ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ HIỀN
PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP”
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Thị Phương Thái
Thái Nguyên – 2016
Xác nhận khoa chuyên môn Xác nhận của người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kì công trình nào khác.
Các thông tin, số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều được ghi rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu lí luận
và tích lũy kinh nghiệm thực tế của tác giả. Những kiến thức quý báu mà các thầy cô
giáo truyền thụ, định hướng đã làm sáng tỏ những ý tưởng, tư duy của tác giả trong
suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng sâu sắc tới
PGS.TS. Phạm Thị Phương Thái – Trưởng khoa Văn – Xã hội, Đại học Khoa học –
Đại học Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Văn – xã hội,
Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học trường Đại học khoa học – Đại học Thái Nguyên đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá
trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè
đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
iii MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................ ii
MỤC LỤC ............................................................................................................................ iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................ 1
1.1. Lí do khoa học ................................................................................................................ 1
1.2. Lí do thực tiễn................................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 7
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 8
5.1. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................... 8
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………………………………...8
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................................... 9
7. Bố cục của đề tài................................................................................................................ 9
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI..... 10
1.1. Phương thức ứng xử ...................................................................................................... 10
1.1.1. Giới thuyết về phương thức ứng xử ............................................................................ 10
1.1.2. Phân biệt văn hóa ứng xử và phương thức ứng xử…………………………………….14
1.2. Cơ sở hình thành phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi ................................................ 14
1.2.1. Nền tảng khách quan khởi sinh phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi........................ 14
1.2.2. Yếu tố chủ quan - bản thể hình thành phương thức ứng xử của Ức Trai ...................... 20
Chương 2. PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI VỚI BẢN THÂN, GIA ĐÌNH
VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP”........................................................... 26
2.1. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với bản thân ....................................................... 26
2.1.1. “Xuất – xử”, niềm trăn trở khôn nguôi........................................................................ 26
2.1.2. Phương châm “danh chăng chác, lộc chăng cầu” ........................................................ 29
2.1.3. Ứng xử của Nguyễn Trãi với thị phi, đắc – thất .......................................................... 39
2.1.4. Vuông mình theo đạo “trung dung” ............................................................................ 46
2.1.5. Ứng xử với khát vọng cá nhân.................................................................................... 49
2.2. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với gia đình........................................................ 57
iv 2.2.1. Suy nghĩ “yên nhà nỡ phụ vợ tao khang” .................................................................... 58
2.2.2. Con – mối quan ái sâu sắc .......................................................................................... 60
2.3. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với cộng đồng .................................................... 63
2.3.1. Với láng giềng, bầu bạn.............................................................................................. 63
2.3.2. Với “đồng bào cốt nhục” ............................................................................................ 65
2.3.3. Với bậc quân thân ...................................................................................................... 69
Chương 3. PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ
NHIÊN TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP” ............................................................................ 77
3.1. Thiên nhiên qua con mắt ẩn sĩ ....................................................................................... 78
3.1.1. Coi thiên nhiên như tri âm, tri kỉ................................................................................. 78
3.1.2. Tìm đến những thanh thú với thiên nhiên.................................................................... 81
3.1.3. Thiên nhiên đánh thức phần thanh cao trong tâm hồn ẩn sĩ ......................................... 86
3.2. Thiên nhiên qua con mắt bậc quân tử ............................................................................ 88
3.3. Thiên nhiên qua con mắt “lão nông tri điền”.................................................................. 94
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 102
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 105
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khoa học
Mác đã từng nói “trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội”. Mỗi cá nhân là trung tâm quy tụ các quan hệ - đa chiều, phức tạp.
Phương thức ứng xử có thể coi là yếu tố chi phối, thậm chí quyết định sự thành công,
thất bại. Hơn thế, phương thức ứng xử xét về khía cạnh nào đó (như một nghệ thuật) là
bộ mặt thứ hai, thể hiện tầm văn hóa, trí tuệ, tính cách đồng thời cũng là thước đo giá
trị của con người.
Văn hóa ứng xử của con người luôn có xu hướng xê dịch theo thế cân bằng với
xã hội, mỗi thời đại lại có chuẩn mực ứng xử khác nhau. Thời kì phong kiến con người
chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cả ba luồng tôn giáo: Nho, Phật, Đạo. Hiện tượng
“tam giáo đồng nguyên” đã dẫn đến những giao thoa trong việc chọn lẽ ứng xử: với xã
hội, họ vận dụng triệt để lẽ “xuất – xử; hành – tàng”; với con người, họ hành lễ theo
“tam cương, ngũ thường”, theo đạo “trung hòa”; với thiên nhiên, họ thi ứng theo
nguyên lí “thiên địa vạn vật nhất thể”. Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng lớn của Việt
Nam thời trung đại, cả ba tôn giáo trên đều ít nhiều có tác động đến việc lựa chọn cách
ứng xử của ông.
Được viết vào những năm tháng cuối đời, sau bao thăng trầm, biến cố của bản
thân và thời đại lịch sử, với chiêm nghiệm xương máu, “Quốc âm thi tập” như tập “đại
thành” phản ánh trọn vẹn, đa chiều nhất con người cá nhân Nguyễn Trãi. Tập thơ thể
hiện sâu sắc phương châm ứng xử của Nguyễn Trãi trong các mối quan hệ với xã hội,
với giới tự nhiên và từ đó người đọc có thêm một phương quan tri nhận con người ưu
tú ấy. Đây chính là điều thu hút chúng tôi lựa chọn đề tài “Phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”.
1.2. Lí do thực tiễn
Ứng xử là vấn đề muôn thủa của nhân loại. Trong xã hội hiện đại, với nền
kinh tế thị trường, ứng xử càng ngày càng bị xem nhẹ. Nét đẹp văn hóa ứng xử của
người Việt đang bị ăn mòn. Đâu đó có những nơi, các mối quan hệ rường cột trong
gia đình bị phá vỡ, ngoài xã hội người với người càng ngày càng thờ ơ, vô cảm.
2
Nhiều vụ án lớn nhỏ xảy ra liên tiếp hàng năm và vấn đề gốc rễ phải chăng bắt nguồn
từ sự đứt gãy trong cách ứng xử của con người? Làm thế nào để nối lại rồi khơi ấm
lên mạch nguồn văn hóa tốt đẹp trong truyền thống ứng xử của người Việt? Để xã
hội tốt đẹp hơn, “Người yêu người sống để yêu nhau”? “Ôn cố tri tân” là một lí do để
chúng tôi có thêm động lực tiến hành nghiên cứu đề tài về phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi.
Với vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà, Nguyễn Trãi là một tác gia
văn học lớn được đưa vào giảng dạy ở chương trình phổ thông. Tiến hành nghiên cứu
vấn đề phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi sẽ ít nhiều góp phần phục vụ cho việc
nghiên cứu, học tập và giảng dạy về tác gia văn học này.
Với những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài khoa học: “Phương
thức ứng xử của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập” để tiến hành nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thơ là người và thơ là đời. Được coi như tập thơ khởi nguyên cho nền thi ca
dân tộc viết bằng chữ Nôm, “Quốc âm thi tập”, một lát cắt về đoạn đời ẩn cư đất Côn
Sơn đầy tâm sự của Nguyễn Trãi, thật sự đã thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên
cứu trong và ngoài nước. Không chỉ quan tâm đến nội dung và nghệ thuật ngôn từ, về
văn học và văn hóa, về ý nghĩa của tập thơ trong sự phát triển chung của ngôn ngữ dân
tộc,… phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi trong tập thơ cũng là một vấn đề được
nhiều tác giả quan tâm.
Dương Bá Cung trong bài “Tựa Ức Trai di tập” cũng viết những lời bình luận
về ứng xử của bậc chân Nho Nguyễn Trãi trước cám dỗ của lợi danh “khi quân Minh
sang xâm lược nước ta, lòng ông chỉ băn khoăn với nước nhà, dù người Minh lấy quan
cao chức trọng để câu dử, ông cũng không chịu đến” [30,348]. Rồi lại thương tiếc cách
xử trí vì tận trung mà quên mất lẽ khôn khéo phòng thân đẩy ông đến họa chu di “Xem
ông giúp việc hai đời, đem hết lòng trung mà khuyên vua điều phải, tuy thường bị đè
nén mà không từng chịu khuất. Ở trong cảnh ngộ như Giáng Quán cần phải có nhiều
cách xử trí khôn khéo công phu, mà ông lại không rõ cái lẽ “chỉ túc”, thành ra cuối
cùng không được trọn tiếng tốt, thương thay!” [30,350)].
3
Vẫn tiếp tục nhìn nhận luồng tư tưởng có ảnh hưởng đến ứng xử của Nguyễn
Trãi, trong bài viết “Tư tưởng của Nguyễn Trãi”, Nguyễn Thiên Thụ đã khẳng định do
ảnh hưởng của thuyết “thiên mệnh” nên: “Mọi sự thành bại, giàu sang phú quý hay đói
rách nghèo hèn đều do mệnh trời sắp đặt…Với niềm tin đó, Nguyễn Trãi bao giờ cũng
an nhiên tự tại, dù gặp thất bại cũng không khổ đau, dầu gặp thành công cũng không tự
đắc” [16,152]. Nguyễn Trãi luôn đề cao cách ứng xử của đạo lễ nhà Nho với “tam
cương, ngũ thường”: “Nguyễn Trãi luôn hướng đến bổn phận thiêng liêng đối với gia
đình và tổ quốc. Khi ra làm quan, khi về ở ẩn lúc nào Nguyễn Trãi cũng tâm niệm đến
hai chữ trung hiếu” [16,155]. Với nhân dân bần vi, ông luôn có cách ứng xử thấu tình,
đạt lí “Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng của chủ trương “quân vi khinh, dân vi quý”. Kẻ sĩ
phải lắng nghe tiếng nói của quần chúng, phải hành động theo ý nguyện của đại đa số
dân chúng và nhất là phải thu phục được tình cảm của dân chúng” [16,160]. “Xuất –
xử” là hai lẽ sống luôn giằng co, lúc u lúc minh trong con người Nguyễn Trãi, nên khi
thời thế rối ren cách ứng xử của Nguyễn Trãi là chọn cách “thanh tĩnh vô vi”, coi “đời
là giấc mộng và công danh phú quý như sương đầu ngọn cỏ” [16,163].
Vẫn tiếp tục mối giằng co giữa “xuất –xử”, nhà phê bình hiện đại - Hoài Thanh
trong bài viết “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm” đã thấm thấu
điểm cơ bản trong cách ứng xử của Ức Trai: vì một “tấm lòng son” mà “ Ông không
chịu bỏ cuộc, ông kiên trì bám trụ. Ông giữ vững khí tiết, giữ vững lòng ưu ái, giữ
vững niềm tin và mặc dù chịu đủ điều tủi cực vẫn nhân hậu với người, chan hòa với
cảnh, vẫn luôn luôn bình tĩnh ung dung”[ 18,717]. Nhất quán trong cách ứng xử với
quân thân và nhân dân bần vi, Hoài Thanh nhận thấy mối ưu ái của Nguyễn Trãi với
“những người cùng khổ, một tấm lòng như nước triều ngày đêm cuồn cuộn, một tấm
lòng luôn luôn nóng bỏng như lửa trong lò…vượt xa Trương Lương và tất cả những
người tu tiên học đạo” [18, 706].
Bùi Văn Nguyên trong lời tựa “Quốc âm thi tập”, nhận định cách ứng xử của
Nguyễn Trãi là “triết lí tình thương bao la của ông, bao gồm người và cảnh, người và
tự nhiên, người và vật” [13,16]. Và ông đặc biệt “có ý thức về đạo làm người chân
chính, giữ đúng vị trí “linh vật trưởng” của muôn vật mà yêu thương chủng loại riêng
mình đã đành, mà còn thương yêu cả cảnh vật thiên nhiên, cả muôn vật, coi trọng hạnh
phúc chung, coi trọng phong cảnh chung” [13,17]. Quan niệm ứng xử của Nguyễn Trãi
4
không cứng nhắc mà “nóng nảy với những ai bảo thủ, ngoan cố, còn bình thường thì
lại hiền hòa, bao dung như vị tiên trên trần” [13,17].
Giáo sư Lê Trí Viễn lại đứng trên bình diện của lịch sử để đánh giá khách
quan con người cũng như tư tưởng của Nguyễn Trãi. Trong bài viết “Nguyễn Trãi,
nhìn từ phía Lý – Trần”, giáo sư nhận định về cách ứng xử của Nguyễn Trãi tạo nên
“phong cách sống: vừa làm việc hết mình cho dân cho nước, nhưng lòng bao giờ
cũng sạch, nhẹ như kẻ xuất gia, không hề nặng danh lợi của kiếp trần, mà cũng vừa
biết sống lành mạnh vui tươi giữa cuộc sống nông thôn lao động, với mọi cảnh vật
thiên nhiên” [40,65]
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu dưới góc nhìn văn hóa trong bài viết “Nguyễn
Trãi và Nho giáo” cũng đề cập đến những vấn đề xoay quanh ứng xử của con người
phận vị ở Nguyễn Trãi. Với bổn phận của một bề tôi “Suốt đời Nguyễn Trãi làm việc
với tinh thần nhập thế có trách nhiệm, luôn để ý đến nhân dân, lo trước điều lo của
thiên hạ” [18,99]. Với bổn phận làm cha, Nguyễn Trãi chọn cách răn dạy con cái bằng
những tâm huyết đúc rút theo suốt đường đời thăng trầm của mình. “Ông khuyên
không nên sợ nghèo, không nên tham lợi, tham giàu…quý hơn của cải là đạo
đức…cũng cần phải có học, có nghề và có tài” [18,103]. Nguyễn Trãi “khuyên anh em
nên thương yêu nhau”; “trong hương đảng đừng đua huyết khí mà gây gổ cạnh tranh
mà làm mất lòng người”; “hiếu với cha, trung với vua nhưng không phải tinh thần
“quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” như của Nho giáo cứng nhắc” [18,105]. Với
phận vị của bậc làm quan giữa triều, Trần Đình Hượu cũng nhìn thấy cách ứng xử linh
hoạt của Nguyễn Trãi “đối với đám triều quan, ông chỉ thấy chông gai, sóng gió, lòng
người hiểm sâu phải lo gìn giữ và tìm cách xa lánh, thì đối với thiên nhiên ông lại hết
sức cởi mở, trân trọng, thân thương” [18,108]. Như lời tổng kết trong bài viết của
mình, Trần Đình Hượu khẳng định cách ứng xử của Nguyễn Trãi cơ bản “lấy con
người tự nhiên, tự do tự tại làm cơ sở cho một thái độ sống vì đời, làm việc thiện cho
nhau, có quan hệ đầm ấm với nhau đồng thời đảm bảo thú vui riêng” [18,114].
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong cuốn “Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn
văn hóa đến giải mã nghệ thuật” bàn về “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi”
đã đề cập đến hầu hết mọi lẽ ứng xử cơ bản nhất của Nguyễn Trãi. Với bậc quân thân
dù: “Tìm về núi cũ, hay lên tiên, hay yên tâm với việc cày nhàn câu vắng…bằng cách
5
nào đi nữa thì rút cục Nguyễn Trãi cũng không quên được mọi chuyện của cõi trần”
[3,126]. Cả việc ứng xử trong mối quan hệ thường nhật với người thân với hàng xóm
láng giềng và bản thân cũng được giáo sự đề cập “Thời kỳ ở ẩn Côn Sơn, ông già Ức
Trai ít nhiều có cái phận sự thông thường của người làm cha làm mẹ. Ông gợi ý cho
con cháu, cho hàng xóm láng giềng, và có lẽ cũng là gợi ý cho mình, về một phương
châm sống… “hòa hảo, nhân ái”.[3,128]. Còn với thiên nhiên trong những ngày cáo
quan ở ẩn cũng được giáo sư nhận định “Nhà thơ dựng lên một cảnh sống bầu bạn,
trong đó không phải chỉ có một con người lặng thinh trước cảnh vật mà là những tâm
hồn bên cạnh những tâm hồn yêu thương, quấn quýt, cảm thông lẫn nhau” [3,132].
Nguyễn Huệ Chi đã nhận xét “Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ta bắt gặp một
cuộc đời khác hẳn, một cuộc đời đạm bạc, cảnh vật dàn trải ra mênh mông và trong
cảnh đất trời phóng khoáng ấy, nổi bật lên hình ảnh tiên cốt của nhà thơ quấn quýt lấy
trăng, gió và thông” [3,113].
Viết về “Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi”, Trần Đình Sử lại đi
tìm hiểu xem ý thức cá nhân của Nguyễn Trãi chi phối đến phương thức xử của ông ra
sao, và cả sự dung hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích dân tộc: “Ý thức cá nhân ở đây
biểu hiện thành ý thức tự khẳng định, chống hòa đồng với thói phàm, đứng ngoài cõi
tục. Ý thức này quyện chặt với ý thức nghĩa vụ, sứ mệnh…lý tưởng làm việc lớn, ích
quốc lợi dân, chứ không phải lợi cho cái tôi nhỏ bé của mình, không phải đua chen,
cạnh tranh, cơ hội” [18,727].
Kiều Văn trong cuốn Thơ văn Nguyễn Trãi đã viết về cách ứng xử của ông trên
các chặng đường khác nhau. Khi giữ cương vị triều chính. “Không một giây phút nào
Nguyễn Trãi không tha thiết mang tất cả nghị lực và tài năng, tất cả tâm hồn và tình
cảm để cống hiến, phụng sự cho đất nước và dân tộc” [36,14]. Còn khi lui mình về ở
ẩn tại Côn Sơn “Ông đã xử thế bằng cách hòa nhập vào thiên nhiên. Chúng ta thấy ông
hiện lên như một tiên ông, một vị thánh hiền giữa núi non, mây nước, cỏ cây, chim
muông. Tâm hồn ông, thoát khỏi những chốn “cửa mận tường đào” đầy bon chen và
bụi bậm, càng trở nên cao khiết và đáng kính”. [36,16] Thậm chí, tác giả còn nhìn thấy
mối lo cao quý của Nguyễn Trãi cả khi lâm triều lẫn khi đã lui về ở ẩn “Cái mối lo cao
quý của bậc nho thần trung trực khi ngồi cao ở miếu đường thì lo lắng vì dân, khi xa
6
lánh ở giang hồ thì lo lắng vì vua” [36,15]. Một con người luôn cánh cánh trong lòng
nỗi quân, dân.
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn trong cuốn “Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến
hết thế kỉ XIX” đã quan tâm đến sự ảnh hưởng của tư tưởng – chính trị trong sáng tác
của Nguyễn Trãi, nhân cách vĩ đại cũng như tinh thần nhà Nho của Nguyễn Trãi từ đó
khẳng định cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền văn học nước nhà. Trong phần bàn
về “Nhân cách Nguyễn Trãi”, tác giả đã chỉ ra mối quan ái trong phương thức ứng xử
của Nguyễn Trãi “Chú ý nhiều đến đạo làm cha và đạo làm con chứ hầu như không đề
cập đến các quan hệ xã hội khác” [30,328]. Và khẳng định “Trước sau như một,
Nguyễn Trãi vẫn kiên trì đạo trung hiếu, vì trung hiếu là điều kiện để lo cho dân cho
nước” [30,331].
Có một công trình nghiên cứu khá sâu sắc về ứng xử của Nguyễn Trãi, đó là
luận văn thạc sĩ về văn hóa của Trần Thị Thanh Bình trường ĐH KHXH và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi vấn đề nghiên cứu khá rộng: toàn bộ những gì liên
quan đến ứng xử của Nguyễn Trãi trên phương diện văn hóa như: với văn hóa Trung
Hoa (trên cả mặt ứng phó và tiếp biến); với văn hóa Việt Nam (trong việc ứng xử với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội). Mục tiêu của đề tài này là: thông qua tìm
hiểu về văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trên hai trục quan hệ chính là quan hệ với các
nền văn hóa bên ngoài (tiêu biểu là với văn hóa Trung Hoa) và quan hệ trong nội bộ
của nền văn hóa dân tộc, để làm rõ hai luận điểm chính sau: Trong một thời đại đầy
biến động, có tính chất bản lề của lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Nguyễn
Trãi đã kế thừa và phát huy một cách xuất sắc truyền thống văn hóa dân tộc trong quan hệ
với Trung Hoa. Trong nội bộ của nền văn hóa Việt Nam, Nguyễn Trãi đã có những
đóng góp xuất sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển và nâng nền văn hóa dân
tộc lên một tầm cao mới. Và rõ ràng vấn đề được làm sáng tỏ trong đề tài khoa học này
là sự củng cố vững chắc cho ý kiến đánh giá về Nguyễn Trãi “nhà văn hóa lớn của dân
tộc và là danh nhân văn hóa thế giới”. Trong luận văn này, tác giả đã nghiên cứu văn
hóa ứng xử của Nguyễn Trãi với cứ liệu là toàn bộ các sáng tác của ông chứ không
riêng gì “Quốc âm thi tập”.
Có thể thấy các công trình đi trước đã ít nhiều đề cập đến vấn đề về tư tưởng
chi phối đến cách ứng xử của Nguyễn Trãi với bản thân, với môi trường xã hội và môi
7
trường tự nhiên để thấy được tư tưởng, trí tuệ, tâm hồn, bản lĩnh của Nguyễn Trãi,
đồng thời bước đầu cho thấy sự linh hoạt trong lựa chọn cách thức ứng xử của tiên
sinh. Đây chính là những gợi ý để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu “Phương thức
ứng xử của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy vấn đề phương thức ứng xử của con người làm cơ sở nền tảng để từ đó
tìm hiểu cặn kẽ phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với bản thân, với môi trường xã
hội và môi trường tự nhiên trong “Quốc âm thi tập”. Qua đó, ta nhận thấy phương thức
ứng xử linh hoạt, mềm dẻo, lúc buông lúc giữ vô cùng đắc dụng của Ức Trai tiên sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khoa học lấy văn bản “Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập” của tác giả Phạm
Luận phiên âm và chú giải, Nxb Giáo dục, Hà Nội xuất bản năm 2012 làm tư liệu
nghiên cứu và đi sâu tìm hiểu các vấn đề liên quan đến phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên.
Để phục vụ cho việc tìm hiểu đề tài, chúng tôi cũng sử dụng một số tài liệu, bài
viết cũng như các bài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề ứng xử của Nguyễn Trãi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng những phương pháp sau để tiến hành nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tổng quan những vấn đề lý thuyết có liên
quan đến truyền thống ứng xử của dân tộc và con người trung đại Việt Nam nói
chung cũng như những vấn đề lý thuyết có ảnh hưởng đến phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi nói riêng.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa đối với tác phẩm văn học để thấy được văn hóa
ứng xử của con người trung đại có ảnh hưởng như thế nào đến Nguyễn Trãi khi viết
“Quốc âm thi tập”.
- Phương pháp tiếp cận xã hội học để thấy sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử,
xã hội đến cách thể hiện phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi trong “Quốc âm thi tập”.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học đối với tác phẩm văn học để tìm hiểu nội
8
dung cũng như nghệ thuật của “Quốc âm thi tập”.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng các thao tác thống kê, phân tích, tổng hợp
và so sánh.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích thứ nhất mà đề tài của chúng tôi hướng đến là tìm hiểu những yếu tố
khách quan và chủ quan góp phần hình thành nên phương thức ứng xử của Nguyễn
Trãi. Thấy được phương thức ứng xử linh biến của Nguyễn Trãi với bản thân và với
những người xung quanh, với chốn trường quan hiểm hóc cũng như cuộc sống thanh
vi lạc đạo và cả những khát vọng cuộc đời được thể hiện trong “Quốc âm thi tập”, từ
đó có cái nhìn sâu sắc hơn về cốt cách, tâm hồn, trí tuệ của bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Mục đích thứ hai mà đề tài cũng muốn hướng tới đó là “ôn cố tri tân”. Phương
thức ứng xử không chỉ là vấn đề xưa của Nguyễn Trãi mà đó còn là vấn đề trường
nguyên của nhân loại. Nên mong muốn của những người làm đề tài chúng tôi là thế hệ
hôm nay sẽ sàng lọc được những kinh nghiệm hữu ích từ phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi để vận dụng vào cách ứng xử của mình trong cuộc sống hiện đại. Như
nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên đã nhận định: “Chỉ sợ chúng ta quá hãnh diện về máy
móc mà chưa theo kịp tổ tiên của mình về vị trí làm người mà thôi. Đó là tất cả tâm tư
Nguyễn Trãi gửi lại chúng ta, những con em đất Việt, trong tập thơ Quốc âm của
mình” [14,21]. Bởi một chân lí hiển nhiên, còn tồn tại, còn sống ngày nào chúng ta còn
ấp lòng bài học ứng xử ngày đó.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, đề tài khoa học cần thực hiện được nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu rõ cơ sở nền tảng văn hóa, xã hội, chính trị khách quan cũng như yếu
tố bản thân chủ quan bên trong hình thành nên phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi.
Chỉ rõ cách thức thể hiện trong ứng xử mà Nguyễn Trãi đặt ra cho bản thân
mình cũng như với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên trong “Quốc âm thi tập”.
Qua đó, để ta thấy được chân dung con người Nguyễn Trãi.
9
Đúc rút được những bài học ứng xử cho con người hiện đại thông qua phương
châm xử thế mà Nguyễn Trãi đã thể hiện trong tập thơ Nôm của ông.
6. Đóng góp của đề tài
Trong hệ thống dày dặn các công trình nghiên cứu khoa học về Nguyễn Trãi,
đặc biệt những bài nghiên cứu có đề cập đến phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi,
khi tiến hành nghiên cứu đề tài này chúng tôi mong muốn đóng góp thêm một góc nhìn
về Nguyễn Trãi, đứng từ phương thức ứng xử để định giá lại một lần nữa những lựa
chọn cam go nhưng rất thông tuệ và đầy tâm huyết của tiên sinh trước thời đại và lịch
sử. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi như một gợi dẫn cho chúng ta làm sao để
vừa cống hiến lại vừa thỏa mãn những khát vọng cá nhân và luôn tìm được niềm vui
trong mọi thế cảnh cuộc đời.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc đề tài được
triển khai làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở hình thành phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi
Chương 2: Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với bản thân, gia đình và
cộng đồng trong “Quốc âm thi tập”
Chương 3: Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với môi trường tự nhiên
trong “Quốc âm thi tập”
10
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH
PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1. Phương thức ứng xử
1.1.1. Giới thuyết về phương thức ứng xử
Không ai có thể tồn tại ngoài cộng đồng và môi trường sống, điều đó tạo nên
mối liên hệ, ràng buộc qua lại mà ta quen gọi là “xã hội”. Để nhận định đánh giá khách
quan một cá nhân cần phải đặt họ trong mối tương tác với thế giới xung quanh. Thước
đo chuẩn mực có lẽ là cách con người quan hệ với ngoại giới hay chính là ứng xử.
“Ứng xử là thể hiện thái độ, hành động thích hợp trước những việc có quan hệ
giữa mình với người khác” [15,1395]. Ứng xử là nét riêng biệt chỉ có ở xã hội loài
người. Ứng xử thể hiện trình độ văn minh của cộng đồng và văn hóa của mỗi con
người. Từ thái độ, suy nghĩ con người thể hiện ra bên ngoài bằng hành động. Từ kênh
thông tin: thái độ và hành động - người ta sẽ định giá cách ứng xử của mỗi cá nhân.
Ứng xử đơn thuần không chỉ thể hiện mối quan hệ thân sơ, yêu ghét mà còn thể hiện
tầm trí tuệ, năng lực cá nhân thậm chí là bản lĩnh sống. Vì thế, trước một hoàn cảnh,
một vấn đề, cùng một đối tượng…mỗi người lại có cách ứng xử khác nhau.
Con người có sự tương tác thường xuyên với xã hội và giới tự nhiên. Tất nhiên,
trong hai mối quan hệ ấy, người ta đặc biệt chú trọng quan hệ giữa con người với con
người, vì nó thể hiện sắc nét nhất nghệ thuật sống của mỗi cá nhân. Quan hệ xã hội
được chia thành năm cấp độ khác nhau: gia đình, làng xóm, quê hương, quốc gia và
nhân loại. Còn quan hệ với giới tự nhiên thường ta chỉ đề cập đến tác động tích cực
hay tiêu cực của con người. Mỗi người có thể chọn cho mình một cách ứng xử mà họ
tâm đắc và từ đó nhân cách được hình thành và soi sáng. Từ đó con người rút ra bài
học ứng xử với bản thân để đạt được thành công trong cuộc sống.
Ứng xử, giao tiếp của con người là hoạt động có ý thức, vì thế ngay khi tiến
hành hoạt động đó, con người đồng thời cũng đặt hàng loạt các đích giao tiếp. Đích
đầu tiên không thể thiếu của ứng xử, giao tiếp là trao đổi thông tin, đó chính là nhu cầu
11
hối thúc con người tiến hành hoạt động này. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động giao
tiếp ứng xử con người bộc lộ cảm xúc, thái độ của mình, cũng là để nhận thức và đánh
giá lẫn nhau. Mặt khác, ứng xử, giao tiếp còn có thể coi như một tấm gương để mỗi cá
nhân soi vào đó mà tự điều chỉnh hành vi của mình.
Tiến hành giao tiếp ứng xử như thế nào để hiệu quả giao tiếp cao nhất, được
cho ta mà không hại cho người. Câu trả lời nằm trong phương thức ứng xử bởi người
xưa có câu “Ác đúng chỗ là thiện, thiện sai chỗ thành ác”. Chọn cho mình lẽ xử thế
hợp cảnh để đạt đến đức nhân là mong muốn của mỗi người. Chính vì thế, phương
thức ứng xử luôn được con người trong mọi thời đại xem trọng và đưa ra những giới
thuyết hợp lý nhất.
“Phương thức là cách thức và phương pháp tiến hành nói chung” [15, 1021].
Nói đến phương thức người ta thường nhấn mạnh đến cách thực hiện để đạt được cái
đích đã đề ra. Với ứng xử, thông thường người ta thường đề cập đến biểu hiện của
hành vi ứng xử để định giá chủ thể của hành vi ứng xử. Nhưng với phương thức ứng
xử thì người ta chú trọng đến việc thực hiện như thế nào. Hay nói cách khác, phương
pháp nào được vận dụng trong hành vi ứng xử. Từ phương pháp và cách thức ấy, dần
dà người ta đi tìm ra quy luật ứng xử và đó là những thông tin cần thiết để giải mã
những tâm hồn, tính cách, trí tuệ, bản lĩnh của chủ thể giao tiếp.
Từ hai khái niệm “ứng xử” và “phương thức”, ta có thể hiểu phương thức ứng
xử như sau. Phương thức ứng xử là cách thức, phương pháp thể hiện thái độ, hành
động trước những việc có quan hệ giữa mình với người khác, với môi trường, hoàn
cảnh sống…Từ đó khẳng định tầm trí tuệ, bản lĩnh sống cũng như vốn hiểu biết và văn
hóa ứng xử của mỗi cá nhân.
1.2. Phân biệt văn hóa ứng xử với phương thức ứng xử
Phương thức ứng xử và văn hóa ứng xử là hai khái niệm cận quan. Để phân biệt
được thì trước tiên ta cần hiểu “văn hóa ứng xử” là gì.
Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa nhưng xin được viện dẫn khái niệm trong
Đại từ điển tiếng Việt: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng
12
tạo ra trong lịch sử”. Những gì con người sáng tạo ra trên cái nền của tự nhiên và ứng
dụng quay lại phục vụ chính con người đó chính là văn hóa. Đôi khi văn hóa trở thành
một thước đo để đánh giá con người trong xã hội.
Văn hóa ứng xử là cách đối nhân xử thế thích hợp, đẹp đẽ giữa người với người
trong cuộc sống. Việc ứng xử có văn hóa không chỉ tạo nên nét đẹp cho từng cá nhân,
mà còn phản ánh bản sắc văn hóa của một cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc. Văn
hóa ứng xử của mỗi quốc gia dân tộc khác nhau, thậm chí ngay cùng một đất nước mỗi
vùng miền, mỗi thời kì cũng có những chuẩn mực văn hóa ứng xử khác nhau.
Bảng 1.1: Phân biệt văn hóa ứng xử và phương thức ứng xử
Tiêu chí Văn hóa ứng xử Phương thức ứng xử
Phạm vi Rộng: vùng miền văn Hẹp: Cá nhân.
hóa, quốc gia, vùng lãnh
thổ cư dân.
Đặc điểm nổi - Tính truyền thống, lâu - Tính hiện đại, luôn luôn được làm mới,
bật đời, ổn định, “tính tĩnh”. thay đổi, thậm chí có những trường hợp
đi ngược lại với quy tắc văn hóa ứng xử
chung cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử,
xã hội và cá nhân – “tính động”.
- Tính chung của quốc - Tính riêng biệt của cá nhân .
gia, cộng đồng, vùng
miền.
Tính chất - Thiên về những tính - Thiên về sự vận dụng, ứng dụng cụ thể
chất mang nặng yếu tố những lý thuyết ứng xử trong giao tiếp
lý thuyết về ứng xử. hàng ngày.
Mối quan hệ - Văn hóa ứng xử có vai - Phương thức ứng xử được sinh tạo trên
trò làm nền tảng để sản cái nền văn hóa ứng xử chung của dân
sinh và định giá hành vi tộc.
ứng xử của con người.
13
- Văn hóa ứng xử có tác - Phương thức ứng xử có tính tương tác
động một chiều đến qua lại: Chịu tác động của văn hóa ứng
phương thức ứng xử - xử, nhưng cũng tác động lại văn hóa ứng
tác động chi phối. xử (trong những trường hợp sự thay đổi
của cá nhân phù hợp, đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử, xã hội thì từ phương thức
ứng xử riêng đó có thể ảnh hưởng và hình
thành nên văn hóa ứng xử chung của cộng
đồng, tất nhiên cần phải có thời gian).
Điều này lí giải tại sao có các nhà văn
hóa, danh nhân văn hóa.
Bản chất - Trả lời cho câu hỏi - Trả lời cho câu hỏi “hành vi ứng xử
“hành vi ứng xử được được thực hiện bằng cách nào?”.
biểu hiện như thế nào?”.
Khi phân biệt được văn hóa ứng xử và phương thức ứng xử ta sẽ hiểu rõ hơn
vấn đề được bàn đến trong luận văn - phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi. Ở đây, ta
nhấn mạnh đến tính động, tính linh hoạt, cái riêng, cái cá nhân trong ứng xử của
Nguyễn Trãi trên nền văn hóa ứng xử chung của dân tộc, điều đó vừa thể hiện được
bản sắc dân tộc lại vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân của một con người tài trí lỗi lạc, một
nhà văn hóa lớn của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới.
Phương thức ứng xử nói chung đề cao phương pháp, cách thức con người tiến
hành giao tiếp. Nhưng trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi một mặt xem xét khía
cạnh Nguyễn Trãi đã lựa chọn cách ứng xử như thế nào đối với chính bản thân mình,
với những người thân yêu trong gia đình, với cộng đồng xã hội để có thể vừa thỏa mãn
khát vọng cống hiến của một con người phận vị nhưng cũng cố gắng để thỏa nguyện
khao khát của cá nhân mình. Bên cạnh đó, cách thức ứng xử của Nguyễn Trãi đối với
thiên nhiên như thế nào cũng được đề cập để thấy được tình yêu thiên nhiên, sự nâng
niu, trân trọng thiên nhiên hết mực của ông. Từ phương thức ứng xử với con người và
thiên nhiên ta nhìn thấu tâm can của con người “Sinh bất phùng thời, “Hoài tài bất
ngộ” nhưng vẫn cống hiến hết thân, tâm cho dân cho nước.
14
1.2. Cơ sở hình thành phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi
1.2.1. Nền tảng khách quan khởi sinh phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi
1.2.1.1. Truyền thống ứng xử của dân tộc
Mỗi dân tộc có nền văn hóa mang bản sắc riêng. Trong dòng chảy ấy thì truyền
thống ứng xử là yếu tố căn cốt cấu thành nên văn hóa quốc gia. Dễ nhận thấy, không
một quốc gia, dân tộc nào có văn hóa, truyền thống ứng xử giống nhau. Việt Nam ta
cũng có những truyền thống ứng xử tạo nên sự khác biệt, hấp dẫn riêng của so với các
dân tộc khác trên thế giới. Truyền thống là những thói quen, tư tưởng những giá trị văn
hóa lâu đời đã hình thành trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Truyền thống không chỉ là bản sắc của dân tộc mà nó còn là một yếu
tố quan trọng khẳng định chủ quyền độc lập:
“Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam Bắc chi phong tục diệc dị.”
(Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác) (Cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi)
Từ khi mới sinh, mỗi người con đất Việt được tắm đẫm trong bầu sữa văn hóa.
Các bậc cha mẹ luôn tâm niệm dạy con cách ứng xử: “Tiên học lễ, hậu học văn” (Tục
ngữ). Ứng xử là bài học “vỡ lòng” thiết yếu, cần có trước việc học “chữ”. Truyền
thống ứng xử của con người Việt Nam rất đa dạng nhưng ta có thể quy về các mối
quan hệ cơ bản.
Trước tiên là ứng xử trong gia đình. Người Việt đặt việc thi lễ trong gia đình
theo khuôn chuẩn đạo hiếu, chú trọng đến kính lễ của con cái với cha mẹ. Làm con
phải đặt ơn cha nghĩa mẹ làm đầu:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" (Ca dao)
Kinh nhà Phật từng dạy: "Có hai hạng người, này các Tỳ kheo, ta nói không thể
trả ơn được đó là mẹ và cha". Tình cảm nào rồi cũng nhạt phai với thời gian, chỉ có
cha mẹ thương con là ngàn năm bất tận. Ngẫm trên đời, quy luật chung trong mối quan
hệ giữa người với người là “cho” và “nhận”. Nhưng chỉ duy nhất một thứ tình cảm đi
15
ngược lại quy luật ấy là tình yêu thương của cha mẹ giành cho con mãi cho đi không
mong nhận lại:
" Cha mẹ thương con biển hồ lai láng
Con thương cha mẹ tính tháng tính ngày" (Ca dao)
Công ơn cha mẹ, không ngôn từ nào kể hết, vì vậy con cái đều có ý thức hiếu lễ
với bậc sinh dưỡng ra mình. Đó là nét văn hóa ứng xử đẹp nhất trong gia đình của mỗi
người con đất Việt. Tất cả các đức rường cột của xã hội đều quy về chữ Hiếu:
“Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Hòa,
Hỏi trong ba chữ, thờ cha chữ nào?
Chữ Trung, thì để thờ cha,
Chữ Hiếu thờ mẹ, chữ Hòa thờ anh” (Ca dao)
Chữ hiếu là nền tảng văn hóa ứng xử trong gia đình. Và cũng có thể coi đây là
cội nguồn lối sống “duy tình” của người Việt Nam khi ứng xử ngoài xã hội.
Trọng tình là một nét đẹp trong phép ứng xử của người Việt Nam với những
người xung quanh. Nền văn hóa nông nghiệp thuần hậu, việc nhỏ trong nhà bảo
nhau, việc lớn trông cậy hàng xóm “Láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau” nên ông cha
ta nhắn nhủ “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Dù không thân thiết nhưng trước
lạ sau quen và tình nghĩa xóm làng là thứ cũng cần được bồi vun, xây đắp:
“Áo năng may năng mới, người năng chào năng thân” (Thành ngữ)
Mỗi đất mỗi lề, mỗi quê mỗi thói nhưng khi đã thành láng giềng thì các cụ ta khuyên:
“Mỗi người mỗi đạo thì tuỳ
Miễn sao có ngãi có nghì với nhau” (Ca dao)
Bởi cuối cùng, cái còn lại giữa con người với con người vẫn là nghĩa xóm, tình
làng. Tuy nhiên để phân định rõ các mối quan hệ đa diện của xã hội với người trên kẻ
dưới thì lại có những chuẩn mực ứng xử cụ thể:
“Yêu trẻ trẻ đến nhà
Kính già già để tuổi cho” (Thành ngữ)
16
Chữ “hòa” trong quan hệ ứng xử của người Việt Nam là tiêu đích chung. Trong
gia đình ai cũng mong “Trên thuận dưới hòa” (Thành ngữ), ngoài xã hội tất cả đều vui
khi “Hòa cả làng” hay được cùng hội cùng thuyền “Xấu đều hơn tốt lỏi”(Thành ngữ).
Và ai cũng tâm niệm, trong mọi mối quan hệ thì “Dĩ hòa vi quý”(Thành ngữ). Nên
hàng xóm láng giềng là những người lân cận để thể hiện đạo lý ấy và quan điểm
“Thương người như thể thương thân” (Tục ngữ) cứ thế hình thành rồi đi vào cuộc
sống. Nét đẹp trong mối quan hệ láng giềng được cố kết, tạo nên văn hóa ứng xử của
con người trong mối quan hệ với quốc gia, dân tộc.
Trong thời kì quân chủ phong kiến, chữ “trung” được đặt lên hàng đầu như bổn
phận của cá nhân với đất nước. Đất nước là của vua, nên yêu nước là trung với vua. Và tư
tưởng “Trung quân ái quốc” là cách ứng xử của mỗi cá nhân đối với quốc gia, dân tộc.
1.2.1.2. Ứng xử của con người trung đại
Hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” có ảnh hưởng vô cùng sâu đậm đến văn
hóa, phong tục, truyền thống của người Việt thời trung đại. Cách ứng xử của con
người thời ấy chịu ảnh hưởng sâu đậm của cả ba tôn giáo: Nho – Phật – Đạo. Mỗi cá
nhân lại chọn cho mình một tư tưởng làm chuẩn tắc ứng xử, tùy sở nguyện và vị thế xã
hội. Tuy nhiên, do đặc điểm chính trị của xã hội phong kiến, Nho giáo được áp dụng
phổ biến trở thành luật pháp cai trị nên tầm ảnh hưởng vô cùng sâu rộng với đạo “tam
cương”, “ngũ thường”.
“Tam cương” là một khái niệm chỉ những nguyên tắc đạo đức xã hội chung của
nhà nước phong kiến. “Cương vốn có nghĩa là cái giày lớn nhất của cái lưới – Cái chủ
não” [1,68]. Chính vì thế, người ta còn gọi “cương” là “giếng lưới” hay “giường lưới” để
chỉ những thứ quan trọng nhất trong một cơ cấu tổ chức. Cuộc sống thường ngày, mối
quan hệ giữa người với người có thể phân định ra năm nhóm: Vua – tôi, chồng – vợ, cha –
con, anh – em, bạn bè. Trong năm mối quan hệ đó người ta lại chọn ra ba mối quan hệ cơ
bản và quan trọng nhất – quan hệ rường cột, chi phối những mối quan hệ còn lại trong xã
hội đó là: Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ và gọi là “tam cương”.
Trong mối quan hệ “vua – tôi” chữ “trung” đặt hàng đầu. Các quốc triều phong
kiến có luật bất thành văn nhưng vô cùng nghiêm ngặt: “Tôi trung không thờ hai chủ”,
“Tôi sáng không thờ hai vua”. Khi các vương triều phong kiến có sự thay đổi thì đại đa
số quan lại dưới triều đại cũ không ra hợp tác với triều đại mới, cho dù vị vua mới có
17
là bậc anh minh, thánh chúa. Họ có thể tuẫn tiết, hoặc có thể trốn tránh việc đời mà đi
ở ẩn để giữ lòng trung. Nếu có những con người thức thời, sẵn sàng chọn minh chủ
mới họ sẽ vấp phải sự dè bỉu của xã hội.
Mối quan hệ “cha – con” lại lấy chữ “hiếu” làm trọng. Nho giáo răn dạy con
người “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” (Khổng Tử). Muốn thành nghiệp lớn,
đầu tiên phải là một con người mẫu mực trong gia đình mà chữ “hiếu” là cốt lõi.
Khổng Tử đã nói với Tăng Tử: “Này đây, hiếu là căn bản của đức, do giáo dục mà sinh
ra…Này đây, chữ hiếu lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu, kế đến thờ vua, sau rốt
là lập thân". Trọn đạo làm con với cha mẹ là hiếu. Phụng dưỡng cha mẹ, thành kính lễ
thảo là hiếu. Làm cha mẹ hài lòng, vui vẻ, tin yêu là hiếu. Biết phải trái, đúng sai của
cha mẹ mà làm theo hay không làm theo là hiếu. Khi cha mẹ mất chôn cất, cúng tế
thành tâm là hiếu. Giữ gìn danh dự, nề nếp gia phong là hiếu…Hiếu là nhân cách của
con người, là gốc của nhân luân, là giá trị đạo đức xã hội cao quý của con người.
Trong mối quan hệ vợ - chồng, Nho giáo đề cao tình nghĩa vợ chồng, không
cho phép ngoại tình sau khi kết hôn. Người vợ phải biết “Tam tòng, tứ đức”, ngược lại
người chồng cũng không được lạm dụng uy quyền để hành hạ vợ (bởi như thế là hành
vi "Bất nhân, bất nghĩa").
“Tam cương” của Nho giáo đã ràng buộc mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội. Trải hàng ngàn năm phong kiến, đó là những quy định thi lễ giữa người
với người và trở thành truyền thống dân tộc. Là một con người đất Việt, lại sống trong
xã hội phong kiến nên tư tưởng đó thấm nhuần trong Nguyễn Trãi, ảnh hưởng đến
cách đối nhân xử thế của ông. Tuy nhiên, với những con người tài trí tuyệt vời sự phá
vỡ khuôn khổ xã hội, tạo nên những giá trị mới luôn có thể xảy ra như sự khẳng định
cái tôi cá nhân và bản lĩnh sống.
“Ngũ thường” cũng là một khung lễ giáo của xã hội phong kiến, hạn định cách
hành xử của con người. “Thường là bình thường, thông thường, vĩnh hằng” [1,477].
Ngũ thường nghĩa là năm phẩm chất đạo đức thông thường của con người. Người ta
phải giữ năm đạo đó làm thường, không nên để rối loạn. Ngũ thường gồm:
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
“Nhân” lại là đức tính quan trọng nhất trong “ngũ thường”. Nhân ở đây hiểu là
tính thiện sẵn có của con người, là tình yêu thương đồng loại, lòng khoan dung độ
18
lượng. Khổng Tử nói "Nhân là tính người, là kính yêu người trong thân tộc, yêu nhân
dân của mình”. Biểu hiện của “nhân” ở các đức: tính cương trực, chí quyết đoán,
lòng chất phác, lời ăn tiếng nói cẩn trọng. Đạo nhân là thước đo để đánh giá người
quân tử: "Người quân tử xa rời đạo nhân làm sao có thể xứng danh quân tử được”.
(Khổng Tử). Đặc biệt đối với bậc thức giả “nhân” còn lẽ gốc rễ của lẽ xuất - xử của
nhà Nho: có đức nhân thấy minh chúa phải ra phò giúp, thấy quân vương vô đạo thì
lui về ở ẩn giữ mình.
“Nghĩa” chính là cách cư xử của mình đối với người khác sao cho hợp lẽ phải,
đường hoàng, hào hiệp. Tiêu chí của hành động đạt nghĩa trước tiên cần xem nó có
hướng thiện hay không. "Người quân tử chỉ biết điều nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều
lợi” (Khổng Tử). Đáng suy ngẫm về điều nghĩa cũng như sự sang hèn mà đạo Nho đã
răn dạy con người: "Nước nhà thái bình mà mình lại nghèo hèn, như vậy là đáng sỉ
nhục. Nước nhà loạn lạc mà mình giàu có như vậy cũng là đáng sỉ nhục” (Khổng Tử) -
sống tùy thời phần nào cũng là đạo nghĩa.
Sự tôn trọng, hòa nhã trong cư xử người ta gọi là “lễ”. Nhìn rộng ra, lễ là việc
tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Khổng Tử nói: "Cung
kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút
nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành loạn nghịch. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở
nên thô lỗ”. Vì thế, “lễ” cũng là một tiêu chí để đánh giá bậc quân tử: "Người quân tử
giữ đạo lý nên đặc biệt coi trọng ba điều: Cử chỉ, dung mạo điềm đạm, dáng điệu
khoan thai, đàng hoàng sẽ giữ cho mình tránh thô bạo và phóng túng” (Khổng Tử). Cái
đích của “lễ” là đạt đến chữ “hòa” – thuận ta và thuận người sẽ tránh được mọi hệ lụy.
Sống đúng lễ con người sẽ đạt đức nhân.
Con người sống không thể thiếu suy nghĩ và hành động hồ đồ, chính vì thế “trí”
là một trong năm đức lớn của con người. Trí là óc khôn ngoan, sự sáng suốt, thông tuệ,
biết phán đoán, tiên liệu mọi việc. Cái trí của bậc quân tử là chỗ biết tùy thời, định thế,
có thể nhìn trước, tiên lượng được mọi việc, liệu thời thế mà tiến thoái, hành xử sao
cho hợp lẽ. Khổng Tử đã từng nói: "Ninh Vũ Tử, khi nước nhà yên ổn thái bình được
tiếng là người có đức trí, khi nước nhà loạn lạc bị mang tiếng là ngu đần. Trí như Ninh
Vũ Tử thì người khác có thể theo kịp, chứ còn giả ngu đần như Ninh Vũ Tử thì thiên
19
hạ không có cách nào đuổi kịp". Suy cho cùng dùng trí nhìn nhận thời cuộc cũng là
cách để con người hành xử hợp thời, đắc thế.
“Nhân, lễ, nghĩa, trí” là những yếu tố quan trọng làm nên phẩm cách con người.
Nhưng để cho phẩm cách ấy phát triển thì “tín” chính là dung môi nuôi dưỡng. Để
nhấn mạnh tầm quan trọng của chữ “tín”, Khổng Tử đã ví: "Một người không có chữ
tín, không biết có thể làm gì được?” Nói ra phải làm, hứa hẹn phải thực hiện không để
lời nói gió bay đó mới là người quân tử.
Được tôn vinh là vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, Nguyễn Trãi
đã đi hết cuộc đời mình với đường bay của chim bằng qua giông bão lịch sử. Đôi cánh
ấy được chắp bằng gốc “tam cương”, nội lực của “ngũ thường”. Sải cánh ấy đã bị gục
ngã bởi mũi tên oan khốc, thân thể ấy có thể bị tiêu hạ, con người ấy dẫu có chết ngàn
lần thì phẩm trí tuyệt vời của Nguyễn Trãi xứng đáng là bậc quân tử.
1.2.1.3. Thời đại, xã hội với những “ngã ba lịch sử” đầy biến động
Người xưa nói “Thời thế tạo anh hùng”. Ở một góc độ nào đó, câu nói ấy đúng.
Con người là một mắt xích luôn được đặt trong mối quan hệ tất yếu với xã hội, những
biến động của xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời, vận mệnh cá nhân. Một sự
thật lịch sử minh chứng, đời thái bình, thịnh trị các anh hùng hào kiệt ít được tạo ra,
nhưng càng thời loạn càng lắm anh hùng.
Cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV, tình hình chính trị của công triều phong kiến
Việt Nam có những biến động lớn lao. Các triều đại lần lượt lật tẩy nhau và thoán ngôi
đoạt vị. Nhà Trần có những biểu hiện đớn hèn: gần như bất lực trước tình hình giặc
Chiêm Thành, Chế Bồng Nga trở thành nỗi ám ảnh của vua tôi nhà Trần. (Chúng không
chỉ chiếm đóng các tỉnh phía Nam của nước ta mà còn liên tiếp đem quân ra tận kinh đô
đốt phá). Trong khi đó, giặc Minh phương Bắc cũng lăm le xâm chiếm nước ta. Nhà
Trần khoanh tay đứng nhìn, thậm chí chống trả như hình thức dẫn đến thất bại tất yếu.
Sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đối với dân tộc gần như đã đến hồi kết. Hồ Quý Ly là bề
tôi của triều Trần, nhận thấy thực tế đó, đã tiến hành lật đổ nhà Trần, lập nên nhà Hồ.
Với tư tưởng rập khuôn “Quân trung không thờ hai chủ”, nhiều nho sĩ đã bất mãn với
nhà Hồ. Coi nhà Hồ là kẻ phản chủ, cướp ngôi. Có hai xu hướng hành xử trong các nho
20
sĩ: Một là lui về ở ẩn không hợp tác để tránh mang tai tiếng. Hai là tập hợp nhau lại để
chống nhà Hồ, thậm chí sang Trung Quốc dập đầu cầu cứu giặc Minh.
Nhà Hồ lập nên với những cải cách hành chính thật sự cấp tiến, có thể coi như
cứu cánh giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng bấy giờ. Nhưng vì thù trong,
giặc ngoài, và vua quan nhà Hồ lại không phải là các võ tướng mà là quan văn nên khi
lãnh đạo đất nước về mặt quân sự không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất
định. Đặc biệt yếu tố căn cốt của một quốc gia là “dân” thì nhà Hồ lại không có nên
đất nước rơi vào tay giặc Minh.
Trước bao cuộc nổi dậy của nhân dân và những cuộc tàn tranh của nhà Trần
nhằm khôi phục lại vương triều, giành lại độc lập chủ quyền, nhưng hoàn toàn thất bại,
Lê Lợi đứng lên tập hợp nghĩa quân – trên thuận ý trời, dưới được lòng dân, tiến hành
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi và đất nước chuyển sang triều đại hậu Lê.
Dưới những biến động lớn lao của thời đại, các vương triều hưng vong, lập diệt,
đã sản sinh cho đất nước bao vị anh hùng: Nguyễn Phi Khanh, Hồ Quý Ly, Hồ
Nguyên Trừng, Lê Lợi, Lê Lai...và Nguyễn Trãi. Với giai đoạn đầy bão táp có thể coi
như vòng xoáy của lịch sử, nếu gắng gượng, tỉnh táo sẽ vượt qua, còn không sẽ bị
nhấn chìm trong thất bại. Lịch sử là bánh xe nghiệt ngã, Nguyễn Trãi đã đi qua vòng
quay của lịch sử, của số phận để trở thành vĩ nhân, anh hùng của thời đại và dân tộc.
1.2.2. Yếu tố chủ quan - bản thể hình thành phương thức ứng xử của Ức Trai
1.2.2.1. Nguyễn Trãi – con người tiên tri thời loạn
Lần giở lại lịch sử, ta dễ dàng nhận ra cách ứng xử hoàn toàn khác biệt của
Nguyễn Trãi với hầu hết các nhà Nho lúc bấy giờ. Vậy, tại sao lại có sự lựa chọn
phương thức ứng xử khác người, khác đời ấy? Trước tiên ta có thể khẳng định nhận
thức và tư tưởng của Nguyễn Trãi xứng tầm là nhà “tiên tri thời loạn”.
Các bậc tể tướng hiền tài, chúa thánh minh ở bất kì thời đại nào cũng có một ưu
cảm là khả năng tiên lượng chuẩn xác, đoán đặt lộ trình vận hành của lịch sử. Điều này
ở Nguyễn Trãi, ta nhận ra qua những điểm khu biệt của ông với những người cùng giai
tầng, giai đoạn. Mấy đời gia tộc họ Nguyễn ăn lộc nhà Trần, làm tôi nhà Trần, nhưng
Nguyễn Trãi đã không cho phép mình là một ngu trung, mù quáng, lẵng đẵng đi theo
triều Trần khi nó có những dấu hiệu suy vong và chính nhà Trần cũng không hề trọng
21
dụng Nguyễn Trãi. Khi Hồ Quý Ly lật đổ vương triều Trần, lập nên nhà Hồ, Nguyễn
Trãi đã không “vô minh” mà chống đối theo đại đa số quan lại nhà Trần và nhân dân.
Hơn cả sự “tiên tri”, chắc hẳn Nguyễn Trãi đã nhìn nhận, đánh giá rất kĩ lưỡng, công
minh để thấy những việc làm, hàng loạt những cải cách cấp tiến của Hồ Quý Ly thật
sự cần thiết để vực dậy vận thế đất nước thời điểm đó như: đổi tiền kim ra tiền giấy,
làm sổ hộ tịch, hạn chế gia nô, lập kho dự trữ thóc gạo, định lại quan chế và hình luật,
thuế và tô ruộng, lập cơ quan chăm sóc y tế…Nhưng tại sao, các bậc nho thần học sĩ
lại không ủng hộ, dân chúng lại không tin nghe? Tất cả chỉ vì “cái mũ nhà nho” làm
cho lu mờ, vì dân chúng nông nổi, tất cả đều áp Hồ Quý Ly vào cái thước của lễ giáo
phong kiến và chụp mũ “phản chủ”. Quan lại chống đối, nhân dân quay lưng. Đó chính
là lý do cơ bản khiến nhà Hồ sụp đổ. Nguyễn Trãi chọn riêng mình một lối đi: bắt tay
ngay khi Quý Ly lên ngôi. Vỏ ngoài tạm gọi là sự tiên đoán, nhưng có phần thiên về
cảm tính, thực chất đó là sự minh mẫn, sáng suốt nhận định tình hình lịch sử của tiên
sinh họ Nguyễn mà nền tảng được xây trên lập trường “nhân nghĩa”.
Khi nhà Hồ bị lật đổ, giặc Minh một mặt đòi giết Nguyễn Trãi, mặt khác tìm
cách mua chuộc, nhưng với thái độ khảng khái, trung liêm, Nguyễn Trãi đã chọn cách
hành xử là phiêu bạt trong nhân gian – “mười năm xiêu giạt, thân như cánh bèo, như
cỏ bồng” trước gió (Quy Côn Sơn chu trung tác – Nguyễn Trãi). Thiết nghĩ, trong lúc
bị giam lỏng ở Đông Quan, khi phiêu bạt đây đó, Nguyễn Trãi lo bảo đảm sự an nguy
của mình trước những thủ đoạn thâm độc của giặc Minh đã là lẽ ứng biến tuyệt vời,
huống chi minh trung họ Nguyễn vẫn nung nấu chí phục thù. Mười năm gió bụi khắp
nhân gian đã cho Nguyễn Trãi những bài học mà không một sách vở nào dạy được.
Câu trả lời về sự hưng vong của các triều đại, lời đáp về vận mệnh đất nước và con
đường đến tự do đã thôi thúc Nguyễn Trãi cho ra đời “Bình Ngô sách”, như một tất
yếu chín muồi về nhận thức lịch sử, khi Lê Lợi vừa “lớn lên” giữa núi rừng Thanh
Hóa, Nguyễn Trãi đã mang đến trao tay.
Mốc lịch sử quan trọng của dân tộc cũng là của Nguyễn Trãi - năm 1416, hội
thề Lũng Nhai. Nếu nhìn nhận theo quan điểm của phong kiến chính thống, thì Lê Lợi
dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn cũng chỉ là cuộc nổi dậy của “giặc cỏ”. Trong 20 năm
chịu ách đô hộ của giặc Minh, khắp cả nước đã có hơn 60 cuộc khởi nghĩa của nhân
dân nổ ra để chống ngoại xâm. Trong đó đặc biệt có hai cuộc khởi nghĩa lớn của họ
22
Trần nhằm khôi phục lại vương triều. Vậy một câu hỏi đặt ra, tại sao Nguyễn Trãi
không tham gia bất cứ cuộc khởi nghĩa nào, mà khi hay tin Lê Lợi tụ binh dấy nghĩa
đất Lam Sơn thì ông lại có mặt (là một trong số 19 người đầu tiên bao gồm cả Lê Lợi).
Đó không phải là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên của lịch sử mà là kết quả của sự suy xét,
nghiền ngẫm chín muồi. Nói cách khác, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy những kế hoạch,
chiến lược, sách lược đúng đắn của nghĩa quân nên có thể tiên lượng được tương lai
của cuộc dấy binh ấy. Xét cho cùng đó là con mắt nhận định của bậc tài trí tinh anh.
Kết quả cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi là minh chứng hùng hồn thay cho lời kết về khả
năng “tiên tri” của vĩ nhân họ Nguyễn.
Trước cả những rối ren triều chính, với tư cách một vị quan thanh liêm, Nguyễn
Trãi đã đứng đẫu mũi giáo mà chống trả lại bọn gian thần, không chịu hợp tác, khuất
phục. Nhưng đến khi bất lực, ông đã lui mình về đất Côn Sơn để dưỡng lòng thanh. Đó
là một quyết định sáng suốt của Nguyễn Trãi trong tình thế rối ren. Nhưng vì một lòng
mong mỏi cống hiến nên khi có cơ hội trở lại làm quan, Nguyễn Trãi đã vội mừng ra
phò vua giúp nước mà không biết rằng cạm bẫy đang chờ. Trong lúc “Say hết tấc lòng
hồng hộc” của một bậc anh hùng “vệ Nam, điện Bắc”, con người trí dũng vĩ đại ấy đã
bị giăng lưới rợp trời để ngậm oan nơi chín suối cho đến khi Lê Thánh Tông xuống
chiếu giải oan, chiêu tuyết cho ông.
Trước những “ngã ba lịch sử”, Nguyễn Trãi đã đứng lại, suy xét và chọn cho
mình một lối đi riêng, thậm chí là lội ngược dòng với xu thế chung của nhân quần. Đi
hết “bể triều quan” như cánh chim bằng không ngại bão giông, Nguyễn Trãi đã chọn
cho mình cung đường bay ngược nắng, ngược gió để đạt đến đức nhân nghĩa, lo cho
dân cho nước và tất nhiên, cánh chim ấy phải bay vượt lên trước thời đại để thấy
những tất yếu của lịch sử mà nhanh nhạy nắm bắt. Nhưng có một ánh đèn soi sáng lối
đi Nguyễn Trãi, ngoài khả năng tiên tri tuyệt vời của bậc trí nhân, thức giả chính là
thiên tâm trong sáng, quên mình sống vì nước vì dân.
1.2.2.2. Nguyễn Trãi – con người vì nước vì dân
Con người bổn phận là mẫu hình lý tưởng của xã hội trung đại. Những trang
nam nhi ngay khi sinh ra đã vác trên vai món “Nợ tang bồng”:
23
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
(Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ)
Làm trai phải “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nên danh nên phận. Chí
nam nhi gắn liền với chữ “trung” và chi phối tư tưởng ứng xử của con người: sống hết
mình vì dân vì nước. “Quan chi phụ mẫu” là tư tưởng bất kỳ ai bước vào con đường
hoạn lộ đều thông hiểu. Suốt một đời làm quan của mình Nguyễn Trãi đã cố gắng làm
tròn bổn phận của một công dân, và hơn thế là bổn phận của một vị quan đầy trách
nhiệm với nhân dân, đất nước.
Con người Nguyễn Trãi luôn “Lo trước mối lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ” (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc – Phạm Trọng
Yêm). Vì thế, trong lẽ quan xử của mình, Nguyễn Trãi luôn đặt vận mệnh của nhân
dân, đất nước lên trên số mệnh cá nhân. Hoàn toàn đủ minh mẫn để nhận ra những mối
họa của chốn cửa quyền đầy “hiểm hóc”, bon chen nhưng ông vẫn nấn ná chưa muốn
về vì tấm lòng trung:
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông” (Bài 50)1
Khi còn làm quan trong triều, một điều băn khoăn duy nhất của ông là làm sao
để cho nhân dân được sống trong thái bình, yên ổn:
“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền” (Bài 74)
Khi cực chẳng đã, lui mình về ở ẩn, ông cũng vẫn chỉ một mối lo:
“Âu có một lòng âu việc nước
1 Toàn bộ thơ quốc âm Nguyễn Trãi sử dụng trong bài viết trích dẫn từ “Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập” Phạm Luận, (2012), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung” (Bài 68)
24
Có lẽ đấy là một lí do tại sao cả đời làm quan, thậm chí có lúc quyền bính trong
tay nhưng Nguyễn Trãi vẫn sống trong cảnh thanh bần nếu không muốn nói là quá
nghèo khổ. Phải chăng đó cũng xuất phát từ hồng tâm trong sáng của ông.
Một điểm sáng nữa trong con người Nguyễn Trãi chính là cách làm quan.
Làm quan cũng có năm bảy đường. Có kẻ chỉ vì một chữ danh làm rạng rỡ dòng tộc
tổ tiên, có kẻ làm quan để vét cho đầy túi tham. Còn Nguyễn Trãi làm quan mà
thanh liêm quá:
“Thì nghèo sự biến nhiều bằng tóc
Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn” (Bài 46)
Nhà của một vị quan mà tài sản đâu có gì, nhìn lại Nguyễn Trãi như nhà sư vô
sự giữa đời, của nả không cất giữ, lòng rộng rãi mọi sự để cho qua, không vướng bận,
toan tính những được mất, sang hèn:
“Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh
Cảnh ở tựa chiền lòng tựa sàng” (Bài 117)
Ức Trai khi xưa đã sống một cuộc đời thanh bạch, giản dị như đất trời cây cỏ,
không mưu cầu, tư lợi gì cho cá nhân“Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Hồ Chí Minh).
Xin được lấy câu thơ của Lê Thánh Tông thay cho lời kết để ca ngợi danh nhân văn
hóa đất Việt ta:
“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Tiểu kết
Phương thức ứng xử được hình thành dựa trên thể chế chính trị, văn hóa, xã hội
nhưng yếu tố quyết định phương thức ứng xử lại là trí tuệ, tâm hồn và bản lĩnh của mỗi
cá nhân. Sống trong thời đại lịch sử đầy biến động, và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các
tư tưởng, học thuyết tôn giáo, Nguyễn Trãi đã lựa chọn cho mình một phương thức
ứng xử vừa đậm chất truyền thống nhưng cũng vừa thấy điểm phá cách.
Chất truyền thống trong ứng xử của Nguyễn Trãi có nguồn gốc sâu xa từ văn hóa
ứng xử ngàn đời của dân tộc Việt và cách ứng xử của con người trung đại mà Nguyễn
Trãi là một tế bào.
25
Nhưng ở Nguyễn Trãi sự kế thừa, bảo tồn, phát huy nét đẹp ứng xử của dân tộc
cũng có những đột biến đó là sự phá vỡ, thậm chí đi ngược lại những khuôn thước ứng
xử truyền thống. Điều làm nên phương thức ứng xử ấy ở Nguyễn Trãi chính là tài năng
tiên lượng, óc phán đoán, khát vọng sống, tình yêu nhân dân, đất nước và hơn thế là
một bản lĩnh sống của một con người phi thường dám đương đầu với lễ giáo hà khắc
của xã hội phong kiến để đạt được chí nguyện của bậc chính nhân quân tử.
26
Chương 2. PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI VỚI
BẢN THÂN, GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP”
2.1. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với bản thân
2.1.1. “Xuất – xử”, niềm trăn trở khôn nguôi
Sự lựa chọn thường làm người ta sợ. Đi suốt cuộc đời Nguyễn Trãi là quá trình
đấu tranh giằng xé giữa những lựa chọn: ở lại làm quan hay lui về ở ẩn. Như Nguyễn
Hữu Sơn đã nói “Nguyễn Trãi là nhà thơ của các trạng huống cảm xúc đối nghịch.
Ông có quan phương nhưng cũng “ly tâm”, “bung tỏa” đến tận cùng gam độ” [19,150].
Khi trong triều, bọn tham quan kết bè kéo cánh, vua nghe lời xiểm nịnh, áp lực quá
Nguyễn Trãi cũng có lúc ao ước:
“Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa
Sá tiếc mình chơi áng thủy vân” (Bài 29)
Nhưng khi về làm bạn với mây ngàn, chim núi, sống giữa thiên nhiên thì lại
canh cánh mối lo dân nước:
“Thức nằm nghĩ ngợi còn mường tượng
Lá chưa ai quét cửa thông” (Bài 51)
Là “Thái Sơn, Bắc Đẩu của làng Nho Việt”, Nguyễn Trãi thấm nhuần lẽ “xuất –
xử” của một nhà Nho. Trần Đình Hượu đã nhận xét ở Nguyễn Trãi hội tụ đủ ba mẫu
hình “nhà nho hành đạo, ở ẩn và tài tử” [18,732]. Sở nguyện bình sinh thôi thúc
Nguyễn Trãi ra làm quan, chọn con đường “xử thế”. Nhưng “Làm quan tha dại tài
chăng đủ”, không được trọng dụng như “cúc qua trùng cửu”, “quạt đã sơ thu”, vị quan
họ Nguyễn đành chọn cách “xuất thế”. Trong cách quy khứ của một “dật dân”, “ẩn sĩ”,
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà Nho thông hiểu lẽ “xuất – xử”, mà còn chịu ảnh
hưởng cả quan niệm Phật giáo (“xuất thế - nhập thế” của nhà Phật), và Đạo giáo ( sống
giữa thiên nhiên “thanh tĩnh vô vi” của Lão - Trang). Nhìn chung, cách hành xử của
Nguyễn Trãi là sự kế thừa, tiếp nối tư tưởng của các bậc tiền nhân: Đào Tiềm, Khuất
Nguyên, Chu Văn An…Có điều “Mâu thuẫn thường trực của Nguyễn Trãi là mâu
27
thuẫn giữa xuất và xử, lánh trần hay nhập thế... Đây là vấn đề đặt ra thường xuyên cho
nhà nho xưa. Nhưng với Nguyễn Trãi thì vấn đề trở thành day dứt, đau đớn” [18, 839].
Trăn trở lớn nhất trong “Quốc âm thi tập” là tấm lòng ưu thời, mẫn thế của con
người tưởng như “bước ra ngoài thế giới” mà vẫn còn canh cánh bên lòng “Một sự
quân thân chẳng khứng nguôi”.
“Lấy đâu xuất xử trọn hai bề
Được thú làm quan mất thú quê” (Bài 109)
Theo con số thống kê có đến 48 bài thơ chứa những câu chữ, những hình ảnh
thơ thể hiện rõ nỗi giằng xé ấy của Nguyễn Trãi (Phụ lục 1). Với số lượng lớn các bài
thơ thể hiện sự tương phản trong cách lựa chọn lẽ xử thế, ta nhận thấy sự trăn trở của
Nguyễn Trãi. Nếu so sánh với Nguyễn Bỉnh Khiêm, người gần thời đại với ông, cũng
chọn cách quy ẩn để giữ mình nhưng ta dễ dàng nhận ra nỗi day dứt trong con người
Nguyễn Trãi quá lớn. Nguyễn Bỉnh Khiêm dù là một người xuất thân từ tầng lớp trí
thức quan lại nhưng cả cuộc đời ông chưa bao giờ coi việc làm quan là lý tưởng cao
nhất của mình. Nên khi về ở ẩn tại am Bạch Vân lòng ông rất thanh thản, coi “nhàn
dật” như một triết lý sống, không làm quan trong triều nhưng vẫn vui vẻ cáng đáng
việc kinh đô. Còn Nguyễn Trãi, lựa chọn nào ông cũng thấy không trọn vẹn: còn làm
quan trong triều thì thấy ngao ngán thế sự đua tranh, lòng người “hiểm hóc”, nước
không mấy ai ngay thẳng, biết trọng người tài, tiếc tài; về ở ẩn thì canh cánh trong
lòng món nợ quân thân chưa báo đáp, nhân dân bốn bể còn sống trong đói nghèo, khổ
đau, từng học sách Thánh hiền mà không thể nối gót bậc tiên nhân để phò vua giúp
nước. Tìm đến thiên nhiên để “Gạn đục khơi trong”, tìm chút thanh thản trong lòng
nhưng “cương thường lòng đỏ” vẫn nóng như lửa lò luyện đan. Về “ở thanh nhàn” với
Nguyễn Trãi chỉ như một giải pháp tình thế của cái tôi đầy cô đơn giữa cõi hồng trần.
Trong “Quốc âm thi tập”, dễ thấy một câu thơ, hình ảnh thơ nói về việc triều
chính, quan trường lại xen cấy một câu thơ, hình ảnh thơ nói về thú ẩn dật như hối
thúc lòng mình phải đưa ra lựa chọn, vượt qua nỗi đau. Nguyễn Trãi đã từng lo trước
mối lo thiên hạ, vậy mà cũng có lúc phải gác lòng, xếp lại những mong ước, toan tính
của mình bởi thế cảnh chẳng chiều lòng người. Căn nguyên nỗi trăn trở “xuất – xử”
của Nguyễn Trãi phải chăng bởi con đường hoạn lộ quá đỗi gian truân. Lúc nhận thấy
28
chốn cửa quyền nhiều “hiểm hóc” với bon chen, cũng là lúc Nguyễn Trãi mong gửi
mình đến chốn bình yên:
“Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lẩn
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai” (Bài 6)
“Thương Chu kiện cũ gác chưa đôi
Xá lánh thân nhàn thủa việc rồi” (Bài 2)
Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến những bậc ẩn sĩ tài ba: Gia Cát Lượng khi sống
trong nhà tranh tưởng như lơ đãng việc đời mà lại sớm biết Trung Quốc sẽ chia ba
hình thành thế chân vạc: Ngụy–Thục–Ngô; Nguyễn Bỉnh Khiêm dù sống ẩn dật nhưng
lại được coi là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam…Với tầm trí tuệ, Nguyễn
Trãi dù “xá lánh thân nhàn”, tưởng như không bận tâm “Thương Chu kiện cũ” thì con
người ấy vẫn nắm thời thế trong bàn tay vì canh cánh nỗi lo thiên hạ. Tài trí lỗi lạc như
Nguyễn Trãi, cả cuộc đời cống hiến hết thân, tâm cho đời xứng bậc công thần khai
quốc, vậy mà có lúc đớn đau, cám cảnh nhận thấy chốn cửa quyền kia chẳng còn hợp
với mình:
“Cuốc cằn ước xáo vườn chư tử
Thuyền mọn khôn đua bể lục kinh
Án sách cây đèn hai bạn cũ
Song mai hiên trúc một lòng thanh” (Bài 7)
Thân ấy có khi chỉ như con “thuyền mọn” không dám đua chen “bể lục kinh”
bởi “Trong dòng phẳng có phong ba”, bởi “Dưới công danh nhiều thác cả” nên lui về
mà làm bạn với “án sách, cây đèn” với “song mai hiên trúc” để gìn giữ tấc “lòng
thanh”. Những vần thơ nghe chua xót, ái ngại của một cánh chim bằng giữa bão biển
công danh.
Khi vị quan họ Nguyễn rời “bể lục kinh” làm bạn với núi rừng tưởng đã thỏa
lòng ước nguyện, nhưng vẫn canh cánh trong lòng món nợ quân thân:
29
“Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân
Trúc rợp hiên mai quét tục trần
Nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bện dặm thanh vân” (Bài12)
Thân thì gọi về chốn điền viên để dưỡng tâm, nhưng tâm còn mong nấn ná
đường quan tự làm nhọc mình. Mệt mỏi với đời, mong được “cày nhàn câu quạnh”
nhưng sao cứ mãi tính chuyện “tới lui”:
“Thân nhàn dầu tới dầu lui
Thua được bằng cờ ai kẻ đôi” (Bài 13)
Nơi suối vắng làm bạn với Sào Phủ, Hứa Do, nơi an nhàn làm học trò của
Khổng Tử, Chu Công nhưng lòng lại vương vấn nơi ngôi cao nghĩa lớn chưa báo đáp:
“Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào Hứa
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng Chu
…
Tơ hào chăng có đền ơn chúa” (Bài 15)
Khối mâu thuẫn trong tâm can Nguyễn Trãi không chỉ là nỗi băn khoăn của
riêng ông mà đó còn là dấu hỏi lớn của những con người tài hoa bất đắc chí, sinh bất
phùng thời như cổ nhân Đào Tiềm đã từng tự vấn “Quy khứ lai hề, điền viên tương vu,
hồ bất quy?” (Về đi thôi, ruộng vườn sắp hoang vu, sao không về ?) Nỗi giằng xé của
những con người ưu thời, mẫn thế mãi là “câu hỏi lớn không lời đáp”. Mỗi khi đọc lại
những vần thơ trong Quốc âm những ai còn biết “giá người ngay” thì “Cho đến bây
giờ mặt vẫn chau” bởi nỗi đau thế thái nhân tình của Nguyễn Trãi, dù đã ngót hai thế
kỉ mà vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua.
2.1.2. Phương châm “danh chăng chác, lộc chăng cầu”
Danh lợi vốn là tiêu đích đối với các trang nam nhi trong xã hội phong kiến. Họ
miệt mài đèn sách mong bảng vàng ghi danh, tổ tiên rạng rỡ. Có người may mắn công
danh thuận buồm xuôi gió, nhưng có người bước chân vào lại phải thoái lui để bảo
toàn danh tiết, tính mệnh; có người chết bởi những sai lầm và có những người lại chết
30
vì những oan khiên cay đắng…Để tỉnh táo trên đường hoạn lộ thời thái bình đã là khó,
huống hồ trong thời loạn, điều ấy lại khó gấp vạn lần.
Như ta đã nói ở trên, Nguyễn Trãi sinh ra trong một thời đại đầy bão táp cách
mạng. Trong chốn quan trường “hiểm hóc”, người ta cần tỉnh táo hơn bao giờ hết. Là
một nhà Nho nhưng có lúc ông muốn bỏ “thi thư” để “tu thân khác” và chịu ảnh hưởng
ít nhiều tư tưởng của Phật giáo nên trước lợi danh Nguyễn Trãi coi nhẹ: “Danh chăng
chác lộc chăng cầu”. Phải chăng Nguyễn Trãi cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng “hư
danh” của cha mình:
“Hư danh táp tải bạn trần ky,
Nhất phản giang sơn một thị phi.”
(Cái hư danh đã buộc mình vào cõi đời bụi bặm ba mươi năm,
Trở về quê cũ quên mọi chuyện thị phi ở đời.)
(Sơn thôn cảm hứng – Nguyễn Phi Khanh)
Khát vọng cống hiến đưa Nguyễn Trãi đến trường quan nhưng cũng chính nơi
này đã dạy ông những bài học đắng cay của “cõi đời bụi bặm”. Danh lợi với Nguyễn
Trãi chỉ là phương tiện chứ chưa bao giờ là tiêu đích đời ông.
2.1.2.1. Suy nghĩ về chốn “Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân”
Quy luật của xã hội phân tầng là ở đâu có quyền lợi, ở đó có sự đua chen. Cám
dỗ của lợi danh đã từng được Cao Bá Quát khẳng định:
“Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng”.
(Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?) (Sa hành đoản ca)
Lợi danh là rượu ngon, người đi trên đường danh lợi như kẻ nghiện rượu khó
tránh khỏi ma men cám dỗ. Lúc nhiễu nhương, “Đục nước béo cò” muôn kẻ thả câu thì
lợi danh là chốn bon chen đầy “hiểm hóc”. Đã 15 lần Nguyễn Trãi nói đến điều này
trong “Quốc âm thi tập” (Phụ lục 2):
31
“Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lẩn” (Bài 6)
Mối hiểm nguy có thể ập đến bất cứ lúc nào mà con người không thể dự trước
càng không thể tránh. Với những âm mưu, thủ đoạn khó lường:
“Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co” (Bài 20)
Một con người “say mùi đạo” như Nguyễn Trãi, thậm chí đã “Say hết tấc lòng
hồng hộc”, cả cuộc đời “xốc xốc nẻo tam cương” rồi cũng có lúc giật mình chua chát
mà thốt lên:
“Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân” (Bài 27)
Nên tới hay lui, tiếp tục làm quan hay lui về ở ẩn bởi chưng chốn ấy “hiểm hóc”
khôn lường. Bỏ hết mối lo cho an nguy của tính mạng vì khát vọng cống hiến dẫu biết
“hiểm hóc” mà vẫn say sưa chí nguyện:
“Chí cũ ta liều nhiều sự hóc” (Bài 49)
Nhưng run rủi thay, tấm lòng Nguyễn Trãi có ai thấu. Để rồi chính ông cũng
phải than thở mà tiếc thay cho một dân tộc:
“Nước chẳng còn có Sử Ngư” (Bài 36)
Nỗi “ta oán” của những kẻ mang lòng “trúc thông” phải ở lẫn chốn “xô bồ”.
Với sự tinh tế, Nguyễn Trãi hiểu “ruột bể sâu cạn” dễ đo nhưng “lòng người vắn dài”
khôn biết. Nhưng biết rồi mà vẫn đưa chân bởi “danh thơm” là niềm say nếu muốn
mang tài hèn sức mọn ra giúp dân, giúp đời. Bởi “Niềm riêng, riêng những bàn hoàn”
(Quốc văn trích diễm), Nguyễn Trãi không ngại ngần bước qua chông gai trên đường
danh lợi, không sợ nếm vị đắng cay mặn nhạt của thế sự nhân gian:
“Chông gai nệ đường danh lợi
Mặn lạt no mùi thế tình” (Bài 80)
Nhưng càng bước sâu càng thấy những ngặt nghèo, khó khăn, thậm chí là
những lo lắng, bất an như đẩy thuyền trên ghềnh thác, có thể lật bất cứ lúc nào:
“Dưới công danh đeo khổ nhục” (Bài 3)
32
“Dưới công danh nhiều thác cả” (Bài129)
Quan trường là chốn nhìn qua ngỡ bằng phẳng, tưởng chỉ việc nhẹ lướt buồm
giong nhưng khi bước chân vào quan lộ là chấp nhận giong buồm, vượt gió bão bể
khơi khiến cho vị quan họ Nguyễn đôi khi thấy nản chí, “ngại vượt” dòng:
“Sóng khơi ngại vượt bể triều quan” (Bài 160)
“Thấy bể triều quan đà ngại vượt
Trong dòng phẳng có phong ba” (Bài 168)
Sóng gió ập đến, thăng giáng trên đường quan, thậm chí cả những lần làm quan
đấy nhưng không có chút quyền hành trong tay, không được can dự vào công việc
triều chính khiến Nguyễn Trãi không khỏi những ti cảm:
“Mấy phen lần bước dặm thanh vân
Đeo lợi làm chi cho nhọc thân” (Bài 165)
Đi hết quãng đời đầy vinh quang nhưng cũng không ít phen “khổ nhục”, long
đong. “Một thân lẩn khuất đường khoa mục” dưới ba triều đại liên tiếp, khi thịnh, khi
suy, có khi được sủng ái tin dùng nhưng có khi bị phế truất. Cuối cùng Nguyễn Trãi
cũng nhận ra, bao năm lẵng đẵng theo đuổi con đường danh lợi, hình như thứ ông có
được là những “ân oán” với “hăm he”, công danh như cái “lụy” phải mang:
“Hai chữ công danh chăng cảm cốc
Một trường ân oán những hăm he” (Bài 44)
“Rồi việc mới hay khuôn được thú
Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh” (Bài 156)
Một đời phụng sự lòng “trung” mà cuối cùng lại “thác” vì “danh”. Chính cuộc
đời Nguyễn Trãi là minh chứng cho mối “lụy danh” của bậc trung thần nghĩa sĩ thời
loạn. Không chỉ có bản thân Nguyễn Trãi, mà dòng họ của ông cũng gánh họa lây với
án oan Lệ Chi Viên trải khắp ba đời.
33
“Ơn tư là ấy yêu dường chúa
Lỗi thác vì nơi lụy bởi danh” (Bài 158)
Mối “lụy danh” khủng khiếp, và những tiên cảm của Nguyễn Trãi về một chốn
quan trường đầy “hiểm hóc” quả không sai. Có đấy rồi tất cả lại là không bởi suy cho
cùng công danh chỉ như giấc chiêm bao.
2.1.2.2. Công danh tựa như giấc chiêm bao
Lúc nản nhất trên quan trường cũng là lúc lòng ham “thiền” trỗi dậy. Có lẽ Phật
giáo là căn nguyên dẫn đến tư tưởng coi công danh như áng phù vân của Nguyễn Trãi.
Đạo Phật quan niệm “không không – sắc sắc” để khẳng định mọi thứ trong cuộc đời
này có đấy mà cũng lại là không: con người vốn mang “thân hư ảo” nên “danh hư ảo”.
Thân thể mình “tích” lại là “sắc” nhưng “tản” đi là “không”; công danh đắc thế thì
“hữu” mà thất thế thành “vô”. Nguyễn Trãi, bằng những trải nghiệm của chính mình
với bao thăng trầm trên hoạn lộ thấm thía lẽ “tiêu trưởng doanh hư” để rồi đến cuối
cùng cũng mặc lòng chấp nhận “vạn sự vô thường” trong lẽ “sinh diệt” của tạo hóa.
Đã có 11 lần Nguyễn tiên sinh dùng tích “giấc Hòe” để khẳng định tính hư ảo,
“vô thường” của công danh (phụ lục 2):
“Phú quý bao nhiêu người thế gian
Mơ mơ bằng thủa giấc Hòa An” (Bài 63)
Phú quý, công danh cũng chỉ như sương đầu ngọn cỏ, long lanh trong nắng
sớm, đẹp đẽ, sáng rỡ nhưng nắng lên rồi tất cả sẽ tan:
“Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hòe” (Bài 73)
Đối với Nguyễn Trãi, những tháng ngày làm quan, là khi ông có “phú quý
lòng” và cả “phú quý danh”. Nhưng rồi tất cả cũng là hư bay, để khi về quê làm bạn
cùng “viên hạc” ngẫm lại mới nhận ra:
“Chẳng thấy phồn hoa trong thủa nọ
Ít nhiều gửi kiến cành hòe” (Bài 84)
34
Khi rời khỏi nơi phồn hoa, thị thành bước khỏi chốn triều quan thì Nguyễn Trãi
lại mơ mòng hoàn lối. Có lẽ giấc Hòe An với ông chưa bao giờ “phỉ sở nguyền”, cửa
kia chỉ lướt then tạm đó để chờ đợi ngày quay lại đường quan:
“Ngày nhàn gió khoan khoan đến
Thớt thớt cài song giấc hòe” (Bài 79)
Về sống với mây ngàn, gió núi nhưng cày nhàn, câu vắng không khỏa lấp được
giấc mộng công danh của Ức Trai. Gió mảnh mai chẳng đủ để cài then, đóng khóa
“giấc hòe” ôm ấp cả một đời. Giấc mộng ấy đeo đẳng vị quan họ Nguyễn, bởi chí
nguyện chưa thỏa nên lòng mong len lỏi vào trong cả giấc mơ chập chờn:
“Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ
Mỉa chuông tàn cảnh thoắt xơ” (Bài 108)
Ngay cả cách lựa chọn từ ngữ, Nguyễn Trãi cũng thể hiện dụng ý coi công danh
như “áng phù vân”, hợp đó rồi lại tan. Khi sủng ái, binh quyền vi biến, tiếng thơm dậy
đất; cũng có khi, “Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn” để rồi “láng giềng” cũng “ngảnh
mặt đi”:
“Danh thơm một áng mây nổi” (Bài 63)
“Đắc thì thân thích chen chân đến
Thất sở láng giềng ngảnh mặt đi” (Bài 57)
Thế mới biết, có ngôi cao, ghế lớn chốn công danh thì cũng chỉ như hương
thơm theo gió. Còn quyền sóc thì còn tất cả, khi hết quyền thì nhân nhẹ như không:
“Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình
Nài bao ngôi cả áng công danh” (Bài 78)
Công danh có rồi mất, đến rồi đi cũng đừng than tiếc, bởi Nguyễn Trãi cho hay,
tất cả đều do tạo hóa nhiệm màu. Âu cũng là quan niệm nhà phật “vạn sự tùy duyên”
duyên đến nên giữ, duyên hết nên buông, “sắc” đấy rồi cũng là “không”, chỉ còn tấm
thân tự tại:
35
“Được thì xem áng công danh dễ
Đến lí cơ hay tạo hóa mầu” (Bài 162)
Khi “áng phù vân” bay đi, còn lại là nỗi hổ với tiền nhân:
“Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ” (Bài 31)
Nỗi tiếc thẹn đầy thanh cao của các bậc chân nho thiên tướng. Hổ thẹn, luyến
tiếc không phải vì chút danh nổi của phẩm hàm, chức tước, mà là nỗi thẹn của những
nhân cách lớn, đi hết đời chưa làm được gì cho dân, cho nước. Nỗi đau của kẻ độc
hành, sa chân trên đường danh lợi. Để thêm lần nữa, Ức Trai tiên sinh nhắc đến công
danh như một giấc chiêm bao, khi nhắm mắt xuôi tay giấc phù hoa ấy rồi cũng vùi sâu
dưới nấm mồ.
“Mấy kẻ công danh nhàn lẵng đẵng
Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu” (Bài 121)
Nguyễn Du muốn nhìn xa ba trăm năm lẻ nữa xem “Thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như?” (Thiên hạ ai người khóc Tố Như?), Nguyễn Trãi cũng tiên đoán số mệnh mai
sau của mình. Nhưng, nấm mồ của tiên sinh không hoang lạnh, nhân dân cả thế giới
tôn vinh tiên sinh, nhân dân Việt Nam kính cẩn trước con người tâm – tài – trí lỗi lạc.
Và sự nghiệp văn chương đồ sộ của tiên sinh đến nay vẫn là bài học nằm lòng của bao
thế hệ “tư văn đất Việt”. Bấy nhiêu đó, chắc cũng đủ ấm lòng tiên sinh nơi tiêu dao
ngoài thế giới chẳng còn những bon chen, nơi mà giấc hẹn đã “hồng” với viên hạc
chẳng còn cháy lòng bởi những vấn vương của lợi danh.
2.1.2.3. Sẵn sàng “Đem công danh đổi lấy cần câu”
Người đời cầu ước công danh, còn Nguyễn Trãi cầu ngồi coi “một đời thái
bình”. Vị quan ấy sẵn sàng “Đem công danh đổi lấy cần câu”. Giá trị của công danh
được định tính khi Nguyễn Trãi đặt nó bên cuộc sống thanh nhàn. Quan niệm này thực
chất là sự tiếp nối tư tưởng “nhàn dật” đã có trong văn học nhà nho như Đào Tiềm, Lý
Bạch xưa, và gần hơn là bậc sư biểu Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm…Họ là những
con người bất đắc chí trước thời cuộc, không muốn hoặc không thể bắt tay hợp tác với
chính quyền đương thời nên chọn cho mình phương châm hành xử “Độc thiện kỳ
thân”, về với thiên nhiên để “lánh đục tìm trong”, “xuất – xử dĩ thời”. Để chọn, Đào
Tiềm cũng sẵn sàng tránh lưới trần mà quay về cuộc sống tiên cốt giữa núi non:
36
“Thiếu vô thích tục vận,
Tính bản ái khâu sơn.
Ngộ lạc trần võng trung,
Nhất khứ tam thập niên”.
(Trẻ không hùa thói tục
Tính thích núi non chơi
Lưới bụi khi trót vướng
Chốc ba chục năm trời) (Quy điền viên cư kỳ 1 - Đào Tiềm)
Cả vị thi tiên Lý Bạch cũng sẵn sàng đổi bạn gió trăng mà lấy việc quy ẩn để
dưỡng tâm:
“Bạch vân kham ngoạ quân tảo quy”
(Mây ráng nằm lại, nên ông sớm quy ẩn.)
(Bạch vân ca tống Lưu thập lục quy sơn - Lý Bạch)
Còn bậc sư biểu Chu Văn An giữa “cõi phật thanh u” và “cõi trần xa vời” ông
sẵn sàng chọn cuộc sống “thân nhàn như đám mây bay khắp Tây Đông” bỏ lại những
“tâm tình ngoài cuộc đời”:
“Nhàn thân Nam Bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.”
(Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp Nam Bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.)
(Thôn Nam sơn tiểu khế - Chu Văn An)
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng làm biếng với đời mà chọn nơi vắng vẻ
tiêu dao chứ không ở chốn lao xao quyền quý, mặc cho người đời chê cười:
37
“Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
(Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Cũng như vậy, nhiều câu thơ của Nguyễn Trãi, công danh được đặt cạnh thanh
nhàn, thậm chí ông còn đem công danh đổi lấy cuộc sống “nhàn nhã”. Theo thống kê
trong tập thơ Quốc âm có đến 29 lần Nguyễn Trãi đem công danh đánh đổi sự thanh
nhàn (Phụ lục 2).
Khi đua chen mệt mỏi chốn quan trường, Nguyễn Trãi cũng đã có lúc ước cầu
những tiêu dao. Tiên sinh họ Nguyễn đặt tất cả lên bàn cân thì “công danh” phú quý
cũng chỉ vừa đủ đổi lấy một “cần câu”:
“Liệu cửa nhà xem bằng quán khách
Đem công danh đổi lấy cần câu” (Bài 30)
“Vườn còn thông trúc đương năm mẫu
Câu ước công danh đổi một cần” (Bài 33)
Khi thời thế suy vi, kẻ hiền tài chọn cách ẩn mình nơi ngòi khe. Thú quê vẫy
gọi, chẳng còn muốn nấn ná chốn lợi danh, quan trường:
“Non lạ nước thanh làm dấu
Đất phàm cõi tục cách xa” (Bài 54)
“Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào” (Bài 35)
Khi ấy, làm quan với Nguyễn Trãi là “dại” vì tài hèn, sức mọn và cũng bởi non
nước bén duyên đã ước hẹn từ lâu. Nay, lời hẹn ấy thôi thúc quá, chẳng muốn dùng
dằng nữa, chỉ muốn “về”:
38
“Làm quan tha dại tài chăng đủ
Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng” (Bài 61)
“Phú quý lòng hơn phú quý danh
Thân hòa tự tại thú hòa thanh” (Bài 83)
Lòng đầy hồ nghi bởi một người “cương thường” canh cánh như Nguyễn Trãi, với
tấc lòng ưu ái cũ cuồn cuộn như nước triều Đông mà sao có lúc phải thốt lên chua chát:
“Vấn quân hà bất quy khứ lai
Bán sinh trần thổ trường giao cốc?”
(Về đi sao chẳng sớm toan
Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?) (Côn sơn ca)
Những nhịp lỡ trong đoạn trường quan lộ của Ức Trai chính là nguyên nhân
khiến ông nghĩ đến thú thanh nhàn. Khi được tin dùng thì trọng tài hết sức, đến đỉnh
cao của vinh quang, quyền lực trong tay, hành động chính nghĩa, ơn nhuần sông núi;
nhưng khi thất sủng thì làm “quan lạnh”, danh có phận không, chức quan vô thưởng vô
phạt, thậm chí còn bị nghi ngờ, bị giáng chức, bị giam lỏng. Tấm lòng son sắt ấy vẫn
thế, chưa một phút đổi thay, nhưng có điều thời thế đã khác, lòng tin bỗng chốc hóa vạ
bay. Chỉ điều đó thôi cũng đủ làm cho tiên sinh họ Nguyễn nản bước mà gắn bó với
non nước hữu tình:
“Công danh lỡ đường vô sự
Non nước ghe chốn hữu tình” (Bài 86)
Giá trị của công danh chân chính trong Nguyễn Trãi không hề thay đổi nhưng
chính hoàn cảnh xã hội đã khiến “lòng son” với giấc mộng công danh của vị trung thần ấy
nhạt phai. Biết rằng mọi sự so sánh đều khập khiễng nhưng những nhịp lỡ đường quan
chính là cơ duyên se kết Nguyễn Trãi với nước bạc mây ngàn, bởi chỉ nơi ấy mới đủ đắp
lành vết thương lòng, đủ an ủi cái tôi cô đơn của con người độc lạc giữa trường quan. Và
từ nơi ngoài thế giới ấy, Ức Trai đã định giá lại cả quãng đời lợi danh của mình công tâm,
minh xác mà thước đo chính là bầu tự tại mà thiên nhiên mang lại cho ông.
39
2.1.3. Ứng xử của Nguyễn Trãi với thị phi, đắc – thất
2.1.3.1. “Đắp tai biếng mặc sự vân vân”
Phật giáo quan niệm, con người sống luôn gieo và nhận nghiệp. Nhưng trong
các nghiệp nhân thì “khẩu nghiệp” là thứ đáng sợ nhất. Khẩu nghiệp luôn ẩn chứa
trong xã hội, và nấp mình trong những thị phi. Mỗi cá nhân đều có sự quan tác đối với
môi trường: có thể được lòng yêu, nhưng có khi chuốc lòng ghét, thậm chí là những
hiềm khích. Ở những con người có tài “lương đống”, hào quang át đấng “minh công”,
đi trước thời cuộc lại càng chịu nhiều khẩu thiệt, càng chuốc lắm thị phi. Nhìn lại lịch
sử văn học, trước và xa Nguyễn Trãi là Khuất Nguyên: cho hay thiên hạ say hết, một
mình ta tỉnh mà ca khúc “Thương Lang”, coi thị phi như thứ để ta rửa chân, rửa mũ mà
lướt thuyền qua, sau Nguyễn Trãi là Nguyễn Bỉnh Khiêm, để cho người người “khôn”
hết một mình ta “dại” mà sống vui thú riêng mình. Đối lập với số đông là chấp nhận
những khó khăn nhiều bề hơn thiệt. Nguyễn Trãi nối gót tiên nhân mà sống theo chí
nguyện của riêng mình và chấp nhận đương đầu với thị phi.
Trong cái nhìn của Nguyễn Trãi, thị phi bắt nguồn từ những quanh co, “hiểm
hóc”, đố kị của lòng người:
“Dễ hay ruột bể sâu cạn
Khôn biết lòng người vắn dài” (Bài 6)
“Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay” (Bài 26)
Mọi sự trên đời đều có thể tìm hiểu, tỏ tường, duy chỉ một thứ không ai dò được
sâu nông ấy là “lòng người” bởi “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt. Tri nhân tri diện bất tri
tâm” (Tục Thái A Kiếm – chương 36). Trong xã hội đảo điên với những trắng đen lập
lờ, sống qua ba triều đại giữa trường quan, từng “nếm mật nằm gai” giữa tháng ngày
khổ ải “Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” (Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi) tưởng
không gì có thể phai nhạt tình quân thân, huynh đệ tựa cốt nhục. Ấy vậy mà những
toan tính, sự phản trắc, thậm chí là tính mạng được định bán bằng gian trá, tiền
40
quan…Nguyễn Trãi thấy ghê sợ con người bởi ngoài mặt thì nói cười, mà bên trong
trắng đen không phân định:
“Ai thấy rặng cười là thế thái
Ghê thay biến bạc làm đen” (Bài 124)
Dư luận có thể xoay vần, biến đổi mọi sự thế. Với Nguyễn Trãi “lòng thế” là
lực vạn năng mà trước nó đôi khi mình chịu lép vế:
“Lòng thế bạc đen dầu nó biến” (Bài 139)
Sự chiêm nghiệm của Nguyễn Trãi cũng là lời đúc kết tự ngàn đời của cha ông
ta. Lời nói trao nhau đôi khi quý như “gói vàng” cần nâng niu, trân trọng, nhưng đôi
khi nhạy hơn súng đạn, sắc hơn gươm đao, có thể giết chết con người -“Lời nói đọi
máu” (Thành ngữ). Trong thơ Nguyễn Trãi, lời nói bộ mặt thứ hai đo lòng người
“hiểm ác”. Nước những tưởng đã mềm để uốn mình theo địa thế nhưng cũng chưa
bằng lòng dạ con người thay đổi, quanh co:
“Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh” (Bài 136)
Yêu ghét khen chê của người đời là thước đo định giá con người:
“Lòng người thế sự thấy lâng lâng
Trọng thì nên ngõ hèn thì dại” (Bài 161)
Vẫn một con người, bản chất không đổi mà người khen kẻ chê, người khinh kẻ
trọng mới hay thị phi là điều không thể tránh. Nguyễn Trãi đã đi ngược lại với thời đại,
đã sống hiên ngang giữa biển đời nên thị phi với vị quan họ Nguyễn luôn có thừa.
Vậy ứng xử sao cho phải trước những thị phi? Lời đối đáp của Hứa Tôn Kính
khi Đường Thái Tông hỏi về những điều tiếng mà thiên hạ nói về ông là một gợi ý:
“Trời đất kia vốn vô tư không thiên vị, mà cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian trách
hận ghét thương. Còn hạ thần đâu phải một người vẹn toàn thì làm sao tránh khỏi tiếng
chê bai chỉ trích”. Nguyễn Trãi cũng đã chọn cho mình cách “tối ưu” để ứng phó với
những thị phi của xã hội. Coi như mắt chưa hề nhìn thấy, tai chưa hề nghe thấy thì mọi
sự bằng không:
41
“Sự thế dữ lành ai hỏi đến
Bảo rằng ông đã điếc hai tai” (Bài 6)
Im lặng luôn là giải pháp tối ưu, bởi cuộc sống còn nhiều thứ đáng quan tâm
nên chuyện khen chê cứ coi không nghe thấy. Nếu đó là chuyện của thiên hạ, ta có thể
bỏ qua. Nhưng đó là chuyện của ta, liên quan đến ta thì nên ứng xử ra sao?
“Hễ tiếng dữ lành tai quản đắp
Cầu ai khen lẫn lệ ai chê” (Bài 48)
Đã sống trong đời, ai cũng thích khen, ghét chê, yêu điều lành, lánh điều dữ.
Nhưng xã hội muôn người vạn nghĩ, mấy ai sống vừa lòng tất cả, âu khen chê là
chuyện thường tình. Vậy thì nếu coi đó là sự thường thì cũng nên bỏ ngoài tai sự khen
chê. Không mong muốn được khen thì tất sẽ chẳng buồn vì chê. “Đắp tai” vào bỏ mặc
sự thế gian:
“Dầu phải dầu chăng mặc thế
Đắp tai biếng mặc sự vân vân” (Bài 165)
Nguyễn Trãi khác nào Khuất Nguyên thấy chỉ mình “tỉnh” còn tất cả đều “say”.
Khác nào, Lỗ Tấn “múa kích một mình trên sa mạc”, thức dậy quá sớm khi “tất cả còn
đang ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Cuộc đời vốn không bình
lặng, và sóng ngược dòng ập đến với Nguyễn Trãi bằng những thị phi. Cách Nguyễn
Trãi làm không phải phó mặc chuyện đời để buông xuôi, nhưng có lẽ trong hoàn cảnh
ấy thì đó là cách ứng xử tối thượng.
Tránh xa những thị phi trần thế, tìm đến “cõi yên hà” mà sống cảnh ẩn dật qua
ngày tháng với khói mây, chăm chút cho mình bằng những kiến thức ở “Thi Thư” còn
sự đời chẳng để lọt đến tai cũng là một giải pháp của Nguyễn Trãi:
“Am trúc hiên mai tháng ngày qua
Thị phi nào đến cõi yên hà” (Bài 4)
“Thư song vắng vẻ nhàn vô sự
Tai chẳng còn nghe tiếng thị phi” (Bài 57)
42
“Quyển Thi Thư những màng quen mặt
Tiếng thị phi chẳng đúng đến tai” (Bài 84)
Nhưng không phải muốn rũ bỏ mình khỏi vòng xoáy nghiệt ngã của điều tiếng
sự đời mà được, đôi khi nó đeo đẳng, bủa vây. Chỉ còn cách lấy phẩm tiết của mình
mà đối mặt với thị phi:
“Thế sự dầu ai hay buộc bện
Sen nào có bén trong lầm” (Bài 70)
“Ngọc lành nào có tơ vện
Vàng thật âu chi lửa thiêu” (Bài 116)
Nguyễn Trãi tự nhận mình cao quý, ngát hương như “sen”, sáng trong như
“ngọc”, chịu “lửa” thế gian như “vàng”. Nếu vàng chỉ khẳng định được chân giá trị khi
đã qua thử lửa thì con người chỉ có thể trưởng thành khi đi qua được những khó khăn,
bỏ ngoài tai những chuyện chê khen ở đời:
“Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt
Chê khen mựa ngại tiếng chê khen” (Bài 140)
“Dửng dưng sự thế biếng đôi tranh
Dầu mặc chê khen mặc dữ lành” (Bài 169)
Phương châm ứng xử của Nguyễn Trãi cũng là cách cổ nhân đã đúc rút “Dĩ bất
biến ứng vạn biến” (Hồ Chí Minh), giữ tâm thanh không đổi phó mặc đục trong, được
mất với chê khen. Đi theo chí nguyện mà ta cho là hợp “đạo” thì “xe đến trước núi ắt
có đường”.
Nếu vạn sự đều chấp nhặt, “đa mang” thì có lẽ ta không làm được việc gì,
chẳng khác nào anh nông dân “Đẽo cày giữa đường” (Thành ngữ). Nguyễn Trãi đã cho
chúng ta một bài học trân quý trước những thị phi của cuộc đời. Xã hội hiện đại, với
những cuộc tranh đua khốc liệt “thị phi thời hiện đại” còn ẩn dưới muôn vàn lớp áo,
miệng lưỡi thế gian không “nhọn như chông mác” dễ nhận thấy, nó còn là “mật ngọt”,
43
là “hoa hồng” đầy cám dỗ, mê hoặc rõ ràng bài học của Nguyễn Trãi về thị phi đáng
để cho chúng ta hôm nay cùng ôn lại một lần.
2.1.3.2. Tư tưởng “mất chẳng hề âu được chẳng mừng”
Phật giáo quan niệm “vạn sự vô thường”, luôn có sự đắp đổi giữa các thái cực:
sinh – diệt, hưng – vong, bĩ – thái, hối – minh…nên chuyện đắc – thất cũng là lẽ tự
nhiên. Cuộc đời là những ẩn số, có phúc ắt có họa, có rủi lại có may. Phúc họa vốn có
đầy trong “kho của” nhân loại:
“Phúc của chung thì họa của chung
Nắm thì họa khỏi phúc về cùng” (Bài 132)
Không hẳn phúc họa ấy sẽ chia đều cho tất cả. Nó tùy thuộc rất nhiều vào lẽ
ứng biến của con người trước thời cuộc. Điều này đã khẳng định trên phần cơ sở lý
luận chung, thực chất là cách ứng phó - phương thức ứng xử của cá nhân với môi
trường sống. So sánh đơn giản, với dòng sông cuộc đời mỗi con người chọn cho mình
cách riêng để đi qua dòng sông: có người chọn xuôi theo dòng nước để “Thuận buồm
xuôi gió”, chấp nhận tất cả và mọi chuyện êm xuôi lựa chiều con nước; có người lại
chọn cách sang ngang để tìm một con đường ngắn nhất, nhanh nhất cho mình; nhưng
lại có người đi ngược dòng, gồng mình vượt qua ghềnh thác của số phận để khẳng
định cái tôi. Nếu đứng từ góc nhìn lịch sử, ta nhận thấy Nguyễn Trãi đã lội ngược
dòng bất chấp những phong ba. Gồng mình đi qua những bão táp lịch sử, tự đặt mình
trong thế đối nghịch với xu hướng nhân quần, càng gắng gượng thì càng đuối sức,
thậm chí có lúc bị gạt khỏi dòng đời. Nguyễn Trãi chua xót nhận ra lẽ sống muộn
màng “Nắm thì họa khỏi phúc về cùng”. Sao ông không sống như bao kẻ nịnh thần
bấy giờ để hưởng bình an, phú quý. Biết mà không thể theo. Đó phải chăng cũng là
nguyên cớ sâu xa đẩy Nguyễn Trãi đến họa chu di? Ngay thẳng quá khi tất cả đều
“uốn mình bằng câu hết”, không cần xét đến tâm ai trung tiết, chỉ cần cúi luồn là qua
ải gian truân. Thế mới thấy bài học của Nguyễn Trãi thế kỉ XV là minh chứng của thế
tình nghiệt ngã, dòng đời thác loàn. Nhưng bậc chính nhân họ Nguyễn lại tự an ủi
mình bằng lẽ thịnh suy của tạo hóa:
“Cho hay bĩ thái mãi lề cũ
Nếu có nghèo thì có an” (Bài 144)
44
Sống “nghèo” cũng là một cách để Nguyễn Trãi chọn được cái “an” cho riêng
mình. Nhưng có lẽ cần mở ngoặc để nói với nhau rằng, “an” ở đây không phải là sự
bình an cho cuộc đời riêng tư của Nguyễn Trãi trước thế tình mà là chút an yên trong
cõi lòng, cho lương tâm không thẹn với trời xanh. Nắm rõ quy luật của cuộc đời,
Nguyễn Trãi cứ mặc nhiên cho thế thái biến bạc đổi đen:
“Đành thương hải đòi thì biến
Đà nhân gian biết mọi sự không” (Bài 62)
Mọi sự nhân gian vốn ngoài thân, có đấy mà rồi cũng là không, lòng đâu cần
xao động trước “vạn biến” của đời:
“Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi xem thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến” (Nguồn sưu tầm Phật tử)
Nắm được lẽ ứng biến của tạo hóa, trước những thăng trầm của cuộc đời và
bước quanh của sự thế Nguyễn Trãi đón nhận rất thản nhiên, coi nó như quy luật tất
yếu của cuộc sống mà không bận tâm:
“Hoa càng khoe tốt tốt thì rữa
Nước chứa cho đầy đầy ắt vơi” (Bài 85)
Thấp thoáng trong suy nghĩ của Nguyễn Trãi quan niệm “vô thường” của nhà
Phật, mọi sự có đấy mà rồi chẳng giữ mãi cho riêng mình, thoáng chốc thành hư bay:
“Giàu mấy kiếp tham lam bấy
Sống bao lâu đáo để màng” (Bài 55)
Cả đời sống cứ mải nhọc nhằn, đua tranh, tưởng như “phúc đến trăm tuổi”,
nhưng khi “Mình thác thì nên mọi của tan”:
“Phúc dầu hay đến trăm tuổi
Mình thác thì nên mọi của tan” (Bài 134)
45
Cách nhìn nhận thời cuộc của Nguyễn Trãi không thể đánh giá đó là phương
thức tối ưu, nhưng cũng không thể coi đó là sự hạn chế. Xét dưới góc độ nào đó, trong
thời đại Nguyễn Trãi, thì cách xử thế của ông hoàn toàn phù hợp với một con người
tâm trong lòng sáng, sống cả cuộc đời vì đất nước nhân dân. Được của Nguyễn Trãi là
cái được cho dân, nhưng cái mất chỉ giữ riêng cho mình. Phải chăng đó là lẽ ứng xử
của bậc hiền nhân quân tử.
“Tái ông thất mã” là một câu chuyện đến nay vẫn được lưu truyền trong dân
gian như một bài học ứng xử về sự được mất. Được mất là lẽ thường của cuộc sống thì
vui buồn là lẽ hiển nhiên của con người. Nguyễn Trãi khẳng định:
“Mất chẳng hề âu được chẳng mừng” (Bài 161)
Đi đến tận cùng để lí giải tại sao con người lại coi trọng sự được mất đến thế,
Nguyễn Trãi nhận thấy tất cả nằm trong cảm thức của con người về “tham, sâm, si”.
Từ “sở cầu” của mỗi người, khi “sở đắc” thì vui, “thất đắc” thì buồn, tất cả nằm trong
sự “tiếc mừng” bởi con người không thoát ra được ý thức về sự chiếm hữu:
“Được mất duy nơi sự tiếc mừng
Đạo ta thông biết hết lâng lâng” (Bài 181)
Chỉ cần ta thông hiểu rằng, “vạn sự vô thường” ắt sẽ chẳng còn buồn vui
chuyện đắc – thất. Nguyễn Trãi là tín đồ của đạo Khổng nên ông thấu rõ thuyết “thiên
mệnh - "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (không biết mệnh không thể là người quân
tử được) ("Luận ngữ", Nghiêu viết, 3). Đã tin có mệnh, biết mệnh thì phải sợ mệnh và
thuận mệnh. (Phụ lục 3). Trời đã chia phần: giàu sang hay nghèo khó tại mệnh, cớ sao
phải lặn lội, đua chen cho nhọc nhằn:
“Sang cùng khó bởi chưng trời
Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi” (Bài 10)
“Được thua phú quý dầu thiên mệnh
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn” (Bài 27)
Số mệnh ngắn hay dài cũng do trời xanh định đoạt:
46
“Vắn dài được mất dầu thiên mệnh
Chạy quấy làm chi cho nhọc nhằn” (Bài 175)
Nên cứ để thân nhàn mà tiêu dao qua một đời trần thế bởi cũng chẳng thể đổi
thay được “lòng trời”:
“Mới biết doanh hư đà có số
Ai từng cải được lòng trời” (Bài 85)
Biết vậy liệu có ai còn bận lòng chi mấy chuyện được mất, sang hèn. Hãy lo giữ
nếp thanh sạch trong cái nghèo làm đầu:
“Giàu mặc phận nguôi lòng ước
Chật yên bần ấy cổ lề” (Bài 88)
Có thể tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi không cầu thị, nhưng trong hoàn cảnh
tưởng như đã “trói” chân tay thì ông có thể làm gì khác. Ngồi đó mà thở than số phận,
hay đôi co với đời? Chi bằng yên phận trong thế cho thanh thản cõi lòng. Có điều, nỗi
lo dân nước vượt qua cả sự được mất, thiệt hơn, như trăm nghìn con sóng ngầm đi
dưới đáy sông, lòng tưởng đã tạnh những chuyện nhân thế nhưng “Niềm quân thân
chẳng khứng nguôi”. Ngẫm cho cùng, cả một đời Nguyễn Trãi, mất nhiều chứ được
bao nhiêu. Nhưng còn lại sau tất cả những được mất ấy, dân tộc Việt Nam có quyền tự
hào về một người anh hùng dân tộc. Cái được ấy liệu đủ đắp đổi bao phen tao tuyết với
đời của Ức Trai?
2.1.4. Vuông mình theo đạo “trung dung”
Tư Tử, người học trò xuất sắc, cũng là cháu nội của Khổng Tử, đã viết sách
“Trung dung”. Đó là học thuyết Khổng Tử sáng lập ra và được Tư Tử dẫn giải cụ thể.
Khổng Tử đã nói về “trung dung” như một phương châm ứng xử của con người ở đời,
giữ sao cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất
cập và phải cố gắng theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho xứng người quân tử. Mục đích
của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo Trung dung để đạt đến một
trình độ đạo đức cao hơn. Tư Tử dẫn lời Khổng Tử trong sách Trung dung: "Sinh tri
yên hành giả tri dã, học tri lợi hành giả nhân dã, khốn tri miễn hành giả dũng dã”
(Người nào biết ngay từ bẩm sinh, dễ làm đời, người ấy có sự biết; người nào cần học
47
mới biết được, làm đời có lợi, người ấy có nhân ái; người nào khốn khổ mới biết được,
cố gắng trong đời, người ấy có dũng). Là học trò của đạo Khổng, Nguyễn Trãi nắm rõ
thuyết “trung dung”, coi đó là kim chỉ nam trong lẽ ứng biến của mình, vận dụng trong
mọi mối quan hệ mà đạt đức “nhân”: Nói phải nghĩ đến làm, làm phải nghĩ đến nói;
học cho rộng, biết cho tường tận; suy nghĩ cho cẩn thận; phân biệt cho sáng suốt; làm
việc cho hết lòng; làm bất cứ việc gì cũng phải suy nghĩ trước; đem lý lẽ mà răn dụ là
khiến người ta tin theo… Những điều ấy là phương thức ứng xử “trung dung” của
Nguyễn Trãi. Và ông cũng không ít lần nhắc đến “trung dung” trong thơ của mình
bằng cả lòng tin:
“Văn chương chép lấy câu đòi thánh
Sự nghiệp tua thìn phải đạo trung” (Bài 132)
Với quan nghiệp, Nguyễn Trãi luôn hướng theo đạo “trung dung”. Lấy lẽ phải
mà can gián vua, những điều được đọc trong sách thánh hiền, được học ở nhân dân
ông đều áp dụng để “ích chưng dân”. Không vì lợi ích riêng của bản thân mình mà
chịu cúi luồn, siểm nịnh, làm việc không ngay thẳng. Cũng không lo cho riêng mình
mà quên đi người khác…Đạo “trung dung” ở Nguyễn Trãi khi làm quan có phần nào
gần với lòng trung trinh của con người ấy với nước, với dân.
Nguyễn Trãi thấy mình sinh ra như để sống với đạo “trung dung”, đó là phúc
đức mà vị quan họ Nguyễn được trời ban, là kim chỉ nam cho mọi quan ứng để giúp
ông đi qua ngày tháng:
“Sinh đấng trung đà phúc đức thay
Chẳng cao chẳng thấp miễn qua ngày” (Bài 146)
Cả cuộc đời làm quan thanh bạch, về ở ẩn trong nghèo khó nhưng Nguyễn Trãi
không hề oán thán, thậm chí ông còn cho mình là người “giàu có” bởi “Phú quý lòng
hơn phú quý danh”. Một lòng Nguyễn Trãi bền bỉ với đạo “trung dung”, không màng
phú quý, lợi danh:
“Bền đạo trung dung chẳng thủa tàng
Màng chi phú quý nhọc khoe khoang” (Bài 129)
48
Không chỉ khi làm quan, mà ngay trong cuộc sống thường ngày và khi lui mình
ở ẩn Nguyễn Trãi cũng ứng xử theo đạo “trung dung”:
“Làm người thì giữ đạo trung dung
Khăn khắn dặn dò thửa lòng” (Bài 127)
“Trung dung” là lẽ sống nằm lòng Nguyễn Trãi luôn dặn mình tuân thủ. Giữ
lòng cho “thanh” kệ đời ô trọc, sống thuận “trung dung” được thanh thản, an nhàn:
“Chớ người trọc trọc chớ ta thanh
Lấy phải thì trung đạo ở kinh” (Bài 156)
Để đạt được sự “an nhàn”, tiêu dao qua ngày tháng thì lối sống “trung dung”
chính là yếu tố cần và đủ:
“Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả
Qua ngày tháng được an nhàn” (Bài 133)
Thế nên không có lẽ gì chuyện yêu ghét Nguyễn Trãi không thi ứng theo đạo
“trung dung”:
“Ngâm kíp thắm thì phai lại kíp
Yêu nhau chẳng đã đạo thường thường” (Bài 147)
Quan niệm này của Nguyễn Trãi không chỉ hợp với thuyết “trung dung” của
Khổng Tử mà còn rất gần gũi với quan niệm yêu ghét của dân gian:
“Càng thắm thì lại càng phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu” (Ca dao)
Quan hệ, đối đãi với người khác, Nguyễn Trãi cũng luôn giữ ở thế “trung dung”:
“Chớ có thân sơ mới trượng phu” (Bài 152)
Không gần gũi thân thiết quá, mà cũng không xa lánh, lạnh nhạt quá thì mọi sự
đều bền tốt. Quan niệm này của Nguyễn Trãi đã bác bỏ nếp nghĩ ngàn đời của dân gian
ta “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”.
Vốn là học trò của Khổng Tử, Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng trung dung và
thi ứng trong mọi mối quan hệ. Nhưng chính cảnh ngộ riêng cũng là một yếu tố đưa
49
đẩy Nguyễn Trãi chọn lối sống không tư vi thiên lệch. Giữa tao đoạn nhiễu nhương
của quốc triều phong kiến các bè phái thanh trừng, lật tẩy nhau, trắng đen lập lờ thì
Nguyễn Trãi không còn cách nào khác là chọn cho mình vị trí luôn “đứng giữa”: Đứng
giữa lòng để không thẹn với mình, đứng giữa đời để không lỗi với người.
Trong mọi hoàn cảnh, mọi mối quan hệ, Nguyễn Trãi đều vuông mình trong
đạo “trung dung”. Mặc sự sang hèn, yêu ghét, khen chê chỉ cần lòng thanh thản, giữ
đúng đạo là điều ông tâm niệm. Những việc Nguyễn Trãi làm khiến ta có thêm đức tin
vào lẽ sống dung hòa ở đời. Đó không chỉ là phương châm sống của Nguyễn Trãi
trong thời đại phong kiến, mà chữ “hòa” trong văn hóa ứng xử của người Việt Nam và
trong mọi thời đại đều được chú trọng hàng đầu.
2.1.5. Ứng xử với khát vọng cá nhân
Con người trong văn học trung đại chịu dấu ấn của “tam giáo” với vai trò chi
phối của quan niệm “vô ngã”. Triết học Lão – Trang quan niệm “tề vạn vật”, “đẳng thị
phi”, “vật ngã đồng nhất”, Trang Tử kịch liệt phản đối xem con người là trung tâm.
Ông cho rằng cái tôi là một giới hạn trong không vong ngã, vong kỷ, vong vật), đạt tới
cõi “vật ngã lưỡng vong”, “vô kim cổ” thì con người mới có thể hòa đồng với vũ trụ,
sống một cuộc đời vô tận, vô cùng. Nho giáo coi con người là một yếu tố của tam tài,
“thiên – địa – nhân”, cũng là con người vũ trụ. Phật giáo, theo cách giải thích vắn tắt
của nhà sử học Trung Quốc Phạm Văn Lan là “phá ngã pháp nhị chấp” để diệt khổ.
“Ngã” là sinh mệnh, dựa vào thực thể sinh vật, biểu hiện thành đời sống sinh vật
(thân). Có thân thì có dục ; vô cầu, vô dục là con đường đạt tới vô ngã, cũng tức là vô
khổ. Về sau, cả Phật, Lão, Nho đều khinh miệt thế tục. Do vậy địa vị và sự phát triển
của cá nhân chịu sự ràng buộc của luân lý, dẫn tới chỗ khinh nhẹ con người cá nhân
mà đề cao con người bổn phận. Văn học trung đại, việc nói đến khát vọng cá nhân, tự
do, tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc rất hãn hữu mà đề cao con người đặt trong bổn phận
nhân luân.
Với “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Trãi đã đốt cháy một đời cho những khát vọng
cống hiến của con người phận vị. Nhưng không chủ trương “vô ngã”, diệt dục, Nguyễn
Trãi giãi bày, trân trọng những ước muốn đầy tính thế tục: khát vọng tình yêu, tuổi trẻ,
hạnh phúc. Đi ngược lại quan niệm ứng xử của con người trung đại, chọn cho mình
cách ứng xử với bản thân sao cho được vẹn nghĩa chung mà không phụ tình riêng.
50
Cách ứng xử không chỉ thể hiện khát vọng chân thực của con người (luôn có sự hài
hòa giữa lý – tình, thân – tâm), còn khẳng định bản lĩnh sống, phương châm xử thế
đậm tính nhân văn của vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Nói đến sự hài hòa giữa khát vọng cống hiến của con người bổn phận với khát
vọng tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc của con người cá nhân ở Nguyễn Trãi, trong tiểu
mục này chúng tôi xin phép được trình bày khát vọng của con người cá nhân (còn khát
vọng cống hiến của con người phận vị xin được làm rõ trong phương thức ứng xử với
nhân dân và bậc quân thân).
2.1.5.1. Khát vọng tuổi trẻ
Lâu nay, người đọc hay bị ám ảnh bởi quan niệm về thời gian tuần hoàn trong văn
chương trung đại. Đọc lại những vần thơ ta thấy được vòng quay khép kín của tạo vật:
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non” (Khuyết danh)
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại” (Tự tình II – Hồ Xuân Hương)
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” (Thu vịnh-Nguyễn Khuyến)
Cảm thức về bước đi của thời gian vô cùng mờ nhạt. Bởi quan niệm của văn
học trung đại: con người là một tiểu vũ trụ, tuần hoàn cùng vòng quay của tạo hóa nên
họ có thái độ an nhiên, coi lẽ sinh diệt như phép tự nhiên của tạo hóa, cái chết nhẹ tựa
hồng mao. Các trường phái thơ thể hiện thái độ an nhiên trước thời gian như: thơ thiền
Phật giáo, thơ Nho gia đời Tấn Trung Quốc với Đào Tiềm, Đời Tống với Tô Đông
Pha.., và thời gian siêu nhiên, tiên cảnh trong thơ Đạo gia. Với “Quốc âm thi tập”,
Nguyễn Trãi hay dùng những cặp sóng đôi: ngày – đêm, đêm – đêm, ngày – tối, thủa
triều cường – khi ác lặn, thu – xuân, hôm mai – đêm ngày, còn thủa đông – suốt mùa
hè…cũng để thể hiện sự tĩnh tại của thời gian.
Mùa xuân vốn là một khoảng thời gian trong tự nhiên theo quy luật, nhưng con
người đã truyền cho nó thêm phần hồn với các khái niệm cộng sinh như biểu tượng
cho tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc. Theo thống kê có đến 45 bài thơ trong “Quốc âm thi
tập” nói đến mùa xuân. “Cảm quan mùa xuân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi rõ ràng đã
51
tạo thành một mạch cảm hứng, một cụm đề tài phong phú, sâu sắc” [19,539]. Niềm
yêu xuân, sự hoài xuân, tiếc xuân phải chăng bắt nguồn khát vọng sống và khát vọng
cống hiến của vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Bảng 2.1. Thống kê tần số xuất hiện hình ảnh thơ nói về mùa xuân như biểu
tượng cho tuổi trẻ trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi (Phụ lục 4)
Stt Bài Stt Bài Stt Bài Stt Bài
2 12 196 23 211 34 231 1
3 13 197 24 214 35 235 2
13 14 198 25 216 36 236 3
17 15 200 26 221 37 238 4
22 16 201 27 223 38 239 5
33 17 203 28 224 39 242 6
56 19 204 29 226 40 244 7
59 10 205 30 227 41 246 8
193 20 207 31 228 42 247 9
194 21 209 32 229 43 250 10
195 22 210 33 230 44 253 11
45 254
Mùa xuân trong văn học vốn là biểu tượng của tuổi trẻ - quãng thời gian đẹp
nhất của đời người. Mùa xuân với thiên nhiên là khoảng thời gian đẹp đẽ đầy huyền
nhiệm. Nằm trong mạch thi hứng chung ấy, trong “Quốc âm thi tập”, mùa xuân căng
đầy sức sống, đánh thức tạo vật. Tất cả “đua nhan sắc thủa xuân dương”:
52
“Giữa mùa đông trổi thức xuân” (Bài 214)
“Người đua nhan sắc thủa xuân dương” (Bài 216)
“Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình” (Bài 221)
“Chúa xuân gẫm càng xưa hay” (Bài 223)
Xuân như quy luật vận hành của tạo hóa, và với Nguyễn Trãi, khi xuân đến muôn
vật trút áo nàng đông, khoác lên mình tấm áo sặc sỡ của những cánh hoa hàm tiếu:
“Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi” (Bài 224)
“Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười” (Bài 227)
Nên trong bốn mùa, mùa xuân luôn tươi đẹp nhất:
“Rỡ tư mùa một thức xuân” (Bài 246)
Vui cười bao nhiêu khi xuân đến thì càng hụt hẫng bấy nhiêu khi xuân qua.
“Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời” (Bài 59)
Câu thơ Nguyễn Trãi gợi nhắc câu thơ của Thiền sư Mãn Giác:
“Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai”.
(Xuân đi, trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa nở.
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt,
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu). (Cáo tật thị chúng)
Có điều, Mãn Giác thiền sư tìm thấy sự an nhiên, bình thản trước quay vòng
của phận mệnh con người trong tạo hóa vĩnh hằng:
53
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng hết,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.)
Nên lòng vô động trước buổi vãn sinh. Nhưng với Nguyễn Trãi là cả mối lo :
“Má đào phai hết bởi xuân qua” (Bài 231)
Ông đã hối thúc bước chân trần sao cho nhanh:
“Kịp xuân mựa để má đào phai” (Bài 230)
Rõ ràng, Nguyễn Trãi rất mực nhạy cảm với quy luật của tuổi tác và thời gian
vô cùng ngắn ngủi đang vùn vụt qua đi:
“Lòng xuân nhẫn động ắt khôn tìm
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại” (Bài 201)
“Thức xuân kể được mấy phen tươi” (Bài 203)
“Thức xuân một điểm não lòng nhau” (Bài 197)
Trước cảm nhận đó, nỗi hoài xuân, tiếc xuân bừng thức. Không còn say sưa tận
hưởng vẻ thanh tân, mơn mởn của xuân mà Nguyễn Trãi cuống cuồng lo toan níu giữ
thời gian, tuổi trẻ dù chỉ là khoảnh khắc cuối cùng của mùa xuân:
“Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân” (Bài 195)
Và gắng tận hưởng mùa xuân cho trọn vẹn:
“Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi” (Bài 13)
Nhưng dường như thời gian vô tình mặc lòng khách thi nhân, để nỗi tiếc nuối
len lỏi khắp tâm can:
“Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân” (Bài 204)
54
“Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm” (Bài 205)
“Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân” (Bài 210)
Và trong cảm thức về bước thời gian ấy, mỗi lần xuân đến là một lần khách thơ
động lòng người:
“Một phen xuân tới một phen xuân” (Bài 239)
“Một phát xuân là một động người” (Bài 247)
Rõ ràng, nằm trong cảm thức về thời gian của văn học trung đại: tĩnh tại, tuần
hoàn. Nhưng Nguyễn Trãi có cảm nhận rất rõ ràng về con người cá nhân trong vòng
quay vô thủy vô chung của tạo vật. Bởi nhận thức “Xuân xanh chưa dễ hai phen lại”
nên khao khát níu giữ tuổi xuân – nói như Xuân Diệu là “phần ngon nhất của cuộc
đời”- trong thơ Nguyễn Trãi hối thúc, bức bách chứ không an nhiên, tự tại như trong
thơ các thiền sư, không bình thản như các nhà thơ của Đạo giáo. Đó là khát vọng sống
hết mình của một cá nhân ý thức được sự đối lập của thời gian cuộc đời với thời gian
vũ trụ. Ta trân trọng khao khát rất đỗi đời thường, bình dị nhưng cũng đậm chất nhân
văn đầy thức thời của Nguyễn Trãi. Để sau khi Nguyễn Trãi “bạc đầu” bởi tiếc xuân,
thì Hồ Xuân Hương đã đứng lên mà thách thức lại cả lễ giáo phong kiến, bảo vệ tuổi
xuân, khát khao của con người, đặc biệt là người phụ nữ:
“Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom?” (Tự tình I – Hồ Xuân Hương)
2.1.5.2. Khát vọng tình yêu, hạnh phúc
Một con người được đào tạo bài bản trong hệ thống quy chuẩn đạo đức Nho
gia, đã từng lên tiếng răn giảng đạo lễ của nhà Nho “Sắc là giặc đam làm chi”. Nhưng
bên cạnh con người tư tưởng ấy còn có một con người đời thường của trần hoàn thế
tục. Tình cảm nam nữ, cá nhân là điều kiêng kị trong thơ “ngôn chí, tải đạo” của nhà
Nho vậy mà Nguyễn Trãi đã bộc lộ “Hết không thay thảy tấm hồng trần” của mình với
tất cả khao khát nồng cháy về tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc.
55
Nhân loại có ngân quỹ chung là tình yêu, hạnh phúc nhưng nó chỉ thật sự giàu
có, đắm say vào thủa xuân thì. Cảm thức sự qua đi của đời người,“Thấy cảnh càng
thêm tiếc thiếu niên”, Nguyễn Trãi đã nửa đùa nửa thật bỡn cợt kẻ hậu sinh:
“Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc
Đầu bạc xưa nay có thủa xanh” (Bài 202)
Tuổi trẻ - quãng thời gian ai cũng muốn níu giữ bởi khát vọng tình yêu rực
cháy. Trong khuôn khổ đạo Nho, tình yêu nam nữ là điều kiêng kị nói đến trong thơ,
con người “vô ngã” nên không thể bộc lộ “bản ngã”. Vậy mà Nguyễn Trãi nói lên
những rung động thành thực nhất của độ tuổi dễ chòng chành bởi bến tình yêu và đặc
biệt là tình yêu của người thiếu nữ - kẻ bị “mất tiếng nói” trong xã hội xưa:
“Má đào phai hết bởi xuân qua” (Bài 231)
“Kịp xuân mựa để má đào phai” (Bài 230)
Xuân tình rực thắm trên má đào thiếu nữ thủa xuân đương như thôi thúc, bừng
thức một khao khát yêu của khách hồng nhan. Tiếng đàn xuân vang lên như giục giã,
như níu giữ mùa xuân, kéo dài tuổi trẻ:
“Lầu hồng có khách cầm xuân ở
Cầm ngọc tay ai dắng dỏi thêm” (Bài 200)
Tâm trạng của người con gái đang yêu được Nguyễn Trãi nói hộ đầy ý nhị kín
đáo nhưng không kém phần tình tứ. Dù không phải một tình yêu trọn vẹn nhưng người
con gái đã bật lên được những thổn thức khổ sầu, tiếc nuối với tình yêu:
“Vì ai cho cái đỗ quyên kêu
Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.
Lại có hoè hoa chen bóng lục
Thức xuân một điểm não lòng nhau.” (Bài 197)
Sợi tơ tình của người thiếu nữ trở nên mỏng manh, tinh tế hơn trong thơ Ức
Trai, tiếng quốc gọi hè mới vang lòng dạ người con gái bỗng rối bời tiếc thủa xuân qua
“Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu”. Không chỉ hoài tiếc tuổi xuân, người con gái
trong thơ Nguyễn Trãi cũng có cái xuyến xao, e ấp của buổi yêu ban đầu:
“Lầu xanh từ thấy khách thi nhân
56
Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân.” (Bài 210)
Câu thơ gợi nhắc chuyện tình của trang tài tử giai nhân, say đắm ngay từ cái
nhìn đầu tiên. Câu thơ Nguyễn Du đến sau cũng cùng mối tương cảm:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.” (Truyện Kiều)
Người phụ nữ vốn mang thân hèn phận mọn trong xã hội phong kiến nên họ
không thể thổ lộ tình yêu:
“Yêu anh chẳng dám nói ra
Sợ mẹ bằng đất sợ cha bằng trời” (Ca dao)
Điều cấm kị trong xã hội nhưng Nguyễn Trãi đã nói bằng tất cả những khát
khao chính đáng, những rung động thành thực nhất trong tâm hồn yêu đương của
khách giai nhân với cả tấm lòng ưu ái. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn trực diện
bộc bạch lòng mình và hình như thi nhân đã đi quá xa cái vòng cương tỏa hà khắc của
lễ giáo Nho gia. Những cảm xúc riêng tư, tưởng khó nói thành lời nhưng mượn thể tỉ
trong ca dao dân gian thi nhân đã diễn đạt chân thành, sâu sắc:
“Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ
Cả lòng mượn lấy đắp hơi cùng” (Bài 208)
Và đôi khi trỗi thức một khát khao, ấp ủ một vọng tưởng về “bức tình thư”còn
phong kín:
“Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem” (Bài 236)
Táo bạo hơn cả là thái độ sống vượt thời của nhà thơ. Nuối tiếc tuổi trẻ qua đi,
tình yêu đến khi mình không còn xuân là tâm trạng rất trần tục của mỗi con người
Nguyễn Trãi không hề che đậy, giấu giếm:
“Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình” (Bài 202)
57
Trong xã hội con người chỉ biết sống với bổn phận, hơn nữa một con người suốt
đời trăn trở nỗi “quân thân chẳng khứng nguôi”, cũng từng ngẫm “Sắc là giặc đam làm
chi” vậy mà không hề hổ thẹn đề cập chuyện “hoa hoa nguyệt nguyệt”. Đây chính là
bước đột phá trong thơ Nguyễn Trãi, người đã đặt những viên gạch móng đầu tiên để
sau này làng thơ Việt có những thành trì trường thiên tình yêu của Nguyễn Du, Đặng
Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều và Hồ Xuân Hương. Xin mượn lời Tế Hanh thay cho
những điều muốn nói về khao khát tình yêu, hạnh phúc trong “Quốc âm thi tập”:
“Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên của ta nói đến tình yêu của mình mà không phải núp
dưới một câu chuyện tình của người khác. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ quốc âm
khai sơn phá thạch mà còn là nhà thơ đầu tiên, nhân vật lịch sử đầu tiên của dân tộc
dám nói lên tiếng nói của lòng mình”.
Những con người tài năng, bản lĩnh luôn muốn khẳng định mình. Dẫu cái tôi cá
nhân chưa bao giờ được thừa nhận trong xã hội phong kiến, nhưng trong một khía
cạnh nào đó Nguyễn Trãi không chịu bó buộc trong khuôn thước Nho giáo mà luôn tự
mở rộng, thể hiện một cái nhìn cởi mở, dân chủ, đa phương. Sự dung hòa giữa khát
vọng cống hiến của con người phận vị với khát vọng của một con người cá nhân rất
đỗi trần tục chính là điểm đáng ca ngợi trong con người và trong thơ Ức Trai.
2.2. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với gia đình
Nền tảng của xóm làng, quốc gia bắt nguồn từ gia đình. Người Việt Nam ta rất
coi trọng mối quan hệ, ứng xử với người thân trong gia đình: “Chết cả đống, còn hơn
sống một mình” (Tục ngữ). Hay “Thà ăn bắp hột chà vôi/ Chẳng thà giàu có mồ côi
một mình” (Ca dao). Vì thế ai cũng trọng tổ tiên dòng tộc: “Con người có tổ có tông/
Như cây có cội như sông có nguồn” (Tục ngữ). Và cố gắng phấn đấu để làm rạng danh
dòng họ, gia đình: “Một người làm quan cả họ được nhờ” (Thành ngữ). Đặc biệt, tư
tưởng “phụ hệ”, “trọng nam” của văn hóa trung đại cũng chi phối đến cách ứng xử
trong gia đình. Người chồng, người cha luôn đóng vai trò trụ cột trong gia đình “Con
có cha như nhà có nóc” (Ca dao), thậm chí quy tác đến người phụ nữ buộc họ phải
tuân thủ đức “tam tòng” phụng sự người nam: Tại giá tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu
tử tòng tử. Chính nền tảng ứng xử ấy đã ảnh hưởng không nhỏ đến cách ứng xử của
Nguyễn Trãi đối với những người thân yêu trong gia đình: với cha, với vợ, với con.
Nhưng vì tư tưởng “quân - thân” trong thời kỳ phong kiến luôn đi liền nhau nên chúng
58
tôi xin để lại cách ứng xử của Nguyễn Trãi với cha trong mục ứng xử với bậc quân
thân và chỉ xin được đề cập mối quan hệ ứng xử của Nguyễn Trãi với vợ, với con.
2.2.1. Suy nghĩ “yên nhà nỡ phụ vợ tao khang”
Xã hội phong kiến phụ quyền “Trọng nam khinh nữ”. Có thể nói chưa bao giờ
thân phận người phụ nữ lại bị rẻ rúng đến thế. Văn hóa Á Đông nói chung và văn hóa
Việt Nam nói riêng giáo dục người phụ nữ “im lặng”, chính vì thế mới có hiện tượng
“người phụ nữ mất tiếng nói” trong xã hội cũng như trong văn học. Đến tận thế kỉ
XVIII và đầu thế kỉ XIX, do ảnh hưởng của lịch sử, xã hội dẫn đến xu hướng giải
phóng tình cảm, cảm xúc và ra đời hàng loạt các tác phẩm lên tiếng, bênh vực người
phụ nữ: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Cung
oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương…Tuy nhiên, từ thế kỉ
XV, trong “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Trãi đã thể hiện tình yêu, thái độ trân trọng đối
với người phụ nữ qua những câu thơ viết về thê tử của mình:
“Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái
Lại chẳng nên mặt tối mày tăm” (Gia huấn ca)
Đó không chỉ là phương thức ứng xử đối với người vợ thân yêu mà còn là quan
điểm sống đầy tính nhân văn, tiến bộ của Nguyễn Trãi so với thời đại.
Nguyễn Trãi làm quan, nhưng có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình được sung
túc, giàu sang thậm chí không muốn nói là khốn khó. Bao nỗi nhọc nhằn, toan lo cuộc
sống dồn lên đôi vai người phụ nữ. Hiểu được gia cảnh ấy, Nguyễn Trãi luôn giành
những lời an ủi, động viên thê thiếp của mình:
“Giàu nhiều của con chẳng có
Sống hơn người mệnh khó khăn
Hễ kẻ danh thơm hay được phúc
Mấy người má đỏ phải nhiều lần” (Bài 175)
Quan niệm “Đông con hơn nhiều của” đã ăn sâu vào tâm thức người Việt,
Nguyễn Trãi lấy đó để động viên thê nhi trong cảnh nghèo. Con là của, là lộc trời ban.
“Danh thơm” là “phúc” đâu cần chức tước cao sang, cũng như tham gì hồng nhan để
cuộc đời lận đận. Mà biết đâu, sống bần vi cũng là thứ may:
59
“Của nhiều sinh chẳng được con hiền
Ngày tháng công hư chực lỗ tiền” (Bài 186)
Những người tham của chỉ nhọc tâm vì tiền bạc, chẳng mấy ai để ý đến con.
Nên nghèo tuy khổ nhưng đổi lại dạy dỗ con cái giữ được nết “hiền”. Nhắn nhủ thê
thiếp nhưng Nguyễn Trãi lại nhắc đến con. Bởi xã hội phong kiến, phụ nữ là người
“phục tùng bền bỉ” trong gia đình. Niềm quan ái lớn nhất của người phụ nữ là chồng
và con. Hiểu được tâm tư ấy, Nguyễn Trãi đã để con cái - niềm hạnh phúc trong bổn
phận, làm liều thuốc đắp lên vết thương nhọc nhằn, toan khổ của người phụ nữ. Đạo
đức cũng là điều Nguyễn Trãi tìm thấy và trân trọng ở những người vợ của mình.
“Gia tài ấy xem hèn hạ
Đạo đức này khá chính chuyên” (Bài 186)
Cũng như Nguyễn Trãi, vật chất không phải thứ họ coi trọng hàng đầu. Đây là
điểm đáng quý mà Nguyễn Trãi thấy cần trân trọng như “đạo đức chính chuyên” của
người phụ nữ. Trân trọng hơn nữa là đức hy sinh:
“Phận tuy rằng khó miễn yên lòng” (Bài 56)
Cam chịu, hy sinh, một lòng phụng sự chồng con là bổn phận hằng ngày của
người phụ nữ trong xã hội xưa. Không xem đó như nghĩa vụ mặc nhiên mà thờ ơ, bàng
quan, ngược lại Nguyễn Trãi rất cảm thông, trân trọng. Đặc biệt phút giây thảnh thơi
bên thê tử với Nguyễn Trãi như “khắc cầm” đáng giá nghìn vàng:
“Chè thủa tiên thì mình kín nước
Cầm khi đàn khiến thiếp thiêu hương” (Bài 71)
Huống chi, cuộc sống khốn khó, nói như Tú Xương là “làm quan ăn lương vợ”,
vị quan tại gia họ Nguyễn tri ân người “đồng hành thầm lặng” đã cùng mình đi qua
những thăng trầm cuộc đời:
“Kết bạn mựa quên người cố cựu
Yên nhà nỡ phụ vợ tao khang” (Bài 129)
60
Tình nghĩa “Tao khang chi thê” làm sao nỡ phụ. Nguyễn Trãi dù có đến năm
người vợ, nhưng hiểu tâm lý của bậc nam nhi nên ông lựa lời mà vỗ về thê thiếp của
mình. Hơn cả sự cảm thông, đó là lòng trân trọng, yêu thương của Nguyễn Trãi:
“Kim ngân ấy của người cùng muốn
Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa
Thế sự trai yêu thiếp mọn
Nhân tình gái nhớ chồng xưa” (Bài 179)
Và Nguyễn Trãi cố gắng khuyên nhủ vợ con sống sao để giữ nếp nhà “hòa
thân” lẫn “hòa tâm”:
“Nẻo đua khí huyết quên nhân nghĩa
Hòa thất nhân tâm nát cửa nhà” (Bài 191)
Vai trò trụ cột của một người chồng trong gia đình Nguyễn Trãi đã làm trọn. Dù
không mang lại một cuộc sống sung túc, đầy đủ về vật chất nhưng ông đã bù trì cho
thê tử của mình bằng niềm cảm thông, sự quan tâm chia sẻ, lòng trân trọng, biết ơn.
Hình ảnh người phụ nữ trong gia đình với Nguyễn Trãi không còn bị xem nhẹ. Đây
chính là một bước tiến trong nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Trãi so với thời đại và
mang đậm tính nhân văn. Để sau này, Tú Xương dám cất lên tiếng chửi đời, quay lưng
lại với lề thói của xã hội mà ôm ấp, vỗ về thê tử:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
(Thương vợ - Trần Tế Xương)
2.2.2. Con – mối quan ái sâu sắc
Trong cuộc phỏng vấn với Dailymail - Bill Gates – người đang sở hữu số tài
sản khổng lồ nhất nhì trên thế giới, về việc để lại số tiền cho những người con của
mình ông đã vui vẻ trả lời. Mỗi con của ông sẽ nhận được số tiền là 10 triệu USD. “Số
tiền đó sẽ đảm bảo cho chúng được ăn học đến nơi đến chốn và chắc chắn sẽ giải quyết
được bất kể vấn đề gì liên quan đến sức khỏe. Tuy nhiên để có thu nhập, chúng sẽ tự
phải lựa chọn cho mình một công việc để làm giống như bất kỳ những người trưởng
61
thành khác”. Đó là tư tưởng cấp tiến, thức thời của những bậc làm cha luôn ý thức
được vai trò và trách nhiệm của mình.
Người cha luôn là rường nóc của gia đình, ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình
thành nhân cách của con. Hiểu được trọng trách ấy, Nguyễn Trãi luôn tâm niệm dạy
con là trọng trách của người làm cha làm mẹ, và có cách dạy dỗ sao cho hợp với thế
cảnh gia phong:
“Sinh con thì dạy thì nuôi
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn” (Gia huấn ca)
Cả đời Nguyễn Trãi làm quan, tưởng những giàu sang phú quý, tích công danh,
vàng bạc để cháu con nhưng không phải. Sống và giữ gìn phẩm cách trong cái nghèo
là bài học đầu tiên ông dạy lại cho con. Nói các khác là dạy con ứng xử với tiền bạc:
“Có của hằng cho lại có thông
Tích nhiều con cháu nõ trông” (Bài 130)
Có của thì cho đi, rồi sẽ được thêm, không phải chờ sự báo ân, đền nghĩa mà để
con cháu khỏi trông bởi dân gian cũng dạy “Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào” (Tục
ngữ). Đừng vì những thứ nhãn tiền, bạc vàng trước mắt, đừng trông đợi vào ai bởi:
“Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non” (Bài 149)
Không nên dựa dẫm, ủy thác vào người khác. Sống phải bước vào đời bằng
chính đội chân của mình. Câu thơ thấp thoáng bóng dáng câu thành ngữ “Tay làm hàm
nhai tay quai miệng trễ”. Phải chăng tự lập là điều Nguyễn Trãi muốn dạy lại cho con.
Muốn cuộc sống yên ổn phải có nghề trong tay, phải học hỏi và làm việc:
“Nghề nghiệp cầm tay ở mới cam
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm” (Bài 173)
Nhưng trong nghề nghiệp phải giữ nếp thẳng thật, làm việc chân chính, không
vì lòng tham mà làm việc bất nghĩa:
“Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa
Mựa tây mặt khín lẫn lòng đam” (Bài 173)
62
Dạy con cái tự thân lập nghiệp, giữ lòng thanh sạch trước lợi danh, tiền bạc.
Còn tình nghĩa, Nguyễn Trãi dặn gì cháu con? Nguyễn Trãi dạy con xây cho vững nền
móng tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là cội rễ của mọi tình cảm. Một con người
không biết yêu thương những người thân thích trong gia đình thì sẽ không thể yêu
thương đồng loại:
“Thương vì thân thích nghĩa chân tay
…
Hoạn nạn phù trì huynh đệ bay” (Bài 145)
Bằng vốn sống, Nguyễn Trãi đã chỉ cho con tình cảm nào cũng cần những thử
thách. Khi giàu sang phú quý, không quen thân cũng có thể đối đãi như họ hàng nhưng
khi hoạn nạn cơ hàn, khó khăn vẫn bên ta, là người đến với ta khi tất cả đã bỏ ta đi, đó
mới thực là tình “huynh đệ”:
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần” (Ca dao)
Bởi anh em tình như “thủ túc”, cùng cha mẹ phải đối đãi với nhau cho đúng đạo:
“Ai trách hiềm cây lại trách mình
Vốn xưa một cội thác cùng cành” (Bài 151)
Câu thơ gợi nhớ đến Tào Thực, người từng viết lời xương máu về tình anh em:
“Chử đậu trì tác canh,
Lộc thị dĩ vi trấp,
Cơ tại phủ há nhiên.
Đậu tại phủ trung khấp,
Bản tự đồng căn sinh,
(Đun đậu nấu làm canh,
Lọc đậu để lấy nước.
Cành đậu đốt ở dưới nồi,
Hạt đậu ở trong nồi khóc.
Vốn từ một gốc sinh ra,
Sao lại đốt nhau khốc liệt như vậy?) (Thất bộ thi )
Tương tiễn hà thái cấp”.
63
Anh em phải yêu thương, đùm bọc nhau, không vì mối riêng tư nào mà tàn sát
lẫn nhau. Hơn cả tội ác, đó là sự bất nghĩa, bất vong. Sống đúng đạo nghĩa là điều thứ
hai Nguyễn Trãi dạy lại cho con.
Người cha mẫu mực ấy cũng không quên dạy con ứng xử với tài và đức:
“Tài đức thì cho lại có nhân
Tài thì kém đức một vài phần” (Bài 174)
Tư tưởng Nguyễn Trãi được Hồ Chí Minh kế tục trọn vẹn: “Có tài mà không có
đức là người vô dụng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Hồ Chí Minh đề
cao con người cần có cả tài và đức nhưng với Nguyễn Trãi nếu phải chọn giữa đức và tài
thì đức cần xếp lên đầu – là do quan niệm của xã hội phong kiến đề cao con người đạo
đức. Con người lấy đức làm gốc, thi lễ theo đức thì sẽ không có chuyện phải trái, đúng sai,
xã hội sẽ tốt đẹp. Nguyễn Trãi đã nêu gương cho con bằng cả một đời dùng tài trí của
mình phò vua giúp nước, một đời lo gìn giữ “đức nhân” của mình với “hiếu thảo lẫn trung
cần”. Đó là gia phong nết đất Nguyễn Trãi muốn truyền lại cho con.
Giữa thế gian đua chen tình người tạnh vắng, ngẫm ngợi về nghĩa tình như
Nguyễn Trãi còn mấy ai. Dẫu bận chuyện quốc cố dân an, nhưng Nguyễn Trãi không
bỏ qua bổn phận giữa đời thường – một người cha như giường nóc nếp nhà, như tấm
gương sáng cho con cháu noi theo. Khi cả xã hội chạy theo đồng tiền, những người
làm cha làm mẹ đôi khi quên mất trách nhiệm của mình mà chỉ lo kiếm tiền, lo cho
con cái một cuộc sống giàu sang, no đủ mà quên mất dạy con cách sống cho đúng chữ
NGƯỜI. Liệu rằng ai đó hôm nay sống thanh như Nguyễn Trãi “Bạc mai vàng cúc để
cho con”; còn một mối quan ái như Nguyễn Trãi “Trồng cây đức để con ăn”?
2.3. Phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi với cộng đồng
2.3.1. Với láng giềng, bầu bạn
Người Việt Nam vốn coi trọng văn hóa làng xã. Ngoài những người thân yêu
trong gia đình thì mối quan hệ chi phối lớn đến tâm lý và phương thức ứng xử của con
người là quan hệ làng xã. Đôi khi còn là hạt nhân quyết định cách ứng xử trong cộng
đồng “Phép vua còn thua lệ làng”. Làng xã là nơi phân định danh dự, thừa nhận ngôi
thứ của con người: “chiếu trên, chiếu dưới” hay “Một miếng giữa làng còn hơn một
64
sàng xó bếp”. Vì quan hệ mang tính chất quyết định ấy nên người Việt luôn vun đắp
tình làng, nghĩa xóm. Duy tạo mối quan hệ tốt đẹp với hàng xóm láng giềng “Bán anh
em xa mua láng giềng gần”. Đó là truyền thống văn hóa của dân tộc. Nguyễn Trãi
cũng chăm chút cho mối quan hệ ấy khi lui mình về ở ẩn. Tự nhủ mình phải biết “yêu
trọng người dưng” bởi đó là “của cải”, là sự giàu có của mình:
“Yêu trọng người dưng là của cải” (Bài 145)
Về làm bạn với nhân dân, sống giữa nhân dân cần coi họ như tri âm, tri kỉ:
“Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ
Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân” (Bài 102)
Với những người quanh mình nên ăn ở rộng rãi. Người Việt ta quan niệm con
người cũng như loài chim “Trú khi nay, bay khi khác”, “Sông có khúc người có lúc”
nên phải biết “Thương người như thể thương thân”, của đem cho người khác là của
còn “Của biếu là của no, của cho là của nợ”…Nguyễn Trãi lấy đó làm lẽ ứng xử với
xóm giềng:
“Của thết người là của còn
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon
…
Chớ lấy hại người làm ích kỉ” (Bài 149)
“Có của cho người nên rộng miệng
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày” (Bài 171)
Thân tình, rộng rãi, quan tâm hàng xóm láng giềng là tốt, nhưng chớ đi sâu vào
đời tư của kẻ khác, không nên “đôi co” chuyện trong xóm ngoài làng:
“Việc ngoài hương đảng chớ đôi co” (Bài 171)
65
Nguyễn Trãi đã khẳng định lòng người quanh co như ruột ốc nên mối quan hệ
giữa con người với con người vốn phức tạp. Và đôi khi cứ cho đi chắc gì đã mong
nhận được. Nên kết bạn láng giềng cần chọn chốn mà chơi:
“Lân cận nhà giàu no bữa cám
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại
Kết với người khôn học nết khôn” (Bài 148)
Ca dao xưa từng dạy:
“Chơi thì chơi chốn cho thanh
Dẫu rằng lộ tiết nhưng danh để đời” (Ca dao)
Tục ngữ xưa đã đúc kết: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tư tưởng ấy
Nguyễn Trãi đã kế thừa trọn vẹn khi xác lập mối quan hệ với láng giềng. Hơn cả là nết
ở biết cương biết nhu sao cho hòa thuận đẹp cả đôi đường:
“Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp
Cương nhu cùng biết hết hai bên” (Bài 142)
Suy cho cùng, giữ tình thân với xóm giềng cũng là cách ứng xử theo “lễ” của
đạo Nho để đạt được chữ “hòa”. Phương thức ứng xử lấy “thân” làm trung tâm; gia
đình làm gốc, láng giềng làm tán của Nguyễn Trãi đáng để cho chúng ta ngày nay học
tập. Thế giới phẳng với sức mạnh của công nghệ, con người ngày càng đóng khép các
mối quan hệ láng giềng. Thật lạ lẫm khi bước chân vào một khu phố và hỏi thăm, đến
hàng xóm sát ngay “nách tường” nhưng không hề biết nhau, cuộc sống hiện đại có quá
nhiều thứ đáng bận tâm nhưng những thứ xung quanh mình ta lại quên mất. Bệnh vô
cảm từ đâu mà ra? Nó trở thành “nan y” của con người hiện đại? Thiết nghĩ bài học xử
thế của Ức Trai tiên sinh hôm nay vẫn vẹn nguyên giá trị!
2.3.2. Với “đồng bào cốt nhục”
Trong số những học trò của Khổng Tử có nhiều người thành đạt tiếng tăm như:
Hữu Tử, Tăng Tử, Bốc Thương, Tử Cống, Tử Trì…Sở dĩ có được thành quả ấy một phần
bởi Khổng Tử luôn dạy học trò cách ứng xử với nhân dân. Cần hiểu được vai trò, vị trí
66
của dân trong một quốc gia “Quân vi khinh, dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Trên cơ sở trọng
dân mà Khổng Tử đề xuất đường lối "Đức trị”. Khổng Tử quan niệm: "Làm chính trị (trị
dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác
đều hướng về". Trước sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng
hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng
đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại
theo đường chính". Ông cũng coi trọng việc dưỡng dân hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả
việc giáo hoá dân. Dưỡng dân còn phải biết "sử dân dĩ thời" - khiến dân làm việc phải hợp
thời, vừa thể hiện sự nhân đạo trong chính sách trị dân, vừa là bổn phận của người cầm
quyền. Ảnh hưởng sâu sắc quan niệm trị dân của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã có cách ứng
xử của vị quan đầy trách nhiệm, “ăn lộc” của dân, chịu ơn dân, chăm lo dân như “con đen
con đỏ”, tiếp nối chí nguyện dở dang của cha mình:
“An đắc thử thân như thác lược,
Như phong khư biến cửu châu tâm.”
(Mong sao thân này được như cái ống bễ,
Thổi ngọn gió hoà khắp lòng người chín châu.)
(Xuân hàn – Nguyễn Phi Khanh)
2.2.3.1. Tri nhận vai trò tối trọng của nhân dân trong quốc gia
Ghi nhớ lời truyền chốn nhân gian “Quan nhất thời, dân vạn đại” (Thành ngữ),
Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định: “Làm lật thuyền mới thấy dân như nước”. Sinh
thời, khi ra đầu quan dưới triều Hồ, Nguyễn Trãi thấy được những cấp sách tiến bộ
mong chấn hưng đất nước của Quý Ly. Nhưng khi triều Hồ để mất nước, Nguyễn Trãi
đã nhìn ra nguyên cớ sâu xa của thất bại là “Có nước mà không có dân”. Bài học lịch
sử ấy Nguyễn Trãi đã vận dụng trong suốt cuộc đời làm quan, lấy lợi ích của dân là
kim chỉ nam cho mọi hành động, làm sao để nhân dân bốn cõi thái bình:
“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo”
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo) (Bình Ngô đại cáo)
67
Bởi nhân dân trong cùng một đất nước không phải là người dưng, họ đều là
những người anh em, “đồng bào”, “cốt nhục”:
“Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền
Cành bắc cành nam một cội nên” (Bài 142)
Câu chuyện về bọc trăm trứng, mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân khẳng định
tình nhân dân “cốt nhục”. Yêu thương nhau là bổn phận những người dân trong một
nước như “nhiễu điều phủ lấy giá gương” (Tục ngữ). Nhưng làm quan còn phải biết
chăm lo cho dân bởi “quan chi phụ mẫu”:
“Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách
Đem dân mựa nỡ mất lòng dân” (Bài 175)
Để mất lòng dân có thể dẫn đến mất nước là điều lịch sử đã chứng minh. Nên
cần yêu trọng, tri ân với dân bởi họ là những người đã gieo sự sống:
“Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày” (Bài 146)
Quan điểm này của Nguyễn Trãi đã đi ngược lại quan điểm chung của xã hội
phong kiến. Vua quan được coi như bậc thiên tử, cha mẹ của dân, sinh ra dân. Nhưng
với Nguyễn Trãi có dân thì mới có vua, có dân mới có nước, thậm chí nhân dân là
người mang lại nguồn sống, là người ban “lộc” của quốc gia. Thế mới thấy hết sự ưu
ái của vị quan họ Nguyễn với nhân dân. Đó vẫn là bài học còn nguyên giá trị với
“chăm dân” thời hiện đại.
2.2.3.2. Mong ước “dân giàu đủ khắp đòi phương”
Cả một đời Nguyễn Trãi sống với lòng trung nhưng suy cho cùng, lòng trung ấy
không phải vì sự cầu cạnh niềm riêng cho bản thân, cũng không phải lòng trung hạn
hẹp chỉ biết đến vua. Lòng trung ấy xuất phát tự đáy lòng với một ham muốn tột bậc
cho nhân dân sống một đời thái bình, ấm no và hạnh phúc.
Làm quan, điều đầu tiên cần quan tâm là chính sách, đường lối cai trị dân.
Người xưa có câu “Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Thành ngữ), vua quan không
làm tròn bổn phận của mình thì dân không phục. Là tín đồ đạo Nho, đường lối cai
68
trị nhân dân của Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu đậm học thuyết của Khổng Tử.
Khổng Tử cho rằng cứu giúp dân chúng là nhiệm vụ hàng đầu của vua quan. Không
gì ý nghĩa bằng việc làm cho dân giàu mạnh, có cuộc sống no đủ. Việc dưỡng dân
được Khổng Tử làm trước cả việc bảo vệ xã tắc và việc giáo hóa dân bằng pháp trị.
Mạnh Tử cũng coi trọng đường lối “nhân chính”: sức mạnh nhân nghĩa và coi trọng
dân. Dân vốn là gốc nước, có dân mới có nước, có nước mới có vua. Kế thừa quan
điểm ấy, Nguyễn Trãi khẳng định:
“Trị dân sơ lập cho lòng chính” (Bài 137)
Với Nguyễn Trãi, trong việc thi ứng với dân các bậc vua chúa cần giữ cho được
“lòng chính” – ngay thẳng. Nói thì giản đơn, nhưng để làm được điều ấy đâu dễ. Nhất
cử nhất động không thể đặt lợi ích của bản thân lên trên. Thậm chí quên mình mà lo
cho an nguy của xã tắc. Muốn “quốc phú binh cường” thì việc đầu tiên phải đem lại lợi
ích cho nhân dân:
“Quốc phú binh cường chăng có trước
Bằng tôi nào thủa ích chưng dân” (Bài 37)
Quan phải biết lo cho dân, việc gì có ích cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân
thì thôi. Nếu có giặc dã, chiến tranh, thì việc đầu tiên cần làm là lấy lại nền thái bình
để nhân dân “an cư lạc nghiệp”.
“Khong khảy thái bình đời thịnh trị
Nghiệp khai sáng tựa nghiệp trung hưng” (Bài 178)
Sự luân phiên các triều đại đã cho Nguyễn Trãi thấm thía bài học lịch sử. Dù là
“nghiệp khai sáng”, hay “nghiệp trung hưng” để kết quả tốt phải lấy dân làm gốc.
Muốn vậy, cần vua sáng, tôi hiền:
“Rày mừng thiên hạ hai của
Tể tướng hiền tài chúa thánh minh” (Bài 65)
Nhân dân bốn cõi thái bình, no ấm coi như sở nguyện một đời Nguyễn Trãi đã
thỏa, chẳng còn mong ước gì hơn:
69
“Vua Nghiêu Thuấn dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền” (Bài 74)
“Ngàn nọ so miền Thái Thạch
Làng kia mở cảnh Tiêu Tương” (Bài 42)
“Mọi sự đã chăng còn ước nữa
Nguyện xin một thấy thủa thăng bình” (Bài 107)
Không ít lần Nguyễn Trãi nhắc đến Nghiêu Thuấn - triều đại lý tưởng mà ông
ước mơ để nhân dân khắp muôn phương được sống “giàu đủ”:
“Dẽ có ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Bài 170)
Tình yêu nhân dân của Nguyễn Trãi kể sao cho xiết, một vị quan coi dân như
“bậu bạn , như “con đỏ”, một đời lo cho an nguy của xã tắc, cùng khóc cười với buồn
vui được mất của thiên hạ. Thiết nghĩ chẳng ai sinh ra đã là “quan” mà họ trở thành
“quan”. Điều kiện cần và đủ là khả năng dám nghĩ, dám làm, dám đấu tranh không
khoan nhượng vì cuộc sống no ấm, thanh bình của nhân dân.
2.3.3. Với bậc quân thân
Trong phần ứng xử với những người thân trong gia đình, chúng tôi xin được để
lại mối quan hệ ứng xử của Nguyễn Trãi với cha ở bổn phận làm con bởi rất nhiều lí
do. Thứ nhất, ứng xử “cha – con” thuộc phạm trù của phép “tam cương” mà ở chế độ
“nam quyền”, vua – cha là mối quan hệ song hành. Thứ hai, nếu quan hệ ứng xử với
“thê tử” mang tính chất hướng nội, trong gia đình thì mối quan hệ “cha – con” lại
mang tính chất hướng ngoại, chịu sự quy tác của hệ tư tưởng chính thống thời phong
kiến. Vì thế, trong “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Trãi đã 20 lần (Phụ lục 5) đồng thời
nhắc đến vua – cha, quân – thân, trung – hiếu như một minh chứng cho hệ tư tưởng
“Quốc – Gia; Nước - Nhà” thời phong kiến.
70
2.2.4.1. Tư tưởng trung quân “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”
Đặt hàng đầu trong phép “tam cương” của Nho giáo là mối quan hệ vua – tôi.
Yêu cầu cơ bản nhất của bề tôi là “trung” với vua, và quan niệm xuyên suốt, như
chuẩn mực hành xử của Nho giáo: “Quân trung không thờ hai chủ”, “Tôi sáng không
thờ hai vua”. Nếu thời bình, vua sáng, ắt sẽ có tôi hiền một lòng phụng sự. Nếu thời
loạn, vua chúa “vô minh” thì các bậc trí giả sẽ “bảo trung” bằng cách lánh đời, ở ẩn
trong ngòi khe, không tham gia chính sự. Nếu có sự thay đổi các vương triều, thì bậc
trí giả có thể “tuẫn tiết” theo vua để bảo toàn lòng “trung”, hoặc không hợp tác cùng
triều đại mới để giữ trọn đạo làm tôi. Điểm chung của các bậc trí giả là “cố kết” giữ
cho được lòng trung thanh sạch, không vấy bẩn danh tiết bề tôi. Với Nguyễn Trãi, nếu
lấy thước đo của xã hội phong kiến áp vào ta thấy sự đảo lộn cương thường, mối quan
hệ quân - thần, vua – tôi ngàn đời bị phá vỡ. Ông cha làm quan nhà Trần, nhưng khi
triều Trần mạt vận, Hồ Quý Ly bức Trần lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi sẵn sàng đầu
quan nhà Hồ. Hành động ấy của Nguyễn Trãi đã đi ngược lại quan điểm chính thống
của Nho giáo. Và sau khi nhà Hồ thất vận, Nguyễn Trãi tiếp tục đầu quân cho Lê Lợi,
để khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thành công, lập lên nhà Lê, ông lại đứng vào hàng
“công thần khai quốc”. Không đi ở ẩn, không tuẫn tiết, không hô hào, tập hợp nghĩa
quân phục Trần, phục Hồ…Xét theo khía cạnh nào thì “chuẩn mực” của một bề tôi
“trung” của xã hội phong kiến Nguyễn Trãi cũng không đạt chuẩn.
Trước những “ngã ba của lịch sử” và thời đại, lựa chọn nào của tiên sinh họ
Nguyễn cũng là biểu hiện của một bề tôi trung, sáng suốt, chứ không phải bậc ngu
trung hay kẻ sĩ ngông cuồng, chạy theo danh lợi, và cũng không phải hàng tiểu nhân
hèn nhát chỉ lo bảo toàn tính mạng. Chữ “trung” của bậc minh triết Nguyễn Trãi cần
được định giá theo một thước đo khác: thức thời, biết chọn vua sáng để thờ, phụng sự
nhân dân, không chấp nhận cách hành xử của kẻ “ngu trung u thế”.
Trung và hiếu trong xã hội phong kiến được coi như phẩm tiết chủ chốt của một
trang nam nhi. Điều này được thể hiện ngay trong cách xưng hô: vua – cha, thiên – tử,
mẫu – hậu…Vì thế nên trung được đặt cạnh hiếu là điều dễ thấy trong “Quốc âm thi
tập”. Cha thì sinh con – đức hiếu ấy làm trọng, vua thì sinh dân – đức trung ấy làm
đầu, đạo làm tôi, làm con Nguyễn Trãi luôn gìn giữ:
71
“Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con thì cảm đức cha” (Bài 39)
Có con mới biết ơn cha nặng
Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều” (Bài 164)
“Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa lẫn ơn cha” (Bài 94)
Trung hiếu không chỉ là lẽ sống của riênh mình, Nguyễn Trãi còn muốn nhân
lên ở tất cả những bậc trung thần. Dân gian từng dạy “con cái không chê cha mẹ
nghèo”, và Nguyễn Trãi cũng quan niệm, tôi trung thì không nệ việc gian truân, không
chê nơi nghèo khó:
“Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu
Ai há liệu nơi thịnh suy” (Bài 100)
Trung hiếu - mục tiêu lớn nhất của đời người, là báu vật, là thước đo lòng quân tử:
“Một niềm trung hiếu làm biêu cả
Hai quyển thi thư ấy báu chôn” (Bài 111)
“Liêm” và “cần” là hai đức tính quý báu của con người giúp ta khỏi lầm đường
lạc lối thì trung hiếu cũng cần như đức chính của bề tôi:
“Liêm cần tiết cả tua hằng nắm
Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời” (Bài 10)
Đỉnh cao nhất của trung hiếu trong con người Ức Trai là tâm điểm của “tấm
lòng son” mà ông hằng gìn giữ:
“Bui có một niềm trung hiếu cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo canh ba” (Bài 158)
72
Là ngọn lửa nóng ấm của đạo “cương thường”:
“Trung hiếu cương thường lòng đỏ
Tự nhiên trọn nghiệp ba thân” (Bài 177)
Dẫu thời gian có trôi qua, dẫu có thăng trầm biến đổi, dẫu những nhọc nhằn, gió
bụi thì điều nằm ngoài sự băng hoại ở Ức Trai là niềm trung hiếu:
“Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Bài 69)
Thể hiện sự tri ân cũng là biểu hiện của lòng trung hiếu. Nguyễn Trãi không một
phút ngơi quên ân đức của bậc quân vương, thánh chúa. Thời phong kiến, vua là “thiên
tử” thay trời hành đạo; “quan chi phụ mẫu” sinh dưỡng muôn dân. Cảm đức ấy, trong
suốt cuộc đời làm quan của mình cũng như khi lui về ở ẩn, Nguyễn Trãi luôn ghi nhớ:
“Bốn dân có nghiệp cùng cao thấp
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng” (Bài 126)
Cũng nhờ ơn vua dân chúng mới được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị:
“Nhờ ơn vũ lộ đà no hết” (Bài 215)
“Trong mặt những mừng ơn bậu bạn
Trên đầu luống đội đất triều đình” (Bài 99)
Cuộc sống xa hoa chốn quyền quý ơn vua, và cả khi sống trong cảnh thanh bần
những ngày ẩn dật, một bè rau muống, một lảnh mùng tơi cũng nhờ ơn vua chúa:
“Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng” (Bài 68)
Cuộc sống thanh nhàn, đạm bạc dầu nghèo khó chỉ là “bát cơm xoa”, là “căn
lều cỏ” cũng do vua chúa ban cho:
“Bát cơm xoa nhờ ơn xã tắc
Căn lều cỏ đội đức Đường Ngu” (Bài 15)
73
Theo Nguyễn Trãi, vạn vật trong tự nhiên được sinh ra, trưởng thành rồi mất đi
không phải do lực lượng siêu nhiên nào, mà do “thiên tử” và được dưỡng trên “đất
thiên tử”. Vua chúa trong quan niệm của Nguyễn Trãi bỗng chốc thành đấng sáng thế:
“Thủy chung mỗ vật đều ơn chúa
Động tĩnh nào ai chẳng bởi thầy” (Bài 25)
Quan điểm ấy của Nguyễn Trãi thiết tưởng đã có thể coi như đỉnh cao của đức
“trung” với vua, đức “hiếu” với cha. Trong triều làm quan cạnh vua, Nguyễn Trãi tỏ
hết lòng trung của mình trong trách nhiệm với việc triều chính. Khi về ở ẩn, Nguyễn
Trãi vẫn canh cánh một nỗi niềm quân thân đến cháy lòng. Khi nào dân chưa an, nước
chưa thịnh, thì vĩ nhân ấy vẫn thao thức chưa yên “nỗi nước nhà”.
2.4.1.2. Món nợ tang bồng - “quân thân chưa báo lòng canh cánh”
Tiễn cha trên ải Nam Quan, gạt đi niềm riêng, khắc cốt ghi tâm mối thù nhà, nợ
nước, từ ấy, chàng trai Nguyễn Trãi đã nung nấu chí nguyện đền ơn vua, báo hiếu cha.
Món nợ như nhọn gai thúc nhói tâm can, canh cánh trong lòng:
“Bui có một niềm chăng nỡ trại
Đạo làm con lẫn đạo làm tôi” (Bài 2)
Vì sao Nguyễn Trãi coi đó là món nợ lớn nhất mình mang trong đời? Ý thức hệ
tư tưởng của xã hội phong kiến, người con trai sinh ra phải biết chuẩn tắc “Tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Báo đáp món nợ quân thân là một phương tiện tất yếu để
làm tròn bổn phận của kẻ nam nhi. Ngày nào còn chưa báo đáp thì còn những lo âu:
“Bui một quân thân ơn cực nặng
Tơ hào chưa báo hãy còn âu” (Bài 30)
“Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy, ơn chúa lẫn ơn cha” (Bài 94)
Xã hội phong kiến đề cao con người bổn phận: ơn trả, nghĩa ghi. Nguyễn Trãi
cũng như các trang nam nhi thời phong kiến những mong làm tròn trung hiếu:
74
“Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời áo cha” (Bài 8)
“Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa
Âu còn nợ chúa cùng cha” (Bài 54)
Bởi bất trung, bất hiếu là tội lớn nhất của con người. Đó cũng là lí do khiến
Nguyễn Trãi mãi vướng chân vào chốn quan trường, không dứt nổi - con đường duy
nhất giúp Nguyễn Trãi báo đáp món nợ quân thân:
“Nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bện dặm thanh vân” (Bài 12)
Ta đã hiểu, vì sao Nguyễn Trãi mãi lăn lộn chốn quan trường, dẫu biết “cửa
quyền hiểm hóc”. Ta cũng hiểu vì sao cả đời Nguyễn Trãi chỉ mong được góp tài hèn
sức mọn của mình để hiến kế giúp vua dẫu có phải “Nếm mật nằm gai” (Bình Ngô đại
cáo); vì sao khi thất sủng, không được vua tin dùng như trước nhưng Nguyễn Trãi vẫn
nấn ná chưa muốn về; và vì sao khi đã lui mình ở ẩn, Nguyễn Trãi vẫn canh cánh trong
lòng nỗi nhớ chúa, thương cha:
“Lòng một tấc đan còn nhớ chúa
Tóc hai phần bạc bởi thương thu” (Bài 43)
“Nhớ chúa lòng còn đan một tấc
Âu thì tóc đã bạc mười phân” (Bài 165)
Nỗi lo, lòng nhớ đeo đẳng Nguyễn Trãi từ khi còn là chàng trai chưa tròn tuổi
đôi mươi đến khi “tóc bạc hai phần” rồi “tóc bạc mười phân”. Chính Nguyễn Trãi đã
từng khẳng định “biến cố khiến người ta mau già”, và chính ông cũng có những đêm
dài “Ngồi ôm chăn lạnh, suốt đêm không ngủ”. Phải chăng, nỗi lòng canh cánh việc
nước nhà khiến cho con người ấy quên ăn quên ngủ:
“Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung” (Bài 68)
75
Để rồi, đến cuối đời, chí nguyện chưa thỏa, Nguyễn Trãi đau đớn nhận ra nỗi
tủi hờn của sự bế tắc, bất lực trước số phận:
“Tóc tơ chưa hề báo thửa sinh
Già hóa lú tủi nhiều hành” (Bài 80)
Nỗi “tủi” của Nguyễn Trãi có khác nào cái “thẹn” đầy tự trọng của các bậc thức
giả, của những nhân cách lớn:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu) (Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.” (Thu điếu – Nguyễn Khuyến)
Mỗi một thời đại lại sản sinh ra một hình mẫu lí tưởng của riêng mình. Thời đại
phong kiến, các trang nam nhi hảo hán được coi như bậc thánh nhân, quân tử. Họ đã
sống và cống hiến đến tận cùng, đi hết kích cỡ của một người hùng trên vũ đài lịch sử
của non sông, đất nước. Họ say sưa, nhiệt huyết với “mùi đạo”, với niềm trung hiếu,
với ý chí lập công danh để để đền ơn cha chúa. Có lẽ chưa ở đâu khát vọng lập công
danh, khát vọng được cống hiến, được phụng sự triều đình, đất nước để báo đáp lòng
trung lại mãnh liệt, thôi thúc, cuồn cuộn, đau đáu như ở con người Nguyễn Trãi –
“Nhất phiến đan tâm chân cống hỏa”. Con người sẵn sàng quên đi những lao khổ của
mình mà cả đời vác trên vai dấu hỏi nặng trĩu làm sao để:
“Vua Nghiêu Thuấn dân Nghiêu Thuấn
Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền”
Tiểu kết
Sự giao thoa của cả ba luồng tư tưởng Nho – Phật – Đạo trong con người
Nguyễn Trãi kết hợp với nền tảng văn hóa ứng xử của dân tộc cũng như những chuẩn
76
tắc ứng xử của xã hội phong kiến đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức ứng xử của
Nguyễn Trãi với môi trường xã hội. Tuy nhiên, dù là ứng xử với bản thân, với những
người thân yêu trong gia đình hay mối quan hệ ngoài xã hội thì Nguyễn Trãi đều có sự
tiếp thu, kế thừa phương thức ứng xử truyền thống nhưng cũng không ít những điểm
đổi mới, thậm chí đi ngược lại quy phạm của xã hội lúc bấy giờ. Điều đó không chỉ thể
hiện nhân cách mà còn là bản lĩnh sống của cái tôi cá nhân dám vượt lên trên khuôn
thước lễ giáo phong kiến để khẳng định bản thân của bậc vĩ nhân Nguyễn Trãi.
Với bản thân mình, Nguyễn Trãi đã chọn cách ứng xử tối ưu nhất để vừa cống
hiến vừa sống với những khát vọng cá nhân rất đỗi thành thực. Dù còn những trăn trở,
day dứt thậm chí là có lúc khốn khó, ngặt nghèo nhưng Nguyễn Trãi đã giữ vững khí
tiết của một nhà Nho liêm cầm, trung, chính và chọn cho mình những lối đi đạt đạo “dĩ
thời” lại “hòa tâm”.
Sự “hài hòa trong bổn phận” ở mọi mối quan hệ là ưu tiên hàng đầu để Nguyễn
Trãi lựa chọn phương thức ứng xử đối với những người xung quanh: Với gia đình là
“rường nóc” của thê nhi; với láng giềng là mối thân tình hòa hảo; với “đồng bào cốt
nhục” thì yêu trọng hết lòng, với bậc quân thân thì trung hiếu chẳng rời. Dù thế cảnh
chẳng chiều lòng người nhưng Nguyễn Trãi luôn tìm mọi cách để hài hòa. Thiết nghĩ,
phương thức ứng xử ấy đến hôm nay vẫn vẹn nguyên giá trị.
77
Chương 3. PHƯƠNG THỨC ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI VỚI
MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP”
Thi ca dân tộc là cả một chặng đường gắn bó với thiên nhiên, hình ảnh thiên
nhiên có mặt ở mọi thể loại. Với văn học dân gian, hình ảnh thiên nhiên đã được nhắc
đến trong mối quan trắc của con người. Thời “ấu thơ” của nhân loại, thiên nhiên ẩn
chứa đầy bí ẩn, khơi gợi trí tò mò, kích thích óc tưởng tượng của con người để rồi nền
văn học thủa “hồng hoang” lấy thiên nhiên làm đối tượng phản ánh ở hầu hết các thể
loại từ trữ tình đến tự sự dân gian. Trong văn học trung đại, vai trò của thiên nhiên
không hề suy giảm, nhưng nó đi vào văn học với “tư cách” mới: từ đối tượng phản ánh
chuyển sang chức năng phản ánh. Qua bút pháp “Tả cảnh ngụ tình”, “Ước lệ tượng
trưng”, thiên nhiên trở thành nhân vật có phân giai tầng, thậm chí là thước đo đánh giá
con người. Con người phần nào được nhìn nhận qua thiên nhiên. Câu thơ Nguyễn Du
tả vẻ đẹp của Kiều như minh chứng quan niệm ấy:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” (Truyện Kiều )
Sở dĩ vai trò của thiên nhiên trong văn học dịch chuyển là do quan niệm của
con người về thiên nhiên đã có sự thay đổi. Văn học trung đại cho rằng thiên nhiên với
con người là quan hệ tương thông: con người là một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ (quan
niệm tam tài: Thiên – địa – nhân). Chính vì thế, con người có khả năng tương giao,
tương cảm với thiên nhiên, nên gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành
nhân vật soi chiếu, phản thấu con người.
“Quốc âm thi tập” là những lát cắt mảnh về đoạn đời mà Nguyễn Trãi lui mình
về ở ẩn đất Côn Sơn, gắn bó với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên. Ảnh hưởng tư
tưởng “nhàn dật” của văn học giai đoạn trước cũng như tư tưởng của trường phái thơ
“Sơn thủy điền viên” trong văn học trung đại, thiên nhiên đã trở thành nhân vật không
thể thiếu trong thơ Ức Trai. Và điều đặc biệt là cả quãng đời tuổi thơ của Nguyễn Trãi
là miền kí ức gắn liền với thiên nhiên đất Côn Sơn, giữa núi rừng, suối nước với đàn
thông. Động Thanh Hư nơi ông ngoại đón cậu bé Trãi về ẩn cư xuất thế. Nên nhớ về
thiên nhiên là cả miền hoài niệm về non nước Côn Sơn trỗi thức và tình yêu thiên
nhiên của thi nhân họ Nguyễn cũng khởi nguyên từ đây. Trong dòng chảy chung về
78
cảm quan của văn học trung đại, Nguyễn Trãi cũng thể hiện rõ phương thức ứng xử
của mình với môi trường tự nhiên trong “Quốc âm thi tập”. Như nhà phê bình Đặng
Thanh Lê đã nhận xét “Thơ thiên nhiên của Nguyễn Trãi kết tinh khá đầy đủ những
khuynh hướng thẩm mỹ của văn hóa cổ điển Việt Nam với đề tài này: nhãn quan tôn
giáo của nhà Phật, tâm trạng thoát ly của nhà Nho, truyền thống yêu nước anh hùng và
cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam” [18,686].
3.1. Thiên nhiên qua con mắt ẩn sĩ
3.1.1. Coi thiên nhiên như tri âm, tri kỉ
Bản tính thanh liêm, trung chính như Nguyễn Trãi thì giữa xã hội bon chen,
thực dụng sẽ ít được lòng yêu của kẻ khác. Thậm chí là sự cô đơn, lạc lõng giữa chốn
quan trường như “một thanh âm trong trẻo chen giữa một bản đàn mà nhạc luật đều
hỗn loạn xô bồ” (Nguyễn Tuân). Khi ấy, thiên nhiên là người bạn trân quý, và dần dà
thành kẻ tri giao. Trong “Quốc âm thi tập”, thiên nhiên như một nhân vật không thể
thiếu khi Nguyễn Trãi muốn bộc bạch nỗi lòng. Điều này lí giải ngược lên phía trên, ta
thấy hình ảnh thiên nhiên xuất hiện với tần số rất nhiều trong tập thơ Quốc âm, phải
chăng lòng Ức Trai còn nhiều uẩn khúc?
Cùng về cư ẩn đất Côn Sơn, sống không mấy xa về thời gian nhưng thiên nhiên
trong con mắt ẩn sĩ Chu Văn An hiện lên với vẻ đẹp tự thân vốn có của nó, không chất
chứa tâm sự như trong thơ Ức Trai:
“Triều hồi, giang địch quýnh,
Thiên khoát, thụ vân đê.
Túc điểu phiên thanh lộ,
Hàn ngư dược bích khê.”
(Nước triều xuống, tiếng sáo bên sông xa vẳng,
Trời rộng, mây là là ngọn cây.
Chim đêm cựa mình trong làn sương trong,
Cá lạnh nhảy trong khe biếc.)
(Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính – Chu Văn An)
79
Cái tôi cô đơn thúc giục Nguyễn Trãi kết mối tri âm với thiên nhiên. Những ngày
làm quan, bận trăm công nghìn việc, thiên nhiên như được cất giấu nơi nào đó sâu thẳm
trong lòng. Đến khi về ở ẩn, thiên nhiên mới ngập đầy trang thơ Ức Trai. Bằng hữu thấy
lui đường quan cũng nhạt dần tình nghĩa, thân thích, láng giềng ngoảnh mặt làm ngơ. Chỉ
có “viên hạc” những nhớ thương, mong ngóng đợi người về kết mối tri âm:
“Trúc mai chăng phụ lòng quân tử
Viên hạc đà quen bạn dật dân” (Bài 60)
“Áng cúc thông quen vầy bậu bạn” (Bài 75)
Cuộc sống thanh bần nơi thôn dã bỏ ngoài tai những tiếng thị phi, đánh bạn
với trúc mai:
“Rủ viên hạc xin phương cởi tục
Quyến mai trúc kết bạn tri âm” (Bài 119)
Những người bạn thiên nhiên không phải mới quen, mà là cố nhân, tri kỷ, để
chỉ nghe hiệu, nhắc tên cũng đủ sưởi ấm cõi lòng:
“Trúc mai bạn cũ họp nhau quen
Cửa mận tường đào chân ngại chen” (Bài 46)
Xa chốn “cửa mận tường đào” lòng thanh thản bao nhiêu thì khi nấn ná lại triều
quan chưa kịp về, lòng quê vẫy gọi ngập chìm giấc chiêm bao:
“Non quê ngày nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thương” (Bài 71)
“Viên hạc” chẳng những không giận hờn mà thấy cảm thương cho những toan
khổ của tri âm chốn quan trường. Chốn phồn hoa “lao xao” Nguyễn Trãi thấy mình
như vị quan lạc mà khi sống giữa mây ngàn nước non quạnh vắng bên ngày tháng
nhàn nhã, tiêu dao sao tiên nhân họ Nguyễn chẳng thấy lẻ loi:
“Vườn chim kết bạn non nước quạnh
Cầm sách cùng nhau tháng ngày trường” (Bài 126)
80
Trong non nước ấy, đã có thiên nhiên làm bạn. Núi non lặng nghe tiếng lòng
quân tử, sừng sững giữa đất trời bỗng chốc hóa tri âm:
“Đại phu non vắng là tri kỉ
Tiên khách nguồn êm ấy cố nhân” (Bài 11)
Tục đã cởi, thế đã thoát, tiêu dao chốn ấy để trở thành “tiên khách” với “cố
nhân”. Một ngôi nhà xếp nếp giữa núi rừng, cánh cửa ngăn vách với thế giới quan
trường ngoài kia nhưng vạn vật cỏ cây thì luôn rộng lòng chào đón. Khách cũng là
chủ, “tôi mình” là một:
“Ngoài cửa mận đào là khách đỗ
Trong nhà cam quýt ấy tôi mình” (Bài 83)
Giống cõi lòng thanh bạch, Nguyễn Trãi chọn trăng, mai để kết bạn, cúc, mây
làm khách:
“Lòng bạn trăng vặc vặc cao” (Bài 167)
“Gác đông ắt từng làm khách
Há những bô tiên kết bạn chơi” (Bài 214)
“Hoa nhẫn rằng đeo danh ẩn dật
Thức còn thông bạn khách văn chương” (Bài 216)
“Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh” (Bài 169)
Có lúc, ẩn nhân họ Nguyễn tự thấy mình như một vị tiên giữa cõi trần – thoát
tục, tiêu dao ngoài thế giới, thổi địch, ngắm trăng:
“Ngày ngày đã có tiên làm bạn
Đưa thuốc tiên lai chẳng phải xin” (Bài 235)
81
“Lều nguyệt đã nghe tiên thổi địch
Non xuân từng bạn khách ăn thông” (Bài 248)
Và cứ thế, đem mình đi cùng non nước, bước qua tuổi nhàn:
“Đem mình non nước nhàn qua tuổi
Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền” (Bài 143)
Vị “thi nhân đạo khách” phỏng dáng “tiên nho” họ Nguyễn đã đến chốn thanh
dã, sống giữa núi rừng, đánh bạn với cỏ cây, non nước để rồi tạm lắng lòng thế sự.
Chúng ta tìm thấy một Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên bằng cả cõi thanh bạch. “Sang
cùng khó” bởi trời, chỉ tình yêu cho mây ngàn, nước bạc, cỏ cây hoa lá thì cái nghèo,
cái khổ cũng không thể làm tiêu tổn, hư hao. Tình yêu ấy đáng để cho con người hiện
đại băn khoăn trăn trở. Nếu không được như tiền nhân “ấp ủ làm cái con” thì thiết nghĩ
con người hôm nay hãy trả lại cho thiên nhiên những gì vốn có.
3.1.2. Tìm đến những thanh thú với thiên nhiên
Hình tượng ẩn sĩ phổ biến trong văn học trung đại phương Đông. Họ có thể
sống ở những đất nước khác nhau, thời đại khác nhau và cũng vì vô vàn những nguyên
do khác nhau mà đi ở ẩn. Nhưng dễ thấy một điểm chung ở họ là tấm lòng, cốt cách
cao khiết. Không thỏa hiệp với cái xấu, không để “lấm lem” chút lòng thanh bạch, họ
đã chọn cuộc sống bần hàn, tiêu dao “ngoài thế giới”.
Loại hình tác giả nhà nho ẩn dật của văn học trung đại Việt Nam (chịu ảnh hưởng
sâu sắc của nhà nho ẩn dật Trung Quốc) với những đại diện tiêu biểu như: Chu Văn An,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Khuyến… Theo
đó là hệ thống những hình ảnh mang tính thi pháp gắn với thú chơi đầy tao nhã của bậc
cao nhân ẩn sĩ: thưởng trà, ngắm trăng, bầu rượu, túi thơ, đánh cờ, thưởng hoa, thả nhàn,
câu quạnh…được xác lập. Trong tập thơ Quốc âm, ta cũng thấy một ẩn sĩ “Tạc tỉnh nhi
ẩm, canh điền nhi thực” (Kích nhưỡng ca) giữa chốn sơn tuyền:
“Khi chén rượu khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”
Trong những thanh thú, thưởng trà thường đi liền với thú thưởng trăng, thưởng
hoa, ngâm thơ, ẩm tửu. Nguyễn Trãi từng thưởng trà như một thú chơi tao nhã giữa
82
chốn lâm tuyền thanh vắng cùng ngắm trăng, thưởng hoa. Trong thơ Nguyễn Trãi,
không mấy khi xuất hiện từ “chè” như một chủ thể đứng độc lập mà thường đi kèm với
các định ngữ: “chè tiên, chè mai”, làm tăng mỹ cảm cho thi ảnh. Lánh thị triều về với
thiên nhiên, cư sĩ họ Nguyễn “Gạn đục khơi trong” bên chén “chè mai”:
“Tìm thanh trong vắt tiễn chè mai” (Bài 2)
Thưởng trà trong đêm đi liền với thú thưởng nguyệt, lãm hoa, khiến trăng như
cao hơn, chè như đượm hơn, hoa như đẹp hơn. Trong đêm thanh tĩnh bừng tỉnh với
chén trà, vầng nguyệt, khóm hoa:
“Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu” (Bài 3)
Có những câu thơ, mà ta thiết nghĩ Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ
thuật ngôn từ thủa tiếng Việt văn học còn đầy những chập chững:
“Khách đến chim mừng hoa sảy rúng
Chè tiên nước kín nguyệt đeo về” (Bài 48)
Câu thơ miêu tả hiện thực nhưng thanh quá: một vị tiên hiền đang an nhiên tự
tại giữa chốn núi rừng, kín nước đêm trăng để pha trà; trên bóng nước ánh nguyệt lồng
hoa, trăng dõi theo rụng xuống tách trà, bỗng nhiên cú thần nhãn tự nảy rơi:
“Chè tiên nước kín in bầu nguyệt
Mai rúng đeo hoa bóng cách song” (Bài 51)
“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bả cây” (Bài 11)
Bên khung cửa sổ đầy ánh trăng, một tiên nhân đang “hớp nguyệt nghiêng
chén”, bên ngoài song cửa nhành mai đeo bóng mình rung động dưới trăng. Cảnh đẹp
chợt đánh thức lòng thơ:
“Tuyết đượm chè mai câu dễ động
Đìa in bóng nguyệt hứng thêm dài” (Bài 59)
83
Một câu thơ gồm đủ thức thanh: thưởng trà, ngâm thơ, lãm nguyệt. Ai thấy
được thú thanh nhàn tự tại đương khi ấy của Ức Trai mà lại nghĩ rằng đó chính là
Nguyễn Trãi khi xưa đã từng “xốc xốc nẻo tam cương”, từng ra vào chốn “cửa quyền
hiểm hóc”, đã từng “tóc bạc mười phân” bởi chuyện thế gian. Hãy lắng lòng để cùng
với thi nhân tạm gác những thế tục tịnh hiềm mà “hứng động” cùng non thanh, nguyệt
bạc với trà tiên.
Không phải ngẫu nhiên trăng lại trở thành bầu bạn, tâm giao, tri kỉ của bậc tao
nhân mặc khách để Nguyễn Trãi cũng không cưỡng lại được sức hút huyền diệu ấy.
Từ xa xưa, Tào Tuyết Cần, trong bộ tiểu thuyết chương hồi kinh điển của văn học
Trung Quốc đã từng viết những vần thơ đầy ám ảnh về trăng:
“Nguyệt quế trung thiên dạ sắc hàn,
Thanh quang hạo hạo ảnh đoàn đoàn.
Thi nhân trợ hứng thường tư ngoạn,
Dã khách thiêm sầu bất nhẫn quan.”
(Đêm lạnh vừng trăng đừng giữa giời,
Tròn xoe trong vắt bóng chơi vơi.
Nhà thơ hứng quá trừng đôi mắt,
Khách ẩn buồn tênh lảng một nơi.)
(Hồng lâu mộng – Tào Tuyết Cần)
Và sau này, thi tiên Lí Bạch với huyền thoại về cái chết đầy mộng tưởng ôm
trăng nhảy xuống dòng nước như minh chứng cho vẻ đẹp mê đắm của trăng, sinh thời,
thi tiên kết tri âm với rượu và trăng:
“Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.”
(Trong đám hoa với một bình rượu
84
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người)
(Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 – Lý Bạch)
Nhưng ai viết “hớp nguyệt nghiêng chén” như Nguyễn Trãi, đó không phải là
câu chữ mà là thần cú. Sự đăng đối giữa các cặp hình ảnh khiến thiên nhiên thanh tao,
thoát tục được xếp liền kề: trúc – suối – mai – trăng kết hợp đầy chất nghệ thuật.
“Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng” (Bài 16)
“Hái cúc ương lan hương bén áo
Tìm mai đạp nguyệt tuyết thâm khăn” (Bài 60)
Phỏng dáng vị tiên nho giữa thôn dã, Nguyễn Trãi vui thú điền viên: khi “hái
cúc, ương lan” thì hương thơm loài hoa ấy bén bện áo nâu; khi ngắm hoa thì dẫm lên
nguyệt để ánh bạc thấm thướp nếp khăn. Yêu trăng, thi nhân giữa chốn non nước xanh
biếc, đêm còn thức dậy chèo thuyền mọn ngắm nguyệt trên sông:
“Thuyền chèo đêm nguyệt sông biếc” (Bài 22)
Trăng còn rủ đến một người bạn tri âm là thơ. Đọc thơ Nguyễn Trãi ta mới
thấy, ý tứ thơ trong bài “Báo tiệp” của Hồ Chí Minh hình như đã khởi nguyên từ đây:
“Nguyệt thôi song vấn: Thi thành vị?”
(Trăng vào của sổ đòi thơ) (Báo Tiệp – Hồ Chí Minh)
Nguyễn Trãi thấy trăng với thơ như có sẵn mối “thiên duyên:
“Khách đến vườn còn hoa lác
Thơ nên thấy cửa nguyệt vào” (Bài 14)
“Sách ngâm song có mai và điểm
Dời ngó rèm lồng nguyệt một câu” (Bài 159)
85
“Khách lạ đến ngàn hoa chửa rúng
Câu mầu ngâm dạ nguyệt càng cao” (Bài 52)
Khi về ở chốn lâm tuyền thanh vắng, trăng không chỉ là bạn lòng của thơ với
Nguyễn Trãi trăng cũng là tri âm, tri kỉ. Trước trăng, tấm lòng son của Nguyễn Trãi
được tỏ bày. Trăng hiểu, trăng cảm và “thâu” giữ “lòng đan” tưởng đã nhạt phai:
“Xong cửa ngọc vân yên cách
Giãi lòng đan nhật nguyệt thâu” (Bài 40)
Không chỉ là bạn, trong cuộc sống bần vi trăng là “của hằng” mà tháng ngày đã
“bù trì” cho ông già thoát tục nơi thôn dã:
“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then” (Bài 69)
Con thuyền riêng của Ức Trai chỉ dành để “chở nguyệt”, gác chỉ để chứa mây.
Mai, tuyết là bạc, rượu, cúc, trăng là vàng - của cải, giàu sang là ấy chứ đâu:
“Bến liễu mới dời thuyền chở nguyệt
Gác vân còn giữ bút đeo hương
Sách ngâm bạc rẫy mai trong tuyết
Đối uống vàng đầy cúc thủa sương” (Bài 157)
Từ quan về với thiên nhiên, vị quan họ Nguyễn mặc nhiên cho mình chức phận
một “thằng hề” quẩy nặng túi gió trăng an nhàn tự tại tiêu dao khắp nhân gian:
“Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại
…
Quẩy trăng túi nặng thằng hề” (Bài 155)
Về với thiên nhiên, cả bầu khí ấy tắm đẫm ánh trăng, khiến hồn thơ như thoát
tục: ngắm trăng, đi trên trăng, uống trăng, của nả là trăng… Ánh trăng, bóng hoa trong
thơ Nguyễn Trãi không đơn thuần là hình ảnh thiên nhiên được viết bằng tình yêu của
một người nghệ sĩ. Tất cả được soi chiếu, nhìn ngắm dưới nhiều góc độ, nhưng bao
86
trùm là hình ảnh trăng, bóng hoa thanh thoát, mặc nhiên, mang khí thái an nhàn, thuần
dã của một bậc đại ẩn khơi dậy lòng thơ. Trăng thanh cao, người cốt cách là ngẫu khúc
của thi nhân xưa được Ức Trai làm sống dậy xôn xao tập Quốc âm. Trăng, hoa được
lọc thanh, tẩy tục khi khúc xạ qua tâm hồn thanh bạch, tâm hồn thi nhân cũng bừng
thức qua bóng ảnh thiên nhiên... Tất cả hòa quyện khiến trăng, hoa trở thành một thú
tao nhã của vị tiên ông đạo trích giữa chốn mây nước non ngàn.
3.1.3. Thiên nhiên đánh thức phần thanh cao trong tâm hồn ẩn sĩ
Thiên nhiên không chỉ là bạn, là thú chơi tao nhã mà nó có thể chạm đến, đánh
thức những phần trong trẻo, thanh cao của tâm hồn. Quan niệm này là sự cộng hưởng,
giao thoa tư tưởng “vô vi” của đạo Lão – Trang với đạo lý “nhân tri sơ tính bản thiện”;
với tư tưởng của Khổng – Mạnh: về với thiên nhiên, thuận theo tự nhiên, không làm gì
hết, khi hòa mình vào được thế giới tự nhiên ấy con người tự khác tìm thấy “bản thể
thiên tiên” của mình.
Khi về ở ẩn, ông già Nguyễn Trãi sống thanh đạm “tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền
nhi thực” như bất kì ẩn nhân nào:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nhưng thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi không hiện lên với vẻ đẹp vốn có của
nó, mà vẻ đẹp còn nằm trong sức mạnh đủ đánh thức “thiện căn” – “Lòng hiếu sinh”
của mỗi con người – đó là điểm khác biệt của Nguyễn Trãi trong cách ứng xử với thiên
nhiên so với các thi nhân trung đại. Nói như Xuân Diệu: “Ức Trai có cái đẹp thường
trực ở trong tâm hồn, có cái đẹp là bản chất tâm hồn, cho nên gặp cái đẹp trong vũ trụ
thì tương ứng ngay” [18,609].
“Đìa thanh nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây” (Bài 27)
Nguyễn Trãi đi ngược quy luật của tạo hóa, thiên nhiên để đốt cháy khát khao
níu giữ vẻ đẹp đất trời. Nguyệt hiện trên đìa chẳng muốn buông lưới sợ làm động nước
ánh trăng tan. Muốn ấp ủ chim muông cho tổ ấm lòng lành mà ngại ngập chẳng dám
phát cây. Ý tứ câu thơ khiến ta nhớ đến nỗi sợ hãi của Xuân Diệu, sợ cả những chuyển
động dù là nhỏ nhất có thể làm mất đi vẻ đẹp huyền diệu của không gian:
87
“Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu.” (Chiều – Xuân Diệu)
Nguyễn Trãi yêu mến, nâng niu, níu giữ tất thảy vẻ đẹp của thiên nhiên:
“Viện có hoa tàn chăng quét đất
Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo” (Bài 32)
“Mai chăng bẻ thương cành ngọc
Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng” (Bài 50)
“Chẳng cài cửa tiếc non che khuất
Xá để thuyền cho nguyệt chở nhờ” (Bài 108)
Tiếc núi, tiếc mây, tiếc trăng, tiếc hoa, tiếc cả những mùi hương hư ảo, cả
những bóng hoa lấp lóa bóng chiều:
“Ghé cửa đêm chờ hương quế lọt
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan” (Bài 160)
Tâm hồn Nguyễn Trãi tựa hồ như căn nhà trống khắp cả bốn chiều, không cửa
đóng then cài, không ngăn rào, phân giậu cứ rộng mở đón khách gió trăng:
“Củi hái mây dầu trúc bó
Cầm đưa gió mặc thông đàn
Ngày xem hoa rúng chăng cài cửa
Tối rước chim về mựa lạc ngàn” (Bài 95)
Nguyễn Trãi đã sống một nhịp với thiên nhiên, thấy thiên nhiên trong từng hơi
thở, nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên để yêu say bằng cả tấc lòng. Chính vì thế, hình ảnh
thiên nhiên trong thơ Ức Trai chỉ đọc lên thôi cũng đủ đánh thức, dù phần nhỏ nhất,
trong bản thiện mỗi con người.
Bậc sư biểu Chu Văn An cũng về ẩn cư tại Côn Sơn như Nguyễn Trãi nhưng
thiên nhiên trong cảm thức mỗi lại người khác nhau:
“Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn
Trúc phi tà ủng họ khinh hàn”
(Núi xa, nhà quạnh, suốt ngày nhàn
Se lạnh, gài nghiêng cửa trúc hoang) (Xuân đán)
88
Cái lạnh vắng hoang vu buổi tàn đông với cô đơn át hết vẻ đẹp của thiên nhiên
trong thơ Chu Văn An, điều này không thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Ở ẩn dẫu là cách
tiên sinh họ Nguyễn chạy trốn cái tôi cô đơn nhưng thật sự thi nhân đã tìm được “thú
mầu trong thủa ấy”. Thiên nhiên trong thơ Nôm Ức Trai hiện lên thanh thoát, tiêu
diêu, khiến thi nhân thật sự trở thành một bậc cao nhân ẩn sĩ giữa Côn Sơn đại ngàn.
3.2. Thiên nhiên qua con mắt bậc quân tử
Trong văn học trung đại, thiên nhiên như nhân vật gián tiếp nói hộ tâm trạng
nhân vật trữ tình. Như trên đã nói, thiên nhiên còn có sự phân tầng theo các khuôn ước
mang tính chất quy phạm. Nói đến phẩm chất của người quân tử không thể bỏ qua:
tùng – cúc – trúc – mai; nói đến người ẩn dật không thể bỏ quan bốn hạng người: ngư
– tiều – canh – mục; nói đến vật phải nhắc đến tứ linh: long – ly – quy – phượng; nói
đến tứ tài không thể sót: cầm – kì – thi – họa và tứ thú không thể bỏ qua: tửu – thi –
hoa – nguyệt…Nếu nhìn nhận theo góc độ thi pháp của văn học trung đại, trong tập
thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, hình ảnh thiên nhiên không nằm ngoài dụng ý để bộc
bạch lòng người quân tử khi tần số hình ảnh tùng – cúc – trúc – mai xuất hiện rất nhiều
trong các bài thơ: Tùng 14 lần, cúc 24 lần, trúc 35 lần, mai 39 lần. (Phụ lục 6)
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trãi lại lựa chọn tần số xuất hiện rất lớn bốn
loại cây trên trong “Quốc âm thi tập”. Không chỉ xuất hiện như quý ngữ - từ chỉ thời
gian, đó còn là những hình ảnh mang tính chất “ước lệ tượng trưng” của văn học trung
đại như Ngũ Liễu tiên sinh khi xưa từng viết:
“Phương cúc khai lâm diệu,
Thanh tùng quán nham liệt.
Hoài thử trinh tú tư,
Trác vi sương hạ kiệt.”
(Cúc thơm soi sáng khu rừng,
Tùng xanh vượt trội các loài nơi vách núi.
Ôm trong mình vẻ trinh tú này,
Chính là anh kiệt ở dưới sương.)
(Hoạ Quách chủ bạ kỳ 2 – Đào Tiềm)
89
Và chính Nguyễn Trãi đã từng thừa nhận:
“Tính ắt nhiễm cũng bầy mộc thạch
Lòng còn chạnh thú yên hà” (Bài 118)
Mỗi loại cây biểu trưng cho một vài phẩm tiết, khí phách nào đó của bậc quân
tử mà Nguyễn Trãi cũng nhận thấy ở con người mình. Chúng xuất hiện còn như một
thước đo, định giá lại tiết nghĩa, phẩm trí, cốt cách của vị quan họ Nguyễn dù đã “lìa
lưới trần”. Trong “Quốc âm thi tập”, cả tùng, cúc, trúc, mai đều được nhắc đến trong
nhiều câu thơ, bài thơ nhưng để làm sáng tỏ hình ảnh thiên nhiên của bốn loại cây tứ
quý dưới góc nhìn của bậc quân tử, chúng tôi chỉ xin được điểm những bài thơ viết
riêng về loại cây ấy: Mai (bài 214); Trúc (ba bài: 221, 222, 223), Cúc ( Cúc – bài 216),
Tùng (ba bài 218, 219, 220).
Sinh thời, Phạm Ngũ Lão, một con người tài trí, đức độ hơn người đã từng nói:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời chỉ cúi đầu trước hoa mai). Nên có thể coi mai
là biểu tượng của quân tử. Mai bung nở phô sắc trắng trong gió tuyết mùa đông nên
thể hiện sức sống mãnh liệt. Văn học Việt Nam trung đại chịu ảnh hưởng sâu đậm văn
học Trung Quốc, nên hoa mai được nói đến ở đây là loại mai của Trung Quốc: năm
cánh, mảnh mai, màu trắng nên ngoài biểu tượng cho sức sống mãnh liệt thì còn tượng
trưng cho sự thanh khiết. Mai xuất hiện trong “Quốc âm thi tập” rất nhiều nhưng bài số
214 trong tập thơ của Nguyễn Trãi viết riêng về loài cây này đã làm sáng tỏ cốt cách
của bậc quân tử qua hình ảnh ước lệ tượng trưng.
Vốn là loài hoa nở vào mùa đông giá lạnh nhưng mai mang đến khí xuân ấm áp,
dương hòa:
“Giữa mùa đông trổi thức xuân
Nam chi nở cực thanh tân”
Vẻ đẹp ấy chẳng khác nào tâm hồn trong trắng như thần nhân núi Cô Dịch,
bóng mai in mặt nước lộng lẫy như khuôn mặt Thái Chân (Dương Quý Phi):
“Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch
Đáy nước ngờ là mặt Thái Chân”
90
Tưởng chừng vẻ đẹp thanh tân, ngà ngọc ấy của mai đủ làm cho người khác
rung động, nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài. Cốt cách mới là thứ đáng ngợi ca:
“Càng thủa già càng cốt cách
Một phen giá, một tinh thần”
Cốt cách ấy được tôi luyện trong giá lạnh của mùa đông. Càng lạnh, mai lại
càng hướng về phía gió rét mà bung nở. Đó phải chăng cũng là cốt cách của bậc quân
tử: “uy vũ bất năng khuất” mà không ít lần Nguyễn Trãi đã khẳng định:
“Khó khăn thì mặc có màng bao
Càng khó bao nhiêu chí mới hào” (Bài 66)
“Gió kíp hay là cỏ cứng
Đục nhiều dễ biết đường quang” (Bài 93)
Bậc quân tử chỉ có thể phân biệt với kẻ tiểu nhân khi dùng phép thử của khó
khăn. Đó là thứ lửa thử vàng mà vị quan họ Nguyễn từng bước qua “Vàng thật âu chi
lửa thiêu”. Mai đi qua giá lạnh mùa đông để nở, còn Nguyễn Trãi đi qua bể khổ trường
quan để cống hiến cho đời. Hai câu cuối như một kiến giải:
“Người cười rằng kém tài lương đống
Thửa việc điều canh bội mấy phần”
Mặc những khen chê của thiên hạ, ai muốn chê khen tài năng trị đời của mình
Nguyễn Trãi cũng bỏ ngoài tai, cứ giữ tiết của mình làm bậc quân sư trung trực mà
giúp vua trị nước. Tài ấy còn hơn mấy người làm rường cột quốc gia. Nhà nghiên cứu
Trần Đình Sử đã nhận định: “Thực chất, Nguyễn Trãi cực kỳ tự ý thức về mình, cực
kỳ tự tin vào khả năng, nội tâm nội lực chính mình” [18,732] và đôi khi tự tin với cốt
cách quân tử của mình. Cốt cách ấy thi nhân đã nhờ mai nói hộ:
“Lừng lựng người rằng chuông ấy đá
Đóng thì cũng có tiếng côông côông” (Bài 61)
91
Với Trúc, dân gian còn lưu truyền câu ca khẳng định phẩm tiết loại cây này:
“Trúc dẫu đốt, tiết ngay vẫn thẳng”. Trong tiếng Hán trúc chỉ loài tre nói chung. Cây
trúc cũng là loại cây có thể sống nơi khô cằn, quanh năm xanh tốt, đốt ngay thẳng từ
bé. Suốt mùa đông không rụng lá, sống nơi khô cằn sỏi đá, đốt trúc mọc thẳng từ khi
còn là măng non. Nên trúc vốn là biểu tượng cho tính ngay thẳng, trung nghĩa của bậc
đại trượng phu. “Trúc thi” của Nguyễn Trãi với chùm ba bài thơ thể hiện rõ phẩm chất
ấy của người quân tử.
“Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình
Ưa mày vì bởi tiết mày thanh
Quân tử ai chẳng mắng danh” (Bài 221)
Đã từng có tiếng trong đời nữa
Vẻ đẹp bên ngoài của trúc dẫu không đơm hoa như liễu nhưng cũng rất gợi cảm
bởi nét tươi xanh căng tràn sức sống. “Tiết” được sử dụng như một từ đa thanh, đa
nghĩa trong bài thơ. Có thể hiểu đó là đốt của cây trúc nhưng cũng có thể hiểu đó là
khí tiết của người quân tử. Bởi trong dân gian trúc vốn là biểu tượng cho phẩm chất
ngay thẳng. Trúc như khí phách không thể thiếu của một trang nam nhi hảo hán:
“Danh quân tử tiếng nhiều ngày
Bảo khách tri âm mới biết hay
Trượng phu tiết cứng khác người thay” (Bài 222)
Huống lại dưng dưng chăng bén tục
Mượn ý thơ của Tô Đông Pha vịnh cây trúc, Nguyễn Trãi một lần nữa khẳng
định khí tiết của cây trúc:
“Ninh khả thực vô nhục
Bất khả cư vô trúc
Vô nhục linh nhân sấu
Vô trúc linh nhân tục”
(Thà ăn cơm không thịt
92
Không thể ở nhà không có trúc
Không ăn thịt thì người gầy
Không có trúc thì người tục)
Đối với Nguyễn Trãi, trời sinh ra “trúc” là có ý cả. Bởi “trượng phu” gặp vận có
thể hóa “rồng”:
“Trượng phu tiết cứng khác người thay
Dưỡng đỗ trời có ý vay
Chúa xuân gẫm càng xưa hay” (Bài 223)
Từ thủa hóa rồng càng lạ nữa
Đó phải chăng là niềm tự hào nhưng cũng là ước mong của Nguyễn Trãi:
“Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng” (Trời sinh ra ta có tài thì ắt sẽ được dùng - Lý Bạch).
Cúc vốn là một loài hoa của mùa thu, được biết đến như biểu tượng của sự
trường thọ. Ai chơi hoa Cúc đều biết hoa tàn nhưng không rụng cánh, nó chỉ gục rũ
trên thân. Nên Cúc cũng có chí khí của bậc chính nhân quân tử. Hình ảnh hoa cúc
được miêu tả rất kĩ lưỡng trong bài số 216 của tập thơ:
Nghỉ chờ thu cực lạ dường”
“Người đua nhan sắc thủa xuân đương
Thời điểm nở của hoa cúc vốn là sự lạ của tự nhiên, khi trăm hoa chọn tiết xuân
để khoe sắc thì cúc lại phô mình vào tiết thu. Phẩm chất ấy của cúc khác nào kẻ ở ẩn
trong giới các loài hoa:
“Hoa nhẫn rằng đeo danh ẩn dật
Thức còn thông bạn khách văn chương”
Cúc nở chẳng quản nề tuyết sương, cũng không đoái hoài đến ong bướm. Phẩm
chất ngay thẳng ấy của cúc có thể sánh với mai, trúc, tùng:
“Tính tình nào đoái bề ong bướm
Tiết muộn chẳng nề thủa tuyết sương”
Cái đáng quý của Cúc chính là vẻ đẹp trọn vẹn của nó trong mùa thu – cái đẹp
bởi được sinh dụng đúng thời:
93
“Dầu thấy xuân lan cùng trọn được
Ai ai đều có mỗ mùi hương”
Có khi nào ước muốn của bậc quân tử sinh bất phùng thời trong Nguyễn Trãi
được đánh thức. Mong ước nhỏ nhoi le lói, dẫu muộn màng nhưng một lòng Nguyễn
Trãi muốn được dụng tài “Há kể thân hèn tiếc tuổi tàn”. Câu thơ đầy ngậm ngùi của
một con người tự ý thức được tài năng của mình mà không được dụng.
Tùng (còn được gọi là Bách, Thông) loài cây đại diện cho mùa đông. Tùng mọc
trên núi đá cao, khô cằn, thiếu nguồn dinh dưỡng, địa thế chênh vênh, chịu nhiều
sương gió, bão tuyết nhưng vẫn xanh tươi, vươn thẳng lên trời, nên biểu tượng của bậc
trượng phu hay đại trượng phu. Với Nguyễn Trãi tùng là cây xứng đáng làm rường cột
giữa chốn lâm tuyền:
“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng
Một mình lạt thủa ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng” (Bài 218)
Cũng như người quân tử làm rường cột cho nước nhà, ắt có khi dùng đến vài ba
phen trong đời Nguyễn Trãi cũng thấy mình làm được việc lớn ấy:
“Đống lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền day chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày” (Bài 219)
Tùng với cội rễ bền chắc, chịu đựng được gió sương, cũng như người quân tử, bền
chí bền gan, phong trần quen mặt nên không gì có thể làm lung lay ý chí. Cùng viết về cây
tùng giữa mùa đông nhưng trong thơ Vương Bột ngập đầy nỗi cô đơn, lạnh lẽo:
“Tây lăng tùng giả lãnh,
Thuỳ kiến ỷ la tình?”
(Cây tùng giả gò tây lạnh lẽo
Ai thấy được tình lụa là.) (Đồng Tước ký kỳ 1 – Vương Bột)
94
Còn trong thơ Nguyễn Trãi, cây tùng hiên ngang giữa tuyết sương. Phong trần
tôi rèn ý khí chất của bậc trượng. Đã có tài ắt không thể hoài phí, phải dùng vào những
việc hữu ích cho dân:
“Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khỏe thay
Hổ phách phục linh nhìn mới biết
Dành còn để trợ dân này” (Bài 220)
Thậm chí dẫu có phải trút nhựa sống ấy cho dân cũng cam lòng. Nghĩa cả ấy
trong quan niệm của Nguyễn Trãi thật đáng để trân trọng.
Thông thường, mỗi người chọn một loài cây yêu thích, giống với cốt cách của
mình, hay một phẩm chất mà mình hướng đến. Nhưng trong “Quốc âm thi tập” của
Nguyễn Trãi xuất hiện đầy đủ cả bốn loại cây với tần số rất cao. Phải chăng, Nguyễn
Trãi một lần nữa muốn khẳng định khí tiết ngay thẳng, trong sạch, trung kiên của
mình. Nhưng lật lại vấn đề, tại sao lại phải khẳng định nhiều lần đến thế? Nếu xã hội
biết “biệt nhỡn liên tài”, trọng tài, tiếc tài mà dụng tài, liệu Nguyễn Trãi có phải lo việc
định giá mình giữa đời như vậy? Thiên nhiên với Nguyễn Trãi như một tấm gương, soi
chiếu nhân cách, là thước đo lòng người quân tử. Những điều không thể nói được,
không thể phô ra thì mượn thiên nhiên nói hộ, dẫu lòng trung, tiết thẳng của Nguyễn
Trãi vua quan không thấy nhưng thiên nhiên lại là nơi lưu giữ tất cả, trân trọng tấm
lòng và con người Ức Trai. Xét ở một góc độ nào đó, với Nguyễn Trãi vẻ đẹp của
thiên nhiên chính là chuẩn mực mà ông luôn nhủ mình đạt tới. Thiên nhiên chính là
nơi đánh thức lòng người quân tử, là đích đến hơn là thước đo lòng quân tử.
3.3. Thiên nhiên qua con mắt “lão nông tri điền”
Trường phái thơ “Sơn thủy điền viên” thời Trung Quốc với các đại diện tiêu
biểu như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên đã có ảnh hưởng không nhỏ đến văn học trung
đại Việt Nam. Ca ngợi cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, cảnh thanh nhàn êm ả ở thôn
trang, đến cảnh sinh hoạt sống động của người nông dân…Nguyễn Trãi cũng là một
trong số những nhà thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng của trường phái này. Dưới một góc
nhìn mới, không phải một ẩn sĩ, cũng không phải bậc quân tử, mà qua con mắt một
95
thường nhân, thiên nhiên hiện lên với sản vật hàng ngày trong cuộc sống lao động của
một lão nông tri điền.
Đón nhận thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, ta nhìn thấy những khía cạnh vĩ
đại, thanh tao của thiên nhiên dưới con mắt người ẩn sĩ, bậc trượng phu ở thế khôn
phàm cũng chẳng tiên “Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi” và tự đắc cho rằng “Ông này đã có
thú ông này”. Nhưng thiên nhiên cũng bước vào trang thơ Ức Trai với vẻ đẹp trần tục
nhất – những sản vật của một đất nước thuần nông tự ngàn đời. Đó là điều làm cho
thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi vừa thanh tao vừa giản dị, vừa cao sang lại
vừa gần gũi. Đến với không gian thiên nhiên trong thơ Ức Trai ai cũng có thể tìm thấy
mình trong đó, bất kể là tao nhân mặc khách, hồng nhan tri kỉ, hay là những người
nông phu chất phác quê mùa.
Trút áo quan, Nguyễn Trãi say sưa nói chuyện đồng áng nhà nông. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã từng ca ngợi công việc nông nhàn bằng cách liệt kê những dụng cụ lao động:
“Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nhưng Nguyễn Trãi lại hóm hỉnh, tếu táo khẳng định sự am hiểu của mình với
thiên nhiên và công việc đồng áng bằng cách “làm quan” quản “bộ giang san”. Ông
“quan” ấy đã thâm nhập vào tất cả ngõ ngách cuộc sống thiên nhiên thôn dã, cũng như
việc đồng áng nhà nông mà viết thành thơ. Một bè rau muốn, lảnh mùng tơi, luống
đậu, bãi kê, mùi thanh vị núc nác…tất cả giản dị, tự nhiên như hơi thở ruộng đồng
bước vào trang thơ Ức Trai:
“Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng” (Bài 68)
“Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen” (Bài 69)
“Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen vãi đậu kê” (Bài 48)
96
“Tả lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải, lảnh mùng tơi” (Bài 10)
Ông già Nguyễn Trãi chăm chỉ với ruộng đồng, đất chẳng phụ công người
mang cho bao sản vật, mùa nào thức đấy:
“Ngày tháng kê khoai những sản hằng” (Bài 23)
Đâu cứ phải chăm chỉ là có thành quả, làm nông cũng cần sự tinh tường và kinh
nghiệm. Chẳng thế mà mảng tục ngữ về kinh nghiệm lao động sản xuất của nhân dân
ta lại đồ sộ đến thế. Ông già Nguyễn Trãi cũng là người biết làm nông đấy chứ. Đất
cày chờ phơi ải rồi mới lên luống gieo trồng:
“Vun đất ải lảnh mồng tơi” (Bài 10)
“Đất cày ngõ ải lảnh ương hoa” (Bài 4)
Đúng thời vụ trong nông nghiệp là yếu tố quyết định được mùa hay mất
mùa. Nắm rõ điều ấy, Nguyễn Trãi chọn cây gieo trồng cho đúng tiết: xuân trồng
lan, thu gieo cúc:
“Mưa thu rưới ba đường cúc
Gió xuân đưa một lảnh lan” (Bài 17)
Về ẩn dật, làm bạn với ruộng vườn là bằng lòng chấp nhận một cuộc sống tự
cung tự cấp – đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn. Như người nông phu khi
được mùa thì no ăn no mặc, khi mất mùa thì thiếu thốn khó khăn. Sinh hoạt của bần
nông Nguyễn Trãi cũng có những trạng thái đối cực như thế. Ăn mặc có lúc sẵn đấy:
“Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội cá trong ao” (Bài 35)
“Chim bắt trong rừng cá bắt ao” (bài 89)
“Nằm có chiếu chăn cho ấm áp
Ăn thì canh cá chớ khô khan” (Bài 134)
97
Nhưng cũng có lúc cuộc sống của Nguyễn Trãi khó khăn, thiếu thốn, thậm chí
là kham khổ:
“No nước uống, thiếu cơm ăn” (Bài 1)
“Bữa ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là.” (Bài 4)
“Áo đành một tấm cơm hai bữa” (Bài 90)
“Muối lẫn dưa dầu đủ bữa” (Bài 104)
“Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc
Áo mặc âu chi quản cũ đen.” (Bài 140)
“Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh
Áo bô quen cật vận xênh xang.” (Bài 126)
Khổ nhưng vẫn vui trong cảnh nghèo, con người ấy tựa hồ đã quen với ruộng
đồng cày cuốc từ lâu. Dường như ta quên mất một Nguyễn Trãi đã từng làm quan, ra
vào chốn cửa mận tường đào, chỉ còn biết đến một lão nông tri điền thực thụ. Từ nết
làm, nết nghĩ đến cả cách ăn mặc và cách ở cũng đích thực là “đứa thôn nhân”:
“Bít bả hài gai khăn ốc
Xềnh xoàng làm đứa mỗ thôn nhân” (Bài 33)
“Con lều mọn mọn đẹp sao” (Bài 52)
“Chốn ở trái căn lều lá” (Bài 124)
98
“Tranh giương vách nài chi bức” (Bài 110)
Bước qua thi pháp truyền thống, không cần “ước lệ tượng trưng”, chẳng cần
dụng công tô vẽ, với một gam màu duy nhất là sự chân thực và tình yêu với cuộc sống
thôn quê, Nguyễn Trãi đã đưa thiên nhiên trong cuộc sống lao động vào thơ như nó
vốn có. Dẫu trước Nguyễn Trãi đã có những nhà thơ đưa cuộc sống thôn dã vào thơ
như Mạnh Hạo Nhiên:
“Lục thụ thôn biên hợp
Thanh sơn quách ngoại tà.”
(Ven xóm cây xanh tốt,
Ngoài đồng bóng núi tà) (Quá cố nhân trang)
Bậc “Thi phật” Vương Duy, nhà thơ nổi tiếng thời Đường Trung Quốc cũng
từng viết về cảnh thôn quê bình dị, cách xa mũ áo trường quan:
“Ngưu dương tự quy lậu hạng,
Đồng trĩ bất thức y quan”
(Trâu dê tự về xóm nhỏ
Trẻ con không biết đến áo mũ quan) (Điền viên lạc kỳ 4)
Minh quân bậc nhất trong lịch sử Việt Nam, Trần Nhân Tông cũng yêu cảnh
thôn nhàn mà say sưa ca ngợi:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục
đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
(Trước thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt như khói,
Bóng chiều tà nửa không, nửa có.
Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,
Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng.)
(Thiên Trường vãn vọng - Trần Nhân Tông)
99
Nhưng có lẽ hương sắc đồng ruộng, hơi thở cuộc sống sinh hoạt của người nông
dân – bản sắc Việt, hiện lên chân thực, sống động và sâu sắc đến tận gan ruột thì thơ
Nôm Nguyễn Trãi xứng đáng đứng hàng đầu.
Tiểu kết
Những vần thơ viết về thiên nhiên trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi
mang đậm dấu ấn của văn học trung đại phương Đông: từ tư tưởng nhàn dật, đến việc
cảm nhận mối tương giao giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ trong “Quốc âm thi tập” là bóng ảnh một cốt cách
thanh cao của bậc đại ẩn, một ý chí kiên trung của bậc chính nhân quân tử, một tâm
hồn “thanh sạch” giữa chốn “hồng trần”. Nguyễn Trãi như vị tiên ông giữa mây ngàn
non nước, kết bạn với thông mai, viên hạc để “dưỡng lòng nhân”, “lánh tục trần” và
“tìm thanh” như bậc “đại ẩn”. Thiên nhiên trong cái nhìn của Ức Trai cũng mang cốt
cách của bậc chính nhân quân tử mà nghiệm ra ông thấy bóng dáng mình trong tùng,
cúc, trúc, mai. Và thiên nhiên cũng được cảm nhận chân thực, sắc nét nhất qua con
mắt một thường dân lao động. Tất cả hội tụ làm nên vẻ đẹp vừa tựu chung cổ điển
nhưng cũng rất cá biệt đầy hấp dẫn của thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
Trong “Quốc âm thi tập”, Nguyễn Trãi đã lựa chọn phương thức ứng xử hòa
mình vào thiên nhiên, tìm về thiên nhiên di dưỡng chút lòng thanh. Để làm được điều
ấy, vị quan lánh trần họ Nguyễn đã coi thiên nhiên như tri âm, tri ki mà gắn kết, giao
hòa, giao cảm; để thiên nhiên như nơi Nguyễn Trãi nương mình sau những gió bụi
cuộc đời, tẩy tục trần hoàn; và đặc biệt, với Nguyễn Trãi thiên nhiên đã được đón nhận
bằng cả tình yêu, với sự nâng niu, trân trọng chưa hề thấy trong văn học trung đại
trước Ức Trai tiên sinh. Đó chính là phương thức ứng xử đạt đến đỉnh cao của sự giao
hòa, gắn kết, tương thông theo quan niệm “thiên địa vạn vật nhất thể” của văn học
trung đại.
100
KẾT LUẬN
1. Đóng vai trò như một khía cạnh quan trọng trong cuộc sống của con người,
phương thức ứng xử luôn được đề cao ở các thời đại. Hình thành trên nền tảng văn hóa
dân tộc nhưng cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi yếu tố cá nhân nên phương thức
ứng xử được coi như bộ mặt thứ hai thể hiện tầm trí tuệ, văn hóa, bản lĩnh của con
người. Lớn lên trên dòng chảy chung của ba tôn giáo: Nho, Phật, Đạo, và có những
vùng giao thoa giữa ba luồng tư tưởng này tạo nên nét khu biệt trong phương thức ứng
xử của con người trung đại Việt Nam. Đó cũng là yếu tố hình thành nên phương thức
ứng xử của Nguyễn Trãi. Nhưng xét về mức độ đậm nhạt thì Nho giáo chính là dòng
chính, còn Đạo giáo và Phật giáo là hai chi lưu trong phương châm hành xử ở vị “Thái
Sơn, Bắc Đẩu của làng Nho Việt”.
Tuy nhiên, trước những biến động rối ren của lịch sử nước ta cuối thế kỉ XIV đầu
thế kỉ XV, bằng trí tuệ sáng suốt, óc phán đoán tình hình, khả năng tiên lượng và bằng
tâm trong lòng sáng, Nguyễn Trãi xuất hiện như một con người đặc biệt của thời đại với
những việc làm của bậc trí giả cả đời chỉ cúi đầu phụng sự “nhân nghĩa”. Con người ấy,
đôi khi đã lựa chọn cho mình phương thức ứng xử đi ngược lại với nhân quần, xã hội,
chấp nhận giông bão cuộc đời để thực hiện bằng được chí nguyện của mình, đem tài
năng để phụng sự cho nhân dân, đất nước. Phương thức ứng xử ấy đã phần nào khẳng
định bản lĩnh, tài năng, trí tuệ, cốt cách, tầm vóc của vĩ nhân Nguyễn Trãi.
2. Hài hòa giữa bổn phận và khát vọng là tiêu đích Nguyễn Trãi đặt ra trong
phép ứng xử với môi trường xã hội. Không chỉ với bản thân, ngay cả với những người
thân yêu trong gia đình đến láng giềng thân sơ, nhân dân cốt nhục, cho đến bậc quân
thân trọng kính ông luôn cố gắng hết mình để làm tròn phận vị nhưng cũng cố gắng để
dung hòa sao cho vừa “đắc nhân tâm” lại thỏa lòng mình. Để đạt được chữ “hòa” trong
mọi quan hệ, không ít phen Nguyễn Trãi tao tuyết với đời, chịu thiệt về mình. Hóa ra,
con người ấy một đời chỉ biết đến an nguy của xã tắc mà đôi phút làm ngơ trước số
phận chính mình.
3. Về với thiên nhiên, Nguyễn Trãi hòa mình với “túi thơ bầu rượu” thâu khắp
nhân gian; với những “đêm thanh nguyệt bạc” cùng những vị “khách lên lầu” ; với
tùng, cúc, trúc, mai mà say sưa ca ngợi; với chim rừng, ao cá, với niềng niễng, đòng
đong, với mồng tơi, núc nác…Nguyễn Trãi nghiễm nhiên trở thành bậc đại ẩn giữa
101
nước bạc mây ngàn, bậc quân tử giữa đất trời Côn Sơn và một nông phu giữa ruộng
vườn cây cỏ. Chỉ biết rằng, với tư cách nào, Nguyễn Trãi cũng say sưa bằng một niềm
yêu da diết với thiên nhiên.
4. Ta nhìn thấy trong cả hai môi trường sống: xã hội và môi trường tự nhiên,
Nguyễn Trãi đã đưa ra những cách xử thế hết sức nhanh nhạy. Xã hội con người hiểm
ác thì cẩn trọng, “trung dung” mà giữ “đạo” để thi ứng. Thiên nhiên hiền hòa thì yêu
say bằng cả tấc lòng. Tưởng như vậy đã là lẽ ứng biến tuyệt vời. Nhưng cớ sao, một
con người tài ba, đức trí lại mắc kẹt trong một vụ án oan khốc nhất trong lịch sử dân
tộc. Câu hỏi ấy khó lòng giải quyết nếu chỉ nhìn trên mặt tích cực của phương thức
ứng xử của Nguyễn Trãi. Vốn là người “nâng niu tất cả chỉ quên mình”, lúc nào cũng
“lo trước mối lo của thiên hạ”, Nguyễn Trãi không hề biết đến an nguy của bản thân.
Điều gì “ích chưng dân” thì ra sức làm bằng được dù có nguy hại đến bản thân mình.
Đó là lí do đầu tiên khiến Nguyễn Trãi mắc vào án oan. Điều thứ hai, thiết nghĩ đó là
hạn chế của thời đại lịch sử. Nếu xã hội ấy biết trọng tài, tiếc tài thì Nguyễn Trãi đã
không uổng phí một đời vì dân nước để cuối cùng chết trong oan khốc. Nếu hóa giải
được lịch sử xã hội, có lẽ Nguyễn Trãi còn làm được nhiều hơn những gì ông đã làm
cho quốc gia, dân tộc. Bài học đặt ra là làm sao chọn được phương thức ứng xử tối ưu
để không thiệt mình mà lại được cho người, thỏa tâm mà không hại thân. Câu hỏi ấy
thiết tưởng còn bỏ ngỏ cho chúng ta hôm nay cần suy nghĩ.
5. Nhìn nhận khía cạnh nào phương thức ứng xử của Nguyễn Trãi trong “Quốc
âm thi tập”, chúng ta cũng không thể phủ nhận bài học xương máu, thậm chí đến nay
vẫn mang tính thời sự mà tiên sinh họ Nguyễn đã gửi gắm qua những vần thơ. Như
một miền đất hứa, phương thức ứng xử trong văn học luôn chờ đợi bàn tay khai phá
của những nhà khoa học. Nếu có dịp được phát triển đề tài này, chúng tôi xin được tìm
hiểu phương thức ứng xử của đại thi hào Nguyễn Du trong thơ ca tiếng Việt ở thế kỉ
XVIII - XIX để thấy điểm kế thừa và điểm khác biệt trong phương thức ứng xử của hai
nhà nho ở hai giai đoạn - điều góp phần tạo nên hai đỉnh cao của nền văn học trung đại
Việt Nam và góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, (2003), Từ điển Hán Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Trần Thị Thanh Bình, (2013), “Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi”, Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Huệ Chi, (2010), Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến
mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
4. Võ Xuân Đàn (1996), Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
5. Trịnh Văn Định, (2013), Những cách thế lựa chọn của kẻ sỹ tinh hoa trong lịch sử
[Nghiên cứu trường hợp Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du],
www.vanhoanghean.com.vn/.../nhung-cach-the-lua-chon-cua-ke-sy-tinh...
6. Nguyễn Phạm Hùng, (1996), Văn học Lý – Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
7. Trần Đình Hượu, (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
8. Hà Thị Phương Loan (2007), Quan niệm nhân sinh trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, Luận văn tốt nghiệp, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
9. Phạm Thị Loan, (2014), Thế giới quan triết học của các nhà nho trong xã hội
phong kiến Việt Nam, www.chungta.com › Tư liệu nguồn & tra cứu
10. Phạm Luận, (2012), Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Công Lý (2010), “Danh nhân Nguyễn Trãi - sự hội tụ của tinh hoa văn hóa
Thăng Long thời Lý - Trần” (Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long và 630 năm ngày
sinh Nguyễn Trãi), http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, ngày 30/6/2010.
12. Nguyễn Đăng Na, (2009), Văn học trung đại Việt Nam, (tập 1), Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội.
13. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
14. Bùi Văn Nguyên, (2003), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
15. Hoàng Phê, (2009), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
16. Dương Phong (2012), Nguyễn Trãi thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Lê Văn Quán, (2007), Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Sơn, (Tuyển chọn và giới thiệu, 1999), Nguyễn Trãi về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con người và
tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Minh triết Nguyễn Trãi”, Tạp chí văn học, số 09, tr 9 – 21.
21. Trần Đình Sử,(1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
22. Bùi Duy Tân (1997), Khảo luận một số tác gia – tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Bùi Duy Tân, (2009), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - XIX), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
24. Hoài Thanh, 1980, (theo) Sáu trăm năm Nguyễn Trãi, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
25. Phạm Thị Phương Thái (2006), Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
26. Phạm Thị Phương Thái (2015), Những đóng góp của Nguyễn Trãi đối với nền thơ
viết bằng tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Phạm Minh Thảo, Nghệ thuật ứng xử của người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
28. Lã Nhâm Thìn, (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Lã Nhâm Thìn (2012), “Nguyễn Trãi – người xưa của ta nay” nhìn từ quan điểm
văn học”, Tạp chí văn học, số 09, tr 3 - 8.
30. Trần Nho Thìn, (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
31. Trần Nho Thìn, (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Thông (chủ biên), (2007), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
33. Mai Trân, (1962), “Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi”, Tạp chí văn học.
34. Trung tâm nghiên cứu Quốc học (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên tập 1,2,3,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Đào Tố Uyên (chủ biên) (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam,tập II, từ thế kỉ X đến
đầu thế kỉ XVI, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
36. Kiều Văn, (2009), Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Thành phố Hồ
Chí Minh.
37. Trần Ngọc Vương, (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX những vấn đề lí luận
và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Trần Quốc Vượng (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
39. Trần Quốc Vượng (2012), Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hóa Việt Nam,
http://www.vanhoanghean.com.vn, ngày 26/11/2012.
40. Lê Thu Yến (chủ biên), (2002), Văn học Việt Nam: Văn học trung đại, những công
trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thống kê những bài thơ, những câu thơ thể hiện nỗi trăn trở “xuất –
xử” trong “Quốc âm thi tập”
Stt Câu/bài Câu thơ
1 2,7,8/2 Xá lánh thân nhàn thủa việc rồi
…
Bui có một niềm chăng nỡ trại
Đạo làm con lẫn đạo làm tôi
5,6/ 3 Dưới công danh đeo khổ nhục 2
Trong dại dột có phong lưu
3,6/7 Cuốc cằn ước xáo vườn chư tử 3
…
Song mai hiên trúc một lòng thanh
4 3,4,5,6/10 Dã lòng thanh mùi núc nác
Vun đất ải lảnh mồng tơi
Liêm cần tiết cả tua hằng nắm
Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời
1,2/ 11 Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy, 5
Có thân chớ để lợi danh vây.
1,2,7,8/12 Cỏ xanh dưỡng để lòng nhân 6
Trúc rợp hiên mai quét tục trần
….
Nợ quân thân chưa báo được
Hài hoa còn bện dặm thanh vân
3,4,5,6/15 Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào Hứa 7
Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng Chu
Bát cơm xoa đền ơn xã tắc
Căn lều cỏ đội đức Đường Ngu
8 1,7/18 Đột xung biếng tới áng can quan
…
Quân tử hãy lăm bền chí cũ
9 1,2/23 Ngày tháng kê khoai những sản hằng,
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
10 2,7/29 Lánh mình cho khỏi áng phong trần
…
Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa
Xá tiếc mình chơi áng thủy vân
11 4,7,8/30 Đem công danh đổi lấy cần câu
…
Bui một quân thân ơn cực nặng
Tơ hào chưa báo hãy còn âu
12 1,2/33 Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân
Lửng thửng chưa lìa lưới trần
13 7,8/35 Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ
Lần thẩn làm chi áng mận đào
14 3,4/37 Gánh khôn đương quyền tướng phủ
Lui ngõ được đất nho thần
15 1,2,5,6/39 Vầu làm chèo trúc làm nhà
Được thú vui tháng ngày qua
…
Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con thì cảm đức cha
16 3,4,7/40 Xong cửa ngọc vân yên cách
Giãi lòng đan nhật nguyệt thâu
…
Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế
17 5,6/41 Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc
Danh lợi lòng nào ước chác cầu
18 3,7/43 Lòng một tấc đan còn nhớ chúa
…
Cày ruộng cuốc vườn dầu hết khỏe
19 1,2,7,8/50 Đến trường đào mận ngạc chăng thông
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông
…
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
20 5,6/52 Những màng lẩn quất đường lan cúc
Ắt ngại lanh chanh áng mận đào.
21 3,4/ 54 Non lạ nước thanh làm dấu,
Đất phàm cõi tục cách xa.
22 5,6/61 Làm quan tha dại tài chăng đủ
Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng
23 5,6,7,8/63 Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt
Thề xưa hổ có giang san
Ấy còn cậy cục làm chi nữa
Nếu cốt chưa nong chẩm chưa toan
24 1,2,5,6/65 Non Phú Xuân cao nước vị thanh
Mây quen nguyệt khách vô tình
…
Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị
Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh
25 5,6,7,8/68 Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung
26 5,6,7,8/69 Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen
26 1,2,5,6/70 Lánh trần náu thú sơn lâm
Lá thông đàn tiếng trúc cầm
…
Say hết tấc lòng hồng hộc
Hỏi làm chi sự cổ kim
27 3,4,7,8/71 Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu
Kẻ hãy bằng quỳ hướng thái dương
…
Non quê ngày nọ chiêm bao thấy
Viên hạc chăng hờn lại những thương
28 3,4,5,6/ 73 Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hòe
Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc
Ngày tháng tiêu ma một bát chè.
29 3,4,7,8,/75 Áng cúc thông quen vầy bậu bạn
Cửa quyền quý ngại lượm chân tay
…
Tuổi năm mươi đầu đã bạc
Ấy còn bìu rịn lấy chi vay
30 1,2,3,4/ 77 Giàu chăng gặp khó còn bằng
Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng
Dò trúc xông qua làn suối
Tìm mai theo đạp bóng trăng
31 1,2/ 78 Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình
Nài bao ngôi cả áng công danh
32 7,8/79 Ngày nhàn gió khoan khoan đến
Thớt thớt cài song giấc hòe
33 1,2,7,8/82 Lọ chi tiên bụt nhọc tìm phương
Được thú an nhàn ngày tháng trường
…
Chữ học ngày xưa quên hết dạng
Chẳng quên có một chữ cương thường
34 5,6/ 86 Công danh lỡ đường vô sự
Non nước ghe chốn hữu tình.
35 1,2/109 Lấy đâu xuất xử trọn hai bề
Được thú làm quan mất thú quê
36 1,2,3,4/ 121 Danh chăng chác lộc chăng cầu
Được ít chẳng bằng mất chẳng âu
Có nước nhiễu song non nhiễu cửa
Còn thơ đầy túi rượu đầy bầu
37 1,2/122 Hoạn nạn nhiều thu tổn khí hào
Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao
38 5,6/123 Đai lân phù hổ lòng chăng ước
Bến trúc đường thông cảnh cực thanh
39 1/ 124 Lấy biêu phú quý đổi biêu nhàn
40 3,4,5,6/125 Tréo chân nằm vườn độc lạc
Chụm lều ở đất Nam Dương
Hoa chăng thay rụng bày chi phấn
Thông xá bù trì mộng cột rường
41 1,2,7,8/ 140 Phú quý thì nhiều kẻ đến chen
Uốn đòi thế thái tính chưa quen.
..
Ruộng nhiều quê tổ năm ba thửa
Tạc tỉnh canh điền tự tại nhàn.
42 5,6,7,8/143 Đem mình non nước nhàn qua tuổi
Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền
Chúc thánh cho tày Nghiêu Thuấn nữa
Được về ở thú điền viên
43 4,7,8/ 150 Đường danh mối lợi hiểm khôn tìm.
...
Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm.
44 1,2,7,8/158 Chân mềm ngại bước dặm mây xanh
Quê cũ tìm về cảnh cực thanh
…
Bui có một niềm trung hiếu cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh
45 5,6,7,8/159 Dưới công danh nhiều thác cả
Trong ẩn dật có cơ mầu
Đạo quân thân dầu ai lỗi
Hổ xanh xanh trốc ở đầu
46 1,2/160 Sóng khơi ngại vượt bể triều quan
Lui tới thì đòi phận miễn an
47 3,4,5,6/165 Nhớ chúa lòng còn đan một tấc
Âu thì tóc đã bạc mười phân
Đìa thanh cá lội in vầng nguyệt
Cây tĩnh chim về rợp bóng xuân
48 1,2,7,8/170 Rồi hóng mát thủa ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
…
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Phụ lục 2: Những câu thơ thể hiện cách ứng xử của Nguyễn Trãi với công danh
trong “Quốc âm thi tập”
Bài/Câu Bài Câu thơ Tổng
Nội dung
Dưới công danh đeo khổ nhục 3 Công danh 15
“hiểm hóc” 6 Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lẩn
20 Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co
27 Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân
49 Chí cũ ta liều nhiều sự hóc
73 Dương trường hiểm hóc khúc co que
80 Chông gai nệ đường danh lợi
Mặn lạt no mùi thế tình
150 Đường danh lối lợi hiểm khôn tìm
156 Khỏi quyền đã lụy kẻo chưng danh
158 Lỗi thác vì nơi lụy bởi danh
159 Dưới công danh nhiều thác cả
160 Dưới công danh nhiều thác cả
Ngâm câu “danh lợi bất như nhàn”
165 Mấy phen lần bước dặm thanh vân
Đeo lợi làm chi luống nhọc thân
166 Phải lụy vì nhân một chữ đinh
168 Thấy bể triều quan đà ngại vượt
Trong dòng phẳng có phong ba
63 Phú quý bao nhiêu người thế gian Công danh 11
như “áng phù Mơ mơ bằng thủa giấc Hòe An
vân”, “giấc Danh thơm một áng mây nổi Hòe” Bạn cũ ba thu lá tàn
73 Phú quý treo sương ngọn cỏ
Công danh gửi kiến cành hòe
78 Tiêu Sái tự nhiên nhẹ hết mình
Nài bao ngôi cả áng công danh
79 Ngày nhàn gió khoan khoan đến
Thớt thớt cài song giấc hòe
84 Chẳng thấy phồn hoa trong thủa nọ
Ít nhiều gửi kiến cành hòe
85 Áng phồn hoa họp mấy trăm đời
108 Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ
Mỉa chuông tàn cảnh thoắt xơ
121 Mấy kẻ công danh nhàn lẵng đẵng
Mồ hoang cỏ lục thấy ai đâu
162 Được thì xem áng công danh dễ
Đến lí cơ hay tạo hóa mầu
165 Mấy phen lần bước dặm thanh vân
Đeo lợi làm chi cho nhọc thân
166 Nối nghiệp tiên nhân đọc một kinh
Chẳng ngờ bước tới áng công danh
6 Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lẩn 29
“Đem công danh đổi lấy Thanh nhàn án sách hãy đeo đai
22 Phú quý chẳng tham thanh tựa nước cần câu”
23 Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Tường đào ngõ mận ngại thung thăng
24 Người tham phú quý người hằng trọng
Ta được thanh nhàn ta xá yêu
27 Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn
Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân
29 Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa
Xá tiếc mình chơi áng thủy vân
30 Đem công danh đổi lấy cần câu
33 Câu ước công danh đổi một cần
34 Chỉn xá lui mà thủ phận
35 Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
46 Trúc mai bạn cũ họp nhau quen
Cửa mận tường đào chân ngại chen
50 Đến trường đào mận ngạc chăng thông
Quê cũ ưa làm chủ cúc thông
52 Những màng lẩn quất vườn lan cúc
Ắt ngại lanh chanh áng mận đào
60 Ngại ở nhân gian lưới trần
Thì nằm thôn dã miễn yên thân
61 Làm quan tha dại tài chăng đủ
Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng
70 Lánh trần náu thú sơn lâm
Lá thông đàn tiếng trúc cầm
75 Áng cúc thông quen vầy bậu bạn
Cửa quyền quý ngại lượm chân tay
77 Một phút thanh nhàn trong thủa ấy
Nghìn vàng ước đổi được hay chăng
78 Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình
Nài bao ngôi cả áng công danh
80 Sách một hai phên làm bậu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
83 Phú quý lòng hơn phú quý danh
Thân hòa tự tại thú hòa thanh
86 Công danh lỡ đường vô sự
Non nước ghe chốn hữu tình
88 Lân la mến cảnh sơn khê
Sự thế nên vong hết mọi bề
102 Chụm tự nhiên lều một căn
Giũ không thay thảy tấm hồng trần
109 Ngòi cạn ưa làm cân cấn
Cửa quyền biếng mặc áo lê thê
121 Danh chăng chác lộc chăng cầu
155 Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại
Hai chữ công danh biếng vả vê
158 Chân mềm ngại bước dặm mây xanh
Cảnh cũ cầm về cảnh cực thanh
169 Bói ở lần tìm non Tạ Phó
Xin về xưa cởi ấn Ngu Khanh
Phụ lục 3: Thống kê những câu thơ, bài thơ thể hiện tư tưởng “thiên mệnh” trong
“Quốc âm thi tập”
Stt Câu/ bài Câu thơ
Sang cùng khó bởi chưng trời 1 1,2/10
Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi
Được thua phú quý dầu thiên mệnh 2 8,9/27
Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn
Cậy trời còn có bấy nhiêu nữa 3 7,8/38
Chi tuổi chăng hiềm kẻ khó khăn
Lồng lộng trời tư chút đâu 4 1,2/40
Nào ai chẳng đội ở trên đầu
Tượng có trời bày đặt vay 5 8/45
Ắt vì sống mệnh ắt văn chương 6 2/71
Chân chạy cánh bay ai mỗ phận 7 7,8/ 73
Thiên công nào có thửa tư che
Trẻ dầu chơi con tạo hóa 8 5,6/78
Già lọ phục thuốc trường sinh
Mới biết doanh hư đà có số 9 7,8/85
Ai từng cải được lòng trời
Giàu mặc phận nguôi lòng ước 10 5/88
Trời phú tính uốn nên hình 11 1/96
Ắt đã trừng trừng nẻo thủa sinh
Bành được thương thua con tạo hóa 12 3,4/103
Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên
Tự nhiên đắp đổi đạo trời 13 1,2/104
Tiêu trưởng doanh hư một phút dời
Hơn thiệt đành phần sự chửa liều 14 1/116
Phúc gặp ngần nào ấy mệnh 15 7,8/135
Làm chi đua nhọc tốn công nhiều
Trời đã có kho vôn tận 16 7,8/146
Dành để nhi tôn khỏi bợ vay
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn 17 1,2/148
Xấu tốt đều rập khuôn
Trong tạo hóa có cơ mầu 18 1/153
Cùng đạt dòm hay này có mệnh 19 7,8/163
Đòi cơ tạo hóa mặc tự nhiên
Làm người biết máy khôn sao 20 1/167
Vắn dài được mất dầu thiên mệnh 21 7/175
Chạy quấy làm chi cho nhọc nhằn
Già mặc số trời đất 22 5/182
Tạo hóa sinh thành đấng khác thường 23 2/217
Dưỡng đỗ trời có ý vay 24 2/223
Trời sinh vật vẫn bằng người 25 1/241
Trời cho tốt lạ mười phân 26 2/246
Phụ lục 4: Những câu thơ, bài thơ nói đến mùa xuân như biểu tượng cho tuổi trẻ
trong “Quốc âm thi tập”
STT Câu/Bài Câu thơ
1 6/2 Chim kêu hoa nở ngày xuân tạnh
2 4/3 Phiến sác ngày xuân ngồi chấm câu
3 7/13 Cuốc chơi xuân khắp mọi đồi
4 6/17 Gió xuân đưa một lảnh lan
5 7/22 Cây đến ngày xuân lá tươi
6 1/33 Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân
7 6/56 Xuân tạnh đường hoa gấm phong
8 6/59 Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời
9 3/193 Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt
10 3/194 Hắc Đế Huyền Minh đà đổi ấn
11 8/195 Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân
12 3/196 Đông phong từng hẹn tin xuân đến
13 4/197 Thức xuân một điểm não lòng nhau
14 2,3/198 Đông đà muộn lại sang xuân
Xuân muộn thì hè lại đổi lần
15 3/200 Lầu hồng có khách cầm xuân ở
16 2,3/201 Lòng xuân nhẫn động ắt khôn tìm
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
17 2/203 Thức xuân kể được mấy phen tươi
18 4/204 Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân
19 1/205 Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
3/207 Xuân ba tháng thì thu ba tháng 20
1/209 Ba xuân thì được chín mươi ngày 21
2/210 Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân 22
1,2/211 Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông quân 23
Nào chốn nào chăng gió xuân
1/214 Giữa mùa đông trổi thức xuân 24
1/216 Người đua nhan sắc thủa xuân dương 25
1/221 Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình 26
4/223 Chúa xuân gẫm càng xưa hay 27
1/224 Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi 28
3/226 Huống lại bảng xuân sơ chiếm được 20
2/227 Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười 30
2/228 Ít bởi vì hoa ít bởi xuân 31
2,3/229 Chớ phụ xuân chớ phụ hoa 32
Hoa có ý thì xuân có ý
4/230 Kịp xuân mựa để má đào phai 33
1/231 Má đào phai hết bởi xuân qua 34
2/235 Xuân nhiều tuổi đã kể dư nghìn 35
1/236 Tự bén hơi xuân tốt lạ thêm 36
1/238 Viện xuân đầm ấm nắng sơ doi 37
2/239 Một phen xuân tới một phen xuân 38
2/242 Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay 39
2/244 Một phát xuân qua một phát trông 40
41 4/246 Rỡ tư mùa một thức xuân
42 4/247 Một phát xuân là một động người
43 7/250 Chúa xuân giáo tập dư ba tháng
44 2/253 Cởi lòng xuân làm sứ thông
45 1/254 Đầm chơi bể học đã nhiều xuân
Phụ lục 5: Thống kê tần số xuất hiện đồng thời mối quan hệ ứng xử Quân – thân
trong “Quốc âm thi tập”
Stt Câu/bài Câu thơ
8/2 1 Đạo làm con lẫn đạo làm tôi
7,8/8 2 Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời áo cha
6/10 3 Trung hiếu niềm xưa mựa nỡ dời
7/12 4 Nợ quân thân chưa báo được
7/30 5 Bui một quân thân ơn cực nặng
6 5,6/39 Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con thì cảm đức cha
8/54 7 Âu còn nợ chúa cùng cha
5,6/65 8 Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị
Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh
9 7/93 Tôi ngươi thì một lòng trung hiếu
10 2,8/94 Luống phụ triều đình luống phụ nhà
…
Ơn thầy ơn chúa lẫn ơn cha
7/100 11 Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu
8/106 12 Một sự quân thân chẳng khứng nguôi
5/111 13 Một niềm trung hiếu làm biêu cả
14 5,6/135 Nuôi con mới biết lòng cha mẹ
Thấy loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu
15 7/158 Bui có một niềm trung hiếu cũ
16 7/159 Đạo quân thân dầu ai lỗi
17 5,6/164 Có con mới biết ơn cha nặng
Dành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều
18 5,6/168 Ba thân hương hỏa nhờ ơn chúa
Một cửa thi thư dõi nghiệp nhà
19 3,4/184 Thờ cha lấy thảo làm phép
Rập chúa hằng ngay lẫn cần
20 7/187 Trung hiếu cương thường lòng đỏ
Phụ lục 6: Thống kê tần số xuất hiện hình ảnh tứ bình trong “Quốc âm thi tập”
Loại cây Tùng (thông) Cúc Trúc (Tre) Mai
5 7 4 2 Bài
12 13 5 4
50 17 7 7
51 22 12 8
61 48 13 12
75 49 16 13
77 50 18 16
95 52 21 20
129 60 28 23
125 71 33 35
143 73 34 46
218 75 39 47
219 77 49 49
220 83 51 50
107 56 51
115 60 60
117 61 77
129 70 81
157 75 82
164 77 84
216 79 86
217 81 90
240 86 97
189 95 107
97 115
110 118
123 119
126 122
154 129
155 143
221 157
222 159
223 164
194 168
200 214
215
224
225
226
Tổng 39 14 24 35