ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

TONGKEO GITHTAVONGSA

THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI CỦA DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đào Thị Vân THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đay là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng

dẫn của PGS.TS. Đào Thị Vân, các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là

hoàn toàn trung thực. Luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công

trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

i

TONGKEO GITHTAVONGSA

LỜI CẢM ỞN

Tôi xin bày tỏ lòng biết sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thị Vân, người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã nhiệt tình chỉ bảo cho tôi

trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các bạn bè, đồng nghiệp đã động

viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TONGKEO GITHTAVONGSA

ii

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ởn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

Danh mục các từ viết tắt ..................................................................................... iv

Danh mục bảng .................................................................................................... v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................................ 10

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 10

1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ ......................................... 10

1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau về

lỗi trong học ngoại ngữ ...................................................................................... 10

1.1.2. Các cách phân loại lỗi .............................................................................. 25

1.2. Sơ lược về lỗi câu, các loại lỗi câu ............................................................. 29

1.2.1. Sơ lược về lỗi câu .................................................................................... 29

1.2.2. Phân loại lỗi câu ...................................................................................... 29

1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 34

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI CỦA

DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN................................... 36

2.1. Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào học ở Đại

học Thái Nguyên đã viết .................................................................................... 36

2.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 36

2.1.2. Kết quả số liệu điều tra ............................................................................ 37

2.2. Phân loại và miêu tả các kiểu câu TV mắc lỗi đã thống kê ........................ 39

2.2.1. Các kiểu câu TV mắc lỗi được phân loại dựa vào tổng số lỗi xuất

hiện trong một câu ............................................................................................. 40

iii

2.2.2 Các câu TV mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi ..................... 45

2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 73

Chƣơng 3. NGUYÊN NHÂN DU HỌC SINH LÀO VIẾT CÂU

TIẾNG VIỆT MẮC LỖI, HƢỚNG SỬA LỖI ............................................. 74

3.1.1. Nguyên nhân thứ nhất: Do hiểu biết L2 (ở đây là tiếng Việt) của

người học còn hạn chế ....................................................................................... 75

3.1.2. Nguyên nhân thứ hai: Do sự tương đồng hay khác biệt giữa L1 và L2 ........ 76

3.1.3. Lỗi do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học chưa tốt ........................ 77

3.2. Về vấn đề sửa câu mắc lỗi cho người học L2 ........................................... 78

3.2.1. Nguyên tắc sửa lỗi ................................................................................... 78

3.2.2. Qui trình sửa lỗi ....................................................................................... 79

3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 96

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 98

iv

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT Từ viết tắt Từ nguyên gốc

1 L1 Ngôn ngữ thứ nhất

2 L2 Ngôn ngữ thứ hai (ngoại ngữ)

3 TV Tiếng Việt

4 ĐT đối tượng

5 SL số lượng

6 TL tỉ lệ

iv

7 TT Thứ tự

DANH MỤC BẢNG

Trang

Bảng 2.1.a. Bảng tổng kết số câu mắc lỗi của du học sinh Lào ........................ 38

Bảng 2.1.b: Bảng tổng kết số lượt xuất hiện lỗi theo từng đối tượng (tỉ lệ

phần trăm tính trên tổng số lỗi đã thống kê của cả hai đối tượng:

3000 lượt lỗi / 1765 câu mắc lỗi) ...................................................... 38

Bảng 2.1.c: Bảng tổng kết số câu mắc lỗi (1765 câu) của sinh viên thuộc 2

đối tượng tính theo số bài kiểm tra (50 bài). ..................................... 39

Bảng 2.2.a: Bảng tổng kết câu mắc 1 lỗi ........................................................... 41

Bảng 2.2.b: Câu tiếng Việt mắc 2 lỗi ................................................................ 42

Bảng 2.2.c: Bảng tổng kết kiểu câu mắc ba lỗi (% tính theo số câu mắc 3 lỗi) .... 43

Bảng 2.2.d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc bốn lỗi ............................................... 44

Bảng 2.2.e: Bảng tổng kết các kiểu câu mắc lỗi tính theo số lượt lỗi/câu (Tỉ

lệ % tính theo tổng số câu mắc lỗi:1765) .......................................... 44

Bảng 2.3: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi được phân loại theo đặc

trưng của lỗi ....................................................................................... 47

Bảng 2.3.a: Bảng tổng kết câu mắc lỗi chính tả ................................................ 52

Bảng 2.3.b: Bảng tổng kết các câu mắc lỗi từ ngữ ............................................ 53

Bảng 2.3.c: Bảng tổng kết số lượng câu sai cấu trúc đã thống kê ..................... 57

Bảng 2,3,d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thuộc hai đối tượng

khảo sát .............................................................................................. 63

Bảng 2.3.e: Bảng tổng kết câu mắc lỗi ngữ nghĩa tính theo số bài kiểm tra (50 bài) ...... 64

Bảng 2.3.h .......................................................................................................... 66

Bảng 2.3.h‟: Bảng tổng kết tần số xuất hiện câu mắc lỗi liên kết trên một

bài kiểm tra (25) ................................................................................ 67

Bảng 2.3.i: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi tổng hợp ...................................... 70

v

Bảng 2.3.j: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi của du học sinh Lào ở ĐHTN ..... 72

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày một phát triển, việc giao lưu

văn hoá giữa các nước cũng được mở rộng không ngừng. Một điều dễ nhận

thấy là trong mấy năm gần đây, sinh viên các nước theo học ngoại ngữ khá

đông, trong đó có không ít sinh viên Việt Nam đi du học và ngược lại, con số

sinh viên nước ngoài học tiếng Việt cũng không phải là nhỏ.

1.2. Thực tế sử dụng tiếng Việt của sinh viên Lào học tiếng Việt cho thấy, các

em còn mắc khá nhiều lỗi về phát âm, dùng từ, đặt câu...

Có thể nói, khi học ngoại ngữ, nếu lỗi bị vi phạm nhiều lần mà không

được lưu ý, điều chỉnh thì người học (bản thân người mắc lỗi và cả những

người không mắc lỗi trong lớp học) vô hình chung tự cho rằng nói, viết như thế

là đúng và do vậy những lỗi đó có nhiều nguy cơ trở thành cố tật. Một khi lỗi

biến thành cố tật thì không những khó sửa chữa mà còn trở thành nguyên nhân

quan trọng cản trở sự thành công của người học ngoại ngữ nói chung và của

sinh viên Lào khi học tiếng Việt nói riêng.

Vì lẽ đó, người dạy và người học ngoại ngữ cần phải phát hiện ra các lỗi

sử dụng ngôn ngữ thứ hai với tư cách là một ngoại ngữ, biết tìm ra nguyên

nhân cũng như cách khắc phục những lỗi đó.

1.3. Chọn đề tài “Thực trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của du học sinh Lào ở

Đại học Thái Nguyên” để nghiên cứu, người viết hi vọng sẽ góp phần làm rõ

thêm các kiểu lỗi về câu, xu hướng và nguyên nhân mắc lỗi câu trên bình diện

lí luận, đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và học

sinh Lào khi dạy - học tiếng Việt.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về việc nghiên cứu lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 của người học ngoại ngữ

Trước khi ngành Phân tích đối chiếu (CA- Contrastive Analysis) ra đời

1

(khoảng giữa thế kỉ XIX), hướng nghiên cứu về lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 -

ngoại ngữ (L2) của người học (NH) ngoại ngữ chưa được giới nghiên cứu ngôn

ngữ học quan tâm một cách thoả đáng.

Ngành phân tích đối chiếu ra đời và đã lấy trường tâm lí hành vi luận

(behaviorism) làm căn cứ lí luận khi đưa ra quan điểm: lực cản duy nhất khiến

người học ngoại ngữ không đạt kết quả như mong muốn là sự can thiệp không

nên có của thói quen từ tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ nhất (L1) của người học;

và tất cả lỗi trong quá trình học ngoại ngữ là do sự khác biệt giữa L1 và L2. Sự

khác biệt giữa hai ngôn ngữ (L1 và L2) chẳng những là nguyên nhân gây ra lỗi

mà còn là bức tường rào tạo ra những khó khăn cho người học. Chính vì vậy,

việc đối chiếu L1 và L2, chỉ ra được sự khác nhau giữa chúng sẽ là chìa

khoá giải quyết vấn đề phát hiện lỗi và sửa lỗi khi học ngôn ngữ

thứ hai.

Quan điểm nói trên của lí thuyết ngành phân tích đối chiếu đã gây ra sự

hoài nghi về nguyên nhân gây lỗi của người học L2 trong giới nghiên cứu ngôn

ngữ và thúc đẩy hàng loạt các công trình nghiên cứu lỗi L2 của người học tiếng

Anh ra đời vào đầu những năm 70, thế kỉ trước của các học giả nước ngoài. Có

thể kể ra một số công trình tiêu biểu, như:

- Grauberg, W. (1971), “An error analysis in the German of first-year

univesity students” in Perren and Trim (eds) 1971.

- George, H. (1972), Common errors in language learning: insights from

English, Rowley maass: Newbury House.

- Dulay, H and M. Burt (1984), “You can‟t learn without goofing, An

analysis of children‟s second language errors”, in Error Analysis edited by Jack

C. Richards, London and New York: Longman, 95-123.

- Tran Thi Chau (1974), “Error analysis, contrastive analysis and

students‟ perception: a study of difficulty in second language learning”,

International Review of applied Lingguistics 13, 43-119.

Kết quả nghiên cứu của các công trình dẫn trên cho thấy, yếu tố L1 chỉ là

2

một trong những nguyên nhân gây lỗi của người học. Hơn nữa, tỉ lệ mắc lỗi do

nguyên nhân này cũng chỉ chiếm một phần không lớn lắm và rất khác nhau

giữa các công trình. Theo tác giả W.Grauberg, tỉ lệ mắc lỗi do sự khác biệt giữa

L1 và L2 là 36%, còn của tác giả Trần Thị Châu là 51% và của tác giả H.

Dulay và M. Burt chỉ có 3%. [46, tr 6].

Gần đây, hướng nghiên cứu trên thế giới đã bắt đầu đi vào tìm hiểu lỗi

trong từng kĩ năng, nhất là kĩ năng viết của người học (trên cứ liệu nghiên cứu

lỗi của người học tiếng Anh).

Có thể dẫn ra một số tác giả tiêu biểu như:

- Cohen, A. (1987), “Student processing of feedback on their

compositions” in Wendon, A. and J. Rubin (eds), Learner strategies in learning,

57-69, UK: Prentice Hall International.

- Cumming, A. (1989), “Writing expertise and second language

proficiency”, Language learning, 39, 81-141.

- Ferris, D. (1995), “Student reactions to teacher response in multiple-

draft comprosition classrooms”, TESOL quarterly, 31,315-339.

- Sengupta, S. (2000), “An investigation into the effects of revision

strategy instruction on L2 secondary school learners”, System 28, 97-113.

- Myles, J. (2002), “Second language writing and research: the writing

process and error analysis in student texs”, TESL-EJ 6(2), w w w.kyoto-su.ac,

retrieved on 6 October, 2005.

Theo Johanne Myles, lỗi tỉ lệ thuận với mức độ phức tạp nội dung bài viết

và bốn nguyên nhân chính gây ra lỗi trong khi viết là: 1) Chuyển di L1 (tức

chuyển di tiếng mẹ đẻ), 2) Áp dụng thái quá quy tắc, 3) Người học không chắc

chắn về nội dung ý tưởng (tức không xác định rõ nội dung bài viết) và 4) Thiếu

nhận thức về câu, cấu trúc văn bản.

Ở Việt Nam, trong hơn chục năm trở lại đây đã có một số công trình

nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ (cũng dựa trên ngữ liệu lỗi của người

3

học tiếng Anh), như:

- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2001), “Một số quan niệm khác nhau

về lỗi trong quá trình dạy và học tiếng nước ngoài”, Ngôn ngữ, số 14, 59-66.

- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2002), “Thử đề xuất một cách phân

loại lỗi của người học ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ -

văn hoá”, Ngôn ngữ, số 9, 58-72.

- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2003), “Khảo sát lỗi giao thoa

ngôn ngữ - văn hoá trong diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh”, Luận

án TS Ngữ Văn.

Ngoài những công trình của tác giả Nguyễn Đăng Bình vừa dẫn, còn

một số bài viết của một vài tác giả khác cũng bàn về lỗi của người Việt khi học

tiếng Anh, xin dẫn ra dưới đây:

- Dẫn theo tác giả Cao Thị Thu (2004), “Phân biệt cách dùng một số

động từ tiếng Anh thường bị mắc lỗi ở người Việt”, Ngôn ngữ, số 10, 72-77.

- Dẫn theo tác giả Trần Kim Phượng (2005), “Những lỗi thường gặp về

trật tự từ ở người Việt học tiếng Anh”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10, 28-29.

- Dẫn theo tác giả Hoàng Tuyết Minh (2005), “Lỗi thường mắc của học

viên người Việt khi sử dụng những động từ nhóm Become”, Hội thảo Quốc tế

Ngôn ngữ học Liên Á VI, 444 - 451.

- Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng (2007), “Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thường

gặp của người Việt Nam”, Luận án TS Ngữ Văn, ĐHQG Tp HCM- 2007.

Dẫn theo tác giả Phạm Xuân Bình, “… mặc dù việc học tiếng Anh ngoại

ngữ đã có từ lâu, (nhưng - chúng tôi thêm từ này - Tóng Kẹo) hoạt động nghiên

cứu lỗi của người Việt học TA ngoại ngữ chưa nhiều, chưa có hệ thống, và

cũng chưa có các đầu sách chuyên sâu về vấn đề này” [46, tr 11].

Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Đăng Bình đã đánh dấu một bước tiến

mới cần ghi nhận: tác giả đã phân tích lỗi của người học ngoại ngữ từ nhiều góc

độ: Từ các lí thuyết của ngôn ngữ học cấu trúc hành vi luận, ngôn ngữ học chức

4

năng, tâm lí học ngôn ngữ, ngôn ngữ học đối chiếu đến lí thuyết giao tiếp liên

văn hoá đều được tác giả vận dụng để phân tích các kiểu lỗi. Phải khẳng định

rằng, đóng góp quan trọng dễ nhận thấy của tác giả là đã đề xuất cách phân loại

lỗi từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hoá chung cho tất cả các đối

tượng học ngoại ngữ, bất kể người học có ngôn ngữ mẹ đẻ là gì.

Dẫn the tác giả Lê Tuyết Ngọc, qua khảo sát lỗi tiếng Anh của 100 sinh

viên ở trường ĐH Công nghệ Hà Nội, đã chia các lỗi này thành 7 loại và qui về

3 nguyên nhân gây lỗi, là: 1) Chương trình và tài liệu giảng dạy không hoàn

toàn thích hợp; 2) Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn hoặc thiếu kinh nghiệm

giảng dạy; và 3) Người học chưa được cung cấp đầy đủ kiến thức về ngữ pháp

tiếng Anh và kĩ năng viết.

Dẫn the tác giả Đỗ Minh Hùng đã tập trung khảo sát ba bộ phận ngữ

pháp thường mắc lỗi nhiều nhất trong sử dụng tiếng Anh của người học ngoại ngữ,

cụ thể ở đây là lỗi của người Việt về sử dụng giới từ, mạo từ và thì dựa trên lí

thuyết phân tích lỗi, ngữ hệ trung gian và chiến lược học tiếng của người học L2.

Tóm lại, việc nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ đã được giới

nghiên cứu ngôn ngữ học quan tâm nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng nhất

về quan điểm nguyên nhân mắc lỗi của người học ngoại ngữ. Các công trình

chủ yếu là dành tìm hiểu những lỗi sử dụng L2 - ở đây là tiếng Anh - của người

học. Kết quả nghiên cứu về lỗi ngữ pháp tiếng Anh ở các nước nhìn chung đều

thống nhất ở chỗ không cho ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ hay việc chuyển di tiêu

cực của người học là nguyên nhân duy nhất gây ra lỗi sử dụng L2. Hơn nữa,

mỗi công trình tuy đều cố gắng chỉ ra một vài kiểu lỗi với những góc nhìn khác

nhau nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết các loại lỗi và các

nguyên nhân gây lỗi một cách đầy đủ, toàn diện.

2.2. Về tình hình nghiên cứu lỗi sử dụng tiếng Việt

Có thể nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về

việc sử dụng tiếng Việt không đúng. Đối tượng sử dụng tiếng Việt ở đây là

5

những người dùng tiếng Việt nói chung: Đó có thể là người Việt nam với tư

cách là người sử dụng L1, có thể là người nước ngoài với tư cách là người sử

dụng L2.

Đã có những công trình in thành sách và dùng làm giáo trình thực hành ở

một số trường Đại học, Cao đẳng, xin liệt kê một vài công trình tiêu biểu:

(1) Diệp Quang Ban, 1976, Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu

tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 3 – 1976;

(2) Nguyễn Đức Dân, 1995, Tiếng Việt (thực hành), Tp Hồ Chí Minh:

Đại học Tổng hợp, Tp HCM;

(3) Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang, 1992, 1993, Câu sai và câu

mơ hồ, Nxb GD, 1992, 1993;

(4) Nguyễn Minh Thuyết, 1974, Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi

ngữ pháp cho học sinh, Ngôn ngữ, số 1 – 1975;

(5) Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, 1997, Tiếng Việt thực hành,

Nxb ĐH Quốc Gia HN. Đến nay đã thấymột số công trình nghiên cứu những lỗi

sử dụng tiếng Việt của người nước ngoài nói chung, của người Lào nói riêng,

xin dẫn một vài công trình tiêu biểu:

(1) Lê Xảo Bình (2004), Lỗi của người Trung Quốc học tiếng Việt nhìn

từ góc độ xuyên văn hoá (xét về khía cạnh từ vựng), Luận văn Thạc sĩ, Trường

Đại học Quốc gia Hà Nội.

(2) Mã Á Lệ (2011), Thực trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên

Trung Quốc chuyên ngành Tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư

phạm, Đại học Thái Nguyên.

(3) SoudChai Simmalavong (2011), Bước đầu khảo sát lỗi ngữ âm của

sinh viên Lào học tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN.

Trong công trình này, tác giả đã trình bày về những loại lỗi ngữ âm mà

người Lào thường mắc khi nói tiếng Việt, như: lỗi về phát âm thanh điệu. lỗi

6

phát âm phụ âm đầu hay lỗi phát âm phần vần trong âm tiết tiếng Việt, v.v…

(4) Hứa Thị Chính (2013), Lỗi sử dụng một số hành vi ngôn ngữ của học

viên Lào học tiếng Việt (Đoàn 871 – TCCT), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.

Luận văn tập trung miêu tả lỗi sử dụng hành vi khen trong tiếng Việt của

học viên quân sự Lào qua các lỗi ngữ dụng, lỗi dùng từ, lỗi ngữ pháp, v.v…

Tóm lại, các công trình vừa dẫn đều ít nhiều nhắc đến lỗi sử dụng tiếng

Việt của người Việt hoặc người nước ngoài song chưa có một công trình nào

dành riêng nghiên cứu về lỗi viết câu tiếng Việt một cách toàn diện. Có thể nói

thêm, đến nay, vấn đề nghiên cứu những lỗi viết câu tiếng Việt thường gặp của

người Lào vẫn đang là vấn đề còn bỏ ngỏ.

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những lỗi viết câu tiếng Việt thường

gặp của sinh viên Lào (dựa trên đối tượng khảo sát là bài kiểm tra của sinh viên

học Lào học tiếng Việt tại một số trường Đại học, thuộc Đại học Thái Nguyên).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về đối tượng khảo sát: Xét trên bình diện hình thức sử dụng, câu có thể

được dùng ở dạng nói hay dạng viết. Như nói ở trên, luận văn này chỉ xem xét

câu tiếng Việt mắc lỗi trên các văn bản viết là bài kiểm tra của du học sinh Lào

thuộc đối tượng nói trên.

- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu câu mắc lỗi ở

năm phương diện: 1) Câu mắc lỗi về mặt chính tả; 2) Câu mắc lỗi dùng từ; 3)

Câu mắc lỗi về phương diện ngữ nghĩa; 4) Câu mắc lỗi về phương diện ngữ

pháp, và 5) Câu mắc lỗi về phương diện liên kết.

4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm trả lời các câu hỏi sau:

(1) Những dạng câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào thường viết là gì?

(2) Nguyên nhân nào gây nên những lỗi câu đó ở người viết (cụ thể là du

7

học sinh Lào tại các Trường Đại học, thuộc Đại học Thái Nguyên)?

(3) Việc sửa những câu mắc lỗi nên theo định hướng nào?

(4) Luận văn có thể được dùng vào việc gì?

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ

chính sau đây:

(1) Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho

việc xử lí đề tài;

(2) Khảo sát, thống kê những câu tiếng Việt mắc lỗi mà các em sinh viên

thuộc đối tượng nói ở mục 3.1;

(3) Phân loại, miêu tả, phân tích và tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo

từng tiêu chí đã định trước;

(4) Tìm nguyên nhân gây những lỗi viết câu TV cho người học và đề xuất

phương hướng khắc phục.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu

chủ yếu sau đây:

- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được

dùng để thống kê và phân loại những câu mắc lỗi trên bài kiểm tra của sinh

viên Lào thuộc đối tượng đã nói ở mục 3.1.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích được dùng để

phân tích các câu mắc lỗi đã thống kê để tìm ra các loại lỗi. Phương pháp tổng

hợp được dùng để tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo từng tiêu chí và kết luận

những kết quả đã nghiên cứu được.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp so sánh, đối chiếu được

dùng để so sánh những điểm đồng nhất và khác biệt giữa L1 và L2 hay sự đồng

nhất và khác biệt giữa 2 nền văn hoá để tìm ra tìm ra nguyên nhân và cách sửa

8

những câu mắc lỗi.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận

Chương này trình bày những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài như:

1. Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ

2. Lỗi về câu, quan điểm về lỗi câu, các loại lỗi câu.

3. Lí thuyết về văn hoá, giao thoa văn hoá và vấn đề học ngoại ngữ.

Chương 2: Thực trạng mắc lỗi về câu tiếng Việt trên văn bản viết

của du học sinh Lào tại Đại học Thái Nguyên

Chương này trình bày 2 nội dung lớn:

1. Kết quả khảo sát;

2. Phân loại các lỗi về câu trên văn bản viết của sinh viên Lào.

Chương 3: Nguyên nhân mắc lỗi viết câu tiếng Việt của sinh viên

Lào và hƣớng sửa lỗi

Chương này trình bày 2 nội dung lớn:

1) Nguyên nhân mắc lỗi viết câu TV của sinh viên Lào.

9

2) Hướng sửa lỗi viết câu TV cho sinh viên Lào.

NỘI DUNG CHÍNH

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN

Để thực hiện đề tài này, Luận văn đã tiếp thu có chọn lọc một số lí thuyết

của một số nhà nghiên cứu đi trước để làm căn cứ lí luận, đó là:

1. Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ;

2. Lí thuyết về câu, quan điểm về lỗi câu, các kiểu lỗi câu;

3. Lí thuyết về văn hoá, giao thoa văn hoá và vấn đề học ngoại ngữ.

1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ

1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau về

lỗi trong học ngoại ngữ

1.1.1.1. Khái niệm lỗi sử dụng ngoại ngữ

Đã có khá nhiều định nghĩa cũng như quan niệm về lỗi sử dụng ngoại

ngữ (ngôn ngữ thứ 2 – L2). Xin dẫn 2 định nghĩa được nhiều người nhắc đến:

Dẫn theo tác giả Allwright, D.and K.M.Bailey “Lỗi của người học

ngoại ngữ là tạo ra một sản phẩm hình thức ngôn ngữ đi lệch chuẩn của hình

thức ngôn ngữ đúng”. [46, tr 24].

Dẫn theo tác giả Brown, H.D, “Lỗi là hiện tượng vi phạm quy tắc ngữ

pháp của người bản ngữ, phản ánh năng lực ngôn ngữ trung gian của người

học”. [46, tr 24].

Luận văn này theo quan điểm của nhóm tác giả thứ nhất về khái niệm

lỗi sử dụng ngoại ngữ của người học.

Trong khuôn khổ luận văn này, để xác định tiếng Việt chuẩn, chúng tôi

dựa vào những tri thức về chính âm, chính tả, ngữ pháp tiếng Việt được GS.TS

Nguyễn Đức Dân trình bày trong cuốn “Giáo trình tiếng Việt thực hành”, Đại

10

học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002.

1.1.1.2. Những quan niệm khác nhau về lỗi người học sử dụng L2

Đã có những quan niệm khác nhau, thậm chí là trái chiều nhau về hiện

tượng vi phạm lỗi của người học L2. Dưới đây là một số quan điểm tiêu biểu:

a) Lỗi theo quan điểm hành vi luận:

Thuyết hành vi được các nhà tâm lí học như J. watson, B. Skinner khởi

xướng từ những năm 60 của thế kỉ trước. Brown, H.D. Chomsky, N. Ellis, R

là ba nhà ngôn ngữ học tiêu biểu theo quan điểm hành vi luận khi xem xét lỗi

của người học ngoại ngữ.

Theo thuyết hành vi, thói quen có hai đặc tính cơ bản: 1) Thói quen thể

hiện qua hành vi, cử chỉ, động tác và có thể quan sát được giống như có thể

quan sát những sự vật hiện hữu trong thế giới khách quan; 2) Thói quen có tính

tự động, máy móc. Vì có tính tự động, máy móc cho nên một khi thói quen đã

được xác lập thì nó rất khó bị tiêu diệt khi có môi trường tạo lập thói quen mới

tương tự.

Các nhà tâm lí học hành vi luận cho rằng, việc tạo lập thói quen có thể

thực hiện bằng hai cách: 1) Thông qua cơ chế bắt chước, mô phỏng; và 2)

Thông qua cơ chế khuyến khích, tăng cường.

Áp dụng hai nguyên lí này trong dạy - học ngoại ngữ, người dạy có thể

giúp người học tạo lập kích thích, phản ứng cho đến khi trở thành tự động. Ví

dụ, dạy và luyện phát âm chẳng hạn, người học thực hiện phản ứng khi được

nhận kích thích từ bên ngoài (chẳng hạn như nghe được âm nào đó do giáo viên

phát ra), họ sẽ bắt chước đến khi âm được luyện trở thành kĩ năng, tức có thể

phát ra như một thói quen khi cần.

Lí thuyết hành vi là lí thuyết của việc học nói chung và học ngoại ngữ nói

riêng. Hành vi luận khẳng định rằng việc học ngoại ngữ (L2) là việc tạo lập

những thói quen mới khi người học đã có sẵn những thói quen cũ của tiếng mẹ

đẻ (L1). Vì vậy, quá trình hình thành thói quen mới khi sử dụng L2 tất yếu sẽ

11

chịu sự tác động và ảnh hưởng của thói quen cũ từ L1 mà lí do đã nói ở trên

(thói quen hay phản ứng cũ rất khó bị loại bỏ triệt để nếu trong quá trình tạo

thói quen mới có điều kiện tương tự).

Từ cách nhìn này, các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm của lí thuyết

hành vi luận đã cho nguyên nhân mắc lỗi của người học khi học ngoại ngữ

chính là do sự chuyển di thói quen trong sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ. Một điều

cực đoan của các nhà hành vi luận là đã xem lỗi sử dụng L2 của người học là

một cái xấu do người học thiếu tập trung, lơ đãng trong học tập và không biết

ngăn ngừa sự can thiệp của thói quen cũ đã có khi sử dụng L1. Vì xem lỗi là

một biểu hiện của thói xấu trong quá trình thụ đắc L2 nên các nhà hành vi luận

nhấn mạnh tới việc phải giúp người học L2 sửa chữa, loại trừ lỗi trước khi nó

trở thành thói quen.

Hành vi luận mới chỉ nhìn thấy mặt trái của lỗi biểu hiện trên bề mặt sản

phẩm của người học, cho lỗi hoàn toàn là trách nhiệm của người học.

b) Lỗi theo quan điểm phân tích, đối chiếu

Vì ra đời trên cơ sở của trường phái tâm lí hành vi luận nên cái nhìn của

các nhà ngôn ngữ học đối chiếu về lỗi của người học L2 tuy có vài điểm trùng

với quan điểm của các nhà hành vi luận nhưng vẫn có những điểm

khác biệt.

Nếu như hành vi luận có xu hướng chỉ tập trung vào mặt tiêu cực của

hành vi phạm lỗi của người học và chủ trương tìm mọi cách loại trừ lỗi một

cách triệt để bằng cách không cho thói quen cũ trong sử dụng L1 can thiệp vào

quá trình hình thành thói quen mới trong L2, thì ngôn ngữ học đối chiếu có cái

nhìn rộng hơn, xem xét lỗi trên hai bình diện: ngôn ngữ và tâm lí.

Các nhà nghiên cứu theo quan điểm phân tích, đối chiếu cho rằng, không

nên mắc lỗi trong quá trình học ngoại ngữ. Cần phải nghiêm khắc sửa chữa lỗi

khi thụ đắc L2. Theo các nhà ngôn ngữ học phân tích đối chiếu, nguyên nhân

chính gây ra lỗi của người học ngoại ngữ là sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ, tức

12

khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ 2 - ngoại ngữ mà người học đang

tiến hành thụ đắc. Vì thế, khi dạy - học ngôn ngữ thứ hai, cần phải so sánh, đối

chiếu hai ngôn ngữ để tìm ra sự khác biệt giữa chúng, trên cơ sở đó giải thích,

dự đoán các lỗi mà người học đã hoặc có thể mắc phải. Và một khi đã tìm ra

nguyên nhân mắc lỗi của người học thì người dạy có thể tìm ra hướng khắc

phục các lỗi cho họ.

Tóm lại, khác với các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm hành vi luận hầu

như chỉ quan tâm đến vai trò của thói quen khi phân tích nguyên nhân mắc lỗi

của người học, các nhà ngôn ngữ học đối chiếu đã có cái nhìn rộng hơn khi

xem xét lỗi của người học L2. Điều này thể hiện ở chỗ các nhà ngôn ngữ học

đối chiếu đã đứng trên cả bình diện tâm lí (lỗi của người học một phần do thói

quen) và bình diện ngôn ngữ (người học mắc lỗi một phần do sự khác biệt giữa

hai ngôn ngữ) để xem xét lỗi. Tuy nhiên, dường như các nhà ngôn ngữ học đối

chiếu có vẻ nghiêng về lí do thứ hai hơn, khi họ khẳng định “Tài liệu hiệu quả

nhất là các tài liệu xây dựng trên cơ sở miêu tả một cách khoa học ngôn ngữ

đích (tức L2 – Tóng kẹo), so sánh một cách chi tiết với hệ thống ngôn ngữ mẹ

đẻ của người học”. [ 45, tr. 85].

c) Lỗi theo quan điểm giao thoa văn hoá

Trước khi tìm hiểu lỗi trên quan điểm giao thoa văn hoá, cần hiểu khái

niệm Văn hoá.

Cần phải nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về Văn hoá.

Văn hóa (culture), theo Damen, “…là những kiểu dạng hay mô hình sinh

sống mà con người biết và cùng chia sẻ; những kiểu dạng, mô hình diễn ra

hàng ngày trong tất cả các lĩnh vực tương tác xã hội; văn hóa là cơ chế thích

nghi cơ bản của con người”. [46, tr. 365].

Tác giả Lê Xảo Bình [6; tr. 11] đã đưa ra con số là hơn 160.

Theo cuốn Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, H. 2000, khái niệm

13

văn hoá được hiểu như sau:

- Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng

tạo ra trong quá trình lịch sử;

- Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh

thần- nói một cách tổng quát.

- Tri thức kiến thức khoa học;

- Trình độ cao trong sinh hoạt văn hoá xã hội, biểu hiện của văn minh;

- Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một

tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau.

Luận văn này tạm theo quan điểm của nhà nhân học người Anh, EB.

Tylor. Tác giả quan niệm: “Văn hoá hay văn minh hiểu theo nghĩa dân tộc bao

quát của nó, là một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,

đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh

hội bởi con người với tư cách là thành viên của xã hội”. [6, tr.11].

Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một loại hình tương tác xã hội cơ bản nhất của

con người. Do đó, hoạt động ngôn ngữ tất yếu chịu sự chi phối của yếu tố văn

hoá và ngược lại văn hoá cũng có tác động trở lại đối với ngôn ngữ. Đúng như tác

giả Lê Xảo Bình đã khẳng định: “Ngôn ngữ là sản phẩm tín hiệu phản ánh hoạt

động của con người, vì thế hoạt động của con người ảnh hưởng đến mọi mặt của

ngôn ngữ, kể cả cách quan niệm, tư duy, và diễn đạt ngôn ngữ…”. [6; tr.11].

Luận văn này không nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ, ảnh hưởng lẫn

nhau giữa văn hoá và ngôn ngữ mà chỉ nhấn mạnh lỗi của người học ngoại ngữ

theo quan điểm giao thoa văn hoá.

Từ góc nhìn giao thoa văn hoá, tác giả Đỗ Minh Hùng cho rằng, “…

người học ngoại ngữ có thể mắc lỗi không phải đơn thuần vì sự khác biệt về

yếu tố bề mặt, yếu tố hình thức giữa L1 và L2, mà sự khác biệt về hai nền văn

hoá, sự hiểu biết về văn hoá trong L2 cũng là một nguyên nhân chính khác dẫn

14

đến hiện tượng vi phạm lỗi, cản trở hiệu năng giao tiếp của NH L2”. [46; tr. 33].

Không phải đến bây giờ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ mới chỉ ra một

trong những nguyên nhân dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là sự khác

biệt về văn hoá mà ngay từ năm 1957, nhà ngôn ngữ học R. Lado đã tính đến

sự khác biệt về văn hoá khi so sánh các ngôn ngữ. Tác giả đã có lí khi khẳng

định rằng: “Nếu so sánh ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chỉ ra được

sự giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ và hai nền văn hoá thì giáo viên sẽ

ý thức được khó khăn thực sự của người học là gì và từ đó có thể dạy tốt hơn”.

[44; tr. 11].

Tóm lại, Người học L2 có thể mắc lỗi không phải đơn thuần vì sự khác

biệt về yếu tố bề mặt, yếu tố hình thức ngôn ngữ giữa L1 và l2, mà sự khác biệt

về hai nền văn hóa, sự thiếu hiểu biết về văn hóa trong L2 cũng là một nguyên

nhân dẫn đến hiện tượng vi phạm lỗi, cản trở hiệu năng giao tiếp của người học

L2. Chỉ ra sự khác biệt về văn hoá và thấy được đây là một trong những nguyên

nhân sâu sa dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là một bước tiến của ngành

Ngôn ngữ học cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn. Vì vậy, khi dạy ngoại ngữ không

nên bỏ qua yếu tố văn hoá trong việc phát hiện và sửa lỗi cho người học.

d) Lỗi theo quan điểm phương pháp giao tiếp

Nếu như quan điểm dạy tiếng theo phương pháp cổ điển (dựa trên lí

thuyết cấu trúc luận) chỉ coi trọng việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc

của ngôn ngữ thì quan điểm dạy tiếng theo phương pháp giao tiếp lại vừa chú ý

tới việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc ngôn ngữ, vừa chú ý tới việc rèn

luyện thực hành ki năng giao tiếp cho họ.

Nội dung cốt lõi của phương pháp giao tiếp là: Giao tiếp hướng tới khả

năng truyền đạt nghĩa của ngôn ngữ; giao tiếp được áp dụng trong cả bốn kĩ

năng Nghe, nói, đọc, viết; và đặc biệt, bên cạnh tính chính xác trong hình thức

thì tính chất phù hợp trong sử dụng ngôn ngữ cần được lưu ý xem xét.

Dưới cái nhìn của phương pháp giao tiếp, lỗi sử dụng L2 của người học

15

không hoàn toàn là “thói xấu”, “cần phải kiên quyết loại bỏ ngay khi chưa

thành thói quen” mà lỗi của người học L2 là một tín hiệu tích cực của quá trình

học tập. Lỗi cho biết người học đang tự mình tạo lập câu, phát ngôn để trình

bày ý muốn nói, chứ không hoàn toàn lặp lại chính xác những gì đã học hoặc

theo kiểu mẫu của người dạy…. Những người theo quan điểm phương pháp

giao tiếp còn nhấn mạnh: “…vì đang trong quá trình học tập nên những gì

người học nói, viết chưa phải là những sản phẩm hoàn hảo, tức lỗi là một phần

tất yếu trong sản phẩm” [46, tr. 36]. Thậm chí, có tác giả còn cho rằng,

“…không có lỗi tức là người học chưa học được gì mới và việc sửa lỗi là một

phần quan trọng của bài học” [46; tr. 36]. Hay, “Lỗi không là sự ngu dốt, không

cản trở hoạt năng trong học tập…, mà trái lại nó cho biết người học đang thực

hiện công việc học tập – nghiên cứu đang trong giai đoạn trải nghiệm cách hiểu,

cách tri nhận của mình về những đặc tính hệ thống L2 bằng cách vận dụng thử

nghiệm những gì đã biết từ thực tế sử dụng L1”. [46, tr. 36].

Chiến lược giao tiếp liên quan trực tiếp đến hiện tượng vi phạm lỗi có thể

bao gồm hai trường hợp chủ yếu, đó là:1) Chuyển dịch tương ứng 1-1 giữa hai

ngôn ngữ và 2) thay thế, giải thích.

- Về chiến lược chuyển dịch tương ứng 1-1: Tương ứng 1-1 ở đây bao

gồm cả số lượng và trật tự từ. Chiến lược chuyển dịch là chiến lược được sử

dụng nhiều nhất trong học ngoại ngữ bởi nó không gây khó khăn cho người học.

Song, chiến lược này trên thực tế chỉ giúp người học không mắc lỗi khi hai

ngôn ngữ (L1 và L2) có sự tương đồng trên cả ba bình diện: Kết học, nghĩa học

và dụng học. Điều đó cho ta thấy người Trung Quốc học tiếng Việt sử dụng

chiến lược chuyển dịch có nhiều bất lợi vì sự khác biệt khá lớn giữa hai ngôn

ngữ này, chẳng hạn như sự khác biệt về hệ thống ngữ âm, về trật tự các thành

tố của câu.

- Về chiến lược thay thế / giải thích: Chiến lược này thường liên quan đến

16

vốn từ vựng của người học. Vì muốn nói bằng L2 nhưng không có từ chính xác,

người học phải chọn từ khác thay thế có nghĩa tương đương hoặc giải thích dài

dòng. Cả hai cách này đều sinh lỗi. Ví dụ, vì không nắm vững nghĩa và cách sử

dụng của từ ăn và từ uống, hút trong tiếng Việt khác với từ có nghĩa tương

đương này của tiếng Lào (kin): kin khau (ăn cơm), kin nặm (uống nước), kin

nha (uống thuốc) cho nên người Lào đôi khi bị mắc lỗi dùng các từ này. Có

em đã dùng từ ăn thay vì phải dùng từ uống: “Mời cô giáo ăn nước” (Chăn

Ha Daola suok, lớp Xã hội). Từ ví dụ vừa dẫn có thể thấy rằng, chiến lược

thay thế / giải thích lí giải vì sao người học phạm lỗi dùng sai hay thừa từ

khi sử dụng L2.

Tóm lại, theo quan điểm giao tiếp, lỗi sử dụng L2 của người học là một

nhân tố tích cực trong quá trình dạy tiếng. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm

này là do quá chú trọng đến chức năng giao tiếp nên một số nhà ngôn ngữ học

theo quan điểm này chưa chỉ ra được đặc tính của các kiểu lỗi cũng như chưa

giải đáp một cách thoả đáng cơ chế mắc lỗi của người học L2.

e) Lỗi theo quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian

Hệ ngữ trung gian được hiểu là “kiến thức ngoại ngữ của người học, được

biểu hiện trong sản phẩm ngoại ngữ của họ”. [46, tr. 37].

Nói cụ thể hơn, trong quá trình tiếp nhận và thụ đắc L2, người học sẽ lâm

thời hình thành một hệ thống cấu trúc ngôn ngữ. Hệ thống cấu trúc này không

hoàn toàn giống L2. Nó được hình thành là bởi người học chưa thực sự làm chủ

được L2 nên đã ghép các đơn vị của L2 theo những qui tắc chưa được nắm

vững hay chưa áp dụng được. Hệ thống cấu trúc ngôn ngữ - sản phẩm lâm thời

do người học tạo ra này chính là hệ ngữ trung gian vừa nói ở trên. Có người gọi

hệ ngữ trung gian này là “hệ thống ngôn ngữ tiệm cận”, “biệt ngữ” hay “hệ ngữ

chuyển tiếp”. [23; tr. 37].

Do xuất phát điểm có khác nhau và phụ thuộc vào các yếu tố L1, kinh

17

nghiệm học L2 cũng như đặc điểm về cách học mà tiến trình hệ ngữ trung gian

của từng cá nhân người học không hoàn toàn đồng nhất. Nhưng cũng cần phải

thấy xu hướng chung của hệ ngữ trung gian là thay đổi theo chiều tiếp cận hệ

thống L2 chuẩn. Tính chất khả biến này được thể hiện qua việc người học tích

luỹ thêm kiến thức L2 và người học giảm dần hiện tượng vi phạm lỗi.

Theo quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian, một số nhà nghiên

cứu đã cho “lỗi là một bộ phận cấu thành hệ ngữ trung gian và nó mang tính hệ

thống” [46; tr.37]. Lỗi cung cấp những chứng cứ về một hệ thống mà người

học đang sử dụng ở một thời điểm nhất định trong quá trình học mặc dù đó

chưa phải là hệ thống đúng. Lỗi của người học “là kết quả của các quá trình

ngôn ngữ tâm lí của người học và nó cung cấp thông tin về trình độ, giai đoạn,

mức độ thụ đắc hay năng lực giao tiếp L2 của người học”. [46, tr. 42]. Trên

bình diện lí thuyết, lỗi có tính ngược chiều với hệ ngữ trung gian, tức nếu hệ

ngữ trung gian càng gần với L2 thì lỗi càng giảm, và ngược lại. Lỗi của người

học L2 trong suốt tiến trình thụ đắc L2 có thể phân thành bốn giai đoạn: lỗi

ngẫu nhiên, lỗi hình thành hệ thống, lỗi hệ thống và lỗi cố định.

Tóm lại, dưới góc nhìn của quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian,

lỗi có ý nghĩa trên ba bình diện: 1) Thông qua phân tích lỗi, giáo viên có thể

biết về tiến độ của người học; 2) Lỗi cung cấp cho người nghiên cứu những

hiểu biết về bản chất của quá trình học tập hay thụ đắc ngôn ngữ, những quá

trình hay hoạt động tâm lí ngôn ngữ nào đang được người học sử dụng; và 3)

Lỗi là điều tất yếu đối với chính bản thân người học.

Lỗi không chỉ là một bộ phận tất yếu của hệ thống ngôn ngữ được hình

thành trong quá trình tiếp nhận kiến thức L2 mà nó còn có tính chất hệ thống, là

kết quả của các quá trình ngôn ngữ tâm lí của người học và nó cung cấp thông

tin về trình độ, giai đoạn và mức độ thụ đắc hay năng lực giao tiếp L2 của

người học.

Trái với quan điểm của các nhà hành vi luận, các nhà ngôn ngữ học theo

18

quan điểm này không coi lỗi là một cái “tội” của người học “cần kiên quyết

loại bỏ” mà “…mà lỗi là công cụ học tập, là cách để người học kiểm chứng

những giả thuyết của mình về ngôn ngữ đang học”. Tuy nhiên, quan điểm phân

tích lỗi và hệ ngữ trung gian cũng thấy hạn chế của lỗi là “lỗi có thể biến thành

cố tật và là nguyên nhân khiến cho hệ ngữ trung gian không thể tiếp cận được

L2”. [46, tr 43].

f) Lỗi theo quan điểm chiến lược học tiếng

Đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về chiến lược học tiếng, xin dẫn một

vài định nghĩa tiêu biểu [46, tr. 45, 46]:

- Chiến lược học tiếng “là một cố gắng để phát triển năng lực ngôn ngữ

và ngôn ngữ xã hội trong ngôn ngữ đích”.

- “Chiến lược học tiếng là những hoạt động tư duy và giao tiếp được

người học vận dụng để học và sử dụng ngôn ngữ”.

- Chiến lược học tiếng “là những hoạt động đặc thù được người học vận

dụng để thúc đẩy việc học dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, lí thú hơn, hướng

đích, có hiệu quả và thích ứng với tình huống mới hơn”.

Dẫn theo tác giả R.L. Oxford đã nêu 12 thuộc tính của chiến lược học

tiếng và đã được tác giả Đỗ Minh Hùng liệt kê trong công trình của mình (xem:

23; tr 45), đó là:

a. góp phần đạt mục tiêu giao tiếp;

b. mở rộng vai trò của người dạy

c. mang tính sử lí tình huống (giải quyết vấn đề);

d. là những hành vi đặc thù của người học;

e. giúp người học có định hướng rõ ràng hơn;

f. liên quan đến nhiều bình diện của người học chứ không chỉ là tư duy;

g. trực tiếp/ và hoặc gián tiếp trợ lực cho việc học;

h. không luôn luôn quan sát (nhìn thấy) được;

i. thường là hữu thức;

19

j. có thể chỉ dẫn (dạy cho người học) được;

k. có tính linh hoạt;

l. chịu tác động bởi nhiều yếu tố.

Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng [46, tr.46] đã khẳng định rằng “…mọi

người học đều ít nhiều sử dụng các chiến lược học tiếng, nhưng không hoàn

toàn đồng nhất về số lượng chiến lược và mức độ hiệu quả”. Việc lựa chọn

chiến lược học tiếng có thể phụ thuộc vào tám yếu tố: 1) động cơ, 2) giới tính,

3) cơ sở văn hoá, 4) thái độ và niềm tin, 5) loại hình công việc, 6) tuổi tác và

giai đoạn học, 7) cách thức học, và 8) khả năng chấp nhận sự mơ hồ.

Điều cần nói ở đây là vấn đề quan hệ giữa các chiến lược học tiếng và lỗi

của người học ngoại ngữ. Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng, “Có thể qui về hai

nhóm chiến lược ít nhiều liên quan đến hiện tượng lỗi của người học là: 1)

Chiến lược học tập / tri nhận, xử lí dữ liệu đầu vào và 2) Chiến lược giao tiếp,

xử lí dữ liệu đầu ra” [46, tr 50]. Từ quan điểm chủ đạo này, bằng những ví dụ

cụ thể, tác giả đã phân tích khá kĩ những khả năng phạm lỗi của người học từ

các chiến lược học tiếng (xin xem 23; tr. 50 – 59), như lỗi do nguyên nhân từ

chiến lược học tập / tri nhận hay lỗi do nguyên nhân từ chiến lược giao tiếp.

- Về lỗi nảy sinh từ chiến lược học tập / tri nhận: Trong chiến lược học

tập / tri nhận, tất cả người học đều phải thực hiện ba thao tác phổ biến, đó là:

chuyển di, suy luận tương tự và ghi nhớ.

+ Chuyển di là hiện tượng người học sử dụng những nền tảng, hiểu biết

của mình về tiếng mẹ đẻ (L1), về văn hoá của dân tộc để áp dụng vào việc dùng

ngôn ngữ thứ hai (L2).

Nếu L1 và L2 có những nét tương đồng thì việc chuyển di này của người

học sẽ thuận lợi và không hoặc ít vi phạm lỗi. Ngược lại, nếu giữa L1 và L2 có

sự khác biệt thì việc chuyển di thường gây ra lỗi vì sự chuyển di đó không được

chấp nhận trong L2. Ví dụ, Người Lào khi dùng từ ăn, uống và hút trong tiếng

Việt thường hay mắc lỗi vì không phân biệt được cách dùng bốn từ này do

20

tiếng Lào chỉ có một từ tương đương (kin): Kin khẩu (ăn cơm), kin nặm (uống

nước), kin lảo (hút thuốc), kin nha (uống thuốc). Chúng tôi thống kê được 26 /

100 sinh viên dùng ba từ tiếng Việt này mắc lỗi, kiểu như các câu trong ví dụ:

- Ở bệnh viện bác sĩ đã cho tôi ăn thuốc. (Bounsou SITTHISOME, khóa

học 2013, ĐHKT và QTKD, ĐH Thái Nguyên).

- Mời bác ăn nước ạ. (Chanh Ha Dao La Souk, khóa học 2013, ĐH KT và

QTKD).

Người Lào khi dùng từ xưng hô của tiếng Việt thường hay mắc lỗi vì hệ

thống từ xưng hô trong tiếng Lào và tiếng Việt không hoàn toàn đồng nhất về

số lượng và cách sử dụng của các đơn vị dùng để xưng hô. Chẳng hạn, tiếng

Lào phân biệt rất rõ chị gái (pỉ) và chị dâu (pỉ lùa), nhưng tiếng Việt thì thường

chỉ dùng từ „chị‟ để gọi chung. Sự khác biệt này khiến cho người Lào thường bị

mắc lỗi khi dùng từ chị dâu hay chị gái tiếng Việt. Chẳng hạn, một số em sinh

viên Lào đã nói như sau:

Ví dụ 1: - Chị dâu ơi, giúp em nấu cơm được không?

Ví dụ 2: - Chào chị dâu, em về nhé!

Cả hai trường hợp trên, từ chị dâu đều phải thay bằng từ chị.

Tương tự, với cấu trúc của câu ghép điều kiện - kết quả: Nếu…thì…,

trong tiếng Lào, kết từ thì thường đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết quả. Ví dụ:

Ví dụ (3): - “Thạ hứu chảo kín con đợ” (Nếu đói bạn thì ăn đi).

- Tiếng Việt: Nếu đói thì bạn ăn đi.

So sánh vị trí các từ của kiểu câu này thì thấy trong tiếng Lào và tiếng

Việt có sự khác biệt: trong tiếng Lào, kết từ thì đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết

quả; còn trong tiếng Việt, kết từ thì đứng trước chủ ngữ ở vế chỉ kết quả.

Người Lào thường chuyển di cấu trúc của kiểu câu ghép điều kiện - kết

quả tiếng Lào sang tiếng Việt và đã bị mắc lỗi do sự khác biệt về vị trí của kết

từ thì trong cấu trúc câu như vừa nói.

Cần nói thêm rằng, sự chuyển di không chỉ lệ thuộc vào sự tương đồng

hay khác biệt của hai ngôn ngữ (L1 và L2) mà còn bị chi phối bởi hai nền văn

21

hoá vì ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn hoá dân tộc.

Cho nên, nói chuyển di ngôn ngữ là bao gồm cả chuyển di các yếu tố văn hoá

dân tộc. Sự khác biệt về hai nền văn hoá cũng dễ gây ra lỗi của người học khi

dùng chiến lược chuyển di. Chẳng hạn, tiếng Lào và tiếng Việt đều có cấu trúc

so sánh: A khoẻ như B, song người Việt không nói Bố em khoẻ như trâu vì

theo quan niệm của người Việt, lối so sánh này không đảm bảo sắc thái biểu

cảm. Ngược lại, người Lào có thể dùng như vậy mà không sợ ảnh hưởng sắc

thái biểu cảm, bởi trong ý thức của người Lào, khi nghĩ đến con trâu người ta

chỉ nghiêng về phía đó là loài vật có sức khỏe chứ không cho rằng đây là loài

vật có thân phận thấp hèn. (Xin nói thêm, người Hán cũng so sánh như vậy, có

lẽ dân tộc Hán và dân tộc Lào cũng có điểm đồng nhất trong văn hóa).

+ Suy luận tương tự là hiện tượng xảy ra bên trong phạm vi L2. Đây là

hoạt động xuất hiện khi người học đã nắm được một số qui tắc của L2. Nói cụ

thể hơn, khi nắm được một qui tắc nào đó của L2, gặp một trường hợp tương tự

người học lập tức vận dụng qui tắc đó một cách máy móc mà không biết rằng

qui tắc đó không phải là qui tắc đúng cho mọi trường hợp, ví dụ, trong tiếng

Việt, kiểu câu có cấu trúc bị động không chứa từ “bị”, “được” thường có mô

hình khái quát là: Chủ ngữ bị động - Động từ ngoại động – Bổ ngữ, nhưng với

điều kiện chủ ngữ phải là danh từ chỉ sự vật, kiểu như:

- Tóc cắt đã xong.

- Nhà xây rồi.

- Hàng trở đến bằng ô tô tải.

Nếu trường hợp chủ ngữ của câu bị động là danh từ chỉ người hay động

vật thì ít dùng kiểu câu này (câu không chứa từ bị hay được) vì nó gây mơ hồ,

chẳng hạn, người ta không nói: Hổ bắt rồi vì câu này có thể hiểu theo hai nghĩa:

Hổ bắt ai / con gì rồi (hổ là chủ thể của động từ bắt) hoặc ai / con gì bắt hổ rồi

(hổ là đối thể của động từ bắt). Không nắm được điều này, người học sẽ mắc

lỗi. Đây là kiểu lỗi suy luận thái quá, tức suy luận vượt quá phạm vi cho phép

22

của một qui tắc nào đó trong L2. Gọi tắt là lỗi suy luận tương tự.

Quan điểm chiến lược học tiếng cho rằng, “…lỗi suy luận thái quá nếu

được lưu ý, giải thích xác đáng của người dạy, thì lỗi do suy luận thái quá sẽ

đóng vai trò tích cực giúp người học điều chỉnh cách hiểu của người học về

L2” [46, tr.54].

+ Ghi nhớ là một chiến lược học tiếng quan trọng. Không có một người

học nào lại không sử dụng chiến lược này. Trong giai đoạn đầu, người học

thường nhớ máy móc các ngữ liệu L2, như nhớ các câu hỏi về quê quán, về tuổi,

nghề nghiệp… được học thông qua ngữ cảnh và ngữ nghĩa mà chưa nhất thiết

phải biết tường tận kết cấu, ngữ nghĩa của từng đơn vị của L2. Vì có thể ghi

nhớ máy móc các ngữ liệu nên ưu điểm của chiến lược ghi nhớ là giảm thiểu áp

lực cho bộ nhớ của não nhưng cũng là nguyên nhân phạm lỗi của người học.

Nguyên nhân phạm lỗi xuất phát từ chiến lược ghi nhớ có thể xảy ra ở ba

trường hợp:

- Thứ nhất, do ghi nhớ máy móc nên người học có thể nhầm lẫn giữa từ

này với từ kia. Chẳng hạn, khi được học đại từ xưng hô „tôi‟, một số em sinh

viên Lào đã nhớ máy móc từ này và đem vận dụng nó vào tất cả mọi đối tượng

giao tiếp. Nói cụ thể hơn, với bạn bè hay với những người ở vị thế cao hơn như

cô, dì, chú, bác, thầy cô giáo, v.v…một số em vẫn xưng là tôi, ví dụ nhiều em

sinh viên Lào đã chào cô giáo: Chào cô, chúng tôi về nhé! Điều này không phù

hợp với cách xưng hô của người Việt.

Đối với người Việt Nam, khi giao tiếp với người ít tuổi hơn mình hay bạn

bè hoặc những người cùng lứa tuổi, có thể dùng „tôi‟ để xưng, ví dụ:

Ví dụ 6: - Tôi chào bạn! Ví dụ 7: - Hôm qua tôi đến nhà cậu nhưng vợ cậu bảo là cậu đã đi họp từ

lúc 7giờ.

23

Nhưng với thầy, cô giáo hoặc những người bề trên thì không thể dùng „tôi‟ để xưng hô, ví dụ, không thể chào: (Chúng) tôi chào thầy / cô giáo! (Từ „tôi‟ đã dùng sai do vị thế giao tiếp không ngang nhau: học sinh ở vị thế thấp,

cô giáo ở vị thế cao. Người Việt chỉ xưng với cô giáo là „tôi‟ khi học sinh hơn cô giáo nhiều tuổi hay cả cô lẫn trò đã cao tuổi, hoặc học trò có vị thế xã hội cao hơn cô giáo nhưng những trường hợp này cũng dùng rất hạn chế).

Trong ví dụ trên, phải thay từ „tôi‟ bằng từ „em‟cho phù hợp với phong

tục của người Việt.

Một trường hợp mắc lỗi tương tự khác của người Lào do nhớ máy móc đó là lỗi dùng từ con và từ chiếc trong tiếng Việt. Tiếng Việt phân biệt rất rõ những từ này. Nhưng cả hai từ này mới tương đương với từ „mạc‟ trong tiếng Lào do đó các em sinh viên Lào thường mắc lỗi khi dùng chúng. Các em chưa nắm được là từ „con‟ trong tiếng Việt kết hợp hạn chế với danh từ chỉ đồ vật: con dao, con xe và chủ yếu là kết hợp với danh từ chỉ động vật nên các em cũng thường hay mắc lỗi dùng từ này. Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có 34/50 em sinh viên người Lào đã mắc lỗi dùng từ này. Ví dụ:

Ví dụ (3): + Tôi vừa mua được con bút bi. (Chanhha Daolasouk). + Bạn cho tôi mượn con kim để khâu chiếc áo. (Kham peng). - Thứ hai, do không nắm thấu đáo một số cấu trúc nào đó, người học đã nhớ và vận dụng chúng một cách máy móc nên dẫn đến lỗi. Ví dụ, khi được học một cấu trúc thưa gửi dùng để mở đầu cho bài phát biểu hay khai mạc hội nghị, kiểu như: Kính thưa các vị đại biểu! người học đã nghĩ rằng trong cấu trúc này luôn luôn phải có từ „Kính thưa‟ và từ „vị‟, đồng thời đi kèm sau nó là một danh từ / cụm danh từ chỉ người cho nên gặp một số trường hợp không nhất thiết phải có hai từ này, người học vẫn dùng và dẫn đến lỗi. Ví dụ:

Ví dụ 8: - Kính thưa các em học sinh! (Bounsou SITTHISOM).

Ví dụ 9: - Kính thưa các vị thầy giáo, cô giáo! (Bounsou SITTHISOM).

- Thứ ba, do dữ liệu đầu vào hay yếu tố môi trường học không chuẩn, ví

dụ như chương trình, tài liệu, phương pháp dạy, trang thiết bị, trình độ của giáo

viên, v.v…Vai trò của người thầy cũng có vai trò quan trọng trong mối tương

tác giữa môi trường và người học. Do vậy, nếu thầy có lỗi cố tật nào đó về kiến

thức ngôn ngữ - văn hoá, về hành động ngôn ngữ như phát âm không chuẩn,

24

nói, viết không đúng kiểu dạng câu, cấu trúc văn bản… trong L2 thì sẽ có nhiều

khả năng những lỗi này đi vào bộ nhớ của người học và đương nhiên là người

học sẽ mắc lỗi theo.

1.1.2. Các cách phân loại lỗi

Tuỳ theo quan điểm và mục đích nghiên cứu, có thể chia lỗi trong học L2

theo các tiêu chí khác nhau. Dưới đây là một vài cách phân loại lỗi sử dụng L2

của các nhà nghiên cứu:

1.1.2.1. Phân loại theo nguyên nhân mắc lỗi:

Đại diện của quan điểm phân loại này trước tiên phải kể đến L. Selinker.

Theo tác giả này, dựa vào nguyên nhân mắc lỗi và quá trình tâm lí ngôn ngữ

của người học, có thể chia lỗi thành 5 loại, đó là:

(1) Lỗi chuyển di ngôn ngữ;

(2) Lỗi chuyển di môi trường học;

(3) Lỗi do áp dụng thái quá quy tắc ngôn ngữ đích;

(4) Lỗi do chiến lược học ngôn ngữ đích;

(5) Lỗi do chiến lược giao tiếp ngôn ngữ đích.

Hai tác giả là H. Dulay và M.Burt cũng dựa trên các quá trình tâm lí ngôn

ngữ đã chia lỗi thành 4 kiểu, là:

(1) Lỗi có hình dạng chuyển di ngôn ngữ;

(2) Lỗi phát triển ngôn ngữ;

(3) Lỗi mơ hồ;

(4) Lỗi duy nhất.

Tác giả Abbot lại chia lỗi thành hai nhóm căn cứ vào nguyên

nhân mắc lỗi, là:

(1) Lỗi năng lực, bao gồm lỗi do chuyển di L1, lỗi do tính phức tạp của

L2 và môi trường học;

(2) Lỗi hoạt ngôn, bao gồm lỗi do xử lí các vấn đề ngôn ngữ và lỗi do

25

chiến lược giao tiếp.

Dẫn theo tác giả J.C. Richards phần nào có khác với các tác giả dẫn trên

khi ông đã loại trừ yếu tố chuyển di ngôn ngữ, không phân biệt đặc điểm tiếng

mẹ đẻ và cho rằng nguyên nhân chủ yếu khiến người học mắc lỗi sử dụng L2 là

do cách tiếp cận lệch lạc các qui tắc ngữ pháp L2. Dựa vào nguyên nhân này,

tác giả đã chia lỗi thành bốn loại, đó là:

(1) Lỗi do khái quát thái quá qui tắc;

(2) Lỗi do không chú ý đến giới hạn ứng dụng của qui tắc;

(3) Lỗi do ứng dụng sai các qui tắc;

(4) Lỗi do nhận định sai qui tắc.

Có thể nói rằng, phân loại lỗi dựa trên các quá trình tâm lí ngôn ngữ là tìm

về nguyên nhân mắc lỗi. Cách phân loại này, nhìn từ góc độ tâm lí người dạy

L2 là điều hữu ích là bởi vì nó giúp cho người dạy hiểu được cơ chế, căn

nguyên hình thành lỗi trong ngữ trung gian của người học.

Song cũng cần phải thấy được rằng phân loại lỗi theo tiêu chí này sẽ

không giúp ích được nhiều cho người học bởi vì điều họ quan tâm hàng đầu khi

biết mình mắc lỗi là làm thế nào để sửa lỗi.

Tóm lại, việc phân loại lỗi theo nguyên nhân quá trình tâm lí tuy đã có thể

tìm ra căn nguyên mắc lỗi nhưng chưa đưa ra được lời giải đáp về biện pháp

sửa chữa lỗi một cách thoả đáng. Hơn nữa, các quá trình tâm lí ngôn ngữ là vô

hình nên việc phân loại dựa vào đó sẽ không tránh khỏi khiên cưỡng vì không

ai có thể thống kê hết toàn bộ quá trình tâm lí ngôn ngữ.

1.2.2.2. Phân loại lỗi theo tính chất của lỗi

Dựa vào tính chất hệ thống của lỗi, nhiều tác giả đã phân lỗi thành các

nhóm khác nhau.

- Dẫn the tác giả M.P. Jain đã phân lỗi thành hai loại là lỗi có hệ thống và

lỗi bất hệ thống.

Lỗi có hệ thống phản ánh đặc trưng hệ thống ngôn ngữ của người học ở

26

thời điểm đang xét. Lỗi bất hệ thống là kiểu lỗi chưa đi vào ổn định trong nhiều

ngữ cảnh khác nhau, có lúc thì xuất hiện, có lúc lại không. Đây là cách phân

loại có liên quan đến hệ ngữ trung gian của người học.

- Tác giả M. Burt và C.Kiparshy lại căn cứ vào tính chất ảnh hưởng của

lỗi để chia chúng thành hai loại: lỗi cục bộ và lỗi tổng thể.

Lỗi cục bộ chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận nào đó của câu hay phát ngôn.

Loại lỗi này không làm ảnh hưởng đến việc người nghe, người đọc hiểu nghĩa của

toàn câu hay phát ngôn. Chẳng hạn, có một em sinh viên Lào đã viết như sau:

Ví dụ 5: Sông Mê Công rất dài, người ta ngồi thuyền ngắm phong cảnh

hai bên đều phải mất nửa ngày. (Chanh Ha).

Ví dụ 6: Đi xe buýt từ Hà Nội đến Nam Định đều mất 4 tiếng.

(Lay phon)

Ngược lại, lỗi tổng thể làm cho nghĩa của câu / phát ngôn trở nên mơ hồ.

Người nghe / đọc không hiểu nghĩa của câu / phát ngôn, ví dụ:

Ví dụ 7: Nhà mới tất cả ba ngôi tôi mua đó. (Tất cả ba ngôi nhà mới mà

tôi mới mua đó). (Am Phai Phon).

Trong ví dụ 5, người viết đã dùng sai từ người ta và từ đều. Từ người ta

phải thay thế bằng từ ta hay chúng ta và bỏ từ đều.

Ví dụ 8: Anh của tôi con trẻ em là thứ hai cấp 1. (Pheo Many).

Tóm lại, việc chia lỗi theo hướng lỗi cục bộ hay lỗi tổng thể có vẻ như

đơn giản nhưng thực tế người học đa số là mắc lỗi cục bộ cho nên phân loại

theo lỗi tổng thể hay cục bộ không có tác dụng cao.

- Tác giả Phạm Đăng Bình cũng chia lỗi thành hai nhóm: lỗi phổ biến và

lỗi đặc trưng.

Lỗi phổ biến là lỗi chung cho tất cả mọi người học L2, không tính đến sự

khác biệt về ngôn ngữ và đặc trưng văn hoá dân tộc. Còn lỗi đặc trưng là lỗi

riêng cho từng nhóm người học có cùng chung một thứ tiếng mẹ đẻ và có

chung một nền văn hoá.

Với cách phân loại này, chúng ta có thể áp dụng cho tất cả mọi đối tượng

27

người học, không kể họ có tiếng mẹ đẻ là gì. Song cũng cần phải thấy hạn chế

của cách phân loại này là người nghiên cứu phải nắm được tất cả ngôn ngữ L1

của người học hay các nhóm ngôn ngữ. Bởi nếu không nắm được L1 hay nền

văn hoá của người học, người nghiên cứu sẽ không thể tiến hành phân loại lỗi

theo đặc điểm của từng ngôn ngữ và nền văn hoá được.

- Tác giả S.P. Corder phân lỗi thành bốn kiểu, đó là: thiếu / bỏ qua, thừa /

thêm vào, lựa chọn, và sai trật tự.

Lỗi thiếu là lỗi bỏ qua một hay một số yếu tố từ vựng, ngữ pháp bắt buộc

nào đó trong L2, ví dụ như thiếu loại từ. Một sinh viên Lào học tiếng Việt ở

Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đã viết

như sau:

Ví dụ 9: Hôm qua tôi đã mua được một dao rất tốt.

Trong ví dụ này, cần phải thêm loại từ con vào giữa số từ và danh từ.

Lỗi thừa là lỗi thêm vào một yếu tố không cần thiết hoặc không được chấp

nhận trong hệ thống L2, ví dụ thêm loại từ trong trường hợp lẽ ra không cần

dùng, kiểu như trường hợp sau đây:

Ví dụ 10: Hôm nay tôi đã mua hai cân quả đào.

(Kham Pa Song)

Loại từ quả trong ví dụ (10) là thừa. Tiếng Việt chỉ cần nói “Hôm nay

tôi… hai cân đào” là đủ.

Lỗi lựa chọn (có người gọi là lỗi thế) là kiểu lỗi lấy yếu tố từ vựng, ngữ

pháp này thay vào chỗ yếu tố khác không đúng hoặc sai vị trí, chẳng hạn:

Ví dụ 11: a- Dạo này nhiệt độ bên ngoài cao ra.

(Chăm Ha Đao la souk)

b - Phía đông Việt Nam là hải. (Kham peng)

Trong ví dụ 11a, cần thay từ ra bằng từ lên, còn trong ví dụ 11b cần thay

từ hải bằng từ biển.

Lỗi sai trật tự là kiểu lỗi dùng sai trật tự yếu tố nào đó trong cấu trúc của

L2 như ví dụ 12 dưới đây:

Ví dụ 12: Tôi đã có mới tài khoản ở ngân hàng.

28

(Bun Phon)

Vị trí của từ mới và từ tài khoản đã không đúng, cần phải đổi vị trí cho nhau.

Bốn kiểu lỗi mà S.P. Corder đề xuất được luận văn vận dụng để phân loại

lỗi câu đã khảo sát. Ưu điểm của cách phân loại lỗi này là nó có thể ứng dụng

cho các dạng lỗi, bất kể lỗi đó là gì và cho mọi đối tượng người học. Đặc biệt,

cách phân loại này sẽ định hướng cho người học biết cách sửa lỗi: Nếu là thừa

thì bỏ đi, nếu là thiếu thì thêm vào, thế sai thì chọn yếu tố khác thay thế, và đặt

sai vị trí thì đổi lại cho đúng.

1.2. Sơ lƣợc về lỗi câu, các loại lỗi câu

1.2.1. Sơ lược về lỗi câu

Có thể nói, đến nay đã có khá nhiều quan niệm về lỗi câu (tức câu mắc

lỗi - câu sai).

Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, câu sai là những câu viết sai chính tả, sai

ngữ pháp, sai từ ngữ, sai lôgich, sai phong cách. Ngoài ra, câu viết không đúng

dấu câu, không đúng qui tắc viết tắt cũng là câu sai.

Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và tác giả Nguyễn Văn Hiệp không đưa ra

khái niệm câu sai là gì nhưng các tác giả đã nêu ra những trường hợp câu mắc

lỗi thường gặp, đó là:

- Câu mắc lỗi về cấu tạo câu;

- Câu mắc lỗi về dấu câu;

- Câu mắc lỗi về liên kết (câu).

Cần phải nói ngay rằng, nhìn nhận hiện tượng mắc lỗi nói chung hay câu

mắc lỗi nói riêng không hề đơn giản. Để tiện làm việc, luận văn này quan niệm:

Câu mắc lỗi là những câu vi phạm các qui tắc về chính tả, qui tắc ngữ pháp,

sai về ngữ nghĩa, phong cách sử dụng, liên kết liên câu… hay mơ hồ về nội

dung hoặc hành vi ngôn ngữ.

1.2.2. Phân loại lỗi câu

1.2.2.1. Một số quan điểm phân loại lỗi câu

Tuỳ theo cách nhìn về hiện tượng mắc lỗi, các tác giả đã chia câu mắc lỗi

29

(có tác giả gọi là câu sai) thành các kiểu khác nhau. Luận văn này xin giới thiệu

hai quan điểm tiêu biểu về câu mắc lỗi, đó là quan điểm của tác giả Nguyễn Đức

Dân và quan điểm của hai tác giả: Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp.

- Tác giả Nguyễn Đức Dân đã chia câu mắc lỗi thành sáu kiểu, đó là:

+ Câu sai chính tả: “Câu sai chính tả là câu viết không đúng chính tả,

nghĩa là viết không đúng theo qui định về phụ âm đầu, về vần, về thanh điệu,

và về cách bỏ dấu thanh điệu”. [14, tr. 17].

Hai câu dưới đây đều là câu sai chính tả do bỏ dấu thanh hay viết hoa tên

riêng không đúng đã được tác giả dẫn ra làm ví dụ:

(1) Trần thị Hoà. (Câu này là câu sai chính tả do viết hoa tên riêng

không đúng).

(2) Trần Thị Hòa. (Câu này là câu sai chính tả do bỏ dấu thanh ở âm tiết

Hoà không đúng).

+ Câu sai ngữ pháp: Câu sai ngữ pháp là câu viết “không đúng qui tắc

ngữ pháp” [14, tr. 17]. Câu dưới đây là một trong các kiểu câu sai ngữ pháp vì

đã sai qui tắc tạo câu của tiếng Việt:

Ví dụ 13: “Theo đồng chí chủ tịch UBND cho biết số người đến tuổi lao

động ở địa phương là 1200”. (Câu này sai vì thiếu chủ ngữ).

+ Câu sai từ ngữ: Câu sai từ ngữ là “câu dùng từ không đúng” [14, tr

19], ví dụ 14 dưới đây là một trong những câu sai từ ngữ được tác giả dẫn ra để

minh hoạ:

Ví dụ 14: Nhà trường đã tổ chức 10 giải thưởng Lê Quí Đôn hằng năm

để khuyến khích các học sinh xuất sắc.

Câu trên sai vì đã dùng từ tổ chức không đúng. Từ này phải thay bằng từ trao.

+ Câu sai lôgich: “Câu sai lôgich là câu viết không đúng qui tắc lôgich

và tư duy” [14, tr. 18]. Ví dụ 15 là câu sai về lôgich:

Ví dụ 15: Họ úp cái nón lên mặt, nằm xuống ngủ một giấc cho đến chiều.

Câu trên sai lôgich vì đã phản ánh sai thứ tự của hành động: Chỉ sau khi

30

nằm xuống mới úp nón lên mặt.

+ Câu sai phong cách: Câu sai phong cách là kiểu câu “viết không đúng

về phong cách”. [14, tr. 19]. Ví dụ:

Ví dụ 16: “Ngoài Bớc – Sét mà tôi quen ở Việt Nam, tôi còn được giới

thiệu với hai nhà báo Pháp đã nổi tiếng là Mađơlen Riphô và Giăng Lacutuya.

Một hôm, trước ngày chia tay, Bộ trưởng Hâu Xeng tổ chức một cuộc họp thân

mật giữa hai bạn Pháp và tôi. Chuyện trò “mày tao” thoải mái”. [14, tr. 19].

Cặp từ mày- tao dùng không đúng phong cách. Đoạn văn này viết về cuộc

thoại với cách xưng hô thân mật giữa những người có cương vị cao trong giới

báo chí. Song, trong tình huống này, người Việt không dùng cặp từ mày- tao

mà dùng cặp từ cậu - tớ để xưng hô.

+ Câu sai tri thức: Câu sai tri thức là “câu viết một điều không đúng với

thực tế hoặc không đúng với những kiến thức khoa học đã biết”.

[14, tr. 19].

Tác giả Nguyễn Đức Dân đã đưa ra một ví dụ về câu sai tri thức:

“Nghi Tàm, quê hương của bà Đoàn Thị Điểm, thi nhân nổi tiếng thế kỉ

XVIII”. [14, tr .19].

Câu này đã sai về tri thức vì đã nhầm lẫn bà Đoàn Thị Điểm với Bà

Huyện Thanh Quan.

- Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã chia câu trong

văn bản thường mắc lỗi thành ba kiểu, đó là: Câu mắc lỗi về cấu tạo, câu mắc

lỗi về dấu câu và câu mắc lỗi về liên kết.

+ Câu mắc lỗi về cấu tạo: Hai tác giả đã chia kiểu câu mắc lỗi về mặt cấu

tạo thành 5 loại sau đây:

(1) Câu thiếu thành phần nòng cốt: Thành phần nòng cốt của câu là

những thành phần bắt buộc phải có trong câu để đảm bảo cho câu độc lập về

nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Ba thành phần được hai tác giả xếp vào

loại thành phần nòng cốt của câu, đó là các thành phần: chủ ngữ, vị ngữ và bổ

31

ngữ bắt buộc.

(2) Câu ghép thiếu vế: Câu ghép là loại câu gồm hai vế trở lên, mỗi vế

tương đương một câu đơn, trực tiếp nối với nhau hoặc nối với nhau bằng các

hư từ, nhằm trình bày những sự việc, tình cảm, cảm xúc hay ý kiến có liên quan

mật thiết với nhau.

Vì các vế của câu ghép có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên nếu tách

các vế ra thành câu riêng mà không chú ý đến điều này đôi khi sẽ bị mắc lỗi.

Bình thường, việc bỏ sót một vế của câu ghép rất dễ nhận ra, nhất là

những câu ghép có các vế nối với nhau bằng hư từ, đặc biệt là các cặp kết từ

(Vì…nên…; nếu…thì…, v.v…).

(3) Câu thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu: Các

bộ phận trong câu ở đây được hiểu là các thành phần câu hay vế của câu ghép.

Thành phần của câu đơn hay câu phức hoặc vế của câu ghép thể hiện quan hệ

ngữ nghĩa không đúng đều bị coi là câu mắc lỗi.

(4) Câu sai trật tự từ: Ở một số ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, trật tự

của các từ trong câu rất quan trọng. Sự sắp xếp sai trật tự từ trong câu nhiều khi

làm cho câu phản ánh sai lạc ý của người viết hoặc làm cho câu mơ hồ về nghĩa.

(5) Câu thiết lập sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu: Quan

hệ ngữ pháp tuy đa dạng nhưng có thể qui về ba kiểu chính, đó là: Quan hệ

chủ-vị, quan hệ chính phụ và quan hệ đẳng lập.

Thiết lập sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu là thiết lập một

quan hệ ngữ pháp nhất định nào đó mà trong câu không thể có kiểu quan hệ ấy,

khiến cho câu lủng củng, tối nghĩa.

+ Câu mắc lỗi về sử dụng dấu câu: Tiếng Việt có 11 dấu câu, đó là các

dấu: chấm, chấm than, chấm hỏi, chấm lửng, hai chấm, chấm phẩy, phẩy, gạch

ngang, ngoặc đơn, ngoặc vuông và dấu ngoặc kép.

Mỗi dấu kể trên đều có chức năng và cách dùng riêng. Nếu dùng không

đúng với chức năng của chúng sẽ bị coi là mắc lỗi. (Về chức năng và cách dùng

của các dấu câu tiếng Việt, xin xem Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp,

32

Tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQG HN, tr 191).

+ Câu mắc lỗi về liên kết: Nằm trong văn bản, các câu phải có sự liên kết

với nhau về nội dung và hình thức. Những câu trong văn bản không có sự liên

kết hoặc liên kết với các câu khác không đúng sẽ bị xếp vào loại câu mắc lỗi.

Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và tác giả Nguyễn Văn Hiệp đã phân loại

câu mắc lỗi liên kết thành ba kiểu nhỏ, đó là: câu mắc lỗi về liên kết chủ đề,

câu mắc lỗi về liên kết lôgich và câu mắc lỗi về liên kết hình thức.

Tuy có chia câu mắc lỗi thành các loại khác nhau nhưng các tác giả trên

đã gặp nhau ở chỗ đều đứng từ góc nhìn cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng để

xem xét câu mắc lỗi. Tác giả Nguyễn Đức Dân còn chú ý cả tới mặt hình thức

chữ viết (chính tả) để đánh giá câu có mắc lỗi hay không.

1.2.2.2. Quan điểm phân loại câu mắc lỗi của tác giả luận văn

Trước hết, cần phải nói ngay rằng, quan điểm về câu mắc lỗi và việc phân

loại câu mắc lỗi là vấn đề không đơn giản, bởi mấy lí do sau đây:

Thứ nhất, có câu, người này cho là mắc lỗi nhưng người khác thì lại thấy

là đúng. Tác giả nguyễn Đức Dân đã lấy một ví dụ làm minh chứng cho điều

vừa nói. (Xin xem: Giáo trình Tiếng Việt Thực hành, ĐHQG Tp HCM, sách

lưu hành nội bộ, ví dụ (1), tr. 19).

Thứ hai, Cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng mỗi người lại có thể nhìn

nhận lỗi ở những góc nhìn khác nhau như ở ví dụ 17 dưới đây (dẫn theo

Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp):

Ví dụ 17: Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông đã miêu tả một cách sâu

sắc xã hội phong kiến thối nát.

Có người cho câu trên mắc lỗi do thiếu chủ ngữ nhưng cũng có người cho

câu này mắc lỗi do dùng thừa từ trong hoặc từ của.

Do cách nhìn nhận về lỗi khác nhau như vậy cho nên hướng sửa cũng sẽ

không giống nhau. Nếu cho câu thiếu chủ ngữ thì sẽ thêm chủ ngữ, ví dụ:

17a. Trong toàn bộ Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du đã miêu tả một

33

cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.

Nếu cho câu trên mắc lỗi thừa từ thì chỉ cần lược bò từ thừa đó. Ví dụ:

17b. Trong toàn bộ Truyện kiều, ông (Nguyễn Du) đã miêu tả một cách

sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.

Thứ ba, khó có thể liệt kê hết các kiểu lỗi, mặt khác, quan điểm về phân

loại câu mắc lỗi hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về

các kiểu lỗi.

Trước tình hình trên, luận văn này tiếp thu cách phân loại câu mắc lỗi (câu

sai) của tác giả Nguyễn Đức Dân, có bổ sung thêm kiểu câu mắc lỗi tổng hợp

của hai tác giả là Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp. Như vậy, luận

văn này sẽ miêu tả và phân tích năm kiểu lỗi câu mà du học sinh Lào thường

mắc, theo đó là 6 kiểu câu mắc lỗi:

(1) Câu mắc lỗi chính tả;

(2) Câu mắc lỗi về từ;

(3) Câu mắc lỗi ngữ pháp;

(4) Câu mắc lỗi ngữ nghĩa;

(5) Câu mắc lỗi liên kết;

(6) Câu mắc lỗi tổng hợp.

1.3. Tiểu kết

Chương này đã trình bày một số vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài, đó là lí

thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ; vấn đề câu mắc lỗi và phân loại câu mắc lỗi.

- Về vấn đề lỗi trong học ngoại ngữ, đã có nhiều quan điểm khác nhau và

luận văn đã trình bày sáu quan điểm về lỗi trong học ngoại ngữ, đó là:

+ Lỗi theo quan điểm hành vi luận;

+ Lỗi theo quan điểm phân tích đối chiếu;

+ Lỗi theo quan điểm giao thoa văn hóa;

+ Lỗi theo quan điểm phương pháp giao tiếp;

+ Lỗi theo quan điểm phân tích lỗi và ngữ hệ trung gian;

34

+ Lỗi theo quan điểm chiến lược học tiếng.

Có thể nói, mỗi quan điểm có một ưu thế song chưa có quan điểm nào

thực sự ưu thế về phân tích lỗi. Vì vậy, cần tiếp thu có chọn lọc các quan điểm

này khi phân tích, đánh giá về lỗi của người học ngoại ngữ.

- Về vấn đề câu mắc lỗi, tác giả Nguyễn Đức Dân đã nêu 6 kiểu câu mắc

lỗi, là:

+ Câu mắc lỗi chính tả;

+ Câu sai từ ngữ;

+ Câu sai ngữ pháp;

+ Câu sai logic;

+ Câu sai tri thức;

+ Câu sai phong cách.

Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp cũng đưa ra ba kiểu

lỗi về câu cơ bản, đó là :

+ Câu mắc lỗi về cấu trúc ;

+ Câu mắc lỗi về dấu câu ;

+ Câu mắc lỗi liên kết

Luận văn này chỉ bàn đến năm kiểu lỗi câu mà du học sinh Lào nói chung,

du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên thường mắc, đó là : Câu mắc lỗi chính

tả, câu mắc lỗi dùng từ, câu mắc lỗi ngữ pháp và câu mắc lỗi ngữ nghĩa và câu

mắc lỗi liên kết. Ngoài năm kiểu câu mắc lỗi trên, luận văn còn bàn đến kiểu

35

câu mắc lỗi tổng hợp (tức là câu mắc ít nhất là hai trong số bốn kiểu trên).

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI

CỦA DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Chương này trình bày hai nội dung chính :

- Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà du học sinh Lào ở Đại học

Thái Nguyên đã viết ;

- Phân loại các câu tiếng Việt mắc lỗi mà du học sinh Lào ở Đại học Thái

Nguyên đã viết.

2.1. Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào học ở Đại

học Thái Nguyên đã viết

2.1.1. Nhận xét chung

Chúng tôi đã tiến hành điều tra tình hình viết câu tiếng Việt mắc lỗi của

du học sinh Lào học ở 2 trường thuộc Đại học Thái Nguyên là Trường Đại học

Sư phạm và Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, năm học 2013.

Các du học sinh này thuộc hai đối tượng: sinh viên mới học tiếng Việt 1 kì (25

em) và sinh viên đã học tiếng Việt 1 năm (25 em). Tư liệu khảo sát là 100 bài

kiểm tra của hai đối tượng vừa nói trên. Kết quả điều tra cho chúng tôi một số

nhận xét bước đầu sau đây:

Thứ nhất, các em du học sinh Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi khá nhiều.

Trong tổng số 50 em với 100 bài kiểm tra, chúng tôi đã thống kê được 1765 câu

mắc lỗi (số liệu cụ thể về câu TV mắc lỗi chúng tôi đã điều tra xin trình bày ở

bảng tổng kết 2.1.a).

Thứ hai, tình trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của du học sinh Lào không

giống nhau. Tùy thuộc vào số thời gian các em đã học tiếng Việt và nhận thức

của từng em.

Thứ ba, câu tiếng Việt mắc lỗi mà các em sinh viên Lào đã viết khá đa dạng

36

về kiểu loại. Đó có thể là câu mắc lỗi chính tả, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi từ

ngữ hay câu mắc lỗi liên kết, v.v… hoặc câu mắc đồng thời một số các lỗi vừa liệt

kê. Đặc biệt, tỉ lệ của các kiểu câu mắc lỗi này không giống nhau.

Thứ tư, trong số các câu mắc lỗi đã thống kê, có câu chỉ có một kiểu lỗi

nhưng cũng có những câu mắc tới hai, ba kiểu lỗi, tức là một câu vừa mắc lỗi

chính tả, vừa mắc lỗi cấu trúc lại vừa mắc lỗi về từ, v.v… Cần nói thêm, có

những câu tuy chỉ mắc một kiểu lỗi nhưng số lượt mắc lỗi trong toàn bài không

phải là một mà có thể là hai, ba thậm chí tới mười tám (18) lượt.

Thứ năm, kết quả điều tra cho thấy, những câu tiếng Việt mắc lỗi mà du

học sinh Lào đã viết có thể là những kiểu lỗi chung của tất cả mọi người dùng

tiếng Việt (kể cả người Việt Nam) nhưng cũng có những lỗi có tính chất đặc

thù, chỉ người Lào mới mắc (ví dụ kiểu lỗi trật tự các từ trong ngữ danh từ).

2.1.2. Kết quả số liệu điều tra

Như nói ở trên, chúng tôi đã tiến hành điều tra về lỗi viết câu tiếng Việt

của du học sinh Lào học ở hai trường thuộc Đại học Thái Nguyên: Trường Đại

học Sư phạm và Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.

Số sinh viên được khảo sát là 50 với tổng số văn bản (bài kiểm tra) được

khảo sát là 100 thuộc hai đối tượng, cụ thể:

- Số bài kiểm tra của sinh viên đã học tiếng Việt 1 kì được

khảo sát là 50 ;

- Số bài kiểm tra của sinh viên đã học tiếng Việt 1 năm được khảo sát là

50. Kết quả khảo sát với những số liệu cụ thể xin được trình bày bằng các mục

a, b, c, và các bảng tổng kết : 2.1.a, 2.1.b, và 2.1.c dưới đây:

a) Tổng số câu TV mắc lỗi đã thống kê

Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, trên 100 bài kiểm tra du học sinh Lào

đã mắc 1765 câu tiếng Việt mắc lỗi. Cụ thể như sau:

Với đối tượng sinh viên mới học tiếng Việt được 1 kì, số câu mắc lỗi mà

chúng tôi thống kê được là 1240. Số câu mắc lỗi còn lại (525 câu) thuộc về

37

những du học sinh Lào đã học tiếng Việt 1 năm.

Kết quả thống kê xin xem bảng tổng kết 2.1.a

Bảng 2.1.a. Bảng tổng kết số câu mắc lỗi của du học sinh Lào

Đối tƣợng

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm

1240 525 Số lỗi/ tỉ lệ % Số câu mắc lỗi

70,25 29,74 Tỉ lệ %

Bảng tổng kết 2.1.a cho thấy, du học sinh Lào học TV 1 kì viết câu mắc

lỗi cao hơn hai lần so với những du học sinh Lào đã học TV 1 năm.

b) Tổng số lượt lỗi đã thống kê

Như đã nói ở trên, kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy, trong số

những câu mắc lỗi đã khảo sát, có những câu chỉ mắc một lỗi nhưng có những

câu mắc tới hai, ba, thậm chí bốn lỗi. Các lỗi trong một câu này có thể cùng

loại và có thể khác loại (chẳng hạn, một câu có ba lỗi, có thể cả ba lỗi đều là lỗi

chính tả, nhưng có khi ba lỗi đó là ba loại khác nhau: một lỗi chính tả, một lỗi

dùng từ, một lỗi ngữ pháp…). Vì không phải tất cả các câu mắc lỗi chỉ mắc một

lỗi cho nên tổng số câu mắc lỗi không đồng nhất với tổng số lượt xuất hiện lỗi

(tổng số lỗi) trong cùng một văn bản.

Trong tổng số 1765 câu TV mắc lỗi mà các em sinh viên Lào thuộc 2 đối

tượng khảo sát đã viết, chúng tôi thống kê được 3000 lượt lỗi. Có thể hình dung

tổng số lỗi đã thống kê trên các bài kiểm tra của hai đối tượng khảo sát bằng

các bảng tổng kết 2.1.b và 2.1.c dưới đây:

Bảng 2.1.b: Bảng tổng kết số lƣợt xuất hiện lỗi theo từng đối tƣợng (tỉ lệ

phần trăm tính trên tổng số lỗi đã thống kê của cả hai đối tƣợng: 3000 lƣợt

lỗi / 1765 câu mắc lỗi)

Đối tƣợng KS Du học sinh Lào học Du học sinh Lào học

Số lƣợng/ TL% TV 1 kì TV 1 năm

Số lượng 2135 865

38

Tỉ lệ % 71,16 28,83

Bảng 2.1.c: Bảng tổng kết số câu mắc lỗi (1765 câu) của sinh viên thuộc 2

đối tƣợng tính theo số bài kiểm tra (50 bài).

Đối tƣợng KS Du học sinh Lào học TV Du học sinh Lào học TV

1 kì (50 bài) 1 năm (50 bài) Số lƣợng/ TL%

1240 525 Số lượng

Trung bình số câu mắc lỗi 24,8 10,5 trên 1 bài

Nhìn vào các bảng tổng kết: 2.1.a, 2.1.b và 2.1.c, dễ dàng nhận thấy tỉ

lệ câu TV mắc lỗi và số lượt xuất hiện của lỗi có xu hướng giảm dần theo số

thời gian du học sinh Lào học tiếng Việt. Như vậy, sinh viên học càng nhiều

thời gian thì trình độ càng nâng cao và trình độ của các em càng nâng cao thì

hiện tượng viết câu TV mắc lỗi chiếm tỉ lệ càng thấp. Điều này có lẽ phù

hợp với qui luật chung của việc học ngoại ngữ: người học ngoại ngữ sử dụng

L2 ngày một tốt hơn theo thời gian học vì thời gian học càng dài thì trình độ

càng nâng lên.

Như bảng 2.1.c đã tổng kết, đối tượng du học sinh học tiếng Việt 1 kì

trung bình viết 24,8 câu mắc lỗi trong một bài kiểm tra; còn đối tượng du học

sinh học tiếng Việt 1 năm trung bình viết 10,5 câu mắc lỗi trong

một bài kiểm tra.

2.2. Phân loại và miêu tả các kiểu câu TV mắc lỗi đã thống kê

Có thể chia các câu TV mắc lỗi mà chúng tôi đã thống kê theo nhiều tiêu

chí, song luận văn này chỉ dựa vào hai căn cứ, đó là: 1) Dựa vào tần số xuất

hiện lỗi trong một câu, và 2) Dựa vào kiểu dạng lỗi.

Theo hai tiêu chí vừa nói, 1765 câu TV mắc lỗi với 3000 lượt xuất hiện

lỗi mà chúng tôi đã thống kê được chia thành nhiều kiểu khác nhau. Dưới đây

39

là các kiểu cụ thể được phân loại theo từng tiêu chí:

2.2.1. Các kiểu câu TV mắc lỗi được phân loại dựa vào tổng số lỗi xuất hiện

trong một câu

Theo tư liệu của chúng tôi, căn cứ vào số lỗi xuất hiện trong một câu, có

thể chia các câu TV mắc lỗi đã thống kê thành 4 kiểu nhỏ, đó là:

- Câu mắc một lỗi;

- Câu mắc hai lỗi;

- Câu mắc ba lỗi;

- Câu mắc bốn lỗi.

a) Kiểu câu mắc một lỗi

Đây là kiểu câu chỉ có một lỗi, ví dụ:

Ví dụ (1): Buổi sáng hàng vợ tôi ngủ dậy sớm hơn tôi khoảng 15 đến 20

phút. (Lỗi dùng thiếu từ: thiếu từ ngày).

(Chanh Hà Daolasuk)

Ví dụ (2): Trong các ngành đao tạo, tôi rất thích học Giáo dục chính trị.

(Câu mắc lỗi chính tả: âm tiết „đao‟ thiếu thanh điệu).

(Khănthaly)

Ví dụ (3): Dân tộc Mông ngày xưa thích làm nhà ở hòn núi. (Lỗi dùng từ).

(Malaythong)

Trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã thống kê, có 1072 câu chỉ mắc một lỗi,

chiếm xấp xỉ 60,73% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (1072/1765). Số lượng

câu mắc lỗi kiểu này không giống nhau giữa hai đối tượng khảo sát,

cụ thể:

- Đối với số du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Trong tổng số 1072 câu

mắc một lỗi, chúng tôi thống kê được 729 / 1072 trường hợp là câu mắc một lỗi

do đối tượng du học sinh học tiếng Việt một kì viết, chiếm xấp xỉ 68%.

- Đối với số du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Trong tổng số 1072

câu mắc một lỗi, có 343 câu do sinh viên Lào học tiếng Việt một năm viết,

40

chiếm xấp xỉ 31,99 343 / 1072).

Kết quả vừa trình bày xin xem bảng tổng kết 2.2.a dưới đây:

Bảng 2.2.a: Bảng tổng kết câu mắc 1 lỗi

Đối tƣợng Du học sinh Lào học TV Du học sinh Lào học TV

Số lƣợng/TL% 1 kì 1 năm

Số lượng 729 343

Tỉ lệ % 68,00 31,99

Bảng tổng kết cho thấy, sinh viên Lào học TV 1 kì viết câu tiếng Việt mắc

một lỗi chiếm tỉ lệ cao hơn đối tượng du học sinh Lào đã học tiếng Việt 1 năm:

Du học sinh Lào học TV 1 kì viết câu sai 1 lỗi chiếm tỉ lệ 68% (729 / 1072),

còn du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm viết câu sai 1 lỗi chiếm tỉ lệ xấp xỉ

31,99% (343 / 1072).

b) Kiểu câu mắc hai lỗi:

Đây là kiểu câu mắc hai lỗi trong cùng 1 câu. Các lỗi này có thể cùng loại

và có thể khác loại, ví dụ:

Ví dụ (4): đám cưới theo tiếng Lào.

(Pheo măn ny).

Câu này mắc 2 lỗi không cùng loại: lỗi chính tả (lỗi không viết hoa chữ

cái đầu của âm tiết đứng đầu câu - đám) và lỗi ngữ pháp (câu thiếu thành phần

nòng cốt – vị ngữ. Câu này có thể thêm vị ngữ: Đám cưới theo tiếng Lào là „).

Ví dụ (5): Trong ngày cưới, cô dâu mặc áo lựa, váy lựa.

(Sousavank).

Câu trong ví dụ (5) mắc hai lỗi và hai lỗi đều cùng một loại: lỗi viết sai vỏ

ngữ âm của từ, tức lỗi viết sai kí hiệu âm vị: nguyên âm đôi /uo/ viết thành

nguyên âm đôi /w…/.

Trong số 1765 câu TV mắc lỗi đã thống kê, câu mắc hai lỗi có 315

trường hợp, chiếm xấp xỉ 17,84% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (315 / 1765).

Kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trên ngữ liệu điều tra của hai đối tượng

41

khảo sát như sau:

- Du học sinh Lào học TV 1 kì: Trong số 315 câu mắc 2 lỗi đã thống kê,

có 236 câu mắc hai lỗi do du học sinh Lào học TV 1 kì viết, chiếm xấp xỉ

74,92% (236 / 315).

- Du học sinh Lào học TV 1 năm: So với du học sinh Lào học TV 1 kì, du

học sinh Lào học TV 1 năm viết câu mắc 2 lỗi chiếm số lượng ít hơn: 79

trường hợp, chiếm xấp xỉ 25,07% (79 / 315).

Xin xem thêm về số liệu của kiểu câu mắc lỗi này ở bảng tổng kết 2.2.b

dưới đây:

Bảng 2.2.b: Câu tiếng Việt mắc 2 lỗi

Đối tƣợng Du học sinh Lào đã học Du học sinh Lào đã học

TV 1 kì TV 1 năm số lƣợng/ TL%

236 79 Số lượng

74,92 25,07 Tỉ lệ %

c. Câu mắc ba lỗi

Đây là kiểu câu có ba lỗi. Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có 214 câu

tiếng Việt mà du học sinh lào viết mắc lỗi kiểu này.

Cũng giống kiểu câu mắc hai lỗi, câu mắc ba lỗi có thể mắc lỗi cùng loại

và có thể khác loại, Ví dụ:

Ví dụ (6): Mọi ngươi rác hua lên cô dâu chú rể.

(Sinna Khone)

Câu trên có ba âm tiết mắc lỗi cùng loại: viết sai kí hiệu âm vị: âm tiết

ngươi viết sai thanh điệu, âm tiết rác viết sai âm chính và âm tiết hua viết sai

âm đệm.

Ví dụ (7): Cô dâu chú rẻ ở lào ngồi xiếp vòng tròn, hai tay chắp trước ngực.

(Bun phon)

Câu mắc ba lỗi không cùng loại: rẻ, xiếp, lào. Âm tiết rẻ và âm tiết xiếp

mắc lỗi viết sai âm vị âm chính; âm tiết lào viết sai chính tả - không viết hoa

42

tên riêng.

Ví dụ (8): Nghi lễ buộc trỉ tay là nghi lễ chang chọng nhất trong đám cưới

của người Lào.

(souk sa vănh)

Câu trong ví dụ (8) mắc ba lỗi cùng loại: ba âm tiết in nghiêng đều mắc

lỗi viết sai kí hiệu âm vị âm đầu.

Như vậy, các lỗi trong các câu ở ví dụ (6) và ví dụ (7) là lỗi không cùng

loại. Các lỗi ở ví dụ (8) là lỗi cùng loại.

Xin xem thêm về số liệu của loại câu mắc ba lỗi này ở bảng tổng kết 2.2.c

Bảng 2.2.c: Bảng tổng kết kiểu câu mắc ba lỗi

(% tính theo số câu mắc 3 lỗi)

Đối tƣợng

Số lƣợng / TL% Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh học TV đã 1 năm

Số lượng 166 48

Tỉ lệ % 77,57 22,42

d) Câu mắc bốn lỗi

Trong số 1765 câu mắc lỗi đã thống kê, câu mắc bốn lỗi có 164 trường

hợp, chiếm xấp xỉ 9,2% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (164 / 1765).

Tương tự như các kiểu câu mắc hai và ba lỗi, các lỗi trong câu mắc 4 lỗi

có thể cùng loại và có thể khác loại:

Ví dụ (9): Từ sáng Sớm, Bố Mẹ và bạn bè hai gia đinh đến nhà cô dâu để

tổ chức cúng tổ tiên. (Câu mắc lỗi không đồng loại).

(Sinna khone).

Các chữ in nghiêng trong ví dụ (9) là các âm tiết mắc lỗi: ba âm tiết đầu

mắc lỗi chính tả (viết hoa không đúng), âm tiết đinh mắc lỗi viết sai âm vị

thanh điệu.

Ví dụ (10): Buổi sáng hàng ngày, vợ toi ngủ dạy sơm hơn tôi khoảng 15

đến 20 phúc.

43

(Chăn Hà).

Trong ví dụ (10), các âm tiết „toi‟, „dạy‟, „sơm‟ „phúc‟ mắc lỗi cùng loại:

viết sai kí hiệu âm vị. Âm tiết „toi‟và âm tiết „dạy‟mắc lỗi viết sai âm chính;

âm tiết „sơm‟viết sai thanh điệu và âm tiết „phúc‟ viết sai âm cuối.

Kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trên ngữ liệu điều tra của các đối

tượng khảo sát như sau:

- Du học sinh Lào học TV 1 kì: Trong tổng số 164 câu tiếng Việt mắc 4

lỗi mà du học sinh Lào đã viết theo thống kê, du học sinh Lào học TV 1 kì mắc

109 câu, chiếm xấp xỉ 66,46% (109 / 164).

- Du học sinh Lào học TV 1 năm: Du học sinh lào đã học tiếng Việt viết

câu tiếng Việt mắc 4 lỗi chỉ có 55 trường hợp, chiếm xấp xỉ 33,53 % (55 / 164).

Bảng tổng kết 2.2.d dưới đây cho ta cái nhìn khái quát về số liệu và tỉ lệ %

của kiểu câu mắc bốn lỗi đã thống kê được.

Bảng 2.2.d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc bốn lỗi

Đối tƣợng

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/TL%

Số lượng 109 55

Tỉ lệ % 66,46 33,53

Có thể hình dung các kiểu câu tiếng Việt phân loại theo số lỗi / câu mà du

học sinh Lào đã viết bằng bảng tổng kết 2.2.e dưới đây:

Bảng 2.2.e: Bảng tổng kết các kiểu câu mắc lỗi tính theo số lƣợt lỗi / câu

(Tỉ lệ % tính theo tổng số câu mắc lỗi: 1765)

ĐT Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm

SL/% 1 lỗi 3 lỗi 4 lỗi 1 lỗi 2 lỗi 3 lỗi 4 lỗi 2 lỗi

Số lượng 729 166 109 343 79 48 55 236

TL% 41,30 13,37 9,40 6,17 19,43 4,47 2,71 3,11

Khái quát các kiểu câu mắc lỗi theo số lỗi trong câu xin xem bảng tổng

44

kết 2.2. h

(Tỉ lệ % tính theo số câu mắc lỗi: 1765):

P. loại Các kiểu câu tiếng Việt mắc lỗi

SL/% Câu 1 lỗi Câu 2 lỗi Câu 3 lỗi Câu 4 lỗi

Số lượng 1072 315 214 164

TL% 60,73 17,84 12,12 9,29

Tóm lại, căn cứ vào số lỗi trong câu mắc lỗi, có thể chia câu TV mắc lỗi

mà du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên viết chúng tôi đã thống kê thành

bốn loại, là:1) câu mắc một lỗi, 2) câu mắc hai lỗi, 3) câu mắc ba lỗi và 4) câu

mắc bốn lỗi.

Kết quả khảo sát và phân loại ở trên cho thấy, loại câu mắc một lỗi chiếm số

lượng và tỉ lệ cao nhất (60,73%), tiếp theo là loại câu mắc hai lỗi (17,84%), rồi đến

loại câu mắc ba lỗi (12,12%) và cuối cùng là loại câu mắc bốn lỗi (9,29%).

Đặc biệt, tỉ lệ của các loại câu mắc lỗi này có liên quan đến trình độ của

học sinh. Trình độ của các em càng cao thì các em càng ít viết những câu mắc

nhiều lỗi và ngược lại. (Trình độ của học sinh ở đây chúng tôi tạm tính theo số

thời gian các em học tiếng Việt như đã nói ở trên), liên quan ý thức của người

viết (lỗi do người viết có hay không có ý thức tránh lỗi), v.v…

2.2.2 Các câu TV mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi

Như đã trình bày ở chương 1, việc phân loại câu mắc lỗi dựa vào đặc

trưng của lỗi không hề đơn giản. Nó tùy thuộc vào cách nhìn nhận về lỗi của

người nghiên cứu. Vì thế, cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng mỗi người lại có

thể xếp vào một kiểu lỗi, như lỗi trong ví dụ (11) dưới đây:

Ví dụ (11): Hôm nay em ra phố muo một chiếc quần áo.

(Am phay phon).

Ở ví dụ trên, có lẽ mọi người đều cho muo (mua) là từ viết sai chính tả và

ít có sự tranh luận. Riêng tổ hợp chiếc quần áo có thể có hai cách nhìn nhận về

45

hiện tượng mắc lỗi:

Thứ nhất, có thể cho rằng người viết đã dùng từ sai: dùng sai loại từ

„chiếc‟ hoặc danh từ „quần áo‟. „Chiếc‟ là loại từ chỉ đi với danh từ chỉ sự vật

mang nghĩa cá thể. Trong khi đó „quần áo‟ là danh từ chỉ sự vật mang nghĩa

tổng hợp nên không kết hợp với từ này. Hướng chữa lỗi trong câu theo cách

nhìn này là thay từ „chiếc‟ bằng từ „bộ‟ hoặc thay từ „quần áo‟ bằng một trong

hai từ „quần‟ hay „áo‟.

Thứ hai, có thể cho người viết đã dùng sai cấu trúc của cụm từ - cụm từ

„chiếc quần áo‟. Cũng vẫn với lí do về khả năng kết hợp của các từ trong cụm

từ này như đã phân tích.

Hai quan điểm về đánh giá lỗi trong ví dụ vừa dẫn sẽ buộc ta phải có hai

hướng sửa lỗi khác nhau. (Xin nói kĩ hơn về vấn đề này ở chương 3, mục 3.2).

Để nhất quán và để đơn giản trong việc phân loại, miêu tả lỗi, chúng tôi

nêu quan điểm về việc phân loại lỗi dựa vào đặc trưng của lỗi như sau:

- Về phạm vi lỗi: chúng tôi chỉ chọn 5 kiểu câu mắc lỗi sinh viên Lào

thường mắc để thống kê nên cũng chỉ phân loại trong giới hạn này. (xem mục

Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu);

- Những trường hợp câu mắc lỗi có thể hiểu theo nhiều cách sẽ được

chúng tôi chọn một cách để tiện cho việc tính số lượng và xếp loại kiểu lỗi.

Chọn cách nào sẽ tùy từng trường hợp cụ thể nhưng lỗi nào dễ phát hiện và dễ

sửa nhất sẽ được chúng tôi quan tâm hơn;

- Vì dung lượng của luận văn chỉ được nằm trong khuôn khổ cho nên

chúng tôi chỉ chọn một vài kiểu câu mắc lỗi để miêu tả kĩ, những kiểu câu mắc

lỗi còn lại đưa ra chỉ có tính chất liệt kê để người đọc thấy được sự đa dạng của

các câu mắc lỗi. Những kiểu câu này tác giả luận văn hoặc ai đó có thể tiếp tục

nghiên cứu trong những công trình khác nếu có điều kiện.

Với quan điểm vừa nói, căn cứ vào đặc trưng của lỗi, chúng tôi xếp 1765

câu mắc lỗi đã được thống kê vào sáu nhóm, đó là:

- Câu mắc lỗi (sai) chính tả;

46

- Câu mắc lỗi (sai) từ ngữ;

- Câu mắc lỗi (sai) cấu trúc (ngữ pháp);

- Câu mắc lỗi (sai) ngữ nghĩa;

- Câu mắc lỗi (sai) liên kết;

- Câu mắc lỗi tổng hợp (tức câu mắc nhiều kiểu lỗi).

Có thể hình dung số liệu thống kê về các kiểu câu mắc lỗi phân loại theo

đặc trưng của lỗi bằng bảng tổng hợp 2.3 dưới đây:

Bảng 2.3: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi đƣợc phân loại theo đặc

trƣng của lỗi

ĐT / SL, % Du học sinh học TV 1 kì Du học sinh học TV 1 năm

Loại lỗi Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %

28,10 207 11,72 Lỗi chính tả 496

Lỗi từ ngữ 154 8,72 58 3,28

Lỗi ngữ pháp 137 7,76 78 4,41

Lỗi ngữ nghĩa 81 4,58 23 1,30

Lỗi liên kết 51 2,88 23 1,30

Lỗi tổng hợp 301 17,05 106 6,00

Tổng kết 69,09 28,01 1220 495

Bảng tổng hợp các loại câu mắc lỗi trên cho thấy, trong số 1765 câu TV

mắc lỗi đã thống kê, loại câu mắc lỗi chính tả chiếm số lượng cao nhất (703

câu), tiếp theo là các loại câu mắc lỗi được liệt kê theo số lượng từ cao đến thấp:

câu mắc lỗi tổng hợp (407câu), câu mắc lỗi ngữ pháp (215 câu), câu mắc lỗi từ

(212 câu), câu mắc lỗi ngữ nghĩa (104 câu) và cuối cùng là câu mắc lỗi liên kết

(74 câu).

Phần lớn số lượng câu mắc lỗi của từng loại có xu hướng giảm theo trình

độ của sinh viên: Trình độ sinh viên càng tăng thì số lượng câu mắc lỗi mà các

em viết càng giảm.

Về chi tiết các kiểu câu mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi xin

47

trình bày từ mục a đến mục h dưới đây:

a) Câu mắc lỗi chính tả

Câu mắc lỗi chính tả là những câu viết không đúng các kí tự âm vị hoặc vi

phạm các qui tắc chính tả, như qui tắc viết hoa, qui tắc đặt dấu thanh điệu, v.v...

của tiếng Việt.

a.1. Về tần số xuất hiện:

Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, loại câu mắc lỗi chính tả có 703

trường hợp, chiếm xấp xỉ 39,83% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (703 / 1765).

Số lượng và tỉ lệ câu mắc lỗi chính tả trên một bài kiểm tra của các em sinh

viên ở hai đối tượng không giống nhau, cụ thể số câu loại này giảm đi theo số

thời gian học của các em.

- Đối tượng du học sinh học TV 1 kì: các em du học sinh Lào thuộc đối

tượng thứ nhất (học 1 kì) viết câu mắc lỗi chính tả là 496 trường hợp.

- Đối tượng du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: các em du học sinh

Lào thuộc đối tượng khảo sát thứ hai viết câu TV mắc lỗi chính tả là 207

trường hợp.

a.2. Các tiểu loại:

Căn cứ vào đặc trưng của lỗi có thể chia câu mắc lỗi chính tả thành hai

kiểu khác nhau, đó là: 1) Câu mắc lỗi chính tả do viết không đúng kí tự ghi âm

vị cấu thành âm tiết, và 2) Câu viết sai qui tắc chính tả, v.v… Dưới đây là hai

kiểu câu mắc lỗi chính tả.

- Câu mắc lỗi chính tả do viết không đúng kí tự âm vị: Câu viết không

đúng kí tự âm vị trong thành phần âm tiết thường rơi vào ba dạng: 1) Lỗi viết

sai Âm đầu, 2) Lỗi viết sai phần Vần, và 3) Lỗi viết sai thanh điệu.

+ Lỗi viết sai Âm đầu (của âm tiết), ví dụ:

Ví dụ (12): Khi bữa tiệc kết thúc, hai vợ chồng chẻ trở về nhà trai hoặc

nhà riêng.

(Am phay Phon).

48

Lỗi chính tả trong ví dụ 12 là lỗi viết sai âm đầu trong âm tiết chẻ.

Lỗi viết sai Âm đầu có thể do viết thiếu nét kí tự khiến cho các kí tự đó

bị chuyển từ kí tự ghi âm vị nọ sang kí tự ghi âm vị kia như ở hai ví dụ vừa dẫn,

nhưng cũng có thể là do người viết lầm lẫn giữa hai kí tự ghi âm hai âm vị khác

nhau như ở ví dụ (13) dưới đây:

Ví dụ (13): a. Đổng diện tích của Hồ Thuỷ là 352 ha.

(Bounsou SITTHISOME).

b. Đám cươi cưa lào

(Bun Phon).

Ở ví dụ (13a), người viết đã viết sai kí tự Âm đầu của âm tiết thứ nhất

„Đổng‟. Ở đây phải viết là „Tổng‟ chứ không phải là „Đổng‟. Kí tự „Đ‟ dùng để

ghi âm âm vi /d /, còn kí tự „T‟ để ghi âm vị / t /.

Ở ví dụ (13b), nhan đề bài viết này mắc 3 lỗi, âm tiết cươi viết sai thanh

điệu, âm tiết cưa viết sai kí tự âm vị /uo/ thành /wɣ/, âm tiết lào mắc lỗi chính

tả (không viết hoa tên riêng). Ngoài hai lỗi là lỗi về thanh điệu và phần vần, câu

này còn mắc lỗi viết sai chính tả phụ âm đầu (lỗi phụ âm đầu), sẽ miêu tả ở loại

thứ hai.

+ Lỗi viết sai phần Vần: Lỗi phần vần khá đa dạng. Đó có thể là do viết

sai toàn bộ phần Vần và cũng có thể chỉ là viết sai Âm chính hoặc Âm cuối, các

ví dụ (14), (15), (16) dưới đây là những minh chứng cho điều vừa nói:

Ví dụ (14): Tháp Rùa và cầu Thăng Húc là những công trình kiến trúc

nổi tiếng.

(Bounsou SITTHISOM).

Ví dụ (15): - Cô dâu mạc bộ váy lụa, đeo đồ trang sức bàn vàng…

- Hạ Long rớt đẹp.

(Malay thong CHOUMPHAYLOUANG).

Ví dụ (16): - Tuần sao anh ấy về nhà thăm bố mẹ.

(Sinnakhon).

- Lễ bược chỉ cổ tay kết thúc thì vừa với giờ mời khéc dự bữa tiệc.

49

(Boun sou SITTHISOME).

Ở các ví dụ (14), (15) và (16), các lỗi chính tả đều thuộc lỗi phần Vần

song chỉ do người viết đã viết không đúng kí tự Âm chính hay Âm cuối.

Âm tiết cưa trong câu ở ví dụ (13b) cũng thuộc loại lỗi này.

+ Lỗi viết sai thanh điệu: Lỗi thanh điệu thường rơi vào hai dạng: Lỗi viết

sai kí tự dấu thanh và lỗi đặt dấu thanh không đúng vị trí trong âm tiết. Các ví

dụ (17) đến (19) dưới đây là một số kiểu lỗi sử dụng thanh điệu.

Ví dụ (17): Trong mấy năm qua, bởi cơ sở hà tầng giao thông không tốt

nên ngành du lịch không phát triển.

(Boun Sou SITTHISOME).

Một ví dụ khác, ví dụ (18): Quê tôi không phải là một danh lam thắng

cảnh nổi tiếng nếu đánh gia một cách nghiệm chỉnh.

(Souk Sa Vănk).

Những âm tiết in đậm trong ví dụ (17) và (18) đều mắc lỗi sử dụng thanh

điệu do viết sai kí tự của thanh điệu (lẫn thanh này với thanh khác).

Về kiểu lỗi sử dụng thanh điệu do không đặt đúng vị trí trong âm tiết, xin

xem ví dụ (19).

Ví dụ (19): Về nghi thức đám cứơi, ngừơi Lào có tục lệ chỉ cứ ơi gả nhau

vào các tháng chẵn.

(Souk Sa vănhk).

Thanh điệu trong âm tiết cứơi và âm tiết ngừơi ở ví dụ (19) mắc lỗi đặt sai

vị trí. Theo qui định của chính tả tiếng Việt, trong âm tiết có nguyên âm đôi và

có âm cuối thì thanh điệu phải đặt trên hoặc dưới yếu tố thứ hai của nguyên âm

đôi. Như vậy, thanh sắc và thanh huyền trong các âm tiết mắc lỗi ở ví dụ (19)

phải đặt trên con chữ „ơ‟.

- Câu mắc lỗi chính tả do viết các kí tự không đúng các qui

định chính tả khác:

Tiếng Việt là loại chữ ghi âm. Khi viết các kí tự ghi âm phải chú ý tuân

thủ qui định của chính tả. Nếu câu có chứa những yếu tố viết không đúng qui

50

định của chính tả sẽ bị coi là một trong những loại câu mắc lỗi chính tả.

Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, một số em du học sinh Lào thuộc đối

tượng điều tra đã viết câu mắc lỗi chính tả loại này khá nhiều và khá đa dạng về

kiểu loại, xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:

+ Câu có từ viết sai qui tắc viết hoa, ví dụ:

Ví dụ (20): Đám cưới của người lào thường…

(Chăn Hà DAOLASUOK).

+ Câu có âm tiết chứa các con chữ ghi âm âm vị viết không đúng qui định,

ví dụ:

Ví dụ (21): Chủ nhật nghân hàng (ngân hàng) không làm việc.

(Vilayphon).

Âm tiết „nghân‟ (ngân) đã viết kí tự âm đầu không đúng với qui định ghi

âm âm vị /ŋ/. Âm vị Âm đầu trong âm tiết này phải được viết là „ng‟ theo qui

định chính tả và qui tắc ghi âm âm vị (ngân).

+ Câu có thanh điệu đặt không đúng vị trí qui định trong âm tiết (kiểu này

xin nói thêm vì đã nói ở trên).

Tiếng Việt qui định các dấu thanh điệu phải được đặt trên hoặc dưới Âm

chính. Nếu Âm chính là nguyên âm đôi và âm tiết có Âm cuối thì thanh điệu sẽ

đặt trên hoặc dưới yếu tố thứ hai của Âm chính. Nếu âm tiết không có Âm cuối

thì thanh điệu sẽ được đặt trên / dưới yếu tố đầu của nguyên âm đôi. Khi đặt

thanh điệu nếu không tuân thủ qui tắc này đều bị coi là mắc lỗi, ví dụ:

Ví dụ (22): a. Hồ Thủy bao gồm 9 phần.

(Khămpeng).

b. Muà đông ở Vịêt Nam rất lạnh.

(Boun Sou).

c. Gia đình tôi có năm ngừơi: bố tôi, mẹ tôi, hai em gai và tôi.

(Kê Son).

Các âm tiết in đậm trong ví dụ (22) đều mắc lỗi do đặt thanh điệu không

51

đúng vị trí: thanh điệu trong âm tiết thủy phải đặt trên con chữ „y‟ và thanh

điệu trong âm tiết muà phải đặt trên con chữ „a‟. Tương tự, thanh nặng trong

âm tiết Vịêt phải đặt dưới con chữ „ê‟, thanh huyền trong âm tiết ngừơi phải đặt

trên con chữ „‟ơ‟.

Bảng 2.3.a Dưới đây tổng kết câu mắc lỗi chính tả theo từng loại và từng

đối tượng khảo sát:

Bảng 2.3.a: Bảng tổng kết câu mắc lỗi chính tả

Đối tƣợng/loại lỗi Du học sinh Lào học Du học sinh Lào học TV

TV 1 kì 1 năm

Lỗi viết sai Lỗi viết sai Lỗi viết sai Lỗi viết sai

kí tự âm vị qđ chính tả kí tự âm vị qđ chính tả Số lƣợng / TL%

Số lượng 192 304 84 123

Tỉ lệ % 27,35 43,24 11,94 17,49

b) Câu mắc lỗi từ ngữ:

“Câu mắc lỗi từ ngữ (câu sai từ ngữ) là câu dùng từ không đúng”. [14,

tr.18].

Những câu có từ dùng không đúng nghĩa, không đúng qui tắc kết hợp với

các từ khác trong câu, hoặc dùng thừa / thiếu trong câu… đều được luận văn

xếp vào loại lỗi này.

b.1. Về tần số xuất hiện

Theo điều tra của chúng tôi, trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã khảo sát,

có 212 trường hợp được luận văn xếp vào kiểu câu sai từ ngữ, chiếm xấp xỉ

12,01% (212 / 1765).

Cũng như loại câu mắc lỗi chính tả, kiểu câu này xuất hiện trên các văn

bản chọn làm tư liệu thống kê không giống nhau. Tần số xuất hiện và tỉ lệ phần

52

trăm của kiểu câu này, xin xem bảng tổng kết 2.3.b.

Bảng 2.3.b: Bảng tổng kết các câu mắc lỗi từ ngữ

ĐT, SL/%

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm

Loại lỗi Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ %

Từ dùng sai nghĩa 25 11,79 4 1,88

Từ vay mượn dùng 5 2,35 0 0

sai qui định

Câu dùng thừa từ 53 25,00 17 8,1

câu dùng thiếu từ 42 19,81 28 4,20

Từ dùng sai PCVB 29 13,67 9 13,20

Tổng kết 155 72,62 27,35 27,38

b.2. Các tiểu loại

Theo tư liệu của chúng tôi, câu mắc lỗi dùng từ mà sinh viên Lào học

tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên thường mắc gồm các kiểu sau đây:

- Câu có chứa từ dùng sai nghĩa hay một tổ hợp âm tiết không có trong

tiếng Việt

Ví dụ (23):

a- Vạn Lí Trường Thành có tổng chiều dài là 2400 km2 (km).

(Phonny).

b- Chị ấy đã đi nhà hàng hóa làm việc.

(Malaythong).

c- Bên học trường có nhiều khách sạn.

(Ămphayphon).

Trong ví dụ (23a), „km2‟ dùng không đúng nghĩa vì đây là từ chỉ đơn

vị diện tích nhưng người viết lại đem sử dụng để nói về chiều dài của sự vật:

53

Vạn Lí Trường Thành. Trường hợp này phải dùng từ km.

Trong ví dụ (23b) và (23c), các tổ hợp âm tiết nhà hàng hóa và học

trường không tìm thấy trong vốn từ vựng tiếng Việt vì thế đúng ra không được

xếp chúng vào loại lỗi dùng từ. Song, trong quá trình điều tra, được biết người

viết các tổ hợp này vẫn coi chúng là „từ‟, có nghĩa tương đương với từ có trong

tiếng Việt (nhà hàng hóa = nhà hàng, học trường = trường học). Trong lúc chờ

tìm được giải pháp hợp lí hơn, chúng tôi vẫn tạm xếp chúng vào nhóm câu mắc

lỗi này.

Tương tự, từ „cho nên‟ và từ „chưa‟ trong ví dụ (24) sau đây cũng là

những từ dùng không đúng nghĩa do hoàn cảnh sử dụng đem lại:

Ví dụ (24):

a- Chúng ta cho nên (nên) yêu lao động.

(Kù Khăm).

b- Trong lớp học, xin các bạn chưa (không) chơi điện thoại.

(Phut Tha Son).

- Câu có từ vay mượn dùng không đúng với chủ trương sử dụng từ vay

mượn của Đảng và nhà nước VN hoặc dùng từ vay mượn nhưng phiên dịch

sang tiếng Việt không đúng

Câu dùng từ vay mượn không đúng với chủ trương dùng từ vay mượn

nói trong chính sách sử dụng ngôn ngữ của Đảng và nhà nước.

Đảng và nhà nước VN đã đưa ra một số chủ trương, chính sách sử

dụng từ vay mượn, đó là: chỉ dùng từ vay mượn khi tiếng ta không có từ ngữ

tương đương hoặc không đảm bảo sắc thái biểu cảm…

Ví dụ (25): Vạn Lí Trường Thành trông xa giống như một con rồng

khổng lồ nằm trên sơn (núi).

(Muôn xay).

Từ sơn trong ví dụ (25) và từ hải trong ví dụ (26) dưới đây đều là những

từ dùng không đúng với chủ trương dùng từ vay mượn nói trên.

Ví dụ (26): Phía đông của Việt Nam giáp với hải (biển).

54

(Chăn Hà).

+ Câu mắc lỗi do dùng từ vay mượn của tiếng Hán nhưng phiên dịch sang

tiếng Việt không đúng.

Một số sinh viên Lào khi viết câu tiếng Việt đã vay mượn một số từ của

tiếng Hán nhưng không dùng nguyên gốc mà có dịch sang tiếng Việt. Điều cần

nói ở đây là do các từ này được phiên dịch không đúng nên khi đi vào sử dụng

chúng đã làm cho câu bị mắc lỗi theo. Chẳng hạn như cách dùng các từ: „viên

công‟, „đông nói‟, „đông nghe‟, „đông đọc‟ trong ví dụ (27) và (28) dưới đây

khiến câu mắc lỗi là do nguyên nhân này.

Ví dụ (27): Công ti này có đông viên công (công nhân viên).

(Kù Khăm).

Ví dụ (28): Các bạn muốn học tiếng Việt giỏi phải đông nói, đông nghe,

đông đọc (nói nhiều, nghe nhiều, đọc nhiều).

(Kù Khăm).

- Câu sai do dùng thiếu / thừa từ

Câu dùng thừa hay thiếu từ đều là câu mắc lỗi. Xin xem các câu trong các

ví dụ từ 29 đến 31 dưới đây:

Ví dụ (29): Hôm nay em mua được một ø dưa hấu rất to (một quả / trái

dưa hấu rất to). (Dùng thiếu loại từ „quả‟ hay „trái‟).

(Phut Tha Son).

Khác với câu mắc lỗi trong ví dụ (29) dùng thiếu từ, câu trong ví dụ (30)

và (31) lại là câu mắc lỗi do sử dụng thừa từ.

Ví dụ (30): a. Năm nay ông em có 80 tuổi rồi. (Dùng thừa từ có)

(Muon xay).

b. Năm nay bố em có 42 tuổi…. mẹ em có 39 tuổi.

(Kê son)

Ví dụ (31): Cô bán hàng ơi! Bán cho em một cân quả táo.

(Dùng thừa từ quả).

55

(Kham Pa Song)

Các chữ in đậm trong ví dụ (30) và (31) là từ dùng thừa khiến câu mắc lỗi

kiểu như câu trong ví dụ (29).

Câu trong ví dụ 32 dưới đây mắc lỗi tương tự như câu ở ví dụ (29) do

thiếu từ cần thiết:

Ví dụ (32): Đây là anh Sone, anh là người rất ø chơi thể thao.

(Bounsou SITTHISOMME)

Câu này phải thêm từ thích vào trước động từ chơi: Đây là anh Sone, anh

ấy là người rất thích chơi thể thao.

- Câu mắc lỗi dùng từ ngữ không phù hợp đối tượng giao tiếp

Trong giao tiếp, người tham gia giao tiếp luôn phải chú ý lựa chọn từ ngữ

cho phù hợp với đối tượng giao tiếp.

Do nhiều nguyên nhân, người viết đã không tuân thủ nguyên tắc này nên

khiến câu mà họ viết ra bị mắc lỗi, ví dụ:

Ví dụ (33): Cô em là một cô gái rất kháu khỉnh.

Từ kháu khỉnh trong ví dụ vừa dẫn dùng không phù hợp với đối tượng

(cô em) ở độ tuổi trưởng thành đã được gọi là cô gái. Trong tiếng Việt, từ

„kháu khỉnh‟ thường chỉ dùng để nói về trẻ em còn bé, thường ở tuổi nhà trẻ

hay tuổi mẫu giáo.

- Câu mắc lỗi dùng từ ngữ không đúng phong cách

Từ ngữ được sử dụng trong văn bản không chỉ yêu cầu đảm bảo nghĩa,

đúng đối tượng giao tiếp,…mà còn phải phù hợp với phong cách văn bản. Từ

ngữ dùng không đúng phong cách văn bản sẽ bị coi là mắc lỗi, như cụm từ in

đậm trong ví dụ (34) dưới đây:

Ví dụ (34): Cánh đồng Chum ở nước lào là một di tích lịch sử. Đây là

khu du lịch rất chi là đẹp.

(Kham feng).

Ngoài lỗi chính tả (không viết hoa tên riêng: lào), câu này còn mắc lỗi

dùng từ ngữ không đúng phong cách văn bản. “rất chi là” là trong ví dụ (34) là

56

cụm từ thường dùng trong khẩu ngữ. Do đó, ngoài việc phải viết hoa từ Lào,

cụm từ rất chi là cần thay bằng từ „rất‟: Cánh đồng Chum ở Lào là một di tích

lịch sử. Đây là một khu du lịch rất đẹp.

c. Câu mắc lỗi cấu trúc (sai ngữ pháp)

Câu sai cấu trúc hay còn gọi là câu sai ngữ pháp là câu viết không đúng

qui tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ (ở đây là tiếng Việt).

c.1. Tần số xuất hiện (số lượt sử dụng)

Theo tư liệu của chúng tôi, loại câu sai cấu trúc có 215 trường hợp, chiếm

xấp xỉ 12,18% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê được (215 / 1765).

Số lượt sử dụng của kiểu câu mắc lỗi cấu trúc không giống nhau giữa các

đối tượng sinh viên được chọn khảo sát, cụ thể:

- Đối với du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Du học sinh Lào học tiếng

Việt 1 kì theo điều tra của chúng tôi đã viết 137 câu tiếng Việt mắc lỗi ngữ

pháp trên tổng số 1765 câu mắc lỗi, chiếm tỉ lệ xấp xỉ 7,76% (137 / 1765) và

chiếm xấp xỉ 63,72% số câu mắc lỗi ngữ pháp của cả hai đối tượng khảo sát đã

mắc lỗi (137 / 215).

- Đối với du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Du học sinh Lào thuộc

đối tượng này đã viết 78 câu tiếng Việt mắc lỗi loại này, chiếm xấp xỉ 4,41%

trên tổng số câu mắc lỗi (78 / 1765) và chiếm xấp xỉ 36,27% số câu mắc lỗi

ngữ pháp (78 / 215).

Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra

của hai du học sinh thuộc hai đối tượng khảo sát có thể hình dung bằng bảng

tổng kết 2.3.c dưới đây:

Bảng 2.3.c: Bảng tổng kết số lƣợng câu sai cấu trúc đã thống kê

Đối tƣợng KS

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%

Số lượng 137 78

Tỉ Theo số câu mắc lỗi 7,76 4,41

lệ % (1765)

36,27 Theo số câu mắc lỗi 63,72

57

NP (215)

c.2. Các tiểu loại

Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, có thể xếp câu mắc lỗi loại này vào

năm kiểu: 1) Câu thiếu thành phần nòng cốt, 2) Câu ghép thiếu vế, 3) Câu có

cấu trúc lộn xộn, 4) Câu có các từ ngữ kết hợp với nhau không đúng qui tắc của

tiếng Việt, và 5) Câu có các từ đặt không đúng vị trí dẫn đến lỗi ngữ pháp của

câu hay bộ phận câu…

- Câu thiếu thành phần nòng cốt: Dẫn theo tác giả Nguyễn Minh Thuyết,

thành phần nòng cốt của câu là thành phần chủ ngữ, vị ngữ hay bổ ngữ bắt

buộc. Câu thiếu thành phần nòng cốt là câu thiếu ít nhất một trong số các thành

phần nòng cốt vừa nói trên. Xin dẫn ra dưới đây một số câu mắc lỗi cấu trúc do

thiếu thành phần nòng cốt:

Ví dụ (35):

a. Đối với mỗi người trên thế giới có lẽ đều biết đến cái tên Hồ Chí Minh.

(Bun Săm).

b. Mong cô gái quay lại bên mình.

(Chan Ha).

Ví dụ (36): Các đảo trong Hồ Ngọc.

(Sinna Khone).

Ví dụ (37): Mùa thu ở Việt Nam là mùa thu hoạch.

(Phon ny).

Vídụ (38): Khi mùa thu đến.

(Kham feng).

Ở ví dụ (35), ngoài việc dùng từ chưa chuẩn xác (từ mỗi phải thay bằng từ

mọi), câu trong ví dụ vừa dẫn thuộc loại câu sai ngữ pháp vì thiếu thành phần

chủ ngữ. Muốn sửa lỗi câu thiếu chủ ngữ trong trường hợp này cần phải thêm

chủ ngữ hoặc biến đổi bộ phận trạng ngữ (Đối với mỗi người…) thành chủ ngữ

của câu bằng cách bỏ từ Đối với và thay từ mỗi bằng từ mọi: Mọi người trên thế

58

giới có lẽ đều biết… Hồ Chí Minh.

Câu (36) sai vì thiếu thành phần vị ngữ, còn câu (37) sai vì thiếu bổ ngữ

bắt buộc (động từ thu hoạch phải có bổ ngữ chỉ đối tượng). Câu (38) sai vì

thiếu cả chủ ngữ lẫn vị ngữ. Các câu (36), (37), (38) muốn trở thành câu đúng

phải thêm các thành phần bị thiếu, chẳng hạn có thể thêm như các câu trong các

ví dụ (36.a), (37.a), (38.a) dưới đây:

(36.a) Các đảo trong Hồ Ngọc đều có cây xanh.

(37.a) Mùa thu ở Việt Nam là mùa thu hoạch tôm cá.

(38.a) Khi mùa thu đến, các đảo đá ở vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo,

đẹp đẽ lạ thường.

Số câu mắc lỗi thiếu thành phần nòng cốt chúng tôi thống kê được khá

đa dạng. Xin dẫn thêm một số ví dụ về kiểu câu thiếu thành phần chủ ngữ:

Ví dụ (39):

a. Nói chuyện với hết bạn này đến bạn khác.

(Chan Ha).

b. Đi du lịch hết nước này đến nước khác.

(Chan ha).

c. Học hết toán đến văn.

(Chan Ha).

Các câu trong ví dụ (39) đều mắc lỗi thiếu thành phần chủ ngữ. Cần phải

thêm chủ ngữ cho các câu như sau:

a‟. Tôi nói chuyện với hết bạn này đến bạn khác.

b‟. Tôi đi du lịch hết nước này đến nước khác.

c‟. Tôi học hết toán đến văn.

- Câu ghép thiếu vế: Câu ghép thiếu vế là câu ghép mới chỉ có một vế,

ví dụ:

Ví dụ (40): Tuy cô dâu trong long rất vui.

(Phut Tha Son).

Một ví dụ khác, ví dụ (41): Nếu trời không lạnh.

59

(Lam Thong).

Các câu trong ví dụ (40) và (41) đều là câu sai thuộc loại câu ghép thiếu

vế. Muốn sửa chúng phải thêm vế chính chỉ kết quả để thành những câu hoàn

chỉnh trước hết là về cấu trúc, chẳng hạn như các câu trong ví dụ 39‟ và ví dụ

40‟ dưới đây:

Ví dụ 40‟: Tuy cô dâu trong long rất vui nhưng vẫn nói với bố mẹ: “Con

không đi lấy chồng. Con thích ở nhà với bố mẹ”.

Ví dụ 41‟: Nếu trời không lạnh, chúng tôi sẽ đi bơi.

- Câu có cấu trúc rối nát: Câu có cấu trúc rối nát là câu không thể hiện rõ

quan hệ giữa các bộ phận trong câu; chức năng của một số thành phần câu

không rõ ràng hoặc bị trùng lặp…, ví dụ:

Ví dụ (42): Tuy ở đây không rộng, như mà phong cảnh thật là đẹp, hơn

nữa mỗi năm nơi này đều hấp dẫn nhiều du khách đến đây du lịch, như vậy thì

được thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển, rất có lợi cho ngành du lịch, làm cho

kinh tế nơi này tăng trưởng rất nhanh đã nâng cao trình độ sống của nơi đây

và được sinh sống càng ngày càng tốt.

(Dao La Suk).

Không kể việc dùng từ sai (chẳng hạn, các kết như mà, như vậy, thì hay từ

trình độ là những từ dùng không đúng), câu trong ví dụ (41) còn có cấu trúc lộn xộn.

Điều đó khiến người đọc rất khó hiểu nội dung của câu. Câu này cần ngắt thành các

câu ngắn và sửa lại một số từ cho đảm bảo tính mạch lạc, logic giữa các bộ phận

trong câu. (Phần chữa lỗi sẽ được rình bày ở chương 3).

Câu trong ví dụ (43) dưới đây cũng mắc lỗi do câu có cấu trúc rối nát:

Ví dụ (43): Đám cưới mà là phong tục cổ của Lào mà có rất quan trọng đề

người đôi yêu và cuộc sống của nữ và nam ở bên lào cô gái và con trái có thể tự

kén chọn chồng hay vợ.

(Kê Son).

Có thể nói, câu trong ví dụ (43) là câu mắc lỗi điển hình về kết cấu rối nát.

Ngoài ra, câu này còn có những lỗi khác như viết sai thanh điệu (để viết thành

60

đề, trai viết thành trái), thừa từ mà, không viết hoa tên riêng (lào).

- Câu sai do các từ ngữ trong câu không tuân thủ qui tắc kết hợp của

tiếng Việt, ví dụ:

Ví dụ (44): Ánh trăng vào nước, thì mặt nước lung linh, trông như được

tráng một lớp thuỷ ngân lóng lánh.

(Lam Thong).

Ngoài lỗi dùng thừa dấu phảy (dấu phảy thứ nhất), câu trong ví dụ trên

còn mắc lỗi do người viết đã cho cụm danh từ ánh trăng kết hợp trực tiếp với

giới từ vào. Trong trường hợp này cần phải có thêm động từ vào trước giới từ

chỉ phương hướng, chẳng hạn như: Ánh trăng chiếu vào nước…

Tương tự, ví dụ (45): Tôi mới mua một chiếc quần áo.

(Muon xay).

Câu trong ví dụ (45) cũng là câu mắc lỗi cấu trúc do đã để loại từ „chiếc‟

kết hợp được với từ „quần áo‟. Từ „chiếc‟ không kết hợp được với từ „quần áo‟

vốn là một danh từ mang ý nghĩa tổng hợp. Trường hợp này nên thay bằng từ

„bộ‟ (bộ quần áo).

- Câu sai cấu trúc do vị trí của các từ / cụm từ trong câu không đúng:

Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có khá nhiều trường hợp, do từ / cụm từ

trong câu đặt không đúng vị trí khiến cho cấu trúc của câu hoặc bộ phận câu trở

nên không rõ ràng về ngữ nghĩa và cấu trúc, ví dụ:

Ví dụ (46): Nhà của chị ấy đối diện là nhà của tôi. (Từ đối diện dùng sai

vị trí. Từ này phải chuyển lên đầu câu để cùng với cụm danh từ nhà của chị ấy

tạo thành cụm từ lớn hơn và làm chủ ngữ của câu, kiểu như câu trong ví dụ 46‟

dưới đây:

Ví dụ 46‟: Đối diện nhà của chị ấy là nhà của tôi.

Cũng có thể bỏ từ là để từ đối diện làm vị ngữ chính như câu trong ví dụ 45‟‟:

Ví dụ 46‟‟: Nhà của chị ấy đối diện nhà của tôi.

Một ví dụ khác:

Ví dụ (47): Bụng một sợ không có tiền. Bụng một sợ không mộ được phu.

Bụng một sợ dân.

61

(Suk sa vanh).

Ví dụ (48): Dưới mờ ảo ánh trăng, các đảo đá có cảnh tranh tối tranh sáng.

(Lam Thong).

Ba câu trong ví dụ 47 đều mắc lỗi do trật tự của từ „một‟ không đúng.

Các câu trong ví dụ (49) và (50) dưới đây cũng là câu sai cấu trúc do dùng

từ / cụm từ không đúng vị trí.

Ví dụ (49): Kính mến thày Vĩ, dạo này thày có khoẻ không?

(Lam thong).

Ví dụ (50): Mỗi người có lao động nghĩa vụ.

(Am Phay Phon).

Ở ví dụ (49), có lẽ do ảnh hưởng của cấu trúc tiếng Lào, người viết đã đặt

sai vị trí của cụm từ thày Vĩ và từ Kính mến dẫn đến lỗi cấu trúc, trước hết là

của một bộ phận trong câu và sau nữa là của toàn câu. Cần đổi lại vị trí của

chúng là Thày Vĩ kính mến…

Ở ví dụ (50), cụm từ „lao động nghĩa vụ‟ không phản ánh đúng ý đồ của

người viết cũng vì đã mắc lỗi tương tự như vừa phân tích ở ví dụ (49). Ở đây

cần đảo lại vị trí của hai từ để tạo nên cụm từ mang nghĩa đúng theo cách hiểu

của người viết: (Mỗi người đều có) nghĩa vụ lao động.

Tương tự, các câu trong ví dụ (51) dưới đây cũng mắc lỗi do vị trí các từ

trong câu không được đặt đúng vị trí theo qui tắc của tiếng Việt:

Ví dụ (51):

a. Tôi đã được học Giáo sư ngoại ngữ vài người.

(Nit Nha Kon).

b. Các đồng chí tất cả phải đi học đúng giờ.

(Ma Lay Thong).

c. Nhà mới tất cả ba ngôi này đều rất đẹp.

(Ku Khăm).

Lỗi đặt sai vị trí một số từ trong cấu trúc danh ngữ làm thành phần câu

khiến cho các câu trong ví dụ trên bị mắc lỗi. Cần phải đặt lại vị trí của một số

62

từ, kiểu như các ví dụ tương ứng sau:

51.a‟ Tôi đã được học vài (người) Giáo sư ngoại ngữ.

51.b‟ Tất cả các đồng chí phải đi học đúng giờ.

51.c‟ Tất cả ba ngôi nhà mới này đều rất đẹp.

d) Câu sai ngữ nghĩa

Câu sai ngữ nghĩa là câu không đảm bảo nội dung ngữ nghĩa. Nói cụ thể

hơn, đó là những câu không có nghĩa (câu vô nghĩa), dư thừa nghĩa, nội dung

phản ánh không đúng hiện thực khách quan hay mơ hồ…

d.1. Tần số sử dụng (số lượng)

Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, kiểu câu sai ngữ nghĩa có 104 trường

hợp câu mắc lỗi về nghĩa trong số 1765 câu mắc lỗi mà chúng tôi đã thống kê,

chiếm xấp xỉ 5,89% (104 / 1765). Cũng như các loại câu mắc lỗi đã nói ở trên,

kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trong bài kiểm tra của sinh viên ở hai đối

tượng khảo sát không giống nhau, cụ thể:

- Đối với du học sinh Lào học TV một kì: Trong số 50 bài kiểm tra của 25

sinh viên mới học tiếng Việt một kì, chúng tôi đã thống kê được 81 câu mắc lỗi

ngữ nghĩa, chiếm xấp xỉ 4,58% số câu mắc lỗi đã thống kê (81 / 1765) và

chiếm xấp xỉ 77,88% số câu mắc lỗi ngữ nghĩa (81 / 104).

- Đối với du học sinh Lào học TV một năm: Trong số 50 bài kiểm tra của

sinh viên học tiếng Việt một năm, chúng tôi thống kê được 23 câu mắc lỗi ngữ

nghĩa, chiếm xấp xỉ 1,30% số câu mắc lỗi (23 / 1765) và chiếm xấp xỉ 22,11%

số câu mắc lỗi cấu trúc (23 / 104). Xem bảng tổng kết 2.3.d.

Bảng 2,3,d:Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thuộc hai

đối tƣợng khảo sát

Đối tƣợng

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%

Số lượng 81 23

4,58 1,30

Tỉ lệ % Theo số câu mắc lỗi :1765

77,88 22,11

63

Theo số câu mắc lỗi ngữ nghĩa: 104

Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra

của ba khoá sinh viên, xin xem bảng tổng kết 2.3.e dưới đây:

Bảng 2.3.e: Bảng tổng kết câu mắc lỗi ngữ nghĩa tính theo

số bài kiểm tra (50 bài)

Đối tƣợng Du HS Lào học TV Du HS Làohọc TV

1 năm Số lƣợng, TL% 1 kì

Số lượng 81/ 50 bài KT 23 / 50 bài KT

Số lỗi / Số bài KT 1,62 0,46

Nhìn vào bảng tổng kết, có thể thể thấy trung bình 1 bài kiểm tra của sinh

viên Lào học tiếng Việt 1 kì có 1,62 câu mắc lỗi ngữ nghĩa; còn trung bình 1

bài kiểm tra của sinh viên Lào mắc 0,46 câu mắc lỗi ngữ nghĩa.

So với các kiểu câu mắc lỗi đã trình bày ở trên (câu mắc lỗi chính tả, câu

mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc), kiểu câu mắc lỗi này chiếm tỉ lệ thấp hơn rất

nhiều (chỉ có xấp xỉ 5,89% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (104/1765), trong khi

đó, kiểu câu mắc lỗi chính tả có tới xấp xỉ 39,83%, kiểu câu mắc lỗi từ ngữ chiếm

xấp xỉ 12,01 và câu mắc lỗi cấu trúc cũng chiếm tỉ lệ xấp xỉ 12,18%).

d.2. Các tiểu loại:

Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, căn cứ vào đặc trưng, tính chất của

lỗi, có thể chia kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thành bốn loại: 1) Câu vô nghĩa

(câu không có nghĩa), 2) Câu dư thừa nghĩa, 3) Câu có nội dung không phản

ánh đúng hiện thực khách quan hoặc không phù hợp logic, và 4) Câu mơ hồ

về nội dung.

- Câu vô nghĩa: Câu vô nghĩa là “câu” không thể hiện được một nội dung

nào đó. Nói cách khác, đó chỉ là một chuỗi từ ngữ kết hợp với nhau một cách

cơ học mà không biểu đạt được một nội dung nào, ví dụ:

Ví dụ (52) Đến nhà sau khi tôi thì làm cơm rồi.

64

(Ma Lay Thong).

Tương tự, câu trong ví dụ (53) sau đây cũng là câu vô nghĩa:

Ví dụ (53): Sống chu đáo người ta đi làm việc.

(Boun Sou).

Người đọc có lẽ không hiểu nổi các câu trong hai ví dụ (52) và (53) vừa

dẫn trên nói về cái gì.

- Câu dư thừa nghĩa: Câu mắc lỗi dư thừa nghĩa là kiểu câu có chứa bộ

phận trùng ý nhau hoặc tương tự nhau về ý. Xin dẫn một vài ví dụ về câu mắc

lỗi dư thừa nghĩa:

Ví dụ (54): Viêng Chăn có lịch sử hơn 3000 năm, là một thành phố có lịch

sử lâu đời. (Boun pon).

Có “lịch sử hơn 3000 năm” tức là đã có “lịch sử lâu đời” rồi. Viết như vậy

là thừa. Cần bỏ một trong hai ý để thành câu diễn đạt như 54a hay 54b sau đây:

54a. Viêng Chăn có lịch sử hơn 3000 năm.

54b. Viêng chăn có lịch sử lâu đời.

- Câu phản ánh không đúng hiện thực khách quan

Đây là kiểu câu sai do có nội dung phản ánh không đúng với hiện thực mà

người nói/viết định nói đến trong câu, ví dụ:

Ví dụ (55):Sáng nay chúng em được đi tham quan bảo tàng dân

tộc của mèo.

(Kê son).

Do dùng thừa từ của, câu trong ví dụ (55) đã trở thành câu sai do phản

ánh không đúng hiện thực khách quan (người viết định nói đi tham quan bảo

tàng dân tộc Mèo chứ không phải bảo tàng dân tộc của mèo).

Có thể nói, đây là một câu mắc lỗi có thể xếp đồng thời vào hai kiểu: Câu

mắc lỗi từ ngữ (dùng thừa từ), vừa có thể xếp vào loại câu mắc lỗi cấu trúc (sai

ngữ nghĩa).

- Câu mơ hồ: Câu mơ hồ là câu có ít nhất hai cách hiểu khác nhau. Nói

65

theo Nguyễn Đức Dân, “Một câu mơ hồ là một câu trong khi có một biểu hiện

duy nhất ở cấp độ ngôn ngữ này thì lại có ít nhất hai cách biểu hiện ở cấp độ

ngôn ngữ khác” [12, tr. 120].

Một số em sinh viên Lào đã viết những câu có nội dung mơ hồ. Dưới đây

là một ví dụ tiêu biểu:

Ví dụ (56): Giá rẻ thì tôi mua.

(Kù Khăm).

Câu trong ví dụ (56) có hai cách hiểu:

+ Thứ nhất, hiểu đây là câu ghép chỉ điều kiện – kết quả: Nếu như giá

(bán) mà rẻ, thì tôi (sẽ) mua. Trước từ Giá có thể thêm từ nếu. Từ giá (tức giá

cả) là danh từ.

+ Thứ hai, hiểu đây là câu ghép có quan hệ giả thiết - hệ quả: Trường hợp

này từ giá là kết từ Giá (mà) (anh bán chiếc xe ấy) rẻ thì tôi (đã) mua nó).

Kết quả điều tra cho thấy, trong tổng số 104 câu mắc lỗi về ngữ nghĩa, câu

mơ hồ có 19 trường hợp, chiếm sấp sỉ 18,26% (19 / 104). Xét trong tổng số câu

mắc lỗi đã thống kê, kiểu câu này chiếm xấp xỉ 1,07% (19 / 1765).

h. Câu mắc lỗi liên kết

Nằm trong văn bản, các câu có mối liên hệ hoặc quan hệ với nhau. Mạng

lưới những mối liên hệ và quan hệ đó gọi là sự liên kết (văn bản).

h.1. Về tần số xuất hiện

Theo điều tra của chúng tôi, trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã khảo sát,

có 124 trường hợp được luận văn xếp vào kiểu câu mắc lỗi liên kết, chiếm xấp

xỉ 7,02% (124 / 1765). Trong số 124 trường hợp câu mắc lỗi liên kết, sinh viên

học TV 1 kì viết 79 câu và sinh viên học TV 1 năm viết 45 câu. Số lượng và tỉ

lệ % của kiểu câu mắc lỗi này xin xem bảng tổng kết 2.3.h và 2.3.h‟ dưới đây :

Bảng 2.3.h

Đối tƣợng

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%

45/1765 Số lượng 79/1765

66

2,54 Tỉ lệ % 4,47

Cũng như những kiểu câu mắc lỗi khác, kiểu câu này xuất hiện trên các văn

bản chọn làm tư liệu thống kê không giống nhau. Tần số xuất hiện và bình quân số

kiểu câu mắc lỗi này trên một bài kiểm tra, xin xem bảng tổng kết 2.3.h‟.

Bảng 2.3.h‟: Bảng tổng kết tần số xuất hiện câu mắc lỗi liên kết trên một

bài kiểm tra (25)

Đối tƣợng Du học sinh Lào Du học sinh Lào

học T V 1 kì học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%

Số lượng 79/50 bài KT 45/50 bài KT

Số câu mắc lỗi/1 bài KT 1,58 0,90

Nhìn vào bảng tổng kết có thể thấy rằng trung bình một bài kiểm tra của

sinh viên Lào học tiếng Việt 1 kì có 1,58 câu mắc lỗi ngữ nghĩa; còn sinh viên

Lào học tiếng Việt 1 năm mỗi bài kiểm tra chỉ có 0,90 câu mắc lỗi. Trên thực tế

không có con số lẻ này. Bài kiểm tra có câu mắc lỗi ngữ nghĩa ít nhất cũng phải

từ 1 câu trở lên và như vậy, trong số bài kiểm tra được dùng để khảo sát sẽ có

câu không mắc lỗi loại này.

Theo tư liệu của chúng tôi, câu mắc lỗi liên kết mà sinh viên Lào học TV

ở Đại học Thái Nguyên thường mắc gồm ba kiểu: 1) Câu mắc lỗi liên kết chủ

đề, 2) Câu mắc lỗi liên kết logic, và 3) Câu mắc lỗi liên kết hình thức.

- Lỗi liên kết chủ đề là kiểu lỗi thể hiện ở “Các câu trong đoạn không

cùng phục vụ chủ đề của đoạn ấy”. [42, tr.209].

- Lỗi liên kết logic là kiểu lỗi thể hiện ở “Các câu trong đoạn hay trong

một văn bản thể hiện những lập luận thiếu căn cứ hay không nhất quán, hoặc

không được sắp xếp theo một trình tự hợp lý”. [43, tr. 209].

- Lỗi liên kết hình thức là kiểu lỗi thể hiện ở chỗ “Quan hệ về nội dung

giữa các câu trong một đoạn hay trong một văn bản không được thể hiện bằng

67

các phương tiện liên kết hay thể hiện sai lạc”. [43, tr. 209].

Cần phải nói ngay rằng, việc phân biệt rạch ròi giữa ba kiểu lỗi liên kết

này không phải là một việc đơn giản bởi chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và

thường thể hiện đồng thời. Vì lẽ đó, khó có thể lấy được một ví dụ về câu mắc

lỗi liên kết mà chỉ thể hiện ở một phương diện.

Câu mắc lỗi liên kết, theo cách hiểu của chúng tôi, là câu không có sự

quan hệ hoặc liên hệ với các câu khác trong văn bản về nội dung cũng như hình

thức biểu hiện.

Ví dụ (57) dưới đây là một trong 74 trường hợp câu mắc lỗi liên kết:

Ví dụ (57): Vịnh Hạ Long không những rất nổi tiếng ở Việt Nam mà còn ở

Lào, ở Trung Quốc, Thái Lan. Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới.

Vịnh Hạ Long sơn rất đẹp và nước rất trong sạch. Người cũng rất xinh.

(Sina Khone).

Ngoài lỗi dùng từ (từ sơn), đoạn văn trên còn chứa câu mắc lỗi liên kết

(câu in đậm). Lỗi liên kết của câu này thể hiện ở mấy điểm sau đây:

- Về liên kết chủ đề: Câu thứ tư trình bày một ý không ăn nhập gì với ba

câu đứng trước, tức là nó không xoay quanh chủ đề nói về một danh lam thắng

cảnh – Vịnh Hạ Long.

- Về liên kết hình thức: Câu đang bàn không có yếu tố ngôn ngữ nào thể

hiện quan hệ với các câu còn lại.

i. Câu mắc lỗi tổng hợp

Câu mắc lỗi tổng hợp là câu mắc đồng thời hơn một kiểu lỗi. Nói cách

khác, đây là những câu mắc ít nhất hai trong số năm kiểu lỗi đã miêu tả ở trên,

ví dụ:

Ví dụ (58): Tôi muốn muo một chiếc quần áo ngủ.

(Boun sou THITTHISOME).

Câu trong ví dụ (58) được xếp vào nhóm câu mắc lỗi tổng hợp vì nó đã

68

mắc hai loại lỗi: 1) Lỗi chính tả: viết sai từ „mua‟ (muo), và 2) Lỗi cấu trúc:

cụm từ „chiếc quần áo ngủ‟ mắc lỗi về qui tắc kết hợp giữa loại từ và danh từ

trung tâm.

Tương tự, câu trong ví dụ (59) dưới đây cũng là câu mắc lỗi tổng hợp:

Vừa mắc lỗi chính tả , vừa mắc lỗi dùng từ.

Ví dụ (59): cánh đồng chum là một cánh đồng có rất nhiều chum được

quốc ta đào tạo để cho người ta đến du lịch.

(Kham Pa Song).

Trong ví dụ vừa dẫn, cụm từ cánh đồng chum đã viết sai chính tả (không

viết hoa tên riêng theo qui định), các từ: quốc ta (nước ta), đào tạo (cải tạo),

người ta (mọi người) cũng là những từ dùng không đúng. Như vậy, câu vừa

dẫn đã mắc hai kiểu lỗi: lỗi chính tả và lỗi dùng từ như đã nói ở trên.

i.1. Tần số sử dụng:

Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, kiểu câu mắc lỗi tổng hợp có 301

trường hợp, chiếm xấp xỉ 23,05% tổng số lỗi đã thống kê (407 / 1765).

Cũng như các loại câu mắc lỗi đã nói ở trên, kiểu câu mắc lỗi này được

phân bố trong bài làm của sinh viên thuộc hai đối tượng không

giống nhau, cụ thể:

- Du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Trong số 407 câu mắc lỗi tổng hợp,

chúng tôi thống kê được từ bài kiểm tra của du học sinh Lào học TV 1 kì là 301

câu, chiếm xấp xỉ 17,05% số câu mắc lỗi (301 / 1765) và chiếm xấp xỉ 73,95%

số câu mắc lỗi tổng hợp (301 / 407).

- Du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Trong số 407 câu mắc lỗi tổng

hợp, chúng tôi thống kê được từ bài kiểm tra của du học sinh Lào học TV 1

năm là 106 câu, chiếm xấp xỉ 6,00% số câu mắc lỗi (106 / 1765) và chiếm xấp

xỉ 26,04% số câu mắc lỗi tổng hợp (106 / 407).

Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra

69

của hai đối tượng sinh viên, xin xem bảng tổng kết 2.3.i dưới đây:

Bảng 2.3.i: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi tổng hợp

Đối tƣợng

Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%

Số lượng 301/1765 106/1765

Tỉ lệ câu mắc lỗi/bài KT 17,05 6,00

i.2. Các tiểu loại

Tư liệu của chúng tôi cho thấy, câu mắc lỗi tổng hợp khá đa dạng về kiểu

loại. Căn cứ vào số lượt lỗi và kiểu loại lỗi xuất hiện trong câu, có thể chia câu

mắc lỗi tổng hợp thành những loại khác nhau.

Dưới đây là một số loại câu mắc lỗi tổng hợp tiêu biểu được xếp loại dựa

vào số lượng kiểu loại của lỗi:

- Câu vừa mắc lỗi chính tả, vừa mắc lỗi ngữ pháp, ví dụ:

Ví dụ (60): Này khánh sạn hôm nay hết phòng rồi.

(Phút Tha Son).

Tổ hợp từ „này khánh sạn‟ trong ví dụ trên trước hết đã dùng không đúng

cấu trúc do vị trí của các từ không phù hợp. Cần đổi lại vị trí của hai từ để có

một cụm từ mới phù hợp với qui tắc ngữ pháp của tiếng Việt: „khách sạn này‟.

Ngoài ra, trong tổ hợp này còn mắc lỗi chính tả là đã viết sai Âm cuối

(viết ch thành nh).

Tương tự, câu trong ví dụ (61) cũng vừa mắc lỗi chính tả, vừa mắc lỗi

ngữ pháp:

Ví dụ (61):

a. Từ ngày xa xưa đã đến nay, khi trai gái kết hôn làm theo pháp luật đúng

đắn của nhà nước lào.

[Tong Keo]

b. đám cưới là một phong tục và văn hóa của dân tộc lào mà tiếp diễn từ

trước đến nay.

70

(Si Bun Đon).

Câu (a) đã dùng thừa từ ngày và từ khi. Ngoài ra, từ đúng đắn dùng không

đúng nghĩa. Từ lào sai qui tắc viết hoa. Việc dùng thừa từ hay từ không đúng

nghĩa kéo theo lỗi câu sai ngữ pháp.

Câu này có thể sửa như sau:

61a‟: Từ xưa đến nay, trai gái kết hôn phải làm theo pháp luật của nhà

nước Lào.

Câu (61b) ngoài lỗi chính tả (không viết hoa âm tiết „đám‟ và âm tiết „lào‟

còn mắc lỗi ngữ nghĩa: câu không rõ nghĩa do dùng từ không đúng.

- Câu vừa mắc hai loại lỗi: lỗi chính tả, vừa mắc lỗi dùng từ ngữ: Đây

là loại câu mắc hai loại lỗi khác nhau: vừa mắc lỗi dùng từ, vừa mắc lỗi chính

tả, ví dụ:

Ví dụ (62): Nếu được đến bắc kinh thì chuyện đầu là tôi sẽ đến vạn lí

trường thành.

[Kù Khăm]

Trong ví dụ (62), câu bị xếp vào loại câu mắc lỗi chính tả là do có hai âm

từ không viết hoa đúng qui định: từ „bắc kinh‟ và từ „vạn lí trường thành‟.

Câu trong ví dụ này ngoài lỗi chính tả còn có lỗi dùng cụm từ dùng không

đúng do phiên dịch sai, đó là cụm từ „chuyện đầu‟ (việc đầu tiên).

- Câu mắc hai loại lỗi: lỗi dùng từ và lỗi ngữ pháp: Đây là loại câu mắc

hai loại lỗi khác nhau: vừa mắc lỗi dùng từ, vừa mắc lỗi ngữ pháp, ví dụ:

Ví dụ (63): Này cửa hàng (cửa hàng này) có rất nhiều hàng hóa, em thích

mua gì1 thì mua gì 2(nấy).

(Chăn Ha).

Cụm từ „này cửa hàng‟ dùng không đúng, nguyên nhân giống như trường

hợp sử dụng cụm „này khách sạn‟ ở ví dụ (60) và đã được giải thích.

Trong ví dụ (63) còn có một từ được dùng với chức năng thay thế nhưng

đã dùng không đúng, đó là từ gì2. Phải thay từ này bằng từ nấy: …,em thích

71

mua gì thì mua nấy.

- Câu mắc ba loại lỗi: lỗi chính tả, lỗi từ ngữ, lỗi ngữ pháp: Đây là câu

mắc đồng thời ba loại lỗi như vừa nói.

Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, loại câu mắc lỗi này xuất hiện không

nhiều, mới gặp 12 trường hợp, xin được dẫn một ví dụ để làm minh chứng:

Ví dụ (64): Trên Núi yên tử có nhiều hoa dại, mà còn có nhiều loại cây

cối, trong đó, có những loại cây cối được quốc việt nam bảo vệ, ở núi yên tử

bốn mùa như xuân.

(Kù Khăm).

Câu vừa dẫn ở ví dụ (64) ngoài việc đã mắc lỗi chính tả là không viết hoa

chữ cái đầu của tên riêng (núi yên tử, việt nam) và viết hoa từ không phải là tên

riêng (núi), câu còn mắc lỗi dùng từ (sử dụng sai kết từ „mà còn‟ và cụm từ

„quốc việt nam‟), từ mùa xuân thiếu âm tiết mùa (bốn mùa như mùa xuân)và lỗi

cấu trúc (câu có cấu trúc rối nát).

Tóm lại, du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên viết câu

mắc lỗi khá nhiều và khá đa dạng về kiểu lỗi. Có thể hình dung các kiểu câu

mắc lỗi của du học sinh Lào thuộc hai đối tượng khảo sát bằng bảng tổng kết

2.3.j sau đây:

Bảng 2.3.j: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi

của du học sinh Lào ở ĐHTN

Đối tƣợng/ số lƣợng, TL%

Du học sinh học TV 1 kì Du học sinh học TV 1 năm

Loại câu mắc lỗi Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Ti lệ%

Câu mắc lỗi chính tả 496 28,10 207 11,72

Câu mắc lỗi dùng từ 154 8,72 58 3,28

Câu mắc lỗi ngữ pháp 137 7,76 78 4,41

Câu mắc lỗi ngữ nghĩa 81 4,58 23 1,30

Câu mắc lỗi liên kết 79 4,47 45 2,54

Câu mắc lỗi tổng hợp 301 17,05 106 6,00

72

Tổng kết 1248 70,70 517 29.17

2.3. Tiểu kết

Căn cứ vào kết quả thống kê và phân tích về các kiểu câu tiếng Việt mắc

lỗi trên 100 bài kiểm tra của 50 du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái

Nguyên, bước đầu chúng tôi có những kết luận sau đây:

1) Các em du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên còn

mắc lỗi viết câu TV khá nhiều, cụ thể: trong số 100 bài kiểm tra của các em,

chúng tôi đã thống kê được 1765 câu mắc lỗi với 3000 lượt lỗi.

2) Tình hình viết câu TV mắc lỗi của các em sinh viên ở hai đối tượng

khảo sát không giống nhau. Điều này thể hiện ở trung bình câu mắc lỗi tính

theo bài kiểm tra.

Kết quả khảo sát cho thấy, mỗi bài kiểm tra của sinh viên học tiếng Việt 1

kì trung bình có xấp xỉ 24.96 câu / 1 bài kiểm tra (1248/ 50 bài); còn mỗi bài

kiểm tra của sinh viên Lào học tiếng Việt 1 năm có 10,34 câu/ 1 bài Kiểm tra

(517/50 bài).

Số liệu thống kê này cho thấy tình hình viết câu mắc lỗi của các em tuân

theo qui luật chung của người học ngoại ngữ: tình trạng mắc lỗi sử dụng L2 tỉ

lệ nghịch với trình độ của sinh viên: trình độ L2 càng cao, tỉ lệ mắc lỗi sử dụng

L2 càng thấp.

3) Câu mắc lỗi tương đối đa dạng về tiểu loại. Căn cứ vào số lượng lỗi

xuất hiện trong một câu, luận văn của chúng tôi đã chia câu mắc lỗi thành bốn

kiểu: Câu có một lỗi, câu có hai lỗi, câu có ba lỗi và câu có bốn lỗi. Căn cứ vào

đặc trưng, tính chất của lỗi, luận văn đã xác định được sáu kiểu câu mắc lỗi mà

các em sinh viên Lào học tiếng Việt đã viết, đó là: Câu mắc lỗi chính tả, câu

mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi ngữ nghĩa, câu mắc lỗi liên

kết và câu mắc lỗi tổng hợp.

Nắm được các kiểu câu mắc lỗi với những loại lỗi cụ thể này, chúng ta có

thể tìm nguyên nhân và cách sửa lỗi cho phù hợp.

4) Những loại lỗi mà sinh viên Lào thường mắc khi viết câu tiếng Việt,

như đã nói ở phần dẫn chương, có thể là những lỗi chung của tất cả mọi người

khi viết câu tiếng Việt và cũng có thể chỉ có sinh viên Lào mới mắc. (Về vấn đề

73

này, xin sẽ trình bày ở chương 3, mục 3.1)

Chƣơng 3

NGUYÊN NHÂN DU HỌC SINH LÀO

VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI, HƢỚNG SỬA LỖI

Chương này trình bày hai nội dung lớn:

1) Nguyên nhân sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi;

2) Hướng sửa câu mắc lỗi.

3.1. Nguyên nhân du học sinh Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi

Cần phải nói ngay rằng, việc phát hiện lỗi đã khó, việc tìm ra nguyên

nhân mắc lỗi lại còn khó hơn. Bởi cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng nguyên

nhân dẫn đến lỗi lại không giống nhau giữa những người học tiếng. Mặt khác,

khó có thể phân biệt rạch ròi giữa các nguyên nhân mắc lỗi, lại có những lỗi

không phải do một nguyên nhân mà là do nhiều nguyên nhân. Xin nói thêm,

những nguyên nhân mắc lỗi mà chúng tôi trình bày ở đây về mặt lí luận có thể

là không mới vì đã có nhiều người chỉ ra nhưng chúng vẫn được chúng tôi điểm

lại ở mục này để làm căn cứ cho việc đưa ra hướng sửa lỗi ở mục sau (mục 3.2).

Nhìn vào các loại lỗi đã miêu tả ở chương 2 ta dễ dàng nhận thấy, có một

số lỗi chỉ có người Lào nói chung, sinh viên Lào nói riêng mới mắc, nhưng

cũng có những lỗi là của chung của tất cả mọi người học và sử dụng tiếng Việt,

tức mọi người đều mắc. Điều này khiến cho ta nghĩ đến sẽ có những nguyên

nhân gây lỗi mang tính phổ biến và cũng sẽ có những nguyên nhân gây lỗi

mang tính đặc thù.

Căn cứ vào thực tế của các kiểu câu mắc lỗi mà sinh viên Lào học chuyên

ngành Tiếng Việt đã viết, chúng tôi cho rằng có ba nguyên nhân cơ bản khiến

sinh viên Lào đã viết những câu TV mắc lỗi, đó là:

(1) Do hiểu biết về L2 của người học còn hạn chế;

(2) Do sự khác biệt giữa L1 và L2 dẫn tới sự chuyển di tiêu cực từ L1

sang L2;

74

(3) Do ý thức sử dụng L2 của người học còn chưa tốt.

3.1.1. Nguyên nhân thứ nhất: Do hiểu biết L2 (ở đây là tiếng Việt) của người

học còn hạn chế

Có thể nói, nguyên nhân đầu tiên khiến người học nói chung mắc lỗi sử

dụng L2 là do người học chưa nắm chắc L2 một cách thấu đáo. Vì vậy, khi dạy

và học L2, cả người dạy lẫn người học đều hướng tới đích chung là làm thế nào

để người học hiểu được L2 một cách tốt nhất. Một khi người học đã nắm được

L2, kèm theo có ý thức tốt trong khi dùng L2 thì việc phạm lỗi sẽ giảm hoặc

thậm trí không còn và ngược lại, nếu người học chưa nắm được L2 tốt thì dù họ

có ý thức tốt trong việc sử dụng L2 đến đâu thì vẫn không thể tránh được lỗi.

Nguyên nhân đang bàn ở đây mang tính „nhân loại‟. Nó không chỉ là

nguyên nhân dành riêng cho người học ngoại ngữ mà còn cho cả người học

tiếng mẹ đẻ.

Với nguyên nhân mắc lỗi này, không có cách khắc phục nào hơn là cần phải

làm cho người học nắm được L2 càng chắc, càng nhanh càng tốt. Mặc dù, làm thế

nào để nắm được một ngôn ngữ? Nắm được một ngôn ngữ nghĩa là nắm được

những cái gì ở ngôn ngữ đó? Có bao giờ người học nắm hết được những tri thức

của một ngôn ngữ không? Đây là những câu hỏi không dễ trả lời.

Trong số những lỗi viết câu TV của các em sinh viên Lào học tiếng Việt ở

Đại học Thái Nguyên đã mắc và chúng tôi đã trình bày ở chương 2, có những

lỗi là do người học (sinh viên Lào) chưa nắm được những tri thức về TV.

Những tri thức đó có thể là tri thức ngữ âm, có thể là tri thức về từ hay tri thức

ngữ pháp…

Chúng tôi đã phỏng vấn ba em sinh viên Lào dùng từ „mờ ảo‟ trong tiếng

Việt không đúng để tìm nguyên nhân mắc lỗi sử dụng từ này thì cả ba em đều

nói là “không biết nghĩa của từ này là gì”. Như vậy, vì „không biết nghĩa‟, tức

không nắm được nghĩa của từ là nguyên nhân chính dẫn đến lỗi ở đây.

Những lỗi chính tả kiểu như „ngh‟ viết thành „ng‟ (nghỉ học viết thành ngỉ

75

học), „d‟ viết thành „gi‟ (dì cháu viết thành gì cháu) cũng một phần là do các

em chưa nắm được qui tắc ghi âm của hai âm vị /ŋ/ và /z/ trong tiếng Việt. (Ở

đây chúng tôi tạm loại trừ nguyên nhân ý thức).

Tóm lại, trình độ L2 của người học còn hạn chế là một trong những

nguyên nhân cơ bản dẫn đến lỗi của người học.

3.1.2. Nguyên nhân thứ hai: Do sự tương đồng hay khác biệt giữa L1 và L2

Sự khác biệt giữa tiếng Lào và tiếng Việt dẫn tới lỗi chuyển di tiêu cực từ

L1 (ở đây là tiếng Lào) sang L2 (ở đây là tiếng Việt) hoặc chuyển di tiêu cực

trong nội tại tiếng Việt.

Đây là nguyên nhân cơ bản và không kém phần quan trọng gây nên những

lỗi viết câu TV không đúng của các em sinh viên Lào nói riêng, người nước

ngoài nói chung khi học TV.

Dễ dàng tìm thấy một số sự khác biệt giữa tiếng Lào và tiếng Việt về

phương diện ngữ âm, từ ngữ hay ngữ pháp, v.v… Chẳng hạn, sự khác biệt về

hệ thống âm vị phụ âm đầu giữa tiếng Lào và tiếng Việt đã gây ra một số lỗi về

chính tả, ví dụ lỗi viết âm „t‟ thành âm „đ‟.

Tương tự, sự khác biệt về cấu trúc của câu ghép điều kiện - kết quả:

Nếu…thì…giữa tiếng Lào và tiếng Việt cũng đã là nguyên nhân mắc lỗi của

sinh viên Lào khi dùng cấu trúc này trong tiếng Việt.Trong tiếng Lào, kết từ thì

thường đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết quả, ví dụ: Tha rốc cá lí lín kí là phuốc

hao co chá chạ khéng héng. (Nếu thường xuyên tập thể dục chúng ta thì sẽ

khỏe mạnh); còn trong tiếng Việt, kết từ thì lại đứng trước chủ ngữ (Nếu

(chúng ta) thường xuyên tập thể dục thì chúng ta sẽ khỏe mạnh). Người Lào

chuyển di cấu trúc này sang tiếng Việt thường bị mắc lỗi do sự khác biệt về vị

trí của kết từ thì trong cấu trúc câu như vừa nói. Trong 100 bài kiểm tra của

sinh viên Lào, chúng tôi đã thống kê được 38 trường hợp các em đã viết câu

ghép chính phụ điều kiện - kết quả có kết từ thì đứng sau chủ ngữ của vế chỉ

kết quả, ví dụ:

Ví dụ (3): Nếu ngày mai trời mưa chúng tôi thì không đi ra phố.

76

(Kham Pheng).

Ví dụ (4): Nếu tôi học giỏi tiếng Việt tôi thì sẽ làm phiên dịch.

(Muôn say).

Ví dụ (5): Nếu tôi tìm được người yêu tôi thì sẽ cưới trong năm nay.

(Khăn Tha Ly).

So sánh cấu trúc danh ngữ tiếng Việt và cấu trúc danh ngữ tiếng Lào thì

thấy sự khác biệt rất rõ ở một số thành tố trong cấu trúc. Số từ chỉ số lượng và

danh từ chỉ đơn vị trong tiếng Lào thường đứng sau danh từ trung tâm, trong khi

đó, những thành tố này trong tiếng Việt lại đứng trước danh từ trung tâm, ví dụ:

Ví dụ (6) a. Tiếng Việt: Tôi muốn bán đi ba lít xăng.

Tiếng Lào: Hau yak khải pay nặm măn xựa phay xảm lit.

(Tôi muốn bán đi xăng ba lít).

Tương tự, cụm danh từ tiếng Việt ở ví dụ (6.b) cũng khác biệt về vị trí

một số thành tố so với cụm danh từ tương ứng trong tiếng Lào và chính sự khác

biệt này đã dẫn đến lỗi chuyển di khi người Lào viết cụm danh từ tiếng Việt.

b. Vài giáo sư ngoại ngữ …

Cụm danh từ đồng nghĩa trong tiếng Lào lại diễn đạt như sau:

A chan pha xả pạ thệt bang khôn…

(Giáo sư ngoại ngữ vài người…)

Tóm lại, sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ là một trong những nguyên nhân

dẫn đến lỗi chuyển di trong chiến lược học tiếng. Ở đây là sự chuyển di từ tiếng

Lào sang tiếng Việt.

3.1.3. Lỗi do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học chưa tốt

Có thể nói, nếu người học có ý thức sử dụng ngôn ngữ (bao gồm cả L1 và

L2) không tốt thì hiện tượng mắc lỗi sẽ không thể tránh khỏi.

Thực tế sử dụng ngôn ngữ cho thấy, có những lỗi người học mắc không

phải do không nắm được ngôn ngữ đó mà là do „cẩu thả‟, „không có ý thức‟.

Chẳng hạn, qui tắc chính tả trong tiếng Việt qui định phải viết hoa chữ cái đầu

77

của âm tiết đứng ngay sau dấu ngắt câu. Qui định này chắc không mấy người

không biết khi học tiếng Việt nhưng hiện tượng vi phạm qui tắc này lại gặp khá

nhiều trên văn bản viết của người sử dụng tiếng Việt, trong đó có cả người Việt

Nam. Nguyên nhân này là gì nếu không cho đó là do ý thức của người học chưa

tốt? (Biết mà không thực hiện khiến cho lỗi trở thành cố tật).

Như đã trình bày ở chương 2, du học sinh Lào mắc lỗi chính tả khá nhiều.

Có những lỗi tưởng chừng rất hiển nhiên, như cần viết hoa tên riêng, vậy mà

sinh viên vẫn mắc lỗi. Trong số 100 bài kiểm tra của sinh viên Lào, có những

bài mắc đến 8 lượt lỗi không viết hoa 1 từ là tên riêng.

Tóm lại, ba nguyên nhân dẫn đến lỗi của người học L2 nói chung và

sinh viên Lào học tiếng Việt nói riêng trình bày ở trên tuy chưa phải là tất

cả nhưng đó là những nguyên nhân cơ bản mà bất cứ người dạy tiếng nào

cũng nên biết.

3.2. Về vấn đề sửa câu mắc lỗi cho ngƣời học L2

Trong dạy và học ngoại ngữ, cái đích đặt ra cho cả người dạy ngoại ngữ là

làm thế nào để người học nắm và sử dụng tốt L2, vì thế, ngoài việc phải cung

cấp tri thức L2 cho người học, còn phải biết phát hiện và sửa lỗi sử dụng L2

cho họ.

Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi

trước và căn cứ vào thực tế mắc lỗi viết câu TV của sinh viên Lào học tiếng Việt,

căn cứ vào thực tế giảng dạy TV với tư cách là một ngoại ngữ cho sinh viên,

chúng tôi bước đầu đưa ra nguyên tắc và qui trình sửa các câu mắc lỗi sau đây:

3.2.1. Nguyên tắc sửa lỗi

Tác giả Nguyễn Linh Chi [6, tr.67] đã đưa ra ba nguyên tắc khi sửa lỗi cho

người học L2, đó là: “Chữa một cách hiệu quả”, “Chữa lỗi nên cẩn thận, thông

cảm” và “Chọn những cách chữa lỗi phù hợp với sở thích của người học”.

Tiếp thu có chọn lọc và bổ sung nguyên tắc chữa lỗi của tác giả Nguyễn

Linh Chi, luận văn này đặt ra một số nguyên tắc chữa lỗi sau đây:

- Thứ nhất: Đảm bảo tính hiệu quả. Tính hiệu quả ở đây trước hết thể

78

hiện ở sự thay đổi của đối tượng mắc lỗi. Chẳng hạn, từ một câu mắc lỗi A, sau

khi sửa sẽ trở thành một câu đúng chứ không phải là sau khi sửa thì lại chuyển

sang câu mắc lỗi B (tức là sửa được lỗi này lại bị mắc lỗi khác). Tính hiệu quả

ở đây còn thể hiện ở sự thay đổi nhận thức của người học. Tức là, sau khi sửa

một câu mắc lỗi nào đó, người viết sẽ không bị vi phạm kiểu lỗi này trong

những hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ tương tự;

- Thứ hai: Đảm bảo sự trung thành với nội dung của câu. Sự trung thành

ở đây được hiểu theo nghĩa là khi sửa một câu mắc lỗi nào đó, người sửa lỗi

phải cố gắng giữ được nội dung cần diễn đạt của người viết. Tránh tình trạng

sửa lỗi xong, câu được sửa lại hoàn toàn thay đổi về nội dung, không đúng với

ý đồ của người viết;

- Thứ ba: Đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu trong quá trình sửa lỗi. Một

hiện tượng mắc lỗi có thể có nhiều cách sửa. Chọn cách sửa nào nhanh, đơn

giản và dễ hiểu là công việc đặt ra cho người sửa lỗi;

- Thứ tư: Đảm bảo phù hợp với đối tượng viết câu mắc lỗi. Nguyên nhân

dẫn đến hiện tượng người viết mắc lỗi không giống nhau cho nên chọn phương

pháp sửa lỗi nào cũng cần phải chú ý tới việc xem nó có phù hợp hay không

phù hợp với người viết câu mắc lỗi.

- Thứ năm: Đảm bảo hiệu quả diễn đạt. Sửa một câu mắc lỗi thành câu

không mắc lỗi, đó là cái đích. Nhưng chọn cách sửa nào để cuối cùng câu đã

sửa đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.

3.2.2. Qui trình sửa lỗi

a) Bước 1: Phát hiện lỗi (nhận diện lỗi)

Có thể nói, có những lỗi thể hiện tường minh, người đọc nhìn vào câu là

đã nhận ra lỗi, nhưng cũng có những lỗi người đọc phải qua một thao tác suy ý

mới tìm ra được. Bởi vậy, phát hiện lỗi là công việc đầu tiên và không thể thiếu.

Nếu phát hiện lỗi không đúng, khâu sửa lỗi sẽ không có tính khả thi.

Ví dụ có một câu TV mắc lỗi sau đây, người đọc không cần phải mất

79

nhiều thời gian khi tìm lỗi:

Ví dụ (6): a. Đầm Sen là một danh lăm tháng cảnh nổi tiếng ở thành phố

Hồ Chí Minh.

b. Anh ta vẫn thường nói với bà can trong làng rằng nếu hai anh thợ đùng

ý dời nhà đi thì anh ta sẽ làm một bữa tiệc thật sang để chiêu đãi hai người.

(Chăn Ha).

Lỗi của các âm tiết in đậm trong hai ví dụ trên là lỗi viết sai kí tự của âm

đầu hay âm chính:

Ở ví dụ (6a), âm chính trong âm tiết lăm là nguyên âm /a/, còn âm chính

trong âm tiết tháng là nguyên âm /ă/: …danh lam thắng cảnh…

chính trong âm tiết đùng phải đổi âm chính /u/ thành âm chính /o/.

Ở ví dụ (6b), âm tiết can phải đổi âm chính /a/ thành âm chính /ɔ/ và âm

Cùng là câu mắc lỗi chính tả nhưng câu trong ví dụ (7) dưới đây lại khó

phát hiện hơn.

Ví dụ (7): Em gái tôi tên là Hòa. (Lỗi đặt dấu thanh)

So với câu mắc lỗi chính tả, những câu mắc lỗi dùng từ, đặc biệt là câu

mắc lỗi ngữ pháp người đọc nhận diện lỗi rất khó. Khó tới mức đôi khi người

viết còn không biết mình đã dùng sai. Những trường hợp này phải dùng thao

tác suy luận, như câu mắc lỗi trong ví dụ (7).

Ví dụ (8): Theo bài báo cho biết công an Hà Nội đã tìm ra thủ phạm giết người.

Để chỉ ra chỗ sai trong câu ở ví dụ (8), chúng ta cần so sánh nó với những

câu mà ai cũng thấy là đúng, chẳng hạn so sánh câu này với các câu (9) và (10)

dưới đây:

Ví dụ (9): Quần chúng cho biết…

Ví dụ (10): Hùng cho biết…

Chủ ngữ của câu (9) và (10) là những danh từ (quần chúng, Hùng). Trong

khi đó, phần đầu của câu ở ví dụ (8) “theo bài báo” lại không phải là danh từ.

“bài báo” mới là danh từ. Vậy “theo bài báo” không phải là chủ ngữ, cần phải

80

bỏ từ “theo” để cụm từ đó trở thành chủ ngữ:

- (8a) Bài báo cho biết…

Câu ở ví dụ (8) là câu mắc lỗi cấu trúc do thiếu chủ ngữ hoặc là câu mắc

lỗi dùng từ do dùng từ thừa.

Một ví dụ khác:

Ví dụ (11): Cha cô ấy đòi tái giá với một phụ nữ trẻ.

Để diễn đạt hành động “kết hôn một lần nữa”, trong tiếng Việt có những

từ ngữ như: tái hôn, tái thú, tục huyền, tục hôn, cải giá, đi bước nữa…Trong số

những từ ngữ này có những từ dùng cho cả nam lẫn nữ: tái hôn, tục hôn. Có

những từ chỉ dùng riêng cho nam hoặc nữ: tái giá là từ dùng cho nữ, còn tục

huyền là từ dùng cho nam.

„Giá‟ là một từ Hán Việt có nghĩa là “trồng lúa”. Do đó, lúa cấy lại sau

khi cấy lần đầu bị hỏng được gọi là lúa cấy tái giá. Nghĩa của từ này liên quan

đến sự sinh sôi nẩy nở. Nhưng giá còn có nghĩa là phụ nữ lấy chồng (xuất giá

tòng phu, tức đi lấy chồng thì phải theo chồng). Vì vậy, người phụ nữ đi lấy

chồng lần đầu mà không thành, khi làm lại cuộc đời với người đàn ông khác

được gọi là tái giá. Sở dĩ bên trên có thể nói tai giá (khi cấy lúa) khác với tái

giá (lấy chồng khác). Đây là hai từ đồng âm vì chữ giá khác nhau.

Một người đàn ông đi lấy vợ khác sau khi vợ chết được gọi là tục huyền.

Tục huyền là cách nói ẩn dụ. Nghĩa đen của từ Hán Việt tục huyền có nghĩa là

„nối lại dây đàn‟. Cuộc đời của người đàn ông bị gián đoạn giống như dây đàn

bị đứt. Việc đi lấy vợ một lần nữa chẳng khác gì việc „nối lại dây đàn‟. Vì vậy,

từ tái giá trong ví dụ (11) là từ dùng không đúng, cần phải thay bằng từ tục

huyền cho phù hợp đối tượng.

Tóm lại, phân tích để tìm ra lỗi và xác định lỗi trong sử dụng L2 là một

vấn đề khá phức tạp. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết về vốn sống, hiểu biết về

L2 và cách nhìn nhận lỗi của mỗi người. Nhất là nó còn liên quan đến khả năng

81

suy luận của người phân tích lỗi.

Nói như vậy không có nghĩa là để chúng ta né tránh hay coi nhẹ bước này

trong qui trình sửa lỗi mà để thấy được cái khó của công việc này.

b) Bƣớc 2: Phân tích lỗi

Sau bước Phát hiện lỗi là bước Phân tích lỗi. Mục đích chính của việc

phân tích lỗi là để xác định kiểu lỗi, tìm nguyên nhân mắc lỗi và đánh giá tính

chất, mức độ của lỗi…để từ đó tìm cách sửa cho phù hợp.

- Phân tích lỗi để xác định kiểu lỗi: Như đã nói, cùng một hiện tượng

mắc lỗi có thể xếp nó vào những kiểu khác nhau, tuỳ thuộc vào quan điểm

nhìn nhận lỗi của từng người. Chẳng hạn như câu mắc lỗi trong ví dụ (8).

Nếu từ góc độ cấu trúc câu, có người cho đó là câu mắc lỗi cấu trúc do thiếu

chủ ngữ. Nhưng từ góc độ dùng từ thì lại có người xếp nó vào kiểu câu mắc

lỗi dùng từ (dùng thừa từ „theo‟). Hai cách nhìn nhận khác nhau về lỗi này sẽ

cho ta hai hướng sửa khác nhau. (Xin sẽ trở lại vấn đề này ở mục c: Chọn

cách sửa lỗi).

Như đã miêu tả ở chương 2, câu mắc lỗi có rất nhiều kiểu và mỗi kiểu lại

bao gồm những loại khác nhau. Phân tích lỗi để xác định từng loại lỗi để chọn

cách sửa lỗi cho phù hợp.

- Phân tích lỗi để tìm nguyên nhân mắc lỗi: Có nhiều loại câu sai. Mỗi

loại câu sai có những nguyên nhân đặc thù. Do đó, chúng ta cần phân tích lỗi

để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi.

Trong quá trình phân tích câu mắc lỗi để chỉ ra nguyên nhân dẫn đến lỗi

cần lưu ý là câu mắc lỗi rất đa dạng như đã thấy ở chương 2.

Dưới đây chúng tôi thử đưa ra một số kiểu câu mắc lỗi và cách phân tích

lỗi, trên cơ sở đó tìm ra cách sửa lỗi cho phù hợp:

(1) Lỗi chính tả

- Lỗi chính tả về phụ âm đầu

TT

Câu sai

Câu đúng

Ở một làng kia có một anh thanh niên.

1

2

Ngày xưa, ở nông thôn miền Bắc của nước Lào, dân tộc Thái ở nhà sàn.

3

Ở một làng kia có một anh tanh niên. (Lỗi viết sai âm đầu). Ngày xưa, ở nông thôn miền Bắc của nước lào, dân tộc thái ở nhà sàn. (Lỗi viết hoa). Nếuchúng em làm điều gì kông dúng, xincô thông cảm cho chúng

Nếuchúng em … không đúng, xincô thông cảm cho chúng em!

82

Chúng tôi đều nhất trí với...

4

em! (Viết sai kí tự âm vị). Chúng tôi dều nhất trí với phương án này. (Viết sai kí tự âm vị). Sinh viên Lào hay bị nhầm lẫn một số phụ âm giữa tiếng Việt và tiếng

Lào như trong các câu 1,3,4. Chỗ viết nghiêng của câu 3,4 viết đúng chính tả

sẽ là không đúng, đều. Xét về mặt phát âm, phụ âm /k/, /d/ trong tiếng Lào và

phụ âm /kh/, /đ/ trong tiếng Việt gần giống nhau, nên lỗi chính tả này là do chịu

ảnh hưởng phát âm tiếng Lào.

Đặc biệt là tiếng Lào không có chữ cái nào tương đương với 'r' nên các

từ của Việt Nam có chữ cái 'r' đứng đầu khi phiên âm qua tiếng Lào sẽ bị đổi

sang 's' hoặc 'l' hoặc 'gi' (chữ ລ) nhưng rất ít khi được dùng vì chữ cái Lào

tương đương với âm 'gi' (tức là ຍ) thường vẫn hay bị đọc thành 'nh'.

- Lỗi chính tả về phần vần

TT Câu sai Câu đúng

Lễ bược chỉ cổ tay là phong tục Lễ bược chỉ cổ tay là phong tục trong 1 trong đám cưới của người Lào. đám cưới của người Lào.

Cô giáo em không những xin Cô giáo em không những xinh đẹp 2 đẹp mà còng giỏi tiếng Việt. mà còn giỏi tiếng Việt.

3 Sao đó em đi ăn cơm. Sau đó em đi ăn cơm.

Lỗi chính tả ba câu trên: bược – buộc, xin - xinh, còng - còn, sao – sau

đều sai về phần vần. Thử so sánh phần vần giữa tiếng Việt và tiếng Lào, ta sẽ

thấy phần vần tiếng Việt phức tạp hơn phần vần của tiếng Lào, phần vần tiếng

Lào gọi là vận mẫu, chủ yếu do nguyên âm tạo thành, cũng có thể do nguyên

âm kết hợp với phụ âm mũi tạo thành. Theo đó thể phân thành 3 loại: Vận mẫu

nguyên âm đơn, vận mẫu nguyên âm kép và vận mẫu mang âm mũi. Còn phần

vần của tiếng Việt được chia thành 3 phần là: âm đệm, âm chính và âm cuối.

83

Mỗi thành tố này trong âm tiết đều có chức năng của mình.

Người Lào học tiếng Việt thường cảm thấy trong tiếng Việt có nhiều vần

gần giống nhau và khó phân biệt, chẳng hạn như: an–ăn–ân–ăng, ênh–anh, in–

inh, on–ôn–ông–ong, un–uon, ao–au, ach–êch, at–ăt–ac–ăc…cho nên khi thực

hành văn bản, đặc biệt là trong bài tập nghe và viết, sinh viên Lào hay bị mắc

những lỗi chính tả như trên đã nêu.

- Lỗi chính tả về thanh điệu

TT Câu sai Câu đúng

Đây là Thúy, bạn tối. (Lỗi đặt sai Đây là Thuý, bạn tôi. 1 vị trí thanh điệu).

Trong nhà có nhiều đồ dụng như: Trong nhà có nhiều đồ dùng như:

2 bàn ghê, nước dụng,… bàn ghế, nước dùng,…

(Viết sai thanh điệu).

…phải làm như thê. (Viết sai …phải làm như thế. 3 thanh điệu).

Em xin từ giới thiều. (Viết sai Em xin tự giới thiệu 4 thanh điệu)

Tôi rất thích nói chuyển với cô. Em rất thích nói chuyện với cô. 5 (Viết sai thanh điệu).

Cả tiếng Việt lẫn tiếng Lào đều có thanh điệu, cho nên khi học thanh điệu

D Em dựng bút tại đây. Em dừng bút tại đây.

tiếng Việt, người Lào thấy dễ hơn người phương Tây. So sánh hệ thống thanh điệu

của TV và thanh điệu tiếng Lào để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi của người học.

Tiếng Lào cũng giống như tiếng Thái có 5 thanh điệu tương đương 5

thanh điệu của tiếng Việt, tuy nhiên có một thanh điệu được gọi là luyến lên –

luyến xuống, lại được biến đổi tùy từng trường hợp sử dụng phù hợp với ngữ

cảnh và sắc thái biểu cảm để có lúc thì phát âm như thanh sắc nhưng cũng có

khi lại được phát âm như thanh nặng của tiếng Việt, tạo ra một đặc trưng trong

phát âm của tiếng Lào và cũng là tạo nên sự khác biệt rất rõ giữa tiếng Lào và

84

tiếng Việt.

Ngữ điệu tiếng Lào được qui định bởi năm thanh điệu mà người Lào gọi là

mai ệc, mái tri, mái thô, mái chặt - ta – wa… như dưới đây:

‟ như - Thanh cao (thanh sắc) được tạo bởi 'mái tri' và được viết là „໊໊

trong từ ກ໊ າ và được phát âm là 'cá'.

- Thanh thấp (thanh huyền) được tạo bởi mái ệc và được viết là „ ่ ‟tức là một

dấu nháy như thanh sắc ở phía trên, ví dụ trong từ ກ່ າđược phát âm là „cà‟.

- Thanh bằng (thanh không hay thanh bằng) nghĩa là không có dấu gì ở

trên hoặc dưới như từ ກາ được phát âm là „ca‟.

- Thanh luyến lên (thanh hỏi) được tạo bởi mái chặt -ta- wa và được viết

là ‘ ่ ’tức là có một dấu cộng ở trên đầu như từ ກ໋ າ và được phát âm là „cả‟.

- Thanh luyến xuống (gần giống thanh nặng của tiếng Việt) được gọi là mái

thô và được viết gần như thanh ngã của tiếng Việt „่ ‟ nhưng nó phát âm gần giống

thanh nặng trong tiếng Việt, như từ ກ້ າ và được phát âm gần như „cạ‟.

Riêng thanh luyến xuống là một thanh đặc biệt mà trong tiếng Việt không

có. Thực tế tiếng Lào không có thanh nặng như tiếng Việt mà chỉ phát âm

luyến xuống gần giống thanh nặng mà thôi. Điều này khiến người Lào rất khó

khăn khi phát âm thanh nặng của tiếng Việt.

Đối với sinh viên Lào nói riêng, người Lào nói chung, tuy thanh nặng

không có trong tiếng Lào, hay bị mắc lỗi, ngược lại, về thanh hỏi, thanh huyền

và thanh nặng, ba thanh điệu này hơi khó phân biệt cho nên khi thực hiện trên

chính tả hay bị mắc lỗi, đặc biệt là thanh huyền với thanh nặng hay bị sinh viên

nhầm lẫn.

- Lỗi chính tả về viết hoa

TT Câu sai Câu đúng

1 Ngày xưa ở nông thôn miền Bắc của nước lào có dân tộc thái đen. Ngày xưa ở nông thôn miền Bắc của nước Lào có dân tộc Thái Đen.

2 ở một làng kia có một anh thanh niên thích sống yên tĩnh Ở một làng kia có một anh thanh niên thích sống yên tĩnh.

85

3 tôi muốn thuê nhà ở thái nguyên. Tôi muốn thuê nhà ở Thái Nguyên

Em mong muốn học giỏi tiếng Việt. 4 Em mong muốn học giỏi Tiếng Việt.

5 Em học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm thái nguyên. Em học ở trường Cao đẳng Sư phạm Văn Sơn

Về quy cách viết hoa tiếng Việt đã có quy định được Bộ Giáo dục và Đào

tạo Việt Nam ban hành. Nhưng trong chính tả tiếng Lào, vì là chữ viết không

qui định viết hoa và vì không có thói quen viết hoa nên khi viết tiếng Việt

người Lào hay mắc lỗi.

Theo quy cách viết hoa của tiếng Việt, ngoài viết hoa chữ cái đầu câu ra,

trong những trường sau đây cũng phải viết hoa: tên người, tên địa lý, tên cơ quan,

tên dân tộc, tên cơ quan, tổ chức, toàn thể... Chỗ này chỉ cần giải thích một lần

sinh viên sẽ nhớ ngay, nhưng khi thực hiện trên chính tả, sinh viên sẽ thấy hơi khó

lựa chọn đâu là những chữ ghi tên các đối tượng trên và nên viết hoa vào chữ cái

nào mới đúng, bởi thế cho nên hay bị mắc lỗi như trên đã nêu ra.

Ở câu 1, chỉ cần viết hoa chữ cái đầu của các tên riêng chỉ nước và dân tộc:

Lào, Thái Đen.

Ở câu 2, cần viết hoa chữ cái đầu của âm tiết „ở‟ vì đây là âm tiết đứng đầu câu.

Tương tự, ở ví dụ 3 cũng cần viết hoa từ „Tôi‟ và từ „Thái Nguyên‟. Từ tôi

tuy không phải là tên riêng nhưng đứng ở vị trí đầu câu, còn Thái Nguyên là

tên riêng của một địa danh do đó cũng cần viết hoa.

Ở câu 4, chỉ cần viết hoa chữ „Việt‟ vì nó là tên riêng của một thứ tiếng,

còn chữ cái đầu của „tiếng‟ thì không cần viết hoa, vì nó không phải tên riêng

và không phải âm đứng đầu câu, không phải chữ chỉ tên đặc biệt gì đó.

Còn về câu 5, sinh viên đã biết khi viết tên cơ quan phải viết hoa, nhưng

sinh viên lại không lưu ý đến về những từ song âm tiết của tiếng Việt chỉ cần

viết hoa chữ cái đầu của song âm tiết, ví dụ như “Cao đẳng”, “Sư phạm” chỉ

cần viết hoa chữ cái đầu của “Cao” và “Sư”

86

(2) Lỗi về dùng từ

- Lỗi về loại từ

Cả tiếng Việt lẫn tiếng Lào đều có loại từ, cho nên khi sinh viên Lào học

tiếng Việt không mắc lỗi nhiều như người phương Tây. Song, vì trong tiếng

Lào và tiếng Việt có nhiều từ loại từ và cách dùng khác nhau cho nên sinh viên

Lào khi học tiếng Việt hay bị mắc lỗi về loại từ do chuyển di tiêu cực từ tiếng

mẹ đẻ (tiếng Lào) sang L2 (ở đây là tiếng Việt).

Ví dụ, tiếng Việt có loại từ „quả‟ đi với tên các loại quả: quả mít, quả dừa,

quả ổi, quả na, quả bưởi, v.v… Tương ứng loại từ này trong tiếng Lào có từ

„mak‟: mak mì, mak mồ, mak xi đà, mak khiêp, mak khúc. Loại từ „quả‟ trong

tiếng Việt còn có thể dùng kèm danh từ chỉ những sự vật hình khối: quả đất.

Sang tiếng Lào, loại từ „nuoi‟ mới đi kèm sự vật chỉ hình khối, còn „mak‟ là

loại từ thường đi với danh từ chỉ hoa quả. Sự phân biệt không rõ ràng này trong

tiếng Việt dẫn đến lỗi sử dụng loại từ tiếng Việt của người Lào.

+ Lỗi dùng thừa loại từ

TT Câu sai Câu đúng

1 Nhà em có 5 con người. Nhà em có 5 người.

Phố cổ Hà Nội có bán nhiều bức Phố cổ Hà Nội có bán nhiều tranh 2 tranh thêu. thêu.

3 Một năm có 2 cái học kỳ Một năm có 2 học kỳ

Trong tiếng Lào, trước danh từ chỉ loại hay không chỉ loại, nói chung khi

muốn nói về số lượng thì đều phải có loại từ đi kèm số từ, theo công thức: danh

từ + số từ (xác định hay không xác định) + loại từ, ví dụ như: gà ba con. Trong

tiếng Việt, khi danh từ mang nghĩa chỉ tổng loại nói chung thì không cần dùng

loại từ, ví dụ như câu 2, “tranh” ở đây là danh từ chỉ tổng loại nói chung chứ

không phải nói về số lượng cụ thể là bao nhiêu, cho nên ở đây không cần thêm

loại từ. Trong ví dụ 1 cũng vậy, người ở đây là danh từ chỉ loại (người) nên

87

cũng không cần từ chỉ loại.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến lỗi dùng thừa loại từ là sinh viên

chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và quá trung thành quy tắc sử dụng loại từ

trong tiếng Lào: luôn dùng loại từ sau danh từ nếu muốn nói về số lượng. Sinh

viên đã chuyển di tiêu cực tiếng mẹ đẻ và sử dụng chiến lược suy luận tương tự

một cách thái quá dẫn đến lỗi ở đây..

+ Lỗi dùng sai loại từ

TT Câu sai Câu đúng

A Em đi chợ mua 2 cái cà rốt. Em đi chợ mua 2 củ cà rốt

B Em thích ăn quả hành tây. Em thích ăn củ hành tây.

Mời em ăn 2 chùm thịt nướng Mời em ăn 2 xiên/ xâu thịt nướng C được không? được?

D Em đi siêu thị mua một cái dao. Em đi siêu thị mua một con dao.

Ở câu 1, lẽ ra phải dùng “củ”, học viên lại dùng nhầm là “cái”. Sinh viên

đã nhớ “cái” trong tiếng Việt là loại từ được dùng cho mọi sự vật, trong đó có

cả „cà rốt‟. Từ “cái” trong tiếng Việt là loại từ phạm vi được dùng tương đối

rộng, tương đương với loại từ “hua, cản, tô…” của tiếng Lào, cho nên khi sử

dụng loại từ trong tiếng Việt, sinh viên không để ý đến loại từ để miêu tả về

phần thân, rễ hoặc quả của cây phát triển lớn ra, nằm ở dưới đất hoặc sát đất

cần dùng loại từ “củ”, chứ không phải là “cái”.

Ở câu 2, sinh viên mắc lỗi là dùng nhầm loại từ “quả” thay cho loại từ

“củ”. Sở dĩ như vậy là sinh viên có nhận thức sai trong tiếng Việt, theo từ điển

tiếng Việt (96), "quả" là loại từ dùng để chỉ bộ phận của cây do bầu, nhụy hoa

phát triển mà thành. Còn đối với các loại rau mà phần thân, rễ hoặc quả của cây

phát triển lớn ra, nằm ở dưới đất hoặc sát đất thì tiếng Việt dùng loại từ "củ"

như củ hành, củ tỏi, củ sắn...

Ở câu 3, sinh viên dùng “chùm thịt nướng” là trong giáo trình có dạy một

88

câu là “Tôi mua được 2 chùm quả nho”, dịch sang tiếng Lào là “khoiy đai sư

mak ă ngun 2 phuông”, loại từ chùm trong tiếng Việt ở đây có nghĩa tương

đương với một loại từ phuông trong tiếng Lào, khi miêu tả về những sự vật có

hình như quả nho, quả chuối hoặc những sự vật xâu chuỗi cũng được sử dùng

loại từ “phuông” (chùm), cho nên ở câu 3 sinh viên đã chuyển di tiêu cực tiếng

mẹ đẻ vào hệ thống ngôn ngữ trung gian của mình và dẫn đến lỗi.

Ở câu 4, sinh viên dùng loại từ “cái” thay cho loại từ “con”. Sỡ dĩ như vậy

là trong tiếng Việt, khi sử dụng loại từ, nói chung đồ vật dùng “cái”, con vật

dùng “con”, nhưng sinh viên lại không biết những sự vật nào thể hiện tính

“động” hoặc muốn nhấn mạnh, muốn làm cho nó sống động hơn thì dùng

“con”. Ví dụ như: con mắt, con sông, con dao... Trong khi đó, tiếng Lào khi nói

về dao, đồ dùng thì lại đi kèm với loại từ „đuông‟ (mít đuông), nói về mắt lại có

loại từ „nuôi‟(nuôi ta) và nói về sông lại có loại từ „nắm‟(me nắm). Vì một loại

từ của tiếng Việt dùng tương đương với ba loại từ của tiếng Lào, hơn nữa người

Lào nhớ máy móc loại từ cái trong tiếng Việt thường dùng đi kèm danh từ chỉ

sự vật chứ không dùng với danh từ chỉ động vật (mà dao là danh từ chỉ sự vật)

nên đã dùng loại từ cái thay cho dùng từ con như ví dụ đã dẫn.

Theo thống kê của chúng tôi, sinh viên Lào khi sử dụng loại từ tiếng Việt,

thường xảy ra hai trường hợp mắc lỗi là dùng thừa loại từ và dùng sai loại từ,

còn trường hợp dùng thiếu loại từ cũng có nhưng rất hiếm. Sở dĩ như vậy là do

cả hai thứ tiếng đều có loại từ, chỉ có điều quy tắc sử dùng loại từ không giống

nhau: loại từ trong tiếng Việt đi trước danh từ, còn loại từ trong tiếng Lào lại đi

sau danh từ chỉ sự vật. Chính sự tương đồng và khác biệt này đã ảnh hưởng đến

hệ thống ngôn ngữ trung gian của sinh viên và làm cho sinh viên mắc lỗi sử

dụng loại từ tiếng Việt.

- Lỗi dùng từ xƣng gọi.

So với hệ thống đại từ xưng gọi của tiếng Lào, có thể thấy, hệ thống đại từ

xưng gọi của tiếng Việt phức tạp hơn. Trong tiếng Lào đại từ nhân xưng số ít

89

ngôi thứ nhất có: “khoiy”, “hau”, và đại từ nhân xưng số nhiều ngôi thứ nhất

có: “phuốc khoiy”, “phuốc hau”; ngôi thứ hai số ít có “mưng”, số nhiều có

“phuốc mưng”; ngôi thứ ba số ít có “lao năn”, “ay năn”, “ươi năn” và số nhiều

có từ “Phuốc khao”.

Nhìn tổng quát, số từ dùng để xưng hô không phong phú bằng hệ thống từ

xưng hô trong tiếng Việt.

Trong tiếng Việt khi xưng gọi, ngoài các đại từ nhân xưng (tôi, tao,

mày...), các danh từ chỉ quan hệ thân tộc (cô, dì,chú, bác,…) còn có lớp danh từ

chỉ chức vị và nghề nghiệp (giám đốc, hiệu trưởng, trưởng phòng, cô giáo, bác

sĩ, lái xe,…). Danh từ thân tộc được dùng trong xưng gọi rất uyển chuyển và

nói chung là có phân biệt giới tính (trừ vài trường hợp như: cụ, kị, chắt…).

Theo Nguyễn Đức Tồn thì việc lựa chọn sử dụng từ xưng gọi tùy thuộc vào

mối quan hệ ngang và quan hệ dọc giữa những người tham gia giao tiếp. Quan

hệ ngang hay còn gọi là quan hệ thân hữu là quan hệ gần gũi hay xa cách giữa

những người giao tiếp. Thí dụ như: anh – tôi, tao – mày... . Quan hệ dọc là quan

hệ biểu thị quyền uy, tôn ti giữa những người tham gia giao tiếp với nhau. Thí

dụ như: chị - em, ông – cháu…

Cần phải nói ngay rằng, sự khác nhau về số lượng các từ xưng hô không

phải là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc người Lào mắc lỗi sử dụng hệ thống

từ xưng hô của tiếng Việt. Vấn đề ở đây là có nhiều trường hợp, một từ xưng

hô của tiếng Lào tương ứng với nhiều từ xưng hô của tiếng Việt một phần

khiến người Lào bị nhầm lẫn khi dùng từ xưng hô của tiếng Việt. Ví dụ, tiếng

Việt phân biệt rất rõ hai từ “chúng tôi” và “chúng ta”, trong khi đó tiếng Lào lại

chỉ có một từ tương đương: phuốc hau. Trong tiếng Việt, từ chúng tôi là từ

xưng hô ngôi thứ nhất, số nhiều; còn từ chúng ta, chúng mình lại là từ xưng hô

bao gộp cả ngôi thứ nhất lẫn ngôi thứ hai (ví dụ, Hà nói với Minh: Thôi chúng

ta / chúng mình về học ôn thôi, không đi xem phim nữa). Người Lào khi dùng

90

từ xưng hô bao gộp trong tiếng Việt thường mắc lỗi là do nguyên nhân này.

Một trong những nguyên nhân người Lào mắc lỗi sử dụng từ xưng hô của

tiếng Việt là do họ không nắm được các cặp xưng – hô tương ứng trong tiếng

Việt, chẳng hạn, các từ: anh, chị trong tiếng Việt sẽ có từ tương ứng để xưng /

hô là em; các từ cô, dì, chú, bác,…có từ tương ứng thành cặp là cháu, v.

v…Người Lào thường dùng chưa phân biệt một số cặp từ xưng hô này như các

ví dụ trong bảng sau:

TT Câu sai Câu đúng

1 Em chào cậu ạ! Cháu chào cậu ạ!

2 Tôi chào cậu! Tớ/mình chào cậu!

3 Em chào thầy (chào cô giáo) Em chào cô!

Ở câu 1, khi nghe sinh viên gọi đối tượng được chào là “cậu”, thì ta có

thể nhận biết đối tượng này là người có quan hệ thế nào với sinh viên đó, từ

“em” là từ xưng gọi đối với những người hơn mình vài tuổi, người nói và người

cùng một thế hệ. Theo Từ điển tiếng Việt (95) thì "cháu" là danh từ thân tộc

dùng để chỉ người thuộc thế hệ sau nhưng không phải là con trong quan hệ với

người thuộc thế hệ trước. Cho nên trong câu 1 phải dùng danh từ “cháu”, chứ

không phải là “em”.

Ở câu 2, khi người nói gọi người nghe là “cậu” và xưng là “tôi” thì chúng

ta biết ngay hai người này cùng một thế hệ và có quan hệ rất thân mật. Nhưng

trong tiếng Việt khi gọi người khác là “cậu” (không phải từ chỉ quan hệ than

tộc) thì biết đây là những người có quan hệ xã hội bình đẳng và ở lứa tuổi trẻ,

do đó phải xưng là “tớ” hay “mình” để đảm bảo sắc thái biểu cảm.

Ở câu 3, người chào là học sinh, người được chào là cô giáo, nhưng sinh

viên lại gọi người được chào là “thầy”. Lỗi này là do là vì trong đại từ xưng hô

của tiếng Lào có từ không phân chia giới tính để chỉ người làm nghề dạy học.

Trong tiếng Lào, cả thày giáo lẫn cô giáo đều có thể được gọi bằng một từ “nai

khu”. Có một số từ khác có phân biệt giới tính, nhưng nó chỉ thể hiện về chữ

91

viết, không phân biệt về phát âm. Cho nên sinh viên Lào ít có ý thức để phân

biệt giới tính, hay bị mắc lỗi này trong đoạn thời gian mới bắt đầu tiếp xúc

tiếng Việt.

Từ những câu lỗi đã được phân tích trên, người viết nhận ra rằng, hệ thống

từ xưng hô của tiếng Việt rất nhiều và cách sử dụng rất phức tạp, luôn luôn

thay đổi dựa vào quan hệ trên và dưới, quan hệ gần gũi hay xa cách giữa người

nói và người nghe. Chính vì tính phức tạp và tính không ổn định của hệ thống

từ xưng hô trong tiếng Việt nên trong khi viết, sinh viên Lào hay bị mắc lỗi sử

dụng từ xưng gọi, đặc biệt là sử dụng không nhất quán, chẳng hạn như câu

trước sử dụng từ “em”, đến câu tiếp theo thì lại thay bằng đại từ “tôi”.

Một số ví dụ lỗi dùng từ xưng hô tiếng việt của người Lào và cách sửa lỗi:

+ Lỗi dùng đại từ “chúng ta” và “chúng tôi”

TT Câu sai Câu đúng

Chúng em đã được đi Thái Nguyên du học một học kỳ. 1

Chúng ta đã được đi Thái Nguyên du học một học kỳ.( Nói với người ở vị thế cao hơn mình)

2 Hôm qua cô Vân mời chúng ta ăn nem rán. (Học sinh nói với cô giáo) Hôm qua cô Vân mời chúng em ăn nem rán.

Lỗi mà học viên mắc phải trong câu 1 và câu 2 là dùng "chúng ta" thay

cho "chúng em". "Chúng ta" và "chúng em" là từ nhân xưng ngôi thứ nhất số

nhiều trong tiếng Việt được sử dụng khi quan hệ giữa những người tham gia

giao tiếp thuộc quan hệ ngang hàng và tương ứng với đại từ ngôi thứ nhất số

nhiều tiếng Lào là “phuốc hau”. Giữa từ nhân xưng này của tiếng Việt có một

sự khác biệt về ý nghĩa khi sử dụng. "Chúng ta"có thể được người nói sử dụng

để chỉ ngôi 1 số nhiều, đồng thời có thể dùng để chỉ cả người nói lẫn cả người

nghe. Còn "chúng tôi" thì chỉ để những người nói tự xưng mà không bao hàm

người nghe. Thực ra trong tiếng Lào cũng có một từ tương ứng với “chúng ta”

là từ “phuốc khoiy”, nhưng vì người Lào ít dùng đến từ này trong giao tiếp, cho

nên hay bị lầm lẫn và thường dùng sai hai từ nhân xưng này.

92

- Lỗi dùng các đại từ khác.

+ Lỗi về dùng loại từ “gì” - “nấy”, “bao nhiêu” – “bấy nhiêu”

TT Câu sai Câu đúng

1 Người ta thường nói “ăn gì bổ gì”. Người ta thường nói: “ăn gì bổ ấy/ nấy”.

2 Em muốn mua bao nhiêu thì mua bao nhiêu. Em muốn mua bao nhiêu thì mua bấy nhiêu.

Về kết cấu “động từ + gì + động từ + nấy” và “động từ + bao nhiêu + động

từ + bấy nhiêu” không phải là một kết cấu khó, nhưng tại sao sinh viên lại mắc

lỗi này? Đây là vì chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Trong tiếng Lào, kết cấu

tiếng Việt này được thể hiện như sau: “động từ + cái gì + động từ + cái gì” và

“động từ + bao nhiêu + động từ + bao nhiêu”, những từ dùng sau động từ hoàn

toàn giống nhau, không biến đổi (Anh ăn cái gì thì tôi ăn cái gì). Còn trong

tiếng Việt, từ đứng sau động từ thứ hai thường bị biến âm hoặc thay đổi (anh ăn

gì thì tôi ăn nấy). Tiếng Lào: cô thích ăn cam bao nhiêu thì tôi thích ăn cam bao

nhiêu), tiếng Việt biến đổi từ đứng sau động từ thứ hai : Anh thích ăn cam bao

nhiêu thì tôi thích ăn cam bấy nhiêu).

+ Lỗi về trật từ của đại từ thời gian “khi nào”, “bao giờ”

Câu sai Câu đúng TT

Cô sẽ quay trở lại Viêng Chăn bao Bao giờ cô sẽ quay trở lại Viêng A Chăn? giờ?

Khi nào thầy Thành có em bé? (hỏi Thầy Thành có em bé khi nào?

B về quá khứ, tức thầy Thành đã có em

bé rồi).

Với đại từ để hỏi "khi nào, bao giờ" thì tiếng Việt có hai kết cấu là:

(1) Khi nào/Bao giờ + CN + (sẽ) + ĐT ?

(2) CN + (đã) + ĐT + khi nào/bao giờ?

Kết cấu (1) là đặt “khi nào, bao giờ ” ở đầu câu để hỏi về tương lai, còn

93

kêt cấu (2) là đặt “khi nào, bao giờ” ở cuối câu để hỏi về quá khứ.

Trong tiếng Lào bất cứ hỏi về quá khứ hay là tương lai cũng có hai kết

cấu là đặt “mưa đai” trước hay sau nòng cốt câu, như: CN + động từ (vị ngữ) +

mưa đai/mưa đai +CN + ĐT? Ví dụ:

Ví dụ: (1) “Noóng kin khao mưa đai?” dịch sang tiếng Việt là “Em ăn

cơm khi nào?”

(2) “Mưa đai noóng kin khao ?” dịch sang tiếng Việt là bao giờ em ăn cơm?”.

Tuy giống nhau về cấu trúc câu hỏi về thời gian nhưng người Lào không

phân biệt được hai cách hỏi về thời gian trong tiếng Việt cho nên khi sinh viên

sử dùng hai kết cấu hỏi về thời gian của tiếng Việt hay bị nhầm lẫn và chủ yếu

mắc lỗi câu hỏi về quá khứ.

(3) Lỗi dùng động từ

- Lỗi dùng động từ “rửa”, “vo”

TT Câu sai Câu đúng

A Em đi rửa đầu. Em đi gội đầu

B Em đang rửa gạo. Em đang vo gạo.

Ở hai câu trên, sinh viên đã dùng động từ “rửa” thay cho động từ “gội”,

“rửa” thay cho từ “vo” là vì trong tiếng Lào, bất cứ là “rửa” hay “vo”, đều chỉ

có một động từ là “láng”, và động từ “rửa”của tiếng Việt là động từ được học

sớm hơn trong giáo trình, cho nên trong những câu phải dùng đến động từ

“láng” thì sinh viên chỉ biết dùng động từ “rửa”

- Lỗi dùng cặp từ “thích … hơn”

TT Câu sai Câu đúng

1 Em thích hơn uống sữa chua. Em thích uống sữa chua hơn.

2 Em thích hơn cô ấy. Em thích cô ấy hơn.

Lỗi ở hai câu trên là đã đặt "hơn" ngay sau "thích". Trong tiếng Việt để

thể hiện ý thích hơn thì ta có kết hợp là "thích cái gì hơn" hoặc là "thích làm gì

94

hơn". Sỡ dĩ sinh viên bị mắc lỗi này là vì sinh viên dùng nguyên kết cấu tiếng

Lào và chuyển di sang ngôn ngữ thứ hai. Trong kết tiếng Lào, để thể hiện nghĩa

thích hơn, người Lào thường nói là “mắc laiy”, nếu đặt trong câu 1 sang tiếng Lào

là: “khoiy mắc kin kháo phủn laiy”. Trong tiếng Việt, có kết cấu vế so sánh được

biểu thị là: “thích + đt /dt + hơn”. Hai cấu trúc ở hai ngôn ngữ này có phần khác

nhau dẫn đến lỗi của sinh viên Lào khi nói kiểu câu này trong tiếng Việt.

- Lỗi dùng động từ “mượn”

TT Câu sai Câu đúng

Chị mượn cho em bút chì được Chị cho em mượn bút chì được A không? không?

B Em đã cho anh Vĩ mượn rồi. Em đã mượn cho anh Vĩ rồi.

Lỗi của câu 1 và 2 là sinh viên chưa phân biệt rõ ràng về kết cấu của từ

cho và mượn với hành động ngôn ngữ khác nhau:

Nếu yêu cầu ai đó cho mình mượn cái gì đó thì từ cho phải đứng trước từ

mượn, và đối tượng mượn phải là người nói (ngôi 1), kiểu như: cho em mượn…:

Chị cho em mượn cái bút nhé. / Cô cho cháu mượn quyển từ điển nhé.

Nếu là hành vi xác tín thì mượn đứng trước cho và đối tượng mượn

thường là ngôi hai hoặc ngôi 3, kiểu như: mượn cho bạn…/ mượn cho anh ấy…:

Tôi đã mượn cho bạn quyển từ điển rồi. / Tôi đã mượn cho bạn Hà chiếc xe

máy rồi. Cũng có thể cho đứng trước mượn nhưng đối tượng mượn không phải

ngôi 1 mà là ngôi 2 hoặc ngôi 3: cho chị ấy mượn…, cho anh mượn…

Ở câu 1 dẫn trên, đây là hành vi yêu cầu cho nên phải thay đổi vị trí của từ

cho và từ mượn. “Chị cho em mượn…”.

Ở câu 2, đây là hành vi xác tín nên phải diễn đạt lại là: Em đã mượn cho

anh Vĩ rồi.

Trong tiếng Lào chi có một kết cấu là “nhưm hai…” (mượn cho) hoặc “hai

nhưm” (cho mượn) nhưng qui tắc sử dụng rất chặt chẽ, ít có sự đảo vị trí, còn

trong tiếng Việt, hai từ này vị trí nhiều khi biến đổi rất linh hoạt và người Lào

95

thường khó nhận biết sự biến đổi này do đó hay bị mắc lỗi.

- Lỗi về dùng giới từ

Giới từ cũng là một trong những vấn đề ngữ pháp khó nên sinh viên Lào

chưa nhớ hết được các danh từ nào trong tiếng Việt phải dùng với giới từ và

danh từ nào trong tiếng Việt không cần dùng giới từ vì vậy họ cũng hay bị mắc

lỗi về giới từ, ví dụ, lỗi dùng giới từ “ở” và “vào”

TT Câu sai Câu đúng

1 Em thích ăn bún ở buổi sáng. Em thích ăn bún vào buổi sáng.

Trường em được thành lập ở năm Trương em được thành lập vào năm 2 1984. 1984.

Ở câu 1 và 2, sinh viên đã mắc lỗi thay giới từ “ở” cho giới từ “vào” là

trong tiếng Lào, trạng ngữ biểu thị thời gian hoặc địa điểm, người ta đều dùng

giới từ “lâm te” chứ không phân biệt như tiếng Việt: trạng ngữ chỉ địa điểm

dùng giới từ “ở”, còn trạng ngữ chỉ thời gian phải dùng giới từ “vào”. Vì chưa

nắm chắc kết cấu này và chịu ảnh hưởng của tiếng Lào, cho nên sinh viên Lào

học tiếng Việt hay bị mắc lỗi này.

c) Chọn cách sửa lỗi

Có nhiều cách phân tích, nhìn nhận một hiện tượng mắc lỗi

Trước một hiện tượng mắc lỗi, ta có thể có nhiều cách sửa. Thử phân tích

câu mắc lỗi ở ví dụ (8).

Nếu cho đây là câu mắc lỗi do thiếu chủ ngữ, ta có ba cách sửa: Thứ nhất,

thêm chủ ngữ;

Thứ hai, lược bớt từ „theo‟.

Thứ ba, thêm từ „thì‟ vào sau cụm từ „Theo bài báo thì… ‟.

Tóm lại, việc phân tích lỗi để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi của câu là việc

làm cần thiết.

3.3. Tiểu kết

Chương này đã trình bày hai nội dung lớn, đó là: 1) Nguyên nhân khiến

96

cho sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi và 2) Hướng sửa lỗi.

- Về nguyên nhân sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi, luận văn đã

trình bày ba nguyên nhân, cụ thể:

+ Do người học chưa nắm được L2 một cách thấu đáo;

+ Do sự khác biệt giữa L1 và L2, kéo theo lỗi chuyển di tiêu cực từ L1

sang L2;

+ Do người học không có ý thức trong khi sử dụng L2.

- Về hướng sửa lỗi, luận văn đã nêu 5 nguyên tắc sửa lỗi,đó là:

Thứ nhất: Đảm bảo tính hiệu quả.

Thứ hai: Đảm bảo sự trung thành với nội dung của câu.

Thứ ba: Đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu trong quá trình sửa lỗi.

Thứ tư: Đảm bảo phù hợp với đối tượng viết câu mắc lỗi.

Thứ năm: Đảm bảo hiệu quả diễn đạt.

- Về qui trình sửa lỗi, luận văn đã nêu ba bước trong quá trình sửa lỗi,là:

+ Bước 1: Phát hiện lỗi (nhận diện lỗi);

+Bước 2:Phân tích lỗi để tìm ra loại lỗi và nguyên nhân mắc lỗi;

+ Bước 3: Chọn cách sửa lỗi.

Tất cả những nguyên nhân mắc lỗi và hướng sửa lỗi được trình bày ở đây

chỉ là ý kiến bước đầu của chúng tôi. Việc sửa lỗi còn phụ thuộc vào từng kiểu

97

lỗi và những lỗi cụ thể.

KẾT LUẬN

Như đã nói trong mục lí do chọn đề tài, nghiên cứu thực trạng viết câu

tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên Lào để biết những kiểu câu mắc lỗi mà các em

thường mắc, từ đó tìm cách sửa lỗi cho các em, góp phần vào việc nâng cao

hiệu quả dạy và học là một công việc mang tính thiết thực.

Luận văn đã tập trung trình bày ba vấn đề lớn:

1. Những vấn đề lí thuyết liên quan được luận văn sử dụng để sử lí đề tài,

đó là: Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ, khái niệm câu mắc lỗi và các kiểu

câu mắc lỗi thường gặp.

- Về lí thuyết lỗi trong học ngoại ngữ, luận văn đã trình bày được 6 quan

điểm về lỗi trong học ngoại ngữ: Lỗi theo quan điểm hành vi luận, lỗi theo

quan điểm phân tích đối chiếu, lỗi theo quan điểm giao thoa văn hóa, lỗi theo

quan điểmphương pháp giao tiếp và lỗi trên quan điểm chiến lược học tiếng.

- Về khái niệm câu mắc lỗi và các kiểu câu mắc lỗi, luận văn đã giới thiệu

một số quan điểm về câu mắc lỗi và cách phân loại câu mắc lỗi của một số nhà

nghiên cứu ngôn ngữ tiêu biểu như Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Minh Thuyết,

Nguyễn Văn Hiệp và cuối cùng đã tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các

nhà nghiên cứu này.

2. Luận văn đã khảo sát thực trạng viết câu TV mắc lỗi của sinh viên Lào

học chuyên ngành Tiếng Việt ở Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái

Nguyên và đã tổng kết được 6 kiểu câu mắc lỗi mà các em thường Mắc, đó là:

Câu mắc lỗi chính tả, câu mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi ngữ

nghĩa, câu mắc lỗi liên kết và câu mắc lỗi tổng hợp.

Kết quả nghiên cứu của mỗi kiểu câu mắc lỗi này được trình bày bằng

những số liệu cụ thể trên các bảng tổng kết và có phân tích miêu tả chúng bằng

những ví dụ cụ thể.

Tư liệu điều tra của chúng tôi cho thấy, tần số xuất hiện của các kiểu câu

98

mắc lỗi không giống nhau. Đặc biệt, chúng xuất hiện theo xu hướng tỉ lệ nghịch

với trình độ của sinh viên: Trình độ nắm L2 của sinh viên càng cao thì tỉ lệ mắc

lỗi càng giảm. Điều này được thể hiện trên các số liệu thống kê các kiểu câu

mắc lỗi của sinh viên Lào học tiếng Việt 1 kì và sinh viên Lào học 1 năm.

3. Luận văn cũng đã trình bày ba nguyên nhân dẫn đến việc viết câu

mắc lỗi của du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên, đó là: Thứ nhất, do

trình độ tri thức L2 của các em còn hạn chế, tức các em chưa nắm được L2

một cách thấu đáo, thứ hai, do sự đồng nhất và khác biệt giữa L1 và L2 dẫn

đến sự chuyển di tiêu cực từ L1 sang L2 và thứ ba, do ý thức tránh lỗi của

các em chưa cao.

Từ kết quả nghiên cứu về nguyên nhân mắc lỗi, luận văn cũng đã nêu ra

một số nguyên tắc và các bước chữa lỗi.

Năm nguyên tắc chữa lỗi được chúng tôi đưa ra là:

- Đảm bảo tính hiệu quả;

- Đảm bảo trung thành với nội dung của câu;

- Đảm bảo đơn giản, dễ hiểu;

- Đảm bảo phù hợp đối tượng viết câu;

- Đảm bảo hiệu quả diễn đạt.

Ba bước trong qui trình sửa lỗi cũng đã được luận văn trình bày tỉ mỉ với

các ví dụ cụ thể có tính chất minh họa.

Tóm lại, đúng như tên đề tài của luận văn này: “Một số lỗi viết câu tiếng

Việt của du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên”, luận văn này thiên về khảo

sát và miêu tả thực trạng chứ chưa đi phân tích kĩ từng kiểu câu mắc lỗi để

tổng kết chúng thành những vấn đề lí luận. Công việc đó xin tiếp tục ở nhũng

99

công trình tiếp theo, nếu có điều kiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. Diệp Quang Ban (1976), Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu

tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 3 – 1976.

2. Diệp Quang Ban (chủ biên), Hồng Dân(2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb

Giáo dục.

3. Phạm Đăng Bình (2001), Một số quan niệm khác nhau về lỗi trong quá trình

dạy và học tiếng nước ngoài, Ngôn ngữ số 14, 59-66.

4. Phạm Đăng Bình (2002), Thử đề xuất một cách phân loại lỗi của người học

ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hóa, Ngôn ngữ

số 9, 58-72.

5. Phạm Đăng Bình (2003), Khảo sát lỗi giao thoa ngôn ngữ-văn hóa trong

diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh, Luận án tiến sĩ ngữ văn.

6. Lê Xảo Bình (2004), Lỗi của người Trung Quốc học tiếng Việt nhìn từ góc

độ xuyên văn hóa (xét về khía cạnh từ vựng), luận văn thác sĩ Ngữ Văn.

7. Nguyễn Tải Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nab

KHXH.

8. Lê Cầu, Phan Thiều, Diệp Quang Bàn, Hoàng Hữu Thùng, Giáo trình ngữ

pháp tiếng Việt – Tập hai,(2011).

9. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb KHXH.

10. Đỗ Hưu Châu (1987), Tự vụng ngũ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo Dục.

11. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn

ngữ Đông Nam Á, ĐHSP Ngoại Ngữ.

12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu Hoàng Trọng Phiến (2000), Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

13. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang, 1992, 1993, Câu sai và câu mơ hồ,

100

Nxb GD.

14. Nguyễn Đức Dân, (1995), Tiếng Việt (thực hành), Tp Hồ Chí Minh: Đại

học Tổng hợp, Tp HCM.

15. Nguyễn Đức Dân, “Giáo trình tiếng Việt thực hành”, Nxb ĐHQG TP (2002).

16. Nguyễn Đức Dân ,(2002), Giáo trình tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQG TP

Hồ Chí Minh.

17. Trần Trí Dõi, Hữu Đạt, Đảo Thanh Lan (2000), Cơ sơ tiếng Việt, Nxb Văn

hóa Thông tin.

18. Hưu Đạt (2009), Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp tiếng Việt, Nxb

Giáo dục Việt Nam.

19. Đinh Văn Đức (2000), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Giáo dục.

20. Đặng Ngọc Đức (2002), Bản về tiếp thu ngôn ngữ và các yếu tổ tác động,

Ngôn ngữ số 12, 36-41.

21. Nguyễn Thiện Giáp (2002), Từ vụng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

22. Phạm Ngọc Hàm (2000), Xưng hô-một tín hiệu văn hóa trong giáo tiếp ngôn

ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia.

23. Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trường, Võ Xuân Trang, Trần

Thị Tuyết Mai (2002), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb KHXH.

24. Đỗ Minh Hùng (2007), Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thương gặp của người Việt

Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, trường ĐHKH&NV.

25. Đỗ Minh Hùng, Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thường gặp của người Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường ĐHKH&NV, (2007).

26. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

27. Mã Á Lệ (2011), Lỗi viết câu tiếng Việt của du học sinh Trung Quốc, luận

văn Thạc sĩ NNH, ĐHTN.

28. Đường Công Minh (2003), Phân tích ngữ trung gain với giảng dạy tiếng

pháp ở các trường đại học ngoại ngữ, Ngôn ngữ số 2, 75-80.

29. Hàng Tuyết Minh (2005), Lỗi thường mắc của học viên người Việt khi sử

dùng những động từ nhóm Become, Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Liên Á

101

VI, 444-451.

30. Nguyễn Thiện Nam (1996), Nghĩa, dụng pháp và việc giảng dạy tiếng Việt

cho người nước ngoài, Ngữ học Trẻ 96, tr.128-139.

31. Nguyễn Thiện Nam (1998), Tiếng Việt nâng cao, Nxb Giáo dục.

32. Nguyễn Thiện Nam (2001), Khảo sát lỗi tiếng Việt của người nước ngoài và

những vẫn đề liên quan, Luân án tiến sĩ ngữ văn, Đại học KHXH&NV

ĐHQG.

33. Nguyễn Thiện Nam (2006), “Những vấn đề ngôn ngữ học”, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

34. Nhiều tác giả (1998) Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài,

Nxb ĐHQG Hà Nội.

35. Hoảng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Viên Ngôn ngữ học, Nxb

Đà Nẵng.

36. Nguyễn Quang (2002), Giáo tiếp và giao thoa văn hóa, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

37. Nguyễn Anh Quế (1996), Tiếng Việt cho người nước ngoài, Nxb Giáo dục.

38. Nguyễn Đức Tồn (2003), Mấy vấn đề lý luận và Phuong pháp dạy – học từ

ngữ tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQG Hà Nội.

39. Lý Toàn Thẳng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXK.

40. Lê Quang Thêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Hà Nội, Nxb

ĐH&GDCN.

41. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.HCM.

42. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2001), Thực hành tiếng Việt, Sách dung cho

người nước ngoại, trình độ C, Trung tâm nguyên cứu Việt Nam và giao lưu

văn hóa, ĐHQG Hà Nội, Nxb Thể giới.

43. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2001), Thực hành tiếng Việt, Sách dùng cho

người nước ngoài, trình độ B, Trung tâm nghiên cưu Việt Nam và giao lưu

102

văn hoa, ĐHQG Hà Nội, Nxb Thể giới.

44. Nguyễn Minh Thuyết (1974), “Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi ngữ

pháp cho học sinh”, Ngôn ngữ, số 1-1975.

45. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (1997), “Tiếng Việt

thực hành”, Nxb ĐHQG Hà Nội.

46. Viện Ngôn Ngữ Học (2004), Từ điển Hán–Việt Nxb tổng hợp TP.HCM.

II. Tài liệu dịch từ tiếng Lào

47. ລຸຣີ ວິນທະ຤ ຺ຄ, (2815) ປື ື້ຠ຾ບບຨຼນ ຤າກາງະລ ໍາພັນ ລາງລື້າຄ຃ູ ຠ ັຈທະງ ຺ຠ

ຣະບ ຺ບ 11 + 3.

ີ່ 48. ລ ຺ຠ຾ລຄ ແຆງະ຤ ຺ຄ (2005), ລຶກລາການມືຠ຃ ໍາເນພາລາຣາ຤, ພີຠທີ

ນະ຃ວນ຦ົ຤ຄ຤ຼຄ຅ ັນ.

ີ່ ຄຣ ັຈ, ນະ຃ວນ຦ົ຤ຄ 49. ລີ຤ຼຄ຾ຂກ ກວນນິ຤ ຺ຄ, ຨຼນພາລາ຦຤ຼຈຈື້຤ງຉ ຺ນຽວຄ຾ບບຽຣັ

຤ຼຄ຅ ັນ, (2012)

50. ທວຄ຃ ໍາ ວີ່ວນຠະນີລວນ, ຤ ັຈ຅ະນານຸກ ຺ຠ ພາລາຣາ຤, (1992)

51. ບ ຺຤ຣີ ປະພາພັນ, ພວນລີຢິ ວຸແທ຤ ັນ, ຾ລຄຟື້າ ຿຦ຣານຸພາບ, ລີພວນ ລຸນ ັນທາ,

຾ບບຨຼນພາລາຣາ຤ ຆ ັ ື້ນຠ ັຈທະງ ຺ຠລຶກລາ ປີທີ 7 ພິຠທີ ີ່ ບໍຣິລ ັຈ ຣ ັຈ຤ິລາ຦ະກິຈ

຿ຨຄພິຠລຶກລາ, (2011)

52. ບ ຺຤ຣີ ປະພາພັນ, ປື ື້ຠ຾ບບຨຼນ ຤າກາງະລ ໍາພັນ ລ ໍາຣ ັບ຃ະນະລຶກລາລາຈ ຠະ຦າ

ີ່ ນະ຃ວນ຦ົ຤ຄ຤ຼຄ຅ ັນ, (2000) ແຣ຾຦ີ່ຄຆາຈ ພີຠທີ

103

ີ່ ຆຼຄຂ຤າຄ, (1967) 53. ພູຠຠີ ຤ ຺ຄ຤ິ຅ິຈ (ແ຤ງາກວນຣາ຤), ພີຠ຃ ັ ື້ຄທີ1 ທີ

54. ຠີທວຄ ລຸ຤ ັນ຤ິແຆ ປື ື້ຠ຾ບບຨຼນ ພາລາຣາ຤-຤ ັນນະ຃ະຈີ, ຠ ັຈທະງ ຺ຠຉ ຺ ື້ນປີທີ

ີ່ ນະ຃ວນ຦ົ຤ຄ຤ຼຄ, (2008) 3, ພີຠທີ

III. Tài liệu tiếng Anh

55. Elttp (1999), English language teacher training project, JTC methodology

course, book one: Teaching the skills.

56. Frice. C.C (1945), Teaching and learning English as a foreign language

teachers, Ann Arvor, MI: University of Michigan, tr. 85.

57. Lado, R (1957) Teaching learning English as a foreign language, Ann

104

Arbor, MI: University of Michigan.