ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ THỊ PHƯƠNG LAN
TIẾP NHẬN THƠ VĂN NGUYỄN CÔNG TRỨ QUA NGUỒN
SỬ LIỆU VÀ GIAI THOẠI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
LÊ THỊ PHƯƠNG LAN
TIẾP NHẬN THƠ VĂN NGUYỄN CÔNG TRỨ QUA NGUỒN
SỬ LIỆU VÀ GIAI THOẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Trần Nho Thìn
Thái Nguyên – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thị Phương Lan
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn học – Xã hội Trường Đại
học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng
dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn Giáo sư, Tiến sĩ Trần Nho Thìn đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ
bảo trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Lê Thị Phương Lan
iii
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhân vật kiệt xuất của Việt Nam
thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt
hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ
39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động.
Trong suốt hành trình sống, nhà thơ luôn canh cánh bên lòng một tâm niệm:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”
iv
Đền thờ Nguyễn Công Trứ tại Nghi Xuân – Hà Tĩnh
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
1.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 1
1.2. Ý nghĩa thực tiễn ........................................................................................ 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 8
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 13
3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 13
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 14
3.3. Những vấn đề cơ bản triển khai ............................................................... 14
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 14
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 14
4.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 14
5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 15
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 15
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 16
NỘI DUNG ..................................................................................................... 17
CHƯƠNG 1: CHÍ NAM NHI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI................................... 17
1.1. Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ trong thơ văn .................................. 17
1.1.1. Khảo sát ngôn từ về Chí nam nhi trong thơ, hát nói của Nguyễn Công Trứ ................................................................................................................... 17
1.1.2. Mục tiêu phục vụ của kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ ..................................... 22
1.2. Người nam nhi - Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời thực qua nguồn sử liệu, giai thoại .................................................................................................. 27
1.2.1. Hoạt động thực tiễn của người anh hùng Nguyễn Công Trứ ..................... 27
vi
1.2.2. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà quân sự .................................... 29
1.2.3. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà kinh tế .................................... 32
1.2.4. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà chính trị .................................. 35
1.3. Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ trong nguồn giai thoại .................... 39
CHƯƠNG 2: NHÀ NHO TÀI TỬ NGUYỄN CÔNG TRỨ TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI.................................. 43
2.1. Lý luận về nhà nho tài tử và chất tài tử trong thơ văn Nguyễn Công Trứ ......................................................................................................................... 43
2.1.1. Lý luận về nhà nho tài tử ....................................................................... 43
2.1.2. Chất tài tử trong thơ văn Nguyễn Công Trứ ......................................... 47
2.2. Chất tài tử của Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời thực qua nguồn sử liệu, giai thoại ................................................................................................. 60
2.2.1. Nguyễn Công Trứ - nhà nho đa tài ....................................................... 60
2.2.2. Nguyễn Công Trứ - nhà nho đa tình ..................................................... 62
CHƯƠNG 3: CẢM THỨC VỀ NHÂN TÌNH THẾ THÁI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI ............................................................................................................. 68
3.1. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ trong thơ văn ..... 68
3.2. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu ......................................................................................................................... 75
3.2.1. Sự ghen ghét, đố kỵ với tài năng của giới quan lại ............................... 75
3.2.2. Đường lối trị nước: ban ân-gia uy của vương triều Nguyễn ................. 76
3.3. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ trong giai thoại .. 81
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 91
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn “Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu và giai
thoại” được tiến hành nghiên cứu dựa trên những cơ sở khoa học như sau:
Thứ nhất về lý luận văn học: Như chúng ta đều biết để hiểu đúng, hiểu sâu
sắc văn bản văn học cần phải kết hợp tìm hiểu các yếu tố nội văn bản và ngoại văn
bản. Trong đó các yếu tố nội văn bản là ngôn từ, kết cấu, hình tượng…xuất hiện
trong văn bản. Các yếu tố ngoại văn bản là tác giả (tiểu sử, hoàn cảnh gia đình, quan
hệ xã hội, nghề nghiệp…), là hoàn cảnh lịch sử, xã hội …Hai loại nhân tố này có
quan hệ qua lại biện chứng không thể coi nhẹ.
Lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam trong khoảng 50 năm trở lại
đây chứng kiến sự dao động quan điểm phê bình giữa hai cực nói trên. Trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật, coi hiện thực khách quan có vai trò quyết định đến
sáng tác, một thời kỳ dài cho đến mãi những năm 1980, các công trình nghiên cứu
thường bắt đầu bằng việc trình bày hoàn cảnh lịch sử xã hội, nhất là đấu tranh giai
cấp như bối cảnh trong đó tác phẩm ra đời. Nghĩa là sự nhấn mạnh đặt vào các yếu
tố ngoại văn bản. Nếu nhà nghiên cứu nào chỉ viết thuần túy về ngôn từ, kết cấu,
hình tượng mà không đề cập đến giá trị phản ánh hiện thực của tác phẩm thì nhà
nghiên cứu đó bị phê phán là kẻ chạy theo hình thức.
Ở một thái cực khác, trong khoảng hai thập kỷ trở lại đây, thi pháp học xuất
hiện và nhanh chóng chiếm địa vị quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình ở
Việt Nam. Thi pháp học thực chất có nhiều điểm gặp gỡ với chủ nghĩa hình thức,
chỉ tập trung sự quan tâm vào các yếu tố nội văn bản, tức là đóng khung sự chú ý
vào văn bản, gạt bỏ các yếu tố ngoại văn bản như tiểu sử tác giả, hoàn cảnh lịch sử
xã hội, thậm chí nhà nghiên cứu R Barthes tuyên bố “tác giả đã chết”. Tuyên bố này
đồng nghĩa với việc tuyệt đối hóa vai trò của người đọc. Nghiên cứu văn bản dựa
trên các yếu tố nội văn bản là hướng nghiên cứu đi rất sâu vào ngôn từ, hình tượng,
2
kết cấu mà xem nhẹ thậm chí bỏ qua các yếu tố ngoài văn bản. Hướng nghiên cứu
này xác định: Nhiệm vụ chủ yếu của nghiên cứu giảng dạy văn học là nghiên cứu
ngôn ngữ của văn bản và cách tổ chức văn bản. Thi pháp học nhấn mạnh đến “thế
giới nghệ thuật” của văn bản, tức là bản thân cấu trúc khép kín của văn bản, không
cần liên hệ đến thế giới khách quan bên ngoài văn bản. Đến với thế giới nghệ thuật
của văn bản, phân tích ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, cấu trúc văn bản, thể
loại…tức là các yếu tố nằm trong văn bản (nội văn bản). Vì vậy, các nhà nghiên cứu
thi pháp thường không quan tâm đến các yếu tố bên ngoài văn bản (bối cảnh lịch sử,
tiểu sử tác giả, thân thế-sự nghiệp bị coi nhẹ). Nếu đọc Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi
pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử, dễ thấy nhà nghiên cứu hầu như không dành
cho hoàn cảnh lịch sử xã hội hay tiểu sử tác giả một địa vị nào. Trong các công trình
theo thi pháp học, hệ thống vấn đề thường là “quan niệm nghệ thuật về con người”
(tức là quan niệm về con người trong văn bản tác phẩm), “không gian nghệ thuật”,
“thời gian nghệ thuật” (tức không gian và thời gian trong tác phẩm). Các yếu tố của
đời sống hiện thực xã hội không có vai trò gì trong nghiên cứu thi pháp.
Một lý luận khác trong thời gian gần đây được chú ý ở Việt Nam cũng có
ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả tiếp nhận văn bản, đó là lý thuyết tiếp nhận. Người
đọc với tầm đón đợi của riêng mình có thể và có quyền tạo nghĩa cho văn bản. Tác
giả không có vai trò gì, không có quyền gì đối với nghĩa của văn bản tác phẩm. Lý
thuyết tiếp nhận có nhiều điểm gặp gỡ với chủ nghĩa hình thức và thi pháp học vì
đều không coi trọng tác giả.
Hai khuynh hướng trên thực chất là hai thái cực có xu hướng tuyệt đối hóa
hoặc là các yếu tố ngoài văn bản, tuyệt đối hóa tiểu sử tác giả, tuyệt đối hóa hoàn
cảnh xã hội, lịch sử hoặc là tuyệt đối hóa các yếu tố nội văn bản. Một phương pháp
khoa học tiếp cận văn bản cần dựa vào cả hai yếu tố một cách cân bằng.
Như vậy, việc nhấn mạnh vai trò của người đọc với “tầm đón đợi” là đúng
nhưng nếu chỉ coi trọng vai trò của người đọc, vai trò của văn bản mà phủ nhận vai
trò của tác giả - người tạo ra văn bản thì e rằng phiến diện, cực đoan. Tác giả cũng
có những chân trời chờ đợi riêng tức là có những quan niệm đạo đức và thẩm mỹ
3
riêng. Quá trình sáng tác là quá trình chuyển hóa những tư tưởng, những quan niệm
thẩm mỹ, cách nhìn nhận về con người, cuộc đời của tác giả vào tác phẩm văn học.
Nếu tác phẩm sống mãi với thời gian thì tác giả cũng không bao giờ chết. Tác giả là
một trong những yếu tố quan trọng của văn học. Chúng ta không thể xem tác giả
văn bản là con số không được. Mọi sự cắt nghĩa đều bị cái được cắt nghĩa qui định:
Đó là những yếu tố nội văn bản như ngôn từ, thể loại, cấu trúc, bộ phận,chỉnh thể
và những yêu tố ngoại văn bản như thân thế, cuộc đời, giai thoại... Việc đọc, lĩnh
hội một tác phẩm văn học chỉ đạt đến mức lý tưởng nhất khi và chỉ khi chúng ta biết
hòa hợp giữa chân trời chờ đợi của người đọc và của tác giả nghĩa là người đọc tiếp
cận đúng ý đồ sáng tác và tư tưởng tác giả muốn gửi gắm.
Mặt khác, những yếu tố ngoài văn bản như tiểu sử của tác giả (cuộc đời hành
trạng, lời nói, cử chỉ…), hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế văn hóa cũng đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình tiếp nhận văn bản. Mỗi một sự kiện văn học đều
nảy sinh, tồn tại, phát triển trên một cơ sở kinh tế xã hội nhất định. Khi chúng ta
tiến hành nghiên cứu tìm hiểu một xu hướng, một trào lưu hay cụ thể một tác giả,
một tác phẩm văn học thì trước tiên phải gắn với hoàn cảnh lịch sử mà nó phát sinh
và tồn tại, nắm được những nét chính trong tiểu sử của tác giả thì mới có những
nhận xét, đánh giá đúng về ẩn ý của tác phẩm. Nói cách khác tác phẩm là một hiện
tượng xã hội, một hình thái văn hóa của xã hội cũng ra đời, phát triển tồn tại trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định, mang dấu ấn xã hội lịch sử mà nó nảy sinh, phát
triển. Tác giả cũng là một con người cụ thể của xã hội, của thời đại nhất định là sản
phẩm của xã hội, thời đại đó chính vì vậy cũng bị xã hội và thời đại đó quy định.
Như vậy, muốn hiểu và cảm thụ một tác phẩm văn học đúng, đòi hỏi phải có quan
điểm lịch sử đúng đắn. Bởi việc tìm hiểu cụ thể đó góp phần cắt nghĩa được chính
xác giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ví như, để cắt nghĩa những
bài thơ của các thiền sư - những bài thơ được sáng tác trong giai đoạn cuối đời
(trong lúc hấp hối) – đó là lời chiêm nghiệm trong cả cuộc đời của một con người
chúng ta cần tìm hiểu về thời đại, luận giải những vấn đề chính trị, xã hội ảnh
hưởng trực tiếp đến tâm sinh lý con người đặc biệt là cuộc sống cá nhân của các
thiền sư điều đó góp phần luận giải được sâu sắc, giá trị, ý nghĩa của các bài thơ
4
thiền. Hay để cắt nghĩa cái khắc khoải trong thơ Hồ Xuân Hương – chúng ta phải
thấu hiểu được bi kịch trong cuộc đời người con gái tài sắc (…) để đồng cảm rằng:
thơ Xuân Hương là nước mắt Xuân Hương, nụ cười Xuân Hương, tiếng nói Xuân
Hương. Và cũng như vậy để cắt nghĩa trọn vẹn giá trị thơ Nguyễn Công Trứ ta cần
tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh thời đại, đặc biệt cần lưu ý tới các tài liệu viết
về thân thế, cuộc đời Nguyễn Công Trứ.
Hiện nay, xu thế chung trong nghiên cứu, phê bình văn học là sự triển khai
nghiên cứu có kết hợp cả hai yếu tố trên. Giới nghiên cứu, phê bình đã nhận thức
được vai trò quan trọng của cả các yếu tố nội văn bản và ngoại văn bản. Bất cứ một
sáng tác văn học nào cũng chịu sự chi phối của đời sống hiện thực, chịu sự chi phối
của bản thân tác giả, người sống trong thế giới hiện thực, trong các mối quan hệ xã
hội và tìm thấy cảm hứng sáng tạo từ cuộc sống xã hội hiện thực . Đồng thời, tác
phẩm văn học là một thế giới riêng, sản phẩm của tư duy nghệ thuật chủ quan riêng,
có cuộc sống riêng, với từ ngữ, hình tượng riêng. Luận văn của chúng tôi thể hiện
mong muốn kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu hình thức và nghiên cứu nội dung.
Thứ hai về cơ sở thực tiễn: Với tính hình tư liệu hiện nay, có thể khẳng định
rằng trong số các tác giả văn học trung đại, Nguyễn Công Trứ là tác giả mà tiểu sử
được phản ánh một cách phong phú, đa dạng, sống động nhất qua các nguồn sử liệu
và giai thoại văn học. Nguồn sử liệu và giai thoại này đã được giới nghiên cứu vận
dụng để giải thích thơ văn Nguyễn Công Trứ có hiệu quả. Tuy nhiên, gần đây, nhà
nghiên cứu Đinh Văn Niêm, nối tiếp theo nhà nghiên cứu Mai Khắc Ứng, đã thống
kê, tái hiện, sưu tầm đầy đủ nhất so với trước đây các sự kiện lịch sử liên quan đến
Nguyễn Công Trứ. Kết quả nghiên cứu, sưu tầm này cho phép chúng ta có cơ sở để
hiểu sâu sắc hơn sáng tác thơ văn –gồm thơ hát nói và thơ Nôm Đường luật của
Nguyễn Công Trứ. Chưa bao giờ, những tri thức về con người, cuộc đời, hành
trạng, về các mối quan hệ xã hội và tình hình xã hội của Nguyễn Công Trứ lại được
phát hiện đầy đủ, phong phú như hiện nay. Những phát hiện này tạo điều kiện thuận
lợi cho việc hiểu biết toàn diện, cụ thể sáng tác thơ văn của Nguyễn Công Trứ.
5
Thứ ba về đặc trưng văn học: Chúng ta đều biết rằng đặc trưng của văn học
là tính hình tượng. Đối với thể loại thơ, cùng với tính hình tượng, chúng ta phải chú
ý đến tính ước lệ của ngôn từ, đến khuôn khổ thể loại, vần nhịp v.v.. Một bài thơ
thường tràn ngập các hình tượng nghệ thuật, các ngôn từ ở dạng khái niệm, các biểu
tượng .. Tính hình tượng chính là yếu tố quan trọng số một để phân biệt một văn
bản văn học có tính văn chương và một văn bản phi văn chương. Vì vậy các tác
phẩm văn học đều dùng hình tượng để biểu đạt dụng ý tư tưởng của nhà văn. Tính
hình tượng có tính chất cụ thể, cảm tính nhưng trong văn học, tính hình tượng còn
liên quan đến vấn đề mẫu gốc (sơ nguyên tượng), đến ký hiệu, biểu tượng nghệ
thuật . Kết hợp với các phương tiện nghệ thuật thơ khác như vần, nhịp, âm điệu …,
bài thơ đem lại hứng thú thẩm mỹ cho độc giả. Người đọc cảm nhận, chia sẻ, xúc
dộng với tâm sự, cảm xúc, chí khí, khát vọng của tác giả thông qua các ngôn từ,
biểu tượng, hình ảnh, vần điệu của bài thơ. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng, về
phương diện nhận thức, không dễ dàng để hiểu một cách cụ thể, chi tiết về cuộc đời,
sự nghiệp, hành trạng của tác giả. Vẫn biết rằng cái tôi là một điển hình nghệ thuật
và không thể đồng nhất cái tôi nghệ thuật trong bài thơ với cái tôi tác giả ngoài đời.
Song nếu ta biết con người ngoài đời của tác giả với các sự kiện đời sống cụ thể,
sinh động thì các tri thức ấy ít nhiều có ích để hiểu cái tôi nghệ thuật trong tác phẩm
thi ca. Một thi sĩ có những bài thơ tình say đắm, bộc lộ một tình yêu mãnh liệt
nhưng ngoài đời, lại không có vợ, không có một người yêu theo nghĩa một người
phụ nữ đích thực. Đến khi các thiên hồi ký kể về cuộc đời tình ái trong đời thực của
thi sĩ xuất hiện, chúng ta chơt hiểu nỗi buồn, sự tiếc nuối, những âm điệu đau khổ
ẩn sau những câu thơ ca ngợi tình yêu mãnh liệt kia. Thơ và đời bổ sung cho nhau.
Trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, chúng ta thường gặp những biểu
tượng về không gian như “ trời đất” (Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Làm trai
đứng ở trong trời đất ), “núi sông” (phải có danh gì với núi sông) tạo ấn tượng về
không gian vũ trụ bao la cao rộng , môi trường hành động của kẻ sĩ. Giới nghiên
cứu gọi đó là môi trường của con người vũ trụ. Chúng ta cũng gặp những khái niệm
tự họa của nhà nho trung đại như “nam nhi”, “nợ công danh”, “chí tang bồng”. Đây
là những khái niệm quen thuộc trong thơ nhà nho, có thể bắt gặp từ thời Trần (ví dụ
6
bài Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão) đến đầu thế kỷ XX (ví dụ bài Xuất dương lưu
biệt của Phan Bội Châu). Những từ ngữ, khái niệm đó cấp cho người đọc thế kỷ XX
cảm nhận về những trang nam nhi sinh ra có sứ mệnh cao quý đối với xã hội nhân
sinh, điều mà giới nghiên cứu gọi bằng khái niệm “con người tự nhiệm”. Nhưng
nếu chỉ đọc thơ, người đọc hiện đại rất khó tưởng tượng con người tự nhiệm đó làm
những việc gì, xử lý các quan hệ xã hội ra sao, sống và chết như thế nào …. Hầu
như rất hiếm gặp hay không gặp những từ ngữ diễn đạt cụ thể môi trường xã hội,
làng quê, con người Việt Nam trong các bài thơ và hát nói của Nguyễn Công Trứ .
Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào những từ, cụm từ mang tính biểu tượng đó cũng không
thể hiểu thấu suốt những tư tưởng, cảm xúc của người anh hùng dọc ngang, ngang
dọc Nguyễn Công Trứ. Trong khi đó những lời nói, tư tưởng, hành động việc làm
cụ thể ngoài đời lại ngồn ngộn chất sống, là những yếu tố cụ thể, trực quan sinh
động để chúng ta hiểu được thế giới quan, nhân sinh quan của con người phức tạp -
Nguyễn Công Trứ... Nhưng nhờ có các sự kiện lịch sử phản ánh, ghi chép những
hoạt động cụ thể của Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời hoạt động không biết mệt
mỏi của ông, chúng ta hiểu được, một cách cụ thể, sinh động đằng sau những ngôn
từ không gian ước lệ như “trời đất”, “nam bắc đông tây”, “bốn bể” đó là những địa
danh trải dài trên đất nước: Hải Dương, Quảng Yên, Cao Bằng, An Giang, Quảng
Ngãi, Tiền Hải, Kim Sơn,… những nơi rất xa nhau về khoảng cách địa lý trên đất
nước ta, mà Nguyễn Công Trứ thực tế đã có mặt để dẹp loạn, tiễu phỉ, lãnh đạo
nhân dân khai hoang, lập làng lập ấp. Nhờ các ghi chép của lịch sử đó, chúng ta
nhận thấy đằng sau các ngôn từ ước lệ tượng trưng là tâm huyết, là chí khí, là nghị
lực, là hoài bão thực sự vì dân vì nước. Yếu tố ngoài văn bản hỗ trợ tiếp nhận văn
bản là như vậy.
Thiết nghĩ để cắt nghĩa rõ ràng, thấu đáo một tác phẩm văn học đòi hỏi đối
tượng tiếp nhận phải có kiến thức, kỹ năng, thái độ khoa học, lôgic. Nói cách khác:
để quá trình tiếp nhận văn học đi đúng hướng, không bị lệch lạc phiến diện chúng ta
cần có đầy đủ kiến thức kỹ năng phân tích, bình giá về cấu trúc nội văn bản và
những hiểu biết về những yếu tố ngoại văn bản (các yếu tố về gia đình, thân thế, sự
nghiệp của nhà thơ nhà văn) để có những kiến giải sâu sắc và có giá trị.
7
Quan niệm như trên đây đã thôi thúc chúng tôi đi theo hướng đề tài này.
Trong luận văn, chúng tôi giới hạn nghiên cứu các yếu tố ngoài văn bản trong hai
nguồn tư liệu sử học và giai thoại để soi sáng thêm những vấn đề còn khuất lấp
trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Lý do vì sao chúng tôi lựa chọn hai nguồn tư liệu
này vì một điều đặc biệt với Nguyễn Công Trứ - ông là một tác giả duy nhất trong
văn học trung đại và có lẽ trong cả văn học hiện đại được chính sử ghi chép nhiều
như vậy. Về giai thoại, một số tác giả khác có thể có lượng giai thoại tương đối
phong phú như giai thoại về nhà thơ Tú Xương, nhà thơ Nguyễn Khuyến… nhưng
nếu xét về việc ghi chép trong chính sử thì Nguyễn Công Trứ là một nhà văn được
xuất hiện với tần xuất nhiều nhất. Điều đó khẳng định một vấn đề Nguyễn Công
Trứ là nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn đến triều chính của Quốc gia, dân tộc, nhân
vật tham gia vào chính sự để góp phần điều hành đất nước. Hơn nữa, trong số các
tác gia văn học trung đại, Nguyễn Công Trứ là tác giả được nhắc đến nhiều nhất
trong chính sử nhà Nguyễn và qua giai thoại văn học. Nguồn sử liệu và giai thoại
này là nguồn tư liệu vô giá giúp hiểu sâu sắc, toàn diện hơn, đúng hơn sáng tác thơ
văn của Nguyễn Công Trứ. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu
nào khai tác một cách hệ thống, đầy đủ mảng tài liệu cận văn học này. Luận văn
“Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ từ nguồn sử liệu và giai thoại” được tiến
hành nhằm mục đích bổ khuyết cho mảng trống đó.
1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn “Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu và giai
thoại” được thực hiện nhằm phục vụ cho đối tượng là những học sinh, những thầy
giáo, cô giáo đang trực tiếp dạy – học trong các nhà trường trung học phổ thôngcó
một cuốn tư liệu phù hợp với nội dung, chương trình, trình độ tiếp nhận. Bởi trong
chương trình ngữ văn phổ thông hiện hành, có 01 tác phẩm hát nói nổi tiếng Bài ca
ngất ngưởng của tác giả Nguyễn Công Trứ được giảng dạy ở lớp 10. Nếu có thêm
tài liệu tham khảo là những kiến thức đã tổng hợp phân tích trong luận văn sẽ giúp
các thầy cô giáo và em học sinh có những hiểu biết rạch ròi về những cống hiến của
Nguyễn Công Trứ trong lịch sử, về mối quan hệ đặc biệt giữa cuộc đời – văn thơ –
8
giai thoại Nguyễn Công Trứ. Bên cạnh đó, luận văn góp phần định hướng cho giáo
viên và học sinh những phương pháp tiếp cận sâu sắc hơn về thơ văn Nguyễn Công
Trứ qua các yếu tố ngoài văn bản.
Là chuyên viên phụ trách bộ môn Ngữ văn của Sở Giáo dục tỉnh Ninh Bình,
mảnh đất từng là môi trường mà Nguyễn Công Trứ đã sát cánh cùng nhân dân khai
hoang lấn biển, tôi nhận thấy đề tài luận văn là cần thiết không chỉ trong ý nghĩa
học thuật mà còn phục vụ cho chương trình văn học địa phương.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ
qua nguồn sử liệu và giai thoại” làm đề tài của luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thứ nhất: Về lịch sử nghiên cứu Nguyễn Công Trứ và thơ văn của ông bắt
đầu từ những năm 20 của thế kỉ XX và đến nay vẫn tiếp tục thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu.
Lịch sử nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ được mở đầu với công trình
nghiên cứu “Sự nghiệp và thi văn của Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ” (Nhà
in Lê Văn Tân, Hà Nội, 1928) của nhà nghiên cứu Lê Thước. Theo đó, Lê Thước là
nhà nghiên cứu đầu tiên đã chú ý tới nguồn sử liệu ghi chép về Nguyễn Công Trứ
cũng như sưu tầm các giai thoại về ông, trong Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn
tướng công Nguyễn Công Trứ (Nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội). Sách gồm hai phần 1)
Lịch sử Nguyễn Công Trứ và 2) Thi văn Nguyễn Công Trứ . Trong công trình này,
Lê Thước đọc gia phả, đọc lịch sử, giai thoại để dựng lại tiểu sử Nguyễn Công Trứ
khá công phu. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ được tác giả Lê Thước chia thành các
giai đoạn I) thời hàn vi; II) Thời hiển đạt gồm các chặng : Hoạn lộ, hoạn hải ba đào;
III) Thời hưu trí. Sách có mục IV) Công nghiệp Nguyễn Công Trứ dành cho khảo
về: công đánh giặc: như dẹp Phan Bá Vành, đánh dẹp mạn Quảng Yên, đánh dẹp
Nông Văn Vân; đánh thành Trấn Tây; công khẩn hoang: tại hạt Nam Định, tại Ninh
Bình, tại Quảng Yên. Trong công trình này,bằng việc tìm tòi, nghiên cứu công phu,
Lê Thước đã thống kê trên 20 sự kiện mà Nguyễn Công Trứ đã lập nên trong cuộc
9
đời hành trạng của mình. Nhưng khi nghiên cứu thơ văn, Lê Thước chưa quan tâm
vận dụng các tri thức về tiểu sử Nguyễn Công Trứ để giải thích, cắt nghĩa.
Tiếp đến, nhà nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa trong sách Tâm lý và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ (1944) đã dùng lại các thông tin về tiểu sử Nguyễn Công Trứ mà
sách của Lê Thước đã cung cấp. Đây là một công trình quan trọng trong sự nghiệp
nghiên cứu của Nguyễn Bách Khoa. Công trình này xuất bản năm 1944 khi khoa
nghiên cứu văn học Việt Nam đang trong tiến trình hiện đại hóa những lý thuyết,
phương pháp luận nghiên cứu từ bên ngoài được vận dụng vào Việt Nam. Nguyễn
Bách Khoa đã lần đầu tiên vận dụng phương pháp xã hội học văn học, đặt sáng tác
Nguyễn Công Trứ vào bối cảnh lịch sử. từ sự so sánh đối chiếu những cứ liệu lịch
sử, nhà nghiên cứu đã kết luận: “Sự nghiệp Nguyễn Công Trứ gồm có hai phần:
một thuộc về võ công, một thuộc về chính trị. Về võ công thì thấy sử chép lại 4
việc: dẹp giặc Phan Bá Vành ở Nam Định (1826), dẹp giặc bể ở Quảng Yên (1838),
dẹp giặc Nông Văn Vân ở Tuyên Quang (1833), đánh thành Trấn Tây (1841). Về
chính trị thì có công cuộc khẩn hoang ở Nam Định, ở Ninh Bình, lập ra được hai
huyện Tiền Hải và Kim Sơn, dân cầy cấy được thêm 33.570 mẫu ruộng. Nay ở
huyện Tiền Hải, làng Đông Quách vẫn còn đền thờ Nguyễn Công Trứ do nhân dân
vùng đó dựng lên để tỏ lòng biết ơn và kỉ niệm. Muốn nhận chân được tính cách
chung của sự nghiệp Nguyễn Công Trứ, không thể không nghiên cứu những bài sớ
tấu của ông dâng lên nhà vua bàn về những công việc ông định làm. Những sớ tấu
này đều có chép trong sách Đại Nam chính biên thực lục, giáo sư Lê Thước có trích
đăng và dịch ra quốc văn trong cuốn Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Công Trứ. Tài
liệu dùng ở chương này phần lớn là mượn ở tập ấy của Lê Thước”. Sau này, trong
công trình “Tuyển tập nghiên cứu và phê bình” (Nhà xuất bản Lao động, Trung tâm
văn hóa Đông Tây) nhà nghiên cứu lại có những kiến giải rất sâu sắc mối quan hệ
giữa cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ.
Nhưng Nguyễn Bách Khoa ít quan tâm đến tiểu sử Nguyễn Công Trứ mà
hướng sự chú ý đến hoàn cảnh lịch sử xã hội rộng lớn trong đó Nguyễn Công Trứ
đã sống, hoạt động, sáng tác. Nguyễn Bách Khoa chê Lê Thước không biết vận
10
dụng phương pháp xã hội học nên không hiểu được Nguyễn Công Trứ Ông Lê
Thước đã thú nhận sự bất lực của mình, khi muốn giải thích tính cách “mâu thuẫn”
của tâm lí và cuộc đời Nguyễn Công Trứ”. Nguyễn Bách Khoa chủ trương phân
tích tư tưởng và thơ văn Nguyễn Công Trứ trong hoàn cảnh lịch sử xã hội mà ít
quan tâm đến tiểu sử. Ông có thể là học giả Việt Nam đầu tiên dẫn Các Mác trong
một công trình nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam :
“Trước hết, các nhà khoa học đều công nhận là có những cá nhân đặc biệt, và
trong sự sáng tạo, ngoài những động lực xã hội, còn có những động lực tâm lí của
cá nhân dự phần vào. Nhưng họ đã tìm được đến cội rễ xã hội của ngay cả những
động lực tâm lí ấy. Căn cứ vào nguyên tắc căn bản này: Con người là một sản vật
kết tinh của những tương quan xã hội (C.Mác) họ đã minh chứng được rằng bao
nhiêu thuộc tính sinh lí và tâm lí đặc biệt của người có tài cũng đều là “tác phẩm”
của đời sống xã hội cả” (dẫn theo Nguyễn Công Trứ về tác giả , tác phẩm ,tr. 104).
Ngoài ra còn một loạt các công trình, các bài viết của các tác giả lớn về
Nguyễn Công Trứ: Vũ Ngọc Khánh “Nguyễn Công Trứ một cá nhân, một danh
nhân văn hóa” (theo “Nguyễn Công Trứ con người, cuộc đời và thơ”, NXB HNV,
HN 1996). Phan Thế Ngũ với bài viết về sáng tác của Nguyễn Công Trứ (theo
“Nguyễn Công Trứ - về tác giả, tác phẩm – tuyển tập nghiên cứu và phê bình”
(NXBGD, H, 2007. Nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích kỹ những yếu tố của
thời đại, của tâm lý tư tưởng chi phối và ảnh hưởng đến sáng tác Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Đức Mậu “ Hát nói Nguyễn Công Trứ trong lịch sử văn hóa dân tộc”, (theo
“Hát nói Nguyễn Công Trứ chuyên luận và tinh tuyển”, NXB Nghệ An, 2008). Trần
Ngọc Vương với bài viết “Từ hồi quang người anh hùng thời loạn đến khuôn hình
một tài tử phong lưu” (theo “Nguyễn Công Trứ con người, cuộc đời và thơ”, NXB
HNV, HN 1996). Đích của bài viết là tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Công Trứ dưới
ánh sáng của tư tưởng loại hình học tác giả văn học và thông qua đó, chỉ ra lôgíc,
tính quy luật của sự vận động nội tại trong lịch sử văn học Việt Nam. Trần Nho
Thìn với bài viết “Nguyễn Công Trứ và thời đại của chúng ta” (theo “Nguyễn Công
Trứ trong dòng lịch sử”, NXB Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008). Một
11
bài viết đã vận dụng tri thức và phương pháp nghiên cứu liên ngành để cắt nghĩa lý
giải thơ văn, con người Nguyễn Công Trứ. GS.TS Trần Nho Thìn đã chỉ ra phương
hướng suy nghĩ mới, những cứ liệu lịch sử quan trọng để giới nghiên cứu chú ý đi
sâu nghiên cứu tìm hiểu về Nguyễn Công Trứ. Đặc biệt cần tìm hiểu thấu đáo, nhiều
chiều để đánh giá một số sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc đời hành đạo Nguyễn
Công Trứ, tránh cực đoan phiến diện. Nguyễn Khoa Điềm với bài viết “Nguyễn
Công Trứ với chúng ta hôm nay” (theo “Nguyễn Công Trứ con người, cuộc đời và
thơ”, NXB HNV, HN 1996).
Nhìn chung, từ đó về sau, hầu như tất cả các nghiên cứu lớn nhỏ về Nguyễn
Công Trứ đều ít nhiều dẫn các sưu tầm của Lê Thước về tiểu sử, về giai thoại xung
quanh Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, việc vận dụng các tri thức này một cách hệ
thống và nhằm mục đích hiểu sâu, hiểu toàn diện sáng tác thơ văn Nguyễn Công
Trứ còn ở mức độ rất sơ sài. Xu hướng chung, áp đảo là chỉ dừng lại phân tích bản
thân văn bản tác phẩm Nguyễn Công Trứ để rút ra các nhận định về nhà nho tài tử,
về chí nam nhi, về nhân tình thế thái. Các nhà nghiên cứu gần đây cũng ít khai thác
những sưu tầm, khám phá mới về tiểu sử và giai thoại về Nguyễn Công Trứ do Mai
Khắc Ứng, Đinh Văn Niêm thực hiện.
Thứ hai: Về lịch sử sưu tầm, nghiên cứu tiểu sử và giai thoại Nguyễn Công Trứ.
Về nguồn sử liệu: Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa, tuy nhiên chúng ta có
thể hiểu một cách khái quát nhất đó là những tài liệu ghi trong sử sách. Sử liệu về
Nguyễn Công Trứ bao gồm những ghi chép về những sự kiện lịch sử trong chính sử
nhà Nguyễn: Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam nhất
thống chí… Tiểu sử của Nguyễn Công Trứ được đề cập trong chính sử có tính xác
thực cao. Ghi chép về cuộc đời hành trạng của Nguyễn Công Trứ một cách tiêu biểu
và công phu nhất phải kể đến bộ sử liệu Đại Nam thực lục chính biên. Tiếp đến là
những bộ sử khác như Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam nhất thống chí. Bộ
sử Đại Nam chính biên liệt truyện phản ảnh lịch sử Đàng Trong thông qua hệ thống
hành trạng cá nhân – tiểu sử nhân vật. Tác phẩm thể hiện quan điểm chính thống về
lịch sử Đàng Trong của giai cấp phong kiến triều Nguyễn, trong đó vai trò của Uy
12
viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ được ghi chép khá chi tiết với các công cuộc
dẹp loạn, an dân và khai hoang mở đất…Người có công sưu tầm lịch sử đầu tiên về
Nguyễn Công Trứ trong sử liệu là ông Mai Khắc Ứng. Với công tìm kiếm, tra cứu
đã dẫn được hơn 100 sự kiện lịch sử về cuộc đời hành trạng của Nguyễn Công Trứ
(được Trần Nho Thìn đưa vào cuốn Nguyễn Công Trứ về tác giả tác phẩm). Gần
đây, vào năm 2007, nhân kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Công Trứ, tác giả Đinh Văn
Niêm – cựu phi công người Hà Tĩnh đã cất công sưu tầm, tìm kiếm những ghi chép
về cuộc đời Nguyễn Công Trứ một cách đầy đủ nhất. Đinh Văn Niêm đã khảo lục
chỉ ra 261 sự kiện ghi chép có liên quan trực tiếp đến Nguyễn Công Trứ, ghép nối
lại với nhau thành một “tiểu sử” Nguyễn Công Trứ.
Về nguồn giai thoại: Đúng theo nghĩa từ nguyên của nó là câu chuyện đẹp câu
chuyện hay...là những sáng tác về một nhân vật, hay những sáng tác của chính bản
thân nhân vật đó được đồn đại, lưu truyền theo đúng thi pháp giai thoại....Ở giai
thoại người ta có quyền hư cấu nhưng không vì vậy mà ý nghĩa và giá trị lịch sử của
nó bị giảm. Chuyện không nhất thiết là có thực song vẫn y như thực. Thực ở con
người ấy với bản lĩnh, tính cách đã quá rõ ràng, đã được khẳng định với thời gian.
Thực ở giai đoạn xã hội ấy với những mối tương quan, những điều kiện chủ quan,
khách quan đặt ra tình huống ấy và phương pháp giải quyết có cả hư cấu (Vũ Ngọc
Khánh - Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb Văn hóa -1994 tr18). Nói cách khác, giai
thoại là những câu chuyện được hư cấu trên cơ sở của sự thật về con người, cuộc đời.
Giai thoại khúc xạ sự thật về con người. Có người, có việc ắt có giai thoại đi theo.
Với Nguyễn Công Trứ không chỉ xuất hiện nhiều qua những ghi chép trong chính sử,
còn trong các giai thoại. Trong số 81 câu chuyện tản mạn về con người, cuộc đời
Nguyễn Công Trứ được lưu truyền trong dân gian, các tác giả đã chọn lọc biên soạn
lại để đưa vào tập sách 36 giai thoại tiêu biểu. Qua đó dựng lên một chân dung
Nguyễn Công Trứ qua cái nhìn “dân gian” - từ góc độ khác với những lí giải, nghiên
cứu hàn lâm - của hậu thế về con người của cụ Thượng Uy Viễn.
Từ những khái quát trên, soi vào các công trình nghiên cứu đã có, hầu hết
các nhà nghiên cứu đều vận dụng ở các mức độ khác nhau những hiểu biết về thân
13
thế, sự nghiệp, con người Nguyễn Công Trứ để cắt nghĩa thơ văn của ông. Tuy
nhiên, trước đó do tình hình sưu tầm, nghiên cứu về tiểu sử Nguyễn Công Trứ còn
chưa được thấu đáo (chủ yếu mới dựa trong chính sử nhà Nguyễn và một số giai
thoại) nên kết quả nghiên cứu chưa sâu sắc. Đến nay, trừ nguồn giai thoại được sưu
tầm tương đối lâu, nguồn sử liệu đã được các nhà nghiên cứu dày dặn kinh nghiệm
Mai Khắc Ứng, Đinh văn Niêm…sưu tầm, khảo cứu khá đầy đủ chi tiết theo từng
mốc niên đại, ứng với đó là từng công trạng, từng việc làm, hành động , lời nói, cử
chỉ…của Nguyễn Công Trứ đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ý tưởng khám phá,
cắt nghĩa thơ văn, con người Nguyễn Công Trứ sau này.
Tuy nhiên các nguồn sử liệu và giai thoại mới chỉ dừng ở việc sưu tầm (giai
thoại), trích dẫn theo niên đại (sử liệu); chưa có sự phân loại theo từng mảng nội
dung (nội dung chí nam nhi, nội dung nhà nho tài tử, nội dung cảm thức thế thái
nhân tình…) để có cái nhìn đối chiếu, so sánh làm tường minh hơn những tác phẩm
văn thơ của Nguyễn Công Trứ.
Như vậy, trên cơ sở tổng hợp và phân tích những công trình nghiên cứu
trước; thừa hưởng những kết quả khảo cứu về con người và cuộc đời Nguyễn Công
Trứ qua nguồn sử liệu; luận văn quyết định lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thơ văn
Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu và giai thoại”. Hướng đi mới của đề tài, khai
thác những sự kiện liên quan đến cuộc đời Nguyễn Công Trứ, vấn đề ghi chép về
Nguyễn Công Trứ trong Đại Nam Thực lục và các giai thoại để góp phần làm tường
minh giá trị thơ văn Nguyễn Công Trứ. Qua cách làm này, học sinh sẽ có căn cứ
hiểu sâu sắc hơn về giá trị văn thơ Nguyễn Công Trứ; đồng thời thực hiện đúng
mục đích: học văn để hiểu đời và hiểu người.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: Các yếu tố ngoài văn bản (những ghi chép về Nguyễn Công Trứ trong
Đại Nam thực lục và trong các giai thoại) giúp hiểu sâu sắc thơ văn Nguyễn Công Trứ.
14
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn sử dụng các thông tin từ sử liệu và giai thoại về cuộc đời, con
người Nguyễn Công Trứ để hiểu sâu sắc hơn đầy đủ hơn về thơ văn Nguyễn Công
Trứ, giúp hiểu cả những ẩn ức mà ông khó có thể bộc bạch trên trang viết.
3.3. Những vấn đề cơ bản triển khai
Để triển khai luận văn theo đúng nội dung đã xác định, trong quá trình làm
luận văn cần làm sáng tỏ một số vấn đề: Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức
tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho như Nguyễn Công Trứ. Nhưng
tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:
- Tư tưởng hành đạo (Chí nam nhi).
- Nhà nho tài tử qua triết lí hưởng lạc
- Cảm nhận về thế thái, nhân tình (đặc biệt nhìn nhận mối quan hệ giữa
Nguyễn Công Trứ với vương triều Nguyễn).
Hướng khai thác của luận văn đi từ sự tương ứng thơ văn đến các tư liệu lịch
sử, giai thoại để cắt nghĩa, bổ sung làm tường minh ý thơ.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thống kê phân loại các ghi chép về Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu và
giai thoại. So sánh đối chiếu, rút ra nhận xét.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp chính được sử dụng khi tiến hành làm luận văn:
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử;
- Phương pháp thống kê phân loại;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được vận dụng xuyên
suốt trong toàn bộ nội dung luận văn, với các nhận định xen lẫn phân tích và khái quát
trong các chương mục;
15
- Phương pháp so sánh loại hình: Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử
dụng để nhằm làm nổi bật đối tượng nghiên cứu, phân tích tốt hơn các tư liệu dẫn
chứng, làm cơ sở để rút ra các kết luận có tính đối sánh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những nét tiêu biểu về Nguyễn Công Trứ qua thơ văn; qua các
ghi chép về ông trong “Đại Nam thực lục” và một số nguồn sử liệu khác; qua các
giai thoại;
Luận văn sử dụng các nguồn tài liệu chính về sử liệu, giai thoại và thơ văn
dựa theo tổng hợp ghi chép từ các bộ sử như Đại Nam thực lục chính biên do Đinh
Văn Niêm thực hiện. Bộ sử tổng hợp những ghi chép các sự kiện từ khi
chúa Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến đời vua Khải Định (1925) do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn được chuyển dẫn trong cuốn “Nguyễn Công
Trứ trong dòng lịch sử” - Đoàn Tử Huyến (chủ biên), Chương Thâu, Trần Nho
Thìn, Nguyễn Hoàng Diệu Thủy cùng các cộng tác viên biên soạn; cuốn “Tuyển tập
thơ văn Nguyễn Công Trứ”cùng các công trình nghiên cứu, bình luận về thơ văn
Nguyễn Công Trứ của nhà nghiên cứu Trương Tửu; cuốn Nguyễn Công Trứ về tác
gia và tác phẩm của tác giảTrần Nho Thìn (trong cuốn này GS.TS Trần Nho Thìn
đã dẫn lại tổng hợp lịch sử do Mai Khắc Ứng thực hiện - Tuyển chọn và giới thiệu,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Thư mục tham khảo, phần nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương I. Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ trong thơ văn và trong nguồn
sử liệu, giai thoại.
Chương II. Nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ trong thơ văn và trong nguồn
sử liệu, giai thoại.
Chương III. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ trong thơ
văn và trong nguồn sử liệu, giai thoại.
16
7. Đóng góp của luận văn
Giải quyết tốt được những nhiệm vụ đề ra, luận văn "Tìm hiểu thơ văn
Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu và giai thoại" đóng góp một cái nhìn toàn diện
về con người, thơ văn Nguyễn Công Trứ theo một lôgic chặt chẽ. Kết quả nghiên
cứu của luận văn giúp cho việc cắt nghĩa thơ văn Nguyễn Công Trứ rõ ràng hơn về
những sự việc đề cập trong thơ văn và cả những góc khuất trong đời sống tâm hồn
mà nhà thơ không tiện bộc bạch. Bên cạnh đó cũng góp phần định hướng cho giáo
viên và học sinh những phương pháp nghiên cứu hiệu quả khi đi tìm hiểu một tác
gia hay tác phẩm (phương pháp tiểu sử, phương pháp thống kê phân loại, phương
pháp so sánh loại hình ...). Vì vậy, việc nghiên cứu về "Tiếp nhận thơ văn Nguyễn
Công Trứ qua nguồn sử liệu và giai thoại" sẽ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn
nhất là ứng dụng tốt phục vụ quá trình dạy học và nghiên cứu về tác giả, gợi mở ra
những hướng đi mới trong tương lai ở những đề tài khoa học lớn hơn./.
17
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHÍ NAM NHI CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ
TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI
Nhận xét về Nguyễn Công Trứ, nhà nghiên cứu Trương Tửu có viết:
“Nguyễn Công Trứ là một kẻ sĩ hoàn danh đáng trân trọng. Từ thuở còn là thư sinh
cho đến lúc làm quan, ông đều bộc lộ chí khí của kẻ sĩ nhập thế tích cực, lo cho dân
cho nước”(Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ ) Quả thực đúng như những gì nhà
phê bình ghi nhận, Nguyễn Công Trứ tuy đỗ đạt muộn, ông làm quan đến gần ba
mươi năm, giữ nhiều chức vụ khác nhau, hoạn lộ vô cùng sóng gió, nhưng trên
cương vị nào ông cũng để lại những kết quả, những thành tựu, không chỉ đối với
triều đình nhà Nguyễn mà còn đối với sự phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam.
Ông xuất chính theo ngạch văn - quan, nhưng chẳng bao lâu đã trở thành một võ
tướng, có nhiều chiến tích đáng trân trọng. Vượt lên thói thường đặt nghĩa vụ và
nhân phẩm lên trên tiền bạc, hư danh. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, vua quan
thối nát, tham ô, chuộng lợi, nhưng ông vẫn sống thanh cao như cây thông trên vách
đá cheo leo, càng rét lá càng xanh tươi. Công lao to lớn của ông trong lịch sử dân
tộc được tạo ra khi ông được trao chức quan Dinh điền sứ, tổ chức khai hoang lấn
biển lập ra hai huyện Kim Sơn – Ninh Bình, Tiền Hải- Thái Bình. Cả cuộc đời, ông
đã thực hiện chữ “hành đạo” theo quan niệm của Nho giáo là phò đời, giúp
nước.Triết thuyết “hành đạo” được Nguyễn Công Trứ hiện thực hóa trong đời
trong cả trong thơ.
1.1. Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ trong thơ văn
1.1.1. Khảo sát ngôn từ về Chí nam nhi trong thơ, hát nói của Nguyễn Công Trứ
Có thể khẳng định, bất cứ một nhà nho nào khi được đào tạo trong cửa
Khổng sân trình, được vỡ đạo thánh hiền đều mong muốn đem điều sở học thực
hiện trong xã hội để giúp xây dựng nền thái bình thịnh trị, quốc thái dân an. Nguyễn
Công Trứ cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ, ngay từ thủa thiếu thời ông
đã mang tư tưởng nhập thế tích cực. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bách khoa từng ghi
18
nhận khi nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ: “Có cái quan niệm nào được nhắc
đi nhắc lại luôn luôn dưới ngòi bút thi ca của Nguyễn Công Trứ lúc thanh niên, đó
phải là quan niệm “chí nam nhi”. Trong đầu ông, chí nam nhi là một quan niệm
mơ hồ về sự nghiệp cá nhân của kẻ làm trai, gồm đủ cả: chí anh hùng, sự tang
bồng hồ thỉ, khí tiết trượng phu, mộng công hầu khanh tướng và lòng thèm muốn
lưu danh thiên cổ. Có lúc tất cả những khái niệm liên đới ấy dồn dập xáo động
trong tâm trí ông và chen nhau, đẩy nhau, vấp nhau trong vần điệu thi ca”
(Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, chuyển dẫn theo
Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, NXB Nghệ An-Trung tâm Ngôn ngữ -Văn
hóa Đông Tây, 2008, tr. 535).
Bàn về Chí nam nhi trong thơ Nguyễn Công Trứ , nhà nghiên cứu Trần Nho
Thìn trong bài viết “Nguyễn Công Trứ và thời đại chúng ta” (Sđd, tr 27) nhận xét:
“Chí nam nhi thực ra không phải là sáng tạo riêng của Nguyễn Công Trứ, nó đã
được giới trí thức chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo từ thời Lý- Trần. Chúng ta đều
biết đã có một Quảng Nghiêm (1122-1190) nói
“ Hữu thời trực thướng cô phong đính
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”
Một Phạm Ngũ Lão với nỗi niềm:
“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
(Thuật Hoài)
Đó là khao khát khẳng định một cái gì đó của chính mình trong cuộc đời này,
một khao khát làm nên sự nghiệp bằng hành động thực tiễn chứ không phải lí
thuyết, sách vở. Họ đứng từ góc độ hành động thực tiễn để phát huy chí nam nhi”.
Đoạn khác ông viết: “Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ giống với chí nam nhi của
các trí thức Lí - Trần, một mặt cũng như tất cả mọi người thời trung đại, ông tin
rằng có số mệnh, có trời trong số phận nhưng mặt khác, ông cũng tin vào bản thân
và sự nỗ lực của bản thân: “Tất do thiên âu phận ấy là thường, Hữu kì đức ắt trời kia
19
chẳng phụ”. Như vậy, so với tư tưởng thoát li của cuộc sống, phủ nhận vai trò của
con người, chí nam nhi của nho gia là tích cực, nó khẳng định vị trí và vai trò của cá
nhân đối với cộng đồng, làm cho cuộc sống của con người trở nên có ý nghĩa.
Trong hoàn cảnh một xã hội ổn định, giai cấp thống trị đang có vai trò tích cực, biết
gắn “trung quân với ái quốc”, thì đấy là “đất dụng võ” của kẻ nam nhi. Vì vậy nó
trở thành nỗi niềm tâm sự tốt đẹp đầy tinh thần lạc quan, tin tưởng của những người
như Thiền sư Khổng Lộ, Quảng Nghiêm… các võ tướng văn thần như Trần Quốc
Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ…
Tư tưởng nhập thế trong thơ ông được biểu hiện qua việc khảo sát ngôn
từ sau:
Theo khảo cứu của các nhà nghiên cứu trong cuốn “Nguyễn Công Trứ Trong
dòng lịch sử”, NXBVH Đông Tây, 2008 thống kê: toàn bộ sự nghiệp văn chương của
Nguyễn Công Trứ gồm 54 bài thơ, 67 bài hát nói, 01 bài phú, 02 tuồng hát và 37câu
đối. Trong hệ thống tác phẩm đó, chúng ta có thể khẳng định rằng các khái niệm về chí
nam nhi, kẻ sĩ, anh hùng, chí khí anh hùng, nợ tang bồng được xuất hiện với tần xuất
dày đặc (đặc biệt trong các bài hát nói – thể loại sở trường của Nguyễn Công Trứ).
Điều đó cho thấy trong tiềm thức, vấn đề công danh sự nghiệp đặt ra với ông thật da
diết. Trong đó:
Những từ, cụm từ chỉ tư tưởng chủ đạo của người anh hùng: “nợ tang
bồng”, “nợ công danh”, “nợ phong lưu”, “nợ kiếm cung”, “nợ trần hoàn”, “nợ
cầm thư”, “Ơn thuỷ thổ”, “gánh trung hiếu”, “Gánh kiền khôn”“tang bồng hổ
thỉ”, “chí tang bồng », « gánh giang hồ », « Túi kinh luân”, “kiếm cung”, “quân
thần”, , “Phù thế giáo”, “Cầm chính đạo”, “Trung trinh”, “Báo quốc” “Xe bồ
luân”…
Những từ, cụm từ chỉ chí của người anh hùng: “chí khí anh hùng”, “chí nam
nhi”, “Hồi cuồng lan”, “Hội rồng mây”…
Những từ, cụm từ chỉ cuộc đời con người: “Ba vạn sáu nghìn ngày” (thâu
tóm trong tầm tay), “Mấy trăm năm », « ba vạn sáu », “nghìn sau”…
20
Những từ, cụm từ chỉ hành động, tư thế của người anh hùng: “xẻ núi lấp
sông”, “bốn bể”, “vẫy vùng cho hết đất”, “vẫy vùng cho phỉ chí”, “theo việc kiếm
cung », “Tay kiếm cung”
Những từ, cụm từ chỉ cái tài của người anh hùng: “Tài kinh tế”, “tài kinh bang tế
thế”…
Những từ, cụm từ được thống kê trên xuất hiện phần lớn trong các bài thơ
hát nói – một thể loại sở trường của Nguyễn Công Trứ Trong đó có thể kể những
bài: Chí nam nhi, Chí anh hùng, Phận sự làm trai, Nợ công danh, Nợ tang bồng,
Nước nhà, Kẻ Sĩ, Cầm kì thi tửu, Người với tạo vật, Nghĩa người đời, Quân tử cố
cùng, Con Tạo ghét ghen, Đắc chí ngao du, Thoát vòng danh lợi, Bài ca ngất
ngưởng, Hành tàng, Thư kiếm vẫy vùng, Hàn Nho phong vị phú v.v...
Đối với Nguyễn Công Trứ đích cao cả, lớn nhất của đời người là lập công
giương danh. Bởi âm hưởng chủ đạo trong ông là một nỗi niềm đau đáu với món
“nợ tang bồng”, “nợ công danh”…Đó là món nợ của kẻ làm trai. Tích xưa kể
rằng: Tang bồng: là nói tắt của Tang hồ bồng thỉ. Tang là cây dâu, hồ là cái cung,
tang hồ là cung bằng gỗ dâu; bồng là cỏ bồng, thỉ là mũi tên, hồ thỉ là tên bằng cỏ
bồng. Tục truyền, ngày xưa ở Trung Quốc hễ đẻ con trai thì dùng loại cung tên này
bắn sáu phát ra bốn hướng, lên trời, xuống đất, ngụ ý là sau này trưởng thành người
con trai sẽ tung hoành dọc ngang trời đất. Người quân tử đã mang nợ ắt cần phải trả.
Cứ theo những cụm từ đã thống kê trong thơ thì Nguyễn Công Trứ ngay từ khi cất
tiếng khóc chào đời ông đã “nợ” quá nhiều: nợ cha mẹ, nợ dân nước, nợ với chính
bản tính nam giới của mình.
Xác định rõ ràng trách nhiệm của bản thân nên cái triết thuyết “hành
đạo” được Nguyễn Công Trứ xây dựng được gọi bằng những ngôn từ mang tính
biểu tượng, hàm súc cao như: “chí khí anh hùng”, “chí nam nhi”,…Đó là cái chí
của kẻ làm trai cần “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. và đặc biệt phải thực
hiện được “túi kinh luân” - nghĩa bóng chỉ những việc trị nước. Thân làm quan,
phụng sự triều đình, phụng sự dân nước nhưng ông luôn tụng niệm những tư tưởng:
“Ơn thuỷ thổ, “trung trinh”, “Báo quốc”… Tinh thần tự nhiệm cao cả đó lúc nào
21
cũng dằn vặt tâm can ông, thôi thúc ông hành động. Ta hãy xem người hùng
Nguyễn Công Trứ thể hiện chí lớn bản thân mình trong thơ văn khăc rõ.
Các cụm từ chỉ hướng xuất hiện trong thơ văn ông có chiều kích rất rộng:
“Nam Bắc Đông Tây”, “bốn bể”. Không gian hoạt động của người hùng Nguyễn
Công Trứ được trải dài từ Bắc chí nam, từ đông sang tây. Không gian nghệ thuật
thường xuất hiện trong thơ Nguyễn Công Trứ là những hình ảnh “vũ trụ”, “trời đất”,
“giang sơn”, “dọc ngang, ngang dọc”, “bốn bể”, “trong lăng miếu, ngoài biên
thùy”… không gian mang chiều kích của vũ trụ đã được dùng để làm thước đo cho
lòng người quân tử. Đó là nghệ thuật ước lệ, tượng trưng thường xuất hiện trong
văn học trung đại. Có điều đối với thơ văn Nguyễn Công Trứ, không gian này được
xuất hiện với tần xuất cao hơn biểu đạt dụng ý nghệ thuật sâu sắc. “Cái tôi” nhà thơ
được đặt trong tương quan vũ trụ với tính chất động chứ không phải tĩnh. Khác hẳn
“cái tôi” trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, đầy ưu tư, sầu muộn,trầm ngâm trong
những không gian ảm đạm, “cái tôi” của Nguyễn Công Trứ vẫy vùng, hoạt động
thật tự tin, phóng túng, ngạo nghễ. Nói như nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ “cái thể
chất của Nguyễn Công Trứ, một thể chất mạnh, đầy nhựa sống, đầy men hăng say.
Ông không phải như Nguyễn Du 30 tuổi đầu đã bạc, bệnh về thể xác, bệnh về tâm
hồn, đeo vết thương của thời đại như một ám ảnh chung thân. Công Trứ trái lại có
sức khoẻ bền bỉ, tinh thần tỉnh táo, tính hiếu động, thực tế, lạc quan. Ông là con
người của dục vọng mãnh liệt cũng như của ý chí phi thường. (Nguyễn Công Trứ -
Tác gia và tác phẩm,chuyển dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, NXB
Nghệ An-Trung tâm Ngôn ngữ -Văn hóa Đông Tây, 2008, tr. 570). Chính vì vậy cái
tôi của ông khi nói về chí nam nhi cũng đầy khẩu khí:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
(Chí khí anh hùng)
22
Trời đất dọc ngang - ngang dọc, nam – bắc, đông – tây...những cặp từ mang
tính đối xứng đã góp phần diễn tả cái chí của người quân tử. Độ cao của bầu trời, độ
rộng của mặt đất, độ sâu của vũ trụ đã được Nguyễn Công Trứ đổ dồn trong lời thơ
để nhấn mạnh ý chí quyết tâm về cái cao sâu của chí khí, cái hào sảng của tư tưởng.
Đó là cái vỗ ngực đầy tự hào về bản thân: Hình như trời đất sinh ra ông để hành
động cho nhân sinh, cho vũ trụ.
Thời gian ông hành đạo dường như trải dài cả một đời con người “Ba vạn
sáu nghìn ngày”, “Mấy trăm năm”, “ba vạn sáu”. Những cụm từ mang tính ước lệ
cao thể hiện chí lớn khôn cùng của người quân tử. Trong không gian, thời gian đó
người anh hùng hiện lên với những hành động mạnh mẽ, quyết liệt “xẻ núi lấp
sông”, “vẫy vùng cho hết đất”. Cái tôi nhập thế Nguyễn Công Trứ hoạt động một
cách tích cực. Bóng dáng người anh hùng lồng lộng hiện lên với khát vọng và chí
hướng mãnh liệt tương ứng với chiều kích của không gian vũ trụ. Triết
thuyết “hành đạo” được Nguyễn Công Trứ gọi bằng những chữ: “chí khí anh
hùng”, “chí nam nhi”, “nợ tang bồng”, “nợ nam nhi”. Thời thế tạo anh hùng, biến
động xã hội càng lớn bao nhiêu thì tài năng, tâm huyết của người nam nhi càng
được khẳng định bấy nhiêu. Những hình ảnh ước lệ tượng trưng “tay buồm lái”
“Xẻ núi lấp sông” tượng trưng cho những công việc phi thường, to lớn mà ta
thường thấy xuất hiện nhiều trong các thần thoại truyền thuyết như: Nữ oa vá trời,
Ông khổng lồ gánh núi, Thần trụ trời – những con người, những nhân vật tái sinh ra
thế giới, cuộc sống lần thứ hai.
Như vậy, xét về mặt câu từ, chữ nghĩa, chí nam nhi được thể hiện bao trùm
trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Các từ, cụm từ mang tính khái quát (biểu tượng)
xuất hiện dày đặc trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Nó trở thành động lực cho ông
hành động, trở thành mục đích cho ông phấn đấu.
1.1.2. Mục tiêu phục vụ của kẻ sĩ Nguyễn Công Trứ
Trong thơ văn đã nhiều lần Nguyễn Công Trứ nhắc đến chữ tài, có khi
là cái vỗ ngực trực tiếp “Ông Hy văn tài bộ đã vào lồng”, có khi gián tiếp bộc lộ
qua các từ, cụm từ “công danh”, “mặt tu mi nam tử”, “mặt anh hùng”. “Mặt anh
23
hùng” chính là khuôn mặt mà các sĩ tử trong cõi trần ai phải tự họa bằng màu mực
cuộc đời của mình qua tài năng, nhân cách…Tất cả cái tài đó đều hướng vào mục
tiêu cao nhất của nam nhi, kẻ sĩ là thực hiện đạo quân thần. Đạo cao nhất mà người
quân tử mang trong mình là đạo trung hiếu. Trung với vua, hiếu nghĩa với cha mẹ -
người đã sinh thành, dưỡng dục ra mình. Ông vẫn tuân thủ những điều răn dạy của
Tống nho: giữ gìn tôn ti trật tự và quân quyền tuyệt đối. Bản thân xác định “Cái
nghĩa vua tôi không thể trốn đâu trong trời đất” (Lữ Đông Lai). Vua là cha mẹ là
thiên tử con trời. Dân là con, là kẻ phụng sự mệnh lệnh để thiên tử làm tròn mệnh
trời giao phó. Chính vì vậy, nghĩa vụ tối thượng của một người chỉ là nghĩa vụ đối
với vua (quân) và cha mẹ (thân). Từ cơ sở đó Nguyễn Công Trứ đã phát biểu chí
nam nhi một cách say mê, hào hứng và hăm hở hành động trên cơ sở hoàn cảnh xã
hội cụ thể và những điều kiện của bản thân. Đứng về phía ông mà nói ông cúc cung
tận tuỵ với triều đình, “chí làm trai” trước kia còn mơ hồ, nay thì đã có một nội
dung cụ thể. Ông đổi ra thành đạo “vi thần”, làm tôi tớ phục vụ nhà vua vô điều
kiện. Trong thơ ông cũng từng tuyên bố:
“Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp,
Xuất mẫu hoài tiện thị mẫu quân thân…”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc từng có những phản biện về hai chữ công
danh trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ: “Có người cho quan niệm công danh của
ông chỉ là một quan niệm hưởng thụ, nhà thơ có vẻ say sưa với cái bả vinh hoa
tầm thường. Không đúng! Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công
Trứ, phải thấy quan niệm công danh của nhà thơ trước hết có nghĩa là nhiệm vụ
của người làm trai, là một món “nợ nần” phải trả. Nguyễn Công Trứ không có
quan niệm nào khác là con người sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để
trên cơ sở đó làm việc “trí quân trạch dân”. Vì vậy nên quan niệm công danh
của ông thường gắn liền với quan niệm trung hiếu, quân thân:
Đường trung hiếu chữ quân thân là gánh vác.
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
24
Không công danh thời nát với cỏ cây”.
(Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII-hết thế kỷ XIX, NXB
giáo dục 1999, tr. 501)
Đối với ông công danh gánh với trung hiếu, quân thân với công hầu, khanh
tướng có thể xem đó là một bản tuyên ngôn của ông khi nhập thế cuộc. Công danh
ấy luôn luôn gắn liền với đạo làm con, đạo làm tôi:
“Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái
Cái công danh là cái nợ nần
Nặng nề thay hai chữ: quân thân
Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ!”
(Trên vì nước, dưới vì nhà).
Bàn về cái chí, cái hướng trong thơ văn Nguyễn Công Trứ, nhà nghiên cứu
Vũ Đình Trác từng nhận xét: “Nguyễn Công Trứ trung thành cả với Trái Đất và
Bầu Trời, mà lại trung thành cả với Không gian và Thời gian. Nghĩa là ông sống
đúng là một con người trong vũ trụ, trong cuộc sống và trong trường đời nữa. Đây
cũng là đạo Dũng của Nho gia mà thôi. Đạo Dũng của Nho gia không bao giờ
đơn độc, mà luôn luôn đi theo với Nhân và Trí. Theo kiểu nói của Hiện sinh: đó là
một kiếp nhân sinh toàn diện theo đúng thực tại con người: có ý thức (tinh thần),
có tình cảm (vật chất). Tinh thần thuộc về Trí, tình cảm thuộc về Nhân. Có sự
vươn lên mãnh liệt, đó là Dũng”. (Vũ Đình Trác, triết lý chấp sinh Nguyễn Công
Trứ, chuyển dẫn theo “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử”, NXBVH Đông Tây,
2008, tr 838).
Như vậy, có thể khẳng định thơ văn về lí tưởng và chí hướng của Nguyễn
Công Trứ chiếm một dung lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông, nó phong
phú và dồi dào hơn các đề tài khác và đó cũng là những bài lỗi lạc nhất của thi bộ.
Cụ thể như những bài: Chí nam nhi, Chí anh hùng, Phận sự làm trai, Nợ công danh,
Nợ tang bồng, Nước nhà, Kẻ Sĩ, Cầm kì thi tửu, Nghĩa người đời, Bài ca ngất
25
ngưởng, Thư kiếm vẫy vùng, Hàn Nho phong vị phú v.v... Về mặt câu chữ, những
bài thơ này hấp dẫn không phải ở sự mới mẻ, vì nhiều người đã viết, đã dùng; cái
hay cái đẹp ở đây là với ngôn ngữ, hình ảnh ước lệ ấy, ông đã đặt đúng chỗ, nói
đúng lúc, diễn tả một cách hùng hồn, lôi cuốn, chấn động cái chí khí kẻ sĩ của mình.
Tuy nhiên tất cả những từ, cụm từ nêu trên chỉ là những từ mang tính ước lệ tượng
trưng. Chúng xuất hiện nhiều trong các dạng thơ tỏ chí của văn học trung đại. Nói
cách khác chúng trở thành motip văn học khi nói về chí của kẻ sĩ. Vì vậy, dẫu hay,
dẫu nhiều, dẫu độc đáo nhưng những bài thơ hay đó mới chỉ làm chúng ta hào
hứng, sảng khoái trước cái đẹp của chí khí được phát biểu bằng lời mà không cho
chúng ta những nhận thức về thời đại xã hội, về tình hình đất nước, về lòng
dân...nói cách khác, những bài thơ và hát nói đó vang lên âm hưởng hào hùng,
mạnh mẽ của chí làm trai, nhưng không cho người đọc biết rõ, biết cụ thể là trong
cuộc đời trần thế, giữa xã hội (chứ không phải là không gian vũ trụ hoành tráng) của
người anh hùng, trang nam nhi, những việc làm cụ thể là gì, quan hệ của người
nam nhi này với xã hội là quan hệ nào. Đọc thơ, chúng ta có cảm giác Nguyễn
Công Trứ là một vị thần hoạt động trên mấy trên gió, trong trời đất, vũ trụ chung
chung mà không có cương vực lãnh thổ, không có thời đại sống và những hành
động cụ thể. Có nghĩa là chí nam nhi, tư tưởng hành đạo trong con người Nguyễn
Công Trứ mới chỉ dừng trên sách vở. Các ngôn từ này nói mới chỉ nói lên chí khí,
hoài bão, nhiệt huyết mà không cho chúng ta biết cụ thể về việc Nguyễn Công Trứ
triển khai trên thực tế chí nam nhi, chí khí anh hùng, nợ nam nhi bằng những việc
làm, hành động, quan điểm giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể như thế nào. Nói một
cách khác, những tác phẩm thơ văn rất hùng hồn nhưng chưa cung cấp cho chúng
ta những thông tin cụ thể xác thực. Một loạt các không gian vũ trụ mang tính ước
lệ được xuất hiện trong lời thơ (nam bắc đông tây, vòng trời đất, dọc ngang ngang
dọc,…) nhưng không có dấu ấn của lịch sử xã hội, dấu ấn của những biến cố đời
sống để cần đấng nam nhi trổ tài mà chỉ thấy bóng dáng người anh hùng lồng lộng
hiện lên trên lời thơ, cánh tay, khối óc và trái tim phò đời giúp nước…
GS.TS Trần Nho Thìn nhận xét: “Trên thực tế, Nguyễn Công Trứ không chỉ
nói chí một cách công thức, sách vở mà đã thực hiện chí hướng bằng hành động cụ
26
thể, bằng cuộc đời hoạt động sôi nổi, đầy ắp sự kiện, không biết mỏi mệt của mình
trên một địa bàn trải dài từ Đông sang Tây, từ Nam ra Bắc trong suốt mấy chục năm
làm quan cho nhà Nguyễn” (Theo “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử”, NXBVH
Đông Tây, 2008, tr 29). Trong suốt hành trình sống của bản thân, Nguyễn Công Trứ
đã tự khẳng định mình là một tài năng đích thực: Chính ông đã dẹp loạn, trị thủy,
khai hoang, vỡ đất lập ra 2 huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình)…
Như vậy, Nguyễn Công Trứ là một con người có công danh: ông đã sống một đời
sống phong phú, mãnh liệt như câu thơ ông đã viết. Chẳng thế mà năm 1858, Pháp nổ
súng xâm lược nước ta đánh vào bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lúc bấy giờ Nguyễn
Công Trứ đã 80 tuổi vẫn dâng tấu sớ xin vua Tự Đức cho cầm quân ra trận đánh giặc
Như vậy, nếu chỉ đọc riêng các tác phẩm thơ văn của ông, chúng ta khó có
một hình dung cụ thể, sinh động, đầy đủ về chí nam nhi, tư tưởng hành đạo của nhà
nho Nguyễn Công Trứ. Điều đó sẽ được các sự kiện tiểu sử của ông do sử sách đời
Nguyễn, các giai thoại dân gian ghi lại, truyền lại; giúp ta hình dung rõ hơn, bổ sung
cho những hình tượng nghệ thuật mới chỉ có tính khái quát. Việc tìm hiểu trên lời
thơ, ý văn mới chỉ dừng lại ở bình diện cắt nghĩa câu chữ. Tức là mới xem xét văn
bản trên phương diện một chiều – yếu tố nội hàm văn bản mà chưa mở rộng ra các
yếu tố ngoại văn bản. Vì vậy, muốn cắt nghĩa một cách ngọn ngành chí làm trai,
khát vọng lập công giương danh của người hùng Nguyễn Công Trứ; muốn xem
Nguyễn Công Trứ đã hiện thực hóa những ý nghĩa của cụm từ đó như thế nào trong
đời của mình. Chúng ta cần tìm hiểu, đối chiếu qua nguồn sử liệu và giai thoại để
chứng minh một điều: Mặc dù Nguyễn Công Trứ cách xa chúng ta gần hai thế kỷ
mà tiếng thơ ông vẫn còn nguyên tính thời sự; cách hành xử trong con người của
ông còn đáng để các kẻ sĩ muôn đời phải noi theo.
27
1.2. Người nam nhi - Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời thực qua nguồn sử liệu,
giai thoại
Như đã đề cập trong phần Mở đầu, Nguyễn Công Trứ một tác giả văn học, một
nhân vật lịch sử có những cống hiến lớn lao trên rất nhiều phương diện (văn hóa, chính
trị, quân sự, kinh tế…). Chính vì lẽ đó , ông là tác gia văn học trung đại duy nhất và có
thể của cả văn học Việt Nam được chính sử nhà Nguyễn ghi chép nhiều nhất. Trong
cuốn “Đại nam thực lục” - một bộ biên niên sử Việt Nam (gồm 587 quyển) được biên
soạn bởi tập thể các sử quan, trong nhiều thời kì của Quốc sử quán triều Nguyễn, ghi
chép các sự kiện lịch sử nhà Nguyễn từ khi Nguyễn Ánh làm chúa (1778) đến đời
Đồng Khánh (1887), sau này được viết thêm đến đời vua Khải Định (1925). Trong
cuốn sử này, ông Đinh Văn Niêm đã khảo lục chỉ ra 261 sự kiện ghi chép có liên quan
trực tiếp đến Nguyễn Công Trứ, ghép nối lại với nhau thành một “tiểu sử” Nguyễn
Công Trứ trong “Quốc sử”. Bàn về những cống hiến của Nguyễn Công Trứ trong thực
tế đời sống Vũ Đình Trác có viết: “trên hoạn trường, ông là một chính trị gia đại tài:
biết cầm chính đạo, biết thứ dân ở chỗ khai khẩn dinh điền, lập ấp dựng cư, biết phú
dân ở chỗ cải cách điền địa, khuếch trương kinh tế, biết giáo dân ở chỗ thiết lập
trường học và lập ngôn lập đức để giữ cương thường, để phù thế giáo. Ông lại còn biết
an dân bằng cách đánh đông dẹp bắc: chống ngoại xâm, đánh tan nội loạn.( “Nguyễn
Công Trứ trong dòng lịch sử”, NXBVH Đông Tây, 2008, tr 895)
1.2.1. Hoạt động thực tiễn của người anh hùng Nguyễn Công Trứ
Là một quan văn nhưng Nguyễn Công Trứ lại sống bôn ba ngang dọc trong
cuộc đời của một võ tướng đánh đông dẹp bắc ghi được những chiến tích lẫy lừng.
Dưới tài thao lược mà ông đã tự hào vỗ ngực trong Bài ca ngất ngưởng “gồm thao
lược đã nên tay ngất ngưởng” cùng với một số chiến tướng khác, ông đã làm nên
những điều làm vua phải nể phục. Qua những ghi chép về Nguyễn Công Trứ trong
"Đại Nam thực lục" chúng ta nhận thấy những công trạng lớn của ông ở các lĩnh vực:
Dẹp loạn Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833 - 1835); dẹp giặc
biển (1833 – 1838);
28
Hành quân sang Nam Vang;
Khai hoang: Khai khẩn những miền đất mới,hoặc đất lâu năm bị hoang hóa
vùng: Nam Định (1828), Ninh Bình (1829), Thái Bình, Quảng Yên (1832), Hải
Dương (1835);
Chủ khảo trường thi: Hà Nội, Huế, một trí thức khoa bảng từng giữ chức
lãnh đạo một trường đại học tại kinh đô (Tế tửu Quốc Tử Giám thời Minh Mệnh);
Các chủ trương khác : lập trường học, lập xã thương (kho thóc cứu đói) trong
bản tấu sớ (1828), biện pháp chống cường hào, tham nhũng trong bản tấu sớ (1828).
Như vậy tổng kết trong hành trình cuộc đời Nguyễn Công Trứ chúng ta nhận
thấy ông là một nhà nho nhập thế rất tích cực.Tương ứng với các chức vụ mà ông
đảm nhiệm là địa bàn mà ông đã đi qua và làm việc tại đó:
Đảm nhiệm các công việc chính trị ở các vùng miền: Tham hiệp Thanh Hoa Trấn
tây Tham tán; Tổng đốc Hải An, Tuần phủ An Giang; Dinh điền sứ tướng quân - Ninh
Bình và Thái Bình, Nam Định, Hải Dương; Thừa Thiên Phủ Doãn – Huế; lính thú –
Quảng Ngãi.
Đảm nhiệm việc dẹp giặc ở các vùng miền: dẹp giặc Phan Bá Vành ở vùng
Nam Định; dẹp giặc Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng; dẹp giặc
cướp, giặc biển ở Liêu Lạc - Nam Định, Quảng Yên , huyện Tứ Kì -Hải Dương,
Vân Đồn-Quảng Ninh; diệt trừ thổ phỉ, giặc cướp ở các hạt Đông Thành, Quỳnh Lưu
- Nghệ An, Ngọc Sơn, Nông Cống - Thanh Hoá, Tam Điệp - Ninh Bình, Bỉm Sơn -
Thanh Hoá ; dẹp giặc ở thành Trấn Tây – Cao man; dẹp giặc ở Gia Định; Năm 63
tuổi, ông tình nguyện đi chinh phạt ở Trấn Tây. Năm 79 tuổi, thân lão vẫn còn dũng
chí, ông lại tình nguyện ứng chiến với ngoại xâm tại chiến trường Đà Nẵng.
Đảm nhận việc khai khẩn đất hoang, phát triển kinh tế ở các vùng miền: các
huyện Giao Thuỷ, Chân Định- Nam Định, Tiền Hải- Thái Bình, Kim Sơn, Yên
Khánh, Yên Mô -Ninh Bình; xã Minh Liễn, huyện Nghi Dương- Hải Dương; xã
Lưu Khê, Vĩ Dương, Yên Phong- Quảng Yên.
29
Những cứ liệu sát thực trong nguồn sử liệu đã phần nào làm sáng tỏ chí làm
trai, độ tung hoành ngang dọc của Nguyễn Công Trứ trong văn thơ. Nếu như trong
các bài thơ tỏ chí, phần lớn là những lời nói, việc làm mang tính ước lệ, tượng trưng
không có bóng dáng của thời đại lịch sử rõ ràng, không có dấu ấn con người. Đến
với nguồn sử liệu, chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ đã được định hình rõ nét
thông qua những lời nói và việc làm cụ thể. Con người anh hùng tung hoành ngang
dọc của Nguyễn Công Trứ đã được những cứ liệu lịch sử minh chứng rất rõ ràng.
Vùng không gian thực tế mà ông đã hoạt động bôn ba suốt từ Nam chí Bắc, từ miền
biển đến miền núi, môi trường kinh đô (triều đình Huế) đến vùng nông thôn. Những
địa danh, những tên đất tên làng, tên núi tên sông đã bổ sung tri thức để hiểu cụ thể,
sinh động những khái niệm không gian như “trời đất”, “bốn bể”, “nam bắc đông
tây” vốn khá ước lệ xuất hiện trong các vần thơ tỏ chí của Nguyễn Công Trứ. Thời
gian hoạt động của ông cũng là những mốc thời gian cụ thể (1826-1858) từ thời đầu
xanh tuổi trẻ đến khi về già qua các thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Gia Long.
Cái khát vọng “xẻ núi lấp sông” “dời non lấp bể” đã được minh chứng qua một loạt
các trận đại chiến thu phục kẻ thù, hoặc xây thành đắp lũy. Quả thực với những
hành xử, những công trạng của mình Nguyễn Công Trứ đã thực sự làm nên “đấng
anh hùng” trong thiên hạ. Các công trạng cứu chúa an dân: Công khai hoang, mở
đất, công dẹp giặc cướp, tiễu phỉ; công diệt trừ tham nhũng; công trị thủy phát triển
kinh tế vùng miền…sử sách vẫn lưu danh, nhân dân đời đời ghi nhớ. Dấu chân của
ông đã đặt lên mọi miền của Tổ Quốc trên bản đồ Việt Nam. Ông được ghi nhận
trong chính sử như một nhân vật hoạt động vì nhân dân Việt Nam vì hoạt động vì
xã hội Việt Nam.
1.2.2. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà quân sự
Theo Nguyễn Công Trứ nỗi nguy hại lớn nhất của một quốc gia dân tộc là
thù trong giặc ngoài. Chính vì vậy để phát triển đất nước trước hết cần phải dẹp
loạn, an dân. An dân cho nhân dân đất đai canh tác, thượng chí quân hạ trạch dân –
đối với người dân rất cần an cư lập nghiệp, đất đai canh tác, thiếu đất đai canh tác,
thiếu cơm ăn áo mặc cũng chính là nguyên nhân làm nên đại loạn. Vậy việc tiễu phỉ
30
dẹp trừ các cuộc nổi loạn loạn: bao gồm cả dẹp Phan Bá Vành, Nông Văn Vân, giặc
biển, tiễu phỉ, dẹp trộm cướp…đã chứng minh rõ tư tưởng trên vì nước dưới vì nhà
của ông.
Bàn về hai cuộc nổi dậy tiêu biểu của Phan Bá Vành và Nông Văn Vân,
GS.TS Trần Nho Thìn trong cuốn “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử” đã có bài
phân tích rất rõ về nguyên cớ của hai cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân và Phan Bá
Vành: “Đã có nhiều người viết về khởi nghĩa Phan Bá Vành nhưng có lẽ chưa chú
ý đúng mức đến bối cảnh lịch sử phức tạp của thời Minh Mệnh, đặc biệt là hoạt
động chống phá của một số giáo sĩ, gây nguy cơ mất ổn định, phương hại đến sự
thống nhất đất nước đang là điều vốn rất cần lúc đó để tăng cường tiềm lực đất
nước nhằm đối phó với cuộc xâm lăng sắp tới của thực dân Pháp”. Trong quá trình
nghiên cứu, dựa trên những cứ liệu lịch sử GS.TS đã khẳng định: “có sự dính líu ở
mức độ nào đó của giáo hội Công giáo với cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân và
Phan Bá Vành”. ở đoạn khác ông viết : “Đành rằng các cuộc nổi dậy đều phản
ánh một vấn đề xã hội nào đó cần được triều đình xem xét và giải quyết …Vấn đề
này cần phải được giới sử học nghiên cứu đầy đủ hơn nữa, nhưng hiện thời có thể
nói rằng không nên xem cuộc nổi dậy Phan Bá Vành chỉ đơn thuần là cuộc nông
dân khởi nghĩa phản ánh đơn thuần quyền lợi của nông dân. Vả lại, trong con mắt
một nhà nho như Nguyễn Công Trứ, mọi cuộc nổi dậy chống triều đình đều là
loạn, cần phải dẹp loạn để an dân. Chúng ta ngày nay cần tính đến hậu quả làm
mất ổn định tình hình đất nước của những cuộc nổi dậy như thế và sự lợi dụng tình
trạng mất ổn định này của Giáo hội vì những mục tiêu riêng.” (Nguyễn Công Trứ
trong dòng lịch sử, NXBVH Đông Tây, tr18,19).
Sử liệu đã chứng minh: Năm 1827 Nguyễn Công Trứ đồng chủ tướng trấn áp
cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành; năm 1833 Nguyễn Công Trứ làm Tổng đốc Hải An
kết hợp với Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Lê Văn Đức tiến quân đi đánh dẹp giặc
Nông Văn Vân miền Tuyên Quang. Cuộc dẹp loạn Phan Bá Vành và Nông Văn
Vân kéo dài gần ba năm trời bởi Nguyễn Công Trứ gặp phải sự kháng cự của số
đông quần chúng nhân dân. Vì nhân dân không nhận rõ bản chất của kẻ đứng đầu,
31
chúng đang mượn sức mạnh của quần chúng để thực hiện ý đồ chính trị. Chúng lợi
dụng điểm yếu bị mất ruộng đất của nhân dân để hô hào hiệu triệu người dân đứng
lên làm phản triều đình. Thực chất hai cuộc nổi loạn này đã được chính sử phân
tích rõ: khoác áo của cuộc khởi nghĩa nông dân để che mắt thế gian nhằm thực hiện
một mưu đồ chính trị đen tối đó là lật đổ vương triều, cướp ngôi, cướp đất hòng làm
bá chủ thiên hạ. Như vậy việc dẹp loạn Nông Văn Vân, Phan Bá Vành của Nguyễn
Công Trứ thể hiện mục đích chính trị rõ ràng. Đứng trên lập trường của một mệnh
quan triều đình, để bảo đảm sự an nguy của xã tắc, đảm bảo quyền lợi của nhân dân
và tránh sự lợi dụng của những phe phái, tổ chức không chính thống, Nguyễn Công
Trứ cùng với một số tướng lĩnh trong triều đã ra công đánh dẹp đại loạn. Hành động
này nếu không được diễn giải, cắt nghĩa cụ thể mọi ý kiến sẽ quy chụp rằng Nguyễn
Công Trứ trung quân một cách mù quáng, hết lòng phụng sự cho triều đình nhà
Nguyễn mà đi ngược lại quyền lợi của giai cấp nông dân (trấn áp hai cuộc khởi
nghĩa nông dân Nông Văn Vân và Phan Bá Vành). Như vậy, tìm hiểu cứ liệu lịch sử
sẽ góp phần lý giải những hành động, những sự việc mà bao lâu nay con người
chúng ta vẫn luôn ngộ nhận, chưa phân định rạch ròi mối quan hệ giữa hiện tượng
và bản chất, góp phần giải tỏa những ẩn ức cho con người.
Với khát vọng của một người hùng “xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên”,
Nguyễn Công Trứ còn ra tay dẹp trừ giặc cướp, tiễu phỉ. Nguyễn Công Trứ liên
tiếp lập những chiến tích thắng lợi diệt trừ thổ phỉ, giặc cướp ở Kiến Xương –
Nam Định, Nông Cống - Thanh Hóa,Quỳnh lưu - Nghệ An: Bính Tuất, Minh
Mệnh năm thứ 7, 1826: Tham hiệp Thanh Hoa là Nguyễn Công Trứ tâu xin thân
đem thủ hạ đi đánh bắt thổ phỉ; Đinh Hợi, Minh Mệnh năm thứ 8, 1827 đảng giặc
ở Nam Định 5000 người cướp phủ Kiến Xương, Phó Thống thập cơ Hùng dũng
của Hữu quân là Phan Đình Bảo và Tham tán Nguyễn Công Trứ cũng đều đem
quân chia đường tiến đánh.
Không chỉ ra tay dẹp loạn mà với tài thao lược, mưu trí của mình Nguyễn
Công Trứ còn dâng tấu sớ cắt lẽ nguồn cơn nảy sinh đại loạn hay tệ nạn giặc cướp,
thổ phỉ rất sâu sắc để triều đình có những biện pháp xử lý, nhằm triệt tận gốc nguồn
32
ác. Ông đã dâng nhiều tấu sớ với nội dung lập nghiêm phép nước và diệt trừ trộm
cướp. Ông đã có những phân tích thấu đáo về nguyên nhân sinh đại loạn, những
biểu hiện khác nhau của đại loạn và cách diệt trừ “Phàm gọi là làm loạn, không
phải cứ đánh thành, cướp đất mới là làm loạn; người không ở yên thuận lẽ cũng là
loạn. Ngạn ngữ nói: “Loạn thì chém” không dùng phép nặng không ngăn được
loạn.”. Với những kế sách đó ông cùng các tướng lĩnh đã dẹp giặc yên ở các nơi
xung yếu.“Tài thao lược đã nên tay ngất ngưởng” mà Nguyễn Công Trứ thể hiện ở
trong thơ đã được thể hiện rõ nét thông qua những mưu cao, kế sâu được đề xuất
trong tấu sớ. Với Nguyễn Công Trứ không chỉ ra tay dẹp giặc, dẹp loạn mà điều
quan trọng là triều đình phải ngăn chặn không cho các đảng ác xuất hiện, không để
loạn tặc nổi lên nhũng nhiễu đất nước, đe dọa đến việc an dân. Muốn như thế phải
am hiểu thời thế, phải đi sâu tìm hiểu nguồn cơn, phải dựa vào nhân dân để trị vì.
Bên cạnh đó, triều đình cũng cần phải có những biện pháp cứng rắn mang tính chất
răn đe, ngăn chặn: Ngạn ngữ nói: “Loạn thì chém” không dùng phép nặng không
ngăn được loạn. Chân lý Nguyễn Công Trứ đưa ra đúng với mọi thời đại. Chính
nhờ có những tư tưởng đúng đắn, những tấu sớ với các ý tưởng sáng suốt đánh
trúng vào điểm yếu để khắc phục, vì vậy triều đình nhà Nguyễn vẫn có thể dẹp yên,
ngăn chặn các cuộc nổi loạn.
1.2.3. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà kinh tế
Bằng sự am hiểu, thấu suốt về tình hình thời sự, chính trị Nguyễn Công Trứ
đã đề xuất những cách cắt nghĩa rất sâu xa để tìm ra nguồn cơn của những cuộc
nổi loạn, thậm chí ông biết những người theo loạn Phan Bá Vành là những người
nông dân vô tội vì mất ruộng đất – mất kế sinh nhai mà hồ đồ đi theo. Đó là sự nổi
loạn của người nông dân mất đất. Chính vì vậy, sau khi dẹp xong loạn dấu chân
ông đã đặt đến những vùng hoang sơ nhất như Tiền Hải – Thái Bình, Kim Sơn –
Ninh Bình, hạt Quảng Yên để khai khẩn đất hoang, giải quyết đời sống sinh nhai
cho bà con làm ấm nhà yên xã tắc. Như vậy cái hào sảng trong lời thơ cũng không
thể cho ta thấy những việc làm cụ thể, tận tâm, tận huyết của Nguyễn Công Trứ
đến vậy. Trên địa danh bản đồ Việt Nam bóng dáng ông lúc Cao Bằng lúc An
33
Giang…Cái vòng trời đất dọc ngang – ngang dọc, cái chiều kích nam bắc đông tây
đã được minh chứng bằng những địa danh cụ thể. Quả thực Nguyễn Công Trứ
sống trên dải đất Việt Nam, hành động vì nhân dân Việt Nam…
Với tài kiến thiết với chí kinh luân trong quá trình làm quan ông nhiều lần
dâng tấu sớ, bày tỏ những kế hoạch bổ ích, như trừ giặc cướp, trừ lại tệ, trị hào
cường, khẩn đất hoang, lập xã thương, lập hương học. Chính sách an dân: Theo
Nguyễn Công Trứ dân là nước, nước là dân, muốn an nước trước hết phải an dân, vì
an cư mới lạc nghiệp. Công lao lớn nhất của Nguyễn Công Trứ - Dinh điền xứ Uy
viễn tướng công là lập nên những xóm làng trù phú, doanh thương phát triển trên
những triền đất vốn chỉ toàn cỏ mọc lau thưa sình lầy hoang hóa…Mảnh đất Kim
Sơn – Ninh Bình và Tiền Hải – Thái Bình đời đời để ơn vị thánh sống này – người
ta đã lập sinh từ - đền thờ lúc ông còn sống để báo đáp công ơn mưa móc, trời biển
của ông.
Với một tướng lĩnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn
quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng. Ðối với Nguyễn Công Trứ, một
trí thức khoa bảng từng giữ chức lãnh đạo một trường đại học tại kinh đô (Tế tửu
Quốc Tử Giám thời Minh Mệnh), thì việc đánh tan loạn quân chỉ mới là bước đầu ;
sau đó là việc trừng trị quan lại tham nhũng để làm yên lòng dân, rồi khai khẩn đất
hoang nhắm hữu sản hoá nông dân, dẹp tan mối nguy “ bần cùng sinh đạo tặc ”, đó
mới là cái gốc vĩnh viễn tiêu trừ mối loạn. Vì vậy, với con mắt tinh tường nhìn thấy
tiềm năng của từng dải đất, từng vùng miền... trong khoảng thời gian tương đối
ngắn (từ năm 1828 đến năm 1835), ông gửi liên tiếp sáu tờ tâu lên Minh Mạng xin
trực tiếp tổ chức khai hoang, hoặc xin triều đình cử quan lại tổ chức khai hoang ở
nhiều địa phương trong nước.
Ông có rất nhiều sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai
sinh các huyện Kim Sơn (Ninh Bình),Tiền Hải (Thái Bình) vào những năm
cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân
trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được
nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở
34
hai huyện nói trên và quê hương ông. Nhiều đình chùa tại các địa phương này cũng
thờ ông và tôn ông làm thành hoàng làng. Chính sử ghi chép rõ việc Nguyễn Công
Năm Minh Mệnh 1828, khi đi thị sát vùng giao Thủy – Nam Định ông
thấy một dải đất liên tiếp bãi biển, cỏ cây rậm rạp, lau lách um tùm, là nơi trú ẩn,
hoành hành của cướp bóc, giặc dã với những câu cửa miệng “ai dám đến đùa
quấy ổ giặc mà chơi”. Tiếc vì một vùng đất tiềm năng bị bỏ hoang, Dinh Điền sứ
Nguyễn Công Trứ đến nơi, chiêu tập phủ dụ lòng người mới yên. Lập thành 14 lí,
27 ấp, 20 trại, 10 giáp, số đinh được hơn 2.350 người, số ruộng được hơn 18.960
Trứ dâng tấu sớ phát triển kinh tế vùng miền:
vào phủ Yên Khánh, Ninh Bình. Sau công việc khai khẩn ông tiến hành thiết lập
3 làng, 22 ấp, 5 tổng; chia cấp 14.620 mẫu đất hoang để dân canh tác. Chính
sách khẩn hoang đã thi hành ở Nam Định và ở Ninh Bình, về sau lại đem thi
hành ở tỉnh Quảng Yên. Năm 1835, ông tiếp tục tổ chức công cuộc doanh điền ở
miền đất Hải Dương.
Tiếp đến năm 1929, triển khai công cuộc khai hoang ở huyện Kim Sơn, lệ
Mặt khác, nhờ thấu hiểu tình hình đất nước - một đất nước thuần nông - thì
cây lúa, củ khoai sẽ là đầu cơ nghiệp vì vậy ông rất chăm lo đến việc trị thủy (đắp đê
ngăn lũ, bảo vệ mùa màng). Không chỉ đắp đê ngăn lũ mà theo dõi tình hình đê điều để
nhận thấy việc xuống cấp trong một số công trình cần được tu bổ cũng được ông đề
xuất: “Việc cần nhất hiện nay chỉ là đê điều. Dân Bắc Kì trong một năm phải dùng sức
lực vào việc đắp đê hết quá nửa năm, may mà giữ vững thì tốn kém cũng nhiều. Lỡ bị
đê vỡ nước ngập thì hại càng dữ.” Lời tấu sớ thuận lòng trời, hợp ý dân nên Vua chuẩn
tấu. Sau đó là các tấu sớ xin đắp đê ngăn lũ tại: huyện Thiên Thi, Kim Động, Đông An,
Phù Dung, Tiên Lữ thuộc Hưng Yên và các huyện Thanh Miện, Đường Hào thuộc Hải
Dương; việc nạo vét lòng sông, cửa biển ở các sông Hát Môn, Nhật Đức, Nguyệt Đức,
Thiên Đức tỉnh Nam Định, Hải Dương.Điều mấu chốt nhất là trong các cuộc khẩn
hoang Nguyễn Công Trứ không chỉ khai khẩn ruộng đất mà còn dâng tấu sớ để thiết
lập trật tự làm nên một môi trường xã hội ổn định, định hướng cho dân phát triển về
kinh tế.
35
Như vậy, khi đọc những tấu sớ của Nguyễn Công trứ dâng lên triều đình và
qua những hành động thực tế ta mới thấu suốt được cái tâm trong sáng của ông.
Khát vọng “trên vì nước, dưới vì nhà” đã được ông thực hiện đầy đủ. Lo cho dân
từng cái ăn, cái mặc; thấu hiểu từng nguồn cơn gây nên đảng ác trong xã hội mà trị;
mở đường sống cho những kẻ lầm đường lạc lối trong loạn đẳng Nông Văn Vân,
Phan Bá Vành; khai khẩn đất hoang để phát triển kinh tế vùng miền…Có thể khẳng
định Nguyễn Công Trứ như một vị vua trị vì thiên hạ. Trong đó khát vọng khai
hoang mở đất dường như đã ăn sâu trong máu thịt của Nguyễn Công Trứ. Mỗi vùng
miền ông đi qua đều là những mảnh “đất quý, đất yêu” khi được bàn tay và khối óc
của con người khai phá. Chí hướng lập công, dương danh đề cập trong thơ được thể
hiện rõ nét qua những việc làm cụ thể…. Trong thơ văn,Nguyễn Công Trứ đã bao
lần ca khúc chiến thắng:
“Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,
Cờ báo tiệp giữa trời Nam bay bướm nhẹ”.
(Nợ công danh)
Quả đúng “Tài thao lược đã nên tay ngất ngưởng” (Bài ca ngất ngưởng). Võ
công đã lừng lẫy, mà tài chính trị kinh tế cũng lớn lao phi thường. Tỉnh Ninh Bình
với huyện Kim Sơn gồm 7 tổng tân lập, tỉnh Nam Định với hai huyện tân lập gồm
10 xã, và tỉnh Thái Bình với huyện Tiền Hải gồm 7 tổng tân khai vẫn còn đền thờ,
bia đá tạc ghi công đức của doanh điền sứ - Uy viễn tướng công. Ông đã đặt lại chế
độ Dân vi quý là một Khổng Tử hiện thân. Nhân dân hai hạt Tiền Hải, Kim Sơn
được một vị phúc tinh như Nguyễn Công Trứ để đào sông lấp biển, mở đất lập làng,
mở cái mối lợi tự nhiên cho muôn ngàn năm về sau.
1.2.4. Nguyễn Công Trứ với vai trò một nhà chính trị
Theo Nguyễn Công Trứ chính sách cai trị của vua nếu muốn sâu rễ, bền gốc
thì cần đi từ chính thực tế cuộc sống. Hiểu được lòng dân, mang phúc lại cho dân ấy
là lúc nền thái bình thịnh trị. Khi là mệnh quan triều đình ông đã dâng rất nhiều tấu
sớ kiến nghị, đề xuất về cách trị nước, an dân.
36
Trứ lĩnh chức Dinh điền sứ, dâng Sớ nói 3 việc:
Mậu Tí, Minh Mệnh năm thứ 9, 1828: Tả Thị lang Hình bộ là Nguyễn Công
1. Lập phép nghiêm cấm để trừ dứt trộm cướp
2. Minh việc thưởng phạt để khuyến khích quan lại:
3. Vỡ ruộng hoang cho dân nghèo
Theo ông, một trong những việc cần phải làm ngay để yên lòng dân là bên
cạnh việc đầu tư phát triển kinh tế là phải diệt cường hào ác bá - mầm sâu mọt phá
hoại giường cột nước nhà. Chính vì vậy, tệ nạn cường hào ức hiếp nhân dân đã
được Nguyễn Công Trứ rất chú trọng. Ông cho đó là cội rẽ gây nên nỗi khổ cho
dân; là một trong những nguyên nhân sinh biến loạn. Chúng như những loài sâu mọt
gặm nhấm cần triệt tận gốc. Chính sử chép rõ:
Năm 1828, Lĩnh Dinh điền sứ là Nguyễn Công Trứ dâng sớ xin diệt trừ tệ
cường hào: Ông đã phân tích chỉ rõ teej cường hào làm con người ta thành mồ côi,
vợ người ta thành goá bụa, giết cả tính mạng của người ta, hết cả gia tài của người ta,
mà việc không lộ, cho nên cứ công nhiên không kiêng sợ gì. Đích cuối cùng của cường
hà là chuyên lợi làm giàu, dối trên lừa dưới, để thoả lòng riêng…thậm chí ẩn lậu đinh
điền, ruộng đến nghìn mẫu không nộp thuế, chỉ đầy túi của hào cường, đinh đến trăm
suất không đăng sổ….
Những tấu sớ trị nạn tham nhũng cường hào đã hợp lòng trời, thuận ý dân
nên được vua chuẩn y cho tiến hành ngay. Mặt khác, với sự trải đời và hiểu người,
ông cũng thấu hiểu được một phần nguyên nhân gây tệ tham nhũng chính là do sự
bần hàn. Chính vì vậy ông cũng đã từng đề xuất tiền dưỡng liêm để hỗ trợ quan lại
giữ liêm chính, không tham nhũng, bóc lột nhân dân. Có thể nói đó là những tư
tưởng trị nước rất đáng nể phục. Mối quan hệ biện chứng trong một vấn đề được
ông giải quyết thấu tình đạt lý. Hơn nữa theo sự phân tích loogic của ông thì đói
khổ sinh biến loạn. Chính vì vậy ông thường dâng tấu sớ để đưa ra những kế sách
trị nước, an dân.
37
Đối với những vùng đất mới được khai phá, ông lại dâng sớ đề xuất thiết lập
những trật tự xã hội để tiện cai quản và phát triển ổn định. Những vùng đất nghèo, mất
mùa, nhân dân đói kém Nguyễn Công Trứ lại dâng tấu sớ miễn giảm sưu thuế, mở kho
thóc cứu đói, phụ cấp lương thực thực phẩm cho bà con… Sau công cuộc khai hoang ở
miền ven biển trấn Ninh Bình thành công. Nguyễn Công Trứ lại dâng tấu sớ trình 5
việc cần kíp cần làm để ổn định xã hội và phát triển kinh tế vùng miền:
Thứ nhất, ông chú trọng việc đặt trường học Mỗi ấp, mỗi làng đều dựng nhà học,
đón một thầy học, làng thì lấy ruộng 10 mẫu, ấp thì 8 mẫu làm học điền, miễn đánh thuế.
Ruộng học điền ấy, phải góp sức cùng làm, đầy năm thu hoạch, lưu làm học bổng.
Thứ hai, ông đề xuất lập xã thương (kho thóc) để phòng trừ thiên tai, mất mùa,
đảm bảo đời sống dân sinh;
Thứ ba, ông coi việc siêng dạy bảo là nhiệm vụ quan trọng để giữ ổn định xã
hội, trách nhiệm này trước hết thuộc về người đứng đầu làng, ấp, lý.
Thứ tư, cẩn phòng thư có nghĩa cần coi trọng công tác quốc phòng, an ninh
khu vực, có mầm mống loạn đẳng, giặc cướp cần diệt tận gốc.
Thứ năm, chăm khuyên răn dân chúng làm ăn để tránh hiện tượng nhàn cư vi bất
thiện.
Vì thương dân chúng bần hàn cơ cực vì đói kém mất mùa, dân chúng sống vật
vờ, tha phương cầu thực ông đã dâng các tấu sớ xin chẩn cấp cho tiền và gạo; nhiều
người gầy yếu, không thể đi được; vậy xin hằng ngày nấu cơm để chẩn cấp cho”; các
huyện Đường Hào, Đường An, Thanh Miện, ruộng xấu dân nghèo. Gần đây thường
gặp năm mất mùa, ngày càng cùng quẫn thêm xin đặc cách cho miễn tiền thóc
thuế…Cứ theo lời tấu sớ của Nguyễn Công Trứ có thể khẳng định ông không chỉ đóng
vai trò một tướng lĩnh đảm nhiệm một nhiệm vụ nhất định, trấn áp một vùng miền nhất
định. Ông còn là một người cha, người mẹ, biết lo toan, biết tính toán đến cuộc sống
của muôn dân trăm họ, biết lo lắng cho sự định an của xã tắc. Lời tấu sớ của ông thể
hiện rõ cái tâm với dân với nước.
38
Từ những cứ liệu lịch sử trên, chúng ta có thể khẳng định: Nguyễn Công Trứ
là một nhà chính trị, quân sự lớn có vai trò to lớn trong triều Nguyễn, được vua rất
tin dùng. Ông có những tư tưởng trị nước rất đắc dụng, tiến bộ làm lợi cho nước cho
dân (khẩn hoang, tấu sớ đề nghị miễn sưu thuế, diệt trừ tham nhũng, nạn cường
hào...). Là một mệnh quan triều đình (thuộc giai cấp thống trị) nhưng ông vẫn đứng
về phía nhân dân để đấu tranh và bảo vệ quyền lợi cho nhân dân. Những công lao to
lớn, những việc làm thiết thực của ông với nước với dân không thể thể hiện hết
trong thơ văn (do đặc trưng thể loại). Vậy nguồn sử liệu chính là nhân chứng sống
để hậu thế hiểu thêm về một Nguyễn Công Trứ với tài kinh bang tế thế.
Nguyễn Công Trứ là một con người hành động với ông chí làm trai không
dừng ở khái niệm mang tính khuôn mẫu sách vở mà được hiện thực hóa trong chính
con đường hoạn lộ của ông. Với ông những vần thơ hào sảng với nhiều hình ảnh
ước lệ, tượng trưng không chỉ để nói cho hay, nói cho vui mà nói để làm, nói để
hành động. Khát vọng lập công dương danh của ông đã được đáp đền khi nhân dân
bốn cõi tôn ông như cha, nhân dân vùng Kim Sơn – Ninh Bình, Tiền Hải – Thái
Bình còn lập sinh từ để thờ sống ông. Cuộc đời làm quan đối với ông có nhiều
thăng trầm nhưng vì nước vì dân ông vẫn gạt tình riêng để sống, để cống hiến. Khi
làm Đô đốc Hải An khi làm lính thú biên thùy canh cửa gõ mõ nhưng không vì thế
mà ông nản lòng ở bất cứ cương vị nào ông đều hoàn thành một cách vui vẻ và tự
nguyện, tinh thần nhập thế rất tích cực của đạo Nho (tu thân tề gia trị quốc bình
thiên hạ) cống hiến cho nước cho dân đến sức tàn lực kiệt. Đạo quân thần đối với
ông xét đến cùng vẫn là vì dân vì nước. Bởi ông chủ trương làm quan không phải để
vinh thân, phì gia mà để có chút tiếng nói đòi quyền lợi cho dân, để triển khai
những chính sách thiết yếu phát triển, chăm lo đời sống cho nhân dân. Nội dung
những tấu sớ đã minh chứng cho tấm lòng sáng trong như ánh trăng rằm của vị quan
thanh liêm vì nước quên thân vì dân phục vụ của Nguyễn Công Trứ. Chính vì vậy
mà số lượng ghi chép về ông trong Đại nam thực lục chính biên (cuốn chính sử của
triều Nguyễn) xuất hiện với tần số lớn (261 sự kiện) ông có mặt hầu hết trong các
chính sự, nghị bàn của quốc gia, dân tộc xứng đáng vị nam nhi "đã mang tiếng ở
trong trời đất phải có danh gì với núi sông"...
39
1.3. Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ trong nguồn giai thoại
Không chỉ xuất hiện nhiều trong chính sử, trong thế giới của giai thoại,
Nguyễn Công Trứ cũng được nhân dân ưu ái rất nhiều. Theo khảo cứu của các nhà
nghiên cứu có tới 81 giai thoại – với những câu chuyện đẹp xoay quanh cuộc đời,
sự nghiệp Nguyễn Công Trứ. Trong số những giai thoại đó, luận văn thống kê phân
loại làm hiện diện lên con người, tính cách, tư tưởng Nguyễn Công Trứ trong lòng
quần chúng nhân dân. Đó là những giai thoại tiêu biểu, với mong muốn dựng lên
một chân dung Nguyễn Công Trứ qua cái nhìn “dân gian” – vừa rất đời thường
nhưng đồng thời rất uyên bác. Từ góc độ khác với những lí giải, nghiên cứu hàn
lâm - của hậu thế về con người của cụ Thượng Uy Viễn chúng ta sẽ hiểu và thêm
trân trọng, yêu mến vị tướng giữa đời thường, vị hiền triết trong lòng quần chúng
nhân dân.
Trong giai thoại, “sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai” chí nam nhi của
Nguyễn Công Trứ được thể hiện đậm nét, ngay từ thủa thiếu thời, những biểu hiện
của chí nhớn, khát vọng nhớn đã hội tụ trong con người cậu bé Nguyễn Công Trứ
như một khí chất để làm nên một tướng quân ngang dọc ngất ngưởng sau này: Sự
việc cuộc sống diễn ra trong một lần thày trò ra sông tắm mát, hướng mặt về phía
đình làng, tức cảnh sinh tình thầy đưa ra một vế đối Nôm, bảo các trò cùng đối:
Đá xanh ghép cống, hòn dưới nống hòn trên.
Trong khi các trò khác đang vắt óc suy nghĩ thì cậu Củng đã có ngay vế đối:
Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước.
Câu đối vừa chuẩn về chữ nghĩa lại vừa có nghệ thuật chơi chữ tài tình:
“cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều
nhà Nguyễn); còn “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương, vừa là
người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; trò Củng đã vận dụng một cách linh hoạt hệ thống
từ đồng âm khác nghĩa-một nét đặc biệt của ngôn từ Tiếng Việt để làm nên cái hấp
dẫn cho câu văn, thêm vào đó người đời còn tìm thấy cái thú vị ở khẩu khí của
người đối: hậu sinh sẽ khả uý, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước.
40
Khẩu khí của trò nhỏ đã khẳng định khí chất người quân tử. Những suy nghĩ
và liên tưởng của cậu bé Củng vượt xa tâm lý lứa tuổi trong một câu đối chuẩn từ
ngôn từ đến ý. Ngôn ngữ là lớp vỏ của tư duy, phải có những suy nghĩ nung nấu, ý
chí gánh vác việc đời ngay từ khi còn nhỏ, thì cậu bé Củng mới có những nhận thức
bất ngờ, táo bạo đến như vậy. Sự việc tiếp theo, trời bất chợt đổ mưa, thầy trò phải
trú lại ven đường. đúng lúc đó cũng có một người đàn ông lực lưỡng gánh cỏ đi tới
cũng vội vất gánh cỏ để vào hiên trú. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đã vội
vã ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các trò thử làm vài câu
thơ tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trò Củng ứng khẩu đọc ngay: Tạnh cơn
phong vũ lò ngay mặt/Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai. Người đàn ông gánh cỏ với
tinh thần xốc vác, không quản khó khăn gian khổ, toàn tâm toàn ý thực hiện công
việc. Gánh cỏ trên vai người đàn ông đó không nặng bởi trọng lượng mà theo quan
sát của trò Củng nó có sức nặng, sức đằm của ý chí, nghị lực, của tinh thần xông
pha. Hình ảnh đời thường của cuộc sống đã là lời gợi nhắc cho người anh hùng
Nguyễn Công Trứ với “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc”, “gieo thái sơn nhẹ
tựa hồng mao” sau này.
Chí nam nhi, mộng anh hùng giường như đã ăn vào máu, thấm vào tim
Nguyễn Công Trứ để rồi bất cứ một sự việc nào trong cuộc sống đều được con
người đặc biệt đó ghi nhận. Giai thoại “Nín hơi biển động ba tầng sóng” trò Củng
đã chứng minh được tư duy sắc sảo, cùng với những liên tưởng tài tình, sáng tạo
của mình: chỉ nhìn hơi khói thuốc lào do thân phụ và thầy dạy trong lúc đàm đạo
phả ra như mây mà cậu bé Củng ứng khẩu đọc bốn câu thơ: Nín hơi, biển động ba
tầng sóng/Há miệng, rồng bay chín khúc mây/Ba tầng sóng dội vang trời bể/Năm
sắc mây bay thấp thoáng trời. Từ câu luận bàn xuất thần của trò Củng, người thầy dạy
đã không khỏi ngạc nhiên trước trí tưởng tượng vô cùng phong phú và đặc biệt một
khẩu khí hơn người của cậu học trò nhỏ. Trong con người trò Củng, dường như khát
vọng, hoài bão, chí khí của một người hùng đã ăn sâu vào tiềm thức vì thế có thể ứng
biến, vận dụng linh hoạt mọi lúc, mọi nơi. Sau lần trò chuyện đó trò Củng “túi đàn cặp
sách đề huề” đã rời miền quê nhỏ Nghi Xuân lên đường vào Hà Tĩnh – mảnh đất thành
đô theo đuổi sự nghiệp, công danh.
41
Tư tưởng lớn và thái độ ngất ngưởng - không cúi đầu trước quyền lực mà chỉ
cúi đầu trước công lý - giúp cho nho sinh Nguyễn Công Trứ hình thành được bản
lĩnh sống ngay từ thời trẻ. Giai thoại “Ba vạn anh hùng đè xuống dưới” là lời minh
chứng rõ ràng. Đạo quân triều đình, do tướng lĩnh Lê Văn Duyệt đi qua, ai cũng
phải ngả mũ kính chào riêng mình nho sinh Nguyễn Công Trứ vẫn ung dung ngủ
khì trên ổ rơm như không có chuyện gì xảy ra. Sau khi căn vặn lý do, nho sinh trả
lời với khẩu khí đường hoàng chững trạc... Để xác minh lời khai, Tả quân yêu cầu
vài câu thơ vịnh cảnh nằm ổ rơm. Cậu Nho sinh dường như chỉ đợi có thế, ứng khẩu
đọc ngay:Ba vạn anh hùng đè xuống dưới/Chín lần thiên tử đội lên trên.Tả quân Lê
Văn Duyệt nghe xong, giật mình khen hay, hỏi tên tuổi, thưởng cho Trứ một số tiền
rồi thả cho đi, và ghi nhớ trong lòng về người học trò kì tài ấy.
Các giai thoại trên đã phần nào biểu hiện được cái khí chất của bậc chí nhân
quân tử của Nguyễn Công Trứ. Những suy nghĩ, những nhận thức già dặn hơn trước
tuổi, những khẩu khí thể hiện khát vọng, hoài bão của một cách sống không chờ
thời, đợi thời mà biết dùng tài chí để xoay chuyển cục diện. Và có lẽ cũng chỉ đến
với Nguyễn Công Trứ chúng ta mới có những giai thoại độc đáo mang chất ngông
nghệ sĩ, mang nặng chí nam nhi ngay từ khi còn rất nhỏ như vậy.
* Tiểu kết
Như vậy, nếu xem trong thơ văn, Nguyễn Công Trứ đã nói chí của nhà nho
với một phong cách mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử văn học trung đại. Tuy
nhiên những ước lệ của ngôn từ, hình tượng biểu tượng nghệ thuật không thể cho
chúng ta biết cụ thể được sự nghiệp hành đạo của ông. Mới hay, thơ và hát nói chỉ
cho chúng ta hiểu được cảm xúc và quan niệm hành đạo của Nguyễn Công Trứ trên
phương diện sách vở, chữ nghĩa. Chính tài liệu lịch sử và giai thoại đã cung cấp cho
ta tri thức để hiểu toàn diện tư tưởng hành đạo của nhà thơ; dựng lên một bức chân
dung sống động bằng xương bằng thịt với những chí hướng, khát vọng và đặc biệt
là những hành động thực tiễn “vì nước quên thân vì dân phục vụ” được sử sách lưu
giữ, được nhân dân đời đời ghi nhớ vai trò và những cống hiến của Nguyễn Công
Trứ đối với thời đại. Nói cách khác, nếu chỉ đọc thơ văn ông, người đọc có thể băn
42
khoăn, liệu những chí nam nhi, nợ tang bồng có nội dung thực sự tích cực vì xã hội,
vì nhân dân hay chỉ đơn thuần là những từ ngữ sáo rỗng mà bất cứ nhà thơ nào cũng
có thể vay mượn từ kho từ ngữ văn học trung đại nhiều thế kỷ. Đối chiếu với sử liệu
về Nguyễn Công Trứ, ta có quyền khằng định, những chí khí anh hùng, nam nhi đó
được bảo chứng bằng việc làm, bằng hành động cụ thể, có nội dung rõ ràng. Ta hiểu
hơn, cảm phục hơn với những gì mà nhà thơ đã viết, đã nói, đã cảm nghĩ. Chính vì
vậy, bàn về khát vọng hành đạo của Nguyễn Công Trứ, GS, TS Trần Nho Thìn
trong cuốn “Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử” có nhận xét: “Trong thơ văn
Nguyễn Công Trứ viết về chí nam nhi, có những từ ngữ dễ đánh lừa, dễ dẫn ta đến
ý nghĩ về lí tưởng hay chủ nghĩa anh hùng (chí nam nhi, chí làm trai, nợ anh
hùng, nợ tang bồng, tang bồng hồ thỉ, nợ công danh... ), dường như Nguyễn Công
Trứ muốn làm một võ tướng thậm chí làm một Từ Hải trong văn chương hay một
Nguyễn Huệ, một Nguyễn Ánh ngoài đời, và ý nghĩ đó lại được củng cố không chỉ
bằng thơ ca mà còn bằng cả sự nghiệp kinh tế, quân sự lừng lẫy của ông.”
43
CHƯƠNG 2: NHÀ NHO TÀI TỬ NGUYỄN CÔNG TRỨ
TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI
2.1. Lý luận về nhà nho tài tử và chất tài tử trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
2.1.1. Lý luận về nhà nho tài tử
Trong lịch sử nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ, giới nghiên cứu đã
nhận thấy tuy Nguyễn Công Trứ là một nhà nho, nhưng dường như chất nhà nho ở
con người ông (qua sáng tác) có một điều gì đó đặc biệt, khác thường, không giống
như nhiều nhà nho khác. Một số nhà nghiên cứu định danh hiện tượng này bằng
khái niệm “nhà nho tài tử.
Nguyễn Bách Khoa là nhà nghiên cứu đầu tiên dùng khái niệm “nhà nho tài
tử” để định danh chất nhà nho đặc biệt của nhà nho Nguyễn Công Trứ. Trong công
trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ ( Tạp chí Văn mới, Hà Nội, 1944)
Nguyễn Bách Khoa viết khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử” là: Quan niệm
“cầm, kỳ, thi, tửu” là một quan niệm tài tử. Bằng danh từ này người ta thường chỉ thị
hạng nho sĩ lơ đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn
học, về sự vui sống cầu kì (hành lạc). Đỗ Phủ, Lí Bạch, Lưu Linh... là những nhà nho
tài tử vậy. Họ không sống cho Tổ quốc, không sống vì đạo lí. Họ sống vì nghệ thuật,
sống với cái đẹp. Suốt đời họ chỉ đi tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan
niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm
thơ, ở gảy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi. Nếu không biết thưởng thức
những trò chơi ấy một cách mĩ thuật thì dù có sống đến nghìn tuổi cũng như là chết
non mà thôi. (Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Hàn Thuyên xuất bản, Hà Nội,
1944, in lại trong Nguyễn Công Trứ, về tác gia và tác phẩm, Sđd, tr. 140-142). Ý kiến
của Nguyễn Bách Khoa lưu ý đến cái mới, cái đặc sắc của mẫu nhà nho ở thơ văn
Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên, dễ thấy là nhà nghiên cứu có mâu thuẫn rõ rệt trong hệ
thống lập luận của mình. Ở đây, Nguyễn Bách Khoa nói hạng người tài tử lơ đãng với
việc kinh bang tế thế mà vui với văn chương nghệ thuật ; nhưng cũng trong cuốn sách
của mình, ở chương viết về chí nam nhi, ông lại phải thừa nhận “Có cái quan niệm
44
nào được nhắc đi nhắc lại luôn luôn dưới ngòi bút thi ca của Nguyễn Công Trứ lúc
thanh niên, đó phải là quan niệm “chí nam nhi”. Trong đầu ông, chí nam nhi là một
quan niệm mơ hồ về sự nghiệp cá nhân của kẻ làm trai, gồm đủ cả: chí anh hùng, sự
tang bồng hồ thỉ, khí tiết trượng phu, mộng công hầu khanh tướng và lòng thèm
muốn lưu danh thiên cổ. Có lúc tất cả những khái niệm liên đới ấy dồn dập xáo động
trong tâm trí ông và chen nhau, đẩy nhau, vấp nhau trong vần điệu thi ca” (Nguyễn
Công Trứ về tác giả và tác phẩm, tr. 151).
Nhưng dường như nhận thấy cách định nghĩa khái niệm “tài tử” của Nguyễn
Bách Khoa có mâu thuẫn, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã cắt nghĩa lại khái
niệm thuyết phục hơn, đồng thời vận dụng khái niệm nhà nho tài tử cho nhiều tác
giả văn học trung đại và cận đại khác chứ không chỉ cho Nguyễn Công Trứ. Nhân
nghiên cứu về Tản Đà, một nhà nho tài tử của thế kỷ XX, ông khái quát: “Người tài
tử coi “tài” và “tình”, chứ không phải đạo đức, làm nên giá trị của con người. Đó là
chỗ để họ tự phân biệt với người thánh hiền, và họ lấy chỗ đó làm điều tự hào.
Người “tài tử” quan niệm ‘tài” nhiều cách. Có thể là tài kinh luân như Nguyễn Công
Trứ. Có thể là tài học vấn như Cao Bá Quát. Có thể là tài cầm quân, đánh giặc.
Nhưng dù đã có những tài như vậy, vẫn phải có thêm tài văn chương “nhả ngọc
phun châu”, tài cầm kỳ thi họa, những thứ nghệ thuật tài hoa, gắn bó với tình nữa,
mới thành người tài tử. Người tài tử cậy tài, mơ ước không chỉ là công danh phú
quý, mà còn lập nên sự nghiệp phi thường… (Trần Đình Hượu, Nhà nho tài tử
trong xã hội tư sản, in trong sách nhiều tác giả Văn học Việt Nam (1930-1945),
NXB Giáo dục, tái bản lần thứ hai, 1998, tr. 170-171). Giáo sư Trần Đình Hượu là
người kế thừa và phát triển quan niệm “nhà nho tài tử” của Trương Tửu, khái niệm
nhà nho tài tử được cụ thể hóa hơn. Ông đã xác định rõ ràng tính lịch sử của khái
niệm “nhà nho tài tử”, coi nhà nho tài tử như là sản phẩm của xã hội đô thị phong
kiến phương Đông. Vì vậy nó gắn liền với ý thức cá nhân. Trong đó ông đặc biệt
nhấn mạnh phẩm chất Tài Tình bên cạnh tính chất “chơi”, yêu cái đẹp mà Trương
Tửu đã nói đến. Ông đối lập một cách rõ ràng kiểu nhà nho tài tử với nhà nho hành
đạo, và rộng hơn là nhà nho chính thống (nhà nho chính thống bao gồm nhà nho
45
hành đạo và nhà nho ẩn dật). Ông cho rằng nhà nho tài tử nhấn mạnh ở: Tài
Tình (cái tôi cậy tài, đa tình) còn nhà nho chính thống thì nhấn mạnh ở Đức.
Một đệ tử chân truyền của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu, nhà nghiên cứu
Trần Ngọc Vương, đã phát triển lý luận về “nhà nho tài tử” một cách khá chặt chẽ.
Ông viết “Các nhà nho tài tử nằm ở tầng thượng lưu của giới trí thức. Để tự nhận và
được coi là người tài tử, họ từng phải là những học trò xuất sắc –nếu không toàn diện
thì cũng là trên một số phương diện chính-của Khổng môn. Được số phận ưu đãi, thiên
nhiên phú cho những phẩm chất hơn người, từ thưở thiếu thời, người tài tử đã luôn tâm
niệm về “tính trội” của mình và luôn lăm le sử dụng nó khi có dịp. Tài năng, đó là ưu
thế hàng đầu, là tiền đề số một khiến cho một nho sinh trở nên một tài tử đích thực”
(Trần Ngọc Vương, Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội, 1999, tr. 71).
Theo các nhà nghiên cứu trên, trong xã hội phong kiến có hai kiểu nhà nho:
Nhà nho chính thống (hành đạo và ẩn dật) hay gọi là người quân tử/kẻ sĩ quân tử
(như trong tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm). Người quân tử thường
đề cao Tâm, Chí, Đạo, Nghĩa, Khí. Nhà nho phi chính thống hay còn được gọi là
người tài tử/nhà nho tài tử (như trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát)… thường đề cao Tài, Tình,
Tính, Du, Mỹ. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã so sánh nhà nho tài tử với nhà
nho hành đạo và nhà nho ẩn dật: “Điểm khác biệt cơ bản giữa người tài tử với
người hành đạo và người ẩn dật là ở chỗ người tài tử coi “tài” và “tình” chứ không
phải đạo đức làm nên giá trị của con người” (Trần Ngọc Vương, sách đã dẫn, tr.
72). Trần Ngọc Vương phân tích kỹ hơn mối quan hệ giữa cá nhân và triều đại
phong kiến “Ở người tài tử không quan sát thấy một sự trung thành vô điều kiện,
trung thành đến hy sinh tính mạng như ở người hành đạo trung nghĩa. Mối quan tâm
hàng đầu của họ trong cuộc đời chính là việc làm thỏa mãn hoài bão cá nhân Đã
mang tiếng ở trong trời đất/Phải có danh gì với núi sông” (sách đã dẫn, tr. 73).
Nhà nho tài tử có hai đặc điểm cơ bản đó là thị tài và đa tình. Trần Ngọc
Vương viết tiếp “Người tài tử cậy tài, ý thức cao về tài năng của mình, một cách tự
46
nhiên, có những đòi hỏi thẳng thắn về tình yêu và hạnh phúc. “Đa tình” trở thành
đặc trưng thứ hai được người tài tử bộc lộ để tự phân biệt mình với các mẫu nhà
nho truyền thống.” (sách đã dẫn, tr. 78). Nhìn chung, các lý luận về nhà nho tài tử
trong đó bao gồm cả Nguyễn Công Trứ đều nhấn mạnh tài và tình. Tài gồm nhiều
thứ tài, từ kinh bang tế thế đến tài văn chương nghệ thuật. Tình không đơn giản là
tình cảm mà là tình yêu, là đa tình, say mê sắc đẹp và nhiều xúc động. Trần Ngọc
Vương cũng dẫn câu thơ Nguyễn Công Trứ để minh họa cho chất tài tử trong sự “đa
tình” đến mức sự gặp gỡ giữa vua sáng tôi hiền còn dễ hơn là cuộc gặp gỡ giữa
người tài tử và bậc giai nhân : Minh quân lương tướng tao phùng dị/Tài tử giai
nhân tế ngộ nan.
Một điểm cần ghi nhận là một số nhà nghiên cứu khác không đề cập đến chất
nhà nho tài tử của Nguyễn Công Trứ. Điển hình là nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc,
người chỉ nói đến “triết lý cầu nhàn, hưởng lạc” ở Nguyễn Công Trứ. Nếu như Trần
Đình Hượu, Trần Ngọc Vương nhiệt thành ca ngợi chất tài tử, sự đa tình của
Nguyễn Công Trứ thì Nguyễn Lộc có cái nhìn phê phán. Ông viết “Trong bản
“tuyên ngôn”về kẻ sĩ cũng như trong một số bài thơ khác, ngay từ đầu Nguyễn
Công Trứ đã chủ trương con người có quyền được hưởng lạc. Ông xếp nó thành
một mục trong chương trình sống lý tưởng của mình. Theo Nguyễn Công Trứ, con
người chỉ được hành lạc khi đã hoàn thành nhiệm vụ…Ở đây, nhà thơ quan niệm
hành lạc là sự đãi ngộ, là phần thưởng cho những kẻ anh hùng, cho những người
hành động. Nó bao hàm một nội dung rất thanh sạch như việc du lãm nơi ‘cùng cốc
thâm sơn” với thơ rượu địch đàn…Đối với người xưa, quan niệm hành lạc như vậy
là một cách để tỏ với đời phẩm chất thanh cao của kẻ sĩ quân tử không màng danh
lợi, không tham quyền cố vị. Nhưng về sau, Nguyễn Công Trứ đã nâng quan niệm
hành lạc ấy lên thành một thứ triết lý sống chi phối tất cả, và nội dung của nó cũng
không còn là chuyện tiêu dao với thơ, rượu, địch, đàn, mà có cả “yến yến hường
hường”, có cả “mắt đi mày lại”, có cả tiếng trống cắc tùng ở nhà các cô đầu,
v.v…Đẩy hành lạc lên thành một triết lý sống phải nói là một bước sa đọa về
phương diện tư tưởng của Nguyễn Công Trứ” (Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam
(nửa cuối thế kỷ XVIII-hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục, 1999, tr. 509).
47
Việc đưa nhà nho tài tử thành khái niệm chìa khóa có tính thao tác luận để
nghiên cứu một số hiện tượng văn học trung đại, cận đại Việt Nam - một giai đoạn
gắn liền với sự xuất hiện của đô thị phong kiến, trong đó văn hóa thị dân chi phối
mạnh mẽ các hiện tượng văn học, ý thức cá nhân đã bắt đầu xuất hiện ở mức độ
khác nhau. Nếu nhìn theo chiều dài lịch sử của mẫu hình nhà nho tài tử có thể thấy
một quá trình từ Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, đến Tản
Đà. Các sáng tác của họ biểu hiện xu hướng phi chính thống, hướng đến tự do
phóng khoáng của con người cá nhân, thị tài, đa tình, khác với các nhà nho hành
đạo hay ẩn dật coi trọng đạo đức khuôn phép. Nguyễn Công Trứ là hiện thân đầy đủ
của mẫu hình này, cũng khác với Tản Đà, người tài tử đã mang sắc thái chuyển hoá
của buổi giao thời Âu Á. Đối với Nguyễn Công Trứ thị tài ở ông đã được biểu hiện
rất rõ trong chương 1 đó là: Tài kinh bang tế thế, tài dẹp loạn, tài thơ phú… Trong
chương 2, luận văn khai thác sâu về đặc điểm đặc trưng trong con người và thơ văn
Nguyễn Công Trứ - chất tài tử. Một lối sống cá tính, một quan niệm sống khác
người, khác đời, một thú đa tình “đậm đặc”. Điều này góp phần làm nên một nhà
nho tài tử Nguyễn Công Trứ với phong độ ngất ngưởng, vượt trên thế tục trong thơ
văn và trong cả quãng thời gian ông xuất hiện ở cõi nhân sinh.
2.1.2. Chất tài tử trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
2.1.2.1. Yếu tố thị tài trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
Chất tài tử biểu hiện trong thơ văn Nguyễn Công Trứ trước hết là ở phong
cách sống khác người, khác đời; lối sống ngông nghênh “khinh thế ngạo vật”. Thị
tài được biểu hiện rõ nét thông qua một loạt các bài hát nói theo tiến trình từ thuở
hàn vi (khốn khó) cho đến lúc công thành danh toại và đặc biệt đến khi nghỉ hưu.
Sau khi đã trải nghiệm cuộc sống, bản chất thị tài càng được khẳng định rõ nét.
Chúng ta từng bắt gặp những cái vỗ ngực tự hào của Nguyễn Công Trứ về tài
năng, nhân cách:“Vũ trụ nội mạc phi phận sự/Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”
Ngay cả khi đối diện với cái nghèo – một thực tế khó tránh của các nhà nho đương
thời, ông cũng bực bội mà thốt ra những câu chửi thề ngay từ đầu bài thơ: "Chém
cha cái khó! Chém cha cái khó!". Với cá tính của Nguyễn Công Trứ ông không thể
48
mặc nhiên chấp nhận cái nghèo như số kiếp của người quân tử. Lời thơ vang lên
cảm giác bực bội, tức tối khi bị cái nghèo đeo đẳng. Thông thường các nhà nho tự
hào về cái nghèo, từ cái nghèo mà con người vẫn sống vẫn vươn lên mạnh mẽ, nói
như Nguyễn Trãi: Cơm ăn chẳng quản dưa muối/Áo mão nài chi gấm thêu. Theo
quan niệm của Nho giáo, để đạt được công danh sự nghiệp đôi khi con người cần
biết chịu đựng, khắc kỷ phục lễ. Có nghĩa là, trang nam nhi lý tưởng cần đề cao việc
sửa mình, rèn mình theo lễ, coi vật chất là tầm thường, tình yêu dục tính đều nén
chịu….Với Nguyễn Công Trứ nói về cái nghèo, ông không đi theo lối mòn của thể
văn tỏ chí. Có nghĩa rằng: nói về nghèo khó một cách tự hào, hãnh diện (Tịch cư
ninh thể phú – Nguyễn Hàng). Họ coi nghèo khó là thước đo cho lòng quân tử, là
cái cớ để người quân tử thể hiện bản chất thanh cao về tinh thần chịu đựng...Còn đối
với Nguyễn Công Trứ, ông nhìn cái nghèo bằng một thái độ châm biếm mỉa mai,
nói về cái nghèo thể hiện một tinh thần phản kháng mãnh liệt rằng: Ta tài ta phải
giàu sang phú quý. Như vậy, ngay trong một chi tiết nhỏ nhưng bản chất thị tài (cậy
tài, khoe tài) của Nguyễn Công Trứ đã thể hiện rõ nét. Qua bài Luận Kẻ Sĩ, ông
cũng chủ trương song toàn:
“Trong lăng miếu ra tài lương đống,
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương”.
Làm sao cho bách thế lưu phương:
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng,
Binh giáp tàng hung trung”.
Mặt khác, Tài theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ là thiên bẩm cho mỗi
con người. Chính vì vậy, sự phô diễn tài và tình trong thơ ông biểu hiện phát triển ý
thức cá nhân, vừa biểu hiện một thái độ thách thức, một thái độ chống phá lễ
giáo. Các nhà nho chính thống thường khiêm tốn, tự nói rằng mình bất tài, vụng về,
lười biếng trong các tên hiệu Ngu ông, Chuyết ông, Lãn ông… Tâm huyết, tài năng
như Phạm Ngũ Lão cũng còn thảng thốt kêu:
49
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian chuyện Vũ Hầu
(Thuật Hoài)
Thâm thúy, học thức như trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn tự nhận
mình là dại giữa biển lớn thế gian:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
(Nhàn)
Vẫn biết đây là cách nói ngược rất thâm thúy, sâu cay của bậc trí giả. Nhưng
trên thực tế tiếng thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn rất khiêm tốn, thâm trầm đi vào
chiều sâu triết lý. Nhưng với Nguyễn Công Trứ thì không. Ông thẳng thắn thổ lộ
quan điểm của bản thân về tài năng, nhân phẩm. Ông tự hào về cái tài của mình
trước thế gian trong rất nhiều bài thơ:
Trời đất cho ta một cái tài
Thắt lưng buộc bụng tháng ngày chơi
(Đi thi tự vịnh)
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa khi Tham tán khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
(Bài ca ngất ngưởng)
Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh “Ông Hy Văn” – hiếm có nhà thơ trung
đại nào lại mang chính tên hiệu của mình mà cho lên trang thơ như Nguyễn Công
Trứ, đồng thời lớn tiếng khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của bản thân
với những thực danh được liệt kê: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông. Câu thơ
được ngắt nhịp ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một
50
lối nói khẳng định đầy tự hào. Nguyễn Công Trứ không ngại ngùng lần lượt chứng
minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:
“Lúc bình tây cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa thiên”
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
(Bài ca ngất ngưởng)
Quả thật Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng trong khi hành đạo và ngay cả khi
về hưu. Đường đường một khanh tướng triều đình nhưng khi nghỉ hưu không ngựa
xe tàn lọng, không áo gấm mũ cao, không kẻ hầu người hạ mà một mình cưỡi bò
vàng, sau đuôi bò treo một chiếc mo cau hàm ý che miệng thế gian. Người tải tử đó
cứ đường hoàng sóng bước cùng bò vàng, đeo đạc ngựa trên đường mặc cho thiên
hạ bình phẩm, mặc cho khối kẻ tím mặt, bầm tai…
Xuống ngựa lên xe nọ tưởng nhàn,
Lợm mùi giáng tước với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo bưng miệng thế gian.
(Thơ đề mo cau)
Cái chất ngông nghênh khinh đời ngạo thế càng về già càng được Nguyễn
Công Trứ thể hiện rõ nét tạo nên phong thái “ngất ngưởng” đặc trưng của ông.
Ngay từ thuở hàn vi, đã nhiều lần ông bày tỏ khát vọng, cái lí tưởng sống, cái
chí khí của một đấng nam tử “bất bình thường” của mình. Trong thơ ông, ta luôn
thấy hình ảnh một con người với lẽ sống hăm hở, một nhân sinh quan tích cực đồng
thời cũng thấy một con người thứ hai với tính đa tình và tính dục. Là một trí thức
thành danh, là một nhà Nho được đào tạo bài bản, được hấp thụ một nền học thuyết
Nho giáo chính thống, thế nhưng ông không bị ràng buộc bởi những qui định hà
khắc của những lễ giáo phong kiến. Trái lại, trong thơ văn, nhất là trong mảng thơ
51
Nôm của ông thể hiện rất rõ hình ảnh con người nhà thơ, con người tài tử, có phong
cách sống tuỳ hứng, tuỳ thích, như ông đã từng tuyên bố:
Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”
Đem ngàn vàng chác lấy tiếng cười
(Cầm kì thi tửu)
Ðàn một cung, cờ một cuộc, thơ một túi, rượu một bầu,
Khi đắc chí ngao du, ờ cũng phải!
(Thích chí ngao du)
Là người luôn khát khao được sống một cuộc đời đích thực, Nguyễn Công
Trứ không đặt mình vào một không gian ngoài thế tục mà các nhà nghiên cứu th-
ường gọi là thứ không gian nhàn tản thoát tục; ngay cả khi ông viết về “Vòng trời
đất dọc ngang ngang dọc” hay khi bàn về chữ “nhàn” ta vẫn thấy “cái tôi” đó đứng
vững trong cuộc đời. Thực ra Nguyễn Công Trứ cũng có nói đến những nơi “cùng
cốc thâm sơn”, chùa chiền, nhưng không phải ông đặt mình tan biến vào những
không gian đó. Ông thế tục hoá không gian nhàn dật truyền thống bằng những nét vẽ
rất đời thường, trần tục:
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
(Bài ca ngất ngưởng)
Ông còn tìm ra không gian nhàn dật mới ngay ở chốn thị thành, tại những địa
chỉ cụ thể, với những thú chơi không truyền thống:
- Thú yên hà gửi nơi thành thị,
Nhớ Đông Ba, Gia Hội hai cầu.
Khi gió mát lúc trăng thâu,
Dập dìu những văn nhân tài tử.
(Nhàn nhân với quý nhân)
52
Bàn về cái tài trong con người tài tử, GS Trần Đình Hượu có nhận xét:
“Người tài tử chỉ biết trổ tài, khoe tài chứ không quan tâm đến bổn phận, nghĩa vụ”.
Thực tế, thơ văn Nguyễn Công Trứ cho thấy chữ “tài” thường xuất hiện kèm theo
các chữ “nghĩa”, “phận”, “nợ”, “quân thân”…có nghĩa gắn liền đến bổn phận nghĩa
vụ của một nhà nho
Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thời nát với cỏ cây.
Hoặc có chỗ ông nói
Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp
Xuất mẫu hoài tiên thị hữu quân thân.
Nguyễn Công Trứ đã nói toạc ra chí nam nhi gắn liền với lí tưởng công
danh, sự thành đạt, mộng công hầu. Khát khao khẳng định bản thân, khát khao lập
công, giương danh để giữ trọn đạo trung hiếu đó chính là bản chất trong con người
ông. Đồng thời phong cách tư duy của ông là phong cách tư duy của một con
người thực sống giữa trần ai nên trong bài Nợ công danh của ông cũng khẳng
định: có công danh, thì phải có hưởng thụ. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong
bài Nguyễn Công Trứ và thời đại của chúng ta có viết: “ông đề cao không chỉ sự
nghiệp lẫy lừng của con người trong trời đất (điều nhà nho nào cũng được dạy) mà
còn cả quyền được hưởng thụ khi có được công danh, sự nghiệp “Khanh hầu xa mã
tướng công lâu đài”, tức là đề cao yếu tố cá nhân mà giới nho sĩ nhiều thế kỉ đi thi
và làm quan vẫn giữ kín, né tránh” (theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, tr
28). Quả thực, những điều mà các nhà nho đương thời còn đang khiêm tốn, né
tránh không muốn nói thẳng ra ham vọng và ước muốn của bản thân thì Nguyễn
Công Trứ lại trải lòng thẳng thắn:
Tài bộ thế mà công danh lại thế,
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong.
Dồi dào thiên tứ vạn chung,
Khanh hầu xa mã tướng công lâu đài.
53
2.1.2.2. Yếu tố đa tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ
Chất tài tử biểu hiện trong thơ văn Nguyễn Công Trứ ở phương diện thứ hai
đó là yếu tố “sắc tình”, “diễm tình”. Đây cũng là biểu hiện đặc trưng rõ nét nhất của
mẫu hình con người tài tử với chữ Tình và chữ Mĩ. Đặc trưng này, giúp chúng ta –
thế hệ hậu sinh có thể phân biệt giữa nhà nho chính thống và phi chính thống, giữa
người quân tử và người tài tử.
Đề cập đến cuộc sống của các nhà nho tài tử trong xã hội xưa, chúng ta đề
cập đến cụm từ “hành lạc”. Hành lạc của họ theo nghĩa là chơi những thú chơi
thanh tao thuộc về nghệ thuật để di dưỡng tinh thần: cầm - kì - thi - tửu. Nhưng
những thú chơi này không phải là thú chơi đại chúng vì thuộc về phạm trù tài
năng và nghệ thuật, không phải ai cũng biết chơi và biết thưởng thức, không phải
là lĩnh vực của bọn phàm phu tục tử. Đó là nghệ thuật của những con người siêu
việt, đi tìm những tri kỉ, tri âm siêu việt khác. Còn trong thơ Nguyễn Công Trứ,
bên cạnh cầm kì thi tửu truyền thống, hành lạc còn bao gồm một nội dung phi
truyền thống - yếu tố sắc dục - khiến cho nhiều nhà nghiên cứu ngày nay cũng
băn khoăn. Nói như nhà nghiên cứu Trương Tửu: một yếu tố mới, khá đậm đặc ở
thơ văn Nguyễn Công Trứ so với quan niệm “hành lạc” trong văn học cổ điển ở
nước ta và ở Trung Quốc là yếu tố diễm tình, sắc tình. Trong văn chương truyền
thống của Nho giáo “hành lạc” là “bầu rượu túi thơ”, là “ngao du sơn thuỷ”, là “cầm
kì thi họa” với các thu chơi thanh cao và tao nhã. Trong cái “hành lạc” ở Nguyễn
Công Trứ có thêm yếu tố tình dục, có những khao khát khoái lạc xác thịt đằng sau
và bên cạnh những thú vui tinh thần. Chính điều này làm cho không phải mọi người
xưa nay đều ưa Nguyễn Công Trứ và cho đến bây giờ những người theo quan niệm
đạo đức khe khắt vẫn cho ông là “tục” và “suy đồi”. Ta hãy nghe những vần thơ
đậm chất đời thường của cụ Thượng Trứ:
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ tơ đào còn mảnh mảnh.
54
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất toạ lê hoa áp hải đường.
(Tuổi già cưới vợ hầu)
Hay:
Liễu tía, đào hồng, mai trắng trắng,
Lan tươi, huệ tốt, lí xanh xanh.
Thêm hương khi gió lá mưa cành,
Mở mặt thấy giang san cười chúm chím.
Khách thập thuý say màu hoa diệm,
Đối mặt hoa mà cầm, mà kì, mà tửu, mà thi.
(Yêu hoa)
Những vần thơ như làm người đọc chuếnh choáng. Yếu tố yến yến, hường
hường khiến con người ta khó cưỡng lại và đó là đặc trưng tiếng thơ hành lạc -
Nguyễn Công Trứ. Với ông tham gia hành lạc, say mê hát ả đào để được sống là
chính mình với hỷ nộ ái ố ngay giữa chốn thị thành mà không cần phải tìm đến
chốn thâm sơn cùng cốc. Không gian hát ả đào không màu mè quan cách, không
mũ áo cao sang, không lễ nghi giả tạo. Lời ca khúc ả đào sâu sắc thấm thía triết
luận nhiều vấn đề về nhân tình thế thái. Nhạc lối hát ả đào ngọt ngào, lay động con
tim… sống trong không gian hát nói con người đều cảm thấy mình thoát tục. Bỏ
hết các lớp áo cao, mũ dài con người được về sống thật với chính mình. Một số
bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ viết theo đề tài hành lạc có thể liệt kê:
Cầm kì thi tửu, Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Yêu hoa, Chữ nhàn, Thích chí ngao du,
Uống rượu tự vịnh, Hành tàng, Bài ca ngất ngưởng và cả Tuổi già cưới vợ hầu .
Thậm chí ngay cả tác phẩm hát nói Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ bên
cạnh cái uy phong lẫm liệt của đô đốc Hải An thì lại có một cái gì đó rất đời thường
với thú yến yến hường hường lấp lánh trong lời thơ.
55
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
(Bài ca ngất ngưởng)
Một phong cách sống ngông nghênh tài tử đến thế là cùng. Lên chùa lễ
phật, đến nơi chay tịnh, sắc sắc không không nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn cho
đi theo một đôi hầu gái má phấn môi hường, đàn ca sáo nhị. Phải chăng ông
không hiểu lẽ đời? Phải chăng ông coi thường thế tục? Một nụ cười hài hước,
châm biếm xuất hiện trong tứ thơ. Có rất nhiều nghi vấn được đặt ra và cũng có
rất nhiều những quan điểm trái chiều về hành động sống táo bạo đó của cụ
Thượng Trứ. Tuy nhiên chúng ta hãy nhìn bản chất của hành động để nhận xét.
Nếu xét theo quan niệm nhà nho tài tử của Nguyễn Bách Khoa: Những con người
tài tử, họ không sống cho Tổ quốc, không sống vì đạo lí. Họ sống vì nghệ thuật,
sống với cái đẹp. Suốt đời họ chỉ đi tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan
niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm
thơ, ở gảy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi”(Sdd, tr140-142) nhưng Nguyễn
Công Trứ cũng không phải, cả cuộc đời ông đã phấn đấu nỗ lực cho công danh, sự
nghiệp. Nếu cho rằng ông chưa thấu suốt lẽ đời thì cũng không đúng vì bản chất con
người ông được đào tạo, được trưởng thành từ cửa Khổng, sân Trình lẽ nào ông
không nắm bắt được những quy định đó. Nói ông là người coi thường thế tục cũng
không hẳn vì ông rất tôn trọng khuôn phép, tôn ti. Vậy chỉ còn một cách lý giải duy
nhất đó là quan điểm sống hành lạc của ông: khi đã trả xong món nợ tang bồng,
người nam nhi đó quay về sống thực với chính mình. Khát vọng được sống là mình
với tất cả hỷ nộ ái ố làm nên nét đặc trưng trong thơ Nguyễn Công Trứ:
- Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,
Có yến yến hường hường mới thú.
56
Khi đắc ý mắt đi mày lại,
Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng.
(Tài tình)
Hay:
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù.
(Chơi xuân kẻo hết xuân đi 2)
Triết lí hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ thực chất là một dạng biểu hiện
của ý thức cá nhân. Khi con người ta khát khao được sống là chính mình, với tất cả
"hỉ, nộ, ái, ố" thì lúc đó ý thức cá nhân xuất hiện. Xét về cốt lõi ý thức cá nhân đồng
nghĩa với một triết lí nhân sinh sâu rộng hơn đã nảy sinh và tồn tại hàng ngàn năm ở
phương Đông cũng như ở phương Tây - triết lí “an lạc”, trong đó chữ “an” có ý
nghĩa tinh thần, ý nghĩa chủ quan. Cái an hiểu theo nghĩa ấy là điều kiện tiên quyết
để cho con người được hưởng cái “lạc”, tức là đạt được mục đích sống. Ba điều trên
tạo cho con người một sự hài hoà, tự tin, phong lưu, tự do đứng trên mọi được mất
khen chê và đó là bước phát triển cao nhất của ý thức cá nhân và Nguyễn Công Trứ
đã làm được điều đó. Với Nguyễn Công Trứ, chơi, hành lạc là đủ thứ: có tình, có
cầm, kỳ, thi, tửu đã đành còn có thú thiên nhiên với trăng gió, cỏ hoa:
"Liễu tía đào hường mai trắng trắng
Trăm hoa cùng bẻ một cành"
(Yêu hoa)
Trong bản tuyên ngôn về kẻ sĩ cũng như trong một số bài thơ khác, ngay từ
đầu Nguyễn Công Trứ đã có chủ trương con người được hành lạc. Ông xếp nó
thành một mục trong chương trình sống lý tưởng của mình. Theo Nguyễn Công Trứ
con người chỉ được tận hưởng khi đã tận hiến (hoàn thành trách nhiệm với đời). Chỉ
có thể “thảnh thơi thơ túi rượu bầu”, khi ‘nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”, và
57
Nguyễn Công Trứ say sưa miêu tả cái thú hành lạc ấy“Nhà nước yên mà sĩ cũng
thung dung/Này này sĩ mới hoàn danh”.
Ở Nguyễn Công Trứ hành lạc tức là bày ra những trò vui để hưởng thụ về
đường cảm giác. Hành lạc của ông từ những thú vui thanh cao đến những thú vui
trần tục nhât: thú cầm kì thi tửu, thú đánh tổ tôm, thú hát ả đào và cả thú vui sắc
dục…
Thú cầm kì thi tửu:
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay
Đàn năm canh réo rắt tính tình dây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rươụ ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú đánh tổ tôm.
“Nhân sinh quý thích chí
Cuộc ăn chơi gì hơn thú tổ tôm
Tinh kinh luân xuay dọc xuay ngang
Cơ điếu đạc quân ăn quân đánh”
Thú hát ả đào:
“Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề,
Có yến yến hường hường mới thú
Khi đắc ý mắt đi mày lại
Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng”.
Là một kẻ tài tình Nguyễn Công Trứ hành lạc bằng rất nhiều cái « thú »,
trong đó « thú hát ả đào là niềm say mê hơn cả. Thời trai trẻ, ông coi hát ả đào là
một cái thú của kẻ phong lưu để tỏ mình không phải như bọn “tiền đếm gạo lường”.
58
Trải nghiệm cuộc sống, ông thưởng thức hát ả đào là để tỏ ra mình ngất ngưởng,
ông nêu lên thành triết lí của cuộc sống:“Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy/Nếu
không chơi thiệt ấy ai bù”. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã từng nhận xét: “thú
chơi ca trù vốn là một thú chơi có nguồn gốc dân gian đến hồi cuối thế kỉ XVIII
đầu thế kỉ XIX đã rất phổ biến trong tầng lớp phong kiến, quý tộc và giới nho sĩ.
Nhưng công khai nói ra thú chơi đó bằng thơ ca thì hầu như Nguyễn Công Trứ là
người đầu tiên: ông chỉ nói lên một sự thật đã từng không được người ta nói tới.
Và ta không thể không ghi nhận yếu tố thân xác, sắc dục đậm đà trong thơ hành
lạc của ông” (theo Sđd, tr 35). Nguyễn Công Trứ khác các nam nhân nhà nho khác
ở chỗ nói to lên sự thật. Đàn ông xưa thường lấy nhiều vợ, thường đi hát với ả đào
nhưng thường im lặng, giấu kín. Với Nguyễn Công Trứ thì không. Ông cũng nói to
lên sự thật hưởng lạc của thời đại, bởi lẽ đó là thực tế đời sống của nhiều người
trong giới trí thức nho sĩ và quý tộc: “Chơi cho lịch mới là chơi, Chơi cho đài các
cho người biết tay”. Có thừa nhận hành lạc là một món nợ, một cuộc chơi, một
nghề chơi thì mới biết nâng ăn chơi lên hàng nghệ thuật. Đây là điều mà ta phải
bình tâm để xem xét. Vậy chúng ta có thể kết luận một cách ngắn gọn : đích chính
của Nguyễn Công Trứ khi hành lạc là để sống thực với bản chất tài tử trong con
người mình.
Tuy nhiên, bàn về biểu hiện đa tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng
xuất hiện rất nhiều ý kiến: Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc cho là sa đọa chứ không
khen, không ca ngợi đa tình; nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho là Nguyễn Công
Trứ kết hợp cả khoe tài và phụng sự triều đình (trung và hiếu) chứ không chỉ thuần
túy hoạt động để khoe tài; cho là Nguyễn Công Trứ mang nặng tư tưởng nam
quyền, cho phép người đàn ông chơi bời, hưởng lạc, nhưng lại lên án Thúy Kiều tà
dâm...
Quả thực, bên cạnh chất tài tử, Nguyễn Công Trứ bộc lộ sự bảo thù của nhà
nho với tư cách một người đàn ông sản phẩm của xã hội nam quyền nên cũng có khi
ông lại coi Thúy Kiều là tà dâm (Vịnh Thúy Kiều ) vì Thúy Kiều đã không chết như
liệt nữ , lại nhìn nhận người con gái Nam Xương chết oan uổng nhưng tình ngay lý
59
gian. Nghĩa là ông vẫn bênh vực người chồng, đứng về phe nam giới. Bàn về điều này,
nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã viết: “Chính vì thực với lòng mình - một điều rất
đáng quý trong thơ ông - nên Nguyễn Công Trứ cung cấp cho chúng ta, những người
đọc hiện đại, một thông tin quan trọng về mặt trái của cái nhìn nam quyền mà nhà nho
xưa chủ trương đối với phụ nữ. Tống Nho rất nghiệt ngã với vấn đề trinh tiết của phụ
nữ (chết đói là sự nhỏ, thất tiết là chuyện lớn). Điểm này đã được nhiều nhà nghiên
cứu từ lâu nhắc đến. Phan Khôi từ năm 1929 trên báo Phụ nữ tân văn đã lên án quan
niệm trinh tiết đầy màu sắc nam quyền của Tống Nho” (Sđd, tr39-40)
Vì mang nặng tư tưởng Nho giáo, Nguyễn Công Trứ tỏ ra khắt khe đối với
phụ nữ, ông tỏ ra không có chút gì cảm thương đối với những phụ nữ xấu số trong
xã hội. Càng đi vào hành lạc ông lại càng coi thường phụ nữ, Nguyễn Công Trứ ví
họ như những bông hoa mua vui:“Khách thập thuý say màu hoa diễm/Đối mặt hoa
mà cầm, mà kì, mà tửu, mà thi...” (Yêu hoa). Bên bàn trà, tiệc rượu hay cả trong thơ
văn ông đều có thái độ không được thực sự tỏ ra tôn trọng người phụ nữ mà còn có
ý coi thường như qua bài “Bỡn cô đào già”. Hoặc những bài Nguyễn Công Trứ
vịnh Thúy Kiều, vịnh Nam Xương liệt nữ…thật tàn nhẫn, chua xót. Nguyễn Công
Trứ phê phán Thuý Kiều đã không quyết tâm chết để bảo toàn phẩm giá, trinh tiết
mà cứ sống vậy trong chốn thanh lâu: Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa/Đoạn
trường cho đáng kiếp tà dâm!
Trước cái chết oan ức của người liệt nữ Nam Xương, ông cũng tỏ ra rất thờ
ơ vô tình. Thậm chí ông còn lớn tiếng bênh vực cho Trương Sinh. Mang trong mình
quan niệm cổ hủ của lễ giáo phong kiến “trọng nam khinh nữ”, ông cho rằng muốn
gì thì người phụ nữ vẫn sai, người đàn ông là vô can bất luận trường hợp nào: Đọc
đến truyện Nam Xương liệt nữ/Dẫu tình ngay song lí cũng là gian/Thực cùng chồng
chi nỡ dối cùng con/Gương nữ sắc trông vào chưa phải lẽ. Nguyễn Công Trứ tuy
được gọi là tài tử nhưng lại bảo thủ trong cách nhìn trinh tiết phụ nữ. Bản thân
Nguyễn Công Trứ theo điều tra xã hội học thì ông có tới 13 vợ chính thức, ngoài ra
còn có những cuộc tình trăng gió với các thuyền quyên bên tiệc hát ả đào….Nhưng
lại có cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ vô cùng tàn khốc, khắt khe với những số phận
60
của những người phụ nữ là nạn nhân của chính xã hội đa thê đó. Điều này một phần
có thể giải thích được bằng chi tiết tiểu sử: ông sinh ra trong gia đình Nho giáo
truyền thống. Cha là Nguyễn Công Tấn trung thành với triều Lê, từng chống lại Tây
Sơn; chị là Diệu Điển thiền sư, bà góa chồng lúc 19 tuổi nhưng không tái giá, qui y
cửa Phật nên có tên như vậy. Vậy thì cái nhìn của Nguyễn Công Trứ mang tinh thần
Nho giáo bảo thủ đối với vấn đề trinh tiết của Thúy Kiều (trong bài Vịnh Thúy Kiều)
là có thể hiểu được. Tuy nhiên, đó vẫn là nét đáng phê phán trong con người
Nguyễn Công Trứ.
2.3. Chất tài tử của Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời thực qua nguồn sử
liệu, giai thoại
2.3.1. Nguyễn Công Trứ - nhà nho đa tài
Theo những phần mục đề cập đến Chí nam nhi trong chương 1 của luận văn,
chúng ta đã có những minh chứng cụ thể về con người tài cao, chí lớn của Nguyễn
Công Trứ. Đồng thời trong diễn văn kỉ niệm 100 năm ngày mất của Nguyễn Công Trứ,
ông Nguyễn Đăng Thục đã nhấn mạnh: “Nguyễn Công Trứ ở Việt Nam đã trả lời cho
nguyện vọng của dân tộc về lí tưởng con người toàn diện, con người trí thức, con người
ý chí hành động, con người tình cảm nghệ thuật…”. Ở ông hội tụ những yêu cầu cần có
của người quân tử: tài học thức, tài thao lược, tài kinh bang tế thế. Bản chất thị tài đã
được người quân tử thể hiện và khẳng định rõ nét trong chính quãng thời gian hành đạo
của mình.
Tài năng về học thức uyên bác uyên thâm, ứng khẩu linh hoạt giúp ông
giữ chức Chánh chủ khảo trường thi tại Hà Nội để tìm kiếm người tài ra phò vua
giúp nước
Tài kinh bang tế thế: gần 30 năm trên con đường hoạn lộ ông đã cống hiến
hết mình “vì nước quên thân, vì dân phục. Các công trạng: dẹp loạn, khai hoang ở
các tỉnh tiêu biểu Ninh Bình, Thái Bình, Hải Dương, Quảng Yên…cho đến ngày
nay Tỉnh Ninh Bình với huyện Kim Sơn gồm 7 tổng tân lập, tỉnh Nam Định với hai
huyện tân lập gồm 10 xã, và tỉnh Thái Bình với huyện Tiền Hải gồm 7 tổng tân khai
61
vẫn còn kia. Dân cư đông đúc của ngót 30 xã thôn, với những đồng ruộng tân khai
trù phú, lên tới con số kỉ lục 37.070 mẫu thẳng cánh cò bay, đã đủ nói lên sức hoạt
động vô song của đôi bàn tay một nhà Nho an bang tế thế. Những giấc mộng “túi
kinh luân từ trước để nghìn sau” và chí nguyện của “Đấng trượng phu một túi kinh
luân” đã được thoả mãn hoàn toàn. Lòng dân hai hạt đối với cụ Nguyễn Công Trứ.
Tục ngữ có câu rằng: ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Dân hai hạt Tiền Hải và Kim Sơn
khi đã lập thành thôn xã, có ruộng đất cày bừa, làm ăn quây quần với nhau, một
ngày một thêm thịnh vượng, thêm đông đúc, thì đâu đâu cũng đều tưởng nhớ đức
trạch của cụ mà lập đền Sinh từ thờ cụ. Hiện nay ở huyện Tiền Hải, làng Đông
Quách, có đền thờ rất nguy nga.
Rõ ràng cái tài của Nguyễn Công Trứ là một cái tài thực sự được chứng minh
bằng hành động thực tiễn vì nước vì dân chứ đâu đơn giản là khoe tài như Trần
Đình Hượu nói. Trước những cống hiến đó, ông còn nhận được những ân huệ, sủng
ái rất mực của vua Minh Mạng:
Tháng 6 năm Minh Mạng thứ 7 (1826) nhân có tang thân mẫu, cụ định xin
ưu, nhà vua phát cho 100 lạng bạc, sai người đem đến nhà ban cấp. Sau rồi bổ
chức Tham Hiệp Thanh Hóa.
Tháng 10 năm Minh Mạng thứ 7, Nguyễn Công Trứ bị bệnh. Vua được tin
xuống chỉ rằng: Nay được tin Nguyễn Công trứ đi đường bị bệnh, chưa được lành,
lòng trẫm luống những bất an. Đặc phái một tên thị vệ đem theo một viên ngự y bắt
trạm đi tới nơi điều trị, vụ được lành.
Minh Mạng năm thứ 13, Nguyễn Công Trứ bổ làm Bố chánh Hải Dương.
Lúc ra đi hoàng đế có dụ rằng: Khanh nhà nghèo, trẫm biết rất rõ, nay ra tân lỵ, cứ
giữ lòng thanh liêm như thế, nếu chi dụng không đủ, thì mật tấu về Trẫm sẽ chu cấp
cho. Đến tỉnh lỵ được hai tháng, cụ túng tiêu, mật tấu về, vua sai thị vệ đem ban cho
hai chục bánh thuốc chè, mỗi bánh ở trong có một nén bạc.
62
Sau khi dẹp giặc an dân, triều Nguyễn chủ trương dựng bia võ công để ghi
công mãi mãi đời sau. Trong số các quan quân đi đánh đông dẹp bắc, Nguyễn Công
Trứ cũng nằm trong danh sách bảng vàng bia đá .
Mối quan hệ vua –tôi gắn bó khăng khít như cha – con khi ban thưởng lễ ôm
gối (tất bão). Cách mà triều đình ban đặc ân cho Nguyễn Công Trứ chứng tỏ vua
đánh giá cao công lao phục vụ của ông. Điều đặc biệt, mặc dù ông hết lòng phụng
sự cho triều đình phong kiến đang có dấu hiệu suy đồi (với trên 400 cuộc nổi loạn).
Nhưng không phải vì thế mà ông đi ngược lại những lợi ích của quần chúng nhân
dân. Nhân dân cả nước nói chung và các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải
Dương, Quảng Yên đều mang ơn mưa móc trời biển của ông mà đã lập đền thờ
sống (sinh từ) để báo đáp ơn nghĩa…Như vậy, Nguyễn Công Trứ không chỉ sống
với vua với triều đình phong kiến mà ông còn sống được trong lòng dân. Vì vậy ông
bất tử.
2.3.2. Nguyễn Công Trứ - nhà nho đa tình
Cái chất ngông đầy hào sảng của một bậc anh hùng tài tử (tuấn kiệt), văn võ
toàn tài đã được biểu hiện rất nhiều trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Nhưng qua
các giai thoại chúng ta khám phá thêm một điều: chất ngông đó dường như đã là
bản tính của cụ Thượng Trứ ngay từ khi sinh ra cho tới lúc giã từ cõi thế. Cụ vẫn
sống ngất ngưởng hành đạo bất khuất kiên trung giữa thế gian như cây thông trên
đỉnh núi, như cây tùng cây bách giữa phong ba. Đặc biệt, lật giở những trang giai
thoại hẳn một “kho” nguyên liệu chất đầy những “nguyên liệu sống tươi ngon” về
thú chơi ả đào, về chất tài tử, lãng mạn đa cùng của cụ Thượng Trứ. Không dấu
giếm, không riêng tư, những hỷ - nộ - ái - ố những trộm nhớ thầm yêu, mắt đưa mày
liếc trong từng khúc hát cung đàn được bộc lộ rõ nét trong các giai thoại.
Quan niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ là một lợi thế chiến đấu. Theo
Nguyễn Công Trứ đẳng cấp nho sĩ lấy chí hành lạc, lấy sự giàu có trong tâm hồn tư
tưởng của mình để đối chọi lại với sự giàu có phù phiếm về mặt vật chất của bọn
phú hộ hãnh tiến. Đó là một quan niệm của đẳng cấp sĩ phiệt dùng để phân biệt
mình với giai cấp phú hộ và toàn thể dân gian. Trong khi giai cấp phú hộ là cần lao
63
là vun xới, là kiếm nhiều tiền, lo xã cho tương lai. Cho nên người phú hộ thường
giản dị, thô sơ trong các thú ăn chơi. Họ chỉ say: sự làm việc và mê duy nhất: tiền
bạc. Phú hộ thù ghét quan điểm “chơi cho lệch đất long trời” của giới sĩ phiệt. Trái
lại quan điểm của nhà nho tài tử không chỉ cống hiến mà còn hưởng thụ. Họ say, họ
mê nhiều thứ: rượu, đàn, thơ, cờ, giăng, gió…họ sống nghênh ngang, đầy đủ cả một
kiếp người. Nghệ thuật hành lạc chỉ là một khía cạnh của nghệ thuật thống trị.Trong
quan niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ đã bộc lộ một thái độ tự do, tự do hưởng
thụ, tự do ca ngợi hưởng thụ. Đó là tư tưởng đề cao con người tự do chống lại sự
khắt khe của tư tưởng đề cao con người xã hội của lễ giáo.
Cảm xúc lãng mạn, đa tình dường như là bản chất trong con người tài tử
Nguyên Công Trứ. Quan niệm hành lạc của ông có từ những thú vui thanh cao đến
những thú vui trần tục nhất: thú cầm kì thi tửu, thú đánh tổ tôm, thú hát ả đào và cả
thú vui sắc dục. Giai thoại “Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng” đã lột tả hết
được chất đa tình trong con người cụ Thượng Trứ.
Thuở hàn vi, và cả khi đã công thành danh toại, chức trọng quyền cao, hay
khi đã về già cưỡi bò ngao du sơn thuỷ, Nguyễn Công Trứ vẫn rất mê ca hát - nhất
là hát Phường Vải và Ca Trù.
Gần làng Uy Viễn có làng Cổ Đạm là một phường Ca Trù nổi tiếng vào loại
nhất nước, có nhiều đào nương tài giỏi và xinh đẹp, trong số đó có nàng tên là Hiệu
Thư. Tương truyền cô đào ấy phong tư diễm lệ, tài hoa xuất chúng, giọng hát tuyệt
hay, nhưng tính tình có lẽ vì thế mà kiêu kì, chỉ tiếp những vương tôn công tử,
những người nổi danh trong chốn. Nguyễn Công Trứ say mê Hiệu Thư, nhưng vì
nhà nghèo, không thể quen thân gần gũi được nên liền tìm cách xin vào làm kép cho
Hiệu Thư, thường nàng đi hát ở đâu thì chàng cũng được cắp đàn đi theo.
Một tối nọ gánh Ca Trù Cổ Đạm được mời sang hát ở Vĩnh Yên cách đó khá
xa, Hiệu Thư được điều đi phục vụ, và nàng xin ông bầu gánh mời Nguyễn Công
Trứ - lúc này vừa đậu Giải nguyên. Trên đường đi, không biết vì cớ gì mà hai người
- chàng và nàng - tụt lại sau mọi người, chỉ có một đứa tiểu đồng nhỏ theo hầu. Mải
mê nói chuyện, lúc đến giữa cánh đồng rộng, Nguyễn Công Trứ giả vờ sửng sốt vì
64
phát hiện ra mình đã bỏ quên dây đàn ở nhà, và ngon ngọt nhờ chú tiểu đồng chạy
về lấy hộ. Thế rồi… trên cánh đồng lúa giập giờn chỉ còn trai tài gái sắc… cũng
giập giờn… và…tiếng “Ứ hự” vang lên kì diệu, lạ lùng….
Mối tình trăng gió của thủa hàn vi đó được đi vào quên lãng mãi tới khi
Nguyễn Công Trứ đã trở thành Tham tri bộ Binh kiêm Tổng đốc Hải An. Một lần,
nhân ngày vui ông cho tổ chức cuộc hát xướng tại tư dinh, nhờ các quan sở tại mời
các danh ca đến phục vụ. Chẳng ngờ trong số những người được mời đến lại có cả
cô đào Hiệu Thư. Khi bước ra trình diễn, ngước mắt trông lên, nhận ra quan Tổng
đốc ngồi nghe hát kia chính là chàng kép Trứ ngày nào trên cánh đồng lúa huyện
nhà, nàng liền cất giọng: Giang san một gánh giữa đồng/Thuyền quyên “ứ hự” anh
hùng nhớ chăng?
Nghe câu hát, Nguyễn Công Trứ như giật mình bởi một cảm giác vừa nhói
đau, vừa ngọt ngào từ đâu đó sâu trong kí ức hiện về…
Chuyện Nguyễn Công Trứ say mê hát ả đào và cả những thú vui nhuốm màu
sắc dục được bạn bè đều biết tường tận. Câu chuyện về người kỹ nữ hát ả đào Hiệu
Thư đã làm sống dậy ký ức thời trai trẻ, thuở hàn vi. Lời hát “thuyền quyên ứ hự
anh hùng nhớ chăng” như một lời gợi nhắc khéo léo mà tình tứ khiến mệnh quan
triều đình phải giật mình nhìn lại. Bản chất đa tình, phong lưu đã ăn sâu vào máu
của người tài tử Nguyễn Công Trứ để rồi ngay từ thủa tay trắng (hàn vi) ông đã có
những suy nghĩ và hành động táo bạo vi phạm những ranh giới cho phép của xã hội
đương thời về đạo đức nho gia. Nhưng có một điều đáng ghi nhận trong con người
quân tử Nguyễn Công Trứ là dám làm dám chịu. Ông công khai chuyện “say hoa,
thích lá”, ông công khai cả thú yến yến hường hường mà không hề dấu diếm. Ông
đã sống thật với chính con người mình một cách đường hoàng, đáng nể phục. Chính
vì vậy sau tiệc hát ông làm bài thơ chia sẻ câu chuyện tình duyên chưa tròn giữa
giá mấy mười mươi/Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười/Giăng xế nhưng mà cung
mình với người kỹ nữ đồng thời thể hiện tấm lòng thương cảm: Liếc trông đáng
chẳng khuyết/Hoa tàn song lại nhuỵ còn tươi/Chia đôi duyên nợ, đà hơn một/Mà
nét xuân kia vẹn cả mười/Vì chút tình duyên nên đằm thắm/Khéo làm cho bận khách
65
làng chơi. Đồng thời, giai thoại này cũng là câu trả lời, cắt nghĩa cho bài thơ “73
tuổi cưới hầu gái”…trong thơ ông.
Bàn về thú hát ả đào, nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn từng kết luận: “Thực
ra, thú chơi hát ả đào này đã khá phổ biến trong giới trí thức nho sĩ và quý tộc
phong kiến từ các thế kỉ trước. Các tư liệu hiện có cho thấy chỉ riêng gia đình
Nguyễn Du, từ ông anh cả Nguyễn Khản đến Nguyễn Du đều thích môn nghệ
thuật này. Nguyễn Khản còn đích thân soạn lời cho các cô ả đào hát, một công
việc mà Nguyễn Công Trứ sẽ đẩy lên thành một nghệ thuật hoàn chỉnh.” (sách đã
dẫn, tr 34,35). Như vậy, hát ả đào trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu
của những bậc công hầu danh tướng. Bản thân Nguyễn Công Trứ từ thuở thiếu
thời (chưa mũ cao, áo dài) ông đã mê hát ả đào. Ông có quan hệ mật thiết với
làng ca trù Cổ Đạm gần quê ông, một làng có truyền thống về nghệ thuật ca trù
đến mức đã từng có nghệ nhân vào hát trong cung đình nhà Nguyễn...Toàn bộ
những hiện thực trên đủ thấy thú chơi ca trù vốn là một thú chơi có nguồn gốc
dân gian đến hồi cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đã rất phổ biến trong tầng lớp
phong kiến, quý tộc và giới nho sĩ. Nhưng có một điều mà chúng ta cần lưu
tâm,với Nguyễn Công Trứ ông vừa say điệu hát cung đàn, vừa say người ca nữ.
Chính vì vậy mới xuất hiện những giai thoại mà chỉ riêng Nguyễn Công Trứ mới
có. Lời đối đa nghĩa trong giai thoại “Đôi sân khấu một khúc cầm” mà cụ nghè
Tân gửi tặng cụ Trứ khiến chúng ta càng cảm thấy chất đa tình, sắc dục thấm sâu
vào con người ông Giang sơn tóm lấy đôi sân khấu/Văn vũ ra tay một khúc cầm.
“Giang sơn” ở đây được lấy tứ từ câu thơ của đào nương Hiệu Thư tặng cụ Trứ.
Còn “tóm lấy đôi sân khấu” đối với “ra tay một khúc cầm” (cầm một khúc!) thì quả
là vừa hay, chuẩn, vừa… nghịch ngợm...
Giai thoại “Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng” và “Đôi sân khấu một
khúc cầm” được truyền khẩu ngoài tính chất châm biếm hài hước là yếu tố sắc dục
rất đậm nét. Đó là một điều khẳng định yếu tố đa tình, và đặc trưng dục vọng trong
con người Nguyễn Công Trứ. Bởi chỉ khi viết về Nguyễn Công Trứ thì dân gian
mới xuất hiện những giai thoại kể trên.
66
Giai thoại “Phong lưu đáo lão thế gian vô” lại góp phần cắt nghĩa những hình
ảnh lạ mắt, lạ tai “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” xuất hiện trong thi phẩm hát nói
tiêu biểu “Bài ca ngất ngưởng”: Nghỉ hưu, Cụ Trứ thường cưỡi bò vàng đạc ngựa cùng
cô vợ trẻ (hầu non) vừa mới cưới, đi ngao du và ca hát. Có lần ông gọi cả gánh ca trù
đến hát ngay giữa sân chùa. Vị sư trụ trì tại đây sợ quá, bèn tìm đến nhờ quan Bố chính
Hà Tĩnh lúc đó là Hoàng Nho Nhã can thiệp. Quan Bố chính cũng say sưa với thơ hay,
đào đẹp, giọng ngọt, đàn êm, cuối buổi tặng hai câu đối rất hay: Sự nghiệp kinh nhân
thiên hạ hữu/Phong lưu đáo lão thế gian vô! Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người
đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn còn, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) thì thế
gian không có!
Qua các giai thoại trên, chúng ta nhận thấy một điều đề tài hưởng lạc của
Nguyễn Công Trứ có nét khác biệt với đề tài hưởng lạc của các nhà nho khác cùng
thời, khác thời. Ví dụ, Nguyễn Du cũng nói hành lạc nhưng không thấy có vị sắc
dục, chỉ có “có chó cứ giết thịt, có rượu cứ nâng bầu”. Nguyễn Trãi, hành lạc là thú
ngao du sơn thủy Còn trong hành lạc của Nguyễn Công Trứ đậm màu sắc dục, trai
gái. Đây là nét đặc điểm nổi bật của con người tài tử Nguyễn Công Trứ. Người phụ
nữ với tính cách là đối tượng hành lạc xuất hiện nhiều với những tính chất khác
nhau trong sáng tác Nguyễn Công Trứ: lúc là cô ả đào, lúc là cô vợ trẻ, lúc là các cô
gái (một đôi dì) ông đưa theo lên chùa, lúc là cô đào già bị ông đua cợt…Giai thoại
“Càng già càng dẻo dai” khắc họa rõ chất đa tình, sắc dục trong con người Nguyễn
Công Trứ: Ngoại thất tuần (ngoài 70 tuổi) vẫn cưới vợ là một thiếu nữ má hồng
kém đến vài chục tuổi. Trong đêm hợp hôn, Cụ cùng nàng bày rượu, đập trống hát
ca trù và sáng tác một bài hát nói ngay lập tức được truyền tụng khắp vùng: và cho
đến tận ngày nay không “tay chơi già” nào là không biết, thuộc một đôi câu: Kìa kia
người mái tuyết đã phau phau/Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh khảnh. Hay: Nếu thiếp
mới hỏi chàng bao tuổi/Năm mươi năm trước hai mươi ba!/Càng già càng dẻo càng
dai!...
67
* Tiểu kết
Như vậy, thơ văn viết về con người tài tử ta thấy ông có cách nghĩ, cách sống
rất phóng khoáng khác hẳn với các nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm,…Tuy nhiên thơ văn vẫn chỉ là những ngôn từ mang tính ước lệ, tượng
trưng. Các giai thoại tiêu biểu trên, đã dựng lên một chân dung Nguyễn Công Trứ
qua cái nhìn “dân gian” - từ góc độ khác với những lí giải, nghiên cứu hàn lâm - của
hậu thế về con người của cụ Thượng Uy Viễn. Có thể khái quát những nét đặc trưng
trong giai thoại về nhà nho tài tử Nguyễn Công Trứ qua một số ý lớn sau:
Thứ nhất, là một trí thức thành danh, là một nhà Nho được đào tạo bài bản,
được hấp thu một nền học thuyết Nho giáo chính thống, bản thân Nguyễn Công Trứ
là nhà Nho hành đạo. Ông suốt đời theo đuổi lí tưởng làm người anh hùng với khát
vọng kinh bang tế thế, là người trí túc đa tài, đã từng «Làm nên tiếng anh hùng đâu
đấy tỏ». Nhưng đằng sau đấy, ta còn thấy cái tôi tài tử ngông ngạo sống ngoài vòng
cương toả của lễ giáo phong kiến bó buộc vì thế ông có phong cách sống tài tử: tài
tử trong hành đạo và tài tử trong hành lạc, điều này tạo nên một nhân vật phá cách
trong giới nho sĩ, một dáng điệu "ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ.
Thứ hai, ngất ngưởng, tài tử không chỉ bộc lộ trong thơ bộc lộ trong chính
phong cách sống của ông thông qua các giai thoại. Liệu chúng ta có nên hiểu phong
cách ngông cũng là một cách sống an thân để tham gia hoạt động xã hội của Uy
viễn tướng công hay không? Sống trong môi trường xã hội phong kiến lắm nghi kỵ,
độc đoán thì một con người có tài, có tình, có tâm được nhân dân mến mộ lập đền
thờ sống (sinh từ) như cụ Thượng Trứ nếu như không sống theo phong cách của Mẹ
Mốc trong thơ Nguyễn Khuyến “Tấm hồng nhan đem bôi lấm lòa xòa” thì liệu có
còn giữ được cái đầu minh mẫn, trí tuệ để tung hoành ngang dọc, để tham gia các
hoạt động xã hội làm lợi cho muôn dân xã tắc hay không? Đó cũng là một vấn đề
mà luận văn xin đặt ra để chúng ta – thế hệ hậu thế có một cách nhìn cách khám phá
nhiều chiều về con người Nguyễn Công Trứ tránh cách hiểu quy chụp, lầm lẫn giữa
hiện tượng và bản chất.
68
CHƯƠNG 3: CẢM THỨC VỀ NHÂN TÌNH THẾ THÁI CỦA NGUYỄN
CÔNG TRỨ TRONG THƠ VĂN VÀ TRONG NGUỒN SỬ LIỆU, GIAI THOẠI
3.1. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ trong thơ văn
Trong công trình hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, các nhà nghiên cứu đã nhận định: Nguyễn Công Trứ là cái vạch nối giữa thời
kỳ Nguyễn sơ và thời kỳ suy tàn, thối nát của xã hội phong kiến sau đó. Gần 30
năm (1820-1848) trên con đường hoạn lộ, Nguyễn Công Trứ chứng kiến nhiều bước
đi thăng trầm của lịch sử và của chính bản thân. Ông từng nếm trải đủ mọi cung bậc
cảm xúc, đủ mọi trạng thái. Là một mệnh quan triều đình, có đóng góp nhiều công
trạng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước, được vua triều Nguyễn rất tin dùng,
nhưng Nguyễn Công Trứ cũng gặp không ít những sóng gió, bi ai. Nhà nghiên cứu
Lê Thước là người đầu tiên có nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về con người và
sáng tác thơ văn của Nguyễn Công Trứ. Ông khái quát về cuộc đời làm quan của
Nguyễn Công Trứ bằng 4 chữ “hoạn hải ba đào” (sóng gió trên biển làm quan) ...
Nhưng nếu đọc trong thơ, bản thân Nguyễn Công Trứ chỉ định danh những trắc trở
mà ông gặp trong cuộc đời là nhân tình thế thái, là thói đời. Vậy chúng ta hãy cùng
nhau lý giải nguyên nhân “Vì sao Nguyễn Công Trứ lại chịu tình cảnh mà ít nhà
nho xưa mắc phải đó ?”
Bàn về điều này, Theo Lê Thước lý giải, sở dĩ cuộc đời làm quan của
Nguyễn Công Trứ lận đận vì ông có tài, người có tài hay cậy tài và mang oán. Nhà
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào đặc điểm của chế độ phong kiến chuyên chế
“thường dùng ân oai để thao túng và lung lạc người ta” và sự ghen ghét đố kỵ của
các quan đại thần trong triều để giải thích cảm thức thế thái nhân tình trong thơ
Nguyễn Công Trứ
Thật vậy, cuộc sống chốn quan trường, miệng đời hiểm ác, lợi ít hại nhiều đã
là cơ sở làm nên tiếng thở dài ngao ngán trong thế cuộc trong ông. Bên cạnh những
vần thơ đầy khí chất người quân tử ngạo nghễ, khát khao cống hiến, còn xuất hiện
hình ảnh con người chứa đựng nhiều nỗi niềm với đời, với những vấn đề thuộc
phạm trù đạo lý xã hội, nhân cách. Đọc thơ ông, ta thấy sự trăn trở, sự hoài nghi của
69
nhà thơ về cuộc sống, buồn lòng vì những cảnh đời đen bạc: Vận đỏ ghe người cho
muối cá/Hồi đen lắm kẻ xóc xương kình.Trong con mắt nhà thơ, những điều vịnh về
nhân tình thế thái có lồng yếu tố chính trị. Ông thấm thía với tình cảnh những người
lép vế trong xã hội, một xã hội không có cơ sở cho quyền tự do cá nhân. Ông thấy
rất rõ thực chất đạo đức của bọn quan lại dốt nát, hẹp hòi, ích kỷ. Đó là những con
người bất tài mà hay hại người, tráo trở, đảo điên, độc ác hơn cả loài cầm thú
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền, dở cũng hay
(Vịnh nhân thế thái)
Lúc giận dệt thêu ngay hóa vậy
Khi ưa tô vẽ méo nên tròn.
Hay:
Nghĩ những gần xa khéo gớm thay!
Sự đời tráo trở giống bàn tay.
Hãy xem gương trước to tày liếp,
Mà biết lòng người mỏng tựa mây.
(Vịnh sự đời)
Nguyên nhân sâu xa làm nên mọi biểu hiện kia trong cuộc sống thực ra cũng
là bởi tham lam mà thôi: Tiền tài hai chữ son khuyên ngược/Nhân nghĩa đôi đường
nước chảy xuôi. Sống trong môi trường phong kiến đang trên đà đi xuống, đồng tiền
trở thành một thế lực đen tối, đang chế ngự đời sống con người, nó trở thành thước
đo giá trị của con người. Đồng tiền đánh đổ nhân nghĩa, chi phối mọi tình cảm, mọi
mối quan hệ xã hội, làm đảo lộn hệ giá trị trong giới nho sĩ và giới quan trường.
Đương om sòm chớp giật sấm vang
Nghe xóc xách lại gió hoà mưa ngọt
(Vịnh đồng tiền)
70
Đạo đức luân lý cổ truyền đều rạn vỡ trước sức mạnh của đồng tiền. Nguyễn
Công Trứ cũng là một nhà nho phong kiến, bản thân sống cuộc sống nghèo khổ,
nhiều lúc ông cũng trở thành nạn nhân của đồng tiền. Cho nên ông càng căm ghét
nó. Bàn về cảm thức thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn viết: “Cũng là viết về “lợi”, về đồng tiền tanh hôi, về thói đời
người ghét của yêu, nhưng nhiều bài thơ, bài hát nói của ông có dư vị chua chát
và cay đắng của một người hoạt động thực tiễn đã nếm trải nhiều thất bại do thói
đời gây ra chứ không giản đơn chỉ là phản ứng đạo đức của một nhà nho đứng
bên ngoài, bên trên cuộc thế để quan sát và tỏ ý chán ngán thế tình đen bạc. Thơ
về “thế tình” của ông mang hơi thở của hiện thực, mang cảm giác xót xa, giận dữ
của người trong cuộc, của một nạn nhân đã từng chịu hậu quả của thế tình đen
bạc, nó góp phần giải thích vì sao ông chủ trương chống lại nạn hối lộ và bản
thân sống trong sạch”. (Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, tr 32). Thực vậy,
tiếng thơ Nguyễn Công Trứ không chỉ phê phán đồng tiền, cũng không chỉ thiên đả
kích chủ yếu về đạo đức xã hội theo quan điểm nhà nho như Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Thớt có tanh tao ruồi mới đậu/Ang không mật mỡ kiến bò chi (Vịnh đồng tiền).
Nguyễn Lộc trong tiểu mục “Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình” của
chương về Nguyễn Công Trứ trong Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII-hết thế
kỷ XIX , NXB Giáo dục, 1999) viết: “Cái xấu đầy rẫy trong cuộc sống, từ đám
cường hào mọt dân ở nông thôn đến hàng ngũ quan lại giữa triều đình. Trong cuộc
đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã đem hết sức mình ra cải tạo nó. Cố gắng của
ông không đem lại kết quả. Ông muốn phục vụ nhà Nguyễn thì nhà Nguyễn nghi
ngờ, ông muốn làm người thanh liêm thì triều đình bắt tội, ông đề nghị cải cách thì
phần lớn bị bác bỏ. Nhiều lúc Nguyễn Công Trứ muốn nhịn, nhưng càng nhịn lại
càng bị thiệt: “Nghĩ mình hay nhịn cho nên dại!”. Mà không nhịn thì làm gì? Nhà
thơ không biết mình phải làm gì. Bế tắc, giận dữ, có lúc ông buột mồm chửi đổng:
“Đ. mẹ nhân tình đã biết rồi/Lạt như nước ốc bạc như vôi” (Thế tình bạc bẽo).
Trong con mắt nhà thơ, thế thái nhân tình còn là những phương diện thuộc
về cơ chế của một xã hội không có cơ sở cho quyền tự do cá nhân, cho sự độc lập
71
sáng tạo của mỗi cá nhân và cá tính thường bị cắt xén cho vừa với thiết chế xã hội
độc tài chuyên chế. Chính vì vậy tâm lí trùm lên tất cả những bực tức ghê tởm ấy
một buồn bã mênh mang, một chán chường sâu thẳm
Thế thái nhân tình gớm chết thay!
Nhạt nồng trông chiếc túi vơi đầy.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền dở cũng hay
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Suy ra cho kĩ, chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Ông cố gượng, lấy thái độ giả câm, giả điếc để tránh những eo xèo của cuộc sống:
Ăn ở sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó lấy làm chơi.
Nghe như chọc ruột tai làm điếc,
Giận đã căm gan miệng mỉm cười.
(Cách ở đời)
Hay:
Những tiếng bấc chì nghe đã chán,
Mấy điều cạnh khoé nói thêm gay...
(Vịnh sự đời)
Thôi thôi chẳng nói chi cho lắm,
Vốn hễ ân thâm oán cũng thâm.
(Trách đời)
72
Chính vì vậy mà buổi đầu người anh hùng say sưa với chí nam nhi, trải qua
nhiều năm tháng làm quan cho nhà Nguyễn, va chạm nhiều thực tế; trước thói đời hoa
thường hay héo cỏ thường tươi là nguyên nhân chính làm nên cảm thức nhân tình thế
thái sâu đậm trong con người Nguyễn Công Trứ. Đời đen bạc, trách người đời, đó là
kết tinh của những trải nghiệm ngay từ lúc ông chưa thành đạt đến khi thực hiện chí
nam nhi. Trong một cái mà ông gọi là “đời”, nơi quan hệ chính trị bị chi phối bởi lòng
đố kị, ghen tuông, nơi không có chuẩn mực, thước đo khách quan cho tài năng, cho bản
lĩnh cá nhân, nơi ngự trị của thói quan liêu, nếp suy nghĩ không thực tế, nặng về giáo
điều sách vở. “Đời” trong cái nhìn của Nguyễn Công Trứ là cạm bẫy của tài năng, là
nơi triệt tiêu, chôn vùi hoài bão lớn lao, những năng động sáng tạo của cá nhân.
Như vậy, giải thích của nhà nghiên cứu Lê Thước dựa vào đặc điểm của chế
độ phong kiến chuyên chế là đúng, có ý nghĩa gợi ý nhiều. Ông đặc biệt bất bình
trước thói xấu dèm pha vùi dập của các thế lực quan lại: “Tiếc thay sinh phải cái
thời đại bế tắc, ở vào cái hoàn cảnh hẹp hòi, trên vua thì nghi kị, dưới các quan thì
phần nhiều là bọn dung tục, chẳng có tư tưởng gì cao thượng, kiến thức gì sâu xa,
đã không tán thành cho cụ, lại đem lòng ghen ghét, kiếm cách mà bắt bẻ gièm pha,
để làm trở ngại công việc cụ. Không những thế mà thôi, còn nhiều kẻ lại lập mưu để
âm hại cụ: đã ba bốn lần, chúng nó vu cho cụ những việc hối lộ, nhưng lần nào cụ
cũng được cứu xuất vô can. Than ôi! Con hạc đứng trong bầy gà, cái trí chúng nó
thấp, nên cái bụng chúng nó hẹp hòi, một người hào hiệp như cụ Nguyễn Công Trứ,
chí muốn làm nên những việc kinh thiên động địa, há lại còn như tụi tham quan kia
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược,
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi.
(theo Nguyễn Công Trứ về tác giả tác phẩm , tr. 83)
Sau này nhà nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa cũng dựa vào quan điểm trên để
cắt nghĩa lý giải sâu sắc hơn cảm thức thế thái nhân tình trong thơ Nguyễn Công
Trứ: “ Nhà vua tuy đã có cả một bộ máy quan liêu tôi tớ ủng hộ mà vẫn thấy bất lực
nếu không có lực lượng sĩ phiệt giúp sức để trị dân. Cũng vì lẽ đó mà luôn luôn nhà
73
vua sợ người hiền tài (sĩ phiệt) nhân cậy tài mà đảo chính. Nên đối với người tài
(Nguyễn Công Trứ) cứ phải dùng chính sách nước đôi mà lung lạc, thi ơn đấy lại thị
oai đấy…”
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc thì cho rằng vì nghèo mà Nguyễn Công Trứ
phải chịu khổ nhục bất công. Ông viết trong tiểu mục “Cuộc sống nghèo khổ và thế
thái nhân tình” của chương về Nguyễn Công Trứ trong Văn học Việt Nam nửa cuối
thế kỷ XVIII-hết thế kỷ XIX , NXB Giáo dục, 1999): “Nguyễn Công Trứ là một
người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan thanh liêm, rất chú ý đến vấn
đề nhân sinh và xã hội. Thêm vào đó, cuộc sống riêng của nhà thơ cũng từng chịu
nhiều khổ nhục, bất công, cho nên Nguyễn Công Trứ thấy được bộ mặt xấu của xã
hội trong chừng mực nào cũng là điều dễ hiểu. Thơ văn Nguyễn Công Trứ ghi lại
tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sĩ đương thời”.
Cách giải thích của Nguyễn Bách Khoa về cơ bản giống như Lê Thước, cũng
đề cập đến chế độ chuyên chế và sự nhỏ nhen, thù hằn của giới quý tộc, quan liêu
thời đó. Còn Nguyễn Lộc đi sâu khai thác lý do vì cái nghèo đã nảy sinh ra bi kịch
trong đời Nguyễn Công Trứ. Nhưng cả ba nhà nghiên cứu vẫn không dẫn các dẫn
chứng lịch sử, nhất là các sự kiện lịch sử cụ thể để cắt nghĩa lý giải vấn đề.
Bởi nếu chỉ nhìn nhận trong thơ văn, ta thấy toàn bộ mảng nhân tình thế thái
Nguyễn Công Trứ cũng chỉ là những bài thơ vịnh về sức mạnh của đồng tiền, về
thói đời đen bạc chung chung như biết bao nhà thơ khác cùng thời mà thôi. Chúng
ta cũng thừa hiểu mọi nguyên nhân gây nên những rối ren, thối nát trong xã hội là
do đâu. Thực tế các vương triều phong kiến đều có chung một nhược điểm thường
ghen ghét, đố kỵ người tài năng (khi thỏ săn được rồi thì thợ săn không cần nữa).
Đó là cách phòng xa hậu họa của vương triều. Bản thân Nguyễn Công Trứ cũng đã
từng nếm đủ mùi cay đắng đó...Nhà nghiên cứu Vũ Đình Trác trong quá trình
nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng đã nhận xét: Càng ái ngại cho tiền đồ
đất nước, khi ông thấy nhà Vua không đủ sáng suốt, triều đình thiếu công tâm đức
độ, đồng nghiệp thiếu tài đức, để nhân dân cùng khổ điêu linh. Đối với nhà Vua, vì
bọn du nịnh, mà tự tay gây nên tội phúc. Chính ông là nạn nhân thực tế nhất. Năm
74
lần bị cách chức là năm lần ông bị oan uổng. Nhưng ông đã tự niệm: “nghĩa vua
tôi cho vẹn đạo sơ chung”, nên không muốn mở lời trần khải. Duy chỉ có một lần,
vua Minh Mệnh hỏi chuyện nhân gian, ông tâu: có nghe thấy dân chúng ngâm nga
mấy câu ca dao sau: “Chuông già đồng điếu không kêu/Em giả lời nói anh xiêu
trong lòng/Quốc sĩ vô song là người Hàn Tín/Anh chẳng thương em anh đến chi
đây/Tư bề rồng ấp lấp mây…”. Ông mượn mấy câu hát đó, ngụ ý trách nhà Vua
hay nghe bọn xiểm nịnh, mà thăng giáng bất công. Ngoài ra không dám hở môi, chỉ
chôn sâu mối ưu tư trong tận đáy lòng, đôi khi chỉ phát lộ một cách kín đáo qua vần
thơ câu hát: “Trên đường danh lợi vinh liền nhục/Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười”
- Hoạn thứ cảm tác (Triết lý chấp sinh Nguyễn Công Trứ dẫn theo Nguyễn Công
Trứ trong dòng lịch sử, tr. 833-834).
Từ nhận xét trên, chúng ta có thể khẳng định: Vượt lên tất cả, đọc thơ
Nguyễn Công Trứ viết về đạo quân thần chúng ta vẫn không thể tìm ra được vết
gợn, không hề có những xung đột ngấm ngầm từ phía Nguyễn Công Trứ và triều
đại. Xuất hiện nhiều hơn cả vẫn là những vần thơ đầy ắp khí chất người quân tử:
ngạo nghễ, khát khao với đời, trách nhiệm với nước:“Trên vì nước, dưới vì nhà/Sắp
hai chữ quân thân mà gánh vác”. Sống giữa triều đại phong kiến nên lòng trung
hiếu, đạo vua tôi của Nguyễn Công Trứ vẫn cao ngất như núi Thái Sơn. Đọc những
vần thơ này chúng ta không có cảm giác sóng ngầm trong mối quan hệ giữa
Nguyễn Công Trứ với vua. Ông vẫn tuân thủ những điều răn dạy của Tống nho: giữ
gìn tôn ti trật tự và quân quyền tuyệt đối. Bản thân xác định “Cái nghĩa vua tôi
không thể trốn đâu trong trời đất” (Lữ Đông Lai). Vua là cha mẹ là thiên tử con
trời. Dân là con, là kẻ phụng sứ mệnh để thiên tử làm tròn mệnh trời giao phó.
Chính vì vậy, nghĩa vụ tối thượng của một người chỉ là nghĩa vụ đối với vua (quân)
và cha mẹ (thân). Đạo cao nhất mà người quân tử mang trong mình là đạo trung
hiếu:Trót đem thân thế hẹn tang bồng/Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung/Hết hai
chữ Trung, Trinh báo quốc/Một mình để vì dân, vì nước/Túi kinh luân trước để
nghìn sau. Chí “tang bồng hổ thỉ” đã được ghép vào “đôi chữ quân thần”, với hoài
bão đem “túi kinh luân”, “vì dân vì nước”. Nguyễn Công Trứ quả thực xứng đáng là
một tay sĩ phiệt Tống Nho. Như vậy, nếu chỉ dừng lại trong những điều mà thơ văn
75
phản ánh chúng ta vẫn không hiểu hết những ẩn ức trong con người Nguyễn Công
Trứ. Bởi cuộc sống chốn quan trường – nơi hang hùm miệng sói, ông đủ hiểu một
lời nói ra cần được cân nhắc như thế nào để khỏi phạm tội khi quân. Vả lại với khát
vọng muốn tham gia triều chính để lấy sức mạnh thiên triều làm được điều gì cho
nước cho dân. Chính vì thế những uẩn khúc cuộc đời ông không tiện bộc bạch hoặc
bộc bạch rất ít (thảng qua) trong thơ văn. Để hiểu thấu đáo được những điều mà ông
phải chịu đựng khi gánh vác việc quân thần. Để cắt nghĩa tường tận những điều mà
ông còn day dứt. Để hiểu được bản chất của chính quyền chuyên chế trung ương tập
quyền nhà Nguyễn giai đoạn cuối thế kỷ XVIII. Chúng ta cần có cơ sở sát thực
hơn, cụ thể hơn đó là nguồn sử liệu và giai thoại.
3.2. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ qua nguồn sử liệu
3.2.1. Sự ghen ghét, đố kỵ với tài năng của giới quan lại
Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), Nguyễn Công Trứ cùng quan Tướng
quân Trương Minh Giảng đánh phá đồn giặc nhiều chỗ, được thưởng quân công
một cấp, tháng ba năm ấy, cụ được sung chức Tham tán Đại thần. Sau vì tình thế
khó khăn, quân ta phải rút về tỉnh An Giang (Nam Kì). Hành động lùi để tiến rất
đúng với binh pháp lại bị bọn cận thần xúc xiểm cho ý trái lệnh triều đình, cụ bị
giáng xuống Binh bộ Lang trung, quyền lĩnh chức Tuần phủ tỉnh An Giang. Ít lâu,
nhân việc giết được tướng giặc là Phiên Tăng nên lại được khai phục hàm Binh bộ
Thị lang, mà vẫn làm Tuần phủ An Giang.
Năm thứ ba, Nguyễn Công Trứ được thăng Binh bộ Tham tri. Đến tháng 10
năm ấy vì bị người ta vu cáo, cụ phải cách tuột và phát đi làm lính ở tỉnh Quảng
Ngãi. Xót thương thay! Một bậc trọng thần danh tướng, tiếng tăm lừng lẫy khắp
ngoài quận trong triều, mà nhất đán vì cái miệng đứa tiểu nhân, đặt để nên điều,
phải đem mình làm kẻ thú binh, thật quả là:Trên trường danh lợi vinh liền
nhục/Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười. Hay, sau khi khai hoang lấn biển thành công hai
huyện Tiền Hải và Kim Sơn, Nguyễn Công Trứ muốn dâng sớ tấu trình để thiết lập một
trật tự xã hội đối với cư dân hai huyện trên: “Dân hai huyện ấy toàn là những dân phiêu
76
lưu ở hạt khác đến, chưa có gì làm cho chúng nó liên lạc đoàn tụ với nhau. Nay xin định
ra năm điều quy uớc như sau:
1) Đặt trường dạy học. 2) Đặt xã thương. 3) Chăm khuyên bảo. 4) Cẩn việc
phòng thủ. 5) Tưởng lệ những điều tốt mà trừng giới các thói xấu”.
Bản tấu sớ thể hiện rõ cái tâm và tầm nhìn chiến lược của Nguyễn Công Trứ.
Tuy nhiên, lời tâu ấy giao cho đình thần bàn định, cả triều đều cho là vội quá nên
không được thi hành. Nhận xét được sóng ngầm trong sự việc này, nhà nghiên cứu
Vũ Đình Trác có viết: “Lạ thay, đối với bọn dân bình bồng như vậy, thì làm các
việc ấy tưởng là rất phải, không hiểu tại sao Triều đình lấy làm vội quá, không cho
thi hành, ý giả vì không hiểu sự giáo hóa là cần cho dân chăng? Vì ghen ghét cụ
Nguyễn Công Trứ mà kiếm cách ngăn trở để cụ không được toại sở nguyện chăng?”
3.2.2. Đường lối trị nước: ban ân-gia uy của vương triều Nguyễn
Trần Ngọc Vương với bài viết “Từ hồi quang người anh hùng thời loạn đến
khuôn hình một tài tử phong lưu” (Nguyễn Công Trứ con người, cuộc đời và thơ,
NXB HNV, HN 1996) từng phát biểu: “Cũng phải nhìn nhận một cách xác đáng rằng
các vua Nguyễn, từ Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức đều đánh giá đúng và sử dụng
Nguyễn Công Trứ một cách có hiệu quả. Không ngẫu nhiên, Nguyễn Công Trứ nhiều
lần nói đến “ơn tri ngộ”. Trong bối cảnh thông thường của quan hệ vua - tôi dưới chế
độ chuyên chế, với quyền lực tuyệt đối và tối thượng của mình, các vị hoàng đế, nếu
không biết nắm vững nghệ thuật dùng người (chủ yếu theo tinh thần Pháp gia), thì
chính loại người như Nguyễn Công Trứ là mối đe dọa hiển nhiên đối với ngai vàng.
Các vua Nguyễn, nhất là Minh Mệnh, đã khéo sử dụng “ân” và “uy” một cách hợp
lúc, hợp chỗ để buộc Nguyễn Công Trứ phụng sự cho triều đình một cách vui vẻ,
thoải mái, và có kết quả”.
Làm quan cho triều Nguyễn, hội công danh đến với ông như diều gặp gió.
Trước công trạng mà Nguyễn Công Trứ lập được, ông đã được triều đình thăng
chức nhiều lần. Sử sách đã lưu: Minh Mạng 1820 được bổ Hành tẩu sử quân. Năm
1821 làm thực thụ Biên tu. Năm Minh Mạng thứ tư bổ làm tri huyện Đường hào
77
(Hải Dương). Năm sau thăng bổ Lang trung ở Thanh lai ti thuộc Bộ Lại, bổ làm
Quốc Tử Giám Tư nghiệp, tháng 10 cùng năm thăng làm Thiên sự Bộ Hình. Năm
Minh Mạng thứ sáu (1825) bổ Thừa Thiên phủ Thừa, chẳng bao lâu lại làm Tham
hiệp trấn Thanh Hóa. Năm Minh Mạng thứ chín (1828) ông được thăng chức Thụ
Hình Bộ Hữu tham tri, sung chức Đinh đề sứ tại các hạt Nam Định, Ninh Bình.
Năm Minh Mạng thứ mười ba (1832) được bổ làm Bố chánh Hải Dương.
Thật xứng đáng với công trạng mà Nguyễn Công Trứ đã dốc sức phò đời
giúp nước! Không chỉ thế các vua triều Nguyễn, sẵn sàng ban ân thưởng kịp thời để
khích lệ lòng quân. Củng cố uy quyền bằng việc đánh vào lòng người.
Tháng 6 năm Minh Mạng thứ bảy (1826) nhân có tang thân mẫu, cụ định xin
ưu, nhà vua phát cho 100 lạng bạc. Sau rồi bổ chức Tham Hiệp Thanh Hóa.
Tháng 10 năm Minh Mạng thứ bảy, Nguyễn Công Trứ bị bệnh. Vua được
tin đặc phái một tên thị vệ đem theo một viên ngự y bắt trạm đi tới nơi điều trị, vụ
được lành.
Minh Mạng năm thứ 13, Nguyễn Công Trứ bổ làm Bố chánh Hải Dương.
Lúc ra đi hoàng đế có dụ rằng: Khanh nhà nghèo, trẫm biết rất rõ, nay ra tân lỵ, cứ
giữ lòng thanh liêm như thế, nếu chi dụng không đủ, thì mật tấu về Trẫm sẽ chu cấp
cho. Đến tỉnh lỵ được hai tháng, cụ túng tiêu, mật tấu về, vua sai thị vệ đem ban cho
hai chục bánh thuốc chè, mỗi bánh ở trong có một nén bạc. Sau khi dẹp giặc an dân,
triều Nguyễn chủ trương dựng bia võ công để ghi công mãi mãi đời sau. Trong số
các quan quân đi đánh đông dẹp bắc, Nguyễn Công Trứ cũng nằm trong danh sách
bảng vàng bia đá. Trong cuộc dẹp loạn Nông Văn Vân- lực lượng mà triều đình nhà
Nguyễn gọi là ‘phỉ’ này, Nguyễn Công Trứ được ban ân xứng đáng “ Nay nghĩ, Trứ
xuất thân từ quan văn, thế mà ngày ngày làm được việc quân, đến nay đã 3 năm,
không quản ngại khó nhọc, kể cũng đáng khen. Vậy chuẩn cho một người con được
tập ấm làm Hiệu uý vệ Cẩm y”. (Trang 662, tập IV)
Tuy nhiên ân thì ân mọn mà uy thì uy lớn. Cuộc đời hoạn lộ của Nguyễn Công
Trứ huy hoàng thảng qua như gió mà uất ức, đau khổ thì dãi dề như mưa. Bên cạnh
78
việc được nhận ban thưởng thì việc giáng phạt cũng rất khắt khe. Bất kể tướng đầu
triều hay quan ngoại tỉnh đều bị các vua triều Nguyễn đều giáng phạt thẳng tay. Sử
dụng pháp trị, hình thức bề ngoài để nhằm giữ yên phép nước nhưng bản chất sâu
thẳm là để thị uy quyền lực và củng cố địa vị theo tư tưởng độc đoán, chuyên quyền:
Vua cho sống là được sống vua bảo chết là phải chết. Thiên hạ trong tay vua. Chính
vì sống trong hang hùm miệng sói, trong thời đại sóng gió như thế nên việc Nguyễn
Công Trứ nay là mệnh quan triều đình mai lại trở thành lính thú biên thùy gõ mõ
canh cửa ngoài vọng gác, tiền tiêu là chuyện bình thường mà ông từng nếm trải. Nhà
nghiên cứu Lê Thước từng có ghi nhận rất đắt về việc dùng người của triều Nguyễn,
cho đó là “một thủ đoạn đảo điên, hào kiệt, chứ kỳ thực nhà vua thấy cụ có tài cao
đức trọng, ai cũng kính trọng, không muốn để cái thanh thế cụ lớn lên quá sợ khó giá
ngự về sau, vì thế đã lấy ân mà cất lên lại phải dùng uy mà ức xuống. Nhưng ân thì
thường ân mọn mà uy thường uy lớn... ” (Sự nghiệp thơ văn của Uy viễn tướng công
Nguyễn Công Trứ)
Nói ân mọn là vì hai lần đi dẹp giặc Nông Văn Vân và Phan Bá Vành cực
khổ trần ai. Dòng dã mấy năm trời, binh tướng ăn đất nằm sương, trèo rừng băng
núi mới lập được công to (truy quét băng đảng nổi loạn). Nhưng về tới thành ông
cũng không được thăng chức mà chỉ được ban thưởng các đồ chơi châu ngọc như
ngựa mã não, nhẫn kim cương…
Năm Thiệu trị nguyên niên (1841), Nguyễn Công Trứ cùng tướng quân
Trương Minh Giảng đánh phá đồn giặc nhiều lần được thưởng quân công một
cấp. Sau vì tình thế khó khăn, Nguyễn Công Trứ phải hạ lệnh cho rút quân về
tỉnh An Giang (Nam kỳ), đồng thời với lệnh rút quân là chiếu chỉ giáng chức
xuống Binh Bộ Lang trung. Năm thứ ba, Nguyễn Công Trứ được thăng Binh Bộ
Tham tri , đến tháng 10 năm đó vì bị người đời vu cáo, xúc xiểm Nguyễn Công
Trứ bị cách tuột chức đi làm lính thú Quãng Ngãi.
Năm Minh Mạng thứ 17, vì một tên tử tù vượt ngục trốn mất, Nguyễn Công
Trứ bị giáng 4 cấp, năm Minh Mạng thứ 20 lại bị giáng xuống Binh Bộ Hữu Tham
tri và đổi về Bộ…
79
Với cách dùng người rất thủ đoạn của vua triều Nguyễn: đánh, vuốt, thăng,
giáng, lung lạc tinh thần người ta bằng đủ phương cách. Đối với Nguyễn Công Trứ,
khi tín cẩn trọng dụng, cho tiền, cho quà, săn sóc, rỉ tai(5) khi nghiêm khắc trừng
phạt, truất giáng đáo để. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu có viết: “Người tài tử
thường cậy tài, muốn trổ tài, thường bất mãn với cái có sẵn, muốn xáo trộn, muốn
hành động, phá phách trật tự. Họ cũng thường tự cao, tự phụ, ngông nghênh, vòi
vĩnh, không chịu yên mệnh. Cho nên chế độ phong kiến thường sợ tài, nghi kỵ
người có tài, tìm cách ức chế người có tài. Nhằm mục đích củng cố địa vị thống trị,
chế độ phong kiến đề cao đức hạnh, trung hiếu, lễ nghĩa, phục tùng yên mệnh và
thường chê trách chuyện “hữu tài vô hạnh” (Trần Đình Hượu, Nhà nho tài tử trong
xã hội tư sản, in trong sách nhiều tác giả Văn học Việt Nam (1930-1945), NXB
Giáo dục, tái bản lần thứ hai, 1998) tr. 170-171)…Tất cả điều đó làm nên một cuộc
đời làm quan lắm chuân chuyên của của Nguyễn Công Trứ . Một dạ “trung trinh
báo quốc, một lòng “hăm hở ra tài kinh tế” những mong vẹn đạo quân thần như sở
nguyện. Có khi tột đỉnh vinh quang nhưng có lúc lại dưới bùn đen. Cái hàm còn lại
cuối cùng sau cả một chặng đời họan lộ là Thừa Thiên Phủ Doãn. Quả là thời đại
phức tạp để lại những dấu ẩn ức sâu xa trong tâm hồn ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn
Bách Khoa từng nhận xét: “Nguyễn Công Trứ bị giáng truất nhiều lần cũng chính là
vì sự nhỏ nhen thù hằn của hạng quý tộc và quan liêu cao cấp đó. Bởi tài kinh tế của
ông là một cơ nguy cho địa vị của chúng nên chúng hãm hại chê dìm. Chúng đã
mượn tiếng nhà vua để thi hành chính trị phản động lợi cho chúng” (Nguyễn Công
Trứ về tác giả tác phẩm, tr. 172)
Tuy nhiên với phong cách sống ngạo nghễ, khác đời, vượt trên thế tục, Nguyễn
Công Trư vẫn ngẩng cao đầu để sống trước uy lực, chèn ép của triều đình. Chỉ cần nhìn
vào quãng đời lúc ông lãnh chức Đinh đề sứ, đủ thấy rõ tấm lòng thanh bạch cao cả của
ông. Ruộng đất tân khai ở các miền Tiền Hải, Giao Thuỷ, Nam Trực và Kim Sơn thật
là rừng vàng bể bạc, mà ông không hề chiếm hữu một gang tấc, không hề tơ hào một
80
mảy may của bất cứ ai. Thật ông đã vượt qua khỏi cái nhân dục tầm thường đến mức
cao tuyệt vời.
Cũng vì thế mà ông không sợ bất cứ một uy lực nào: uy vũ bất năng khuất. Ông
chính là một con người anh hùng tự tạo thời thế, chứ không phải nhờ vào thời thế mà
vinh thăng. Nhất là vì ông đã sẵn có bản tâm mãn tại, không bao giờ chịu đem thân
theo đuổi danh lợi tiền tài.”. Nhà nghiên cứu Pham Thế Ngũ từng nhận xét: “Nguyễn
Công Trứ không quan niệm chữ trung một cách máy móc theo kiểu Tống Nho “quân
sử thần tử thần bất tử bất trung”. Thờ vua ông nhìn xa hơn đến dân đến nước. Cho nên
thay vì nịnh bợ cá nhân quân vương để được thương yêu thăng thưởng, ông lo làm điều
ích lợi cho quốc dân: người dân khổ sở cần phải cưu mang, khổ vì giặc giã nên phải
dẹp giặc, khổ vì đói nên phải khẩn điền, ngoại giả vua chúa, chức tước, thưởng phạt
chẳng đáng để ý đến lắm”. (Nguyễn Công Trứ - Tác gia và tác phẩm, NXBGD, 2007).
Trước những sự đối xử không công bằng giữa công và tội sử sách cũng chỉ
chép một ý duy nhất – ông nói bóng nói gió, hàm ý trách móc nhà vua:
Năm Minh Mệnh thứ 17,
Vì việc một tên trọng tù vượt ngục trốn mất, cụ phải giáng bốn cấp, sau khai
phục được ba cấp, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) lại phải giáng xuống Binh bộ
Hữu Tham tri và đổi về Bộ. Buổi ấy cụ vào trực trong Nội, vua thấy cụ, ban hỏi
rằng: “Khanh thường đi tuần hành các chốn dân gian, có nghe được việc gì hay
không?”. Cụ tâu rằng: chỉ nghe những câu da dao, dân sự thường hát ở chốn nhà
quê là hay nhất, tức như câu này: “Một ngọn đèn chong, hai ngọn đèn chong/Quốc
sĩ vô song là người Hàn Tín/Anh chẳng thương em, anh đến chi đây/Tứ bề rồng ấp
lấy mây”.
Câu ấy tuy ca dao thực, song cụ thuật lại, chính để ngụ ý mình là một bậc
có tài lỗi lạc, cũng như Hàn Tín thuở xưa, mà lại có ý trách vua hay nghi ngờ,
rày thăng mai giáng, hình như không muốn trọng dụng, quý mến cái tài năng của
cụ, như con rồng kia, nó còn biết ấp yêu giữ gìn lấy mây, để có chỗ mà ẩn nấp,
nương tựa.
81
Lúc Nguyễn Công Trứ đi đến tỉnh Quảng Ngãi, vào chào quan tỉnh để đợi
lệnh phát đi đồn nào, cụ cứ nghiễm nhiên mình mặc cái áo cộc màu chàm, đầu đội
nón dấu, vai mang một ruột tượng gạo, bên hông lại đeo một cái dao tu, xỏng xảnh
trong một cái vỏ bằng gỗ. Quan tỉnh thấy vậy, ra dáng bất yên, muốn cho phép cụ
cởi đồ lính ra, nhưng cụ nói: “Cứ xin để vậy, lúc làm đại tướng tôi không thấy làm
vinh, thì nay làm tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vị nào, có
nghĩa vụ đối với địa vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được”.
Câu nói đầy khẩu khí giúp ông đang tự tôn cao mình thêm một bậc. Thế hệ hậu sinh
dẫu không được sống trong thời ông tung hoành ngang dọc cũng cảm thấy ngưỡng
mộ ông hơn.
Từ biến động trên đường đời những giai đoạn lên voi xuống chó đã góp phần
cắt nghĩa giải thích vì sao một Nguyễn Công Trứ đang phơi phới yêu đời, phơi phới với
lý tưởng trung quân mà lại bất ngờ có những tiếng thơ ai oán về thế thái nhân tình đến
vậy. Phải có đau, có xót, có những trải nghiệm thực tế mắt thấy tai nghe thì cơ hồ mới
có tiếng nói nhân tình thâu suốt đến vậy. Tuy nhiên, cảm thức thế thái nhân tình của
nguyễn Công Trứ không được ghi chép nhiều trong chính sử vì đó là những cảm xúc
riêng tư, cá nhân, mặt khác bản thân Nguyễn Công Trứ cũng có quan niệm sống khác
người Được mất dương dương người tái thượng. Khen chê phơi phới ngọn đông
phong. Chính vì vậy, nỗi đau nhân tình thế thái thường lặn trong đáy sâu tâm hồn, chỉ
bộc bạch qua những vần thơ, qua các giai thoại trong bia miệng thế gian.
3.3. Cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ trong giai thoại
Làm quan, Nguyễn Công Trứ được dân chúng cảm phục, quý mến nhưng
cũng bị không ít kẻ ghen ghét, hãm hại, khiến cụ đã bao phen lên voi xuống chó.
Nhưng là một văn nhân nhân văn, những ân oán đó cụ không trả bằng những mưu mô
thảm độc, máu chảy đầu rơi. Bằng trí tuệ sắc sảo, bằng lời nói thâm thuý đôi khi cay
độc - những đòn trừng phạt bằng chữ nghĩa nhiều khi còn đau hơn hoạn, có khi còn
hơn cả án tử hình. Cảm nhận về nhân tình thế thái được thể hiện rõ nét thông qua các
giai thoại về lối ứng đáp, bình phẩm nhận xét của cụ thượng Trứ trước những biến
động của cuộc sống.
82
Cảm thức nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ có tới hàng chục giai
thoại tiêu biểu. Trong đó giai thoại “Ngay lòng ở với nước nhà” có một câu ứng đối
đáng chú ý khi Nguyễn Công Trứ dẫn câu ca dao nói về cái phản để khẳng định tấm
lòng trung hiếu của bản thân mình với nước với dân đồng thời cũng trách khéo vua
Minh Mệnh nỡ nghe lời đàm tiếu xu nịnh mà nghi oan cho một trung thần đáng nể
như ông:
Khi cụ Trứ đã về hưu nhưng vẫn được nhân dân hai huyện Tiền Hải, Kim
Sơn nhớ ơn khẩn điền cho họ làng quê, việc làm nên lập sinh từ Cụ rồi rước Cụ từ
quê Hà Tĩnh ra chơi. Có một viên Thị vệ thấy thế, bèn bịa đặt mật tâu về Kinh là cụ
Trứ đang tìm cách thu phục nhân tâm, có ý mưu đồ làm phản. Nhà vua vội vàng cho
triệu cụ vào Kinh để tìm cớ trừ “hậu hoạ”. Tuy nhiên, khi tỉnh táo lại suy xét, triều
đình cũng hiểu được rằng đó chỉ là những lời đồn xằng bậy. Tương truyền, lúc cụ đã
vượt hàng ngàn dặm đường đất về Kinh, vua Tự Đức vời cụ vào bệ kiến để giãi bày
tâm sự cho rõ thực hư. Nhân nhà vua hỏi về tình hình dân chúng của hai hạt, cụ đã
mượn lời nói của dân gian để ngầm gửi thông điệp tới vua với hai câu ca độc đáo:
Đem thân cho thế gian ngồi/Rồi ra lại nói những lời bất trung và Ngay lòng ở với
nước nhà/Người dù không biết trời đà biết cho. Nguyễn Công Trứ muốn qua câu ca
dao có tính chất câu đố của dân gian này để trách khéo vua Minh Mạng có ý nghi
ngờ ông làm phản. Nói mà như không nói, không nói mà lại là nói.
Cái nhìn nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ rất độc đáo, bên cạnh những
bài thơ, hát nói phê phán chung chung thói đời đen bạc như Nguyễn Bỉnh Khiêm, lại có
cả những giai thoại có tính chính trị. Qua các giai thoại đã miêu tả một cách tỉ mỉ dư vị
chua chát của cuộc đời lên voi xuống chó của bậc khanh tướng công hầu Nguyễn
Công Trứ .
Giai thoại “Bất đắc dĩ dụng quý ông” cho ta hiểu thêm về tính bon chen đố
kỵ trong chốn quan trường, đồng thời còn bộc lộ sự ứng biến tài tình, khôn khéo
trong con người Nguyễn Công Trứ
Hà Tôn Quyền (1790-1848) quê ở Thanh Oai, Hà Đông, đỗ Tiến sĩ năm
1822, là người nổi tiếng thời bấy giờ về văn tài và học lực, được ba triều vua là
83
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trọng vọng. Hai người trở thành bạn đồng liêu;
vừa phục văn tài, học lực của nhau, nhưng vẫn vừa ngầm đua tài với nhau…Nhân
một bữa gặp Nguyễn Công Trứ Hà Tôn Quyền liền đọc một vế đối hóc hiểm: Quân
tử ố kì văn chi Cụ lớn. Nguyên đây là một câu cổ văn trong sách Trung Dung
“Quân tử ố kì văn chi trứ”, nghĩa là “Người quân tử ghét lối văn chương loè loẹt
bề ngoài” (Trứ tiếng Hán nghĩa là nổi trội, loè loẹt), nhưng ông Quyền lại thay tên
“Trứ” thành “Cụ lớn”, vừa tỏ vẻ kính trọng, vừa hóm hỉnh thách đối, nhưng kì thực
thâm ý của ông ta muốn nói: nhà vua ghét văn chương phù hoa của cụ lớn/Trứ.
Nguyễn Công Trứ đáp trả: “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng Quý ông”. Đây cũng là
một câu cổ văn Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền, nghĩa là “Đức Thánh nhân bắt
đắc dĩ phải dùng quyền biến”. Nguyễn Công Trứ cũng thật tài tình thay tên
“Quyền” thành “Quý ông”, cũng vừa lịch sự và vô cùng thâm thuý: nhà vua bất
đắc dĩ mới phải dùng ông đấy thôi! Người đời còn tán rằng vế đối của cụ Trứ không
chỉ là đòn nhằm vào Hà Tôn Quyền, mà còn ngụ cả ý chê nhà vua nữa. “Ý tại ngôn
ngoại” của câu này là phê phán nhà vua dùng người không đúng, bởi vì lúc thường
thì nên dùng “kinh”, lúc biến mới phải dùng “quyền”; nay đang thời bình trị mà nhà
vua dùng “quyền” thì không phải là đấng minh quân!
Sự thông minh tài chí và bản tính khẳng khái, Nguyễn Công Trứ đã sử dụng
đòn bút (cách chơi chữ) để chửi thẳng vào đám quan lại vô học, ít chữ trong giai
thoại “Những đòn trừng phạt bằng chữ nghĩa”:
Với quan tỉnh Bắc Ninh: Trong một bữa tiệc, ông đã dùng một câu chuyện kể
dân gian với hai câu đối có những vế đối rất hiểm để chơi chữ: Lời vàng quan tỉnh
Bắc Ninh/ Cửa ngọc bà huyện Nam Sách. Các tiểu đối, đại đối rất chuẩn: “Lời vàng”
đối với “cửa ngọc”, “quan tỉnh” đối với “bà huyện”, “Bắc Ninh” đối với “Nam
Sách” khiến các quan đều phá ra cười, chỉ có quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm thì
đỏ mặt tía tai, cố ngồi nín thinh cho qua bữa tiệc.
Với Quan phủ Thạch Hà: cũng có mối ân oán cá nhân với cụ Trứ nên có lần
chịu đòn đau của cụ. Cũng nhân tiệc rượu ngà ngà, mượn câu chuyện dân gian,
Nguyễn Công Trứ đã tung ra hai câu đối khiến cho quan phủ Thạch Hà được bữa
84
tím mặt, bầm tai: Chống chõi như quan phủ Thạch Hà (Thạch là đá, hà là sông, giữa
dòng sông ngăn đá)/Giàu có như bà huyện Kim Động (Kim là vàng, động là hang,
trong cửa hang có vàng).
Giai thoại « Trên dưới, trong ngoài, lớn bé đều chó cả » là một tiểu kết lật
mặt tất cả những cách sống bon chen, ghen ghét, đố kỵ với tài năng của các quan lại
cùng thời:
Gần ba chục năm tận tâm lăn lộn chốn quan trường, nhân ngày “nhận sổ
hưu”, Nguyễn Công Trứ liền rầm rộ tổ chức một bữa tiệc thịt chó để chia tay. Gia
nhân tấp nập,các quan khách kéo đến rất đông ( nhà vua cũng vi hành đến dự). Ngửi
mùi cầy do bàn tay những đầu bếp xứ Nghệ chế biến thơm lừng, chỗ này chỗ kia dậy
tiếng trầm trồ to nhỏ: “Ôi, thịt chó, chó, nhiều quá!” Chỉ đợi có vậy, cụ Thượng hưu
đứng dậy vuốt râu dõng dạc và khoan thai nói: “Dạ thưa, đúng như vậy đấy ạ, - Cụ
đưa tay chỉ quanh khắp lượt, tiếp: đúng là trên dưới, trong ngoài, lớn bé, tất cả đều
là chó hết cả ạ!”
Cũng như truyền thống của các vua triều Nguyễn, Minh Mạng đối xử với
Nguyễn Công Trứ bằng cả “ân” và “uy”. Ân : sự kiện khi Nguyễn Công Trứ đang ở
Hải Dương được vua gửi cho vàng giấu trong hộp trà để ông chi dùng; khi Nguyễn
Công Trứ cùng các tướng khác dẹp được Nông Văn Vân, Minh Mạng gọi về Huế
ban thưởng cho đặc ân gọi là “bão tất” (ôm gối vua) . “Uy”: sẵn sàng giáng chức từ
tuần phủ An Giang xuống làm lính thú. Những sự kiện này giúp ta hiểu thêm chiều
sâu của những ân thâm oán cũng thâm trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Ân oán ở
đây không đơn giản là quan hệ cá nhân với cá nhân mà còn là quan hệ chính trị,
quan hệ vua-tôi. Giai thoại Làm tướng không vinh, làm lính không nhục đã minh
chứng rất rõ ân và uy mà ông nhận được từ sự ban đãi của vua: Khi bị giáng chức
làm lính thú quảng Ngãi, khi đến trình diện quan Tổng đốc sở tại, quan rất áy náy,
muốn cụ cởi đồ lính thú ra nhưng cụ đáp một cách thản nhiên:
- Xin ngài cứ để vậy. Lúc làm Đại tướng tôi không lấy làm vinh, thì nay làm
tên lính tôi cũng không lấy làm nhục. Người ta ở địa vì nào, có nghĩa vụ đối với địa
vị ấy, làm lính mà không mang đồ ấy thì sao gọi là lính được.
85
Câu trả lời khảng khái càng khiến viên quan đầu tỉnh kính phục.
Hoặc qua giai thoại “Tâm sự qua những câu ca dao” một lần nữa ta lại
chứng kiến cuộc đời nhiều nước mắt ít niềm vui của cụ Thượng Trứ. Cuộc đời
Nguyễn Công Trứ thật lắm phen lên voi xuống chó do lòng ganh ghét và cái nhìn
thiển cận của triều đình và người đời, trước hết là của những ông vua đầy nghi kị,
hẹp hòi. Năm Minh Mệnh thứ 17, chỉ vì việc một tên trọng tù vượt ngục, nhà vua hạ
chiếu giáng ông bốn cấp, sau được phục ba cấp, rồi vài năm sau lại phải giáng
xuống Binh bộ Hữu tham tri và đổi về Kinh. Trong một lần trò chuyện, vua muốn
nghe tình hình dân chúng, Nguyễn Công Trứ bèn đọc bài ca mà dân chúng thường
đọc: Một ngọn đèn chong, hai ngọn đèn chong/Quốc sĩ vô song là người Hàn
Tín/Anh chẳng thương em, anh đến chi đây/Tứ bề rồng ấp lấy mây. Câu ấy tuy ca
dao thực, song khi thuật lại, Nguyễn cũng ngụ ý mình là một kẻ có tài như Hàn Tín
thuở xưa, và có ý trách nhà vua hay nghi ngờ, rày thăng mai giáng, mà hình như
không biết như con rồng kia còn biết ấp yêu lấy mây.
Chát chúa hơn là giai thoại “Che miệng thế gian” khi ông đã giã áo từ quan.
Giai thoại này góp phần cắt nghĩa hình ảnh rất thú vị được xuất hiện trong bài ca
ngất ngưởng khi ông viết “Đô môn giải tổ chi niên/Đạc ngựa bò vàng đeo ngất
ngưởng”:
Trước khi từ giã kinh thành Huế để về với quê Hồng Lam non xanh nước
biếc, Cụ ngất ngưởng ngồi trên cỗ xe bò cái kéo, cổ bò lại đeo nhạc ngựa, long
nhong đến từng nhà từ giã những người quen. Khi đến nhà Hà Tôn Quyền - vị đại
thần trước kia đã từng dèm pha gây cho ông nhiều bước thăng trầm lận đận,
Nguyễn Công Trứ lấy một cái mo cau, chép một bài thơ buộc vào phía sau đuôi bò,
che... lại với ngụ ý “miệng thế gian” hay dèm pha có khác chi miệng họ Hà…
Các giai thoại trên chỉ là một trong số 36 giai thoại tiêu biểu về con người và
cuộc đời Nguyễn Công Trứ mà giới nghiên cứu đã chọn lọc và giới thiệu. Tuy nhiên
“qua lát cắt sẽ thấy trăm năm đời thảo mộc”. Cả một tấm chân tình với những ân oán
thế gian của Nguyễn Công Trứ đã được chuyển tải qua các giai thoại vừa mang chất
dân gian (vô thưởng vô phạt) vừa tạo nên sức sống lâu bền về thân thế, sự nghiệp cụ
Thượng Trứ.
86
* Tiểu kết
Như vậy, qua nguồn sử liệu và giai thoại, chúng ta nhận thấy Nguyễn Công
Trứ không đơn thuần chỉ phê phán tính chất vô đạo của đạo đức xã hội như những ý
mà chúng ta đọc được trong thơ. Mà với một chặng đường hoạn lộ đầy sóng gió,
trước những thăng trầm mà ông phải đối diện (khi tổng đốc trọng thần khi lính thú
biên ải…) thì cảm thức nhân tình thế thái trong ông còn mang những dư vị thâm
thúy và sâu cay hơn: Đó là việc kín đáo phê phán, oán trách triều đình phong kiến
nhà Nguyễn chuyên chế, độc đoán: với hình thức ban ân – gia uy; gáng phạt – ban
thưởng mang nặng tư tưởng nhà nước chuyên chế tập quyền. Phản ảnh điều này,
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện sự quả cảm, mạnh mẽ khi dám đối diện với mảng gai
góc, sẫm màu của cuộc sống. Đồng thời khẳng định quan điểm sống tích cực vì
nước vì dân không màng danh lợi,không bận lòng đến việc khen chê của Nguyễn
Công Trứ. Những nội dung mang tính chính trị, thời sự này ta không dễ gì nhận ra
chỉ qua thơ và hát nói. Tấm chân tình chỉ có thể được bộc bạch rõ nét thông qua các
giai thoại dân gian - hình thức lưu truyền vô thưởng vô phạt. Đồng thời cũng lý giải
cho câu hỏi vì sao cảm thức thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ lại
có phong vị khác so với các nhà nho cùng thời.
87
KẾT LUẬN
Văn là đời và văn là người, thơ văn thường là tiếng nói tư tưởng tình cảm của
người nghệ sĩ gửi gắm trong đó những hỷ nộ ái ố của cõi nhân sinh. Tuy nhiên
cũng có nhưng góc khuất tâm hồn mà không phải lúc nào cũng tiện bộc bạch bằng
con chữ. Nó lặn sâu trong đáy tâm hồn và chỉ có thể ẩn chìm hoặc bộc lộ thảng qua
trong các biểu hiện hành động cuộc sống mà thôi. Với một con người vừa lẫy lừng
vừa phức tạp như Uy viễn Tướng công với một nhân cách vừa cao thượng vừa đời
thường như cụ Thượng Trứ thì điều đó lại càng rõ nét. Thực mà hư, hư mà thực
biến hóa khôn lường như nước đi trên bàn cờ tướng đó chính là con người Nguyễn
Công Trứ mà đến nay chúng ta vẫn còn cảm thấy thú vị khi tìm hiểu.
Quá trình triển khai đề tài “Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ qua nguồn
sử liệu và giai thoại”, chúng tôi đã đi vào tìm hiểu những yếu tố ngoài văn bản qua
nguồn sử liệu (những ghi chép về Nguyễn Công Trứ trong Đại nam thực lục chính
biên) và giai thoại về Nguyễn Công Trứ. Sau đó có sự phân tích so sánh đối chiếu
giữa thơ văn và những điều trong chính sử, giai thoại để có những cách hiểu, cách
cắt nghĩa chính xác hơn về thơ văn Nguyễn Công Trứ, làm tường minh mối quan hệ
giữa thơ và đời. Những nội dung trong đề mục mà luận văn lựa chọn khai thác cũng
là những vấn đề cơ bản nhất về con người và cuộc đời Nguyễn Công Trứ trên các
bình diện: tinh thần hành đạo, nhà nho tài tử và tâm sự thế cuộc.
Về tinh thần hành đạo của Nguyễn Công Trứ, qua sự nghiên cứu và phân tích
đối chiếu giữa thơ văn – sử liệu – giai thoại, luận văn hoàn toàn khẳng định:
Nguyễn Công Trứ người có tài, có tâm, có công lớn trong việc trị quốc an dân thời
Nguyễn. Cốt cách khác người của Nguyễn Công Trứ thể hiện ở chí hướng muốn lập
công danh, thực hiện lí tưởng người anh hùng. Điều đặc biệt chí hướng đó không
dừng lại trên sách vở, câu chữ. Có nghĩa chúng ta không chỉ nghiên cứu những hình
tượng mang tính công thức, mang màu sắc ước lệ, tượng trưng thường xuất hiện
trong các bài thơ tỏ chí. Bằng sự so sánh, đối chiếu những cứ liệu lịch sử, lý tưởng
sống, chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ được chuyển thành những hành động cụ
thể, những việc làm thực tiễn mang lại ích nước lợi nhà, đời đời lưu danh sử sách.
88
Là con người của niềm say mê, sôi nổi, của hoài bão lớn lao trên con đường hành
đạo, ông luôn đau đáu nỗi niềm “chí nam nhi”, “nợ tang bồng”, “nợ công danh”,
“gánh trung hiếu”,… Ông là người tận tâm với công việc, trung thành với chế độ
phong kiến, hết lòng vì nước, vì dân. Bên cạnh đó, Nguyễn Công Trứ lại có cá tính
mạnh mẽ, không chịu sống bình lặng trong khuôn phép của đạo lí phong kiến mà
luôn luôn vươn tới khẳng định bản ngã, vượt lên thế tục, ngông nghênh, ngất
ngưởng giữa cuộc đời để làm nên một Nguyễn Công Trứ xưa nay hiếm.
Những cảm thức về nhân tình thế thái của Nguyễn Công Trứ qua sự nghiên
cứu và phân tích đối chiếu giữa thơ văn – sử liệu – giai thoại, luận văn có những ghi
nhận chung: Vì tài mệnh tương đố, vì môi trường xã hội “hoa thường hay héo, cỏ
thường tươi”, vì hoàn cảnh bản thân… Nguyễn Công Trứ luôn luôn gặp phải những
ghen ghét đố kỵ của các quan lại trong triều...thậm chí của cả nhà vua. Tất cả điều
đó tạo nên một cuộc đời hoạn lộ thăng trầm nhiều nước mắt ít niềm vui của ông;
đồng thời tạo nên cảm thức thế thái nhân tình sâu đậm trong thơ văn, con người
ông. Qua nguồn sử liệu và giai thoại, luận văn soi sáng thêm nét đặc biệt trong
cảm thức thế thái nhân tình trong thơ văn Nguyễn Công Trứ: Không chỉ cảm
khái về sự suy đồi xuống cấp của đạo đức xã hội, thói lũng loạn đổi trắng thay
đen của đồng tiền mà tiếng nói ưu thời, mẫn thế của Nguyễn Công Trứ lại tập
trung vào những vấn đề chính trị, về mối quan hệ vua – tôi, quần thần; về đức tin
về lòng ngay. Từ mối quan hệ đó lột tả được bản chất của triều đình phong kiến
nhà Nguyễn mà nói như nhà nghiên cứu Lê Thước thì đó là một “thủ đoạn đảo
điên” trong cách dụng người của triều Nguyễn. Đánh, vuốt, thăng, giáng, lung lạc
tinh thần người ta bằng đủ phương cách. Đối với Nguyễn Công Trứ, khi tín cẩn
trọng dụng, cho tiền, cho quà, săn sóc, rỉ tai(5) khi nghiêm khắc trừng phạt, truất
giáng đáo để. (Sự nghiệp thơ văn của Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ) Tất cả
điều đó làm nên một cuộc đời làm quan lắm chuân chuyên của của Nguyễn Công
Trứ . Đó là những ẩn ức khó nói thành lời, mà chúng ta không thể cắt nghĩa ngọn
ngành nếu chỉ đọc trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Tâm sự chất chồng của một con
89
người trả xong nợ nước nhưng nợ đời con đeo đẳng đã lặn vào đáy sâu tâm hồn để
làm nên một Nguyễn Công Trứ vừa lẫy lừng vừa phức tạp.
Về hình ảnh con người - nhà nho tài tử của Nguyễn Công Trứ qua sự nghiên
cứu và phân tích đối chiếu giữa thơ văn – sử liệu – giai thoại, luận văn khẳng định:
Chính bản chất con người và thời đại sống đã sinh ra hình ảnh con người nhà nho
tài tử Nguyễn Công Trứ trong thơ văn của ông. Trong đó Thị tài – đa tình là nét nổi
bật trong con người, tính cách Nguyễn Công Trứ. Trong quan niệm của Nguyễn
Công Trứ, sống lâu cũng sẽ bị xem như là chết yểu, nếu cuộc đời không được hành
lạc. Vì vậy khi hành lạc, ông đã bộc lộ một thái độ tự do (tự do hưởng thụ, tự do ca
ngợi hưởng thụ). Ý thức sống: Cống hiến hết mình và hưởng thụ hết mình, Nguyễn
Công Trứ đã chạm tới đích cao nhất trong lẽ sống. Đó là tư tưởng đề cao con người
chống lại sự khắt khe đến mức hà khắc của lễ giáo phong kiến.
Từ kết quả nghiên cứu của luận văn, giúp cho người đọc (đặc biệt là đối
tượng giáo viên và học sinh) hiểu sâu sắc về thơ văn Nguyễn Công Trứ đồng thời
hiểu được cả những ẩn ức trong cuộc đời của ông, cắt nghĩa được những mâu thuẫn,
phức tạp trong cách hành xử của ông. Thực tế lịch sử, nhà vua tuy mấy lần giáng
phạt, nhưng rút cục vẫn cung kính ông vì tài nghệ. Các quan lại triều thần do
ghen tức đố kỵ mà vu cáo cho ông chuyện này chuyện khác, nhưng sự chính trực
của ông vẫn được sáng tỏ. Các bạn bè đồng môn do không hiểu tường tận nên có
những nhận xét phiến diện, lệch lạc về con người cụ Thượng…Nhưng bằng tinh
thần lạc quan và một nhân cách sống cao thượng giúp Nguyễn Công Trứ vượt lên
trên mọi điều tầm thường nhỏ nhặt, những bon chen chật vật trong cuộc sống để
sống là chính mình với cái tâm trong sạch và nhân cách cao khiết. Toàn dân tôn
ông như cha mẹ; sau khi ông từ trần, lại tôn kính ông như Thần Thánh. Những
đền thờ của 4 huyện 21 tổng tại Bắc Việt kia là những bảo chứng cụ thể. Nhân
dân tôn kính ông như bậc thánh nhân, nhưng ông chỉ là một thánh nhân trong cõi
người ta.
Với đề tài “Tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ từ nguồn sử liệu và giai
thoại” ngoài việc cung cấp những tri thức để giúp cắt nghĩa và hiểu sâu sắc hơn thơ
90
văn Nguyễn Công Trứ chúng tôi cũng mong muốn chúng ta tìm ra được con đường
để có thể nhận diện được tấm lòng cũng như tài năng của Nguyễn Công Trứ, tránh
được cái nhìn sai lạc về ông khi cho rằng: Nguyễn Công Trứ trung quân một cách
mù quáng (phụng sự cho một triều đại đã suy tàn…) hay Nguyễn Công Trứ ăn chơi,
hưởng lạc, mất tư cách của một nhà nho chính thống…
Mặt khác, với hướng tìm hiểu nghiên cứu song song các yếu tố nội văn bản,
ngoại văn bản, luận văn đã cho thấy ý nghĩa to lớn của các nguồn sử liệu và giai
thoại trong việc tìm hiểu , đánh giá thơ văn Nguyễn Công Trứ. Nếu các bài thơ
Đường luật, hát nói của ông chứa đựng nhiều hình ảnh, biểu tượng, ngôn từ, cảm
xúc đem lại ấn tượng cho người đọc về một con người hành động tích cực – Nguyễn
Công Trứ, về nỗi niềm chua chát giữa cõi đời về chất tài tử phong lưu; thì sử liệu và
giai thoại sẽ cấp cho người đọc hiện đại những nhận thức đầy đủ, cụ thể, sinh động
về con người ông trong cuộc đời với những mối quan hệ cụ thể. Đồng thời, qua
công trình nghiên cứu này, chúng tôi cũng muốn gửi gắm một thông điệp: Để tìm
hiểu và cắt nghĩa thấu đáo một tác phẩm văn học, người nghiên cứu cần nắm chắc
kiến thức về tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Đó là là những yếu tố
tác động sâu sắc chi phối đến nội dung cảm xúc của tác phẩm văn học. Đó là kết
quả đạt được của luận văn “tiếp nhận thơ văn Nguyễn Công Trứ từ nguồn sử liệu và
giai thoại”.
Giá trị của thơ ca và vai trò của Nguyễn Công Trứ đối với lịch sử là không
cùng, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra đầy đủ những giá trị ấy! Luận văn mới
chỉ là bước đi đầu tiên để tiếp cận thế giới nghệ thuật, thế giới tâm hồn vô cùng
phong phú của Nguyễn Công Trứ, chúng tôi hi vọng sẽ có điều kiện tìm hiểu trên
bình diện rộng hơn và sâu hơn./.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nam Phong tạp chí. Thơ cụ Nguyễn Công Trứ, các số 11 (1918); 12 (1918); 89
(1924); 90; 91; 93 (1925).
2. Lê Thước. Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Nxb.
Lê Văn Tân, Hà Nội, 1928.
3. Bùi Quý Lộ. Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải (1828): LA.
PTS. Khoa học Lịch sử, 1987. Kí hiệu Thư viện Quốc gia Hà Nội: LA04.02136.
4. Nguyễn Văn Ngọc. Đào nương ca, Việt Văn thư xã, Vĩnh Long thư quán xuất
bản, Hà Nội, 1932.
5. Nguyễn Bách Khoa. Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Tạp chí Văn mới, Hà Nội, 1944.
6. Hoàng Liên Sơn (sưu tập, chú dẫn). Nguyễn Công Trứ: Thi ca tập, Hiệu sách Văn
Hiến, Hà Nội, 1949.
7. Nguyễn Tường Phượng - Bùi Hữu Sủng. Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ
XIX, tài liệu giáo khoa, Hà Nội, 1951.
8. Nhiều tác giả. Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II, Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1957.
9. Nhiều tác giả. Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập II, Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 1957.
10. Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, Trương Chính (giới thiệu và đính chính). Thơ
văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn hoá, 1958.
11. Nhiều tác giả. Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, quyển V, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960.
12. Hoàng Xuân (sưu tập và chú dẫn). Nguyễn Công Trứ thi tập, in lần 2, Anh
Phương, Sài Gòn, 1960.
13. Nguyễn Duy Diễn - Bàng Phong. Nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp Nguyễn
Công Trứ, Á Châu, Sài Gòn, 1961.
14. Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, Việt văn xuất
bản, Sài Gòn, 1961.
92
15. Nhiều tác giả. Hợp tuyển thơ Văn Việt Nam thế kỷ XVIII - giữa thế kỷ XIX, Nxb.
Văn hoá, Hà Nội, 1963.
16. Nhiều tác giả. Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1966.
17. Hồng Liên Lê Xuân Giáo. Hy Văn tướng công di truyện - Giai thoại về Nguyễn
Công Trứ, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1973.
18. Nguyễn Lộc. Giáo trình Văn học Việt Nam: Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa
đầu thế kỷ XIX, tập II, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978.
19. Nguyễn Nghiệp. Mấy suy nghĩ một tấm lòng: phê bình, tiểu luận, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1978.
20. Nguyễn Nghiệp. Mấy suy nghĩ một tấm lòng: phê bình, tiểu luận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1978.
21. Trương Chính (biên soạn và giới thiệu). Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 1983.
22. Vũ Đình Trác. Triết lí chấp sinh của Nguyễn Công Trứ, Canifornia, 1988.
23. Đào Thị Uyên. Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn, LA PTS Khoa
học Lịch sử, 1991. Kí hiệu Thư viện Quốc gia Hà Nội: LA04.03139.
24. Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu. Nguyễn Công Trứ, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1992.
25. Đỗ Bằng Toàn, Đỗ Trọng Huề. Việt Nam ca trù biên khảo: Khảo cứu nghệ thuật
văn chương và sưu tầm cổ tích lịch sử, Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1994.
26. Chu Trọng Huyến. Nguyễn Công Trứ - con người và sự nghiệp, Hà Nội, Nxb.
Khoa học xã hội, 1995.
27. Nhiều tác giả. Nguyễn Công Trứ, con người, cuộc đời và thơ (Tiểu luận, nghiên
cứu, tư liệu, tuyển thơ), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
28. Nhiều tác giả. Nguyễn Công Trứ, con người, cuộc đời và thơ (Tiểu luận, nghiên
cứu, tư liệu, tuyển thơ), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.
29. Hồ Sĩ Hiệp - Lâm Quế Phong. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát (Tủ sách văn
học trong nhà trường), Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1997
93
30. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận. Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ
31. Mai Khắc Ứng. Tư liệu về Nguyễn Công Trứ, Sở Văn hoá - Thông tin Hà Tĩnh, 2001.
32. Nguyễn Công Trứ. Thơ Nguyễn Công Trứ. Nxb. Đồng Nai, 2001.
33. Nguyễn Viết Ngoạn. Nguyễn Công Trứ ông hoàng hát nói, Hội Nghiên cứu và
Giảng dạy Văn học Tp Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, 2001.
34. Bùi Duy Tân. Khảo và luận một số thể loại tác gia - tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam, tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
35. Nguyễn Công Trứ. Thơ Nguyễn Công Trứ. Nxb. Đồng Nai, 2001.
36. Nguyễn Viết Ngoạn (nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn). Nguyễn Công Trứ: Tác
giả, tác phẩm, giai thoại, Nxb. Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, 2002.
37. Trần Nho Thìn (tuyển chọn và giới thiệu). Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác
phẩm - Tuyển chọn và giới thiệu, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
38. Mai Khắc Ứng. Đôi điều về Tồn Chất Nguyễn Công Trứ, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 2004.
39. Nguyễn Hồng Phong. Một số công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
40. Nguyễn Đức Mậu. Hát nói Nguyễn Công Trứ, chuyên luận và tinh tuyển, Nxb.
Nghệ An, Vinh, 2008.
41. Phan Thu Hiền. Nguyễn Công Trứ với hát ca trù, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2008.
42. Huyền Li. Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ qua 81 giai thoại, Nxb. Lao
động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, quý IV-2008.
43. Phan Thu Hiền. Nguyễn Công Trứ với hát ca trù, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội, 2008./.
44. Nhóm biên soạn: Đoàn Tử Huyến – chủ biên, Chương Thâu, Trần Nho Thìn,
Nguyễn Hoàng Diệu Thủy cùng sự cộng tác của Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Đức
Mậu, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Thị Hòa Bình. “Nguyễn Công Trứ trong dòng
lịch sử” . Nxb Nghệ An, Trung tâm văn hóa Đông Tây, 2008./.