ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
TONGKEO GITHTAVONGSA
THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI CỦA DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã số: 60.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đào Thị Vân THÁI NGUYÊN - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đay là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Đào Thị Vân, các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là
hoàn toàn trung thực. Luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
i
TONGKEO GITHTAVONGSA
LỜI CẢM ỞN
Tôi xin bày tỏ lòng biết sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thị Vân, người đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã nhiệt tình chỉ bảo cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TONGKEO GITHTAVONGSA
ii
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ởn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục các từ viết tắt ..................................................................................... iv
Danh mục bảng .................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
NỘI DUNG CHÍNH ........................................................................................ 10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 10
1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ ......................................... 10
1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau về
lỗi trong học ngoại ngữ ...................................................................................... 10
1.1.2. Các cách phân loại lỗi .............................................................................. 25
1.2. Sơ lược về lỗi câu, các loại lỗi câu ............................................................. 29
1.2.1. Sơ lược về lỗi câu .................................................................................... 29
1.2.2. Phân loại lỗi câu ...................................................................................... 29
1.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 34
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI CỦA
DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN................................... 36
2.1. Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào học ở Đại
học Thái Nguyên đã viết .................................................................................... 36
2.1.1. Nhận xét chung ........................................................................................ 36
2.1.2. Kết quả số liệu điều tra ............................................................................ 37
2.2. Phân loại và miêu tả các kiểu câu TV mắc lỗi đã thống kê ........................ 39
2.2.1. Các kiểu câu TV mắc lỗi được phân loại dựa vào tổng số lỗi xuất
hiện trong một câu ............................................................................................. 40
iii
2.2.2 Các câu TV mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi ..................... 45
2.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 73
Chƣơng 3. NGUYÊN NHÂN DU HỌC SINH LÀO VIẾT CÂU
TIẾNG VIỆT MẮC LỖI, HƢỚNG SỬA LỖI ............................................. 74
3.1.1. Nguyên nhân thứ nhất: Do hiểu biết L2 (ở đây là tiếng Việt) của
người học còn hạn chế ....................................................................................... 75
3.1.2. Nguyên nhân thứ hai: Do sự tương đồng hay khác biệt giữa L1 và L2 ........ 76
3.1.3. Lỗi do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học chưa tốt ........................ 77
3.2. Về vấn đề sửa câu mắc lỗi cho người học L2 ........................................... 78
3.2.1. Nguyên tắc sửa lỗi ................................................................................... 78
3.2.2. Qui trình sửa lỗi ....................................................................................... 79
3.3. Tiểu kết ....................................................................................................... 96
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 98
iv
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Từ nguyên gốc
1 L1 Ngôn ngữ thứ nhất
2 L2 Ngôn ngữ thứ hai (ngoại ngữ)
3 TV Tiếng Việt
4 ĐT đối tượng
5 SL số lượng
6 TL tỉ lệ
iv
7 TT Thứ tự
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1.a. Bảng tổng kết số câu mắc lỗi của du học sinh Lào ........................ 38
Bảng 2.1.b: Bảng tổng kết số lượt xuất hiện lỗi theo từng đối tượng (tỉ lệ
phần trăm tính trên tổng số lỗi đã thống kê của cả hai đối tượng:
3000 lượt lỗi / 1765 câu mắc lỗi) ...................................................... 38
Bảng 2.1.c: Bảng tổng kết số câu mắc lỗi (1765 câu) của sinh viên thuộc 2
đối tượng tính theo số bài kiểm tra (50 bài). ..................................... 39
Bảng 2.2.a: Bảng tổng kết câu mắc 1 lỗi ........................................................... 41
Bảng 2.2.b: Câu tiếng Việt mắc 2 lỗi ................................................................ 42
Bảng 2.2.c: Bảng tổng kết kiểu câu mắc ba lỗi (% tính theo số câu mắc 3 lỗi) .... 43
Bảng 2.2.d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc bốn lỗi ............................................... 44
Bảng 2.2.e: Bảng tổng kết các kiểu câu mắc lỗi tính theo số lượt lỗi/câu (Tỉ
lệ % tính theo tổng số câu mắc lỗi:1765) .......................................... 44
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi được phân loại theo đặc
trưng của lỗi ....................................................................................... 47
Bảng 2.3.a: Bảng tổng kết câu mắc lỗi chính tả ................................................ 52
Bảng 2.3.b: Bảng tổng kết các câu mắc lỗi từ ngữ ............................................ 53
Bảng 2.3.c: Bảng tổng kết số lượng câu sai cấu trúc đã thống kê ..................... 57
Bảng 2,3,d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thuộc hai đối tượng
khảo sát .............................................................................................. 63
Bảng 2.3.e: Bảng tổng kết câu mắc lỗi ngữ nghĩa tính theo số bài kiểm tra (50 bài) ...... 64
Bảng 2.3.h .......................................................................................................... 66
Bảng 2.3.h‟: Bảng tổng kết tần số xuất hiện câu mắc lỗi liên kết trên một
bài kiểm tra (25) ................................................................................ 67
Bảng 2.3.i: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi tổng hợp ...................................... 70
v
Bảng 2.3.j: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi của du học sinh Lào ở ĐHTN ..... 72
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu ngày một phát triển, việc giao lưu
văn hoá giữa các nước cũng được mở rộng không ngừng. Một điều dễ nhận
thấy là trong mấy năm gần đây, sinh viên các nước theo học ngoại ngữ khá
đông, trong đó có không ít sinh viên Việt Nam đi du học và ngược lại, con số
sinh viên nước ngoài học tiếng Việt cũng không phải là nhỏ.
1.2. Thực tế sử dụng tiếng Việt của sinh viên Lào học tiếng Việt cho thấy, các
em còn mắc khá nhiều lỗi về phát âm, dùng từ, đặt câu...
Có thể nói, khi học ngoại ngữ, nếu lỗi bị vi phạm nhiều lần mà không
được lưu ý, điều chỉnh thì người học (bản thân người mắc lỗi và cả những
người không mắc lỗi trong lớp học) vô hình chung tự cho rằng nói, viết như thế
là đúng và do vậy những lỗi đó có nhiều nguy cơ trở thành cố tật. Một khi lỗi
biến thành cố tật thì không những khó sửa chữa mà còn trở thành nguyên nhân
quan trọng cản trở sự thành công của người học ngoại ngữ nói chung và của
sinh viên Lào khi học tiếng Việt nói riêng.
Vì lẽ đó, người dạy và người học ngoại ngữ cần phải phát hiện ra các lỗi
sử dụng ngôn ngữ thứ hai với tư cách là một ngoại ngữ, biết tìm ra nguyên
nhân cũng như cách khắc phục những lỗi đó.
1.3. Chọn đề tài “Thực trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của du học sinh Lào ở
Đại học Thái Nguyên” để nghiên cứu, người viết hi vọng sẽ góp phần làm rõ
thêm các kiểu lỗi về câu, xu hướng và nguyên nhân mắc lỗi câu trên bình diện
lí luận, đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên và học
sinh Lào khi dạy - học tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về việc nghiên cứu lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 của người học ngoại ngữ
Trước khi ngành Phân tích đối chiếu (CA- Contrastive Analysis) ra đời
1
(khoảng giữa thế kỉ XIX), hướng nghiên cứu về lỗi sử dụng ngôn ngữ thứ 2 -
ngoại ngữ (L2) của người học (NH) ngoại ngữ chưa được giới nghiên cứu ngôn
ngữ học quan tâm một cách thoả đáng.
Ngành phân tích đối chiếu ra đời và đã lấy trường tâm lí hành vi luận
(behaviorism) làm căn cứ lí luận khi đưa ra quan điểm: lực cản duy nhất khiến
người học ngoại ngữ không đạt kết quả như mong muốn là sự can thiệp không
nên có của thói quen từ tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ nhất (L1) của người học;
và tất cả lỗi trong quá trình học ngoại ngữ là do sự khác biệt giữa L1 và L2. Sự
khác biệt giữa hai ngôn ngữ (L1 và L2) chẳng những là nguyên nhân gây ra lỗi
mà còn là bức tường rào tạo ra những khó khăn cho người học. Chính vì vậy,
việc đối chiếu L1 và L2, chỉ ra được sự khác nhau giữa chúng sẽ là chìa
khoá giải quyết vấn đề phát hiện lỗi và sửa lỗi khi học ngôn ngữ
thứ hai.
Quan điểm nói trên của lí thuyết ngành phân tích đối chiếu đã gây ra sự
hoài nghi về nguyên nhân gây lỗi của người học L2 trong giới nghiên cứu ngôn
ngữ và thúc đẩy hàng loạt các công trình nghiên cứu lỗi L2 của người học tiếng
Anh ra đời vào đầu những năm 70, thế kỉ trước của các học giả nước ngoài. Có
thể kể ra một số công trình tiêu biểu, như:
- Grauberg, W. (1971), “An error analysis in the German of first-year
univesity students” in Perren and Trim (eds) 1971.
- George, H. (1972), Common errors in language learning: insights from
English, Rowley maass: Newbury House.
- Dulay, H and M. Burt (1984), “You can‟t learn without goofing, An
analysis of children‟s second language errors”, in Error Analysis edited by Jack
C. Richards, London and New York: Longman, 95-123.
- Tran Thi Chau (1974), “Error analysis, contrastive analysis and
students‟ perception: a study of difficulty in second language learning”,
International Review of applied Lingguistics 13, 43-119.
Kết quả nghiên cứu của các công trình dẫn trên cho thấy, yếu tố L1 chỉ là
2
một trong những nguyên nhân gây lỗi của người học. Hơn nữa, tỉ lệ mắc lỗi do
nguyên nhân này cũng chỉ chiếm một phần không lớn lắm và rất khác nhau
giữa các công trình. Theo tác giả W.Grauberg, tỉ lệ mắc lỗi do sự khác biệt giữa
L1 và L2 là 36%, còn của tác giả Trần Thị Châu là 51% và của tác giả H.
Dulay và M. Burt chỉ có 3%. [46, tr 6].
Gần đây, hướng nghiên cứu trên thế giới đã bắt đầu đi vào tìm hiểu lỗi
trong từng kĩ năng, nhất là kĩ năng viết của người học (trên cứ liệu nghiên cứu
lỗi của người học tiếng Anh).
Có thể dẫn ra một số tác giả tiêu biểu như:
- Cohen, A. (1987), “Student processing of feedback on their
compositions” in Wendon, A. and J. Rubin (eds), Learner strategies in learning,
57-69, UK: Prentice Hall International.
- Cumming, A. (1989), “Writing expertise and second language
proficiency”, Language learning, 39, 81-141.
- Ferris, D. (1995), “Student reactions to teacher response in multiple-
draft comprosition classrooms”, TESOL quarterly, 31,315-339.
- Sengupta, S. (2000), “An investigation into the effects of revision
strategy instruction on L2 secondary school learners”, System 28, 97-113.
- Myles, J. (2002), “Second language writing and research: the writing
process and error analysis in student texs”, TESL-EJ 6(2), w w w.kyoto-su.ac,
retrieved on 6 October, 2005.
Theo Johanne Myles, lỗi tỉ lệ thuận với mức độ phức tạp nội dung bài viết
và bốn nguyên nhân chính gây ra lỗi trong khi viết là: 1) Chuyển di L1 (tức
chuyển di tiếng mẹ đẻ), 2) Áp dụng thái quá quy tắc, 3) Người học không chắc
chắn về nội dung ý tưởng (tức không xác định rõ nội dung bài viết) và 4) Thiếu
nhận thức về câu, cấu trúc văn bản.
Ở Việt Nam, trong hơn chục năm trở lại đây đã có một số công trình
nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ (cũng dựa trên ngữ liệu lỗi của người
3
học tiếng Anh), như:
- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2001), “Một số quan niệm khác nhau
về lỗi trong quá trình dạy và học tiếng nước ngoài”, Ngôn ngữ, số 14, 59-66.
- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2002), “Thử đề xuất một cách phân
loại lỗi của người học ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ -
văn hoá”, Ngôn ngữ, số 9, 58-72.
- Dẫn theo tác giả Phạm Đăng Bình (2003), “Khảo sát lỗi giao thoa
ngôn ngữ - văn hoá trong diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh”, Luận
án TS Ngữ Văn.
Ngoài những công trình của tác giả Nguyễn Đăng Bình vừa dẫn, còn
một số bài viết của một vài tác giả khác cũng bàn về lỗi của người Việt khi học
tiếng Anh, xin dẫn ra dưới đây:
- Dẫn theo tác giả Cao Thị Thu (2004), “Phân biệt cách dùng một số
động từ tiếng Anh thường bị mắc lỗi ở người Việt”, Ngôn ngữ, số 10, 72-77.
- Dẫn theo tác giả Trần Kim Phượng (2005), “Những lỗi thường gặp về
trật tự từ ở người Việt học tiếng Anh”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 10, 28-29.
- Dẫn theo tác giả Hoàng Tuyết Minh (2005), “Lỗi thường mắc của học
viên người Việt khi sử dụng những động từ nhóm Become”, Hội thảo Quốc tế
Ngôn ngữ học Liên Á VI, 444 - 451.
- Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng (2007), “Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thường
gặp của người Việt Nam”, Luận án TS Ngữ Văn, ĐHQG Tp HCM- 2007.
Dẫn theo tác giả Phạm Xuân Bình, “… mặc dù việc học tiếng Anh ngoại
ngữ đã có từ lâu, (nhưng - chúng tôi thêm từ này - Tóng Kẹo) hoạt động nghiên
cứu lỗi của người Việt học TA ngoại ngữ chưa nhiều, chưa có hệ thống, và
cũng chưa có các đầu sách chuyên sâu về vấn đề này” [46, tr 11].
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Đăng Bình đã đánh dấu một bước tiến
mới cần ghi nhận: tác giả đã phân tích lỗi của người học ngoại ngữ từ nhiều góc
độ: Từ các lí thuyết của ngôn ngữ học cấu trúc hành vi luận, ngôn ngữ học chức
4
năng, tâm lí học ngôn ngữ, ngôn ngữ học đối chiếu đến lí thuyết giao tiếp liên
văn hoá đều được tác giả vận dụng để phân tích các kiểu lỗi. Phải khẳng định
rằng, đóng góp quan trọng dễ nhận thấy của tác giả là đã đề xuất cách phân loại
lỗi từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hoá chung cho tất cả các đối
tượng học ngoại ngữ, bất kể người học có ngôn ngữ mẹ đẻ là gì.
Dẫn the tác giả Lê Tuyết Ngọc, qua khảo sát lỗi tiếng Anh của 100 sinh
viên ở trường ĐH Công nghệ Hà Nội, đã chia các lỗi này thành 7 loại và qui về
3 nguyên nhân gây lỗi, là: 1) Chương trình và tài liệu giảng dạy không hoàn
toàn thích hợp; 2) Giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn hoặc thiếu kinh nghiệm
giảng dạy; và 3) Người học chưa được cung cấp đầy đủ kiến thức về ngữ pháp
tiếng Anh và kĩ năng viết.
Dẫn the tác giả Đỗ Minh Hùng đã tập trung khảo sát ba bộ phận ngữ
pháp thường mắc lỗi nhiều nhất trong sử dụng tiếng Anh của người học ngoại ngữ,
cụ thể ở đây là lỗi của người Việt về sử dụng giới từ, mạo từ và thì dựa trên lí
thuyết phân tích lỗi, ngữ hệ trung gian và chiến lược học tiếng của người học L2.
Tóm lại, việc nghiên cứu lỗi của người học ngoại ngữ đã được giới
nghiên cứu ngôn ngữ học quan tâm nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng nhất
về quan điểm nguyên nhân mắc lỗi của người học ngoại ngữ. Các công trình
chủ yếu là dành tìm hiểu những lỗi sử dụng L2 - ở đây là tiếng Anh - của người
học. Kết quả nghiên cứu về lỗi ngữ pháp tiếng Anh ở các nước nhìn chung đều
thống nhất ở chỗ không cho ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ hay việc chuyển di tiêu
cực của người học là nguyên nhân duy nhất gây ra lỗi sử dụng L2. Hơn nữa,
mỗi công trình tuy đều cố gắng chỉ ra một vài kiểu lỗi với những góc nhìn khác
nhau nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết các loại lỗi và các
nguyên nhân gây lỗi một cách đầy đủ, toàn diện.
2.2. Về tình hình nghiên cứu lỗi sử dụng tiếng Việt
Có thể nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
việc sử dụng tiếng Việt không đúng. Đối tượng sử dụng tiếng Việt ở đây là
5
những người dùng tiếng Việt nói chung: Đó có thể là người Việt nam với tư
cách là người sử dụng L1, có thể là người nước ngoài với tư cách là người sử
dụng L2.
Đã có những công trình in thành sách và dùng làm giáo trình thực hành ở
một số trường Đại học, Cao đẳng, xin liệt kê một vài công trình tiêu biểu:
(1) Diệp Quang Ban, 1976, Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu
tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 3 – 1976;
(2) Nguyễn Đức Dân, 1995, Tiếng Việt (thực hành), Tp Hồ Chí Minh:
Đại học Tổng hợp, Tp HCM;
(3) Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang, 1992, 1993, Câu sai và câu
mơ hồ, Nxb GD, 1992, 1993;
(4) Nguyễn Minh Thuyết, 1974, Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi
ngữ pháp cho học sinh, Ngôn ngữ, số 1 – 1975;
(5) Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, 1997, Tiếng Việt thực hành,
Nxb ĐH Quốc Gia HN. Đến nay đã thấymột số công trình nghiên cứu những lỗi
sử dụng tiếng Việt của người nước ngoài nói chung, của người Lào nói riêng,
xin dẫn một vài công trình tiêu biểu:
(1) Lê Xảo Bình (2004), Lỗi của người Trung Quốc học tiếng Việt nhìn
từ góc độ xuyên văn hoá (xét về khía cạnh từ vựng), Luận văn Thạc sĩ, Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội.
(2) Mã Á Lệ (2011), Thực trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên
Trung Quốc chuyên ngành Tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ, trường Đại học Sư
phạm, Đại học Thái Nguyên.
(3) SoudChai Simmalavong (2011), Bước đầu khảo sát lỗi ngữ âm của
sinh viên Lào học tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN.
Trong công trình này, tác giả đã trình bày về những loại lỗi ngữ âm mà
người Lào thường mắc khi nói tiếng Việt, như: lỗi về phát âm thanh điệu. lỗi
6
phát âm phụ âm đầu hay lỗi phát âm phần vần trong âm tiết tiếng Việt, v.v…
(4) Hứa Thị Chính (2013), Lỗi sử dụng một số hành vi ngôn ngữ của học
viên Lào học tiếng Việt (Đoàn 871 – TCCT), Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.
Luận văn tập trung miêu tả lỗi sử dụng hành vi khen trong tiếng Việt của
học viên quân sự Lào qua các lỗi ngữ dụng, lỗi dùng từ, lỗi ngữ pháp, v.v…
Tóm lại, các công trình vừa dẫn đều ít nhiều nhắc đến lỗi sử dụng tiếng
Việt của người Việt hoặc người nước ngoài song chưa có một công trình nào
dành riêng nghiên cứu về lỗi viết câu tiếng Việt một cách toàn diện. Có thể nói
thêm, đến nay, vấn đề nghiên cứu những lỗi viết câu tiếng Việt thường gặp của
người Lào vẫn đang là vấn đề còn bỏ ngỏ.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những lỗi viết câu tiếng Việt thường
gặp của sinh viên Lào (dựa trên đối tượng khảo sát là bài kiểm tra của sinh viên
học Lào học tiếng Việt tại một số trường Đại học, thuộc Đại học Thái Nguyên).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng khảo sát: Xét trên bình diện hình thức sử dụng, câu có thể
được dùng ở dạng nói hay dạng viết. Như nói ở trên, luận văn này chỉ xem xét
câu tiếng Việt mắc lỗi trên các văn bản viết là bài kiểm tra của du học sinh Lào
thuộc đối tượng nói trên.
- Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu câu mắc lỗi ở
năm phương diện: 1) Câu mắc lỗi về mặt chính tả; 2) Câu mắc lỗi dùng từ; 3)
Câu mắc lỗi về phương diện ngữ nghĩa; 4) Câu mắc lỗi về phương diện ngữ
pháp, và 5) Câu mắc lỗi về phương diện liên kết.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm trả lời các câu hỏi sau:
(1) Những dạng câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào thường viết là gì?
(2) Nguyên nhân nào gây nên những lỗi câu đó ở người viết (cụ thể là du
7
học sinh Lào tại các Trường Đại học, thuộc Đại học Thái Nguyên)?
(3) Việc sửa những câu mắc lỗi nên theo định hướng nào?
(4) Luận văn có thể được dùng vào việc gì?
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ
chính sau đây:
(1) Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho
việc xử lí đề tài;
(2) Khảo sát, thống kê những câu tiếng Việt mắc lỗi mà các em sinh viên
thuộc đối tượng nói ở mục 3.1;
(3) Phân loại, miêu tả, phân tích và tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo
từng tiêu chí đã định trước;
(4) Tìm nguyên nhân gây những lỗi viết câu TV cho người học và đề xuất
phương hướng khắc phục.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được
dùng để thống kê và phân loại những câu mắc lỗi trên bài kiểm tra của sinh
viên Lào thuộc đối tượng đã nói ở mục 3.1.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp phân tích được dùng để
phân tích các câu mắc lỗi đã thống kê để tìm ra các loại lỗi. Phương pháp tổng
hợp được dùng để tổng kết các kiểu câu mắc lỗi theo từng tiêu chí và kết luận
những kết quả đã nghiên cứu được.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp so sánh, đối chiếu được
dùng để so sánh những điểm đồng nhất và khác biệt giữa L1 và L2 hay sự đồng
nhất và khác biệt giữa 2 nền văn hoá để tìm ra tìm ra nguyên nhân và cách sửa
8
những câu mắc lỗi.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương này trình bày những vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài như:
1. Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ
2. Lỗi về câu, quan điểm về lỗi câu, các loại lỗi câu.
3. Lí thuyết về văn hoá, giao thoa văn hoá và vấn đề học ngoại ngữ.
Chương 2: Thực trạng mắc lỗi về câu tiếng Việt trên văn bản viết
của du học sinh Lào tại Đại học Thái Nguyên
Chương này trình bày 2 nội dung lớn:
1. Kết quả khảo sát;
2. Phân loại các lỗi về câu trên văn bản viết của sinh viên Lào.
Chương 3: Nguyên nhân mắc lỗi viết câu tiếng Việt của sinh viên
Lào và hƣớng sửa lỗi
Chương này trình bày 2 nội dung lớn:
1) Nguyên nhân mắc lỗi viết câu TV của sinh viên Lào.
9
2) Hướng sửa lỗi viết câu TV cho sinh viên Lào.
NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
Để thực hiện đề tài này, Luận văn đã tiếp thu có chọn lọc một số lí thuyết
của một số nhà nghiên cứu đi trước để làm căn cứ lí luận, đó là:
1. Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ;
2. Lí thuyết về câu, quan điểm về lỗi câu, các kiểu lỗi câu;
3. Lí thuyết về văn hoá, giao thoa văn hoá và vấn đề học ngoại ngữ.
1.1. Tổng quan lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ
1.1.1. Khái niệm về lỗi sử dụng ngoại ngữ, những quan niệm khác nhau về
lỗi trong học ngoại ngữ
1.1.1.1. Khái niệm lỗi sử dụng ngoại ngữ
Đã có khá nhiều định nghĩa cũng như quan niệm về lỗi sử dụng ngoại
ngữ (ngôn ngữ thứ 2 – L2). Xin dẫn 2 định nghĩa được nhiều người nhắc đến:
Dẫn theo tác giả Allwright, D.and K.M.Bailey “Lỗi của người học
ngoại ngữ là tạo ra một sản phẩm hình thức ngôn ngữ đi lệch chuẩn của hình
thức ngôn ngữ đúng”. [46, tr 24].
Dẫn theo tác giả Brown, H.D, “Lỗi là hiện tượng vi phạm quy tắc ngữ
pháp của người bản ngữ, phản ánh năng lực ngôn ngữ trung gian của người
học”. [46, tr 24].
Luận văn này theo quan điểm của nhóm tác giả thứ nhất về khái niệm
lỗi sử dụng ngoại ngữ của người học.
Trong khuôn khổ luận văn này, để xác định tiếng Việt chuẩn, chúng tôi
dựa vào những tri thức về chính âm, chính tả, ngữ pháp tiếng Việt được GS.TS
Nguyễn Đức Dân trình bày trong cuốn “Giáo trình tiếng Việt thực hành”, Đại
10
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
1.1.1.2. Những quan niệm khác nhau về lỗi người học sử dụng L2
Đã có những quan niệm khác nhau, thậm chí là trái chiều nhau về hiện
tượng vi phạm lỗi của người học L2. Dưới đây là một số quan điểm tiêu biểu:
a) Lỗi theo quan điểm hành vi luận:
Thuyết hành vi được các nhà tâm lí học như J. watson, B. Skinner khởi
xướng từ những năm 60 của thế kỉ trước. Brown, H.D. Chomsky, N. Ellis, R
là ba nhà ngôn ngữ học tiêu biểu theo quan điểm hành vi luận khi xem xét lỗi
của người học ngoại ngữ.
Theo thuyết hành vi, thói quen có hai đặc tính cơ bản: 1) Thói quen thể
hiện qua hành vi, cử chỉ, động tác và có thể quan sát được giống như có thể
quan sát những sự vật hiện hữu trong thế giới khách quan; 2) Thói quen có tính
tự động, máy móc. Vì có tính tự động, máy móc cho nên một khi thói quen đã
được xác lập thì nó rất khó bị tiêu diệt khi có môi trường tạo lập thói quen mới
tương tự.
Các nhà tâm lí học hành vi luận cho rằng, việc tạo lập thói quen có thể
thực hiện bằng hai cách: 1) Thông qua cơ chế bắt chước, mô phỏng; và 2)
Thông qua cơ chế khuyến khích, tăng cường.
Áp dụng hai nguyên lí này trong dạy - học ngoại ngữ, người dạy có thể
giúp người học tạo lập kích thích, phản ứng cho đến khi trở thành tự động. Ví
dụ, dạy và luyện phát âm chẳng hạn, người học thực hiện phản ứng khi được
nhận kích thích từ bên ngoài (chẳng hạn như nghe được âm nào đó do giáo viên
phát ra), họ sẽ bắt chước đến khi âm được luyện trở thành kĩ năng, tức có thể
phát ra như một thói quen khi cần.
Lí thuyết hành vi là lí thuyết của việc học nói chung và học ngoại ngữ nói
riêng. Hành vi luận khẳng định rằng việc học ngoại ngữ (L2) là việc tạo lập
những thói quen mới khi người học đã có sẵn những thói quen cũ của tiếng mẹ
đẻ (L1). Vì vậy, quá trình hình thành thói quen mới khi sử dụng L2 tất yếu sẽ
11
chịu sự tác động và ảnh hưởng của thói quen cũ từ L1 mà lí do đã nói ở trên
(thói quen hay phản ứng cũ rất khó bị loại bỏ triệt để nếu trong quá trình tạo
thói quen mới có điều kiện tương tự).
Từ cách nhìn này, các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm của lí thuyết
hành vi luận đã cho nguyên nhân mắc lỗi của người học khi học ngoại ngữ
chính là do sự chuyển di thói quen trong sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ. Một điều
cực đoan của các nhà hành vi luận là đã xem lỗi sử dụng L2 của người học là
một cái xấu do người học thiếu tập trung, lơ đãng trong học tập và không biết
ngăn ngừa sự can thiệp của thói quen cũ đã có khi sử dụng L1. Vì xem lỗi là
một biểu hiện của thói xấu trong quá trình thụ đắc L2 nên các nhà hành vi luận
nhấn mạnh tới việc phải giúp người học L2 sửa chữa, loại trừ lỗi trước khi nó
trở thành thói quen.
Hành vi luận mới chỉ nhìn thấy mặt trái của lỗi biểu hiện trên bề mặt sản
phẩm của người học, cho lỗi hoàn toàn là trách nhiệm của người học.
b) Lỗi theo quan điểm phân tích, đối chiếu
Vì ra đời trên cơ sở của trường phái tâm lí hành vi luận nên cái nhìn của
các nhà ngôn ngữ học đối chiếu về lỗi của người học L2 tuy có vài điểm trùng
với quan điểm của các nhà hành vi luận nhưng vẫn có những điểm
khác biệt.
Nếu như hành vi luận có xu hướng chỉ tập trung vào mặt tiêu cực của
hành vi phạm lỗi của người học và chủ trương tìm mọi cách loại trừ lỗi một
cách triệt để bằng cách không cho thói quen cũ trong sử dụng L1 can thiệp vào
quá trình hình thành thói quen mới trong L2, thì ngôn ngữ học đối chiếu có cái
nhìn rộng hơn, xem xét lỗi trên hai bình diện: ngôn ngữ và tâm lí.
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm phân tích, đối chiếu cho rằng, không
nên mắc lỗi trong quá trình học ngoại ngữ. Cần phải nghiêm khắc sửa chữa lỗi
khi thụ đắc L2. Theo các nhà ngôn ngữ học phân tích đối chiếu, nguyên nhân
chính gây ra lỗi của người học ngoại ngữ là sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ, tức
12
khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ 2 - ngoại ngữ mà người học đang
tiến hành thụ đắc. Vì thế, khi dạy - học ngôn ngữ thứ hai, cần phải so sánh, đối
chiếu hai ngôn ngữ để tìm ra sự khác biệt giữa chúng, trên cơ sở đó giải thích,
dự đoán các lỗi mà người học đã hoặc có thể mắc phải. Và một khi đã tìm ra
nguyên nhân mắc lỗi của người học thì người dạy có thể tìm ra hướng khắc
phục các lỗi cho họ.
Tóm lại, khác với các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm hành vi luận hầu
như chỉ quan tâm đến vai trò của thói quen khi phân tích nguyên nhân mắc lỗi
của người học, các nhà ngôn ngữ học đối chiếu đã có cái nhìn rộng hơn khi
xem xét lỗi của người học L2. Điều này thể hiện ở chỗ các nhà ngôn ngữ học
đối chiếu đã đứng trên cả bình diện tâm lí (lỗi của người học một phần do thói
quen) và bình diện ngôn ngữ (người học mắc lỗi một phần do sự khác biệt giữa
hai ngôn ngữ) để xem xét lỗi. Tuy nhiên, dường như các nhà ngôn ngữ học đối
chiếu có vẻ nghiêng về lí do thứ hai hơn, khi họ khẳng định “Tài liệu hiệu quả
nhất là các tài liệu xây dựng trên cơ sở miêu tả một cách khoa học ngôn ngữ
đích (tức L2 – Tóng kẹo), so sánh một cách chi tiết với hệ thống ngôn ngữ mẹ
đẻ của người học”. [ 45, tr. 85].
c) Lỗi theo quan điểm giao thoa văn hoá
Trước khi tìm hiểu lỗi trên quan điểm giao thoa văn hoá, cần hiểu khái
niệm Văn hoá.
Cần phải nói ngay rằng, đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về Văn hoá.
Văn hóa (culture), theo Damen, “…là những kiểu dạng hay mô hình sinh
sống mà con người biết và cùng chia sẻ; những kiểu dạng, mô hình diễn ra
hàng ngày trong tất cả các lĩnh vực tương tác xã hội; văn hóa là cơ chế thích
nghi cơ bản của con người”. [46, tr. 365].
Tác giả Lê Xảo Bình [6; tr. 11] đã đưa ra con số là hơn 160.
Theo cuốn Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, H. 2000, khái niệm
13
văn hoá được hiểu như sau:
- Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử;
- Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần- nói một cách tổng quát.
- Tri thức kiến thức khoa học;
- Trình độ cao trong sinh hoạt văn hoá xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một
tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau.
Luận văn này tạm theo quan điểm của nhà nhân học người Anh, EB.
Tylor. Tác giả quan niệm: “Văn hoá hay văn minh hiểu theo nghĩa dân tộc bao
quát của nó, là một tổng thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ năng lực và tập quán nào được lĩnh
hội bởi con người với tư cách là thành viên của xã hội”. [6, tr.11].
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là một loại hình tương tác xã hội cơ bản nhất của
con người. Do đó, hoạt động ngôn ngữ tất yếu chịu sự chi phối của yếu tố văn
hoá và ngược lại văn hoá cũng có tác động trở lại đối với ngôn ngữ. Đúng như tác
giả Lê Xảo Bình đã khẳng định: “Ngôn ngữ là sản phẩm tín hiệu phản ánh hoạt
động của con người, vì thế hoạt động của con người ảnh hưởng đến mọi mặt của
ngôn ngữ, kể cả cách quan niệm, tư duy, và diễn đạt ngôn ngữ…”. [6; tr.11].
Luận văn này không nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa văn hoá và ngôn ngữ mà chỉ nhấn mạnh lỗi của người học ngoại ngữ
theo quan điểm giao thoa văn hoá.
Từ góc nhìn giao thoa văn hoá, tác giả Đỗ Minh Hùng cho rằng, “…
người học ngoại ngữ có thể mắc lỗi không phải đơn thuần vì sự khác biệt về
yếu tố bề mặt, yếu tố hình thức giữa L1 và L2, mà sự khác biệt về hai nền văn
hoá, sự hiểu biết về văn hoá trong L2 cũng là một nguyên nhân chính khác dẫn
14
đến hiện tượng vi phạm lỗi, cản trở hiệu năng giao tiếp của NH L2”. [46; tr. 33].
Không phải đến bây giờ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ mới chỉ ra một
trong những nguyên nhân dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là sự khác
biệt về văn hoá mà ngay từ năm 1957, nhà ngôn ngữ học R. Lado đã tính đến
sự khác biệt về văn hoá khi so sánh các ngôn ngữ. Tác giả đã có lí khi khẳng
định rằng: “Nếu so sánh ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chỉ ra được
sự giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ và hai nền văn hoá thì giáo viên sẽ
ý thức được khó khăn thực sự của người học là gì và từ đó có thể dạy tốt hơn”.
[44; tr. 11].
Tóm lại, Người học L2 có thể mắc lỗi không phải đơn thuần vì sự khác
biệt về yếu tố bề mặt, yếu tố hình thức ngôn ngữ giữa L1 và l2, mà sự khác biệt
về hai nền văn hóa, sự thiếu hiểu biết về văn hóa trong L2 cũng là một nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng vi phạm lỗi, cản trở hiệu năng giao tiếp của người học
L2. Chỉ ra sự khác biệt về văn hoá và thấy được đây là một trong những nguyên
nhân sâu sa dẫn đến lỗi sử dụng L2 của người học là một bước tiến của ngành
Ngôn ngữ học cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn. Vì vậy, khi dạy ngoại ngữ không
nên bỏ qua yếu tố văn hoá trong việc phát hiện và sửa lỗi cho người học.
d) Lỗi theo quan điểm phương pháp giao tiếp
Nếu như quan điểm dạy tiếng theo phương pháp cổ điển (dựa trên lí
thuyết cấu trúc luận) chỉ coi trọng việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc
của ngôn ngữ thì quan điểm dạy tiếng theo phương pháp giao tiếp lại vừa chú ý
tới việc dạy người học nắm hệ thống cấu trúc ngôn ngữ, vừa chú ý tới việc rèn
luyện thực hành ki năng giao tiếp cho họ.
Nội dung cốt lõi của phương pháp giao tiếp là: Giao tiếp hướng tới khả
năng truyền đạt nghĩa của ngôn ngữ; giao tiếp được áp dụng trong cả bốn kĩ
năng Nghe, nói, đọc, viết; và đặc biệt, bên cạnh tính chính xác trong hình thức
thì tính chất phù hợp trong sử dụng ngôn ngữ cần được lưu ý xem xét.
Dưới cái nhìn của phương pháp giao tiếp, lỗi sử dụng L2 của người học
15
không hoàn toàn là “thói xấu”, “cần phải kiên quyết loại bỏ ngay khi chưa
thành thói quen” mà lỗi của người học L2 là một tín hiệu tích cực của quá trình
học tập. Lỗi cho biết người học đang tự mình tạo lập câu, phát ngôn để trình
bày ý muốn nói, chứ không hoàn toàn lặp lại chính xác những gì đã học hoặc
theo kiểu mẫu của người dạy…. Những người theo quan điểm phương pháp
giao tiếp còn nhấn mạnh: “…vì đang trong quá trình học tập nên những gì
người học nói, viết chưa phải là những sản phẩm hoàn hảo, tức lỗi là một phần
tất yếu trong sản phẩm” [46, tr. 36]. Thậm chí, có tác giả còn cho rằng,
“…không có lỗi tức là người học chưa học được gì mới và việc sửa lỗi là một
phần quan trọng của bài học” [46; tr. 36]. Hay, “Lỗi không là sự ngu dốt, không
cản trở hoạt năng trong học tập…, mà trái lại nó cho biết người học đang thực
hiện công việc học tập – nghiên cứu đang trong giai đoạn trải nghiệm cách hiểu,
cách tri nhận của mình về những đặc tính hệ thống L2 bằng cách vận dụng thử
nghiệm những gì đã biết từ thực tế sử dụng L1”. [46, tr. 36].
Chiến lược giao tiếp liên quan trực tiếp đến hiện tượng vi phạm lỗi có thể
bao gồm hai trường hợp chủ yếu, đó là:1) Chuyển dịch tương ứng 1-1 giữa hai
ngôn ngữ và 2) thay thế, giải thích.
- Về chiến lược chuyển dịch tương ứng 1-1: Tương ứng 1-1 ở đây bao
gồm cả số lượng và trật tự từ. Chiến lược chuyển dịch là chiến lược được sử
dụng nhiều nhất trong học ngoại ngữ bởi nó không gây khó khăn cho người học.
Song, chiến lược này trên thực tế chỉ giúp người học không mắc lỗi khi hai
ngôn ngữ (L1 và L2) có sự tương đồng trên cả ba bình diện: Kết học, nghĩa học
và dụng học. Điều đó cho ta thấy người Trung Quốc học tiếng Việt sử dụng
chiến lược chuyển dịch có nhiều bất lợi vì sự khác biệt khá lớn giữa hai ngôn
ngữ này, chẳng hạn như sự khác biệt về hệ thống ngữ âm, về trật tự các thành
tố của câu.
- Về chiến lược thay thế / giải thích: Chiến lược này thường liên quan đến
16
vốn từ vựng của người học. Vì muốn nói bằng L2 nhưng không có từ chính xác,
người học phải chọn từ khác thay thế có nghĩa tương đương hoặc giải thích dài
dòng. Cả hai cách này đều sinh lỗi. Ví dụ, vì không nắm vững nghĩa và cách sử
dụng của từ ăn và từ uống, hút trong tiếng Việt khác với từ có nghĩa tương
đương này của tiếng Lào (kin): kin khau (ăn cơm), kin nặm (uống nước), kin
nha (uống thuốc) cho nên người Lào đôi khi bị mắc lỗi dùng các từ này. Có
em đã dùng từ ăn thay vì phải dùng từ uống: “Mời cô giáo ăn nước” (Chăn
Ha Daola suok, lớp Xã hội). Từ ví dụ vừa dẫn có thể thấy rằng, chiến lược
thay thế / giải thích lí giải vì sao người học phạm lỗi dùng sai hay thừa từ
khi sử dụng L2.
Tóm lại, theo quan điểm giao tiếp, lỗi sử dụng L2 của người học là một
nhân tố tích cực trong quá trình dạy tiếng. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm
này là do quá chú trọng đến chức năng giao tiếp nên một số nhà ngôn ngữ học
theo quan điểm này chưa chỉ ra được đặc tính của các kiểu lỗi cũng như chưa
giải đáp một cách thoả đáng cơ chế mắc lỗi của người học L2.
e) Lỗi theo quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian
Hệ ngữ trung gian được hiểu là “kiến thức ngoại ngữ của người học, được
biểu hiện trong sản phẩm ngoại ngữ của họ”. [46, tr. 37].
Nói cụ thể hơn, trong quá trình tiếp nhận và thụ đắc L2, người học sẽ lâm
thời hình thành một hệ thống cấu trúc ngôn ngữ. Hệ thống cấu trúc này không
hoàn toàn giống L2. Nó được hình thành là bởi người học chưa thực sự làm chủ
được L2 nên đã ghép các đơn vị của L2 theo những qui tắc chưa được nắm
vững hay chưa áp dụng được. Hệ thống cấu trúc ngôn ngữ - sản phẩm lâm thời
do người học tạo ra này chính là hệ ngữ trung gian vừa nói ở trên. Có người gọi
hệ ngữ trung gian này là “hệ thống ngôn ngữ tiệm cận”, “biệt ngữ” hay “hệ ngữ
chuyển tiếp”. [23; tr. 37].
Do xuất phát điểm có khác nhau và phụ thuộc vào các yếu tố L1, kinh
17
nghiệm học L2 cũng như đặc điểm về cách học mà tiến trình hệ ngữ trung gian
của từng cá nhân người học không hoàn toàn đồng nhất. Nhưng cũng cần phải
thấy xu hướng chung của hệ ngữ trung gian là thay đổi theo chiều tiếp cận hệ
thống L2 chuẩn. Tính chất khả biến này được thể hiện qua việc người học tích
luỹ thêm kiến thức L2 và người học giảm dần hiện tượng vi phạm lỗi.
Theo quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian, một số nhà nghiên
cứu đã cho “lỗi là một bộ phận cấu thành hệ ngữ trung gian và nó mang tính hệ
thống” [46; tr.37]. Lỗi cung cấp những chứng cứ về một hệ thống mà người
học đang sử dụng ở một thời điểm nhất định trong quá trình học mặc dù đó
chưa phải là hệ thống đúng. Lỗi của người học “là kết quả của các quá trình
ngôn ngữ tâm lí của người học và nó cung cấp thông tin về trình độ, giai đoạn,
mức độ thụ đắc hay năng lực giao tiếp L2 của người học”. [46, tr. 42]. Trên
bình diện lí thuyết, lỗi có tính ngược chiều với hệ ngữ trung gian, tức nếu hệ
ngữ trung gian càng gần với L2 thì lỗi càng giảm, và ngược lại. Lỗi của người
học L2 trong suốt tiến trình thụ đắc L2 có thể phân thành bốn giai đoạn: lỗi
ngẫu nhiên, lỗi hình thành hệ thống, lỗi hệ thống và lỗi cố định.
Tóm lại, dưới góc nhìn của quan điểm phân tích lỗi và hệ ngữ trung gian,
lỗi có ý nghĩa trên ba bình diện: 1) Thông qua phân tích lỗi, giáo viên có thể
biết về tiến độ của người học; 2) Lỗi cung cấp cho người nghiên cứu những
hiểu biết về bản chất của quá trình học tập hay thụ đắc ngôn ngữ, những quá
trình hay hoạt động tâm lí ngôn ngữ nào đang được người học sử dụng; và 3)
Lỗi là điều tất yếu đối với chính bản thân người học.
Lỗi không chỉ là một bộ phận tất yếu của hệ thống ngôn ngữ được hình
thành trong quá trình tiếp nhận kiến thức L2 mà nó còn có tính chất hệ thống, là
kết quả của các quá trình ngôn ngữ tâm lí của người học và nó cung cấp thông
tin về trình độ, giai đoạn và mức độ thụ đắc hay năng lực giao tiếp L2 của
người học.
Trái với quan điểm của các nhà hành vi luận, các nhà ngôn ngữ học theo
18
quan điểm này không coi lỗi là một cái “tội” của người học “cần kiên quyết
loại bỏ” mà “…mà lỗi là công cụ học tập, là cách để người học kiểm chứng
những giả thuyết của mình về ngôn ngữ đang học”. Tuy nhiên, quan điểm phân
tích lỗi và hệ ngữ trung gian cũng thấy hạn chế của lỗi là “lỗi có thể biến thành
cố tật và là nguyên nhân khiến cho hệ ngữ trung gian không thể tiếp cận được
L2”. [46, tr 43].
f) Lỗi theo quan điểm chiến lược học tiếng
Đến nay đã có khá nhiều định nghĩa về chiến lược học tiếng, xin dẫn một
vài định nghĩa tiêu biểu [46, tr. 45, 46]:
- Chiến lược học tiếng “là một cố gắng để phát triển năng lực ngôn ngữ
và ngôn ngữ xã hội trong ngôn ngữ đích”.
- “Chiến lược học tiếng là những hoạt động tư duy và giao tiếp được
người học vận dụng để học và sử dụng ngôn ngữ”.
- Chiến lược học tiếng “là những hoạt động đặc thù được người học vận
dụng để thúc đẩy việc học dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, lí thú hơn, hướng
đích, có hiệu quả và thích ứng với tình huống mới hơn”.
Dẫn theo tác giả R.L. Oxford đã nêu 12 thuộc tính của chiến lược học
tiếng và đã được tác giả Đỗ Minh Hùng liệt kê trong công trình của mình (xem:
23; tr 45), đó là:
a. góp phần đạt mục tiêu giao tiếp;
b. mở rộng vai trò của người dạy
c. mang tính sử lí tình huống (giải quyết vấn đề);
d. là những hành vi đặc thù của người học;
e. giúp người học có định hướng rõ ràng hơn;
f. liên quan đến nhiều bình diện của người học chứ không chỉ là tư duy;
g. trực tiếp/ và hoặc gián tiếp trợ lực cho việc học;
h. không luôn luôn quan sát (nhìn thấy) được;
i. thường là hữu thức;
19
j. có thể chỉ dẫn (dạy cho người học) được;
k. có tính linh hoạt;
l. chịu tác động bởi nhiều yếu tố.
Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng [46, tr.46] đã khẳng định rằng “…mọi
người học đều ít nhiều sử dụng các chiến lược học tiếng, nhưng không hoàn
toàn đồng nhất về số lượng chiến lược và mức độ hiệu quả”. Việc lựa chọn
chiến lược học tiếng có thể phụ thuộc vào tám yếu tố: 1) động cơ, 2) giới tính,
3) cơ sở văn hoá, 4) thái độ và niềm tin, 5) loại hình công việc, 6) tuổi tác và
giai đoạn học, 7) cách thức học, và 8) khả năng chấp nhận sự mơ hồ.
Điều cần nói ở đây là vấn đề quan hệ giữa các chiến lược học tiếng và lỗi
của người học ngoại ngữ. Dẫn theo tác giả Đỗ Minh Hùng, “Có thể qui về hai
nhóm chiến lược ít nhiều liên quan đến hiện tượng lỗi của người học là: 1)
Chiến lược học tập / tri nhận, xử lí dữ liệu đầu vào và 2) Chiến lược giao tiếp,
xử lí dữ liệu đầu ra” [46, tr 50]. Từ quan điểm chủ đạo này, bằng những ví dụ
cụ thể, tác giả đã phân tích khá kĩ những khả năng phạm lỗi của người học từ
các chiến lược học tiếng (xin xem 23; tr. 50 – 59), như lỗi do nguyên nhân từ
chiến lược học tập / tri nhận hay lỗi do nguyên nhân từ chiến lược giao tiếp.
- Về lỗi nảy sinh từ chiến lược học tập / tri nhận: Trong chiến lược học
tập / tri nhận, tất cả người học đều phải thực hiện ba thao tác phổ biến, đó là:
chuyển di, suy luận tương tự và ghi nhớ.
+ Chuyển di là hiện tượng người học sử dụng những nền tảng, hiểu biết
của mình về tiếng mẹ đẻ (L1), về văn hoá của dân tộc để áp dụng vào việc dùng
ngôn ngữ thứ hai (L2).
Nếu L1 và L2 có những nét tương đồng thì việc chuyển di này của người
học sẽ thuận lợi và không hoặc ít vi phạm lỗi. Ngược lại, nếu giữa L1 và L2 có
sự khác biệt thì việc chuyển di thường gây ra lỗi vì sự chuyển di đó không được
chấp nhận trong L2. Ví dụ, Người Lào khi dùng từ ăn, uống và hút trong tiếng
Việt thường hay mắc lỗi vì không phân biệt được cách dùng bốn từ này do
20
tiếng Lào chỉ có một từ tương đương (kin): Kin khẩu (ăn cơm), kin nặm (uống
nước), kin lảo (hút thuốc), kin nha (uống thuốc). Chúng tôi thống kê được 26 /
100 sinh viên dùng ba từ tiếng Việt này mắc lỗi, kiểu như các câu trong ví dụ:
- Ở bệnh viện bác sĩ đã cho tôi ăn thuốc. (Bounsou SITTHISOME, khóa
học 2013, ĐHKT và QTKD, ĐH Thái Nguyên).
- Mời bác ăn nước ạ. (Chanh Ha Dao La Souk, khóa học 2013, ĐH KT và
QTKD).
Người Lào khi dùng từ xưng hô của tiếng Việt thường hay mắc lỗi vì hệ
thống từ xưng hô trong tiếng Lào và tiếng Việt không hoàn toàn đồng nhất về
số lượng và cách sử dụng của các đơn vị dùng để xưng hô. Chẳng hạn, tiếng
Lào phân biệt rất rõ chị gái (pỉ) và chị dâu (pỉ lùa), nhưng tiếng Việt thì thường
chỉ dùng từ „chị‟ để gọi chung. Sự khác biệt này khiến cho người Lào thường bị
mắc lỗi khi dùng từ chị dâu hay chị gái tiếng Việt. Chẳng hạn, một số em sinh
viên Lào đã nói như sau:
Ví dụ 1: - Chị dâu ơi, giúp em nấu cơm được không?
Ví dụ 2: - Chào chị dâu, em về nhé!
Cả hai trường hợp trên, từ chị dâu đều phải thay bằng từ chị.
Tương tự, với cấu trúc của câu ghép điều kiện - kết quả: Nếu…thì…,
trong tiếng Lào, kết từ thì thường đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết quả. Ví dụ:
Ví dụ (3): - “Thạ hứu chảo kín con đợ” (Nếu đói bạn thì ăn đi).
- Tiếng Việt: Nếu đói thì bạn ăn đi.
So sánh vị trí các từ của kiểu câu này thì thấy trong tiếng Lào và tiếng
Việt có sự khác biệt: trong tiếng Lào, kết từ thì đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết
quả; còn trong tiếng Việt, kết từ thì đứng trước chủ ngữ ở vế chỉ kết quả.
Người Lào thường chuyển di cấu trúc của kiểu câu ghép điều kiện - kết
quả tiếng Lào sang tiếng Việt và đã bị mắc lỗi do sự khác biệt về vị trí của kết
từ thì trong cấu trúc câu như vừa nói.
Cần nói thêm rằng, sự chuyển di không chỉ lệ thuộc vào sự tương đồng
hay khác biệt của hai ngôn ngữ (L1 và L2) mà còn bị chi phối bởi hai nền văn
21
hoá vì ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn hoá dân tộc.
Cho nên, nói chuyển di ngôn ngữ là bao gồm cả chuyển di các yếu tố văn hoá
dân tộc. Sự khác biệt về hai nền văn hoá cũng dễ gây ra lỗi của người học khi
dùng chiến lược chuyển di. Chẳng hạn, tiếng Lào và tiếng Việt đều có cấu trúc
so sánh: A khoẻ như B, song người Việt không nói Bố em khoẻ như trâu vì
theo quan niệm của người Việt, lối so sánh này không đảm bảo sắc thái biểu
cảm. Ngược lại, người Lào có thể dùng như vậy mà không sợ ảnh hưởng sắc
thái biểu cảm, bởi trong ý thức của người Lào, khi nghĩ đến con trâu người ta
chỉ nghiêng về phía đó là loài vật có sức khỏe chứ không cho rằng đây là loài
vật có thân phận thấp hèn. (Xin nói thêm, người Hán cũng so sánh như vậy, có
lẽ dân tộc Hán và dân tộc Lào cũng có điểm đồng nhất trong văn hóa).
+ Suy luận tương tự là hiện tượng xảy ra bên trong phạm vi L2. Đây là
hoạt động xuất hiện khi người học đã nắm được một số qui tắc của L2. Nói cụ
thể hơn, khi nắm được một qui tắc nào đó của L2, gặp một trường hợp tương tự
người học lập tức vận dụng qui tắc đó một cách máy móc mà không biết rằng
qui tắc đó không phải là qui tắc đúng cho mọi trường hợp, ví dụ, trong tiếng
Việt, kiểu câu có cấu trúc bị động không chứa từ “bị”, “được” thường có mô
hình khái quát là: Chủ ngữ bị động - Động từ ngoại động – Bổ ngữ, nhưng với
điều kiện chủ ngữ phải là danh từ chỉ sự vật, kiểu như:
- Tóc cắt đã xong.
- Nhà xây rồi.
- Hàng trở đến bằng ô tô tải.
Nếu trường hợp chủ ngữ của câu bị động là danh từ chỉ người hay động
vật thì ít dùng kiểu câu này (câu không chứa từ bị hay được) vì nó gây mơ hồ,
chẳng hạn, người ta không nói: Hổ bắt rồi vì câu này có thể hiểu theo hai nghĩa:
Hổ bắt ai / con gì rồi (hổ là chủ thể của động từ bắt) hoặc ai / con gì bắt hổ rồi
(hổ là đối thể của động từ bắt). Không nắm được điều này, người học sẽ mắc
lỗi. Đây là kiểu lỗi suy luận thái quá, tức suy luận vượt quá phạm vi cho phép
22
của một qui tắc nào đó trong L2. Gọi tắt là lỗi suy luận tương tự.
Quan điểm chiến lược học tiếng cho rằng, “…lỗi suy luận thái quá nếu
được lưu ý, giải thích xác đáng của người dạy, thì lỗi do suy luận thái quá sẽ
đóng vai trò tích cực giúp người học điều chỉnh cách hiểu của người học về
L2” [46, tr.54].
+ Ghi nhớ là một chiến lược học tiếng quan trọng. Không có một người
học nào lại không sử dụng chiến lược này. Trong giai đoạn đầu, người học
thường nhớ máy móc các ngữ liệu L2, như nhớ các câu hỏi về quê quán, về tuổi,
nghề nghiệp… được học thông qua ngữ cảnh và ngữ nghĩa mà chưa nhất thiết
phải biết tường tận kết cấu, ngữ nghĩa của từng đơn vị của L2. Vì có thể ghi
nhớ máy móc các ngữ liệu nên ưu điểm của chiến lược ghi nhớ là giảm thiểu áp
lực cho bộ nhớ của não nhưng cũng là nguyên nhân phạm lỗi của người học.
Nguyên nhân phạm lỗi xuất phát từ chiến lược ghi nhớ có thể xảy ra ở ba
trường hợp:
- Thứ nhất, do ghi nhớ máy móc nên người học có thể nhầm lẫn giữa từ
này với từ kia. Chẳng hạn, khi được học đại từ xưng hô „tôi‟, một số em sinh
viên Lào đã nhớ máy móc từ này và đem vận dụng nó vào tất cả mọi đối tượng
giao tiếp. Nói cụ thể hơn, với bạn bè hay với những người ở vị thế cao hơn như
cô, dì, chú, bác, thầy cô giáo, v.v…một số em vẫn xưng là tôi, ví dụ nhiều em
sinh viên Lào đã chào cô giáo: Chào cô, chúng tôi về nhé! Điều này không phù
hợp với cách xưng hô của người Việt.
Đối với người Việt Nam, khi giao tiếp với người ít tuổi hơn mình hay bạn
bè hoặc những người cùng lứa tuổi, có thể dùng „tôi‟ để xưng, ví dụ:
Ví dụ 6: - Tôi chào bạn! Ví dụ 7: - Hôm qua tôi đến nhà cậu nhưng vợ cậu bảo là cậu đã đi họp từ
lúc 7giờ.
23
Nhưng với thầy, cô giáo hoặc những người bề trên thì không thể dùng „tôi‟ để xưng hô, ví dụ, không thể chào: (Chúng) tôi chào thầy / cô giáo! (Từ „tôi‟ đã dùng sai do vị thế giao tiếp không ngang nhau: học sinh ở vị thế thấp,
cô giáo ở vị thế cao. Người Việt chỉ xưng với cô giáo là „tôi‟ khi học sinh hơn cô giáo nhiều tuổi hay cả cô lẫn trò đã cao tuổi, hoặc học trò có vị thế xã hội cao hơn cô giáo nhưng những trường hợp này cũng dùng rất hạn chế).
Trong ví dụ trên, phải thay từ „tôi‟ bằng từ „em‟cho phù hợp với phong
tục của người Việt.
Một trường hợp mắc lỗi tương tự khác của người Lào do nhớ máy móc đó là lỗi dùng từ con và từ chiếc trong tiếng Việt. Tiếng Việt phân biệt rất rõ những từ này. Nhưng cả hai từ này mới tương đương với từ „mạc‟ trong tiếng Lào do đó các em sinh viên Lào thường mắc lỗi khi dùng chúng. Các em chưa nắm được là từ „con‟ trong tiếng Việt kết hợp hạn chế với danh từ chỉ đồ vật: con dao, con xe và chủ yếu là kết hợp với danh từ chỉ động vật nên các em cũng thường hay mắc lỗi dùng từ này. Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có 34/50 em sinh viên người Lào đã mắc lỗi dùng từ này. Ví dụ:
Ví dụ (3): + Tôi vừa mua được con bút bi. (Chanhha Daolasouk). + Bạn cho tôi mượn con kim để khâu chiếc áo. (Kham peng). - Thứ hai, do không nắm thấu đáo một số cấu trúc nào đó, người học đã nhớ và vận dụng chúng một cách máy móc nên dẫn đến lỗi. Ví dụ, khi được học một cấu trúc thưa gửi dùng để mở đầu cho bài phát biểu hay khai mạc hội nghị, kiểu như: Kính thưa các vị đại biểu! người học đã nghĩ rằng trong cấu trúc này luôn luôn phải có từ „Kính thưa‟ và từ „vị‟, đồng thời đi kèm sau nó là một danh từ / cụm danh từ chỉ người cho nên gặp một số trường hợp không nhất thiết phải có hai từ này, người học vẫn dùng và dẫn đến lỗi. Ví dụ:
Ví dụ 8: - Kính thưa các em học sinh! (Bounsou SITTHISOM).
Ví dụ 9: - Kính thưa các vị thầy giáo, cô giáo! (Bounsou SITTHISOM).
- Thứ ba, do dữ liệu đầu vào hay yếu tố môi trường học không chuẩn, ví
dụ như chương trình, tài liệu, phương pháp dạy, trang thiết bị, trình độ của giáo
viên, v.v…Vai trò của người thầy cũng có vai trò quan trọng trong mối tương
tác giữa môi trường và người học. Do vậy, nếu thầy có lỗi cố tật nào đó về kiến
thức ngôn ngữ - văn hoá, về hành động ngôn ngữ như phát âm không chuẩn,
24
nói, viết không đúng kiểu dạng câu, cấu trúc văn bản… trong L2 thì sẽ có nhiều
khả năng những lỗi này đi vào bộ nhớ của người học và đương nhiên là người
học sẽ mắc lỗi theo.
1.1.2. Các cách phân loại lỗi
Tuỳ theo quan điểm và mục đích nghiên cứu, có thể chia lỗi trong học L2
theo các tiêu chí khác nhau. Dưới đây là một vài cách phân loại lỗi sử dụng L2
của các nhà nghiên cứu:
1.1.2.1. Phân loại theo nguyên nhân mắc lỗi:
Đại diện của quan điểm phân loại này trước tiên phải kể đến L. Selinker.
Theo tác giả này, dựa vào nguyên nhân mắc lỗi và quá trình tâm lí ngôn ngữ
của người học, có thể chia lỗi thành 5 loại, đó là:
(1) Lỗi chuyển di ngôn ngữ;
(2) Lỗi chuyển di môi trường học;
(3) Lỗi do áp dụng thái quá quy tắc ngôn ngữ đích;
(4) Lỗi do chiến lược học ngôn ngữ đích;
(5) Lỗi do chiến lược giao tiếp ngôn ngữ đích.
Hai tác giả là H. Dulay và M.Burt cũng dựa trên các quá trình tâm lí ngôn
ngữ đã chia lỗi thành 4 kiểu, là:
(1) Lỗi có hình dạng chuyển di ngôn ngữ;
(2) Lỗi phát triển ngôn ngữ;
(3) Lỗi mơ hồ;
(4) Lỗi duy nhất.
Tác giả Abbot lại chia lỗi thành hai nhóm căn cứ vào nguyên
nhân mắc lỗi, là:
(1) Lỗi năng lực, bao gồm lỗi do chuyển di L1, lỗi do tính phức tạp của
L2 và môi trường học;
(2) Lỗi hoạt ngôn, bao gồm lỗi do xử lí các vấn đề ngôn ngữ và lỗi do
25
chiến lược giao tiếp.
Dẫn theo tác giả J.C. Richards phần nào có khác với các tác giả dẫn trên
khi ông đã loại trừ yếu tố chuyển di ngôn ngữ, không phân biệt đặc điểm tiếng
mẹ đẻ và cho rằng nguyên nhân chủ yếu khiến người học mắc lỗi sử dụng L2 là
do cách tiếp cận lệch lạc các qui tắc ngữ pháp L2. Dựa vào nguyên nhân này,
tác giả đã chia lỗi thành bốn loại, đó là:
(1) Lỗi do khái quát thái quá qui tắc;
(2) Lỗi do không chú ý đến giới hạn ứng dụng của qui tắc;
(3) Lỗi do ứng dụng sai các qui tắc;
(4) Lỗi do nhận định sai qui tắc.
Có thể nói rằng, phân loại lỗi dựa trên các quá trình tâm lí ngôn ngữ là tìm
về nguyên nhân mắc lỗi. Cách phân loại này, nhìn từ góc độ tâm lí người dạy
L2 là điều hữu ích là bởi vì nó giúp cho người dạy hiểu được cơ chế, căn
nguyên hình thành lỗi trong ngữ trung gian của người học.
Song cũng cần phải thấy được rằng phân loại lỗi theo tiêu chí này sẽ
không giúp ích được nhiều cho người học bởi vì điều họ quan tâm hàng đầu khi
biết mình mắc lỗi là làm thế nào để sửa lỗi.
Tóm lại, việc phân loại lỗi theo nguyên nhân quá trình tâm lí tuy đã có thể
tìm ra căn nguyên mắc lỗi nhưng chưa đưa ra được lời giải đáp về biện pháp
sửa chữa lỗi một cách thoả đáng. Hơn nữa, các quá trình tâm lí ngôn ngữ là vô
hình nên việc phân loại dựa vào đó sẽ không tránh khỏi khiên cưỡng vì không
ai có thể thống kê hết toàn bộ quá trình tâm lí ngôn ngữ.
1.2.2.2. Phân loại lỗi theo tính chất của lỗi
Dựa vào tính chất hệ thống của lỗi, nhiều tác giả đã phân lỗi thành các
nhóm khác nhau.
- Dẫn the tác giả M.P. Jain đã phân lỗi thành hai loại là lỗi có hệ thống và
lỗi bất hệ thống.
Lỗi có hệ thống phản ánh đặc trưng hệ thống ngôn ngữ của người học ở
26
thời điểm đang xét. Lỗi bất hệ thống là kiểu lỗi chưa đi vào ổn định trong nhiều
ngữ cảnh khác nhau, có lúc thì xuất hiện, có lúc lại không. Đây là cách phân
loại có liên quan đến hệ ngữ trung gian của người học.
- Tác giả M. Burt và C.Kiparshy lại căn cứ vào tính chất ảnh hưởng của
lỗi để chia chúng thành hai loại: lỗi cục bộ và lỗi tổng thể.
Lỗi cục bộ chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận nào đó của câu hay phát ngôn.
Loại lỗi này không làm ảnh hưởng đến việc người nghe, người đọc hiểu nghĩa của
toàn câu hay phát ngôn. Chẳng hạn, có một em sinh viên Lào đã viết như sau:
Ví dụ 5: Sông Mê Công rất dài, người ta ngồi thuyền ngắm phong cảnh
hai bên đều phải mất nửa ngày. (Chanh Ha).
Ví dụ 6: Đi xe buýt từ Hà Nội đến Nam Định đều mất 4 tiếng.
(Lay phon)
Ngược lại, lỗi tổng thể làm cho nghĩa của câu / phát ngôn trở nên mơ hồ.
Người nghe / đọc không hiểu nghĩa của câu / phát ngôn, ví dụ:
Ví dụ 7: Nhà mới tất cả ba ngôi tôi mua đó. (Tất cả ba ngôi nhà mới mà
tôi mới mua đó). (Am Phai Phon).
Trong ví dụ 5, người viết đã dùng sai từ người ta và từ đều. Từ người ta
phải thay thế bằng từ ta hay chúng ta và bỏ từ đều.
Ví dụ 8: Anh của tôi con trẻ em là thứ hai cấp 1. (Pheo Many).
Tóm lại, việc chia lỗi theo hướng lỗi cục bộ hay lỗi tổng thể có vẻ như
đơn giản nhưng thực tế người học đa số là mắc lỗi cục bộ cho nên phân loại
theo lỗi tổng thể hay cục bộ không có tác dụng cao.
- Tác giả Phạm Đăng Bình cũng chia lỗi thành hai nhóm: lỗi phổ biến và
lỗi đặc trưng.
Lỗi phổ biến là lỗi chung cho tất cả mọi người học L2, không tính đến sự
khác biệt về ngôn ngữ và đặc trưng văn hoá dân tộc. Còn lỗi đặc trưng là lỗi
riêng cho từng nhóm người học có cùng chung một thứ tiếng mẹ đẻ và có
chung một nền văn hoá.
Với cách phân loại này, chúng ta có thể áp dụng cho tất cả mọi đối tượng
27
người học, không kể họ có tiếng mẹ đẻ là gì. Song cũng cần phải thấy hạn chế
của cách phân loại này là người nghiên cứu phải nắm được tất cả ngôn ngữ L1
của người học hay các nhóm ngôn ngữ. Bởi nếu không nắm được L1 hay nền
văn hoá của người học, người nghiên cứu sẽ không thể tiến hành phân loại lỗi
theo đặc điểm của từng ngôn ngữ và nền văn hoá được.
- Tác giả S.P. Corder phân lỗi thành bốn kiểu, đó là: thiếu / bỏ qua, thừa /
thêm vào, lựa chọn, và sai trật tự.
Lỗi thiếu là lỗi bỏ qua một hay một số yếu tố từ vựng, ngữ pháp bắt buộc
nào đó trong L2, ví dụ như thiếu loại từ. Một sinh viên Lào học tiếng Việt ở
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên đã viết
như sau:
Ví dụ 9: Hôm qua tôi đã mua được một dao rất tốt.
Trong ví dụ này, cần phải thêm loại từ con vào giữa số từ và danh từ.
Lỗi thừa là lỗi thêm vào một yếu tố không cần thiết hoặc không được chấp
nhận trong hệ thống L2, ví dụ thêm loại từ trong trường hợp lẽ ra không cần
dùng, kiểu như trường hợp sau đây:
Ví dụ 10: Hôm nay tôi đã mua hai cân quả đào.
(Kham Pa Song)
Loại từ quả trong ví dụ (10) là thừa. Tiếng Việt chỉ cần nói “Hôm nay
tôi… hai cân đào” là đủ.
Lỗi lựa chọn (có người gọi là lỗi thế) là kiểu lỗi lấy yếu tố từ vựng, ngữ
pháp này thay vào chỗ yếu tố khác không đúng hoặc sai vị trí, chẳng hạn:
Ví dụ 11: a- Dạo này nhiệt độ bên ngoài cao ra.
(Chăm Ha Đao la souk)
b - Phía đông Việt Nam là hải. (Kham peng)
Trong ví dụ 11a, cần thay từ ra bằng từ lên, còn trong ví dụ 11b cần thay
từ hải bằng từ biển.
Lỗi sai trật tự là kiểu lỗi dùng sai trật tự yếu tố nào đó trong cấu trúc của
L2 như ví dụ 12 dưới đây:
Ví dụ 12: Tôi đã có mới tài khoản ở ngân hàng.
28
(Bun Phon)
Vị trí của từ mới và từ tài khoản đã không đúng, cần phải đổi vị trí cho nhau.
Bốn kiểu lỗi mà S.P. Corder đề xuất được luận văn vận dụng để phân loại
lỗi câu đã khảo sát. Ưu điểm của cách phân loại lỗi này là nó có thể ứng dụng
cho các dạng lỗi, bất kể lỗi đó là gì và cho mọi đối tượng người học. Đặc biệt,
cách phân loại này sẽ định hướng cho người học biết cách sửa lỗi: Nếu là thừa
thì bỏ đi, nếu là thiếu thì thêm vào, thế sai thì chọn yếu tố khác thay thế, và đặt
sai vị trí thì đổi lại cho đúng.
1.2. Sơ lƣợc về lỗi câu, các loại lỗi câu
1.2.1. Sơ lược về lỗi câu
Có thể nói, đến nay đã có khá nhiều quan niệm về lỗi câu (tức câu mắc
lỗi - câu sai).
Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, câu sai là những câu viết sai chính tả, sai
ngữ pháp, sai từ ngữ, sai lôgich, sai phong cách. Ngoài ra, câu viết không đúng
dấu câu, không đúng qui tắc viết tắt cũng là câu sai.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và tác giả Nguyễn Văn Hiệp không đưa ra
khái niệm câu sai là gì nhưng các tác giả đã nêu ra những trường hợp câu mắc
lỗi thường gặp, đó là:
- Câu mắc lỗi về cấu tạo câu;
- Câu mắc lỗi về dấu câu;
- Câu mắc lỗi về liên kết (câu).
Cần phải nói ngay rằng, nhìn nhận hiện tượng mắc lỗi nói chung hay câu
mắc lỗi nói riêng không hề đơn giản. Để tiện làm việc, luận văn này quan niệm:
Câu mắc lỗi là những câu vi phạm các qui tắc về chính tả, qui tắc ngữ pháp,
sai về ngữ nghĩa, phong cách sử dụng, liên kết liên câu… hay mơ hồ về nội
dung hoặc hành vi ngôn ngữ.
1.2.2. Phân loại lỗi câu
1.2.2.1. Một số quan điểm phân loại lỗi câu
Tuỳ theo cách nhìn về hiện tượng mắc lỗi, các tác giả đã chia câu mắc lỗi
29
(có tác giả gọi là câu sai) thành các kiểu khác nhau. Luận văn này xin giới thiệu
hai quan điểm tiêu biểu về câu mắc lỗi, đó là quan điểm của tác giả Nguyễn Đức
Dân và quan điểm của hai tác giả: Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp.
- Tác giả Nguyễn Đức Dân đã chia câu mắc lỗi thành sáu kiểu, đó là:
+ Câu sai chính tả: “Câu sai chính tả là câu viết không đúng chính tả,
nghĩa là viết không đúng theo qui định về phụ âm đầu, về vần, về thanh điệu,
và về cách bỏ dấu thanh điệu”. [14, tr. 17].
Hai câu dưới đây đều là câu sai chính tả do bỏ dấu thanh hay viết hoa tên
riêng không đúng đã được tác giả dẫn ra làm ví dụ:
(1) Trần thị Hoà. (Câu này là câu sai chính tả do viết hoa tên riêng
không đúng).
(2) Trần Thị Hòa. (Câu này là câu sai chính tả do bỏ dấu thanh ở âm tiết
Hoà không đúng).
+ Câu sai ngữ pháp: Câu sai ngữ pháp là câu viết “không đúng qui tắc
ngữ pháp” [14, tr. 17]. Câu dưới đây là một trong các kiểu câu sai ngữ pháp vì
đã sai qui tắc tạo câu của tiếng Việt:
Ví dụ 13: “Theo đồng chí chủ tịch UBND cho biết số người đến tuổi lao
động ở địa phương là 1200”. (Câu này sai vì thiếu chủ ngữ).
+ Câu sai từ ngữ: Câu sai từ ngữ là “câu dùng từ không đúng” [14, tr
19], ví dụ 14 dưới đây là một trong những câu sai từ ngữ được tác giả dẫn ra để
minh hoạ:
Ví dụ 14: Nhà trường đã tổ chức 10 giải thưởng Lê Quí Đôn hằng năm
để khuyến khích các học sinh xuất sắc.
Câu trên sai vì đã dùng từ tổ chức không đúng. Từ này phải thay bằng từ trao.
+ Câu sai lôgich: “Câu sai lôgich là câu viết không đúng qui tắc lôgich
và tư duy” [14, tr. 18]. Ví dụ 15 là câu sai về lôgich:
Ví dụ 15: Họ úp cái nón lên mặt, nằm xuống ngủ một giấc cho đến chiều.
Câu trên sai lôgich vì đã phản ánh sai thứ tự của hành động: Chỉ sau khi
30
nằm xuống mới úp nón lên mặt.
+ Câu sai phong cách: Câu sai phong cách là kiểu câu “viết không đúng
về phong cách”. [14, tr. 19]. Ví dụ:
Ví dụ 16: “Ngoài Bớc – Sét mà tôi quen ở Việt Nam, tôi còn được giới
thiệu với hai nhà báo Pháp đã nổi tiếng là Mađơlen Riphô và Giăng Lacutuya.
Một hôm, trước ngày chia tay, Bộ trưởng Hâu Xeng tổ chức một cuộc họp thân
mật giữa hai bạn Pháp và tôi. Chuyện trò “mày tao” thoải mái”. [14, tr. 19].
Cặp từ mày- tao dùng không đúng phong cách. Đoạn văn này viết về cuộc
thoại với cách xưng hô thân mật giữa những người có cương vị cao trong giới
báo chí. Song, trong tình huống này, người Việt không dùng cặp từ mày- tao
mà dùng cặp từ cậu - tớ để xưng hô.
+ Câu sai tri thức: Câu sai tri thức là “câu viết một điều không đúng với
thực tế hoặc không đúng với những kiến thức khoa học đã biết”.
[14, tr. 19].
Tác giả Nguyễn Đức Dân đã đưa ra một ví dụ về câu sai tri thức:
“Nghi Tàm, quê hương của bà Đoàn Thị Điểm, thi nhân nổi tiếng thế kỉ
XVIII”. [14, tr .19].
Câu này đã sai về tri thức vì đã nhầm lẫn bà Đoàn Thị Điểm với Bà
Huyện Thanh Quan.
- Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp đã chia câu trong
văn bản thường mắc lỗi thành ba kiểu, đó là: Câu mắc lỗi về cấu tạo, câu mắc
lỗi về dấu câu và câu mắc lỗi về liên kết.
+ Câu mắc lỗi về cấu tạo: Hai tác giả đã chia kiểu câu mắc lỗi về mặt cấu
tạo thành 5 loại sau đây:
(1) Câu thiếu thành phần nòng cốt: Thành phần nòng cốt của câu là
những thành phần bắt buộc phải có trong câu để đảm bảo cho câu độc lập về
nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Ba thành phần được hai tác giả xếp vào
loại thành phần nòng cốt của câu, đó là các thành phần: chủ ngữ, vị ngữ và bổ
31
ngữ bắt buộc.
(2) Câu ghép thiếu vế: Câu ghép là loại câu gồm hai vế trở lên, mỗi vế
tương đương một câu đơn, trực tiếp nối với nhau hoặc nối với nhau bằng các
hư từ, nhằm trình bày những sự việc, tình cảm, cảm xúc hay ý kiến có liên quan
mật thiết với nhau.
Vì các vế của câu ghép có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên nếu tách
các vế ra thành câu riêng mà không chú ý đến điều này đôi khi sẽ bị mắc lỗi.
Bình thường, việc bỏ sót một vế của câu ghép rất dễ nhận ra, nhất là
những câu ghép có các vế nối với nhau bằng hư từ, đặc biệt là các cặp kết từ
(Vì…nên…; nếu…thì…, v.v…).
(3) Câu thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu: Các
bộ phận trong câu ở đây được hiểu là các thành phần câu hay vế của câu ghép.
Thành phần của câu đơn hay câu phức hoặc vế của câu ghép thể hiện quan hệ
ngữ nghĩa không đúng đều bị coi là câu mắc lỗi.
(4) Câu sai trật tự từ: Ở một số ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, trật tự
của các từ trong câu rất quan trọng. Sự sắp xếp sai trật tự từ trong câu nhiều khi
làm cho câu phản ánh sai lạc ý của người viết hoặc làm cho câu mơ hồ về nghĩa.
(5) Câu thiết lập sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu: Quan
hệ ngữ pháp tuy đa dạng nhưng có thể qui về ba kiểu chính, đó là: Quan hệ
chủ-vị, quan hệ chính phụ và quan hệ đẳng lập.
Thiết lập sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu là thiết lập một
quan hệ ngữ pháp nhất định nào đó mà trong câu không thể có kiểu quan hệ ấy,
khiến cho câu lủng củng, tối nghĩa.
+ Câu mắc lỗi về sử dụng dấu câu: Tiếng Việt có 11 dấu câu, đó là các
dấu: chấm, chấm than, chấm hỏi, chấm lửng, hai chấm, chấm phẩy, phẩy, gạch
ngang, ngoặc đơn, ngoặc vuông và dấu ngoặc kép.
Mỗi dấu kể trên đều có chức năng và cách dùng riêng. Nếu dùng không
đúng với chức năng của chúng sẽ bị coi là mắc lỗi. (Về chức năng và cách dùng
của các dấu câu tiếng Việt, xin xem Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp,
32
Tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQG HN, tr 191).
+ Câu mắc lỗi về liên kết: Nằm trong văn bản, các câu phải có sự liên kết
với nhau về nội dung và hình thức. Những câu trong văn bản không có sự liên
kết hoặc liên kết với các câu khác không đúng sẽ bị xếp vào loại câu mắc lỗi.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và tác giả Nguyễn Văn Hiệp đã phân loại
câu mắc lỗi liên kết thành ba kiểu nhỏ, đó là: câu mắc lỗi về liên kết chủ đề,
câu mắc lỗi về liên kết lôgich và câu mắc lỗi về liên kết hình thức.
Tuy có chia câu mắc lỗi thành các loại khác nhau nhưng các tác giả trên
đã gặp nhau ở chỗ đều đứng từ góc nhìn cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng để
xem xét câu mắc lỗi. Tác giả Nguyễn Đức Dân còn chú ý cả tới mặt hình thức
chữ viết (chính tả) để đánh giá câu có mắc lỗi hay không.
1.2.2.2. Quan điểm phân loại câu mắc lỗi của tác giả luận văn
Trước hết, cần phải nói ngay rằng, quan điểm về câu mắc lỗi và việc phân
loại câu mắc lỗi là vấn đề không đơn giản, bởi mấy lí do sau đây:
Thứ nhất, có câu, người này cho là mắc lỗi nhưng người khác thì lại thấy
là đúng. Tác giả nguyễn Đức Dân đã lấy một ví dụ làm minh chứng cho điều
vừa nói. (Xin xem: Giáo trình Tiếng Việt Thực hành, ĐHQG Tp HCM, sách
lưu hành nội bộ, ví dụ (1), tr. 19).
Thứ hai, Cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng mỗi người lại có thể nhìn
nhận lỗi ở những góc nhìn khác nhau như ở ví dụ 17 dưới đây (dẫn theo
Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp):
Ví dụ 17: Trong toàn bộ Truyện Kiều của ông đã miêu tả một cách sâu
sắc xã hội phong kiến thối nát.
Có người cho câu trên mắc lỗi do thiếu chủ ngữ nhưng cũng có người cho
câu này mắc lỗi do dùng thừa từ trong hoặc từ của.
Do cách nhìn nhận về lỗi khác nhau như vậy cho nên hướng sửa cũng sẽ
không giống nhau. Nếu cho câu thiếu chủ ngữ thì sẽ thêm chủ ngữ, ví dụ:
17a. Trong toàn bộ Truyện Kiều của mình, Nguyễn Du đã miêu tả một
33
cách sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
Nếu cho câu trên mắc lỗi thừa từ thì chỉ cần lược bò từ thừa đó. Ví dụ:
17b. Trong toàn bộ Truyện kiều, ông (Nguyễn Du) đã miêu tả một cách
sâu sắc xã hội phong kiến thối nát.
Thứ ba, khó có thể liệt kê hết các kiểu lỗi, mặt khác, quan điểm về phân
loại câu mắc lỗi hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về
các kiểu lỗi.
Trước tình hình trên, luận văn này tiếp thu cách phân loại câu mắc lỗi (câu
sai) của tác giả Nguyễn Đức Dân, có bổ sung thêm kiểu câu mắc lỗi tổng hợp
của hai tác giả là Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp. Như vậy, luận
văn này sẽ miêu tả và phân tích năm kiểu lỗi câu mà du học sinh Lào thường
mắc, theo đó là 6 kiểu câu mắc lỗi:
(1) Câu mắc lỗi chính tả;
(2) Câu mắc lỗi về từ;
(3) Câu mắc lỗi ngữ pháp;
(4) Câu mắc lỗi ngữ nghĩa;
(5) Câu mắc lỗi liên kết;
(6) Câu mắc lỗi tổng hợp.
1.3. Tiểu kết
Chương này đã trình bày một số vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài, đó là lí
thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ; vấn đề câu mắc lỗi và phân loại câu mắc lỗi.
- Về vấn đề lỗi trong học ngoại ngữ, đã có nhiều quan điểm khác nhau và
luận văn đã trình bày sáu quan điểm về lỗi trong học ngoại ngữ, đó là:
+ Lỗi theo quan điểm hành vi luận;
+ Lỗi theo quan điểm phân tích đối chiếu;
+ Lỗi theo quan điểm giao thoa văn hóa;
+ Lỗi theo quan điểm phương pháp giao tiếp;
+ Lỗi theo quan điểm phân tích lỗi và ngữ hệ trung gian;
34
+ Lỗi theo quan điểm chiến lược học tiếng.
Có thể nói, mỗi quan điểm có một ưu thế song chưa có quan điểm nào
thực sự ưu thế về phân tích lỗi. Vì vậy, cần tiếp thu có chọn lọc các quan điểm
này khi phân tích, đánh giá về lỗi của người học ngoại ngữ.
- Về vấn đề câu mắc lỗi, tác giả Nguyễn Đức Dân đã nêu 6 kiểu câu mắc
lỗi, là:
+ Câu mắc lỗi chính tả;
+ Câu sai từ ngữ;
+ Câu sai ngữ pháp;
+ Câu sai logic;
+ Câu sai tri thức;
+ Câu sai phong cách.
Tác giả Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp cũng đưa ra ba kiểu
lỗi về câu cơ bản, đó là :
+ Câu mắc lỗi về cấu trúc ;
+ Câu mắc lỗi về dấu câu ;
+ Câu mắc lỗi liên kết
Luận văn này chỉ bàn đến năm kiểu lỗi câu mà du học sinh Lào nói chung,
du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên thường mắc, đó là : Câu mắc lỗi chính
tả, câu mắc lỗi dùng từ, câu mắc lỗi ngữ pháp và câu mắc lỗi ngữ nghĩa và câu
mắc lỗi liên kết. Ngoài năm kiểu câu mắc lỗi trên, luận văn còn bàn đến kiểu
35
câu mắc lỗi tổng hợp (tức là câu mắc ít nhất là hai trong số bốn kiểu trên).
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI
CỦA DU HỌC SINH LÀO Ở ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Chương này trình bày hai nội dung chính :
- Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà du học sinh Lào ở Đại học
Thái Nguyên đã viết ;
- Phân loại các câu tiếng Việt mắc lỗi mà du học sinh Lào ở Đại học Thái
Nguyên đã viết.
2.1. Kết quả khảo sát câu tiếng Việt mắc lỗi mà sinh viên Lào học ở Đại
học Thái Nguyên đã viết
2.1.1. Nhận xét chung
Chúng tôi đã tiến hành điều tra tình hình viết câu tiếng Việt mắc lỗi của
du học sinh Lào học ở 2 trường thuộc Đại học Thái Nguyên là Trường Đại học
Sư phạm và Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, năm học 2013.
Các du học sinh này thuộc hai đối tượng: sinh viên mới học tiếng Việt 1 kì (25
em) và sinh viên đã học tiếng Việt 1 năm (25 em). Tư liệu khảo sát là 100 bài
kiểm tra của hai đối tượng vừa nói trên. Kết quả điều tra cho chúng tôi một số
nhận xét bước đầu sau đây:
Thứ nhất, các em du học sinh Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi khá nhiều.
Trong tổng số 50 em với 100 bài kiểm tra, chúng tôi đã thống kê được 1765 câu
mắc lỗi (số liệu cụ thể về câu TV mắc lỗi chúng tôi đã điều tra xin trình bày ở
bảng tổng kết 2.1.a).
Thứ hai, tình trạng viết câu tiếng Việt mắc lỗi của du học sinh Lào không
giống nhau. Tùy thuộc vào số thời gian các em đã học tiếng Việt và nhận thức
của từng em.
Thứ ba, câu tiếng Việt mắc lỗi mà các em sinh viên Lào đã viết khá đa dạng
36
về kiểu loại. Đó có thể là câu mắc lỗi chính tả, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi từ
ngữ hay câu mắc lỗi liên kết, v.v… hoặc câu mắc đồng thời một số các lỗi vừa liệt
kê. Đặc biệt, tỉ lệ của các kiểu câu mắc lỗi này không giống nhau.
Thứ tư, trong số các câu mắc lỗi đã thống kê, có câu chỉ có một kiểu lỗi
nhưng cũng có những câu mắc tới hai, ba kiểu lỗi, tức là một câu vừa mắc lỗi
chính tả, vừa mắc lỗi cấu trúc lại vừa mắc lỗi về từ, v.v… Cần nói thêm, có
những câu tuy chỉ mắc một kiểu lỗi nhưng số lượt mắc lỗi trong toàn bài không
phải là một mà có thể là hai, ba thậm chí tới mười tám (18) lượt.
Thứ năm, kết quả điều tra cho thấy, những câu tiếng Việt mắc lỗi mà du
học sinh Lào đã viết có thể là những kiểu lỗi chung của tất cả mọi người dùng
tiếng Việt (kể cả người Việt Nam) nhưng cũng có những lỗi có tính chất đặc
thù, chỉ người Lào mới mắc (ví dụ kiểu lỗi trật tự các từ trong ngữ danh từ).
2.1.2. Kết quả số liệu điều tra
Như nói ở trên, chúng tôi đã tiến hành điều tra về lỗi viết câu tiếng Việt
của du học sinh Lào học ở hai trường thuộc Đại học Thái Nguyên: Trường Đại
học Sư phạm và Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh.
Số sinh viên được khảo sát là 50 với tổng số văn bản (bài kiểm tra) được
khảo sát là 100 thuộc hai đối tượng, cụ thể:
- Số bài kiểm tra của sinh viên đã học tiếng Việt 1 kì được
khảo sát là 50 ;
- Số bài kiểm tra của sinh viên đã học tiếng Việt 1 năm được khảo sát là
50. Kết quả khảo sát với những số liệu cụ thể xin được trình bày bằng các mục
a, b, c, và các bảng tổng kết : 2.1.a, 2.1.b, và 2.1.c dưới đây:
a) Tổng số câu TV mắc lỗi đã thống kê
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, trên 100 bài kiểm tra du học sinh Lào
đã mắc 1765 câu tiếng Việt mắc lỗi. Cụ thể như sau:
Với đối tượng sinh viên mới học tiếng Việt được 1 kì, số câu mắc lỗi mà
chúng tôi thống kê được là 1240. Số câu mắc lỗi còn lại (525 câu) thuộc về
37
những du học sinh Lào đã học tiếng Việt 1 năm.
Kết quả thống kê xin xem bảng tổng kết 2.1.a
Bảng 2.1.a. Bảng tổng kết số câu mắc lỗi của du học sinh Lào
Đối tƣợng
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm
1240 525 Số lỗi/ tỉ lệ % Số câu mắc lỗi
70,25 29,74 Tỉ lệ %
Bảng tổng kết 2.1.a cho thấy, du học sinh Lào học TV 1 kì viết câu mắc
lỗi cao hơn hai lần so với những du học sinh Lào đã học TV 1 năm.
b) Tổng số lượt lỗi đã thống kê
Như đã nói ở trên, kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy, trong số
những câu mắc lỗi đã khảo sát, có những câu chỉ mắc một lỗi nhưng có những
câu mắc tới hai, ba, thậm chí bốn lỗi. Các lỗi trong một câu này có thể cùng
loại và có thể khác loại (chẳng hạn, một câu có ba lỗi, có thể cả ba lỗi đều là lỗi
chính tả, nhưng có khi ba lỗi đó là ba loại khác nhau: một lỗi chính tả, một lỗi
dùng từ, một lỗi ngữ pháp…). Vì không phải tất cả các câu mắc lỗi chỉ mắc một
lỗi cho nên tổng số câu mắc lỗi không đồng nhất với tổng số lượt xuất hiện lỗi
(tổng số lỗi) trong cùng một văn bản.
Trong tổng số 1765 câu TV mắc lỗi mà các em sinh viên Lào thuộc 2 đối
tượng khảo sát đã viết, chúng tôi thống kê được 3000 lượt lỗi. Có thể hình dung
tổng số lỗi đã thống kê trên các bài kiểm tra của hai đối tượng khảo sát bằng
các bảng tổng kết 2.1.b và 2.1.c dưới đây:
Bảng 2.1.b: Bảng tổng kết số lƣợt xuất hiện lỗi theo từng đối tƣợng (tỉ lệ
phần trăm tính trên tổng số lỗi đã thống kê của cả hai đối tƣợng: 3000 lƣợt
lỗi / 1765 câu mắc lỗi)
Đối tƣợng KS Du học sinh Lào học Du học sinh Lào học
Số lƣợng/ TL% TV 1 kì TV 1 năm
Số lượng 2135 865
38
Tỉ lệ % 71,16 28,83
Bảng 2.1.c: Bảng tổng kết số câu mắc lỗi (1765 câu) của sinh viên thuộc 2
đối tƣợng tính theo số bài kiểm tra (50 bài).
Đối tƣợng KS Du học sinh Lào học TV Du học sinh Lào học TV
1 kì (50 bài) 1 năm (50 bài) Số lƣợng/ TL%
1240 525 Số lượng
Trung bình số câu mắc lỗi 24,8 10,5 trên 1 bài
Nhìn vào các bảng tổng kết: 2.1.a, 2.1.b và 2.1.c, dễ dàng nhận thấy tỉ
lệ câu TV mắc lỗi và số lượt xuất hiện của lỗi có xu hướng giảm dần theo số
thời gian du học sinh Lào học tiếng Việt. Như vậy, sinh viên học càng nhiều
thời gian thì trình độ càng nâng cao và trình độ của các em càng nâng cao thì
hiện tượng viết câu TV mắc lỗi chiếm tỉ lệ càng thấp. Điều này có lẽ phù
hợp với qui luật chung của việc học ngoại ngữ: người học ngoại ngữ sử dụng
L2 ngày một tốt hơn theo thời gian học vì thời gian học càng dài thì trình độ
càng nâng lên.
Như bảng 2.1.c đã tổng kết, đối tượng du học sinh học tiếng Việt 1 kì
trung bình viết 24,8 câu mắc lỗi trong một bài kiểm tra; còn đối tượng du học
sinh học tiếng Việt 1 năm trung bình viết 10,5 câu mắc lỗi trong
một bài kiểm tra.
2.2. Phân loại và miêu tả các kiểu câu TV mắc lỗi đã thống kê
Có thể chia các câu TV mắc lỗi mà chúng tôi đã thống kê theo nhiều tiêu
chí, song luận văn này chỉ dựa vào hai căn cứ, đó là: 1) Dựa vào tần số xuất
hiện lỗi trong một câu, và 2) Dựa vào kiểu dạng lỗi.
Theo hai tiêu chí vừa nói, 1765 câu TV mắc lỗi với 3000 lượt xuất hiện
lỗi mà chúng tôi đã thống kê được chia thành nhiều kiểu khác nhau. Dưới đây
39
là các kiểu cụ thể được phân loại theo từng tiêu chí:
2.2.1. Các kiểu câu TV mắc lỗi được phân loại dựa vào tổng số lỗi xuất hiện
trong một câu
Theo tư liệu của chúng tôi, căn cứ vào số lỗi xuất hiện trong một câu, có
thể chia các câu TV mắc lỗi đã thống kê thành 4 kiểu nhỏ, đó là:
- Câu mắc một lỗi;
- Câu mắc hai lỗi;
- Câu mắc ba lỗi;
- Câu mắc bốn lỗi.
a) Kiểu câu mắc một lỗi
Đây là kiểu câu chỉ có một lỗi, ví dụ:
Ví dụ (1): Buổi sáng hàng vợ tôi ngủ dậy sớm hơn tôi khoảng 15 đến 20
phút. (Lỗi dùng thiếu từ: thiếu từ ngày).
(Chanh Hà Daolasuk)
Ví dụ (2): Trong các ngành đao tạo, tôi rất thích học Giáo dục chính trị.
(Câu mắc lỗi chính tả: âm tiết „đao‟ thiếu thanh điệu).
(Khănthaly)
Ví dụ (3): Dân tộc Mông ngày xưa thích làm nhà ở hòn núi. (Lỗi dùng từ).
(Malaythong)
Trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã thống kê, có 1072 câu chỉ mắc một lỗi,
chiếm xấp xỉ 60,73% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (1072/1765). Số lượng
câu mắc lỗi kiểu này không giống nhau giữa hai đối tượng khảo sát,
cụ thể:
- Đối với số du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Trong tổng số 1072 câu
mắc một lỗi, chúng tôi thống kê được 729 / 1072 trường hợp là câu mắc một lỗi
do đối tượng du học sinh học tiếng Việt một kì viết, chiếm xấp xỉ 68%.
- Đối với số du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Trong tổng số 1072
câu mắc một lỗi, có 343 câu do sinh viên Lào học tiếng Việt một năm viết,
40
chiếm xấp xỉ 31,99 343 / 1072).
Kết quả vừa trình bày xin xem bảng tổng kết 2.2.a dưới đây:
Bảng 2.2.a: Bảng tổng kết câu mắc 1 lỗi
Đối tƣợng Du học sinh Lào học TV Du học sinh Lào học TV
Số lƣợng/TL% 1 kì 1 năm
Số lượng 729 343
Tỉ lệ % 68,00 31,99
Bảng tổng kết cho thấy, sinh viên Lào học TV 1 kì viết câu tiếng Việt mắc
một lỗi chiếm tỉ lệ cao hơn đối tượng du học sinh Lào đã học tiếng Việt 1 năm:
Du học sinh Lào học TV 1 kì viết câu sai 1 lỗi chiếm tỉ lệ 68% (729 / 1072),
còn du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm viết câu sai 1 lỗi chiếm tỉ lệ xấp xỉ
31,99% (343 / 1072).
b) Kiểu câu mắc hai lỗi:
Đây là kiểu câu mắc hai lỗi trong cùng 1 câu. Các lỗi này có thể cùng loại
và có thể khác loại, ví dụ:
Ví dụ (4): đám cưới theo tiếng Lào.
(Pheo măn ny).
Câu này mắc 2 lỗi không cùng loại: lỗi chính tả (lỗi không viết hoa chữ
cái đầu của âm tiết đứng đầu câu - đám) và lỗi ngữ pháp (câu thiếu thành phần
nòng cốt – vị ngữ. Câu này có thể thêm vị ngữ: Đám cưới theo tiếng Lào là „).
Ví dụ (5): Trong ngày cưới, cô dâu mặc áo lựa, váy lựa.
(Sousavank).
Câu trong ví dụ (5) mắc hai lỗi và hai lỗi đều cùng một loại: lỗi viết sai vỏ
ngữ âm của từ, tức lỗi viết sai kí hiệu âm vị: nguyên âm đôi /uo/ viết thành
nguyên âm đôi /w…/.
Trong số 1765 câu TV mắc lỗi đã thống kê, câu mắc hai lỗi có 315
trường hợp, chiếm xấp xỉ 17,84% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (315 / 1765).
Kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trên ngữ liệu điều tra của hai đối tượng
41
khảo sát như sau:
- Du học sinh Lào học TV 1 kì: Trong số 315 câu mắc 2 lỗi đã thống kê,
có 236 câu mắc hai lỗi do du học sinh Lào học TV 1 kì viết, chiếm xấp xỉ
74,92% (236 / 315).
- Du học sinh Lào học TV 1 năm: So với du học sinh Lào học TV 1 kì, du
học sinh Lào học TV 1 năm viết câu mắc 2 lỗi chiếm số lượng ít hơn: 79
trường hợp, chiếm xấp xỉ 25,07% (79 / 315).
Xin xem thêm về số liệu của kiểu câu mắc lỗi này ở bảng tổng kết 2.2.b
dưới đây:
Bảng 2.2.b: Câu tiếng Việt mắc 2 lỗi
Đối tƣợng Du học sinh Lào đã học Du học sinh Lào đã học
TV 1 kì TV 1 năm số lƣợng/ TL%
236 79 Số lượng
74,92 25,07 Tỉ lệ %
c. Câu mắc ba lỗi
Đây là kiểu câu có ba lỗi. Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có 214 câu
tiếng Việt mà du học sinh lào viết mắc lỗi kiểu này.
Cũng giống kiểu câu mắc hai lỗi, câu mắc ba lỗi có thể mắc lỗi cùng loại
và có thể khác loại, Ví dụ:
Ví dụ (6): Mọi ngươi rác hua lên cô dâu chú rể.
(Sinna Khone)
Câu trên có ba âm tiết mắc lỗi cùng loại: viết sai kí hiệu âm vị: âm tiết
ngươi viết sai thanh điệu, âm tiết rác viết sai âm chính và âm tiết hua viết sai
âm đệm.
Ví dụ (7): Cô dâu chú rẻ ở lào ngồi xiếp vòng tròn, hai tay chắp trước ngực.
(Bun phon)
Câu mắc ba lỗi không cùng loại: rẻ, xiếp, lào. Âm tiết rẻ và âm tiết xiếp
mắc lỗi viết sai âm vị âm chính; âm tiết lào viết sai chính tả - không viết hoa
42
tên riêng.
Ví dụ (8): Nghi lễ buộc trỉ tay là nghi lễ chang chọng nhất trong đám cưới
của người Lào.
(souk sa vănh)
Câu trong ví dụ (8) mắc ba lỗi cùng loại: ba âm tiết in nghiêng đều mắc
lỗi viết sai kí hiệu âm vị âm đầu.
Như vậy, các lỗi trong các câu ở ví dụ (6) và ví dụ (7) là lỗi không cùng
loại. Các lỗi ở ví dụ (8) là lỗi cùng loại.
Xin xem thêm về số liệu của loại câu mắc ba lỗi này ở bảng tổng kết 2.2.c
Bảng 2.2.c: Bảng tổng kết kiểu câu mắc ba lỗi
(% tính theo số câu mắc 3 lỗi)
Đối tƣợng
Số lƣợng / TL% Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh học TV đã 1 năm
Số lượng 166 48
Tỉ lệ % 77,57 22,42
d) Câu mắc bốn lỗi
Trong số 1765 câu mắc lỗi đã thống kê, câu mắc bốn lỗi có 164 trường
hợp, chiếm xấp xỉ 9,2% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (164 / 1765).
Tương tự như các kiểu câu mắc hai và ba lỗi, các lỗi trong câu mắc 4 lỗi
có thể cùng loại và có thể khác loại:
Ví dụ (9): Từ sáng Sớm, Bố Mẹ và bạn bè hai gia đinh đến nhà cô dâu để
tổ chức cúng tổ tiên. (Câu mắc lỗi không đồng loại).
(Sinna khone).
Các chữ in nghiêng trong ví dụ (9) là các âm tiết mắc lỗi: ba âm tiết đầu
mắc lỗi chính tả (viết hoa không đúng), âm tiết đinh mắc lỗi viết sai âm vị
thanh điệu.
Ví dụ (10): Buổi sáng hàng ngày, vợ toi ngủ dạy sơm hơn tôi khoảng 15
đến 20 phúc.
43
(Chăn Hà).
Trong ví dụ (10), các âm tiết „toi‟, „dạy‟, „sơm‟ „phúc‟ mắc lỗi cùng loại:
viết sai kí hiệu âm vị. Âm tiết „toi‟và âm tiết „dạy‟mắc lỗi viết sai âm chính;
âm tiết „sơm‟viết sai thanh điệu và âm tiết „phúc‟ viết sai âm cuối.
Kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trên ngữ liệu điều tra của các đối
tượng khảo sát như sau:
- Du học sinh Lào học TV 1 kì: Trong tổng số 164 câu tiếng Việt mắc 4
lỗi mà du học sinh Lào đã viết theo thống kê, du học sinh Lào học TV 1 kì mắc
109 câu, chiếm xấp xỉ 66,46% (109 / 164).
- Du học sinh Lào học TV 1 năm: Du học sinh lào đã học tiếng Việt viết
câu tiếng Việt mắc 4 lỗi chỉ có 55 trường hợp, chiếm xấp xỉ 33,53 % (55 / 164).
Bảng tổng kết 2.2.d dưới đây cho ta cái nhìn khái quát về số liệu và tỉ lệ %
của kiểu câu mắc bốn lỗi đã thống kê được.
Bảng 2.2.d: Bảng tổng kết kiểu câu mắc bốn lỗi
Đối tƣợng
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/TL%
Số lượng 109 55
Tỉ lệ % 66,46 33,53
Có thể hình dung các kiểu câu tiếng Việt phân loại theo số lỗi / câu mà du
học sinh Lào đã viết bằng bảng tổng kết 2.2.e dưới đây:
Bảng 2.2.e: Bảng tổng kết các kiểu câu mắc lỗi tính theo số lƣợt lỗi / câu
(Tỉ lệ % tính theo tổng số câu mắc lỗi: 1765)
ĐT Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm
SL/% 1 lỗi 3 lỗi 4 lỗi 1 lỗi 2 lỗi 3 lỗi 4 lỗi 2 lỗi
Số lượng 729 166 109 343 79 48 55 236
TL% 41,30 13,37 9,40 6,17 19,43 4,47 2,71 3,11
Khái quát các kiểu câu mắc lỗi theo số lỗi trong câu xin xem bảng tổng
44
kết 2.2. h
(Tỉ lệ % tính theo số câu mắc lỗi: 1765):
P. loại Các kiểu câu tiếng Việt mắc lỗi
SL/% Câu 1 lỗi Câu 2 lỗi Câu 3 lỗi Câu 4 lỗi
Số lượng 1072 315 214 164
TL% 60,73 17,84 12,12 9,29
Tóm lại, căn cứ vào số lỗi trong câu mắc lỗi, có thể chia câu TV mắc lỗi
mà du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên viết chúng tôi đã thống kê thành
bốn loại, là:1) câu mắc một lỗi, 2) câu mắc hai lỗi, 3) câu mắc ba lỗi và 4) câu
mắc bốn lỗi.
Kết quả khảo sát và phân loại ở trên cho thấy, loại câu mắc một lỗi chiếm số
lượng và tỉ lệ cao nhất (60,73%), tiếp theo là loại câu mắc hai lỗi (17,84%), rồi đến
loại câu mắc ba lỗi (12,12%) và cuối cùng là loại câu mắc bốn lỗi (9,29%).
Đặc biệt, tỉ lệ của các loại câu mắc lỗi này có liên quan đến trình độ của
học sinh. Trình độ của các em càng cao thì các em càng ít viết những câu mắc
nhiều lỗi và ngược lại. (Trình độ của học sinh ở đây chúng tôi tạm tính theo số
thời gian các em học tiếng Việt như đã nói ở trên), liên quan ý thức của người
viết (lỗi do người viết có hay không có ý thức tránh lỗi), v.v…
2.2.2 Các câu TV mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi
Như đã trình bày ở chương 1, việc phân loại câu mắc lỗi dựa vào đặc
trưng của lỗi không hề đơn giản. Nó tùy thuộc vào cách nhìn nhận về lỗi của
người nghiên cứu. Vì thế, cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng mỗi người lại có
thể xếp vào một kiểu lỗi, như lỗi trong ví dụ (11) dưới đây:
Ví dụ (11): Hôm nay em ra phố muo một chiếc quần áo.
(Am phay phon).
Ở ví dụ trên, có lẽ mọi người đều cho muo (mua) là từ viết sai chính tả và
ít có sự tranh luận. Riêng tổ hợp chiếc quần áo có thể có hai cách nhìn nhận về
45
hiện tượng mắc lỗi:
Thứ nhất, có thể cho rằng người viết đã dùng từ sai: dùng sai loại từ
„chiếc‟ hoặc danh từ „quần áo‟. „Chiếc‟ là loại từ chỉ đi với danh từ chỉ sự vật
mang nghĩa cá thể. Trong khi đó „quần áo‟ là danh từ chỉ sự vật mang nghĩa
tổng hợp nên không kết hợp với từ này. Hướng chữa lỗi trong câu theo cách
nhìn này là thay từ „chiếc‟ bằng từ „bộ‟ hoặc thay từ „quần áo‟ bằng một trong
hai từ „quần‟ hay „áo‟.
Thứ hai, có thể cho người viết đã dùng sai cấu trúc của cụm từ - cụm từ
„chiếc quần áo‟. Cũng vẫn với lí do về khả năng kết hợp của các từ trong cụm
từ này như đã phân tích.
Hai quan điểm về đánh giá lỗi trong ví dụ vừa dẫn sẽ buộc ta phải có hai
hướng sửa lỗi khác nhau. (Xin nói kĩ hơn về vấn đề này ở chương 3, mục 3.2).
Để nhất quán và để đơn giản trong việc phân loại, miêu tả lỗi, chúng tôi
nêu quan điểm về việc phân loại lỗi dựa vào đặc trưng của lỗi như sau:
- Về phạm vi lỗi: chúng tôi chỉ chọn 5 kiểu câu mắc lỗi sinh viên Lào
thường mắc để thống kê nên cũng chỉ phân loại trong giới hạn này. (xem mục
Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu);
- Những trường hợp câu mắc lỗi có thể hiểu theo nhiều cách sẽ được
chúng tôi chọn một cách để tiện cho việc tính số lượng và xếp loại kiểu lỗi.
Chọn cách nào sẽ tùy từng trường hợp cụ thể nhưng lỗi nào dễ phát hiện và dễ
sửa nhất sẽ được chúng tôi quan tâm hơn;
- Vì dung lượng của luận văn chỉ được nằm trong khuôn khổ cho nên
chúng tôi chỉ chọn một vài kiểu câu mắc lỗi để miêu tả kĩ, những kiểu câu mắc
lỗi còn lại đưa ra chỉ có tính chất liệt kê để người đọc thấy được sự đa dạng của
các câu mắc lỗi. Những kiểu câu này tác giả luận văn hoặc ai đó có thể tiếp tục
nghiên cứu trong những công trình khác nếu có điều kiện.
Với quan điểm vừa nói, căn cứ vào đặc trưng của lỗi, chúng tôi xếp 1765
câu mắc lỗi đã được thống kê vào sáu nhóm, đó là:
- Câu mắc lỗi (sai) chính tả;
46
- Câu mắc lỗi (sai) từ ngữ;
- Câu mắc lỗi (sai) cấu trúc (ngữ pháp);
- Câu mắc lỗi (sai) ngữ nghĩa;
- Câu mắc lỗi (sai) liên kết;
- Câu mắc lỗi tổng hợp (tức câu mắc nhiều kiểu lỗi).
Có thể hình dung số liệu thống kê về các kiểu câu mắc lỗi phân loại theo
đặc trưng của lỗi bằng bảng tổng hợp 2.3 dưới đây:
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi đƣợc phân loại theo đặc
trƣng của lỗi
ĐT / SL, % Du học sinh học TV 1 kì Du học sinh học TV 1 năm
Loại lỗi Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
28,10 207 11,72 Lỗi chính tả 496
Lỗi từ ngữ 154 8,72 58 3,28
Lỗi ngữ pháp 137 7,76 78 4,41
Lỗi ngữ nghĩa 81 4,58 23 1,30
Lỗi liên kết 51 2,88 23 1,30
Lỗi tổng hợp 301 17,05 106 6,00
Tổng kết 69,09 28,01 1220 495
Bảng tổng hợp các loại câu mắc lỗi trên cho thấy, trong số 1765 câu TV
mắc lỗi đã thống kê, loại câu mắc lỗi chính tả chiếm số lượng cao nhất (703
câu), tiếp theo là các loại câu mắc lỗi được liệt kê theo số lượng từ cao đến thấp:
câu mắc lỗi tổng hợp (407câu), câu mắc lỗi ngữ pháp (215 câu), câu mắc lỗi từ
(212 câu), câu mắc lỗi ngữ nghĩa (104 câu) và cuối cùng là câu mắc lỗi liên kết
(74 câu).
Phần lớn số lượng câu mắc lỗi của từng loại có xu hướng giảm theo trình
độ của sinh viên: Trình độ sinh viên càng tăng thì số lượng câu mắc lỗi mà các
em viết càng giảm.
Về chi tiết các kiểu câu mắc lỗi được phân loại theo đặc trưng của lỗi xin
47
trình bày từ mục a đến mục h dưới đây:
a) Câu mắc lỗi chính tả
Câu mắc lỗi chính tả là những câu viết không đúng các kí tự âm vị hoặc vi
phạm các qui tắc chính tả, như qui tắc viết hoa, qui tắc đặt dấu thanh điệu, v.v...
của tiếng Việt.
a.1. Về tần số xuất hiện:
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, loại câu mắc lỗi chính tả có 703
trường hợp, chiếm xấp xỉ 39,83% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (703 / 1765).
Số lượng và tỉ lệ câu mắc lỗi chính tả trên một bài kiểm tra của các em sinh
viên ở hai đối tượng không giống nhau, cụ thể số câu loại này giảm đi theo số
thời gian học của các em.
- Đối tượng du học sinh học TV 1 kì: các em du học sinh Lào thuộc đối
tượng thứ nhất (học 1 kì) viết câu mắc lỗi chính tả là 496 trường hợp.
- Đối tượng du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: các em du học sinh
Lào thuộc đối tượng khảo sát thứ hai viết câu TV mắc lỗi chính tả là 207
trường hợp.
a.2. Các tiểu loại:
Căn cứ vào đặc trưng của lỗi có thể chia câu mắc lỗi chính tả thành hai
kiểu khác nhau, đó là: 1) Câu mắc lỗi chính tả do viết không đúng kí tự ghi âm
vị cấu thành âm tiết, và 2) Câu viết sai qui tắc chính tả, v.v… Dưới đây là hai
kiểu câu mắc lỗi chính tả.
- Câu mắc lỗi chính tả do viết không đúng kí tự âm vị: Câu viết không
đúng kí tự âm vị trong thành phần âm tiết thường rơi vào ba dạng: 1) Lỗi viết
sai Âm đầu, 2) Lỗi viết sai phần Vần, và 3) Lỗi viết sai thanh điệu.
+ Lỗi viết sai Âm đầu (của âm tiết), ví dụ:
Ví dụ (12): Khi bữa tiệc kết thúc, hai vợ chồng chẻ trở về nhà trai hoặc
nhà riêng.
(Am phay Phon).
48
Lỗi chính tả trong ví dụ 12 là lỗi viết sai âm đầu trong âm tiết chẻ.
Lỗi viết sai Âm đầu có thể do viết thiếu nét kí tự khiến cho các kí tự đó
bị chuyển từ kí tự ghi âm vị nọ sang kí tự ghi âm vị kia như ở hai ví dụ vừa dẫn,
nhưng cũng có thể là do người viết lầm lẫn giữa hai kí tự ghi âm hai âm vị khác
nhau như ở ví dụ (13) dưới đây:
Ví dụ (13): a. Đổng diện tích của Hồ Thuỷ là 352 ha.
(Bounsou SITTHISOME).
b. Đám cươi cưa lào
(Bun Phon).
Ở ví dụ (13a), người viết đã viết sai kí tự Âm đầu của âm tiết thứ nhất
„Đổng‟. Ở đây phải viết là „Tổng‟ chứ không phải là „Đổng‟. Kí tự „Đ‟ dùng để
ghi âm âm vi /d /, còn kí tự „T‟ để ghi âm vị / t /.
Ở ví dụ (13b), nhan đề bài viết này mắc 3 lỗi, âm tiết cươi viết sai thanh
điệu, âm tiết cưa viết sai kí tự âm vị /uo/ thành /wɣ/, âm tiết lào mắc lỗi chính
tả (không viết hoa tên riêng). Ngoài hai lỗi là lỗi về thanh điệu và phần vần, câu
này còn mắc lỗi viết sai chính tả phụ âm đầu (lỗi phụ âm đầu), sẽ miêu tả ở loại
thứ hai.
+ Lỗi viết sai phần Vần: Lỗi phần vần khá đa dạng. Đó có thể là do viết
sai toàn bộ phần Vần và cũng có thể chỉ là viết sai Âm chính hoặc Âm cuối, các
ví dụ (14), (15), (16) dưới đây là những minh chứng cho điều vừa nói:
Ví dụ (14): Tháp Rùa và cầu Thăng Húc là những công trình kiến trúc
nổi tiếng.
(Bounsou SITTHISOM).
Ví dụ (15): - Cô dâu mạc bộ váy lụa, đeo đồ trang sức bàn vàng…
- Hạ Long rớt đẹp.
(Malay thong CHOUMPHAYLOUANG).
Ví dụ (16): - Tuần sao anh ấy về nhà thăm bố mẹ.
(Sinnakhon).
- Lễ bược chỉ cổ tay kết thúc thì vừa với giờ mời khéc dự bữa tiệc.
49
(Boun sou SITTHISOME).
Ở các ví dụ (14), (15) và (16), các lỗi chính tả đều thuộc lỗi phần Vần
song chỉ do người viết đã viết không đúng kí tự Âm chính hay Âm cuối.
Âm tiết cưa trong câu ở ví dụ (13b) cũng thuộc loại lỗi này.
+ Lỗi viết sai thanh điệu: Lỗi thanh điệu thường rơi vào hai dạng: Lỗi viết
sai kí tự dấu thanh và lỗi đặt dấu thanh không đúng vị trí trong âm tiết. Các ví
dụ (17) đến (19) dưới đây là một số kiểu lỗi sử dụng thanh điệu.
Ví dụ (17): Trong mấy năm qua, bởi cơ sở hà tầng giao thông không tốt
nên ngành du lịch không phát triển.
(Boun Sou SITTHISOME).
Một ví dụ khác, ví dụ (18): Quê tôi không phải là một danh lam thắng
cảnh nổi tiếng nếu đánh gia một cách nghiệm chỉnh.
(Souk Sa Vănk).
Những âm tiết in đậm trong ví dụ (17) và (18) đều mắc lỗi sử dụng thanh
điệu do viết sai kí tự của thanh điệu (lẫn thanh này với thanh khác).
Về kiểu lỗi sử dụng thanh điệu do không đặt đúng vị trí trong âm tiết, xin
xem ví dụ (19).
Ví dụ (19): Về nghi thức đám cứơi, ngừơi Lào có tục lệ chỉ cứ ơi gả nhau
vào các tháng chẵn.
(Souk Sa vănhk).
Thanh điệu trong âm tiết cứơi và âm tiết ngừơi ở ví dụ (19) mắc lỗi đặt sai
vị trí. Theo qui định của chính tả tiếng Việt, trong âm tiết có nguyên âm đôi và
có âm cuối thì thanh điệu phải đặt trên hoặc dưới yếu tố thứ hai của nguyên âm
đôi. Như vậy, thanh sắc và thanh huyền trong các âm tiết mắc lỗi ở ví dụ (19)
phải đặt trên con chữ „ơ‟.
- Câu mắc lỗi chính tả do viết các kí tự không đúng các qui
định chính tả khác:
Tiếng Việt là loại chữ ghi âm. Khi viết các kí tự ghi âm phải chú ý tuân
thủ qui định của chính tả. Nếu câu có chứa những yếu tố viết không đúng qui
50
định của chính tả sẽ bị coi là một trong những loại câu mắc lỗi chính tả.
Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, một số em du học sinh Lào thuộc đối
tượng điều tra đã viết câu mắc lỗi chính tả loại này khá nhiều và khá đa dạng về
kiểu loại, xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
+ Câu có từ viết sai qui tắc viết hoa, ví dụ:
Ví dụ (20): Đám cưới của người lào thường…
(Chăn Hà DAOLASUOK).
+ Câu có âm tiết chứa các con chữ ghi âm âm vị viết không đúng qui định,
ví dụ:
Ví dụ (21): Chủ nhật nghân hàng (ngân hàng) không làm việc.
(Vilayphon).
Âm tiết „nghân‟ (ngân) đã viết kí tự âm đầu không đúng với qui định ghi
âm âm vị /ŋ/. Âm vị Âm đầu trong âm tiết này phải được viết là „ng‟ theo qui
định chính tả và qui tắc ghi âm âm vị (ngân).
+ Câu có thanh điệu đặt không đúng vị trí qui định trong âm tiết (kiểu này
xin nói thêm vì đã nói ở trên).
Tiếng Việt qui định các dấu thanh điệu phải được đặt trên hoặc dưới Âm
chính. Nếu Âm chính là nguyên âm đôi và âm tiết có Âm cuối thì thanh điệu sẽ
đặt trên hoặc dưới yếu tố thứ hai của Âm chính. Nếu âm tiết không có Âm cuối
thì thanh điệu sẽ được đặt trên / dưới yếu tố đầu của nguyên âm đôi. Khi đặt
thanh điệu nếu không tuân thủ qui tắc này đều bị coi là mắc lỗi, ví dụ:
Ví dụ (22): a. Hồ Thủy bao gồm 9 phần.
(Khămpeng).
b. Muà đông ở Vịêt Nam rất lạnh.
(Boun Sou).
c. Gia đình tôi có năm ngừơi: bố tôi, mẹ tôi, hai em gai và tôi.
(Kê Son).
Các âm tiết in đậm trong ví dụ (22) đều mắc lỗi do đặt thanh điệu không
51
đúng vị trí: thanh điệu trong âm tiết thủy phải đặt trên con chữ „y‟ và thanh
điệu trong âm tiết muà phải đặt trên con chữ „a‟. Tương tự, thanh nặng trong
âm tiết Vịêt phải đặt dưới con chữ „ê‟, thanh huyền trong âm tiết ngừơi phải đặt
trên con chữ „‟ơ‟.
Bảng 2.3.a Dưới đây tổng kết câu mắc lỗi chính tả theo từng loại và từng
đối tượng khảo sát:
Bảng 2.3.a: Bảng tổng kết câu mắc lỗi chính tả
Đối tƣợng/loại lỗi Du học sinh Lào học Du học sinh Lào học TV
TV 1 kì 1 năm
Lỗi viết sai Lỗi viết sai Lỗi viết sai Lỗi viết sai
kí tự âm vị qđ chính tả kí tự âm vị qđ chính tả Số lƣợng / TL%
Số lượng 192 304 84 123
Tỉ lệ % 27,35 43,24 11,94 17,49
b) Câu mắc lỗi từ ngữ:
“Câu mắc lỗi từ ngữ (câu sai từ ngữ) là câu dùng từ không đúng”. [14,
tr.18].
Những câu có từ dùng không đúng nghĩa, không đúng qui tắc kết hợp với
các từ khác trong câu, hoặc dùng thừa / thiếu trong câu… đều được luận văn
xếp vào loại lỗi này.
b.1. Về tần số xuất hiện
Theo điều tra của chúng tôi, trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã khảo sát,
có 212 trường hợp được luận văn xếp vào kiểu câu sai từ ngữ, chiếm xấp xỉ
12,01% (212 / 1765).
Cũng như loại câu mắc lỗi chính tả, kiểu câu này xuất hiện trên các văn
bản chọn làm tư liệu thống kê không giống nhau. Tần số xuất hiện và tỉ lệ phần
52
trăm của kiểu câu này, xin xem bảng tổng kết 2.3.b.
Bảng 2.3.b: Bảng tổng kết các câu mắc lỗi từ ngữ
ĐT, SL/%
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm
Loại lỗi Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Tỉ lệ %
Từ dùng sai nghĩa 25 11,79 4 1,88
Từ vay mượn dùng 5 2,35 0 0
sai qui định
Câu dùng thừa từ 53 25,00 17 8,1
câu dùng thiếu từ 42 19,81 28 4,20
Từ dùng sai PCVB 29 13,67 9 13,20
Tổng kết 155 72,62 27,35 27,38
b.2. Các tiểu loại
Theo tư liệu của chúng tôi, câu mắc lỗi dùng từ mà sinh viên Lào học
tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên thường mắc gồm các kiểu sau đây:
- Câu có chứa từ dùng sai nghĩa hay một tổ hợp âm tiết không có trong
tiếng Việt
Ví dụ (23):
a- Vạn Lí Trường Thành có tổng chiều dài là 2400 km2 (km).
(Phonny).
b- Chị ấy đã đi nhà hàng hóa làm việc.
(Malaythong).
c- Bên học trường có nhiều khách sạn.
(Ămphayphon).
Trong ví dụ (23a), „km2‟ dùng không đúng nghĩa vì đây là từ chỉ đơn
vị diện tích nhưng người viết lại đem sử dụng để nói về chiều dài của sự vật:
53
Vạn Lí Trường Thành. Trường hợp này phải dùng từ km.
Trong ví dụ (23b) và (23c), các tổ hợp âm tiết nhà hàng hóa và học
trường không tìm thấy trong vốn từ vựng tiếng Việt vì thế đúng ra không được
xếp chúng vào loại lỗi dùng từ. Song, trong quá trình điều tra, được biết người
viết các tổ hợp này vẫn coi chúng là „từ‟, có nghĩa tương đương với từ có trong
tiếng Việt (nhà hàng hóa = nhà hàng, học trường = trường học). Trong lúc chờ
tìm được giải pháp hợp lí hơn, chúng tôi vẫn tạm xếp chúng vào nhóm câu mắc
lỗi này.
Tương tự, từ „cho nên‟ và từ „chưa‟ trong ví dụ (24) sau đây cũng là
những từ dùng không đúng nghĩa do hoàn cảnh sử dụng đem lại:
Ví dụ (24):
a- Chúng ta cho nên (nên) yêu lao động.
(Kù Khăm).
b- Trong lớp học, xin các bạn chưa (không) chơi điện thoại.
(Phut Tha Son).
- Câu có từ vay mượn dùng không đúng với chủ trương sử dụng từ vay
mượn của Đảng và nhà nước VN hoặc dùng từ vay mượn nhưng phiên dịch
sang tiếng Việt không đúng
Câu dùng từ vay mượn không đúng với chủ trương dùng từ vay mượn
nói trong chính sách sử dụng ngôn ngữ của Đảng và nhà nước.
Đảng và nhà nước VN đã đưa ra một số chủ trương, chính sách sử
dụng từ vay mượn, đó là: chỉ dùng từ vay mượn khi tiếng ta không có từ ngữ
tương đương hoặc không đảm bảo sắc thái biểu cảm…
Ví dụ (25): Vạn Lí Trường Thành trông xa giống như một con rồng
khổng lồ nằm trên sơn (núi).
(Muôn xay).
Từ sơn trong ví dụ (25) và từ hải trong ví dụ (26) dưới đây đều là những
từ dùng không đúng với chủ trương dùng từ vay mượn nói trên.
Ví dụ (26): Phía đông của Việt Nam giáp với hải (biển).
54
(Chăn Hà).
+ Câu mắc lỗi do dùng từ vay mượn của tiếng Hán nhưng phiên dịch sang
tiếng Việt không đúng.
Một số sinh viên Lào khi viết câu tiếng Việt đã vay mượn một số từ của
tiếng Hán nhưng không dùng nguyên gốc mà có dịch sang tiếng Việt. Điều cần
nói ở đây là do các từ này được phiên dịch không đúng nên khi đi vào sử dụng
chúng đã làm cho câu bị mắc lỗi theo. Chẳng hạn như cách dùng các từ: „viên
công‟, „đông nói‟, „đông nghe‟, „đông đọc‟ trong ví dụ (27) và (28) dưới đây
khiến câu mắc lỗi là do nguyên nhân này.
Ví dụ (27): Công ti này có đông viên công (công nhân viên).
(Kù Khăm).
Ví dụ (28): Các bạn muốn học tiếng Việt giỏi phải đông nói, đông nghe,
đông đọc (nói nhiều, nghe nhiều, đọc nhiều).
(Kù Khăm).
- Câu sai do dùng thiếu / thừa từ
Câu dùng thừa hay thiếu từ đều là câu mắc lỗi. Xin xem các câu trong các
ví dụ từ 29 đến 31 dưới đây:
Ví dụ (29): Hôm nay em mua được một ø dưa hấu rất to (một quả / trái
dưa hấu rất to). (Dùng thiếu loại từ „quả‟ hay „trái‟).
(Phut Tha Son).
Khác với câu mắc lỗi trong ví dụ (29) dùng thiếu từ, câu trong ví dụ (30)
và (31) lại là câu mắc lỗi do sử dụng thừa từ.
Ví dụ (30): a. Năm nay ông em có 80 tuổi rồi. (Dùng thừa từ có)
(Muon xay).
b. Năm nay bố em có 42 tuổi…. mẹ em có 39 tuổi.
(Kê son)
Ví dụ (31): Cô bán hàng ơi! Bán cho em một cân quả táo.
(Dùng thừa từ quả).
55
(Kham Pa Song)
Các chữ in đậm trong ví dụ (30) và (31) là từ dùng thừa khiến câu mắc lỗi
kiểu như câu trong ví dụ (29).
Câu trong ví dụ 32 dưới đây mắc lỗi tương tự như câu ở ví dụ (29) do
thiếu từ cần thiết:
Ví dụ (32): Đây là anh Sone, anh là người rất ø chơi thể thao.
(Bounsou SITTHISOMME)
Câu này phải thêm từ thích vào trước động từ chơi: Đây là anh Sone, anh
ấy là người rất thích chơi thể thao.
- Câu mắc lỗi dùng từ ngữ không phù hợp đối tượng giao tiếp
Trong giao tiếp, người tham gia giao tiếp luôn phải chú ý lựa chọn từ ngữ
cho phù hợp với đối tượng giao tiếp.
Do nhiều nguyên nhân, người viết đã không tuân thủ nguyên tắc này nên
khiến câu mà họ viết ra bị mắc lỗi, ví dụ:
Ví dụ (33): Cô em là một cô gái rất kháu khỉnh.
Từ kháu khỉnh trong ví dụ vừa dẫn dùng không phù hợp với đối tượng
(cô em) ở độ tuổi trưởng thành đã được gọi là cô gái. Trong tiếng Việt, từ
„kháu khỉnh‟ thường chỉ dùng để nói về trẻ em còn bé, thường ở tuổi nhà trẻ
hay tuổi mẫu giáo.
- Câu mắc lỗi dùng từ ngữ không đúng phong cách
Từ ngữ được sử dụng trong văn bản không chỉ yêu cầu đảm bảo nghĩa,
đúng đối tượng giao tiếp,…mà còn phải phù hợp với phong cách văn bản. Từ
ngữ dùng không đúng phong cách văn bản sẽ bị coi là mắc lỗi, như cụm từ in
đậm trong ví dụ (34) dưới đây:
Ví dụ (34): Cánh đồng Chum ở nước lào là một di tích lịch sử. Đây là
khu du lịch rất chi là đẹp.
(Kham feng).
Ngoài lỗi chính tả (không viết hoa tên riêng: lào), câu này còn mắc lỗi
dùng từ ngữ không đúng phong cách văn bản. “rất chi là” là trong ví dụ (34) là
56
cụm từ thường dùng trong khẩu ngữ. Do đó, ngoài việc phải viết hoa từ Lào,
cụm từ rất chi là cần thay bằng từ „rất‟: Cánh đồng Chum ở Lào là một di tích
lịch sử. Đây là một khu du lịch rất đẹp.
c. Câu mắc lỗi cấu trúc (sai ngữ pháp)
Câu sai cấu trúc hay còn gọi là câu sai ngữ pháp là câu viết không đúng
qui tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ (ở đây là tiếng Việt).
c.1. Tần số xuất hiện (số lượt sử dụng)
Theo tư liệu của chúng tôi, loại câu sai cấu trúc có 215 trường hợp, chiếm
xấp xỉ 12,18% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê được (215 / 1765).
Số lượt sử dụng của kiểu câu mắc lỗi cấu trúc không giống nhau giữa các
đối tượng sinh viên được chọn khảo sát, cụ thể:
- Đối với du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Du học sinh Lào học tiếng
Việt 1 kì theo điều tra của chúng tôi đã viết 137 câu tiếng Việt mắc lỗi ngữ
pháp trên tổng số 1765 câu mắc lỗi, chiếm tỉ lệ xấp xỉ 7,76% (137 / 1765) và
chiếm xấp xỉ 63,72% số câu mắc lỗi ngữ pháp của cả hai đối tượng khảo sát đã
mắc lỗi (137 / 215).
- Đối với du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Du học sinh Lào thuộc
đối tượng này đã viết 78 câu tiếng Việt mắc lỗi loại này, chiếm xấp xỉ 4,41%
trên tổng số câu mắc lỗi (78 / 1765) và chiếm xấp xỉ 36,27% số câu mắc lỗi
ngữ pháp (78 / 215).
Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra
của hai du học sinh thuộc hai đối tượng khảo sát có thể hình dung bằng bảng
tổng kết 2.3.c dưới đây:
Bảng 2.3.c: Bảng tổng kết số lƣợng câu sai cấu trúc đã thống kê
Đối tƣợng KS
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%
Số lượng 137 78
Tỉ Theo số câu mắc lỗi 7,76 4,41
lệ % (1765)
36,27 Theo số câu mắc lỗi 63,72
57
NP (215)
c.2. Các tiểu loại
Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, có thể xếp câu mắc lỗi loại này vào
năm kiểu: 1) Câu thiếu thành phần nòng cốt, 2) Câu ghép thiếu vế, 3) Câu có
cấu trúc lộn xộn, 4) Câu có các từ ngữ kết hợp với nhau không đúng qui tắc của
tiếng Việt, và 5) Câu có các từ đặt không đúng vị trí dẫn đến lỗi ngữ pháp của
câu hay bộ phận câu…
- Câu thiếu thành phần nòng cốt: Dẫn theo tác giả Nguyễn Minh Thuyết,
thành phần nòng cốt của câu là thành phần chủ ngữ, vị ngữ hay bổ ngữ bắt
buộc. Câu thiếu thành phần nòng cốt là câu thiếu ít nhất một trong số các thành
phần nòng cốt vừa nói trên. Xin dẫn ra dưới đây một số câu mắc lỗi cấu trúc do
thiếu thành phần nòng cốt:
Ví dụ (35):
a. Đối với mỗi người trên thế giới có lẽ đều biết đến cái tên Hồ Chí Minh.
(Bun Săm).
b. Mong cô gái quay lại bên mình.
(Chan Ha).
Ví dụ (36): Các đảo trong Hồ Ngọc.
(Sinna Khone).
Ví dụ (37): Mùa thu ở Việt Nam là mùa thu hoạch.
(Phon ny).
Vídụ (38): Khi mùa thu đến.
(Kham feng).
Ở ví dụ (35), ngoài việc dùng từ chưa chuẩn xác (từ mỗi phải thay bằng từ
mọi), câu trong ví dụ vừa dẫn thuộc loại câu sai ngữ pháp vì thiếu thành phần
chủ ngữ. Muốn sửa lỗi câu thiếu chủ ngữ trong trường hợp này cần phải thêm
chủ ngữ hoặc biến đổi bộ phận trạng ngữ (Đối với mỗi người…) thành chủ ngữ
của câu bằng cách bỏ từ Đối với và thay từ mỗi bằng từ mọi: Mọi người trên thế
58
giới có lẽ đều biết… Hồ Chí Minh.
Câu (36) sai vì thiếu thành phần vị ngữ, còn câu (37) sai vì thiếu bổ ngữ
bắt buộc (động từ thu hoạch phải có bổ ngữ chỉ đối tượng). Câu (38) sai vì
thiếu cả chủ ngữ lẫn vị ngữ. Các câu (36), (37), (38) muốn trở thành câu đúng
phải thêm các thành phần bị thiếu, chẳng hạn có thể thêm như các câu trong các
ví dụ (36.a), (37.a), (38.a) dưới đây:
(36.a) Các đảo trong Hồ Ngọc đều có cây xanh.
(37.a) Mùa thu ở Việt Nam là mùa thu hoạch tôm cá.
(38.a) Khi mùa thu đến, các đảo đá ở vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo,
đẹp đẽ lạ thường.
Số câu mắc lỗi thiếu thành phần nòng cốt chúng tôi thống kê được khá
đa dạng. Xin dẫn thêm một số ví dụ về kiểu câu thiếu thành phần chủ ngữ:
Ví dụ (39):
a. Nói chuyện với hết bạn này đến bạn khác.
(Chan Ha).
b. Đi du lịch hết nước này đến nước khác.
(Chan ha).
c. Học hết toán đến văn.
(Chan Ha).
Các câu trong ví dụ (39) đều mắc lỗi thiếu thành phần chủ ngữ. Cần phải
thêm chủ ngữ cho các câu như sau:
a‟. Tôi nói chuyện với hết bạn này đến bạn khác.
b‟. Tôi đi du lịch hết nước này đến nước khác.
c‟. Tôi học hết toán đến văn.
- Câu ghép thiếu vế: Câu ghép thiếu vế là câu ghép mới chỉ có một vế,
ví dụ:
Ví dụ (40): Tuy cô dâu trong long rất vui.
(Phut Tha Son).
Một ví dụ khác, ví dụ (41): Nếu trời không lạnh.
59
(Lam Thong).
Các câu trong ví dụ (40) và (41) đều là câu sai thuộc loại câu ghép thiếu
vế. Muốn sửa chúng phải thêm vế chính chỉ kết quả để thành những câu hoàn
chỉnh trước hết là về cấu trúc, chẳng hạn như các câu trong ví dụ 39‟ và ví dụ
40‟ dưới đây:
Ví dụ 40‟: Tuy cô dâu trong long rất vui nhưng vẫn nói với bố mẹ: “Con
không đi lấy chồng. Con thích ở nhà với bố mẹ”.
Ví dụ 41‟: Nếu trời không lạnh, chúng tôi sẽ đi bơi.
- Câu có cấu trúc rối nát: Câu có cấu trúc rối nát là câu không thể hiện rõ
quan hệ giữa các bộ phận trong câu; chức năng của một số thành phần câu
không rõ ràng hoặc bị trùng lặp…, ví dụ:
Ví dụ (42): Tuy ở đây không rộng, như mà phong cảnh thật là đẹp, hơn
nữa mỗi năm nơi này đều hấp dẫn nhiều du khách đến đây du lịch, như vậy thì
được thúc đẩy kinh tế du lịch phát triển, rất có lợi cho ngành du lịch, làm cho
kinh tế nơi này tăng trưởng rất nhanh đã nâng cao trình độ sống của nơi đây
và được sinh sống càng ngày càng tốt.
(Dao La Suk).
Không kể việc dùng từ sai (chẳng hạn, các kết như mà, như vậy, thì hay từ
trình độ là những từ dùng không đúng), câu trong ví dụ (41) còn có cấu trúc lộn xộn.
Điều đó khiến người đọc rất khó hiểu nội dung của câu. Câu này cần ngắt thành các
câu ngắn và sửa lại một số từ cho đảm bảo tính mạch lạc, logic giữa các bộ phận
trong câu. (Phần chữa lỗi sẽ được rình bày ở chương 3).
Câu trong ví dụ (43) dưới đây cũng mắc lỗi do câu có cấu trúc rối nát:
Ví dụ (43): Đám cưới mà là phong tục cổ của Lào mà có rất quan trọng đề
người đôi yêu và cuộc sống của nữ và nam ở bên lào cô gái và con trái có thể tự
kén chọn chồng hay vợ.
(Kê Son).
Có thể nói, câu trong ví dụ (43) là câu mắc lỗi điển hình về kết cấu rối nát.
Ngoài ra, câu này còn có những lỗi khác như viết sai thanh điệu (để viết thành
60
đề, trai viết thành trái), thừa từ mà, không viết hoa tên riêng (lào).
- Câu sai do các từ ngữ trong câu không tuân thủ qui tắc kết hợp của
tiếng Việt, ví dụ:
Ví dụ (44): Ánh trăng vào nước, thì mặt nước lung linh, trông như được
tráng một lớp thuỷ ngân lóng lánh.
(Lam Thong).
Ngoài lỗi dùng thừa dấu phảy (dấu phảy thứ nhất), câu trong ví dụ trên
còn mắc lỗi do người viết đã cho cụm danh từ ánh trăng kết hợp trực tiếp với
giới từ vào. Trong trường hợp này cần phải có thêm động từ vào trước giới từ
chỉ phương hướng, chẳng hạn như: Ánh trăng chiếu vào nước…
Tương tự, ví dụ (45): Tôi mới mua một chiếc quần áo.
(Muon xay).
Câu trong ví dụ (45) cũng là câu mắc lỗi cấu trúc do đã để loại từ „chiếc‟
kết hợp được với từ „quần áo‟. Từ „chiếc‟ không kết hợp được với từ „quần áo‟
vốn là một danh từ mang ý nghĩa tổng hợp. Trường hợp này nên thay bằng từ
„bộ‟ (bộ quần áo).
- Câu sai cấu trúc do vị trí của các từ / cụm từ trong câu không đúng:
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có khá nhiều trường hợp, do từ / cụm từ
trong câu đặt không đúng vị trí khiến cho cấu trúc của câu hoặc bộ phận câu trở
nên không rõ ràng về ngữ nghĩa và cấu trúc, ví dụ:
Ví dụ (46): Nhà của chị ấy đối diện là nhà của tôi. (Từ đối diện dùng sai
vị trí. Từ này phải chuyển lên đầu câu để cùng với cụm danh từ nhà của chị ấy
tạo thành cụm từ lớn hơn và làm chủ ngữ của câu, kiểu như câu trong ví dụ 46‟
dưới đây:
Ví dụ 46‟: Đối diện nhà của chị ấy là nhà của tôi.
Cũng có thể bỏ từ là để từ đối diện làm vị ngữ chính như câu trong ví dụ 45‟‟:
Ví dụ 46‟‟: Nhà của chị ấy đối diện nhà của tôi.
Một ví dụ khác:
Ví dụ (47): Bụng một sợ không có tiền. Bụng một sợ không mộ được phu.
Bụng một sợ dân.
61
(Suk sa vanh).
Ví dụ (48): Dưới mờ ảo ánh trăng, các đảo đá có cảnh tranh tối tranh sáng.
(Lam Thong).
Ba câu trong ví dụ 47 đều mắc lỗi do trật tự của từ „một‟ không đúng.
Các câu trong ví dụ (49) và (50) dưới đây cũng là câu sai cấu trúc do dùng
từ / cụm từ không đúng vị trí.
Ví dụ (49): Kính mến thày Vĩ, dạo này thày có khoẻ không?
(Lam thong).
Ví dụ (50): Mỗi người có lao động nghĩa vụ.
(Am Phay Phon).
Ở ví dụ (49), có lẽ do ảnh hưởng của cấu trúc tiếng Lào, người viết đã đặt
sai vị trí của cụm từ thày Vĩ và từ Kính mến dẫn đến lỗi cấu trúc, trước hết là
của một bộ phận trong câu và sau nữa là của toàn câu. Cần đổi lại vị trí của
chúng là Thày Vĩ kính mến…
Ở ví dụ (50), cụm từ „lao động nghĩa vụ‟ không phản ánh đúng ý đồ của
người viết cũng vì đã mắc lỗi tương tự như vừa phân tích ở ví dụ (49). Ở đây
cần đảo lại vị trí của hai từ để tạo nên cụm từ mang nghĩa đúng theo cách hiểu
của người viết: (Mỗi người đều có) nghĩa vụ lao động.
Tương tự, các câu trong ví dụ (51) dưới đây cũng mắc lỗi do vị trí các từ
trong câu không được đặt đúng vị trí theo qui tắc của tiếng Việt:
Ví dụ (51):
a. Tôi đã được học Giáo sư ngoại ngữ vài người.
(Nit Nha Kon).
b. Các đồng chí tất cả phải đi học đúng giờ.
(Ma Lay Thong).
c. Nhà mới tất cả ba ngôi này đều rất đẹp.
(Ku Khăm).
Lỗi đặt sai vị trí một số từ trong cấu trúc danh ngữ làm thành phần câu
khiến cho các câu trong ví dụ trên bị mắc lỗi. Cần phải đặt lại vị trí của một số
62
từ, kiểu như các ví dụ tương ứng sau:
51.a‟ Tôi đã được học vài (người) Giáo sư ngoại ngữ.
51.b‟ Tất cả các đồng chí phải đi học đúng giờ.
51.c‟ Tất cả ba ngôi nhà mới này đều rất đẹp.
d) Câu sai ngữ nghĩa
Câu sai ngữ nghĩa là câu không đảm bảo nội dung ngữ nghĩa. Nói cụ thể
hơn, đó là những câu không có nghĩa (câu vô nghĩa), dư thừa nghĩa, nội dung
phản ánh không đúng hiện thực khách quan hay mơ hồ…
d.1. Tần số sử dụng (số lượng)
Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, kiểu câu sai ngữ nghĩa có 104 trường
hợp câu mắc lỗi về nghĩa trong số 1765 câu mắc lỗi mà chúng tôi đã thống kê,
chiếm xấp xỉ 5,89% (104 / 1765). Cũng như các loại câu mắc lỗi đã nói ở trên,
kiểu câu mắc lỗi này được phân bố trong bài kiểm tra của sinh viên ở hai đối
tượng khảo sát không giống nhau, cụ thể:
- Đối với du học sinh Lào học TV một kì: Trong số 50 bài kiểm tra của 25
sinh viên mới học tiếng Việt một kì, chúng tôi đã thống kê được 81 câu mắc lỗi
ngữ nghĩa, chiếm xấp xỉ 4,58% số câu mắc lỗi đã thống kê (81 / 1765) và
chiếm xấp xỉ 77,88% số câu mắc lỗi ngữ nghĩa (81 / 104).
- Đối với du học sinh Lào học TV một năm: Trong số 50 bài kiểm tra của
sinh viên học tiếng Việt một năm, chúng tôi thống kê được 23 câu mắc lỗi ngữ
nghĩa, chiếm xấp xỉ 1,30% số câu mắc lỗi (23 / 1765) và chiếm xấp xỉ 22,11%
số câu mắc lỗi cấu trúc (23 / 104). Xem bảng tổng kết 2.3.d.
Bảng 2,3,d:Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thuộc hai
đối tƣợng khảo sát
Đối tƣợng
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%
Số lượng 81 23
4,58 1,30
Tỉ lệ % Theo số câu mắc lỗi :1765
77,88 22,11
63
Theo số câu mắc lỗi ngữ nghĩa: 104
Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra
của ba khoá sinh viên, xin xem bảng tổng kết 2.3.e dưới đây:
Bảng 2.3.e: Bảng tổng kết câu mắc lỗi ngữ nghĩa tính theo
số bài kiểm tra (50 bài)
Đối tƣợng Du HS Lào học TV Du HS Làohọc TV
1 năm Số lƣợng, TL% 1 kì
Số lượng 81/ 50 bài KT 23 / 50 bài KT
Số lỗi / Số bài KT 1,62 0,46
Nhìn vào bảng tổng kết, có thể thể thấy trung bình 1 bài kiểm tra của sinh
viên Lào học tiếng Việt 1 kì có 1,62 câu mắc lỗi ngữ nghĩa; còn trung bình 1
bài kiểm tra của sinh viên Lào mắc 0,46 câu mắc lỗi ngữ nghĩa.
So với các kiểu câu mắc lỗi đã trình bày ở trên (câu mắc lỗi chính tả, câu
mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc), kiểu câu mắc lỗi này chiếm tỉ lệ thấp hơn rất
nhiều (chỉ có xấp xỉ 5,89% tổng số câu mắc lỗi đã thống kê (104/1765), trong khi
đó, kiểu câu mắc lỗi chính tả có tới xấp xỉ 39,83%, kiểu câu mắc lỗi từ ngữ chiếm
xấp xỉ 12,01 và câu mắc lỗi cấu trúc cũng chiếm tỉ lệ xấp xỉ 12,18%).
d.2. Các tiểu loại:
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, căn cứ vào đặc trưng, tính chất của
lỗi, có thể chia kiểu câu mắc lỗi ngữ nghĩa thành bốn loại: 1) Câu vô nghĩa
(câu không có nghĩa), 2) Câu dư thừa nghĩa, 3) Câu có nội dung không phản
ánh đúng hiện thực khách quan hoặc không phù hợp logic, và 4) Câu mơ hồ
về nội dung.
- Câu vô nghĩa: Câu vô nghĩa là “câu” không thể hiện được một nội dung
nào đó. Nói cách khác, đó chỉ là một chuỗi từ ngữ kết hợp với nhau một cách
cơ học mà không biểu đạt được một nội dung nào, ví dụ:
Ví dụ (52) Đến nhà sau khi tôi thì làm cơm rồi.
64
(Ma Lay Thong).
Tương tự, câu trong ví dụ (53) sau đây cũng là câu vô nghĩa:
Ví dụ (53): Sống chu đáo người ta đi làm việc.
(Boun Sou).
Người đọc có lẽ không hiểu nổi các câu trong hai ví dụ (52) và (53) vừa
dẫn trên nói về cái gì.
- Câu dư thừa nghĩa: Câu mắc lỗi dư thừa nghĩa là kiểu câu có chứa bộ
phận trùng ý nhau hoặc tương tự nhau về ý. Xin dẫn một vài ví dụ về câu mắc
lỗi dư thừa nghĩa:
Ví dụ (54): Viêng Chăn có lịch sử hơn 3000 năm, là một thành phố có lịch
sử lâu đời. (Boun pon).
Có “lịch sử hơn 3000 năm” tức là đã có “lịch sử lâu đời” rồi. Viết như vậy
là thừa. Cần bỏ một trong hai ý để thành câu diễn đạt như 54a hay 54b sau đây:
54a. Viêng Chăn có lịch sử hơn 3000 năm.
54b. Viêng chăn có lịch sử lâu đời.
- Câu phản ánh không đúng hiện thực khách quan
Đây là kiểu câu sai do có nội dung phản ánh không đúng với hiện thực mà
người nói/viết định nói đến trong câu, ví dụ:
Ví dụ (55):Sáng nay chúng em được đi tham quan bảo tàng dân
tộc của mèo.
(Kê son).
Do dùng thừa từ của, câu trong ví dụ (55) đã trở thành câu sai do phản
ánh không đúng hiện thực khách quan (người viết định nói đi tham quan bảo
tàng dân tộc Mèo chứ không phải bảo tàng dân tộc của mèo).
Có thể nói, đây là một câu mắc lỗi có thể xếp đồng thời vào hai kiểu: Câu
mắc lỗi từ ngữ (dùng thừa từ), vừa có thể xếp vào loại câu mắc lỗi cấu trúc (sai
ngữ nghĩa).
- Câu mơ hồ: Câu mơ hồ là câu có ít nhất hai cách hiểu khác nhau. Nói
65
theo Nguyễn Đức Dân, “Một câu mơ hồ là một câu trong khi có một biểu hiện
duy nhất ở cấp độ ngôn ngữ này thì lại có ít nhất hai cách biểu hiện ở cấp độ
ngôn ngữ khác” [12, tr. 120].
Một số em sinh viên Lào đã viết những câu có nội dung mơ hồ. Dưới đây
là một ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ (56): Giá rẻ thì tôi mua.
(Kù Khăm).
Câu trong ví dụ (56) có hai cách hiểu:
+ Thứ nhất, hiểu đây là câu ghép chỉ điều kiện – kết quả: Nếu như giá
(bán) mà rẻ, thì tôi (sẽ) mua. Trước từ Giá có thể thêm từ nếu. Từ giá (tức giá
cả) là danh từ.
+ Thứ hai, hiểu đây là câu ghép có quan hệ giả thiết - hệ quả: Trường hợp
này từ giá là kết từ Giá (mà) (anh bán chiếc xe ấy) rẻ thì tôi (đã) mua nó).
Kết quả điều tra cho thấy, trong tổng số 104 câu mắc lỗi về ngữ nghĩa, câu
mơ hồ có 19 trường hợp, chiếm sấp sỉ 18,26% (19 / 104). Xét trong tổng số câu
mắc lỗi đã thống kê, kiểu câu này chiếm xấp xỉ 1,07% (19 / 1765).
h. Câu mắc lỗi liên kết
Nằm trong văn bản, các câu có mối liên hệ hoặc quan hệ với nhau. Mạng
lưới những mối liên hệ và quan hệ đó gọi là sự liên kết (văn bản).
h.1. Về tần số xuất hiện
Theo điều tra của chúng tôi, trong tổng số 1765 câu mắc lỗi đã khảo sát,
có 124 trường hợp được luận văn xếp vào kiểu câu mắc lỗi liên kết, chiếm xấp
xỉ 7,02% (124 / 1765). Trong số 124 trường hợp câu mắc lỗi liên kết, sinh viên
học TV 1 kì viết 79 câu và sinh viên học TV 1 năm viết 45 câu. Số lượng và tỉ
lệ % của kiểu câu mắc lỗi này xin xem bảng tổng kết 2.3.h và 2.3.h‟ dưới đây :
Bảng 2.3.h
Đối tƣợng
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%
45/1765 Số lượng 79/1765
66
2,54 Tỉ lệ % 4,47
Cũng như những kiểu câu mắc lỗi khác, kiểu câu này xuất hiện trên các văn
bản chọn làm tư liệu thống kê không giống nhau. Tần số xuất hiện và bình quân số
kiểu câu mắc lỗi này trên một bài kiểm tra, xin xem bảng tổng kết 2.3.h‟.
Bảng 2.3.h‟: Bảng tổng kết tần số xuất hiện câu mắc lỗi liên kết trên một
bài kiểm tra (25)
Đối tƣợng Du học sinh Lào Du học sinh Lào
học T V 1 kì học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%
Số lượng 79/50 bài KT 45/50 bài KT
Số câu mắc lỗi/1 bài KT 1,58 0,90
Nhìn vào bảng tổng kết có thể thấy rằng trung bình một bài kiểm tra của
sinh viên Lào học tiếng Việt 1 kì có 1,58 câu mắc lỗi ngữ nghĩa; còn sinh viên
Lào học tiếng Việt 1 năm mỗi bài kiểm tra chỉ có 0,90 câu mắc lỗi. Trên thực tế
không có con số lẻ này. Bài kiểm tra có câu mắc lỗi ngữ nghĩa ít nhất cũng phải
từ 1 câu trở lên và như vậy, trong số bài kiểm tra được dùng để khảo sát sẽ có
câu không mắc lỗi loại này.
Theo tư liệu của chúng tôi, câu mắc lỗi liên kết mà sinh viên Lào học TV
ở Đại học Thái Nguyên thường mắc gồm ba kiểu: 1) Câu mắc lỗi liên kết chủ
đề, 2) Câu mắc lỗi liên kết logic, và 3) Câu mắc lỗi liên kết hình thức.
- Lỗi liên kết chủ đề là kiểu lỗi thể hiện ở “Các câu trong đoạn không
cùng phục vụ chủ đề của đoạn ấy”. [42, tr.209].
- Lỗi liên kết logic là kiểu lỗi thể hiện ở “Các câu trong đoạn hay trong
một văn bản thể hiện những lập luận thiếu căn cứ hay không nhất quán, hoặc
không được sắp xếp theo một trình tự hợp lý”. [43, tr. 209].
- Lỗi liên kết hình thức là kiểu lỗi thể hiện ở chỗ “Quan hệ về nội dung
giữa các câu trong một đoạn hay trong một văn bản không được thể hiện bằng
67
các phương tiện liên kết hay thể hiện sai lạc”. [43, tr. 209].
Cần phải nói ngay rằng, việc phân biệt rạch ròi giữa ba kiểu lỗi liên kết
này không phải là một việc đơn giản bởi chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và
thường thể hiện đồng thời. Vì lẽ đó, khó có thể lấy được một ví dụ về câu mắc
lỗi liên kết mà chỉ thể hiện ở một phương diện.
Câu mắc lỗi liên kết, theo cách hiểu của chúng tôi, là câu không có sự
quan hệ hoặc liên hệ với các câu khác trong văn bản về nội dung cũng như hình
thức biểu hiện.
Ví dụ (57) dưới đây là một trong 74 trường hợp câu mắc lỗi liên kết:
Ví dụ (57): Vịnh Hạ Long không những rất nổi tiếng ở Việt Nam mà còn ở
Lào, ở Trung Quốc, Thái Lan. Vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới.
Vịnh Hạ Long sơn rất đẹp và nước rất trong sạch. Người cũng rất xinh.
(Sina Khone).
Ngoài lỗi dùng từ (từ sơn), đoạn văn trên còn chứa câu mắc lỗi liên kết
(câu in đậm). Lỗi liên kết của câu này thể hiện ở mấy điểm sau đây:
- Về liên kết chủ đề: Câu thứ tư trình bày một ý không ăn nhập gì với ba
câu đứng trước, tức là nó không xoay quanh chủ đề nói về một danh lam thắng
cảnh – Vịnh Hạ Long.
- Về liên kết hình thức: Câu đang bàn không có yếu tố ngôn ngữ nào thể
hiện quan hệ với các câu còn lại.
i. Câu mắc lỗi tổng hợp
Câu mắc lỗi tổng hợp là câu mắc đồng thời hơn một kiểu lỗi. Nói cách
khác, đây là những câu mắc ít nhất hai trong số năm kiểu lỗi đã miêu tả ở trên,
ví dụ:
Ví dụ (58): Tôi muốn muo một chiếc quần áo ngủ.
(Boun sou THITTHISOME).
Câu trong ví dụ (58) được xếp vào nhóm câu mắc lỗi tổng hợp vì nó đã
68
mắc hai loại lỗi: 1) Lỗi chính tả: viết sai từ „mua‟ (muo), và 2) Lỗi cấu trúc:
cụm từ „chiếc quần áo ngủ‟ mắc lỗi về qui tắc kết hợp giữa loại từ và danh từ
trung tâm.
Tương tự, câu trong ví dụ (59) dưới đây cũng là câu mắc lỗi tổng hợp:
Vừa mắc lỗi chính tả , vừa mắc lỗi dùng từ.
Ví dụ (59): cánh đồng chum là một cánh đồng có rất nhiều chum được
quốc ta đào tạo để cho người ta đến du lịch.
(Kham Pa Song).
Trong ví dụ vừa dẫn, cụm từ cánh đồng chum đã viết sai chính tả (không
viết hoa tên riêng theo qui định), các từ: quốc ta (nước ta), đào tạo (cải tạo),
người ta (mọi người) cũng là những từ dùng không đúng. Như vậy, câu vừa
dẫn đã mắc hai kiểu lỗi: lỗi chính tả và lỗi dùng từ như đã nói ở trên.
i.1. Tần số sử dụng:
Theo tư liệu khảo sát của chúng tôi, kiểu câu mắc lỗi tổng hợp có 301
trường hợp, chiếm xấp xỉ 23,05% tổng số lỗi đã thống kê (407 / 1765).
Cũng như các loại câu mắc lỗi đã nói ở trên, kiểu câu mắc lỗi này được
phân bố trong bài làm của sinh viên thuộc hai đối tượng không
giống nhau, cụ thể:
- Du học sinh Lào học tiếng Việt 1 kì: Trong số 407 câu mắc lỗi tổng hợp,
chúng tôi thống kê được từ bài kiểm tra của du học sinh Lào học TV 1 kì là 301
câu, chiếm xấp xỉ 17,05% số câu mắc lỗi (301 / 1765) và chiếm xấp xỉ 73,95%
số câu mắc lỗi tổng hợp (301 / 407).
- Du học sinh Lào học tiếng Việt 1 năm: Trong số 407 câu mắc lỗi tổng
hợp, chúng tôi thống kê được từ bài kiểm tra của du học sinh Lào học TV 1
năm là 106 câu, chiếm xấp xỉ 6,00% số câu mắc lỗi (106 / 1765) và chiếm xấp
xỉ 26,04% số câu mắc lỗi tổng hợp (106 / 407).
Sự phân bố của kiểu câu mắc lỗi này tính bình quân theo số bài kiểm tra
69
của hai đối tượng sinh viên, xin xem bảng tổng kết 2.3.i dưới đây:
Bảng 2.3.i: Bảng tổng kết kiểu câu mắc lỗi tổng hợp
Đối tƣợng
Du học sinh Lào học TV 1 kì Du học sinh Lào học TV 1 năm Số lƣợng/ TL%
Số lượng 301/1765 106/1765
Tỉ lệ câu mắc lỗi/bài KT 17,05 6,00
i.2. Các tiểu loại
Tư liệu của chúng tôi cho thấy, câu mắc lỗi tổng hợp khá đa dạng về kiểu
loại. Căn cứ vào số lượt lỗi và kiểu loại lỗi xuất hiện trong câu, có thể chia câu
mắc lỗi tổng hợp thành những loại khác nhau.
Dưới đây là một số loại câu mắc lỗi tổng hợp tiêu biểu được xếp loại dựa
vào số lượng kiểu loại của lỗi:
- Câu vừa mắc lỗi chính tả, vừa mắc lỗi ngữ pháp, ví dụ:
Ví dụ (60): Này khánh sạn hôm nay hết phòng rồi.
(Phút Tha Son).
Tổ hợp từ „này khánh sạn‟ trong ví dụ trên trước hết đã dùng không đúng
cấu trúc do vị trí của các từ không phù hợp. Cần đổi lại vị trí của hai từ để có
một cụm từ mới phù hợp với qui tắc ngữ pháp của tiếng Việt: „khách sạn này‟.
Ngoài ra, trong tổ hợp này còn mắc lỗi chính tả là đã viết sai Âm cuối
(viết ch thành nh).
Tương tự, câu trong ví dụ (61) cũng vừa mắc lỗi chính tả, vừa mắc lỗi
ngữ pháp:
Ví dụ (61):
a. Từ ngày xa xưa đã đến nay, khi trai gái kết hôn làm theo pháp luật đúng
đắn của nhà nước lào.
[Tong Keo]
b. đám cưới là một phong tục và văn hóa của dân tộc lào mà tiếp diễn từ
trước đến nay.
70
(Si Bun Đon).
Câu (a) đã dùng thừa từ ngày và từ khi. Ngoài ra, từ đúng đắn dùng không
đúng nghĩa. Từ lào sai qui tắc viết hoa. Việc dùng thừa từ hay từ không đúng
nghĩa kéo theo lỗi câu sai ngữ pháp.
Câu này có thể sửa như sau:
61a‟: Từ xưa đến nay, trai gái kết hôn phải làm theo pháp luật của nhà
nước Lào.
Câu (61b) ngoài lỗi chính tả (không viết hoa âm tiết „đám‟ và âm tiết „lào‟
còn mắc lỗi ngữ nghĩa: câu không rõ nghĩa do dùng từ không đúng.
- Câu vừa mắc hai loại lỗi: lỗi chính tả, vừa mắc lỗi dùng từ ngữ: Đây
là loại câu mắc hai loại lỗi khác nhau: vừa mắc lỗi dùng từ, vừa mắc lỗi chính
tả, ví dụ:
Ví dụ (62): Nếu được đến bắc kinh thì chuyện đầu là tôi sẽ đến vạn lí
trường thành.
[Kù Khăm]
Trong ví dụ (62), câu bị xếp vào loại câu mắc lỗi chính tả là do có hai âm
từ không viết hoa đúng qui định: từ „bắc kinh‟ và từ „vạn lí trường thành‟.
Câu trong ví dụ này ngoài lỗi chính tả còn có lỗi dùng cụm từ dùng không
đúng do phiên dịch sai, đó là cụm từ „chuyện đầu‟ (việc đầu tiên).
- Câu mắc hai loại lỗi: lỗi dùng từ và lỗi ngữ pháp: Đây là loại câu mắc
hai loại lỗi khác nhau: vừa mắc lỗi dùng từ, vừa mắc lỗi ngữ pháp, ví dụ:
Ví dụ (63): Này cửa hàng (cửa hàng này) có rất nhiều hàng hóa, em thích
mua gì1 thì mua gì 2(nấy).
(Chăn Ha).
Cụm từ „này cửa hàng‟ dùng không đúng, nguyên nhân giống như trường
hợp sử dụng cụm „này khách sạn‟ ở ví dụ (60) và đã được giải thích.
Trong ví dụ (63) còn có một từ được dùng với chức năng thay thế nhưng
đã dùng không đúng, đó là từ gì2. Phải thay từ này bằng từ nấy: …,em thích
71
mua gì thì mua nấy.
- Câu mắc ba loại lỗi: lỗi chính tả, lỗi từ ngữ, lỗi ngữ pháp: Đây là câu
mắc đồng thời ba loại lỗi như vừa nói.
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, loại câu mắc lỗi này xuất hiện không
nhiều, mới gặp 12 trường hợp, xin được dẫn một ví dụ để làm minh chứng:
Ví dụ (64): Trên Núi yên tử có nhiều hoa dại, mà còn có nhiều loại cây
cối, trong đó, có những loại cây cối được quốc việt nam bảo vệ, ở núi yên tử
bốn mùa như xuân.
(Kù Khăm).
Câu vừa dẫn ở ví dụ (64) ngoài việc đã mắc lỗi chính tả là không viết hoa
chữ cái đầu của tên riêng (núi yên tử, việt nam) và viết hoa từ không phải là tên
riêng (núi), câu còn mắc lỗi dùng từ (sử dụng sai kết từ „mà còn‟ và cụm từ
„quốc việt nam‟), từ mùa xuân thiếu âm tiết mùa (bốn mùa như mùa xuân)và lỗi
cấu trúc (câu có cấu trúc rối nát).
Tóm lại, du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên viết câu
mắc lỗi khá nhiều và khá đa dạng về kiểu lỗi. Có thể hình dung các kiểu câu
mắc lỗi của du học sinh Lào thuộc hai đối tượng khảo sát bằng bảng tổng kết
2.3.j sau đây:
Bảng 2.3.j: Bảng tổng hợp các kiểu câu mắc lỗi
của du học sinh Lào ở ĐHTN
Đối tƣợng/ số lƣợng, TL%
Du học sinh học TV 1 kì Du học sinh học TV 1 năm
Loại câu mắc lỗi Số lƣợng Tỉ lệ % Số lƣợng Ti lệ%
Câu mắc lỗi chính tả 496 28,10 207 11,72
Câu mắc lỗi dùng từ 154 8,72 58 3,28
Câu mắc lỗi ngữ pháp 137 7,76 78 4,41
Câu mắc lỗi ngữ nghĩa 81 4,58 23 1,30
Câu mắc lỗi liên kết 79 4,47 45 2,54
Câu mắc lỗi tổng hợp 301 17,05 106 6,00
72
Tổng kết 1248 70,70 517 29.17
2.3. Tiểu kết
Căn cứ vào kết quả thống kê và phân tích về các kiểu câu tiếng Việt mắc
lỗi trên 100 bài kiểm tra của 50 du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái
Nguyên, bước đầu chúng tôi có những kết luận sau đây:
1) Các em du học sinh Lào học tiếng Việt ở Đại học Thái Nguyên còn
mắc lỗi viết câu TV khá nhiều, cụ thể: trong số 100 bài kiểm tra của các em,
chúng tôi đã thống kê được 1765 câu mắc lỗi với 3000 lượt lỗi.
2) Tình hình viết câu TV mắc lỗi của các em sinh viên ở hai đối tượng
khảo sát không giống nhau. Điều này thể hiện ở trung bình câu mắc lỗi tính
theo bài kiểm tra.
Kết quả khảo sát cho thấy, mỗi bài kiểm tra của sinh viên học tiếng Việt 1
kì trung bình có xấp xỉ 24.96 câu / 1 bài kiểm tra (1248/ 50 bài); còn mỗi bài
kiểm tra của sinh viên Lào học tiếng Việt 1 năm có 10,34 câu/ 1 bài Kiểm tra
(517/50 bài).
Số liệu thống kê này cho thấy tình hình viết câu mắc lỗi của các em tuân
theo qui luật chung của người học ngoại ngữ: tình trạng mắc lỗi sử dụng L2 tỉ
lệ nghịch với trình độ của sinh viên: trình độ L2 càng cao, tỉ lệ mắc lỗi sử dụng
L2 càng thấp.
3) Câu mắc lỗi tương đối đa dạng về tiểu loại. Căn cứ vào số lượng lỗi
xuất hiện trong một câu, luận văn của chúng tôi đã chia câu mắc lỗi thành bốn
kiểu: Câu có một lỗi, câu có hai lỗi, câu có ba lỗi và câu có bốn lỗi. Căn cứ vào
đặc trưng, tính chất của lỗi, luận văn đã xác định được sáu kiểu câu mắc lỗi mà
các em sinh viên Lào học tiếng Việt đã viết, đó là: Câu mắc lỗi chính tả, câu
mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi ngữ nghĩa, câu mắc lỗi liên
kết và câu mắc lỗi tổng hợp.
Nắm được các kiểu câu mắc lỗi với những loại lỗi cụ thể này, chúng ta có
thể tìm nguyên nhân và cách sửa lỗi cho phù hợp.
4) Những loại lỗi mà sinh viên Lào thường mắc khi viết câu tiếng Việt,
như đã nói ở phần dẫn chương, có thể là những lỗi chung của tất cả mọi người
khi viết câu tiếng Việt và cũng có thể chỉ có sinh viên Lào mới mắc. (Về vấn đề
73
này, xin sẽ trình bày ở chương 3, mục 3.1)
Chƣơng 3
NGUYÊN NHÂN DU HỌC SINH LÀO
VIẾT CÂU TIẾNG VIỆT MẮC LỖI, HƢỚNG SỬA LỖI
Chương này trình bày hai nội dung lớn:
1) Nguyên nhân sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi;
2) Hướng sửa câu mắc lỗi.
3.1. Nguyên nhân du học sinh Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi
Cần phải nói ngay rằng, việc phát hiện lỗi đã khó, việc tìm ra nguyên
nhân mắc lỗi lại còn khó hơn. Bởi cùng một hiện tượng mắc lỗi nhưng nguyên
nhân dẫn đến lỗi lại không giống nhau giữa những người học tiếng. Mặt khác,
khó có thể phân biệt rạch ròi giữa các nguyên nhân mắc lỗi, lại có những lỗi
không phải do một nguyên nhân mà là do nhiều nguyên nhân. Xin nói thêm,
những nguyên nhân mắc lỗi mà chúng tôi trình bày ở đây về mặt lí luận có thể
là không mới vì đã có nhiều người chỉ ra nhưng chúng vẫn được chúng tôi điểm
lại ở mục này để làm căn cứ cho việc đưa ra hướng sửa lỗi ở mục sau (mục 3.2).
Nhìn vào các loại lỗi đã miêu tả ở chương 2 ta dễ dàng nhận thấy, có một
số lỗi chỉ có người Lào nói chung, sinh viên Lào nói riêng mới mắc, nhưng
cũng có những lỗi là của chung của tất cả mọi người học và sử dụng tiếng Việt,
tức mọi người đều mắc. Điều này khiến cho ta nghĩ đến sẽ có những nguyên
nhân gây lỗi mang tính phổ biến và cũng sẽ có những nguyên nhân gây lỗi
mang tính đặc thù.
Căn cứ vào thực tế của các kiểu câu mắc lỗi mà sinh viên Lào học chuyên
ngành Tiếng Việt đã viết, chúng tôi cho rằng có ba nguyên nhân cơ bản khiến
sinh viên Lào đã viết những câu TV mắc lỗi, đó là:
(1) Do hiểu biết về L2 của người học còn hạn chế;
(2) Do sự khác biệt giữa L1 và L2 dẫn tới sự chuyển di tiêu cực từ L1
sang L2;
74
(3) Do ý thức sử dụng L2 của người học còn chưa tốt.
3.1.1. Nguyên nhân thứ nhất: Do hiểu biết L2 (ở đây là tiếng Việt) của người
học còn hạn chế
Có thể nói, nguyên nhân đầu tiên khiến người học nói chung mắc lỗi sử
dụng L2 là do người học chưa nắm chắc L2 một cách thấu đáo. Vì vậy, khi dạy
và học L2, cả người dạy lẫn người học đều hướng tới đích chung là làm thế nào
để người học hiểu được L2 một cách tốt nhất. Một khi người học đã nắm được
L2, kèm theo có ý thức tốt trong khi dùng L2 thì việc phạm lỗi sẽ giảm hoặc
thậm trí không còn và ngược lại, nếu người học chưa nắm được L2 tốt thì dù họ
có ý thức tốt trong việc sử dụng L2 đến đâu thì vẫn không thể tránh được lỗi.
Nguyên nhân đang bàn ở đây mang tính „nhân loại‟. Nó không chỉ là
nguyên nhân dành riêng cho người học ngoại ngữ mà còn cho cả người học
tiếng mẹ đẻ.
Với nguyên nhân mắc lỗi này, không có cách khắc phục nào hơn là cần phải
làm cho người học nắm được L2 càng chắc, càng nhanh càng tốt. Mặc dù, làm thế
nào để nắm được một ngôn ngữ? Nắm được một ngôn ngữ nghĩa là nắm được
những cái gì ở ngôn ngữ đó? Có bao giờ người học nắm hết được những tri thức
của một ngôn ngữ không? Đây là những câu hỏi không dễ trả lời.
Trong số những lỗi viết câu TV của các em sinh viên Lào học tiếng Việt ở
Đại học Thái Nguyên đã mắc và chúng tôi đã trình bày ở chương 2, có những
lỗi là do người học (sinh viên Lào) chưa nắm được những tri thức về TV.
Những tri thức đó có thể là tri thức ngữ âm, có thể là tri thức về từ hay tri thức
ngữ pháp…
Chúng tôi đã phỏng vấn ba em sinh viên Lào dùng từ „mờ ảo‟ trong tiếng
Việt không đúng để tìm nguyên nhân mắc lỗi sử dụng từ này thì cả ba em đều
nói là “không biết nghĩa của từ này là gì”. Như vậy, vì „không biết nghĩa‟, tức
không nắm được nghĩa của từ là nguyên nhân chính dẫn đến lỗi ở đây.
Những lỗi chính tả kiểu như „ngh‟ viết thành „ng‟ (nghỉ học viết thành ngỉ
75
học), „d‟ viết thành „gi‟ (dì cháu viết thành gì cháu) cũng một phần là do các
em chưa nắm được qui tắc ghi âm của hai âm vị /ŋ/ và /z/ trong tiếng Việt. (Ở
đây chúng tôi tạm loại trừ nguyên nhân ý thức).
Tóm lại, trình độ L2 của người học còn hạn chế là một trong những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến lỗi của người học.
3.1.2. Nguyên nhân thứ hai: Do sự tương đồng hay khác biệt giữa L1 và L2
Sự khác biệt giữa tiếng Lào và tiếng Việt dẫn tới lỗi chuyển di tiêu cực từ
L1 (ở đây là tiếng Lào) sang L2 (ở đây là tiếng Việt) hoặc chuyển di tiêu cực
trong nội tại tiếng Việt.
Đây là nguyên nhân cơ bản và không kém phần quan trọng gây nên những
lỗi viết câu TV không đúng của các em sinh viên Lào nói riêng, người nước
ngoài nói chung khi học TV.
Dễ dàng tìm thấy một số sự khác biệt giữa tiếng Lào và tiếng Việt về
phương diện ngữ âm, từ ngữ hay ngữ pháp, v.v… Chẳng hạn, sự khác biệt về
hệ thống âm vị phụ âm đầu giữa tiếng Lào và tiếng Việt đã gây ra một số lỗi về
chính tả, ví dụ lỗi viết âm „t‟ thành âm „đ‟.
Tương tự, sự khác biệt về cấu trúc của câu ghép điều kiện - kết quả:
Nếu…thì…giữa tiếng Lào và tiếng Việt cũng đã là nguyên nhân mắc lỗi của
sinh viên Lào khi dùng cấu trúc này trong tiếng Việt.Trong tiếng Lào, kết từ thì
thường đứng sau chủ ngữ ở vế chỉ kết quả, ví dụ: Tha rốc cá lí lín kí là phuốc
hao co chá chạ khéng héng. (Nếu thường xuyên tập thể dục chúng ta thì sẽ
khỏe mạnh); còn trong tiếng Việt, kết từ thì lại đứng trước chủ ngữ (Nếu
(chúng ta) thường xuyên tập thể dục thì chúng ta sẽ khỏe mạnh). Người Lào
chuyển di cấu trúc này sang tiếng Việt thường bị mắc lỗi do sự khác biệt về vị
trí của kết từ thì trong cấu trúc câu như vừa nói. Trong 100 bài kiểm tra của
sinh viên Lào, chúng tôi đã thống kê được 38 trường hợp các em đã viết câu
ghép chính phụ điều kiện - kết quả có kết từ thì đứng sau chủ ngữ của vế chỉ
kết quả, ví dụ:
Ví dụ (3): Nếu ngày mai trời mưa chúng tôi thì không đi ra phố.
76
(Kham Pheng).
Ví dụ (4): Nếu tôi học giỏi tiếng Việt tôi thì sẽ làm phiên dịch.
(Muôn say).
Ví dụ (5): Nếu tôi tìm được người yêu tôi thì sẽ cưới trong năm nay.
(Khăn Tha Ly).
So sánh cấu trúc danh ngữ tiếng Việt và cấu trúc danh ngữ tiếng Lào thì
thấy sự khác biệt rất rõ ở một số thành tố trong cấu trúc. Số từ chỉ số lượng và
danh từ chỉ đơn vị trong tiếng Lào thường đứng sau danh từ trung tâm, trong khi
đó, những thành tố này trong tiếng Việt lại đứng trước danh từ trung tâm, ví dụ:
Ví dụ (6) a. Tiếng Việt: Tôi muốn bán đi ba lít xăng.
Tiếng Lào: Hau yak khải pay nặm măn xựa phay xảm lit.
(Tôi muốn bán đi xăng ba lít).
Tương tự, cụm danh từ tiếng Việt ở ví dụ (6.b) cũng khác biệt về vị trí
một số thành tố so với cụm danh từ tương ứng trong tiếng Lào và chính sự khác
biệt này đã dẫn đến lỗi chuyển di khi người Lào viết cụm danh từ tiếng Việt.
b. Vài giáo sư ngoại ngữ …
Cụm danh từ đồng nghĩa trong tiếng Lào lại diễn đạt như sau:
A chan pha xả pạ thệt bang khôn…
(Giáo sư ngoại ngữ vài người…)
Tóm lại, sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ là một trong những nguyên nhân
dẫn đến lỗi chuyển di trong chiến lược học tiếng. Ở đây là sự chuyển di từ tiếng
Lào sang tiếng Việt.
3.1.3. Lỗi do ý thức sử dụng ngôn ngữ của người học chưa tốt
Có thể nói, nếu người học có ý thức sử dụng ngôn ngữ (bao gồm cả L1 và
L2) không tốt thì hiện tượng mắc lỗi sẽ không thể tránh khỏi.
Thực tế sử dụng ngôn ngữ cho thấy, có những lỗi người học mắc không
phải do không nắm được ngôn ngữ đó mà là do „cẩu thả‟, „không có ý thức‟.
Chẳng hạn, qui tắc chính tả trong tiếng Việt qui định phải viết hoa chữ cái đầu
77
của âm tiết đứng ngay sau dấu ngắt câu. Qui định này chắc không mấy người
không biết khi học tiếng Việt nhưng hiện tượng vi phạm qui tắc này lại gặp khá
nhiều trên văn bản viết của người sử dụng tiếng Việt, trong đó có cả người Việt
Nam. Nguyên nhân này là gì nếu không cho đó là do ý thức của người học chưa
tốt? (Biết mà không thực hiện khiến cho lỗi trở thành cố tật).
Như đã trình bày ở chương 2, du học sinh Lào mắc lỗi chính tả khá nhiều.
Có những lỗi tưởng chừng rất hiển nhiên, như cần viết hoa tên riêng, vậy mà
sinh viên vẫn mắc lỗi. Trong số 100 bài kiểm tra của sinh viên Lào, có những
bài mắc đến 8 lượt lỗi không viết hoa 1 từ là tên riêng.
Tóm lại, ba nguyên nhân dẫn đến lỗi của người học L2 nói chung và
sinh viên Lào học tiếng Việt nói riêng trình bày ở trên tuy chưa phải là tất
cả nhưng đó là những nguyên nhân cơ bản mà bất cứ người dạy tiếng nào
cũng nên biết.
3.2. Về vấn đề sửa câu mắc lỗi cho ngƣời học L2
Trong dạy và học ngoại ngữ, cái đích đặt ra cho cả người dạy ngoại ngữ là
làm thế nào để người học nắm và sử dụng tốt L2, vì thế, ngoài việc phải cung
cấp tri thức L2 cho người học, còn phải biết phát hiện và sửa lỗi sử dụng L2
cho họ.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi
trước và căn cứ vào thực tế mắc lỗi viết câu TV của sinh viên Lào học tiếng Việt,
căn cứ vào thực tế giảng dạy TV với tư cách là một ngoại ngữ cho sinh viên,
chúng tôi bước đầu đưa ra nguyên tắc và qui trình sửa các câu mắc lỗi sau đây:
3.2.1. Nguyên tắc sửa lỗi
Tác giả Nguyễn Linh Chi [6, tr.67] đã đưa ra ba nguyên tắc khi sửa lỗi cho
người học L2, đó là: “Chữa một cách hiệu quả”, “Chữa lỗi nên cẩn thận, thông
cảm” và “Chọn những cách chữa lỗi phù hợp với sở thích của người học”.
Tiếp thu có chọn lọc và bổ sung nguyên tắc chữa lỗi của tác giả Nguyễn
Linh Chi, luận văn này đặt ra một số nguyên tắc chữa lỗi sau đây:
- Thứ nhất: Đảm bảo tính hiệu quả. Tính hiệu quả ở đây trước hết thể
78
hiện ở sự thay đổi của đối tượng mắc lỗi. Chẳng hạn, từ một câu mắc lỗi A, sau
khi sửa sẽ trở thành một câu đúng chứ không phải là sau khi sửa thì lại chuyển
sang câu mắc lỗi B (tức là sửa được lỗi này lại bị mắc lỗi khác). Tính hiệu quả
ở đây còn thể hiện ở sự thay đổi nhận thức của người học. Tức là, sau khi sửa
một câu mắc lỗi nào đó, người viết sẽ không bị vi phạm kiểu lỗi này trong
những hoàn cảnh sử dụng ngôn ngữ tương tự;
- Thứ hai: Đảm bảo sự trung thành với nội dung của câu. Sự trung thành
ở đây được hiểu theo nghĩa là khi sửa một câu mắc lỗi nào đó, người sửa lỗi
phải cố gắng giữ được nội dung cần diễn đạt của người viết. Tránh tình trạng
sửa lỗi xong, câu được sửa lại hoàn toàn thay đổi về nội dung, không đúng với
ý đồ của người viết;
- Thứ ba: Đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu trong quá trình sửa lỗi. Một
hiện tượng mắc lỗi có thể có nhiều cách sửa. Chọn cách sửa nào nhanh, đơn
giản và dễ hiểu là công việc đặt ra cho người sửa lỗi;
- Thứ tư: Đảm bảo phù hợp với đối tượng viết câu mắc lỗi. Nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng người viết mắc lỗi không giống nhau cho nên chọn phương
pháp sửa lỗi nào cũng cần phải chú ý tới việc xem nó có phù hợp hay không
phù hợp với người viết câu mắc lỗi.
- Thứ năm: Đảm bảo hiệu quả diễn đạt. Sửa một câu mắc lỗi thành câu
không mắc lỗi, đó là cái đích. Nhưng chọn cách sửa nào để cuối cùng câu đã
sửa đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
3.2.2. Qui trình sửa lỗi
a) Bước 1: Phát hiện lỗi (nhận diện lỗi)
Có thể nói, có những lỗi thể hiện tường minh, người đọc nhìn vào câu là
đã nhận ra lỗi, nhưng cũng có những lỗi người đọc phải qua một thao tác suy ý
mới tìm ra được. Bởi vậy, phát hiện lỗi là công việc đầu tiên và không thể thiếu.
Nếu phát hiện lỗi không đúng, khâu sửa lỗi sẽ không có tính khả thi.
Ví dụ có một câu TV mắc lỗi sau đây, người đọc không cần phải mất
79
nhiều thời gian khi tìm lỗi:
Ví dụ (6): a. Đầm Sen là một danh lăm tháng cảnh nổi tiếng ở thành phố
Hồ Chí Minh.
b. Anh ta vẫn thường nói với bà can trong làng rằng nếu hai anh thợ đùng
ý dời nhà đi thì anh ta sẽ làm một bữa tiệc thật sang để chiêu đãi hai người.
(Chăn Ha).
Lỗi của các âm tiết in đậm trong hai ví dụ trên là lỗi viết sai kí tự của âm
đầu hay âm chính:
Ở ví dụ (6a), âm chính trong âm tiết lăm là nguyên âm /a/, còn âm chính
trong âm tiết tháng là nguyên âm /ă/: …danh lam thắng cảnh…
chính trong âm tiết đùng phải đổi âm chính /u/ thành âm chính /o/.
Ở ví dụ (6b), âm tiết can phải đổi âm chính /a/ thành âm chính /ɔ/ và âm
Cùng là câu mắc lỗi chính tả nhưng câu trong ví dụ (7) dưới đây lại khó
phát hiện hơn.
Ví dụ (7): Em gái tôi tên là Hòa. (Lỗi đặt dấu thanh)
So với câu mắc lỗi chính tả, những câu mắc lỗi dùng từ, đặc biệt là câu
mắc lỗi ngữ pháp người đọc nhận diện lỗi rất khó. Khó tới mức đôi khi người
viết còn không biết mình đã dùng sai. Những trường hợp này phải dùng thao
tác suy luận, như câu mắc lỗi trong ví dụ (7).
Ví dụ (8): Theo bài báo cho biết công an Hà Nội đã tìm ra thủ phạm giết người.
Để chỉ ra chỗ sai trong câu ở ví dụ (8), chúng ta cần so sánh nó với những
câu mà ai cũng thấy là đúng, chẳng hạn so sánh câu này với các câu (9) và (10)
dưới đây:
Ví dụ (9): Quần chúng cho biết…
Ví dụ (10): Hùng cho biết…
Chủ ngữ của câu (9) và (10) là những danh từ (quần chúng, Hùng). Trong
khi đó, phần đầu của câu ở ví dụ (8) “theo bài báo” lại không phải là danh từ.
“bài báo” mới là danh từ. Vậy “theo bài báo” không phải là chủ ngữ, cần phải
80
bỏ từ “theo” để cụm từ đó trở thành chủ ngữ:
- (8a) Bài báo cho biết…
Câu ở ví dụ (8) là câu mắc lỗi cấu trúc do thiếu chủ ngữ hoặc là câu mắc
lỗi dùng từ do dùng từ thừa.
Một ví dụ khác:
Ví dụ (11): Cha cô ấy đòi tái giá với một phụ nữ trẻ.
Để diễn đạt hành động “kết hôn một lần nữa”, trong tiếng Việt có những
từ ngữ như: tái hôn, tái thú, tục huyền, tục hôn, cải giá, đi bước nữa…Trong số
những từ ngữ này có những từ dùng cho cả nam lẫn nữ: tái hôn, tục hôn. Có
những từ chỉ dùng riêng cho nam hoặc nữ: tái giá là từ dùng cho nữ, còn tục
huyền là từ dùng cho nam.
„Giá‟ là một từ Hán Việt có nghĩa là “trồng lúa”. Do đó, lúa cấy lại sau
khi cấy lần đầu bị hỏng được gọi là lúa cấy tái giá. Nghĩa của từ này liên quan
đến sự sinh sôi nẩy nở. Nhưng giá còn có nghĩa là phụ nữ lấy chồng (xuất giá
tòng phu, tức đi lấy chồng thì phải theo chồng). Vì vậy, người phụ nữ đi lấy
chồng lần đầu mà không thành, khi làm lại cuộc đời với người đàn ông khác
được gọi là tái giá. Sở dĩ bên trên có thể nói tai giá (khi cấy lúa) khác với tái
giá (lấy chồng khác). Đây là hai từ đồng âm vì chữ giá khác nhau.
Một người đàn ông đi lấy vợ khác sau khi vợ chết được gọi là tục huyền.
Tục huyền là cách nói ẩn dụ. Nghĩa đen của từ Hán Việt tục huyền có nghĩa là
„nối lại dây đàn‟. Cuộc đời của người đàn ông bị gián đoạn giống như dây đàn
bị đứt. Việc đi lấy vợ một lần nữa chẳng khác gì việc „nối lại dây đàn‟. Vì vậy,
từ tái giá trong ví dụ (11) là từ dùng không đúng, cần phải thay bằng từ tục
huyền cho phù hợp đối tượng.
Tóm lại, phân tích để tìm ra lỗi và xác định lỗi trong sử dụng L2 là một
vấn đề khá phức tạp. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết về vốn sống, hiểu biết về
L2 và cách nhìn nhận lỗi của mỗi người. Nhất là nó còn liên quan đến khả năng
81
suy luận của người phân tích lỗi.
Nói như vậy không có nghĩa là để chúng ta né tránh hay coi nhẹ bước này
trong qui trình sửa lỗi mà để thấy được cái khó của công việc này.
b) Bƣớc 2: Phân tích lỗi
Sau bước Phát hiện lỗi là bước Phân tích lỗi. Mục đích chính của việc
phân tích lỗi là để xác định kiểu lỗi, tìm nguyên nhân mắc lỗi và đánh giá tính
chất, mức độ của lỗi…để từ đó tìm cách sửa cho phù hợp.
- Phân tích lỗi để xác định kiểu lỗi: Như đã nói, cùng một hiện tượng
mắc lỗi có thể xếp nó vào những kiểu khác nhau, tuỳ thuộc vào quan điểm
nhìn nhận lỗi của từng người. Chẳng hạn như câu mắc lỗi trong ví dụ (8).
Nếu từ góc độ cấu trúc câu, có người cho đó là câu mắc lỗi cấu trúc do thiếu
chủ ngữ. Nhưng từ góc độ dùng từ thì lại có người xếp nó vào kiểu câu mắc
lỗi dùng từ (dùng thừa từ „theo‟). Hai cách nhìn nhận khác nhau về lỗi này sẽ
cho ta hai hướng sửa khác nhau. (Xin sẽ trở lại vấn đề này ở mục c: Chọn
cách sửa lỗi).
Như đã miêu tả ở chương 2, câu mắc lỗi có rất nhiều kiểu và mỗi kiểu lại
bao gồm những loại khác nhau. Phân tích lỗi để xác định từng loại lỗi để chọn
cách sửa lỗi cho phù hợp.
- Phân tích lỗi để tìm nguyên nhân mắc lỗi: Có nhiều loại câu sai. Mỗi
loại câu sai có những nguyên nhân đặc thù. Do đó, chúng ta cần phân tích lỗi
để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi.
Trong quá trình phân tích câu mắc lỗi để chỉ ra nguyên nhân dẫn đến lỗi
cần lưu ý là câu mắc lỗi rất đa dạng như đã thấy ở chương 2.
Dưới đây chúng tôi thử đưa ra một số kiểu câu mắc lỗi và cách phân tích
lỗi, trên cơ sở đó tìm ra cách sửa lỗi cho phù hợp:
(1) Lỗi chính tả
- Lỗi chính tả về phụ âm đầu
TT
Câu sai
Câu đúng
Ở một làng kia có một anh thanh niên.
1
2
Ngày xưa, ở nông thôn miền Bắc của nước Lào, dân tộc Thái ở nhà sàn.
3
Ở một làng kia có một anh tanh niên. (Lỗi viết sai âm đầu). Ngày xưa, ở nông thôn miền Bắc của nước lào, dân tộc thái ở nhà sàn. (Lỗi viết hoa). Nếuchúng em làm điều gì kông dúng, xincô thông cảm cho chúng
Nếuchúng em … không đúng, xincô thông cảm cho chúng em!
82
Chúng tôi đều nhất trí với...
4
em! (Viết sai kí tự âm vị). Chúng tôi dều nhất trí với phương án này. (Viết sai kí tự âm vị). Sinh viên Lào hay bị nhầm lẫn một số phụ âm giữa tiếng Việt và tiếng
Lào như trong các câu 1,3,4. Chỗ viết nghiêng của câu 3,4 viết đúng chính tả
sẽ là không đúng, đều. Xét về mặt phát âm, phụ âm /k/, /d/ trong tiếng Lào và
phụ âm /kh/, /đ/ trong tiếng Việt gần giống nhau, nên lỗi chính tả này là do chịu
ảnh hưởng phát âm tiếng Lào.
Đặc biệt là tiếng Lào không có chữ cái nào tương đương với 'r' nên các
từ của Việt Nam có chữ cái 'r' đứng đầu khi phiên âm qua tiếng Lào sẽ bị đổi
sang 's' hoặc 'l' hoặc 'gi' (chữ ລ) nhưng rất ít khi được dùng vì chữ cái Lào
tương đương với âm 'gi' (tức là ຍ) thường vẫn hay bị đọc thành 'nh'.
- Lỗi chính tả về phần vần
TT Câu sai Câu đúng
Lễ bược chỉ cổ tay là phong tục Lễ bược chỉ cổ tay là phong tục trong 1 trong đám cưới của người Lào. đám cưới của người Lào.
Cô giáo em không những xin Cô giáo em không những xinh đẹp 2 đẹp mà còng giỏi tiếng Việt. mà còn giỏi tiếng Việt.
3 Sao đó em đi ăn cơm. Sau đó em đi ăn cơm.
Lỗi chính tả ba câu trên: bược – buộc, xin - xinh, còng - còn, sao – sau
đều sai về phần vần. Thử so sánh phần vần giữa tiếng Việt và tiếng Lào, ta sẽ
thấy phần vần tiếng Việt phức tạp hơn phần vần của tiếng Lào, phần vần tiếng
Lào gọi là vận mẫu, chủ yếu do nguyên âm tạo thành, cũng có thể do nguyên
âm kết hợp với phụ âm mũi tạo thành. Theo đó thể phân thành 3 loại: Vận mẫu
nguyên âm đơn, vận mẫu nguyên âm kép và vận mẫu mang âm mũi. Còn phần
vần của tiếng Việt được chia thành 3 phần là: âm đệm, âm chính và âm cuối.
83
Mỗi thành tố này trong âm tiết đều có chức năng của mình.
Người Lào học tiếng Việt thường cảm thấy trong tiếng Việt có nhiều vần
gần giống nhau và khó phân biệt, chẳng hạn như: an–ăn–ân–ăng, ênh–anh, in–
inh, on–ôn–ông–ong, un–uon, ao–au, ach–êch, at–ăt–ac–ăc…cho nên khi thực
hành văn bản, đặc biệt là trong bài tập nghe và viết, sinh viên Lào hay bị mắc
những lỗi chính tả như trên đã nêu.
- Lỗi chính tả về thanh điệu
TT Câu sai Câu đúng
Đây là Thúy, bạn tối. (Lỗi đặt sai Đây là Thuý, bạn tôi. 1 vị trí thanh điệu).
Trong nhà có nhiều đồ dụng như: Trong nhà có nhiều đồ dùng như:
2 bàn ghê, nước dụng,… bàn ghế, nước dùng,…
(Viết sai thanh điệu).
…phải làm như thê. (Viết sai …phải làm như thế. 3 thanh điệu).
Em xin từ giới thiều. (Viết sai Em xin tự giới thiệu 4 thanh điệu)
Tôi rất thích nói chuyển với cô. Em rất thích nói chuyện với cô. 5 (Viết sai thanh điệu).
Cả tiếng Việt lẫn tiếng Lào đều có thanh điệu, cho nên khi học thanh điệu
D Em dựng bút tại đây. Em dừng bút tại đây.
tiếng Việt, người Lào thấy dễ hơn người phương Tây. So sánh hệ thống thanh điệu
của TV và thanh điệu tiếng Lào để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi của người học.
Tiếng Lào cũng giống như tiếng Thái có 5 thanh điệu tương đương 5
thanh điệu của tiếng Việt, tuy nhiên có một thanh điệu được gọi là luyến lên –
luyến xuống, lại được biến đổi tùy từng trường hợp sử dụng phù hợp với ngữ
cảnh và sắc thái biểu cảm để có lúc thì phát âm như thanh sắc nhưng cũng có
khi lại được phát âm như thanh nặng của tiếng Việt, tạo ra một đặc trưng trong
phát âm của tiếng Lào và cũng là tạo nên sự khác biệt rất rõ giữa tiếng Lào và
84
tiếng Việt.
Ngữ điệu tiếng Lào được qui định bởi năm thanh điệu mà người Lào gọi là
mai ệc, mái tri, mái thô, mái chặt - ta – wa… như dưới đây:
‟ như - Thanh cao (thanh sắc) được tạo bởi 'mái tri' và được viết là „໊໊
trong từ ກ໊ າ và được phát âm là 'cá'.
- Thanh thấp (thanh huyền) được tạo bởi mái ệc và được viết là „ ่ ‟tức là một
dấu nháy như thanh sắc ở phía trên, ví dụ trong từ ກ່ າđược phát âm là „cà‟.
- Thanh bằng (thanh không hay thanh bằng) nghĩa là không có dấu gì ở
trên hoặc dưới như từ ກາ được phát âm là „ca‟.
- Thanh luyến lên (thanh hỏi) được tạo bởi mái chặt -ta- wa và được viết
là ‘ ่ ’tức là có một dấu cộng ở trên đầu như từ ກ໋ າ và được phát âm là „cả‟.
- Thanh luyến xuống (gần giống thanh nặng của tiếng Việt) được gọi là mái
thô và được viết gần như thanh ngã của tiếng Việt „่ ‟ nhưng nó phát âm gần giống
thanh nặng trong tiếng Việt, như từ ກ້ າ và được phát âm gần như „cạ‟.
Riêng thanh luyến xuống là một thanh đặc biệt mà trong tiếng Việt không
có. Thực tế tiếng Lào không có thanh nặng như tiếng Việt mà chỉ phát âm
luyến xuống gần giống thanh nặng mà thôi. Điều này khiến người Lào rất khó
khăn khi phát âm thanh nặng của tiếng Việt.
Đối với sinh viên Lào nói riêng, người Lào nói chung, tuy thanh nặng
không có trong tiếng Lào, hay bị mắc lỗi, ngược lại, về thanh hỏi, thanh huyền
và thanh nặng, ba thanh điệu này hơi khó phân biệt cho nên khi thực hiện trên
chính tả hay bị mắc lỗi, đặc biệt là thanh huyền với thanh nặng hay bị sinh viên
nhầm lẫn.
- Lỗi chính tả về viết hoa
TT Câu sai Câu đúng
1 Ngày xưa ở nông thôn miền Bắc của nước lào có dân tộc thái đen. Ngày xưa ở nông thôn miền Bắc của nước Lào có dân tộc Thái Đen.
2 ở một làng kia có một anh thanh niên thích sống yên tĩnh Ở một làng kia có một anh thanh niên thích sống yên tĩnh.
85
3 tôi muốn thuê nhà ở thái nguyên. Tôi muốn thuê nhà ở Thái Nguyên
Em mong muốn học giỏi tiếng Việt. 4 Em mong muốn học giỏi Tiếng Việt.
5 Em học ở trường Cao Đẳng Sư Phạm thái nguyên. Em học ở trường Cao đẳng Sư phạm Văn Sơn
Về quy cách viết hoa tiếng Việt đã có quy định được Bộ Giáo dục và Đào
tạo Việt Nam ban hành. Nhưng trong chính tả tiếng Lào, vì là chữ viết không
qui định viết hoa và vì không có thói quen viết hoa nên khi viết tiếng Việt
người Lào hay mắc lỗi.
Theo quy cách viết hoa của tiếng Việt, ngoài viết hoa chữ cái đầu câu ra,
trong những trường sau đây cũng phải viết hoa: tên người, tên địa lý, tên cơ quan,
tên dân tộc, tên cơ quan, tổ chức, toàn thể... Chỗ này chỉ cần giải thích một lần
sinh viên sẽ nhớ ngay, nhưng khi thực hiện trên chính tả, sinh viên sẽ thấy hơi khó
lựa chọn đâu là những chữ ghi tên các đối tượng trên và nên viết hoa vào chữ cái
nào mới đúng, bởi thế cho nên hay bị mắc lỗi như trên đã nêu ra.
Ở câu 1, chỉ cần viết hoa chữ cái đầu của các tên riêng chỉ nước và dân tộc:
Lào, Thái Đen.
Ở câu 2, cần viết hoa chữ cái đầu của âm tiết „ở‟ vì đây là âm tiết đứng đầu câu.
Tương tự, ở ví dụ 3 cũng cần viết hoa từ „Tôi‟ và từ „Thái Nguyên‟. Từ tôi
tuy không phải là tên riêng nhưng đứng ở vị trí đầu câu, còn Thái Nguyên là
tên riêng của một địa danh do đó cũng cần viết hoa.
Ở câu 4, chỉ cần viết hoa chữ „Việt‟ vì nó là tên riêng của một thứ tiếng,
còn chữ cái đầu của „tiếng‟ thì không cần viết hoa, vì nó không phải tên riêng
và không phải âm đứng đầu câu, không phải chữ chỉ tên đặc biệt gì đó.
Còn về câu 5, sinh viên đã biết khi viết tên cơ quan phải viết hoa, nhưng
sinh viên lại không lưu ý đến về những từ song âm tiết của tiếng Việt chỉ cần
viết hoa chữ cái đầu của song âm tiết, ví dụ như “Cao đẳng”, “Sư phạm” chỉ
cần viết hoa chữ cái đầu của “Cao” và “Sư”
86
(2) Lỗi về dùng từ
- Lỗi về loại từ
Cả tiếng Việt lẫn tiếng Lào đều có loại từ, cho nên khi sinh viên Lào học
tiếng Việt không mắc lỗi nhiều như người phương Tây. Song, vì trong tiếng
Lào và tiếng Việt có nhiều từ loại từ và cách dùng khác nhau cho nên sinh viên
Lào khi học tiếng Việt hay bị mắc lỗi về loại từ do chuyển di tiêu cực từ tiếng
mẹ đẻ (tiếng Lào) sang L2 (ở đây là tiếng Việt).
Ví dụ, tiếng Việt có loại từ „quả‟ đi với tên các loại quả: quả mít, quả dừa,
quả ổi, quả na, quả bưởi, v.v… Tương ứng loại từ này trong tiếng Lào có từ
„mak‟: mak mì, mak mồ, mak xi đà, mak khiêp, mak khúc. Loại từ „quả‟ trong
tiếng Việt còn có thể dùng kèm danh từ chỉ những sự vật hình khối: quả đất.
Sang tiếng Lào, loại từ „nuoi‟ mới đi kèm sự vật chỉ hình khối, còn „mak‟ là
loại từ thường đi với danh từ chỉ hoa quả. Sự phân biệt không rõ ràng này trong
tiếng Việt dẫn đến lỗi sử dụng loại từ tiếng Việt của người Lào.
+ Lỗi dùng thừa loại từ
TT Câu sai Câu đúng
1 Nhà em có 5 con người. Nhà em có 5 người.
Phố cổ Hà Nội có bán nhiều bức Phố cổ Hà Nội có bán nhiều tranh 2 tranh thêu. thêu.
3 Một năm có 2 cái học kỳ Một năm có 2 học kỳ
Trong tiếng Lào, trước danh từ chỉ loại hay không chỉ loại, nói chung khi
muốn nói về số lượng thì đều phải có loại từ đi kèm số từ, theo công thức: danh
từ + số từ (xác định hay không xác định) + loại từ, ví dụ như: gà ba con. Trong
tiếng Việt, khi danh từ mang nghĩa chỉ tổng loại nói chung thì không cần dùng
loại từ, ví dụ như câu 2, “tranh” ở đây là danh từ chỉ tổng loại nói chung chứ
không phải nói về số lượng cụ thể là bao nhiêu, cho nên ở đây không cần thêm
loại từ. Trong ví dụ 1 cũng vậy, người ở đây là danh từ chỉ loại (người) nên
87
cũng không cần từ chỉ loại.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến lỗi dùng thừa loại từ là sinh viên
chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và quá trung thành quy tắc sử dụng loại từ
trong tiếng Lào: luôn dùng loại từ sau danh từ nếu muốn nói về số lượng. Sinh
viên đã chuyển di tiêu cực tiếng mẹ đẻ và sử dụng chiến lược suy luận tương tự
một cách thái quá dẫn đến lỗi ở đây..
+ Lỗi dùng sai loại từ
TT Câu sai Câu đúng
A Em đi chợ mua 2 cái cà rốt. Em đi chợ mua 2 củ cà rốt
B Em thích ăn quả hành tây. Em thích ăn củ hành tây.
Mời em ăn 2 chùm thịt nướng Mời em ăn 2 xiên/ xâu thịt nướng C được không? được?
D Em đi siêu thị mua một cái dao. Em đi siêu thị mua một con dao.
Ở câu 1, lẽ ra phải dùng “củ”, học viên lại dùng nhầm là “cái”. Sinh viên
đã nhớ “cái” trong tiếng Việt là loại từ được dùng cho mọi sự vật, trong đó có
cả „cà rốt‟. Từ “cái” trong tiếng Việt là loại từ phạm vi được dùng tương đối
rộng, tương đương với loại từ “hua, cản, tô…” của tiếng Lào, cho nên khi sử
dụng loại từ trong tiếng Việt, sinh viên không để ý đến loại từ để miêu tả về
phần thân, rễ hoặc quả của cây phát triển lớn ra, nằm ở dưới đất hoặc sát đất
cần dùng loại từ “củ”, chứ không phải là “cái”.
Ở câu 2, sinh viên mắc lỗi là dùng nhầm loại từ “quả” thay cho loại từ
“củ”. Sở dĩ như vậy là sinh viên có nhận thức sai trong tiếng Việt, theo từ điển
tiếng Việt (96), "quả" là loại từ dùng để chỉ bộ phận của cây do bầu, nhụy hoa
phát triển mà thành. Còn đối với các loại rau mà phần thân, rễ hoặc quả của cây
phát triển lớn ra, nằm ở dưới đất hoặc sát đất thì tiếng Việt dùng loại từ "củ"
như củ hành, củ tỏi, củ sắn...
Ở câu 3, sinh viên dùng “chùm thịt nướng” là trong giáo trình có dạy một
88
câu là “Tôi mua được 2 chùm quả nho”, dịch sang tiếng Lào là “khoiy đai sư
mak ă ngun 2 phuông”, loại từ chùm trong tiếng Việt ở đây có nghĩa tương
đương với một loại từ phuông trong tiếng Lào, khi miêu tả về những sự vật có
hình như quả nho, quả chuối hoặc những sự vật xâu chuỗi cũng được sử dùng
loại từ “phuông” (chùm), cho nên ở câu 3 sinh viên đã chuyển di tiêu cực tiếng
mẹ đẻ vào hệ thống ngôn ngữ trung gian của mình và dẫn đến lỗi.
Ở câu 4, sinh viên dùng loại từ “cái” thay cho loại từ “con”. Sỡ dĩ như vậy
là trong tiếng Việt, khi sử dụng loại từ, nói chung đồ vật dùng “cái”, con vật
dùng “con”, nhưng sinh viên lại không biết những sự vật nào thể hiện tính
“động” hoặc muốn nhấn mạnh, muốn làm cho nó sống động hơn thì dùng
“con”. Ví dụ như: con mắt, con sông, con dao... Trong khi đó, tiếng Lào khi nói
về dao, đồ dùng thì lại đi kèm với loại từ „đuông‟ (mít đuông), nói về mắt lại có
loại từ „nuôi‟(nuôi ta) và nói về sông lại có loại từ „nắm‟(me nắm). Vì một loại
từ của tiếng Việt dùng tương đương với ba loại từ của tiếng Lào, hơn nữa người
Lào nhớ máy móc loại từ cái trong tiếng Việt thường dùng đi kèm danh từ chỉ
sự vật chứ không dùng với danh từ chỉ động vật (mà dao là danh từ chỉ sự vật)
nên đã dùng loại từ cái thay cho dùng từ con như ví dụ đã dẫn.
Theo thống kê của chúng tôi, sinh viên Lào khi sử dụng loại từ tiếng Việt,
thường xảy ra hai trường hợp mắc lỗi là dùng thừa loại từ và dùng sai loại từ,
còn trường hợp dùng thiếu loại từ cũng có nhưng rất hiếm. Sở dĩ như vậy là do
cả hai thứ tiếng đều có loại từ, chỉ có điều quy tắc sử dùng loại từ không giống
nhau: loại từ trong tiếng Việt đi trước danh từ, còn loại từ trong tiếng Lào lại đi
sau danh từ chỉ sự vật. Chính sự tương đồng và khác biệt này đã ảnh hưởng đến
hệ thống ngôn ngữ trung gian của sinh viên và làm cho sinh viên mắc lỗi sử
dụng loại từ tiếng Việt.
- Lỗi dùng từ xƣng gọi.
So với hệ thống đại từ xưng gọi của tiếng Lào, có thể thấy, hệ thống đại từ
xưng gọi của tiếng Việt phức tạp hơn. Trong tiếng Lào đại từ nhân xưng số ít
89
ngôi thứ nhất có: “khoiy”, “hau”, và đại từ nhân xưng số nhiều ngôi thứ nhất
có: “phuốc khoiy”, “phuốc hau”; ngôi thứ hai số ít có “mưng”, số nhiều có
“phuốc mưng”; ngôi thứ ba số ít có “lao năn”, “ay năn”, “ươi năn” và số nhiều
có từ “Phuốc khao”.
Nhìn tổng quát, số từ dùng để xưng hô không phong phú bằng hệ thống từ
xưng hô trong tiếng Việt.
Trong tiếng Việt khi xưng gọi, ngoài các đại từ nhân xưng (tôi, tao,
mày...), các danh từ chỉ quan hệ thân tộc (cô, dì,chú, bác,…) còn có lớp danh từ
chỉ chức vị và nghề nghiệp (giám đốc, hiệu trưởng, trưởng phòng, cô giáo, bác
sĩ, lái xe,…). Danh từ thân tộc được dùng trong xưng gọi rất uyển chuyển và
nói chung là có phân biệt giới tính (trừ vài trường hợp như: cụ, kị, chắt…).
Theo Nguyễn Đức Tồn thì việc lựa chọn sử dụng từ xưng gọi tùy thuộc vào
mối quan hệ ngang và quan hệ dọc giữa những người tham gia giao tiếp. Quan
hệ ngang hay còn gọi là quan hệ thân hữu là quan hệ gần gũi hay xa cách giữa
những người giao tiếp. Thí dụ như: anh – tôi, tao – mày... . Quan hệ dọc là quan
hệ biểu thị quyền uy, tôn ti giữa những người tham gia giao tiếp với nhau. Thí
dụ như: chị - em, ông – cháu…
Cần phải nói ngay rằng, sự khác nhau về số lượng các từ xưng hô không
phải là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc người Lào mắc lỗi sử dụng hệ thống
từ xưng hô của tiếng Việt. Vấn đề ở đây là có nhiều trường hợp, một từ xưng
hô của tiếng Lào tương ứng với nhiều từ xưng hô của tiếng Việt một phần
khiến người Lào bị nhầm lẫn khi dùng từ xưng hô của tiếng Việt. Ví dụ, tiếng
Việt phân biệt rất rõ hai từ “chúng tôi” và “chúng ta”, trong khi đó tiếng Lào lại
chỉ có một từ tương đương: phuốc hau. Trong tiếng Việt, từ chúng tôi là từ
xưng hô ngôi thứ nhất, số nhiều; còn từ chúng ta, chúng mình lại là từ xưng hô
bao gộp cả ngôi thứ nhất lẫn ngôi thứ hai (ví dụ, Hà nói với Minh: Thôi chúng
ta / chúng mình về học ôn thôi, không đi xem phim nữa). Người Lào khi dùng
90
từ xưng hô bao gộp trong tiếng Việt thường mắc lỗi là do nguyên nhân này.
Một trong những nguyên nhân người Lào mắc lỗi sử dụng từ xưng hô của
tiếng Việt là do họ không nắm được các cặp xưng – hô tương ứng trong tiếng
Việt, chẳng hạn, các từ: anh, chị trong tiếng Việt sẽ có từ tương ứng để xưng /
hô là em; các từ cô, dì, chú, bác,…có từ tương ứng thành cặp là cháu, v.
v…Người Lào thường dùng chưa phân biệt một số cặp từ xưng hô này như các
ví dụ trong bảng sau:
TT Câu sai Câu đúng
1 Em chào cậu ạ! Cháu chào cậu ạ!
2 Tôi chào cậu! Tớ/mình chào cậu!
3 Em chào thầy (chào cô giáo) Em chào cô!
Ở câu 1, khi nghe sinh viên gọi đối tượng được chào là “cậu”, thì ta có
thể nhận biết đối tượng này là người có quan hệ thế nào với sinh viên đó, từ
“em” là từ xưng gọi đối với những người hơn mình vài tuổi, người nói và người
cùng một thế hệ. Theo Từ điển tiếng Việt (95) thì "cháu" là danh từ thân tộc
dùng để chỉ người thuộc thế hệ sau nhưng không phải là con trong quan hệ với
người thuộc thế hệ trước. Cho nên trong câu 1 phải dùng danh từ “cháu”, chứ
không phải là “em”.
Ở câu 2, khi người nói gọi người nghe là “cậu” và xưng là “tôi” thì chúng
ta biết ngay hai người này cùng một thế hệ và có quan hệ rất thân mật. Nhưng
trong tiếng Việt khi gọi người khác là “cậu” (không phải từ chỉ quan hệ than
tộc) thì biết đây là những người có quan hệ xã hội bình đẳng và ở lứa tuổi trẻ,
do đó phải xưng là “tớ” hay “mình” để đảm bảo sắc thái biểu cảm.
Ở câu 3, người chào là học sinh, người được chào là cô giáo, nhưng sinh
viên lại gọi người được chào là “thầy”. Lỗi này là do là vì trong đại từ xưng hô
của tiếng Lào có từ không phân chia giới tính để chỉ người làm nghề dạy học.
Trong tiếng Lào, cả thày giáo lẫn cô giáo đều có thể được gọi bằng một từ “nai
khu”. Có một số từ khác có phân biệt giới tính, nhưng nó chỉ thể hiện về chữ
91
viết, không phân biệt về phát âm. Cho nên sinh viên Lào ít có ý thức để phân
biệt giới tính, hay bị mắc lỗi này trong đoạn thời gian mới bắt đầu tiếp xúc
tiếng Việt.
Từ những câu lỗi đã được phân tích trên, người viết nhận ra rằng, hệ thống
từ xưng hô của tiếng Việt rất nhiều và cách sử dụng rất phức tạp, luôn luôn
thay đổi dựa vào quan hệ trên và dưới, quan hệ gần gũi hay xa cách giữa người
nói và người nghe. Chính vì tính phức tạp và tính không ổn định của hệ thống
từ xưng hô trong tiếng Việt nên trong khi viết, sinh viên Lào hay bị mắc lỗi sử
dụng từ xưng gọi, đặc biệt là sử dụng không nhất quán, chẳng hạn như câu
trước sử dụng từ “em”, đến câu tiếp theo thì lại thay bằng đại từ “tôi”.
Một số ví dụ lỗi dùng từ xưng hô tiếng việt của người Lào và cách sửa lỗi:
+ Lỗi dùng đại từ “chúng ta” và “chúng tôi”
TT Câu sai Câu đúng
Chúng em đã được đi Thái Nguyên du học một học kỳ. 1
Chúng ta đã được đi Thái Nguyên du học một học kỳ.( Nói với người ở vị thế cao hơn mình)
2 Hôm qua cô Vân mời chúng ta ăn nem rán. (Học sinh nói với cô giáo) Hôm qua cô Vân mời chúng em ăn nem rán.
Lỗi mà học viên mắc phải trong câu 1 và câu 2 là dùng "chúng ta" thay
cho "chúng em". "Chúng ta" và "chúng em" là từ nhân xưng ngôi thứ nhất số
nhiều trong tiếng Việt được sử dụng khi quan hệ giữa những người tham gia
giao tiếp thuộc quan hệ ngang hàng và tương ứng với đại từ ngôi thứ nhất số
nhiều tiếng Lào là “phuốc hau”. Giữa từ nhân xưng này của tiếng Việt có một
sự khác biệt về ý nghĩa khi sử dụng. "Chúng ta"có thể được người nói sử dụng
để chỉ ngôi 1 số nhiều, đồng thời có thể dùng để chỉ cả người nói lẫn cả người
nghe. Còn "chúng tôi" thì chỉ để những người nói tự xưng mà không bao hàm
người nghe. Thực ra trong tiếng Lào cũng có một từ tương ứng với “chúng ta”
là từ “phuốc khoiy”, nhưng vì người Lào ít dùng đến từ này trong giao tiếp, cho
nên hay bị lầm lẫn và thường dùng sai hai từ nhân xưng này.
92
- Lỗi dùng các đại từ khác.
+ Lỗi về dùng loại từ “gì” - “nấy”, “bao nhiêu” – “bấy nhiêu”
TT Câu sai Câu đúng
1 Người ta thường nói “ăn gì bổ gì”. Người ta thường nói: “ăn gì bổ ấy/ nấy”.
2 Em muốn mua bao nhiêu thì mua bao nhiêu. Em muốn mua bao nhiêu thì mua bấy nhiêu.
Về kết cấu “động từ + gì + động từ + nấy” và “động từ + bao nhiêu + động
từ + bấy nhiêu” không phải là một kết cấu khó, nhưng tại sao sinh viên lại mắc
lỗi này? Đây là vì chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ. Trong tiếng Lào, kết cấu
tiếng Việt này được thể hiện như sau: “động từ + cái gì + động từ + cái gì” và
“động từ + bao nhiêu + động từ + bao nhiêu”, những từ dùng sau động từ hoàn
toàn giống nhau, không biến đổi (Anh ăn cái gì thì tôi ăn cái gì). Còn trong
tiếng Việt, từ đứng sau động từ thứ hai thường bị biến âm hoặc thay đổi (anh ăn
gì thì tôi ăn nấy). Tiếng Lào: cô thích ăn cam bao nhiêu thì tôi thích ăn cam bao
nhiêu), tiếng Việt biến đổi từ đứng sau động từ thứ hai : Anh thích ăn cam bao
nhiêu thì tôi thích ăn cam bấy nhiêu).
+ Lỗi về trật từ của đại từ thời gian “khi nào”, “bao giờ”
Câu sai Câu đúng TT
Cô sẽ quay trở lại Viêng Chăn bao Bao giờ cô sẽ quay trở lại Viêng A Chăn? giờ?
Khi nào thầy Thành có em bé? (hỏi Thầy Thành có em bé khi nào?
B về quá khứ, tức thầy Thành đã có em
bé rồi).
Với đại từ để hỏi "khi nào, bao giờ" thì tiếng Việt có hai kết cấu là:
(1) Khi nào/Bao giờ + CN + (sẽ) + ĐT ?
(2) CN + (đã) + ĐT + khi nào/bao giờ?
Kết cấu (1) là đặt “khi nào, bao giờ ” ở đầu câu để hỏi về tương lai, còn
93
kêt cấu (2) là đặt “khi nào, bao giờ” ở cuối câu để hỏi về quá khứ.
Trong tiếng Lào bất cứ hỏi về quá khứ hay là tương lai cũng có hai kết
cấu là đặt “mưa đai” trước hay sau nòng cốt câu, như: CN + động từ (vị ngữ) +
mưa đai/mưa đai +CN + ĐT? Ví dụ:
Ví dụ: (1) “Noóng kin khao mưa đai?” dịch sang tiếng Việt là “Em ăn
cơm khi nào?”
(2) “Mưa đai noóng kin khao ?” dịch sang tiếng Việt là bao giờ em ăn cơm?”.
Tuy giống nhau về cấu trúc câu hỏi về thời gian nhưng người Lào không
phân biệt được hai cách hỏi về thời gian trong tiếng Việt cho nên khi sinh viên
sử dùng hai kết cấu hỏi về thời gian của tiếng Việt hay bị nhầm lẫn và chủ yếu
mắc lỗi câu hỏi về quá khứ.
(3) Lỗi dùng động từ
- Lỗi dùng động từ “rửa”, “vo”
TT Câu sai Câu đúng
A Em đi rửa đầu. Em đi gội đầu
B Em đang rửa gạo. Em đang vo gạo.
Ở hai câu trên, sinh viên đã dùng động từ “rửa” thay cho động từ “gội”,
“rửa” thay cho từ “vo” là vì trong tiếng Lào, bất cứ là “rửa” hay “vo”, đều chỉ
có một động từ là “láng”, và động từ “rửa”của tiếng Việt là động từ được học
sớm hơn trong giáo trình, cho nên trong những câu phải dùng đến động từ
“láng” thì sinh viên chỉ biết dùng động từ “rửa”
- Lỗi dùng cặp từ “thích … hơn”
TT Câu sai Câu đúng
1 Em thích hơn uống sữa chua. Em thích uống sữa chua hơn.
2 Em thích hơn cô ấy. Em thích cô ấy hơn.
Lỗi ở hai câu trên là đã đặt "hơn" ngay sau "thích". Trong tiếng Việt để
thể hiện ý thích hơn thì ta có kết hợp là "thích cái gì hơn" hoặc là "thích làm gì
94
hơn". Sỡ dĩ sinh viên bị mắc lỗi này là vì sinh viên dùng nguyên kết cấu tiếng
Lào và chuyển di sang ngôn ngữ thứ hai. Trong kết tiếng Lào, để thể hiện nghĩa
thích hơn, người Lào thường nói là “mắc laiy”, nếu đặt trong câu 1 sang tiếng Lào
là: “khoiy mắc kin kháo phủn laiy”. Trong tiếng Việt, có kết cấu vế so sánh được
biểu thị là: “thích + đt /dt + hơn”. Hai cấu trúc ở hai ngôn ngữ này có phần khác
nhau dẫn đến lỗi của sinh viên Lào khi nói kiểu câu này trong tiếng Việt.
- Lỗi dùng động từ “mượn”
TT Câu sai Câu đúng
Chị mượn cho em bút chì được Chị cho em mượn bút chì được A không? không?
B Em đã cho anh Vĩ mượn rồi. Em đã mượn cho anh Vĩ rồi.
Lỗi của câu 1 và 2 là sinh viên chưa phân biệt rõ ràng về kết cấu của từ
cho và mượn với hành động ngôn ngữ khác nhau:
Nếu yêu cầu ai đó cho mình mượn cái gì đó thì từ cho phải đứng trước từ
mượn, và đối tượng mượn phải là người nói (ngôi 1), kiểu như: cho em mượn…:
Chị cho em mượn cái bút nhé. / Cô cho cháu mượn quyển từ điển nhé.
Nếu là hành vi xác tín thì mượn đứng trước cho và đối tượng mượn
thường là ngôi hai hoặc ngôi 3, kiểu như: mượn cho bạn…/ mượn cho anh ấy…:
Tôi đã mượn cho bạn quyển từ điển rồi. / Tôi đã mượn cho bạn Hà chiếc xe
máy rồi. Cũng có thể cho đứng trước mượn nhưng đối tượng mượn không phải
ngôi 1 mà là ngôi 2 hoặc ngôi 3: cho chị ấy mượn…, cho anh mượn…
Ở câu 1 dẫn trên, đây là hành vi yêu cầu cho nên phải thay đổi vị trí của từ
cho và từ mượn. “Chị cho em mượn…”.
Ở câu 2, đây là hành vi xác tín nên phải diễn đạt lại là: Em đã mượn cho
anh Vĩ rồi.
Trong tiếng Lào chi có một kết cấu là “nhưm hai…” (mượn cho) hoặc “hai
nhưm” (cho mượn) nhưng qui tắc sử dụng rất chặt chẽ, ít có sự đảo vị trí, còn
trong tiếng Việt, hai từ này vị trí nhiều khi biến đổi rất linh hoạt và người Lào
95
thường khó nhận biết sự biến đổi này do đó hay bị mắc lỗi.
- Lỗi về dùng giới từ
Giới từ cũng là một trong những vấn đề ngữ pháp khó nên sinh viên Lào
chưa nhớ hết được các danh từ nào trong tiếng Việt phải dùng với giới từ và
danh từ nào trong tiếng Việt không cần dùng giới từ vì vậy họ cũng hay bị mắc
lỗi về giới từ, ví dụ, lỗi dùng giới từ “ở” và “vào”
TT Câu sai Câu đúng
1 Em thích ăn bún ở buổi sáng. Em thích ăn bún vào buổi sáng.
Trường em được thành lập ở năm Trương em được thành lập vào năm 2 1984. 1984.
Ở câu 1 và 2, sinh viên đã mắc lỗi thay giới từ “ở” cho giới từ “vào” là
trong tiếng Lào, trạng ngữ biểu thị thời gian hoặc địa điểm, người ta đều dùng
giới từ “lâm te” chứ không phân biệt như tiếng Việt: trạng ngữ chỉ địa điểm
dùng giới từ “ở”, còn trạng ngữ chỉ thời gian phải dùng giới từ “vào”. Vì chưa
nắm chắc kết cấu này và chịu ảnh hưởng của tiếng Lào, cho nên sinh viên Lào
học tiếng Việt hay bị mắc lỗi này.
c) Chọn cách sửa lỗi
Có nhiều cách phân tích, nhìn nhận một hiện tượng mắc lỗi
Trước một hiện tượng mắc lỗi, ta có thể có nhiều cách sửa. Thử phân tích
câu mắc lỗi ở ví dụ (8).
Nếu cho đây là câu mắc lỗi do thiếu chủ ngữ, ta có ba cách sửa: Thứ nhất,
thêm chủ ngữ;
Thứ hai, lược bớt từ „theo‟.
Thứ ba, thêm từ „thì‟ vào sau cụm từ „Theo bài báo thì… ‟.
Tóm lại, việc phân tích lỗi để tìm ra nguyên nhân mắc lỗi của câu là việc
làm cần thiết.
3.3. Tiểu kết
Chương này đã trình bày hai nội dung lớn, đó là: 1) Nguyên nhân khiến
96
cho sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi và 2) Hướng sửa lỗi.
- Về nguyên nhân sinh viên Lào viết câu tiếng Việt mắc lỗi, luận văn đã
trình bày ba nguyên nhân, cụ thể:
+ Do người học chưa nắm được L2 một cách thấu đáo;
+ Do sự khác biệt giữa L1 và L2, kéo theo lỗi chuyển di tiêu cực từ L1
sang L2;
+ Do người học không có ý thức trong khi sử dụng L2.
- Về hướng sửa lỗi, luận văn đã nêu 5 nguyên tắc sửa lỗi,đó là:
Thứ nhất: Đảm bảo tính hiệu quả.
Thứ hai: Đảm bảo sự trung thành với nội dung của câu.
Thứ ba: Đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu trong quá trình sửa lỗi.
Thứ tư: Đảm bảo phù hợp với đối tượng viết câu mắc lỗi.
Thứ năm: Đảm bảo hiệu quả diễn đạt.
- Về qui trình sửa lỗi, luận văn đã nêu ba bước trong quá trình sửa lỗi,là:
+ Bước 1: Phát hiện lỗi (nhận diện lỗi);
+Bước 2:Phân tích lỗi để tìm ra loại lỗi và nguyên nhân mắc lỗi;
+ Bước 3: Chọn cách sửa lỗi.
Tất cả những nguyên nhân mắc lỗi và hướng sửa lỗi được trình bày ở đây
chỉ là ý kiến bước đầu của chúng tôi. Việc sửa lỗi còn phụ thuộc vào từng kiểu
97
lỗi và những lỗi cụ thể.
KẾT LUẬN
Như đã nói trong mục lí do chọn đề tài, nghiên cứu thực trạng viết câu
tiếng Việt mắc lỗi của sinh viên Lào để biết những kiểu câu mắc lỗi mà các em
thường mắc, từ đó tìm cách sửa lỗi cho các em, góp phần vào việc nâng cao
hiệu quả dạy và học là một công việc mang tính thiết thực.
Luận văn đã tập trung trình bày ba vấn đề lớn:
1. Những vấn đề lí thuyết liên quan được luận văn sử dụng để sử lí đề tài,
đó là: Lí thuyết về lỗi trong học ngoại ngữ, khái niệm câu mắc lỗi và các kiểu
câu mắc lỗi thường gặp.
- Về lí thuyết lỗi trong học ngoại ngữ, luận văn đã trình bày được 6 quan
điểm về lỗi trong học ngoại ngữ: Lỗi theo quan điểm hành vi luận, lỗi theo
quan điểm phân tích đối chiếu, lỗi theo quan điểm giao thoa văn hóa, lỗi theo
quan điểmphương pháp giao tiếp và lỗi trên quan điểm chiến lược học tiếng.
- Về khái niệm câu mắc lỗi và các kiểu câu mắc lỗi, luận văn đã giới thiệu
một số quan điểm về câu mắc lỗi và cách phân loại câu mắc lỗi của một số nhà
nghiên cứu ngôn ngữ tiêu biểu như Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Minh Thuyết,
Nguyễn Văn Hiệp và cuối cùng đã tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các
nhà nghiên cứu này.
2. Luận văn đã khảo sát thực trạng viết câu TV mắc lỗi của sinh viên Lào
học chuyên ngành Tiếng Việt ở Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái
Nguyên và đã tổng kết được 6 kiểu câu mắc lỗi mà các em thường Mắc, đó là:
Câu mắc lỗi chính tả, câu mắc lỗi từ ngữ, câu mắc lỗi cấu trúc, câu mắc lỗi ngữ
nghĩa, câu mắc lỗi liên kết và câu mắc lỗi tổng hợp.
Kết quả nghiên cứu của mỗi kiểu câu mắc lỗi này được trình bày bằng
những số liệu cụ thể trên các bảng tổng kết và có phân tích miêu tả chúng bằng
những ví dụ cụ thể.
Tư liệu điều tra của chúng tôi cho thấy, tần số xuất hiện của các kiểu câu
98
mắc lỗi không giống nhau. Đặc biệt, chúng xuất hiện theo xu hướng tỉ lệ nghịch
với trình độ của sinh viên: Trình độ nắm L2 của sinh viên càng cao thì tỉ lệ mắc
lỗi càng giảm. Điều này được thể hiện trên các số liệu thống kê các kiểu câu
mắc lỗi của sinh viên Lào học tiếng Việt 1 kì và sinh viên Lào học 1 năm.
3. Luận văn cũng đã trình bày ba nguyên nhân dẫn đến việc viết câu
mắc lỗi của du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên, đó là: Thứ nhất, do
trình độ tri thức L2 của các em còn hạn chế, tức các em chưa nắm được L2
một cách thấu đáo, thứ hai, do sự đồng nhất và khác biệt giữa L1 và L2 dẫn
đến sự chuyển di tiêu cực từ L1 sang L2 và thứ ba, do ý thức tránh lỗi của
các em chưa cao.
Từ kết quả nghiên cứu về nguyên nhân mắc lỗi, luận văn cũng đã nêu ra
một số nguyên tắc và các bước chữa lỗi.
Năm nguyên tắc chữa lỗi được chúng tôi đưa ra là:
- Đảm bảo tính hiệu quả;
- Đảm bảo trung thành với nội dung của câu;
- Đảm bảo đơn giản, dễ hiểu;
- Đảm bảo phù hợp đối tượng viết câu;
- Đảm bảo hiệu quả diễn đạt.
Ba bước trong qui trình sửa lỗi cũng đã được luận văn trình bày tỉ mỉ với
các ví dụ cụ thể có tính chất minh họa.
Tóm lại, đúng như tên đề tài của luận văn này: “Một số lỗi viết câu tiếng
Việt của du học sinh Lào ở Đại học Thái Nguyên”, luận văn này thiên về khảo
sát và miêu tả thực trạng chứ chưa đi phân tích kĩ từng kiểu câu mắc lỗi để
tổng kết chúng thành những vấn đề lí luận. Công việc đó xin tiếp tục ở nhũng
99
công trình tiếp theo, nếu có điều kiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Diệp Quang Ban (1976), Tìm cách giúp thêm cho học sinh viết đúng câu
tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 3 – 1976.
2. Diệp Quang Ban (chủ biên), Hồng Dân(2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục.
3. Phạm Đăng Bình (2001), Một số quan niệm khác nhau về lỗi trong quá trình
dạy và học tiếng nước ngoài, Ngôn ngữ số 14, 59-66.
4. Phạm Đăng Bình (2002), Thử đề xuất một cách phân loại lỗi của người học
ngoại ngữ nhìn từ góc độ dụng học giao thoa ngôn ngữ - văn hóa, Ngôn ngữ
số 9, 58-72.
5. Phạm Đăng Bình (2003), Khảo sát lỗi giao thoa ngôn ngữ-văn hóa trong
diễn ngôn của người Việt học tiếng Anh, Luận án tiến sĩ ngữ văn.
6. Lê Xảo Bình (2004), Lỗi của người Trung Quốc học tiếng Việt nhìn từ góc
độ xuyên văn hóa (xét về khía cạnh từ vựng), luận văn thác sĩ Ngữ Văn.
7. Nguyễn Tải Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nab
KHXH.
8. Lê Cầu, Phan Thiều, Diệp Quang Bàn, Hoàng Hữu Thùng, Giáo trình ngữ
pháp tiếng Việt – Tập hai,(2011).
9. Đỗ Hữu Châu (1986), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb KHXH.
10. Đỗ Hưu Châu (1987), Tự vụng ngũ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo Dục.
11. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn
ngữ Đông Nam Á, ĐHSP Ngoại Ngữ.
12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu Hoàng Trọng Phiến (2000), Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang, 1992, 1993, Câu sai và câu mơ hồ,
100
Nxb GD.
14. Nguyễn Đức Dân, (1995), Tiếng Việt (thực hành), Tp Hồ Chí Minh: Đại
học Tổng hợp, Tp HCM.
15. Nguyễn Đức Dân, “Giáo trình tiếng Việt thực hành”, Nxb ĐHQG TP (2002).
16. Nguyễn Đức Dân ,(2002), Giáo trình tiếng Việt thực hành, Nxb ĐHQG TP
Hồ Chí Minh.
17. Trần Trí Dõi, Hữu Đạt, Đảo Thanh Lan (2000), Cơ sơ tiếng Việt, Nxb Văn
hóa Thông tin.
18. Hưu Đạt (2009), Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp tiếng Việt, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
19. Đinh Văn Đức (2000), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Giáo dục.
20. Đặng Ngọc Đức (2002), Bản về tiếp thu ngôn ngữ và các yếu tổ tác động,
Ngôn ngữ số 12, 36-41.
21. Nguyễn Thiện Giáp (2002), Từ vụng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
22. Phạm Ngọc Hàm (2000), Xưng hô-một tín hiệu văn hóa trong giáo tiếp ngôn
ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia.
23. Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trường, Võ Xuân Trang, Trần
Thị Tuyết Mai (2002), Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục, Nxb KHXH.
24. Đỗ Minh Hùng (2007), Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thương gặp của người Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, trường ĐHKH&NV.
25. Đỗ Minh Hùng, Lỗi ngữ pháp tiếng Anh thường gặp của người Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường ĐHKH&NV, (2007).
26. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
27. Mã Á Lệ (2011), Lỗi viết câu tiếng Việt của du học sinh Trung Quốc, luận
văn Thạc sĩ NNH, ĐHTN.
28. Đường Công Minh (2003), Phân tích ngữ trung gain với giảng dạy tiếng
pháp ở các trường đại học ngoại ngữ, Ngôn ngữ số 2, 75-80.
29. Hàng Tuyết Minh (2005), Lỗi thường mắc của học viên người Việt khi sử
dùng những động từ nhóm Become, Hội thảo Quốc tế Ngôn ngữ học Liên Á
101
VI, 444-451.
30. Nguyễn Thiện Nam (1996), Nghĩa, dụng pháp và việc giảng dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài, Ngữ học Trẻ 96, tr.128-139.
31. Nguyễn Thiện Nam (1998), Tiếng Việt nâng cao, Nxb Giáo dục.
32. Nguyễn Thiện Nam (2001), Khảo sát lỗi tiếng Việt của người nước ngoài và
những vẫn đề liên quan, Luân án tiến sĩ ngữ văn, Đại học KHXH&NV
ĐHQG.
33. Nguyễn Thiện Nam (2006), “Những vấn đề ngôn ngữ học”, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1998) Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài,
Nxb ĐHQG Hà Nội.
35. Hoảng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Viên Ngôn ngữ học, Nxb
Đà Nẵng.
36. Nguyễn Quang (2002), Giáo tiếp và giao thoa văn hóa, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
37. Nguyễn Anh Quế (1996), Tiếng Việt cho người nước ngoài, Nxb Giáo dục.
38. Nguyễn Đức Tồn (2003), Mấy vấn đề lý luận và Phuong pháp dạy – học từ
ngữ tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQG Hà Nội.
39. Lý Toàn Thẳng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lý thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Nxb KHXK.
40. Lê Quang Thêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Hà Nội, Nxb
ĐH&GDCN.
41. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP.HCM.
42. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2001), Thực hành tiếng Việt, Sách dung cho
người nước ngoại, trình độ C, Trung tâm nguyên cứu Việt Nam và giao lưu
văn hóa, ĐHQG Hà Nội, Nxb Thể giới.
43. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên) (2001), Thực hành tiếng Việt, Sách dùng cho
người nước ngoài, trình độ B, Trung tâm nghiên cưu Việt Nam và giao lưu
102
văn hoa, ĐHQG Hà Nội, Nxb Thể giới.
44. Nguyễn Minh Thuyết (1974), “Mấy gợi ý về việc phân tích và sửa lỗi ngữ
pháp cho học sinh”, Ngôn ngữ, số 1-1975.
45. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), Nguyễn Văn Hiệp (1997), “Tiếng Việt
thực hành”, Nxb ĐHQG Hà Nội.
46. Viện Ngôn Ngữ Học (2004), Từ điển Hán–Việt Nxb tổng hợp TP.HCM.
II. Tài liệu dịch từ tiếng Lào
47. ລຸຣີ ວິນທະ ຺ຄ, (2815) ປື ື້ຠບບຨຼນ າກາງະລ ໍາພັນ ລາງລື້າຄູ ຠ ັຈທະງ ຺ຠ
ຣະບ ຺ບ 11 + 3.
ີ່ 48. ລ ຺ຠລຄ ແຆງະ ຺ຄ (2005), ລຶກລາການມືຠ ໍາເນພາລາຣາ, ພີຠທີ
ນະວນົຄຼຄ ັນ.
ີ່ ຄຣ ັຈ, ນະວນົຄ 49. ລີຼຄຂກ ກວນນິ ຺ຄ, ຨຼນພາລາຼຈຈື້ງຉ ຺ນຽວຄບບຽຣັ
ຼຄ ັນ, (2012)
50. ທວຄ ໍາ ວີ່ວນຠະນີລວນ, ັຈະນານຸກ ຺ຠ ພາລາຣາ, (1992)
51. ບ ຺ຣີ ປະພາພັນ, ພວນລີຢິ ວຸແທ ັນ, ລຄຟື້າ ຣານຸພາບ, ລີພວນ ລຸນ ັນທາ,
ບບຨຼນພາລາຣາ ຆ ັ ື້ນຠ ັຈທະງ ຺ຠລຶກລາ ປີທີ 7 ພິຠທີ ີ່ ບໍຣິລ ັຈ ຣ ັຈິລາະກິຈ
ຨຄພິຠລຶກລາ, (2011)
52. ບ ຺ຣີ ປະພາພັນ, ປື ື້ຠບບຨຼນ າກາງະລ ໍາພັນ ລ ໍາຣ ັບະນະລຶກລາລາຈ ຠະາ
ີ່ ນະວນົຄຼຄ ັນ, (2000) ແຣີ່ຄຆາຈ ພີຠທີ
103
ີ່ ຆຼຄຂາຄ, (1967) 53. ພູຠຠີ ຺ຄິິຈ (ແງາກວນຣາ), ພີຠ ັ ື້ຄທີ1 ທີ
54. ຠີທວຄ ລຸ ັນິແຆ ປື ື້ຠບບຨຼນ ພາລາຣາ- ັນນະະຈີ, ຠ ັຈທະງ ຺ຠຉ ຺ ື້ນປີທີ
ີ່ ນະວນົຄຼຄ, (2008) 3, ພີຠທີ
III. Tài liệu tiếng Anh
55. Elttp (1999), English language teacher training project, JTC methodology
course, book one: Teaching the skills.
56. Frice. C.C (1945), Teaching and learning English as a foreign language
teachers, Ann Arvor, MI: University of Michigan, tr. 85.
57. Lado, R (1957) Teaching learning English as a foreign language, Ann
104
Arbor, MI: University of Michigan.