ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––

VI PHƯƠNG THÙY

PHÉP LẶP NGỮ PHÁP

TRONG THƠ TỐ HỮU

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––

VI PHƯƠNG THÙY

PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ

VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO THỊ VÂN

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,

đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi

tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực

tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ

nghiên cứu nào khác.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017

Học viên

Vi Phương Thùy

i

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu của bản thân, đề

tài khóa luận đã được hoàn thành. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc

tới Phòng Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học

Thái Nguyên, tới các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện

thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài luận văn của mình.

Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS Đào

Thị Vân đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành

tốt luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017

Học viên

Vi Phương Thùy

ii

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Danh mục các bảng ....................................................................................................... iv

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 2

4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 3

5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................................................. 3

6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 3

7. Dự kiến đóng góp của luận văn ................................................................................ 3

8. Bố cục luận văn ......................................................................................................... 4

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ

LUẬN, THỰC TIỄN ................................................................................................... 5

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ....................................................................... 5

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phép lặp và lặp ngữ pháp ............................................. 5

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ Tố Hữu .................................................................. 8

1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn ....................................................................................... 9

1.2.1. Một vài nét khái quát về văn bản và ngữ pháp văn bản ...................................... 9

1.2.2. Phép lặp và phép lặp ngữ pháp .......................................................................... 13

1.2.3. Vài nét về Tố Hữu và thơ Tố Hữu ..................................................................... 35

1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 38

Chương 2: PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU VỀ MẶT

HÌNH THỨC .............................................................................................................. 39

2.1. Khái quát về số lượng và các kiểu lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu .................... 39

2.2. Lặp dòng thơ ........................................................................................................ 45

iii

2.2.1. Nhận xét chung .................................................................................................. 45

2.2.2. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn: Lặp đủ,

lặp thừa, lặp thiếu, lặp khác ......................................................................................... 47

2.2.3. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn: lặp

cân và lặp lệch .............................................................................................................. 60

2.2.4. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo số lần lặp (số kết ngôn): lặp một lần (lặp

đơn), lặp nhiều lần (lặp phức) ...................................................................................... 65

2.2.5. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp

liền và lặp cách ........................................................................................................... 69

2.3. Lặp nhiều dòng thơ (lặp bộ phận khổ thơ và lặp khổ thơ) .................................. 72

2.3.1. Lặp bộ phận của khổ thơ (lặp nửa khổ thơ) ....................................................... 72

2.3.2. Lặp khổ thơ ........................................................................................................ 75

2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 82

Chương 3: PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU XÉT THEO

MẶT CHỨC NĂNG .................................................................................................. 84

3.1 Chức năng liên kết văn bản................................................................................... 84

3.2. Chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ ........... 86

3.2.1. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có tác dụng nhấn mạnh góp phần khắc sâu

nội dung tư tưởng, tình cảm cần biểu thị ..................................................................... 86

3.2.2. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu góp phần làm phong phú hiện thực được

phản ánh ....................................................................................................................... 93

3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên sự hài hòa, cân đối về vần, nhịp, tiết tấu

cho khổ thơ, bài thơ ..................................................................................................... 95

3.3. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 96

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 100

iv

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn

và kết ngôn ................................................................................................. 40

Bảng 2.2: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo khối lượng (độ lớn) của chủ ngôn

và kết ngôn ................................................................................................. 41

Bảng 2.3: Thống kê các kiểu lặp xét theo sự có mặt/ vắng mặt của các từ ngữ

trong chủ ngôn và kết ngôn ........................................................................ 42

Bảng 2.4: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo tính chất của phương thức lặp ......... 43

Bảng 2.5: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo số lần lặp ......................................... 44

Bảng 2.6: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn ....... 45

Bảng 2.7: Lặp dòng thơ ............................................................................................... 46

iv

Bảng 2.8: Lặp nhiều dòng thơ ..................................................................................... 72

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Tác phẩm văn chương là một chỉnh thể thống nhất của hai mặt: nội dung và

hình thức. Để lĩnh hội được đầy đủ tư tưởng và những thông điệp mà tác giả gửi gắm

trong tác phẩm, người đọc phải đi từ việc phân tích hình thức nghệ thuật, bao gồm các

biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm.

Phép lặp ngữ pháp là một biện pháp ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong các

loại văn bản, trong đó có văn bản văn chương. Nó xuất hiện nhiều trong các tác phẩm

văn học dân gian, văn học trung đại và trong văn học hiện đại. Phép lặp ngữ pháp đã

góp một phần không nhỏ tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ,

góp phần tạo nên nhiều giá trị: giá trị nhận thức, giá trị miêu tả, giá trị biểu cảm, giá trị

kiên kết. Đồng thời, phép lặp ngữ pháp còn tạo nên tính nhạc cho văn bản, đặc biệt là

văn bản thơ.

1.2. Tố Hữu là nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam thế kỷ

XX. Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ

trước đến sau”. Đời thơ Tố Hữu từ “Từ ấy” đến “Ta với ta” là một chặng đường dài

trên 6 thập kỷ của một nhà thơ cách mạng tiêu biểu nhất Việt Nam. Nhìn vào đó, ta

thấy Tố Hữu xứng đáng được coi là nhà thơ trữ tình chính trị số một ở Việt Nam.

Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng một lúc với con đường cách mạng. Sáng

tác của Tố Hữu tràn đầy men say hứng khởi đối với lí tưởng cộng sản. “Lịch trình tiến

triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ

giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển

mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng.” (Lời giới

thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946) và “Tả tình hay

tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản

ấy thôi” (Chế Lan Viên). Thơ Tố Hữu tập trung vào những chủ đề lớn, lẽ sống lớn, tình

cảm lớn, niềm vui lớn của người cách mạng, của Đảng, của dân tộc.

Sức cuốn hút của thơ Tố Hữu là sự hòa quyện của nhiều yếu tố nội dung tư

tưởng, nghệ thuật, chất dân tộc đậm đà, giọng điệu,… Trong đó, không thể không kể

đến các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, đối, và đặc biệt là phép lặp được sử

1

dụng rất nhiều và hiệu quả trong các bài thơ của Tố Hữu. Phép lặp góp phần thể hiện

phong phú và linh hoạt những hình tượng, cảm xúc thẩm mỹ , phản ánh mọi mặt của

đời sống sinh hoạt, chính trị, những suy tư và diễn biến tình cảm của nhà thơ cách

mạng số một của Việt Nam - Tố Hữu.

1.3. Các nhà ngôn ngữ học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu

ở nhiều phương diện. Từ những công trình nghiên cứu đó, ta có thể thấy các biện pháp

nghệ thuật đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của

tác phẩm. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu tính đến thời

điểm hiện nay thì chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về đặc điểm, giá trị

của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu một cách hệ thống, đầy đủ và chuyên sâu từ

góc độ ngôn ngữ học. Vì vậy, việc nghiên cứu phương thức lặp ngữ pháp trong thơ Tố

Hữu có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn.

Về mặt lí luận, với việc triển khai đề tài này, lần đầu tiên có một công trình nghiên

cứu tương đối đầy đủ, sâu sắc và có hệ thống về phép lặp trong thơ Tố Hữu theo hướng

tiếp cận của ngành ngôn ngữ học. Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm sáng tỏ các

giá trị của phép lặp trong thơ hiện đại nói chung và trong thơ Tố Hữu nói riêng.

Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần làm rõ và thể hiện đầy đủ các giá trị của

phép lặp trong thơ Tố Hữu, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các sáng tác cũng như quan

điểm nghệ thuật của tác giả. Thông qua đó, tác giả luận văn cũng hi vọng công trình có

thể đưa lại những kết quả mang tính ứng dụng cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ

văn trong nhà trường.

Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “ Phép lặp ngữ pháp

trong thơ Tố Hữu”.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích cơ bản của việc nghiên cứu đề tài này là trên cơ sở xác định những vấn

đề lí luận về phép lặp, lặp ngữ pháp; phân tích, miêu tả làm rõ đặc điểm của phép lặp

ngữ pháp trong thơ của Tố Hữu về các mặt cấu tạo, chức năng, ngữ nghĩa và ngữ

dụng; qua đó, góp phần làm sáng rõ phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề chính là:

- Tìm hiểu những cơ sở lí luận về phép lặp, phép lặp ngữ pháp và những lí thuyết

khác có liên quan đến đề tài. Tham khảo những thành quả nghiên cứu của những người

đi trước để tìm hiểu về hiện tượng lặp trong thơ Tố Hữu.

2

- Tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại phép lặp trong thơ Tố Hữu.

- Miêu tả, làm rõ đặc điểm cấu tạo và chức năng ngữ nghĩa của các kiểu lặp ngữ

pháp thể hiện trong thơ Tố Hữu.

- Đánh giá nét đặc sắc và giá trị nghệ thuật của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thủ pháp lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu.

5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Phạm vi của luận văn là đặc điểm và giá trị của biện pháp lặp ngữ pháp trong các

bài thơ của Tố Hữu ở bảy tập thơ Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1947-1954), Gió lộng

(1955-1961), Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977), Một tiếng đờn (1979-

1992),Ta với ta (1992-1999).

6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:

6.1. Phương pháp khả o sát, thống kê, phân loại.

Phương pháp này được sử dụng để khảo sát, thống kê hiện tượng lặp ngữ pháp ở

những câu thơ, đoạn thơ, bài thơ trong bảy tập thơ của Tố Hữu.

Trên cơ sở kết quả khảo sát, thống kê, sẽ tiến hành xử lí tư liệu, tạo tiền đề cần

thiết cho các bước tiếp theo.

6.2. Phương pháp miêu tả

Phương pháp này được sử dụng để miêu tả cụ thể đặc điểm của các kiểu lặp theo

cấu trúc, chức năng và khối lượng.

6.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp

Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung.

Phương pháp này được chúng tôi vận dụng ở mức độ nhất định, để phân tích lí

giải hiện tượng lặp trong những câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài thơ có tính chất tiêu

biểu, điển hình nhằm minh họa và làm sáng tỏ cho các luận điểm của luận văn. Việc

phân tích ngôn ngữ tác phẩm văn chương sẽ tìm ra cái hay, cái đặc sắc, và giá trị của

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số thủ pháp bổ trợ khác như mô

hình hóa…

phép lặp trong thơ Tố Hữu.

7. Dự kiến đóng góp của luận văn

7.1. Đóng góp về mặt lí luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần củng cố thêm lí luận về phép

3

lặp, lặp ngữ pháp, bổ sung tư liệu và có thêm luận chứng để đi sâu hơn vào việc

nghiên cứu có hệ thống ngôn ngữ thơ nói chung và ngôn ngữ thơ Tố Hữu nói riêng ở Việt Nam . Qua việc nghiên cứu chi tiết và hệ thống một thủ pháp liên kết văn bản (phép lặp) trong thơ Tố Hữu, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thế giới nghệ

thuật và nội dung tư tưởng trong thơ Tố Hữu. Đồng thời, luận văn cũng cung cấp thêm

một cái nhìn mới về phong cách nghệ thuật của nhà thơ trữ tình chính trị theo hướng

tiếp cận của ngành ngôn ngữ học.

7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng như một tài liệu tham

khảo hữu ích trong việc biên soạn các chuyên đề, bài giảng... về thơ ca nói chung và

thơ Tố Hữu nói riêng. Qua đó, góp phần định hướng cảm thụ và nâng cao chất lượng,

hiệu quả dạy học Ngữ văn trong nhà trường.

8. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai

trong 3 chương.

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận, thực tiễn

Ở chương này, luận văn trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu và những

vấn đề lí thuyết cơ bản liên quan trực tiếp đến đề tài như khái quát về ngữ pháp văn

bản, khái niệm văn bản, khái niệm liên kết văn bản, hiện tượng lặp, đặc điểm và vai trò

của phép lặp ngữ pháp trong liên kết văn bản thơ. Ngoài ra, luận văn cũng phân biệt

lặp ngữ pháp với các phương thức liên kết và biện pháp nghệ thuật khác và trình bày

một số nét cơ bản về nhà thơ và đặc điểm thơ Tố Hữu.

Chương 2: Đặc điểm của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức Trong chương này, luận văn đưa ra kết quả khảo sát và thống kê, phân loại phép lă ̣p ngữ pháp trong thơ Tố Hữu và tiến hành miêu tả đặc điểm của phép lặp ngữ pháp

trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức.

Chương 3: Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt chức năng

Ở chương này, luận văn trình bày kết quả nghiên cứu chức năng của phép lặp

ngữ pháp trong thơ Tố Hữu. Cụ thể trong việc góp phần tăng cường sự liên kết giữa

các dòng thơ, khổ thơ trong bài; thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ.

4

Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phép lặp và lặp ngữ pháp

Theo đề xuất của Beaugrande i Dressler (1990) thì một văn bản cần hội tụ đủ các đặc

trưng sau: tính liên kết (kohezja), tính mạch lạc (koherencja), tính chủ định (intencjonalnos’c’),

tính chấp nhận được (akceptowalnos’c’), tính thông tin (informacyjnos’c’), tính tình huống

(sytuacyjnos’c’), tính liên văn bản (intertekstualnos’c’). Chính vì vậy, văn bản được định nghĩa

là “ một sự kiện giao tiếp đáp ứng được bảy tiêu chuẩn về tính văn bản” nói trên. [ 40 ] Văn

bản tiếng Việt hiện nay cũng được xem xét trên các bình diện đó. Khi các câu (phát ngôn)

trong văn bản sử dụng các yêu tố ngữ âm (âm tiết, vần, phụ âm đầu, thanh điệu), các đơn vị

từ vựng và yếu tố ngữ pháp (hư từ, cấu trúc ngữ pháp) để tạo tính liên kết, ta sẽ có phép lặp

ngữ pháp. Vậy lặp là phương thức sử dụng các yếu tố nói trên lặp lại chúng trong những

phát ngôn khác nhau nhằm tạo ra sự liên kết.

Phép lặp là một trong các phương thức liên kết văn bản . Ở đây, người ta lặp lại

một cách có ý thức hai hay nhiều lần những đơn vị ngữ âm, từ, ngữ và cấu trúc nhất

định. “Phép lặp có cơ sở là quy luật tâm lí, một vật kích thích nhiều lần sẽ làm cho

người ta chú ý” [25, tr 93], một sự lặp lại nghệ thuật sẽ đem đến cho tác phẩm những

hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Mặc dù là sự lặp lại những yếu tố nhất định nhưng theo

diễn tiến thời gian, phép lặp đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẻ, có tính

chất tăng tiến. Phép lặp có tác dụng làm nổi bật và phát triển ý muốn trình bày, tình

cảm muốn biểu hiện hoặc đối tượng muốn nói đến.

Dưới góc độ nghiên cứu khác nhau hiện tượng lặp được gọi tên, phân loại, và

có sự khác biệt ở từng tác giả. Ở Việt Nam, có thể nêu khái quát những tác giả tiêu

biểu đã đề cập đến hiện tượng lặp trong các công trình nghiên cứu của mình như sau:

Trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, các tác giả Đinh Trọng Lạc,

Nguyễn Thái Hòa khi xem xét hiện tượng lă ̣p như một dạng của phương tiện tu từ

cú pháp đã gọi phép lă ̣p là phép điệp. Các ông đã lần lượt tìm hiểu phép điệp ở các

cấp độ ngôn ngữ và nhấn mạnh phép điệp không chỉ dựa vào một số phương tiện tu

5

từ cố định, tiếng Việt còn mở rộng cách nhấn nghĩa, tạo nghĩa mới bất ngờ, giàu màu sắc

tu từ học. Về phép điệp, ở phương diện tu từ các tác giả nghiên cứu phần điệp ngữ. Khi

trình bày các biện pháp tu từ cú pháp, các tác giả đề cập đến phép dùng cú pháp sóng đôi

(điệp cú pháp). Ở cấp độ ngữ âm, các tác giả chỉ ra biện pháp điệp âm (điệp phụ âm đầu,

điệp vần, điệp thanh). Ở mọi dạng thức, các tác giả đã tìm hiểu, trình bày cụ thể, hệ

thống và làm sáng tỏ về phép điệp ở các cấp độ. Đặc biệt, tác giả đã đề cập đến trường

hợp “điệp khúc là một phương thức ở cấp độ văn bản”. [27, tr 275].

Trong cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả Đinh Trọng

Lạc tìm hiểu và chia điệp ngữ thành một số kiểu (điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ cách

quãng, điệp ngữ vòng tròn). Ở cấp độ “trên ngữ”, tác giả trình bày về sóng đôi cú pháp.

Còn ở cấp độ tu từ cú pháp thì tác giả nghiên cứu thêm phần lặp đầu, lặp cuối. Tác giả

đã đi sâu vào việc phân tích cụ thể, chi tiết về phép điệp cũng như phạm vi sử dụng, giá

trị của chúng trong hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật [25, tr 93-94].

Trong cuốn “Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt”, tác

giả Hữu Đạt đã tìm hiểu giá trị phong cách của một số kiểu điệp từ, ngữ trong tiếng

Việt. Tác giả không đi vào khảo sát phép điệp ở cấp độ ngữ âm mà chỉ dừng lại ở cấp

độ từ (điệp từ) và ngữ (điệp ngữ). Tác giả cũng đề cập đến phép lặp cú pháp với hai

dạng thức: lặp lại một thành phần cú pháp trong câu (lặp lại thành phần chủ ngữ, lặp

lại thành phần vị ngữ) và lặp mô hình câu [9, tr 320].

Trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình

Tú đề cập đến các cách tu từ được cấu tạo theo quan hệ tổ hợp trong đó có phép điệp.

Tác giả chỉ khảo sát phép điệp ở cấp độ từ, ngữ, kiểu câu với tên gọi chung là “điệp

từ ngữ”. Tác giả đã đưa ra các dạng thức của điệp từ ngữ bao gồm: điệp từ ngữ nối

tiếp, điệp từ ngữ cách quãng, và điệp kiểu câu. Nhưng trong phần khảo sát đặc điểm

tu từ tiếng Việt, tác giả không tách “điệp cú pháp” ra tìm hiểu riêng như các tác giả

khác. Trong phần nghiên cứu, tác giả còn chỉ ra cách “ điệp phô diễn” được hiểu “Là

sự mở rộng của điệp kiểu câu, trong đó sự diễn đạt được trình bày tuy dưới những

dạng thức khác nhau nhưng điều xoay quanh một chủ đề” [38, tr 199] và chức năng,

phạm vi sử dụng và cơ sở tâm lý của phép điệp.

6

Trong cuốn “Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, tác giả Bùi

Tất Tươm cũng tìm hiểu phép điệp một cách cụ thể ở một số khía cạnh. Tác giả đã

đưa ra khái niệm và phân tích giá trị tu từ của phép điệp. Dựa vào qui mô của yếu tố

lặp, tác giả chia phép điệp thành hai loại: điệp ngữ, điệp cấu trúc và sóng đôi cú pháp.

Ở hình thức điệp ngữ, tác giả phân loại theo hai hướng khác nhau: dựa vào vị trí của

các yếu tố lặp (điệp ngữ đầu câu, điệp ngữ giữa câu, điệp ngữ cuối câu), dựa

theo chức năng của yếu tố điệp (điệp chủ ngữ, điệp vị ngữ, điệp bổ ngữ). Còn ở các

biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ tổ hợp ngữ âm, tác giả đề cập đến điệp âm bao

gồm điệp phụ âm đầu, điệp vần, điệp thanh. [41, tr 248-255].

Trong “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của Trần Ngọc Thêm định nghĩa

“phé p lặp là một phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những yếu tố đã có ở chủ ngôn” [43, tr 87]. Định nghĩa này được nhiều tác giả đồng tình. Từ góc

độ ngữ pháp văn bản, tác giả phân loại phép lặp thành ba dạng: lặp từ vựng, lặp ngữ

âm, lặp ngữ pháp. Ở mỗi dạng, tác giả đi sâu vào phân tích, khái quát các hình thức,

phạm vi sử dụng và giá trị của chúng. Đồng thời, giữa các dạng thức, tác giả đã có sự

lồng ghép đối chiếu, so sánh để thấy được sự khác biệt và các giá trị khu biệt của

chúng. Đề cập đến phép lặp ngữ pháp (một kiểu lặp liên kết), Trần Ngọc Thêm quan

niệm “phép lặp ngữ pháp là một dạng của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại

trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lạp lại một số hư từ mà chủ ngôn sử

dụng” [43, tr 93]. Theo tác giả, lặp ngữ pháp gồm có hai mức độ: lặp cú pháp ( lặp cấu

trúc phát ngôn) và lặp từ cú pháp (các hư từ) trong đó lặp cú pháp là cơ bản [43, tr 94].

Trong cuốn “Văn bản và liên kết văn bản”, khi tìm hiểu phép lặp với tư cách là

một phương tiện liên kết, Diệp Quang Ban đưa ra ba dạng: lặp từ vựng, lặp ngữ pháp và

lặp ngữ âm. Xét ở mức độ gần nghĩa đến xa nghĩa, phép lặp chia thành các dạng: nhắc

lại, đồng nghĩa và gần đồng nghĩa, từ ngữ trên bậc, từ ngữ khái quát. Tuy nhiên, tác giả

cũng chỉ điểm sơ qua chứ chưa đi vào phân tích cụ thể, chi tiết. [1, tr 123]

Qua khảo sát những tài liệu nói trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã chú

trọng đến việc xác định khái niệm, phân loại và tìm ra giá trị của các phép liên kết nói

chung và phép lặp trong đó có lặp ngữ pháp nói riêng. Theo đó, khái niệm lặp và lặp

ngữ pháp được hiểu khá rộng với nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau. Đây là cơ sở lý

luận vô cùng quan trọng để luận văn có thể tham khảo trước khi đi vào nghiên cứu về

phương thức lặp trong thơ Tố Hữu.

7

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ Tố Hữu

Trong suốt mấy chục năm qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện tượng, một đối

tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình

tên tuổi trong cả nước như: Hoài Thanh, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ và

các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi ... Rất

nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở các phương diện văn học, thi pháp, phong

cách, thể tài, ngôn ngữ...Do đó, giá trị thơ của Tố Hữu ngày càng được khẳng định.

Thơ Tố Hữu cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học viên, sinh viên chuyên

ngành ngôn ngữ học. Có thể kể đến một số nghiên cứu về thơ Tố Hữu:

+ Lê Anh Hiền (1976), "Về cách dùng tính từ chỉ màu sắc của Tố Hữu", Ngôn

ngữ, (4), tr. 13-20.

+ Xuân Nguyên (1991), "Từ địa phương miền Trung trong thơ Tố Hữu", Sông

Hương, (10), tr.6-9.

+ Nguyễn Thị Bích Thúy (2005), Tổ chức lời thơ trong thơ Tố Hữu ( So sánh

với đồng hiện tượng trong thơ Huy Cận) Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Viện KHXH vùng

Nam Bộ, TP. HCM.

+ Trần Thị Tính (2005), Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng),

luận văn thạc sĩ, ĐHSPTPHCM.

+ Phạm Thị Thùy Dương (2008), Từ địa phương trong thơ Tố Hữu, luận văn

thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

+ Nguyễn Huệ Yên (2008) Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,

ĐHSP-ĐHTN

+ Nguyễn Thị Thúy Hồng (2010), Tính hội thoại trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc

sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

+ Lê Thị Hoàn (2011) Đối trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

+ Vũ Thị Lệ Tuyết (2012), Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,

ĐHSP-ĐHTN.

+ Lê Thị Nhường. Cách sử dụng tính từ trong thơ Tố Hữu. Luận văn tốt

nghiệp, số 244

8

phương diện liên kết chưa được chú ý nhiều. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu về

phép lặp ngữ pháp.

Về mặt ngôn ngữ, thơ Tố Hữu cũng được giới nghiên cứu chú ý. Tuy nhiên, về

Mong muốn được học tập và trau dồi kiến thức về thơ Tố Hữu, muốn tiếp cận thơ

Tố Hữu theo nhiều hướng khác nhau, người viết đã quyết định lựa chọn đề tài “Phép

lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu”.

Với đề tài này, chúng tôi muốn tìm ra được những dấu hiệu thuộc về mặt hình

thức của phép lặp, và những giá trị mà phép lặp mang lại trong thơ Tố Hữu. Chúng tôi

cũng mong muốn khi nghiên cứu đề tài sẽ thấy được những sáng tạo độc đáo của nhà

thơ đồng thời góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.

1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn

1.2.1. Một vài nét khái quát về văn bản và ngữ pháp văn bản

1.2.1.1. Khái niệm văn bản

Văn bản là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu

khác nhau. Do vậy, cách hiểu văn bản có rất nhiều định nhghĩa. Sự đa dạng, phức tạp của

văn bản khiến nhà ngôn ngữ học Nga Z. Vêginxev ngạc nhiên: “Các nhà khoa học bắt tay

vào nghiên cứu văn bản cũng không ngờ rằng họ phải làm việc với một đối tượng mà về

mặt tầm cỡ không thua kém gì vũ trụ. Thực chất đó chính là vũ trụ ngôn ngữ học”.

Theo các nhà ngôn ngữ học nước ngoài, văn bản là “tổng của những quan hệ cấu

trúc tìm được sự thể hiện ngôn ngữ học” (dẫn theo M.Lôtman), “ là một chuỗi nào đó các

câu kết hợp với nhau trong khuôn khổ ý đồ chung của tác giả” (dẫn theo M.Nicolaeva).

Một định nghĩa khác được xem là trọn vẹn hơn, được trích dẫn nhiều hơn trong các bài

nghiên cứu: “Văn bản đó là tác phẩm của quá trình tạo lời, mang tính cách hoàn chỉnh,

được khách quan hóa dưới dạng tài liệu viết, được trau chuốt văn chương trong các tài

liệu viết, được trau chuốt văn chương theo loại hình tài liệu ấy, là tác phẩm gồm tên gọi

(đầu đề) và có một loại đơn vị riêng (những thể thống nhất trên câu) hợp nhất lại bằng

những loại hình liên hệ khác nhau bằng từ vựng, ngữ pháp, logic, tu từ có một hướng đích

nhất định và một mục tiêu thực dụng” (dẫn theo I.R.Gaperin).

Định nghĩa về văn bản cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học của Việt

Nam quan tâm:

9

Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Văn bản … là một thể thống nhất toàn vẹn được

xây dựng theo những quy tắc nhất định” [27, tr7].

Hữu Đạt thì cho rằng: Văn bản là một tập hợp các câu (hay phát ngôn) được kết

hợp với nhau theo một phương thức nhất định đảm bảo cho việc truyền đạt thông tin

có hiệu quả và chính xác.

Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hùng (1997), quan niệm: Văn bản vừa là

phương tiện, vừa là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ đó, các tác

giả khẳng định: Văn bản cũng đảm nhận hai chức năng chính: là phương tiện giao

tiếp và là công cụ tư duy của con người.

Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm có phần đơn giản hơn: Văn bản là chỉnh thể thống

nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức. Nhưng ông cũng khẳng định thêm: “Văn bản là

một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong

hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những

mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói

chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.” [43, tr 22]

Hiện nay, trong tiếng Việt, văn bản được quan niệm là đơn vị cao nhất của ngôn

ngữ, là sản phẩm ngôn ngữ hoàn chỉnh ở cả ba bình diện: hình thức, cấu trúc và nội

dung. Đó là một chỉnh thể gồm một hay nhiều đoạn văn được liên kết chặt chẽ với

nhau để thể hiện một nội dung hoàn chỉnh.

Trong luận văn, văn bản được hiểu theo cách hiểu vừa nêu trên dây.

1.2.1.2 Khái niệm liên kết và các kiểu liên kết văn bản

Trong mỗi văn bản, các hiện tượng, sự kiện được viết ra thường có mối liên hệ với

nhau để cùng phản ánh một hiện thực khách quan chung; các tình cảm, thái độ của tác

giả được biểu lộ đi kèm mỗi hiện tượng, sự kiện cũng thường có mối liên hệ với nhau và

cùng thể hiện một tư tưởng, tình cảm chung; các đơn vị và kết cấu văn bản thường được

sắp xếp theo một trình tự nào đấy nhằm phản ánh, thể hiện đúng quan hệ logic giữa các

hiện tượng, sự kiện được phản ánh với nghĩ suy, cảm xúc của tác giả.

Ví dụ :

(1)Trong văn hóa Việt Nam, sen là loài hoa biểu trưng cho sự tinh khiết, thanh tao.

(2)Trong Phật giáo, sen biểu trưng cho giá trị đạo đức, thuần khiết, thánh thiện, trí tuệ,

sự giác ngộ và tinh thần bất nhiễm.(3) Trong tâm thức dân gian, sen được ví với những

10

con người có vẻ đẹp cao quý, bản lĩnh. (4)Do đó, từ lâu sen đã đi vào cuộc sống và nghệ

thuật của người Việt. (5)Sen được dùng khá phổ biến trong nghệ thuật tạo hình, cách

điệu trong trang trí kiến trúc và đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ, đồ ngự trong cung đình.

( “Sen, biểu tượng tinh tế và đa dạng”, Ngữ Thiên, Báo Nhân Dân cuối tuần số

23 tháng 6/2015)

Các câu trong ví dụ trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các câu 1,2,3 đều thể

hiện nội dung Sen là biểu tượng cho vẻ đẹp phẩm chất của người Việt nhìn từ các góc

độ văn hóa, tín ngưỡng, tâm thức dân gian. Từ đó, các câu 4,5 khẳng định Sen gắn liền

với đời sống vật chất và tinh thần của người Việt từ xưa đến nay. Bằng chứng là nó

xuất hiện đa dạng và phong phú trong nghệ thuật kiến trúc, xây dựng và cả những vật

dụng của người Việt.

Mối liên hệ về nội dung giữa các câu trong đoạn văn trên đây được thể hiện bằng các

phương tiện liên kết hình thức mà tiêu biểu ở đây là phép lặp từ vựng (lặp lại từ “Sen”).

Có thể thấy, liên kết văn bản là mạng lưới các mối quan hệ nội dung, hình thức giữa các

đơn vị trong nội bộ văn bản và các mối quan hệ giữa văn bản với các yếu tố ngoài văn bản.

Theo Trần Ngọc Thêm, liên kết văn bản là “ Những mối quan hệ qua lại phức tạp… tạo

nên một mạng lưới” nhờ đó mà “ các câu gắn bó lại với nhau tạo thành văn bản” [43, tr 18]

“ Tính liên kết có khả năng rất lớn. Nó có thể làm cho một chuỗi câu không liên

quan gì với nhau trở thành một bộ phận của văn bản bằng cách thêm một câu thứ n+1

cho nó. Khi đó, lập tức cả chuỗi câu hỗn độn kia bỗng nhiên cựa quậy và trở nên một

bộ phận hợp pháp của văn bản.” [43, tr 19]

Liên kết văn bản được chia thành hai loại chính là liên kết hình thức và liên kết

nội dung [43, tr 19]. Liên kết hình thức được hiểu là liên kết được xác định dựa đơn

thuần vào một quan hệ, một hệ thống các hình thức giữa các câu (phát ngôn) và được

liên kết bằng các phương tiện ngôn ngữ cụ thể, còn liên kết nội dung là liên kết theo

đó, tất cả các câu trong đoạn văn hay văn bản “ đều phối hợp với nhau một cách hài

hòa, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện mộ nội dung” [ 43, tr 20].

Mặc dù về nguyên tắc, có thể và cần phân biệt liên kết nội dung và liên kết hình

thức như chỉ ra trên đây nhưng cần thấy rằng giữa hai mặt liên kết nội dung và liên kết

11

hình thức có mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ theo đó liên kết nội dung được thể hiện

bẳng một hệ thống các phương tiện kiên kết hình thức và liên kết hình thức chủ yếu

dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung [43, tr 21]. Tất nhiên, sự tương ứng giữa hai mặt

liên kết nội dung và hình thức không phải luôn luôn là một đối một.

Do liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt gắn bó mật thiết, hữu cơ với

nhau nên mỗi văn bản đích thực (điển hình) đều phải có đủ cả hai mặt liên kết này và

đây cũng là dấu hiệu cho phép phân biệt văn bản với phi văn bản, văn bản điển hình và

văn bản không điển hình.

Trong liên kết văn bản, đơn vị liên kết là câu hay phát ngôn. Theo Trần Ngọc

Thêm “phát ngôn là một bộ phận của đoạn văn, với một cấu trúc và nội dung nhất định

nào đó (đầy đủ hoặc không đầy đủ) được tách ra một cách hoàn chỉnh về hình thức. Ở

dạng viết, nó bắt đầu bằng chữ cái hoa và kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn, ở dạng nói

nó được phát ra theo một kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc bằng một quãng ngắt hơi.

Về mặt lượng, nó có thể được kết thúc bằng một ngữ khí từ” [ 43, tr 42].

Phát ngôn như cách hiểu trên đây về cơ bản tương ứng với “câu” theo cách hiểu

truyền thống. Tuy nhiên, cách hiểu trên đây về phát ngôn có lẽ chỉ thực sự phù hợp với

văn bản văn xuôi. Đối với văn bản thơ, việc áp dụng định nghĩa trên đây về phát ngôn gặp

những khó khăn nhất định (vì các dòng thơ đều bắt đầu bằng chữ cái viết hoa nhưng trong

nhiều trường hợp lại không được kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn). Như vậy, khi phân

tích sự liên kết trong văn bản thơ, cần có sự xem xét cụ thể đơn vị liên kết (cụ thể: Đó là

dòng thơ hay “câu ngữ pháp” có dấu hiệu hình thức là dấu ngắt câu?) Theo chúng tôi, đối

với văn bản thơ, đơn vị liên kết nên được xác định là dòng thơ vì hai lẽ:

a) Thứ nhất: Nếu lấy đơn vị liên kết trong văn bản thơ là “câu ngữ pháp” thì sẽ

gặp rất nhiều khó khăn vì trên thực tế, có khi sau cả một khổ, thậm chí mười dòng thơ

tác giả mới sử dụng một dấu ngắt câu (dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than).

b) Thứ hai: Các dòng thơ mặc dù không được kết thúc bằng dấu ngắt câu nhưng

đều được bắt đầu bằng chữ cái hoa và do đó giữa chúng luôn có một ranh giới hình

thức rõ ràng để xác định.

Mỗi loại liên kết (liên kết nội dung và liên kết hình thức) nêu trên đây đều bao

gồm một số kiểu liên kết cụ thể.

12

Chẳng hạn, liên kết hình thức bao gồm 5 phương thức dùng chung cho tất cả các

phát ngôn (pháp lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng và phép tuyến tính)

và 3 phương thức dùng riêng cho một số kiểu phát ngôn (phép thế, phép tỉnh lược và phép

nối). Mỗi phương thức trên đây lại có thể bao gồm một số kiểu cụ thể hơn.

1.2.2. Phép lặp và phép lặp ngữ pháp

1.2.2.1. Khái niệm về phương thức lặp

"Lặp là nhắc lại giống y như cái đã có trước" [12, tr 547]

Hiện tượng lặp thường được sử dụng nhiều trong các văn bản nghệ thuật nhằm

tạo nên những giá trị nhất định về mặt liên kết và mặt tu từ như nhấn mạnh, gây cảm

xúc, gây ấn tượng v. v...

"Phương thức lặp là phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn

những yếu tố đã có ở chủ ngôn" [ 14, tr 87].

Phương thức lặp có cả hai yếu tố liên kết (chủ tố và kết tố). Kết tố ở đây được gọi là lặp

tố. Tuỳ thuộc vào tính chất của lặp tố mà phương thức lặp có thể chia thành ba dạng thức:

- Lặp ngữ âm ( vần, nhịp).

- Lặp từ vựng (gọi là lặp từ ngữ).

- Lặp ngữ pháp.

1.2.2.2. Lặp ngữ âm

* Khái niệm: Phép lặp ngữ âm là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở

việc lặp lại trong kết ngôn những yếu tố ngữ âm đã có ở chủ ngôn. [43, tr 102]

Lặp tố là các yếu tố ngữ âm (như âm tiết, số lượng âm tiết, khuôn vần, phụ âm

đầu, thanh điệu,...)

* Phân loại

- Lặp số lượng âm tiết: là kết ngôn lặp lại số lượng âm tiết ở chủ ngôn, nhằm

mục đích tạo sự cân đối, hài hòa.

Ví dụ:

Con chim non không tổ (5 âm tiết)

Trẻ mồ côi không nhà (5 âm tiết)

(Mồ côi, Tố Hữu)

- Lặp vần: là lặp lại những âm tiết có phần vần giống nhau, nhằm mục đích tăng

sức biểu cảm, tăng nhạc tính cho câu thơ

13

Ví dụ:

Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên thành đồng Tổ quốc! Và

sông Hồng bất khuất có cái chông tre.

(Thép Mới)

- Lặp thanh điệu: sử dụng các tiếng cùng mang một thanh điệu để tạo ra sự

trùng lặp về âm vực (độ cao), tức là để tạo ra một yếu tố làm nên tính nhạc cho câu,

tăng tính tạo hình và biểu cảm.

Lặp thanh bằng có tác dụng biểu đạt sự êm đềm, nhẹ nhàng với tiết tấu chậm, buồn.

Ví dụ:

Mình về mình có nhớ ta

B B B T T B

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

B B B T T B T B

( Việt Bắc, Tố Hữu)

Câu thơ lục bát với thanh bằng là chủ đạo kết hợp với phần vần cũng là thanh

bằng góp phần diễn tả tâm trạng băn khoăn, bịn rịn của người ở (người dân Việt Bắc)

đối với người về xuôi (cán bộ cách mạng).

Lặp thanh trắc thường biểu đạt sự đột ngột, dứt khoát, mạnh mẽ với tiết tấu dồn dập.

Ví dụ:

Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết

T B T T B T T

Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết

T B T T T B B T

Hãy nghe tiếng của một nghìn cái xác

T B T T T B T T

Không chịu chết vạch trời kêu tội ác

B T T T B B T T

(Tố Hữu)

Thanh trắc được lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc, tất cả các tiếng cuối câu đều

mang thanh trắc làm vang lên tiếng kêu gay gắt, thống thiết, uất ức, căm phẫn

14

Lặp ngữ âm rất phổ biến trong thơ, phú và văn vần. Có trường hợp văn bản tồn

tại chủ yếu bằng liên kết vần nhịp, không có liên kết ở mặt ý nghĩa như các bài đồng

dao: Nu na nu nống, Thả đỉa ba ba, … Những văn bản như vậy có sức sống lâu bền

trong dân gian bởi dễ thuộc, dễ nhớ và giàu tính nhạc.

1.2.2.3. Lặp từ vựng

* Khái niệm: Phép lặp từ vựng là một dạng thức của phương thức lặp mà ở đó

chủ tố và lặp tố là những yếu tố từ vựng (thực từ, cụm từ). [43, tr 88]

Đó là cách dùng đi dùng lại nhiều lần trong văn bản những từ ngữ nhất định ở

những phần không quá xa nhau trong văn bản, nhằm mục đích tạo sự liên kết.

Lặp từ vựng là một hiện tượng rất phổ biến, thường thấy trong mọi hoàn cảnh

giao tiếp, mọi cuộc hội thoại, trao đổi và bao giờ cũng dựa trên một chủ đề nào đó.

Giữa lặp từ vựng và tính liên kết của văn bản tồn tại một mối quan hệ hai chiều.

Trước hết, ở một văn bản liên kết, tất yếu phải có lặp từ vựng. Mặt khác, ở bất kì một

chuỗi câu nào, nếu đã có lặp từ vựng thì sự liên kết cũng xuất hiện. Đó là sự lặp phức

(lặp kép). Như thế, lặp từ vựng là một dạng thức liên kết dùng để thể hiện liên kết chủ

đề của văn bản.

Ví dụ:

Ta đi giữa ban ngày

Trên đường cái, ung dung ta bước.

(Ta đi tới, Tố Hữu)

* Phân loại:

- Căn cứ vào kích thước của lặp tố so với chủ tố, ta có lặp từ và lặp cụm từ.

Trong lặp cụm từ lại phân biệt lặp hoàn toàn và lặp bộ phận.

+ Lặp từ:

Ví dụ:

"Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru , văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra

ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.

( Hai đứa trẻ, Thạch Lam )

+ Lặp cụm từ:

Lặp hoàn toàn:

15

Ví dụ:

Từ đó nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó nhân dân ta

càng cực khổ, nghèo nàn.

( Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh)

+ Lặp bộ phận:

Ví dụ:

Buổi sáng, Bé dậy sớm ngồi học bài. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt.

Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói quen ấy. Rét ghê. Thế mà Bé vùng dậy, chui

ra được khỏi cái chăn ấm. Bé ngồi học bài.

( Em bé và Chích Bông, Tô Hoài)

- Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố, có thể chia ra lặp cùng từ loại

và lặp chuyển từ loại.

+ Lặp cùng từ loại:

Ví dụ:

Hồ Chủ tịch và Đảng ta thật là nhà chiến lược thiên tài. Thiên tài là ở chỗ “biết

địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng”(…)

Thiên tài là ở chỗ biết vận dụng quy luật của cuộc dấu tranh cách mạng.

(Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà chiến lược

thiên tài - Người tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta, Phạm Văn Đồng)

+ Lặp chuyển từ loại:

Ví dụ:

Mùa xuân(1) là tết trồng cây

Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2)

( Hồ Chí Minh)

Ở ví dụ trên thì từ “xuân” (1) là danh từ, từ “xuân” (2) là tính từ.

- Căn cứ vào chức năng làm thành phần phát ngôn của chủ tố và lặp tố, có thể

chia ra lặp cùng chức năng và lặp chuyển chức năng.

+ Lặp cùng chức năng:

16

Ví dụ:

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc,

Các con nằm thao thức phía Trường Sơn.

Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả,

Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn.

( Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến)

Ở ví dụ trên lặp định ngữ “Tổ quốc” và chủ ngữ “Biển”.

+ Lặp cùng chuyển chức năng:

Nhân dân là bể

Văn nghệ là thuyền(1)

Thuyền (2)xô sóng(1) dậy

Sóng(2) đẩy thuyển (3)lên

( Tố Hữu)

Ta thấy, từ “thuyền” (1) là vị ngữ, “thuyền” (2) là chủ ngữ, “ thuyền”(3) là bổ

ngữ; từ “sóng” (1) là bổ ngữ, “sóng” (2) là chủ ngữ.

1.2.2.4. Lặp ngữ pháp

a) Khái niệm:

“Phép lặp ngữ pháp là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại

trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lặp cả một số hư từ mà chủ ngôn đã sử

dụng”[ 40; tr 93]. Đó là dạng thức lặp mà chủ tố và lặp tố là một mô hình cấu trúc của

phát ngôn và các hư từ.

Lặp ngữ pháp bao gồm hai mức độ: lặp cú pháp (cấu trúc phát ngôn) và lặp từ

pháp (các hư từ) trong đó lặp cú pháp là cơ bản [43, tr 93].

“Dấu hiệu để nhận biết phép lặp cú pháp là ở chỗ, ngoài phần có chung một kết

cấu, còn có chung một chủ đề và láy lại một số từ nhất định” [37, Tr 247]

- Lặp cú pháp là dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo cú pháp nào đó (có thể nguyên

vẹn hoặc biến đổi chút ít) nhằm tạo ra tính liên kết ở những phần văn bản chứa chúng.

Lặp những cấu tạo cú pháp đơn giản và ngắn gọn để gây hiệu quả và nhịp điệu, nhờ đó

gia tăng được tính liên kết

17

Ví dụ:

Tình ta như hàng cây

Đã qua mùa gió bão.

Tình ta như dòng sông

Đã yên ngày thác lũ.

( Thơ tình cuối mùa thu, Xuân Quỳnh)

- Lặp từ pháp là kết ngôn lặp lại các hư từ có ở chủ ngôn. Các hư từ kết hợp với

lặp cú pháp tạo thành các mệnh đề có tính chất tăng tiến, hoặc tăng tính chặt chẽ cho

lập luận.

Ví dụ:

Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì

không ai dẫn đường.

(Thư gửi các Ủy ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh)

Trong trường hợp trên đây, vừa có lặp cú pháp (lặp cấu trúc có dạng “có + N”),

vừa có sự lặp lại cặp hư từ (Nếu… thì). Sự kết hợp lặp cú pháp và lặp từ pháp ở trường

hợp vừa dẫn đã giúp cho sự liên kết giữa hai phát ngôn chặt chẽ hơn.

b) Phân loại:

Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn, có thể phân loại phép

lặp ngữ pháp thành bốn kiểu: lặp đủ, lặp thừa, lặp thiếu và lặp khác.

- Lặp đủ: là toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn với đầy đủ các thành phần của nó

được lặp lại hoàn toàn ở kết ngôn.

Mô hình: A-B-C. A-B-C

Lặp đủ thuộc nhóm lặp cân và lặp hoàn toàn. Có lặp toàn phần một cấu trúc và

nhiều cấu trúc.

Ví dụ:

Chỉ có đầu của làng nó rơi xuống đất thì đầu con ma làng mình mới chắp lại

được. Chỉ khi nào ngọn mác này dính máu làng nó thì cái nợ này mới trả xong. Mày

là con trai, mày cầm mác. Mày là con gái, mày nhắc lũ đàn ông. Mày còn nhỏ, mày để

bụng. Mày lớn lên, mày phải đi rình.

( Bức thư làng Mực, Nguyễn Chí Trung)

18

Lâu rồi, khao khát lắm, xuân ơi

Nhân loại vươn lên ánh mặt trời

CN VN BN

Nhân loại trườn lên trên biển máu

CN VN BN

Đang nghe xuân tới mở môi cười.

(Xuân nhân loại, Tố Hữu)

Mỗi người thêm một con mắt

Mỗi người thêm nhiều cảm rung

Trời cũng thêm nhiều màu sắc

Đất cũng thêm chiều mênh mông.

( Bạn, Trần Lê Văn)

- Lặp thừa:

+ Lặp thừa là ngoài cấu trúc của chủ ngôn, trong kết ngôn cò n chứ a thêm một

bô ̣ phâ ̣n nào đó mà chủ ngôn không có .

Mô hình: A-B-C.A-B-C-D.

Lặp thừa thuộc nhóm lặp lệch và lặp hoàn toàn.

Ví dụ:

Vui từ Ðồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

(Việt Bắc, Tố Hữu)

Dành cho củ sắn miếng cơm

Dành cho tấm chiếu, ổ rơm ấm cùng.

(Làng Thượng, Tố Hữu)

+ Tùy theo đặc điểm của phần thêm vào ( phần “thừa”) mà có thể chia thành ba

trường hợp:

Phần thêm vào là những phụ tố của các thành phần phát ngôn hoặc những yếu tố

đồng loại của chúng.

Ví dụ:

Kế hoạch Taylo đã tiêu tan. Kế hoạch Mắc Namara cũng phá sản. Kế hoạch

19

“leo thang” mà hiện nay đế quốc Mĩ đang cố gắng thực hiện ở miền Bắc cũng nhất

định sẽ thất bại.

( Phát biểu tại Quốc hội 4/1965, Hồ Chí Minh)

Phần thêm vào là các thành phần đồng loại hoặc các thành phần phụ của phát ngôn.

Ví dụ:

Hoa vạn thọ thì đôn hậu. Hoa đào thì duyên dáng và khôi ngô.

( Cầm súng, Nguyễn Chí Trung)

Phần thêm vào là các vế của một câu ghép.

Ví dụ:

Việt Bắc đã gọi. Hà Nội đã cho đà. Huế đã xông lên. Bảo Đại đã nộp ấn kiếm,

xin tự hạ bệ.

( Mùa thu ơi…, Hồng Châu)

- Lặp thiếu

+ Lặp thiếu là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận trong kết ngôn

Mô hình: A-B-C.A-B.

Lặp thiếu thuộc nhóm lặp lệch và lặp bộ phận

Ví dụ:

“Tôi đã là con của va ̣n nhà

Là em của va ̣n kiếp phôi pha

Là anh của va ̣n đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ”.

(Từ ấy, Tố Hữu)

+ Tùy theo đặc điểm của phần không lặp ( phần “thiếu”) mà lặp thiếu có thể

chia ra làm ba trường hợp:

Phần không lặp là một hoặc một số thành phần phát ngôn.

Ví dụ:

Vẫn vui như lúc nãy, vợ đi trước thổi sáo. Chồng đằng sau hát theo.

(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)

Phần không lặp là một vế của phát ngôn ghép.

Ví dụ:

20

Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ.

( Đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh)

Phần không lặp được tách ra thành một phát ngôn riêng. Nghĩa là phát ngôn thứ

nhất liên kết lặp thiếu với từng phát ngôn thứ hai và thứ ba, nhưng lại có liên kết

“lặp đủ” với cả chuỗi hai phát ngôn này.

Ví dụ:

Bom hất Viễn ngã xuống, Viễn lập tức đứng dậy. Một quả bom nữa lại hất

Viễn ngã xuống. Viễn lại đứng dậy.

(Tuổi hai mươi, Nguyễn Thành Long)

- Lặp khác là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận được lặp lại trong kế t

ngôn. Ngược lại, cấu trúc của kết ngôn cũng chỉ có một bộ phận là lặp lại chủ ngôn.

Mỗi phát ngôn có một phần khác nhau riêng.

Mô hình: A-B-C.A-B-D.

Lặp khác thuộc nhóm lặp cân và lặp bộ phận

Chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân

ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

( Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh)

Ở ví dụ trên, phần khác ở chủ ngôn là vị ngữ phụ, phần khác ỏ kết ngôn là trạng

tố ở vị ngữ.

Lại đây anh lính đêm ơi

Can chi mà để sầu rơi một mình?

Lại đây đi chút, nghe anh

Lại đây với bạn tâm tình một đêm

(Cảm thông, Tố Hữu)

Lặp khác cho phép thoát ra khỏi sự gò bó, khuôn khổ, giúp cho phát ngôn thêm

uyển chuyển, linh hoạt nhưng vẫn giữ được sự cân đối.

+ Căn cứ vào mức độ lặp thì có thể chia phép lặp ngữ pháp thành hai nhóm: lặp

hoàn toàn (toàn bộ cấu trúc) và lặp bộ phận( một bộ phận của cấu trúc).

+ Căn cứ vào tính cân đối của chủ ngôn và kết ngôn (chủ yếu là vào độ dài của

chúng) thì lặp ngữ pháp cũng chia thành hai nhóm: lặp cân và lặp lệch.

21

Ngoài ra, ở phép lặp ngữ pháp còn có một dạng ít phổ biến đó là hiện tượng lặp

bắc cầu. Nó thường phải có sự hỗ trợ của những yếu tố khác.

Có thể tóm tắt cách phân loại của lặp ngữ pháp như sau:[43, tr 99]

Phân loại theo mức độ lặp PHÂN LOẠI PHÉP LẶP

NGỮ PHÁP Lặp hoàn toàn Lặp bộ phận

1. Lặp đủ 2. Lặp khác Phân

P1 = P2 P1 ∩ P2 loại Lặp cân A-B-C. A-B-C A-B-C. A-B-D theo

tính 3. Lặp thừa 4. Lặp thiếu

cân P1 P2 P1 P2 Lặp lệch đối A-B-C . A-B-C-D A-B-C . A-B

c) Phân biệt lặp ngữ pháp với các phương thức liên kết và biện pháp nghệ thuật khác

Khi xác định khái niệm lặp ngữ pháp theo cách hiểu trên đây, cần phân biệt phép

lặp ngữ pháp với phép lặp từ vựng (lặp từ ngữ) và phép đối (với tư cách là một phương

thức liên kết văn bản). Mặt khác, cũng cần phân biệt phép lặp ngữ pháp (với tư cách là

một phương thức liên kết văn bản) với thủ pháp đối (đối ngẫu) với tư cách là một biện

pháp tu từ nghệ thuật thường được sử dụng trong thơ văn.

Mặc dù lặp từ vựng hay lặp từ ngữ cũng là một phương thức liên kết văn bản nhưng

khác với lặp ngữ pháp, ở lặp từ vựng, đơn vị được lặp lại là các đơn vị từ vựng (chủ yếu là

thực từ) còn ở lặp ngữ pháp các đơn vị được lặp lại là các cấu trúc cú pháp (các mô hình

cú pháp) và các hư từ. Chẳng hạn, ở trường hợp dưới đây chỉ có phương thức lặp từ vựng

chứ không có lặp ngữ pháp (vì cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn rất khác nhau).

Ví dụ:

Lực lượng giai cấp công nhân và nhân dân lao động rất to lớn. Nhưng lực

lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi.

(Hồ Chí Minh)

Trái lại, ở hai ví dụ dưới đây chỉ có hiện tượng lặp ngữ pháp mà không có hiện

tượng lặp từ vựng (vì không có thực từ nào được lặp lại):

22

Ví dụ:

Việt Bắc đã gọi. Hà Nội đã cho đà. Huế đã xông lên.

Bảo Đại đã nộp ấn kiếm, xin tự hạ bệ.

(Hồng Châu)

Con chim non không tổ

Trẻ mồ côi không nhà

(Tố Hữu)

Mặc dù lặp từ vựng và lặp ngữ pháp là hai phương thức liên kết khác nhau như chỉ ra

trên đây nhưng cần thấy rằng có những trường hợp có sự kết hợp đồng thời giữa hai phương

thức này. Trong trường hợp đó, sự liên kết giữa các phát ngôn sẽ trở nên chặt chẽ hơn.

Ví dụ:

Mặc dù giặc Tây độc ác, chúng quyết không thể ngăn trở trăng thu vừa đẹp, vừa tròn.

Mặc dù giặc Tây hung tàn, chúng quyết không thể ngăn trở các cháu vui tươi, hăng hái.

Mặc dù giặc Tây bạo ngược, chúng không thể ngăn trở chúng ta kháng chiến

thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công.

(Hồ Chí Minh)

Trong trường hợp trên đây, ở các phát ngôn (câu) thứ hai và thứ ba vừa có sự lặp

lại cấu trúc của phát ngôn thứ nhất và lặp lại một số hư từ “ Mặc dù…”, đồng thời có

sự lặp lại một số đơn vị từ vựng (giặc Tây , chúng , quyết không thể…)

Lặp ngữ pháp cũng cần được phân biệt với phép đối với tư cách là một phương

tức liên kết [43, tr 113]. Theo Trần Ngọc Thêm “phép đối là phương thức liên kết thể

hiện ở việc sử dụng trong kết ngôn một ngữ đoạn (từ hoặc cùm từ ) có ý nghĩa đối lập

với một ngữ đoạn nào đó có ở chủ ngôn” [43, tr 104]. Phép đối (với tư cách là một

phương thức liên kết văn bản) theo định nghĩa trên đây rõ ràng về bản chất, khác với

đối (đối ngẫu) với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật chủ yếu dùng trong văn thơ.

Phép đối liên kết theo cách hiểu trên đây cũng khác về bản chất với phép lặp ngữ pháp

ở chỗ: ở phép đối, giữa chủ ngôn và kết ngôn không nhất thiết phải có sự lặp lại (sự

giống nhau) về cấu trúc trong khi ở lặp ngữ pháp, yêu cầu này là bắt buộc.

So sánh:

- Phép đối:

23

Ví dụ:

Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh.

(Nam Cao)

Ở ví dụ này, chỉ có sự xuất hiện trong chủ ngôn và kết ngôn các từ trái nghĩa: yếu

đuối/ mạnh; hiền lành/ ác chứ không có sự giống nhau về cấu trúc.

- Phép lặp ngữ pháp:(lặp thừa)

Ví dụ:

Hoa vạn thị thì đôn hậu. Hoa đào thì duyên dáng và khôi ngô.

(Nguyễn Chí Trung)

Ở ví dụ vừa dẫn, chủ ngôn và kết ngôn có sự giống nhau về cấu trúc nhưng lại

không có sự xuất hiện của các từ trái nghĩa.

Mặc dù có sự khác nhau bản chất như chỉ ra trên đây nhưng cũng có thể gặp

những tường hợp có sự tích hợp giữa phép đối và phép lặp ngữ pháp. Đó là trường hợp

trong chủ ngôn và kết ngôn vừa có sự giống nhau (lặp lại) về cấu trúc, vừa chứa các từ

trái nghĩa (lâm thời) với nhau (bướm và tằm) ở ví dụ sau đây:

Tôi không muốn là bướm. Tôi chỉ muốn là tằm.

(Lưu Quý Kỳ)

Như đã thấy, ví dụ trên đây vừa có thể dùng làm dẫn chứng về phép lặp ngữ pháp

(với sự lặp lại cấu trúc của chủ ngôn ở kết ngôn) vừa có thể dùng làm dẫn chứng về

phép đối liên kết (với việc sử dụng các từ trái nghĩa ở chủ ngôn và kết ngôn).

Khi xác định phép lặp ngữ pháp với tư cách là một phương thức liên kết văn bản,

cũng cần phân biệt phương thức này với biện pháp đối (đối ngẫu) với tư cách là một

biện pháp nghệ thuật thường được dùng trong văn thơ. Để làm rõ vấn dề này , cần đề

cập đến cách hiểu về khái niệm đối (đối ngẫu).

Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học)

“Đối, còn gọi là đối ngẫu (đối: sóng nhau; ngẫu: chẵn, đôi) là một phương thức tổ

chức lời văn bằng cách điệp cú pháp nhằm tạo ra hai vế, mỗi vế là một câu tương đối

hoàn chỉnh, được viết thành hai dòng cân đối, sóng đôi với nhau”[15, tr 122].

Trong cuốn “Thơ ca Việt nam, hình thức và thể loại” Bùi Văn Nguyên, Hà Minh

Đức cho rằng “đối nghĩa là thành đôi và tương xứng với nhau” [11, tr 139]. Các tác

24

giả cho rằng đối luôn phải có hai vế (thành đôi) và phải có sự cân xứng nhau về thanh,

về số lượng âm tiết, về từ loại). Ngoài ra, các tác giả còn phân biệt đối thanh và đối ý.

Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên), “đối là hai từ hoặc hai vế câu

cân xứng với nhau về nội dung, giống nhau về từ loại, trái nhau về thanh điệu bằng

trắc và được đặt trong thế tương ứng với nhau thành từng cặp (ở một số điểm đã quy

định) để tạo nên giá trị tu từ nhất định” [31, tr 446] .

Qua các cách hiểu dẫn ra trên đây, có thể thấy đối nói chung được hiểu là một

biện pháp nghệ thuật theo đó, có sự sử dụng sóng đôi các cấu trúc cân xứng với nhau

(về từ loại, về số lượng âm tiết, về thanh, về ý). Với cách hiểu này thì ở biện pháp đối

luôn có hai vế và hai vế này luôn có sự cân xứng nhau về các mặt. Khái niệm đối có

thể được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo cách hiểu hẹp thì “đối chỉ gồm hai

vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh, được viết thành hai dòng cân đối, sóng

đôi với nhau” [15,tr 122]. Nói cách khác, cách hiểu hẹp về đối cho rằng mỗi vế đối

phải là “ một câu” hay một dòng thơ. Khác với cách hiểu này, cách hiểu rộng về đối

cho rằng đối không chỉ gồm các vế có cấu tạo là “một câu” hay một dòng thơ mà còn

gồm các vế có cấu tạo là một vế câu hay một bộ phận , một thành phần câu hay dòng

thơ nhất định. Kiểu đối mà mỗi vế đối chỉ là một vế câu hay một bộ phận của câu

(dòng thơ) thường được gọi là tiểu đối.

Kiểu đối mà mỗi vế là một câu văn hay một dòng thơ được dùng phổ biến trong

lối làm câu đối, trong văn thơ cổ (văn biền ngẫu), trong thơ trung đại và cũng được sử

dụng cả trong văn thơ cận hiện đại.

Ví dụ:

Trời sinh ông Tú Cát

Đất nứt con bọ hung

(câu đối)

Bần cư trung thị vô nhân vấn

Phú tại sơn lâm hữu khánh tầm

(Câu đối)

Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)

25

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo

(Nguyễn Khuyến)

Kiểu đối mà mỗi vế đối là một bộ phận của câu hay dòng thơ thường được dùng

trong thơ văn nói chung nhưng phổ biến nhất là trong thơ. Chẳng hạn, trong “Truyện

Kiều” của Nguyễn Du, có thể gặp khá nhiều các kiểu dạng tiểu đối.

Ví dụ:

- Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh

Bốn phương phẳng lặng/ hai kinh vững vàng

- Người lên ngựa/ kẻ chia bào

- Người nách thước/ kẻ tay đao

- Quạt nông/ ấp lạnh những ai đó giờ

- Cát vàng cồn nọ/ dặm hồng bụi kia

Trong thơ Tố Hữu, cũng có thể gặp khá phổ biến các cấu trúc có dạng tiểu đối.

Ví dụ:

Đá đít/ bạt tai

Dọn nhà/ sửa cửa

(Bà mẹ Việt Bắc)

Than Phấn Mễ/ thiếc Cao Bằng

Chiếu Nga Sơn/ gạch Bát Tràng

Vải tơ NamĐịnh/ luạ hàng Hà Đông

(Việt Bắc)

Không ham mái ngói/ chẳng cầu tường vôi

(Trường tôi)

Trẻ làm đuốc sống/ già xây lửa đồn

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Qua cách hiểu cũng như qua các ví dụ vừa dẫn về đối (đối ngẫu) với tư cách là

một biện pháp tu từ, có thể nhận thấy những nét tương đồng hay gần gũi và những nét

khác biệt giữa biện pháp lặp ngữ pháp (với tư cách là một phương thức liên kết văn

bản). Cụ thể:

26

- Nét giống nhau:

+ Ở đối (đối ngẫu) và lặp ngữ pháp đều có sự lặp lại cấu trúc.

+ Kiểu đối mà vế đối có cấu trúc là câu hay dòng thơ cũng có tác dụng liên kết

văn bản nhất định giống như lặp ngữ pháp.

- Khác nhau:

+ Ở đối luôn phải có sự “sóng đôi” cấu trúc, tức là luôn phải có hai vế, còn ở lặp

ngữ pháp, yêu cầu này không có tính bắt buộc (số lượng) đơn vị tham gia lặp ngữ pháp

có thể là hai hoặc hơn hai như đã chỉ ra.

+ Ở đối, giữa các vế luôn phải có sự cân xứng (về số lượng, về từ loại, thậm chí

cả về thanh điệu, về ý), còn ở lặp ngữ pháp yêu cầu này cũng không phải là bắt buộc

(vì vậy, ở lặp ngữ pháp, ngoài lặp đủ, còn có lặp khác, lặp thừa, lặp thiếu).

+ Ở đối, yêu cầu “đối xứng” đòi hỏi giữa các yếu tố bộ phận trong cấu trúc vừa

phải giống nhau, vừa phải khác nhau (chẳng hạn, ở các thành ngữ đối như: “ khôn nhà

dại chợ”, “ đục nước béo cò”); Ở lặp ngữ pháp, yêu cầu này cũng không phải là bắt

buộc. Chính điều này giải thích vì sao ở cấu trúc đối (điển hình) nói chung không có

hiện tượng lặp từ vựng. Trong khi đó, ở lặp ngữ pháp hiện tượng lặp từ vựng (kiểu

như: “Đã nghe nước chảy lên non, Đã nghe đất chuyển thành con sông dài”) lại là

hiện tượng phổ biến.

+ Ở đối, đơn vị tham gia (các vế đối) có thể là câu (dòng thơ) hoặc là vế câu (bộ

phận của dòng thơ), còn ở lặp ngữ pháp (với tư cách là một phương tiện liên kết văn

bản), các đơn vị tham gia vào quan hệ lặp phải là câu văn hay dòng thơ (khổ thơ), tức

là những đơn vị liên kết văn bản.

Mặc dù có những điểm khác nhau cơ bản như chỉ ra trên đây nhưng cũng cần

thấy rằng giữa đối (đối ngẫu) và lặp ngữ pháp cũng có sự giao nhau ở một bộ phận, tức

là có những trường hợp vừa là đối, vừa là lặp ngữ pháp. Đó chính là những trường hợp

của những cấu trúc đối mà mỗi vế là một câu hay một dòng thơ.

Ví dụ:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn

(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)

27

Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ

Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu

(Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu)

Những ví dụ trên đây cần được coi là đối (vì chúng đáp ứng đầy đủ tiêu chí của

đối theo định nghĩa đã nêu, cụ thể là cũng gồm hai vế đối xứng nhau về các mặt số

lượng tiếng, từ loại, và cả ý nghĩa). Mặt khác, những ví dụ này cũng đáp ứng được các

tiêu chí của lặp ngữ pháp (các đơn vị ở mỗi trường hợp này có sự trùng lặp về cấu trúc

hay mô hình cú pháp).

Như vậy, có thể thấy một bộ phận của đối hay đối ngẫu đồng thời là lặp ngữ

pháp. Sự không trùng nhau giữa đối và lặp ngữ pháp chính là ở chỗ:

- Một bộ phận của đối (cụ thể là tiểu đối, tức là kiểu đối mà mỗi vế là một bộ

phận của câu hay của dòng thơ) không thuộc về lặp ngữ pháp (vì kiểu đối này không

có chức năng liên kết văn bản).

- Mặt khác, trong nhiều trường hợp, lặp ngữ pháp hoàn toàn không phải là đối;

đó là những trường hợp ở lặp ngữ pháp đồng thời lặp từ vựng và trường hợp ở lặp ngữ

pháp có sự lặp lại hơn hai lần chủ ngôn.

Sự phân tích trên đây cho thấy rõ mối quan hệ, sự gần gũi, sự giao nhau giữa lặp

ngữ pháp với lặp từ vựng và phép đối liên kết cũng như biện pháp đối với tư cách là một

biện pháp nghệ thuật thường dùng trong văn thơ, đặc biệt là văn thơ cổ và trung đại.

Trên cơ sở xác định khái niệm lặp ngữ pháp như trên, dưới đây, chúng ta sẽ xem xét

vấn đề phân loại lặp ngữ pháp và các kiểu lặp ngữ pháp cụ thể, trong đó, sẽ đặc biệt chú ý

đến hiện tượng lặp ngữ pháp trong thơ là nội dung sẽ được khảo sát trong luận văn này.

Như dã chỉ ra ở mục 1.1 (Tổng quan về tình hình nghiên cứu), khi phân loại lặp

ngữ pháp, căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn, người ta thường

chia lặp ngữ pháp thành: lặp đủ, lặp khác, lặp thừa và lặp thiếu. Cách hiểu và ví dụ về

mỗi kiểu lặp này trong văn bản văn xuôi đã được chỉ ở mục “Tổng quan”. Ở đây,

chúng tôi xin nêu thêm một số ví dụ về các kiểu lặp này trên cứ liệu văn bản thơ.

- Lặp đủ: Đây là kiểu lặp toàn bộ cấu trúc của dòng thơ đứng trước ( chủ ngôn).

Ví dụ:

Con chim non không tổ

Trẻ mồ côi không nhà

( Mồ côi )

28

Đây thành lao, cửa ngục

Đây xiềng xích, gông cùm

Đây mũi súng, làn gươm

( Ba tiếng)

- Lặp khác: Ở kiểu lặp này cấu trúc của dòng thơ trước (chủ ngôn) được lặp lại ở

một bộ phận (quan trọng) của các dòng sau (kết ngôn) (bộ phận còn lại có vai trò, chức

năng khác nhau).

Ví dụ:

Sống đã vì cách mạng anh em ta

Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà

( Trăng trối)

Ở ví dụ này, bộ phận khác là “anh em ta” và “chẳng phiền hà” có chức năng cú

pháp khác nhau.

Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu

Đây là lời trăng trối để chia ly.

(Trăng trối)

Ở ví dụ trên đây, bộ phận đuợc lặp lại (có cấu trúc giống nhau) là “Đây ba

tiếng”, “Đây là lời”, còn bộ phận khác nhau là bộ phận còn lại ở mỗi dòng thơ.

- Lặp thiếu: Đây là kiểu lặp mà các thành phần thuộc cấu trúc của dòng thơ trước

(chủ ngôn) không được lặp lại đầy đủ ở dòng thơ sau (kết ngôn).

Ví dụ:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

( Từ ấy)

Cùng ngây thơ, khờ dại như chim non

Cùng trinh tiết như hai tờ giấy trắng

(Hai đứa trẻ)

29

Ở ví dụ thứ nhất, yếu tố không được lặp lại là chủ ngữ (tôi). Ở ví dự thứ hai, yếu

tố không được lặp lại là thành phần đồng loại ở dòng thứ nhất (khờ dại).

- Lặp thừa:

Ở kiều lặp này, ngoài sự lặp lại các thành phần của cấu trúc trong dòng thơ thứ

nhất (chủ ngôn) ở dòng thơ sau (kết ngôn) còn có sự xuất hiện của một hay một số

thành phần nào đó không có ở dòng thứ nhất.

Ví dụ:

Buồn ta, ấy lửa đương nhen

Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng

(Cảm thông)

Hai phen nước bạc ngập đồng

Hai phen nước mắt đầy lòng héo hon

(Tiếng hát trên đê)

Mặc dù việc phân chia lặp ngữ pháp thành các kiểu như trên đây là có cơ sở

nhưng cần thấy rằng trên thực tế, ranh giới hay sự đối lập giữa các kiểu lặp này không

phải bao giờ cũng rõ ràng; do đó, việc xác định, phân biệt các kiểu lặp gặp nhiều khó

khăn và chỉ có thể đạt được ở mức độ tương đối.

Cách phân chia lặp ngữ pháp thành 4 kiểu như trên đây có tính khái quát cao và

phản ánh sự đối lập thực tế giữa các kiểu lặp ngữ pháp trong các loại văn bản nói

chung. Tuy nhiên, khi áp dụng vào văn bản thơ, có thể nhận thấy sự không đầy đủ của

sự phân chia này. Do đó, theo chúng tôi , đối với văn bản thơ, cần có sự bổ sung một

số tiêu chí. Cụ thể:

- Theo sự có mặt của các từ ngữ trong chủ ngôn (dòng thơ trước) và kết ngôn

(dòng thơ lặp lại) có thể phân biệt: lặp hoàn toàn (lặp nguyên vẹn hay nguyên văn) và

lặp không hoàn toàn (lặp có thay đổi từ ngữ cụ thể).

Ví dụ:

+ Lặp hoàn toàn ( nguyên văn)

Hỡi những con khôn của giống nòi

Hỡi những con khôn của giống nòi

(Dậy lên thanh niên)

30

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò

( Nhớ đồng )

+ Lặp không hoàn toàn (có thay đổi)

Có lành đâu vết thương đầy oán hận

Có tan đâu khi uất tự bao giờ

(Tháp đổ)

Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn?

Có gì đâu ta ôm mối căm hờn?

(Hãy đứng dậy)

- Theo đặc điểm cấu trúc và khối lượng của chủ ngôn và kết ngôn, có thể phân

biệt: lặp dòng thơ và lặp khổ thơ (gồm nhiều dòng thơ). Kiểu lặp dòng thơ rất phổ

biến như có thể thấy qua các ví dụ đã dẫn ở trên. Dưới đây là ví dụ về lặp khổ thơ:

Ví dụ:

Nhật Hoàng! Nhật Hoàng

Trên ngai vàng chễm chệ

Uất hận của Phù Tang

Đã vang cùng sóng bể!

Nhật Hoàng! Nhật Hoàng

Trên ngai vàng chễm chệ

Uất hận của Phù Tang

Đã vang cùng sóng bể!

( Đông Kinh nhuộm máu)

Mặc dù việc lặp khổ thơ không phổ biến bằng việc lặp dòng thơ nhưng cũng

không phải là hiện tượng ít gặp, đặc biệt trong thơ Tố Hữu. Trong thơ ca nước ngoài,

hiện tượng lặp khổ thơ cũng khá phổ biến mà dưới đây là một ví dụ về hiện tượng lặp

khổ thơ thể hiện qua một bài thơ dịch.

31

Trong mơ anh đã khóc

Thấy em trong áo quan,

Đến khi anh tỉnh giấc

Nước mắt cứ tuôn tràn

Trong mơ anh đã khóc,

Thấy em không trung thành,

Tỉnh dậy, anh, đôi mắt

Lệ đắng còn chảy quanh

Trong mơ anh đã khóc,

Thấy em vẫn dịu hiền.

Thế rồi anh tỉnh giấc

Nước mắt cứ triền miên.

( Thơ của H. Hainơ)

Một ví dụ khác về hiện tượng lặp khổ thơ trong thơ ca nước ngoài là bài “Bài ca

người du kích” được Tố Hữu chuyển dịch từ dân ca Nam Tư, trong đó có đến 5 khổ

thơ có cùng dạng cấu trúc (khuôn hình) được lặp lại.

-Theo số lần lặp lại (số dòng thơ hay khổ thơ được lặp lại) có thể phân biệt các

dạng: lặp một lần (lặp đơn) và lặp nhiều lần (hay lặp kép, lặp phức)

+ Lặp đơn:

Ai đâu giam cấm được hồn ta

Ai đâu giam cấm được lời ca

( 14 tháng 7)

+ Lặp kép (lặp phức)

Lặp hai lần:

Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều

Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh

Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh.

(Tâm tư trong tù)

32

Lặp ba lần

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

( Nhớ đồng)

Lặp bốn lần

Ai qua Phú Thọ

Ai xuôi Trung Hà

Ai về Hưng Hoá

Ai xuống khu Ba

Ai vào khu Bốn

(Ta đi tới)

Lặp năm lần

Nó giật mái tranh

Nó tìm lục khắp

Nó tung bát đĩa

Nó đập héc vài

Nó chẳng thấy gì

Nó trói thằng cả

(Bà mẹ Việt Bắc)

- Theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn có thể phân biệt lặp liền và lặp cách

(còn gọi là “lặp bắc cầu”)

+ Lặp liền ( song song): Ở kiểu lặp này chủ ngôn và kết ngôn đi liền nhau.

Ví dụ:

Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi

Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại.

(Những người không chết)

33

+ Lặp cách: Ở kiểu lặp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng xa nhau (giữa chúng có

các dòng thơ khác)

Ví dụ:

Hỡi những con khôn của giống nòi

Những chàng trai quý, gái yêu ơi!

Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

Chọn một dòng hay để nước trôi?

Hỡi những con khôn của giống nòi

Đã từng đau tự thuở trong nôi

Đã từng thấy Mẹ lăn trong máu

Lệ đã cay chua ngấm nụ cười.

(Dậy lên thanh niên)

Trong lặp cách, chủ ngôn và kết ngôn có thể đứng cách nhau một hoặc một vài

dòng thư như trên đây, nhưng cũng có những trường hợp chủ ngôn và kết ngôn đứng

rất xa nhau. Chẳng hạn như bài “Tiếng hát Sông Hương”, chủ ngôn “Trên dòng

Hương Giang” còn kết ngôn “Trên dòng Hương Giang” đứng ở cuối bài thơ (nhằm

tạo một kết thúc mở cho bài thơ).

Những điểm bổ sung trong cách phân loại lặp ngữ pháp trong văn bản thơ như

vừa trình bày trên đây cho thấy sự phong phú, phức tạp cũng như những nét riêng của

phương thức lặp ngữ pháp trong văn bản thơ so với văn bản văn xuôi. Nếu đi vào cụ

thể, còn có thể thấy ở mỗi kiểu lặp ngữ pháp trong văn bản thơ vừa giới thiệu trên đây

còn có thể phân chia cụ thể hơn nữa (chẳng hạn, ở lặp dòng thơ và lặp khổ thơ đều có

thể có các dạng lặp nguyên văn (hoàn toàn) và lặp không nguyên văn (không hoàn

toàn, có biến đổi), lặp liền và lặp cách, lặp một lần và lặp nhiều lần, lặp đủ, lặp khác,

lặp thiếu, lặp thừa…

Những nội dung cụ thể này sẽ được xem xét khi phân tích, miêu tả về các kiểu

lặp ngữ pháp cụ thể trong thơ Tố Hữu.

34

1.2.3. Vài nét về Tố Hữu và thơ Tố Hữu

1.2.3.1. Cuộc đời

Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Hội An, tỉnh

Quảng Nam, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông thân

sinh Tố Hữu là một nhà nho nghèo bà mẹ nhà thơ cũng là con một nhà nho, cả hai

người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian. Năm 12 tuổi Tố Hữu

mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Bước vào tuổi

thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành người lãnh

đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ Huế, rồi được kết nạp vào Đảng cộng sản

Đông Dương. Cuối tháng 4-1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa

Thiên, rồi lần lượt bị giam giữ trong nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây

Nguyên. Tháng 3-1942, Tố Hữu vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), tìm ra Thanh Hóa,

bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, tiếp tục hoạt động. Trong Cách mạng tháng Tám

năm 1945, Tố Hữu là Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng

nổ, Tố Hữu công tác ở Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc đặc trách về công tác văn hóa văn

nghệ ở cơ quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,

đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong

bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản

Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Năm 1996,

ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

1.2.3.2. Đường cách mạng, đường thơ

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.

Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng

đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của

dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và

bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.

Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946) là chặng đường đầu tiên của đời thơ Tố Hữu, đánh

dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng. Tập

thơ chia làm ba phần. “Máu lửa” gồm những bài sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân

chủ. Nhà thơ cảm thông sâu sắc với cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ

35

trong xã hội (lão đầy tớ, chị vú em, cô gái giang hồ, những em bé đi ở, mồ côi, hát

dạo…), đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai. “Xiềng

xích” gồm những bài sáng tác trong các nhà lao ở Trung bộ và Tây Nguyên. Đó là tâm

tư của một người trẻ tuổi tha thiết yêu đời và khao khát tự do, là ý chí kiên cường của

người chiến sĩ quyết tâm tiếp tục chiến đấu ngay trong nhà tù. “Giải phóng” gồm

những bài sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục đến những ngày đầu giải phóng vĩ đại của

toàn dân tộc. Nhà thơ nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi của cách mạng, nền độc lập tự do

của Tổ quốc, khẳng định niềm tin tưởng vững chắc của nhân dân vào chế độ mới.

Tập thơ “Việt Bắc”(1946-1954) là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng

chiến chống Pháp và những con người kháng chiến. Họ là những người lao động rất

bình thường và cũng rất anh hùng. Với tấm lòng yêu thương thắm thiết và cảm phục

sâu sắc, Tố Hữu đã miêu tả và ca ngợi anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ,

em liên lạc…Nhà thơ ca ngợi đảng và Bác Hồ đã khơi nguồn và phát huy sức mạnh

của quân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Nhiều tình cảm lớn được thể hiện sâu đậm: tình

quân dân “cá nước”, tiền tuyến với hậu phương, miền xuôi với miền ngược, cán bộ với

quần chúng nhân dân với lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, tình cảm quốc tế

vô sản,…Tập thơ kết thúc bằng những bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế chiến

thắng hào hùng, biết bao tình cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong giờ phút lịch sử.

Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961) dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao trong giai

đoạn cách mạng mới. Nhà thơ hướng về hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau

khổ của cha ông, công lao của các thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của

cách mạng. Qua sự cảm nhận của Tố Hữu, cuộc sống mới trên miền Bắc thực sự là

một ngày hội lớn, nhìn vào đâu cũng thấy tràn đầy sức sống và niềm vui. Đất nước đau

nỗi đau chia cắt, thơ Tố Hữu là tình cảm thiết tha, sâu nặng với miền Nam ruột thịt. Đó

là nỗi nhớ thương quê hương da diết, tiếng thét căm hận ngút trời, lời ngợi ca những

con người kiên trung, bất khuất và niềm tin không gì lay chuyển được vào ngày mai

thắng lợi, thống nhất non sông.

Hai tập thơ “Ra trận”(1962-1971), “Máu và hoa” (1972-1977) âm vang khí thế

quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui toàn thắng. “Ra trận”

là bản anh hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời” với bao hình ảnh tiêu biểu

36

cho dũng khí kiên cường của dân tộc”: anh giải phóng quân “con người đẹp nhất”,

người thợ điện “Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu”, những “em thơ cũng hóa anh

hùng”, bà mẹ “Một tay lái chiếc đò ngang”, anh công nhân “lấp hố bom mà dựng lò

cao”, cô dân quân “vai súng tay cày”…, “Máu và hoa” ghi lại một chặng đường cách

mạng đầy gian khổ, hy sinh, khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của

xứ sở quê hương, cũng như của mỗi con người Việt Nam mới, biểu hiện niềm tự hào

và niềm vui phơi phới khi “toàn thắng về ta”.

“Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999) là hai tập thơ đánh dấu bước

chuyển mới trong thơ Tố Hữu. Dòng chảy sôi động của cuộc sống đời thường với bao

vui buồn, được mất, sướng khổ, mừng lo khơi gợi trong tâm hồn nhà thơ nhiều cảm

xúc suy tư. Tố Hữu tìm đến những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về cuộc đời và

con người. Vượt lên bao biến động thăng trầm, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào

lí tưởng và con đường cách mạng, tin vào chữ “nhân” luôn tỏa sáng ở mỗi hồn người.

1.2.3.3. Phong cách thơ Tố Hữu

Chất trữ tình chính trị là nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Tố Hữu. Con

đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với sự giác ngộ lí tưởng cách mạng của nhà

thơ. Các chặng đường thơ của ông gắn bó mật thiết với các chặng đường của cuộc đấu

tranh cách mạng. Lí tưởng cách mạng là ngọn nguồn mọi cảm hứng nghệ thuật của Tố

Hữu. Với ông, làm thơ là một hành động cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền, giáo

dục, đấu tranh cho sự thắng lợi của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng, thực tiễn đời sống

cách mạng và những mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng đã chi phối từ

quan niệm nghệ thuật đến đề tài, chủ đề, từ cảm hứng chủ đạo đến nhân vật trữ tình,

cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu.

Thơ Tố Hữu giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm

của ông bám sát đời sống chính trị, cách mạng của đất nước, phản ánh đến những vấn

đề có liên quan đến số phận của dân tộc. Bao trùm tác phẩm của Tố Hữu là cảm hứng

lịch sử dân tộc . Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu thường nhân danh Đảng, dân tộc và

thời đại, nhân vật trữ tình hội tụ những phẩm chất của giai cấp, của cộng đồng. Cùng

với khuynh hướng sử thi, ngòi bút Tố Hữu còn giàu cảm hứng lãng mạn. Đó là tiếng

37

nói ngợi ca, khẳng định lí tưởng, ngợi ca vẻ đẹp cuộc sống mới, niềm tin mãnh liệt vào

ngày chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết cũng là một đặc điểm nổi bật trong thơ

Tố Hữu. Đặc điểm này bắt nguồn từ “ chất Huế” của hồn thơ Tố Hữu và quan niệm

riêng của ông về thơ ca: ông cho rằng, thơ là chuyện đồng điệu của tâm hồn, là tiếng

nói “có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Chất giọng

ấy toát lên từ lối trữ tình trò chuyện, từ những câu thơ như lời thủ thỉ tâm sự, giãy bày,

nhắn nhủ đằm thắm , thiết tha: “ Đồng bào ơi, anh chị em ơi, Bạn đời ơi…”, “ Em ạ,

Cu Ba ngọt lịm đường”, “ Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan…”

Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung cảm xúc và hình thức nghệ

thuật đã mang lại cho thơ Tố Hữu sức rung động lòng người và sức sống lâu bền.

Nhiều tình cảm chính trị là sự tiếp nối , phát huy những truyền thống đạo đức lâu đời

của dân tộc: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nghĩa tình cách mạng thuỷ chung…,

sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền thống đặc biệt là thể lục bát. Ngôn ngữ thơ

giản dị, trong sáng, giàu nhạc điệu, hình ảnh quen thuộc gần gũi với nhân dân.

1.3. Tiểu kết chương 1

Ở chương này, luận văn đã trình bày một số vấn đề tổng quan nghiên cứu và lý

thuyết cơ bản về văn bản như: khái niệm văn bản, khái niệm liên kết và các kiểu liên

kết văn bản, trong đó đặc biệt chú ý phép lặp và phép lặp ngữ pháp.

Phép lặp được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ở góc độ phương tiện liên kết

văn bản và phương tiện tu từ trong văn bản nói chung. Ở văn bản thơ, với những đặc

trưng của nó, việc phân chia các dạng thức của lặp, đặc biệt là lặp ngữ pháp vẫn chưa

thực sự rõ ràng và đầy đủ. Phép lặp ngữ pháp trong văn bản thơ cần được phân biệt với

phép đối và phân chia thành các dạng thức với những tiêu chí cụ thể.

Nhà thơ Tố Hữu - cây đại thụ của thơ ca cách mạng Việt Nam - đã vận dụng

sáng tạo phép lặp ngữ pháp trong các văn bản thơ như một phương tiện vừa có giá trị

liên kết vừa có giá trị nghệ thuật. Việc khảo sát phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu

giúp người đọc có thể tìm hiểu sâu hơn phong cách một nhà thơ lớn.

Qua nghiên cứu tổng quan ở chương 1, luận văn có cơ sở vững chắc về lí luận

và thực tiễn để tìm hiểu cụ thể hơn về phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo

mặt hình thức và chức năng.

38

Chương 2

PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU

VỀ MẶT HÌNH THỨC

2.1. Khái quát về số lượng và các kiểu lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu

Cũng như các phương thức liên kết văn bản nói chung, phương thức lặp trong

đó có lặp ngữ pháp, có thể được xem xét từ các mặt hình thức và nội dung (ý nghĩa,

chức năng…).

Thực tế cho thấy, vấn đề đặc điểm hình thức của phương thức lặp nói chung, lặp

ngữ pháp nói riêng đến nay, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có tính chất

chuyên sâu, đặc biệt là trên cứ liệu văn bản thơ. Trên cứ liệu văn xuôi, phép lặp và lặp

ngữ pháp đã được Trần Ngọc Thêm đề cập một cách tương đối bài bản nhưng tác giả

cũng chỉ mới đề cập ở mức độ khái quát. Chẳng hạn, với lặp ngữ pháp, tác giả cũng

chỉ mới dừng lại ở việc xác định khái niệm và phân biệt 4 kiểu lăp ngữ pháp là lặp đủ,

lặp khác, lặp thiếu và lặp thừa. Đối với văn bản thơ, tác giả hầu như chưa đề cập ngoài

việc xác nhận rằng đây là “dạng thức liên kết văn bản phổ biến trong thơ” [43, tr 101].

Sự khảo sát cho thấy, ngoài những điểm chung với lặp ngữ pháp trong văn xuôi,

lặp ngữ pháp trong thơ không những phổ biến hơn mà còn đa dạng và phức tạp hơn

nhiều, nhất là về mặt hình thức. Vì vậy, nghiên cứu mặt hình thức của lặp ngữ pháp

trong thơ không chỉ giúp làm rõ đặc điểm của lặp ngữ pháp nói chung mà còn góp

phần làm rõ những nét riêng của lặp ngữ pháp trong các loại văn bản khác nhau.

Như đã nói, lặp ngữ pháp trong thơ xét về mặt hình thức rất phức tạp mà việc nghiên

cứu vấn đề này đến nay còn rất ít được chú ý. Do đó, đối với tác giả luận văn, đây là công

việc rất khó khăn. Ở phần dưới đây, khi xem xét cụ thể vấn đề lặp ngữ pháp trong thơ Tố

Hữu xét về mặt hình thức, chúng tôi chỉ cố gắng khảo sát nhằm đưa ra một bức tranh

chung về lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu (về số lượng, kiểu loại, cấu trúc lặp ngữ pháp)

và bước đầu miêu tả đặc điểm hình thức của hiện tượng này, cụ thể sẽ đề cập đến các nội

dung chính sau:

39

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết

ngôn: lặp đủ, lặp khác, lặp thiếu, lặp thừa.

Bảng 2.1: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo đặc điểm cấu trúc

của chủ ngôn và kết ngôn

STT Tên tập thơ Lặp đủ

số lần lặp/tỉ lệ Số lần lặp Tổng số 164 117 Lặp thừa 3 Lặp thiếu 4 Lặp khác 40 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 71,3 1,8 2,4 24,4

Số lần lặp 116 9 5 25 77 2 Việt Bắc Tỉ lệ

Số lần lặp 100% 137 7,8 14 4,3 2 21,6 39 66,4 82 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 10,2 1,5 28,5 59,9

Số lần lặp 129 8 10 34 77 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 59,7 6,2 7,8 26,4

Số lần lặp 43 5 2 19 17 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 39,5 11,6 4,7 44,2

Số lần lặp 44 7 3 4 30 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 68,2 15,9 6,8 9,1

Số lần lặp 3 0 7 23 33 7 Ta với ta 9,1 0,0 21,2 69,7 Tỉ lệ 100%

Số lần lặp 49 26 168 423 666 Cộng 7,4 3,9 25,2 63,5 Tỉ lệ 100%

Nhận xét: Cấu trúc câu là một trong các bình diện của hình thức thơ. Khi

phân loại mô hình câu trong thơ Tố Hữu, tác giả luận văn nhận thấy, lặp ngữ pháp

có mặt ở hầu hết các tập thơ của ông. Đặc biệt là ở những tập thơ được sáng tác

trong thời kì kháng chiến. Theo đó, bốn tập thơ đầu ( Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng,

Ra trận) có tới 82% tổng số lượt lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu. Lặp đủ chiếm tỷ

lệ lớn (63.5%) so với lặp khác, lặp thừa, lặp thiếu. Điều này lí giải vì sao thơ Tố

Hữu dễ đọc, dễ nhớ, giàu nhạc điệu và chứa đựng nội dung tư tưởng phong phú.

40

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo khối lượng (độ lớn) của chủ ngôn và

kết ngôn: lặp dòng thơ và lặp khổ thơ.

Bảng 2.2: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo khối lượng (độ lớn)

của chủ ngôn và kết ngôn

stt Tên tập thơ số lần /tỉ lệ Tổng số Lặp dòng thơ Lặp nhiều dòng thơ

Số lần lặp 164 147 17 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 89,6% 10,4%

Số lần lặp 116 91 25 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 78,4% 21,6%

Số lần lặp 137 121 16 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 88,3% 11,7%

Số lần lặp 129 111 18 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 86% 14%

Số lần lặp 43 36 7 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 83,7% 16,3%

Số lần lặp 44 37 7 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 84,1% 15,9%

Số lần lặp 33 31 2 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 93,9% 6,1%

Số lần lặp 666 574 92 Cộng Tỉ lệ 100% 86,2% 13,8%

Nhận xét: Qua khảo sát, thống kê lặp ngữ pháp ở bảy tập thơ của Tố Hữu, ta thấy

sự lặp lại cấu trúc ở đơn vị là dòng thơ là chủ yếu (574/666 trường hợp). Tác dụng của

nó là tạo ra được sự đa dạng trong cách biểu hiện nội dung mà vẫn có sự thống nhất

cao về chủ đề cho tác phẩm. Lặp nhiều dòng thơ chỉ chiếm 92/666 trường hợp, chủ

yếu thể hiện ở những điệp khúc, tạo ra âm hưởng, tiết tấu như bản trường ca.

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo sự có mặt/ vắng mặt của các từ ngữ

trong chủ ngôn và kết ngôn: lặp hoàn toàn (lặp nguyên văn) và lặp không hoàn toàn

(lặp không nguyên văn hay lặp có biến đổi).

41

Bảng 2.3: Thống kê các kiểu lặp xét theo sự có mặt/ vắng mặt

stt

Tên tập thơ

số lần /tỉ lệ

Tổng số

Lặp nguyên văn

Lặp có biến đổi

Số lần lặp

của các từ ngữ trong chủ ngôn và kết ngôn

146

164

18

1

Từ ấy

89,0%

Tỉ lệ

100%

11,0%

Số lần lặp

112

116

4

2

Việt Bắc

96,6%

Tỉ lệ

100%

3,4%

Số lần lặp

130

137

7

3

Gió lộng

94,9%

Tỉ lệ

100%

5,1%

Số lần lặp

125

129

4

4

Ra trận

96,9%

Tỉ lệ

100%

3,1%

Số lần lặp

43

0

43

5 Máu và hoa

Tỉ lệ

100%

0%

100%

Số lần lặp

42

2

44

6 Một tiếng đờn

Tỉ lệ

100%

4,5%

95,5%

Số lần lặp

31

2

33

7

Ta với ta

93,9%

Tỉ lệ

100%

6,1%

Số lần lặp

629

666

37

Cộng

94,4%

Tỉ lệ

100%

5,6%

Nhận xét: Trên những cấu trúc câu được lặp lại, tác giả biến đổi từ ngữ để tạo ra

những nội dung phong phú. Theo đó, số lượng lặp ngữ pháp có biến đổi chiếm tỷ lệ

gần như tuyệt đối (94.4%). Việc lặp lại nguyên văn vừa có tác dụng nhấn mạnh, vừa

tạo ra được sự cân đối cũng được tác giả chú ý sử dụng ở một số bài thơ.

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo tính chất của phương thức lặp: lặp

thuần ngữ pháp và lặp ngữ pháp kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm.

42

Chỉ lặp

Lặp ngữ pháp kết hợp với lặp

Tổng

stt

Tên tập thơ

số lần/tỉ lệ

từ

ngữ âm

số

ngữ pháp

ngữ âm

vựng

và từ vựng

Số lần lặp

Bảng 2.4: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo tính chất của phương thức lặp

164

6

38

120

0

1

Từ ấy

Tỉ lệ

100%

0,0%

3,7%

23,2%

73,2%

Số lần lặp

116

17

15

80

4

2

Việt Bắc

Tỉ lệ

100%

3,4%

14,7%

12,9%

69,0%

Số lần lặp

137

15

29

86

7

3

Gió lộng

Tỉ lệ

100%

5,1%

10,9%

21,2%

62,8%

Số lần lặp

129

5

43

76

5

4

Ra trận

Tỉ lệ

100%

3,9%

3,9%

33,3%

58,9%

Số lần lặp

43

11

6

21

5

5 Máu và hoa

Tỉ lệ

100%

11,6%

25,6%

14,0%

48,8%

Số lần lặp

44

6

12

24

2

6 Một tiếng đờn

Tỉ lệ

100%

4,5%

13,6%

27,3%

54,5%

Số lần lặp

33

0

16

16

1

7

Ta với ta

Tỉ lệ

100%

3,0%

0,0%

48,5%

48,5%

Số lần lặp

666

24

60

159

423

Cộng

Tỉ lệ

100%

3,6%

9,0%

23,9%

63,5%

Nhận xét:. Trong thơ, yếu tố vần và nhịp vô cùng quan trọng. Vì vậy, lặp ngữ

pháp có sự kết hợp với lặp ngữ âm và từ vựng rất phổ biến. Việc lặp đơn thuần cấu

trúc ngữ pháp chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ (24 trường hợp). Điều này chứng minh

được sự khác biệt của việc lặp ngữ pháp trong thơ và trong văn xuôi.

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo số lần lặp: lặp một lần (lặp đơn) và lặp

nhiều lần (lặp phức).

43

Bảng 2.5: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo số lần lặp

Lặp phức Lặp STT Tên tập thơ số lần/tỉ lệ Tổng số đơn 2 lần 3 lần 4 lần 5 lần

Số lần lặp 2 134 164 27 1 0 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 81,7% 16,5% 1,2% 0,0% 0,6%

Số lần lặp 4 116 99 9 1 3 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 85% 8% 3% 3% 1%

Số lần lặp 9 137 117 11 0 0 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 85,4% 8,0% 6,6% 0,0% 0,0%

Số lần lặp 3 129 114 11 0 1 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 88,4% 8,5% 2,3% 0,8% 0,0%

Số lần lặp 1 43 37 4 0 1 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 86,0% 9,3% 2,3% 2,3% 0,0%

Số lần lặp 2 44 41 1 0 0 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 93,2% 2,3% 4,5% 0,0% 0,0%

Số lần lặp 3 33 25 4 1 0 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 75,8% 12,1% 9,1% 0,0% 3,0%

Số lần lặp 666 567 67 24 3 5 Cộng Tỉ lệ 100% 85,1% 10,1% 3,6% 0,8% 0,5%

Nhận xét: Sự linh hoạt trong sử dụng phép lặp ngữ pháp của Tố Hữu không chỉ

thể hiện ở số lượng kiểu lặp mà còn thấy ở số lần lặp. Theo đó, kiểu lặp đơn xuất hiện

với tần số rất lớn (85.1%) và có thể xuất hiện nhiều lần trong một bài thơ. Lặp phức ít

xuất hiện và chỉ gặp ở một số bài thơ có tính chất tự sự.

- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp

liền và lặp cách.

44

Bảng 2.6: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn

stt Tên tập thơ số lần /tỉ lệ Tổng số Lặp liền Lặp cách

Số lần lặp 164 99 65 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 60,4% 39,6%

Số lần lặp 116 94 22 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 81,0% 19,0%

Số lần lặp 137 107 30 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 78,1% 21,9%

Số lần lặp 129 96 33 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 74,4% 25,6%

Số lần lặp 43 36 7 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 83,7% 16,3%

Số lần lặp 44 35 9 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 79,5% 20,5%

Số lần lặp 33 27 6 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 81,8% 81,8%

Số lần lặp 666 494 172 Cộng Tỉ lệ 100% 74,2% 25,8%

Nhận xét: Vị trí của cấu trúc lặp cũng là một yếu tố để thể hiện sự liên kết, nhấn

mạnh và phát triển nội dung tác phẩm. Lặp liền đã phát huy tối đa các chức năng đó.

Tác giả đã sử dụng tới 494 số lần lặp liền (chiếm 74.2%). Đây là con số có thể khẳng

định được sự phong phú về ý tưởng và nội dung trong thơ Tố Hữu.

Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các kiểu lặp ngữ pháp được phân loại

theo các tiêu chí vừa nêu.

2.2. Lặp dòng thơ

2.2.1. Nhận xét chung

Như đã trình bày ở trên, khi phân loại lặp ngữ pháp trong văn bản thơ theo khối

lượng (độ lớn) của chủ ngôn và kết ngôn, ta sẽ được kiểu lặp dòng thơ (chủ ngôn và

kết ngôn có tổ chức là một dòng thơ) và kiểu lặp khổ thơ (chủ ngôn và kết ngôn có cấu

tạo là bộ phận khổ thơ và khổ thơ). Trong hai kiểu lặp ngữ pháp này, kiểu lặp dòng thơ

45

chiếm ưu thế gần như tuyệt đối (574/666 trường hợp, chiếm 86,2%). Lặp dòng thơ

không chỉ có số lượng lớn mà còn rất đa dạng và phức tạp về cấu tạo. Vì vậy, có thể chia

kiểu lặp này thành những kiểu dạng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, theo đặc điểm cấu trúc

của chủ ngôn và kết ngôn, có thể chia lặp dòng thơ thành lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa, lặp

khác. Mỗi kiểu cụ thể này, đến lượt mình, lại được chia tiếp thành những dạng chi tiết

hơn. Chẳng hạn, lặp đủ dòng thơ có thể chia thành lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp

không hoàn toàn (có biến đổi từ ngữ cụ thể); lặp một lần và lặp nhiều lần; lặp liền và lặp

cách. Với các kiểu lặp dòng thơ còn lại như lặp thiếu, lặp thừa, lặp khác cũng có thể chia

tiếp thành các dạng cụ thể căn cứ vào đặc điểm chức năng, cấu tạo của các bộ phận thiếu,

thừa hay khác trong cấu trúc của kết ngôn.

Bảng 2.7: Lặp dòng thơ

Theo cấu trúc Theo số lần Theo vị trí Theo sự có mặt của từ ngữ Tập thơ

Lặp khác Lặp thừa Lặp thiếu Lặp phức Lặp liền Lặp cách Nguyên văn Lặp đủ Lặp đơn Biến đổi

Từ ấy 102 119 38 3 4 28 93 54 7 140

Việt Bắc 62 78 16 9 4 13 71 20 3 88

Gió lộng 69 104 36 14 2 17 99 22 4 117

Ra trận 66 96 28 8 9 15 83 28 3 108

Máu và hoa 14 31 16 4 2 5 30 6 0 36

Một tiếng đờn 25 35 3 6 3 2 30 7 2 35

Ta với ta 22 24 6 3 0 7 26 5 1 30

554 143 360 432 142 487 24 87 47 20

Tổng Việc miêu tả chi tiết đặc điểm hình thức của lặp dòng thơ là vấn đề thú vị nhưng

cũng rất phức tạp, khó khăn. Trong luận văn này, chúng tôi mới chỉ có thể bước dầu

đưa ra được sự phân tích, miêu tả khái quát về kiểu lặp dòng thơ (trên cứ liệu thơ Tố

Hữu) với mong muốn góp phần làm rõ hơn về lặp ngữ pháp trong văn bản nói chung

và lặp ngữ pháp trong văn bản thơ, một kiểu văn bản đặc thù, nói riêng.

Dưới đây chúng ta sẽ xem xét các kiểu dạng chính của lặp dòng thơ với tư cách

là một kiểu lặp ngữ pháp.

46

2.2.2. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn: Lặp đủ, lặp thừa, lặp thiếu, lặp khác 2.2.2.1. Lặp dòng thơ: lặp đủ

Lặp đủ, như đã được xác định là lặp toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn (dòng thơ trước) và kết ngôn (dòng thơ sau). Lặp đủ trong thơ Tố Hữu rất phổ biến và có thể chia thành hai dạng chính: Lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp không hoàn toàn (có thay đổi).

a) Lặp hoàn toàn: Ở kiểu lặp dòng thơ, lặp hoàn toàn là sự lặp lại ở kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn đồng thời với sự lặp lại tất cả các từ ngữ (thực từ) có mặt ở chủ ngôn (dòng trước). Có thể coi đây là dạng tập trung nhất của phương thức lặp, vì ở đây có sự hội tụ cả lặp ngữ pháp (cấu trúc) với lặp từ vựng (các thực từ) và lặp ngữ âm (số lượng tiếng).

Kết quả thống kê cho thấy lặp hoàn toàn hay nguyên văn dòng thơ không phổ biến (chỉ có khoảng trên 10 trường hợp). Xét theo số tiếng ở dòng thơ, dạng này bao gồm các dạng cụ thể sau:

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 2: dạng này rất hiếm. Ví dụ:

Vì sao? Vì sao? Những người mẹ kia gào.

(Tòa án Mĩ)

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 3. Ví dụ:

Tiếng chổi tre Xao xác hàng me Tiếng chổi tre Chị quét

(Tiếng chổi tre)

Chị lao công Như sắt như đồng Chị lao công Đêm đông quét rác

(Tiếng chổi tre)

Túp lều con Tuyết phủ … Túp lều con Như chiếc tổ

(Lều cỏ Lênin)

47

A tiếng hát Của các em … Lắng nghe tiếng hát Của các em

(Đêm xanh)

Hồ Chí Minh Người lính già … Hồ Chí Minh Người đã quyết

(Hồ Chí Minh)

Nhân danh ai? Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài … Nhân danh ai? bay đưa ta đến những rừng dày

(Ê-mi-ly con)

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 4. Ví dụ:

Voi là voi ơi Voi yêu voi quý … Voi là voi ơi Voi đi đánh nhé (Voi)

Trên dòng Hương Giang (dòng đầu) … Trên dòng Hương Giang (dòng cuối)

(Tiếng hát Sông Hương)

Chuông nhà thờ đổ Mỗi buổi hoàng hôn … Chuông nhà thờ đổ Tiếng đồng ngân nga

(Tiếng chuông nhà thờ)

48

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 5 Ví dụ:

Em ơi em cứ đợi Dù tuyết rơi gió thổi … Em ơi em cứ đợi Dù ai thương nhớ ai

(Đợi anh về)

Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!

(Hãy nhớ lấy lời tôi)

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 6. Ví dụ:

Ly Quê trên súng thần công Xinh xinh như một tiên đồng Bồng Lai … Ly Quê trên súng thần công Nghe con chim hót trong lồng tim xanh... (Tiếng sáo Ly Quê)

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 7. Ví dụ:

Hỡi những con khôn của giống nòi Những chàng trai quý gái yêu ơi … Hỡi những con khôn của giống nòi Đã từng đau tự thủa trong nôi

(Dậy lên thanh niên)

+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 8. Ví dụ:

Anh nghiến chặt hai hàm răng lẩm bẩm Đau cái bụng, ui chu choa, tức lắm! … Tôi còn nghe tiếng nói của Châu Ro: Đau cái bụng, ui chu choa, tức lắm!

(Châu Ro)

49

b) Lặp không hoàn toàn (Lặp có sự biến đổi từ ngữ)

Trong kiểu lặp đủ dòng thơ, lặp không hoàn toàn là dạng lặp phổ biến hơn hẳn so

với dạng lặp hoàn toàn vừa được xem xét trên đây.

Theo kết quả thống kê (xem bảng 7), trong số 360 trường hợp lặp đủ dòng thơ thì

có đến 340 trường hợp lặp không hoàn toàn (tức là lặp có biến đổi thành phần từ ngữ),

chiếm 94,4%. Đặc điểm chung của dạng lặp không hoàn toàn dòng thơ là mặc dù kết

ngôn vẫn giữ lại cấu trúc đầy đủ của chủ ngôn nhưng thành phần từ ngữ ở kết ngôn đã

có sự thay đổi. Sự thay đổi đó có thể là thay đổi một phần từ ngữ hoặc thay đổi hoàn

toàn thành phần từ vựng. Xét theo tính chất, mức độ của sự thay đổi thành phần từ ngữ ở

kết ngôn, có thể phân biệt các dạng sau đây của lặp không hoàn toàn dòng thơ:

- Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi một bộ phận từ ngữ.

Bộ phận từ ngữ thay đổi ở dạng lặp này rất đa dạng, phức tạp. Đó có thể là sự thay

đổi chỉ ở một từ ngữ hay một thành phần câu nhưng đó cũng có thể là thay đổi từ ngữ cả

bộ phận nòng cốt (chủ ngữ, vị ngữ) của câu. Vì không có điều kiện miêu tả chi tiết tất cả

các dạng cụ thể của sự thay đổi từ ngữ ở kiểu lặp không hoàn toàn dòng thơ nên ở đây,

chúng tôi chỉ xin nêu một vài thí dụ về những dạng cụ thể thường gặp về kiểu lặp này.

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở vị ngữ.

Ví dụ:

Các bà đã từng trải

Các bà đã từng trông

(Tình thương với chiến tranh)

Con chim non rũ cánh

Con chim non chíu chít

(Mồ côi)

Hay má lẫn quên vì tuổi tác

Hay má liều một thác cho yên

( Bà má Hậu Giang)

Mà hôm nay Mã tướng run toàn thân

Mà hôm nay Mã tướng chết hai phần

( Ly rượu thọ)

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở chủ ngữ.

50

Trường hợp này tương đối hiếm so với các trường hợp khác.

Ví dụ:

Trời không của chúng bay

Đạn ta rào lưới sắt!

Đất không của chúng bay

Đai sắt ta siết chặt

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở bổ ngữ.

Ví dụ:

Nghe không ngươi huyết chảy

Nghe không người lời van

(Đông Kinh nhuộm máu)

Ai cản được mùa xuân xanh tươi sáng

Ai cản được những đoàn chim quyết thắng

(Xuân đến)

Ai đâu giam cấm được hồn ta

Ai đâu giam cấm được lời ca

(14 tháng 7)

Này hãy nghe cả lâu đài xã hội

Này hãy nghe cả một thời đang hấp hối

(Tháp đổ)

Không sợ gian nan

Không sợ thần linh

(Trước Kremlin)

Nhớ những mắt ngây thơ nhìn bỡ ngỡ

Nhớ những lời mong ước tỏa lên không

( Nhớ người)

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở trạng ngữ.

Ví dụ:

Sáo kêu vi vút trên không

Sáo kêu réo rắt xa gần

( Tiếng sáo Ly Quê)

51

Tôi sẽ chết bình yên, không hối hận

Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận

( Trăng trối)

Sống trào sinh lực bốc men say

Sống tung sóng gió thanh cao mới

(Đi)

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở định ngữ.

Ví dụ:

Hỡi những bà mẹ hiền

Hỡi những bà đáng kính

( Tình thương với chiến tranh)

Những hồn quen dãi gió dầm mưa

Những hồn chất phác hiền như đất

(Nhớ đồng)

Dậy lên hỡi những linh hồn thép

Dậy lên hỡi những linh hồn trẻ

(Dậy lên thanh niên)

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở cụm chủ vị nòng cốt.

Ở dạng lặp này, cụm củ vị trong dòng thơ bị thay đổi về thành phần từ ngữ và

phần từ ngữ được giữ lại chỉ giữ vai trò thành phần phụ nào đó.

Ví dụ:

Có lành đâu vết thương đầy oán hận

Có tan đâu khi uất tự bao giờ

(Tháp đổ)

Ở ví dụ vừa dẫn, chủ ngữ (vết thương đầy oán hận , khi uất tự bao giờ ) và vị

ngữ (lành, tan ) đã có sự thay đổi. Cái được giữ lại chỉ là các từ có, đâu.

Vai ta vai sắt

Chân ta chân đồng

(Voi)

Hồn ta cháy sáng ngời trên ngọn đuốc

Lòng ta múa lồng lên theo đám rước

(Vui bất tuyệt)

52

Ở ví dụ trên đây, chủ ngữ và vị ngữ ở kết ngôn đều có sự thay đổi thành phần các

từ ngữ so với chủ ngôn. Cái được giữ lại ở đây chỉ là định ngữ (ta)

- Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ từ ngữ (là thực từ).

Ở lặp không hoàn toàn dòng thơ thuộc dạng này, cái được giữ lại ở kết ngôn chỉ là

cấu trúc (đầy đủ) ở chủ ngôn và trong một số trường hợp có thể có sự giữ lại một hay một

vài hư từ. Dạng lặp không hoàn toàn này cũng khá phổ biến và có những kiểu cụ thể sau:

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ thành phần từ ngữ.

Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của chủ ngôn được giữ lại ở kết ngôn.

Ví dụ:

Hì hà hì hục

Lục cục lào cào

(Phá đường)

Cha trốn Hòn Gai cuốc mỏ

Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Tiền tuyến ra sức tiến công

Hậu phương dốc lòng chi viện

(Bài ca xuân 71)

Dân có ruộng dập dìu hợp tác

Lúa mượt đồng ấm áp làng quê

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Ở những ví dụ trên đây, tất cả các từ ngữ ở kết ngôn (dòng sau) đều có sự thay

đổi so với chủ ngôn (dòng trước). Tuy nhiên, cấu trúc của kết ngôn có sự lặp lại cấu

trúc ở chủ ngôn.

+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ thành phần từ vựng (các

thực từ).

Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của chủ ngôn và trong một số trường hợp, một hay

một số hư từ đồng thời được giữ lại. Các hư từ được giữ lại có thể là phó từ hoặc quan

hệ từ.

53

Ví dụ:

Con chim non không tổ

Trẻ mồ côi không nhà

( Hai đứa bé)

Càng khua sầu tủi

Càng rung oán hờn

(Tiếng chuông nhà thờ)

Lá xanh không mát dạ khô vàng

Hoa thơm không át mùi xương máu

(Xuân nhân loại)

Cũng mùi lưng khét quen mưa nắng

Cũng những lời quê ý thiệt thà

( Tương thân)

Trong các ví dụ trên đây, yếu tố được giữ lại ở kết ngôn là cấu trúc và các phó từ

( không, càng, cũng), còn các thực từ đều thay đổi.

Trong các ví dụ được dẫn dưới dây, ta sẽ có lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự

thay đổi toàn bộ các thực từ và phần được giữ lại chỉ là cấu trúc của dòng thơ và các

quan hệ từ ( mà, và, dù, cho)

Ví dụ:

Mà lòng bớt khổ

Mà môi nở cười

(Tiếng chuông nhà thờ đổ)

Và vạn anh hùng trên gió mây

Và nghìn thế hệ tới sau đây

(Đi)

Cây dù gượng lại ngày xuân cũ

Tháp dù mong hàn lại vết sương phong

( Tháp đổ)

Cho Việt Nam độc lập

Cho thế giới hòa bình

( Hồ Chí Minh)

54

2.2.2.2. Lặp dòng thơ: lặp thiếu

Lặp thiếu, như đã xác định ở mục cơ sở lí thuyết, là dạng lặp theo đó, một trong

những thành phần thuộc cấu trúc của chủ ngôn (dòng trước) không được lặp lại ở kết

ngôn (dòng sau). Kiểu lặp này cũng khá phổ biến.

Xét theo thành phần không được lặp lại hay thiếu vắng, có thể xác định các kiểu

lặp thiếu thường gặp sau:

a) Lặp thiếu vị ngữ

Ví dụ:

Cũng yêu nước, yêu nhà

Cũng giận loài quân phiệt

(Tình thương với chiến tranh)

Mỗi góc núi xây thành chiến lũy

Mỗi đầu thôn thành một pháo đài

(Vinh quang Tổ quốc chúng ta)

Trong ví dụ thứ nhất, thành phần thiếu ở kết ngôn là vị ngữ (yêu nhà) là vị ngữ

đồng loại (có ở chủ ngôn). Trong ví dụ thứ hai, thànhphần thiếu ở kết ngôn là vị ngữ

(xây) có mặt ở chủ ngôn.

b) Lặp thiếu chủ ngữ

Ví dụ:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

(Từ ấy)

Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh

Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy

(Có thể nào yên)

Sóng hãy gầm lên nén xót đau

Hãy lau ráo lệ ngẩng cao đầu

(Theo chân Bác)

Trong các ví dụ trên đây, ở kết ngôn đều có sự thiếu vắng thành phần chủ ngữ mà

ở chủ ngôn đều có (các chủ ngữ ở chủ ngôn lần lượt là tôi, tôi, sóng)

55

c) Lặp thiếu thành phần bổ ngữ

Ví dụ:

Không giết được Anh

Không giết được

(Nhớ về Anh)

Mình về mình có nhớ ta

Mình về mình có nhớ không?

(Việt Bắc)

Ở ví dụ thứ nhất, thiếu bổ ngữ ở sau động từ “giết”, còn ở ví dụ thứ hai thiếu bổ

ngữ “ta” ở sau động từ “nhớ”.

d) Lặp thiếu trạng ngữ

Ví dụ:

Tôi sẽ chết bình yên không hối hận

Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận

(Trăng trối)

Hãy nghe tự miền Nam tiếng rú

Hãy nghe tiếng những người đang sống

(Miền Nam)

Vì độc lập tự do, núi sông hùng vĩ

Vì thiêng liêng giá trị con người

(Chào xuân 68)

Trong ví dụ thứ nhất và thứ ba, ở kết ngôn lặp thiếu trạng ngữ đồng loại có ở chủ

ngôn (không hối hận, tự do, núi sông hùng vĩ). Trong ví dụ thứ hai, ở kết ngôn không có

sự lặp lại trạng ngữ chỉ vị trí có ở chủ ngôn (tự miền Nam).

2.2.2.3. Lặp dòng thơ: lặp thừa

Đây là kiểu lặp mà ngoài việc lặp lại ở kết ngôn tất cả các thành phần ở chủ

ngôn, còn có sự xuất hiện ở kết ngôn một thành phần nào đó không có ở chủ ngôn.

Xét theo đặc điểm chức năng của thành phần “thừa ra” ở kết ngôn, có thể phân

biệt các dạng lặp thừa sau:

a) Lặp thừa vị ngữ.

56

Ví dụ:

Áo nâu liền với áo xanh

Nông thông liền với thị thành đứng lên

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Ở ví dụ này, “đứng lên” là vị ngữ “thừa ra”.

b) Lặp thừa chủ ngữ.

Ví dụ:

Bầm yêu con yêu luôn đồng chí

Bầm quý con, bầm quý anh em

(Bầm ơi)

Cha làm súng và đi liênlạc

Mẹ cùng anh nướng bánh đưa đường

(Lều cỏ Lê Nin)

Ở các ví dụ này, chủ ngữ (bầm, anh) ở kết ngôn không có sự tương ứng với chủ ngữ

(đồng loại) nào ở chủ ngôn và các chủ ngữ đó là kết quả của lặp thừa.

c) Lặp thừa bổ ngữ.

Ví dụ:

Ai vô Phan Rang, Phan Thiết

Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc

(Ta đi tới)

Chủ ngôn ở ví dụ trên đây có hai bổ ngữ đồng loại (có quan hệ đẳng lập) nhưng

kết ngôn lại có ba bổ ngữ đồng loại và là bổ ngữ thứ ba (Đắc Lắc) có thể coi là kết quả

của sự lặp thừa.

d) Lặp thừa trạng ngữ.

Ví dụ:

Tôi đã khô như cây sậy bên đường

Tôi đã chết, lặng im, như con chim không bao giờ được hót

(Một nhành xuân)

Núi rừng có điện thay sao

Nông thôn có máy làm trâu thay người

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

57

Ở ví dụ thứ nhất trên đây, trạng ngữ chỉ tính chất (lặng im) ở kết ngôn là kết quả

của sự lặp thừa (vì ở chủ ngôn chỉ có một trạng ngữ chỉ sự so sánh). Ở ví dụ thứ hai,

trạng ngữ chỉ mục đích (làm trâu) ở kết ngôn cũng là kết quả của sự “lặp thừa”.

d) Lặp thừa định ngữ.

Ví dụ:

Sáo kêu vi vút trên không

Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân

(Tiếng sáo Ly Quê)

Đảng ta muôn vạn công nông

Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Lòng ta chung một thủ đô

Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam

(Ta đi tới)

Trong các ví dụ trên đây, các thành phần “thừa ra” ở kết ngôn là định ngữ (Hồng

quân, niềm tin, Việt Nam).

Khi khảo sát hiện tượng lặp thừa, có thể thấy có nhiều nhân tố khác nhau chi

phối hiện tượng này. Đây là vấn đề thú vị nhưng cũng là vấn đề khá phức tạp. Ở đây,

có thể nêu một trong những nhân tố chi phối lặp thừa đó là luật tổ chức dòng thơ theo

yêu cầu đảm bảo sự hài hòa âm thanh (vần điệu). Chẳng hạn, với thể thơ lục bát, trong

nhiều trường hợp, yếu tố lặp thừa thường rơi vào dòng bát, cụ thể là thường rơi vào

các tiếng ở cuối dòng (hay giữa dòng).

Ví dụ:

Đàn tép mà ép biển khơi?

Quạ đen mà chiếm mặt trời được chăng?

(Vinh quang Tổ quốc chúng ta)

Đã nghe nước chảy lên non

Đã nghe núi chuyển thành con sông dài

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Đảng ta muôn vạn công nông

Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

58

Trong các ví dụ trên đây, các yếu tố tạo nên lặp thừa chủ yếu rơi vào cuối dòng

sau (kết ngôn).

Cũng có trường hợp để đảm bảo sự phân bố phù hợp số tiếng trong dòng thơ lục

bát, các yếu tố tạo nên sự “lặp thừa” rơi vào giữa dòng thơ.

Ví dụ:

Trăm sông về một biển Đông

Bắc Nam rồi sẽ về trong một nhà

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Ở trường hợp này, yếu tố tạo nên “lặp thừa” là “rồi sẽ” nằm ở gữa dòng thơ.

2.2.2.4. Lặp dòng thơ: lặp khác

Như đã xác định ở mục cơ sở lí thuyết, lặp khác là kiểu lặp theo đó, chỉ một bộ phận

cấu trúc của chủ ngôn (bộ phận này “phải đủ lớn và là bộ phận chủ yếu”) [40, tr 96] được

lặp lại ở kết ngôn. Phần còn lại ở chủ ngôn và kết ngôn có sự khác nhau về cấu trúc. Như

vậy, ở lặp khác, cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn có sự giao nhau (với một bộ phận chủ

yếu là chung và bộ phận thứ yếu khác nhau). Cũng như các kiểu lặp thiếu và lặp thừa, lặp

khác khá phổ biến.

Ví dụ:

Tôi ôm lấy nó

Tôi kể trước sau

(Bà mẹ Việt Bắc)

Chị em ta bay căng thịt lõa lồ

Con em ta bay quẳng chân vào lửa

(Bắn)

Sống đã vì cách mạng anh em ta

Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà

(Trăng trối )

Giặc trước mặt phải xông vào mà giết

Thù sau lưng phải triệt chẳng tha

(Vinh quang Tổ quốc chúng ta )

Hồn kêu trên mái muôn nhà

Hồn kêu trai gái trẻ già đứng lên

(Chị là người mẹ)

59

Ở ví dụ thứ nhất, bộ phận chủ yếu giống nhau là cụm chủ vị (Tôi ôm…, Tôi kể…)

với vị ngữ đều là ngoại động từ (ôm, kể); còn bộ phận khác là bổ ngữ “nó”

(ở chủ ngôn) và trạng ngữ “trước sau” (ở kết ngôn).

Ở ví dụ thứ hai, bộ phận chủ yếu giống nhau là cụm chủ vị kèm theo định ngữ “chị

em ta”, “con em ta” (có quan niệm coi đây là bổ ngữ) được đảo lên phía trước; còn bộ

phận khác là “lõa lồ” (trạng ngữ chỉ tính chất) và “vào lửa” (bổ ngữ chỉ hướng đích).

Ở ví dụ thứ ba, bộ phận cơ bản giống nhau là bộ phận vị ngữ (gồm vị ngữ “sống

chết” và trạng ngữ “vì cách mạng”), còn bộ phận khác nhau là chủ ngữ biệt lập “anh

em ta” có ở chủ ngôn và vị ngữ đồng loại “chẳng phiền hà” có ở kết ngôn.

Ở ví dụ thứ tư, bộ phận chủ yếu giống nhau gồm vị ngữ “phải xông vào mà giết”,

“phải triệt chẳng tha” và bổ ngữ đảo “ giặc trước mặt”, “thù sau lưng”; Còn bộ phận

khác nhau là ở chính cấu trúc nội bộ của bộ phận vị ngữ (ở chủ ngôn, bộ phận vị ngữ

gồm “phải xông” + “mà giết” là cấu trúc có dạng vị ngữ + trạng ngữ mục đích; Còn ở

kết ngôn, bộ phận vị ngữ lại có dạng cấu trúc đẳng lập: phải triệt, chẳng tha).

Ở ví dụ thứ năm, bộ phận chủ yếu giống nhau về cấu trúc đều là cụm chủ vị “hồn

kêu” , còn bộ phận khác nhau là trạng ngữ “trên mái muôn nhà” và bổ ngữ “trai gái

trẻ già đứng lên”.

2.2.3. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn: lặp

cân và lặp lệch

Khi xem xét tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn, người ta đựa trước hết vào

độ dài của chủ ngôn và kết ngôn xét theo số tiếng (âm tiết) [43,tr 95]. Theo tiêu chí

này những trường hợp chủ ngôn và kết ngôn có cùng số lượng tiếng sẽ được xếp vào

lặp cân, những trường hợp còn lại là lặp lệch. Đối với lặp cân, còn có thể chia tiếp

thành lặp đối xứng và phi đối xứng. Lặp đối xứng là kiểu lặp phù hợp với biện pháp

nghệ thuật đối ngẫu thường được dùng trong thơ văn (hai vế đối nhau về số tiếng, từ

loại, về ý tứ). Lặp cân phi đối xứng là dạng lặp chỉ đơn thuần có sự giống nhau về số

tiếng giữa chủ ngôn và kết ngôn.

2.2.3.1. Lặp cân

Đây là dạng lặp rất phổ biến. Ở dạng lặp này chủ ngôn và kết ngôn luôn có cùng

số lượng tiếng. Tuy nhiên khác với lặp hoàn toàn hay lặp nguyên văn, ở dạng lặp này,

các từ ngữ có thể là khác nhau . Sau đây là một số dạng lặp cân.

60

a) Trước hết xét theo số tiếng trong dòng thơ, có thể chia lặp cân thành:

- Lặp cân với dòng thơ 2 tiếng

Ví dụ:

Tiếng hát của các em

Êm êm

Thanh thanh

(Đêm xanh )

Chị lao công

Như sắt

Như đồng

(Tiếng chổi tre )

- Lặp cân với dòng thơ 3 tiếng

Ví dụ:

Trời trong veo

Nước trong veo

(Tiếng hát sông Hương)

- Lặp cân với dòng thơ 4 tiếng

Ví dụ:

Nó tung bát đĩa

Nó đập héc vài

(Bà mẹ Việt Bắc )

Ta đi lên đèo

Ta leo lên dốc

(Voi )

- Lặp cân với dòng thơ 5 tiếng

Ví dụ:

Mỗi khu vườn, góc phố

Mỗi ô ruộng, đường quê

(Giết giặc)

61

- Lặp cân với dòng thơ 6 tiếng

Ví dụ:

Lòng ta chung một cụ Hồ

Lòng ta chung một thủ đô

(Ta đi tới )

- Lặp cân với dòng thơ 7 tiếng

Ví dụ:

Chết dưới chân bay vạn bẫy cài

Chết xuống đầu bay từng hốc núi

(Quê mẹ )

- Lặp cân với dòng thơ 8 tiếng

Ví dụ:

Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt

Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt

(Người con gái Việt Nam)

b) Xét theo mức độ cân đối, lặp cân có thể được chia nhỏ thành lặp cân với sự

đối xứng (lặp = đối hay đối ngẫu) và lặp cân với sự phi đối xứng (giữa hai vế không có

sự đối xứng hay đối ngẫu). Dạng thứ nhất có thể gọi là lặp cân đối xứng hay đơn giản

là lặp đối xứng; còn dạng thứ hai có thể gọi là lặp cân phi đối xứng hay đơn giản là

lặp phi đối xứng.

- Lặp đối xứng

Ở dạng này, lặp cân gồm hai vế (là chủ ngôn và kết ngôn) có sự tương ứng hay

đối xứng với nhau về số tiếng, về từ loại, về âm thanh và cả về ý; tức là đáp ứng đầy

đủ các tiêu chí về đối ngẫu. Dạng này không phổ biến lắm. Dưới đây là một vài ví dụ:

Cha trốn con ra Hòn Gai cuốc mỏ

Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Xe tăng, đại bác gầm rung đá

Thần sấm, con ma xé nát trời

(Theo chân Bác )

Trống Xô Viết rung trời cách mạng

Cờ búa liềm đỏ đất Hồng Lam

(Theo chân Bác)

62

Tiền tuyến ra sức tiến công

Hậu phương dốc lòng chi viện

(Bài ca xuân 71)

Chặt Buôn Mê Thuật, rụng cả Tây Nguyên Quét Huế -Thừa Thiên, đổ nhà Đà nẵng (Toàn thắng về ta )

Như các ví dụ cho thấy, chủ ngôn và kết ngôn tạo thành các vế có sự cân chỉnh

với nhau, đối xứng với nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa.

- Lặp cân phi đối xứng Ví dụ:

Rạo rực muôn màu sắc Náo nức muôn bàn chân

(Trên miền Bắc mùa xuân)

Vui sao tiếng nước trên đồng cạn

Vui sao tiếng hát trên đồng bừa

(Trên miền Bắc mùa xuân)

Chân toạc máu, chân dồn đuổi giặc

Tay chém thù, tay sắc như gươm

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

- Giữa dạng lặp đối xứng và lặp cân phi đối xứng trên đây là dạng lặp có tính

chất trung gian, tức là dạng lặp tuy có tính đối xứng nhưng không đầy đủ hay không

triệt để. Ở dạng trung gian này, giữa chủ ngôn và kết ngôn có sự đối xứng ở hầu hết

hay phần lớn các tiếng (các tiếng còn lại có thể trùng nhau hoặc không đối nhau).

Ví dụ:

Gươm nào chém được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn

(Ba mươi năm đời ta có Đảng )

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha

(Bác ơi!)

Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ

Đèo Lũng Lô anh hò chị hát

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

63

Anh đánh như sét nổ trời rung

Anh chuyển như lũ cồn bão cuốn

(Toàn thắng về ta)

Ở ví dụ thứ nhất, giữa hai vế có sự trùng nhau ở các tiếng nào, được (các tiếng

còn lại đối xứng). Ở các ví dụ còn lại, có sự trùng nhau một số tiếng hoặc tuy không có

sự trùng nhau giữa các tiếng ở cá vị trí tương ứng nhưng có sự lặp từ vựng giữa chủ ngôn và kết ngôn (lặp các từ anh, chị). Có thể coi những trường hợp trên đây là những trường hợp đối xứng không điển hình.

2.2.3.2. Lặp lệch

Đây là dạng lặp dòng thơ cũng khá phổ biến. Ở dạng này, mặc dù cũng đáp ứng

đầy đủ các tiêu chí của lặp ngữ pháp nhưng giữa chủ ngôn và kết ngôn không có sự

giống nhau (cân nhau) về số tiếng.

Ở dạng này, xét theo độ chênh lệch về số tiếng, có thể phân biệt một vài dạng cụ

thể sau:

a) Chênh lệch 1 tiếng

Ví dụ:

Đã tan tác những bóng thù hắc ám (8 tiếng)

Đã sáng lại trời thu Tháng Tám (7 tiếng)

( Ta đi tới )

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (6 tiếng)

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp (7 tiếng)

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

b) Chênh lệch 2 tiếng

Ví dụ:

Chiếu Nga Sơn, Gạch Bát Tràng (6 tiếng)

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông (8 tiếng)

(Việt Bắc)

Ngày mai về lại thủ đô (6 tiếng) Ngày mai sống lại từng mô đất này (8 tiếng)

(Giữa thành phố trụi)

Đã nghe nước chảy lên non (6 tiếng)

Đã nghe núi chuyển thành con sông dài (8 tiếng)

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

64

c) Chênh lệch 3 tiếng

Ví dụ:

Chào cô dân quân vai súng tay cày (8 tiếng)

Chào các mẹ già run tay vá may cho chiến sĩ (11 tiếng)

(Chào xuân 67)

d) Chênh lệch 5 tiếng

Ví dụ:

Tôi đã khô như cây sậy bên đường (8 tiếng)

Tôi đã chết, lặng im, như con chim không bao giờ được hót (13 tiếng)

(Một nhành xuân)

2.2.4. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo số lần lặp (số kết ngôn): lặp một lần (lặp đơn),

lặp nhiều lần (lặp phức)

2.2.4.1. Lặp một lần

Theo kết quả khảo sát, trong tổng số 574 trường hợp lặp dòng thơ, có 487

trường hợp lặp một lần (chiếm 84,8%). Ở dạng này, kết ngôn chỉ có một dòng thơ.

Ví dụ:

Mưa có rơi dầm dề

Ngày có dài lê thê

(Đợi anh về)

Nào anh bên trai

Nào em bên nữ

(Phá đường)

Tôi ở Vĩnh Yên lên

Anh trên Sơn Cốt xuống

(Cá nước)

Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn

Có gì đâu ta ôm mối căm hờn

(Hãy đứng dậy)

Chúng bay chui xuống đất

Chúng bay chạy đằng trời

( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

65

2.4.1.2. Lặp nhiều lần

Ở dạng lặp này, kết ngôn gồm từ hai dòng thơ trở lên. Dạng này tuy không phổ

biến bằng dạng lặp một lần nhưng cũng không hiếm lắm Theo số lần lặp (hay số kết

ngôn), có thể phân biệt các dạng cụ thể sau:

a) Lặp 2 lần (2 kết ngôn)

Ví dụ:

Lòng ta chung một cụ Hồ

Lòng ta chung một Thủ đô

Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam

( Ta đi tới )

Những bàn chân từ than bụi bùn lầy (Đã bước dưới mặt trời cách mạng) Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng ( Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu) Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu (Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp)

( Ta đi tới )

Chết nằm xuống còn hôn cờ Đảng Chết còn trao sung đạn quên đau Chết còn trút áo cho nhau

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

b) Lặp 3 lần (3 kết ngôn) Ví dụ:

Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ Con em ta, bay quẳng chân vào lửa Lúa ngôn ta, bay cướp về cho ngựa Xóm làng ta, bay đốt cháy tan hoang

( Bắn )

c) Lặp 4 lần (4 kết ngôn) Ví dụ:

Voi là voi ơi (Voi yêu voi quý) …

66

Voi là voi ơi ( Voi ta đầu thép) … Voi là voi ơi ( Voi con voi mẹ) … Voi là voi ơi ( Voi đi đánh nhé) … Voi là voi ơi ( Đường đi dằng dặc)

( Voi ) Ở bài “ Thù này muôn kiếp không tan” dòng thơ “ Đồng bào ơi, anh chị em

ơi!” cũng được lặp lại 4 lần (ở các khổ 5,7,9,10).

d) Lặp từ 5 lần trở lên (5 kết ngôn trở lên) Dạng lặp này không phổ biến . Theo khảo sát của chúng tôi, dạng này được gặp

chủ yếu trong hai bài thơ là “Ta đi tới” và “Việt Bắc”.

Ví dụ: Ở bài “Ta đi tới”, cấu trúc có dạng CN-VN-BN ( chủ ngữ là “Ai”, vị ngữ là các động từ chuyển động có hướng như: qua, xuôi, về, xuống, vào, lên…; và bổ ngữ là danh từ chỉ điểm đến).

Ví dụ:

Ai qua Phú Thọ Ai xuôi Trung Hà Ai về Hưng Hóa Ai xuống Khu Ba Ai vào Khu Bốn … Ai đi Nam Bộ… Ai vô thành phố… … Ai đi Nam- Ngãi, Bình- Phú, Khánh Hòa Ai vô Phan Rang, Phan Thiết Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc …

( Ta đi tới )

67

Ở bài “Việt Bắc”, cấu trúc có dạng CV – CV( Mình về mình có nhớ ta…Mình

về mình có nhớ không…) cũng được lặp lại nhiều lần (với sự thay đổi bộ phận ở một

vài thành tố, chẳng hạn, lược chủ ngữ hay bổ ngữ ở một vế).

Ví dụ:

Mình về mình có nhớ ta? … Mình về mình có nhớ không? … Mình đi có nhớ những ngày? … Mình về có nhớ chiến khu? … Mình đi có nhớ những nhà? … Mình về còn nhớ núi non? … Mình đi mình có nhớ mình? … Mình đi mình lại nhớ mình …

( Việt Bắc) Ngoài ra, ở bài “Việt Bắc”, cấu trúc gồm động từ “Nhớ” + bổ ngữ (với các dạng

có biến đổi) cũng rất phổ biến ( cụ thể lặp lại đến gần 10 lần)

Ví dụ:

Nhớ từng bản khói cùng sương … Nhớ từng rừng nứa, bờ tre … Nhớ người mẹ nắng cháy lưng … Nhớ sao lớp học i tờ … Nhớ sao ngày tháng cơ quan … Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều … Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

68

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Nhớ cô em gái hái măngmột mình …

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

… Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà

( Việt Bắc)

2.2.5. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp liền và lặp cách 2.2.5.1. Lặp liền

Đây là dạng lặp phổ biến nhất và đã được đề cập đến trong nhiều ví dụ ở trên.

Dưới dây, xin dẫn thêm một vài trường hợp nữa về lặp liền với đơn vị là dòng thơ.

Ví dụ:

Anh là vệ quốc quân

Tôi là người cán bộ

( Cá nước )

Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn

Có gì đâu ta ôm mối căm hờn

( Hãy đứng dậy)

Ai tính được giá một ngày xuân đẹp?

Ai tính được giá một cân gang thép?

( Trên đường thiên lý)

Đâu nhữn cồn thơm đất nhả mùi

Đâu luồng tre mát thủa yên vui Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi

( Nhớ đồng)

2.2.5.2. Lặp cách

Ở dạng lặp này, có thể phân biệt lặp cách gần (cách một hay một vài dòng thơ,

một khổ thơ) và lặp cách xa (chủ ngôn và kết ngôn cách nhau nhiều dòng thơ, khổ thơ,

thậm chí ở đầu và cuối bài).

69

a) Lặp cách gần - Cách một dòng Ví dụ:

Này hãy nghe cả lâu đài xã hội (Chuyển rung trong biển máu ngập tràn trề) Này hãy nghe một thời đang hấp hối (Trong mồ đêm dĩ vãng sắp lui về)

( Tháp đổ )

(Ngày xưa của tình yêu) Hai trái tim nồng ấm (Ca hát những ban chiều) Hai đầu xuân đằm thắm

( Tình thương với chiến tranh)

Mình về mình có nhớ ta? ( Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng) Mình về mình có nhớ không? ( Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn)

( Việt Bắc)

Núi này Bạch Mã , Hải Vân ( Mây đưa anh giải phóng quân lên đèo) Biển này Cửa Thuận sóng reo ( Thanh thanh vành mũ tai bèo là em)

( Bài ca quê hương)

Vẫn là ta đó, những khi (Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi) Vẫn là ta đó, giữa đời ( Long lanh một chiếc gương soi nhân tình)

( Phút giây)

- Lặp cách một khổ Ví dụ:

Không thể nữa, lưng chừng hay tính toán? ( Trọn đời ta rút gọn ở giờ này Bão đã rốc thổi già trên biển loạn Sống là đây mà chết cũng là đây)

70

Không thể nữa, lơi chèo hay quay lái? …

( Giờ quyết định )

Hỡi những con khôn của giống nòi ( Những chàng trai quý gái yêu ơi Bâng khuâng đứng trước hai dòng nước Chọn một dòng hay để nước trôi) Hỡi những con khôn của giống nòi …

( Dậy lên thanh niên)

Xuân đang ở đâu, đang về đâu? ( Mênh mang trời đất trắng mù sương Chập chờn nắng ửng, từng cơn rét Xen mỗi niềm vui, mấy nỗi đau) Ta đang ở đâu, đang về đâu? …

( Xuân đang ở đâu)

b) Lặp xa

Ở dạng lặp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng cách nhau nhiều khổ thơ, thậm chí

đứng ở đầu và cuối bài thơ.

Ví dụ:

Ly Quê trên súng thần công ( dòng đầu)

Ly Quê trên súng thần công ( dòng áp chót)

( Tiếng sáo Ly Quê)

Ở bài “Emily con”, dòng thơ “ Nhân danh ai?” được lặp lại ở kết ngôn cách chủ

ngôn 11 dòng.

Ở bài “ Nhớ về anh”, dòng thơ ba tiếng “ Anh Ba ơi!” được lặp lại ba lần với

những khoảng cách lần lượt là 106 dòng, 178 dòng và 202 dòng. Những khoảng cách

rất lớn như thế này có được là do bài thơ rất dài.

71

2.3. Lặp nhiều dòng thơ (lặp bộ phận khổ thơ và lặp khổ thơ)

Lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ là kiểu lặp ngữ pháp đặc trưng cho

văn bản thơ. Sở dĩ có thể nói như vậylà vì ở văn bản văn xuôi kiểu lặp này tuy cũng có

nhưng rất hiếm. Ở văn bản thơ, trái lại kiểu lặp này khá phổ biến. Theo kết quả thống

kê, lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ có 92 trường hợp, chiếm 13,8% trường

hợp lặp ngữ pháp trong thơ.

Lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ có thể được chia thành hai kiểu cụ

thể: lặp bộ phận của khổ thơ (thường gồm hai dòng, chiếm nửa khổ thơ) và lặp cả khổ

thơ ( phổ biến là có cấu tạo hai hay bốn dòng).

Bảng 2.8: Lặp nhiều dòng thơ

Theo dung Theo sự có mặt Theo số lần Theo vị trí

lượng của các từ ngữ Tổng Tập thơ 2 4 Nguyên Biến Lặp Lặp Lặp Lặp

dòng dòng văn đổi đơn phức liền cách

17 12 5 11 6 15 2 6 11 Từ ấy

25 23 2 1 24 21 4 23 2 Việt Bắc

16 14 2 3 13 13 3 8 8 Gió lộng

18 16 2 1 17 18 0 13 5 Ra trận

7 7 0 0 7 6 1 6 1 Máu và hoa

7 6 1 0 7 6 1 5 2 Một tiếng đờn

2 2 0 1 1 1 1 1 1 Ta với ta

Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét đặc điểm của hai kiểu lặp này.

92 80 12 17 75 80 12 62 30 Tổng

2.3.1. Lặp bộ phận của khổ thơ (lặp nửa khổ thơ)

Trong thơ Tố Hữu, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng khổ thơ có cấu tạo gồm 4

dòng trong đó chia thành hai nửa mà mỗi nửa gồm hai dòng có cấu trúc tương ứng và

có sự lặp ngữ pháp với nhau, tạo nên sự hài hòa của khổ thơ. Ở đây, có thể phân biệt

những dạng lặp bộ phận khổ thơ với các kiểu khổ thơ (xét theo số tiếng) sau.

a) Lặp bộ phận khổ thơ với loại khổ thơ 5 tiếng

72

Ví dụ:

Biết bao nhiêu quả phụ

Nhăn trán nhìn Va Gông

Biết bao nàng ủ rũ

Run rẩy đứng trông chồng

( Đông Kinh nhuộm máu)

Ngày xưa là hy vọng

Của bao mẹ hiền từ

Ngày xưa là tiên động

Của nỗi lòng ưu tư

( Tình thương với chiến tranh)

Ở những ví dụ trên đây, dòng thứ nhất có quan hệ lặp ngữ pháp với dòng thứ ba,

còn dòng thứ hai quan hệ lặp ngữ pháp với dòng thứ tư.

b) Lặp bộ phận khổ thơ với loại khổ thơ 7 tiếng (thất ngôn)

Ví dụ:

Chí ta như núi Thiên Thai ấy

Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng

Lòng ta như nước Hương Giang ấy

Xanh biếc lòng sông những bóng thông

( Quê mẹ )

Thương sao sáng lên đường ra trận

Người đến thăm ta, vượt lũ nguồn

Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn

Người đứng trông ta đánh diệt đồn

( Theo chân Bác )

Hiện tượng lặp một phần (2 dòng) của khổ thơ loại 7 chữ khá phổ biến. Đặc biệt,

ở bài thơ như bài “Miền Nam”, có khá nhiều khổ thơ có hiện tượng này và điều đó

không chỉ tạo nên sự hài hoà về hình thức mà còn tạo nên sự gắn kết về ý tứ trong khổ

thơ cũng như cả bài thơ.

73

Ví dụ:

Vì sao hỡi miền Nam yêu dấu?

Người không hề tiếc máu hy sinh

Vì sao hỡi miền Nam chiến đấu?

Người hiên ngang không chịu cúi mình.

( Miền Nam)

Hãy nghe tiếng những người đang sống

Như biển động ầm ầm tiếng sóng

Và hãy nghe cả tiếng người xưa

Như gió khơi reo vọng rừng dừa

( Miền Nam)

Ở những ví dụ trên đây đều có hiện tượng lặp “kép”, túc là lặp hai dòng thơ trong

mỗi khổ theo quy tắc các dòng lẻ (1 – 3) và chẵn (2 – 4). Có sự lặp cấu trúc cú pháp

với nhau theo từng cặp (mặc dù trong một số trường hợp, đó có thể là lặp khác).

c) Lặp bộ phận khổ thơ với khổ thơ lục bát

Ví dụ:

Trường tôi vui với biển khơi

Chữ reo mặt sóng, chữ ngời ghe câu

Trường tôi vui giữa rừng sâu

Chữ theo đuốc lửa đêm thâu tiếng người

( Trường tôi )

Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi

Ở đâu đau đớn giống nòi

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

( Việt Bắc)

Anh về cối lại vang rừng

Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân

Anh về sáo lại ái ân

Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca

( Lên Tây Bắc)

Thắng Mĩ vừa ác vừa ngu

74

Nó như con cọp mắt mù đó thôi

Thằng Ngụy vừa dại vừa tồi

Nó như con rắn theo đuôi ăn tàn

( Chuyện em )

Trong những ví dụ dẫn trên đây, có thể nhận thấy hiện tượng lặp ngữ pháp cấu

trúc giữa các dòng lục (6 tiếng) với nhau và giữa các dòng bát (8 tiếng) với nhau. Tuy

nhiên, nếu giữa các dòng lục có sự lặp đủ và có nhiều tính đối xứng thì giữa các dòng

bát chỉ có sự lặp cân và có nhiều tính chất của lặp khác.

2.3.2. Lặp khổ thơ

2.3.2.1. Nhận xét chung

Lặp khổ thơ là hiện tượng thường thấy không chỉ trong thơ Tố Hữu và thơ ca

Việt Nam mà còn có thể gặp khá phổ biến trong thơ ca nước ngoài. Đây có thể coi là

biện pháp nghệ thuật đặc trưng của việc tổ chức văn bản thơ.

Khổ thơ nói chung được hiểu là một khúc đoạn ngắn được ngắt ra trong một bài

thơ biểu thị một ý tưởng tương đối độc lập. Trên văn bản, khổ thơ thường được tách

biệt với khổ bên cạnh bằng một khoảng cách lớn hơn dòng. Khổ thơ có thể có dung

lượng lớn, nhỏ khác nhau tùy theo bài thơ và cách ngắt khổ của từng tác giả. Tuy

nhiều trường hợp, khổ thơ thường có dung lượng 4 dòng và ở trường hợp hiếm hơn là

2 dòng. Nhưng có thể có khổ thơ với dung lượng lớn hơn 4 dòng.

Xét về kiểu dạng, lặp khổ thơ trong thơ Tố Hữu cũng khá đa dạng. Chẳng hạn, về

dung lượng, lặp khổ thơ gồm: lặp khổ thơ 2 dòng và lặp khổ thơ 4 dòng. Xét về sự có

mặt của các từ ngữ, có thể phân biệt: lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp không hoàn

toàn (có sự biến đổi thành phần từ ngữ cụ thể). Xét về số lần, có thể có lặp một lần và

lặp nhiều lần. Xét về vị trí, có thể xác định: lặp liền và lặp cách.

Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét các kiểu lặp khổ thơ vừa được xác định.

2.3.2.2. Lặp khổ thơ xét theo dung lượng: lặp khổ thơ với 4 dòng và lặp khổ thơ

với 2 dòng.

a) Lặp khổ thơ với 4 dòng

Đây là kiểu lặp khổ thơ phổ biến nhất trong thơ Tố Hữu. Ở kiểu lặp này, mỗi

dòng thơ trong khổ có mối quan hệ lặp cấu trúc với dòng tương ứng của khổ kia.

75

Ví dụ:

Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!

Trên ngai vàng chễm chệ

Uất hận Phù Tang

Đã vang cùng sóngbể

Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!

Trên ngai vàng chễm chệ

Uất hận Phù Tang

Đã vang cùng sóngbể

( Đông Kinh nhuộm máu)

Nếu tâm sự cùng ta bạn hỏi

Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói

Như nỗi niềm nhức nhối tim gan?

- Trong lòng ta hai tiếng: miền Nam.

Khi âu yếm cùng anh em hỏi

Tên nào trong muôn vàn tên gọi

Như mối tình chung thủy không tan?

- Trong lòng anh tên ấy: miền Nam.

( Miền Nam)

b) Lặp khổ thơ với 2 dòng

Trong thơ Tố Hữu, kiểu lặp này không phổ biến bằng lặp khổ thơ với 4 dòng,

nhưng cũng không quá hiếm.

Ví dụ:

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới

Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới

Bạn đời ơi, vui lắm cả trời hồng

( Ý xuân )

76

Thưa các ông nghị gật!

Đứng bôn ba lật đật uổng công!

Thưa các ông nghị gật!

Đứng bôn ba lật đật uổng công!

(Thưa các ông nghị)

2.3.2.3. Lặp khổ thơ xét theo sự có mặt của các từ ngữ: lặp hoàn toàn (nguyên văn) và

lặp không hoàn toàn (có biến đổi từ ngữ).

a) Lặp hoàn toàn khổ thơ

Ngoài những ví dụ đã dẫn ở trên, có thể nêu thêm các ví dụ sau:

Ăn đi vài con cá

Năm bảy cái chột nưa

Có ai biết ai ngờ?

Thế vẫn tròn danh dự

Ăn đi vài con cá

Năm bảy cái chột nưa

Có ai biết ai ngờ?

Thế vẫn tròn danh dự

(Con cá chột nưa)

Cũng có thể tạm xếp vào lặp hoàn toàn những trường hợp tất cả các từ trong khổ

thơ đều được lặp lại nhưng có sự thay đổi về trật tự từ, cụ thể là trật tự các dòng thơ

trong khổ.

Ví dụ:

Nghĩa đời trong ba tiếng

Máy điện giục gầm gừ

Chuông đạo hát vô tư

Kiểng tù và gắt gỏng

Kiểng tù và gắt gỏng

77

Máy điện giục gầm gừ

Chuông đạo hát vô tư

Nghĩa đời trong ba tiếng

( Ba tiếng)

Trên dòng Hương Giang

Em buông mái chèo

Em buông mái chèo

Trên dòng Hương Giang

(Tiếng hát sông Hương)

b) Lặp không hoàn toàn khổ thơ

Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của các dòng thơ trong khổ là chủ ngôn được lặp lại,

còn các từ ngữ cụ thể có sự thay đổi.

Ví dụ:

Ôi kể làm sao hết được anh

Bao nhiêu máu chảy bấy dòng kênh

Phải chi em gửi cho anh được

Nắm đất đang nồng lửa đấu tranh?

Ôi kể làm sao hết được anh

Bao nỗi buồn vui của quê mình

Phải chi em gởi cho anh được

Những ảnh hình ghi những tâm tình?

( Lá thư Bến Tre)

Đồng bào ơi anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể sống lại rồi

Đồng bào ơi anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể thét nữa rồi

( Thù đời muôn kiếp không tan)

78

Ở ví dụ thứ nhất chỉ dòng đầu và dòng thứ ba trong mỗi khổ có sự giống nhau hoàn

toàn, còn dòng hai ,dòng bốn có sự thay đổi một số từ. Ở ví dụ thứ hai, sự thay đổi từ ngữ

cụ thể cũng nằm ở dòng sau (sống lại thay bằng thét nữa).

2.3.2.4. Lặp khổ thơ xét theo số lần: lặp một lần và lặp nhiều lần

a) Lặp một lần

Trong các ví dụ đã dẫn trên, có khá nhiều trường hợp thuộc dạng lặp một lần.

Chẳng hạn, ở các bài “Đông Kinh nhuộm máu”, “Con cá chột nưa”. Dưới đây là một

vài trường hợp nữa về dạng lặp này.

Ví dụ:

Cô đơn thay là cảnh thân tù!

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!

Cô đơn thay là cảnh thân tù!

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!

( Tâm tư trong tù)

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

( Nhớ đồng)

b) Lặp nhiều lần

Ở dạng này, có thể có những trường hợp sau:

- Lặp 2 lần

79

Ví dụ:

Sức ta là sức thanh niên

Thế ta là thế đứng trên đầu thù

Sức ta là sức thanh niên

Thế ta là thế đứng trên đầu thù

Sức ta là sức thanh niên

Thế ta là thế đứng trên đầu thù

( Vinh quang Tổ quốc chúng ta )

Ở bài thơ “Chị là người mẹ” cũng có sự lặp lại hai lần khổ thơ thứ hai (lặp ở các

khổ thứ 4 và thứ 6).

Nửa đêm chúng vào buồng bắt chị

Lôi chị đi sung dí vào tai

Thịt rơi máu chảy đêm dài

Ai nghe tiếng chị kêu hoài: “ Con ơi!”

( Chị là người mẹ)

- Lặp 3 lần

Ví dụ:

Đồng bào ơi, anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể sống lại rồi!

Đồng bào ơi, anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể thét nữa rồi!

Đồng bào ơi, anh chị em ơi!

Chúng tôi không còn sống trên đời!

Đồng bào ơi, anh chị em ơi!

Chúng tôi không còn sống trên đời!

( Thù đời muôn kiếp không tan)

80

- Lặp 4 lần

Đây là trường hợp của một bài thơ được Tố Hữu dịch từ dân ca Nam Tư. Mặc dù

bài thơ khá dài nhưng xin dẫn nguyên văn.

- Anh ơi mau trở về quê

Vợ anh vò võ một bề canh suông

- Thương chồng em hãy theo chồng

Ở đây chiến đấu, anh không thể về!

- Anh ơi mau trở về quê

Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng

- Con tôi có khó giòng giòng

Ở đây chiến đấu, cha không thể về!

- Anh ơi mau trở về quê

Mẹ anh già yếu bên hè chờ mong

- Mẹ ơi đừng giận đừng trông

Ở đây chiến đấu, con không thể về

- Anh ơi mau trở về quê

Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng

- Cháy nhà thì cháy cam lòng

Ở đây chiến đấy, tôi không thể về!

- Anh ơi mau trở về quê

Ðời anh chết trẻ làm gì uổng thân

- Tôi dù chết mất tuổi xuân

Miễn là thắng lợi, được phần tự do

( Bài ca của người du kích )

Như có thể thấy từ bài thơ, bài thơ gồm 5 khổ, trong đó 4 khổ có sự lặp cú pháp

(cấu trúc) với khổ đầu. Dòng đầu ở các khổ là sự lặp hoàn toàn, dòng thứ tư (ở các khổ

2,3,4) cũng có sự lặp lại gần như hoàn toàn.(Riêng khổ 5 mang tính chất của lặp khác).

81

2.3.2.5. Lặp khổ thơ xét theo vị trí: lặp liền, lặp cách

Theo kết quả khảo sát, khác với kiểu lặp dòng thơ và kiểu lặp bộ phận khổ thơ

(trong đó lặp liền là trường hợp phổ biến), ở kiểu lặp khổ thơ, trường hợp lặp cách

lại là phổ biến. Dạng lặp liền chỉ gặp ở một vài bài thơ mà tiêu biểu là ở các bài

“Miền Nam”, và “Bài ca người du kích” đã được dẫn ở trên. Những trường hợp

khác đã dẫn trên đây phần lớn đều thuộc lặp cách. Sở dĩ có tình hình như vậy có lẽ

là vì trong khá nhiều trường hợp, lặp khổ thơ là lặp hoàn toàn hoặc tuy là lặp có

biến đổi nhưng sự biến đổi thường không lớn. Vì vậy sẽ không phù hợp nếu lặp liên

tiếp các khổ thơ có thành phần từ ngữ giống hệt nhau.

2.4. Tiểu kết chương 2

Trên đây, trên cơ sở kết quả thống kê và xác định, phân loại các kiểu lặp ngữ

pháp trong thơ Tố Hữu, luận văn đã tiến hành phân tích phân loại cụ thể và chỉ ra đặc

điểm hình thức của các kiểu dạng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu với hai kiểu chính

là lặp dòng thơ và lặp khổ thơ, bộ phận khổ thơ. Đối với mỗi kiểu lặp này, luận văn có

sự phân chia thành các kiểu nhỏ, các dạng cụ thể theo tiêu chí nhất định (dựa vào khối

lượng, về cấu trúc, về sự có mặt, vắng mặt của các từ ngữ, về tính cân đối, số lần lặp,

vị trí…).

Sự phân tích, miêu tả lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức

không chỉ cho thấy tính phổ biến của phương thức này mà còn cho thấy sự đa dạng,

phong phú, phức tạp và các kiểu dạng lặp ngữ pháp trong văn bản thơ với văn bản văn

xuôi. Mặt khác, kết quả khảo sát ở chương này cũng cho thấy những đặc điểm của việc

sử dụng phép lặp vừa với tư cách là một phép liên kết văn bản, vừa có tính chất của

một biện pháp tu từ.

Khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, chúng ta không thể không nói đến ấn

tượng về những nét đặc sắc thể hiện rõ ở mật độ cao của các cấu trúc lặp ngữ pháp và

ở sự phong phú của các kiểu, dạng lặp.

Mật độ cao hay tính phổ biến của lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu thể hiện ở chỗ,

như kết quả thống kê cho thấy, trong thơ Tố Hữu có đến 666 trường hợp lặp ngữ pháp.

Đây là con số ấn tượng vì mặc dù chưa có điều kiện thống kê về lặp ngữ pháp trong

tác phẩm của các nhà thơ khác nhưng sự hiểu biết sơ bộ của chúng tôi cũng cho phép

82

tin rằng trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là một trong số tác giả sử dụng

hình thức lặp ngữ pháp phổ biến nhất. Số lượng trên đây cho thấy lặp ngữ pháp trong

thơ Tố Hữu đã được sử dụng một cách có ý thức, có chủ định nghệ thuật và do đó trở

thành nét nghệ thuật đặc trưng của thơ Tố Hữu.

Sự phong phú về kiểu dạng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu cho thấy tác giả đã sử

dụng rất thành thạo, nhuần nhuyễn phép lặp ngữ pháp, kết hợp tài tình các kiểu dạng

lặp để phục vụ cho việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Sự phong phú, đa dạng

của lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu cũng cho thấy vai trò quan trọng của lặp ngữ pháp

đối với việc tổ chức văn bản nói chung, văn bản thơ nói riêng.

83

Chương 3

PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU

XÉT THEO MẶT CHỨC NĂNG

3.1 Chức năng liên kết văn bản

Liên kết văn bản bao gồm liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình

thức được thể hiện ra bằng các phép liên kết trong đó có phép lặp ngữ pháp. Liên kết

nội dung bao gồm liên kết chủ đề và liên kết logic. Về nguyên tắc, liên kết hình thức

luôn có mối quan hệ chặt chẽ với liên kết nội dung và là phương tiện được dùng để thể

hiện liên kết nội dung. Do đó, có thể khẳng định lặp ngữ pháp (trong thơ, thường được

kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm) cũng có chức năng liên kết nội dung (đặc biệt

là liên kết chủ đề) .

Liên kết là một dạng quan hệ giữa các đơn vị của văn bản , trong đó có quan hệ hình

thức. Giữa các dòng, khổ trong bài thơ có thể thấy cơ sở của mối quan hệ này là sự giống

nhau hay gần gũi về cấu trúc giữa chủ ngôn và kết ngôn. Chính sự tương đồng về cấu trúc

(nhất là ở lặp đủ) giữa chủ ngôn và kết ngôn (là dòng thơ, khổ thơ) đã tạo nên mối quan

hệ mang tính liên tưởng giữa chúng. Nói cách khác, chủ ngôn và kết ngôn với tư cách là

các yếu tố có quan hệ lặp ngữ pháp luôn tạo thành cặp (ở lặp một lần), thành dãy (ở lặp

nhiều lần) hay liên tưởng (dựa trên cơ sở là sự đồng loại về cấu trúc giữa chúng).

Chẳng hạn, cặp liên tưởng gần chủ ngôn và kết ngôn:

Vai ta vai sắt

Chân ta chân đồng

(Voi)

Dân có ruộng dập dìu hợp tác

Lúa mượt đồng ấm áp làng quê

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Tiền tuyến ra sức tiến công

Hậu phương dốc lòng chi viện

( Bài ca xuân 71)

84

Dãy liên tưởng gần chủ ngôn và nhiều kết ngôn:

Chết nằm xuống còn hôn cờ Đảng

Chết còn trao súng đạn quên đau

Chết còn trút áo cho nhau

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Chị em ta bay căng thịt lõa lồ

Con em ta bay quảng chân vào lửa

Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa

Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang

( Bắn)

Có thể nói trong những trường hợp được dẫn trên đây, nhờ tính đồng loại (hoặc

gần gũi, tương đồng) về cấu trúc cú pháp mà giữa chủ ngôn và các kết ngôn có sự gắn

kết rất tự nhiên về hình thức. Chính điều này giải thích vì sao có lần Tố Hữu tâm sự:

trong nhiều trường hợp, các câu thơ của ông cứ tự gọi nhau mà tuôn trào, mà xuất

hiện, một cách tự nhiên.

Về mặt liên kết nội dung, lặp ngữ pháp có tác dụng liên kết chủ đề. Có thể thấy

rất rõ ở dạng lặp liền các dòng thơ (với sự kết hợp lặp ngữ pháp và lặp từ ngữ).

Ví dụ:

Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt

Đảng ta đây xương sắt da đồng

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Lòng ta không giới tuyến

Lòng ta chung một cụ Hồ

Lòng ta chung một Thủ đô

Lòng ta chung một cơ đồ Việt nam

( Ta đi tới)

Ở ví dụ thứ nhất, cùng với lặp cấu trúc là lặp từ ngữ “Đảng ta” và điều này tạo

sự gắn kết về chủ đề giữa chủ ngôn và kết ngôn. Ở ví dụ thứ hai, lặp cấu trúc kết hợp

với lặp từ vựng “lòng ta” tạo nên sự gắn kết chặt chẽ , liền mạch giữa các dòng thơ.

Nói về tác dụng liên kết chủ đề của lặp ngữ pháp, cần phải thấy rằng một số bài

thơ có hiện tượng lặp ngữ pháp (kết hợp với lặp từ vựng) với mật độ cao đã góp phần

85

tạo nên sự “tập trung chủ đề” rất mạnh và điều đó giúp cho việc tạo nên tính thống

nhất chủ đề cao và khắc sâu tư tưởng của tác phẩm. Có khoảng 50/285 bài thơ xuất

hiện 5 lần lặp ngữ pháp trở lên. Đặc biệt, các bài “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Theo

chân Bác” và “Ba mươi năm đời ta có Đảng” có tới 21 lần lặp ngữ pháp, “Vinh quang

Tổ quốc chúng ta” có 15 lần lặp ngữ pháp…

Chẳng hạn, ở bài “Việt Bắc” có tới 20 lần lặp ngữ pháp: cấu trúc có dạng CV -

CV (Mình về mình có nhớ ta,… Ta về ta nhớ,…Ta đi ta nhớ…) và cấu trúc cú pháp

có dạng “nhớ”+ bổ ngữ (với sự lặp lại các từ quan trọng là “ta”, “mình”, “nhớ” ) đã

được lặp lại nhiều lần đã tạo nên sự thống nhất, xuyên suốt của chủ đề (cuộc chia ly và

tình cảm giữa người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc).

Như vậy lặp ngữ pháp góp phần tăng cường sự liên kết giữa các dòng thơ, khổ

thơ trong bài.

3.2. Chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ

3.2.1. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có tác dụng nhấn mạnh góp phần khắc sâu

nội dung tư tưởng, tình cảm cần biểu thị

Về mặt nội dung, lặp nói chung và lặp ngữ pháp nói riêng, ngoài tác dụng liên

kết văn bản còn có một tác dụng nghệ thuật hết sức quan trọng là nhấn mạnh, khắc

sâu tư tưởng, tình cảm cần diễn đạt trong bài thơ.

Hình thức lặp nói chung (tức là nhắc lại) thường có tác dụng gây sự chú ý. Đặc

biệt, sự lặp lại nguyên văn và lặp lại nhiều lần sẽ gây được sự chú ý nhiều hơn và tạo

ra hiệu quả diễn đạt cao hơn. Khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, ta thấy không

phải ngẫu nhiên mà tác giả sử dụng tương đối nhiều dạng lặp nguyên văn (hoặc gần

nguyên văn) và dạng lặp nhiều lần ở cả kiểu lặp với đơn vị là dòng thơ và khổ thơ.

Dưới đây xin phân tích một số trường hợp lặp tương đối tiêu biểu với tác dụng

nhấn mạnh vào nội dung được biểu đạt.

a) Lặp nhiều lần cấu trúc của dòng thơ với tác dụng nhấn mạnh

Trong thơ Tố Hữu, lặp nhiều lần (từ 2 lần trở lên) cấu trúc của dòng thơ thường có

sự kết hợp với lặp từ vựng (lặp từ ngữ) và điều này hầu như luôn được tác giả dùng với

dụng ý nghệ thuật mà chủ yếu là nhấn mạnh vào ý nào đó.

86

Trong bài thơ “Từ ấy” việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ (với vị ngữ có

dạng “ là” + danh từ + bổ ngữ , kết hợp với lặp từ vựng có tác dụng nhấn mạnh vào ý:

Sự gắn bó tự nguyện, sâu sắc của nhà thơ với nhân dân, với quần chúng lao khổ.

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

( Từ ấy)

Trong bài “Con cá chột nưa”, để nhấn mạnh ý: trong đấu tranh, người chiến sĩ

công sản cần giữ vững tinh thần, đạo đức cách mạng: trung thực, trong sáng, thủy

chung, tác giả đã dùng liên tiếp các dòng thơ có cùng cấu trúc cú pháp và một số từ ngữ.

(Phải trải lòng chân thật)

Không một nét quanh co

Không một bóng lờ mờ

Không một nhăn ám muội

(Con cá chột nưa)

Trong bài “Bắn”, việc lặp lại cấu trúc dòng thơ với hạt nhân là động từ tác động

(căng, quẳng, cướp, đốt) chi phối chủ ngữ “bay” và bổ ngữ (chị em ta, con em ta, lúa

ngô ta, xóm làng ta) có tác dụng nhấn mạnh ý: tố cáo, vạch trần tội ác của giặc Pháp:

giết người man rợ, cướp của, đốt phá hủy diệt môi trường sống của con người.

Chị em ta bay căng thịt lõa lồ

Con em ta bay quẳng chân vào lửa

Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa

Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang.

(Bắn)

Trong bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng

thơ có dạng hạt nhân là động từ thụ cảm “nghe” + bổ ngữ (chỉ sự tình hay sự kiện) được

dùng với mực đích, tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự thần kì hay những thành tựu vĩ đại

của con người trong công cuộc xay dựng hòa bình ở Việt Nam và trên thế giới.

Đã nghe nước chảy lên non

Đã nghe núi chuyển thành con sông dài

87

Đã nghe gió ngày mai thổi lại

Đã nghe hồn thời đại bay cao

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Trong bài “Mùa thu mới”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ có dạng

động từ “yêu” + bổ ngữ (kết hợp với lặp từ vựng) có tác dụng nhấn mạnh ý: Tình yêu

và niểm tự hào của nhà thơ đối với đất nước và con người lao động trong công

cuộc xây dựng cuộc sống mới trên miền Bắc.

Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát

Yêu biết mấy, những con đường ca hát

Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng

Yêu biết mấy, những con người đi tới

(Mùa thu mới)

Trong bài “Có thể nào yên?”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ với

bộ phận có dạng là “có thể nào” + vị từ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi niềm day

dứt, đau đớn khôn nguôi của tác giả trước sự tàn bạo của kẻ thù và những hy sinh,

mất mát của đồng bào, đồng chí miền Nam.

Có thể nào yên? Miền Nam ơi, máu chảy

Có thể nào nguôi? Từng viên đạn Mỹ

Có thể nào khuây ? Cỏ cây vẫn nhắc

Có thể nào quên? Hỡi miền sâu thẳm

(Có thể nào yên?)

Trong bài “Chào xuân 67”, cấu trúc cú pháp của dòng thơ có dạng “động từ

(chào) + bổ ngữ” được lặp lại nhiều lần (kết hợp với lặp một số từ ngữ) có tác dụng

nhấn mạnh vào ý: Niềm tự hào, tin tưởng của tác giả trước lực lượng hùng hậu của

88

hậu phương lớn miền Bắc (gồm các lực lượng vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến

đấu và phục vụ chiến đấu với nhiều thành phần khác nhau.

Chào cô dân quân vai súng vai cày

Chào các cụ bạch đầu quân trồng cây chống Mỹ

Chào các mẹ già run tay vá may cho chiến sĩ

Chào các em, những đồng chí của tương lai

(Chào xuân 67)

Trong “Bài ca xuân 68”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc cú pháp (kết hợp với lặp

từ pháp-lặp hư từ “vì”) của dòng thơ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Lí tưởng và mục

đích cao đẹp (độc lập, tự do, phẩm giá con người, tương lai, hạnh phúc của nhân

dân, dân tộc) là động lực thôi thúc chúng ta chiến đấu và chiến thắng.

Vì Độc lập, Tự do, núi sông hùng vĩ

Vì thiêng liêng giá trị Con Người

Vì muôn đời hoa lá xanh tươi

Ta quyết thắng. Giành mùa xuân đẹp nhất.

(Bài ca xuân 68)

Nói đến biện pháp lặp ngữ pháp (với đơn vị là dòng thơ) với mục đích, tác dụng

nhấn mạnh, không thể không nói đến hiện tương lặp trong hai bài “ Việt Bắc”, “Ta đi tới”.

Ở bài “Việt Bắc”, như đã đề cập, việc lặp lại cấu trúc của dòng thơ với các

khuôn hình cúpháp là: CV-CV (Mình về mình có nhớ ta…, Mình về mình có nhớ

không…, Ta về ta nhớ…, ta đi ta nhớ…) và động từ “nhớ” +bổ ngữ (Nhớ gì…,

Nhớ từng…, Nhớ sao…, Nhớ người mẹ…, Nhớ cô em gái…) kết hợp với lặp từ

vựng (mình, ta, nhớ) không chỉ có tác dụng tạo nên tính thống nhất, độ tập trung của

chủ đề (chia tay, tình cảm giữa người cán bộ cách mạng và đồng baog Việt Bắc) mà

còn có tác dụng nhấn mạnh ý: Tình cảm sâu sắc mặn nồng thủy chung son sắt giữa

người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.

Ở bài “Ta đi tới”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ có khuôn hình cú

pháp gồm chủ ngữ “Ai” - vị ngữ (là các động từ chuyển động có hướng : qua, xuôi,

89

về, xuống, vào, vô…) – bổ ngữ (là danh từ chỉ điểm đến) là hình thức độc đáo tạo nên

một trong những cấu trúc chủ đạo của bài tho và điều này không chỉ có tác dụng làm

nên tính thống nhất, độ tập trung của chủ đề, liên kết , mạch lạc của bào thơ mà còn

có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự tự do của con người chiến thắng (với những bước

chân ngược xuôi, ngang dọc) trên quê hương, đất nước được giải phóng.

b) Lặp cấu trúc khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh

Có thể nói, cũng như việc lặp dòng thơ, việc lặp cấu trúc của khổ thơ không chỉ

có tác dụng liên kết mà còn có tác dụng nhấn mạnh vào ý cần truyền đạt. Không có

điều kiện phân tích thật tỉ mỉ các tác dụng nhấn mạnh của việc lặp lại cấu trúc của

khổ thơ , dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cạp đến mottj số trường hợp tiêu biểu về việc

lặp cấu trúc khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh.

- Lặp nguyên văn (lặp hoàn toàn) khổ thơ có tác dụng nhấn mạnh

Lặp hoàn toàn khổ thơ (vừa lặp cấu trúc, vừa lặp toàn bộ từ ngữ) là nét khá độc đáo

của thơ Tố Hữu. Chọn hình thức lặp này, tác giả rõ ràng có chủ ý nghệ thuật mà dễ thấy

là dụng ý nhấn mạnh (vì việc lặp nguyên văn không mang lại nội dung mới nên việc

dùng hình thức này chủ yếu nhằm mục đích tu từ).

Trong bài “Con cá chột nưa” khổ thơ thể hiện lời dụ dỗ của “cái bụng” được lặp

lại hoàn toàn và điều này có tác dụng nhấn mạnh vào ý: sức cám dỗ của “cái bụng”

(chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng ham sống, sợ chết, phần bản năng) là rất mạnh, rất dai

dẳng và trong cuộc đấu tranh tư tưởng thì đây là “kẻ thù” không thể coi thường.

Ăn đi vài con cá

Dăm bảy cái chột nưa

Có ai biết, ai ngờ

Thế vẫn tròn danh dự

(Con cá chột nưa)

Trong bài “Đông Kinh nhuộm máu”, khổ thơ đầu:

Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!

Trên ngai vàng chễm chệ

Uất hận của Phù Tang

Đẫ vang cùng sống bể

(Đông Kinh nhuộm máu)

90

được lặp lại hoàn toàn ở cuối bài thơ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự căm thù của

nhân loại đối với tội ác tày trời của phát xít Nhật trong việc gây ra vụ thảm sát đẫm

máu ở Đông Kinh (Trung Quốc).

Trong bài “Tâm tư trong tù”, khổ thơ:

Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng mà lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu

(Tâm tư trong tù)

được lặp lại nguyên văn ở khổ thơ sau đó, có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi cô đơn

của người tù cộng sản trẻ tuổi và niềm khát khao cuộc sống tự do, khát khao giao

cảm với đời, được hòa mình vào cuộc sống sôi động của cộng đồng . Cần thấy rằng

không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã chọn khổ thơ này để lặp lại. Rõ ràng lí do được

chọn là khổ thơ này thể hiện tập trung, rõ ràng nhất “tâm tư” của người chiến sĩ trẻ

khi bị giam cầm trong nhà lao của thực dân Pháp. Tức là thể hiệ rõ nhất chủ đề tư

tưởng của bài thơ.

Trong bài “Nhớ đồng”, khổ thơ gồm hai dòng:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò

(Nhớ đồng)

cũng được lặp lại nguyên văn và điều này có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi nhớ sâu

thẳm, da diết của tác giả đối với những điều thân thuộc, gần gũi, gắn bó máu thịt

với mình.

- Lặp nhiều lần cấu trúc của khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh

Trong thơ Tố Hữu, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng lặp trên một lần cấu trúc

của khổ thơ. Trong những trường hợp như vậy thường có sự kết hợp nhiều kiểu dạng:

lặp cú pháp kết hợp với lặp từ vựng, lặp khổ thơ kết hợp với lặp dòng thơ, lặp hoàn

toàn (nguyên văn) kết hợp với lặp có biến đổi thành phần từ ngữ. Sự kết hợp như vậy

tạo cho việc lặp nhiều lần khổ thơ có nhiều tác dụng khác nhau và cũng làm tăng giá

91

trị, tác dụng nhấn mạnh của phép lặp.

Trong bài “Vinh quang Tổ quốc chúng ta”, để nhấn mạnh, khẳng định: sức mạnh,

thế chiến thắng của cách mạng, Tố Hữu đã sử dụng việc lặp nhiều lần (sau khổ

10,14,16 ) cấu trúc của khổ thơ hai dòng (và hai dòng này được lặp lại nguyên văn):

Sức ta là sức thanh niên

Thế ta là thế đứng trên đầu thù.

(Vinh quang tổ quốc chúng ta)

Trong bài “Chị là người mẹ”, khổ thơ:

Nửa đêm chúng vào buồng bắt chị

Lôi chị đi, súng gí vào tai

Thịt rơi, máu chảy đêm dài

Ai nghe tiếng chị kêu hoài: “Con ơi!”

(Chị là người mẹ)

Được lặp lại nhiều lần (ở các khổ thơ 2,4,6) chỉ với sự thay đổi hai từ ở cuối mỗi

khổ thơ (“Con ơi!”, “Em ơi!”, “Anh ơi!”) có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Tố cáo hành

động tội ác dã man của kẻ thù đối với người phụ nữ - “cô giáo hiền tươi”, người mẹ

của ba đứa con thơ dại.

Trong bài “Thù đời muôn kiếp không tan” việc lặp lại nhiều lần khổ thơ hai

dòng (là lời kêu gọi thống thiết của những người tù vô tội bị đầu độc) có tác dụng tố

cáo mạnh mẽ hành động tội ác man rợ của kẻ thù trước công luận và có tác động sâu

sắc đến lương tri của những người đang sống trên thế gian.

Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể sống lại rồi

Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!

Chúng tôi không thể thét nữa rồi

Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!

Chúng tôi không còn sống trên đời

(Thù đời muôn kiếp không tan)

92

Trong bài “Bài ca người du kích”, việc lặp lại bốn lần cấu trúc của khổ thơ (kết

hợp với lặp nguyên văn dòng thơ, lặp từ vựng) tạo ấn tượng manh mẽ, sâu sắc không

chỉ về cấu tứ độc đáo của bài thơ mà đặc biệt về lòng yêu Tổ quốc, ý chí chiến đấu,

trách nhiệm công dân của người chiến sĩ du kích (mặc dù anh có tình cảm sâu nặng đối

với gia đình (mẹ, vợ, con, ngôi nhà) và cũng là người tha thiết yêu sự sống).

Ở đầu mỗi khổ thơ trong bài thơ này là dòng thơ thể hiện tiếng gọi nhói vào tim

anh – tiếng gọi của tình cảm tự nhiên, của trách nhiệm đối với người thân:

Anh ơi mau trở về quê

Và ở cuối mỗi khổ thơ là sự lặp lại có chút biến đổi dòng thơ:

Ở đây chiến đấu tôi (con, anh, cha) không thể về.

3.2.2. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu góp phần làm phong phú hiện thực được

phản ánh

Lặp ngữ pháp trong nhiều trường hợp thường có sự sóng đôi hoặc có quan hệ

bình đẳng với nhau. Đặc điểm hình thức này của lặp ngữ pháp phù hợp với sự thể

hiện đa dạng, phong phú các nội dung hay các mảng hiện thực gần gũi. Nói cách

khác, với đặc điểm tổ chức của mình, lặp ngữ pháp tạo cơ sở cho việc phản ánh

phong phú, sâu sắc hiện thực.

Các cấu trúc lặp (có sự tương đồng về cú pháp và thường tương đăng về quan hệ

, kết hợp với lặp từ vựng) trong nhiều trường hợp cho phép biểu thị cùng một nội

dung qua các dạng cụ thể khác nhau.

Chẳng hạn:

- Biểu thị các hình thức phong phú của hoạt động bình dân học vụ: học trên

đồng ruộng, trên biển, trong rừng.

Trường tôi vui giữa luống cày

Trường tôi vui giữa biển khơi

Trường tôi vui giữa rừng sâu.

(Trường tôi)

93

Ba dòng thơ có quan hệ lặp ngữ pháp (kết hợp lặp từ vựng) với cấu trúc lặp đủ

trên đây phản ánh cùng một hiện thực (hoạt động bình dân học vụ) nhưng với những

hình thức và không gian cụ thể (thể hiện ở sự khác nhau ở thành phần từ ngữ chỉ vị trí

– trạng ngữ).

- Biểu thị các biểu hiện, cung bậc khác nhau của nỗi nhớ. Cấu trúc “nhớ” + bổ

ngữ (trong bài “Việt Bắc”) được lặp lại nhiều lần phản ánh những kỉ niệm, những

hiện thực đa dạng của tình cảm nhớ nhung của người về xuôi và người ở lại.

Nhớ gì như nhớ người yêu

Nhớ từng bản khói cùng sương

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Nhớ sao lớp học i tờ

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

(Việt Bắc)

- Biểu thị đồng thời các sự kiện khác nhau về sự thần kì, về “cái mới” ở trong

nước và trên thế giới trong công cuộc chinh phục thiên nhiên:

Đã nghe nước chảy lên non

Đã nghe núi chuyển thành con sông dài

Đã nghe gió ngày mai thổi lại

Đã nghe hồn thời đại bay cao

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

- Biểu thị đồng thời các mối quan hệ tình cảm khác nhau giữa người chiến sĩ du

kích (trong bài “Bài ca người du kích”)

+ Đối với người mẹ già:

Mẹ anh già yếu bên hè đợi mong

94

+ Đối với người vợ trẻ:

Vợ anh vò võ một bề canh suông

+ Đối với đứa con thơ:

Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng

+ Đối với ngôi nhà thân yêu:

Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng

Các dòng thơ trên đây đều có quan hệ lặp cú pháp và về nội dung đều phản ánh

các mối quan hệ tình cảm mà hiện thực có ở người du kích.

- Biểu thị những hiện thực khác nhau của phẩm chất cao đẹp của nhân dân

miền Nam. Đó là:

+ Đau khổ nhưng một lòng thủy chung, son sắc với cách mạng:

Như miền Nam, đắng cay, chung thủy

+ Kiên cường dũng cảm trong chiến đấu

Như miền Nam gan góc, dạn dày!

Trên đây chỉ là một số ví dụ về giá trị phản ánh hiện thực của lặp ngữ pháp

trong thơ Tố Hữu.

3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên sự hài hòa, cân đối về vần, nhịp, tiết tấu cho

khổ thơ, bài thơ

Như đã biết, lặp ngữ pháp trong thơ thường được kết hợp với lặp từ vựng (từ

ngữ) và lặp ngữ âm (số tiếng, vần, thanh). Sự kết hợp đó tạo cho lặp ngữ pháp trong

thơ Tố Hữu có được giá trị quan trọng về hình thức: tạo nên sự hòa hợp về âm thanh

(vần, nhịp, tiết tấu…) giữa các dòng thơ và các khổ thơ trong bài và tạo âm hưởng

chung cho cả bài thơ. Người ta thường nói trong thơ có nhạc (thi trung hữu nhạc) và

tính nhạc trong thơ một phần được tạo nên nhờ lặp ngữ pháp (kết hợp với lặp từ ngữ

và lặp ngữ âm). Ấn tượng về sự hài hòa âm thanh được tạo nên ở hầu hết các cấu trúc

lặp ngữ pháp nhưng có thể thấy trong đó, những trường hợp lặp cân (chủ ngôn và kết

ngôn có cùng số tiếng), đặc biệt, lặp đối xứng (chủ ngôn và kết ngôn có quan hệ theo

kiểu đối ngẫu, tức là có số tiếng bằng nhau, tương ứng với nhau vê từ loại, về thanh,

về ý…) là những trường hợp tạo ấn tượng rõ nhất về sự hòa hợp hình thức giữa các

95

dòng thơ hay khổ thơ. Chẳng hạn, đọc những dòng thơ có quan hệ ngữ pháp thuộc

dạng đồng thời có quan hệ đối ngẫu (tương đối tiêu biểu) như dưới đây, ta dễ dàng

cảm nhận được tính cân đối hài hòa về hình thức giữa các dòng thơ.

Con chim non không tổ

Trẻ mồ côi không nhà

( Hai đứa trẻ)

Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ

Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Gươm nào chém được dòng Bến Hải

Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn

( Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Trong những trường hợp dưới đây, hiện tượng lặp cú pháp (thuộc lặp cân) của

nửa khổ thơ (lặp 2 dòng thơ trong khổ theo đó, dòng thứ nhất lặp bắc cầu với dòng thứ

ba, dòng thứ hai lặp bắc cầu với dòng thứ tư) tạo ấn tượng rõ rệt về sự hài hòa ngữ âm

của khổ thơ.

Chí ta như núi thiên thai ấy

Đỏ rực chiều hôm, dậy cánh đồng

Lòng ta như nước Hương Giang ấy

Xanh ngắt lòng sông mát bóng thông.

(Quê mẹ)

Vì sao hỡi miền Nam yêu dấu

Người không hề tiếc máu hy sinh?

Vì sao hỡi miền Nam chiến đấu

Người hiên ngang không chịu cúi mình?

(Miền Nam)

3.3. Tiểu kết chương 3

Nghiên cứu về chức năng phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, ta có thể nhận

thấy: Tố Hữu đã khai thác những chức năng to lớn của phép lặp ngữ pháp để thể hiện

96

nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo

ngôn ngữ dân tộc, đóng góp một tiếng nói quan trọng trong việc tuyên truyền tư tưởng

chính trị, khơi dậy và nuôi dưỡng những tình cảm cách mạng cao cả ở người đọc.

Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu khi được kết hợp với lặp từ vựng không chỉ có

chức năng liên kết cao về hình thức và nội dung (giữa các dòng, các khổ thơ có tính

thống nhất, tính mạch lạc) mà còn có giá trị thể hiện độ tập trung chủ đề. Điều đó

giúp cho thơ Tố Hữu dễ đọc, dễ nhớ và đặc biệt thể hiện được sâu sắc, phong phú tư

tưởng, tình cảm cách mạng của nhà thơ, trở thành nơi bộc lộ tâm tình có được sự

“đồng ý, đồng tình, đồng chí” của đông đảo độc giả.

Ngôn ngữ thơ Tố Hữu thuộc ngôn, ngữ thơ trữ tình điệu nói, khác với lời thơ cổ

điển thuộc lối thơ trữ tình ngâm vịnh. Là một thành tựu xuất sắc của thơ Việt Nam

hiện đại, thơ Tố Hữu khác với thơ cổ điển về một số nguyên tắc tổ chức lời thơ [34,

234-235]. Vì vậy, lặp ngữ pháp được sử dụng với mật độ cao và với nhiều kiểu dạng

khác nhau trong thơ Tố Hữu đã góp phần thực hiện chức năng nghệ thuật thể hiện ý

nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ.

97

KẾT LUẬN

Trên cơ sở lí luận về liên kết, về phép lặp và lặp ngữ pháp được xác lập, luận

văn đã tiến hành thống kê, khảo sát lặp ngữ pháp trong 7 tập thơ của Tố Hữu. Đồng

thời, luận văn cũng tiến hành phân loại, phân tích, miêu tả các kiểu, dạng lặp ngữ

pháp xét theo mặt hình thức và chức năng. Từ những kết quả đạt được qua ba

chương, có thể bước đầu rút ra những kết luận sau:

1. Lặp ngữ pháp là phương thức liên kết được sử dụng phổ biến trong tất cả các

loại văn bản, đặc biệt là trong thơ. Đối với Tố Hữu, lặp ngữ pháp với tư cách vừa là

phương thức liên kết, vừa là biện pháp nghệ thuật (biện pháp tu từ) đã được tác giả

khai thác rất hiệu quả.

2. Đáng chú ý của lặp ngữ pháp ở trong thơ Tố Hữu là tần suất sử dụng và sự

phong phú của các kiểu, dạng lặp. Điều này được thể hiện ở việc sử dụng số lượng lớn

(666 trường hợp) các cấu trúc lặp ngữ pháp và ở sự xuất hiện của nhiều kiểu, dạng lặp:

Xét theo mặt khối lượng đơn vị lặp có lặp dòng thơ và lặp khổ thơ; Xét theo cấu trúc

của chủ ngôn và kết ngôn có lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa và lặp khác; Xét theo tính chất

có lặp thuần ngữ pháp và lặp ngữ pháp kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm; Xét theo

sự có mặt của các từ ngữ có lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp có biến đổi; Xét theo số

lần lặp có lặp một lần (lặp đơn) và lặp nhiều lần (lặp phức); Xét theo vị trí của chủ

ngôn và kết ngôn có lặp liền và lặp cách. Việc khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu

xét theo mặt số lượng và hình thức cho thấy nét khác biệt rõ rệt giữa lặp ngữ pháp

trong thơ và lặp ngữ pháp trong văn xuôi (khác ở cả đơn vị lặp và các kiểu, dạng lặp).

Chẳng hạn, hiện tượng lặp nguyên văn và lặp nhiều lần chủ ngôn là hiện tượng hầu như

không có hoặc rất ít trong văn bản văn xuôi. Dù chưa có số liệu đầy đủ, cụ thể nhưng

bước đầu cũng có thể nhận xét rằng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có một số nét khác

biệt so với lặp ngữ pháp trong thơ của các nhà thơ hiện đại khác (khác ở tần suất, hay

tính phổ biến và ở sự phong phú của các kiểu loại lặp được sử dụng).

3.Về chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ ,

lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu (mà trong nhiều trường hợp thường kết hợp với lặp

từ vựng và lặp ngữ âm) không chỉ có tác dụng liên kết (hình thức và nội dung) mà

còn có tác dụng tạo nên sự hài hòa về vần nhịp, tiết tấu của thơ, tác dụng phản ánh

98

phong phú hiện thực, tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu chủ đề, khắc sâu tư tưởng, tình

cảm cần biểu đạt.

Có thể nói cùng với nhiều phương thức và biện pháp nghệ thuật khác, lặp ngữ

pháp trong thơ Tố Hữu đã góp phần tạo nên nét đặc sắc, giá trị nội dung và giá trị

nghệ thuật to lớn cũng như sức hấp dẫn, cuốn hút của thơ ông, đưa thơ Tố Hữu trở

thành “lá cờ đầu” của nền thơ ca cách mạng hiện đại.

Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu là một đề tài thú vị, hấp dẫn nhưng cũng là một

đề tài khó. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do sự hạn chế về điều kiện, năng lực, trình

độ và kinh nghiệm của tác giả nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu

sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa

học để luận văn được hoàn thiện hơn.

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

2. Diệp Quang Ban (chủ biên), Đỗ Hữu Châu (2000), Tiếng Việt 10, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

3. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa (1982), Phong

cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

4. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

5. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Đỗ Hữu Châu (1997), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

7. Phạm Thị Thùy Dương (2008), Từ địa phương trong thơ Tố Hữu, luận văn

thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

8. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã hội.

10. Hà Minh Đức (2004), Tố Hữu - cách mạng và thơ, NXB ĐHQG Hà Nội

11. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể

loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), NXB Đại học & THCN,

Hà Nội.

13. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2003), Dẫn

luận ngôn ngữ học, NXB GD, Hà Nội.

15. Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ Văn

học,NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt : Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ

nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.

17. Nguyễn Chí Hoà (2000), Một vài đặc điểm của phát ngôn có phần dư được hình

thành bằng phương thức lặp, Hội Ngôn ngữ học VN, NXB Nghệ An

100

18. Nguyễn Thái Hòa (1996), Từ điển tu từ – phong cách học, Nxb Giáo dục

19. Lê Thị Hoàn (2011) Đối trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

20. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2010), Tính hội thoại trong thơ Tố Hữu, luận văn

thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.

21. Đoàn Trọng Huy (2012), Tố Hữu – nhà cách mạng – nhà thơ, Nxb. Chính trị

Quốc gia.

22. Tố Hữu (2008) , Toàn tập – Thơ ca – Văn học

23. Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu chuyên luận, Nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp.

24. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

26. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học tiếng Việt, NXB GD,

Hà Nội.

27. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản , Nxb Giáo dục

28. Phong Lan (2001),(tuyển chọn và giới thiệu) Tố Hữu tác giả và tác phẩm, NXB

Giáo dục.

29. Xuân Nguyên (1991), "Từ địa phương miền Trung trong thơ Tố Hữu", Sông

Hương, (10), tr.6-9.

30. Lê Thị Nhường. Cách sử dụng tính từ trong thơ Tố Hữu. Luận văn tốt

nghiệp, số 244

31. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

32. Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách

khoa Việt Nam, Hà Nội.

33. Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (2003), Vần và hiệp vần trong thơ Tố Hữu, Luận

văn tốt nghiệp đại học, Đại học Sư phạm TP HCM.

34. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội.

35. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu chuyên luận, Nxb Văn hóa- thông tin

Hà Nội.

36. Trần Thị Tính (2005), Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng),

101

luận văn thạc sĩ, ĐHSPTPHCM.

37. Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Nguyễn Thái Hòa, Võ Bình (2001), Phong cách

học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

38. Cù Đình Tú (1995), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB GD.

39. Vũ Thị Lệ Tuyết (2012), Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,

ĐHSP-ĐHTN.

40. Lê Đình Tư (2012), Một số vấn đề về ngữ pháp văn bản tiếng Việt, trang

Chuyên ngôn ngữ học.

41. Bùi Tất Tươm -chủ biên (1995), Giáo trình tiếng Việt, NXB GD.

42. Đào Thản (1968), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

43. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Bích Thúy (2005), Tổ chức lời thơ trong thơ Tố Hữu ( So sánh

với đồng hiện tượng trong thơ Huy Cận) Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Viện KHXH

vùng Nam Bộ, TP. HCM.

45. Nguyễn Huệ Yên (2008) Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,

ĐHSP-ĐHTN

46. Лотман Ю.М. Структура художественного текста // Лотман

Ю.М. Об искусстве. – СПб.: «Искусство – СПБ», 1998. – С.59-66.

47. N.D. Arutjunova, Ẩn dụ ngôn ngữ. Cú pháp và từ vựng, Tài liệu dịch của

Hà Quang Năng.

48. F.de. Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã

102

hội, Hà Nội.

PHỤ LỤC 3.1.1 a Sơ đồ phân loại lặp ngữ pháp ở dòng thơ

lặp liền

cách 1 dòng

Theo vị trí

cách gần

cách 1 khổ

lặp cách

đầu - cuối bài thơ

cách xa

cách nhiều dòng

Lặp đơn

lặp 2 lần

Theo số lần

Lặp phức

lặp 5 lần trở lên

lặp 3 lần lặp 4 lần

dòng thơ 2 tiếng

dòng thơ 3 tiếng

dòng thơ 4 tiếng

dòng thơ 5 tiếng

xét theo số tiếng

dòng thơ 6 tiếng

dòng thơ 7 tiếng

Lặp cân

dòng thơ 8 tiếng

lặp cân đối xứng

lặp cân phi đối xứng

xét theo mức độ cân đối

Theo tính cân đối

trung gian

lệch 1 tiếng

LẶP DÒNG THƠ

Lặp lệch

lệch 2 tiếng lệch 3 tiếng lệc 5 tiếng

dòng thơ 2 tiếng

dòng thơ 3 tiếng

dòng thơ 4 tiếng

dòng thơ 5 tiếng

Lặp hoàn toàn

dòng thơ 6 tiếng

dòng thơ 7 tiếng

dòng thơ 8 tiếng

thay đổi vị ngữ

Lặp đủ

thay đổi chủ ngữ

thay đổi bổ ngữ

thay đổi một bộ phận

thay đổi trạng ngữ

thay đổi định ngữ

Lặp không hoàn toàn

thay đổi cụm chủ vị

thay đổi toàn bộ từ ngữ

thay đổi toàn bộ từ ngữ

thay đổi toàn bộ thành phần từ vựng

bộ phận thừa là chủ ngữ

bộ phận thừa là vị ngữ

Theo cấu trúc

Lặp thừa

bộ phận thừa là bổ ngữ

bộ phận thừa là trạng ngữ

bộ phận thừa là định ngữ

bộ phận thiếu là chủ ngữ

Lặp thiếu

bộ phậnthiếu là vị ngữ

bộ phậnthiếu là trạng ngữ

bộ phận khác là chủ ngữ biệt lập

bộ phận khác là cấu trúc vị ngữ

Lặp khác

bộ phận khác là trạng ngữ

bộ phận khác là bổ ngữ

...

3.1.1 b Sơ đồ phân loại lặp ngữ pháp ở nhiều dòng thơ

Khổ thơ 5 tiếng

Lặp một bộ phận của khổ thơ

Khổ thơ 7 tiếng

Khổ thơ lục bát

Theo dung lượng

Khổ thơ 2 dòng Khổ thơ 4 dòng

LẶP NHIỀU DÒNG THƠ

Lặp hoàn toàn

Theo sự có mặt của từ ngữ

Lặp không hoàn toàn

Lặp khổ thơ

Lặp 1 lần

Theo số lần

Lặp nhiều lần

Lặp 2 lần Lặp 3 lần Lặp 4 lần

Theo vị trí

Lặp liền Lặp cách