đó nhóm Trung học phổ thông chỉ có 1 người biết tiếng Dao ở
mức độ nghe được, nói được, còn lại là nghe được không biết nói. Nhóm Trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
học cơ sở cũng có 2/8 người biết tiếng Dao ở mức nghe được, không biết nói.
2.3.4. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày của người Na
Mẻo theo sự phân biệt về nghề nghiệp
a. Kết quả khảo sát
Bảng 2.7: Khả năng ngôn ngữ của người Na Mẻo
theo sự phân biệt về nghề nghiệp
nghề nghiệp làm ruộng cán bộ HS ngôn ngữ/ khả năng
nghe được, nói được 40/40 (100%%)
60/60 (100%) TMĐ nghe được, không biết nói biết chữ
không biết chữ
nghe được, nói được
nghe được, không biết nói
TV biết chữ 25/25 (100%) 25/25 (100%) 25/25 (100%) 25/25 (100%) 40/40 (100%%) 40/40 (100%%) 40/40 (100%)
không biết chữ
nghe được, nói được 25/25 (100%)
nghe được, không biết nói 60/60 (100%) 60/60 (100%) 52/60 (86,7%) 8/60 (13,3%) 45/60 (75%) 2/60 (3,3%) Tày Nùng biết chữ
không biết chữ
25/25 (100%) 4/25 nghe được, nói được (16%) 4/40
nghe được, không biết nói Dao
biết chữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không biết chữ 60/60 (100%) 15/60 (25%) 3/60 (7,8%) 60/60 (100%) 25/25 (100%) 15/40 (37,5%) 3/60 (5%) 40/40 (100%%) 4/40 (10%) 2/40 (5%) 40/40 (100%%)
b. Nhận xét
- Với TMĐ, tỉ lệ nghe được, nói được ở người Na Mẻo là như nhau dù
thuộc ngành nghề nào, con số này là 100%. Như trên đã nói, đây là một con số
đáng mừng cho công cuộc giữ gìn và bảo tồn TMĐ.
- Với TV, cán bộ và HS là những đối tượng thành thạo mọi kĩ năng TV
cao nhất, chiếm tỉ lệ tuyệt đối ở cả nghe được nói được và biết chữ Quốc ngữ.
Điều đó hoàn toàn bình thường vì đây là hai đối tượng được giao tiếp bằng TV
nhiều nhất, ngoài ra còn do đặc thù nghề nghiệp, thường xuyên phải tiếp xúc
với TV. Nếu như HS bắt buộc phải sử dụng TV trên lớp học thì cán bộ cũng
tương tự như vậy. Cho nên, hai đối tượng này có thể rèn luyện TV mỗi ngày.
Ngoài ra, cán bộ và HS con phải sử dụng TV để ghi chép, họp hành nên trong
hai nhóm này, không có người nào không biết chữ. Trái lại, những người làm
nông, do không được đi học hay chỉ học hết bậc tiểu học, THCS nên vẫn còn
13,3% tỉ lệ người không biết viết TV. Nhiều người biết được TV qua môi
trường tự nhiên, do tự học từ bạn bè, người quen, làng xóm nên các kĩ năng đối
với TV cũng không được hình thành đầy đủ. Có người đã biết viết nay lại tái
mù chữ, có người chỉ viết được tên và kí được tên mình. Con số này phản ánh
mức độ dân trí phần nào còn thấp của người Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn.
- Khác với TMĐ và tiếng Kinh, năng lực tiếng Tày Nùng phân chia theo
ngành nghề phức tạp hơn. Hai nhóm có tỉ lệ người biết tiếng tày Nùng cao nhất
là cán bộ và làm ruộng. Đặc biệt trong 25 cán bộ được khảo sát, cả 25 người
đều biết tiếng Tày Nùng. Lí giải cho điều này, chúng tôi đã phỏng vấn sâu một
số cán bộ người Na Mẻo đang làm việc tại UBND xã thì được biết do đặc thù
của xã có cả đồng bào Tày Nùng sinh sống nên các cán bộ thường xuyên tiếp
dân bằng tiếng Tày Nùng nên kĩ năng nói ngôn ngữ này khá tốt. Rõ ràng, đối
tượng giao tiếp có tác động không nhỏ tới năng lực ngôn ngữ của mỗi người.
Nhóm có tỉ lệ cao thứ hai là làm ruộng, những người thuộc nhóm này thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có quan hệ sản xuất, hàng xóm với người Tày Nùng nên tỉ lệ biết ngôn ngữ này
khá cao (chiếm 75%). HS là nhóm nghề nghiệp có năng lực tiếng Tày Nùng đạt
loại trung bình yếu, chiếm 37,5% do độ tuổi còn trẻ, mối quan hệ chưa mở
rộng, các em chủ yếu biết tiếng Tày Nùng qua cha mẹ, hàng xóm. Bên cạnh đó,
chỉ có hai nhóm ngành nghề nông dân và HS có người nghe được, không biết
nói (lần lượt là 3,3% và 5%). Con số này không tồn tại ở nhóm cán bộ. Tóm lại,
năng lực tiếng Tày Nùng ở phân chia theo nghề nghiệp xếp từ cao xuống thấp
sẽ là cán bộ, nông dân và HS.
- Tình hình sử dụng đối với tiếng Dao có khác đôi chút so với tiếng Tày
Nùng. Ở ngôn ngữ này, nông dân là nghề có tỉ lệ biết tiếng Dao cao nhất, tỉ lệ
này đạt 25% đối với kĩ năng nghe được, nói được. Nhóm xếp thứ hai là cán bộ
(16%), cuối cùng là HS (10%). Nhưng cũng giống như ở tiếng Tày Nùng, chỉ
có hai ngành nghề làm ruộng, HS là có người nghe được, không biết nói (tỉ lệ
lần lượt là 7,8% và 5%); còn cán bộ không có ai nghe được, không biết nói.
Tức là năng lực tiếng Dao ở nhóm cán bộ hoàn thiện hơn hai nhóm còn lại.
2.4. Tiểu kết
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng người Na Mẻo ở
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, có thể thấy, việc sử dụng ngôn ngữ của
người Na Mẻo khá phong phú. Qua khảo sát, những ngôn ngữ được sử dụng là:
tiếng Na Mẻo, TV, tiếng Tày Nùng và tiếng Dao. Trong đó, vai trò quan trọng
nhất thuộc về TV và tiếng Na Mẻo. Tuy nhiên, trong phạm vi gia đình, nhất là
những hoàn cảnh sinh hoạt có tính chất văn hóa, nội tộc (cầu cúng, nối chuyện
với khách là người cùng dân tộc,…) thì TMĐ chiếm tỉ lệ cao. Ở ngoài xã hội,
TV và tiếng Tày Nùng là hai ngôn ngữ được sử dụng nhiều hơn cả. Bên cạnh
đó, người Na Mẻo còn sử dụng tiếng Dao.
Qua thống kê, có thể đi đến kết luận phần lớn người Na Mẻo hiện trong
trạng thái đa ngữ. Trạng thái đa ngữ phổ biến này là TMĐ - TV - Tiếng Tày
Nùng. Số ít người có trạng thái đa ngữ TMĐ - TV - Tiếng Tày Nùng - Tiếng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Dao. Tuy nhiên, trạng thái ngôn ngữ này chỉ xuất hiện trong phạm vi hẹp với
số lượng người sử dụng rất ít. Nhìn chung, trạng thái đa ngữ cao ở thế hệ
trung niên, người già, thấp dần ở thế hệ trẻ. Người Na Mẻo ở độ tuổi dưới 18
không có ai biết trên 3 ngôn ngữ. Các mô hình song ngữ của người Na Mẻo
trong sinh hoạt hàng ngày là TMĐ -TV, TMĐ - Tiếng Tày Nùng, TV - Tiếng
Tày Nùng nhưng các mô hình này đều chiếm tỉ lệ khá ít. Chỉ khi giao tiếp với
khách là người dân tộc khác, tỉ lệ người Na Mẻo sử dụng tiếng Việt - Tày
Nùng mới đạt 56%.
Nhìn chung, người Na Mẻo nghe nói thành thạo cả hai ngôn ngữ: TMĐ
và TV. Song, xem xét theo sự phân biệt về độ tuổi, giới tính, học vấn và nghề
nghiệp có sự khác nhau. Nhóm người trẻ tuổi, có học vấn thường có khả năng
sử dụng TV tốt hơn người già, người không học vấn. Với tiếng Tày Nùng, tỉ lệ
người Na Mẻo sử dụng trong sinh hoạt khá cao (chiếm 72%). Tuy nhiên, khả
năng sử dụng tiếng Tày Nùng không giống nhu ở các nhóm đối tượng. Những
người Na Mẻo ở độ tuổi trung niên, người già hay nhóm có nghề nghiệp là cán
bộ có khả năng sử dụng tốt hơn giới trẻ. Với tiếng Dao, có 22,4% người Na
Mẻo sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Một điều đáng lưu ý là nhóm tuổi 18-
30 không có ai biết tiếng Dao. Khả năng sử dụng tiếng Dao tốt nhất thuộc về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những người làm cán bộ, yếu nhất là học sinh người Na Mẻo
Chương 3
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG NHÀ TRƯỜNG
VÀ TRONG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG CỦA NGƯỜI NA MẺO
Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
3.1. Dẫn nhập
Cũng giống như chương 2, Chương này sẽ tập trung mô tả những đặc
điểm trong tình hình sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo trong nhà trường và
trong hoạt động truyền thông thông qua các kết quả khảo sát cụ thể. Đối với
tình hình sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường, chúng tôi tập trung làm rõ khả
năng ngôn ngữ của các em HS bậc tiểu học và trung học cơ sở thông qua phiếu
khảo sát và bài kiểm tra đọc, viết. Đặc biệt, ở năng lực viết TV, chúng tôi sẽ
đánh giá trên các bình diện: chính tả, từ, câu, văn bản. Đối với tình hình sử
dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông, chúng tôi sẽ trình bày
3.2. Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường
3.2.1. Tình trạng đơn ngữ là chủ yếu của HS người Na Mẻo trong nhà trường
3.2.1.1. Số lượng các ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.1. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường
Ngôn ngữ Số lượng (người nói) Tỉ lệ (%)
TV 40/40 100%
TMĐ 13/40 32,5%
b. Nhận xét:
100% HS Na Mẻo đều có khả năng sử dụng TV và TMĐ, ngoài ra các
em còn biết biết thêm tiếng Tày Nùng, Dao. Tuy nhiên không có trường hợp
nào sử dụng ngôn ngữ thứ 3 trong phạm vi trường học. Đây là một điều khá đặc
biệt vì một số HS Na Mẻo có thể giao tiếp bằng tiếng khác. Hơn nữa, theo số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
liệu thống kê, số HS Tày - Nùng - Dao ở 2 cơ sở giáo dục được khảo sát chiếm
trên 60%. Như vậy, dù có biết tiếng Tày Nùng, Dao và có điều kiện giao tiếp
với những người thuộc dân tộc này nhưng thực tế, khi nói chuyện với bạn bè
hay thầy cô (dù thuộc dân tộc nào) thì ưu tiên hàng đầu vẫn là TV. Theo chúng
tôi, đây là tâm lí hoàn toàn bình thường, bởi các em đang ở trong môi trường
giáo dục mà TV là ngôn ngữ bắt buộc.
3.2.1.2. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ và vai trò của các ngôn ngữ trong nhà trường
a. Kết quả khảo sát
Để tìm hiểu kĩ hơn các ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường phân
theo hoàn cảnh và đối tượng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết
quả như sau:
Bảng 3.2: Các ngôn ngữ được sử dụng trong nhà trường của HS Na Mẻo
phân theo hoàn cảnh giao tiếp và đối tượng giao tiếp
Ngôn ngữ TV TMĐ Tiếng khác Hoàn cảnh
40/40 (100%) 1/40 (2,5%) 0 nói với thầy cô trong giờ học
40/40 (100%) 5/40 (12,5%) 0 nói với bạn trong giờ học
40/40 (100%) 3/40 (7,5%) 0 nói với thầy cô ngoài giờ học
13/60 40/40 (100%) 0 nói với bạn ngoài giờ học (32,5%)
b. Nhận xét
Dựa trên bảng số liệu, có thể thấy:
- Nhìn một cách tổng quát, TV chiếm ưu thế tuyệt đối khi HS Na Mẻo
giao tiếp trong trường học. Dù với đối tượng giao tiếp khác nhau nhưng các em
vẫn sử dụng TV là công cụ hữu hiệu nhất. Trên thực tế, TV là môn học bắt
buộc được giảng dạy chính thức trong nhà trường, do đó tất cả HS đều phải
dùng và dùng được ngôn ngữ này. Ở cả 4 hoàn cảnh kể trên, vai trò của TV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được khẳng định khi tỉ lệ HS sử dụng TV đạt tuyệt đối.
Khi được hỏi “Em mong muốn sử dụng ngôn ngữ nào khi tham gia
các hoạt động chung ở trường”, tất cả các em đều có chung câu trả lời là
TV. Tương tự, với câu hỏi “Em có muốn đọc sách báo, xem ti vi bằng tiếng
dân tộc không?”, phần lớn các em đều trả lời “Không”. Lí do được các em
đưa ra là đọc, nghe, viết và nói TV sẽ dễ hiểu hơn. Bởi vậy, có thể nói,
tiếng Na Mẻo đang đứng trước nguy cơ “bị bỏ rơi” từ chính những đứa trẻ
của cộng đồng này.
- Giống như TV, TMĐ cũng tham gia vào cả 4 đối tượng giao tiếp của
HS, tuy nhiên, tỉ lệ khá thấp, cao nhất là nói với bạn ngoài giờ học (32,5%).
Còn lại, tỉ lệ sử dụng TMĐ không vượt quá 15%. Như vậy, vai trò của TMĐ
trong nhà trường tương đối mờ nhạt.
Để tìm hiểu rõ hơn tình hình sử dụng ngôn ngữ của các em trong từng
hoàn cảnh, sau đây sẽ đi phân tích kĩ.
Khi nói với thầy cô trong giờ học, tuyệt đại đa số HS Na Mẻo chỉ sử
dụng TV, chỉ có một trường hợp sử dụng thêm TMĐ. Như vậy, trạng thái đơn
ngữ là trạng thái phổ biến trong hoàn cảnh này. Duy nhất có 1 trường hợp HS
lớp 5 sử dụng TMĐ trong giờ học. Thưc tế này đưa ra cho chúng tôi câu hỏi:
Tại sao chỉ có một mình HS này sử dụng tiếng dân tộc mình khi nói chuyện với
thầy cô, trong khi các em HS khác không sử dụng? Theo phiếu điều tra, em HS
đó học tại Trường TH THCS CM, nơi có nhiều cô giáo biết tiếng Na Mẻo.
Trong đó, cô Trịnh Thị Hồng Duyên là GV giảng dạy trực tiếp cho em. Theo
cô, HS đó là HS có học lực yếu. Hàng ngày, sau giờ dạy chính, cô vẫn dành
thời gian để dạy thêm cho em. Trong quá trình dạy, để cho HS hiểu được cặn
kẽ, cô sử dụng đồng thời cả tiếng Na Mẻo và TV. Thực tế trên đã đặt cho ta
một suy nghĩ về giáo dục song ngữ ở môi trường đa ngôn ngữ, đa văn hóa này.
Khi nói với thầy cô ngoài giờ học, tỉ lệ HS sử dụng thêm TMĐ có tăng lên
nhưng không đáng kể, chỉ đạt 5% trên tổng số HS Na Mẻo. Do đó, TV vẫn là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ưu tiền hàng đầu của các em khi giao tiếp với thầy cô giáo.
Khi giao tiếp với bạn bè trong lớp học, TV vẫn chiếm ưu thế khi 100%
các em trả lời sử dụng TV. 12,5% HS Na Mẻo có trạng thái song ngữ TV -
TMĐ trong hoàn cảnh này. Tức là TMĐ chỉ giữ vai trò bổ trợ thêm. Còn khi
giao tiếp với bạn bè ngoài giờ học, tình hình có phần khác, các em giao tiếp tự
do với chủ đề mở rộng hơn, do đó vai trò của TMĐ tăng lên đáng kể (32,5%
HS sử dụng thêm TMĐ). Bởi lẽ, ngoài lớp học, các em sẽ có môi trường giao
tiếp thoải mái hơn, đồng thời ngôn ngữ được sử dụng cũng thoải mái hơn.
Chẳng hạn, trong giờ ra chơi, các em có cơ hội tiếp xúc với các bạn thuộc các
dân tộc khác (Tày, Nùng, Dao) nên các em sẽ được nói nhiều hơn, được kể
nhiều hơn về những hoạt động thường ngày (vui chơi, học tập,...). Và TV là lựa
chọn tối ưu để các em có thể giao tiếp với các bạn thuộc nhiều dân tộc khác và
cũng để bộc lộ được hết những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của các em. Hay như
trong kí túc xá, nếu các em người Na Mẻo ở chung một phòng, thì các em sử
dụng TMĐ để trò chuyện với nhau, nhưng một vài em ở với các HS là dân tộc
khác có thể sử dụng TV trong giao tiếp. Rõ ràng, đối tượng giao tiếp có vai trò
quyết định tới cách lựa chọn ngôn ngữ để giao tiếp.
Trên cơ sở xác định được số lượng ngôn ngữ, vai trò của các ngôn ngữ
và trạng thái ngôn ngữ ở HS Na Mẻo, chúng tôi đã tiến hành tìm hiểu về khả
năng đối với từng ngôn ngữ của các em theo lớp và giới tính. Với mỗi ngôn
ngữ, các khả năng được đưa ra để khảo sát là: nghe được, nói được; nghe được,
không biết nói; biết nói, biết chữ và biết nói, không biết chữ (cách làm giống
Chương 2). Tuy nhiên, 100% HS Na Mẻo đều nghe được và nói được TMĐ,
TV. Hơn nữa, các em không sử dụng ngôn ngữ thứ ba trong nhà trường nên
chúng tôi không triển khai theo các luận điểm như Chương 2 mà sẽ khai thác
kĩ ở các phần, mục khác.
3.2.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong nhà trường của HS người Na Mẻo
Như đã nói ở trên, trong nhà trường, HS người Na Mẻo chỉ sử dụng hai
ngôn ngữ là TV và TMĐ. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, chúng tôi sẽ tìm
hiểu sâu hơn khả năng sử dụng tiếng Việt của các em thông qua các bài kiểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tra, vì đối với HS, tiếng Việt là ngôn ngữ quan trọng nhất trong nhà trường.
3.2.2.1. Tìm hiểu khả năng sử dụng tiếng Việt trong nhà trường của HS Na
Mẻo qua bài kiểm tra nói
Đối với TV, từ bảng khảo sát, có thể thấy 100% các em HS đều nghe
được, nói được, viết được TV. Để có những đánh giá chính xác và khách quan
về năng lực sử dụng TV, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn ngẫu nhiên 9 HS để ghi
âm bài đọc (3 HS lớp 5, 3 HS lớp 7, 3 HS lớp 9). Ngữ liệu ghi âm được lựa chọn
là bài báo “Phòng tránh rắn cắn trong mùa hè”. Kết quả cho thấy, khả năng đọc
của các em tăng dần theo khối lớp. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi càng học lên
cao các em càng có cơ hội rèn luyện nhiều hơn, thời gian tiếp xúc với TV tăng
thì khả năng sử dụng TV của các em cũng tăng lên. Nhưng khi phân tích kĩ hơn,
các em thường mắc một số lỗi phát âm sau, xuất hiện ở tất cả các khối lớp:
- Về phụ âm đầu: không phân biệt tr-/ch- (phòng tránh > phòng
chánh), không phân biệt s/x- (quan sát > quan xát), không phân biệt r-/g-
(rừng > dừng). Điều này có thể được giải thích bằng đặc điểm phát âm của
người miền Bắc thường không phân biệt các âm đầu quặt lưỡi. Tuy nhiên, kể
cả khi được yêu cầu đọc đúng, các em vẫn không đọc với lí do “không nhớ,
không được thoải mái”.
- Về âm chính: có 7/9 em HS (tập trung ở lớp 5 và lớp 7) phát âm không
đúng nguyên âm đôi ươ, iê (ví dụ: nguyên nhân > nguên nhân, rượu > riệu).
Khi được yêu cầu đánh vần các chữ này, các em đều đánh vần đúng, nhưng khi
đọc văn bản, các em đều phát âm chưa chuẩn. Đem đoạn văn trên khảo sát với
10 người Na Mẻo trên 30 tuổi thì có đến 8/10 người đọc nguên nhân, riệu. Điều
đó minh chứng cho thói quen sử dụng ngôn ngữ của cả cộng đồng chứ không
riêng các em HS.
- Về thanh điệu, 100% số HS đọc không phân biệt được dấu ngã/dấu sắc.
Tất cả những chữ có thanh ngã các em đều đọc thành thanh sắc (nương rẫy >
nương rấy, những > nhứng, bác sĩ >bác sí…). Đặc điểm này không chỉ có ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
HS người Na Mẻo mà đại đa số những người dân tộc Tày Nùng ở Tràng Định
đều mắc phải. Hiện tượng này có thể là do hệ thống thanh điệu của tiếng Nùng
không có thanh ngã như trong TV, mà tiếng Nùng lại là ngôn ngữ phổ thông
vùng, các em tiếp xúc và nói chuyện với người Nùng hàng ngày nên đây đã trở
thành một lỗi rất khó sửa.
3.2.2.2. Tìm hiểu khả năng sử dụng tiếng Việt trong nhà trường ở HS Na Mẻo
qua bài kiểm tra viết
Để làm rõ khả năng TV của các em, chúng tôi đã thu thập tư liệu là
những bài kiểm tra của các em HS, bao gồm bài kiểm tra học kì, bài thi khảo
sát chất lượng đầu năm ở hai môn TV và Ngữ văn. Đồng thời, nhóm nghiên
cứu còn tiến hành thiết kế bài kiểm tra dựa trên chuẩn khung năng lực TV do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đối với từng lớp học. Như vậy, tổng số bài
kiểm tra là 120 bài/ 40 HS.
Nhận xét:
Trong các bài khảo sát, 100% HS sử dụng TV. Nếu như trạng thái
ngôn ngữ khi giao tiếp bằng lời của HS Na Mẻo là song ngữ, (TV - TMĐ),
đa ngữ (TV - TMĐ - Tiếng Tày, Nùng; TV - TMĐ - Tiếng Dao) thì xét về
mặt chữ viết thì lại chỉ có chữ Quốc ngữ, bởi người Na Mẻo đến nay chưa có
chữ viết riêng. Để tìm hiểu rõ hơn năng lực viết TV của các em HS trong bài
kiểm tra, chúng tôi đã khảo sát cụ thể ở các phương diện chính tả, từ ngữ,
câu và văn bản.
a. Năng lực viết TV ở bình diện chính tả
* Kết quả khảo sát:
Khảo sát bài kiểm tra của các em, một số lỗi có thể kể tên như:
Bảng 3.3: Lỗi chính tả của HS người Na Mẻo
Lỗi viết Lỗi phụ Lỗi Lỗi về vần Lỗi về thanh điệu Tổng hoa âm đầu
Số lượng 44 62 21 29 156
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
% 28,2% 39,7% 13,5% 18,6% 100%
* Nhận xét
Theo kết quả khảo sát, ta thấy, lỗi mắc nhiều nhất của các em HS người
Na Mẻo là lỗi phụ âm đầu, sau đó là lỗi viết hoa. Lỗi về vần và về thanh điệu
có tỉ lệ gần như nhau.
- Lỗi viết hoa: Ở bậc tiểu học, các em đã được học các quy tắc viết
hoa tên danh từ riêng như tên người, tên địa danh nhưng qua kết quả khảo
sát, chúng tôi nhận thấy, lỗi này tập trung chủ yếu ở các em HS lớp 5 mặc dù
đối với các em, đây là phần kiến thức mới được học. Lỗi viết hoa chia làm
hai loại. Loại thứ nhất, các em không viết hoa tên danh từ riêng, chẳng hạn:
huyện tràng định, nguyễn văn đức, cô hà dạy toán,… Ngoài ra, các em còn
chưa nắm vững quy tắc viết hoa sau dấu chấm hay viết hoa chữ cái đầu đoạn
văn, ví dụ: mẹ em rất là đẹp. mẹ em thường ngày lên nương trồng ngô và
lúa. em rất thương mẹ em. Loại thứ hai, các em viết hoa lung tung. Ngay cả
những danh từ bình thường không được nhân hóa các em vẫn viết hoa, chẳng
hạn: Sáng sớm, Bầu trời trong xanh, có mấy con chim Đua nhau hót líu lo
làm em rất vui hay Hôm qua, Lớp em tổ chức liên Hoan văn nghê,… Những
dẫn chứng trên cho thấy, còn rất nhiều HS người Na Mẻo chưa nắm vững
quy tắc viết hoa trong TV.
- Lỗi về phụ âm đầu: đây là loại lỗi mà các em mắc nhiều nhất thể hiện
như sau: không phân biệt tr-/ch- (như trong đó -> chong đó, con trâu -> con
châu,… ), không phân biệt s/x- (sương mù -> xương mù, xấu xa -> sấu sa,…),
không phân biệt gi-/d-/r- (như không dám -> không giám, giảng bài-> rảng
bài,…), không phân biệt kh-/th-/ph- (thấp thỏm -> khấp khỏm, phù sa -> khù
sa,… ), không phân biệt l-/v- (như phương châm về lượng -> phương châm về
vượng ), không phân biệt b-/v- (như công bằng -> công vằng) không phân biệt
l-/n- (như lo lắng -> no nắng, nước nông -> nước lông,…),…
- Lỗi về vần: Lỗi về vần là lỗi chiếm tỉ lệ nhỏ nhất trong lỗi chính tả. Ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
loại lỗi này, chúng tôi chia làm 3 loại nhỏ:
+ Lỗi âm đệm: viết thiếu hoặc thừa âm đệm. Chẳng hạn: quyển vở ->
qyển vở, cuống quýt -> cuống qýt, làm quan -> làm quoan, loay hoay -> lay
hay,… Ngoài ra, các em còn viết thừa nét âm đệm (chữ u chỉ có 2 nét các em
viết thành 3 nét).
+ Lỗi âm chính: không phân biệt -a-/-ă-/-â- (như bánh đa -> bấnh đa,
thức dậy -> thức dặy,…), không phân biệt các nguyên âm đôi như -ươ-/-uô-/-
iê- (như chén rượu -> chén riệu, con hươu -> con hiêu,…), không phân biệt -
u-/-ư- (như su hào -> sư hào, củ khoai -> cử khoai,…), không phân biệt -ô-/-
o- (như ôm ấp -> om ấp, lo lắng -> lô lắng,…), không phân biệt -ơ-/â- (như ở
nhà -> ẩ nhà).
+ Lỗi âm cuối: trong lỗi về vần, âm cuối chiếm tỉ lệ cao nhất. Các em
thường không phân biệt -n/-ng/-nh (long lanh -> long lang, buổi sáng -> buổi
sánh,…), không phân biệt -i/-y (như cái tay -> cái tai, ngửi -> ngửy,…), không
phân biệt -t/-c (như nhắc nhở -> nhắt nhở, trực nhật -> trực nhận,…) không
phân biệt -u/-o (nấu cháo -> nấu cháu,…)
- Lỗi thanh điệu: trong TV có 6 thanh rất rõ ràng là huyền, sắc, ngã hỏi,
nặng, không. Tuy vậy, kết quả khảo sát khá bất ngờ khi nhiều em viết sai thanh
điệu. Theo chúng tôi, một phần nguyên nhân có thể do các em viết vội, ẩu trong
bài kiểm tra. Một số lỗi thanh điệu là: nhầm giữa thanh ngã/ thanh hỏi (khuyên
nhủ -> khuyễn nhủ), nhầm giữa thanh sắc/ thanh ngã (dạy dỗ -> dãy dố, mỡ ->
mớ,…), nhầm giữa thanh huyền/ thanh nặng (gia đình -> gia định), nhầm giữa
thanh hỏi/ thanh sắc (đọc hiểu -> đọc hiếu, dai dắng),…
b. Năng lực viết TV ở bình diện từ ngữ
Từ là đơn vị nhỏ nhất để cấu tạo câu. Một người muốn ăn nói giỏi, viết
lách hay cần phải có vốn từ vựng phong phú, nắm chắc nghĩa của từ. Đối với
các em HS bậc TH và THCS người Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn, tuy vốn
từ của các em chưa thật sự phong phú nhưng nhìn chung có thể đáp ứng nhu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cầu học tập và giao tiếp hàng ngày.
* Kết quả khảo sát
Khảo sát 120 bài kiểm tra của HS người Na Mẻo, kết quả thu được như sau:
Bảng 3.4: Lỗi dùng từ của HS người Na Mẻo
Lỗi Số lượng Tỉ lệ (%)
Lặp từ, thừa từ 27 27,6%
Dùng từ không đúng âm thanh và hình thức cấu tạo 16 16,3%
Dùng từ không đúng nghĩa 11 11,2%
Dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp ngữ nghĩa 9 9,2%
và ngữ pháp của từ trong câu
Dùng từ sai phong cách 35 35,7%
98 100% Tổng
* Phân tích
Nếu như số bài kiểm tra không mắc lỗi chính tả là 5 bài thì số lượng bài
không mắc lỗi dùng từ là 15 bài, tập trung ở những bài viết chữ nghĩa rõ ràng,
sạch đẹp. Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy rõ, lỗi dùng từ sai phong cách có tỉ lệ
lớn nhất, sau đó là lỗi lặp từ, lẫn lộn các từ gần âm. Lỗi dùng từ không đúng về
quan hệ kết hợp ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ trong câu có tỉ lệ thấp nhất.
- Lỗi lặp từ, thừa từ:
Ví dụ 1: Vào mỗi buổi sáng, em thức dậy, em thấy bình minh đang tỏa
sáng rực rữ vào buổi sáng
Ví dụ 2: Buổi sớm thức dậy, em thấy cảnh mặt trời lên. Đó là cảnh bình
minh buổi sớm.
Trên đây là những ví dụ thực tế cho lỗi lặp từ, thừa từ của HS người Na
mẻo. Hiện tượng dùng các từ ngữ trùng lặp làm cho câu văn, đoạn văn diễn đạt
lủng củng, rườm rà. Điều đó cho thấy năng lực viết TV của HS người Na Mẻo
trên bình diện lựa chọn từ ngữ và diễn đạt còn nhiều hạn chế. Một trong những
nguyên nhân, theo tác giả bài báo, đó là các em chưa nắm vững nghĩa của từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Chẳng hạn ở ví dụ 2, nếu các em hiểu bình minh đã có nghĩa là buổi sáng thì có
lẽ đã không dẫn đến lỗi thừa từ. Để sửa lỗi này cho HS không phải chuyện một
sớm một chiều, trong đó, các em phải chủ động tự tìm hiểu và nắm vững nghĩa
của từ ngữ để khi sử dụng không bị trùng lặp.
- Dùng từ không đúng âm thanh và hình thức cấu tạo: Trong TV, có
một hệ thống các từ gần âm rất dễ gây nhầm lẫn cho người sử dụng, kể cả
người lớn chứ không riêng gì HS. Hơn nữa, HS miền núi lại có phạm vi, đối
tượng sử dụng TV bị thu hẹp nên rất dễ nhầm lẫn các từ này. Điều đó thể hiện
qua các ví dụ sau:
Ví dụ 1: Trời lạnh, các bạn HS mặc áo rất mong manh.
Ví dụ 2: Hè vừa rồi, em đã được đi thăm quan hang Pác Bó.
Nguyên nhân của lỗi này là do các em không nhớ mặt ngữ âm của từ
hoặc do không hiểu hết nghĩa của từ.
- Dùng từ không đúng nghĩa: Trong quá trình sử dụng từ ngữ, kĩ năng
chọn từ cho phù hợp với nội dung định diễn đạt là một điều rất quan trọng.
Khảo sát các bài làm văn của HS, chúng tôi nhận thấy năng lực sử dụng từ ngữ
của các em còn nhiều hạn chế, các em thường nhầm lẫn giữa xanh xao và xanh,
điểm yếu với yếu điểm, tốt với tươi tốt,…
Ví dụ 1: Cái cây kia lá rất xanh xao.
Ví dụ 2: Yếu điểm của bạn ấy là hát không hay.
Trong ví dụ 1, từ xanh xao có nghĩa là có màu xanh tái, nhợt nhạt, ốm yếu,
thường dung cho người nhưng ở đây các em lại nghĩ đó là màu xanh của cây.
Còn ví dụ 2, yếu điểm là điểm quan trọng nhất, điểm yếu là có mức độ, năng lực
hoặc tác dụng ít, kém so với bình thường. Câu này phải dùng từ điểm yếu.
- Dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ
trong câu: Trong TV, mỗi từ loại đều có đặc trưng kết hợp riêng, nếu ta không
nắm vững đặc điểm này có thể gây nhầm lẫn. Theo khảo sát, HS người Na Mẻo
thường dùng từ không đúng về quan hệ kết hợp giữa chủ ngữ và vị ngữ hay sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kết hợp của các từ với nhau chẳng hạn:
Ví dụ 1: Tác phẩm này đã nung nấu ý chí trả thù quân giặc.
Ví dụ 2: Bạn Nam đã tát bạn Mạnh vào vai.
- Dùng từ sai phong cách: TV có 6 phong cách ngôn ngữ. Vì vậy, có
những từ dùng được trong phong cách ngôn ngữ này nhưng không thể sử
dụng trong phong cách khác. Ở chương trình Ngữ văn, các phong cách ngôn
ngữ này được học ở bậc THPT nên các em HS bậc TH và THCS người Na
Mẻo chưa được học, dẫn đến số lượng lỗi dùng từ sai phong cách là nhiều
nhất. Trong các bài viết của HS được khảo sát, các em thường sử dụng các
đơn vị từ vựng thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, vì thế khi đưa vào bài
viết sẽ không phù hợp:
Ví dụ 1: Nhìn từ rừng núi lên mặt trời rất là đẹp và tỏa sáng
Ví dụ 2: Em có một cái ước muốn được trở thành cô giáo.
Từ việc khảo sát và phân tích bài làm của HS, có thể rút ra kết luận: ở
bình diện từ ngữ, các em HS người Na Mẻo nhìn chung đã có vốn từ vựng nhất
định, có thể tự diễn đạt điều mình muốn nói, muốn viết. Tuy nhiên, ở mức độ
cao hơn, viết những nội dung phức tạp, các em chưa làm được. Bên cạnh đó,
các em còn mắc nhiều lỗi về dùng từ do chưa nắm chắc nghĩa của một số từ
ngữ hay bị nhầm lẫn giữa các từ, giữa các phong cách ngôn ngữ.
c. Năng lực viết TV ở bình diện câu
Câu là đơn vị trung gian giữa từ và đoạn văn, văn bản. Vì vậy, nếu như ở
bình diện từ không thể hiện được cách diễn đạt của HS thì bình diện câu thể
hiện rõ được điều ấy.
- Về cách diễn đạt: Lỗi diễn đạt hay còn gọi là lỗi lô-gíc là một trong
những lỗi HS hay mắc phải. HS người Na Mẻo cũng không phải trường hợp
ngoại lệ. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy các em hay mắc một số lỗi như:
Ví dụ 1: Vì bạn ấy lười học nên bạn ấy thường được điểm cao, Tuy bạn
Nam nhà ở xa nhưng bạn ấy lúc nào cũng đi học muộn,…
Trong ví dụ này, các em dùng sai quan hệ từ. Cặp quan hệ từ tuy/ nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
được dùng khi có sự đối lập giữa hai về nhưng ở đây “bạn Nam ở nhà xa”
không hề đối lập với “bạn ấy lúc nào cũng đi muộn”. Tương tự, cặp quan hệ từ
vì/ nên được dùng chỉ nguyên nhân - kết quả nhưng trong ví dụ trên “bạn ấy
lười học” không phải là nguyên nhân “bạn ấy thường được điểm cao”.
Ví dụ 2: Bài văn Sống chết mặc bay không chỉ có nghệ thuật đặc sắc mà
cách dùng biện pháp tương phản, đối lập của tác giả cũng rất hay
Ở kiểu câu này, quan hệ giữa A (vế 1) và B (vế 2) phải khác loại, không
bao chứa nhau. Nhưng ở đây “biện pháp tương phản, đối lập” đã nằm trong
“nghệ thuật”. Vì vậy, đây là câu sai.
Ngoài ra, các em còn mắc lỗi diễn đạt dài dòng, lủng củng, tối nghĩa.
Chẳng hạn: Nhà văn Phạm Duy Tốn đã viết ra bài truyện ngắn để miêu tả cuộc
sống cực khổ của nhân dân ta trong khi bị mưa lũ ngập, nước trôi vào nhà, ai
cũng hoảng hốt, cũng khi đó, mọi người cùng nhau để đắp đập ngăn nước giữa
đêm tối, quan lại thì ngồi ăn, chơi tổ tôm không thèm quan tâm đến nhân dân
để nhân dân một mình tự đắp đê ngăn nước không vào nhà.
- Về kiểu câu (đơn , ghép)
Thông thường, cách tạo lập câu cũng thể hiện được phần nào năng lực
viết TV của các em HS. Chúng tôi khảo sát khối 5, 7, 9 với 3 bài làm văn bất
kì, kết quả thu được là:
Bảng 3.5. Số lượng câu trong bài kiểm tra của học sinh người Na Mẻo
phân theo cấu tạo
Khối Bài Tổng số câu Câu đơn Câu ghép
1 9 5 2
5 2 3 3 0
3 6 5 1
1 5 5 0
7 2 12 8 4
3 9 7 2
1 9 5 4
9 2 7 4 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3 6 6 0
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong bài viết HS thường sử dụng câu
đơn là chủ yếu. Câu ghép được các em HS lớp 7, lớp 9 sử dụng nhiều hơn. Một số
mô hình câu mà các em thường tạo lập là 1C - 1V, 1C - 2V, 1C- 3V, 2C- 1V, 3C-
1V,….như Buổi sáng, mẹ em và bố em đi làm. Sau đó, em đi học. Bên cạnh đó,
các em cũng rất hay tạo lập những câu ghép dài từ 2 cụm C-V trở lên, cho dù chưa
chính xác về ý nghĩa.
- Cấu trúc ngữ pháp
Ở bậc tiểu học, các em đã biết mô hình đầy đủ của một câu là C-V, có
đủ chủ ngữ và vị ngữ. Lên bậc THCS, các em được học bài Thêm trạng ngữ
cho câu; Dùng cụm chỉ vị để mở rộng câu (Ngữ văn 7); Khởi ngữ, Các thành
phần biệt lập (Ngữ văn 9) nhưng nhiều em vẫn tạo lập những câu sai về ngữ
pháp, cụ thể như sau:
+ Câu thiếu thành phần chủ ngữ: Một trong những nguyên nhân của lỗi
này là do các em nhầm lẫn giữa trạng ngữ và chủ ngữ nhưng theo khảo sát của
chúng tôi, còn rất nhiều em (kể cả lớp 9) vẫn chưa nắm vững cấu trúc của câu.
Một số ví dụ điển hình: Qua bài văn này đã thể hiện tấm lòng thương dân của
tác giả; Với thể thơ Đường luật cho ta thấy vẻ đẹp cổ điển của bài; Giúp con
người có tri thức,…
+ Câu thiếu thành phần vị ngữ: Lỗi này tập trung chủ yếu ở các em HS lớp
5. Nguyên nhân của lỗi này là do các em chưa phân biệt được chủ ngữ và vị ngữ.
Nhiều em viết câu ra không biết rằng câu đó đã có vị ngữ hay chưa (Chúng tôi đã
tiến hành phỏng vấn sâu). Ngoài ra, còn có HS nhầm lẫn chủ ngữ với vị ngữ do
chủ ngữ quá dài. Chẳng hạn: Việc nhà văn miêu tả tình cảnh của con người thê
thảm trong Sống chết mặc bay, Vào buổi tối mẹ em cùng với bố em,…
+ Câu thiếu cụm chủ vị: Câu này thường chỉ có thành phần trạng ngữ. Lỗi
này gặp ít hơn so với 2 lỗi trên: Vào một buổi sáng mùa đông. Đêm hôm ấy.,…
Qua việc khảo sát và phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận thấy, trong bài kiểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tra, phần lớn các em sử dụng câu đơn. Có một số em đã biết tạo lập những câu
ghéo dài nhưng về nội dung chưa thật hoàn chỉnh. Cá biệt, còn rất nhiều HS
chưa nắm vững cấu trúc ngữ pháp của câu, dẫn đến tạo câu sai ngữ pháp. Một
điều cần nhấn mạnh ở đây là các em chưa ý thức được cần viết đúng, viết hay.
Các em cho rằng viết thế nào cũng được, miễn là các cô giáo vẫn hiểu!
d. Năng lực viết TV ở bình diện văn bản
Khi xem xét môt văn bản, người ta thường nói đến tính liên kết và mạch
lạc. Trong luận văn, chúng tôi cũng tiến hành phân tích năng lực viết TV của
HS dựa trên ba bình diện cơ bản là dung lượng của bài văn; khả năng liên kết
đoạn văn, tính mạch lạc của văn bản và cách sử dụng dấu câu. Bởi lẽ, đây là
những yếu tố không thể thiếu trong một đoạn văn, một văn bản.
Thứ nhất, về dung lượng của các bài văn. Chúng tôi đã tiến hành cho các
em HS làm một bài kiểm tra ngắn, thời gian là 30 phút với đề bài như sau:
Lớp 5: Em hãy viết một đoạn văn ngắn tả một người thân trong gia đình em
Lớp 7: Trong chương trình Ngữ văn lớp 7, em thích tác phẩm nào nhất?
Hãy viết một đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về tác phẩm đó.
Lớp 9: Sách có vai trò vô cùng quan trọng. Em hãy viết một đoạn văn
ngắn (7-10 câu) thuyết phục mọi người đọc sách.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 3.6. Số lượng câu trong bài kiểm tra của HS người Na Mẻo
Câu Lớp 5 Lớp 7 Lớp 9
0-5 câu 12 10 6
6-10 câu 5 4 14
Trên 10 câu 3 6 0
Tổng 20 bài 20 bài 20 bài
Với số liệu trên, có thể thấy, năng lực viết ở bình diện văn bản của HS
Na Mẻo không đều nhau. Cụ thể, các em HS lớp 5,7 có dung lượng bài viết dài
hơn các em lớp 9. Đặc biệt, mặc dù là anh chị chuẩn bọ thi vào lớp 10 THPT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhưng không có HS nào viết được đoạn văn trên 10 câu. Điều nay nói lên một
sự thực, khả năng viết văn của các em chưa tốt, ý tưởng còn nghèo nàn, vốn từ
con hạn chế, đặc biệt các em gặp khó khăn trong cách diễn đạt, muốn viết
những điều mình nghĩ nhưng không thể hiện thực hóa bằng chữ viết.
Thứ hai, xét về tính liên kết, mạch lạc. Liên kết là nối liền, gắn bó với
nhau. Đây là một trong nhữn tính chất quan trọng nhất của văn bản, làm cho văn
bản trở nên có nghĩa, dễ hiểu. Còn mạch lạc thông suốt, liên tục, không đứt đoạn.
Thông thường, một văn bản có hai phương diện liên kết là liên kết nội dung và
liên kết hình thức.
Về nội dung, nhìn chung các bài viết đã có sự liên kết về chủ đề khi các
câu văn đều phục vụ chủ đề của đoạn văn mà các em viết. Tuy nhiên, phần liên
kết lô-gíc chưa thực sự tốt. Nhiều câu văn chưa được sắp xếp theo một trình tự
hợp lí. Chẳng hạn: Buổi sáng, mẹ em đưa em đi học còn bố em đi nương. Em
học ở trường đến trưa mới về. Ở trường em được học nhiều môn học như Toán,
Lí, Tiếng Anh. Em rất thích học môn Ngữ văn. Sau đó, mẹ em sẽ về lên nương
cùng bố em trồng ngô và chặt củi. Sau khi học xong em sẽ đi về cùng các bạn.
Về liên kết hình thức, các em đã có ý thức sử dụng các phương tiện liên
kết. Hai phép liên kết mà các em hay sử dụng là phép lặp, phép nối. Phép đồng
nghĩa, trái nghĩa được các em sử dụng ít hơn cả. Chẳng hạn: Sách có vai trò rất
quan trọng đối với chúng ta. Đọc sách giúp con người thư giãn, có thêm kiến
thức,… (phép lặp); Bài thơ Ngắm trăng của Bác rất hay. Nội dung bài thơ nói
về một đêm trăng đẹp. Ngoài ra, bài thơ còn thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên
của Bác. (Phép nối)
Thứ ba, về dấu câu: Qua thực tế khảo sát các bài viết của HS, chúng tôi nhận
thấy các em ngắt câu, ngắt ý tùy tiện mà không quan tâm đến vấn đề ngữ nghĩa hay
ngữ pháp, hay không chú ý dấu hiệu khi xuống dòng, bắt đầu đoạn văn. Lỗi không
ngắt câu hoặc sử dụng dấu không đúng chỗ tập trung chủ yếu ở HS lớp 7. Các em
sử dụng không đúng dấu cảm thán (Chẳng hạn: Ngày mai! Em đi chơi), dấu phẩy
(chẳng hạn: Bạn ấy đang đi về, nhà). Cá biệt, có rất nhiều bài không hề ngắt câu khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đã hết câu hoặc chưa hết câu đã ngắt. Ví dụ: Mặt trời lên rất đẹp lẻ loi qua từng
chiếc lá như chiếc đèn lồng gà mẹ rủ con đi tìm mồi, đàn vịt tung tăng nô đùa rủ
nhau bơi lội dưới ao chó đùa nghịch nhau ngoài sân trâu theo chủ đi cày ruộng các
bác nông dân và bố mẹ em đi lên nương mặt trời nhô lên những tia sáng xuyên qua
rừng cây và chiếu sáng cho mọi cảnh vật và cho những người nông dân. (Bài khảo
sát chất lượng đầu năm, HS Liễu Văn Quyến, lớp 7)
Từ những phân tích trên ta có thể thấy, kĩ năng viết TV nhìn từ bình diện
văn bản của các em còn khá yếu. Các em thường chỉ viết được những đoạn văn
ngắn, nội dung chưa phong phú. Trình tự các câu trong đoạn văn sắp xếp chưa
hợp lí. Đặc biệt, các em sử dụng dấu câu chưa đúng chức năng, mặc dù kiến thức
này đã học ở bậc tiểu học và được học kĩ hơn trong chương trình Ngữ văn 6, 7, 8.
3.3. Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo
3.3.1. Tình trạng đa ngữ là chủ yếu của người Na Mẻo trong hoạt động
truyền thông
3.3.1.1. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động truyền thông
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.7. Số lượng ngôn ngữ được sử dụng trong hoạt động truyền thông
Số lượng Tỉ lệ Ngôn ngữ
125/125 100% TV
65/125 52% TMĐ
25/125 20% Tiếng Tày Nùng
3/125 2,4% Tiếng Dao
b. Nhận xét
Qua sự bảng số liệu, có thể rút ra kết luận với người Na Mẻo ở Tràng Định,
Lạng Sơn, trong hoạt động truyền thông, TV giữ vai trò quan trọng nhất, dù là bất
kì loại hình truyền thông nào, sau đó là TMĐ, cuối cùng mới đến tiếng Tày Nùng
và tiếng Dao. Đặc biệt, tiếng Dao chỉ giữ vai trò bổ trợ, chỉ có một số rất ít người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sử dụng ngôn ngữ này khi thụ hưởng các loại hình văn hóa truyền thông.
3.3.1.2. Thực trạng sử dụng ngôn ngữ và vai trò của các ngôn ngữ trong hoạt
động truyền thông
Để xác định thực trạng sử dụng ngôn ngữ cũng như vai trò của các ngôn
ngữ được người Na Mẻo sử dụng trong truyền thông, với câu hỏi: “Ông/ bà
thường sử dụng ngôn ngữ nào khi...?”, kết quả thu được như sau:
Bảng 3.8: Các ngôn ngữ được sử dụng trong truyền thông
của người Na Mẻo phân theo loại hình truyền thông
TV - TMĐ - TV - Tày TV - TV TMĐ Tày TV- Tày Nùng - Tổng TMĐ Nùng Nùng Dao
92 13 105 xem tivi
(88%) 37 (12%) 3 (100%) 40 nghe đài (92,5%) (7,5%) (100%)
81/81 81 đọc sách
(100%) (100%) báo
40 9 22 10 9 3 93 nói chuyện
(43%) (9,7%) (23,7) (10,7%) (9,7%) (3,2%) (100%) điện thoại
(Ghi chú: 20/125 người không xem ti vi; 85/125 người không nghe đài;
65/125 người không tiếp xúc với sách báo; 83/125 người có sử dụng điện thoại.
Tỉ lệ phần trăm sẽ được tính theo số liệu này)
b. Nhận xét:
Có thể thấy, cũng giống như trong sinh hoạt hàng ngày, người Na Mẻo
sử dụng toàn bộ ngôn ngữ mà mình biết được để thụ hưởng truyền thông.
Trong đó, một hoạt động có trạng thái ngôn ngữ đơn ngữ là đọc sách báo, hai
hoạt động song ngữ là xem tivi, nghe đài, một hoạt động đa ngữ là nói chuyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
điện thoại. Cụ thể như sau:
Có 105/125 người Na Mẻo thụ hưởng truyền thông là xem tivi (chiếm
84%). Những người còn lại lí do đưa ra là nhà không có ti vi hoặc chỉ nghe đài,
không xem tivi. Khi xem tivi, người Na Mẻo ở Tràng Định sử dụng TV và
tiếng Tày Song tỉ lệ giữa các ngôn ngữ này chênh lệch khá lớn. Có 68,6%
những người xem tivi trả lời họ chỉ xem bằng TV, không sử dụng thêm ngôn
ngữ thứ hai. Còn lại 31,4% sử dụng song ngữ TV - Tiếng Tày Nùng trong hoạt
động này. Rõ ràng, TV chiếm ưu thế lớn hơn khi người Na Mẻo xem tivi bởi
thực tế, các chương trình truyền hình hiện nay đều sử dụng TV trên phạm vi
toàn lãnh thổ. Những người xem tivi bằng tiếng Tày Nùng đều nằm trong nhóm
90 người biết ngôn ngữ này, họ thường xem ở kênh truyền hình địa phương
(Tràng Định tivi); kênh truyền hình của Đài PT và TH Lạng Sơn (LSTV); một
số kênh bằng tiếng Tày Nùng khác trên tivi của các đài phát thanh địa phương.
Không có ai sử dụng TMĐ khi xem tivi vì thực tế chưa có kênh truyền hình nào
sử dụng tiếng Na Mẻo.
Cũng giống như khi xem tivi, khi nghe đài, người Na Mẻo sử dụng hai
ngôn ngữ là TV và tiếng Tày Nùng. Tuy vậy, chỉ có 40/125 người tham gia
hoạt động này (chiếm 40%), thấp hơn rất nhiều so với xem tivi. Theo điều tra,
những người nghe đài thường là người già, khi xem tivi hay bị lóa mắt nên họ
chuyển sang nghe đài. Có người đưa ra lí do vì đài giá thành rẻ hơn tivi nhiều
nên lựa chọn mua đài thay vì xem tivi. Có 37/40 người nghe đài bằng TV
(chiếm 92,5%), chỉ có 3 người nghe đài bằng cả TV - Tiếng Tày Nùng. Như
vậy, trạng thái ngôn ngữ ở đây phần lớn là đơn ngữ, số rất ít là song ngữ, không
có đa ngữ. TV vẫn giữ vai trò quan trọng.
Ở hoạt động đọc sách báo, có 81/125 người tham gia (chiếm 64,8%). So
với nhiều dân tộc khác, con số này khá ấn tượng, bởi nó phản ánh phần nào
trình độ dân trí và hoạt động giáo dục ở địa phương có đồng bào Na Mẻo sinh
sống. Đây là hoạt động duy nhất chỉ có trạng thái là đơn ngữ là TV. Bởi lẽ, tất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cả các sách báo người Na Mẻo được tiếp xúc hiện nay đều viết bằng TV.
Nói chuyện điện thoại là hoạt động có trạng thái ngôn ngữ phức tạp
nhất, bao gồm nhiều mô hình đơn ngữ, đa ngữ, song ngữ khác nhau. Có
93/125 người tham gia vào hoạt động này. Còn lại 32 người không nói chuyện
điện thoại (chiếm 25,6%) tập trung vào người dưới 18 tuổi, là HS hoặc người
già, một số ít là phụ nữ có độ tuổi trung niên (không biết chữ). Tỉ lệ người chỉ
sử dụng một ngôn ngữ có con số khá ấn tượng 52,7% gồm TV (chiếm 43%)
và TMĐ (9,7%). Có thấy thấy, cũng giống như các hoạt động khác, vai trò của
TV được khẳng định với 40/93 người chỉ sử dụng TV. Có hai mô hình song
ngữ chiếm tỉ lệ thấp là TV - TMĐ (23,7%) và TV - Tiếng tày Nùng (chiếm
10,7%). So sánh với con số 72% người Na Mẻo biết tiếng Tày Nùng thì tỉ lệ
song ngữ TV - Tiếng Tày Nùng ở đây khá khiêm tốn. Điều này đã cho thấy
thói quen trong việc lựa chọn ngôn ngữ. Khi phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận
thấy, phần lớn người Na Mẻo khi nói chuyện điện thoại với người Tày Nùng
có xu hướng sử dụng tiếng Kinh nhiều hơn (trong khi họ có thể giao tiếp bằng
tiếng Tày Nùng), điều này dẫn đến tỉ lệ song ngữ TV - Tiếng Tày Nùng chỉ
dừng lại ở 10,7%. TMĐ tuy có tỉ lệ không cao nhưng thực chất ngôn ngữ này
lại tham gia vào 3 mô hình đơn ngữ (TMĐ), song ngữ (TV - TMĐ), đa ngữ
(TMĐ - TV- Tày Nùng). Thực tế này chứng tỏ vai trò của TMĐ chỉ xếp sau
TV trong hoạt động nói chuyện điện thoại. Ngoài mô hình đa ngữ TMĐ - TV-
Tày Nùng thì mô hình TV - Tày Nùng - Dao cũng được sử dụng, tuy vậy chỉ
chiếm một tỉ lệ rất nhỏ 3,2%. Như vậy, có thể thấy, rõ ràng, trong hoạt động
nghe điện thoại, người Na Mẻo ít sử dụng ngôn ngữ thứ 3 (sau TV và TMĐ)
hơn trong sinh hoạt hàng ngày.
Một điều cần lưu ý khi nhìn vào bảng số liệu, nếu như trong sinh hoạt
hàng ngày, người Na Mẻo có thể sử dụng 4 ngôn ngữ TV, TMĐ, Tiếng Tày
Nùng, tiếng Dao thì trong truyền thông, không có mô hình đa ngữ với sự tham
gia của 4 ngôn ngữ. Đây là điểm khác biệt lớn trong thói quen sử dụng ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngữ của người Na mẻo ở những hoàn cảnh khác nhau.
Để thấy rõ hơn năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ trong truyền thông ở
người Na Mẻo, chúng tôi đã khảo sát kĩ hơn dựa trên các mức độ: không hiểu,
hiểu ít và hiểu rõ, đồng thời chia theo các tiêu chí loại hình truyền thông, độ tuổi,
học vấn và nghề nghiệp (qua quan sát, tiêu chí giới tính, không có ảnh hưởng lớn
đến sự khác biệt trong sử dụng ngôn ngữ ở người Na Mẻo trong truyền thông.
3.3.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của
người Na Mẻo
3.3.2.1. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về loại hình truyền thông
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.9: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của
người Na Mẻo theo sự phân biệt về loại hình truyền thông
Loại hình đọc sách nói chuyện xem tivi nghe đài báo điện thoại NN/ khả năng
không hiểu
hiểu ít TV
hiểu rõ
30/105 (28,6%) 62/105 (59%) 11/40 (27,5%) 26/40 (65%) không hiểu
49/81 (60,5%) 32/81 (39,5%) hiểu ít
Tiếng mẹ đẻ hiểu rõ
không hiểu
hiểu ít
Tày Nùng hiểu rõ
3/105 (2,9%) 10/105 (9,5%) 2/40 (5%) 1/40 (2,5%) không hiểu
hiểu ít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tiếng Dao hiểu rõ 7/93 (7,5%) 50/93 (53,7%) 4/93 (4,3%) 19/93 (20,4%) 2/93 (2,2%) 8/93 (8,6%) 1/93 (1,1%) 2/93 (2,2%)
b. Nhận xét
- Trong truyền thông, ở tất cả các loại hình, dù sử dụng ngôn ngữ nào đi
chăng nữa, người Na Mẻo đều trả lời trong hai khả năng “hiểu ít” và “hiểu rõ”.
Không có ai “không hiểu”. Thực tế này phản ánh năng lực ngôn ngữ của họ trong
việc thụ hưởng truyền thông khá tốt. Tuy nhiên, ở mỗi hoạt động, số lượng ngôn
ngữ được sử dụng và tỉ lệ người hiểu rõ, hiểu ít cũng hoàn toàn khác nhau, cụ thể:
- Khi xem tivi, người Na Mẻo sử dụng TV và tiếng Tày Nùng. Ở TV, có
62/105 người (chiếm 59%) trả lời là "hiểu rõ”. Con số này tuy không thấp nhưng
cũng đủ để phản ánh phần nào sự nhận thức của người Na Mẻo khi xem tivi
bằng TV. Khảo sát kĩ hơn để tìm hiểu nguyên nhân có tới 30/105 người (chiếm
28,6%) trả lời “hiểu ít”, câu trả lời được đưa ra là do các chương trình truyền
hình trên tivi có nhiều chương trình mà phát thanh viên nói quá nhanh hay không
nói giọng miền Bắc khiến họ không nghe được hết. Đặc biệt, một số chương
trình mang tính tổng hợp với nhiều thuật ngữ chuyên môn như thời sự, bản tin tài
chính kinh doanh mặc dù rất thích xem nhưng khả năng hiểu không cao. Một số
từ ngữ khó hiểu đối với người Na Mẻo như: lạm phát, thanh khoản, đài thọ,
chuyển nhượng... Cá biệt, cách sử dụng tiếng Anh chêm xen vào TV cũng là một
nguyên nhân khiến người Na Mẻo “hiểu ít” (Kiểu như: Chuyến bay bị delay,...).
Chương trình có tỉ lệ hiểu rõ cao nhất là các chương trình liên quan đến nông,
lâm, ngư nghiệp hay phim ảnh do các diễn viên miền Bắc thủ vai (hoặc lồng
tiếng) như: Bạn của nhà nông, Thời tiết, quảng cáo... và số người "hiểu ít" cũng
được chia đều cho cả nam và nữ. Nhưng nhìn chung, có thể thấy, khi xem tivi
bằng TV, tỉ lệ "hiểu rõ" cao gấp đôi " hiểu ít", khả năng nghe hiểu TV khi xem
tivi của người Na Mẻo là đạt ở mức trung bình khá.. Với tiếng Tày Nùng, chỉ có
13/95 người sử dụng khi xem tivi, trong đó số người “hiểu rõ” cao hơn hẳn “hiểu
ít”. Một trong những nguyên nhân vẫn còn số người hiểu ít là do tiếng Tày Nùng
được lựa chọn để phát thanh viên nói có khác đôi chút so với tiếng Tày Nùng ở
Tràng Định, Lạng Sơn. Nguyên nhân khác là do năng lực ngôn ngữ này chưa cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(Đối với trẻ em và một số người chỉ “nghe được, không nói được”.
- Số lượng người nghe đài thấp hơn hẳn số lượng người xem tivi do
tính chất thông tin và tính giải trí kém, chỉ có phần nghe, không có phần
nhìn, khó thu hút thính giả trẻ tuổi tham gia. Giống như xem tivi, khi nghe
đài, người Na Mẻo sử dụng cả TV và tiếng Tày, song khả năng đối với hai
ngôn ngữ này khác nhau rất rõ rệt. Phần lớn người nghe đài đều tập trung ở
độ tuổi người cao tuổi (phần này sẽ nói rõ ở mục sau) , thính giác không
được tốt nên ảnh hưởng nhiều đến việc nghe đài. Tuy vậy, chỉ có 11/40
người nghe đài bằng TV là “hiểu ít”, còn lại 26/40 người (chiếm 65% hiểu
rõ). Số người hiểu rõ vấn khá cao, điều đó thấy, về cơ bản, các chương trình
đài hiện nay dễ hiểu và phù hợp với đại chúng. Lí do “khó hiểu” ở đây, theo
phỏng vấn sâu, chúng tôi được biết, vì không có phần nhìn để minh họa, nên
một số câu, lời thoại người nghe chưa hiểu được. Có 3/40 người sử dụng
tiếng Tày Nùng khi nghe đài, trong đó 2 người “hiểu ít”, 1 người “hiểu rõ”.
Như vậy, khi so với con số 90 người biết tiếng Tày Nùng thì tỉ lệ người nghe
đài bằng ngôn ngữ này còn quá khiêm tốn.
- Ở loại hình sách báo, 100% người Na Mẻo đọc sách báo bằng TV. Đây
là một điều dể hiểu vì sách báo hiện nay in chủ yếu bằng TV. Nhóm người
thường xuyên đọc sách bào là cán bộ và HS. Nông dân có tỉ lệ đọc sách báo ít
nhất. Về loại hình sách báo cũng khác nhau hoàn toàn, nếu HS thường đọc các
loại sách trong nhà trường, truyện tranh, nông dân thường đọc sách báo về
nông nghiệp, tin tức mùa vụ thì cán bộ chủ yếu đọc sách báo mang tính chất
nghề nghiệp, chuyên ngành. Khi đọc sách báo bằng TV, số người "hiểu ít" cao
hơn "hiểu rõ". Trong tổng số 81 người Na Mẻo có đọc sách báo, có tới 49/81
người “hiểu ít” (chiếm 60,5%). Số còn lại là 32/81 người (chiếm 40,9%) ở mức
độ "hiểu rõ". Như vậy có thể thấy, ở loại hình báo chí, mức độ thông tin đem
lại đối với người Na Mẻo chưa cao, một phần do năng lực TV chưa thật hoàn
hảo (mặc dù 100% nghe được, nói được TV), một phần do nội dung các sách,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
báo mà người Na Mẻo được tiếp xúc chưa thực sự phù hợp. Đối với HS, ngoài
sách giáo khoa học hàng ngày, các em được đọc những quyên truyện tranh,
sách tham khảo,... ở thư viện của trường, tuy nhiên vẫn được sự hướng dẫn của
các thầy cô. Còn các đối tượng khác tiếp xúc với sách báo chủ yếu qua báo in
(báo giấy), báo điện tử, tạp chí, sách hướng dẫn,... mà nội dung những quyển
sách này, nếu chỉ tự mình đọc, chưa chắc người Na Mẻo đã hiểu được hết. Nên
chăng, những nội dung quan trọng được tuyên truyền, giảng dạy trong sách
báo, nên tổ chức một lớp học để hướng dẫn bà con cùng tìm hiểu?
- Khi sử dụng điện thoại có, tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na
Mẻo phức tạp, đa dạng hơn rất nhiều vì có sự tham gia của cả bốn ngôn ngữ
TV, TMĐ, tiếng Tày Nùng, tiếng Dao. Đồng thời, đây cũng là hoạt động có
nhiều người tham gia chỉ xếp sau xem tivi. Theo khảo sát, đối tượng ít tham gia
loại hình này nhất là trẻ em (dưới 18 tuổi), sau đó đến người già (trên 60 tuổi);
tham gia nhiều nhất thuộc về nhóm thanh niên và trung niên (từ 18-60 tuổi).
Xét theo nghề nghiệp, cán bộ là nhóm có tỉ lệ tham gia cao nhất. Đây cũng là
hoạt động duy nhất trong thụ hưởng văn háo truyền thông mà người Na mẻo sử
dụng toàn bộ năng lực ngôn ngữ của mình để tham gia. Tuy nhiên, một điều
nhận thấy rõ, nếu trong sinh hoạt hàng ngày có mô hình đa ngữ với sự tham gia
của cả 4 ngôn ngữ (như đã nói ở Chương 2), thì trong truyền thông, chỉ có mô
hình đa ngữ với sự tham gia của 3 ngôn ngữ. Một điều dễ hiểu, tùy thuộc vào
đối tượng giao tiếp trong cuộc điện thoại là ai, người cùng dân tộc hay người
khác dân tộc... mà người Na Mẻo có sự lựa chọn ngôn ngữ phù hợp. Nhưng
nhìn chung, TV vẫn là lựa chọn hàng đầu do đặc thù của nói chuyện điện thoại
là đòi hỏi khả năng nghe và nói ở mộ trình độ nhất định và không nhìn hấy
nhau nên họ sẽ sử dụng ngôn ngữ thông thạo nhất. Dù là ới TV, TMĐ, tiếng
Tày Nùng hay tiếng Dao thì tỉ lệ người hiểu rõ cao hơn hẳn người “hiểu ít”. TV
7/93 người trả lời “hiểu ít” (chiếm 7,5%), 50/93 trả lời hiểu rõ (53,7%); TMĐ
19/93 (20,4%) người trả lời “hiểu rõ (chiếm 8,6%), tiếng Tày 8/93 (8,6%),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiếng Dao 2/93 (chiếm 2,2%)
3.3.2.2. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về độ tuổi
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.10: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về độ tuổi
độ tuổi Từ 30 Trên 60 dưới 18 từ 18 đến 30 NN/ khả năng đến 60
không hiểu
20/40 6/30 10/30 5/25 hiểu ít (50%) (20%) (33,3%) (20%) TV
30/40 26/30 18/30 13/25 hiểu rõ (75%) (87%) (60%) (52%)
không hiểu
2/40 6/30 4/30 hiểu ít (5%) (20%) (13,3%) TMĐ
13/30 18/30 22/25 hiểu rõ (43,3%) (60%) (88%)
không hiểu
2/25 1/30 2/30 Tày hiểu ít (8%) (3,3%) (6,7%) Nùng 6/30 14/25 hiểu rõ (20%) (56%)
không hiểu
1/30 hiểu ít (3,3%) Dao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2/25 hiểu rõ (8%)
b. Nhận xét:
- Nhìn một cách chung nhất, có thể thấy, độ tuổi có sự đa dạng về ngôn
ngữ nhất là tầng lớp trung niên và người già, trong khi độ tuổi dưới 18 chỉ sử
dụng TV trong truyền thông. Đồng thời, những người trẻ tuổi cũng là có năng
lực TV tốt nhất (minh chứng là tỉ lệ hiểu rõ của 2 nhóm tuổi dưới 18 và từ 18
đến 30 là cao nhất (75% và 87%). Những người Na Mẻo trẻ tuổi có khả năng
sử dụng TV tốt hơn (như trên đã nói) bởi phần lớn, họ đang tiếp xúc hàng ngày
với TV cả ở dạng nói và dạng viết, nhận được tác động tích cực của nhiều nhân
tố trong đó quan trọng nhất là giáo dục. Hơn nữa, mức độ xa rời ngôn ngữ TV
của họ thấp hơn hẳn tầng lớp trung niên và già (hay ghi chép), họ cũng có thời
gian tiếp xúc nhiều hơn và nhu cầu với truyền thông cũng cao hơn hẳn. Những
nguyên nhân này dẫn đến năng lực TV của họ sẽ tốt hơn. Mức độ “hiểu rõ” của
độ tuổi trung và cao niên có tỉ lệ thấp hơn và không chênh lệch quá lớn, đều
trên 50% (lần lượt là 60% và 52%). Nhìn chung, năng lực giao tiếp bằng TV
trong truyền thông của người Na Mẻo còn thấp. Ngay ở lứa tuổi dưới 30, lứa
tuổi được xem là dùng TV tốt nhất của người Na Mẻo vẫn có tỉ lệ “hiểu ít” cao,
chiếm 50%. Những người này thường là HS, thanh niên và hay tham gia vào
loại hình đọc sách báo (cả báo in, báo mạng, sách vở)
- Đối với TMĐ, tình hình có khác đôi chút. Nhóm người dưới 18 tuổi có rất
ít người sử dụng TMĐ trong hoạt động truyền thông, mặc dù ở nhóm này 100%
các em đều nghe được, nói được TMĐ. Hơn nữa, tất cả những người dưới 18 tuổi
sử dụng TMĐ trong truyền thông đều trả ời “hiểu ít”, không có ai “hiểu rõ”. Như
vậy, có thể thấy, TMĐ đã bị thu hẹp phạm vi sử dụng đối với nhóm tuổi này. Đây
cũng là một minh chứng rõ ràng cho sự mai một ngôn ngữ đa và đang diễn ra ở
người Na Mẻo. Nhóm tuổi có năng lực TMĐ trong truyền thông tốt nhất là nhóm
trên 60 tuổi, tất cả đều trả lời là “hiểu rõ”, không có ai “hiểu ít” (chiếm 88%), sau
đó là nhóm từ 30-60 (chiếm 60%). Có thể thấy, năng lực TMĐ trong hoạt động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyền thông giảm dần theo độ tuổi.
- Giống như TMĐ, tiếng Tày chỉ được sử dụng ở người Na Mẻo độ tuổi
từ 18 trở lên, nhưng nhìn chung, tỉ lệ rất khiêm tốn. Nhóm tuổi từ 18-30 khi sử
dụng tiếng Tày Nùng trong hoạt động này có 3,3% hiểu ít, không có ai hiểu rõ.
Đây cũng là nhóm có năng lực tiếng Tày thấp nhất trong hoạt động truyền
thông. Nhóm có năng lực tốt nhất phải kể đến những người trên 60, tỉ lệ người
“hiểu ít” nhiều hơn không đáng kể và tỉ lệ người “hiểu rõ” vượt trội hơn nhóm
từ 30-60 (nhóm 30-60 có 20% hiểu rõ; trên 60 có 56%). Tức là, tuổi càng cao,
năng lực sử dụng tiếng Tày Nùng trong hoạt động truyền thông càng cao.
- Tiếng Dao có số lượng người sử dụng ít nhất và chỉ được sử dụng ở
nhóm trung niên và cao tuổi. Trong đó, nhóm cao tuổi có thể nghe nói tốt hơn
nhóm trung niên với 2/25 người “hiểu rõ” (chiếm 8%), không có ai “hiểu ít”.
Còn nhóm trung niên đều trả lời “hiểu ít” với tỉ lệ là 3,3%.
Tóm lại, nhìn một cách tổng quát, độ tuổi dưới 30 có năng lực TV tốt nhất,
độ tuổi trung niên và người già có năng lực TMĐ và tiếng khác (tiếng Tày Nùng,
tiếng Dao) tốt hơn cả. Đặc biệt nhóm tuôi dưới 18 thường không mặn mà với việc
sử dụng TMĐ, tiếng khác trong truyền thông. Đây là một biểu hiện rõ ràng của sự
mai một ngôn ngữ dân tộc.
3.3.2.3. Khả năng năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của
người Na Mẻo theo sự phân biệt về học vấn
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.11: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về học vấn
học vấn Không học vấn Tiểu học Trung học cơ sở NN/ khả năng
không hiểu
Trung học phổ thông Đại học, Cao đẳng, Trung học hiểu ít 6/23 (26,1%) TV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiểu rõ 24/35 (42,8%) 26/35 (74,3%) 8/27 (29,6%) 24/27 (88,9%) 25/25 (100%) 15/15 (100%)
không hiểu
hiểu ít TMĐ
8/25 (32%) hiểu rõ
18/23 (78,3%) không hiểu
7/15 (46,7%) hiểu ít
Tày Nùng
hiểu rõ
4/35 (11,4%) 16/35 (45,8%) 3/25 (12%) 3/35 (8,5%) không hiểu
12/27 (44%) 2/27 (7,4%) 3/27 (11,1%) 3/25 (12%) 3/15 (20%) hiểu ít 8/23 (34,8%) 1/23 (4,4%) Dao
hiểu rõ 2/35 (5,6%)
b. Nhận xét
- TV được sử dụng ở tất cả các đối tượng không phân biệt học vấn. Tuy
nhiên năng lực TV của mỗi nhóm học vấn khác nhau hoàn toàn. Không ai trả
lời “không hiểu” trong hoạt động này. Nhóm “Không học vấn” có năng lực TV
thấp nhất với 5/23 người (chiếm 26,1%) trả lời rằng “hiểu ít”, không có ai hiểu
rõ. Đồng thời, khả năng “hiểu ít” chỉ xuất hiện ở những người không học vấn
hoặc trình độ thấp: tiểu học 42,8%; trung học cơ sở 29,7%. Trong khi đó, ở
trình độ học vấn cao hơn, không có ai “hiểu ít” mà chỉ có “hiểu rõ”. Đặc biệt, tỉ
lệ này đạt đến con số tuyệt đối ở cả hai nhóm có học vấn cao nhất là Trung học
phổ thông và Đại học, Cao đẳng, Trung học. Qua sự phân tích trên, có thể thấy
rõ ràng trình độ học vấn có tác động rất lớn đến việc thụ hưởng các loại hình
truyền thông, nhất là đọc sách báo và xem tivi.
- Cũng giống như TV, TMĐ được người Na Mẻo thuộc các trình độ học
vấn khác nhau sử dụng. Như trên đã nhận xét, TMĐ chỉ được sử dụng trong
hoạt động nói chuyện điện thoại, song xét về trình độ, có hai nhóm học vấn trả
lời “hiểu ít” là Tiểu học và Trung học phổ thông. Một điều đặc biệt là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người trả lời “hiểu ít” đều là HS hoặc thanh niên. Họ thường nói chuyện điện
thoại bằng TMĐ với cha mẹ, người thân, ít khi nói với bạn bè hay sử dụng ở
nơi công cộng. Khi được phỏng vấn, nhiều em HS trả lời rằng thỉnh thoảng
nghe điện thoại của cha mẹ bằng TMĐ nhưng vẫn phaỉ hỏi lại bằng TV cho rõ.
Ở những nhóm học vấn còn lại, không có ai trả lời “hiểu ít”, trong đó nhóm
“không học vấn” và có tỉ lệ “hiểu rõ” cao nhất (chiếm 78,3%). Lí do được đưa
ra ở đây là những người này thường xuyên sử dụng TMĐ do đó năng lực TMĐ
của họ cũng cao hơn những nhóm khác. Các nhóm còn lại có tỉ lệ hiểu rõ TMĐ
gần tương đương nhau. Một điều thú vị là nhiều người Na Mẻo chỉ nói chuyện
điện thoại bằng TMĐ trong phạm vi khu vực sinh sống (làng, xã), khi ra chợ
huyện hay đi xa hơn, họ lại nói chuyện điện thoại bằng TV hoặc tiếng tày
Nùng. Tâm ý e ngại khi nói chuyện điện thoại bằng tiếng dân tộc ở nơi công
cộng không chỉ tồn tại ở nhóm người ít tuổi mà ở cả những người cao tuổi.
Trong khi đó nhũng người có học vấn cao thường nói chuyện bằng TV nhiều
hơn. Đây cũng là một biểu hiện đáng quan tâm về ý thức giữ gìn tiếng nói của
đồng bào các DTTS ở Việt Nam.
- So với số người biết tiếng Tày Nùng số người sử dụng ngôn ngữ này tham
gia vào hoạt động truyền thông có phần khiêm tốn. Thế nhưng, năng lực ngôn ngữ
Tày Nùng của người Na Mẻo phân theo trình độ học vấn khá đều và tốt. Chỉ có
hai nhóm Tiểu học và Trung học cơ sở, bên cạnh những người “hiểu rõ”, vẫn còn
một số người “hiểu ít”. Tỉ lệ “hiểu ít” ở nhóm Tiểu học là 12%, nhóm Trung học
cơ sở là 7,4% ở nhóm. Còn lại, ở các trình độ khác, dù cao hay thấp đều “hiểu rõ”.
Người Na Mẻo sử dụng tiếng Tày Nùng khi nghe đài, xem tivi và nói chuyện điện
thoại. Như vậy, ở những hoạt động này, năng lực ngôn ngữ của họ tương đối tốt,
nhất là ở nhóm Đại học, Cao đẳng, Trung học và nhóm Không học vấn. Theo
chúng tôi, nhóm người Không học vấn thường xuyên sử dụng tiếng Tày Nùng
trong giao tiếp (cùng với TMĐ - như Chương 2 đã nõi); còn nhóm Đại học, Cao
đẳng, Trung học chủ yếu là các cán bộ thường xuyên làm việc với bà con dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tày Nùng nên năng lực ngôn ngữ này của họ khá tốt.
- Chỉ có hai nhóm học vấn sử dụng tiếng Dao trong các hoạt động truyền
thông là nhóm Không học vấn và Tiểu học, tức là nhóm người có học vấn thấp
hoặc không được đi học. Trong đó, nhóm Không học vấn có 4,4% “hiểu ít”,
không có “hiểu rõ”, nhóm Tiểu học có 5,6% “hiểu rõ”, không có “hiểu ít”.
3.3.2.4. Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông của người
Na Mẻo theo sự phân biệt về nghề nghiệp
a. Kết quả khảo sát
Bảng 3.12: Khả năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động truyền thông
của người Na Mẻo theo sự phân biệt về nghề nghiệp
nghề nghiệp làm ruộng cán bộ HS NN/ khả năng
không hiểu
hiểu ít TV
hiểu rõ
25/25 (100%) không hiểu
hiểu ít TMĐ
hiểu rõ
10/24 (41,7%) không hiểu
hiểu ít Tày
12/40 (30%) 28/40 (70%) 7/40 (17,5%) 3/40 (7,5%) 2/40 (5%) hiểu rõ
8/60 (13,3%) không hiểu
hiểu ít Dao
hiểu rõ 26/60 (43,3%) 34/60 (56.7%) 5/60 (8,3%) 40/60 (66,7%) 3/60 (5%) 12/60 (20%) 1/60 (1,7%) 2/60 (3,3%)
b. Nhận xét:
- Với TV, cán bộ và HS là những đối tượng thành thạo mọi kĩ năng TV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cao nhất, chiếm tỉ lệ tuyệt đối về số người sử dụng TV tham gia các hoạt động
truyền thông (100% cán bộ và HS sử dụng TV khi tham gia hoạt động truyền
thông). Bởi lẽ, là hai đối tượng được giao tiếp bằng TV nhiều nhất, ngoài ra
còn do đặc thù nghề nghiệp, thường xuyên phải tiếp xúc với TV, thậm chí đang
được dạy học TV trong nhà trường nên tỉ lệ “hiểu rõ” cũng thuộc loại cao nhất
(100% đối với cán bộ và 70% đối với HS). Những người làm ruộng, do trình độ
học vấn thấp hoặc không học vấn, đồng thời không được tiếp xúc với TV
thường xuyên, đầy đủ cả ở dạng nói lãn dạng viết nên các kĩ năng đối với TV
cũng chưa được hoàn thiện, tỉ lệ “hiểu rõ” thấp hơn hẳn, (chiếm 56,7%), đồng
thời, người làm ruộng cũng có tỉ lệ “hiểu ít” cao nhất, đạt 43,3%. Trong khi đó,
cán bộ không có ai trả lời “hiểu ít”. Con số này ở HS lên tới 30% đồng nghĩa
với việc vẫn còn một số lượng HS tương đối nghe và viết TV khó khăn. Đây
cũng là bài toán đặt ra đối với việc dạy TV cho trẻ em vùng đồng bào DTTS ở
huyện Tràng Định nói chung và địa phương có người Na Mẻo nói riêng.
- Với TMĐ, nhóm có nghề nghiệp làm ruộng và cán bộ có khả năng cao
nhất, đặc biệt là nhóm làm ruộng với 66,7% người hiểu rõ, nhóm cán bộ với
41,7%. Riêng nhóm cán bộ không có ai “hiểu ít”. Xét theo số người sử dụng,
hai nhóm cán bộ và HS có số người ngang nhau nhưng năng lực TMĐ ở nhóm
HS thấp hơn, vì có 7/40 người “hiểu ít”. Điều này chúng tỏ nói chuyện điện
thoại bằng TMĐ đối với nhóm HS không mang lại hiệu quả cao, phần lớn các
em chỉ nghe điện thoại bằng TV.
- Cả ba nhóm học vấn đề sử dụng tiếng Tày Trong hoạt động truyền
thông, trong đó số người sử dụng nhiều nhất thuộc về nhóm , tỉ lệ “hiểu rõ” ở
nhóm này cũng cao nhất (20%), tuy nhiên vẫn còn một số lượng nhỏ người
“hiểu ít” là 3/60 người (chiếm 5%). Duy nhất có nhóm cán bộ không có ai
“hiểu ít”, 13,3% trả lời “hiểu rõ” vì họ phải thường xuyên sử dụng ngôn ngữ
phổ thông vùng trong giao tiếp đồng bào người Tày Nùng. HS là nhóm thấp
hơn cả về số lượng và chất lượng. Toàn bộ số HS sử dụng tiếng Tày Nùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong lĩnh vực truyền thông đều “hiểu ít”, không có ai “hiểu rõ”.
- Tiếng Dao chỉ được sử dụng ở nông dân, cán bộ và HS không sử dụng.
Năng lực ngôn ngữ này ở trong các loại hình truyền thông còn thấp, biểu hiện
là trong 3 người sử dụng tiếng Dao, vẫn còn 1/3 người trả lời “hiểu ít”.
Từ việc phân tích số liệu, có thể thấy, trong các loại hình truyền thông,
TV giữ vai trò quan trọng nhất, sau đó đến TMĐ và cuối cùng là tiếng Tày
Nùng và tiếng Dao. Tiếng Tày Nùng và tiếng Dao trong hoàn cảnh này giảm cả
số lượng và chất lượng sử dụng (so với trong sinh hoạt hàng ngày). Hai loại
hình có số lượng người tham gia đông nhất là nói chuyện điện thoại và xem
tivi, trong đó, loại hình đọc sách báo chỉ có sự tham gia của TV.
3.3. Tiểu kết
1. Trong nhà trường, đa số HS Na Mẻo ở trong trạng thái đơn ngữ. TV
chiếm tỉ lệ cao cả trong và ngoài giờ học. Không có HS nào ở trạng thái đa ngữ
(sử dụng trên 3 ngôn ngữ). TMĐ được sử dụng nhiều nhất khi các em nói
chuyện với bạn ngoài lớp học.
Đối với chữ Quốc ngữ, nhìn chung, HS Na Mẻo không được đánh giá cao.
Khi nói, các em phát âm chưa chuẩn một số âm đầu quặt lưỡi, nhầm lẫn dấu ngã/ dấu
sắc do ảnh hưởng của các phát âm địa phương. Khi viết, những lỗi các em thường
mắc phải đó là: lỗi về nhầm lẫn cách phát âm của TV với TMĐ, dẫn đến viết sai; lỗi
chính tả; lỗi thanh điệu; lỗi về dùng từ đặt câu... Những lỗi này xuất hiện với tần số
tương đối cao, nhất là lỗi chính tả. Khả năng dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản của HS
Na Mẻo còn yếu, các em chủ yếu dùng những từ ngữ đơn giản, viết đoạn văn ngắn.
2. Trong hoạt động truyền thông, người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng
Sơn sử dụng TMĐ, TV, tiếng Tày Nùng và tiếng Dao. Song tỉ lệ giữa ba ngôn ngữ này
chênh lệch nhau rất lớn. Trong khi TV được sử dụng trong tất cả các loại hình truyền
thông thì TMĐ, tiếng Tày Nùng, tiếng Dao không được sử dụng khi đọc sách báo. Loại
hình duy nhất có sự tham gia của cả 4 ngôn ngữ đó là nói chuyện điện thoại.
Khi sử dụng và tiếp nhận các hoạt động truyền thông, khả năng "hiểu rõ"
tập trung cao khi xem tivi, chủ yếu ở độ tuổi dưới 26 (92%) và trong một số
chương trình được yêu thích đặc biệt. Tỉ lệ "hiểu rõ" tiếng Việt cao nhất ở độ tuổi
từ 18 đến 30, hay những người có trình độ học vấn cao. Trong khi đó, tỉ lệ hiểu ít
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuất hiện ở loại hình đọc sách báo và với nhóm người có học vấn là Tiểu học.
Chương 4
ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN
NGÔN NGỮ VÀ NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG NGÔN NGỮ CHO
NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
4.1. Dẫn nhập
Dựa vào đặc điểm tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo đã
phân tích ở những chương trước, chương này sẽ trình bày một số đề xuất chính
sách và giải pháp nhằm bảo tồn và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Na Mẻo,
nâng cao khả năng sử dụng TV cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh
Lạng Sơn. Trong mỗi nội dung, chúng tôi sẽ đưa ra các ý kiến của người Na
Mẻo, cán bộ, lãnh đạo địa phương cùng với ý kiến của tác giả luận văn.
4.2. Đề xuất chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn và nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Na Mẻo cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
4.2.1. Ý kiến của người Na Mẻo và cán bộ, lãnh đạo địa phương
Ngôn ngữ là một trong những thành tố của văn hóa song cũng là công cụ để
bảo tồn và phát triển văn hóa, giúp các nền văn hóa giao thoa, trao đổi với nhau.
Tiếng Na Mẻo cũng mang những giá trị quan trong như vậy. Qúa trình toàn cầu
hóa và hội nhập hóa đem đến cho người dân Na Mẻo nhiều cái mới, nhưng cũng
chính quá trình phát triển này đã tạo ra một bộ phận không nhỏ người Na Mẻo,
nhất là lớp trẻ, có xu hướng không coi trọng các giá trị văn hóa truyền thống, đồng
thời, đề cao các giá trị mang tính thời thượng của xã hội bên ngoài dẫn đến kết quả
các giá trị văn hóa truyền thống bị ảnh hưởng, lai tạp, xói mòn, trong đó, phải kể
đến ngôn ngữ Na Mẻo. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn nhiều con người nặng lòng
với dân tộc, với đồng bào. Họ là những trí thức bản địa, những cán bộ lãnh đạo tại
địa phương, những người GV đang ngày đêm “cõng chữ” cho học trò Na Mẻo hay
những cụ cao niên luôn lo lắng cho văn hóa dân tộc mình đang bị mai một. Vì
vậy, để thấy được hết những trăn trở, suy tư của họ, chúng tôi đã tiến hành khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sát lấy ý kiến. Một số giải pháp được họ đưa ra là:
4.2.1.1. Tổ chức lớp học để trao truyền vốn văn hóa
Phần lớn số người được khảo sát cho rằng, cần tổ chức lớp học để trao
truyền lại vốn ngôn ngữ, văn hóa cho giới trẻ. Với tỉ lệ khá cao, đây là biện
pháp chiếm được số đông sự đồng thuận của đồng bào Na Mẻo. Giải pháp này
hầu như xuất hiện ở mọi độ tuổi (trừ trẻ em dưới 18 tuổi ít em trả lời), mọi nghề
nghiệp, mọi trình độ văn hóa. Như vậy, phần đông bà con Na Mẻo đều mong
muốn con em mình được truyền dạy lại những giá trị văn hóa. Đây là một biểu
hiện đáng mừng cho công tác giữ gìn, bảo tồn những nét đặc sắc của cộng đồng
người Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn. Tổ chức các lớp dạy học văn hóa và
ngôn ngữ của người Na Mẻo cho giới trẻ thông qua việc mời các trí thức địa
phương, nghệ nhân, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng tham
gia hoạt động thông tin, giáo dục và truyền thông về bảo tồn, phát huy các giá
trị bản sắc văn hóa dân tộc, truyền dạy văn hóa truyền thống cho HS DTTS ở
địa phương. Thông qua hoạt động này, giới trẻ có thêm hiểu biết, được trau dồi
thêm văn hóa cũng như vốn ngôn ngữ của dân tộc mình.
Ngoài ra, ông bà, bố mẹ cần dạy tiếng của dân tộc mình cho con em
thông qua giao tiếp, sinh hoạt hàng ngày. Cần có tỉ lệ hợp lí giữa việc sử dụng
TV và TMĐ, để các cháu thấy việc dùng tiếng nói của dân tộc mình là một
niềm tự hào. Ông bà, bố mje phải có sự chuẩn mực trong cách phát âm, dùng
từ, đặt câu, làm mẫu cho con cháu học theo.
4.2.1.2. Sử dụng tiếng Na Mẻo trong truyền thông
Có 25/125 người (chiếm 20%) nêu ý kiến cần sử dụng tiếng Na Mẻo
trong truyền thông (nghe đài, xem tivi, kênh truyền hình địa phương). Con số
này không lớn, chỉ xuất hiện ở người trưởng thành, tầng lớp trí thức. Họ cho
rằng, nếu mỗi ngày được xem tivi, nghe truyện kể bằng tiếng Na Mẻo sẽ thu
hút được nhiều người ở tầng lớp trẻ tham gia. Hơn nữa, khi có chương trình
phát thanh, truyền hình bằng tiếng Na Mẻo, họ sẽ cảm thấy tự hào và thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuyên dành thời gian theo dõi.
4.2.1.3. Sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước
Có 88/125 người (chiếm 70,4%) mong muốn Đảng và Nhà nước có
nhiều chính sách quan tâm, hỗ trợ các DTTS, trong đó có người Na Mẻo bằng
cách hỗ trợ kinh tế, phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển các
thế mạnh ở địa phương (như trồng rừng, thạch đen, trám,...). Ngoài ra, các
công trình xã hội điện đường, trường trạm cần được đầu tư và nâng cấp. Cuộc
sống kinh tế dần ổn định là bàn đạp để người Na Mẻo chung tay giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc.
4.2.1.4. Tổ chức/ khôi phục các lễ hội truyền thống
Có 31/125 người (chiếm 24,8%) lựa chọn phương án tổ chức/ khôi
phục các lễ hội truyền thống để đồng bào Na Mẻo được tham gia. Trong đó,
huy động giới trẻ Na Mẻo cùng thực hiện để nâng cao tinh thần, ý thức trách
nhiệm của cá nhân đồng thời, giúp họ hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của những nét
đặc sắc trong lễ hội.
4.2.1.5. Sử dụng tiếng Na Mẻo trong giáo dục nhà trường, gắn với mô hình
trường học văn hóa
Một số ít HS Na Mẻo mong muốn được thầy cô dạy bằng tiếng dân tộc
mình khi ở trên lớp. Các em cho rằng, khi thầy cô nói TV, tốc độ nói quá
nhanh và quá nhiều từ mới khiến các em không hiểu được hết. Do vậy, khi
thầy cô dạy bằng cả tiếng Na Mẻo, mức độ hiểu bài của các em sẽ tăng lên,
sự hứng thú với bài học theo đó cũng được cải thiện rõ rệt. Mong muốn này
của các em hoàn toàn trùng hợp với giải pháp xây dựng mô hình học tập
song ngữ của chúng tôi sẽ được trình bay ở phần sau.
Ngoài ra, cần Xây dựng nếp sống văn hóa trong các trường học trên địa
bàn xã theo nét đẹp phong tục, tập quán của dân tộc mình (trang phục, giao tiếp,
ứng xử,...). Xây dựng phòng truyền thống nhà trường, thư viện văn hóa để trưng
bày, lưu giữ, quảng bá các sản phẩm, giá trị bản sắc văn hóa dân tộc do chính HS
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người dân tộc trên địa bàn sưu tầm hoặc sáng tạo. Kết hợp mô hình giáo dục gắn
với du lịch cộng đồng, xây dựng trường học là một điểm du lịch văn hóa. Từ đó,
đào tạo các em HS người Na Mẻo trở thành các hướng dẫn viên, trực tiếp tham
gia giới thiệu, thuyết trình khi có khách du lịch tới. Mục đích của họt động này là
giáo dục cho HS có ý thức tôn trọng các giá trị văn hóa truyền thống của cộng
đồng, tăng cường hoạt động trải nghiệm thực tế, trải nghiệm văn hóa; thực hiện
xây dựng mô hình trường học “Đa văn hóa gắn với cộng đồng”.
Lựa chọn nội dung về các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của
người Na Mẻo lồng ghép vào nội dung giảng dạy các môn học, nhất là văn học
địa phương, các chương trình ngoại khóa như: múa hát cộng đồng, hát dân ca,
các trò chơi dân gian,... Tổ chức cho HS mặc trang phục truyền thống của dân
tộc mình trong các ngày lễ hội;... Qua hoạt động dạy học tích cực trên lớp và
hoạt động ngoài giờ lên lớp, HS được hòa nhập với bạn bè, hiểu biết về văn
hóa, lối sống của các dân tộc, từ đó biết điều chỉnh, tiếp thu những giá trị văn
hóa tích cực và biết loại bỏ những yếu ố tiêu cực tạo nên sự hòa nhập, thân
thiện với tập thể bạn bè, thầy cô.
4.2.1.6. Tuyên truyền về ý thức giữ gìn và bảo vệ tiếng nói dân tộc
Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh trong các hộ gia đình người Na
Mẻo thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc lưu giữ, truyền lại
những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình và con cháu. Trong đó, đặc biệt
là phải truyền giữ được tiếng nói, vì có hiểu được ngôn ngữ của dân tộc mình
thì mới hiểu và cảm nhận được giá trị văn hóa của dân tộc mình, từ đó giúp thế
hệ trẻ thêm tự hào và có ý thức tự giác giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Việc tuyên truyền cần được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua vai
trò của cấp ủy, ban quản lí tổ dân phố trong sinh hoạt cộng đồng và qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
4.2.2. Ý kiến của người nghiên cứu
Người Na Mẻo là một nhánh của dân tộc Mông, đây là một nhóm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người đặc biệt ít người, đang đứng trước nguy cơ suy thoái về giống nòi,
mai một về ngôn ngữ, về bản sắc văn hóa dân tộc, tụt hậu về kinh tế; chính
vì vậy rất cần sự quan tâm của Đảng, Nhà nước bằng các chính sách đặc thù
với nguồn lực đủ mạnh để đầu tư phát triển về cơ sở hạ tầng; thực hiện các
chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các hộ dân tạo điều kiện thuận lợi cho đồng
bào người Na Mẻo từng bước phát triển, xóa dần khoảng cách chênh lệch
giữa các dân tộc trong khu vực; hỗ trợ bảo tồn các giá trị văn hóa. Nếu
không sớm triển khai thực hiện Đề án phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào người Na Mẻo thì nguy cơ tụt hậu về kinh tế, về suy thoái giống nòi, về
mai một văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ là khó tránh khỏi. Trong
đường lối xây dựng “xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng Cộng
sản Việt Nam chủ trương, có nội dung bình đẳng dân tộc, trong đó có bình
đẳng về ngôn ngữ. Do đó, cần phải bảo tồn và phát huy vai trò, chức năng
của tiếng Na Mẻo trong cộng đồng Na Mẻo, bên cạnh TV
4.2.2.1. Nghiên cứu xây dựng chữ viết riêng cho người Na Mẻo
Nếu như ngôn ngữ là một thành tố của văn hóa thì chữ viết lại là sự hiện
thực hóa thành tố ấy. Chữ viết là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo
dạng văn bản, là sự miêu tả ngôn ngữ thông qua việc sử dụng các ký hiệu hay các
biểu tượng. Cho đến nay, theo ghi nhận của chúng tôi, người Na Mẻo chưa có chữ
viết riêng, vì thế việc giữ gìn và bảo tồn ngôn ngữ này còn gặp nhiều khó khăn.
Thiết nghĩ, nếu xây dựng được chữ viết riêng cho cộng đồng người Na Mẻo thì
đây sẽ là một trong những giải pháp hữu hiệu để gìn giữ và bảo tồn ngôn ngữ đang
có nguy cơ mai một này. Để làm được điều đó, có thể lưu ý một số giải pháp:
1/ Nghiên cứu đầy đủ và sâu hơn về cấu trúc (ngữ âm, từ vựng - ngữ
nghĩa và ngữ pháp) tiếng Na Mẻo, tình hình chữ viết và những văn bản chữ viết
hiện có, tình hình xã hội ngôn ngữ học ở hai ngôn ngữ này.
2/ Xây dựng các hệ thống chữ viết; tiến tới biên soạn các sách công cụ
(sách giáo khoa, sách ngữ pháp, từ điển...); sưu tập các văn bản (vốn văn nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyền thống; sáng tác mới...) và ghi bằng tiếng Na Mẻo.
Đây là hai giải pháp cơ bản đầu tiên cần thực hiện nhằm tiến tới xây
dựng chữ viết tiếng Na Mẻo ở Lạng Sơn, biên soạn các sách ngữ vựng, bài học
dạy tiếng Na Mẻo cũng như từ điển đối dịch. Sau khi xây dựng chữ viết, có thể
đưa vào dạy học trong các trường có HS Na Mẻo đồng thời, có thể dạy và học
và tiếng Na Mẻo và sử dụng chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng,
nhất là nơi có đồng bào người Na Mẻo sinh sống
Hiện nay, ở Lạng Sơn nói riêng, khu vực Đông Bắc nói chung, hoạt động
truyền thông thường chỉ được thực hiện với những ngôn ngữ có số người nói
đông với mục đích bảo tồn. Nhưng nghịch lí chính là ở chỗ trong khi chính
những ngôn ngữ có số người nhỏ như tiếng Na Mẻo là những ngôn ngữ cũng
đang rất cần được bảo tồn.
3/ Ứng dụng công nghệ thông tin để thu thập, lưu trữ để xây dựng cơ sở
dữ liệu, phổ biến tiếng tiếng Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn
Sử dụng các phần mềm thu thập và xử lí tư liệu như Speech Analyzer,
Win Cecil, Toolbox, Elan, Field Language Explorer.
4/ Giúp cho người Na Mẻo hiểu rõ hơn về vai trò di sản - ngôn ngữ đối
với bản sắc văn hóa truyền thống của họ và có ý thức bảo tồn, phát triển TMĐ;
giúp cho xã hội nói chung và các nhà quản lí nói riêng hiểu sâu sắc hơn về vai
trò ngôn ngữ các dân tộc, có hành động thiết thực hơn đối với sự đa dạng văn
hóa truyền thống trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
4.2.2.2. Phát triển giáo dục song ngữ
Phát triển giáo dục song ngữ là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm nâng cao năng lực ngôn ngữ cho đồng bào Na Mẻo. Mặc dù đối với
nhiều nơi, giải pháp này không còn mới, thậm chí đang được thực hiện một
cách có hiệu quả, thế nhưng, đối với đồng bào Na Mẻo, nhất là HS, đây vẫn là
một bài toán cho ngành giáo dục huyện Tràng Định nói riêng và toàn tỉnh Lạng
Sơn nói chung. Trên thực tế, việc thực hiện giải pháp này không hề đơn giản,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bởi lẽ ngay cả ngôn ngữ phổ thông vùng như tiếng Tày Nùng cũng chưa được
giảng dạy, (chỉ thực hiện đối với cán bộ, GV). Hơn nữa, GV dùng TV để dạy
cho HS Na Mẻo từ bậc tiểu học cho đến trung học cơ sở và trung học phổ
thông. Điều này gây khó khăn, cản trở rất lớn đối với HS Na Mẻo, nhất là ở bậc
tiểu học. Bởi ở độ tuổi này, các em chưa được trang bị năng lực TV đủ để lĩnh
hội nội dung bài giảng của thầy cô. Chính “rào cản ngôn ngữ” này khiến cho đa
số HS Na Mẻo gặp khó khăn trong học tập, kết quả học tập không cao, dẫn đến
bỏ học, lưu ban, kết quả học tập không tốt… Thực trạng đã nêu cho thấy việc
đề ra những giải pháp giáo dục song ngữ hiệu quả là điều cấp bách.
Để phát triển giáo dục song ngữ, nâng cao năng lực ngôn ngữ cho đồng
bào Na Mẻo, theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Thứ nhất, huy động các nguồn lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ việc giảng dạy và học tập trong vùng đồng bào có người
Na Mẻo sinh sống.
- Thứ hai, mở rộng quy mô, loại hình đào tạo nhằm từng bước đào tạo
nhiều hơn nữa nguồn nhân lực có trình độ cao, đội ngũ trí thức người Na Mẻo để
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung, phát triển giáo dục nói riêng
cho vùng đồng bào dân tộc. Tăng cường các mô hình dự bị đại học, cử tuyển vào
các trường cao đẳng, đại học trong tỉnh và khu vực theo đúng quy định.
- Thứ ba, tăng cường huy động trẻ em người Na Mẻo đúng độ tuổi đi học
đến trường, đẩy mạnh công tác xóa mù chữ, phổ cập ở các bậc học trong điều
kiện cho phép. Thực hiện đầy đủ chính sách về giáo dục ở vùng đồng bào dân
tộc Na Mẻo, duy trì sĩ số HS, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
- Thứ tư, đào tạo và sử dụng đội ngũ GV là người Na Mẻo, trực tiếp
phục vụ công tác giáo dục song ngữ tại vùng đồng bào dân tộc sau khi tốt
nghiệp, nhất là GV dạy ở bậc tiểu học. Bởi lẽ, chỉ khi GV nắm được TMĐ của
HS Na Mẻo thì mới có thể đối chiếu, so sánh khi cần thiết. Hơn nữa, HS Na
Mẻo bậc tiểu học đa phần có năng lực TV hạn chế, việc GV nắm được tiếng Na
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mẻo sẽ giúp cho quá trình giao tiếp với các em thuận lợi hơn, giúp các em vượt
qua rào cản ngôn ngữ và sự mặc cảm về năng lực ngôn ngữ bản thân. Để thực
hiện điều này, cần đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên biệt cho các GV giảng
dạy ở vùng dân tộc Na Mẻo trên địa bàn của tỉnh Lạng Sơn.
4.3. Đề xuất chính sách và giải pháp nhằm nâng cao khả năng sử dụng TV
cho người Na Mẻo ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
4.3.1. Ý kiến của người Na Mẻo và các cán bộ, lãnh đạo địa phương
Cùng với TMĐ, TV cũng là một ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong
đời sống của người Na Mẻo. Trên thực tế, số người không biết viết TV còn
nhiều, khả năng sử dụng ngôn ngữ này ở một số nhóm đối tượng chưa cao,
nhất là khả năng viết của học sinh trong nhà trường. Bởi vậy, việc đưa ra
những chính sách và giải pháp giúp nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của
người Na Mẻo là hết sức cần thiết. Qua khảo sát, hầu hết những ý kiến đưa ra
đều cho rằng, cần có những chính sách về văn hóa, giáo dục để vừa cải thiện
và nâng cao đời sống vừa bảo tồn ngôn ngữ nói riêng, văn hóa người Na Mẻo
nói chung. Cụ thể như sau:
4.3.1.1. Giải pháp về phát triển văn hóa thông tin
- Đầu tư xây dựng mỗi bản 1 nhà văn hóa cộng đồng và trang bị loa
truyền thanh tại nhà văn hóa hoặc khu vực đông người kèm theo phụ kiện để
tiếp sóng phát thanh và đọc bản tin;
- Cấp máy thu thanh cho các hộ gia đình;
- Sưu tầm, bảo tồn các lễ hội truyền thống; khôi phục các nhạc cụ truyền
thống; khôi phục trang phục dân tộc; tuyên truyền nghiên cứu, khôi phục những
điệu múa, bài hát truyền thống đã bị mai một; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các
nghệ nhân sưu tầm, truyền bá văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc;
- Khôi phục nhà ở, phù điêu, công cụ sản xuất, ngành nghề truyền thống;
- Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, tập trung xây dựng đời sống văn hoá
ở cơ sở theo hướng khôi phục những nét đặc sắc của văn hoá truyền thống của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân tộc. Mở rộng giao lưu văn hoá, văn nghệ, chú trọng việc đưa các loại hình
văn hoá như chiếu phim lưu động, biểu diễn nghệ thuật... phục vụ đồng bào.
Tăng cường cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hoá thông tin, thể
dục thể thao trên địa bàn;
4.3.1.2. Giải pháp về giáo dục đào tạo
- Để phát triển toàn diện giáo dục - đào tạo phải có chính sách tuyên
truyền cho nhân dân để nhân dân thấy được tầm quan trọng của giáo dục và coi
giáo dục là sự nghiệp của chính mình và đặt thành nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để nâng cao dân trí và xây dựng lực lượng lao động có đủ trình độ, đáp ứng
yêu cầu phát triển của khu vực trong thời gian tới.
- Có sự kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa gia đình và nhà trường trong việc
tăng cường chuẩn bị TV cho trẻ mầm non và HS tiểu học.
+ Về phía gia đình, cần tăng cường việc giao tiếp và nói với con bằng
TV nhiều hơn ở nhà;cho các con được tham gia học tập tại các lớp mầm non,
mẫu giáo ngay khi các con đến tuổi đi học tại các cơ sở giáo dục; quan tâm đến
con em mình, phối hợp chặt chẽ với GV, nhà trường để có những điều chỉnh,
hỗ trợ tăng cường TV cho trẻ ngay từ khi học Mầm non, mẫu giáo, lớp 1
+ Về phía đội ngũ quản lí, GV dạy học tại các trường trên địa bàn có HS Na
Mẻo sinh sống, cần nâng cao ý thức tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
học tiếng dân tộc để đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục tại địa phương.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị cho hệ thống trường
lớp học bảo đảm mỗi bản đều có hệ thống trường hoàn chỉnh từ bậc mầm non
đến hết tiểu học.
- Đối với những bản có đông dân cư sinh sống và gần các bản khác trong
khu vực thì cần hoàn chỉnh từ cấp mầm non đến THCS để tiện việc dạy và học
cho GV và HS.
- Có chính sách hỗ trợ HS từ bậc mầm non đến THPT. Đối với các HS
sau khi tốt nghiệp THPT cần vận động để tiếp tục học tại các trường chuyên
nghiệp và dạy nghề đồng thời có chính sách ưu tiên cụ thể trong thời gian học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tập, khi ra trường thì có kế hoạch bố trí công tác.
- Cải tiến chương trình giảng dạy trong nhà trường, đặc biệt đối với hệ
mẫu giáo và tiểu học vùng đồng bào dân tộc miền núi nói chung, dân tộc Cống
nói riêng để các em có thể tiếp cận với chương trình một cách dễ dàng và phù
hợp hơn. Bởi vì HS các dân tộc ít người trước khi học chương trình TV ở bậc
tiểu học hiện nay hầu hết chưa biết hoặc chưa thạo TV như HS người Kinh.
Đây là rào cản lớn nhất làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các em. Để
khắc phụctình trạng này, những giải pháp quan trọng nhất đó là:
+ Tổ chức dạy và học TV cho HS trước giai đoạn vào tiểu học; học TV
ngay tại lớp mầm non, học TV trước khi bắt đầu chương trình chính thức lớp 1;
+ Tăng cường thời lượng dạy và học môn TV lớp 1 từ 350 tiết lên 500
tiết/năm học;
+ Xây dựng bộ công cụ hỗ trợ kỹ năng học TV cho các lớp học mầm
non, tiểu học, các lớp xóa mù và học tiếng phổ thông; kết hợp in ấn cung cấp
tài liệu, băng hình, trang thiết bị hỗ trợ để nâng cao hiệu quả dạy và học như:
sách, truyện tranh, tập thơ, tập truyện, bộ sản phẩm chữ cái, băng, đĩa hình...
- Xây dựng đội ngũ GV đủ về số lượng, vững về chuyên môn và phù hợp
về cơ cấu. Thực hiện chuẩn hoá số GV hiện chưa đạt chuẩn về trình độ đào tạo.
- Có chính sách hỗ trợ GV để động viên, khuyến khích GV gắn bó giảng
dạy lâu dài tại địa bàn.
- Xây dựng nhà lớp học: mầm non, tiểu học đáp ứng yêu cầu học tập của
học sinh. Xây dựng nhà nội trú tại trường trung tâm xã để cho học sinh người
Na Mẻo và các dân tộc khác trên địa bàn có nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt;
- Xây dựng nhà bán trú tại trường trung tâm xã cho học sinh Na Mẻo;
- Xóa mù chữ cho đồng bào để nâng cao nhận thức, hiểu biết các chính
sách của Đảng, Nhà nước; giúp đồng bào tiếp cận gần hơn với tiến bộ khoa học
kỹ thuật dần áp dụng vào sản xuất nâng cao đời sống tinh thần;
- Hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên, nhất là thanh niên học hết bậc
Trung học hay thanh niên thất nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Hỗ trợ GV trong năm đầu để yên tâm giảng dạy
4.3.2. Ý kiến của người nghiên cứu
Như đã trình bày, năng lực ngôn ngữ nói chung, năng lực sử dụng TV nói
riêng của cộng đồng người Na Mẻo chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, nhiều
nguyên nhân khác nhau. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực ngôn ngữ cho
người Na Mẻo, cần phải có một hệ thống các giải pháp phù hợp với thực tiễn,
vừa giải quyết được những hiện trạng trước mắt, vừa có tầm nhìn lâu dài. Trên
tinh thần đó, người nghiên cứu đưa ra những nhóm giải pháp cơ bản như sau:
4.3.2.1. Quán triệt thực hiện chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với DTTS nói chung,
tiếng nói, chữ viết dân tộc nói riêng là đúng đắn, nhất quán và phù hợp với tình
hình thực tế từng giai đoạn, phù hợp với nguyện vọng của đồng bào dân tộc
nên được đồng bào dân tộc đón nhận, tin tưởng. Tiếng nói và chữ viết của mỗi
dân tộc là một trong những tiêu chí quan trọng bậc nhất, nổi trội nhất để nhận
ra, xác định thành phần dân tộc, khẳng định sự tồn tại một dân tộc. Vì thế, cần
phải đảm bảo vấn đề tiếng nói, chữ viết khi thực thi chính sách dân tộc ở mỗi
địa phương. Đồng thời cần ghi nhớ phương châm nhất quán khẳng định TV là
ngôn ngữ quốc gia, góp phần vào sự thống nhất của quốc gia. Quán triệt chính
sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước, đối với địa bàn song ngữ như huyện
Tràng Định, cần phải giải quyết cho nhất quán mối quan hệ về vị thế, giữa TV
với tiếng Na Mẻo, tiếng Tày Nùng. Cụ thể cần nhấn mạnh vị thế quốc gia của
TV, làm cho TV có điều kiện phát triển, phát huy toàn diện chức năng của
mình trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh, trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó, cần
chú ý đến vai trò và chức năng của tiếng Na Mẻo trong cộng đồng. Bởi lẽ, khi
quá đề cao vai trò, chức năng TV có thể sẽ làm thu hẹp vai trò, chức năng tiếng
Na Mẻo. Điều này cũng có thể dẫn đến những hệ quả không mong muốn. Quan
điểm của người viết là làm sao vừa khẳng định được, phát huy được vai trò của
TV nhưng vẫn đảm bảo duy trì, phát huy một cách cơ bản vai trò TMĐ của
cộng đồng Na Mẻo. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết. Để thực hiện được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
điều này, cần theo các bước sau đây:
- Thứ nhất, bảo vệ, phát triển và hoàn thiện TV để TV có thể đáp ứng
nhu cầu giao tiếp của toàn xã hội Việt Nam nói chung và các cộng đồng DTTS
nói riêng, trong đó có cộng đồng Na Mẻo ở Tràng Định, Lạng Sơn.
- Thứ hai, cần mở rộng vị thế và phát huy chức năng của TV. Điều này
sẽ giúp đồng bào Na Mẻo có thể sử dụng TV trong những điều kiện, hoàn cảnh
rộng hơn, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển cộng đồng. Từ đó hướng đến việc
học tập, sử dụng TV một cách tự giác.
- Thứ ba, khẳng định vai trò to lớn của TV trong lĩnh vực giáo dục. Cụ
thể, việc giáo dục TV nhằm hai mục tiêu chính: giáo dục TV để nắm vững và
sử dụng TV làm công cụ giao tiếp đồng thời giáo dục TV để phục vụ việc dạy -
học bằng TV cho cộng đồng Na Mẻo.
- Thứ tư, để việc dạy và học TV cho HS Na Mẻo được hiệu quả, cần phải
đặc biệt chú ý các vấn đề sau:
+ Một là, HS người dân tộc Na Mẻo thường bị ảnh hưởng của ngôn ngữ
vùng (tiếng Tày Nùng) và TMĐ (Như đã phân tích ở Chương 3). Hiện tượng
này diễn ra ở từng cá nhân và cả cộng đồng trong mọi phạm vi giao tiếp, thể hiện
trên tất cả các phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp... Đây là một trong
những lực cản lớn ảnh hưởng đến việc tiếp nhận kiến thức của HS Na Mẻo, đặc
biệt là TV. GV phải điều tra phát hiện tính phổ biến của những yếu tố ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp của TMĐ xen vào, gây cản trở hay nhiễu loạn TV, sau đó sử
dụng mẫu ngữ liệu từ những bài viết mắc lỗi của HS ở các dạng bài tập về từ, đặt
câu, làm văn... để sửa chữa những sai sót. Đây là việc làm cần thiết của người
GV để tìm hướng khắc phục, nâng cao năng lực sử dụng TV của HS Na Mẻo.
+ Hai là, khi cung cấp từ mới và mở rộng vốn từ TV cho HS dân tộc Na
Mẻo cần sử dụng phương pháp dẫn dắt, gợi mở vì vốn từ của HS dân tộc còn
hạn chế rất nhiều. Trước khi nghĩ đến việc dạy cho HS khả năng tích cực hóa
vốn từ hay phân tích cái hay, cái đẹp của từ ngữ, phải nghĩ đến việc cung cấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vốn từ ngữ cần có và đủ để các em hiểu văn bản và sử dụng trong giao tiếp
cộng đồng, sau đó mới tính đến việc luyện tập như thế nào để hình thành và
nâng cao năng lực dùng từ cho HS một cách hiệu quả nhất. Khi giải nghĩa từ,
cách giải thích phải gắn liền cách sử dụng cụ thể, tránh giải thích trừu tượng mà
tuân theo đặc điểm tâm lý trẻ (đi từ cụ thể đến khái quát). Trong quá trình
hướng dẫn tiếp thu khái niệm, quy tắc trừu tượng của TV, người GV phải giúp
HS khắc phục thói quen tư duy cụ thể, những tiêu cực của ngôn ngữ tự nhiên
mà hình thành giá trị của ngôn ngữ văn hóa.
+ Bốn là, ngoài nguyên tắc chung trong dạy TV theo quan điểm giao tiếp,
GV cần tăng cường sự tiếp xúc với HS Na Mẻo và khuyến khích HS nói TV cả
ngoài giờ học. Nội dung tiếp xúc nên hướng vào việc trao đổi tình hình gia đình,
công việc sinh hoạt hàng ngày, sở thích, ước mơ, nguyện vọng... Chính các cuộc
tiếp xúc này là điều kiện của quá trình chuẩn hóa và phong phú hóa TV cho HS,
thể hiện được quan điểm chức năng của TV. Các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết bằng
TV chỉ có thể được hình thành ở HS khi quá trình dạy học TV gắn liền với quá
trình tổ chức, hướng dẫn HS tham gia hoạt động giao tiếp bằng TV.
4.3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào Na
Mẻo về vị trí, vai trò, chức năng của TV
Hiện nay, theo khảo sát, TMĐ vẫn là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của người Na Mẻo. Hầu hết những người trong độ tuổi trung niên và
người già đều sử dụng TMĐ trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, bởi vậy, sự tiếp
xúc với TV của nhóm người này không được cao. Ở các gia đình người Na
Mẻo, việc giáo dục TV cho con em được giao phó hoàn toàn cho nhà trường,
và thầy cô là người quyết định cũng như người chịu trách nhiệm. Nguyên nhân
của hiện tượng này một phần là do năng lực TV của người Na Mẻo còn yếu,
chưa đọc thông, viết thạo để dạy cho con cháu mình khi ở nhà, một phần là do
những người trưởng thành chỉ chú ý đến công việc làm ăn, chưa quan tâm đến
tình hình học tập của con cái. Mặt khác, phần nhiều người Na Mẻo vẫn chưa ý
thức được vai trò, chức năng của TV đối với thế hệ trẻ, bởi vậy, đây là một giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
pháp cần thiết trong tfnh hình đó.
Công tác tuyên truyền cần được thực hiện lâu dài, trên tất cả các phương
diện có thể, đảm bảo thông tin tuyên truyền đến với mọi người dân. Có thể kết
hợp việc tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh,
truyền hình, báo chí địa phương với sự tuyên truyền vận động của cán bộ địa
phương, chủ yếu là những cán bộ là người dân tộc Na Mẻo đối với người dân.
4.3.2.3. Tăng cường tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, các hội thảo;
tổ chức lấy ý kiến về tình hình dạy và học TV cho HS Na Mẻo
Các hoạt động này cần được triển khai một cách có hiệu quả, bằng
nhiều hình thức như nói chuyện trực tiếp, phỏng vấn sâu,... Đặc biệt, cần chú
ý đối tượng trọng tâm ở đây là HS người Na Mẻo và các thầy cô giảng dạy
cho HS Na Mẻo, các thầy cô quản lí, cán bộ công nhân viên, phụ huynh HS.
Đơn vị tổ chức có thể là ngành giáo dục địa phương, kết hợp với chính quyền
địa phương, có sự tham gia của các nhà tài trợ, mạnh thường quân, những
người quan tâm đến cộng đồng người Na Mẻo hay đến tình hình giáo dục ở
địa phương, nhưng người nghiên cứu. Từ đó nắm bắt được thực trạng vấn đề,
xác định những nhu cầu, những đòi hỏi của người Na Mẻo đối với việc dạy và
học TV. Trên cơ sở đó có hướng điều chỉnh nội dung chương trình, phương
pháp giảng dạy cho phù hợp.
4.3.2.4. Cải cách chương trình dạy TV cho HS người Na Mẻo
TV là ngôn ngữ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng vị thế quốc gia là phải giáo
dục và truyền bá TV. Trong đó, chú trọng tới giáo dục TV cho người DTTS,
giúp các DTTS ở Việt Nam có thể sử dụng tốt TV, phục vụ cho sự phát triển
của cộng đồng. Nhiều năm qua, công tác dạy và học TV cho đồng bào Na Mẻo
đã được quan tâm ở mức độ nhất định. Song kết quả chưa đạt được như mong
muốn. Bởi vậy, người nghiên cứu xin đưa ra một số ý kiến đóng góp của mình
nhằm giúp cho đồng bào dân tộc Na Mẻo sử dụng TV được tốt hơn, nhất là ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lứa tuổi đang cắp sách tới trường
Trường mầm non là nơi lần đầu tiên trẻ em đuuọc tiếp xúc với môi
trường hoạt động, giao tiếp có định hướng nên cần hình thành các kĩ năng ban
đầu trong sử dụng TV có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị vốn tiếng và kĩ
năng giao tiếp bằng TV cho trẻ trước khi vào lớp một. Cần biên soạn chương
trình sách giáo khoa dạy TV cho trẻ mầm non người Na Mẻo theo hướng vui
chơi theo chủ điểm, chủ đề, qua đó tăng cường TV.
Tạo môi trường giao tiếp trong trường học, cần hướng HS vào hoạt động
nói năng trong quá trình giảng dạy TV bằng cách tạo tình huống giao tiếp khác
nhau để kích thích động cơ giao tiếp của HS. Trong quá trình dạy học, GV cần
khuyến khích HS nói bằng TV cả trong giờ học lẫn ngoài giờ học với việc tăng
cường tiếp xúc giữa GV và HS. Những cuộc trò chuyện ấy là cơ hội để HS
người Na Mẻo được giao tiếp bằng TV nhiều hơn, cho con em đồng bào dân
tộc Na Mẻo tiếp xúc với TV ngay từ ở bậc học mầm non. Điều đó có nghĩa là
ngay từ những ngày bắt đầu được đến lớp, các cháu đã được sống trong môi
trường song ngữ: TV- TMĐ.
Khi lên lớp 1, chương trình dạy TV cho HS DTTS cần phải đạt được mục
tiêu là sau khi học hết lớp 1, HS phải biết đọc và viết thạo TV. Tuy nhiên, hiện
nay phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa được dùng cho HS dân
tộc thiếu số chưa phù hợp. Mặt khác, thời lượng học môn TV ở lớp 1 còn quá ít,
các em chưa có nhiều điều kiện để tiếp xúc với TV. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần tiến hành các cuộc điều tra, khảo sát thực tế để xây dựng chương trình, nội
dung môn TV cho HS, đặc biệt là HS lớp 1 để các em dễ tiếp thu, thạo TV, làm cơ
sở nền tảng để tiếp thu kiến thức khi tiếp tục học lên các lớp trên.
Để đồng bào dân tộc Na Mẻo có điều kiện học TV, từ đó có thể hỗ trợ được
cho con em mình nắm vững tiếng phổ thông khi đến trường và đồng thời cũng để
có các sách công cụ tra cứu cho các em học tập, Nhà nước rất cần đầu tư cho các
tỉnh Lạng Sơn nói chung, huyện Tràng Định nói riêng, một chương trình nghiên
cứu dài hạn, nghiên cứu về văn hóa- giáo dục, ngôn ngữ và về các DTTS, biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
soạn các sách tham khảo bằng song ngữ, các loại từ điển, ngữ pháp song ngữ.
4.3.2.5. Tăng cường thực hành giao tiếp bằng TV
- Thực hành mọi lúc, mọi nơi; lập nhóm câu lạc bộ phiên dịch: TMĐ -
TV và ngược lại.
- Cho HS xem phim, tranh ảnh và GV nên hỏi nhiều câu hỏi để HS trả
lời, vừa học TV vừa có phần giải thích bằng tiếng dân tộc.Tuy nhiên không nên
lạm dụng tiếng dân tộc của HS để điều khiển lớp làm ảnh hưởng đến tâm thế
học TV của HS.
4.3.2.6. Tăng cường đầu tư hơn cho hệ thống các thư viện ở huyện Tràng Định,
tỉnh Lạng Sơn
Thư viện là nơi phát huy rất tốt vai trò bổ trợ kiến thức, phát triển ngôn
ngữ. Vì vậy, hệ thống thư viện trong các trường học ở huyện Tràng Định hiện
nay đã được đầu tư phát triển. Tuy nhiên, sách báo trong thư viện còn nghèo
nàn, chủ yếu là các sách do nhà nước tài trợ, sách cho tặng của các tập thể và cá
nhân nên nội dung chưa hấp dẫn người đọc. Đồng thời, HS chưa thấy hết được
tầm quan trọng của việc đọc sách nên chưa mấy mặn mà với hoạt động này.
Để HS ở các trường trong huyện Tràng Định vừa bảo tồn được ngôn ngữ
của mình, vừa am hiểu kiến thức khoa học, kinh tế, văn hóa, xã hội thì các thư
viện cần phải khắc phục các nhược điểm trên. Cần tăng cường số lượng các thư
viện trên địa bàn của huyện. Ngoài ra, cần thay đổi cách phục vụ để người dân
tiếp cận với thư viện, từ đó nâng cao trình độ hiểu biết của mình, trong đó có
nâng cao năng lực tiếp thu và sử dụng TV.
Các thư viện trên địa bàn huyện Tràng Định nên tăng cường bổ sung các
đầu sách có chất lượng. Thay đổi về chất lượng các đầu sách, không chỉ là các
ấn phẩm in trên giấy (sách, báo, tạp chí, bản đồ, ảnh chụp...) mà còn phải tăng
cường đầu tư cho thư viện các loại tài liệu bằng phim ảnh, đĩa ghi âm, tranh,..
Thái độ phục vụ của nhân viên thư viện phải tận tụy, thân thiện, cởi
mở, gần gũi để mọi người dân có thói quen đến thư viện tìm và đọc các loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sách, tài liệu.
Tăng cường, khuyến khích, tổ chức các đợt sáng tác do các em HS tại
các huyện, thị xã trong tỉnh và người dân địa phương tham gia để họ có tác
phẩm văn học nghệ thuật riêng mang hình ảnh, hơi thở cuộc sống của chính
đồng bào Na Mẻo.
Tóm lại, vấn đề phát triển năng lực ngôn ngữ cho một cộng đồng dân tộc là
vấn đề trọng yếu, cần được thực hiện một cách lâu dài, bền bỉ; đòi hỏi sự chung
tay góp sức của toàn thể xã hội. Trong quá trình thực hiện, cần có sự phối hợp các
giải pháp để đạt mục đích nhanh chóng và tốt nhất. Cần vận dụng linh hoạt các
giải pháp đối với từng thời điểm khác nhau, từng địa bàn khác nhau, từng đối
tượng khác nhau để đạt hiệu suất cao đồng thời tránh những sai sót cơ bản.
4.4. Tiểu kết
Từ đặc điểm tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, trong phạm vi của luận văn, chúng tôi đã đề xuất
một số chính sách và giải pháp nhằm bảo tồn ngôn ngữ và nâng cao khả năng
sử dụng ngôn ngữ cho người Na Mẻo. Đồng thời chúng tôi cũng tổng hợp các
ý kiến từ đồng bào Na Mẻo, cán bộ lãnh đạo địa phương về những nguyện
vọng của họ để gìn giữ văn hóa nói chung, ngôn ngữ nói riêng. Theo đó, để bảo
tồn và nâng cao khả năng sử dụng TMĐ, một số giải pháp cụ thể được đưa ra
như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các giá trị văn hóa của dân tộc; thực
hiện mô hình giáo dục song ngữ; sử dụng ngôn ngữ trên các phương tiện thông
tin đại chúng và trong văn hóa văn nghệ; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa
học về ngôn ngữ của người Na Mẻo; đặc biệt cần tổ chức các lớp học nhằm
trao truyền vốn ngôn ngữ, văn hóa cho giới trẻ,...Để nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Việt cho HS người Na Mẻo, theo chúng tôi, cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào Na Mẻo về vị trí, vai trò, chức
năng của TV; cải cách chương trình dạy TV cho HS người Na Mẻo; tăng
cường tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, các hội thảo; tổ chức lấy ý
kiến về tình hình dạy và học TV cho HS Na Mẻo; Tăng cường đầu tư hơn cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hệ thống các thư viện ở huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn;...
KẾT LUẬN
Luận văn “Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở huyện
Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn” tiếp cận vấn đề nghiên cứu tình hình sử dụng ngôn
ngữ trên cơ sở lí luận của ngôn ngữ học xã hội. Qua khảo sát và phân tích, bước
đầu tác giả luận văn đưa ra một số kết luận đáng lưu ý sau:
1. Qua khảo sát có thể thấy, tình hình sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt
của người Na Mẻo khá phong phú. Họ sử dụng cả 4 ngôn ngữ: TMĐ, TV, tiếng
Tày Nùng, tiếng Dao. Phần lớn người Na Mẻo hiện trong trạng thái đa ngữ.
Trạng thái đa ngữ ngữ phổ biến này là Na Mẻo - Việt - Tày Nùng (72%). Trạng
thái này cao ở thế hệ trung tuổi, người già, thấp nhất là nhóm trẻ tuổi. Mô hình
song ngữ phổ biến là Na Mẻo - Việt chủ yếu có ở nhóm HS đang ngồi trên ghế
nhà trường. Không có mô hình song ngữ Na Mẻo - Tày, Na Mẻo - Dao bởi lẽ
người Na Mẻo đều biết TV. Trạng thái đa ngữ chủ yếu là sử dụng được 3 ngôn
ngữ: Na Mẻo - Việt - Tày Nùng. Trạng thái ngôn ngữ cao nhất là sử dụng được
4 ngôn ngữ: Na Mẻo - Việt - Tày Nùng - Dao.
TMĐ được sử dụng phổ biến trong gia đình, khi nói chuyện với bố mẹ,
ông bà hay trong những hoàn cảnh mang tính chất nội bộ cao như nói chuyện
với khách đến nhà là người cùng dân tộc hoặc trong cảnh huống có liên quan
đến văn hóa như cầu cúng, nói chuyện với tổ tiên. Ngoài ra, TMĐ còn được
sử dụng với tần số không nhiều trong hoàn cảnh giao tiếp ngoài xã hội. Điều
đó cho thấy vị thế của tiếng Na Mẻo thấp hơn rất nhiều so với các ngôn ngữ
khác (ví dụ tiếng Tày Nùng). Tiếng Việt chiếm vị trí quan trọng và có mặt
trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, mọi đối tượng giao tiếp, nhất là trong hoàn
cảnh giao tiếp quy thức như họp trong xã, huyện hay dùng để giao tiếp với
người Kinh. Tiếng Dao có số người sử dụng khá ít, chủ yếu dùng để nói
chuyện với khách đến nhà là người dân tộc khác hoặc khi giao tiếp trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
những môi trường rộng hơn như đi chợ, mua bán,...
Như vậy, với người Na Mẻo ở Tràng Định - Lạng Sơn, TMĐ và TV giữ
vai trò quan trọng nhất trong mọi tình huống giao tiếp trong gia đình, còn TV
và tiếng Tày Nùng giữ vai trò quan trọng trong giao tiếp ngoài xã hội.
Khả năng sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo trong sinh hoạt hàng
ngày: Với TMĐ, 100% người Na Mẻo được khảo sát đều nghe được, nói được,
không có ai nghe được, không biết nói. Thực tế này là một tín hiệu đáng mừng
cho công cuộc giữ gìn và bảo tồn ngôn ngữ mẹ đẻ. Không có ai biết chữ Na
Mẻo. Tuy nhiên, giới trẻ Na Mẻo có khả năng sử dụng TMĐ thấp hơn so người
già, phạm vi sử dụng cũng thu hẹp hơn.
Cũng giống như tiếng Na Mẻo, TV cũng có 100% người Na Mẻo nghe
được, nói được, không có ai nghe được không biết nói. Đây là kết quả đáng ghi
nhận của giáo dục địa phương và ý thức tự học của bản thân người Na Mẻo.
Tuy nhiên khi xét khả năng viết, nhóm có trình độ học vấn có khả năng viết TV
tốt hơn cả (thường là HS, cán bộ). Xét theo giới tính nam giới Na Mẻo sử dụng
TV tốt hơn nữ giới. Nhóm trẻ tuổi Na Mẻo cũng đọc thông, viết thạo tốt hơn
người trung niên và người già.
Tiếng Tày Nùng có 90/125 người Na Mẻo biết và sử dụng, chiếm tỉ lệ khá
cao 72% do đây là ngôn ngữ vùng. Theo trình độ, nhóm Không có học vấn và
nhóm Đại học, Cao đẳng, Trung học có khả năng sử dụng tốt nhất (100% nghe
được, nói được, không có ai không biết nói). Nhóm trung niên và người già Na
Mẻo sử dụng tiếng Tày Nùng thành thạo hơn giới trẻ. Về nghề nghiệp, những
người làm cán bộ có tỉ lệ biết tiếng Tày Nùng đạt tuyệt đối 100% sau đó là nông
dân. Khả năng sử dụng tiếng Tày Nùng của HS là thấp nhất. Xét theo giới tính,
khả năng sử dụng tiếng Tày Nùng của nam giới và nữ giới người Na Mẻo chênh
lệch không đáng kể. Không có người Na Mẻo nào biết chữ Tày Nùng.
Tiếng Dao có 28/125 người Na Mẻo biết và sử dụng, chiếm tỉ lệ 22,4%.
Khả năng sử dụng tiếng Dao phân bố không đều giữa các độ tuổi. Trong khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhóm người trung niên, người già có tỉ lệ người biết tiếng Dao cao nhất thì nhóm
18-30 tuổi không một ai biết tiếng Dao. Nhóm có nghề nghiệp là cán bộ và nhóm
nam giới người Na Mẻo có khả năng sử dụng tiếng Dao tốt hơn cả. Đặc biệt,
nhóm cán bộ không có ai chỉ biết nghe, không biết nói. Những người biết nghe
không biết nói này phần lớn rơi vào HS, những người có trình độ Trung học cơ
sở, Trung học phổ thông. Không có người Na Mẻo nào biết tiếng Dao.
2. Trong nhà trường, trạng thái ngôn ngữ của HS Na Mẻo phần lớn là
đơn ngữ (TV) số ít là song ngữ (TV - TMĐ). Mặc dù các em có thể sử dụng
đến 3 ngôn ngữ khác nhau song trong môi trường này, ngôn ngữ thứ ba không
được HS Na Mẻo sử dụng, đây là một điều cần lưu ý. Sự lựa chọn ngôn ngữ
của các em trong từng hoàn cảnh cụ thể lại có sự có sự khác biệt nhau, tuy
nhiên, dù giao tiếp với đối tượng nào, TV vẫn giữ vai trò quan trọng. Nếu như
trong gia đình, TMĐ có vai trò quan trọng hàng đầu thì trong nhà trường, ngôn
ngữ của người Na Mẻo chỉ giữ vai trò bổ trợ, chức năng cao nhất của nó được
phát huy khi HS Na Mẻo nói chuyện với bạn ngoài giờ học.
Đối với TV, nhìn chung khả năng sử dụng ngôn ngữ này của HS Na Mẻo
không được đánh giá cao. Ở kĩ năng đọc, các em hay mắc lỗi phụ âm đầu, âm
chính. Đặc biệt, 100% HS người Na Mẻo không phân biệt được dấu sắc/ ngã do
ảnh hưởng của môi trường giao tiếp xung quanh. Đối vỡi khả năng viết, về cơ bản
HS người Na Mẻo đáp ứng được nhu cầu ghi chép và làm bài kiểm tra trên lớp,
nhưng, cũng như nhiều HS dân tộc khác, các em còn mắc lỗi chính tả; lỗi thanh
điệu; lỗi về dùng từ đặt câu... Những lỗi này xuất hiện với tần số tương đối cao,
nhất là lỗi chính tả. Đặc biệt, kĩ năng tạo lập câu và văn bản của các em còn yếu.
3. Trong hoạt động truyền thông, người Na Mẻo sử dụng tất cả các ngôn
ngữ: TV, TMĐ, tiếng Tày Nùng và tiếng Dao. Trong đó, TV được sử dụng
nhiều hơn cả, chiếm tỉ lệ cao ở tất cả các loại hình: xem tivi, nghe đài, đọc sách
báo, nói chuyện điện thoại. Chỉ trong loại hình nói chuyện điện thoại, người Na
Mẻo mởi sử dụng đầy đủ cả 4 ngôn ngữ trên. Còn lại, TV chỉ được dùng khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đọc sách báo, tiếng Tày được dùng trong xem tivi, nghe đài, nói chuyện điện
thoại. Số người tham gia hoạt động xem tivi và nói chuyện điện thoại nhiều hơn
số người nghe đài và đọc sách báo. Có một số người Na Mẻo chỉ sử dụng TV
hoặc TMĐ tromg truyền thông (đơn ngữ), ngoài ra, các mô hình song/đa ngữ
được người Na Mẻo sử dụng là: TV - TMĐ, TV - Tày Nùng, TMĐ - TV- Tày
Nùng, TV - Tày Nùng - Dao.
Khi tiếp nhận truyền thông bằng các ngôn ngữ trên, không có người Mẻo
nào "không hiểu", tất cả đều “hiểu ít” hoặc “hiểu nhiều”. TV được sử dụng phổ
biến ở mọi loại hình, trong đó phổ biến nhất là nói chuyện điện thoại, đọc sách
báo. Tỉ lệ “hiểu rõ” TV cao nhất tập trung ở người có độ tuổi 18-30, những
người có trình độ học vấn cao, có nghề nghiệp là cán bộ. Trong khi đó, tỉ lệ
“hiểu ít” tập trung ở loại hình đọc sách báo, với những người làm ruộng hoặc
có trình độ thấp (Không học vấn hoặc Tiểu học).
Mức độ phổ biến ở các loại hình truyền thông của người Na Mẻo không
đồng đều, tập trung hoạt động nói chuyện điện thoại, vì người Na Mẻo chưa có
chữ viết riêng và cũng chưa có kênh truyền hình và phát thanh sử dụng tiếng Na
Mẻo. Song có thể thấy, những người sử dụng tốt ngôn ngữ của dân tộc mình trong
truyền thông chủ yếu ở lứa tuổi trên 60, làm ruộng; còn lứa tuổi dưới 18, nghề
nghiệp HS không được đánh giá cao về năng lực TMĐ trong truyền thông.
So với số lượng người biết ngôn ngữ khác (Tày Nùng, Dao), số lượng
người sử dụng chúng trong truyền thông khá khiêm tốn, nhất là ở tiếng Dao.
Tiếng tày Nùng được sử dụng tương đối đồng đều ở những nhóm học vấn khác
nhau, cao nhất là nhóm Không học vấn. Nhìn chung, những người trên 60 tuổi,
nghề nghiệp làm ruộng là những người có năng lực tiếng khác cao hơn các
nhóm còn lại.
4. Từ thực tế tìm hiểu tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Na Mẻo ở
huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi xin
đưa ra một số chính sách và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa năng lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giao tiếp bằng ngôn ngữ cho người Na Mẻo. Đồng thời, chúng tôi cũng tổng
hợp các ý kiến của người Na Mẻo và cán bộ, lãnh đạo ở địa phương. Để bảo
tồn và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Na Mẻo, đầu tiên, cần tuyên truyền,
giáo dục nâng cao ý thức của người Na Mẻo với TMĐ, nhất là giới trẻ ; sau đó,
cần tổ chức các hoạt động trao truyền vốn văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc cho
các thế hệ sau bằng cách mở lớp dạy tiếng dân tộc, dạy cách làm trang phục
truyền thống,.. Trong giáo dục, có thể triển khai mô hình giáo dục song ngữ TV
- TMĐ để các em được sử dụng nhiều hơn tiếng nói của dân tộc mình trong
môi trường giaotiếp quy thức ; nhà trường cũng nên cân nhắc tổ chức các hoạt
động như thi kể chuyện, hùng biện bằng tiếng dân tộc,…Trong truyền thông,
nên tăng cường việc sử dụng TMĐ trên các phương tiện thông tin đại chúng và
trong sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Để tiếng nói của người Na Mẻo được lưu
truyền, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, đặt chữ viết chính thức và
biên soạn các loại sách công cụ cho người Na Mẻo. Để nâng cao khả năng sử
dụng tiếng Việt cho HS người Na Mẻo, cần đổi mới công tác dạy và học môn
tiếng Việt và Ngữ văn, cải tiến chương trình sách giáo khoa cho phù hợp với
đặc điểm HS ở vùng DTTS như huyện Tràng Định,…
5. Kết quả nghiên cứu của luận văn đã khẳng định tình hình sử dụng
ngôn ngữ của người Na Mẻo là vấn đề mới, phong phú, đáng được quan tâm.
Bước đầu tìm hiểu tình hình sử dụng ngôn ngữ của dân tộc này, chúng tôi nhận
thấy còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu làm sáng tỏ, làm cơ sở
cho việc hoạch định những chính sách về ngôn ngữ DTTS của người Na Mẻo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam, góp phần bảo tồn và giữ gìn một ngôn ngữ
đang đứng trước nguy cơ mai một. Từ việc thực hiện luận văn, chúng tôi đề
xuất một số hướng nghiên cứu về người Na Mẻo ở Việt Nam nói chung và
ngôn ngữ, văn hóa người Na Mẻo nói riêng như xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về
tiếng Na Mẻo, làm từ điển, xây dựng các chương trình bảo tồn, phát triển vốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
văn hóa dân gian,…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Colin Baker (2008), Những cơ sở của giáo dục song ngữ và vấn đề song
ngữ, Nxb ĐHQG, TP. Hồ Chí Minh.
2. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS ở Việt Nam, Nxb
ĐHQG, H.
3. Trần Trí Dõi (1999), Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền
núi một số tỉnh của Việt Nam, Nxb VHDT, H.
4. Hoàng Văn Hành (1993), “Mấy vấn đề về cảnh huống và chính sách ngôn
ngữ ở Việt Nam - thực trạng và triển vọng”, Những vấn đề chính sách
ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
5. Hoàng Văn Hành (1994), "Mấy vấn đề về giáo dục ngôn ngữ và phát triển
văn hóa ở vùng đồng bào các DTTS của Việt Nam hiện nay", T/c Ngôn
ngữ, số 3.
6. Vũ Quang Hào (2007), Nhu cầu và khả năng tiếp nhận phát thanh bằng
tiếng dân tộc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, Đề tài nghiên cứu, ĐH
KHXH và NV.
7. Nguyễn Hữu Hoành (1996), "Hiện tượng đa ngữ ở người Hmông", T/c
Ngôn ngữ và đời sống, số 6.
8. Nguyễn Hữu Hoành (1997), "Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người
Hmông", T/c Ngôn ngữ, số 1.
9. Nguyễn Hữu Hoành (2001), "Tình hình sử dụng tiếng nói, chữ viết DTTS
trong lĩnh vực văn hóa - thông tin", T/c Ngôn ngữ và đời sống , số 11.
10. Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông (2001), "Đời sống ngôn ngữ của
người Dao ở Việt Nam", T/c Ngôn ngữ, số 1+2.
11. Nguyễn Hữu Hoành (2003), "Tình hình giao tiếp ngôn ngữ của các DTTS
trên địa bàn xa Noong Lay huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La", T/c Ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ngữ, số 2.
12. Bùi Thanh Hoa (2016), Một vài đặc điểm về cảnh huống ngôn ngữ ở
huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, T/c Ngôn ngữ và đòi sống, số 5
13. Vũ Bá Hùng, Hoàng Văn Ma (1976), "Về sự phân loại ngôn ngữ ở phía
Bắc Việt Nam", T/c Dân tộc học, số 4.
14. Vũ Bá Hùng, Hoàng Văn Ma (1978), "Vài nét về ngôn ngữ các DTTS ở
miền Bắc Việt Nam", Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phí Bắc),
Nxb KHXH, H.
15. Vũ Bá Hùng (1993), "Chính sách ngôn ngữ và tính vấn đề của chữ viết
các dân tộc ở nước ta hiện nay", Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở
Việt Nam, Nxb KHXH, H.
16. Vũ Bá Hùng, Phạm Văn Hảo, Hà Quang Năng (2002), "Cảnh huống tiếng
Thái", Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
17. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010), Cảnh huống ngôn ngữ ở Hà Giang,
Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, ĐHSP Thái Nguyên.
18. Nguyễn Thị Hằng Nga (2011), Cảnh huống ngôn ngữ người Pà Thẻn ở
Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ, ĐHSPTN.
19. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục, H.
20. Nguyễn Văn Khang (2002), Khảo sát tình hình sử dụng ngôn ngữ tại một
số trường phổ thông ở vùng DTTS tại huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình, Báo
cáo khoa học Hội thảo khoa học Việt - Nga về ngôn ngữ học xã hội "Vị
thế của ngôn ngữ quốc gia đa dân tộc đa ngôn ngữ: TV ở Việt Nam và
tiếng Nga ở Nga".
21. Nguyễn Văn Khang (2002), "Tiếp cận tiếng Mường từ góc độ ngôn ngữ
học xã hội", Một số vấn đề về cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam, Nxb KHXH, H.
22. Nguyễn Văn Lợi (1999), "Ngôn ngữ tiêu vong - Vấn đề cần được quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tâm", T/c Ngôn ngữ và đời sống, số 5.
23. Nguyễn Văn Lợi (2000), “Một số vấn đề về chính sách ngôn ngữ ở các
quốc gia đa dân tộc”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.
24. Nguyễn Văn Lợi (1999), "Bảo tồn sự đa dạng văn hóa ngôn ngữ tộc
người", T/c Dân tộc và thời đại, số 4.
25. Nguyễn Văn Lợi (1999), "Các ngôn ngữ nguy cấp và việc bảo tồn sự đa
dạng văn hoá, ngôn ngữ tộc người ở Việt Nam", T/c Ngôn ngữ, số 4.
26. Nguyễn Văn Lợi - Lý Toàn Thắng (2001), "Về sự phát triển của ngôn
ngữ các DTTS ở Việt Nam trong thế kỉ XX", T/c Ngôn ngữ, số 2.
27. Hoàng Văn Ma (1975), "Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ các DTTS ở
nước ta trong 30 năm qua", T/c Ngôn ngữ, số 4.
28. Hoàng Văn Ma (2002), “Cảnh huống tiếng Nùng”, Cảnh huống và chính
sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
29. Hoàng văn Ma (2002), Ngôn ngữ DTTS Việt Nam: Một số vấn đề về quan
hệ cội nguồn và loại hình học, Nxb KHXH. H.
30. Đoàn Văn Phúc (1986), Chọn phương pháp dạy TV cho đồng bào dân tộc
trong độ tuổi xóa nạn mù chữ, Báo cáo khoa học Hội nghị khoa học Vụ bổ túc
văn hóa, H.
31. Đoàn Văn Phúc (2002), "Chính sách bảo tồn ngôn ngữ của các DTTS",
Tuần báo Tiếng nói Việt Nam, Ngày 10 - 16/6
32. Nguyễn Thu Quỳnh, Nguyễn Đức Anh (2019), Giao tiếp ngôn ngữ của
HS người Na Mẻo ở huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Ngôn ngữ
và đời sống, số 8 (288) 2019, tr.93
33. Lý Toàn Thắng (2001), "Ngôn ngữ với sự nghiệp nâng cao dân trí của
đồng bào các DTTS trong thời kì CNH, HĐH đất nước, Cảnh huống và
chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
34. Đặng Lệ Thuỷ (2009), Tình hình sử dụng TV ở vùng đồng bào Khơ Mú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyện Kì Sơn - tỉnh Nghệ An, Khóa luận tốt nghiệp, Trường ĐHVH, H.
35. Tạ Văn Thông (1996), "Chữ viết đối với các dân tộc rất ít người", T/c
Ngôn ngữ, số 4.
36. Tạ Văn Thông (1996), "Chữ viết các dân tộc ở Việt Nam: huyền thoại và
hiện thực", T/c Ngôn ngữ và đời sống, số 5.
37. Tạ Văn Thông (2003), "Tình hình sử dụng ngôn ngữ trong trường tiểu
học Chiềng Xôm", T/c Ngôn ngữ, số 5.
38. Tạ Văn Thông (2003), "Ngôn ngữ trong giáo dục ở vùng đồng bào các
DTTS ở Việt Nam", T/c Ngôn ngữ và đời sống, số 10.
39. Tạ Văn Thông (2007), "Những phương cách giáo dục ngôn ngữ đối với
HS DTTS bậc mầm non và tiểu học qua thực tế ở Mường Chà (Điện Biên)
và Tiên Yên (Quảng Ninh)", Báo cáo Hội thảo Ngữ học trẻ.
40. Tạ Văn Thông (2009), Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Nxb
KHXH, H.
41. Tạ Văn Thông (2010), "Bảo tồn ngôn ngữ các DTTS ở Việt Nam trước
nguy cơ tiêu vong", T/c Ngôn ngữ và đời sống, số 10.
42. Tạ Văn Thông (2011), Giáo dục ngôn ngữ ở vùng đồng bào các DTTS
Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7.
43. Nguyễn Đức Tồn (2000), "Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở liên
bang Nga", T/c Ngôn ngữ, số 1 + 2.
44. Nguyễn Đức Tồn (2016), "Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế",
Nxb Khoa học xã hội, H.
45. Đỗ Quang Sơn - Lê Trường Giang (2000), Khảo sát tình hình sử dụng và
giáo dục ngôn ngữ trong HS trường PTDT Nội trú hai huyện Sa Pa, Bắc
Hà tỉnh Lào Cai, Luận văn tốt nghiệp, Trường ĐH KHXH và NV.
46. Sở GD - ĐT Ninh Thuận (2004), Tình hình sử dụng tiếng Chăm trong đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sống hàng ngày tại Ninh Thuận.
47. Viện ngôn ngữ học (1984), Ngôn ngữ các DTTS ở Việt Nam và chính sách
ngôn ngữ, Nxb KHXH, H.
48. Viện Ngôn ngữ học (1988), Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á, Nxb KHXH, H.
49. Viện Ngôn ngữ học (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam, Nxb KHXH, H.
50. Viện Ngôn ngữ học (2002), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở các
quốc gia đa dân tộc, Nxb KHXH, H.
51. Viện Ngôn ngữ học (2002), Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt
Nam, Nxb KHXH, H.
52. Viện Hàn lâm Khoa học Nga (2016), Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hội, Matxcova.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
Nguyễn Thu Quỳnh, Nguyễn Đức Anh (2019), Giao tiếp ngôn ngữ của
HS người Na Mẻo ở huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn, Tạp chí Ngôn ngữ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đời sống, số 8 (288), tr.93
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: CÁC BẢNG HỎI
BẢNG TÌM HIỂU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Họ và tên người trả lời: …………………………..............................................
3. Giới tính: (Nam =1, Nữ =2) 2. Năm sinh: ……………...........
(Tính theo năm dương lịch)
4. Dân tộc: ……………................ 5. Tôn giáo: …………............………………
Thôn/xóm/bản:……………............................
Xã:…............................................................... 6. Nơi sinh Huyện:.............................................................
Tỉnh:................................................................
Thôn/xóm/bản:……………............................
Xã:................................................................... 7. Chỗ ở hiện nay Huyện:.............................................................
Tỉnh:................................................................
8. Đã học hết lớp mấy? ............................................................................................
9. Nghề nghiệp hiện nay? ........................................................................................
9.1. Chức vụ cao nhất đã qua hoặc hiện nay (nếu có):………..................................
10.1 Bố (đẻ):...........................................
10.2 Mẹ (đẻ):...........................................
10. Những người sau đây trong gia 10.3 Ông nội:…………...........................
đình Ông/bà thuộc dân tộc nào? 10.4 Bà nội:………..…...........................
10.5 Ông ngoại:….……..........................
10.6 Bà ngoại:……..…............................
1. Luôn bị thiếu ăn
2. Có lúc thiếu ăn 11. Kinh tế của gia đình Ông/bà
3. Đủ ăn quanh năm hiện nay?
4. Dư thừa
1. Dưới 5 năm 12. Đã ở địa phương này trong thời
2. Từ 5 năm trở lên gian bao lâu?
13. Ông/bà hiện sống cùng ai?.................................................................................
PHẦN II. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
14. Khả năng sử dụng các ngôn ngữ/tiếng sau đây
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.1. Tiếng dân tộc mình
3. Không biết chữ
4. Biết chữ
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.2 Tiếng Kinh
3. Không biết chữ
4. Biết chữ
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.3 Tiếng [……….] 3. Không biết chữ
4. Biết chữ
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.4 Tiếng [……….]
3. Không biết chữ
4. Biết chữ
15. Ông/bà học được các ngôn ngữ/tiếng sau đây ở đâu?
1. Ở gia đình
2. Ở trường
15.1 Tiếng dân tộc mình 3. Ở bạn bè, người quen
4. Ở những nơi khác
1. Ở gia đình
2. Ở trường
15.2 Tiếng Kinh 3. Ở bạn bè, người quen
4. Ở những nơi khác
1. Ở gia đình
2. Ở trường
15.3 Tiếng [……….] 3. Ở bạn bè, người quen
4. Ở những nơi khác
1. Ở gia đình
2. Ở trường
15.4 Tiếng [……….] 3. Ở bạn bè, người quen
4. Ở những nơi khác
16. Ông/bà thường sử dụng ngôn ngữ/tiếng nào khi kể chuyện, ca hát?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 16.1 Kể chuyện 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 16.2 Ca hát 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
17. Ông/bà thường sử dụng ngôn ngữ/tiếng nào khi viết thư hoặc ghi chép
hàng ngày?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 17.1 Viết thư 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 17.2 Ghi chép hàng ngày 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
18. Ông/bà thường sử dụng ngôn ngữ/tiếng nào khi cầu cúng, nói chuyện với
tổ tiên?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 18.1 Cầu cúng 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 18.2 Nói chuyện với tổ tiên 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
19. Ông/ bà thường sử dụng ngôn ngữ/ tiếng nào khi nói chuyện hoặc mua
bán ở chợ?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 19.1 Nói chuyện ở chợ 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 19.2 Mua bán ở chợ 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
20. Ông/bà thường sử dụng tiếng nào khi đi họp trong làng, trong xã?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh
3. Tiếng [………] 20.1 Họp trong làng
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 20.2 Họp trong xã 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Có 21. Ông/bà có gặp khó khăn khi học
2. Không tiếng dân tộc mình không?
22. Các thành viên trong gia đình Ông/bà biết những tiếng dân tộc nào?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.1. Ông 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.2 Bà 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.3 Bố (đẻ) 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.4 Mẹ (đẻ) 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.5 Vợ/chồng (nếu có) 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 22.6 Các con (nếu có) 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
23. Hàng xóm của Ông/bà là người dân tộc nào?.................................................
24. Hàng xóm của Ông/bà thường nói những tiếng dân tộc nào?.......................
25. Ông/bà có biết tiếng nói nào được dùng phổ biến ở:
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 25.1 Ở xã/bản/buôn/sóc này 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 25.2 Ở huyện này 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 25.3 Ở tỉnh này 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Thường xuyên 26. Ở địa phương của Ông/bà có tổ 2. Thi thoảng chức dạy tiếng dân tộc cho con em 3. Hiếm khi đồng bào DTTS không? 4. Chưa bao giờ
27. Ở nơi Ông/bà sinh sống có nhà văn hóa không?
1. Có 27.1 Thôn
2. Không >> Bỏ qua câu 28
1. Có 27.2 Xã 2. Không >> Bỏ qua câu 28
1. Họp
2. Tổ chức văn nghệ 28. Nhà văn hóa thường sử dụng để 3. Tổ chức lễ hội truyền thống làm gì? 4. Sinh hoạt tôn giáo (Có thể đánh X vào nhiều lựa chọn)
5. Tổ chức dạy học
6. Khác:……………………….
29. Ông/bà có được học hát, học kể chuyện 1. Có
bằng tiếng của dân tộc mình không? 2. Không
1. Có 30. Địa phương nơi Ông/bà sinh sống 2. Không >> Chuyển sang câu 31 có tổ chức các lễ hội văn hóa truyền 3. Không biết >> Chuyển sang thống của dân tộc không? câu 31
31. Các văn bản hành chính ở địa 1. Có
phương có sử dụng hai thứ tiếng (tiếng 2. Không
Kinh, tiếng dân tộc) không? 3. Không biết
32. Ở địa phương của Ông/bà, lãnh đạo cấp Xã dùng ngôn ngữ/tiếng nào khi
xuống nói chuyện với dân?
....................................................................................................................................
33. Ông/bà có được nghe tuyên truyền, 1. Có
phổ biến chủ trương, đường lối, chính 2. Không
sách của Đảng bằng tiếng dân tộc của 3. Không biết
mình không?
34. Các buổi sinh hoạt cộng đồng của 1. Có
địa phương (hội người cao tuổi, hội 2. Không
phụ nữ, đoàn thanh niên...) có sử dụng 3. Không biết
tiếng dân tộc của Ông/bà không?
35. Trong nhà có các đồ vật sau đây không?
đài (ra-đi-ô) vô tuyến (ti vi) sách, báo tiếng Việt (không kể sách giáo khoa) sách, báo tiếng dân tộc mình sách, báo tiếng 1… sách, báo tiếng 2…
36. Có nghe đài, xem ti vi không? bằng tiếng gì?
chưa bao giờ thỉnh thoảng thường xuyên
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2…
37. Khi nghe đài, xem ti vi có hiểu rõ không?
không hiểu hiểu ít hiểu rõ
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2…
38. Những trở ngại khi nghe đài, xem ti vi?
nhiều từ mới lạ nói nhanh quá
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2… không như giọng địa phương mình
39. Có đọc sách, báo không?
chưa bao giờ thỉnh thoảng thường xuyên
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2…
40. Khi đọc sách, báo có hiểu rõ không?
không hiểu hiểu ít hiểu rõ
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2…
41. Những trở ngại khi đọc sách, báo là gì?
nhiều từ mới lạ chữ nhỏ quá
khác chữ đã biết
tiếng dân tộc mình tiếng Việt tiếng 1… tiếng 2… 42. Đối với dân tộc mình, những ngôn ngữ nào thích hợp dùng trong các
trường hợp sau?
tiếng Việt tiếng… tiếng… tiếng dân tộc mình
truyện cổ, bài hát, tầm
ghi chép hằng ngày học ở trường phát thanh, truyền hình in ấn (sách, báo…) sáng tác truyện, thơ tuyên truyền, phổ biến kiến thức sưu thơ…của dân tộc mình
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Ông/bà!
Người phỏng vấn Người cung cấp thông tin
BẢNG TÌM HIỂU TÌNH HÌNH VÀ THÁI ĐỘ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
(Dành cho HS)
PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Họ và tên người trả lời: …………………………...........................................
2. Năm sinh: ……………............ 3. Giới tính: (Nam =1, Nữ =2) (Tính theo năm dương lịch)
4. Dân tộc: ……………................ 5. Tôn giáo: …………............………..
Thôn/xóm/bản:……………........................
Xã:…............................................................ 6. Nơi sinh Huyện:..........................................................
Tỉnh:.............................................................
Thôn/xóm/bản:…………….........................
Xã:................................................................ 7. Chỗ ở hiện nay Huyện:..........................................................
Tỉnh:.............................................................
8. Lớp: ..............................................
Trường:………………………………………………….................…………….
9. Xếp loại học lực học kì 1: ................................................................................
9.1. Chức vụ trong lớp (nếu có):……….................................................................
10.1 Bố (đẻ):........................................
10.2 Mẹ (đẻ):.......................................
10.3 Ông nội:…………....................... 10. Những người sau đây trong gia
10.4 Bà nội:………..…........................ đình em thuộc dân tộc nào?
10.5 Ông ngoại:….……......................
10.6 Bà ngoại:……..…........................
11.1 Bố (đẻ):........................................ 11. Nghề nghiệp của những người
11.2 Mẹ (đẻ):....................................... trong gia đình em?
1. Dưới 5 năm 12. Em ở địa phương này trong thời
2. Từ 5 năm trở lên gian bao lâu?
13. Em hiện sống cùng ai?....................................................................................
PHẦN II. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
14. Khả năng sử dụng các ngôn ngữ/tiếng sau đây
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.1. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) 3. Không biết chữ
4. Biết chữ
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.2. Tiếng Kinh (Việt) 3. Không biết chữ
4. Biết chữ
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được 14.3. Tiếng ………… 3. Không biết chữ
4. Biết chữ
15. Em thường sử dụng ngôn ngữ/ tiếng nào khi:
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.1. Ở nhà, nói chuyện với bố mẹ,
2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) ông bà
3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt)
15.2. Ở nhà, nói chuyện với anh chị em 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo)
3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.3. Ở nhà, nói chuyện với khách đến 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) nhà là người Kinh 3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.4. Ở nhà, nói chuyện với khách đến 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) nhà là người Mông (Na Mẻo) 3. Tiếng khác:…………………
15.5. Ở nhà, nói chuyện với người dân 1. Tiếng Kinh (Việt)
tộc khác (Không phải người Kinh, 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo)
không phải người Mông (Na Mẻo) 3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt)
15.6. Ở lớp, nói chuyện với thầy cô 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo)
3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.7. Ở lớp, nói chuyện với bạn bè 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) người Mông (Na Mẻo) 3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.8. Ở lớp, nói chuyện với bạn bè 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) không phải là người Mông (Na Mẻo) 3. Tiếng khác:…………………
1. Tiếng Kinh (Việt) 15.9. Ở lớp, khi tham gia các hoạt động 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo) văn hóa, văn nghệ, ngoại khóa 3. Tiếng khác:……………….....
1. Tiếng Kinh (Việt)
15.10. Ở những nơi khác (Chợ, bưu điện,…) 2. Tiếng dân tộc mình (Na Mẻo)
3. Tiếng khác:…………………
16. Em học được các ngôn ngữ/tiếng sau đây như thế nào?
1. Có 16.1. Ở lớp, em có được học tiếng Na
2. Không Mẻo không?
1. Có 16.2. Ở nhà, ông bà, bố mẹ có dạy em
Cách dạy tiếng Na Mẻo: tiếng Na Mẻo không?
……………………………………..
.......................................................... Nếu có thì dạy bằng cách nào? (Nói
.2. Không chuyện hàng ngày, kể chuyện, hát ru,…)
16.3. Ở nhà, ông bà, bố mẹ có dạy em 1. Có
tiếng Kinh (Việt) không? Cách dạy TV:
……………………………………
Nếu có dạy bằng cách nào? (Nói chuyện ……………………………………
hàng ngày, dạy viết, dạy đọc, hướng dẫn 2. Không
làm bài tập,…)
16.4. Ở nhà, ông bà, bố mẹ có dạy em 1. Có
tiếng ……… không? 2. Không
(Ngoài tiếng Kinh và TMĐ)
1. Có 17. Em có gặp khó khăn khi học tiếng Khó khăn: Mông (Na Mẻo) không? ……………………………………
…………………………………… Nếu có, ghi rõ những khó khăn khi học 2. Không
1. Có 18. Em có gặp khó khăn khi học tiếng
Khó khăn: Kinh (Việt) không?
……………………………………
…………………………………… Nếu có, ghi rõ những khó khăn khi học
2. Không
1. Thường xuyên 19. Em đã được đọc sách, báo, truyện 2. Thi thoảng tranh nghe đài, xem ti vi bằng tiếng 3. Hiếm khi Mông (Na Mẻo) bao giờ chưa? 4. Chưa bao giờ
NGHE
1. Bình thường
2. Khó
3. Rất khó
NÓI
1. Bình thường
2. Khó
3. Rất khó 20. Học môn TV/ Ngữ văn, em thấy
ĐỌC như thế nào?
1. Bình thường
2. Khó
3. Rất khó
VIẾT
1. Bình thường
2. Khó
3. Rất khó
PHẦN III. THÁI ĐỘ SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
21. Em cho biết sở thích của em khi sử dụng các tiếng dưới đây:
1. Rất thích
21. 1. Em có thích sử dụng tiếng Mông 2. Thích
3. Bình thường (Na Mẻo) không?
4. Không thích
1. Rất thích
21.2. Em có thích sử dụng tiếng Kinh 2. Thích
3. Bình thường (Việt) không?
4. Không thích
21.3. Em có thích sử dụng tiếng……không? 1. Rất thích
2. Thích
(Một ngôn ngữ khác mà em biết, ví dụ: 3. Bình thường
Dao, Tày,…) 4. Không thích
22. Trong các trường hợp sau đây, mong muốn của em như thế nào?
1. Rất thích
20.1. Em có thích được thầy/ cô dạy học 2. Thích
ở lớp bằng tiếng Mông (Na Mẻo) không? 3. Bình thường
4. Không thích
1. Rất thích
20.2. Em có thích xem ti vi, phim hoạt 2. Thích
hình bằng tiếng Mông (Na Mẻo) không? 3. Bình thường
4. Không thích
1. Rất thích
20.3. Em có thích được tham gia văn 2. Thích
nghệ bằng tiếng Mông (Na Mẻo) không? 3. Bình thường
4. Không thích
1. Rất thích 18.2. Em có thích được đọc sách, báo, 2. Thích truyện tranh bằng tiếng Mông (Na Mẻo) 3. Bình thường không? 4. Không thích
BẢNG TÌM HIỂU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
(Dành cho GV)
Tên
trường:…………………………………………………………………………
PHẦN I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Họ và tên người trả lời:
…………………………..................................................
2. Năm sinh: ……………................. 3. Giới tính: (Nam =1, Nữ =2)
(Tính theo năm dương lịch)
4. Dân tộc: ……………...................... 5. Tôn giáo: …………..........................
Thôn/xóm/bản:……………..................
Xã:......................................................... 6. Quê quán Huyện:...................................................
Tỉnh:......................................................
7. Là GV dạy môn gì? .........................................................................................
8. Năm học này thầy/ cô dạy lớp mấy?...............................................................
9. Chức vụ cao nhất đã qua hoặc hiện nay (nếu có):……….............................
10. Tham gia giảng dạy tại trường được bao nhiêu năm?
................................................................................................................................
11. Công tác giáo dục từ năm?
................................................................................................................................
1. Chưa qua đào tạo
2. Sơ cấp
3. Trung cấp 12. Trình độ chuyên môn
4. Cao đẳng
5. Đại học
6. Sau đại học
13. Đã ở địa phương này trong thời gian 1. Dưới 5 năm
bao lâu? 2. Từ 5 năm trở lên
12. Ngoài TV, thầy/ cô còn biết những tiếng DTTS nào, mức độ sử dụng
ngôn ngữ đó ra sao?
(Nếu chỉ biết TV, vui lòng bỏ qua câu hỏi này)
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được
12.1. Tiếng……….. 3. Không biết chữ
4.
Khác:……………………………
1. Nghe được, không biết nói
2. Nghe được, nói được
12.2 Tiếng………….. 3. Không biết chữ
4.
Khác:…………………………….
1. Thường xuyên
2. Ít sử dụng
12.3 Tiếng………….. 3. Không sử dụng
4.
Khác:……………………………
13. Ngoài TV, những ngôn ngữ DTTS khác mà thầy/ cô biết được học ở đâu?
(Nếu chỉ biết TV, vui lòng bỏ qua câu hỏi này)
1. Ở gia đình
2. Ở trường ĐH - CĐ - TC 13.3. Tiếng……………….. 3. Ở nơi công tác
4. Khác:……………………
1. Ở gia đình
2. Ở trường ĐH - CĐ - TC 13.3. Tiếng……………………. 3. Ở nơi công tác
4. Khác:……………………
1. Ở gia đình
2. Ở trường ĐH - CĐ - TC 13.3. Tiếng……………………. 3. Ở nơi công tác
4. Khác:……………………
PHẦN 2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ
14. Theo thầy/ cô, khả năng NGHE bằng TV (so với yêu cầu từng lớp) của HS
Mông (Na Mẻo) như thế nào? (Nếu GV không dạy khối lớp nào thì bỏ qua)
1. Nghe, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Nghe, hiểu được đầy đủ 14.1 Lớp 5 nội dung
3. Nghe, hiểu và có khả năng
vận dụng
1. Nghe, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Nghe, hiểu được đầy đủ 14.2 Lớp 7 nội dung
3. Nghe, hiểu và có khả năng
vận dụng
1. Nghe, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Nghe, hiểu được đầy đủ 14.3 Lớp 9 nội dung
3. Nghe, hiểu và có khả năng
vận dụng
15. Theo thầy/ cô, khả năng NÓI bằng TV (so với yêu cầu từng lớp) của HS
Mông (Na Mẻo) như thế nào (Nếu GV không dạy khối lớp nào thì bỏ qua)
1. Đôi khi còn mắc lỗi phát âm
2. Nói trôi chảy, thành thạo 15.1 Lớp 5 3. Nói trôi chảy, thành thạo,
có khả năng thuyết trình
1. Đôi khi còn mắc lỗi phát âm
2. Nói trôi chảy, thành thạo 15.2 Lớp 7 3. Nói trôi chảy, thành thạo,
có khả năng thuyết trình
1. Đôi khi còn mắc lỗi phát âm
2. Nói trôi chảy, thành thạo 15.3 Lớp 9 3. Nói trôi chảy, thành thạo,
có khả năng thuyết trình
16. Theo thầy/ cô, khả năng ĐỌC bằng TV (so với yêu cầu từng lớp) của
HS Mông (Na Mẻo) như thế nào? (Nếu GV không dạy các khối lớp nào thì bỏ qua)
1. Đọc, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Đọc, hiểu được đầy đủ 16.1 Lớp 5 nội dung
3. Đọc, hiểu và có khả năng
vận dụng
1. Đọc, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Đọc, hiểu được đầy đủ 16.2 Lớp 7
nội dung
3. Đọc, hiểu và có khả năng
vận dụng
1. Đọc, hiểu nhưng đôi khi
còn nhẫm lẫn
2. Đọc, hiểu được đầy đủ 16.3 Lớp 9 nội dung
3. Đọc, hiểu và có khả năng
vận dụng
17. Theo thầy/ cô, khả năng VIẾT bằng TV (so với yêu cầu từng lớp) của HS
Mông (Na Mẻo) như thế nào? (Nếu GV không dạy khối lớp nào thì bỏ qua)
1. Viết còn sai chính tả
2. Viết còn mắc lỗi dùng từ
17.1 Lớp 5 3. Viết còn mắc lỗi ngữ pháp
4. Viết được văn bản theo yêu
cầu của GV
1. Viết còn sai chính tả
2. Viết còn mắc lỗi dùng từ
17.2 Lớp 7 3. Viết còn mắc lỗi ngữ pháp
4. Viết được văn bản theo yêu
cầu của GV
1. Viết còn sai chính tả
2. Viết còn mắc lỗi dùng từ
17.3 Lớp 9 3. Viết còn mắc lỗi ngữ pháp
4. Viết được văn bản theo yêu
cầu của GV
18. Những lỗi thường gặp khi sử dụng TV của HS Mông (Na Mẻo)?
1. Phát âm
2. Dùng từ
3. Đặt câu 18.1 Lớp 5 4. Chính tả
5. Viết bài văn hoàn chỉnh
6. Khác:…………………………
1. Phát âm
2. Dùng từ
3. Đặt câu 18.2 Lớp 7
4. Chính tả
5. Viết bài văn hoàn chỉnh
6. Khác:…………………………
1. Phát âm
2. Dùng từ
3. Đặt câu 18.3 Lớp 9
4. Chính tả
5. Viết bài văn hoàn chỉnh
6. Khác:…………………………
19. HS Mông (Na Mẻo) thường sử dụng ngôn ngữ nào khi nói với GV trong
giờ học?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh
19.1 Lớp 5 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 19.2 Lớp 7
3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 19.3. Lớp 9
3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
20. HS Mông (Na Mẻo) thường sử dụng ngôn ngữ nào khi nói với GV ngoài
lớp học?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 20.1. Lớp 5 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 20.2 Lớp 7 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 20.3 Lớp 9 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
21. HS Mông (Na Mẻo) thường sử dụng ngôn ngữ nào khi nói với bạn
trong lớp?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.1 Lớp 5 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.2 Lớp 7 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.3 Lớp 9 3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
21. HS Mông (Na Mẻo) thường sử dụng ngôn ngữ nào khi nói với bạn
ngoài lớp?
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.1 Lớp 5
3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.2 Lớp 7
3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
1. Tiếng dân tộc mình
2. Tiếng Kinh 21.3 Lớp 9
3. Tiếng [………]
4. Tiếng [………]
22. Theo thầy/ cô, GV nên dùng tiếng nào để nói với HS? Dùng như
thế nào?
Chỉ dùng tiếng Dùng cả tiếng Khối lớp Chỉ dùng TV DTTS DTTS và TV
Trong lớp Lớp 5 Ngoài lớp
Trong lớp Lớp 7 Ngoài lớp
Trong lớp Lớp 9 Ngoài lớp
24. Theo thầy/ cô, những lí do có thể ảnh hưởng đến kết quả giảng dạy của
mình ở trường mà thầy/ cô đang dạy
Lí do
Ảnh hưởng nhiều Ảnh hưởng ít
Không ảnh hưởng 1. GV không biết (biết ít) biết TMĐ của HS
2. GV không (hoặc ít) hiểu về cuộc sống, tâm lí
của HS
3. Chương trình, SGK không phù hợp với địa phương
4. HS không (hoặc ít) biết TV
5. Chế độ đãi ngộ với GV ở địa phương không có
(hoặc chưa thỏa đáng)
6. HS chưa chuẩn bị kỹ ở lớp dưới
7. Không đầy đủ SGK, sách tham khảo, giáo cụ
trực quan…
8. Ý kiến khác:…………………………………………………………………...
25. Theo thầy/ cô, những lí do có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập của
HS DTTS ở trường mà thầy/ cô đang dạy?
Lí do Ảnh hưởng ít Ảnh hưởng nhiều Không ảnh hưởng
1. HS nhút nhát tự ti
2. Không có giáo cụ trực quan
3. TMĐ của HS khác với TV
4. Trước khi đi học, HS không biết (biết ít) TV
5. Ở lớp, HS nói TV không tốt
6. Ở nhà không ai nói TV với HS
7. HS chỉ thích nói tiếng dân tộc mình
8. HS không thích môn TV
9. HS không (hoặc ít) nghe đài, xem ti vi bằng TV
10. HS không ( hoặc ít) nói TV trong giờ học
11. HS không ( hoặc ít) nói TV ngoài giờ học
12. Ý kiến khác:…………………............………………………………………
26. Theo thầy cô, GV cần có những biện pháp gì để nâng cao kĩ năng sử
dụng ngôn ngữ cho HS người DTTS đang học tập tại trường?
a. Kĩ năng sử dụng TV
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
b. Kĩ năng sử dụng TMĐ
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của thầy/ cô!
PHIẾU BÀI TẬP (Dành cho HS lớp 5)
Bài 1. Sửa lỗi chính tả trong những trường hợp sau:
- hà nội ...............................................................................................................
- Lương văn báu .................................................................................................
- huyện bắc sơn, tỉnh Lạng sơn ..........................................................................
- Cô hà dạy môn toán lớp 5A ......................................................................... .
- nhà khoa học anbe anhxtanh ..........................................................................
Bài 2: Tìm các từ đồng nghĩa với các từ sau:
- Chết: .....................................................................................................................
- Ăn: ........................................................................................................................
- Lợn: ......................................................................................................................
Bài 3: Em hãy viết một đoạn văn ngắn (5 - 7 câu) tả một người thân trong gia
đình em.
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
PHIẾU BÀI TẬP (Dành cho HS lớp 7)
Bài 1: Gạch chân thành ngữ, tục ngữ có trong mỗi câu sau:
a. Nhân dân ta có truyền thống uống nước nhớ nguồn.
b. Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
c. Hôm nay em được ăn nhiều món sơn hào hải vị.
Bài 2: Đặt câu theo mẫu
Chủ ngữ + vị ngữ ....................................................................................................
Trạng ngữ, chủ ngữ + vị ngữ .................................................................................
Bài 3: Trong chương trình Ngữ văn lớp 7, em thích tác phẩm nào nhất? Hãy
viết một đoạn văn ngắn (7-10 câu) nêu suy nghĩ của em về tác phẩm đó.
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
PHIẾU BÀI TẬP (Dành cho HS lớp 9)
Bài 1: Gạch chân vào lời dẫn trực tiếp trong các ví dụ sau:
a. Thứ bảy tuần trước, tôi đi Hà Nội cùng các bạn trong lớp. Vì vậy, tối
hôm thứ 6 mẹ tôi dặn tôi: “Con nhớ mang theo mũ che nắng nhé!”.
b. Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi
rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như
thế này à?”
c. Anh tôi nói với tôi rằng cần cố gắng học tập hơn nữa.
Bài 2: Xác định nghĩa của từ chân trong các ví dụ dưới đây? Cho biết ở
câu nào, từ chân dùng với nghĩa gốc, ở câu nào từ chân dùng với nghĩa
chuyển và chuyển theo phương thức nào?
Bạn Hưng bị ngã nên bạn bị đau chân.
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Nam có một chân trong đội tuyển thi HS giỏi môn Toán của trường
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Cái chân bàn kia bị gãy mất rồi
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Bài 3: Sách có vai trò vô cùng quan trọng. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (7-
10 câu) thuyết phục mọi người đọc sách.
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ BÀI KIỂM TRA CỦA HS NA MẺO
PHỤ LỤC 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀM VIỆC TẠI XÃ CAO MINH VÀ XÃ KHÁNH LONG, HUYỆN TRÀNG ĐỊNH,
TỈNH LẠNG SƠN THÔN KHUỔI NẶP - CAO MINH - TRÀNG ĐỊNH - LẠNG SƠN (26/4/2019)
Làm việc cùng CTV
Sinh hoạt Hội phụ nữ
Chụp ảnh cùng CTV
UBND Xã Cao Minh - Tràng Định - Lạng Sơn
Tọa đàm
Tọa đàm
Tọa đàm
Tọa đàm
Làm việc cùng CTV
CTV Hát bài dân ca
Trường PTDT BT TH,THCS Cao Minh
Làm việc cùng CTV
Làm việc cùng CTV
Làm việc cùng CTV
Thôn Khuổi Phụ A - Khánh Long - Tràng Định - Lạng Sơn
Nhà văn hóa thôn Khuổi Phụ A Làm việc cùng CTV
Làm việc cùng CTV Chụp ảnh cùng CTV Nồi đun rượu
PHỤ LỤC 5: HÌNH ẢNH MỘT SỐ CTV NGƯỜI NA MẺO Ở HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
Ngô Thị Khoai - 1953 Liễu Thị Nhình - 1942 Thạch Thị Pai - 1950 Vi Thị Thu Hà - 1972
Trịnh Thị Tãng - 1965 Vi Thị Miên - 1972 Trịnh Văn Mai - 1971 Vi Văn Lăng - 1988
Trịnh Thị Nhình - 1960 Trịnh Thị Khén - 1968 Vi Khải Tiến - 1978 Lương Văn Bằng - 1940
Mồng Văn Huỳnh - 1999 Vi Tuyền Phương - 2003 Vi Công Canh Vi Mai Lan - 1999
Lương Tiến Thanh Vi Mạnh Quân - 2008 Hồ Thị Bích Duyên - 2004 Tải Thị Ngọc - 2004
Dương Thị Thúy Nga - Lương Thị Ngoan - 2004 Mồng Ánh Dương - 2008 Vi Văn Linh - 2008 2008
Thạch Khánh Linh - 2008 Liễu Văn Quyến - 2007 Tải Trung Hiếu - 2008 Liễu Hải Yến - 2008
Vi Văn Nhật - 2006 Vi Thị Niệm - 1996 Vi Văn Nụ - 1978 Triệu Thị Khé - 1982
Sầm Thị Hoa - 1989 Lâm Thị Hoan - 1989 Sầm Văn Khánh - 1972 Lò Văn Thọ - 1984
Lương Thị Quan - 1966 Dương Thị Hiệp - 1993 Sầm Thu Liễu - 1998 Sầm Minh Nghiệp - 1992
Vi Văn Quyên - 1976 Hồ Văn Mai - 1986 Lương Thị Hiếu - 1989 Hồ Thị Xuân Diệu - 2000
Hồ Văn Nhì - 1965 Vi Thị Thơi - 1976 Thạch Thị Quanh - 1977 Lâm Vũ Long - 1968
Lộc Văn Mạc - 1958 Vi Văn Hoàn - 1966 Vi Thị Lạ - 1962 Vi Thị Viên - 1956
Hoàng Thị Quý - 1964 Lâm Thị Bưởi - 1973 Vi Văn Khăn - 1955 Vi Văn Hợi - 1979
Liễu Văn Bảnh - 1964 Trịnh Thị Tiến - 1960 Ngô Thị Tiệt - 1957 Liễu Thị Đàm - 1980
Lâm Thị Thơm - 1973 Dương Thị Minh - 1967 Nông Thị Bông - 1981 Vi Văn Quyết - 2008
Liễu Anh Ngữ - 2008 Vi Thanh Huyện - 2008 Lâm Hoàng Anh - 2006 Vi Phương Thảo - 2004
Lào Văn Phóng - 1984
PHỤ LỤC 6: CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ