ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THANH HIẾU

NHỮNG PHỨC ĐIỆU XÚC CẢM CỦA NGUYỄN TRÃI

QUA THƠ NÔM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2016

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ THANH HIẾU

NHỮNG PHỨC ĐIỆU XÚC CẢM CỦA NGUYỄN TRÃI

QUA THƠ NÔM

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM THỊ PHƯƠNG THÁI

Thái Nguyên - 2016

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết

quả được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong

bất kì công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Hiếu

ii

LỜI CẢM ƠN

Được sự phân công của Khoa Văn- Xã hội - Trường Đại học Khoa học - Đại

học Thái Nguyên và được sự đồng ý của cô giáo hướng dẫn PGS-TS. Phạm Thị

Phương Thái, tôi đã thực hiện đề tài: “Những phức điệu xúc cảm của Nguyễn Trãi

qua thơ Nôm”.

Để hoàn thành luận văn này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới

PGS- TS. Phạm Thị Phương Thái đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Văn- Xã hội,

Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên đã quan tâm, tạo điều kiện thuận

lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ, tạo điều

kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,

song trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất

định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô

giáo để luận văn được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Hiếu

iii

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 2

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu ...................................................................... 7

4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 9

5. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 9

6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................................... 10

7. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 10

NỘI DUNG ............................................................................................................. 11

Chương 1: Nguyễn Trãi - “Khí phách” và “tinh hoa” của dân tộc Việt Nam 11

1.1. Thời đại Nguyễn Trãi- những biến động lớn lao .............................................. 11

1.2. Cuộc đời Nguyễn Trãi- cống hiến và bi kịch .................................................... 13

1.3. Văn chương Ức Trai tiên sinh ........................................................................... 18

1.3.1. Văn xuôi ......................................................................................................... 18

1.3.2. Thơ ca ............................................................................................................. 20

1.3.3. “Quốc âm thi tập” trong dòng thi ca dân tộc ................................................ 21

1.4. Khái niệm “phức điệu xúc cảm”………………………………………………24

Chương 2: Nguyễn Trãi – “hồn thơ đa dạng” mà thống nhất ........................... 27

2.1. Sự hội tụ của nhiều người trong một con người ............................................... 27

2.1.1. Khao khát được cống hiến và mong muốn được sống nhàn .......................... 27

2.1.2. Triết gia sắc sảo và điền ông thuần phác ...................................................... 40

2.1.3. Người anh hùng, nhà tư tưởng lớn và nhà nghệ sĩ ....................................... 50

2.1.4. Con người trước quốc gia, dân tộc và con người trong các mối quan hệ đời

thường ...................................................................................................................... 62

iv

2.2. Lí giải về sự đa dạng, phức tạp nhưng thống nhất trong con người Nguyễn Trãi

.................................................................................................................................. 66

2.2.1. Bi kịch bề tôi trung không được tin dùng ...................................................... 66

2.2.2. Sự tiếp thu sáng tạo tinh thần các hệ tư tưởng, tôn giáo ................................ 69

2.2.3. Sự tự ý thức về con người cá nhân ................................................................. 71

Chương 3: Hình thức nghệ thuật thể hiện phức điệu xúc cảm trong thơ

Nôm Nguyễn Trãi ................................................................................................... 75

3.1. Ngôn từ .............................................................................................................. 75

3.1.1. Sử dụng thành công vốn ngôn ngữ bác học .................................................. 75

3.1.2. Tiếp thu, sáng tạo từ ngôn ngữ dân gian ....................................................... 80

3.1.3. Phát huy hiệu quả của những từ chỉ trạng thái cảm xúc ............................... 85

3.2. Cách kiến tạo câu thơ ....................................................................................... 91

3.2.1. Sử dụng linh hoạt, đa dạng các kiểu câu ....................................................... 91

3.2.2. Vai trò của câu lục ngôn trong việc thể hiện phức điệu cảm xúc .................. 93

3.2.3. Từ phức thể tiết tấu đến phức điệu xúc cảm ................................................. 95

KẾT LUẬN………………………………………………………………………100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Tư tưởng, tình cảm của mỗi con người trong một thời đại đều được nảy

sinh và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội thời đại đó.

Nói cách khác, tư tưởng luôn là “con đẻ” của một xã hội nhất định. Nhưng ở những

nhà tư tưởng, nhân cách lớn, việc tìm hiểu con người của họ lại không hề đơn giản,

một chiều. Đó là sự hội tụ của nhiều con người bên trong một con người làm nên

tính đa dạng, phong phú, phức tạp, thú vị.

Nguyễn Trãi (1380-1442) là người anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài

hiếm có trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Những cống hiến của Nguyễn Trãi

là vô cùng lớn lao. Với sự nghiệp bình Ngô, Nguyễn Trãi là người anh hùng dân

tộc, nhà quân sự, nhà chính trị tài ba lỗi lạc. Với sự nghiệp văn chương, Nguyễn

Trãi là một tác gia lớn, một nhà văn hóa kiệt xuất ở thế kỉ XV… Có thể khẳng định,

Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân, danh nhân văn hóa của dân tộc và thế giới, một nhà tư

tưởng lớn, nhân nghĩa, yêu nước thương dân, cả cuộc đời dành trọn cho đất nước.

Ông là niềm tự hào, kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, ông cũng là một

con người “trần thế nhất trần gian”, yêu tình yêu của con người và đau nỗi đau của

con người; một nghệ sĩ đa sầu đa cảm; một con người cá nhân với bao nỗi niềm

thầm kín, trăn trở, giằng xé.

Nguyễn Trãi cũng là một trong số những tác gia văn học tiêu biểu được đưa

vào giảng dạy trong nhà trường. Việc nghiên cứu về tác gia Nguyễn Trãi cho đến

nay, đã có nhiều thành tựu, tuy nhiên, vẫn còn không ít vấn đề cần bổ sung hoặc

nghiên cứu sâu hơn, nhất là khi các bài nghiên cứu thường quan tâm nhiều đến

phương diện anh hùng, con người chức năng mà ít chú ý đến những trạng huống

tình cảm phức tạp trong con người cá nhân Ức Trai.

1.2. Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trên nhiều phương diện,

ở nhiều thể loại. Tác phẩm của Ức Trai là cầu nối đưa chúng ta trở về sáu thế kỉ

trước - thời điểm ông sinh ra và lớn lên đầy những biến động. Khoảng cách giữa

bậc vĩ nhân với một thường nhân như được rút ngắn lại nhờ hệ thống tác phẩm mà

Ức Trai để lại cho đời. Cũng thông qua các tác phẩm đó, người đọc hiểu hơn về con

2

người Nguyễn Trãi - tư tưởng, tài năng, đạo đức và cả những điều băn khoăn, day

dứt của ông về xã hội đương thời.

Trong các sáng tác của Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập được coi là “tác phẩm

mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam”[6]. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi được

đánh giá là người chính thức khởi đầu tập đại thành thơ quốc âm, mở ra một dòng

chảy mới trong nền thơ ca dân tộc. Phải đến Quốc âm thi tập, chúng ta mới thấy hết

một Nguyễn Trãi đa dạng, phức tạp, tinh tế.

Nguyễn Trãi là một tác gia lớn trong nền văn học trung đại nói riêng và nền

văn học Việt Nam nói chung mà việc tìm hiểu về con người cá nhân Nguyễn Trãi

với những xúc cảm hết sức đa dạng, phức tạp qua Quốc âm thi tập đến nay vẫn

chưa đem đến cái nhìn toàn diện. Thế nên, xét về phương diện nội dung thì đây là

một đề tài mới mẻ và hứa hẹn nhiều điều thú vị, bất ngờ khi chúng ta đi sâu nghiên

cứu. Với tấm lòng tôn kính và vô cùng ngưỡng mộ một nhân vật tài ba trong thi đàn

văn học dân tộc, người viết muốn qua đề tài, hiểu thêm về thời đại Nguyễn Trãi, về

tâm tư, tình cảm, nhân cách của ông. Thực hiện đề tài, chúng tôi cũng mong muốn

góp thêm một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy thơ

Nguyễn Trãi nói chung, thơ Nôm của ông nói riêng trong nhà trường.

Đó là những lí do đã thôi thúc chúng tôi đến với đề tài Những phức điệu xúc

cảm của Nguyễn Trãi qua thơ Nôm.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Nguyễn Trãi là một tác gia văn học lớn. Những nghiên cứu về ông trên nhiều

bình diện khác nhau vẫn đang diễn ra khắp nơi trong và ngoài nước. Thế nhưng,

một khía cạnh quan trọng về tác gia Nguyễn Trãi cho đến nay vẫn chưa có sự

nghiên cứu thỏa đáng, đó chính là tính đa dạng, phức tạp, có khi là mâu thuẫn của

những xúc cảm trong con người ông qua Quốc âm thi tập.

Lời giới thiệu cuốn Nguyễn Trãi toàn tập [60] có đánh giá cao những đóng

góp của Nguyễn Trãi cho lịch sử dân tộc và nền văn học nước nhà, đề cao tính tư

tưởng trong các sáng tác của ông: “Duy có Nguyễn Trãi là vị anh hùng cứu quốc

không những đã để lại sự nghiệp còn ghi trong chính sử, mà còn để lại khá nhiều tác

3

phẩm nói lên tư tưởng của ông về các mặt triết học, quân sự, chính trị và nhiều thơ

văn hết sức quý báu” [60, tr.7].

Trong chuyên luận Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa

kiệt xuất [10], các tác giả Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp cũng đã chú ý đến

phương diện con người Nguyễn Trãi. Theo các tác giả, Nguyễn Trãi là người anh

hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hoá kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên

tài. “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết tinh những tư tưởng tiến bộ,

những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc ta từ buổi đầu dựng nước cho đến thế

kỷ XV. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát triển

rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng đất nước, tạo nên một bước tiến mới trong lịch sử

tư tưởng của dân tộc ta” [10, tr.28]. Như vậy, bài viết nhấn mạnh những cống hiến

lớn lao của Nguyễn Trãi, chủ yếu nhìn nhận về ông trên phương diện một “vĩ

nhân”.

Cuốn sách Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm [34] là công trình tuyển chọn

quy mô, công phu của Nguyễn Hữu Sơn. Cuốn sách đã tập trung khá nhiều bài viết

về Nguyễn Trãi, những bài được trích lọc từ các nguồn khác nhau, đã góp phần

mang đến một cái nhìn toàn diện về tác gia Nguyễn Trãi. Tác giả các bài viết cũng

đã phân tích, đánh giá, bình phẩm và đưa ra những nhận định về Nguyễn Trãi với

nhiều góc cạnh, nhiều phương diện khác nhau.

Nhìn một cách bao quát, có rất nhiều bài viết khẳng định những đóng góp về

phương diện nghệ thuật của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập, đó là Âm vang tục

ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi của Bùi Văn Nguyên; Cống hiến

của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt của Hoàng Tuệ; Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời

xen bảy lời trong Quốc âm thi tập của Ngô Văn Phú; Nguyễn Trãi và thể thơ Việt

Nam trong Quốc âm thi tập của Phạm Luận; Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam của Phạm Luận; Một vài nhận xét về mối quan

hệ giữa thể thơ Nôm của Nguyễn Trãi với thể thơ thất ngôn luật ở Trung Quốc của

Phạm Luận- Nguyễn Phạm Hùng; Thử phân định thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Nôm

Nguyễn Bỉnh Khiêm của Nguyễn Tài Cẩn…

4

Bên cạnh đó cũng có những bài viết bàn về con người Nguyễn Trãi. Hoài

Thanh trong Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm [44] cũng đã đưa

ra nhận xét về Nguyễn Trãi: “hình như những lúc này, nhà thơ thấy cần hơn lúc

khác một cách nói, một giọng nói tâm tình. Ta được gặp lại ở đây vẫn con người ấy,

một con người rất đẹp, mà gần gũi hơn, thân mật hơn” [44, tr.698], tác giả cũng chỉ

ra một vài biểu hiện của sự đa dạng, phức tạp trong con người Ức Trai: “cái tình thế

dở dang lúc bấy giờ của Nguyễn Trãi: làm quan không ra làm quan, ở ẩn không ra ở

ẩn” [44, tr.700-701], “thực ra ông chưa muốn về, hoặc có người nghĩ tài năng của

ông giờ đã lỗi thời rồi nhưng tấm lòng của ông, ông biết, thì vẫn son sắt như xưa”

[44, tr.705], “và dầu không được tin dùng, ông vẫn chưa thể nào yên trong cuộc đời

ẩn dật” [44, tr.705]. Một mặt, Hoài Thanh thấy được “nét tiêu biểu nhất của con

người Nguyễn Trãi qua thơ, ấy là ý thức trách nhiệm đối với dân, với nước” [44,

tr.708]. Mặt khác, tác giả bài viết cũng phát hiện ở Nguyễn Trãi “một hồn thơ chan

chứa tin yêu như thể tự nhiên là có những lời thơ tình tứ” [44, tr.713]. Tuy nhiên, đó

mới chỉ là những lời đánh giá chung chung, mang tính khái quát.

Trong Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam của

Xuân Diệu [6], tác giả đã đánh giá rất cao vị trí của tập thơ cũng như những đóng

góp của Nguyễn Trãi đối với văn học nước nhà. Bài viết chú ý vào những đóng góp

về nghệ thuật của tập thơ. Xuân Diệu cũng đã phát hiện ra tính đa dạng, phức tạp

trong con người Nguyễn Trãi mà đến Quốc âm thi tập mới thấy hết: đó là hình ảnh

một vĩ nhân và hình ảnh một con người “trần thế nhất trần gian” trong Nguyễn Trãi,

nhưng vấn đề này mới chỉ được tác giả bài viết đề cập với tính chất khai mở.

Bài Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi của Trần Đình Sử [37]

cũng đã đề cập đến khía cạnh: “sự lựa chọn day dứt giữa các tư tưởng, các con

đường” ở Nguyễn Trãi. Nhưng tác giả bài viết mới chỉ chú trọng vào những biểu

hiện của con người cá nhân, chứ chưa phải sự nghiên cứu toàn diện về những biểu

hiện đa dạng, phức tạp trong tư tưởng, tình cảm của con người Nguyễn Trãi.

Tế Hanh trong bài Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi [12] đã chú ý “địa hạt

của thơ trữ tình” để thấy được sự đa dạng của con người Nguyễn Trãi, thấy được

“Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng”[12, tr.718] và cũng “chưa có nhà thơ nào nói

5

đến những nỗi niềm riêng của mình nhiều như Nguyễn Trãi”[12, tr.719]. Tuy nhiên,

phạm vi nghiên cứu của tác giả không chỉ là Quốc âm thi tập mà còn cả tập thơ chữ

Hán Ức Trai thi tập. Ngoài ra, bài viết có dung lượng ngắn nên vấn đề mà chúng ta

đang bàn chưa được chú trọng, chưa được khai thác toàn diện, sâu sắc.

Mượn đá để ngồi là bài viết khá ấn tượng về “Tính cách lưỡng nguyên của

con người Nguyễn Trãi- một là người anh hùng, một là nhà hiền triết” [54, tr.507];

“bên cạnh thế giới chân thực và trong sáng này, Nguyễn Trãi thường nói tới một thế

giới bí mật khác mà ông đã quá biết và khước từ: cái xã hội- triều đình chứa đầy

những danh lợi cặn bã và mưu đồ cá nhân…Trong thơ Nguyễn Trãi thời kì này luôn

luôn xuất hiện hình ảnh đối lập của hai thế giới ấy, đồng thời lí giải sự lựa chọn

“hoặc về- hoặc ở” của ông, sự lựa chọn giữa danh lợi và tự do, giữa đời quan giả

hình và đời dân chân thực, giữa ảo hóa và minh triết” [54, tr.513]; “Nguyễn Trãi

chưa bao giờ là đạo sĩ thực sự để quên đời, và chưa bao giờ là quan triều thực sự để

quên dân” [54, tr.516]. Như vậy, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã chú ý đến

tính chất đa dạng, phức tạp trong con người Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, đó chưa phải

là tất cả những “phức điệu xúc cảm” trong con người Nguyễn Trãi. Hơn nữa, tác giả

bài viết mới chỉ tìm hiểu về Nguyễn Trãi qua mảng thơ chữ Hán.

Trong Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi, Đặng Thai Mai cũng đã phát

hiện ra một điều: “tâm hồn cụ Ức Trai cũng đã nhiều phen bị vướng vít bởi những ý

nghĩ chua chát. Nên ngồi lại trong triều đình hay rút lui về ẩn dật?...Đó là mâu thuẫn

lớn nhất trong tâm lí của thi sĩ vào những năm cuối đời” [23, tr.926]. Đó mới là một

trong rất nhiều những băn khoăn, những xúc cảm trái chiều ở Nguyễn Trãi. Tác giả

có cái nhìn bao quát về sáng tác của Nguyễn Trãi, cả văn xuôi và thơ ca, thế nên,

đặc điểm trên trong con người Nguyễn Trãi chưa được khai thác kĩ.

Nguyễn Văn Hoàn trong Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển

của lịch sử văn học Việt Nam đã đánh giá cao tư tưởng nhân nghĩa trong Nguyễn

Trãi, nhưng mới dừng lại ở những tác phẩm văn chính luận. Tác giả cũng đề cao thơ

Nôm Nguyễn Trãi, thấy được Quốc âm thi tập có điều kiện bộc lộ con người riêng

tư Nguyễn Trãi” [14, tr.953], nhưng mới chỉ là “tâm tư và cuộc sống ẩn dật, thanh

đạm…nơi thôn cùng, xóm vắng” [14, tr.953]. Phần này, tác giả nói rất ngắn gọn.

6

Bài viết khẳng định “địa vị của Nguyễn Trãi”, chủ yếu bởi sự đóng góp về nghệ

thuật trong Quốc âm thi tập: “với sự đổi mới về đề tài, ngôn ngữ, thể loại văn

học…trong đó việc sử dụng một cách mạnh dạn và sáng tạo ngôn ngữ dân tộc là

một thành tựu nổi bật, Nguyễn Trãi là người tiêu biểu cho một xu hướng chủ đạo,

một quá trình lịch sử có ý nghĩa trọng đại” [14, tr.954].

Trong Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam [25] do Nguyễn Đăng Na chủ

biên, tác giả Lã Nhâm Thìn đã có những phân tích chi tiết, sâu sắc về thơ văn của

Nguyễn Trãi, đặc biệt là trong thơ chữ Nôm: “Quốc âm thi tập giữ một vị trí quan

trọng trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi là tác

phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc hiện còn. Đây đồng thời cũng là tập đại

thành của thơ ca tiếng Việt. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi là nhà “khai sơn phá

thạch”, người đặt nền móng xây dựng một thể thơ mới cho văn học dân tộc trên cơ

sở tiếp thu có sáng tạo thể thơ Đường luật Trung Quốc”, Quốc âm thi tập đã khẳng

định vai trò và khả năng to lớn của ngôn ngữ tiếng Việt trong chức năng thẩm mĩ,

trong việc phản ánh đời sống xã hội và tâm trạng con người” [25, tr.132]. Tính

phong phú, phức tạp trong “tâm trạng” Nguyễn Trãi chưa được tác giả khai thác.

Cuốn sách Thơ- thi pháp và chân dung của Đặng Tiến [53] có đề cập đến

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Nhưng trong bài viết này, tác giả chỉ chú ý đến

thơ Nôm của Nguyễn Trãi như là một “tập thơ tiếng Việt đầu tiên” của dân tộc và

chú trọng phân tích những nét sáng tạo của Nguyễn Trãi trong tập thơ này so với

thơ ca trung đại cổ điển cũng như so với thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi. Bên cạnh

đó, tác giả còn nhận định về phần nội dung của Quốc âm thi tập là phong phú hơn

Ức Trai thi tập, đặc biệt là cảnh thiên nhiên chứ chưa nói đến đặc điểm con người

Nguyễn Trãi.

Chuyên khảo Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền thơ dân tộc viết bằng

tiếng Việt của Phạm Thị Phương Thái, ngoài việc khẳng định đóng góp lớn của Quốc

âm thi tập về phương diện ngôn ngữ và thể thơ, còn cho thấy mối tương quan giữa

các yếu tố nghệ thuật đó với nội dung phản ánh của tác phẩm, với thế giới nội tâm

của Nguyễn Trãi. “Dấu ấn cá tính con người Nguyễn Trãi cũng được bộc lộ khá rõ

trong cách diễn đạt, chọn lựa và sử dụng ngôn từ” [43, tr.100]. Tác giả cuốn sách

7

cũng đã chú ý tới đặc điểm con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm: “Thơ quốc âm

Nguyễn Trãi còn thể hiện khá sâu sắc tiếng nói những trạng huống tình cảm. Đó là

những trạng thái tình cảm nhiều khi đối lập trong con người cá nhân tác giả” [43,

tr.101] cùng những phát hiện tinh tế: “Hành động của người anh hùng Nguyễn Trãi

khiến ta chạnh nhớ đến tiểu thư đa sầu đa cảm Lâm Đại Ngọc từng chôn cánh hoa

đào, khóc thương cho kiếp hoa tàn, thi nhân họ Nguyễn không nỡ quét sân, sợ vỡ

ánh trăng, chẳng dám khua mái chèo, khuấy động mặt nước” [43, tr.102]. Vai trò của

nhịp điệu trong Quốc âm thi tập cũng được tác giả cuốn sách đánh giá cao: “Nhà thơ

muốn dùng tiết điệu phong phú để diễn tả tâm hồn phóng khoáng, trạng huống tình

cảm phức tạp trong con người anh hùng- nghệ sĩ của mình” [43, tr.170]. Theo tác giả

Vũ Thanh trong lời giới thiệu ở phần “Lời nói đầu”, chuyên luận này “giàu tính

tranh luận và gợi mở, nên chắc chắn còn nhiều vấn đề mang tính khoa học cần trao

đổi và bàn luận thêm”. Bởi thế, chúng tôi muốn tiếp tục tìm hiểu sâu hơn, toàn diện

hơn từ những vấn đề mà tác giả chuyên luận đã “gợi mở”.

Tóm lược lại lịch sử vấn đề của đề tài Những phức điệu xúc cảm của

Nguyễn Trãi qua thơ Nôm, chúng tôi thấy rằng tuy đây không phải là một vấn đề

mới hoàn toàn, nhưng những bài nghiên cứu có liên quan đến đề tài chưa có tầm

bao quát cao, vấn đề chưa được đặc biệt chú trọng, chưa được đặt thành hệ thống.

Tuy vậy, những bài viết, những công trình nghiên cứu có liên quan đến tập thơ

Quốc âm thi tập, đến con người Nguyễn Trãi qua thơ đều là những gợi ý, định

hướng rất cần thiết để chúng tôi thực hiện đề tài này. Trên cơ sở kế thừa và phát

triển thành quả của những người đi trước, chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn hệ

thống và tương đối toàn diện hơn về tính đa dạng, thống nhất trong cảm xúc con

người cá nhân Nguyễn Trãi qua Quốc âm thi tập. Từ đó khẳng định một cách toàn

diện, sâu sắc hơn con người, cũng như tài năng, vai trò, vị trí, những đóng góp của

Nguyễn Trãi cho nền văn học dân tộc.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác

của Nguyễn Trãi. Phải đến Quốc âm thi tập, chúng ta mới thấy hết một con người

8

cá nhân Nguyễn Trãi vô cùng đa dạng, phức tạp. Vì thế, khảo sát Quốc âm thi tập sẽ

là căn cứ để khái quát, đánh giá những trạng huống tình cảm phức tạp trong con

người Nguyễn Trãi theo nguyên lí đối lập nhưng thống nhất.

3.2. Mục đích nghiên cứu

- Nguyễn Trãi là một tác gia văn học lớn, một nhân cách, tư tưởng cao đẹp

để lại cho chúng ta nhiều bài học lớn từ cuộc đời của ông. Với đề tài này, người viết

muốn được tìm hiểu về những trạng huống tình cảm phức tạp trong con người

Nguyễn Trãi qua thơ Nôm trong tính đa dạng, đối lập nhưng thống nhất để từ đó

thấy được sự đa dạng, phong phú, thú vị trong con người cá nhân của ông; cũng như

góp phần làm sáng tỏ thêm về thời đại và con người Nguyễn Trãi. Lịch sử xã hội

thời Nguyễn Trãi đầy những biến động, trong khi đó, con người ông lại vô cùng đa

cảm trước những biến đổi của ngoại cảnh. Tuy giá trị của thơ văn Nguyễn Trãi

trong kho tàng văn học dân tộc là không nhỏ nhưng việc tìm hiểu đúng về tính đa

dạng, phức tạp trong con người cá nhân Nguyễn Trãi cũng là nhằm góp phần trả lại

cho ông vị trí xứng đáng nhất trên văn đàn.

- Nguyễn Trãi cũng là một trong số những tác gia văn học được dạy, học

trong nhà trường phổ thông, đặc biệt là một số bài thơ được trích trong Quốc âm thi

tập. Vì thế, việc trang bị cho mình những hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về con người

Nguyễn Trãi qua Quốc âm thi tập là một việc làm ý nghĩa, sẽ giúp ích rất nhiều cho

bản thân người viết trong quá trình giảng dạy.

- Thực hiện đề tài này, chúng tôi không kì vọng có những đóng góp mới mẻ,

có tính chất đột phá. Tuy nhiên, bằng việc đi sâu phân tích, luận giải những cảm xúc

phong phú, đa dạng, thống nhất trong con người tác giả Quốc âm thi tập một cách

hệ thống, người viết mong muốn đóng góp một tiếng nói riêng, một cái nhìn toàn

diện hơn về con người Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập, góp phần làm đầy đủ

hơn hệ thống các đề tài nghiên cứu về tác gia Nguyễn Trãi, làm phong phú hơn các

tư liệu tìm hiểu về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm.

9

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng tổng hợp một số phương

pháp chính:

- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Nguyễn Trãi vừa với tư cách là một nhà

thơ cổ điển lại vừa là một nhân vật lịch sử lớn ở thế kỉ XV, mối quan hệ giữa con

người văn học và con người lịch sử trong thơ ông là vô cùng mật thiết, sâu sắc, con

người cá nhân của ông cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh lịch sử - xã

hội. Vì vậy, sử dụng phương pháp lịch sử sẽ góp phần đảm bảo tính khách quan

cao, cũng như có cơ sở để đưa ra những nhận định về những mâu thuẫn trong chính

con người Nguyễn Trãi.

- Phương pháp tiểu sử: Trang thơ của Nguyễn Trãi gắn liền với cuộc đời có

biết bao thăng trầm, nhiều biến cố của ông. Phương pháp này giúp người viết có thể

hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn về những trạng huống tình cảm phức tạp trong con người

Nguyễn Trãi.

- Ngoài ra, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tác phẩm, phương

pháp hệ thống sẽ nhằm hỗ trợ khi phân tích, tổng hợp vấn đề, để từ đó thấy được nét

đặc sắc ở con người Ức Trai, vai trò to lớn của ông trong nền văn học dân tộc và

trong lịch sử Việt Nam.

Cùng với các phương pháp, người viết còn sử dụng các thao tác liên quan,

như: phân tích, tổng hợp, bình luận (để phân tích các đặc điểm, các nhân tố cấu

thành nên con người đại chúng và con người cá nhân Nguyễn Trãi, trên cơ sở đó

tổng hợp để đưa ra những nhận định xác đáng, chung nhất về đặc điểm con người

Nguyễn Trãi), khảo sát, thống kê, phân loại (tác dụng cung cấp những dữ liệu, số

liệu chính xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luận văn).

5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Người viết tập trung chủ yếu vào tập thơ Quốc âm thi tập, với bản phiên âm

và chú giải của tác giả Phạm Luận [20]. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan,

khoa học trong việc đánh giá, chúng tôi có sự liên hệ đối sánh với một số tác giả,

tác phẩm văn học trung đại khác.

10

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài trang phụ bìa (01 trang), lời cam đoan (01 trang), lời cảm ơn (01

trang), phần mở đầu (10 trang), kết luận (03 trang), tài liệu tham khảo (05 trang),

phụ lục (15 trang), phần nội dung của luận văn (89 trang) gồm 3 chương:

+ Chương 1: Nguyễn Trãi- “khí phách” và “tinh hoa” của dân tộc Việt Nam

(từ trang 11 đến trang 26)

+ Chương 2: Nguyễn Trãi – “hồn thơ đa dạng” mà thống nhất (từ trang 27

đến trang 74)

+ Chương 3: Hình thức nghệ thuật thể hiện phức điệu xúc cảm trong thơ

Nôm Nguyễn Trãi (từ trang 75 đến trang 99)

7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Nghiên cứu đề tài Những phức điệu xúc cảm của Nguyễn Trãi qua thơ

Nôm, luận văn có những đóng góp cụ thể:

- Nhận diện và mô tả về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm với tính đa

dạng, phong phú, phức tạp, thú vị.

- Đem đến một cái nhìn khái quát, toàn diện, mới mẻ về con người Nguyễn

Trãi qua thơ Nôm.

- Cung cấp kết quả nghiên cứu làm căn cứ cho việc tìm hiểu, đánh giá về

những biểu hiện của con người cá nhân, về tính đối thoại trong một con người ở các

tác giả lớn của văn học trung đại Việt Nam.

11

NỘI DUNG

Chương 1

NGUYỄN TRÃI - “KHÍ PHÁCH” VÀ “TINH HOA”

CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

Nguyễn Trãi (1380- 1442) là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử Việt

Nam thời phong kiến. Ông là bậc anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn kiệt xuất, nhà

tư tưởng lớn, nhà chính trị, ngoại giao, nhà sử học và địa lí học tài năng, là danh

nhân văn hóa thế giới. Có thể nói, con người ông là “khí phách”, là “tinh hoa” của

dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trãi có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng

dân tộc, cho sự phát triển của văn hóa, văn học dân tộc. Nhưng ông cũng là người

có rất nhiều trăn trở và phải chịu những oan khiên thảm khốc dưới thời phong kiến.

Mặc dù vậy, sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi với nhiều tác phẩm lớn, có giá trị,

đặc biệt là Quốc âm thi tập, đã khẳng định thiên tài văn học Nguyễn Trãi là một

hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học dân gian, văn thơ Lí- Trần, đồng

thời mở đường cho cả một giai đoạn phát triển mới của văn học dân tộc.

1.1. Thời đại Nguyễn Trãi - những biến động lớn lao

Giữa con người và thời đại luôn tồn tại mối quan hệ biện chứng. Mỗi cá nhân

đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đều gắn với một thời đại nhất

định. Chính những đặc điểm của tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử-

cụ thể đó sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất, tài năng cũng như hệ tư tưởng, ý thức của cá

nhân. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng các hoạt động thực tiễn của mình, qua các

mối quan hệ xã hội, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và

phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ, bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Để

hiểu rõ hơn về con người, về sáng tác của Nguyễn Trãi, chúng ta cùng ngược dòng

thời gian, trở về với lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV- một giai đoạn

đầy hào hùng với những biến động lớn lao.

Uy thế vương triều nhà Trần (1225 - 1400) đang đi vào giai đoạn suy vong.

Tất cả danh thời “nhị đế” của nhà Trần giờ này chỉ còn là những kí ức xa xăm,

những luyến tiếc sâu sắc trong trí nhớ của nhân dân. Từ thời Trần Dụ Tông (1341 -

12

1369), người ta đã thấy kế tiếp nhau leo lên ngôi là một loạt các vị vua bất kể tuổi

tác, bất kể họ có hay không có năng lực trị vì đất nước. Chính trị rối ren, đời sống

nhân dân khổ cực. Mâu thuẫn nội tại đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước

láng giềng thực hiện ý đồ xâm lược. Mối hiểm hoạ cứ thế tràn xuống từ hai miền

Nam - Bắc.

Ở phía Nam, với sự suy yếu của nhà Trần, quan hệ bang giao với vương

quốc Chiêm Thành ngày một xấu đi rõ rệt. Ở phía Bắc, chỉ mấy năm sau khi biết rõ

nội tình nhà Trần, nhà Minh đã tiến hành bành trướng nước ta. Trong lúc giặc Minh

đang ráo riết để thực hiện ý đồ của mình, Hồ Quý Ly đã ép Trần Thiếu Đế nhường

ngôi cho mình, nhanh chóng lật đổ nhà Trần. Hồ Quý Ly lên ngôi vua với mong

muốn chấn chỉnh lại kỉ cương triều đình, bảo vệ đất nước. Bên cạnh những chính

sách chủ trương để thực hiện khát vọng xây dựng một quốc phú binh cường, họ Hồ

đã phạm sai lầm lớn, để mất lòng dân. Và nhân “họ Hồ chính sự phiền hà/ Nên

trong nước lòng dân oán giận”, năm 1407, giặc Minh đã kéo gần 80 vạn binh xâm

lược Đại Ngu, cơ đồ của nhà Hồ sụp đổ hoàn toàn. Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt,

dân tộc bị đẩy vào thảm nô lệ trong suốt 20 năm ròng.

Sau mười năm kháng chiến gian khổ, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do minh chủ

Lê Lợi cùng với sự phò tá đắc lực của Nguyễn Trãi đã toàn thắng. Cuộc khởi nghĩa

đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, giang sơn thu về một mối, cả dân tộc

bước vào cuộc trung hưng lần thứ hai. Không chỉ Tổ quốc dựng “đài xuân dân tộc”

mà chế độ phong kiến cũng đạt đến độ hoàng kim nhất ở nửa cuối thế kỷ XV.

Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi không thể tách rời với tên tuổi Nguyễn Trãi.

Sau khi lên ngôi hoàng đế (1428), Lê Lợi đã phong cho Nguyễn Trãi làm Quan

phục hầu, được ban quốc tính (họ Lê). Nhưng giữa lúc “trăm họ” đang chờ đợi một

cuộc sống thái bình với vua hiền, tướng giỏi thì bản chất của chế độ đã bộc lộ. Triều

đình nhà Lê đầy rẫy những mâu thuẫn gay gắt giữa các phe phái hòng thôn tính,

thanh trừ, lật đổ lẫn nhau. Bản thân Lê Lợi - vốn là một vị tướng tài ba trên chiến

trường - nay lại nghe lời xiểm nịnh của bọn gian thần, sát hại một số công thần như:

Trần Nguyên Hãn (1429), Phạm Văn Xảo (1430). Riêng Nguyễn Trãi cũng bị nghi

ngờ và đã từng bị giam cầm (1430). Đến đời Lê Thái Tông, tình hình chia rẽ lại

13

càng căng thẳng. Sống trong môi trường chật hẹp, giẫm đạp lên nhau, Nguyễn Trãi

không thể có một cơ hội nào để thi thố tài năng nữa. Cuộc đời của một con người vì

dân, vì nước này bị thời đại khép lại bằng “vụ án Trại Vải” mà lịch sử gọi là án

“thiên cổ kì oan”.

Tìm hiểu Nguyễn Trãi, chúng tôi không tìm hiểu ông như một cá nhân- nhà

trí thức yêu nước nào đó - mà tìm hiểu ông với tư cách là một nhân vật lịch sử, một

nhà văn hoá lớn với những tác phẩm đã phản ánh cả một thời đại lịch sử, với những

tư tưởng ở nhiều điểm như là phát ngôn cho cả một dân tộc thời Nguyễn Trãi.

Chính thời đại cuối Trần, đầu Lê đã tạo ra người anh hùng- bậc vĩ nhân, làm rạng rỡ

non sông đất nước ta- Nguyễn Trãi.

1.2. Cuộc đời Nguyễn Trãi - cống hiến và bi kịch

Nguyễn Trãi (1380- 1442) hiệu là Ức Trai. Cha là Nguyễn Ứng Long (tức

Nguyễn Phi Khanh), tên hiệu là Nhị Khê, vốn gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng

Nhỡn (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), sau này di cư sang làng Ngọc Ổi (sau đổi

tên thành Nhị Khê), huyện Thượng Khê (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội). Mẹ là

Trần Thị Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán.

Sinh ra đã có tư chất thông minh, ngay từ nhỏ, Nguyễn Trãi đã tỏ ra rất ham

học. Điều đó đã được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:

Cố viên loạn hậu hữu tiên lư,

Lục tuế nhi đồng phả ái thư.

Nghĩa là:

Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ,

Sáu tuổi con thơ rất thích sách.

Thế nên tuổi mới chừng đôi mươi mà Nguyễn Trãi đã tinh thông các thư sử.

Nhà sử học Phan Huy Chú đã nhận xét: “Ông [Nguyễn Trãi] tuổi trẻ đã văn chương

nổi tiếng. Kinh sử, bách gia, binh thư thao lược, đều am hiểu cả”[3].

Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình có hai truyền thống lớn: truyền

thống yêu nước và văn hóa, văn học. Dòng tộc của ông nhiều đời là võ quan cao cấp

14

dưới nhiều triều đại, với truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết, mang lập

trường thân dân, đã từng đứng về phía người dân đấu tranh dũng cảm chống lại

cường quyền, bạo lực. Dòng họ Nguyễn với thủy tổ là Định Quốc công Nguyễn

Bặc, người đã cùng với Thái tể Đinh Điền phò tá Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai

sứ quân. Cụ nội là Nguyễn Công Luật đã từng giữ chức Giám quân Thiên Trường.

Ông nội là Nguyễn Minh Du giữ chức Quản quân Thiết hổ- một trong năm vị tướng

đứng đầu năm đội quân cấm binh bảo vệ hoàng thành Thăng Long. Ông ngoại là

Chương Túc Quốc Thượng hầu Tư đồ Trần Nguyên Đán (1325-1390), hoàng tộc

nhà Trần, là cháu bốn đời của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải - con trai

thứ của Trần Thái Tông, người sáng lập nhà Trần. Từ nhỏ, đã nổi tiếng thông minh

hơn người, tính cách khiêm nhường, cầu thị, luôn kiên trì học tập, rèn luyện nên

Trần Nguyên Đán sớm trở thành một tài năng lớn, một tấm gương về phẩm chất đạo

đức, giàu lòng vị tha, có hoài bão lớn. Bên cạnh những đóng góp to lớn về chính trị,

quân sự, ngoại giao, Trần Nguyên Đán còn là một nhà văn hóa, nhà thơ lớn đời hậu

Trần. Ông thông hiểu kinh sách, nghiên cứu sâu sắc các học thuyết Nho, Phật, Lão.

Ông là nhà lịch pháp lớn đầu tiên của nước ta quan tâm nghiên cứu nông lịch.

Trước tác của ông có Bách thế thông khảo, Băng Hồ ngọc hác tập...hiện còn 51 bài

thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Khi triều Trần suy tàn, ông xin về nghỉ ở Côn Sơn

(1385) sống ẩn dật, vui với trúc thông, làm bạn với thơ phú. Tuy vậy, ông vẫn lo

việc nước, biểu lộ qua nhiều bài thơ thấm đượm niềm cảm thông sâu sắc với cuộc

sống vất vả của nhân dân... Sau này, Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng rất lớn từ ông

ngoại, quan tư đồ Trần Nguyên Đán.

Thân phụ Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long (1336-1408), sau đổi tên là

Nguyễn Phi Khanh là người thông minh, ham học, thi đỗ nhị giáp tiến sĩ nhưng gặp

nhiều trắc trở trên con đường công danh, sự nghiệp.

Ông ngoại và cha là những người trực tiếp ảnh hưởng đến Nguyễn Trãi, đặc

biệt là ông ngoại. Nguyễn Trãi đã ảnh hưởng sâu sắc từ người ông tư tưởng yêu

nước thương dân, tư tưởng thân dân. Ý thức dân tộc trong con người Ức Trai rất

toàn diện, sâu sắc, trong kháng chiến và trong cả thời bình.

15

Sinh ra trong một gia đình có nhiều thuận lợi cả về điều kiện vật chất và môi

trường giáo dục, song ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã phải chịu nhiều mất mát đau

thương về mặt tình cảm. Lên 5 tuổi mẹ mất, lên 10 tuổi, ông ngoại- người vốn gắn

bó với Nguyễn Trãi ngay từ khi Nguyễn Trãi mới lọt lòng lại qua đời. Những vui

buồn của thuở thiếu thời đã in sâu vào tâm hồn Ức Trai. Lớn lên, Nguyễn Trãi lại

chứng kiến những sự đổi thay của triều đình phong kiến mà cụ thể là nhà Hồ cướp

ngôi nhà Trần, xác lập địa vị thống trị của mình (1400). Có thể nói, thời đại và gia

đình trở thành hai nhân tố quan trọng ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành, phát

triển nhân cách cũng như tài năng của Nguyễn Trãi- một tài năng toàn diện, một tư

tưởng trung quân ái quốc bền chặt, một tâm hồn giàu xúc cảm, nhân ái.

Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Ông không đi theo quý tộc nhà

Trần mà ra làm quan cho nhà Hồ. Điều đó, vừa thể hiện nhiệt huyết một lòng vì

dân, vì nước, vừa thể hiện tư tưởng tiến bộ ở Nguyễn Trãi :

Một thân lẩn quất đường khoa mục,

Hai chữ mơ màng việc quốc gia. (Bài 8)

Tuy nhiên, không bao lâu sau khi lên ngôi với những cải cách táo bạo, năm

1407, nhà Hồ bị thất sủng. Giặc Minh chiếm lĩnh và thống trị nước ta. Nguyễn Trãi

đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan, ông khắc sâu lời cha dặn “Con trở về lập chí,

rửa thẹn cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”. Nguyễn Trãi trở về

xuôi nhưng vừa về đến Đông Quan, ông đã bị giặc Minh bắt giam. Suốt thời gian bị

giam lỏng ở Đông Quan, mặc dù kẻ thù ra sức mua chuộc, Nguyễn Trãi vẫn luôn

giữ được tấm lòng trong sạch của mình và ấp ủ tấm ân tình giúp vua, giúp nước:

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng. (Bài 132)

Năm 1417, Nguyễn Trãi bỏ trốn khỏi Đông Quan, đến Lỗi Giang (Thanh

Hoá) gặp Lê Lợi và dâng Bình Ngô sách. Đó là cuốn sách bàn về chiến lược đánh

giặc Minh, với phương châm cơ bản “không nói đánh thành giỏi mà bàn về cách

đánh vào lòng người”. Đường lối chiến lược của Nguyễn Trãi được Lê Lợi và Bộ

tổng tham mưu nghĩa quân chấp nhận và tiến hành thắng lợi.

16

Vừa tham gia trù hoạch quân mưu, giúp Lê Lợi dự thảo các văn kiện chính

trị, ngoại giao, Nguyễn Trãi đồng thời cũng phấn đấu để trở thành “nhà thơ - chiến

sĩ”. Trong khoảng thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã cho ra

đời tập thư binh vận - luận chiến Quân Trung từ mệnh tập nổi tiếng, sử dụng “đao

bút” như một thứ vũ khí lợi hại, góp phần làm suy yếu tinh thần quân địch. Cuối

năm 1427, đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi giao cho

Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm được đánh giá là bản tuyên ngôn độc

lập lần thứ hai của dân tộc, một “áng thiên cổ hùng văn” của đất nước.

Sau khi hoàn thành chiến lược “tâm công” đối với quân địch, Nguyễn Trãi

được Lê Lợi giao cho những chức vụ trọng trách trong triều đình. Ông hăng hái thi

thố tài năng để phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân. Chúng ta thấy ở Nguyễn

Trãi hình ảnh một con người với ý thức dân tộc sâu sắc, vì dân với khao khát cống

hiến luôn cháy bỏng. Song vị anh hùng- nhà thơ tài hoa ấy đã bị bọn phản thần trù

dập, ghen ghét. Chúng tìm mọi cách khép Nguyễn Trãi vào tội gian thần, bị Lê Thái

Tổ bắt giam. Lê Thái Tổ mất, Lê Thái Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi tuy có được khôi

phục chức cũ nhưng vẫn là cảnh “danh suông vạ thực”. Năm 1439, Nguyễn Trãi xin

về Côn Sơn ở ẩn. Côn Sơn thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là mảnh đất có ý

nghĩa vô cùng với Nguyễn Trãi - nơi mà ông ngoại Nguyễn Trãi, năm 1385, đã xin

cáo quan để về với Côn Sơn, dựng Thanh Hư động và đón mẹ con Nguyễn Trãi về

cùng sống. Như vậy, mối giao cảm đầu tiên của ông đối với thế giới bên ngoài

chính là thiên nhiên đầy thơ mộng của Côn Sơn. Đó cũng là lí do rất tự nhiên khiến

suốt cuộc đời mình, ông đã dành cho Côn Sơn một tình yêu đặc biệt. Trong suốt

những tháng năm bận rộn đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho lí tưởng

nhân nghĩa, chưa một lúc nào ông quên cái mảnh đất muôn quý ngàn yêu ấy. Tình

cảm của ông dành cho Côn Sơn như với một người thân vậy. Gắn bó như thế nên

khi cuộc đời Nguyễn Trãi gặp bế tắc trên con đường thực hiện lí tưởng nhân nghĩa

thì tình yêu Côn Sơn đã lên tiếng gọi và thôi thúc ông trở về đây sống cuộc đời nhàn

dật với cảm giác thật nhẹ nhàng, thanh thản:

Nghìn dặm xem mây nhớ quê,

Chẳng chờ cởi ấn gắng xin về.

17

Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,

Hai chữ công danh biếng vả vê.

(Bài 155)

Cả cuộc đời Nguyễn Trãi có khoảng 17 năm ông gắn bó với Côn Sơn. Có thể

nói, tình cảm của ông đối với Côn Sơn vừa là một biểu hiện tự nhiên của tình yêu

quê hương đất nước, lại vừa là một thái độ chính trị, một quan điểm nhân sinh của

một nhân cách lớn. Đồng thời, nó cũng là một đau lớn, một bế tắc lớn của một lí

tưởng xã hội không thể thực hiện được trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Chính

những tình cảm, tâm sự ấy đã tạo nên một nguồn thi hứng rất phong phú, đặc biệt là

trong Quốc âm thi tập. Những bài thơ đã thể hiện tấm lòng “tùng bách kiên trinh”

và “âu việc nước” của thi nhân. Khi Lê Thái Tông lớn lên, hiểu được tài năng, tâm

huyết của con người đại trung, đại hiếu này, ông lại vời Nguyễn Trãi về làm quan.

Nguyễn Trãi đang hi vọng một thời cơ mới thì thật không may chỉ sau ba năm, thảm

họa giáng xuống. “Thiên cổ kì oan” Lệ Chi Viên đã khiến ông không còn cơ hội

thực hiện hoài bão của mình. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi và

cũng là bi kịch của cả lịch sử dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Nói như nhà nghiên

cứu, phê bình văn học Đặng Thai Mai: “Một thanh thiếu niên đã được bồi dưỡng kĩ

càng trong một gia đình yêu nước, đã chia sẻ nỗi đau khổ của đất nước cùng với

nhân dân; một chí sĩ đã cống hiến tất cả trí tuệ, nghị lực mình cho sự nghiệp giải

phóng nước nhà; một nhà chính trị, một nhà chiến lược thiên tài, một nhà ngoại giao

lão luyện, và đồng thời cũng là một học giả uyên bác, một nhà văn, một nhà thơ lỗi

lạc; một đời sống lộng lẫy và… một kết cục quá tàn nhẫn; Đó là vận mệnh của

Nguyễn Trãi” [46, tr.20].

Từ một người luôn cháy bỏng kháo khát cống hiến và đã cống hiến được rất

nhiều, Nguyễn Trãi rơi vào bi kịch của một bề tôi trung không được tin dùng, rơi

vào sự cô đơn trống trải. Thật trớ trêu là Nguyễn Trãi đã phải rơi đầu dưới chính

lưỡi gươm của triều đình mà ông đã góp phần xương máu làm nên, một triều đình

mà ông đã đặt biết bao kì vọng. Nhìn lại suốt quãng đời của Nguyễn Trãi, cho dù

trong hoàn cảnh nào, dù ở bất cứ cương vị nào, chúng ta thấy ông luôn dành trọn

18

tình cảm sâu nặng, bền chặt cho đất nước, nhân dân, khẳng định sự đóng góp vĩ đại

của mình đối với dân tộc. Tất cả điều này đều để lại dấu ấn trong thơ Nôm của ông.

Có thể nói, Nguyễn Trãi là kết tinh cao đẹp nhất cả tài năng, tinh hoa và khí

phách của dân tộc trong thời đại ông và mãi về sau. Nguyễn Trãi đã trở thành một

biểu tượng rất đẹp của thiên tài Việt Nam. Ông là một bậc toàn tài hiếm có trong

lịch sử, một bậc đại công thần khai quốc nhưng cũng lại là người chịu nhiều oan

khiên. Mặc dù Nguyễn Trãi không còn nữa, hoạt động của ông đã thuộc về quá khứ

nhưng tấm gương về tâm hồn, đạo đức, tài năng, lí tưởng Nguyễn Trãi sẽ còn sống

mãi với non sông Việt Nam.

1.3. Văn chương Ức Trai tiên sinh

Nguyễn Trãi đã viết rất nhiều nhưng sau vụ thảm án Trại Vải, nhiều tác

phẩm của ông đã bị bè lũ quyền thần đem tiêu hủy. Sau đó, dưới thời Lê Thánh

Tông (1460-1497), triều đình đã phục hồi thanh danh cho người công thần bị xử

oan. Nhà vua cũng ủy cho một nho thần là Trần Khắc Kiệm tìm lại các tác phẩm

của Nguyễn Trãi.

Sáu thế kỷ nay, nhiều học giả Việt Nam tiếp tục cố gắng tìm tòi ghi chép

phần văn thơ của Nguyễn Trãi chưa bị thiêu hủy sau ngày ông mất.

Phần lớn văn chương của Nguyễn Trãi được viết bằng chữ Hán. Nhưng

chúng ta đều biết, đối với văn hóa Á Đông, thời kì này chữ Hán chiếm một vị trí ưu

việt, giống như chữ La Tinh đối với phương tây thời trung cổ. Tuy nhiên, sự nghiệp

văn chương của Nguyễn Trãi còn có một phần thơ chữ Nôm có một vị trí vô cùng

quan trọng. Có thể tìm hiểu về sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi trên hai phương

diện: văn xuôi và thơ.

1.3.1. Văn xuôi

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi, có nhiều tác phẩm văn xuôi có

giá trị, trong đó phải kể đến hai tác phẩm văn chính luận mẫu mực là Quân trung từ

mệnh tập và Bình Ngô đại cáo.

Quân trung từ mệnh tập (1423-1427) là tập văn kiện lịch sử - binh vận -

ngoại giao bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi soạn thảo theo sự uỷ thác và trên danh

19

nghĩa của Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428). Tập tư liệu gồm các thư

từ trao đổi giữa Lê Lợi và các tướng quân Minh (Trần Trí, Phương Chính, Vương

Thông...), không kể phần văn loại gồm các bài chiếu, biểu viết trong thời bình. Trần

Khắc Kiệm đời Hồng Đức (1470 - 1497) sưu tập lần đầu và Dương Bá Cung biên

soạn, khắc in năm 1868. Xét về mặt văn bản, Quân trung từ mệnh tập có 65 văn

kiện.

Đây là tập văn vừa mang tính luận chiến, nhằm cổ vũ tinh thần quân sĩ và

làm nao núng ý chí quân giặc, vừa mang tính thuyết phục, giảng giải cho kẻ địch

thấy rõ lẽ tất yếu phải rút quân và thừa nhận chủ quyền độc lập của Đại Việt. Lập

luận sắc bén, văn phong sáng gọn, gợi cảm, có lí có tình. Tài hùng biện của Nguyễn

Trãi quả thực hiếm thấy, đã góp phần làm cho giặc dao động và cầu hòa, đưa đến

thắng lợi năm 1428. Tác phẩm được đánh giá “có sức mạnh của mười vạn quân”.

Sức mạnh ấy có được từ sự kết hợp tuyệt diệu giữa tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng

yêu nước với nghệ thuật viết văn luận chiến bậc thầy của Nguyễn Trãi.

Bình Ngô đại cáo (1428) trước hết là một văn kiện lịch sử. Được lệnh của Lê

Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo và văn bản này được công bố tháng 4 năm

1428 bố cáo cho toàn quân dân biết sự nghiệp bình Ngô đã hoàn toàn thắng lợi,

quân thù đã thảm bại và phải cút khỏi nước ta, một vận hội mới đã mở ra cho giang

sơn xã tắc. Bình Ngô đại cáo được thể hiện qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Trãi

đã trở thành sản phẩm tinh thần đẹp nhất của thời đại ông. Đây là “bản anh hùng ca

lẫm liệt”, “một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn”, “bản tuyên ngôn độc

lập thứ hai” của dân tộc, là “áng thiên cổ hùng văn”, là tiếng vang vọng của ngàn

xưa cho đến mai sau.

Nguyễn Trãi xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất. Những trước tác này

cùng với thơ của thi hào đã làm nên một hiện tượng độc đáo trong văn học trung đại

Việt Nam: Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương xứng kép, ở bậc cao, tương

xứng giữa văn chính luận và văn chương thẩm mĩ, tương xứng giữa trước tác bằng

chữ Hán và bằng quốc âm

20

1.3.2. Thơ ca

Tên tuổi của Nguyễn Trãi gắn liền với hai tập thơ nổi tiếng là Ức Trai thi tập

và Quốc âm thi tập.

Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán. Tập thơ đã cho thấy cảnh ngộ và

niềm tâm sự sâu lắng trong hồn thơ Nguyễn Trãi. Đặt trong tiến trình phát triển

chung của thơ chứ Hán thời trung đại, Ức Trai thi tập được đánh giá là một tập thơ

lớn bộc lộ sâu sắc tình cảm, bản lĩnh và nhân cách nhà thơ. Trong tương quan với

thơ Nôm, trong mối liên hệ với sự nghiệp thơ văn và chính cuộc đời Nguyễn Trãi,

Ức Trai thi tập cho phép hình dung về tác giả một cách hoàn chỉnh, sâu sắc và cụ

thể.

Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ. Vì là thơ Nôm nên so với Ức Trai thi tập,

lời thơ của Quốc âm thi tập uyển chuyển, dung dị, gần gũi với đời thường, với nếp

cảm, nếp nghĩ của dân tộc hơn. Cõ lẽ cũng vì thế nên tập thơ có khả năng thể hiện

sâu sắc tâm hồn dân tộc, cảm quan về thiên nhiên, quê hương đất nước.

Có thể nói, với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi được xem như nhà thơ lớn đầu

tiên viết thơ chữ Nôm. Đây là tập thơ có vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển

của văn học trung đại Việt Nam.

Ức Trai thi tập được viết bằng chữ Hán, Quốc âm thi tập viết bằng chữ Nôm.

Đó là cả một đời thơ của Nguyễn Trãi, từ lúc trẻ đến tuổi già. Hai tập thơ đã ghi lại

hình ảnh của Nguyễn Trãi, vừa là người anh hùng vĩ đại với lí tưởng nhân nghĩa,

yêu nước vừa là con người trần thế, đau nỗi đau của con người, yêu tình yêu của

con người. Nội dung chủ yếu của hai tập thơ là tâm tình đối với quê hương, gia

đình, với nước, với dân, và những bao éo le trong cuộc đời của Nguyễn Trãi...

Nhìn chung, các tác phẩm của Nguyễn Trãi dù là chữ Hán hay chữ Nôm, thơ

hay văn xuôi thì đều có sự thống nhất về mặt nội dung. Điều đó thể hiện ở hai điểm

nổi bật là tinh thần yêu nước nồng nàn và lí tưởng đấu tranh vì chính nghĩa. Về

nghệ thuật, các tác phẩm thể hiện sự phong phú về thể loại và có nhiều đóng góp

cho nghệ thuật thơ ca nước nhà. Những tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại đến ngày

nay là tài sản vô giá của văn học dân tộc, là niềm tự hào chính đáng của các thế hệ

người Việt Nam xưa nay. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Từ bài Bình

21

Ngô đại cáo qua các bức thư gửi các tướng tá xâm lược đến thơ chữ Hán và chữ

Nôm… ngòi bút thần của Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta những tác phẩm gồm

nhiều thể văn và tất cả đều hay và đẹp lạ thường” [46, tr. 15].

1.3.3. “Quốc âm thi tập” trong dòng thi ca dân tộc

Theo các tài liệu ghi chép để lại, Quốc âm thi tập không phải là tập thơ đầu

tiên viết bằng chữ Nôm. Trước Nguyễn Trãi, vào thế kỷ XIII đã có Nguyễn Thuyên,

Nguyên Sĩ Cố làm phú bằng thơ Nôm. Tuy nhiên những tác phẩm ấy vẫn còn

“ngượng nghịu”, vụng về gượng ép, lúng túng trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình

ảnh làm phương thức biểu đạt. Hơn nữa, những tác phẩm ấy hiện nay đều thất thoát.

Văn học Nôm chỉ chính thức có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học từ thế kỉ

XV, mà công đầu thuộc về tập Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Đây là tập thơ

được xem là tập thơ còn lại đầu tiên của văn học Nôm Việt Nam, “tác phẩm mở đầu

nền thơ cổ điển Việt Nam” [6], một dấu mốc vĩ đại trong lịch sử văn học Việt Nam.

Và cho đến nay, đây vẫn là một tác phẩm tiêu biểu bậc nhất của thơ Nôm trữ tình

thời trung đại, không chỉ bởi nó mang một nội dung phong phú hấp dẫn, sinh động,

diễn tả sâu sắc đời sống tâm hồn của con người với những nỗi lòng đau đớn dằn vặt

cô độc, thất vọng, mà còn bởi những sáng tạo to lớn về mặt thể thơ mang tinh thần

“thi pháp Việt Nam”. Nguyễn Trãi là người mở ra truyền thống sáng tác thơ Nôm,

cũng là mở ra thời đại mới trong văn học, trong việc diễn tả đời sống cá nhân của

con người bằng tiếng nói dân tộc mình, và bằng cả những cách tân nghệ thuật có

tính dân tộc. Truyền thống đó được nối tiếp bởi hàng loạt các tác giả cùng thời và

sau đó, như Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Giản Thanh…

Xem xét vai trò của Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy đây là một tập thơ giữ vị

trí quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Quốc âm thi tập bao gồm 254 bài, được viết ở nhiều thời điểm khác nhau

trong lúc nhà thơ về trí ẩn ở Côn Sơn. Sự ra đời của tập thơ đã khẳng định dứt khoát

sự tồn tại trong thực tế dòng văn học tiếng Việt. Từ đây dòng văn học chữ Nôm sẽ

phát triển song song với dòng văn học chữ Hán, làm cho văn học dân tộc phát triển

phong phú, toàn diện và mạnh mẽ hơn. Quốc âm thi tập được chia làm 4 mục lớn:

Vô đề (192 bài); Thời lệnh môn (21 bài); Hoa mộc môn (34 bài); Cầm thú môn (7

bài). Nhìn chung, bố cục tập thơ vẫn dựa theo công thức phổ biến thời bấy giờ

22

nhưng đã được chỉnh lí, chọn lọc theo ý đồ riêng của tác giả. Trong đó quan trọng

nhất là phần Vô đề gồm 13 mục nhỏ: từ Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình … đến

Huấn nam tử. Nói mục này quan trọng nhất vì nó chứa đựng đầy đủ nhất tâm tư,

tình cảm và tấm lòng sắt son của Nguyễn Trãi với đất nước với nhân dân.

Về nội dung, tiếp thu những thành tựu của nền văn học dân gian và các tác

phẩm của nền văn học viết trước đó, Quốc âm thi tập thể hiện lòng yêu nước

thương dân với lí tưởng nhân nghĩa cao đẹp của Nguyễn Trãi. Qua tập thơ, Nguyễn

Trãi cũng muốn gửi gắm một triết lí về tình thương bao la- một chủ nghĩa nhân đạo

rộng lớn đến con người và cảnh vật. Bên cạnh đó, tập thơ còn ca ngợi chí khí thanh

cao, cuộc đời giản dị của một vị anh hùng dân tộc. Đồng thời qua Quốc âm thi tập,

người đọc có thể nhận ra một tâm hồn phong phú, đa dạng và rất lãng mạn của Ức

Trai, một con người mẫu mực với những triết lí giáo dục đạo đức sâu sắc. Chính

nhờ Nguyễn Trãi mà những giá trị của truyền thống, những phong tục, tập quán,

những lời giáo huấn chân tình mà sâu sắc của cha ông mới được truyền lại qua bao

thế hệ.

Quốc âm thi tập được viết vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời

nhiều chìm nổi của Nguyễn Trãi. Nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu, phần lớn các

bài được viết vào giai đoạn cuối đời của nhà thơ. Đó là những ngày tháng Nguyễn

Trãi rơi vào bi kịch của một người anh hùng đã có biết bao cống hiến, một bề tôi

trung thành nay không được tin dùng, ông đành trở về cuộc sống của một nhàn

quan, mang bi kịch của con người cô đơn, thiếu vắng tri âm... Bao xúc cảm đã trải

qua, vinh quang và cay đắng, tự hào và tiếc nuối. Quốc âm thi tập, vì thế, thiên về

bộc lộ những tâm sự của con người cá nhân Nguyễn Trãi. Bóng dáng cuộc đời, con

người của thi sĩ in dấu trong nhiều bài thơ Nôm.

Về phương diện nghệ thuật, Quốc âm thi tập được đánh giá là đã tạo nên sự

bứt phá của dòng thơ Nôm Việt Nam: “Đến Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập mới

là một sự bứt lên thành một tiếng Việt văn chương với nhiều sáng tạo: vừa sử dụng

nâng cao tiếng nói của nhân dân thường ngày vừa sử dụng trực tiếp chữ Hán, hoặc

dịch ra tiếng Việt một cách mạnh dạn, đồng thời cũng tiếp nối hoặc sáng tạo một âm

điệu mới cho thể thơ 8 câu 7 chữ là âm điệu câu thơ 6 chữ xen vào từng lúc” [58, tr.19].

23

Như vậy, khác với tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập, tập thơ Nôm Quốc âm thi tập

đại thành này nhờ sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn Trãi có thể bộc lộ được tâm

tư tình cảm, các sắc thái trữ tình một cách sâu sắc hơn, linh động, uyển chuyển hơn.

Vì lẽ đó mà lời thơ dung dị, gần gũi với nếp nghĩ, với lời ăn tiếng nói hằng ngày của

mỗi người dân Việt. Song không dừng lại ở việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, Nguyễn

Trãi còn có sự trau chuốt, gọt giũa, cách tân theo những hướng tiến bộ cả mặt ngôn

ngữ lẫn thể thơ. Nguyễn Trãi đồng thời cũng hạn chế đến mức tối đa việc vận dụng

chữ Hán, thay vào đó là ông dịch ra tiếng Việt một cách dễ nhớ, dễ thuộc.

Nguyễn Trãi là một người có ý thức dân tộc sâu sắc, có tinh thần yêu nước

nồng nàn. Ta thấy trong Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng một nguồn thi liệu dân

tộc phong phú, từ hệ thống đề tài đến thể thơ, hình ảnh thơ và hệ thống vần thơ,

nhịp điệu thơ. Điều đặc biệt đem đến thành công cho tập thơ là tuy sử dụng chất liệu

dân gian nhưng không thụ động, Nguyễn Trãi đã vận dụng một cách sáng tạo.

Chính vì vậy, Quốc âm thi tập được xem là nhịp cầu, làm cho thơ ca dân gian và

thơ ca bác học xích lại gần nhau, giúp cho thơ ca tiếng Việt khắc phục được khuynh

hướng ngoại lai và phát triển mạnh mẽ, gần gũi với quần chúng lao động. Như vậy,

viết thơ Nôm, với Nguyễn Trãi, không chỉ là một phương thức để giãi bày tâm sự cá

nhân.

Tóm lại, ở một giai đoạn mà nền văn học chữ Hán đang thịnh hành, sự xuất

hiện và để lại dấu ấn quan trọng như Quốc âm thi tập là một thành công to lớn của

Nguyễn Trãi nói riêng, của nền văn học Việt Nam nói chung. Quốc âm thi tập đã

đánh một mốc son chói lọi vào hành trình thơ ca dân tộc. Nỗ lực xây dựng một nền

văn hoá, văn học được bộc lộ rõ nét ở vai trò là nhịp cầu nối hai nền thơ ca bác học

và thơ ca dân gian. Đặc biệt, với việc sử dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những

nét nghệ thuật biểu hiện của thơ ca dân tộc, Nguyễn Trãi đã đem đến cho tập thơ

của mình một phong vị dân tộc đậm đà, một nét thuần Việt độc đáo.

Đánh giá về đóng góp của Nguyễn Trãi, vẻ đẹp của Quốc âm thi tập, Xuân

Diệu cho rằng: “Nguyễn Du của chúng ta không để lại một bài thơ chữ Nôm nào.

Cao Bá Quát tuyệt đại bộ phận sự nghiệp thơ, viết bằng chữ Hán. Thơ Nôm của

Nguyễn Bỉnh Khiêm… ta nói đến cái mức độ hay, đồng thời cũng là nói sự hạn chế

24

của mức độ ấy. Nguyễn Khuyến là một nhà thơ Nôm xuất sắc, có tài hoa trong ngôn

ngữ, nhưng chưa được gọi là tài tình. Tú Xương ở trong thơ Nôm là cỡ một nhà thơ

lớn, lớn vì sự sâu sắc của xúc cảm, sâu sắc đến mức đau đớn của gan ruột, vang

động vào thời gian, tuy nhiên tầm vóc nhìn chung của thơ Tú Xương chưa cao chưa

rộng bằng thơ Nôm của Nguyễn Trãi; theo tôi nghĩ, đứng trong phạm vi thể loại

“thi” tiếng Nôm, thì có bản lĩnh nhất, là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Trãi. Trong

254 bài Quốc âm thi tập, số bài toàn bích cả 8 câu không nhiều, nhưng những câu,

những đoạn đã hay của Nguyễn Trãi, thì treo giải nhất chi nhường cho ai” [6,

tr.594- 595].

1.4. Khái niệm “phức điệu xúc cảm”

Khái niệm “phức điệu” được bắt nguồn từ lĩnh vực âm nhạc. “Phức điệu” là

sự kết hợp nhiều bè trong một tác phẩm âm nhạc [59, tr.765]. Trong lí luận văn học,

khái niệm “phức điệu” xuất hiện trong nghiên cứu của Mikhail Mikhailovich

Bakhtin (1895-1975) - nhà nghiên cứu văn học và mĩ học nổi tiếng người Nga - về

tiểu thuyết của Dostoievski. Theo Bakhtin, chất “phức điệu” (polyphonie), “nguyên

tắc phức điệu” (polyphonisme) lần đầu tiên xuất hiện trong tiểu thuyết của

Dostoievski - thể hiện trong châm ngôn sáng tác của nhà văn là “tìm ra con người

trong con người”, “phát hiện mọi chiều sâu tâm hồn của nó” (dẫn theo Trần Đình

Sử) [36]. Tác giả của Những người nghèo, Người vợ dịu dàng... rất coi trọng thế

giới nội tâm, đề cao sự tự ý thức của nhân vật. Nhân vật của ông không bao giờ

chấp nhận sự phát xét giản đơn về tâm hồn từ người khác. Chính Dostoievski đã để

cho một nhân vật của mình phát biểu quan điểm: “Nghe đây! Tôi không thích các

loại thám tử và các nhà tâm lí lúc nào cũng chực xọc mũi vào tâm hồn tôi” (dẫn

theo Trần Đình Sử) [36]. Trong cuốn sách Những vấn đề thi pháp Dostoievski do

Bakhtin viết năm 1929, khái niệm “tiểu thuyết đa thanh” phức điệu mà ông đưa ra

đã được thừa nhận rộng rãi. Như vậy, theo Bakhtin, phức điệu là chất đa thanh, chất

đối thoại trong tác phẩm văn học.

Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi muốn tìm hiểu về tính “đối thoại” của nhiều

con người trong một con người Ức Trai; về tính phong phú, đa chiều của những

cảm xúc, tâm trạng trong con người Nguyễn Trãi. “Phức điệu xúc cảm” là những

25

tâm trạng, tình cảm đan xen, được thể hiện hết sức đa dạng, phong phú ở nhiều

phương diện, khía cạnh, có khi là trái chiều nhưng thống nhất trong một con người.

Đã là con người, ai cũng có những cảm xúc. Thế nên trong triết lí của đạo

Phật có chỉ ra bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta ai cũng có là : mừng, giận, yêu

thương, ghét, buồn, vui, muốn (hỉ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục). Một nhà văn, nhà thơ lớn

thường có sự đa thanh về xúc cảm, thậm chí có sự trạng thái cảm xúc đối lập. Nhất

là khi con người ấy lại là một tài năng, nhân cách lớn, sinh ra trong một thời đại có

nhiều biến động, cuộc đời có biết bao sóng gió, thăng trầm như Nguyễn Trãi.

Tiểu kết chương 1

Với những đóng góp to lớn của mình, Nguyễn Trãi đã để lại cho những thế

hệ sau bao bài học quý giá về tinh thần yêu nước, thương dân, dũng cảm chiến đấu

cho đại nghĩa, khát vọng cống hiến...

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi xứng đáng với cuộc đời rất đẹp của

ông. Thơ văn Nguyễn Trãi đúc kết được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,

đặc biệt là truyền thống đã được khẳng định trong công cuộc đại “phục hưng” dân

tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV. Có thể nói thơ văn của ông là tấm kính hội tụ

những ánh hào quang của quá khứ đồng thời đem đến ánh sáng rực rỡ cho giai đoạn

phát triển mới của văn học dân tộc.

Về nội dung, văn chương Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của

văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Về hình thức nghệ thuật, văn chương

Nguyễn Trãi có đóng góp lớn ở cả hai bình diện cơ bản nhất là thể loại và ngôn ngữ.

Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, nhà thơ khai sáng văn học tiếng Việt,

góp phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp.

Quốc âm thi tập không chỉ có giá trị trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn

Trãi, mà còn có vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử thi ca dân tộc. Sáng

tác thơ Nôm, Nguyễn Trãi không chỉ để giãi bày tâm sự cá nhân, mà ông còn viết

thơ như một hành động chính trị. Với tư tưởng của một nhà văn hóa lớn, với trái tim

của một người yêu nước thương dân sâu sắc, trong bối cảnh nhà Lê bắt đầu xây

dựng đất nước, tác giả của Quốc âm thi tập có mong muốn xây dựng một nền văn

26

học độc lập, ngôn ngữ văn hóa thống nhất - một trong những điều kiện cần thiết đối

với sự phát triển của một quốc gia độc lập.

Đi sâu tìm hiểu thơ Nôm Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ thấy rõ hơn giá trị của

Quốc âm thi tập, đặc biệt là vẻ đẹp con người thi nhân với những xúc cảm đa dạng,

phong phú.

27

Chương 2

NGUYỄN TRÃI - “HỒN THƠ ĐA DẠNG” MÀ THỐNG NHẤT

Sinh ra trong một thời đại nhiều biến động, cuộc đời lại chịu nhiều biến cố

với biết bao thăng trầm, bản thân là con người “đại nhân”, “đại nghĩa”, giàu cảm

xúc, Nguyễn Trãi đã gửi gắm qua thơ những xúc cảm, tâm sự đa dạng, có khi là trái

chiều. Phần lớn những bài thơ trong Quốc âm thi tập được Nguyễn Trãi sáng tác

vào những năm cuối đời. Lúc mà nhà thơ thấm thía hơn bất cứ lúc nào khác bi kịch

của một người anh hùng không được tin dùng, của một người luôn có khao khát

được cống hiến lại rơi vào nỗi cô đơn. Quốc âm thi tập vì thế là một tập thơ có tính

nhật kí, bộc lộ hết sức tự nhiên, chân thành, hiện thực những cảm xúc, suy nghĩ, tâm

trạng, thái độ của nhà thơ đối với cuộc sống, con người và với chính bản thân mình.

Tập thơ, vì thế, giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất về Nguyễn Trãi

- một tâm hồn trong sáng và đầy sức sống nhưng không phải lúc nào cũng bình yên.

Trong thơ ông có một “niềm thao thức lớn”[1] luôn thường trực khiến cho “tóc hai

phần bạc bởi thương thu” (Bài 43). Với nhu cầu tự bạch và mong muốn được sẻ

chia của Nguyễn Trãi, mỗi bài thơ được xem như một lời đối thoại, đối thoại với

một nhân vật vô hình nào đó, hoặc đối thoại giữa những con người khác nhau trong

chính bản thân thi nhân.

2.1. Sự hội tụ của nhiều người trong một con người

2.1.1. Khao khát được cống hiến và mong muốn được sống nhàn

2.1.1.1. Ước bề trả ơn minh chúa,

Hết khỏe phù đạo thánh nhân. (Bài 37)

Khổng Tử và các nhà Nho nói chung đều có hoài bão xây dựng một chế độ

xã hội phong kiến có kỉ cương, nền nếp, có vua thánh tôi hiền, dân an cư lạc nghiệp,

đất nước thanh bình thịnh trị.

Để thực hiện lí tưởng chính trị của mình, Khổng Tử xây dựng nên học thuyết

Nhân- Lễ - Chính danh. Trong đó, chính danh là làm rõ danh xưng, danh phận,

người nào mang danh nào, phải được thực hiện và phải thực hiện bằng được những

28

yêu cầu mà danh của mình đòi hỏi. Như vậy, Nho gia coi những quan hệ chính trị -

đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã hội.

Bên cạnh đó, quan niệm của Khổng Tử về con người cũng có nhiều điểm

đáng lưu ý. Khổng Tử đề cao con người, xếp con người vào một trong ba ngôi

Thiên- Địa- Nhân. Trong Kinh Lễ, ông nói: “Người là cái đức của trời đất, là sự

giao hòa của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là cái tinh khí của ngũ hành”[2].

Nhờ có cái tinh thần và khí chất ấy mà người ta mới có cái sáng suốt để hiểu hết các

vật. Theo Nho giáo, trời sinh ra người và phú cho cái tính sáng suốt. Do vậy, đạo

làm người phải cố gắng theo đạo trời để tiến đến chỗ chí thiện, chí mĩ.

Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình nhà nho, bản thân trước hết là một

nho sĩ nên ông thấm nhuần tư tưởng nho giáo. Với cái tâm, cái “đức” của một nho

gia sinh ra trong thời loạn, Nguyễn Trãi luôn có khao khát được cống hiến hết mình

cho đất nước, cho nhân dân. Với suy nghĩ đó, cả cuộc đời Ức Trai là sự cống hiến.

Điều đó đã làm nên tên tuổi một bậc anh hùng của dân tộc, một danh nhân văn hóa

thế giới. Nguyễn Trãi đã làm nên một sự nghiệp vinh quang, cùng với Lê Lợi đánh

đuổi giặc Minh đem lại độc lập cho nước nhà sau hơn mười năm trường kì kháng

chiến. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã góp phần lớn xây dựng nên thời đại mình. Những

vần thơ của ông đã ngợi ca sự nghiệp đó, thời đại đó với khao khát được cống hiến.

Cũng trong những vần thơ ấy, chúng ta thấy được tấm lòng của một “thần

trung” đối với “quân minh” trong quan niệm về một xã hội có “chính danh”- “bề tôi

phải làm trọn đạo của bề tôi”[2].

Từ ngày gặp hội phong vân,

Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân.

Ước bề trả ơn minh chúa,

Hết khỏe phù đạo thánh nhân.

Quốc phú binh cường chăng có chước,

Bằng tôi nào thửa ích chưng dân. (Bài 37)

29

Đạo làm con liễn đạo làm tôi (Bài 2)

Làm người thì giữ đạo trung (Bài 127)

Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả (Bài 133)

Theo Nguyễn Trãi, “quân tử sở kì vô dật” (quân tử ở ngôi quản lí quốc gia

không được cầu an hưởng lạc), nên phải xem “vô dật” là đạo đức hàng ngày:

Chẳng nhàn xưa chép câu truyền bảo,

Khiến chớ cho qua một đạo thường.

(Bài 128)

Rồi một ngày kia, trong nỗi “tự thán” khi thấy tài năng của mình không được

coi là “hợp thời” nữa, tấm lòng nhà thơ vẫn như hoa quỳ luôn hướng về nhà vua:

Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu,

Kẻ hãy bằng quỳ hướng thái dương.

(Bài 71)

Điều mà nhà nho Ức Trai ngẫm ra là, phải biết vượt trên mọi thử thách để

khẳng định chí khí, bản lĩnh, phẩm chất của con người cá nhân mình, để thực hiện

tốt chính danh “người là cái đức của đất trời”, để “tu thân”, “trị quốc”, “bình thiên

hạ”. Chả thế mà năm 1439, Nguyễn Trãi cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn, nhưng cũng

trong năm đó, ông đã nhận lời mời của vua Lê Thái Tông ra giúp triều đình.

Khó khăn thì mặc có màng bao,

Càng khó bao nhiêu chí mới hào.

Đại địa dày Nam Nhạc khỏe,

Cửu tiêu vắng Bắc Thần cao.

(Bài 66)

Bởi thế nên không ít lần, ông cảm thấy tự hào, tự tin vào khả năng, vào nội

lực của bản thân. Từ khi bắt đầu khởi nghĩa và suốt thời gian ở ngôi vua, Lê Lợi

thường giao việc từ lệnh cho Nguyễn Trãi. Nhắc lại điều đó, tác giả rất tự hào khi

30

đã dùng tài của mình làm trọn chuyên trách được giao phó, góp phần bảo vệ nước

Nam, xây dựng nền thái bình của đất nước.

Đao bút phải dùng, tài đã vẹn,

Chỉ thư nấy chép, việc càng chuyên.

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên.

Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp,

Xưa nay cũng một sử xanh truyền.

(Bài 183)

Nhà thơ khát khao có cây đàn của vua Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc

sống hôm nay:

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

(Bài 170)

Câu thơ 6 chữ kết đọng điều tác giả hằng mong mỏi tâm niệm suốt đời. “Rồi

hóng mát thuở ngày trường” đấy nhưng tâm hồn nhà thơ có bao giờ được ngơi nghỉ.

Khát vọng thường trực trong ông là được đem tài năng, sức lực của mình cống hiến

cho dân cho nước.

2.1.1.2. Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm,

Giơ tay áo đến tùng lâm (Bài 5)

Các nhà nho phong kiến đều mang tư tưởng lập thân. Nhưng không ít người

trong họ do bất mãn với thực tại mà chọn phương thức ứng xử là ở ẩn để bảo toàn

khí tiết, di dưỡng tâm hồn. Đó là Chu Văn An (1292-1370), là Nguyễn Bỉnh Khiêm

(1491-1585), là Nguyễn Khuyến (1835-1909)...Nguyễn Trãi cũng là một trong

những nhà nho như vậy “Đem công danh đổi lấy cần câu”.

31

Một con người luôn cháy bỏng trong mình khao khát được cống hiến và đã

cống hiến được rất nhiều, lại xót xa khi nhìn lại sự nghiệp công danh của mình chỉ

là hư vô:

Nước non kể khắp quê hà hữu,

Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư.

(Bài 36)

Một “thần trung” từng hết lời ngợi ca vương triều, thánh đế, xã tắc sơn hà lại

có lúc dường như chán nản, muốn chối bỏ hết thảy, để rồi chỉ còn lại một nỗi cô

đơn, lẻ loi, buồn đến vô vọng:

Thuyền mọn còn chèo, chăng khứng đỗ,

Trời ban tối, ước về đâu?

(Bài 14)

Một con người đã từng rất tự hào về bản thân, nay lại thấy bất lực:

Nhẫn thấy Ngu Công tua xá hỏi,

Non từ nay mựa tốn công dời.

(Bài 59)

Và xót xa khi thấy mình bị bỏ rơi trong quên lãng:

Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,

Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.

(Bài 34)

Với mong muốn được ở nhàn để tìm được sự thảnh thơi, di dưỡng tâm hồn:

Chỉn xá lui về mà thủ phận,

Lại tu thân khác mặc thi thư.

(Bài 34)

Nguyễn Trãi tìm đến với thiên nhiên. Ông coi thiên nhiên như anh em, bầu

bạn- “người bạn lớn” của mình. Có thể nói, “trong thơ Việt nam, chưa có một nhà

32

thơ nào yêu mến thắm thiết thiên nhiên và có những vần thơ đẹp đẽ, tinh vi, sâu sắc

về thiên nhiên cho bằng Nguyễn Trãi”, “hồn thơ của Nguyễn Trãi đối với thiên

nhiên là một hiện tượng đặc biệt, do bản tính của Nguyễn Trãi và đồng thời do thời

thế, hoàn cảnh của Nguyễn Trãi” [6, tr. 605].

Núi láng giềng, chim bầu bạn,

Mây khách khứa, nguyệt anh tam.

(Bài 64)

Từ giã chốn quan trường, Nguyễn Trãi quay trở về sống chan hòa, làm bạn

với mây núi, trăng sao. Cuộc sống dân dã nơi thôn quê đã giúp Nguyễn Trãi phát

hiện ra biết bao cảnh đẹp. Đó là bức kí họa tự nhiên, mộc mạc của cảnh xóm chài:

Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi,

Hàu chất so le cụm cuối làng.

(Bài 9)

Đó là cảnh làng quê thanh bình, đầy sức sống:

Cây rợp tán che am mát,

Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.

(Bài 21)

Để rồi nhà thơ nhận ra giữa mình và thiên nhiên như không còn khoảng cách:

Rùa nằm hạc lẩn nên bầu bạn,

Ủ ấp cùng ta làm cái con.

(Bài 21)

Có lẽ chỉ có thiên nhiên mới có thể làm cho nhà thơ tạm nguôi ngoai nỗi đau

về thế thái nhân tình, để yên lòng trong cuộc sống nhàn cư, ẩn dật. Nguyễn Trãi đã

tìm thấy ở thiên nhiên một chức năng giáo dục rất lớn đối với tâm hồn con người.

Thiên nhiên đã “nuôi sống”, làm giàu tâm hồn thi nhân bằng những “thức ăn” vô

cùng tinh khiết!

33

Đã từng trải nghiệm chốn quan trường, Nguyễn Trãi nhận ra rằng: “Ở thế

nhiều phen thấy khóc cười.../ Lòng người một sự yêm chưng một.../ Phượng những

tiếc cao diều hãy liệng/ Hoa thì hay héo cỏ thường tươi” (Bài 120), thế nên, những

vần thơ của ông ca tụng cảnh nhàn. Bỏ mặc bao nỗi ưu tư phiền muộn, cuộc sống

nhàn nhã giúp tâm hồn ông được thảnh thơi:

Thư song vắng vẻ nhàn vô sự,

Tai chẳng còn nghe tiếng thị phi.

(Bài 57)

Am quê về ở dưỡng nhàn chơi,

Yên phận yên lòng kẻo tiếng hơi.

(Bài 59)

Dửng dưng sự thế biếng đôi tranh,

Dầu mặc chê khen mặc dữ lành.

(Bài 169)

Thi nhân đã thưởng thức thú “điền viên” như một “thi tiên” vậy:

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.

Chén châm rượu đục ngày ngày cạn,

Túi quẩy thơ nhàn chốn chốn thâu.

(Bài 153)

Láng giềng một áng mây bạc,

Khách thứa hai ngàn núi xanh.

Có thuở biếng thăm bạn cũ,

Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh.

(Bài 169)

34

Nhà thơ nhận thấy có sự khác biệt rất lớn giữa chốn quan trường với chốn

“điền viên”, để từ đó ông càng ngợi ca, tự hào nhiều hơn cuộc sống nhàn:

Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,

Nghìn vàng ước đổi được hay chăng.

(Bài 77)

Dưới công danh nhiều thác cả,

Trong ẩn dật có cơ màu.

(Bài 159)

Một vườn hoa trúc bốn bề thâu,

Lánh thân nhàn được thú mầu.

(Bài 154)

Dầu Bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,

Ông này đã có thú ông này

(Bài 28)

Tư tưởng ấy, giọng điệu ấy, sau này, chúng ta gặp lại trong thơ Nguyễn Bỉnh

Khiêm (1491- 1585):

Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

...

Rượu đến cội cây ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nhàn)

35

2.1.1.3. Điều đáng nói là trong con người Nguyễn Trãi luôn có sự đấu tranh, sự lựa chọn

day dứt giữa việc về và ở, giữa tư tưởng lập thân và dưỡng thân, bảo thân:

Triều quan chẳng phải ẩn chăng phải,

Góc thành nam lều một căn.

(Bài 1)

Bốn bể nhẫn còn mong đúc chuốt,

Dầu về dầu ở mặc ta dầu.

(Bài 154)

Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân,

Lửng thửng chưa lìa lưới trần.

(Bài 33)

Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.

(Bài 35)

Nên trong ông là sự phức hợp của những xúc cảm: khao khát cống hiến và

mong muốn được ở nhàn. Thế nên, chúng ta bắt gặp hai tư tưởng, cảm xúc đó, có

thể, ngay trong một bài thơ của Nguyễn Trãi:

Chân mềm ngại bước dặm mây xanh,

Quê cũ tìm về cảnh cũ thanh.

Ơn tư là ấy yêu dường chúa,

Lỗi thác vì nơi lụy bởi danh.

Bui có một niềm trung hiếu cũ,

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.

(Bài 158)

36

Muốn vứt bỏ hết mọi ưu phiền, lánh về chốn ruộng vườn sống thảnh thơi,

nhưng vẫn không quên “đạo quân thân”:

Mọi việc đành hơn hết mọi âu,

Điền viên lánh mặc ta dầu.

Đạo quân thân nhẫn dầu ai lỗi,

Hổ xanh xanh ở trốc đầu.

(Bài 159)

Nhà thơ không nguôi nỗi day dứt:

Cảm ơn nhỡ phụ muôn đời chúa,

Phải lụy vì nhân một chữ đinh.

Xưa còn chép câu kinh để,

An phận thì chăng nhục đến mình.

(Bài 166)

Bui một quân thân ơn cực nặng,

Tơ hào chưa báo hãy cò n âu.

(Bài 30)

Như vậy, đằng sau những câu thơ nói lạc thú thanh nhàn là nỗi lòng day dứt

khiến nhà thơ bạc đầu:

Mấy phen lần bước dặm thanh vân,

Đeo lợi làm chi luống nhục thân.

Nhớ chúa lòng còn son một tấc,

Ưu thời tóc đã bạc mười phân.

(Bài 165)

37

Thân nhàn nhưng tâm không nhàn. Những câu thơ ca tụng cảnh nhàn vẫn trĩu

nặng nỗi lòng ưu thời mẫn thế. Dù ở đâu, khi nào, hình ảnh một “quân minh”, hình

ảnh nhân dân, đất nước luôn canh cánh trong lòng Nguyễn Trãi. Mà dễ quên sao

được quãng đời “Túi thơ chứa hết mọi giang san” (bài 72) đầy gian khó mà vinh

quang, cùng cái ơn tri ngộ của một “minh chúa”! Những vần thơ vì thế mà không

thôi niềm thao thức:

Bui có một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.

(Bài 50)

Nỗi niềm thao thức đó, không phải là chuyện bất mãn tầm thường về hoạn lộ

của cá nhân mà là nỗi buồn của một “thần trung” lúc nào cũng cháy bỏng khao khát

được hiến dâng cho việc kiến thiết quốc gia sau buổi đại định nhưng không được

toại nguyện, là nỗi thấp thỏm lo âu cho tương lai của nước nhà nếu không có minh

quân. Một hoài bão chưa được thực hiện, một sự nghiệp còn dang dở, việc quy điền

dù sao cũng là bất đắc dĩ.

Rồi hóng mát thuở ngày trường

….

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

(Bài 170)

Qua khảo sát, chúng tôi thấy trong tổng số 254 bài thơ của Quốc âm thi tập,

có đến 57 bài thơ thể hiện cả hai điệu xúc cảm đó (Xin xem phụ lục số 1) trong con

người Nguyễn Trãi: vừa mong muốn ở nhàn, vừa không quên được triều quan và

muôn dân.

Có lẽ xuất phát từ tâm tư đó mà Nguyễn Trãi hay mượn những hình ảnh của

thiên nhiên để biểu tượng cho cốt cách, khí phách của người quân tử.

38

Nho giáo bao giờ cũng quan tâm về vấn đề đạo đức con người, trung, hiếu, lễ

nghĩa, trí, tín và những bổn phận và đức tính mà kẻ sĩ phải thực hiện trọn vẹn.

Dưới con mắt Nguyễn Trãi, phần lớn những loài vật và phong cảnh thiên

nhiên đã mang những biểu tượng của chân thiện mĩ.

Đó là Lão Mai: Hoa mai với những đóa hoa vàng nho nhỏ, với thân cây

thanh thanh có lẽ đã được nhiều thi sĩ, họa sĩ yêu thích. Hoa mai tượng trưng cho

người quân tử thanh cao, trong sạch:

Nhờ ơn vũ lộ đà no hết,

Đông đổi dầu đông hãy một dường. (Bài 215)

Là Cúc:

Dầu thấy xuân lan cùng trọn được,

Ai ai đều có mỗ mùi hương. (Bài 216)

Là Hồng Cúc: Hoa cúc đỏ tương trưng cho tính cách trong sạch, thanh cao:

Chuốt lòng đan chăng bén tục,

Bền tiết ngọc kể chi sương. (Bài 217)

Là Tùng: Cây tùng bốn mùa vẫn xanh tươi dù cho các loài thảo mộc khác đã

thay đổi theo thời tiết. Cây tùng tượng trưng cho người quân tử dù hoàn cảnh thay

đổi nhưng vẫn không thay lòng, biến tiết:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông.

Lâm tuyền ai rặng già làm khách,

Tài đống lương cao ắt cả dùng.

(Bài 218)

Cội rễ bền day chẳng động,

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.

(Bài 219)

39

Là Trúc thi:

Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình,

Ưa mày vì bởi tiết mày thanh.

Đã từng có tiếng trong đời nữa,

Quân tử ai chẳng mắng danh.

(Bài 221)

Là Mai thi:

Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,

Ưa mày vì tiết sạch hơn người.

Gác đông ắt đã từng làm khách,

Há những Bô Tiên kết bạn chơi.

(Bài 224)

Là Liên hoa: Hoa sen cũng tượng trưng cho người quân tử dù ở trong hoàn

cảnh xấu xa vẫn giữ tâm hồn trong sạch:

Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh,

Quân tử kham khuôn được thửa danh.

(Bài 243)

Những hình tượng cây tùng, hoa cúc, hoa mai, bông sen…khiến chúng ta

liên tưởng đến cuộc đời, con người Nguyễn Trãi. Cũng một thời sống hào hứng với

biết bao tin yêu, hi vọng, rồi phải lui về làm bạn với gió trăng. Những hình ảnh ấy

vừa biểu hiện cho cái đẹp của thiên nhiên, vừa ẩn dụ cho vẻ đẹp trong cốt cách,

phẩm chất, sức sống của con người, và cũng là nỗi lòng đầy bi kịch của nhà thơ.

Mang trong mình niềm “trung quân ái quốc” sâu nặng, Nguyễn Trãi luôn có

khát vọng được cống hiến. Nhưng do không được tin dùng, trọng dụng như trước

nên một thời gian dài, nhà thơ “bất đắc dĩ” phải sống nhàn. Phải về quê sống nhàn

là do hoàn cảnh, nhưng được sống nhàn cũng là mong muốn tận đáy lòng của Ức

Trai tiên sinh. Những tháng ngày được hòa mình với cuộc sống nơi thôn dã, được

bầu bạn cùng mây núi trăng sao, chẳng phải nhà thơ rất trân trọng sao? – “Nghìn

40

vàng ước đổi được hay chăng?”(bài 77). Được nhàn thân, nhàn tâm là mong muốn

không chỉ của riêng ai. Những cảm xúc phức tạp, mâu thuẫn cùng tồn tại trong con

người Ức Trai: vừa muốn cống hiến lại vừa muốn hưởng thụ, vừa muốn lập nên sự

nghiệp anh hùng lớn lao vừa muốn được sống cuộc sống của riêng mình. Nhưng

một điều đáng nói là khi đã về nhàn, Nguyễn Trãi vẫn luôn trằn trọc, thao thức một

miềm tâm sự lớn. Chúng ta thấy được nét đẹp trong tâm hồn nhà thơ: cho dù ở đâu,

trong bất cứ hoàn cảnh nào, trái tim ông luôn hòa nhịp cùng non sông đất nước.

2.1.2. Triết gia sắc sảo và điền ông thuần phác

2.1.2.1. Một triết gia sắc sảo với tư tưởng triết học nhân văn

Sinh ra trong một gia đình có nhiều truyền thống lớn, hai nên nội ngoại đều

có những cá nhân là những nhà yêu nước, nhân đạo, nhà tư tưởng lớn; với tư chất

của bản thân và tư tưởng của một Nho gia, lại thêm cuộc sống nhiều thăng

trầm…tất cả đã tạo nên ở Nguyễn Trãi hình ảnh một triết gia sắc sảo. Nguyễn Trãi

đã sáng tạo nên những giá trị tư tưởng tiêu biểu, thể hiện rõ quan điểm về vũ trụ,

trời đất, đạo lí làm người, vai trò của nhân dân, quan điểm về dân tộc, thời thế...

Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng của Nho giáo về các tư tưởng: thiên mệnh,

trung dung, tam cương, ngũ thường, tư tưởng về nhân nghĩa.

Nguyễn Trãi viết: “Trời đất sinh muôn vật”, “Ơn tạo hóa của trời đất”. Với

Nguyễn Trãi, mệnh trời được hiểu trong nhiều trường hợp, như trong vận nước,

mệnh vua, trong cuộc sống giàu sang, nghèo hèn, trong thành bại…

Lộc trời cho đã có ngần,

Tua hay thửa phận chớ còn nằn.

Vắn dài được mất dầu thiên mệnh,

Chạy quấy làm chi cho nhọc nhằn.

(Bài 175)

Với niềm tin đó, bao giờ, Nguyễn Trãi cũng an nhiên tự tại, lúc gặp thất bại,

khó khăn không đau khổ, khi thành công không tự đắc:

41

Được mất duy nơi sự tiếc mừng,

Đạo ta thông biết hết lâng lâng.

Nhọc nhằn ai chớ còn than thở,

Ăn có dừng thì việc có dừng.

(Bài 181)

Nguyễn Trãi tin ở mệnh trời. Theo ông, trời không chỉ là đấng sinh thành, mà

còn có tình cảm, sự công minh. Trời đất cũng có tấm lòng giống như cha mẹ, có

lòng “hiếu sinh”, có “đạo trời”. Điều đó lại rất phù hợp với tâm lí phổ biến và

nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no, thái bình. Như vậy,

quan niệm thiên mệnh của Nguyễn Trãi có tính chất biện chứng, giữa yếu tố khách

quan là lẽ trời, vận trời (xu thế lịch sử, thời đại) và yếu tố chủ quan là lòng người.

Thấm nhuần tư tưởng trung dung, Nguyễn Trãi nói với “người quân tử”:

Chớ người trọc trọc chớ ta thanh,

Lấy phải thì trung đạo ở kinh.

(Bài 156)

Chẳng say chẳng đắm là quân tử,

Người hiểm lòng thay hãy xá ngờ.

(Bài 179)

Những câu thơ của ông đem đến bài học về cách ứng xử trong các mối quan

hệ vua- tôi, cha- con, bạn bè, vợ - chồng.

Quan hệ mà Nguyễn Trãi luôn đề cao, luôn cẩn trọng và trăn trở là quan hệ

với vua, trong đó, bề tôi phải biết làm theo những lời thánh hiền dạy, cư xử đúng

với đạo trung dung:

Văn chương chép lấy đòi câu thánh,

Sự nghiệp tua thìn phải đạo trung.

42

Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,

Có nhân có trí có anh hùng.

(Bài 132)

Những lời tự bạch với bản thân, những lời nhắn nhủ tới mọi người về lòng

biết ơn đối với công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ thật xúc động và triết lí:

Có con mới biết ơn cha nặng,

Dành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.

(Bài 164)

Nuôi con mới biết lòng cha mẹ.

(Bài 135)

“Bui một lòng người cực hiểm thay”, nhà thơ nhắc nhở bạn bè:

Bậu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong.

(Bài 178)

Kết bạn mựa quên người cố cựu.

(Bài 129)

Đó còn là bài học về cách ứng xử phải cân nhắc, thận trọng ở đời:

Việc ngoài hương đảng chớ đôi co,

Thấy kẻ anh hùng hãy nhịn cho.

(Bài 176)

Sắc là giặc đam làm chi,

Thuở trọng còn phòng có thuở suy.

(Bài 190)

Những bài học đó là vô cùng quan trọng, nhất là khi thói đời đen bạc với

không ít những nghịch cảnh éo le:

43

Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh.

(Bài 136)

Những kẻ ân cần khi phú quý,

Họa ai bồ bặc thuở gian nan.

(Bài 139)

Bên cạnh đó, ông còn thấm nhuần các triết lí về đức hiếu sinh, khoan dung,

bác ái, từ bi của Phật giáo.

Từ âm “bụt” trong tên gọi của loài hoa râm bụt, nhà thơ nhắc đến quan

niệm “Phật tức tâm” trong kinh Phật:

Ánh nước hoa in một đóa hồng,

Vện nhơ chẳng bén Bụt là lòng.

(Bài 237)

Đạo Phật cũng khuyên ta nên sống hiền lành, tu tâm tích đức, giúp người chứ

không hại người:

Lòng làm lành đổi lòng làm dữ,

Tính ở nhu hơn tính ở cương.

(Bài 147)

Chớ lấy hại người làm ích kỉ,

Hãy năng tích đức để cho con.

(Bài 149)

Trồng cây đức để con ăn.

(Bài 27)

Theo Nguyễn Trãi, tài và đức chưa đủ, con người cần có lòng nhân:

44

Tài đức thì cho lại có nhân,

Tài thì kém đức một hai phần.

(Bài 184)

Ông cho rằng mỗi người hãy chăm chỉ lao động, “tay làm hàm nhai” còn

“ngồi ăn núi lở”:

Tay ai thì lại làm nuôi miệng,

Làm biếng ngồi ăn lở núi non.

(Bài 149)

Nên ông dạy con về lối sống giản dị, tiết kiệm, chăm chỉ:

Áo mặc miễn là cho cật ấm,

Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.

Xưa đã có câu truyền bảo:

Làm biếng hay ăn lở non.

(Bài 192)

Nhiều câu thơ khuyên chúng ta không nên chạy theo công danh viển vông,

lợi lộc tầm thường, hãy sống trong sạch:

Tau xá khoan khoan lòng thế ít,

Chớ màng cày cạy khiến lòng phiền.

Gia tài ấy xem hèn hạ,

Đạo đức này khá chính chuyên.

(Bài 186)

Đói khó thì làm việc ngửa tay,

Chớ làm sự lỗi quỷ thần hay.

(Bài 171)

45

Mắt hòa xanh đầu dễ bạc,

Lưng khôn uốn lộc nên từ.

(Bài 36)

Nguyễn Trãi còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang, đó là lòng “thanh

tĩnh vô vi”, nhàn tản, ung dung tự tại, không màng danh lợi. Trong Quốc âm thi tập,

khái niệm an nhàn, yên phận được ông nhắc đến nhiều lần.

Dưới công danh nhiều thác cả,

Trong ẩn dật có cơ màu.

(Bài 159)

Một phút thanh nhàn trong thuở ấy,

Nghìn vàng ước đổi được hay chăng.

(Bài 77)

Ông ca ngợi lối sống nhàn tản, tránh xa vòng danh lợi, để “thân an”, “tâm lạc”:

Kham hạ hiền xưa toan lẩn được,

Ngâm câu “danh lợi bất như nhàn”.

(Bài 160)

Ở thế an nhàn chăng có sự,

Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh.

(Bài 136)

Rơi vào bi kịch của một nhân tài không được trọng dụng, Nguyễn Trãi lui về

ở ẩn, nhưng ông không đi tìm cái an nhàn ích kỉ, càng không rơi vào trạng thái bi

quan, hay có quan điểm bằng lòng an phận, trong ông cứ canh cánh “một niềm

trung hiếu cũ”.

Nhưng cuộc đời, tâm hồn Nguyễn Trãi luôn gắn với thực tiễn nóng bỏng của

dân tộc, nên nói như Mác, “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là

sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý

46

giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [2]. Thực vậy, tư

tưởng triết học của Nguyễn Trãi là sự kết tinh lịch sử và văn hóa dân tộc, tinh hoa

văn hóa nhân loại, những tư tưởng đó không chỉ bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã

hội Đại Việt thế kỷ XIV - XV mà còn phản ánh những biến động, lịch sử dân tộc và

cuộc đời vốn nhiều thăng trầm của ông. Chính thời đại lịch sử đã sản sinh ra những

con người rất đẹp, rất đáng kính về nhân cách, giàu lòng yêu nước, thương dân và

bản lĩnh kiên cường như Nguyễn Trãi. Thế nên, tư tưởng của ông đều gắn với ý

nghĩa xã hội sâu sắc, hướng về nhân dân, về vận mệnh quốc gia và sự tồn vong của

dân tộc. Trung hiếu là lẽ sống suốt đời, là phẩm chất “mài chẳng khuyết, nhuộm

chẳng đen” trong tâm hồn người chí sĩ yêu nước ấy.

Là một nhà tư tưởng lớn, nhưng Nguyễn Trãi không trình bày quan điểm

của mình thành một học thuyết có tính hệ thống, mà từ hiện thực lịch sử đầy sôi

động của dân tộc cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỉ XV, ông đã suy xét, triết lí về nó để từ

đó soi rọi vào sự nghiệp “nhân nghĩa”, “an dân”. Cho nên, tư tưởng triết học của

ông mang đậm hơi thở của cuộc sống, hòa lẫn và ẩn chứa đằng sau các lĩnh vực tư

tưởng khác như chính trị, quân sự, ngoại giao, văn chương…Bởi thế, “triết lí nhân

nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân,

cái nghĩa cuối cùng chẳng qua là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo,

vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân” [50].

2.1.2.2. Một điền ông thuần phác với cuộc sống thành nhàn

Trái ngược hẳn với một Nguyễn Trãi đã từng lăn lộn chốn quan trường, cống

hiến hết mình để phò vua giúp chúa, một Nguyễn Trãi với những tư tưởng triết lí

sâu sắc của một triết gia, nhà tư tưởng- văn hóa lớn là hình ảnh một Nguyễn Trãi rất

đời thường với sự giản dị trong cuộc sống, sinh hoạt, tưởng như vô lo vô nghĩ.

Với niềm tự hào “Quê cũ nhà ta thiếu của nào” (Bài 35), Nguyễn Trãi đã

miêu tả phong vị quê hương bằng những hình ảnh đậm đà tính dân tộc. Đó là hình

ảnh rau muống, dọc mùng:

Ao quan thả gửi hai bè muống,

Đất Bụt ương nhờ một luống mùng.

(Bài 68)

47

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

(Bài 69)

Hình ảnh rau muống trong hai câu thơ trên của Nguyễn Trãi gợi nhắc cho

chúng ta nhớ tới hai câu ca dao quen thuộc:

Anh đi anh nhớ quê nhà,

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.

Chỉ là những thứ rau có hằng ngày thôi, ấy vậy mà bước vào thơ ca, nó trở

nên thi vị, ý nghĩa biết nhường nào. Phải là một con người thực sự yêu cuộc sống,

gắn bó với cuộc sống, với những người lao động cần lao, Nguyễn Trãi mới nhận ra

giá trị của những vật nhỏ bé, bình dị đến như vậy.

Chúng ta thấy xuất hiện trong Quốc âm thi tập, bên cạnh rau muống, dọc

mùng, còn có mồng tơi, kê khoai, núc nác….là những sản vật dân dã hằng ngày,

gần gũi với đời sống của người dân Việt, đặc biệt là ở vùng nông thôn Việt Nam:

Ngày tháng kê khoai những sản hằng,

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng.

(Bài 23)

Dã lòng thanh mùi núc nác,

Vun đất ải lảnh mùng tơi.

(Bài 10)

Cây cớm trồi cành chim kết tổ,

Ao quang mấu ấu cá nên bầy.

(Bài 11)

Khắc họa cuộc sống đạm bạc, bình dị, cực khổ của mình, Nguyễn Trãi đã sử

dụng rất nhiều hình ảnh “dưa muối”, “bát cơm xoa”:

Muối lẫn dưa dầu đủ bữa,

Thêu cùng gấm mặc chưng đời.

(Bài 104)

48

Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc,

Áo mặc âu chi quản cũ đen.

(Bài 140)

Bữa ăn dầu có dưa muối,

Áo mặc nài chi gấm là.

(Bài 4)

Điều đặc biệt, ta nhận ra ở con người Nguyễn Trãi, cùng với việc thưởng thức thú

tiêu dao thưởng ngoạn, những món ăn dân dã hay quấn quýt bên những con vật hằng

ngày, ông không bao giờ quên bàn đến việc cày cấy. Có thể nói, công việc cày cấy vốn là

việc của những người nông dân chân lấm tay bùn. Nó có phần xa lạ với những trí thức

tinh thông, với văn chương bác học nhưng đến Nguyễn Trãi, công việc cày cấy được

nhắc đến trong thơ với một niềm hăng say lao động. Gần gũi với nhân dân, hiểu được

những giá trị đích thực của những sản vật trên, Nguyễn Trãi nhắc nhở:

Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt,

Đất cày ngõ ải lảnh ương hoa.

(Bài 4)

Chúng ta trân trọng thái độ ấy của nhà trí thức lớn dưới xã hội phong kiến đã

hoà mình trong cái cao quý của lao động. Với Nguyễn Trãi, cuốc cày ấy là thú vui,

mà thú vui này hoàn toàn khác với thú chầu chực nơi cửa quyền:

Một cày, một cuốc thú nhà quê,

Áng cúc lan xen vãi đậu kê.

(Bài 48)

Nguyễn Trãi xem là cái “thú”, song không phải với ý bỡn cợt, coi thường.

Nhà thơ hiểu được rằng chính cái “thú” ấy đã nuôi sống con người, duy trì sự tồn

tại của xã hội. Ông nhắc nhở:

Nước đào giếng cơm cày ruộng,

Thay thảy dường bằng nguyệt Cửu Giang.

(Bài 129)

49

Ruộng đôi ba khảm đất con ong,

Đầy tớ cùng cày kẻo mượn mòng.

(Bài 56)

Có lẽ từ trước cho đến Nguyễn Trãi, chưa có một nhà thơ bác học nào lại viết

về công việc cày cấy - vốn gắn bó với nhân dân, với văn học dân gian đầy nhiệt

huyết như ông.

Mộc mạc, giản dị là thế, Nguyễn Trãi không cho rằng đó là cuộc sống nghèo

hèn, thiếu thốn. Trái lại, ông rất bằng lòng, cho rằng đó là những khoảnh khắc quý

trong cuộc đời. Ông rất tự hào, trân trọng, ngợi ca:

Trong khi hứng động vừa đêm tuyết,

Ngâm được câu thần dắng dắng ca.

(Bài 4)

Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi,

Rìu bủi bủi thấy tiên đâu.

(Bài 41)

Đó là triết lí “an bần lạc đạo” của nhà nho, là lòng “thanh tĩnh vô vi” của tư

tưởng Lão - Trang, nhưng đó cũng là vẻ đẹp giản dị, tự nhiên trong con người, là

cuộc sống, cách sống “thân dân”, “trọng dân” của Nguyễn Trãi.

Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hóa, bản thân

Nguyễn Trãi cũng là người đọc nhiều, biết rộng, cuộc đời ông lại trải qua bao thăng

trầm, sóng gió, chính những điều đó đã tạo nên giọng điệu triết lí cho vần thơ của

triết gia Nguyễn Trãi. Nhưng những tháng ngày về ở ẩn chốn quê nhà giúp nhà thơ

có cuộc sống bình dị. Mang phong thái, cuộc sống của một điền ông, điều đó không

chỉ do hoàn cảnh, mà thực chất, tác giả của Quốc âm thi tập là một người rất giản

dị, chất phác.

Không phải ai cũng đạt được tầm tư tưởng như Nguyễn Trãi, nhưng không ai

là không nhận thấy hình ảnh giản dị, đời thường của mình trong con người Nguyễn

Trãi. Nguyễn Trãi là thế! Dường như không có khoảng cách giữa một vĩ nhân và

50

một thường dân. Chính vẻ “trần thế nhất trần gian” ấy đã tôn lên tầm vĩ đại trong vẻ

đẹp của một nhà yêu nước, nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi. Hay nói theo cách khác,

khía cạnh “con người” trong người anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản

đã góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại. Vẻ đẹp trong tâm hồn

Ức Trai khiến những câu thơ, cũng giản dị như chính con người ông, mãi “còn

xanh” cùng với thời gian! Một triết gia sắc sảo và một điền ông chất phác, điều đó

đã làm nên sự trọn vẹn trong con người Nguyễn Trãi.

2.1.3. Người anh hùng, nhà tư tưởng lớn và nhà nghệ sĩ

2.1.3.1. Người anh hùng, nhà tư tưởng lớn

Tương truyền, Nguyễn Trãi đã từng theo cha đến tận ải Nam Quan khi cha

ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt giải về Kim Lăng. Cuộc đời Nguyễn

Trãi bắt đầu bằng thảm kịch “nước mất nhà tan”. Chính “mối hận Nam Quan” đã

nhen nhóm ngọn lửa của lòng yêu nước thương nòi trong tâm khảm Nguyễn Trãi để

một ngày kia nó bùng cháy thành Hỏa Diệm Sơn của một sự nghiệp anh hùng.

Nung nấu chí vọng “đền nợ nước, báo thù nhà”, khi nghe tin Lê Lợi khởi

nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp

Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi trọng dụng. Ông đã đồng cam cộng khổ

với nghĩa quân Lam Sơn suốt mười năm kháng chiến. Một mình ông đảm trách cả

một mặt trận quan trọng: mặt trận chính trị ngoại giao. Với sở học uyên bác, trí tuệ

sắc bén, ông đã liên tiếp gửi thư cho bọn tướng giặc, đánh những đòn cân não làm

tan rã tinh thần của chúng.

Với những đóng góp, cống hiến cho đất nước, Nguyễn Trãi xứng đáng là bậc

đại anh hùng dân tộc, nhà ái quốc vĩ đại và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch

sử Việt Nam thời phong kiến. Trong Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà

quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa - tư tưởng lớn. Chính tư tưởng lớn đã

càng tạo nên tầm vóc cho người anh hùng của dân tộc.

Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại

nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, đánh dấu một giai đoạn

phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

51

Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ

thống hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua

các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà

khoa học xã hội hiện đại. Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện,

chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo (trong đó Nho giáo đóng vai

trò chủ yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.

“Trung quân ái quốc” là nét nổi bật trong tư tưởng của người anh hùng vĩ đại:

Một thân lẩn quất đường khoa mục,

Hai chữ mơ màng việc quốc gia.

Quân thân chưa báo, lòng canh cánh,

Tình phụ cơm trời, áo cha.

(Bài 8)

Và suy nghĩ chưa “báo đền ơn chúa” trọn vẹn đã trở thành một điều day dứt

trăn trở, thậm chí một điều sinh tử ở ông.

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

(Bài 170)

Yêu nước thương dân, tình cảm ấy như ngọn lửa luôn bùng cháy mãnh liệt,

luôn thường trực trong con người Nguyễn Trãi:

Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng,

Cật chưng hồ hải đặt chưa an.

Những vì thánh chúa âu đời trị,

Há kể thân hèn tiếc tuổi tàn.

Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt,

Túi thơ chứa hết mọi giang san.

(Bài 72)

52

Đặc điểm nổi bật cũng là điều đáng trân trọng ở người anh hùng Nguyễn Trãi

là có sự hòa quyện của tư tưởng yêu nước, yêu vua, thương dân, và nhân nghĩa.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ

thống tư tưởng triết học - chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt

ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền

tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong

việc quản lí, lãnh đạo quốc gia. Mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng -

Mạnh, nhưng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang ý nghĩa tích cực, mở rộng

và nâng cao hơn.

Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với

tư tưởng vì dân và an dân.

Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là

tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý

đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập

và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Ông cho rằng, cơm ăn, áo mặc có được là do

nhân dân, điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng do mồ hôi nước mắt của dân mà

có, kể cả lộc vua ban: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Những câu thơ của Nguyễn Trãi

luôn xuất hiện hình ảnh nhân dân là vì thế.

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

(Bài 170)

Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,

Đem dân mựa nỡ mất lòng dân.

(Bài 184)

Hổ phách phục linh nhìn mới biết,

Dành còn để trợ dân này.

(Bài 220)

53

Quan điểm sâu sắc và tiến bộ về nhân dân, thấy được vai trò của nhân dân,

đây được xem là một nét độc đáo khác trong tư tưởng Nguyễn Trãi. Từng trải qua

cuộc sống nghèo khó, gần gũi và gắn bó với nhân dân, nằm gai nếm mật với nghĩa

quân Lam Sơn nên hơn ai hết, ông hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nhìn thấy

vai trò, sức mạnh to lớn của nhân dân. Cả cuộc đời ông lấy viêc xây dựng đất nước

giàu đẹp, mang lại lợi ích cho nhân dân là “niềm trăn trở” không bao giờ nguôi,

mục đích tối thượng. Điều đó cho thấy tư tưởng của ông đã vượt khỏi hệ tư tưởng

phong kiến bảo thủ, mang đậm tính nhân văn sâu sắc.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý

tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không

còn tiếng giận oán sầu. Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất

nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp, đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các

nước khác. Có thể nói, lí tưởng chính trị- xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với

nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân, đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong

điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một

quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.

Với quan niệm đó, ông cho rằng bề tôi trung cần giúp vua trị nước. Sự

nghiệp sáng lập triều đại cũng là sự nghiệp khôi phục đất nước.

Trung cần há nỡ trại cân xưng,

Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng.

Khong khảy thái bình đời thịnh trị,

Nghiệp khai sáng tựa nghiệp trung hưng.

(Bài 188)

Người anh hùng mang trong mình tư tưởng lớn, luôn lo cho đời ấy cuối cùng

cũng rơi vào bi kịch không được tin dùng, trọng dụng nữa. Nhưng với bản lĩnh, khí

phách của người anh hùng, Nguyễn Trãi vẫn khẳng định thái độ kiên định của mình:

54

Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược,

Có nhân có trí có anh hùng.

(Bài 132)

Một quan niệm toàn diện về người anh hùng. Nguyễn Trãi đã từng là một

anh hùng trên các “mặt trận” quân sự, chính trị, ngoại giao, giờ ông vẫn là anh hùng

trong tư tưởng “trừ độc”, “trừ tham”, “trừ bạo ngược”, trong quan niệm, cách sống

“có nhân”, “có trí”.

Nguyễn Trãi không thể không đau xót trước thói đời đen bạc, lòng người uốn

mình như lưỡi câu, lại thêm chướng tai gai mắt khi chứng kiến bọn gian thần lũng

đoạn chốn quan trường, người anh hùng ấy vẫn thể hiện bản lĩnh, khí phách của

mình qua thái độ tưởng như cao ngạo, “bướng bỉnh”:

Lan huệ chẳng thơm thì chớ,

Nỡ chi lại phải chốn tanh tao.

(Bài 167)

Trước uy vũ, cường quyền, ông khẳng khái, tỏ rõ thái độ cứng cỏi, cương

quyết, thách thức:

Chớ cậy sang mà ép nề,

Lời chăng phải vẫn khôn nghe.

(Bài 44)

Hiện thực không như ý, có thể chỉ là một thử thách với người anh hùng mà thôi:

Khó khăn thì mặc có màng bao,

Càng khó bao nhiêu chí mới hào .

(Bài 66)

Vườn quạnh dầu chim kêu hót,

Cõi trần có trúc dừng ngăn.

(Bài 110)

55

Dẫu biết rằng mình đơn độc trên con đường đầy sóng gió, hiểm nguy, nhưng

Nguyễn Trãi vẫn nguyện là con thuyền nhỏ mải miết bơi, không chịu dừng đỗ:

Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ

(Bài 14)

Một mình lạt thuở ba đông

(Bài 218)

Trước cái lạnh lẽo của mùa đông, cây tùng vẫn xanh tươi. Đó cũng chính là

phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt

khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh, không sống một cách tầm

thường- Cốt lãnh hồn thanh chăng khứng hóa (bài 54).

Có thể nói, với khao khát được “cháy hết mình” cho sự nghiệp vì dân vì

nước, ngọn lửa nhiệt huyết trong con người Nguyễn Trãi luôn được thắp sáng bởi lí

tưởng của người anh hùng, vững vàng kiên định trong mọi hoàn cảnh. Đó chính là

chất ngọc Ức Trai, là hổ phách, phục linh của cây Tùng- Nguyễn Trãi để lại cho đất

nước, nhân dân ta.

2.1.3.2. Một nghệ sĩ đa tình

Hơn nhiều tác giả trước đó và những tác giả cùng thời, khi sáng tác, Nguyễn

Trãi bước đầu tự giác ý thức mình là một nhà thơ.

Trước Nguyễn Trãi, văn học Việt Nam dường như chỉ mới có kiểu tác giả -

tăng lữ, tác giả - nhà nho, tác giả - vua quan, tướng lĩnh... Con người chức năng chi

phối con người nghệ sĩ. Đến Nguyễn Trãi, văn học dân tộc xuất hiện một kiểu tác

giả mới, trước đó hầu như chưa thấy: kiểu tác giả - nghệ sĩ. Đây là bước tiến lớn của

văn học dân tộc. Khi sáng tác, một mặt Nguyễn Trãi vẫn xuất hiện với tư cách tác

giả - nhà nho, mặt khác ông còn xuất hiện với tư cách tác giả - nghệ sĩ. Con người

nghệ sĩ chi phối tác giả trong sáng tác. Thế nên, nhà thơ Xuân Diệu cho rằng:

“Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà đạo đức làm thơ, Nguyễn Trãi chính cống là một

tâm hồn thi sĩ”

56

Với một “tâm hồn thi sĩ” như thế, Nguyễn Trãi không thể không rung động

trước cái đẹp, mà trước hết là vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời, như lời tâm sự của

ông: “Non nước cùng ta đã có duyên”.

Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít

(Bài 206)

Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh

(Bài 169)

Tinh tế, nhạy cảm, yêu mến, đắm say, nâng niu, trân trọng, đó là tất cả tình

cảm mà ông dành cho thiên nhiên. Nên cử chỉ của thi nhân thật nhẹ nhàng: “gượng”

(Gió nơi đâu gượng mở xem), “khoan khoan” (Khoan khoan những lệ ác tan vừng);

tâm trạng thì “tiếc’’(Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân), “vấn vít” (Thấy cảnh lòng

thơ càng vấn vít) , “thương”, e ngại (Quét hương ngày lệ bóng hoa tan), “chờ” đợi

(Ghé cửa đêm chờ hương quế lọt), “dò” (Dò trúc xông qua làn suối), “tìm” (Tìm

mai theo đạp bóng trăng), “ngắm” (Ngắm xem mai hay tuyết đến), “say” (Say

thưởng nguyệt lệ thu qua)...

Coi “non nước” là “chốn hữu tình”, thiên nhiên trở nên gắn bó, gần gũi xiết

bao như anh em, bầu bạn, “bạn cũ”, tri âm, láng giềng, “khách khứa” với thi nhân:

Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn,

Ủ ấp cùng ta làm cái con.

(Bài 21)

Láng giềng một áng mây bạc,

Khách khứa hai ngàn núi xanh.

Có thuở biếng thăm bạn cũ,

Lòng thơ nghìn dặm nguyệt ba canh.

(Bài 169)

57

Nếu như sống giữa xã hội chằng chịt các mối quan hệ chỉ làm nhà thơ thêm

day dứt, cô đơn thì tìm đến thiên nhiên, ông tìm được bao nhiêu niềm vui: “Hái cúc

ương lan hương bén áo/ Tìm mai đạp nguyệt tuyết thâm khăn” (bài 60).

Nguyễn Trãi tiếp nhận, bắt nhịp với âm thanh của thiên nhiên với tinh thần

đam mê, thông cảm:

Am rợp chim kêu hoa sảy động,

Song âm hương tiễn khói sơ tàn.

Mưa thu rưới ba đường cúc,

Gió xuân đưa một lảnh lan.

(Bài 17)

Với một tình cảm đặc biệt dành cho thiên nhiên, Nguyễn Trãi không giấu nổi

cảm xúc của mình trước vẻ đẹp cuốn hút như mời gọi của thiên nhiên. Đã biết bao

lần, thi hứng xuất hiện và “nàng Thơ” đã ra đời như thế:

Bút thơ đã chép hương còn bén,

Ngâm ngợi nào ai chẳng động lòng.

(Bài 245)

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu.

Chén ngâm rượu đục ngày ngày cạn,

Túi quẩy thơ nhàn chốn chốn thâu.

(Bài 153)

Khách lạ đến ngàn hoa chửa rúng,

Câu mầu ngâm dạ nguyệt càng cao.

(Bài 52)

Thế nên, cũng đã bao lần, thi nhân tự nhận mình là người “giàu có”:

58

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

(Bài 69)

Trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi có sự ưu ái đặc biệt với

trăng. Trăng xuất hiện nhiều nhất so với những hình ảnh thiên nhiên khác. Trong 254 bài

thơ đã có tới 70 lần, Nguyễn Trãi nhắc tới trăng (Dẫn theo La Kim Liên) [34, tr.547].

Nguyễn Trãi nói đến trăng với niềm say mê riêng. Trăng thân thương, quấn quýt:

“Chè tiên nước ghín nguyệt theo về”, trăng đẹp quá khiến Nguyễn Trãi sợ nó tan vỡ trên

mặt nước “Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá” và sợ mùa thu qua trăng không còn

cái đẹp mà nó đã có: “Say thưởng nguyệt sợ thu qua”, lại có lúc Nguyễn Trãi muốn uống

cả trăng: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén”… Nâng niu ánh trăng, thi sĩ muốn giữ

nước ao hồ cho trong để đón trăng: “Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt” và tránh

cả thả cá vào ao hồ để trăng được hiện lên trọn vẹn hơn:

Đìa tham nguyệt hiện chăng buông cá,

Rừng tiếc chim về ngại phát cây.

(Bài 28)

Bàn tay của một người đã từng cầm bút soạn thảo các thư từ ngoại giao - “có

sức mạnh của mười vạn quân” (Phan Huy Chú) [3] gửi đến các tướng giặc, bàn tay

đã từng viết áng “thiên cổ hùng văn”, “bản tuyên ngôn độc lập” Bình Ngô đại cáo,

bàn tay ấy còn biết nâng niu nhặt từng cánh hoa tàn để ngắm dưới ánh trăng:

Nhặt hoa tàn xem ngọc rụng,

Soi nguyệt xủ kẻo đèn khêu.

(Bài 105)

Tiếc thương cho “hoa tàn”, “ngọc rụng”, thi nhân không nỡ quét sân, sợ vỡ

ánh trăng, chẳng dám khua mái chèo:

Viện có hoa tàn chăng quét đất,

Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo.

(Bài 32)

59

Thật đa sầu đa cảm! Ai ngờ đâu bên trong một người anh hùng đã từng lừng

lẫy với bao chiến công, người anh hùng với bản lĩnh và khí phách cứng cỏi là một

tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, mong manh đến thế!

Có thể thấy, trăng hiện lên trong nhiều trạng huống khác nhau: là người bạn

tri âm, tri kỉ; là nơi gửi gắm niềm vui, nỗi buồn; là bến đỗ cho Ức Trai khi trống

vắng, cô đơn:

Núi láng giềng, chim bầu bạn,

Mây khách khứa, nguyệt anh tam.

(Bài 64)

Rượu đối cầm đơm thơ một thú,

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người.

(Bài 76)

Bốn mùa trong năm, người nghệ sĩ ấy “say” nhất với mùa xuân. Cứ mỗi độ

xuân về, hồn thơ Nguyễn Trãi lại rộn rã, xốn xang (Lòng xuân nhẫn động ắt khôn

thìn; Một phát xuân là một động người) và khi xuân qua, thi nhân lại tiếc nuối (Cầm

đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân). Phải chăng, lòng yêu cuộc sống, tâm hồn nhạy cảm,

trái tim đa tình của người nghệ sĩ đã thổi vào mùa xuân phần hồn của nó, để xuân

mang biểu tượng cho vẻ đẹp hoàn mĩ, hoàn chỉnh, cho sức sống và tình yêu?

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

(Bài 236)

Cây chuối vốn là loại cây dân dã, bình dị, nhưng đã được Nguyễn Trãi thổi

vào đó một linh hồn để thể hiện những cảm xúc vừa kín đáo vừa mãnh liệt, vừa táo

bạo vừa sâu sắc. Biết bao liên tưởng về vẻ đẹp của mùa xuân, cuộc đời, của người

con gái, của tình yêu được gợi ra từ ngôn ngữ, hình ảnh thơ.

60

Không phải một lần, nhà thơ nhìn thiên nhiên như một người đẹp với sự trẻ

trung, quyến rũ như thế:

Môi son bén phấn dày dày,

Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay.

Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận,

Hồng nhan kia chớ cậy mình thay.

(Bài 242)

Màu sắc và hương thơm quyến rũ của hoa nhài khiến nhà thơ phải thốt lên:

“hồng nhan”! Hoa nhài đưa hương vào ban đêm, nhưng tác giả không nói “đưa

hương” mà là “đưa xuân”, tức là trao tình yêu. Trao tình yêu vào đêm trăng và chỉ

có trăng là hay biết được. Tình tứ biết bao!

Thậm chí, với tình yêu đắm say của mình dành cho mùa xuân, thi nhân còn

cảm nhận được cảnh sắc mùa xuân bừng dậy vào lúc giữa tiết đông, để rồi, các loài

hoa tỏa hương khoe sắc như những người đẹp vậy:

Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch,

Đáy nước ngờ là mặt Thái Chân.

(Bài 214)

Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân.

(Bài 246)

Mượn các mĩ nhân để ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, gợi những cảm giác

luyến ái để nói về sức quyến rũ không thể cưỡng lại của thiên nhiên, quả là khách

đa tình!

Yêu thiên nhiên, gắn bó hết mình với cảnh sắc thiên nhiên đất nước, Nguyễn

Trãi cũng rất am hiểu về chúng. Ông phát hiện ra mối quan hệ giữa thiên nhiên và

thời gian. Bởi thế, “say” xuân, để rồi “tiếc” xuân, người nghệ sĩ đa sầu đa cảm ấy

cũng luyến tiếc cho thời gian, tuổi trẻ của mình:

61

Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi,

Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân.

Vườn hoa khóc tiếc mặt Phi tử,

….

Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,

Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân.

(Bài 195)

Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng.

(Bài 199)

Nếu như trong Ức Trai thi tập chỉ có ba bài tả cảnh mùa xuân (Thanh minh,

Mộ xuân tức sự, Trại đầu xuân độ), thì trong Quốc âm thi tập, cảm quan về mùa

xuân đã trở thành một mạch cảm hứng, một cụm đề tài sâu sắc, phong phú. Với thơ

quốc âm - tiếng nói của tâm hồn dân tộc, chúng ta càng hiểu trọn vẹn, đầy đủ hơn

về tâm hồn, con người Nguyễn Trãi - một nghệ sĩ lớn!

Thơ về thiên nhiên chiếm phần phong phú nhất, và cũng thành công nhất

trong di sản văn thơ của Nguyễn Trãi, đặc biệt là trong Quốc âm thi tập.

Như vậy, đối với Nguyễn Trãi, thiên nhiên là “tài sản” vật chất, cung cấp cho

đời sống tinh thần, làm thỏa mãn thế giới tâm hồn của con người. Trong Quốc âm

thi tập, thiên nhiên luôn là thiên nhiên tâm trạng, ít khi là thiên nhiên khách quan

thuần túy. Thiên nhiên đã giải tỏa tâm sự, làm lắng lại nỗi buồn quy sơn, trở thành

đối tượng thẩm mĩ của Ức Trai. Với sự xuất hiện của những hình ảnh dân dã, thân

thuộc: trăng, núi, mây, tằm, hòe, lựu, cò, hạc…, Nguyễn Trãi đã cho ta thấy một sự

thay đổi trong cảm hứng sáng tạo, cảm hứng thẩm mĩ một cách dân chủ, tiến bộ.

Những hình ảnh thiên nhiên đó dù được thể hiện dưới góc độ nào đi chăng nữa thì

nó cũng góp phần quan trọng trong việc thể hiện tình yêu sâu sắc, tâm hồn đồng

điệu, sự gắn bó sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh sắc quê hương.

Có ai ngờ đâu tác giả của áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo lại là một

nghệ sĩ giàu xúc cảm, đa tình đến thế! Một người anh hùng với bao chiến công lẫy

62

lừng, một nhà tư tưởng lớn, một triết gia sắc sảo nhưng cũng là một người biết rung

động, đắm say, biết thưởng thức, nâng niu từng vẻ đẹp của trần thế, và thể hiện

được vẻ đẹp đó qua những vần thơ không thể “tình” hơn được nữa. Đa tình và tài

hoa! Những khía cạnh rất người ấy đã làm nên vẻ đẹp của một thiên tài.

2.1.4. Con người trước quốc gia, dân tộc và con người trong các mối quan hệ đời

thường

2.1.4.1. Con người trước quốc gia, dân tộc

Là người anh hùng vĩ đại của dân tộc, hơn ai hết, Nguyễn Trãi luôn ý thức

được vị trí, vai trò, cũng là trách nhiệm của mình đối với non sông đất nước.

Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại là “trung

quân ái quốc”, nên ta thấy tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ trong

mối quan hệ với nhà vua. Nguyễn Trãi luôn canh cánh trong lòng “ơn chúa” và

mong mỏi được “báo đền ơn chúa”:

Lòng một tấc đan còn nhớ chúa.

(Bài 43)

Dành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.

(Bài 164)

Ước bề trả ơn minh chúa.

(Bài 37)

Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả.

(Bài 133)

Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen.

(Bài 69)

Trong thơ, Nguyễn Trãi nhắc nhiều đến những chữ: trung, đạo trung, chúa, ơn

chúa. Cho dù những lúc không được vua tin dùng, những khi buồn về triều chính, thời

cuộc, những nỗi oan ức trên hoạn lộ, Ức Trai vẫn một lòng hướng về “chúa”:

63

Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu,

Kẻ hãy bằng quỳ hướng thái dương.

(Bài 71)

Một thân lẩn quất đường khoa mục,

Hai chữ mơ màng việc quốc gia.

(Bài 8)

Theo Lê Lợi, đến với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân Minh xâm

lược và góp công sức xây dựng quốc gia Đại Việt là những tháng năm đẹp nhất

trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Một con người tận trung, tận hiếu với vua, với nước,

luôn khao khát được “cháy” hết mình cho non sông ấy đã từng rất tự hào về những

đóng góp của mình:

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên.

Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp,

Xưa nay cũng một sử xanh truyền.

(Bài 183)

Thừa chỉ ai rằng thì khó ngặt,

Túi thơ chứa hết mọi giang san.

(Bài 72)

Vì thế mà hình ảnh giang san luôn xuất hiển hiện trong tâm trí người anh

hùng dân tộc ấy, ngay cả khi không được trọng dụng như xưa nữa:

Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung. (Bài 68)

2.1.4.2. Con người trong các mối quan hệ đời thường

Lui về quê ở ẩn, Nguyễn Trãi có điều kiện nhìn đời, nhìn người sâu sắc hơn.

Nguyễn Trãi lại có dịp tâm sự với anh em, bè bạn, với những người mà mình thương yêu

nhất. Ông đã có những câu nói xiết bao cảm động với người cha của mình:

64

Tình phụ cơm trời áo cha

(Bài 8)

Có con mới biết ơn cha nặng

(Bài 164)

Nuôi con mới biết lòng cha mẹ

(Bài 135)

Tình cha con ấy một mặt xuất phát từ đạo lí Nho gia theo quan niệm “quân

thần phụ tử”, mặt khác, cũng xuất phát từ đạo lí ngàn xưa của dân tộc, là tình cảm

tự nhiên vốn có của con người. Từ giã cha và em, khắc sâu lời cha dặn “rửa nhục

cho nước, trả thù cho cha”:

Con về đi tận trung là hiếu,

Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang.

Nguyễn Trãi quay trở về với một quyết tâm, một sự băn khoăn, trằn trọc.

Trong con người đại trung, đại hiếu ấy không bao giờ nguôi ngoai chí hướng trả thù

cho người cha kính yêu của mình.

Noi gương cha: “Thờ cha lấy thảo làm phép” (Bài 260), Nguyễn Trãi đã

sống một cuộc sống rất có ý nghĩa. Ông luôn tâm niệm phải sống tu nhân tích đức

để mang phúc lộc về cho con:

Trồng cây đức để con ăn.

(Bài 27)

Tình cảm cha - con được thể hiện thông qua sự giáo dục con cái bằng những

bài học về đạo đức, luân lí:

Nhắn bảo phô bay đạo cái con,

Nghe lượm lấy lọ chi đòn.

Xa hoa lơ lảng nhiều hay hết,

Hà tiện đâu đương ít hãy còn.

65

Ao mặc miễn là cho cật ấm,

Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.

(Bài 192)

Bên cạnh tình cha con, tình bạn cũng được Nguyễn Trãi quan tâm. Không kể

lúc buồn hay vui, Nguyễn Trãi đều nhớ đến những người bạn của mình. Nguyễn

Trãi xem lòng bạn là “lòng tri kỉ”, có thể gửi gắm tâm tư, tình cảm sâu kín của

mình. Do đó, tình bạn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi thường được biểu hiện thông

qua nhiều hình ảnh, nhiều biểu tượng khác nhau. Có khi Nguyễn Trãi nhắc đến tình

bạn thông qua biểu tượng về sự gắn bó keo sơn giữa mai và trúc:

Trúc mai bạn cũ họp nhau quen.

(Bài 46)

Có khi, Nguyễn Trãi gián tiếp nhắc đến tình bạn, ca ngợi tình bạn chân

thành, trong sáng giống như ánh trăng giữa trời:

Lòng bạn trăng vằng vặc cao.

(Bài 167)

Khi Nguyễn Trãi rơi vào bi kịch của một tài năng, nhân cách lớn không được

tin dùng, có khi ông gặp phải sự lạnh nhạt, “trở mặt” của bạn bè:

Một phen bạn đến còn đằm thắm,

Hai bữa mừng nhau một mặt không.

(Bài 178)

thì ông vẫn muốn nhắc tới đạo lí, tình nghĩa:

Bậu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong

(Bài 178)

Và dù được biểu hiện bằng những dạng thức, những hình ảnh nào đi chăng

nữa, qua những vần thơ Nôm trên, chúng ta có thể thấy được thái độ quý trọng của

Nguyễn Trãi đối với bạn bè của mình.

Không chỉ dừng lại ở tình cha con, tình bạn bè, tấm lòng của Nguyễn Trãi

còn trải rộng ra khắp các đối tượng, các tầng lớp nhân dân. Ông lắng nghe âm thanh

66

“lao xao”- không phải ở chốn quan trường, mà nơi chợ cá, trong sinh hoạt thường

ngày của người lao động. Nguyễn Trãi sống, chiến đấu, phục vụ hết mình cho sự

nghiệp của dân tộc cũng là do xuất phát từ tình người cao đẹp đó.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

(Bài 170)

Nguyễn Trãi luôn dành tình cảm đặc biệt cho quê hương. Nỗi nhớ quê trong

thơ ông thật cụ thể, sâu sắc:

Giang sơn bát ngát kìa quê cũ

(Bài 77)

Quê ấy là Chi Ngại, Côn Sơn, nơi nhà thơ sống với ông ngoại từ thuở thiếu

thời. Quê ấy còn là cánh đồng Nhị Khê mà tuổi thơ Nguyễn Trãi đã cùng bạn đội

nón, vác cuốc làm đồng trong ngày xuân. Đó là nơi mà ông có thể trở về để tìm

những phút giây bình yên, thanh thản:

Chân mềm ngại bước dặm mây xanh,

Quê cũ tìm về chốn củ thanh.

(Bài 158)

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ của Nguyễn Trãi là tâm hồn

của Nguyễn Trãi, trong sáng và đầy sức sống. Có người nói thơ của Nguyễn Trãi có

bài buồn, có câu buồn, vì lẽ gì chúng ta đều biết, nhưng cả tập thơ của Nguyễn Trãi

là thơ của một con người yêu đời, yêu người, tâm hồn Nguyễn Trãi sống một nhịp

sống với non sông đất nước tươi vui”[10]. Với thái độ sống tích cực đó, trong các

mối quan hệ với vua, với nước, hay trong những mối quan hệ đời thường, chúng ta

thấy một Nguyễn Trãi luôn “cháy” hết mình với khát vọng cống hiến, với triết lí

sống nhân nghĩa.

2.2. Lí giải về sự đa dạng, phức tạp nhưng thống nhất trong con người

Nguyễn Trãi

2.2.1. Bi kịch bề tôi trung không được tin dùng

Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua biết bao sóng gió thăng trầm trước những

67

biến động lớn lao của thời đại. Một con người luôn mang trong mình khát vọng

được cống hiến và đã cống hiến được rất nhiều cho đất nước, nhân dân nhưng cuối

cùng phải lui về ở ẩn. Đó là bi kịch của bề tôi trung không được tin dùng. Quốc âm

thi tập được sáng tác chủ yếu trong giai đoạn sau của cuộc đời Nguyễn Trãi nên

toàn bộ thi phẩm của ông là tất cả suy nghiệm của một con người luôn luôn băn

khoăn. Trong thơ ông là nỗi niềm thao thức khôn cùng, với bao dấu hỏi về cuộc đời.

Con người Nguyễn Trãi là con người hành động, ở những hoàn cảnh nào đấy, là con

người tìm thấy hướng đi và đấu tranh không mỏi:

Quân tử hãy lăm bền chí cũ,

Chăng âu ngặt chăng âu già.

(Bài 18 )

Khi trật tự xã hội có phận vị đã được sắp xếp ổn định, trong ước muốn xây

dựng “thái bình văn trị”, Nguyễn Trãi như cảm nhận được điều gì đó nên thường

nói đến nhân nghĩa như một sự nhắc nhở : “Quyền mưu vốn dĩ để trừ gian, nhân

nghĩa duy trì quốc thế an”. Mối quan tâm của Nguyễn Trãi là xây dựng một xã hội

“Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”, một đất nước có văn hiến, dân được yên

nghỉ, đứng đầu có “tể tướng hiền tài, chúa thánh minh”. Đã có một thời gian, trong

hào khí chiến thắng, Nguyễn Trãi tưởng có thể trông chờ vào triều đình để xây dựng

một xã hội thịnh trị, và hướng vào việc cụ thể ở tương lai:

Đao bút phải dùng tài đã vẹn,

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên.

Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên.

(Bài 183)

Những ước vọng tốt đẹp và cố gắng của Nguyễn Trãi dần dần sụp đổ và ông

trở nên cô độc trong sự day dứt, băn khoăn giữa “xuất” và “xử”.

Nguyễn Trãi luôn đặt mình trước dân tộc, lịch sử, trước nhân dân để hành động,

chính vì vậy, sự đổ vỡ ý tưởng ở Nguyễn Trãi mang tính bi kịch lớn, dự đồ tương lai,

cuối cùng đành phải làm “chim hồng tránh tên lánh nạn”. Thêm vào đó là sự va chạm với

thực tế đau lòng của xã hội chuyên chế xấu xa làm cho Nguyễn Trãi phản tỉnh:

68

Say hết tấc lòng hồng hộc,

Hỏi làm chi sự cổ kim.

(Bài 70 )

Nhìn thấy Ngu Công tua xá hỏi,

Non từ nay mựa tốn công dời.

(Bài 59)

Sắc thái thao thức của Nguyễn Trãi sau khi nhận thấy sự đổ vỡ của lí tưởng

trước thực tại phũ phàng là cái thao thức của một triết gia trước một vấn đề của thời

đại, của nhân sinh và của chính mình. Người nghệ sĩ bắt đầu ghi âm lại những nhức

nhối, giằng xé, tiếng nấc của cõi lòng:

Còn có một lòng âu việc nước,

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung.

(Bài 68 )

Đó là cơn bão lòng khiến nhà thơ “bệnh lắm sương gầy”,“tóc nên bạc”. Bao

đêm không ngủ, những suy tư của Nguyễn Trãi đi về hai chiều đối lập nhau: thánh

chúa và nhân sinh. Trong kháng chiến và khi mới chiến thắng, trong ước vọng về

một xã hội lí tưởng, hai đối tượng phục vụ đó của Nguyễn Trãi không có sự đối lập.

Nguyễn Trãi hướng về thánh chúa với tinh thần phận sự, trách nhiệm, ân nghĩa. Đã

nhiều lần, Nguyễn Trãi phát biểu, khẳng định tinh thần đó với sắc thái kiên định

nhất:

Chữ học ngày xưa quên hết dạng.

Chẳng quên có một chữ cương thường.

(Bài 82 )

để rồi lại xót xa:

Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,

Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.

(Bài 34 )

69

Mang trong mình bi kịch của một bề tôi trung không được tin dùng, Nguyễn

Trãi ngậm ngùi, chỉ còn biết tâm sự qua bạn thơ. Những trạng thái phức tạp trong

tâm trạng của nhà thơ đã bắt nguồn từ đó.

2.2.2. Sự tiếp thu sáng tạo tinh thần các hệ tư tưởng, tôn giáo

Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Tư tưởng của ông là sản

phẩm của nền văn hóa dân tộc thời Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà

phát triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam.

Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư

tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo (trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu), có

sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.

Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng-

Mạnh. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa,

chống lại sự thống trị của nhà Minh cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước

thời kì đầu nhà Hậu Lê.

Trong thế giới quan Nho giáo, cả 3 yếu tố quốc gia - gia đình - cá nhân đều

có liên hệ chặt chẽ với nhau: “Cái căn bản của thiên hạ là quốc gia/ Cái căn bản

của quốc gia là gia đình/ Cái căn bản của gia đình là thân mình vậy”[2]. Nho giáo

xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành nên gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân

có đức hạnh tốt thì gia đình, xã hội sẽ tốt và ngược lại.

Nho giáo đặc biệt coi trọng con người, coi con người cùng với Trời và Đất

là “Tam tài”. Sự tiếp thu sáng tạo tinh thần Nho giáo của Nguyễn Trãi thể hiện rõ

nhất ở ba nội dung sau:

Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung

cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học - chính trị của ông. Tư tưởng ấy có

phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ

khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính

trị, là nguyên tắc trong việc quản lí, lãnh đạo quốc gia. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường

70

lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện

ước mơ xây dựng xã hội lí tưởng - “xã hội Nghiêu Thuấn” cho nền thái bình muôn

thuở.

Mệnh trời: Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra

muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh

vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có

tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với

tâm lí phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và

thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành

mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người

không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào

thân.

Tư tưởng nhân dân: Nguyễn Trãi mang trong mình lòng thương dân, yêu

dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã

hội và động lực quyết định sự hưng vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là

nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến

Việt Nam.

Về ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi, Trần Đình Hượu cho

rằng: “Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng

là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi

mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó”[18].

Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi được thể

hiện qua nội dung khuyên răn luân lí. Ông khuyên con người ta không nên coi trọng

vật chất mà cần sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng

danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc

không, đạo đức mới là của chầy. Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có

hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha

thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt

thòi về mình. Tư tưởng Lão - Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi,

ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên..

71

Xuất phát từ yếu tố thời đại, môi trường gia đình và sự nỗ lực của bản thân,

Nguyễn Trãi rất thấm nhuần tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Những

khao khát được cống hiến, lòng “nhớ chúa”, tính vĩ đại trong tư tưởng của người

anh hùng, nhà văn hóa Nguyễn Trãi, hay mong muốn được ở nhàn, tình yêu thiên

nhiên, cuộc sống trong ông có cơ sở từ sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng, tôn giáo.

Nhưng điều đáng nói là Nguyễn Trãi đã tiếp thu các tôn giáo với tinh thần dân tộc,

vận dụng phù hợp với thực tiễn lịch sử. Chính điều đó đã đem đến tính nhân văn,

dân tộc cho tư tưởng của Nguyễn Trãi.

2.2.3. Sự tự ý thức về con người cá nhân

Tư tưởng văn học trung đại Việt Nam, do các triều đại phong kiến và nho gia

chủ trương, coi văn chương nghệ thuật như là một phương diện của chính trị. “Văn

dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” là những mệnh đề chủ yếu thuộc về xu hướng tư tưởng

này. Quan niệm này đã tạo được nhiều giá trị văn chương to lớn, nhất là mảng sáng

tác chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, song có hạn chế là chỉ một mực

hướng về con người cộng đồng, ít hướng về con người cá nhân, con người đời

thường, tạo nên những vùng cấm kị đối với sáng tác văn học, né tránh con người

bản thể luận, không bàn đến quyền sống chính đáng của con người thân xác, không

coi trọng đời sống cảm xúc chân thực, hồn nhiên, tự nhiên của con người. Nếu quan

niệm chính thống đề cao thơ nói chí với màu sắc duy lí, “ôn nhu đôn hậu” thì tư

tưởng văn học phi chính thống lại đề cao vai trò của cảm xúc, nhấn mạnh chữ tình.

Chính dòng tư tưởng phi chính thống này lại phản ánh xu hướng sáng tác nhân đạo

chủ nghĩa, lấy con người làm bản vị, coi trọng sự chân thực của cảm xúc.

Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng “hình tượng cái tôi nhà Nho đứng

bên trên, bên ngoài cuộc sống xã hội nhưng vẫn luôn trăn trở , suy tư về cuộc sống.

Nhà nho không quan sát, với nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu các quy luật của hoạt

động thực tại xã hội nhằm đưa ra các kiến giải riêng của mình, họ chỉ đơn thuần

mượn thực tại ấy để diễn đạt các tư tưởng sẵn có. Một cung cách tiếp cận và phản

ánh hiện thực như vậy không thể tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực

trong văn học”[49]. Nguyễn Trãi chính là người manh nha cho tư tưởng phi chính

thống, ông đã dám sống thật với những khát vọng riêng của mình. Tế Hanh cho

72

rằng: “Trong thơ Việt Nam ngày trước, chưa có nhà thơ nào nói đến những nỗi

niềm riêng của mình nhiều như Nguyễn Trãi” [12, tr.719]. Thơ Nguyễn Trãi không

những có tính chất hoành tráng mà còn bộc lộ tâm hồn đa cảm của một con người

yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời. Lời thơ của ông có khi vui vẻ, hóm hỉnh:

Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành,

Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình.

Biên xanh nỡ phụ người đầu bạc,

Đầu bạc xưa này có thuở xanh.

(Bài 202)

Ông đã cãi lí với người trẻ tuổi cười chê ông đầu bạc, nhưng rõ ràng là ông

yêu mến tuổi trẻ và tiếc rằng tuổi xuân của mình đã qua mất rồi:

Dặng dõi bên tai tiếng quản huyền,

Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn.

Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,

Thấy cảnh cành thêm tiếc thiếu niên.

(Bài 201)

Trong thơ, Nguyễn Trãi đã thể hiện con người trữ tình, chất nghệ sĩ của

mình, ta có thể thấy qua bài thơ:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ mầu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem.

(Bài 236)

Bài thơ chỉ có 4 câu nhưng đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau. Nguyễn

Trãi quả thực là một là một người rất lãng mạn với những vần thơ vô cùng táo bạo,

trẻ trung!

73

Thơ Nguyễn Trãi luôn chan hòa tình cảm đối với thiên nhiên, con người.

Ông có cách nhìn, cách cảm tuyệt với trước vẻ đẹp của thiên nhiên, chân thành tha

thiết trong tình bạn, hóm hỉnh nhưng tế nhị, sâu sắc trong tình người, ông xem thiên

nhiên là bạn, láng giềng, anh em, những người an ủi mình trên đỉnh Côn Sơn cô

độc.

Những năm cuối đời nhiều bất hạnh, thơ Nguyễn Trãi đôi khi lắng đọng một

nỗi niềm u uất, chán nản, bi quan, thậm chí thấm thía giọng điệu mỉa mai cho sự

nghiệp anh hùng dở dang của mình. Có lúc, thơ ông thấm lạnh một nỗi cô đơn tê tái

trong những đêm dài trên núi Côn Sơn:

Rượu đối cầm đơm thơ một thú,

Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người.

(Bài 76)

Có lúc, ông ví mình như một chiếc thuyền con, giữa trời chiều mênh mông

chẳng biết ghé bến nào:

Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ,

Trời ban tối ước về đâu.

(Bài 14)

Nhà thơ là con người giàu suy tư để dằn vặt với nỗi đau hữu hạn của đời

người cho dù đó là cuộc đời của người anh hùng.

Tuy nhiên, vượt qua tất cả những bất hạnh, thăng trầm của cuộc đời làm

quan bị ganh ghét, đố kị, Nguyễn Trãi vẫn giữ cho mình “Một tấc lòng son còn nhớ

chúa/ Tóc hai phần bạc bởi thương thu”. Có âm điệu buồn trong thơ ông nhưng đó

không phải là âm điệu chủ đạo. Vấn đề lớn lao nhất mãi làm ông quan tâm chính là

ưu quốc, ái dân, lo cho đất nước và thương nhân dân. Ðiều làm tỏa sáng nhân cách

lớn lao của một người anh hùng, một kẻ sĩ chân chính.

Nói đến ý thức cá nhân là nói đến toàn bộ sự tồn tại của con người trong

những mối quan hệ cụ thể. Nó gắn với những nhu cầu vật chất, tinh thần, tình cảm,

thẩm mĩ của mọi đối tượng. Tuy nhiên, trong thời kì trung đại, vì những lí do lịch

sử xã hội nhất định, con người cá nhân không được quyền tồn tại với những nhu cầu

của chính nó. Như vậy cũng có nghĩa con người chỉ còn là công cụ cho những giá

trị trừu tượng. Đặc điểm này làm nên tính chất phi ngã của văn chương đương thời.

74

Đó cũng là kết quả của quan điểm Văn dĩ tải đạo ngự trị trong đời sống văn học dân

tộc suốt cả nghìn năm. Nó hủy hoại cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Chỉ có

những nghệ sĩ lớn mới thật sự vượt lên trên những giới hạn của thời đại. Điều này

gắn liền với phút “nổi loạn” của con người cá nhân. Đó cũng là lúc văn học thực sự

tiếp cận với các giá trị chân- thiện- mĩ. Đến với Quốc âm thi tập, chúng ta gặp một

Nguyễn Trãi với bao xúc cảm, nỗi niềm, ưu tư về cuộc đời. Nhà thơ đã bộc lộ con

người mình một cách chân thực, trọn vẹn nhất. Và điều đó, suy cho cùng chính là sự

tự ý thức về con người cá nhân trong Nguyễn Trãi!

Tiểu kết chương 2

Cảm xúc trong mỗi con người luôn tồn tại nhiều cung bậc, sắc thái. Nhưng

điều đặc biệt mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở Nguyễn Trãi là những sắc thái tâm

trạng, cảm xúc trong ông không chỉ phong phú, đa dạng, mà còn phức tạp, đối lập.

Quốc âm thi tập đã thể hiện một cách trọn vẹn hình ảnh Nguyễn Trãi : một vĩ nhân

và một thường nhân. Một vĩ nhân với bao khát vọng lớn lao, bao chiến công vang

dội của người anh hùng cứu quốc mang trong mình lí tưởng yêu nước thương dân,

với tầm tư tưởng đạt tới đỉnh cao thời đại, nhân loại. Một thường nhân với cuộc

sống hàng ngày giản dị, chân quê trong các mối quan hệ đời thường, cùng những

tình cảm, tâm sự riêng tư, sâu lắng. Và, sự kết nối giữa hai con người ấy là một lối

sống giản dị, một trái tim nhân ái bao la, một tâm hồn nghệ sĩ đa sầu đa cảm. Sự hội

tụ của nhiều người trong một con người ấy đã làm nên vẻ đẹp, tên tuổi của ông-

NGUYỄN TRÃI ! Chúng ta ngưỡng mộ trước một tên tuổi lớn, và chúng ta càng

xúc động, khâm phục hơn khi nhà thơ đã chuyển tải được những giai điệu tâm hồn

đó đến với độc giả một cách chân thành, tinh tế, sâu sắc.

75

Chương 3

HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN

PHỨC ĐIỆU XÚC CẢM TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

Giá trị của Quốc âm thi tập không chỉ là thể hiện được trọn vẹn con người đa

dạng, toàn diện của Nguyễn Trãi mà còn cho thấy vẻ đẹp, sức mạnh của các yếu tố

nghệ thuật trong khả năng biểu đạt những phức điệu xúc cảm đó trong tâm hồn nhà

thơ. Đến đây, chúng ta không chỉ thấy được vẻ đẹp trong con người Nguyễn Trãi

mà còn thấy được tài năng của một nhà thơ lớn. Bởi thể hiện được thành công điệu

tâm hồn mình đã khó, thể hiện hiệu quả, tinh tế, sâu sắc những phức điệu xúc cảm

trong con người lại càng khó hơn.

3.1. Ngôn từ

3.1.1. Sử dụng thành công vốn ngôn ngữ bác học

Với sự uyên bác của một nhà văn hóa, nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ lớn của

dân tộc, Nguyễn Trãi đã rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ để sáng tác,

trong đó có vốn ngôn ngữ bác học.

Từ Hán - Việt vốn được các nhà thơ phong kiến ưa chuộng để tạo nên sắc

thái trang trọng, đài các, quý phái cho lời thơ. Vốn từ Hán - Việt được Nguyễn Trãi

sử dụng rất đa dạng, có khi là từ có một âm tiết:

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén (Bài 11)

Có khi là hai hay nhiều hơn về âm tiết:

Say minh nguyệt chè ba chén,

Địch thanh phong lều một căn. (Bài 27)

Lui về quê ở ẩn, nhà thơ hòa mình với thiên nhiên. Cuộc sống giản dị, thanh

nhàn ấy không làm mất đi phong thái “sang trọng” của một nhà nho. Đó là sự

“thưởng” trăng của một trí thức phong kiến mang bao tâm sự u hoài, thầm kín.

Nguyễn Trãi còn sử dụng kiến thức về Hán tự để gửi gắm niềm tin, lòng

trung đối với “minh quân”:

76

Còn cậy vì hay một chữ đinh (Bài 7)

Bên cạnh đó, Quốc âm thi tập còn xuất hiện khá nhiều những thuật ngữ, khái

niệm của các tôn giáo, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo:

Chớ còn chẳng chẳng chớ quyền quyền,

Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn.

Tích đức cho con hơn tích của,

Đua lành cùng thế mựa đua khôn.

Một niềm trung hiếu làm biêu cả,

Hai quyển thi thư ấy báu chon. (Bài 111)

Những bài học có tính triết lí đó xuất phát từ tư tưởng Nho và Phật giáo đã

cho thấy Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng, văn hóa lớn, một triết gia sắc sảo.

Một đặc điểm nổi bật trong cách viết của Nguyễn Trãi là ông dùng khá nhiều

điển.

Điển cố “là rút gọn “chuyện cũ người xưa” và “lời nói xưa” thành đôi ba

chữ để đưa vào văn thơ, làm cho câu văn hàm súc, ngắn gọn, lời ít ý nhiều”[32, tr.

142].

Với Nguyễn Trãi, dùng điển không chỉ nhằm thể hiện quan niệm thẩm mĩ

của người xưa là tạo tính uyên bác, tăng tính hàm súc cho văn chương, mà quan

trọng là để thể hiện những xúc cảm, tâm trạng trong lòng, để phản ánh suy nghĩ, cốt

cách, quan niệm nhân sinh của mình. Xuất phát từ mục đích đó nên Nguyễn Trãi đã

sử dụng đến khoảng 300 điển trong Quốc âm thi tập.

Có những điển gợi nhắc về các triều đại nổi tiếng, những vị vua yêu nước,

thương dân, có nhiều công lao, qua đó, tác giả bộc lộ ước mong về một xã hội lí

tưởng:

Thương Chu kiện cũ gác chưa đôi (Bài 2)

Căn lều cỏ đội đức Đường Ngu (Bài 15)

77

Đời thái bình ca khúc thái bình,

Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị.

(Bài 65)

Những điển tích kể về những câu chuyện xưa để thấy sự đổi thay của cuộc

đời, sự lãng quên của người đời; những nhân vật rơi vào bi kịch của một nhân tài có

khát vọng lớn lao nhưng không gặp thời, không được trọng dụng. Những câu thơ

của Nguyễn Trãi chất chứa bao nỗi niềm:

Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,

Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư.

(Bài 34)

Lều tiện Nhan Uyên tìm tới đỗ,

Đường cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi.

(Bài 57)

Bài 36 là một trường hợp đặc biệt, 8 câu thơ thì có tới 7 câu thơ xuất hiện

điển cố:

Án tuyết mười thu uổng độc thư,

Kiểu còn rọt rọt chữ Tương Như.

Nước non kể khắp quê hà hữu,

Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư.

Mắt hòa xanh đầu dễ bạc,

Lưng khôn uốn lộc nên từ.

Ai ai đều đã bằng câu hết,

Nước chẳng còn có Sử Ngư.

Bài thơ diễn đạt hàm súc, sâu sắc bao tâm sự của thi nhân. Bao nhiêu năm

đèn sách, thành công rồi cống hiến, nay cảm thấy xót xa, đau đớn, tuyệt vọng trong

cảm giác bị bỏ rơi của một kẻ vô dụng. Sự nghiệp tâm huyết bao lâu giờ chỉ như hư

78

vô, tưởng tượng. Nhưng điều đáng trân trọng ở Nguyễn Trãi là cho dù như thế nào,

ông vẫn giữ vững tiết tháo, vẫn nhìn đời bằng “con mắt xanh” của Nguyễn Tịch.

Phú quý bao nhiêu người thế gian,

Mơ mơ bằng thuở giấc Hòe An.

(Bài 63)

Nguyễn Trãi đã sử dụng điển “giấc Hòe An” trong sách “Dị văn lục” để gửi

gắm bài học triết lí: trong đời người, phú quý chẳng qua chỉ là chuyện hư ảo. Từ đó

khuyên chúng ta không nên chạy theo giấc mộng công danh phù phiếm mà đánh

mất những giá trị tốt đẹp.

Xuất phát từ quan niệm sống tích cực đó, thơ Nguyễn Trãi ca ngợi cuộc sống

nhàn. Một số bài thơ (17, 73, 107, 117) có sử dụng điển “ba đường cúc” trong bài

“Quy khứ lai hề từ” của Đào Tiềm để ca ngợi thú vui nơi ẩn dật:

- Mưa thu rưới ba đường cúc (Bài 17)

- Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc (Bài 73)

Điển nói về những địa danh với cảnh đẹp nổi tiếng giúp chúng ta thấy

được tâm hồn say đắm với thiên nhiên của “thi tiên” Nguyễn Trãi trong cuộc sống

thanh nhàn đó:

Ngàn nọ so miền Thái Thạch,

Làng kia mở cảnh Tiêu Tương.

(Bài 42)

Lan Đình tiệc họp mây ảo,

Kim Cốc vườn hoang dế cày.

(Bài 45)

Nhắc đến những địa danh - nơi những nho sĩ xưa chọn để di dưỡng tâm hồn,

những câu thơ thể hiện triết lí sống nhàn của Ức Trai:

Thiên Thai hái thuốc duyên gặp,

Vị Thủy gieo câu tuổi già.

(Bài 54)

79

Ngoài ra, tác giả của Quốc âm thi tập còn sử dụng những hình ảnh ước lệ,

hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng:

Đó là hình ảnh “lá ngô đồng” để nói về mùa thu:

Lá ngô đồng thuở mạt thu

(Bài 3)

Hình ảnh “trúc”, “mai” để nói về thiên nhiên và vẻ đẹp của cuộc sống thanh

nhàn:

Am trúc hiên mai ngày tháng qua

(Bài 4)

Trúc thông hiên vắng trong khi ấy

(Bài 5)

Hình ảnh “tùng”, “cúc”, “mai”, “sen”…để tượng trưng cho cốt cách, khí

phách của người quân tử- tấm lòng của Nguyễn Trãi với nước, với vua:

Nhờ ơn vũ lộ đà no hết,

Đông đổi dầu đông hãy một dường.

(Bài 215)

Chuốt lòng đan chăng bén tục,

Bền tiết ngọc kể chi sương.

Danh thơm thượng uyển còn phen kịp,

Bạn cũ đông li ắt khá (nhường).

(Bài 217)

Việc sử dụng vốn từ Hán Việt, những hình ảnh ước lệ, tượng trưng, điển tích

điển cố tương đối nhiều trong Quốc âm thi tập cho thấy Nguyễn Trãi vẫn “tuân thủ”

những khuôn mẫu mang tính quy phạm của văn học trung đại, đồng thời cũng

chứng minh tầm vóc của một nhà văn hóa, nhà tư tưởng lớn - Nguyễn Trãi.

80

3.1.2. Tiếp thu, sáng tạo từ ngôn ngữ dân gian

Quốc âm thi tập chứa đựng một số lượng từ vựng rất phong phú và đa dạng,

trong đó hệ thống từ thuần Việt chiếm ưu thế hơn so với từ Hán Việt. Với số lượng

từ phong phú, có giá trị nghệ thuật, tác giả Quốc âm thi tập không chỉ thành công

trong việc diễn tả những trạng huống tình cảm của bản thân, mà còn góp phần thúc

đẩy ngôn ngữ văn học tiếng Việt phát triển.

Trước hết là lớp từ vựng khẩu ngữ. Bằng tài năng và cái tâm của một con

người suốt đời vì dân, vì nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, Nguyễn Trãi đã vận

dụng linh hoạt khẩu ngữ, tạo nên những sáng tạo độc đáo. Vì thế, lời thơ trở nên

dung dị, uyển chuyển, trong sáng, gần gũi với nếp cảm, nếp nghĩ của người dân,

góp phần biểu hiện sâu sắc tâm hồn Ức Trai- tâm hồn dân tộc rộng lớn.

Có thể nói, trước Nguyễn Trãi, chưa có một nhà thơ nào sử dụng nhiều khẩu

ngữ vào trong sáng tác nhiều như ông. Ông đã tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy

để diễn tả cảm xúc, tâm trạng của mình.

Dầu Bụt, dầu tiên ai kẻ hỏi,

Ông này đã có thú ông này.

(Bài 28)

Nếu như ngôn ngữ bác học giúp ta hình dung một nhà nho đạo mạo, triết lí

thì những khẩu ngữ (ông) như thế này lại khiến hình ảnh Nguyễn Trãi thật cá tính,

thách thức.

Bên cạnh việc sử dụng lớp từ vựng khẩu ngữ, Nguyễn Trãi còn sử dụng một

số lượng lớn thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Các yếu tố thành ngữ, tục ngữ và ca dao

ấy khi được thể hiện nguyên dạng, khi được ông cải biến và sử dụng một cách biến

hoá dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, khả năng biểu hiện của thành ngữ, tục

ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập dường như vốn phong phú lại càng trở nên giàu

có hơn, đa dạng hơn, góp phần bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình.

Ở chớ nệ hay học cổ nhân,

Lánh mình cho khỏi áng phong trần.

81

Chim kêu cá lội yên đòi phận,

Câu quạnh cày nhàn dưỡng mỗ thân.

(Bài 29)

Từ câu thành ngữ “chim kêu cá lội” nói về hiện tượng tự nhiên, Nguyễn Trãi

đã trích nguyên vẹn để đưa vào nửa vế câu đầu trong phần thực. Qua đó, ông muốn

gửi gắm những suy nghĩ, những mong muốn thoát khỏi áng phong trần của cuộc đời

bình dị như quy luật của tạo hoá vậy.

Giọng điệu triết lí trong thơ Nguyễn Trãi được tạo nên bởi chính những

thành ngữ đó.

Thực tế cho thấy, thành ngữ là một đơn vị có sẵn, có kết cấu bền vững, tưởng

như sẽ gây khó khăn cho người sáng tác, thế nhưng khi vào ngôn ngữ Quốc âm thi

tập, ta lại thấy hoàn toàn khác. Không những không gây trở ngại gì cho Nguyễn

Trãi trong việc thể hịên nội dung tư tưởng và tình cảm của mình, trái lại, thành ngữ

góp phần rất lớn vào việc thể hiện chủ đề của tác phẩm cũng như tài năng của

Nguyễn Trãi, tạo nên những câu thơ hoàn chỉnh mà không bị cứng nhắc, gượng ép

về vần điệu.

Tả cảnh thiên nhiên thi vị, trữ tình, Nguyễn Trãi đã dùng thành ngữ “nước

biếc non xanh” (non xanh nước biếc):

Nước biếc non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu

(Bài 153)

Câu thơ phảng phất hương vị Đường thi. Non nước Việt Nam thơ mộng là thế,

dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi lại càng thơ mộng đẹp đẽ hơn, tâm hồn thi nhân dạt

dào cảm hứng. Và dù phảng phất phong vị Đường thi nhưng nó cũng không lấn át

đi bản sắc dân tộc đậm đà. Làm nên được sự kì diệu ấy, chính là nhờ vào việc sử

dụng thành ngữ tài tình của Nguyễn Trãi.

Chúng ta đều biết thành ngữ, tục ngữ, ca dao thường chứa đựng những ý

nghĩa, những triết lí nhân sinh sâu sắc, đặc biệt là những lời răn dạy về đạo làm

82

người. Tất cả những điều đó được Nguyễn Trãi tiếp thu, chiêm nghiệm và đưa vào

tập thơ. Nhìn vào thực tế cuộc sống và những lúc thăng trầm biến đổi của chính bản

thân mình, Nguyễn Trãi đau đớn nhận ra bản chất của con người. Sự đối lập giữa

giàu và nghèo, giữa hữu danh và vô danh đã làm thay đổi những mối quan hệ giữa

con người với con người trong cuộc sống đúng như nội dung những câu tục ngữ đã

phản ánh. Nguyễn Trãi trên cơ sở đó, ông lấy ý và thay đổi hình thức ngôn ngữ

bằng cách chuyển từ dạng lục bát ở những câu thơ trên thành những câu thơ thất

ngôn trong một số bài thơ:

Của nhiều sơn dã đem nhau đến,

Khó ở kinh thành thiếu kẻ han.

(Bài 133)

Chỉ qua một số câu thơ sử dụng đắc địa tục ngữ, ca dao, Nguyễn Trãi đã nói

lên được bản chất của con người trong xã hội lúc bấy giờ. Qua đó, nhà thơ thể hiện

thái độ phê phán, lên án lối sống thực dụng chỉ biết chạy theo phú quý mà quên đi

cả nghĩa tình.

Người đời lắm kẻ ưa công danh, phú quý, ưa nịnh nọt, những mong có địa vị

cao trong xã hội nhưng Nguyễn Trãi lại khác, lấy ý từ những câu thành ngữ “công

danh phú quý”, Nguyễn Trãi đã tách ra làm hai vế đưa vào hai câu thơ thất ngôn:

Phú quý treo sương ngọn cỏ,

Công danh gửi kiến cành hoè.

(Bài 73)

Phú quý, công danh là điều ai cũng muốn, nhưng để có công danh, phú quý

một cách chân chính không phải là dễ. Theo Nguyễn Trãi, cảnh giàu sang như giọt

sương treo tren ngọn cỏ, phút chốc là tan biến. Còn công danh nó giống như một

giấc mộng, mà trong giấc mộng ấy, Nguyễn Trãi xuất hiện là một vị quan tài ba

nhưng lại bị nghi kị là gian thần. Hai từ “công danh” và “phú quý” đi kèm với hai

động từ “treo”, gửi” lại đặt bên cạnh “ngọn cỏ”, “cành hoè” đã bộc lộ thái độ rõ

ràng, dứt khoát và quan niệm của Nguyễn Trãi đối với “danh” và “của” trong cuộc

đời - thái độ coi khinh không bén mảng tới của tâm hồn thanh liêm Nguyễn Trãi.

83

Sống trong xã hội có nhiều biến động to lớn, khi mà mọi sự trắng đen luôn

lẫn lộn, lòng người nham hiểm khôn lường, đúc rút từ các câu tục ngữ, ca dao trong

dân gian:

- Sông sâu còn có kẻ dò,

Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

- Dò sông, dò biển dễ dò,

Nào ai bẻ thước mà đo lòng người.

Nguyễn Trãi viết:

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,

Bui một lòng người cực hiểm thay.

(Bài 26)

Chẳng say chẳng đắm là quân tử,

Người hiểm lòng thay, hãy xá ngờ.

(Bài 179)

Trong bất cứ xã hội nào đi nữa thì sự tác động của hoàn cảnh, của môi

trường sống đối với con người là rất lớn:

Ở bầu thì dáng ắt nên tròn,

Xấu tốt đều thì rập khuôn.

Lân cận nhà giàu no bữa cám,

Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.

Chơi cùng đứa dại nên bầy dại,

Kết với người khôn học nết khôn.

Ở đấng thấp thì nên đấng thấp,

Đen gần mực, đỏ gần son.

(Bài 148)

84

Đây là bài thơ mà Nguyễn Trãi sử dụng một cách thành công các ý lấy từ tục

ngữ:

- Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

- Ở gần nhà giàu, đau răng ăn cốm,

Ở gần kẻ trộm, ốm lưng chịu đòn.

- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.

Việc vận dụng nội dung trong tục ngữ để làm nên ý thơ cho mình, Nguyễn

Trãi đã nói lên những bài học giáo dục sâu sắc. Ông khuyên mọi người dù trong

hoàn cảnh nào cũng phải giữ được tấm lòng của mình, đừng để mùi danh lợi làm

choáng ngợp, làm nguy hại đến phẩm chất của mình, giống như câu ca dao: “Gần

bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Bằng việc sử dụng sáng tạo vốn ngôn ngữ phong phú của văn học dân gian,

Nguyễn Trãi đã làm một “cuộc cách mạng” trong tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật

biểu hiện của thơ ca. Ngày này, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao không phải

là một hiện tượng lạ, bởi lẽ sau Nguyễn Trãi ta còn bắt gặp Nguyễn Du, Nguyễn

Bỉnh Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Xuân Hương, gần đây hơn là có Hồ Chí

Minh và Tố Hữu…Song mỗi thời điểm có những cách đánh giá riêng. Với Nguyễn

Trãi, vốn là một nhà nho thành đạt qua con đường Hán học, chịu ảnh hưởng sâu sắc

của Hán học mà đã làm được điều đó quả thật là điều đáng ghi nhận. Nguyễn Trãi

đã mạnh dạn vượt ra khỏi sự ràng buộc về tư tưởng của Hán học, ông không chỉ có

ý thức xây dựng nước ta thành một nước độc lập, tự do và tự chủ về mặt lãnh thổ

mà ông còn muốn nước ta có một nền văn hoá, văn học đậm đà tính dân tộc, tính

dân gian. Với ý thức đó, bằng tài năng của một nhà thơ lớn, Nguyễn Trãi đã phát

huy hiệu quả của ngôn ngữ dân gian để thể hiện tinh tế, sâu sắc những tình cảm

phong phú, tâm sự, quan niệm sống của mình.

Trong cách sử dụng ngôn ngữ, có nhiều khi, Nguyễn Trãi kết hợp ngôn ngữ

bác học và ngôn ngữ dân gian:

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén (Bài 11)

Mưa thu rưới ba đường cúc (Bài 17)

85

Xen giữa những từ Hán- Việt (thanh, nguyệt), điển (ba đường cúc) là những

từ mang sắc thái dân dã như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người bình dân vậy

(hớp, rưới). Tư tưởng của một triết gia đã được thể hiện bằng cách nói dân gian. Sự

đa dạng trong cách sử dụng ngôn ngữ cũng cho thấy sự đa dạng trong con người Ức

Trai: vừa có phong thái của một nhà nho đạo mạo, vừa mang cốt cách của một điền

ông chất phác.

Nếu việc sử dụng vốn ngôn ngữ bác học cho thấy ở Nguyễn Trãi là hình ảnh

một nhà văn hóa, tư tưởng lớn, một triết gia sắc sảo thì việc vận dụng và vận dụng

sáng tạo vốn ngôn ngữ dân gian đã minh chứng cho hình ảnh một Nguyễn Trãi có

cuộc sống và tâm hồn gần gũi với nhân dân. Điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn cho

Quốc âm thi tập khi đã thể hiện được những phức điệu xúc cảm trong con người

Nguyễn Trãi- một hồn thơ đa dạng mà thống nhất.

3.1.3. Phát huy hiệu quả của những từ chỉ trạng thái cảm xúc

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Tiếng Việt vốn rất phong phú. Dưới bàn

tay của những nghệ sĩ tài năng, sự tinh tế, sâu sắc, biểu cảm của ngôn ngữ dân tộc

trong việc biểu đạt cảm xúc sẽ được phát huy.

Yếu tố thời đại, cuộc đời và con người đã giúp chúng ta hiểu, hơn ai hết,

Nguyễn Trãi mang rất nhiều cảm xúc, tâm sự. Những năm tháng được cống hiến,

ông hào hứng “túi thơ chứa hết mọi giang san” (bài 72), những tháng ngày cô đơn,

ông cũng chỉ có thơ là bầu bạn. Vì thế, mỗi bài thơ, từng câu thơ của ông là biết bao

tâm trạng. Những từ chỉ trạng thái cảm xúc trong Quốc âm thi tập, vì thế, xuất hiện

với số lượng, mật độ tương đối lớn.

Những trạng thái cảm xúc của Nguyễn Trãi vừa được bộc lộ trực tiếp, vừa

theo cách gián tiếp.

Những cung bậc, khía cạnh trong cảm xúc của thi nhân được thể hiện trực

tiếp qua các từ: tiếc, thương, vấn vít (xúc động), ngại/ lệ (e ngại), chờ, ngắm, say,

cảm, mừng, nhớ…

- Cuốc cằn ước xáo vườn chư tử (Bài 7)

- Lại mừng nguyên khí vừa thịnh (Bài 7)

86

- Hai chữ mơ màng việc quốc gia (Bài 8)

- Ta được thanh nhàn tá xá yêu (Bài 24)

- Rừng tiếc chim về ngại phát cây (Bài 28)

- Lòng một tấc đan còn nhớ chúa,

Tóc hai phần bạc bởi thương thu. (Bài 43)

Qua khảo sát tập thơ, chúng tôi thống kê được 214 từ chỉ trạng thái cảm xúc

một cách trực tiếp của Nguyễn Trãi, có từ tần số xuất hiện là 30 (Xin xem phụ lục số

2). Có thể thấy, cảm xúc của thi nhân là dạt dào, phong phú, đa dạng vô cùng. Và,

cách thể hiện những cảm xúc ấy cũng không hề đơn điệu- không chỉ qua những từ

chỉ trạng thái cảm xúc trực tiếp mà nhà thơ còn có những cách bộc lộ gián tiếp.

Nỗi nhớ, niềm đau đáu trong tâm can về “ơn chúa”, về giang san có khi lại

được thể hiện qua cách nói:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông

(Bài 50)

Bui có một niềm chăng nỡ trại

Đạo làm con lẫn đạo làm tôi

(Bài 2)

Là nỗi nhớ về triều đình, là khao khát được cống hiến:

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào

(Bài 35)

Là niềm vui, sự hứng khởi, tâm hồn thấy rộng mở khi được say đắm cùng

thiên nhiên:

Trong khi hứng động vừa đêm tuyết

Ngâm được câu thần dắng dắng ca

(Bài 4)

87

Là sự thư thái, vô ưu:

Cảnh tựa chùa chiền lòng tựa thầy

Năng một ông này đẹp thú này

(Bài 11)

Là sự bất mãn trước thói đời đen bạc:

Sự thế dữ lành ai hỏi đến

Bảo rằng ông đã điếc hai tai

(Bài 6)

Nếu trong cách sử dụng từ chỉ trạng thái cảm xúc một cách trực tiếp,

Nguyễn Trãi sử dụng chủ yếu là tính từ, thì trong cách thể hiện gián tiếp, nhà thơ

vận dụng đa dạng về từ loại:

Có khi, ông sử dụng động từ (cụm động từ) để biểu lộ tâm trạng, cảm xúc:

Tâm trạng thảnh thơi, nhàn nhã, vô lo vô nghĩ:

Ngủ tênh hênh nằm cửa trúc,

Say lểu thểu đứng đường thông.

(Bài 61)

Là nỗi nhớ, tấm lòng hướng đến nhà vua, đất nước:

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung (Bài 68)

Có khi, nhà thơ lại dùng danh từ để thể hiện tâm trạng nhàn nhã, thư thái,

thanh thản:

- Già được trọn là tiên (Bài 53)

- Người mà hết lụy ấy thần tiên (Bài 74)

Bên cạnh đó, thi nhân còn phát huy tác dụng của từ, câu cảm thán trong

việc bộc lộ cảm xúc:

Con lều mọn mọn đẹp sao

(Bài 52)

88

Trong cách sử dụng những từ chỉ trạng thái cảm xúc của Nguyễn Trãi,

chúng tôi nhận thấy một số điểm đặc biệt sau:

Nguyễn Trãi dùng có thể một từ, có thể kết hợp nhiều từ trong bài, hoặc

không chỉ sử dụng nguyên từ đó mà còn kết hợp cả những phụ từ/ thực từ khác để

thể hiện không chỉ cảm xúc mà còn là cường độ cảm xúc của mình:

Hầu nên khôn lại tiếc bâng khuâng,

Thu đến đêm qua cảm và mừng.

(Bài 199)

Nỗi lòng của thi nhân ở hai câu thơ trên là phức điệu của những xúc cảm:

tiếc nuối, cảm động, vui mừng. Tác giả đã sử dụng từ láy “bâng khuâng” để cụ thể

hóa, sâu sắc hơn tâm trạng “tiếc” nuối của mình.

Bui một quân thân ơn cực nặng,

Tơ hào chưa báo hãy còn âu.

(Bài 30)

Trong hai dòng thơ, xuất hiện hai trạng thái cảm xúc của tác giả: vừa biết

ơn vua, cha, lại vừa lo lắng chưa thể báo đáp được chu đáo. Cái “ơn” của vua,

của cha, với Nguyễn Trãi, là “cực nặng”, thế mới biết tấm lòng, tình cảm của

ông dành cho nhà vua, cho nước, cho dân, cho cha mẹ sâu sắc đến nhường nào!

Bài số 39 là một bài thơ tiêu biểu:

Vầu làm chèo trúc làm nhà,

Được thú vui ngày tháng qua.

Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ,

Áo người vô nghĩa mặc chăng thà.

Khỏi triều quan mới hay ơn chúa,

Sinh được con thì cảm đức cha.

Mừng thuở thái bình yêu hết tấc,

No lòng tự tại quản chi là.

89

Có 6 từ xuất hiện trong bài thơ thể hiện những trạng thái cảm xúc của nhà

thơ: vui vẻ, biết ơn, cảm động, mừng, yêu, thảnh thơi, không bị ràng buộc. Đặc

biệt, trong câu 7 không chỉ có nhiều hơn một từ chỉ trạng thái cảm xúc mà cụm

từ “yêu hết tấc” có sự xuất hiện của tính từ “hết tấc” đã thể hiện cảm xúc “yêu”

của thi nhân thật sâu sắc, mãnh liệt. Đã yêu, yêu đến tận độ, đã say, say đến tận

cùng:

- Say hết tấc lòng hồng hộc (Bài 70)

- Tôi ngươi hết tấc lòng trung hiếu (Bài 100)

Đã khao khát là khát khao đến cháy bỏng:

- Cầu một ngồi coi đời thái bình (Bài 80)

- Nguyện xin một thấy thuở thanh bình (Bài 107)

Đã theo đuổi lí tưởng phải kiên trì, thậm chí là “bướng bỉnh”:

- Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ (Bài 14)

- Một sự quân thân chẳng khứng nguôi (Bài 106)

- Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao (Bài 122)

- Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hóa (Bài 54)

Thế mới hay vốn từ vựng của thi nhân là dồi dào đến nhường nào! Trong bất

cứ tình huống nào, nhà thơ cũng tìm được từ “đắt” để gọi đúng tên nét tâm trạng

của mình. Thậm chí, chỉ một trạng thái cảm xúc thôi, thi sĩ cũng có nhiều cách diễn

đạt khác nhau.

Cùng là tâm trạng “đắn đo”, Nguyễn Trãi có những cách viết:

- Cao thấp nài nhau tựa đắn đo (Bài 152)

- Chớ dễ bằng ai đắn mới đo (Bài 20)

- Cây kia toan đắn lại toan đo (Bài 176)

Tâm lí “e ngại” được diễn tả bằng nhiều từ:

- Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân (Bài 27)

90

- Thơ đới tục hiềm câu đới tục (Bài 5)

- Chông gai nệ đường danh lợi (Bài 80)

Có khi, nhà thơ lại kết hợp từ Hán- Việt và từ thuần Việt:

- Khó miễn vui chăng thửa trách (Bài 58)

- Hỉ nộ cương nhu tuy đã có (Bài 25)

Kết hợp hai cách trực tiếp và gián tiếp:

- Quân thân chưa báo lòng canh cánh (Bài 8)

và:

Nợ quân thân chưa báo được (Bài 12)

- Miễn là tiêu sái qua ngày tháng (Bài 24)

và:

Có lòng bằng trúc mỗ nên hư (Bài 34)

Những trạng thái cảm xúc đối lập cũng được thể hiện theo nhiều cách. Có

thể là kết hợp hai cách trực tiếp và gián tiếp:

Nếu có ăn thì có lo,

Chăng bằng cài cửa ngáy pho pho.

(Bài 20)

Có thể, xuất phát từ một từ, nhà thơ dùng ở hai dạng khẳng định và phủ định:

- Lo thay vì lụy phải thờ ơ (Bài 108)

Lành dữ âu chi thế nghị khen (Bài 69)

- Phải lụy vì danh đã hổ thay (Bài 75)

Người mà hết lụy ấy thần tiên (Bài 74)

- Chữ học ngày xưa quên hết dạng,

Chẳng quên có một chữ cương thường (Bài 82)

- Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc (Bài 87)

91

Những bài thơ trong Quốc âm thi tập chủ yếu được sáng tác vào những năm

cuối đời của Nguyễn Trãi, khi mà “Tóc hai phần bạc bởi thương thu” (Bài 43). Khi

một người anh hùng vĩ đại, một nhà văn hóa, tư tưởng lớn của dân tộc đã trải qua

bao biến động của thời cuộc, bao bi kịch của một bề tôi trung, những suy ngẫm về

thế sự, những cảm xúc trong nhà thơ càng trở nên phong phú, sâu sắc và phức tạp

hơn. Và khi đó, chính là thơ Nôm, ngôn ngữ của dân tộc - tiếng mẹ đẻ sẽ giải tỏa

được những ẩn ức, thể hiện được những trạng huống tình cảm phúc tạp đó trong con

người Nguyễn Trãi. Xuất hiện với mật độ dày những từ chỉ trạng thái cảm xúc trong

Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã đem lại cho chúng ta niềm tự hào rằng chữ Nôm

có thể trở thành phương tiện để sáng tác (trong chặng đường khởi phát và chưa

được coi trọng của thơ Nôm), để thể hiện được những trạng huống cảm xúc vô cùng

phong phú và vi diệu trong tâm hồn con người.

3.2. Cách kiến tạo câu thơ

3.2.1. Sử dụng linh hoạt, đa dạng các kiểu câu

Quốc âm thi tập được viết theo hai thể là thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ

tuyệt. Theo “khuôn mẫu” của thơ Đường luật thì câu thơ có dạng cố định là thất

ngôn. Nhưng trong tập thơ, chúng ta lại thấy Nguyễn Trãi sử dụng đa dạng các kiểu

câu: có câu 7 chữ, có câu 6 chữ, lại có câu chỉ 5 chữ. Thậm chí trong một bài thơ có

sự kết hợp của các kiểu câu tạo sự co duỗi linh hoạt để thể hiện khéo léo tài tình

cảm xúc đa dạng của nhà thơ.

Bên cạnh những bài thơ thất ngôn là rất nhiều những bài thất ngôn xen lục

ngôn:

Con cờ quẩy rượu đầy bầu,

Đòi nước non chơi quản dầu.

Đạp áng mây ôm bó củi,

Ngồi bên suối gác cần câu.

Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc,

Danh lợi lòng nào ước chác cầu.

92

Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi,

Rìu bủi bủi thấy tiên đâu

(Bài 41)

Có bài số lượng câu thất ngôn là chủ yếu, nhưng có bài, chỉ có một đến hai

câu thất ngôn, như bài 26:

Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay,

Trong thế giới phút chim bay.

Non cao cao thấp mây thuộc,

Cây cứng cây mềm gió hay.

Nước mấy trăm thu còn vậy,

Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay,

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,

Bui một lòng người cực hiểm thay

Có một số bài xen câu 5 chữ:

...Thương cá thác vì câu uốn lưỡi,

Ngẫm ruồi nào chết bát mồ hòn.

Già mặc số trời đất,

Dấu ai qua vợ con.

Quân tử thánh hiền lòng tựa nước

Càng già càng ngẫm của bùi ngon

(Bài 182)

Sự thay đổi linh hoạt các kiểu câu trong một bài thơ sẽ làm mất đi tính chất

đăng đối, cân xứng vốn có của một bài thơ Đường luật. Bài thơ vì thế sẽ thất niêm

và thất luật. Đó quả là một sự cách tân rất táo bạo của Nguyễn Trãi, đem đến cho

thơ Đường luật một sinh khí mới, cũng cho thấy ngòi bút phóng khoáng của

Nguyễn Trãi có thiên hướng khẳng định khả năng biểu đạt nội dung, đề cao tính tư

93

tưởng, cảm xúc của thơ ca. Cảm xúc của tác giả phong phú, khi thăng hoa sẽ vượt

qua những giới hạn chật hẹp của những niêm, luật thơ Đường, của những quy phạm

cứng nhắc trong thơ trung đại. Là một nhà thơ trung đại, một nhà nho phong kiến,

nhưng rõ ràng, ý thức cá nhân trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trãi có sự trỗi

dậy mạnh mẽ.

3.2.2. Vai trò của câu lục ngôn trong việc thể hiện phức điệu cảm xúc

Cho đến thời điểm này, các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định chính xác

Nguyễn Trãi là người “tiếp nối” hay “sáng tạo” ra thể thơ sáu chữ này. Chỉ biết rằng

từ khi Nguyễn Trãi sử dụng thể câu sáu chữ xen với câu bảy chữ thì đã tạo nên sự

“bứt phá” trong dòng thơ Nôm Việt Nam. Sau Nguyễn Trãi, các tác giả như Lê

Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đã sử dụng thể thơ này để diễn tả tư tưởng, ý

niệm nghệ thuật của mình, tạo nên phong cách thời đại của thơ Nôm Đường luật.

Qua khảo sát toàn bộ 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy có tới

186 bài thơ được sáng tác theo hình thức thất ngôn xen lục ngôn, trong đó, thể tứ

tuyệt có 25 bài. Khảo sát 1844 câu thơ, có tới 416 câu lục ngôn, Trong đó, thơ bát cú

chiếm 382/1660 câu, thơ tứ tuyệt là 34/184 câu. Nhìn chung, câu lục ngôn trong các

bài thơ cũng không cố định về số lượng và vị trí. Có bài có một câu, nhưng có bài có

đến 7 câu lục ngôn (các bài 64, 67, 110). Vị trí của câu lục ngôn cũng rất linh hoạt

trong các bài từ câu 1 đến câu 8 (với bài bát cú), từ câu 1 đến câu 4 (với bài tứ tuyệt)

(Xin xem phụ lục số 3).

Đặc biệt, khi câu lục ngôn ở vị trí câu tám, thường thể hiện sự dồn nén cảm

xúc, hoặc biểu hiện sự chuyển hướng trong cảm xúc, cho thấy những phức điệu xúc

cảm đa dạng nhưng thống nhất trong con người thi nhân. Bài 170 là một ví dụ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường,

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.

94

Tâm hồn nhà thơ thật thảnh thơi, thư thái trong bức tranh cảnh ngày hè chốn

thôn quê. Tưởng như vô lo vô nghĩ, vậy mà hai câu cuối, đặc biệt là câu lục ngôn kết

thúc bài thơ bỗng làm bài thơ trùng xuống cùng với điệu tâm hồn của Ức Trai: không

nguôi ngoai niềm ưu tư với cuộc đời. Thân nhàn mà tâm đâu có nhàn, trong trái tim

nhà thơ luôn thường trực hình ảnh của dân và mong muốn những điều tốt lành nhất

đến với dân,với nước:

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương

Bài 51 cũng có hình thức kết thúc bằng câu lục ngôn:

Cảnh cũ non quê nhặt chốc mòng,

Chiêm bao ngờ đã đến trong.

Chè tiên nước kín bầu in nguyệt,

Mai rúng hoa đeo bóng cách song.

Gió nhặt đưa qua trúc ổ,

Mây tuôn phủ rợp thư phòng.

Trong nỗi nhớ quê của tác giả, cảnh sắc hiện ra thật đẹp, ở đó, thiên nhiên và

con người tưởng chừng không có khoảng cách. Đọc sáu câu thơ trên, tưởng như nhà

thơ đang đắm chìm trong thú thanh nhàn vậy, tâm hồn thật thư thái. Nhưng đến hai

câu cuối:

Thức nằm nghĩ ngợi còn mường tượng,

Lá chưa ai quét cửa thông.

Câu tám bỗng gây chú ý bởi câu lục ngôn, lại thêm cách ngắt nhịp 1/5 (hoặc

1/3/2), độc giả đang say sưa thưởng ngoạn khung cảnh thiên nhiên, như một phản xạ tự

nhiên khi đọc đến câu cuối: dừng lại để cảm thông, trân trọng nỗi lòng thi nhân- mong

muốn được sống nhàn nhưng cứ đau đáu nỗi niềm với đất nước.

Việc sử dụng thể thơ sáu chữ xen bảy chữ với tần số cao cùng với số câu và vị

trí câu sáu chữ không ổn định thể hiện sự thử nghiệm, tìm tòi của Nguyễn Trãi trong

95

việc sáng tác thơ Nôm của mình. Rõ ràng, Nguyễn Trãi đã có ý thức khi vận dụng thể

thơ này với mong muốn tìm ra một thể thơ mới cho dân tộc, giải tỏa những gò bó của

thể thơ ngoại lai Trung Quốc.

Xét về tác dụng nghệ thuật, câu thơ 6 tiếng trong bài thơ thất ngôn xen lục ngôn

khiến lối thơ trở nên cô đọng, giản dị, ý thơ mạnh mẽ, sắc sảo, phá vỡ kết cấu vốn hoàn

chỉnh, vuông vắn cân đối của bài thơ Đường luật, đúng như nhà nghiên cứu Đặng Thai

Mai nhận xét: “Đây là một điểm đáng chú ý. Trong kĩ thuật viết thơ của Nguyễn Trãi rõ

ràng có một sự cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam, trong đó câu sáu tiếng dùng

xen với những câu bảy tiếng, khác hẳn với quy cách niêm luật thơ Đường”[36, tr. 929].

Kết hợp câu dài, ngắn, bài thơ có sự co duỗi, kết hợp với cách ngắt nhịp phong phú của

câu thơ 6 chữ, tạo điều kiện cho nhà thơ thể hiện những xúc cảm phong phú trong con

người mình một cách phóng khoáng, bài thơ vì thế có khả năng diễn đạt được những

cung bậc tình cảm đặc biệt tinh tế, sâu sắc, thậm chí là đối lập trong con người thi nhân.

3.2.3. Từ phức thể tiết tấu đến phức điệu xúc cảm

Nhịp điệu có vai trò vô cùng quan trọng với thơ ca. Nhịp được coi là “sinh

mệnh” của thơ. Nhịp (tiết tấu) trong thơ không đơn thuần là điểm “dừng hơi” cho người

đọc thơ, mà nó có thể gợi cho độc giả những cảm xúc, có thể mở rộng biên độ ý nghĩa

câu thơ. Với tài năng của một đại thi hào, dĩ nhiên, Nguyễn Trãi không thể không phát

huy vai trò của nhịp điệu trong việc thể hiện cảm xúc của người làm thơ. Nhất là khi

muốn diễn tả được hết giai điệu tâm hồn có nhiều tiết tấu, càng cần thiết phải đa dạng

hóa nhịp ngắt.

Trong Quốc âm thi tập, chúng ta thấy cách ngắt nhịp của Nguyễn Trãi rất phong

phú, linh hoạt. Thậm chí trong một bài thơ, ông sử dụng nhiều tiết tấu, kiểu nhịp, điều

đó góp phần thể hiện hiệu quả những sắc điệu cảm xúc trong tâm hồn thi nhân:

Đủng đỉnh/ chiều hôm/ dắt tay

Đọc câu thơ đầu tiên của bài 26, với cách ngắt nhịp 2/2/2, giai điệu câu thơ thật

nhẹ nhàng, chậm rãi như từng bước chân khoan thai và tâm hồn đầy thư thái của nhà

thơ. Đến câu thơ thứ hai:

Trong thế giới/ phút chim bay

96

Vẫn là câu sáu tiếng, nhưng nhịp thơ thay đổi sang cách ngắt 3/3, diễn tả rất hiệu

quả sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian, đồng thời với bao biến động của sơn hà,

cuộc đời cũng như số phận con người khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bàng hoàng, xót xa như

trong những lời tâm sự của ông ở những bài thơ khác:

Chẳng hay rắp rắp đã mươi tư

Ngày tháng bằng thoi một phút cười.

Thế sự người no ổi tiết bảy,

Nhân tình ai ỏ cúc mùng mười

(Bài 22)

Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ,

Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư

(Bài 34)

Vẫn là những câu lục ngôn, hai câu thơ tiếp theo của bài 26 trở về với nhịp

2/2/2, âm điệu trở nên chậm rãi như một sự biểu lộ kín đáo những tâm tư thầm kín

của một con người đã trải qua bao biến động trong cuộc đời.

Non cao/ non thấp/ mây thuộc,

Cây cứng/ cây mềm/gió hay.

Đến hai câu 5- 6, nhịp ngắt thay đổi, khác hoàn toàn so với những câu thơ

trên:

Nước/ mấy trăm thu/ còn vậy,

Nguyệt/ bao nhiêu kiếp/ nhẫn nay.

“Nước” và “Nguyệt” được nhấn mạnh khi đứng riêng thành một nhịp - là

những hình ảnh của thế giới tự nhiên, gợi sự đối sánh với con người trong chốn

nhân gian:

Bui/ một lòng người/ cực hiểm thay

Thiên nhiên thì theo quy luật bất biến, ta có thể nắm bắt được, nhưng lòng người

thì biến hóa khôn lường, thật đáng sợ. Nhịp ngắt 1/3/3 ở câu 8 diễn tả sự bàng hoàng, nỗi

97

thất vọng, xót xa của thi nhân. Bài thơ là một phức thể của những cảm xúc: có thư thái,

thảnh thơi nhưng có cả những tiếc nuối, xót xa, ngậm ngùi. Và, chỉ có phức thể của nhịp

điệu mới có thể diễn tả được tinh tế những xúc cảm tinh vi đó của lòng người.

Câu lục ngôn trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi còn có rất nhiều cách ngắt khác:

Nhịp 4 /2:

Âu còn nhớ chúa / cùng cha.

(Bài 54)

Nhịp 1/2/3:

Nẻo / xưa nay / cũng một đường

Đây / xốc xốc / nẻo tam cương.

(Bài 93 )

Với câu thơ 7 chữ, Nguyễn Trãi cũng đa dạng trong cách ngắt nhịp cho dù

cách ngắt quen thuộc, phổ biến là 4/3:

Đó có thể là cách ngắt 2/2/3, 2/5, hoặc 5/2…

- Ẩn cả/ lọ chi/ thành thị nữa,

Nào đâu/ là chẳng đất nhà quan (Bài 17)

- Ngày nhàn/ gió khoan khoan đến (Bài 142)

- Cơm kẻ bất nhân ăn/ ấy chớ

Áo người vô nghĩa mặc/ chẳng thà. (Bài 39)

Không những đa dạng trong cách ngắt nhịp, Nguyễn Trãi còn rất sáng tạo về

nhịp ngắt.

Ta gặp trong Quốc âm thi tập những câu 7 tiếng có lối ngắt nhịp 3/4, cách ngắt

nhịp lẻ trước chẵn sau, khác lối ngắt nhịp của thể thơ Đường (Trung Quốc) là 4/3,

chẵn trước lẻ sau.

- Rượu đối cầm / đơm thơ một thủ (Bài 76)

- Vườn hoa khóc/ tiếc mặt Phi tử

98

Trì cỏ tươi/ nhưng lòng tiểu nhân (Bài 195)

Nhịp điệu không những tạo nên tính nhạc trong thơ mà còn có khả năng tạo

nghĩa rất lớn. Chỉ cần ngắt nhịp chệch đi một chữ, câu thơ đó sẽ mang lại những cách

hiểu nghĩa khác nhau. Ở Quốc âm thi tập việc sử dụng đa dạng cách ngắt nhịp (cách

ngắt truyền thống của thơ Đường, cách ngắt 3/4, ngắt theo kiểu thơ lục bát, song thất

lục bát...) đã góp phần “tâm trạng hoá” tâm hồn Nguyễn Trãi. Con người Nguyễn Trãi

luôn là thế, thống nhất của những phức điệu cảm xúc, thậm chí là trái chiều. Và chính

những phức thể tiết tấu trong nhịp ngắt đã góp phần thể hiện tinh tế, sâu sắc những

phức điệu xúc cảm trong con người Ức Trai.

Tiểu kết chương 3

Như vậy, với việc sử dụng đa dạng về ngôn ngữ, các kiểu câu, thể thơ thất

ngôn xen lục ngôn, kết hợp với lối kiến tạo nhịp điệu thơ Nôm, ta thấy được những

“phức điệu” của những yếu tố nghệ thuật trong Quốc âm thi tập đã góp phần thể

hiện hiệu quả những phức điệu cảm xúc trong con người Nguyễn Trãi. Những xúc

cảm ấy “gặp gỡ” với khát khao đổi mới thơ ca theo hướng dân tộc hóa. Trên cơ sở

tiếp thu những tinh hoa truyền thống của dân tộc và những thành tựu đặc sắc của

Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã phá vỡ những quy định nghiêm ngặt của thơ Đường

luật, làm cho câu thơ, bài thơ trở nên gần gũi, dễ nhớ, dễ thuộc hơn. Đồng thời, nó

cũng góp phần chuyển tải tiếng nói yêu nước thương dân, niềm tự hào, lòng tự tôn

dân tộc của Nguyễn Trãi tới công chúng bạn đọc sau này. Ở vào một thời đại mà

nền văn học đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của thơ Đường, sự bứt phá đi tìm cho

mình một lối thơ riêng như Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có, thể hiện tài

năng vượt bậc của nhà thơ. Có thể nói, với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã khẳng

định được vị thế thơ Nôm, khẳng định sự tồn tại trong thực tế dòng văn học tiếng

Việt (phát triển song song cùng văn học chữ Hán, làm cho văn học dân tộc phát

triển toàn diện và mạnh mẽ hơn).

99

KẾT LUẬN

Xuất hiện ở nửa đầu thế kỷ XV, thiên tài văn học Nguyễn Trãi trở thành một

hiện tượng văn học kết tinh truyền thống, thành tựu của văn học Lí - Trần, đồng

thời là một hiện tượng văn học mở đường cho một giai đoạn phát triển mới. Cuộc

cách mạng về thơ của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập bắt nguồn sâu xa từ chủ

nghĩa yêu nước, tinh thần, ý thức tự hào dân tộc, mong muốn xây dựng một nền văn

hoá dân tộc ngày càng rực rỡ. Qua những vần thơ được đánh giá là hay vào bậc nhất

thi ca Việt Nam, chúng ta thấy được những đóng góp của Nguyễn Trãi cho nền văn

học dân tộc, đồng thời thấy được vẻ đẹp, tính phức tạp trong con người Ức Trai.

1. Trong con người Nguyễn Trãi luôn có sự “đối thoại” của nhiều con người

- có nhiều nhân cách trong nhân cách lớn Nguyễn Trãi: một vĩ nhân, đồng thời cũng

là một thường nhân. Hay nói cách khác, con người Nguyễn Trãi là một hợp thể

người anh hùng - thi sĩ - nhà nho tài tử - con người giản dị giữa đời thường. Con

người công dân và con người cá nhân trong Nguyễn Trãi hài hoà với nhau tạo nên

sự thống nhất sâu sắc giữa nhà thơ của những biến cố lịch sử và nhà thơ - nhân tình,

nhà thơ của đời thường. Trong ông luôn cháy bỏng khao khát được cống hiến cho

non sông đất nước nhưng lại có mong muốn được sống nhàn. Là bậc anh hùng dân

tộc, Nguyễn Trãi luôn đặt mình trong các mối quan hệ với nhà vua, với đất nước

nhưng ông cũng rất giản dị, gần gũi trong các mối quan hệ đời thường với nhân dân

lao động, với những người thân trong gia đình, với bạn bè, quê hương, bà con lối

xóm. Nguyễn Trãi là nhà văn hóa, nhà tư tưởng lớn, một triết gia sắc sảo nhưng

cũng là người có lối sống dân dã, gắn bó với mảnh vườn, luống cày, bè rau muống...

Tác giả của những áng văn chính luận hùng hồn, mẫu mực ấy còn là một nghệ sĩ có

tâm hồn nhạy cảm, trái tim đa tình, lãng mạn.

Có thể nói, Nguyễn Trãi là nhà thơ của những phức điệu trữ tình, những

trạng huống cảm xúc đa dạng và đối nghịch. Ông có quan phương nhưng với tâm

hồn vốn nhạy cảm, giàu lòng trắc ẩn, ông cũng “li tâm”, “bung tỏa” đến tận cùng

gam độ. Chính điều đó làm nên tính đa dạng, phong phú, thậm chí đối lập nhưng

thống nhất và vô cùng thú vị trong con người Nguyễn Trãi.

100

Bấy lâu trong cảm nhận của hậu thế, Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân. Độc giả

thường tự xây dựng một “tượng đài” Nguyễn Trãi để ngợi ca, bất tử hóa người anh

hùng dân tộc, “một danh nhân hiếm có của nước Hoàng Việt” (Nguyễn Năng Tĩnh),

“kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (Nguyễn Mộng Tuân) [34]. Nhưng nét “thường

nhân” trong con người ông, dường như ít được chú ý. Thực tế thì sự vĩ đại của vĩ

nhân Nguyễn Trãi không chỉ toát lên từ những chiến công vang dội, từ tư tưởng, trí

tuệ, phẩm chất, nhân cách mà còn được tỏa sáng từ cách sống, từ những rung động,

tình cảm, khao khát rất đỗi bình dị của ông. Ức Trai tiên sinh là một “tiên ông sống

trong nhà ngọc” (ý Nguyễn Mộng Tuân) đồng thời cũng là “con người trần thế nhất

trần gian” (Xuân Diệu) [34]. Quốc âm thi tập đã thể hiện tinh tế, sâu sắc tính hoàn

chỉnh, trọn vẹn đó trong con người Nguyễn Trãi.

2. Đặc điểm trên trong con người Nguyễn Trãi được lí giải bởi yếu tố của

hiện thực - từ cuộc đời đầy sóng gió, nhiều thăng trầm trong một thời đại đầy biến

động. Nhưng điều quan trọng là ở con người Nguyễn Trãi có phẩm chất cao quý của

một nhà yêu nước, nhà tư tưởng, nhân đạo, người nghệ sĩ lớn của dân tộc. Ông đã

ảnh hưởng, tiếp thu sáng tạo tinh thần của các tôn giáo. Và một điều đặc biệt phải

nói đến ở Nguyễn Trãi là sự tự ý thức của con người cá nhân trong cái phông nền

chung của văn hóa trung đại là “phi ngã”.

3. Với Quốc âm thi tập, tập thơ được đánh giá là “sự khởi đầu đích thực của

thơ tiếng Việt”, “dấu mốc vĩ đại trong lịch sử văn học Việt Nam”[34], Nguyễn Trãi

đã làm nên một “cuộc cách mạng” trong thi ca. Nhà thơ đã sử dụng hiệu quả vốn

ngôn ngữ bác học kết hợp với việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ dân gian. Ông có

cách kiến tạo câu thơ độc đáo qua việc sử dụng linh hoạt các kiểu câu, sáng tạo và

khẳng định vai trò của câu lục ngôn, đa dạng trong cách ngắt nhịp...Những “phức

điệu” của hình thức nghệ thuật đó, một mặt khẳng định tài năng của Nguyễn Trãi,

mặt khác, góp phần thể hiện hiệu quả những phức điệu xúc cảm trong con người

nhà thơ. Nguyễn Trãi không phải là người đầu tiên viết thơ Nôm, song có phải

chăng trong sự nghiệp cứu quốc của người anh hùng xuất chúng ấy, ông đã cảm

nhận sâu sắc rằng: đã đến lúc phải khẳng định vai trò của tiếng nói dân tộc? Nên

nhà thi sĩ tài ba ấy đã ý thức được rằng đối với người sáng tác, tiếng mẹ đẻ bao giờ

cũng là phương thức tự nhiên hơn hết, tốt hơn hết để biểu hiện tâm tư, tình cảm!

101

Nguyễn Trãi xứng đáng với danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới được

UNESSCO công nhận 1980, góp phần tôn vinh cho nền văn học, văn hóa Việt Nam.

Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên,

Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền.

(Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa ngọc,

Cái tài làm hay làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ)

- Nguyễn Mộng Tuân-

Chúng ta sẽ mãi nhớ đến tên tuổi của Ức Trai - “ngôi sao Khuê” rực sáng

trên bầu trời tinh tú của dân tộc. Chúng ta cũng sẽ mãi nhớ đến Quốc âm thi tập bởi

đây không chỉ là “tác phẩm mở đầu cho nền thơ cổ điển Việt Nam” [6] mà còn là

tác phẩm thể hiện “đường gươm” thử thách, đường gươm bậc thầy của Nguyễn

Trãi. Quốc âm thi tập xứng đáng là “cái thước để ta đo sự tiến hóa của văn hóa Việt

Nam về mặt tâm lí dân tộc, tư tưởng quốc gia, tâm tình con người, về mặt ngôn ngữ

của thời xa xưa cách đây năm thế kỷ, về mặt nghệ thuật, trình độ thẩm mĩ. Nỗ lực

xây dựng một nền văn hóa dân tộc được bộc lộ rõ rệt, thái độ lạc quan yêu đời được

ghi nhận với những nét đậm đà” [34, tr.805].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Huệ Chi (1999), “Niềm thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi”, Nguyễn

Trãi về tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo

dục, Hà Nội, tr.446- 468

2. Doãn Chính, Bùi Trọng Bắc (2015), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Nguyễn

Trãi, Nxb Chính trị Quốc gia

3. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí , Nxb Sử học

4. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, Nxb Thanh niên

5. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Tập 1), Nxb Văn học

6. Xuân Diệu (1999), “Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt

Nam”, Nguyễn Trãi về tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới

thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.587- 638

7. Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, Nxb Khoa học Xã hội

8. Trần Trọng Dương, Nguyễn Trãi quốc âm từ điển, Nxb Từ điển bách khoa

9. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

10. Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (1982), Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc

vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Sự thật

11. Nguyễn Thạch Giang (2000), “Nguyễn Trãi thơ và tâm sự của ông”, Nguyễn

Trãi Quốc âm thi tập, Nxb Thuận Hóa

12. Tế Hanh (1999), “Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi”, Nguyễn Trãi về tác gia

tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội,

tr.718- 722

13. Nguyễn Công Hoan (1986), “Chỉ văn học có ngôn ngữ nhuần tính dân tộc mới

sống được mãi với dân tộc”, Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (tập III), Nxb Văn

học, Hà Nội, tr. 331- 339

14. Nguyễn Văn Hoàn (1999), “Địa vị của Nguyễn Trãi trong quá trình phát triển

của lịch sử văn học Việt Nam”, Nguyễn Trãi về tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu

Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.947-955

15. Hội nhà văn Việt Nam (1980), Sáu trăm năm Nguyễn Trãi, Nxb Tác phẩm mới

16. Nguyễn Phạm Hùng (2006), Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong thơ trung đại

Việt nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

17. Lại Văn Hùng, Đoàn Ánh Phương (2007), Nguyễn Trãi cuộc đời và tác phẩm,

Nxb Văn hoá Thông tin

18. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt nam trung cận đại, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

19. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ X- nửa đầu thế kỉ

XVIII, Nxb Giáo dục

20. Phạm Luận (2012), Nguyễn Trãi- Quốc âm thi tập, phiên âm và chú giải, Nxb

Giáo dục

21. Phạm Luận, Phạm Thị Phương Thái (2000), “Bài Ba tiêu không phải tả cây

chuối”, Tạp chí văn học (số 4), tr. 86-90

22. Phạm Luận, Phạm Thị Phương Thái (2002), “Bàn thêm về thể thơ thất ngôn

xen lục ngôn”, Tạp chí văn học (số 1), tr. 78-81

23. Đặng Thai Mai (1999), “Sự nghiệp văn chương Nguyễn Trãi”, Nguyễn Trãi về

tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà

Nội, tr.915-930

24. Đặng Thai Mai (2001), Trên đường nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn

chương, Nxb Giáo dục

25. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam (tập 1), Nxb

Đại học Sự phạm Hà Nội

26. Lê Hoài Nam (1994), Thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội

27. Phan Ngọc (2000), “Nguyễn Trãi, người đặt nền móng cho một nền văn hóa dân

tộc”, Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên, Hà Nội

28. Bùi Văn Nguyên (2000), Văn chương Nguyễn Trãi rực rỡ ánh sao Khuê, Nxb

Khoa học xã hội

29. Vũ Nguyên (chủ biên), (2007), Tác giả trong nhà trường Nguyễn Trãi, Nxb Văn học

30. Nguyễn Khắc Phi (1999), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen và lạ, Nxb

Giáo dục, Hà Nội

31. Vũ Tiến Quỳnh (1999), Phê bình văn học - Nguyễn Trãi, Nxb Văn nghệ Tp. HCM.

32. Nguyễn Ngọc San (1993), Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội

33. Nguyễn Ngọc San (2002), “Về khái niệm thơ Nôm Đường luật xen lục ngôn”,

Tạp chí Văn học (số 1), tr.83- 84

34. Nguyễn Hữu Sơn (1999) (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Trãi về tác gia và

tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội

35. Nguyễn Hữu Sơn (1995), “Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi”, Tạp

chí Văn học (số 9), tr.44- 47

36. Trần Đình Sử (1985), “M. Bakhtin và những vấn đề thi pháp Dostoievski của

ông”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 10)

37. Trần Đình Sử (1999), “Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi”,

Nguyễn Trãi về tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.723- 728

38. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội

39. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học,

Nxb Giáo dục, Hà Nội

40. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội

41. Phan Sĩ Tấn (1980), Thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb Giáo Dục

42. Phạm Thị Phương Thái (2006), “Nhịp điệu - với việc giảng dạy thơ Nôm

Nguyễn Trãi”, Tạp chí Giáo dục (số 142), tr.22- 24

43. Phạm Thị Phương Thái (2015), Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với nền thơ dân

tộc viết bằng tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội

44. Hoài Thanh (1999), “Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm”,

Nguyễn Trãi về tác gia tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.697- 717

45. Tuấn Thành, Vũ Nguyên (2008), Nguyễn Trãi tác phẩm và dự luận, Nxb Văn học

46. Chương Thâu (1980), Trên đường tìm hiểu sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb

Văn học

47. Lã Nhâm Thìn (1980), “Đặc trưng quan niệm nghệ thuật về con người của

Nguyễn Trãi”, Tạp chí Văn học (số 5)

48. Lã Nhâm Thìn (1998), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục

49. Trần Nho Thìn (2001), “Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính cách là một

nhân vật văn hóa (Khảo sát qua trường hợp Nguyễn Trãi)”, Tạp chí Văn học (số 7)

50. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb

Giáo dục

51. Nguyễn Bích Thuận (2002), Tác giả tác phẩm cổ điển Nguyễn Trãi, Nxb Đồng Nai

52. Đinh Khắc Thuân (2002), “ Chức quan của Nguyễn Trãi và vị thế của ông trong

triều đình nhà Lê”, Tạp chí Hán Nôm (số 4), tr.19- 23

53. Đặng Tiến (2009), Thơ- thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ

54. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1999), “Mượn đá để ngồi”, Nguyễn Trãi về tác gia tác

phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.507-516

55. Uỷ ban khoa học xã hội Vệt Nam (1982), Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi,

Nxb khoa học xã hội

56. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội

57. Lê Trí Viễn (2005), Tổng quan văn chương Việt Nam, Nxb Giáo dục

58. Lê Trí Viễn, Đoàn Thị Thu Vân, (1994), Học tập thơ văn Nguyễn Trãi, Nxb

Giáo dục

59. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng

60. Viện Sử học (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội

61. Viện Văn học (1980), Nguyễn Trãi, khí phách và tinh hoa dân tộc, Nxb Khoa

học Xã hội

62. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học nhà nho tài tử và văn

học Việt Nam, Nxb Giáo dục

PHỤ LỤC SỐ 1

BẢNG THỐNG KÊ CÁC BÀI THƠ THỂ HIỆN TRẠNG THÁI ĐỐI

LẬP GIỮA KHÁT VỌNG CỐNG HIẾN VÀ MONG MUỐN SỐNG NHÀN

Stt Bài Stt Bài

1 1 30 68

2 2 31 69

3 9 32 70

4 10 33 71

5 12 34 72

6 15 35 74

7 18 36 80

8 18 37 82

9 30 38 86

10 33 39 88

11 35 40 97

12 36 41 105

13 39 42 107

14 43 43 109

15 46 44 116

16 48 45 133

17 50 46 143

18 51 47 146

19 52 48 154

20 53 49 156

Bài Stt Bài Stt

54 50 158 21

57 51 159 22

58 52 160 23

59 53 162 24

60 54 164 25

61 55 165 26

62 56 170 27

63 57 214 28

65 29

PHỤ LỤC SỐ 2:

BẢNG THỐNG KÊ CÁC TỪ CHỈ TRẠNG THÁI CẢM XÚC

(TRỰC TIẾP)

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

7, 19, 39, 48, 65, 90, 99, 13 1 Mừng 109, 128, 181, 188, 199, 212

Khong khảy (vui mừng) 2 1 188

Chẳng mừng 3 1 161

Đầm hâm (ấm áp, vui vẻ) 4 2 9, 240

5 Hỉ 1 25

6 Vui 4 39, 58, 103, 168

7 Buồn 2 86, 94

8 Sầu 2 50, 114

9 Não lòng (đau đớn lòng) 1 197

10 Hứng 4 50, 61, 84, 101

11 Đắc (thích thú) 1 78

12 Đầm ấm 5 47, 66, 196, 208, 238

13 Ấm áp 1 134

14 Đằm thắm 1 178

Phỉ sở nguyền (thỏa điều hằng 15 1 74 mong ước)

28, 29, 31, 50, 72, 87, 107,

16 Tiếc 19 108, 120, 181, 195, 199,

201, 202, 204, 205, 206,

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

210, 251

87, 209 17 Chẳng/chớ tiếc 2

18 Tiếc chi 1 117

27, 58, 61, 70, 168, 186 19 Say 6

20 Chẳng say chẳng đắm 1 179

21 Đam làm chi 1 190

22 Hời hợt 1 209

Sơ cuồng (phóng túng, ngông 23 1 68 cuồng)

24 Dùng dằng 1 197

25 Bâng khuâng 1 199

26 Khắc khoải 1 98

2 27 Lẩn quất (quanh quẩn) 8, 52

28 Lòng canh cánh 1 8

29 Bện (vướng víu) 1 12

30 Đắn đo 1 152

31 Đắn mới đo 1 20

32 Toan đắn lại toan đo 1 176

Khăn khắn (canh cánh nghĩ 33 1 127 đến)

34 Đeo đẳng 1 8

Chăng khứng đỗ (không chịu 35 1 14 đỗ)

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

36 Chưa khứng dứt (vẫn chưa dứt) 122 1

37 Mơ màng 8 1

38 Bịn rịn 55, 104 2

39 Bìu rịn (bám víu) 75 1

Cưu một lòng ngay (ôm ấp một 40 138 1 lòng ngay thẳng)

Lẵng đẵng (đeo đẳng, không 41 29, 45 2 dứt được)

42 Lửng thửng (vẩn vơ, chưa dứt) 33 1

43 Lẩn thẩn (vương vấn) 35, 114 2

44 Cảm cốc (bận lòng) 44 1

45 Ngạc (vướng mắc) 50 1

46 Nghĩ ngợi 51 1

47 Ngẫm 182, 248 2

48 Đáo để màng (ráo riết lo nghĩ) 55 1

Thiền định (trầm tư mặc tưởng 49 64 1 về lẽ mầu của đạo)

53, 90, 95, 163, 164, 165, 50 Mặc 9 169, 182

Chớ màng cày cạy (đừng đau 51 186 1 đáu nghĩ đến)

52 Lảo thảo (chểnh mảng, lơ là) 3 1

3 53 Dửng dưng 77, 169, 209

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

54 Thờ ơ 108 1

55 Lạt (coi thường, thản nhiên) 218 1

56 Phong lưu (tự do, thư thái) 3 1

Tiêu sái (phóng khoáng, thoát 57 24, 78, 97 3 khỏi tục lụy)

58 Lụy 57, 75 2

59 Hết lụy 30,74 2

60 Lọ chi (cần gì) 17, 82 2

61 Đủng đỉnh 26 1

62 Nhẹ hết mình 78 1

63 Khuây 28 1

29, 56, 59, 60, 146, 157, 64 Yên (yên ổn, bằng lòng) 11 162, 163, 164, 183

65 An 82, 133, 144, 160, 166, 185 6

66 An lạc 161 1

67 Chưa an 72 1

29, 34, 57, 58, 59, 61, 62,

69, 74, 75, 77, 78, 79, 82,

68 Nhàn 30 108, 116, 121, 128, 131,

133, 136, 140, 143, 153,

154, 155, 160, 164

5 69 Vô sự (sống an nhàn) 57, 84, 86, 163, 176

2 70 Vô tâm 70, 78

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

71 Vô tình (thờ ơ, lạnh nhạt) 65, 202 2

Tự tại (thảnh thơi, không bị 39, 59, 83, 140, 155 72 5 ràng buộc)

73 Dã lòng (nguôi lòng) 58 1

74 Tiêu dao (nhởn nhơ đây đó) 59 1

75 Tiêu diêu 116 1

Khủng khỉnh (sống theo sở 76 105 1 thích)

77 Thong thả 109 1

78 Thung dung (thảnh thơi vô sự) 127 1

Lâng lâng (không vướng bận 79 161, 181 2 chút nào)

80 Cậy 7, 92 2

81 Mựa cậy (chớ cậy) 91, 136 3

27, 28, 46, 52, 60, 75, 113, 82 Ngại 12 121, 160, 161, 168, 206

83 Hiềm (e ngại) 5 5, 38, 71, 76, 134

84 Nệ (e ngại) 80 1

85 Mựa ngại (chớ ngại) 140 1

7, 14, 33, 37, 41, 53, 62, 77, 86 Ước 13 88, 107, 109, 123, 177

87 Muốn 5 27, 88, 173, 177, 179

88 Mong 3 81, 144, 154

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

89 Chờ 4 27, 88, 160, 216

90 Đợi 1 115

91 Tưởng 1 32

92 Ngờ (tưởng rằng) 2 51, 214

93 Chẳng ngờ/ Ai ngờ 2 166, 131

94 Ngờ (nghi ngờ) 2 232

95 Tin 2 232

96 Tin chi 2 23, 106

97 Ngỡ 2 214, 215

19, 30, 49, 54, 68, 72, 96, 98 Âu (lo) 13 108, 136, 138, 153, 154, 165

99 Lo 20, 108, 172, 176, 185 5

100 Chớ lo 1 134

4 101 Âu chi (lo gì) 31, 69, 116, 140

2 102 Chẳng âu/chẳng hề âu 121, 161

1 18 103 Chăng âu (chẳng lo)

1 159 104 Hết mọi âu

4 134, 160, 168, 205 105 Lệ (sợ)

1 103 106 Mựa lệ (chớ sợ)

1 212 107 Điệu khiếp (sợ hãi cung kính)

1 138 108 Nơm nớp

55, 64, 82, 85, 133, 146, 13 109 Nhọc 165, 172, 175, 177, 181,

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

191, 204

110 Nhục 3, 96, 161, 166 4

111 Vinh 96 1

112 Khổ 3 1

Cực thửa nuôi (xót xa cho công 113 106 1 cha mẹ nuôi mình)

114 Hèn 106, 161 2

115 Hổ (xấu hổ) 75, 159, 180 3

116 Kém 8, 163 2

117 Liệt lạt (kém cỏi) 8 1

118 Xuôi (mệt mỏi) 106 1

127, 141, 148, 161, 166, 119 Dại 10 180, 185, 204

120 Dại dột 3, 15, 180 3

121 Chẳng dại 157 2

122 Đắng cay 46, 112 2

123 Mặn chát 46 1

124 Ngọt (hiền hòa) 147 1

125 Chua (nghiệt ngã) 147 1

126 Hiu (vắng vẻ) 67 2

127 Lạnh 66, 120, 139, 167, 212 5

128 Lạnh lạnh 158 1

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

129 Lạnh lẽo 196 1

130 Lạnh lùng 208 1

Nhàn khoe (vẫn quen huênh 131 36 1 hoang)

132 Mày nề (tỏ vẻ khó chịu) 79 1

Pháo phúc (lật đi lật lại làm 133 138 1 người ta phát cáu)

Kẻo chau mày (khỏi phải khó 134 171 1 chịu, buồn bực)

8, 60, 87, 94, 107, 118, 129, 135 Phụ (bội bạc, làm trái) 11 166, 202, 251

159, 171, 174 136 Lỗi 3

203, 229 137 Chớ phụ 3

138 Nhẫn (bền bỉ) 154 1

139 Thủy chung 25 1

Chăng khứng hóa (không chịu 140 54 1 đổi)

Khăng khăng (một mực không 141 87 1 thay đổi)

Chuốt lòng đan (trau dồi lòng 142 217 1 son)

143 Lòng đỏ (lòng trung thành) 187 1

2 144 Tấc son (lòng trung thành) 87, 148

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

145 Đan một tấc (một tấc lòng son) 1 165

146 Một tấc đan 1 43

147 Trung hiếu 2 10, 187

Lòng trung hiếu/lòng trung lẫn 148 3 69, 93, 100 hiếu

149 Niềm trung hiếu 2 111, 158

Bền tiết ngọc (giữ nguyên tiết 150 1 217 tháo kiên định)

151 Tiết cứng (khí tiết cứng cỏi) 81, 222, 223 3

152 Tiết trực (lòng ngay thẳng) 1 91

153 Tiết sạch (lòng trong sáng) 1 224

154 Khóc 4 57, 120, 151, 195

22, 90, 104, 106, 120, 124, 155 Cười 12 138, 141, 202, 227, 248

15, 30, 39, 53, 94, 100, 146, 156 Ơn 15 158, 164, 166, 168, 188, 215

157 Ân 1 44

93, 128, 131, 133, 139, 142, 158 Nghĩa 9 145, 164, 178

159 Nợ 3 25, 54, 94

160 Cảm 3 39, 151, 199

161 Lòng chân thật 1 106

162 Lòng thắm 1 109

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

163 Lòng hãy cho bền 1 111

164 Lòng phiền 115, 186 2

165 Bền đạo trung dung 1 129

166 Giữ đạo trung dung 1 127

24, 145, 147, 161, 225 167 Trọng 5

168 Vì (nể) 1 145

169 Lòng chẳng mắc tham 1 74

142, 144 170 Chớ tham 2

171 Chẳng tham 1 22

172 Màng chi phú quý 1 129

173 Thìn (giữ gìn cẩn trọng) 1 127

Nén (cố nhịn, bình tĩnh tự kiềm 174 1 127 chế mình)

175 Ham 1 13

Biếng vả vê (chẳng thiết ham 176 1 155 muốn)

177 Mảng (mải mê) 1 205

Lăm (có ý định và sẵn sàng 178 1 18 thực hiện ngay khi có dịp)

Lòng xung đột (hăng hái xông 179 1 146 pha)

180 Xốc xốc (dấn vào mạnh mẽ) 1 93

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

181 Ưa 50, 221, 224 3

182 Chẳng ưa 1 86

183 Yêu đương (ưa thích, quý trọng) 1 81

24, 39, 135, 145, 147, 158, 184 Yêu 10 161, 179, 217

185 Chẳng yêu 1 241

186 Ưu ái 50, 112, 115 3

Lòng xuân (niềm xúc cảm về 187 1 201 mùa xuân, về tuổi thanh xuân)

4, 84, 201, 225, 226, 227, 188 Động (xúc động) 10 228, 245, 247, 253

1 205 189 Mềm (xúc động)

1 206 190 Vấn vít (xúc động)

191 Chạnh (động lòng, vương vấn) 118, 123 2

1 119 192 Quyến (quyến luyến)

1 208 193 Cả lòng (rộng lòng)

1 233 194 Lai láng lòng thơ

1 227 195 Có tình

3 229, 247 196 Có ý

1 207 197 Đon (vồn vã, hồ hởi)

1 207 198 Dùng (hưởng thụ)

1 213 199 Ngây ngất

200 Thương 15 16, 43, 50, 71, 117, 128,

Số lần xuất Stt Từ chỉ trạng thái cảm xúc Bài hiện

145, 151, 157, 182, 189,

195, 206, 207, 208

86, 125, 151, 210 5 201 Trách

1 80 202 Tủi

2 82, 110 203 Quên

1 82 204 Chẳng quên

1 129 205 Mựa quên (chớ quên)

206 Nhớ 16, 43, 155, 165, 179, 245 6

1 51 207 Chóc mòng (mong nhớ)

1 106 208 Nguôi

1 106 209 Chẳng khứng nguôi

1 73 210 Mòn mỏi

2 115, 124 211 Ghê

2 44, 138 212 Oán

2 176, 251 213 Giận

1 191 214 Giận làm chi

PHỤ LỤC SỐ 3:

BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG VÀ VỊ TRÍ CÂU LỤC NGÔN

Số lượng câu lục ngôn

Thể thơ Thơ bát cú Thơ tứ tuyệt

Vị trí (câu) (câu)

Câu 1 8 50

Câu 2 9 42

Câu 3 8 57

Câu 4 9 55

Câu 5 50

Câu 6 51

Câu 7 35

Câu 8 42