ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
VI PHƯƠNG THÙY
PHÉP LẶP NGỮ PHÁP
TRONG THƠ TỐ HỮU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
VI PHƯƠNG THÙY
PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO THỊ VÂN
THÁI NGUYÊN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Học viên
Vi Phương Thùy
i
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu của bản thân, đề
tài khóa luận đã được hoàn thành. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới Phòng Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Sư phạm – Đại học
Thái Nguyên, tới các thầy cô giáo trong Khoa Ngữ Văn đã tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS Đào
Thị Vân đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để tôi hoàn thành
tốt luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Học viên
Vi Phương Thùy
ii
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Danh mục các bảng ....................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 2
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................... 3
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ............................................................................. 3
6. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 3
7. Dự kiến đóng góp của luận văn ................................................................................ 3
8. Bố cục luận văn ......................................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN, THỰC TIỄN ................................................................................................... 5
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ....................................................................... 5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phép lặp và lặp ngữ pháp ............................................. 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ Tố Hữu .................................................................. 8
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn ....................................................................................... 9
1.2.1. Một vài nét khái quát về văn bản và ngữ pháp văn bản ...................................... 9
1.2.2. Phép lặp và phép lặp ngữ pháp .......................................................................... 13
1.2.3. Vài nét về Tố Hữu và thơ Tố Hữu ..................................................................... 35
1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................................ 38
Chương 2: PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU VỀ MẶT
HÌNH THỨC .............................................................................................................. 39
2.1. Khái quát về số lượng và các kiểu lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu .................... 39
2.2. Lặp dòng thơ ........................................................................................................ 45
iii
2.2.1. Nhận xét chung .................................................................................................. 45
2.2.2. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn: Lặp đủ,
lặp thừa, lặp thiếu, lặp khác ......................................................................................... 47
2.2.3. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn: lặp
cân và lặp lệch .............................................................................................................. 60
2.2.4. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo số lần lặp (số kết ngôn): lặp một lần (lặp
đơn), lặp nhiều lần (lặp phức) ...................................................................................... 65
2.2.5. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp
liền và lặp cách ........................................................................................................... 69
2.3. Lặp nhiều dòng thơ (lặp bộ phận khổ thơ và lặp khổ thơ) .................................. 72
2.3.1. Lặp bộ phận của khổ thơ (lặp nửa khổ thơ) ....................................................... 72
2.3.2. Lặp khổ thơ ........................................................................................................ 75
2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 82
Chương 3: PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU XÉT THEO
MẶT CHỨC NĂNG .................................................................................................. 84
3.1 Chức năng liên kết văn bản................................................................................... 84
3.2. Chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ ........... 86
3.2.1. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có tác dụng nhấn mạnh góp phần khắc sâu
nội dung tư tưởng, tình cảm cần biểu thị ..................................................................... 86
3.2.2. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu góp phần làm phong phú hiện thực được
phản ánh ....................................................................................................................... 93
3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên sự hài hòa, cân đối về vần, nhịp, tiết tấu
cho khổ thơ, bài thơ ..................................................................................................... 95
3.3. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 96
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 100
iv
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn
và kết ngôn ................................................................................................. 40
Bảng 2.2: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo khối lượng (độ lớn) của chủ ngôn
và kết ngôn ................................................................................................. 41
Bảng 2.3: Thống kê các kiểu lặp xét theo sự có mặt/ vắng mặt của các từ ngữ
trong chủ ngôn và kết ngôn ........................................................................ 42
Bảng 2.4: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo tính chất của phương thức lặp ......... 43
Bảng 2.5: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo số lần lặp ......................................... 44
Bảng 2.6: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn ....... 45
Bảng 2.7: Lặp dòng thơ ............................................................................................... 46
iv
Bảng 2.8: Lặp nhiều dòng thơ ..................................................................................... 72
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tác phẩm văn chương là một chỉnh thể thống nhất của hai mặt: nội dung và
hình thức. Để lĩnh hội được đầy đủ tư tưởng và những thông điệp mà tác giả gửi gắm
trong tác phẩm, người đọc phải đi từ việc phân tích hình thức nghệ thuật, bao gồm các
biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm.
Phép lặp ngữ pháp là một biện pháp ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong các
loại văn bản, trong đó có văn bản văn chương. Nó xuất hiện nhiều trong các tác phẩm
văn học dân gian, văn học trung đại và trong văn học hiện đại. Phép lặp ngữ pháp đã
góp một phần không nhỏ tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ,
góp phần tạo nên nhiều giá trị: giá trị nhận thức, giá trị miêu tả, giá trị biểu cảm, giá trị
kiên kết. Đồng thời, phép lặp ngữ pháp còn tạo nên tính nhạc cho văn bản, đặc biệt là
văn bản thơ.
1.2. Tố Hữu là nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam thế kỷ
XX. Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ
trước đến sau”. Đời thơ Tố Hữu từ “Từ ấy” đến “Ta với ta” là một chặng đường dài
trên 6 thập kỷ của một nhà thơ cách mạng tiêu biểu nhất Việt Nam. Nhìn vào đó, ta
thấy Tố Hữu xứng đáng được coi là nhà thơ trữ tình chính trị số một ở Việt Nam.
Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng một lúc với con đường cách mạng. Sáng
tác của Tố Hữu tràn đầy men say hứng khởi đối với lí tưởng cộng sản. “Lịch trình tiến
triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ
giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển
mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng.” (Lời giới
thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946) và “Tả tình hay
tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người là để nói cho được cái lí tưởng cộng sản
ấy thôi” (Chế Lan Viên). Thơ Tố Hữu tập trung vào những chủ đề lớn, lẽ sống lớn, tình
cảm lớn, niềm vui lớn của người cách mạng, của Đảng, của dân tộc.
Sức cuốn hút của thơ Tố Hữu là sự hòa quyện của nhiều yếu tố nội dung tư
tưởng, nghệ thuật, chất dân tộc đậm đà, giọng điệu,… Trong đó, không thể không kể
đến các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, đối, và đặc biệt là phép lặp được sử
1
dụng rất nhiều và hiệu quả trong các bài thơ của Tố Hữu. Phép lặp góp phần thể hiện
phong phú và linh hoạt những hình tượng, cảm xúc thẩm mỹ , phản ánh mọi mặt của
đời sống sinh hoạt, chính trị, những suy tư và diễn biến tình cảm của nhà thơ cách
mạng số một của Việt Nam - Tố Hữu.
1.3. Các nhà ngôn ngữ học đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu
ở nhiều phương diện. Từ những công trình nghiên cứu đó, ta có thể thấy các biện pháp
nghệ thuật đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của
tác phẩm. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu tính đến thời
điểm hiện nay thì chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về đặc điểm, giá trị
của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu một cách hệ thống, đầy đủ và chuyên sâu từ
góc độ ngôn ngữ học. Vì vậy, việc nghiên cứu phương thức lặp ngữ pháp trong thơ Tố
Hữu có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn.
Về mặt lí luận, với việc triển khai đề tài này, lần đầu tiên có một công trình nghiên
cứu tương đối đầy đủ, sâu sắc và có hệ thống về phép lặp trong thơ Tố Hữu theo hướng
tiếp cận của ngành ngôn ngữ học. Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm sáng tỏ các
giá trị của phép lặp trong thơ hiện đại nói chung và trong thơ Tố Hữu nói riêng.
Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần làm rõ và thể hiện đầy đủ các giá trị của
phép lặp trong thơ Tố Hữu, giúp người đọc hiểu rõ hơn về các sáng tác cũng như quan
điểm nghệ thuật của tác giả. Thông qua đó, tác giả luận văn cũng hi vọng công trình có
thể đưa lại những kết quả mang tính ứng dụng cho việc nghiên cứu và dạy học Ngữ
văn trong nhà trường.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “ Phép lặp ngữ pháp
trong thơ Tố Hữu”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của việc nghiên cứu đề tài này là trên cơ sở xác định những vấn
đề lí luận về phép lặp, lặp ngữ pháp; phân tích, miêu tả làm rõ đặc điểm của phép lặp
ngữ pháp trong thơ của Tố Hữu về các mặt cấu tạo, chức năng, ngữ nghĩa và ngữ
dụng; qua đó, góp phần làm sáng rõ phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề chính là:
- Tìm hiểu những cơ sở lí luận về phép lặp, phép lặp ngữ pháp và những lí thuyết
khác có liên quan đến đề tài. Tham khảo những thành quả nghiên cứu của những người
đi trước để tìm hiểu về hiện tượng lặp trong thơ Tố Hữu.
2
- Tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại phép lặp trong thơ Tố Hữu.
- Miêu tả, làm rõ đặc điểm cấu tạo và chức năng ngữ nghĩa của các kiểu lặp ngữ
pháp thể hiện trong thơ Tố Hữu.
- Đánh giá nét đặc sắc và giá trị nghệ thuật của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thủ pháp lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi của luận văn là đặc điểm và giá trị của biện pháp lặp ngữ pháp trong các
bài thơ của Tố Hữu ở bảy tập thơ Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1947-1954), Gió lộng
(1955-1961), Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977), Một tiếng đờn (1979-
1992),Ta với ta (1992-1999).
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
6.1. Phương pháp khả o sát, thống kê, phân loại.
Phương pháp này được sử dụng để khảo sát, thống kê hiện tượng lặp ngữ pháp ở
những câu thơ, đoạn thơ, bài thơ trong bảy tập thơ của Tố Hữu.
Trên cơ sở kết quả khảo sát, thống kê, sẽ tiến hành xử lí tư liệu, tạo tiền đề cần
thiết cho các bước tiếp theo.
6.2. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng để miêu tả cụ thể đặc điểm của các kiểu lặp theo
cấu trúc, chức năng và khối lượng.
6.3. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu văn học nói chung.
Phương pháp này được chúng tôi vận dụng ở mức độ nhất định, để phân tích lí
giải hiện tượng lặp trong những câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài thơ có tính chất tiêu
biểu, điển hình nhằm minh họa và làm sáng tỏ cho các luận điểm của luận văn. Việc
phân tích ngôn ngữ tác phẩm văn chương sẽ tìm ra cái hay, cái đặc sắc, và giá trị của
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số thủ pháp bổ trợ khác như mô
hình hóa…
phép lặp trong thơ Tố Hữu.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
7.1. Đóng góp về mặt lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần củng cố thêm lí luận về phép
3
lặp, lặp ngữ pháp, bổ sung tư liệu và có thêm luận chứng để đi sâu hơn vào việc
nghiên cứu có hệ thống ngôn ngữ thơ nói chung và ngôn ngữ thơ Tố Hữu nói riêng ở Việt Nam . Qua việc nghiên cứu chi tiết và hệ thống một thủ pháp liên kết văn bản (phép lặp) trong thơ Tố Hữu, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thế giới nghệ
thuật và nội dung tư tưởng trong thơ Tố Hữu. Đồng thời, luận văn cũng cung cấp thêm
một cái nhìn mới về phong cách nghệ thuật của nhà thơ trữ tình chính trị theo hướng
tiếp cận của ngành ngôn ngữ học.
7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng như một tài liệu tham
khảo hữu ích trong việc biên soạn các chuyên đề, bài giảng... về thơ ca nói chung và
thơ Tố Hữu nói riêng. Qua đó, góp phần định hướng cảm thụ và nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học Ngữ văn trong nhà trường.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai
trong 3 chương.
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận, thực tiễn
Ở chương này, luận văn trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu và những
vấn đề lí thuyết cơ bản liên quan trực tiếp đến đề tài như khái quát về ngữ pháp văn
bản, khái niệm văn bản, khái niệm liên kết văn bản, hiện tượng lặp, đặc điểm và vai trò
của phép lặp ngữ pháp trong liên kết văn bản thơ. Ngoài ra, luận văn cũng phân biệt
lặp ngữ pháp với các phương thức liên kết và biện pháp nghệ thuật khác và trình bày
một số nét cơ bản về nhà thơ và đặc điểm thơ Tố Hữu.
Chương 2: Đặc điểm của phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức Trong chương này, luận văn đưa ra kết quả khảo sát và thống kê, phân loại phép lă ̣p ngữ pháp trong thơ Tố Hữu và tiến hành miêu tả đặc điểm của phép lặp ngữ pháp
trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức.
Chương 3: Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt chức năng
Ở chương này, luận văn trình bày kết quả nghiên cứu chức năng của phép lặp
ngữ pháp trong thơ Tố Hữu. Cụ thể trong việc góp phần tăng cường sự liên kết giữa
các dòng thơ, khổ thơ trong bài; thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ.
4
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về phép lặp và lặp ngữ pháp
Theo đề xuất của Beaugrande i Dressler (1990) thì một văn bản cần hội tụ đủ các đặc
trưng sau: tính liên kết (kohezja), tính mạch lạc (koherencja), tính chủ định (intencjonalnos’c’),
tính chấp nhận được (akceptowalnos’c’), tính thông tin (informacyjnos’c’), tính tình huống
(sytuacyjnos’c’), tính liên văn bản (intertekstualnos’c’). Chính vì vậy, văn bản được định nghĩa
là “ một sự kiện giao tiếp đáp ứng được bảy tiêu chuẩn về tính văn bản” nói trên. [ 40 ] Văn
bản tiếng Việt hiện nay cũng được xem xét trên các bình diện đó. Khi các câu (phát ngôn)
trong văn bản sử dụng các yêu tố ngữ âm (âm tiết, vần, phụ âm đầu, thanh điệu), các đơn vị
từ vựng và yếu tố ngữ pháp (hư từ, cấu trúc ngữ pháp) để tạo tính liên kết, ta sẽ có phép lặp
ngữ pháp. Vậy lặp là phương thức sử dụng các yếu tố nói trên lặp lại chúng trong những
phát ngôn khác nhau nhằm tạo ra sự liên kết.
Phép lặp là một trong các phương thức liên kết văn bản . Ở đây, người ta lặp lại
một cách có ý thức hai hay nhiều lần những đơn vị ngữ âm, từ, ngữ và cấu trúc nhất
định. “Phép lặp có cơ sở là quy luật tâm lí, một vật kích thích nhiều lần sẽ làm cho
người ta chú ý” [25, tr 93], một sự lặp lại nghệ thuật sẽ đem đến cho tác phẩm những
hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Mặc dù là sự lặp lại những yếu tố nhất định nhưng theo
diễn tiến thời gian, phép lặp đem đến cho người đọc những ấn tượng mới mẻ, có tính
chất tăng tiến. Phép lặp có tác dụng làm nổi bật và phát triển ý muốn trình bày, tình
cảm muốn biểu hiện hoặc đối tượng muốn nói đến.
Dưới góc độ nghiên cứu khác nhau hiện tượng lặp được gọi tên, phân loại, và
có sự khác biệt ở từng tác giả. Ở Việt Nam, có thể nêu khái quát những tác giả tiêu
biểu đã đề cập đến hiện tượng lặp trong các công trình nghiên cứu của mình như sau:
Trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”, các tác giả Đinh Trọng Lạc,
Nguyễn Thái Hòa khi xem xét hiện tượng lă ̣p như một dạng của phương tiện tu từ
cú pháp đã gọi phép lă ̣p là phép điệp. Các ông đã lần lượt tìm hiểu phép điệp ở các
cấp độ ngôn ngữ và nhấn mạnh phép điệp không chỉ dựa vào một số phương tiện tu
5
từ cố định, tiếng Việt còn mở rộng cách nhấn nghĩa, tạo nghĩa mới bất ngờ, giàu màu sắc
tu từ học. Về phép điệp, ở phương diện tu từ các tác giả nghiên cứu phần điệp ngữ. Khi
trình bày các biện pháp tu từ cú pháp, các tác giả đề cập đến phép dùng cú pháp sóng đôi
(điệp cú pháp). Ở cấp độ ngữ âm, các tác giả chỉ ra biện pháp điệp âm (điệp phụ âm đầu,
điệp vần, điệp thanh). Ở mọi dạng thức, các tác giả đã tìm hiểu, trình bày cụ thể, hệ
thống và làm sáng tỏ về phép điệp ở các cấp độ. Đặc biệt, tác giả đã đề cập đến trường
hợp “điệp khúc là một phương thức ở cấp độ văn bản”. [27, tr 275].
Trong cuốn “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt”, tác giả Đinh Trọng
Lạc tìm hiểu và chia điệp ngữ thành một số kiểu (điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ cách
quãng, điệp ngữ vòng tròn). Ở cấp độ “trên ngữ”, tác giả trình bày về sóng đôi cú pháp.
Còn ở cấp độ tu từ cú pháp thì tác giả nghiên cứu thêm phần lặp đầu, lặp cuối. Tác giả
đã đi sâu vào việc phân tích cụ thể, chi tiết về phép điệp cũng như phạm vi sử dụng, giá
trị của chúng trong hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật [25, tr 93-94].
Trong cuốn “Phong cách học và các phong cách chức năng tiếng Việt”, tác
giả Hữu Đạt đã tìm hiểu giá trị phong cách của một số kiểu điệp từ, ngữ trong tiếng
Việt. Tác giả không đi vào khảo sát phép điệp ở cấp độ ngữ âm mà chỉ dừng lại ở cấp
độ từ (điệp từ) và ngữ (điệp ngữ). Tác giả cũng đề cập đến phép lặp cú pháp với hai
dạng thức: lặp lại một thành phần cú pháp trong câu (lặp lại thành phần chủ ngữ, lặp
lại thành phần vị ngữ) và lặp mô hình câu [9, tr 320].
Trong cuốn “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt”, tác giả Cù Đình
Tú đề cập đến các cách tu từ được cấu tạo theo quan hệ tổ hợp trong đó có phép điệp.
Tác giả chỉ khảo sát phép điệp ở cấp độ từ, ngữ, kiểu câu với tên gọi chung là “điệp
từ ngữ”. Tác giả đã đưa ra các dạng thức của điệp từ ngữ bao gồm: điệp từ ngữ nối
tiếp, điệp từ ngữ cách quãng, và điệp kiểu câu. Nhưng trong phần khảo sát đặc điểm
tu từ tiếng Việt, tác giả không tách “điệp cú pháp” ra tìm hiểu riêng như các tác giả
khác. Trong phần nghiên cứu, tác giả còn chỉ ra cách “ điệp phô diễn” được hiểu “Là
sự mở rộng của điệp kiểu câu, trong đó sự diễn đạt được trình bày tuy dưới những
dạng thức khác nhau nhưng điều xoay quanh một chủ đề” [38, tr 199] và chức năng,
phạm vi sử dụng và cơ sở tâm lý của phép điệp.
6
Trong cuốn “Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, tác giả Bùi
Tất Tươm cũng tìm hiểu phép điệp một cách cụ thể ở một số khía cạnh. Tác giả đã
đưa ra khái niệm và phân tích giá trị tu từ của phép điệp. Dựa vào qui mô của yếu tố
lặp, tác giả chia phép điệp thành hai loại: điệp ngữ, điệp cấu trúc và sóng đôi cú pháp.
Ở hình thức điệp ngữ, tác giả phân loại theo hai hướng khác nhau: dựa vào vị trí của
các yếu tố lặp (điệp ngữ đầu câu, điệp ngữ giữa câu, điệp ngữ cuối câu), dựa
theo chức năng của yếu tố điệp (điệp chủ ngữ, điệp vị ngữ, điệp bổ ngữ). Còn ở các
biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ tổ hợp ngữ âm, tác giả đề cập đến điệp âm bao
gồm điệp phụ âm đầu, điệp vần, điệp thanh. [41, tr 248-255].
Trong “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” của Trần Ngọc Thêm định nghĩa
“phé p lặp là một phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn những yếu tố đã có ở chủ ngôn” [43, tr 87]. Định nghĩa này được nhiều tác giả đồng tình. Từ góc
độ ngữ pháp văn bản, tác giả phân loại phép lặp thành ba dạng: lặp từ vựng, lặp ngữ
âm, lặp ngữ pháp. Ở mỗi dạng, tác giả đi sâu vào phân tích, khái quát các hình thức,
phạm vi sử dụng và giá trị của chúng. Đồng thời, giữa các dạng thức, tác giả đã có sự
lồng ghép đối chiếu, so sánh để thấy được sự khác biệt và các giá trị khu biệt của
chúng. Đề cập đến phép lặp ngữ pháp (một kiểu lặp liên kết), Trần Ngọc Thêm quan
niệm “phép lặp ngữ pháp là một dạng của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại
trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lạp lại một số hư từ mà chủ ngôn sử
dụng” [43, tr 93]. Theo tác giả, lặp ngữ pháp gồm có hai mức độ: lặp cú pháp ( lặp cấu
trúc phát ngôn) và lặp từ cú pháp (các hư từ) trong đó lặp cú pháp là cơ bản [43, tr 94].
Trong cuốn “Văn bản và liên kết văn bản”, khi tìm hiểu phép lặp với tư cách là
một phương tiện liên kết, Diệp Quang Ban đưa ra ba dạng: lặp từ vựng, lặp ngữ pháp và
lặp ngữ âm. Xét ở mức độ gần nghĩa đến xa nghĩa, phép lặp chia thành các dạng: nhắc
lại, đồng nghĩa và gần đồng nghĩa, từ ngữ trên bậc, từ ngữ khái quát. Tuy nhiên, tác giả
cũng chỉ điểm sơ qua chứ chưa đi vào phân tích cụ thể, chi tiết. [1, tr 123]
Qua khảo sát những tài liệu nói trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã chú
trọng đến việc xác định khái niệm, phân loại và tìm ra giá trị của các phép liên kết nói
chung và phép lặp trong đó có lặp ngữ pháp nói riêng. Theo đó, khái niệm lặp và lặp
ngữ pháp được hiểu khá rộng với nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau. Đây là cơ sở lý
luận vô cùng quan trọng để luận văn có thể tham khảo trước khi đi vào nghiên cứu về
phương thức lặp trong thơ Tố Hữu.
7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về thơ Tố Hữu
Trong suốt mấy chục năm qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện tượng, một đối
tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình
tên tuổi trong cả nước như: Hoài Thanh, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ và
các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi ... Rất
nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở các phương diện văn học, thi pháp, phong
cách, thể tài, ngôn ngữ...Do đó, giá trị thơ của Tố Hữu ngày càng được khẳng định.
Thơ Tố Hữu cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học viên, sinh viên chuyên
ngành ngôn ngữ học. Có thể kể đến một số nghiên cứu về thơ Tố Hữu:
+ Lê Anh Hiền (1976), "Về cách dùng tính từ chỉ màu sắc của Tố Hữu", Ngôn
ngữ, (4), tr. 13-20.
+ Xuân Nguyên (1991), "Từ địa phương miền Trung trong thơ Tố Hữu", Sông
Hương, (10), tr.6-9.
+ Nguyễn Thị Bích Thúy (2005), Tổ chức lời thơ trong thơ Tố Hữu ( So sánh
với đồng hiện tượng trong thơ Huy Cận) Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Viện KHXH vùng
Nam Bộ, TP. HCM.
+ Trần Thị Tính (2005), Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng),
luận văn thạc sĩ, ĐHSPTPHCM.
+ Phạm Thị Thùy Dương (2008), Từ địa phương trong thơ Tố Hữu, luận văn
thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
+ Nguyễn Huệ Yên (2008) Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP-ĐHTN
+ Nguyễn Thị Thúy Hồng (2010), Tính hội thoại trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc
sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
+ Lê Thị Hoàn (2011) Đối trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
+ Vũ Thị Lệ Tuyết (2012), Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP-ĐHTN.
+ Lê Thị Nhường. Cách sử dụng tính từ trong thơ Tố Hữu. Luận văn tốt
nghiệp, số 244
8
phương diện liên kết chưa được chú ý nhiều. Đặc biệt là chưa có nghiên cứu về
phép lặp ngữ pháp.
Về mặt ngôn ngữ, thơ Tố Hữu cũng được giới nghiên cứu chú ý. Tuy nhiên, về
Mong muốn được học tập và trau dồi kiến thức về thơ Tố Hữu, muốn tiếp cận thơ
Tố Hữu theo nhiều hướng khác nhau, người viết đã quyết định lựa chọn đề tài “Phép
lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu”.
Với đề tài này, chúng tôi muốn tìm ra được những dấu hiệu thuộc về mặt hình
thức của phép lặp, và những giá trị mà phép lặp mang lại trong thơ Tố Hữu. Chúng tôi
cũng mong muốn khi nghiên cứu đề tài sẽ thấy được những sáng tạo độc đáo của nhà
thơ đồng thời góp phần khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.
1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.2.1. Một vài nét khái quát về văn bản và ngữ pháp văn bản
1.2.1.1. Khái niệm văn bản
Văn bản là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau. Do vậy, cách hiểu văn bản có rất nhiều định nhghĩa. Sự đa dạng, phức tạp của
văn bản khiến nhà ngôn ngữ học Nga Z. Vêginxev ngạc nhiên: “Các nhà khoa học bắt tay
vào nghiên cứu văn bản cũng không ngờ rằng họ phải làm việc với một đối tượng mà về
mặt tầm cỡ không thua kém gì vũ trụ. Thực chất đó chính là vũ trụ ngôn ngữ học”.
Theo các nhà ngôn ngữ học nước ngoài, văn bản là “tổng của những quan hệ cấu
trúc tìm được sự thể hiện ngôn ngữ học” (dẫn theo M.Lôtman), “ là một chuỗi nào đó các
câu kết hợp với nhau trong khuôn khổ ý đồ chung của tác giả” (dẫn theo M.Nicolaeva).
Một định nghĩa khác được xem là trọn vẹn hơn, được trích dẫn nhiều hơn trong các bài
nghiên cứu: “Văn bản đó là tác phẩm của quá trình tạo lời, mang tính cách hoàn chỉnh,
được khách quan hóa dưới dạng tài liệu viết, được trau chuốt văn chương trong các tài
liệu viết, được trau chuốt văn chương theo loại hình tài liệu ấy, là tác phẩm gồm tên gọi
(đầu đề) và có một loại đơn vị riêng (những thể thống nhất trên câu) hợp nhất lại bằng
những loại hình liên hệ khác nhau bằng từ vựng, ngữ pháp, logic, tu từ có một hướng đích
nhất định và một mục tiêu thực dụng” (dẫn theo I.R.Gaperin).
Định nghĩa về văn bản cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học của Việt
Nam quan tâm:
9
Đinh Trọng Lạc quan niệm: “Văn bản … là một thể thống nhất toàn vẹn được
xây dựng theo những quy tắc nhất định” [27, tr7].
Hữu Đạt thì cho rằng: Văn bản là một tập hợp các câu (hay phát ngôn) được kết
hợp với nhau theo một phương thức nhất định đảm bảo cho việc truyền đạt thông tin
có hiệu quả và chính xác.
Bùi Minh Toán - Lê A - Đỗ Việt Hùng (1997), quan niệm: Văn bản vừa là
phương tiện, vừa là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ đó, các tác
giả khẳng định: Văn bản cũng đảm nhận hai chức năng chính: là phương tiện giao
tiếp và là công cụ tư duy của con người.
Định nghĩa của Trần Ngọc Thêm có phần đơn giản hơn: Văn bản là chỉnh thể thống
nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức. Nhưng ông cũng khẳng định thêm: “Văn bản là
một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong
hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những
mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói
chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.” [43, tr 22]
Hiện nay, trong tiếng Việt, văn bản được quan niệm là đơn vị cao nhất của ngôn
ngữ, là sản phẩm ngôn ngữ hoàn chỉnh ở cả ba bình diện: hình thức, cấu trúc và nội
dung. Đó là một chỉnh thể gồm một hay nhiều đoạn văn được liên kết chặt chẽ với
nhau để thể hiện một nội dung hoàn chỉnh.
Trong luận văn, văn bản được hiểu theo cách hiểu vừa nêu trên dây.
1.2.1.2 Khái niệm liên kết và các kiểu liên kết văn bản
Trong mỗi văn bản, các hiện tượng, sự kiện được viết ra thường có mối liên hệ với
nhau để cùng phản ánh một hiện thực khách quan chung; các tình cảm, thái độ của tác
giả được biểu lộ đi kèm mỗi hiện tượng, sự kiện cũng thường có mối liên hệ với nhau và
cùng thể hiện một tư tưởng, tình cảm chung; các đơn vị và kết cấu văn bản thường được
sắp xếp theo một trình tự nào đấy nhằm phản ánh, thể hiện đúng quan hệ logic giữa các
hiện tượng, sự kiện được phản ánh với nghĩ suy, cảm xúc của tác giả.
Ví dụ :
(1)Trong văn hóa Việt Nam, sen là loài hoa biểu trưng cho sự tinh khiết, thanh tao.
(2)Trong Phật giáo, sen biểu trưng cho giá trị đạo đức, thuần khiết, thánh thiện, trí tuệ,
sự giác ngộ và tinh thần bất nhiễm.(3) Trong tâm thức dân gian, sen được ví với những
10
con người có vẻ đẹp cao quý, bản lĩnh. (4)Do đó, từ lâu sen đã đi vào cuộc sống và nghệ
thuật của người Việt. (5)Sen được dùng khá phổ biến trong nghệ thuật tạo hình, cách
điệu trong trang trí kiến trúc và đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ, đồ ngự trong cung đình.
( “Sen, biểu tượng tinh tế và đa dạng”, Ngữ Thiên, Báo Nhân Dân cuối tuần số
23 tháng 6/2015)
Các câu trong ví dụ trên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Các câu 1,2,3 đều thể
hiện nội dung Sen là biểu tượng cho vẻ đẹp phẩm chất của người Việt nhìn từ các góc
độ văn hóa, tín ngưỡng, tâm thức dân gian. Từ đó, các câu 4,5 khẳng định Sen gắn liền
với đời sống vật chất và tinh thần của người Việt từ xưa đến nay. Bằng chứng là nó
xuất hiện đa dạng và phong phú trong nghệ thuật kiến trúc, xây dựng và cả những vật
dụng của người Việt.
Mối liên hệ về nội dung giữa các câu trong đoạn văn trên đây được thể hiện bằng các
phương tiện liên kết hình thức mà tiêu biểu ở đây là phép lặp từ vựng (lặp lại từ “Sen”).
Có thể thấy, liên kết văn bản là mạng lưới các mối quan hệ nội dung, hình thức giữa các
đơn vị trong nội bộ văn bản và các mối quan hệ giữa văn bản với các yếu tố ngoài văn bản.
Theo Trần Ngọc Thêm, liên kết văn bản là “ Những mối quan hệ qua lại phức tạp… tạo
nên một mạng lưới” nhờ đó mà “ các câu gắn bó lại với nhau tạo thành văn bản” [43, tr 18]
“ Tính liên kết có khả năng rất lớn. Nó có thể làm cho một chuỗi câu không liên
quan gì với nhau trở thành một bộ phận của văn bản bằng cách thêm một câu thứ n+1
cho nó. Khi đó, lập tức cả chuỗi câu hỗn độn kia bỗng nhiên cựa quậy và trở nên một
bộ phận hợp pháp của văn bản.” [43, tr 19]
Liên kết văn bản được chia thành hai loại chính là liên kết hình thức và liên kết
nội dung [43, tr 19]. Liên kết hình thức được hiểu là liên kết được xác định dựa đơn
thuần vào một quan hệ, một hệ thống các hình thức giữa các câu (phát ngôn) và được
liên kết bằng các phương tiện ngôn ngữ cụ thể, còn liên kết nội dung là liên kết theo
đó, tất cả các câu trong đoạn văn hay văn bản “ đều phối hợp với nhau một cách hài
hòa, bổ sung cho nhau để cùng thể hiện mộ nội dung” [ 43, tr 20].
Mặc dù về nguyên tắc, có thể và cần phân biệt liên kết nội dung và liên kết hình
thức như chỉ ra trên đây nhưng cần thấy rằng giữa hai mặt liên kết nội dung và liên kết
11
hình thức có mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ theo đó liên kết nội dung được thể hiện
bẳng một hệ thống các phương tiện kiên kết hình thức và liên kết hình thức chủ yếu
dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung [43, tr 21]. Tất nhiên, sự tương ứng giữa hai mặt
liên kết nội dung và hình thức không phải luôn luôn là một đối một.
Do liên kết nội dung và liên kết hình thức là hai mặt gắn bó mật thiết, hữu cơ với
nhau nên mỗi văn bản đích thực (điển hình) đều phải có đủ cả hai mặt liên kết này và
đây cũng là dấu hiệu cho phép phân biệt văn bản với phi văn bản, văn bản điển hình và
văn bản không điển hình.
Trong liên kết văn bản, đơn vị liên kết là câu hay phát ngôn. Theo Trần Ngọc
Thêm “phát ngôn là một bộ phận của đoạn văn, với một cấu trúc và nội dung nhất định
nào đó (đầy đủ hoặc không đầy đủ) được tách ra một cách hoàn chỉnh về hình thức. Ở
dạng viết, nó bắt đầu bằng chữ cái hoa và kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn, ở dạng nói
nó được phát ra theo một kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc bằng một quãng ngắt hơi.
Về mặt lượng, nó có thể được kết thúc bằng một ngữ khí từ” [ 43, tr 42].
Phát ngôn như cách hiểu trên đây về cơ bản tương ứng với “câu” theo cách hiểu
truyền thống. Tuy nhiên, cách hiểu trên đây về phát ngôn có lẽ chỉ thực sự phù hợp với
văn bản văn xuôi. Đối với văn bản thơ, việc áp dụng định nghĩa trên đây về phát ngôn gặp
những khó khăn nhất định (vì các dòng thơ đều bắt đầu bằng chữ cái viết hoa nhưng trong
nhiều trường hợp lại không được kết thúc bằng dấu ngắt phát ngôn). Như vậy, khi phân
tích sự liên kết trong văn bản thơ, cần có sự xem xét cụ thể đơn vị liên kết (cụ thể: Đó là
dòng thơ hay “câu ngữ pháp” có dấu hiệu hình thức là dấu ngắt câu?) Theo chúng tôi, đối
với văn bản thơ, đơn vị liên kết nên được xác định là dòng thơ vì hai lẽ:
a) Thứ nhất: Nếu lấy đơn vị liên kết trong văn bản thơ là “câu ngữ pháp” thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn vì trên thực tế, có khi sau cả một khổ, thậm chí mười dòng thơ
tác giả mới sử dụng một dấu ngắt câu (dấu chấm, dấu hỏi, dấu chấm than).
b) Thứ hai: Các dòng thơ mặc dù không được kết thúc bằng dấu ngắt câu nhưng
đều được bắt đầu bằng chữ cái hoa và do đó giữa chúng luôn có một ranh giới hình
thức rõ ràng để xác định.
Mỗi loại liên kết (liên kết nội dung và liên kết hình thức) nêu trên đây đều bao
gồm một số kiểu liên kết cụ thể.
12
Chẳng hạn, liên kết hình thức bao gồm 5 phương thức dùng chung cho tất cả các
phát ngôn (pháp lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng và phép tuyến tính)
và 3 phương thức dùng riêng cho một số kiểu phát ngôn (phép thế, phép tỉnh lược và phép
nối). Mỗi phương thức trên đây lại có thể bao gồm một số kiểu cụ thể hơn.
1.2.2. Phép lặp và phép lặp ngữ pháp
1.2.2.1. Khái niệm về phương thức lặp
"Lặp là nhắc lại giống y như cái đã có trước" [12, tr 547]
Hiện tượng lặp thường được sử dụng nhiều trong các văn bản nghệ thuật nhằm
tạo nên những giá trị nhất định về mặt liên kết và mặt tu từ như nhấn mạnh, gây cảm
xúc, gây ấn tượng v. v...
"Phương thức lặp là phương thức liên kết thể hiện ở việc lặp lại trong kết ngôn
những yếu tố đã có ở chủ ngôn" [ 14, tr 87].
Phương thức lặp có cả hai yếu tố liên kết (chủ tố và kết tố). Kết tố ở đây được gọi là lặp
tố. Tuỳ thuộc vào tính chất của lặp tố mà phương thức lặp có thể chia thành ba dạng thức:
- Lặp ngữ âm ( vần, nhịp).
- Lặp từ vựng (gọi là lặp từ ngữ).
- Lặp ngữ pháp.
1.2.2.2. Lặp ngữ âm
* Khái niệm: Phép lặp ngữ âm là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở
việc lặp lại trong kết ngôn những yếu tố ngữ âm đã có ở chủ ngôn. [43, tr 102]
Lặp tố là các yếu tố ngữ âm (như âm tiết, số lượng âm tiết, khuôn vần, phụ âm
đầu, thanh điệu,...)
* Phân loại
- Lặp số lượng âm tiết: là kết ngôn lặp lại số lượng âm tiết ở chủ ngôn, nhằm
mục đích tạo sự cân đối, hài hòa.
Ví dụ:
Con chim non không tổ (5 âm tiết)
Trẻ mồ côi không nhà (5 âm tiết)
(Mồ côi, Tố Hữu)
- Lặp vần: là lặp lại những âm tiết có phần vần giống nhau, nhằm mục đích tăng
sức biểu cảm, tăng nhạc tính cho câu thơ
13
Ví dụ:
Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông đã dựng lên thành đồng Tổ quốc! Và
sông Hồng bất khuất có cái chông tre.
(Thép Mới)
- Lặp thanh điệu: sử dụng các tiếng cùng mang một thanh điệu để tạo ra sự
trùng lặp về âm vực (độ cao), tức là để tạo ra một yếu tố làm nên tính nhạc cho câu,
tăng tính tạo hình và biểu cảm.
Lặp thanh bằng có tác dụng biểu đạt sự êm đềm, nhẹ nhàng với tiết tấu chậm, buồn.
Ví dụ:
Mình về mình có nhớ ta
B B B T T B
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
B B B T T B T B
( Việt Bắc, Tố Hữu)
Câu thơ lục bát với thanh bằng là chủ đạo kết hợp với phần vần cũng là thanh
bằng góp phần diễn tả tâm trạng băn khoăn, bịn rịn của người ở (người dân Việt Bắc)
đối với người về xuôi (cán bộ cách mạng).
Lặp thanh trắc thường biểu đạt sự đột ngột, dứt khoát, mạnh mẽ với tiết tấu dồn dập.
Ví dụ:
Hãy nghe tiếng của nghìn xác chết
T B T T B T T
Chết thê thảm, chết một ngày bi thiết
T B T T T B B T
Hãy nghe tiếng của một nghìn cái xác
T B T T T B T T
Không chịu chết vạch trời kêu tội ác
B T T T B B T T
(Tố Hữu)
Thanh trắc được lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc, tất cả các tiếng cuối câu đều
mang thanh trắc làm vang lên tiếng kêu gay gắt, thống thiết, uất ức, căm phẫn
14
Lặp ngữ âm rất phổ biến trong thơ, phú và văn vần. Có trường hợp văn bản tồn
tại chủ yếu bằng liên kết vần nhịp, không có liên kết ở mặt ý nghĩa như các bài đồng
dao: Nu na nu nống, Thả đỉa ba ba, … Những văn bản như vậy có sức sống lâu bền
trong dân gian bởi dễ thuộc, dễ nhớ và giàu tính nhạc.
1.2.2.3. Lặp từ vựng
* Khái niệm: Phép lặp từ vựng là một dạng thức của phương thức lặp mà ở đó
chủ tố và lặp tố là những yếu tố từ vựng (thực từ, cụm từ). [43, tr 88]
Đó là cách dùng đi dùng lại nhiều lần trong văn bản những từ ngữ nhất định ở
những phần không quá xa nhau trong văn bản, nhằm mục đích tạo sự liên kết.
Lặp từ vựng là một hiện tượng rất phổ biến, thường thấy trong mọi hoàn cảnh
giao tiếp, mọi cuộc hội thoại, trao đổi và bao giờ cũng dựa trên một chủ đề nào đó.
Giữa lặp từ vựng và tính liên kết của văn bản tồn tại một mối quan hệ hai chiều.
Trước hết, ở một văn bản liên kết, tất yếu phải có lặp từ vựng. Mặt khác, ở bất kì một
chuỗi câu nào, nếu đã có lặp từ vựng thì sự liên kết cũng xuất hiện. Đó là sự lặp phức
(lặp kép). Như thế, lặp từ vựng là một dạng thức liên kết dùng để thể hiện liên kết chủ
đề của văn bản.
Ví dụ:
Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
(Ta đi tới, Tố Hữu)
* Phân loại:
- Căn cứ vào kích thước của lặp tố so với chủ tố, ta có lặp từ và lặp cụm từ.
Trong lặp cụm từ lại phân biệt lặp hoàn toàn và lặp bộ phận.
+ Lặp từ:
Ví dụ:
"Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru , văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra
ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào.
( Hai đứa trẻ, Thạch Lam )
+ Lặp cụm từ:
Lặp hoàn toàn:
15
Ví dụ:
Từ đó nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó nhân dân ta
càng cực khổ, nghèo nàn.
( Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh)
+ Lặp bộ phận:
Ví dụ:
Buổi sáng, Bé dậy sớm ngồi học bài. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt.
Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói quen ấy. Rét ghê. Thế mà Bé vùng dậy, chui
ra được khỏi cái chăn ấm. Bé ngồi học bài.
( Em bé và Chích Bông, Tô Hoài)
- Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố, có thể chia ra lặp cùng từ loại
và lặp chuyển từ loại.
+ Lặp cùng từ loại:
Ví dụ:
Hồ Chủ tịch và Đảng ta thật là nhà chiến lược thiên tài. Thiên tài là ở chỗ “biết
địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng”(…)
Thiên tài là ở chỗ biết vận dụng quy luật của cuộc dấu tranh cách mạng.
(Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà chiến lược
thiên tài - Người tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta, Phạm Văn Đồng)
+ Lặp chuyển từ loại:
Ví dụ:
Mùa xuân(1) là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2)
( Hồ Chí Minh)
Ở ví dụ trên thì từ “xuân” (1) là danh từ, từ “xuân” (2) là tính từ.
- Căn cứ vào chức năng làm thành phần phát ngôn của chủ tố và lặp tố, có thể
chia ra lặp cùng chức năng và lặp chuyển chức năng.
+ Lặp cùng chức năng:
16
Ví dụ:
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc,
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn.
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả,
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn.
( Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến)
Ở ví dụ trên lặp định ngữ “Tổ quốc” và chủ ngữ “Biển”.
+ Lặp cùng chuyển chức năng:
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền(1)
Thuyền (2)xô sóng(1) dậy
Sóng(2) đẩy thuyển (3)lên
( Tố Hữu)
Ta thấy, từ “thuyền” (1) là vị ngữ, “thuyền” (2) là chủ ngữ, “ thuyền”(3) là bổ
ngữ; từ “sóng” (1) là bổ ngữ, “sóng” (2) là chủ ngữ.
1.2.2.4. Lặp ngữ pháp
a) Khái niệm:
“Phép lặp ngữ pháp là một dạng thức của phương thức lặp thể hiện ở việc lặp lại
trong kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn và có thể lặp cả một số hư từ mà chủ ngôn đã sử
dụng”[ 40; tr 93]. Đó là dạng thức lặp mà chủ tố và lặp tố là một mô hình cấu trúc của
phát ngôn và các hư từ.
Lặp ngữ pháp bao gồm hai mức độ: lặp cú pháp (cấu trúc phát ngôn) và lặp từ
pháp (các hư từ) trong đó lặp cú pháp là cơ bản [43, tr 93].
“Dấu hiệu để nhận biết phép lặp cú pháp là ở chỗ, ngoài phần có chung một kết
cấu, còn có chung một chủ đề và láy lại một số từ nhất định” [37, Tr 247]
- Lặp cú pháp là dùng nhiều lần một kiểu cấu tạo cú pháp nào đó (có thể nguyên
vẹn hoặc biến đổi chút ít) nhằm tạo ra tính liên kết ở những phần văn bản chứa chúng.
Lặp những cấu tạo cú pháp đơn giản và ngắn gọn để gây hiệu quả và nhịp điệu, nhờ đó
gia tăng được tính liên kết
17
Ví dụ:
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa gió bão.
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.
( Thơ tình cuối mùa thu, Xuân Quỳnh)
- Lặp từ pháp là kết ngôn lặp lại các hư từ có ở chủ ngôn. Các hư từ kết hợp với
lặp cú pháp tạo thành các mệnh đề có tính chất tăng tiến, hoặc tăng tính chặt chẽ cho
lập luận.
Ví dụ:
Nếu không có nhân dân thì không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì
không ai dẫn đường.
(Thư gửi các Ủy ban nhân dân các kì, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh)
Trong trường hợp trên đây, vừa có lặp cú pháp (lặp cấu trúc có dạng “có + N”),
vừa có sự lặp lại cặp hư từ (Nếu… thì). Sự kết hợp lặp cú pháp và lặp từ pháp ở trường
hợp vừa dẫn đã giúp cho sự liên kết giữa hai phát ngôn chặt chẽ hơn.
b) Phân loại:
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn, có thể phân loại phép
lặp ngữ pháp thành bốn kiểu: lặp đủ, lặp thừa, lặp thiếu và lặp khác.
- Lặp đủ: là toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn với đầy đủ các thành phần của nó
được lặp lại hoàn toàn ở kết ngôn.
Mô hình: A-B-C. A-B-C
Lặp đủ thuộc nhóm lặp cân và lặp hoàn toàn. Có lặp toàn phần một cấu trúc và
nhiều cấu trúc.
Ví dụ:
Chỉ có đầu của làng nó rơi xuống đất thì đầu con ma làng mình mới chắp lại
được. Chỉ khi nào ngọn mác này dính máu làng nó thì cái nợ này mới trả xong. Mày
là con trai, mày cầm mác. Mày là con gái, mày nhắc lũ đàn ông. Mày còn nhỏ, mày để
bụng. Mày lớn lên, mày phải đi rình.
( Bức thư làng Mực, Nguyễn Chí Trung)
18
Lâu rồi, khao khát lắm, xuân ơi
Nhân loại vươn lên ánh mặt trời
CN VN BN
Nhân loại trườn lên trên biển máu
CN VN BN
Đang nghe xuân tới mở môi cười.
(Xuân nhân loại, Tố Hữu)
Mỗi người thêm một con mắt
Mỗi người thêm nhiều cảm rung
Trời cũng thêm nhiều màu sắc
Đất cũng thêm chiều mênh mông.
( Bạn, Trần Lê Văn)
- Lặp thừa:
+ Lặp thừa là ngoài cấu trúc của chủ ngôn, trong kết ngôn cò n chứ a thêm một
bô ̣ phâ ̣n nào đó mà chủ ngôn không có .
Mô hình: A-B-C.A-B-C-D.
Lặp thừa thuộc nhóm lặp lệch và lặp hoàn toàn.
Ví dụ:
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Việt Bắc, Tố Hữu)
Dành cho củ sắn miếng cơm
Dành cho tấm chiếu, ổ rơm ấm cùng.
(Làng Thượng, Tố Hữu)
+ Tùy theo đặc điểm của phần thêm vào ( phần “thừa”) mà có thể chia thành ba
trường hợp:
Phần thêm vào là những phụ tố của các thành phần phát ngôn hoặc những yếu tố
đồng loại của chúng.
Ví dụ:
Kế hoạch Taylo đã tiêu tan. Kế hoạch Mắc Namara cũng phá sản. Kế hoạch
19
“leo thang” mà hiện nay đế quốc Mĩ đang cố gắng thực hiện ở miền Bắc cũng nhất
định sẽ thất bại.
( Phát biểu tại Quốc hội 4/1965, Hồ Chí Minh)
Phần thêm vào là các thành phần đồng loại hoặc các thành phần phụ của phát ngôn.
Ví dụ:
Hoa vạn thọ thì đôn hậu. Hoa đào thì duyên dáng và khôi ngô.
( Cầm súng, Nguyễn Chí Trung)
Phần thêm vào là các vế của một câu ghép.
Ví dụ:
Việt Bắc đã gọi. Hà Nội đã cho đà. Huế đã xông lên. Bảo Đại đã nộp ấn kiếm,
xin tự hạ bệ.
( Mùa thu ơi…, Hồng Châu)
- Lặp thiếu
+ Lặp thiếu là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận trong kết ngôn
Mô hình: A-B-C.A-B.
Lặp thiếu thuộc nhóm lặp lệch và lặp bộ phận
Ví dụ:
“Tôi đã là con của va ̣n nhà
Là em của va ̣n kiếp phôi pha
Là anh của va ̣n đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
(Từ ấy, Tố Hữu)
+ Tùy theo đặc điểm của phần không lặp ( phần “thiếu”) mà lặp thiếu có thể
chia ra làm ba trường hợp:
Phần không lặp là một hoặc một số thành phần phát ngôn.
Ví dụ:
Vẫn vui như lúc nãy, vợ đi trước thổi sáo. Chồng đằng sau hát theo.
(Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)
Phần không lặp là một vế của phát ngôn ghép.
Ví dụ:
20
Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ.
( Đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh)
Phần không lặp được tách ra thành một phát ngôn riêng. Nghĩa là phát ngôn thứ
nhất liên kết lặp thiếu với từng phát ngôn thứ hai và thứ ba, nhưng lại có liên kết
“lặp đủ” với cả chuỗi hai phát ngôn này.
Ví dụ:
Bom hất Viễn ngã xuống, Viễn lập tức đứng dậy. Một quả bom nữa lại hất
Viễn ngã xuống. Viễn lại đứng dậy.
(Tuổi hai mươi, Nguyễn Thành Long)
- Lặp khác là cấu trúc của chủ ngôn chỉ có một bộ phận được lặp lại trong kế t
ngôn. Ngược lại, cấu trúc của kết ngôn cũng chỉ có một bộ phận là lặp lại chủ ngôn.
Mỗi phát ngôn có một phần khác nhau riêng.
Mô hình: A-B-C.A-B-D.
Lặp khác thuộc nhóm lặp cân và lặp bộ phận
Chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân
ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
( Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh)
Ở ví dụ trên, phần khác ở chủ ngôn là vị ngữ phụ, phần khác ỏ kết ngôn là trạng
tố ở vị ngữ.
Lại đây anh lính đêm ơi
Can chi mà để sầu rơi một mình?
Lại đây đi chút, nghe anh
Lại đây với bạn tâm tình một đêm
(Cảm thông, Tố Hữu)
Lặp khác cho phép thoát ra khỏi sự gò bó, khuôn khổ, giúp cho phát ngôn thêm
uyển chuyển, linh hoạt nhưng vẫn giữ được sự cân đối.
+ Căn cứ vào mức độ lặp thì có thể chia phép lặp ngữ pháp thành hai nhóm: lặp
hoàn toàn (toàn bộ cấu trúc) và lặp bộ phận( một bộ phận của cấu trúc).
+ Căn cứ vào tính cân đối của chủ ngôn và kết ngôn (chủ yếu là vào độ dài của
chúng) thì lặp ngữ pháp cũng chia thành hai nhóm: lặp cân và lặp lệch.
21
Ngoài ra, ở phép lặp ngữ pháp còn có một dạng ít phổ biến đó là hiện tượng lặp
bắc cầu. Nó thường phải có sự hỗ trợ của những yếu tố khác.
Có thể tóm tắt cách phân loại của lặp ngữ pháp như sau:[43, tr 99]
Phân loại theo mức độ lặp PHÂN LOẠI PHÉP LẶP
NGỮ PHÁP Lặp hoàn toàn Lặp bộ phận
1. Lặp đủ 2. Lặp khác Phân
P1 = P2 P1 ∩ P2 loại Lặp cân A-B-C. A-B-C A-B-C. A-B-D theo
tính 3. Lặp thừa 4. Lặp thiếu
cân P1 P2 P1 P2 Lặp lệch đối A-B-C . A-B-C-D A-B-C . A-B
c) Phân biệt lặp ngữ pháp với các phương thức liên kết và biện pháp nghệ thuật khác
Khi xác định khái niệm lặp ngữ pháp theo cách hiểu trên đây, cần phân biệt phép
lặp ngữ pháp với phép lặp từ vựng (lặp từ ngữ) và phép đối (với tư cách là một phương
thức liên kết văn bản). Mặt khác, cũng cần phân biệt phép lặp ngữ pháp (với tư cách là
một phương thức liên kết văn bản) với thủ pháp đối (đối ngẫu) với tư cách là một biện
pháp tu từ nghệ thuật thường được sử dụng trong thơ văn.
Mặc dù lặp từ vựng hay lặp từ ngữ cũng là một phương thức liên kết văn bản nhưng
khác với lặp ngữ pháp, ở lặp từ vựng, đơn vị được lặp lại là các đơn vị từ vựng (chủ yếu là
thực từ) còn ở lặp ngữ pháp các đơn vị được lặp lại là các cấu trúc cú pháp (các mô hình
cú pháp) và các hư từ. Chẳng hạn, ở trường hợp dưới đây chỉ có phương thức lặp từ vựng
chứ không có lặp ngữ pháp (vì cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn rất khác nhau).
Ví dụ:
Lực lượng giai cấp công nhân và nhân dân lao động rất to lớn. Nhưng lực
lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi.
(Hồ Chí Minh)
Trái lại, ở hai ví dụ dưới đây chỉ có hiện tượng lặp ngữ pháp mà không có hiện
tượng lặp từ vựng (vì không có thực từ nào được lặp lại):
22
Ví dụ:
Việt Bắc đã gọi. Hà Nội đã cho đà. Huế đã xông lên.
Bảo Đại đã nộp ấn kiếm, xin tự hạ bệ.
(Hồng Châu)
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
(Tố Hữu)
Mặc dù lặp từ vựng và lặp ngữ pháp là hai phương thức liên kết khác nhau như chỉ ra
trên đây nhưng cần thấy rằng có những trường hợp có sự kết hợp đồng thời giữa hai phương
thức này. Trong trường hợp đó, sự liên kết giữa các phát ngôn sẽ trở nên chặt chẽ hơn.
Ví dụ:
Mặc dù giặc Tây độc ác, chúng quyết không thể ngăn trở trăng thu vừa đẹp, vừa tròn.
Mặc dù giặc Tây hung tàn, chúng quyết không thể ngăn trở các cháu vui tươi, hăng hái.
Mặc dù giặc Tây bạo ngược, chúng không thể ngăn trở chúng ta kháng chiến
thắng lợi, thống nhất và độc lập thành công.
(Hồ Chí Minh)
Trong trường hợp trên đây, ở các phát ngôn (câu) thứ hai và thứ ba vừa có sự lặp
lại cấu trúc của phát ngôn thứ nhất và lặp lại một số hư từ “ Mặc dù…”, đồng thời có
sự lặp lại một số đơn vị từ vựng (giặc Tây , chúng , quyết không thể…)
Lặp ngữ pháp cũng cần được phân biệt với phép đối với tư cách là một phương
tức liên kết [43, tr 113]. Theo Trần Ngọc Thêm “phép đối là phương thức liên kết thể
hiện ở việc sử dụng trong kết ngôn một ngữ đoạn (từ hoặc cùm từ ) có ý nghĩa đối lập
với một ngữ đoạn nào đó có ở chủ ngôn” [43, tr 104]. Phép đối (với tư cách là một
phương thức liên kết văn bản) theo định nghĩa trên đây rõ ràng về bản chất, khác với
đối (đối ngẫu) với tư cách là một thủ pháp nghệ thuật chủ yếu dùng trong văn thơ.
Phép đối liên kết theo cách hiểu trên đây cũng khác về bản chất với phép lặp ngữ pháp
ở chỗ: ở phép đối, giữa chủ ngôn và kết ngôn không nhất thiết phải có sự lặp lại (sự
giống nhau) về cấu trúc trong khi ở lặp ngữ pháp, yêu cầu này là bắt buộc.
So sánh:
- Phép đối:
23
Ví dụ:
Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh.
(Nam Cao)
Ở ví dụ này, chỉ có sự xuất hiện trong chủ ngôn và kết ngôn các từ trái nghĩa: yếu
đuối/ mạnh; hiền lành/ ác chứ không có sự giống nhau về cấu trúc.
- Phép lặp ngữ pháp:(lặp thừa)
Ví dụ:
Hoa vạn thị thì đôn hậu. Hoa đào thì duyên dáng và khôi ngô.
(Nguyễn Chí Trung)
Ở ví dụ vừa dẫn, chủ ngôn và kết ngôn có sự giống nhau về cấu trúc nhưng lại
không có sự xuất hiện của các từ trái nghĩa.
Mặc dù có sự khác nhau bản chất như chỉ ra trên đây nhưng cũng có thể gặp
những tường hợp có sự tích hợp giữa phép đối và phép lặp ngữ pháp. Đó là trường hợp
trong chủ ngôn và kết ngôn vừa có sự giống nhau (lặp lại) về cấu trúc, vừa chứa các từ
trái nghĩa (lâm thời) với nhau (bướm và tằm) ở ví dụ sau đây:
Tôi không muốn là bướm. Tôi chỉ muốn là tằm.
(Lưu Quý Kỳ)
Như đã thấy, ví dụ trên đây vừa có thể dùng làm dẫn chứng về phép lặp ngữ pháp
(với sự lặp lại cấu trúc của chủ ngôn ở kết ngôn) vừa có thể dùng làm dẫn chứng về
phép đối liên kết (với việc sử dụng các từ trái nghĩa ở chủ ngôn và kết ngôn).
Khi xác định phép lặp ngữ pháp với tư cách là một phương thức liên kết văn bản,
cũng cần phân biệt phương thức này với biện pháp đối (đối ngẫu) với tư cách là một
biện pháp nghệ thuật thường được dùng trong văn thơ. Để làm rõ vấn dề này , cần đề
cập đến cách hiểu về khái niệm đối (đối ngẫu).
Theo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học)
“Đối, còn gọi là đối ngẫu (đối: sóng nhau; ngẫu: chẵn, đôi) là một phương thức tổ
chức lời văn bằng cách điệp cú pháp nhằm tạo ra hai vế, mỗi vế là một câu tương đối
hoàn chỉnh, được viết thành hai dòng cân đối, sóng đôi với nhau”[15, tr 122].
Trong cuốn “Thơ ca Việt nam, hình thức và thể loại” Bùi Văn Nguyên, Hà Minh
Đức cho rằng “đối nghĩa là thành đôi và tương xứng với nhau” [11, tr 139]. Các tác
24
giả cho rằng đối luôn phải có hai vế (thành đôi) và phải có sự cân xứng nhau về thanh,
về số lượng âm tiết, về từ loại). Ngoài ra, các tác giả còn phân biệt đối thanh và đối ý.
Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên), “đối là hai từ hoặc hai vế câu
cân xứng với nhau về nội dung, giống nhau về từ loại, trái nhau về thanh điệu bằng
trắc và được đặt trong thế tương ứng với nhau thành từng cặp (ở một số điểm đã quy
định) để tạo nên giá trị tu từ nhất định” [31, tr 446] .
Qua các cách hiểu dẫn ra trên đây, có thể thấy đối nói chung được hiểu là một
biện pháp nghệ thuật theo đó, có sự sử dụng sóng đôi các cấu trúc cân xứng với nhau
(về từ loại, về số lượng âm tiết, về thanh, về ý). Với cách hiểu này thì ở biện pháp đối
luôn có hai vế và hai vế này luôn có sự cân xứng nhau về các mặt. Khái niệm đối có
thể được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo cách hiểu hẹp thì “đối chỉ gồm hai
vế, mỗi vế là một câu tương đối hoàn chỉnh, được viết thành hai dòng cân đối, sóng
đôi với nhau” [15,tr 122]. Nói cách khác, cách hiểu hẹp về đối cho rằng mỗi vế đối
phải là “ một câu” hay một dòng thơ. Khác với cách hiểu này, cách hiểu rộng về đối
cho rằng đối không chỉ gồm các vế có cấu tạo là “một câu” hay một dòng thơ mà còn
gồm các vế có cấu tạo là một vế câu hay một bộ phận , một thành phần câu hay dòng
thơ nhất định. Kiểu đối mà mỗi vế đối chỉ là một vế câu hay một bộ phận của câu
(dòng thơ) thường được gọi là tiểu đối.
Kiểu đối mà mỗi vế là một câu văn hay một dòng thơ được dùng phổ biến trong
lối làm câu đối, trong văn thơ cổ (văn biền ngẫu), trong thơ trung đại và cũng được sử
dụng cả trong văn thơ cận hiện đại.
Ví dụ:
Trời sinh ông Tú Cát
Đất nứt con bọ hung
(câu đối)
Bần cư trung thị vô nhân vấn
Phú tại sơn lâm hữu khánh tầm
(Câu đối)
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)
25
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
(Nguyễn Khuyến)
Kiểu đối mà mỗi vế đối là một bộ phận của câu hay dòng thơ thường được dùng
trong thơ văn nói chung nhưng phổ biến nhất là trong thơ. Chẳng hạn, trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du, có thể gặp khá nhiều các kiểu dạng tiểu đối.
Ví dụ:
- Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng/ hai kinh vững vàng
- Người lên ngựa/ kẻ chia bào
- Người nách thước/ kẻ tay đao
- Quạt nông/ ấp lạnh những ai đó giờ
- Cát vàng cồn nọ/ dặm hồng bụi kia
Trong thơ Tố Hữu, cũng có thể gặp khá phổ biến các cấu trúc có dạng tiểu đối.
Ví dụ:
Đá đít/ bạt tai
…
Dọn nhà/ sửa cửa
(Bà mẹ Việt Bắc)
Than Phấn Mễ/ thiếc Cao Bằng
Chiếu Nga Sơn/ gạch Bát Tràng
Vải tơ NamĐịnh/ luạ hàng Hà Đông
(Việt Bắc)
Không ham mái ngói/ chẳng cầu tường vôi
(Trường tôi)
Trẻ làm đuốc sống/ già xây lửa đồn
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Qua cách hiểu cũng như qua các ví dụ vừa dẫn về đối (đối ngẫu) với tư cách là
một biện pháp tu từ, có thể nhận thấy những nét tương đồng hay gần gũi và những nét
khác biệt giữa biện pháp lặp ngữ pháp (với tư cách là một phương thức liên kết văn
bản). Cụ thể:
26
- Nét giống nhau:
+ Ở đối (đối ngẫu) và lặp ngữ pháp đều có sự lặp lại cấu trúc.
+ Kiểu đối mà vế đối có cấu trúc là câu hay dòng thơ cũng có tác dụng liên kết
văn bản nhất định giống như lặp ngữ pháp.
- Khác nhau:
+ Ở đối luôn phải có sự “sóng đôi” cấu trúc, tức là luôn phải có hai vế, còn ở lặp
ngữ pháp, yêu cầu này không có tính bắt buộc (số lượng) đơn vị tham gia lặp ngữ pháp
có thể là hai hoặc hơn hai như đã chỉ ra.
+ Ở đối, giữa các vế luôn phải có sự cân xứng (về số lượng, về từ loại, thậm chí
cả về thanh điệu, về ý), còn ở lặp ngữ pháp yêu cầu này cũng không phải là bắt buộc
(vì vậy, ở lặp ngữ pháp, ngoài lặp đủ, còn có lặp khác, lặp thừa, lặp thiếu).
+ Ở đối, yêu cầu “đối xứng” đòi hỏi giữa các yếu tố bộ phận trong cấu trúc vừa
phải giống nhau, vừa phải khác nhau (chẳng hạn, ở các thành ngữ đối như: “ khôn nhà
dại chợ”, “ đục nước béo cò”); Ở lặp ngữ pháp, yêu cầu này cũng không phải là bắt
buộc. Chính điều này giải thích vì sao ở cấu trúc đối (điển hình) nói chung không có
hiện tượng lặp từ vựng. Trong khi đó, ở lặp ngữ pháp hiện tượng lặp từ vựng (kiểu
như: “Đã nghe nước chảy lên non, Đã nghe đất chuyển thành con sông dài”) lại là
hiện tượng phổ biến.
+ Ở đối, đơn vị tham gia (các vế đối) có thể là câu (dòng thơ) hoặc là vế câu (bộ
phận của dòng thơ), còn ở lặp ngữ pháp (với tư cách là một phương tiện liên kết văn
bản), các đơn vị tham gia vào quan hệ lặp phải là câu văn hay dòng thơ (khổ thơ), tức
là những đơn vị liên kết văn bản.
Mặc dù có những điểm khác nhau cơ bản như chỉ ra trên đây nhưng cũng cần
thấy rằng giữa đối (đối ngẫu) và lặp ngữ pháp cũng có sự giao nhau ở một bộ phận, tức
là có những trường hợp vừa là đối, vừa là lặp ngữ pháp. Đó chính là những trường hợp
của những cấu trúc đối mà mỗi vế là một câu hay một dòng thơ.
Ví dụ:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn
(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)
27
Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
(Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu)
Những ví dụ trên đây cần được coi là đối (vì chúng đáp ứng đầy đủ tiêu chí của
đối theo định nghĩa đã nêu, cụ thể là cũng gồm hai vế đối xứng nhau về các mặt số
lượng tiếng, từ loại, và cả ý nghĩa). Mặt khác, những ví dụ này cũng đáp ứng được các
tiêu chí của lặp ngữ pháp (các đơn vị ở mỗi trường hợp này có sự trùng lặp về cấu trúc
hay mô hình cú pháp).
Như vậy, có thể thấy một bộ phận của đối hay đối ngẫu đồng thời là lặp ngữ
pháp. Sự không trùng nhau giữa đối và lặp ngữ pháp chính là ở chỗ:
- Một bộ phận của đối (cụ thể là tiểu đối, tức là kiểu đối mà mỗi vế là một bộ
phận của câu hay của dòng thơ) không thuộc về lặp ngữ pháp (vì kiểu đối này không
có chức năng liên kết văn bản).
- Mặt khác, trong nhiều trường hợp, lặp ngữ pháp hoàn toàn không phải là đối;
đó là những trường hợp ở lặp ngữ pháp đồng thời lặp từ vựng và trường hợp ở lặp ngữ
pháp có sự lặp lại hơn hai lần chủ ngôn.
Sự phân tích trên đây cho thấy rõ mối quan hệ, sự gần gũi, sự giao nhau giữa lặp
ngữ pháp với lặp từ vựng và phép đối liên kết cũng như biện pháp đối với tư cách là một
biện pháp nghệ thuật thường dùng trong văn thơ, đặc biệt là văn thơ cổ và trung đại.
Trên cơ sở xác định khái niệm lặp ngữ pháp như trên, dưới đây, chúng ta sẽ xem xét
vấn đề phân loại lặp ngữ pháp và các kiểu lặp ngữ pháp cụ thể, trong đó, sẽ đặc biệt chú ý
đến hiện tượng lặp ngữ pháp trong thơ là nội dung sẽ được khảo sát trong luận văn này.
Như dã chỉ ra ở mục 1.1 (Tổng quan về tình hình nghiên cứu), khi phân loại lặp
ngữ pháp, căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn, người ta thường
chia lặp ngữ pháp thành: lặp đủ, lặp khác, lặp thừa và lặp thiếu. Cách hiểu và ví dụ về
mỗi kiểu lặp này trong văn bản văn xuôi đã được chỉ ở mục “Tổng quan”. Ở đây,
chúng tôi xin nêu thêm một số ví dụ về các kiểu lặp này trên cứ liệu văn bản thơ.
- Lặp đủ: Đây là kiểu lặp toàn bộ cấu trúc của dòng thơ đứng trước ( chủ ngôn).
Ví dụ:
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
( Mồ côi )
28
Đây thành lao, cửa ngục
Đây xiềng xích, gông cùm
Đây mũi súng, làn gươm
( Ba tiếng)
- Lặp khác: Ở kiểu lặp này cấu trúc của dòng thơ trước (chủ ngôn) được lặp lại ở
một bộ phận (quan trọng) của các dòng sau (kết ngôn) (bộ phận còn lại có vai trò, chức
năng khác nhau).
Ví dụ:
Sống đã vì cách mạng anh em ta
Chết cũng vì cách mạng chẳng phiền hà
( Trăng trối)
Ở ví dụ này, bộ phận khác là “anh em ta” và “chẳng phiền hà” có chức năng cú
pháp khác nhau.
Đây là tiếng, hỡi bạn đời yêu dấu
…
Đây là lời trăng trối để chia ly.
(Trăng trối)
Ở ví dụ trên đây, bộ phận đuợc lặp lại (có cấu trúc giống nhau) là “Đây ba
tiếng”, “Đây là lời”, còn bộ phận khác nhau là bộ phận còn lại ở mỗi dòng thơ.
- Lặp thiếu: Đây là kiểu lặp mà các thành phần thuộc cấu trúc của dòng thơ trước
(chủ ngôn) không được lặp lại đầy đủ ở dòng thơ sau (kết ngôn).
Ví dụ:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
( Từ ấy)
Cùng ngây thơ, khờ dại như chim non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy trắng
(Hai đứa trẻ)
29
Ở ví dụ thứ nhất, yếu tố không được lặp lại là chủ ngữ (tôi). Ở ví dự thứ hai, yếu
tố không được lặp lại là thành phần đồng loại ở dòng thứ nhất (khờ dại).
- Lặp thừa:
Ở kiều lặp này, ngoài sự lặp lại các thành phần của cấu trúc trong dòng thơ thứ
nhất (chủ ngôn) ở dòng thơ sau (kết ngôn) còn có sự xuất hiện của một hay một số
thành phần nào đó không có ở dòng thứ nhất.
Ví dụ:
Buồn ta, ấy lửa đương nhen
Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng
(Cảm thông)
Hai phen nước bạc ngập đồng
Hai phen nước mắt đầy lòng héo hon
(Tiếng hát trên đê)
Mặc dù việc phân chia lặp ngữ pháp thành các kiểu như trên đây là có cơ sở
nhưng cần thấy rằng trên thực tế, ranh giới hay sự đối lập giữa các kiểu lặp này không
phải bao giờ cũng rõ ràng; do đó, việc xác định, phân biệt các kiểu lặp gặp nhiều khó
khăn và chỉ có thể đạt được ở mức độ tương đối.
Cách phân chia lặp ngữ pháp thành 4 kiểu như trên đây có tính khái quát cao và
phản ánh sự đối lập thực tế giữa các kiểu lặp ngữ pháp trong các loại văn bản nói
chung. Tuy nhiên, khi áp dụng vào văn bản thơ, có thể nhận thấy sự không đầy đủ của
sự phân chia này. Do đó, theo chúng tôi , đối với văn bản thơ, cần có sự bổ sung một
số tiêu chí. Cụ thể:
- Theo sự có mặt của các từ ngữ trong chủ ngôn (dòng thơ trước) và kết ngôn
(dòng thơ lặp lại) có thể phân biệt: lặp hoàn toàn (lặp nguyên vẹn hay nguyên văn) và
lặp không hoàn toàn (lặp có thay đổi từ ngữ cụ thể).
Ví dụ:
+ Lặp hoàn toàn ( nguyên văn)
Hỡi những con khôn của giống nòi
…
Hỡi những con khôn của giống nòi
(Dậy lên thanh niên)
30
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
…
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
( Nhớ đồng )
+ Lặp không hoàn toàn (có thay đổi)
Có lành đâu vết thương đầy oán hận
Có tan đâu khi uất tự bao giờ
(Tháp đổ)
Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn?
Có gì đâu ta ôm mối căm hờn?
(Hãy đứng dậy)
- Theo đặc điểm cấu trúc và khối lượng của chủ ngôn và kết ngôn, có thể phân
biệt: lặp dòng thơ và lặp khổ thơ (gồm nhiều dòng thơ). Kiểu lặp dòng thơ rất phổ
biến như có thể thấy qua các ví dụ đã dẫn ở trên. Dưới đây là ví dụ về lặp khổ thơ:
Ví dụ:
Nhật Hoàng! Nhật Hoàng
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận của Phù Tang
Đã vang cùng sóng bể!
…
Nhật Hoàng! Nhật Hoàng
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận của Phù Tang
Đã vang cùng sóng bể!
( Đông Kinh nhuộm máu)
Mặc dù việc lặp khổ thơ không phổ biến bằng việc lặp dòng thơ nhưng cũng
không phải là hiện tượng ít gặp, đặc biệt trong thơ Tố Hữu. Trong thơ ca nước ngoài,
hiện tượng lặp khổ thơ cũng khá phổ biến mà dưới đây là một ví dụ về hiện tượng lặp
khổ thơ thể hiện qua một bài thơ dịch.
31
Trong mơ anh đã khóc
Thấy em trong áo quan,
Đến khi anh tỉnh giấc
Nước mắt cứ tuôn tràn
Trong mơ anh đã khóc,
Thấy em không trung thành,
Tỉnh dậy, anh, đôi mắt
Lệ đắng còn chảy quanh
Trong mơ anh đã khóc,
Thấy em vẫn dịu hiền.
Thế rồi anh tỉnh giấc
Nước mắt cứ triền miên.
( Thơ của H. Hainơ)
Một ví dụ khác về hiện tượng lặp khổ thơ trong thơ ca nước ngoài là bài “Bài ca
người du kích” được Tố Hữu chuyển dịch từ dân ca Nam Tư, trong đó có đến 5 khổ
thơ có cùng dạng cấu trúc (khuôn hình) được lặp lại.
-Theo số lần lặp lại (số dòng thơ hay khổ thơ được lặp lại) có thể phân biệt các
dạng: lặp một lần (lặp đơn) và lặp nhiều lần (hay lặp kép, lặp phức)
+ Lặp đơn:
Ai đâu giam cấm được hồn ta
Ai đâu giam cấm được lời ca
( 14 tháng 7)
+ Lặp kép (lặp phức)
Lặp hai lần:
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh.
(Tâm tư trong tù)
32
Lặp ba lần
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
( Nhớ đồng)
Lặp bốn lần
Ai qua Phú Thọ
Ai xuôi Trung Hà
Ai về Hưng Hoá
Ai xuống khu Ba
Ai vào khu Bốn
(Ta đi tới)
Lặp năm lần
Nó giật mái tranh
Nó tìm lục khắp
Nó tung bát đĩa
Nó đập héc vài
Nó chẳng thấy gì
Nó trói thằng cả
(Bà mẹ Việt Bắc)
- Theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn có thể phân biệt lặp liền và lặp cách
(còn gọi là “lặp bắc cầu”)
+ Lặp liền ( song song): Ở kiểu lặp này chủ ngôn và kết ngôn đi liền nhau.
Ví dụ:
Anh nghe thu rứt lá gọi đời đi
Tôi thấy cả một mùa xuân bước lại.
(Những người không chết)
33
+ Lặp cách: Ở kiểu lặp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng xa nhau (giữa chúng có
các dòng thơ khác)
Ví dụ:
Hỡi những con khôn của giống nòi
Những chàng trai quý, gái yêu ơi!
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi?
Hỡi những con khôn của giống nòi
Đã từng đau tự thuở trong nôi
Đã từng thấy Mẹ lăn trong máu
Lệ đã cay chua ngấm nụ cười.
(Dậy lên thanh niên)
Trong lặp cách, chủ ngôn và kết ngôn có thể đứng cách nhau một hoặc một vài
dòng thư như trên đây, nhưng cũng có những trường hợp chủ ngôn và kết ngôn đứng
rất xa nhau. Chẳng hạn như bài “Tiếng hát Sông Hương”, chủ ngôn “Trên dòng
Hương Giang” còn kết ngôn “Trên dòng Hương Giang” đứng ở cuối bài thơ (nhằm
tạo một kết thúc mở cho bài thơ).
Những điểm bổ sung trong cách phân loại lặp ngữ pháp trong văn bản thơ như
vừa trình bày trên đây cho thấy sự phong phú, phức tạp cũng như những nét riêng của
phương thức lặp ngữ pháp trong văn bản thơ so với văn bản văn xuôi. Nếu đi vào cụ
thể, còn có thể thấy ở mỗi kiểu lặp ngữ pháp trong văn bản thơ vừa giới thiệu trên đây
còn có thể phân chia cụ thể hơn nữa (chẳng hạn, ở lặp dòng thơ và lặp khổ thơ đều có
thể có các dạng lặp nguyên văn (hoàn toàn) và lặp không nguyên văn (không hoàn
toàn, có biến đổi), lặp liền và lặp cách, lặp một lần và lặp nhiều lần, lặp đủ, lặp khác,
lặp thiếu, lặp thừa…
Những nội dung cụ thể này sẽ được xem xét khi phân tích, miêu tả về các kiểu
lặp ngữ pháp cụ thể trong thơ Tố Hữu.
34
1.2.3. Vài nét về Tố Hữu và thơ Tố Hữu
1.2.3.1. Cuộc đời
Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Hội An, tỉnh
Quảng Nam, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông thân
sinh Tố Hữu là một nhà nho nghèo bà mẹ nhà thơ cũng là con một nhà nho, cả hai
người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian. Năm 12 tuổi Tố Hữu
mồ côi mẹ, một năm sau lại xa gia đình vào học trường Quốc học Huế. Bước vào tuổi
thanh niên, Tố Hữu tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành người lãnh
đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ Huế, rồi được kết nạp vào Đảng cộng sản
Đông Dương. Cuối tháng 4-1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa
Thiên, rồi lần lượt bị giam giữ trong nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây
Nguyên. Tháng 3-1942, Tố Hữu vượt ngục Đắc Lay (Kon Tum), tìm ra Thanh Hóa,
bắt liên lạc với tổ chức cách mạng, tiếp tục hoạt động. Trong Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Tố Hữu là Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa ở Huế. Kháng chiến toàn quốc bùng
nổ, Tố Hữu công tác ở Thanh Hóa rồi lên Việt Bắc đặc trách về công tác văn hóa văn
nghệ ở cơ quan Trung ương Đảng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
đế quốc Mĩ và cho đến năm 1986, Tố Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong
bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là Ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản
Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Năm 1996,
ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
1.2.3.2. Đường cách mạng, đường thơ
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng
đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của
dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và
bản lĩnh nghệ thuật của chính nhà thơ.
Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946) là chặng đường đầu tiên của đời thơ Tố Hữu, đánh
dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ của Đảng. Tập
thơ chia làm ba phần. “Máu lửa” gồm những bài sáng tác trong thời kì Mặt trận Dân
chủ. Nhà thơ cảm thông sâu sắc với cuộc sống cơ cực của những người nghèo khổ
35
trong xã hội (lão đầy tớ, chị vú em, cô gái giang hồ, những em bé đi ở, mồ côi, hát
dạo…), đồng thời khơi dậy ở họ ý chí đấu tranh và niềm tin vào tương lai. “Xiềng
xích” gồm những bài sáng tác trong các nhà lao ở Trung bộ và Tây Nguyên. Đó là tâm
tư của một người trẻ tuổi tha thiết yêu đời và khao khát tự do, là ý chí kiên cường của
người chiến sĩ quyết tâm tiếp tục chiến đấu ngay trong nhà tù. “Giải phóng” gồm
những bài sáng tác từ khi Tố Hữu vượt ngục đến những ngày đầu giải phóng vĩ đại của
toàn dân tộc. Nhà thơ nồng nhiệt ca ngợi thắng lợi của cách mạng, nền độc lập tự do
của Tổ quốc, khẳng định niềm tin tưởng vững chắc của nhân dân vào chế độ mới.
Tập thơ “Việt Bắc”(1946-1954) là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng
chiến chống Pháp và những con người kháng chiến. Họ là những người lao động rất
bình thường và cũng rất anh hùng. Với tấm lòng yêu thương thắm thiết và cảm phục
sâu sắc, Tố Hữu đã miêu tả và ca ngợi anh vệ quốc quân, bà mẹ nông dân, chị phụ nữ,
em liên lạc…Nhà thơ ca ngợi đảng và Bác Hồ đã khơi nguồn và phát huy sức mạnh
của quân dân ta để đánh thắng kẻ thù. Nhiều tình cảm lớn được thể hiện sâu đậm: tình
quân dân “cá nước”, tiền tuyến với hậu phương, miền xuôi với miền ngược, cán bộ với
quần chúng nhân dân với lãnh tụ, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, tình cảm quốc tế
vô sản,…Tập thơ kết thúc bằng những bài hùng ca vang dội phản ánh khí thế chiến
thắng hào hùng, biết bao tình cảm bồi hồi, xúc động của dân tộc trong giờ phút lịch sử.
Tập thơ “Gió lộng” (1955-1961) dạt dào bao nguồn cảm hứng lớn lao trong giai
đoạn cách mạng mới. Nhà thơ hướng về hướng về quá khứ để thấm thía những nỗi đau
khổ của cha ông, công lao của các thế hệ đi trước mở đường, từ đó ghi sâu ân tình của
cách mạng. Qua sự cảm nhận của Tố Hữu, cuộc sống mới trên miền Bắc thực sự là
một ngày hội lớn, nhìn vào đâu cũng thấy tràn đầy sức sống và niềm vui. Đất nước đau
nỗi đau chia cắt, thơ Tố Hữu là tình cảm thiết tha, sâu nặng với miền Nam ruột thịt. Đó
là nỗi nhớ thương quê hương da diết, tiếng thét căm hận ngút trời, lời ngợi ca những
con người kiên trung, bất khuất và niềm tin không gì lay chuyển được vào ngày mai
thắng lợi, thống nhất non sông.
Hai tập thơ “Ra trận”(1962-1971), “Máu và hoa” (1972-1977) âm vang khí thế
quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui toàn thắng. “Ra trận”
là bản anh hùng ca về “Miền Nam trong lửa đạn sáng ngời” với bao hình ảnh tiêu biểu
36
cho dũng khí kiên cường của dân tộc”: anh giải phóng quân “con người đẹp nhất”,
người thợ điện “Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu”, những “em thơ cũng hóa anh
hùng”, bà mẹ “Một tay lái chiếc đò ngang”, anh công nhân “lấp hố bom mà dựng lò
cao”, cô dân quân “vai súng tay cày”…, “Máu và hoa” ghi lại một chặng đường cách
mạng đầy gian khổ, hy sinh, khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của
xứ sở quê hương, cũng như của mỗi con người Việt Nam mới, biểu hiện niềm tự hào
và niềm vui phơi phới khi “toàn thắng về ta”.
“Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999) là hai tập thơ đánh dấu bước
chuyển mới trong thơ Tố Hữu. Dòng chảy sôi động của cuộc sống đời thường với bao
vui buồn, được mất, sướng khổ, mừng lo khơi gợi trong tâm hồn nhà thơ nhiều cảm
xúc suy tư. Tố Hữu tìm đến những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về cuộc đời và
con người. Vượt lên bao biến động thăng trầm, thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào
lí tưởng và con đường cách mạng, tin vào chữ “nhân” luôn tỏa sáng ở mỗi hồn người.
1.2.3.3. Phong cách thơ Tố Hữu
Chất trữ tình chính trị là nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Tố Hữu. Con
đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với sự giác ngộ lí tưởng cách mạng của nhà
thơ. Các chặng đường thơ của ông gắn bó mật thiết với các chặng đường của cuộc đấu
tranh cách mạng. Lí tưởng cách mạng là ngọn nguồn mọi cảm hứng nghệ thuật của Tố
Hữu. Với ông, làm thơ là một hành động cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền, giáo
dục, đấu tranh cho sự thắng lợi của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng, thực tiễn đời sống
cách mạng và những mục tiêu, nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng đã chi phối từ
quan niệm nghệ thuật đến đề tài, chủ đề, từ cảm hứng chủ đạo đến nhân vật trữ tình,
cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu.
Thơ Tố Hữu giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm
của ông bám sát đời sống chính trị, cách mạng của đất nước, phản ánh đến những vấn
đề có liên quan đến số phận của dân tộc. Bao trùm tác phẩm của Tố Hữu là cảm hứng
lịch sử dân tộc . Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu thường nhân danh Đảng, dân tộc và
thời đại, nhân vật trữ tình hội tụ những phẩm chất của giai cấp, của cộng đồng. Cùng
với khuynh hướng sử thi, ngòi bút Tố Hữu còn giàu cảm hứng lãng mạn. Đó là tiếng
37
nói ngợi ca, khẳng định lí tưởng, ngợi ca vẻ đẹp cuộc sống mới, niềm tin mãnh liệt vào
ngày chiến thắng, vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết cũng là một đặc điểm nổi bật trong thơ
Tố Hữu. Đặc điểm này bắt nguồn từ “ chất Huế” của hồn thơ Tố Hữu và quan niệm
riêng của ông về thơ ca: ông cho rằng, thơ là chuyện đồng điệu của tâm hồn, là tiếng
nói “có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Chất giọng
ấy toát lên từ lối trữ tình trò chuyện, từ những câu thơ như lời thủ thỉ tâm sự, giãy bày,
nhắn nhủ đằm thắm , thiết tha: “ Đồng bào ơi, anh chị em ơi, Bạn đời ơi…”, “ Em ạ,
Cu Ba ngọt lịm đường”, “ Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan…”
Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung cảm xúc và hình thức nghệ
thuật đã mang lại cho thơ Tố Hữu sức rung động lòng người và sức sống lâu bền.
Nhiều tình cảm chính trị là sự tiếp nối , phát huy những truyền thống đạo đức lâu đời
của dân tộc: lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, nghĩa tình cách mạng thuỷ chung…,
sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ truyền thống đặc biệt là thể lục bát. Ngôn ngữ thơ
giản dị, trong sáng, giàu nhạc điệu, hình ảnh quen thuộc gần gũi với nhân dân.
1.3. Tiểu kết chương 1
Ở chương này, luận văn đã trình bày một số vấn đề tổng quan nghiên cứu và lý
thuyết cơ bản về văn bản như: khái niệm văn bản, khái niệm liên kết và các kiểu liên
kết văn bản, trong đó đặc biệt chú ý phép lặp và phép lặp ngữ pháp.
Phép lặp được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ở góc độ phương tiện liên kết
văn bản và phương tiện tu từ trong văn bản nói chung. Ở văn bản thơ, với những đặc
trưng của nó, việc phân chia các dạng thức của lặp, đặc biệt là lặp ngữ pháp vẫn chưa
thực sự rõ ràng và đầy đủ. Phép lặp ngữ pháp trong văn bản thơ cần được phân biệt với
phép đối và phân chia thành các dạng thức với những tiêu chí cụ thể.
Nhà thơ Tố Hữu - cây đại thụ của thơ ca cách mạng Việt Nam - đã vận dụng
sáng tạo phép lặp ngữ pháp trong các văn bản thơ như một phương tiện vừa có giá trị
liên kết vừa có giá trị nghệ thuật. Việc khảo sát phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu
giúp người đọc có thể tìm hiểu sâu hơn phong cách một nhà thơ lớn.
Qua nghiên cứu tổng quan ở chương 1, luận văn có cơ sở vững chắc về lí luận
và thực tiễn để tìm hiểu cụ thể hơn về phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo
mặt hình thức và chức năng.
38
Chương 2
PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU
VỀ MẶT HÌNH THỨC
2.1. Khái quát về số lượng và các kiểu lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu
Cũng như các phương thức liên kết văn bản nói chung, phương thức lặp trong
đó có lặp ngữ pháp, có thể được xem xét từ các mặt hình thức và nội dung (ý nghĩa,
chức năng…).
Thực tế cho thấy, vấn đề đặc điểm hình thức của phương thức lặp nói chung, lặp
ngữ pháp nói riêng đến nay, chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có tính chất
chuyên sâu, đặc biệt là trên cứ liệu văn bản thơ. Trên cứ liệu văn xuôi, phép lặp và lặp
ngữ pháp đã được Trần Ngọc Thêm đề cập một cách tương đối bài bản nhưng tác giả
cũng chỉ mới đề cập ở mức độ khái quát. Chẳng hạn, với lặp ngữ pháp, tác giả cũng
chỉ mới dừng lại ở việc xác định khái niệm và phân biệt 4 kiểu lăp ngữ pháp là lặp đủ,
lặp khác, lặp thiếu và lặp thừa. Đối với văn bản thơ, tác giả hầu như chưa đề cập ngoài
việc xác nhận rằng đây là “dạng thức liên kết văn bản phổ biến trong thơ” [43, tr 101].
Sự khảo sát cho thấy, ngoài những điểm chung với lặp ngữ pháp trong văn xuôi,
lặp ngữ pháp trong thơ không những phổ biến hơn mà còn đa dạng và phức tạp hơn
nhiều, nhất là về mặt hình thức. Vì vậy, nghiên cứu mặt hình thức của lặp ngữ pháp
trong thơ không chỉ giúp làm rõ đặc điểm của lặp ngữ pháp nói chung mà còn góp
phần làm rõ những nét riêng của lặp ngữ pháp trong các loại văn bản khác nhau.
Như đã nói, lặp ngữ pháp trong thơ xét về mặt hình thức rất phức tạp mà việc nghiên
cứu vấn đề này đến nay còn rất ít được chú ý. Do đó, đối với tác giả luận văn, đây là công
việc rất khó khăn. Ở phần dưới đây, khi xem xét cụ thể vấn đề lặp ngữ pháp trong thơ Tố
Hữu xét về mặt hình thức, chúng tôi chỉ cố gắng khảo sát nhằm đưa ra một bức tranh
chung về lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu (về số lượng, kiểu loại, cấu trúc lặp ngữ pháp)
và bước đầu miêu tả đặc điểm hình thức của hiện tượng này, cụ thể sẽ đề cập đến các nội
dung chính sau:
39
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo đặc điểm cấu trúc của chủ ngôn và kết
ngôn: lặp đủ, lặp khác, lặp thiếu, lặp thừa.
Bảng 2.1: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo đặc điểm cấu trúc
của chủ ngôn và kết ngôn
STT Tên tập thơ Lặp đủ
số lần lặp/tỉ lệ Số lần lặp Tổng số 164 117 Lặp thừa 3 Lặp thiếu 4 Lặp khác 40 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 71,3 1,8 2,4 24,4
Số lần lặp 116 9 5 25 77 2 Việt Bắc Tỉ lệ
Số lần lặp 100% 137 7,8 14 4,3 2 21,6 39 66,4 82 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 10,2 1,5 28,5 59,9
Số lần lặp 129 8 10 34 77 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 59,7 6,2 7,8 26,4
Số lần lặp 43 5 2 19 17 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 39,5 11,6 4,7 44,2
Số lần lặp 44 7 3 4 30 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 68,2 15,9 6,8 9,1
Số lần lặp 3 0 7 23 33 7 Ta với ta 9,1 0,0 21,2 69,7 Tỉ lệ 100%
Số lần lặp 49 26 168 423 666 Cộng 7,4 3,9 25,2 63,5 Tỉ lệ 100%
Nhận xét: Cấu trúc câu là một trong các bình diện của hình thức thơ. Khi
phân loại mô hình câu trong thơ Tố Hữu, tác giả luận văn nhận thấy, lặp ngữ pháp
có mặt ở hầu hết các tập thơ của ông. Đặc biệt là ở những tập thơ được sáng tác
trong thời kì kháng chiến. Theo đó, bốn tập thơ đầu ( Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng,
Ra trận) có tới 82% tổng số lượt lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu. Lặp đủ chiếm tỷ
lệ lớn (63.5%) so với lặp khác, lặp thừa, lặp thiếu. Điều này lí giải vì sao thơ Tố
Hữu dễ đọc, dễ nhớ, giàu nhạc điệu và chứa đựng nội dung tư tưởng phong phú.
40
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo khối lượng (độ lớn) của chủ ngôn và
kết ngôn: lặp dòng thơ và lặp khổ thơ.
Bảng 2.2: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo khối lượng (độ lớn)
của chủ ngôn và kết ngôn
stt Tên tập thơ số lần /tỉ lệ Tổng số Lặp dòng thơ Lặp nhiều dòng thơ
Số lần lặp 164 147 17 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 89,6% 10,4%
Số lần lặp 116 91 25 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 78,4% 21,6%
Số lần lặp 137 121 16 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 88,3% 11,7%
Số lần lặp 129 111 18 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 86% 14%
Số lần lặp 43 36 7 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 83,7% 16,3%
Số lần lặp 44 37 7 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 84,1% 15,9%
Số lần lặp 33 31 2 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 93,9% 6,1%
Số lần lặp 666 574 92 Cộng Tỉ lệ 100% 86,2% 13,8%
Nhận xét: Qua khảo sát, thống kê lặp ngữ pháp ở bảy tập thơ của Tố Hữu, ta thấy
sự lặp lại cấu trúc ở đơn vị là dòng thơ là chủ yếu (574/666 trường hợp). Tác dụng của
nó là tạo ra được sự đa dạng trong cách biểu hiện nội dung mà vẫn có sự thống nhất
cao về chủ đề cho tác phẩm. Lặp nhiều dòng thơ chỉ chiếm 92/666 trường hợp, chủ
yếu thể hiện ở những điệp khúc, tạo ra âm hưởng, tiết tấu như bản trường ca.
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo sự có mặt/ vắng mặt của các từ ngữ
trong chủ ngôn và kết ngôn: lặp hoàn toàn (lặp nguyên văn) và lặp không hoàn toàn
(lặp không nguyên văn hay lặp có biến đổi).
41
Bảng 2.3: Thống kê các kiểu lặp xét theo sự có mặt/ vắng mặt
stt
Tên tập thơ
số lần /tỉ lệ
Tổng số
Lặp nguyên văn
Lặp có biến đổi
Số lần lặp
của các từ ngữ trong chủ ngôn và kết ngôn
146
164
18
1
Từ ấy
89,0%
Tỉ lệ
100%
11,0%
Số lần lặp
112
116
4
2
Việt Bắc
96,6%
Tỉ lệ
100%
3,4%
Số lần lặp
130
137
7
3
Gió lộng
94,9%
Tỉ lệ
100%
5,1%
Số lần lặp
125
129
4
4
Ra trận
96,9%
Tỉ lệ
100%
3,1%
Số lần lặp
43
0
43
5 Máu và hoa
Tỉ lệ
100%
0%
100%
Số lần lặp
42
2
44
6 Một tiếng đờn
Tỉ lệ
100%
4,5%
95,5%
Số lần lặp
31
2
33
7
Ta với ta
93,9%
Tỉ lệ
100%
6,1%
Số lần lặp
629
666
37
Cộng
94,4%
Tỉ lệ
100%
5,6%
Nhận xét: Trên những cấu trúc câu được lặp lại, tác giả biến đổi từ ngữ để tạo ra
những nội dung phong phú. Theo đó, số lượng lặp ngữ pháp có biến đổi chiếm tỷ lệ
gần như tuyệt đối (94.4%). Việc lặp lại nguyên văn vừa có tác dụng nhấn mạnh, vừa
tạo ra được sự cân đối cũng được tác giả chú ý sử dụng ở một số bài thơ.
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo tính chất của phương thức lặp: lặp
thuần ngữ pháp và lặp ngữ pháp kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm.
42
Chỉ lặp
Lặp ngữ pháp kết hợp với lặp
Tổng
stt
Tên tập thơ
số lần/tỉ lệ
từ
ngữ âm
số
ngữ pháp
ngữ âm
vựng
và từ vựng
Số lần lặp
Bảng 2.4: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo tính chất của phương thức lặp
164
6
38
120
0
1
Từ ấy
Tỉ lệ
100%
0,0%
3,7%
23,2%
73,2%
Số lần lặp
116
17
15
80
4
2
Việt Bắc
Tỉ lệ
100%
3,4%
14,7%
12,9%
69,0%
Số lần lặp
137
15
29
86
7
3
Gió lộng
Tỉ lệ
100%
5,1%
10,9%
21,2%
62,8%
Số lần lặp
129
5
43
76
5
4
Ra trận
Tỉ lệ
100%
3,9%
3,9%
33,3%
58,9%
Số lần lặp
43
11
6
21
5
5 Máu và hoa
Tỉ lệ
100%
11,6%
25,6%
14,0%
48,8%
Số lần lặp
44
6
12
24
2
6 Một tiếng đờn
Tỉ lệ
100%
4,5%
13,6%
27,3%
54,5%
Số lần lặp
33
0
16
16
1
7
Ta với ta
Tỉ lệ
100%
3,0%
0,0%
48,5%
48,5%
Số lần lặp
666
24
60
159
423
Cộng
Tỉ lệ
100%
3,6%
9,0%
23,9%
63,5%
Nhận xét:. Trong thơ, yếu tố vần và nhịp vô cùng quan trọng. Vì vậy, lặp ngữ
pháp có sự kết hợp với lặp ngữ âm và từ vựng rất phổ biến. Việc lặp đơn thuần cấu
trúc ngữ pháp chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ (24 trường hợp). Điều này chứng minh
được sự khác biệt của việc lặp ngữ pháp trong thơ và trong văn xuôi.
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo số lần lặp: lặp một lần (lặp đơn) và lặp
nhiều lần (lặp phức).
43
Bảng 2.5: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo số lần lặp
Lặp phức Lặp STT Tên tập thơ số lần/tỉ lệ Tổng số đơn 2 lần 3 lần 4 lần 5 lần
Số lần lặp 2 134 164 27 1 0 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 81,7% 16,5% 1,2% 0,0% 0,6%
Số lần lặp 4 116 99 9 1 3 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 85% 8% 3% 3% 1%
Số lần lặp 9 137 117 11 0 0 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 85,4% 8,0% 6,6% 0,0% 0,0%
Số lần lặp 3 129 114 11 0 1 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 88,4% 8,5% 2,3% 0,8% 0,0%
Số lần lặp 1 43 37 4 0 1 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 86,0% 9,3% 2,3% 2,3% 0,0%
Số lần lặp 2 44 41 1 0 0 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 93,2% 2,3% 4,5% 0,0% 0,0%
Số lần lặp 3 33 25 4 1 0 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 75,8% 12,1% 9,1% 0,0% 3,0%
Số lần lặp 666 567 67 24 3 5 Cộng Tỉ lệ 100% 85,1% 10,1% 3,6% 0,8% 0,5%
Nhận xét: Sự linh hoạt trong sử dụng phép lặp ngữ pháp của Tố Hữu không chỉ
thể hiện ở số lượng kiểu lặp mà còn thấy ở số lần lặp. Theo đó, kiểu lặp đơn xuất hiện
với tần số rất lớn (85.1%) và có thể xuất hiện nhiều lần trong một bài thơ. Lặp phức ít
xuất hiện và chỉ gặp ở một số bài thơ có tính chất tự sự.
- Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp
liền và lặp cách.
44
Bảng 2.6: Thống kê các kiểu lặp ngữ pháp theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn
stt Tên tập thơ số lần /tỉ lệ Tổng số Lặp liền Lặp cách
Số lần lặp 164 99 65 1 Từ ấy Tỉ lệ 100% 60,4% 39,6%
Số lần lặp 116 94 22 2 Việt Bắc Tỉ lệ 100% 81,0% 19,0%
Số lần lặp 137 107 30 3 Gió lộng Tỉ lệ 100% 78,1% 21,9%
Số lần lặp 129 96 33 4 Ra trận Tỉ lệ 100% 74,4% 25,6%
Số lần lặp 43 36 7 5 Máu và hoa Tỉ lệ 100% 83,7% 16,3%
Số lần lặp 44 35 9 6 Một tiếng đờn Tỉ lệ 100% 79,5% 20,5%
Số lần lặp 33 27 6 7 Ta với ta Tỉ lệ 100% 81,8% 81,8%
Số lần lặp 666 494 172 Cộng Tỉ lệ 100% 74,2% 25,8%
Nhận xét: Vị trí của cấu trúc lặp cũng là một yếu tố để thể hiện sự liên kết, nhấn
mạnh và phát triển nội dung tác phẩm. Lặp liền đã phát huy tối đa các chức năng đó.
Tác giả đã sử dụng tới 494 số lần lặp liền (chiếm 74.2%). Đây là con số có thể khẳng
định được sự phong phú về ý tưởng và nội dung trong thơ Tố Hữu.
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các kiểu lặp ngữ pháp được phân loại
theo các tiêu chí vừa nêu.
2.2. Lặp dòng thơ
2.2.1. Nhận xét chung
Như đã trình bày ở trên, khi phân loại lặp ngữ pháp trong văn bản thơ theo khối
lượng (độ lớn) của chủ ngôn và kết ngôn, ta sẽ được kiểu lặp dòng thơ (chủ ngôn và
kết ngôn có tổ chức là một dòng thơ) và kiểu lặp khổ thơ (chủ ngôn và kết ngôn có cấu
tạo là bộ phận khổ thơ và khổ thơ). Trong hai kiểu lặp ngữ pháp này, kiểu lặp dòng thơ
45
chiếm ưu thế gần như tuyệt đối (574/666 trường hợp, chiếm 86,2%). Lặp dòng thơ
không chỉ có số lượng lớn mà còn rất đa dạng và phức tạp về cấu tạo. Vì vậy, có thể chia
kiểu lặp này thành những kiểu dạng cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, theo đặc điểm cấu trúc
của chủ ngôn và kết ngôn, có thể chia lặp dòng thơ thành lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa, lặp
khác. Mỗi kiểu cụ thể này, đến lượt mình, lại được chia tiếp thành những dạng chi tiết
hơn. Chẳng hạn, lặp đủ dòng thơ có thể chia thành lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp
không hoàn toàn (có biến đổi từ ngữ cụ thể); lặp một lần và lặp nhiều lần; lặp liền và lặp
cách. Với các kiểu lặp dòng thơ còn lại như lặp thiếu, lặp thừa, lặp khác cũng có thể chia
tiếp thành các dạng cụ thể căn cứ vào đặc điểm chức năng, cấu tạo của các bộ phận thiếu,
thừa hay khác trong cấu trúc của kết ngôn.
Bảng 2.7: Lặp dòng thơ
Theo cấu trúc Theo số lần Theo vị trí Theo sự có mặt của từ ngữ Tập thơ
Lặp khác Lặp thừa Lặp thiếu Lặp phức Lặp liền Lặp cách Nguyên văn Lặp đủ Lặp đơn Biến đổi
Từ ấy 102 119 38 3 4 28 93 54 7 140
Việt Bắc 62 78 16 9 4 13 71 20 3 88
Gió lộng 69 104 36 14 2 17 99 22 4 117
Ra trận 66 96 28 8 9 15 83 28 3 108
Máu và hoa 14 31 16 4 2 5 30 6 0 36
Một tiếng đờn 25 35 3 6 3 2 30 7 2 35
Ta với ta 22 24 6 3 0 7 26 5 1 30
554 143 360 432 142 487 24 87 47 20
Tổng Việc miêu tả chi tiết đặc điểm hình thức của lặp dòng thơ là vấn đề thú vị nhưng
cũng rất phức tạp, khó khăn. Trong luận văn này, chúng tôi mới chỉ có thể bước dầu
đưa ra được sự phân tích, miêu tả khái quát về kiểu lặp dòng thơ (trên cứ liệu thơ Tố
Hữu) với mong muốn góp phần làm rõ hơn về lặp ngữ pháp trong văn bản nói chung
và lặp ngữ pháp trong văn bản thơ, một kiểu văn bản đặc thù, nói riêng.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét các kiểu dạng chính của lặp dòng thơ với tư cách
là một kiểu lặp ngữ pháp.
46
2.2.2. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn: Lặp đủ, lặp thừa, lặp thiếu, lặp khác 2.2.2.1. Lặp dòng thơ: lặp đủ
Lặp đủ, như đã được xác định là lặp toàn bộ cấu trúc của chủ ngôn (dòng thơ trước) và kết ngôn (dòng thơ sau). Lặp đủ trong thơ Tố Hữu rất phổ biến và có thể chia thành hai dạng chính: Lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp không hoàn toàn (có thay đổi).
a) Lặp hoàn toàn: Ở kiểu lặp dòng thơ, lặp hoàn toàn là sự lặp lại ở kết ngôn cấu trúc của chủ ngôn đồng thời với sự lặp lại tất cả các từ ngữ (thực từ) có mặt ở chủ ngôn (dòng trước). Có thể coi đây là dạng tập trung nhất của phương thức lặp, vì ở đây có sự hội tụ cả lặp ngữ pháp (cấu trúc) với lặp từ vựng (các thực từ) và lặp ngữ âm (số lượng tiếng).
Kết quả thống kê cho thấy lặp hoàn toàn hay nguyên văn dòng thơ không phổ biến (chỉ có khoảng trên 10 trường hợp). Xét theo số tiếng ở dòng thơ, dạng này bao gồm các dạng cụ thể sau:
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 2: dạng này rất hiếm. Ví dụ:
Vì sao? Vì sao? Những người mẹ kia gào.
(Tòa án Mĩ)
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 3. Ví dụ:
Tiếng chổi tre Xao xác hàng me Tiếng chổi tre Chị quét
(Tiếng chổi tre)
Chị lao công Như sắt như đồng Chị lao công Đêm đông quét rác
(Tiếng chổi tre)
Túp lều con Tuyết phủ … Túp lều con Như chiếc tổ
(Lều cỏ Lênin)
47
A tiếng hát Của các em … Lắng nghe tiếng hát Của các em
(Đêm xanh)
Hồ Chí Minh Người lính già … Hồ Chí Minh Người đã quyết
(Hồ Chí Minh)
Nhân danh ai? Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài … Nhân danh ai? bay đưa ta đến những rừng dày
(Ê-mi-ly con)
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 4. Ví dụ:
Voi là voi ơi Voi yêu voi quý … Voi là voi ơi Voi đi đánh nhé (Voi)
Trên dòng Hương Giang (dòng đầu) … Trên dòng Hương Giang (dòng cuối)
(Tiếng hát Sông Hương)
Chuông nhà thờ đổ Mỗi buổi hoàng hôn … Chuông nhà thờ đổ Tiếng đồng ngân nga
(Tiếng chuông nhà thờ)
48
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 5 Ví dụ:
Em ơi em cứ đợi Dù tuyết rơi gió thổi … Em ơi em cứ đợi Dù ai thương nhớ ai
(Đợi anh về)
Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!
(Hãy nhớ lấy lời tôi)
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 6. Ví dụ:
Ly Quê trên súng thần công Xinh xinh như một tiên đồng Bồng Lai … Ly Quê trên súng thần công Nghe con chim hót trong lồng tim xanh... (Tiếng sáo Ly Quê)
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 7. Ví dụ:
Hỡi những con khôn của giống nòi Những chàng trai quý gái yêu ơi … Hỡi những con khôn của giống nòi Đã từng đau tự thủa trong nôi
(Dậy lên thanh niên)
+ Lặp hoàn toàn dòng thơ có số tiếng là 8. Ví dụ:
Anh nghiến chặt hai hàm răng lẩm bẩm Đau cái bụng, ui chu choa, tức lắm! … Tôi còn nghe tiếng nói của Châu Ro: Đau cái bụng, ui chu choa, tức lắm!
(Châu Ro)
49
b) Lặp không hoàn toàn (Lặp có sự biến đổi từ ngữ)
Trong kiểu lặp đủ dòng thơ, lặp không hoàn toàn là dạng lặp phổ biến hơn hẳn so
với dạng lặp hoàn toàn vừa được xem xét trên đây.
Theo kết quả thống kê (xem bảng 7), trong số 360 trường hợp lặp đủ dòng thơ thì
có đến 340 trường hợp lặp không hoàn toàn (tức là lặp có biến đổi thành phần từ ngữ),
chiếm 94,4%. Đặc điểm chung của dạng lặp không hoàn toàn dòng thơ là mặc dù kết
ngôn vẫn giữ lại cấu trúc đầy đủ của chủ ngôn nhưng thành phần từ ngữ ở kết ngôn đã
có sự thay đổi. Sự thay đổi đó có thể là thay đổi một phần từ ngữ hoặc thay đổi hoàn
toàn thành phần từ vựng. Xét theo tính chất, mức độ của sự thay đổi thành phần từ ngữ ở
kết ngôn, có thể phân biệt các dạng sau đây của lặp không hoàn toàn dòng thơ:
- Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi một bộ phận từ ngữ.
Bộ phận từ ngữ thay đổi ở dạng lặp này rất đa dạng, phức tạp. Đó có thể là sự thay
đổi chỉ ở một từ ngữ hay một thành phần câu nhưng đó cũng có thể là thay đổi từ ngữ cả
bộ phận nòng cốt (chủ ngữ, vị ngữ) của câu. Vì không có điều kiện miêu tả chi tiết tất cả
các dạng cụ thể của sự thay đổi từ ngữ ở kiểu lặp không hoàn toàn dòng thơ nên ở đây,
chúng tôi chỉ xin nêu một vài thí dụ về những dạng cụ thể thường gặp về kiểu lặp này.
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở vị ngữ.
Ví dụ:
Các bà đã từng trải
Các bà đã từng trông
(Tình thương với chiến tranh)
Con chim non rũ cánh
…
Con chim non chíu chít
(Mồ côi)
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên
( Bà má Hậu Giang)
Mà hôm nay Mã tướng run toàn thân
Mà hôm nay Mã tướng chết hai phần
( Ly rượu thọ)
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở chủ ngữ.
50
Trường hợp này tương đối hiếm so với các trường hợp khác.
Ví dụ:
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai sắt ta siết chặt
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở bổ ngữ.
Ví dụ:
Nghe không ngươi huyết chảy
Nghe không người lời van
(Đông Kinh nhuộm máu)
Ai cản được mùa xuân xanh tươi sáng
Ai cản được những đoàn chim quyết thắng
(Xuân đến)
Ai đâu giam cấm được hồn ta
Ai đâu giam cấm được lời ca
(14 tháng 7)
Này hãy nghe cả lâu đài xã hội
Này hãy nghe cả một thời đang hấp hối
(Tháp đổ)
Không sợ gian nan
Không sợ thần linh
(Trước Kremlin)
Nhớ những mắt ngây thơ nhìn bỡ ngỡ
Nhớ những lời mong ước tỏa lên không
( Nhớ người)
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở trạng ngữ.
Ví dụ:
Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu réo rắt xa gần
( Tiếng sáo Ly Quê)
51
Tôi sẽ chết bình yên, không hối hận
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
( Trăng trối)
Sống trào sinh lực bốc men say
Sống tung sóng gió thanh cao mới
(Đi)
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở định ngữ.
Ví dụ:
Hỡi những bà mẹ hiền
Hỡi những bà đáng kính
( Tình thương với chiến tranh)
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
(Nhớ đồng)
Dậy lên hỡi những linh hồn thép
Dậy lên hỡi những linh hồn trẻ
(Dậy lên thanh niên)
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi từ ngữ ở cụm chủ vị nòng cốt.
Ở dạng lặp này, cụm củ vị trong dòng thơ bị thay đổi về thành phần từ ngữ và
phần từ ngữ được giữ lại chỉ giữ vai trò thành phần phụ nào đó.
Ví dụ:
Có lành đâu vết thương đầy oán hận
Có tan đâu khi uất tự bao giờ
(Tháp đổ)
Ở ví dụ vừa dẫn, chủ ngữ (vết thương đầy oán hận , khi uất tự bao giờ ) và vị
ngữ (lành, tan ) đã có sự thay đổi. Cái được giữ lại chỉ là các từ có, đâu.
Vai ta vai sắt
Chân ta chân đồng
(Voi)
Hồn ta cháy sáng ngời trên ngọn đuốc
Lòng ta múa lồng lên theo đám rước
(Vui bất tuyệt)
52
Ở ví dụ trên đây, chủ ngữ và vị ngữ ở kết ngôn đều có sự thay đổi thành phần các
từ ngữ so với chủ ngôn. Cái được giữ lại ở đây chỉ là định ngữ (ta)
- Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ từ ngữ (là thực từ).
Ở lặp không hoàn toàn dòng thơ thuộc dạng này, cái được giữ lại ở kết ngôn chỉ là
cấu trúc (đầy đủ) ở chủ ngôn và trong một số trường hợp có thể có sự giữ lại một hay một
vài hư từ. Dạng lặp không hoàn toàn này cũng khá phổ biến và có những kiểu cụ thể sau:
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ thành phần từ ngữ.
Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của chủ ngôn được giữ lại ở kết ngôn.
Ví dụ:
Hì hà hì hục
Lục cục lào cào
(Phá đường)
Cha trốn Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Tiền tuyến ra sức tiến công
Hậu phương dốc lòng chi viện
(Bài ca xuân 71)
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Ở những ví dụ trên đây, tất cả các từ ngữ ở kết ngôn (dòng sau) đều có sự thay
đổi so với chủ ngôn (dòng trước). Tuy nhiên, cấu trúc của kết ngôn có sự lặp lại cấu
trúc ở chủ ngôn.
+ Lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự thay đổi toàn bộ thành phần từ vựng (các
thực từ).
Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của chủ ngôn và trong một số trường hợp, một hay
một số hư từ đồng thời được giữ lại. Các hư từ được giữ lại có thể là phó từ hoặc quan
hệ từ.
53
Ví dụ:
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
( Hai đứa bé)
Càng khua sầu tủi
Càng rung oán hờn
(Tiếng chuông nhà thờ)
Lá xanh không mát dạ khô vàng
Hoa thơm không át mùi xương máu
(Xuân nhân loại)
Cũng mùi lưng khét quen mưa nắng
Cũng những lời quê ý thiệt thà
( Tương thân)
Trong các ví dụ trên đây, yếu tố được giữ lại ở kết ngôn là cấu trúc và các phó từ
( không, càng, cũng), còn các thực từ đều thay đổi.
Trong các ví dụ được dẫn dưới dây, ta sẽ có lặp không hoàn toàn dòng thơ với sự
thay đổi toàn bộ các thực từ và phần được giữ lại chỉ là cấu trúc của dòng thơ và các
quan hệ từ ( mà, và, dù, cho)
Ví dụ:
Mà lòng bớt khổ
Mà môi nở cười
(Tiếng chuông nhà thờ đổ)
Và vạn anh hùng trên gió mây
Và nghìn thế hệ tới sau đây
(Đi)
Cây dù gượng lại ngày xuân cũ
Tháp dù mong hàn lại vết sương phong
( Tháp đổ)
Cho Việt Nam độc lập
Cho thế giới hòa bình
( Hồ Chí Minh)
54
2.2.2.2. Lặp dòng thơ: lặp thiếu
Lặp thiếu, như đã xác định ở mục cơ sở lí thuyết, là dạng lặp theo đó, một trong
những thành phần thuộc cấu trúc của chủ ngôn (dòng trước) không được lặp lại ở kết
ngôn (dòng sau). Kiểu lặp này cũng khá phổ biến.
Xét theo thành phần không được lặp lại hay thiếu vắng, có thể xác định các kiểu
lặp thiếu thường gặp sau:
a) Lặp thiếu vị ngữ
Ví dụ:
Cũng yêu nước, yêu nhà
Cũng giận loài quân phiệt
(Tình thương với chiến tranh)
Mỗi góc núi xây thành chiến lũy
Mỗi đầu thôn thành một pháo đài
(Vinh quang Tổ quốc chúng ta)
Trong ví dụ thứ nhất, thành phần thiếu ở kết ngôn là vị ngữ (yêu nhà) là vị ngữ
đồng loại (có ở chủ ngôn). Trong ví dụ thứ hai, thànhphần thiếu ở kết ngôn là vị ngữ
(xây) có mặt ở chủ ngôn.
b) Lặp thiếu chủ ngữ
Ví dụ:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
(Từ ấy)
Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh
Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy
(Có thể nào yên)
Sóng hãy gầm lên nén xót đau
Hãy lau ráo lệ ngẩng cao đầu
(Theo chân Bác)
Trong các ví dụ trên đây, ở kết ngôn đều có sự thiếu vắng thành phần chủ ngữ mà
ở chủ ngôn đều có (các chủ ngữ ở chủ ngôn lần lượt là tôi, tôi, sóng)
55
c) Lặp thiếu thành phần bổ ngữ
Ví dụ:
Không giết được Anh
Không giết được
(Nhớ về Anh)
Mình về mình có nhớ ta
…
Mình về mình có nhớ không?
(Việt Bắc)
Ở ví dụ thứ nhất, thiếu bổ ngữ ở sau động từ “giết”, còn ở ví dụ thứ hai thiếu bổ
ngữ “ta” ở sau động từ “nhớ”.
d) Lặp thiếu trạng ngữ
Ví dụ:
Tôi sẽ chết bình yên không hối hận
Tôi sẽ chết như bao nhiêu số phận
(Trăng trối)
Hãy nghe tự miền Nam tiếng rú
…
Hãy nghe tiếng những người đang sống
(Miền Nam)
Vì độc lập tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị con người
(Chào xuân 68)
Trong ví dụ thứ nhất và thứ ba, ở kết ngôn lặp thiếu trạng ngữ đồng loại có ở chủ
ngôn (không hối hận, tự do, núi sông hùng vĩ). Trong ví dụ thứ hai, ở kết ngôn không có
sự lặp lại trạng ngữ chỉ vị trí có ở chủ ngôn (tự miền Nam).
2.2.2.3. Lặp dòng thơ: lặp thừa
Đây là kiểu lặp mà ngoài việc lặp lại ở kết ngôn tất cả các thành phần ở chủ
ngôn, còn có sự xuất hiện ở kết ngôn một thành phần nào đó không có ở chủ ngôn.
Xét theo đặc điểm chức năng của thành phần “thừa ra” ở kết ngôn, có thể phân
biệt các dạng lặp thừa sau:
a) Lặp thừa vị ngữ.
56
Ví dụ:
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thông liền với thị thành đứng lên
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Ở ví dụ này, “đứng lên” là vị ngữ “thừa ra”.
b) Lặp thừa chủ ngữ.
Ví dụ:
Bầm yêu con yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em
(Bầm ơi)
Cha làm súng và đi liênlạc
Mẹ cùng anh nướng bánh đưa đường
(Lều cỏ Lê Nin)
Ở các ví dụ này, chủ ngữ (bầm, anh) ở kết ngôn không có sự tương ứng với chủ ngữ
(đồng loại) nào ở chủ ngôn và các chủ ngữ đó là kết quả của lặp thừa.
c) Lặp thừa bổ ngữ.
Ví dụ:
Ai vô Phan Rang, Phan Thiết
Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc
(Ta đi tới)
Chủ ngôn ở ví dụ trên đây có hai bổ ngữ đồng loại (có quan hệ đẳng lập) nhưng
kết ngôn lại có ba bổ ngữ đồng loại và là bổ ngữ thứ ba (Đắc Lắc) có thể coi là kết quả
của sự lặp thừa.
d) Lặp thừa trạng ngữ.
Ví dụ:
Tôi đã khô như cây sậy bên đường
…
Tôi đã chết, lặng im, như con chim không bao giờ được hót
(Một nhành xuân)
Núi rừng có điện thay sao
Nông thôn có máy làm trâu thay người
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
57
Ở ví dụ thứ nhất trên đây, trạng ngữ chỉ tính chất (lặng im) ở kết ngôn là kết quả
của sự lặp thừa (vì ở chủ ngôn chỉ có một trạng ngữ chỉ sự so sánh). Ở ví dụ thứ hai,
trạng ngữ chỉ mục đích (làm trâu) ở kết ngôn cũng là kết quả của sự “lặp thừa”.
d) Lặp thừa định ngữ.
Ví dụ:
Sáo kêu vi vút trên không
Sáo kêu dìu dặt bên lòng Hồng quân
(Tiếng sáo Ly Quê)
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Lòng ta chung một thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam
(Ta đi tới)
Trong các ví dụ trên đây, các thành phần “thừa ra” ở kết ngôn là định ngữ (Hồng
quân, niềm tin, Việt Nam).
Khi khảo sát hiện tượng lặp thừa, có thể thấy có nhiều nhân tố khác nhau chi
phối hiện tượng này. Đây là vấn đề thú vị nhưng cũng là vấn đề khá phức tạp. Ở đây,
có thể nêu một trong những nhân tố chi phối lặp thừa đó là luật tổ chức dòng thơ theo
yêu cầu đảm bảo sự hài hòa âm thanh (vần điệu). Chẳng hạn, với thể thơ lục bát, trong
nhiều trường hợp, yếu tố lặp thừa thường rơi vào dòng bát, cụ thể là thường rơi vào
các tiếng ở cuối dòng (hay giữa dòng).
Ví dụ:
Đàn tép mà ép biển khơi?
Quạ đen mà chiếm mặt trời được chăng?
(Vinh quang Tổ quốc chúng ta)
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe núi chuyển thành con sông dài
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
58
Trong các ví dụ trên đây, các yếu tố tạo nên lặp thừa chủ yếu rơi vào cuối dòng
sau (kết ngôn).
Cũng có trường hợp để đảm bảo sự phân bố phù hợp số tiếng trong dòng thơ lục
bát, các yếu tố tạo nên sự “lặp thừa” rơi vào giữa dòng thơ.
Ví dụ:
Trăm sông về một biển Đông
Bắc Nam rồi sẽ về trong một nhà
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Ở trường hợp này, yếu tố tạo nên “lặp thừa” là “rồi sẽ” nằm ở gữa dòng thơ.
2.2.2.4. Lặp dòng thơ: lặp khác
Như đã xác định ở mục cơ sở lí thuyết, lặp khác là kiểu lặp theo đó, chỉ một bộ phận
cấu trúc của chủ ngôn (bộ phận này “phải đủ lớn và là bộ phận chủ yếu”) [40, tr 96] được
lặp lại ở kết ngôn. Phần còn lại ở chủ ngôn và kết ngôn có sự khác nhau về cấu trúc. Như
vậy, ở lặp khác, cấu trúc của chủ ngôn và kết ngôn có sự giao nhau (với một bộ phận chủ
yếu là chung và bộ phận thứ yếu khác nhau). Cũng như các kiểu lặp thiếu và lặp thừa, lặp
khác khá phổ biến.
Ví dụ:
Tôi ôm lấy nó
Tôi kể trước sau
(Bà mẹ Việt Bắc)
Chị em ta bay căng thịt lõa lồ
Con em ta bay quẳng chân vào lửa
(Bắn)
Sống đã vì cách mạng anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà
(Trăng trối )
Giặc trước mặt phải xông vào mà giết
Thù sau lưng phải triệt chẳng tha
(Vinh quang Tổ quốc chúng ta )
Hồn kêu trên mái muôn nhà
Hồn kêu trai gái trẻ già đứng lên
(Chị là người mẹ)
59
Ở ví dụ thứ nhất, bộ phận chủ yếu giống nhau là cụm chủ vị (Tôi ôm…, Tôi kể…)
với vị ngữ đều là ngoại động từ (ôm, kể); còn bộ phận khác là bổ ngữ “nó”
(ở chủ ngôn) và trạng ngữ “trước sau” (ở kết ngôn).
Ở ví dụ thứ hai, bộ phận chủ yếu giống nhau là cụm chủ vị kèm theo định ngữ “chị
em ta”, “con em ta” (có quan niệm coi đây là bổ ngữ) được đảo lên phía trước; còn bộ
phận khác là “lõa lồ” (trạng ngữ chỉ tính chất) và “vào lửa” (bổ ngữ chỉ hướng đích).
Ở ví dụ thứ ba, bộ phận cơ bản giống nhau là bộ phận vị ngữ (gồm vị ngữ “sống
chết” và trạng ngữ “vì cách mạng”), còn bộ phận khác nhau là chủ ngữ biệt lập “anh
em ta” có ở chủ ngôn và vị ngữ đồng loại “chẳng phiền hà” có ở kết ngôn.
Ở ví dụ thứ tư, bộ phận chủ yếu giống nhau gồm vị ngữ “phải xông vào mà giết”,
“phải triệt chẳng tha” và bổ ngữ đảo “ giặc trước mặt”, “thù sau lưng”; Còn bộ phận
khác nhau là ở chính cấu trúc nội bộ của bộ phận vị ngữ (ở chủ ngôn, bộ phận vị ngữ
gồm “phải xông” + “mà giết” là cấu trúc có dạng vị ngữ + trạng ngữ mục đích; Còn ở
kết ngôn, bộ phận vị ngữ lại có dạng cấu trúc đẳng lập: phải triệt, chẳng tha).
Ở ví dụ thứ năm, bộ phận chủ yếu giống nhau về cấu trúc đều là cụm chủ vị “hồn
kêu” , còn bộ phận khác nhau là trạng ngữ “trên mái muôn nhà” và bổ ngữ “trai gái
trẻ già đứng lên”.
2.2.3. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn: lặp
cân và lặp lệch
Khi xem xét tính cân đối giữa chủ ngôn và kết ngôn, người ta đựa trước hết vào
độ dài của chủ ngôn và kết ngôn xét theo số tiếng (âm tiết) [43,tr 95]. Theo tiêu chí
này những trường hợp chủ ngôn và kết ngôn có cùng số lượng tiếng sẽ được xếp vào
lặp cân, những trường hợp còn lại là lặp lệch. Đối với lặp cân, còn có thể chia tiếp
thành lặp đối xứng và phi đối xứng. Lặp đối xứng là kiểu lặp phù hợp với biện pháp
nghệ thuật đối ngẫu thường được dùng trong thơ văn (hai vế đối nhau về số tiếng, từ
loại, về ý tứ). Lặp cân phi đối xứng là dạng lặp chỉ đơn thuần có sự giống nhau về số
tiếng giữa chủ ngôn và kết ngôn.
2.2.3.1. Lặp cân
Đây là dạng lặp rất phổ biến. Ở dạng lặp này chủ ngôn và kết ngôn luôn có cùng
số lượng tiếng. Tuy nhiên khác với lặp hoàn toàn hay lặp nguyên văn, ở dạng lặp này,
các từ ngữ có thể là khác nhau . Sau đây là một số dạng lặp cân.
60
a) Trước hết xét theo số tiếng trong dòng thơ, có thể chia lặp cân thành:
- Lặp cân với dòng thơ 2 tiếng
Ví dụ:
Tiếng hát của các em
Êm êm
Thanh thanh
(Đêm xanh )
Chị lao công
Như sắt
Như đồng
(Tiếng chổi tre )
- Lặp cân với dòng thơ 3 tiếng
Ví dụ:
Trời trong veo
Nước trong veo
(Tiếng hát sông Hương)
- Lặp cân với dòng thơ 4 tiếng
Ví dụ:
Nó tung bát đĩa
Nó đập héc vài
(Bà mẹ Việt Bắc )
Ta đi lên đèo
Ta leo lên dốc
(Voi )
- Lặp cân với dòng thơ 5 tiếng
Ví dụ:
Mỗi khu vườn, góc phố
Mỗi ô ruộng, đường quê
(Giết giặc)
61
- Lặp cân với dòng thơ 6 tiếng
Ví dụ:
Lòng ta chung một cụ Hồ
Lòng ta chung một thủ đô
(Ta đi tới )
- Lặp cân với dòng thơ 7 tiếng
Ví dụ:
Chết dưới chân bay vạn bẫy cài
Chết xuống đầu bay từng hốc núi
(Quê mẹ )
- Lặp cân với dòng thơ 8 tiếng
Ví dụ:
Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
(Người con gái Việt Nam)
b) Xét theo mức độ cân đối, lặp cân có thể được chia nhỏ thành lặp cân với sự
đối xứng (lặp = đối hay đối ngẫu) và lặp cân với sự phi đối xứng (giữa hai vế không có
sự đối xứng hay đối ngẫu). Dạng thứ nhất có thể gọi là lặp cân đối xứng hay đơn giản
là lặp đối xứng; còn dạng thứ hai có thể gọi là lặp cân phi đối xứng hay đơn giản là
lặp phi đối xứng.
- Lặp đối xứng
Ở dạng này, lặp cân gồm hai vế (là chủ ngôn và kết ngôn) có sự tương ứng hay
đối xứng với nhau về số tiếng, về từ loại, về âm thanh và cả về ý; tức là đáp ứng đầy
đủ các tiêu chí về đối ngẫu. Dạng này không phổ biến lắm. Dưới đây là một vài ví dụ:
Cha trốn con ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Xe tăng, đại bác gầm rung đá
Thần sấm, con ma xé nát trời
(Theo chân Bác )
Trống Xô Viết rung trời cách mạng
Cờ búa liềm đỏ đất Hồng Lam
(Theo chân Bác)
62
Tiền tuyến ra sức tiến công
Hậu phương dốc lòng chi viện
(Bài ca xuân 71)
Chặt Buôn Mê Thuật, rụng cả Tây Nguyên Quét Huế -Thừa Thiên, đổ nhà Đà nẵng (Toàn thắng về ta )
Như các ví dụ cho thấy, chủ ngôn và kết ngôn tạo thành các vế có sự cân chỉnh
với nhau, đối xứng với nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa.
- Lặp cân phi đối xứng Ví dụ:
Rạo rực muôn màu sắc Náo nức muôn bàn chân
(Trên miền Bắc mùa xuân)
Vui sao tiếng nước trên đồng cạn
Vui sao tiếng hát trên đồng bừa
(Trên miền Bắc mùa xuân)
Chân toạc máu, chân dồn đuổi giặc
Tay chém thù, tay sắc như gươm
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
- Giữa dạng lặp đối xứng và lặp cân phi đối xứng trên đây là dạng lặp có tính
chất trung gian, tức là dạng lặp tuy có tính đối xứng nhưng không đầy đủ hay không
triệt để. Ở dạng trung gian này, giữa chủ ngôn và kết ngôn có sự đối xứng ở hầu hết
hay phần lớn các tiếng (các tiếng còn lại có thể trùng nhau hoặc không đối nhau).
Ví dụ:
Gươm nào chém được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn
(Ba mươi năm đời ta có Đảng )
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
(Bác ơi!)
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
63
Anh đánh như sét nổ trời rung
Anh chuyển như lũ cồn bão cuốn
(Toàn thắng về ta)
Ở ví dụ thứ nhất, giữa hai vế có sự trùng nhau ở các tiếng nào, được (các tiếng
còn lại đối xứng). Ở các ví dụ còn lại, có sự trùng nhau một số tiếng hoặc tuy không có
sự trùng nhau giữa các tiếng ở cá vị trí tương ứng nhưng có sự lặp từ vựng giữa chủ ngôn và kết ngôn (lặp các từ anh, chị). Có thể coi những trường hợp trên đây là những trường hợp đối xứng không điển hình.
2.2.3.2. Lặp lệch
Đây là dạng lặp dòng thơ cũng khá phổ biến. Ở dạng này, mặc dù cũng đáp ứng
đầy đủ các tiêu chí của lặp ngữ pháp nhưng giữa chủ ngôn và kết ngôn không có sự
giống nhau (cân nhau) về số tiếng.
Ở dạng này, xét theo độ chênh lệch về số tiếng, có thể phân biệt một vài dạng cụ
thể sau:
a) Chênh lệch 1 tiếng
Ví dụ:
Đã tan tác những bóng thù hắc ám (8 tiếng)
Đã sáng lại trời thu Tháng Tám (7 tiếng)
( Ta đi tới )
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (6 tiếng)
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp (7 tiếng)
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
b) Chênh lệch 2 tiếng
Ví dụ:
Chiếu Nga Sơn, Gạch Bát Tràng (6 tiếng)
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông (8 tiếng)
(Việt Bắc)
Ngày mai về lại thủ đô (6 tiếng) Ngày mai sống lại từng mô đất này (8 tiếng)
(Giữa thành phố trụi)
Đã nghe nước chảy lên non (6 tiếng)
Đã nghe núi chuyển thành con sông dài (8 tiếng)
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
64
c) Chênh lệch 3 tiếng
Ví dụ:
Chào cô dân quân vai súng tay cày (8 tiếng)
…
Chào các mẹ già run tay vá may cho chiến sĩ (11 tiếng)
(Chào xuân 67)
d) Chênh lệch 5 tiếng
Ví dụ:
Tôi đã khô như cây sậy bên đường (8 tiếng)
Tôi đã chết, lặng im, như con chim không bao giờ được hót (13 tiếng)
(Một nhành xuân)
2.2.4. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo số lần lặp (số kết ngôn): lặp một lần (lặp đơn),
lặp nhiều lần (lặp phức)
2.2.4.1. Lặp một lần
Theo kết quả khảo sát, trong tổng số 574 trường hợp lặp dòng thơ, có 487
trường hợp lặp một lần (chiếm 84,8%). Ở dạng này, kết ngôn chỉ có một dòng thơ.
Ví dụ:
Mưa có rơi dầm dề
Ngày có dài lê thê
(Đợi anh về)
Nào anh bên trai
Nào em bên nữ
(Phá đường)
Tôi ở Vĩnh Yên lên
Anh trên Sơn Cốt xuống
(Cá nước)
Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn
Có gì đâu ta ôm mối căm hờn
(Hãy đứng dậy)
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
65
2.4.1.2. Lặp nhiều lần
Ở dạng lặp này, kết ngôn gồm từ hai dòng thơ trở lên. Dạng này tuy không phổ
biến bằng dạng lặp một lần nhưng cũng không hiếm lắm Theo số lần lặp (hay số kết
ngôn), có thể phân biệt các dạng cụ thể sau:
a) Lặp 2 lần (2 kết ngôn)
Ví dụ:
Lòng ta chung một cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam
( Ta đi tới )
Những bàn chân từ than bụi bùn lầy (Đã bước dưới mặt trời cách mạng) Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng ( Lừng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu) Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu (Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp)
( Ta đi tới )
Chết nằm xuống còn hôn cờ Đảng Chết còn trao sung đạn quên đau Chết còn trút áo cho nhau
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
b) Lặp 3 lần (3 kết ngôn) Ví dụ:
Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ Con em ta, bay quẳng chân vào lửa Lúa ngôn ta, bay cướp về cho ngựa Xóm làng ta, bay đốt cháy tan hoang
( Bắn )
c) Lặp 4 lần (4 kết ngôn) Ví dụ:
Voi là voi ơi (Voi yêu voi quý) …
66
Voi là voi ơi ( Voi ta đầu thép) … Voi là voi ơi ( Voi con voi mẹ) … Voi là voi ơi ( Voi đi đánh nhé) … Voi là voi ơi ( Đường đi dằng dặc)
( Voi ) Ở bài “ Thù này muôn kiếp không tan” dòng thơ “ Đồng bào ơi, anh chị em
ơi!” cũng được lặp lại 4 lần (ở các khổ 5,7,9,10).
d) Lặp từ 5 lần trở lên (5 kết ngôn trở lên) Dạng lặp này không phổ biến . Theo khảo sát của chúng tôi, dạng này được gặp
chủ yếu trong hai bài thơ là “Ta đi tới” và “Việt Bắc”.
Ví dụ: Ở bài “Ta đi tới”, cấu trúc có dạng CN-VN-BN ( chủ ngữ là “Ai”, vị ngữ là các động từ chuyển động có hướng như: qua, xuôi, về, xuống, vào, lên…; và bổ ngữ là danh từ chỉ điểm đến).
Ví dụ:
Ai qua Phú Thọ Ai xuôi Trung Hà Ai về Hưng Hóa Ai xuống Khu Ba Ai vào Khu Bốn … Ai đi Nam Bộ… Ai vô thành phố… … Ai đi Nam- Ngãi, Bình- Phú, Khánh Hòa Ai vô Phan Rang, Phan Thiết Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Đắc Lắc …
( Ta đi tới )
67
Ở bài “Việt Bắc”, cấu trúc có dạng CV – CV( Mình về mình có nhớ ta…Mình
về mình có nhớ không…) cũng được lặp lại nhiều lần (với sự thay đổi bộ phận ở một
vài thành tố, chẳng hạn, lược chủ ngữ hay bổ ngữ ở một vế).
Ví dụ:
Mình về mình có nhớ ta? … Mình về mình có nhớ không? … Mình đi có nhớ những ngày? … Mình về có nhớ chiến khu? … Mình đi có nhớ những nhà? … Mình về còn nhớ núi non? … Mình đi mình có nhớ mình? … Mình đi mình lại nhớ mình …
( Việt Bắc) Ngoài ra, ở bài “Việt Bắc”, cấu trúc gồm động từ “Nhớ” + bổ ngữ (với các dạng
có biến đổi) cũng rất phổ biến ( cụ thể lặp lại đến gần 10 lần)
Ví dụ:
Nhớ từng bản khói cùng sương … Nhớ từng rừng nứa, bờ tre … Nhớ người mẹ nắng cháy lưng … Nhớ sao lớp học i tờ … Nhớ sao ngày tháng cơ quan … Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều … Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
68
…
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
…
Nhớ cô em gái hái măngmột mình …
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
… Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà
…
( Việt Bắc)
2.2.5. Các kiểu lặp dòng thơ xét theo vị trí của chủ ngôn và kết ngôn: lặp liền và lặp cách 2.2.5.1. Lặp liền
Đây là dạng lặp phổ biến nhất và đã được đề cập đến trong nhiều ví dụ ở trên.
Dưới dây, xin dẫn thêm một vài trường hợp nữa về lặp liền với đơn vị là dòng thơ.
Ví dụ:
Anh là vệ quốc quân
Tôi là người cán bộ
( Cá nước )
Có gì đâu ta cầu khẩn van lơn
Có gì đâu ta ôm mối căm hờn
( Hãy đứng dậy)
Ai tính được giá một ngày xuân đẹp?
Ai tính được giá một cân gang thép?
( Trên đường thiên lý)
Đâu nhữn cồn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thủa yên vui Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
( Nhớ đồng)
2.2.5.2. Lặp cách
Ở dạng lặp này, có thể phân biệt lặp cách gần (cách một hay một vài dòng thơ,
một khổ thơ) và lặp cách xa (chủ ngôn và kết ngôn cách nhau nhiều dòng thơ, khổ thơ,
thậm chí ở đầu và cuối bài).
69
a) Lặp cách gần - Cách một dòng Ví dụ:
Này hãy nghe cả lâu đài xã hội (Chuyển rung trong biển máu ngập tràn trề) Này hãy nghe một thời đang hấp hối (Trong mồ đêm dĩ vãng sắp lui về)
( Tháp đổ )
(Ngày xưa của tình yêu) Hai trái tim nồng ấm (Ca hát những ban chiều) Hai đầu xuân đằm thắm
( Tình thương với chiến tranh)
Mình về mình có nhớ ta? ( Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng) Mình về mình có nhớ không? ( Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn)
( Việt Bắc)
Núi này Bạch Mã , Hải Vân ( Mây đưa anh giải phóng quân lên đèo) Biển này Cửa Thuận sóng reo ( Thanh thanh vành mũ tai bèo là em)
( Bài ca quê hương)
Vẫn là ta đó, những khi (Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi) Vẫn là ta đó, giữa đời ( Long lanh một chiếc gương soi nhân tình)
( Phút giây)
- Lặp cách một khổ Ví dụ:
Không thể nữa, lưng chừng hay tính toán? ( Trọn đời ta rút gọn ở giờ này Bão đã rốc thổi già trên biển loạn Sống là đây mà chết cũng là đây)
70
Không thể nữa, lơi chèo hay quay lái? …
( Giờ quyết định )
Hỡi những con khôn của giống nòi ( Những chàng trai quý gái yêu ơi Bâng khuâng đứng trước hai dòng nước Chọn một dòng hay để nước trôi) Hỡi những con khôn của giống nòi …
( Dậy lên thanh niên)
Xuân đang ở đâu, đang về đâu? ( Mênh mang trời đất trắng mù sương Chập chờn nắng ửng, từng cơn rét Xen mỗi niềm vui, mấy nỗi đau) Ta đang ở đâu, đang về đâu? …
( Xuân đang ở đâu)
b) Lặp xa
Ở dạng lặp này, chủ ngôn và kết ngôn đứng cách nhau nhiều khổ thơ, thậm chí
đứng ở đầu và cuối bài thơ.
Ví dụ:
Ly Quê trên súng thần công ( dòng đầu)
…
Ly Quê trên súng thần công ( dòng áp chót)
( Tiếng sáo Ly Quê)
Ở bài “Emily con”, dòng thơ “ Nhân danh ai?” được lặp lại ở kết ngôn cách chủ
ngôn 11 dòng.
Ở bài “ Nhớ về anh”, dòng thơ ba tiếng “ Anh Ba ơi!” được lặp lại ba lần với
những khoảng cách lần lượt là 106 dòng, 178 dòng và 202 dòng. Những khoảng cách
rất lớn như thế này có được là do bài thơ rất dài.
71
2.3. Lặp nhiều dòng thơ (lặp bộ phận khổ thơ và lặp khổ thơ)
Lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ là kiểu lặp ngữ pháp đặc trưng cho
văn bản thơ. Sở dĩ có thể nói như vậylà vì ở văn bản văn xuôi kiểu lặp này tuy cũng có
nhưng rất hiếm. Ở văn bản thơ, trái lại kiểu lặp này khá phổ biến. Theo kết quả thống
kê, lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ có 92 trường hợp, chiếm 13,8% trường
hợp lặp ngữ pháp trong thơ.
Lặp ngữ pháp với đơn vị là nhiều dòng thơ có thể được chia thành hai kiểu cụ
thể: lặp bộ phận của khổ thơ (thường gồm hai dòng, chiếm nửa khổ thơ) và lặp cả khổ
thơ ( phổ biến là có cấu tạo hai hay bốn dòng).
Bảng 2.8: Lặp nhiều dòng thơ
Theo dung Theo sự có mặt Theo số lần Theo vị trí
lượng của các từ ngữ Tổng Tập thơ 2 4 Nguyên Biến Lặp Lặp Lặp Lặp
dòng dòng văn đổi đơn phức liền cách
17 12 5 11 6 15 2 6 11 Từ ấy
25 23 2 1 24 21 4 23 2 Việt Bắc
16 14 2 3 13 13 3 8 8 Gió lộng
18 16 2 1 17 18 0 13 5 Ra trận
7 7 0 0 7 6 1 6 1 Máu và hoa
7 6 1 0 7 6 1 5 2 Một tiếng đờn
2 2 0 1 1 1 1 1 1 Ta với ta
Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét đặc điểm của hai kiểu lặp này.
92 80 12 17 75 80 12 62 30 Tổng
2.3.1. Lặp bộ phận của khổ thơ (lặp nửa khổ thơ)
Trong thơ Tố Hữu, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng khổ thơ có cấu tạo gồm 4
dòng trong đó chia thành hai nửa mà mỗi nửa gồm hai dòng có cấu trúc tương ứng và
có sự lặp ngữ pháp với nhau, tạo nên sự hài hòa của khổ thơ. Ở đây, có thể phân biệt
những dạng lặp bộ phận khổ thơ với các kiểu khổ thơ (xét theo số tiếng) sau.
a) Lặp bộ phận khổ thơ với loại khổ thơ 5 tiếng
72
Ví dụ:
Biết bao nhiêu quả phụ
Nhăn trán nhìn Va Gông
Biết bao nàng ủ rũ
Run rẩy đứng trông chồng
( Đông Kinh nhuộm máu)
Ngày xưa là hy vọng
Của bao mẹ hiền từ
Ngày xưa là tiên động
Của nỗi lòng ưu tư
( Tình thương với chiến tranh)
Ở những ví dụ trên đây, dòng thứ nhất có quan hệ lặp ngữ pháp với dòng thứ ba,
còn dòng thứ hai quan hệ lặp ngữ pháp với dòng thứ tư.
b) Lặp bộ phận khổ thơ với loại khổ thơ 7 tiếng (thất ngôn)
Ví dụ:
Chí ta như núi Thiên Thai ấy
Đỏ rực chiều hôm dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương Giang ấy
Xanh biếc lòng sông những bóng thông
( Quê mẹ )
Thương sao sáng lên đường ra trận
Người đến thăm ta, vượt lũ nguồn
Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn
Người đứng trông ta đánh diệt đồn
( Theo chân Bác )
Hiện tượng lặp một phần (2 dòng) của khổ thơ loại 7 chữ khá phổ biến. Đặc biệt,
ở bài thơ như bài “Miền Nam”, có khá nhiều khổ thơ có hiện tượng này và điều đó
không chỉ tạo nên sự hài hoà về hình thức mà còn tạo nên sự gắn kết về ý tứ trong khổ
thơ cũng như cả bài thơ.
73
Ví dụ:
Vì sao hỡi miền Nam yêu dấu?
Người không hề tiếc máu hy sinh
Vì sao hỡi miền Nam chiến đấu?
Người hiên ngang không chịu cúi mình.
( Miền Nam)
Hãy nghe tiếng những người đang sống
Như biển động ầm ầm tiếng sóng
Và hãy nghe cả tiếng người xưa
Như gió khơi reo vọng rừng dừa
( Miền Nam)
Ở những ví dụ trên đây đều có hiện tượng lặp “kép”, túc là lặp hai dòng thơ trong
mỗi khổ theo quy tắc các dòng lẻ (1 – 3) và chẵn (2 – 4). Có sự lặp cấu trúc cú pháp
với nhau theo từng cặp (mặc dù trong một số trường hợp, đó có thể là lặp khác).
c) Lặp bộ phận khổ thơ với khổ thơ lục bát
Ví dụ:
Trường tôi vui với biển khơi
Chữ reo mặt sóng, chữ ngời ghe câu
Trường tôi vui giữa rừng sâu
Chữ theo đuốc lửa đêm thâu tiếng người
( Trường tôi )
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
( Việt Bắc)
Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca
( Lên Tây Bắc)
Thắng Mĩ vừa ác vừa ngu
74
Nó như con cọp mắt mù đó thôi
Thằng Ngụy vừa dại vừa tồi
Nó như con rắn theo đuôi ăn tàn
( Chuyện em )
Trong những ví dụ dẫn trên đây, có thể nhận thấy hiện tượng lặp ngữ pháp cấu
trúc giữa các dòng lục (6 tiếng) với nhau và giữa các dòng bát (8 tiếng) với nhau. Tuy
nhiên, nếu giữa các dòng lục có sự lặp đủ và có nhiều tính đối xứng thì giữa các dòng
bát chỉ có sự lặp cân và có nhiều tính chất của lặp khác.
2.3.2. Lặp khổ thơ
2.3.2.1. Nhận xét chung
Lặp khổ thơ là hiện tượng thường thấy không chỉ trong thơ Tố Hữu và thơ ca
Việt Nam mà còn có thể gặp khá phổ biến trong thơ ca nước ngoài. Đây có thể coi là
biện pháp nghệ thuật đặc trưng của việc tổ chức văn bản thơ.
Khổ thơ nói chung được hiểu là một khúc đoạn ngắn được ngắt ra trong một bài
thơ biểu thị một ý tưởng tương đối độc lập. Trên văn bản, khổ thơ thường được tách
biệt với khổ bên cạnh bằng một khoảng cách lớn hơn dòng. Khổ thơ có thể có dung
lượng lớn, nhỏ khác nhau tùy theo bài thơ và cách ngắt khổ của từng tác giả. Tuy
nhiều trường hợp, khổ thơ thường có dung lượng 4 dòng và ở trường hợp hiếm hơn là
2 dòng. Nhưng có thể có khổ thơ với dung lượng lớn hơn 4 dòng.
Xét về kiểu dạng, lặp khổ thơ trong thơ Tố Hữu cũng khá đa dạng. Chẳng hạn, về
dung lượng, lặp khổ thơ gồm: lặp khổ thơ 2 dòng và lặp khổ thơ 4 dòng. Xét về sự có
mặt của các từ ngữ, có thể phân biệt: lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp không hoàn
toàn (có sự biến đổi thành phần từ ngữ cụ thể). Xét về số lần, có thể có lặp một lần và
lặp nhiều lần. Xét về vị trí, có thể xác định: lặp liền và lặp cách.
Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét các kiểu lặp khổ thơ vừa được xác định.
2.3.2.2. Lặp khổ thơ xét theo dung lượng: lặp khổ thơ với 4 dòng và lặp khổ thơ
với 2 dòng.
a) Lặp khổ thơ với 4 dòng
Đây là kiểu lặp khổ thơ phổ biến nhất trong thơ Tố Hữu. Ở kiểu lặp này, mỗi
dòng thơ trong khổ có mối quan hệ lặp cấu trúc với dòng tương ứng của khổ kia.
75
Ví dụ:
Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận Phù Tang
Đã vang cùng sóngbể
…
Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận Phù Tang
Đã vang cùng sóngbể
( Đông Kinh nhuộm máu)
Nếu tâm sự cùng ta bạn hỏi
Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói
Như nỗi niềm nhức nhối tim gan?
- Trong lòng ta hai tiếng: miền Nam.
…
Khi âu yếm cùng anh em hỏi
Tên nào trong muôn vàn tên gọi
Như mối tình chung thủy không tan?
- Trong lòng anh tên ấy: miền Nam.
( Miền Nam)
b) Lặp khổ thơ với 2 dòng
Trong thơ Tố Hữu, kiểu lặp này không phổ biến bằng lặp khổ thơ với 4 dòng,
nhưng cũng không quá hiếm.
Ví dụ:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng
…
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi, vui lắm cả trời hồng
( Ý xuân )
76
Thưa các ông nghị gật!
Đứng bôn ba lật đật uổng công!
…
Thưa các ông nghị gật!
Đứng bôn ba lật đật uổng công!
(Thưa các ông nghị)
2.3.2.3. Lặp khổ thơ xét theo sự có mặt của các từ ngữ: lặp hoàn toàn (nguyên văn) và
lặp không hoàn toàn (có biến đổi từ ngữ).
a) Lặp hoàn toàn khổ thơ
Ngoài những ví dụ đã dẫn ở trên, có thể nêu thêm các ví dụ sau:
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
…
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
(Con cá chột nưa)
Cũng có thể tạm xếp vào lặp hoàn toàn những trường hợp tất cả các từ trong khổ
thơ đều được lặp lại nhưng có sự thay đổi về trật tự từ, cụ thể là trật tự các dòng thơ
trong khổ.
Ví dụ:
Nghĩa đời trong ba tiếng
Máy điện giục gầm gừ
Chuông đạo hát vô tư
Kiểng tù và gắt gỏng
…
Kiểng tù và gắt gỏng
77
Máy điện giục gầm gừ
Chuông đạo hát vô tư
Nghĩa đời trong ba tiếng
( Ba tiếng)
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
…
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang
(Tiếng hát sông Hương)
b) Lặp không hoàn toàn khổ thơ
Ở dạng lặp này, chỉ cấu trúc của các dòng thơ trong khổ là chủ ngôn được lặp lại,
còn các từ ngữ cụ thể có sự thay đổi.
Ví dụ:
Ôi kể làm sao hết được anh
Bao nhiêu máu chảy bấy dòng kênh
Phải chi em gửi cho anh được
Nắm đất đang nồng lửa đấu tranh?
Ôi kể làm sao hết được anh
Bao nỗi buồn vui của quê mình
Phải chi em gởi cho anh được
Những ảnh hình ghi những tâm tình?
( Lá thư Bến Tre)
Đồng bào ơi anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể sống lại rồi
…
Đồng bào ơi anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể thét nữa rồi
( Thù đời muôn kiếp không tan)
78
Ở ví dụ thứ nhất chỉ dòng đầu và dòng thứ ba trong mỗi khổ có sự giống nhau hoàn
toàn, còn dòng hai ,dòng bốn có sự thay đổi một số từ. Ở ví dụ thứ hai, sự thay đổi từ ngữ
cụ thể cũng nằm ở dòng sau (sống lại thay bằng thét nữa).
2.3.2.4. Lặp khổ thơ xét theo số lần: lặp một lần và lặp nhiều lần
a) Lặp một lần
Trong các ví dụ đã dẫn trên, có khá nhiều trường hợp thuộc dạng lặp một lần.
Chẳng hạn, ở các bài “Đông Kinh nhuộm máu”, “Con cá chột nưa”. Dưới đây là một
vài trường hợp nữa về dạng lặp này.
Ví dụ:
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
…
Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
( Tâm tư trong tù)
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
…
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
( Nhớ đồng)
b) Lặp nhiều lần
Ở dạng này, có thể có những trường hợp sau:
- Lặp 2 lần
79
Ví dụ:
Sức ta là sức thanh niên
Thế ta là thế đứng trên đầu thù
…
Sức ta là sức thanh niên
Thế ta là thế đứng trên đầu thù
…
Sức ta là sức thanh niên
Thế ta là thế đứng trên đầu thù
( Vinh quang Tổ quốc chúng ta )
Ở bài thơ “Chị là người mẹ” cũng có sự lặp lại hai lần khổ thơ thứ hai (lặp ở các
khổ thứ 4 và thứ 6).
Nửa đêm chúng vào buồng bắt chị
Lôi chị đi sung dí vào tai
Thịt rơi máu chảy đêm dài
Ai nghe tiếng chị kêu hoài: “ Con ơi!”
( Chị là người mẹ)
- Lặp 3 lần
Ví dụ:
Đồng bào ơi, anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể sống lại rồi!
…
Đồng bào ơi, anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể thét nữa rồi!
…
Đồng bào ơi, anh chị em ơi!
Chúng tôi không còn sống trên đời!
…
Đồng bào ơi, anh chị em ơi!
Chúng tôi không còn sống trên đời!
( Thù đời muôn kiếp không tan)
80
- Lặp 4 lần
Đây là trường hợp của một bài thơ được Tố Hữu dịch từ dân ca Nam Tư. Mặc dù
bài thơ khá dài nhưng xin dẫn nguyên văn.
- Anh ơi mau trở về quê
Vợ anh vò võ một bề canh suông
- Thương chồng em hãy theo chồng
Ở đây chiến đấu, anh không thể về!
- Anh ơi mau trở về quê
Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng
- Con tôi có khó giòng giòng
Ở đây chiến đấu, cha không thể về!
- Anh ơi mau trở về quê
Mẹ anh già yếu bên hè chờ mong
- Mẹ ơi đừng giận đừng trông
Ở đây chiến đấu, con không thể về
- Anh ơi mau trở về quê
Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng
- Cháy nhà thì cháy cam lòng
Ở đây chiến đấy, tôi không thể về!
- Anh ơi mau trở về quê
Ðời anh chết trẻ làm gì uổng thân
- Tôi dù chết mất tuổi xuân
Miễn là thắng lợi, được phần tự do
( Bài ca của người du kích )
Như có thể thấy từ bài thơ, bài thơ gồm 5 khổ, trong đó 4 khổ có sự lặp cú pháp
(cấu trúc) với khổ đầu. Dòng đầu ở các khổ là sự lặp hoàn toàn, dòng thứ tư (ở các khổ
2,3,4) cũng có sự lặp lại gần như hoàn toàn.(Riêng khổ 5 mang tính chất của lặp khác).
81
2.3.2.5. Lặp khổ thơ xét theo vị trí: lặp liền, lặp cách
Theo kết quả khảo sát, khác với kiểu lặp dòng thơ và kiểu lặp bộ phận khổ thơ
(trong đó lặp liền là trường hợp phổ biến), ở kiểu lặp khổ thơ, trường hợp lặp cách
lại là phổ biến. Dạng lặp liền chỉ gặp ở một vài bài thơ mà tiêu biểu là ở các bài
“Miền Nam”, và “Bài ca người du kích” đã được dẫn ở trên. Những trường hợp
khác đã dẫn trên đây phần lớn đều thuộc lặp cách. Sở dĩ có tình hình như vậy có lẽ
là vì trong khá nhiều trường hợp, lặp khổ thơ là lặp hoàn toàn hoặc tuy là lặp có
biến đổi nhưng sự biến đổi thường không lớn. Vì vậy sẽ không phù hợp nếu lặp liên
tiếp các khổ thơ có thành phần từ ngữ giống hệt nhau.
2.4. Tiểu kết chương 2
Trên đây, trên cơ sở kết quả thống kê và xác định, phân loại các kiểu lặp ngữ
pháp trong thơ Tố Hữu, luận văn đã tiến hành phân tích phân loại cụ thể và chỉ ra đặc
điểm hình thức của các kiểu dạng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu với hai kiểu chính
là lặp dòng thơ và lặp khổ thơ, bộ phận khổ thơ. Đối với mỗi kiểu lặp này, luận văn có
sự phân chia thành các kiểu nhỏ, các dạng cụ thể theo tiêu chí nhất định (dựa vào khối
lượng, về cấu trúc, về sự có mặt, vắng mặt của các từ ngữ, về tính cân đối, số lần lặp,
vị trí…).
Sự phân tích, miêu tả lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu xét theo mặt hình thức
không chỉ cho thấy tính phổ biến của phương thức này mà còn cho thấy sự đa dạng,
phong phú, phức tạp và các kiểu dạng lặp ngữ pháp trong văn bản thơ với văn bản văn
xuôi. Mặt khác, kết quả khảo sát ở chương này cũng cho thấy những đặc điểm của việc
sử dụng phép lặp vừa với tư cách là một phép liên kết văn bản, vừa có tính chất của
một biện pháp tu từ.
Khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, chúng ta không thể không nói đến ấn
tượng về những nét đặc sắc thể hiện rõ ở mật độ cao của các cấu trúc lặp ngữ pháp và
ở sự phong phú của các kiểu, dạng lặp.
Mật độ cao hay tính phổ biến của lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu thể hiện ở chỗ,
như kết quả thống kê cho thấy, trong thơ Tố Hữu có đến 666 trường hợp lặp ngữ pháp.
Đây là con số ấn tượng vì mặc dù chưa có điều kiện thống kê về lặp ngữ pháp trong
tác phẩm của các nhà thơ khác nhưng sự hiểu biết sơ bộ của chúng tôi cũng cho phép
82
tin rằng trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là một trong số tác giả sử dụng
hình thức lặp ngữ pháp phổ biến nhất. Số lượng trên đây cho thấy lặp ngữ pháp trong
thơ Tố Hữu đã được sử dụng một cách có ý thức, có chủ định nghệ thuật và do đó trở
thành nét nghệ thuật đặc trưng của thơ Tố Hữu.
Sự phong phú về kiểu dạng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu cho thấy tác giả đã sử
dụng rất thành thạo, nhuần nhuyễn phép lặp ngữ pháp, kết hợp tài tình các kiểu dạng
lặp để phục vụ cho việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Sự phong phú, đa dạng
của lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu cũng cho thấy vai trò quan trọng của lặp ngữ pháp
đối với việc tổ chức văn bản nói chung, văn bản thơ nói riêng.
83
Chương 3
PHÉP LẶP NGỮ PHÁP TRONG THƠ TỐ HỮU
XÉT THEO MẶT CHỨC NĂNG
3.1 Chức năng liên kết văn bản
Liên kết văn bản bao gồm liên kết hình thức và liên kết nội dung. Liên kết hình
thức được thể hiện ra bằng các phép liên kết trong đó có phép lặp ngữ pháp. Liên kết
nội dung bao gồm liên kết chủ đề và liên kết logic. Về nguyên tắc, liên kết hình thức
luôn có mối quan hệ chặt chẽ với liên kết nội dung và là phương tiện được dùng để thể
hiện liên kết nội dung. Do đó, có thể khẳng định lặp ngữ pháp (trong thơ, thường được
kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm) cũng có chức năng liên kết nội dung (đặc biệt
là liên kết chủ đề) .
Liên kết là một dạng quan hệ giữa các đơn vị của văn bản , trong đó có quan hệ hình
thức. Giữa các dòng, khổ trong bài thơ có thể thấy cơ sở của mối quan hệ này là sự giống
nhau hay gần gũi về cấu trúc giữa chủ ngôn và kết ngôn. Chính sự tương đồng về cấu trúc
(nhất là ở lặp đủ) giữa chủ ngôn và kết ngôn (là dòng thơ, khổ thơ) đã tạo nên mối quan
hệ mang tính liên tưởng giữa chúng. Nói cách khác, chủ ngôn và kết ngôn với tư cách là
các yếu tố có quan hệ lặp ngữ pháp luôn tạo thành cặp (ở lặp một lần), thành dãy (ở lặp
nhiều lần) hay liên tưởng (dựa trên cơ sở là sự đồng loại về cấu trúc giữa chúng).
Chẳng hạn, cặp liên tưởng gần chủ ngôn và kết ngôn:
Vai ta vai sắt
Chân ta chân đồng
(Voi)
Dân có ruộng dập dìu hợp tác
Lúa mượt đồng ấm áp làng quê
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Tiền tuyến ra sức tiến công
Hậu phương dốc lòng chi viện
( Bài ca xuân 71)
84
Dãy liên tưởng gần chủ ngôn và nhiều kết ngôn:
Chết nằm xuống còn hôn cờ Đảng
Chết còn trao súng đạn quên đau
Chết còn trút áo cho nhau
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Chị em ta bay căng thịt lõa lồ
Con em ta bay quảng chân vào lửa
Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa
Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang
( Bắn)
Có thể nói trong những trường hợp được dẫn trên đây, nhờ tính đồng loại (hoặc
gần gũi, tương đồng) về cấu trúc cú pháp mà giữa chủ ngôn và các kết ngôn có sự gắn
kết rất tự nhiên về hình thức. Chính điều này giải thích vì sao có lần Tố Hữu tâm sự:
trong nhiều trường hợp, các câu thơ của ông cứ tự gọi nhau mà tuôn trào, mà xuất
hiện, một cách tự nhiên.
Về mặt liên kết nội dung, lặp ngữ pháp có tác dụng liên kết chủ đề. Có thể thấy
rất rõ ở dạng lặp liền các dòng thơ (với sự kết hợp lặp ngữ pháp và lặp từ ngữ).
Ví dụ:
Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây xương sắt da đồng
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt nam
( Ta đi tới)
Ở ví dụ thứ nhất, cùng với lặp cấu trúc là lặp từ ngữ “Đảng ta” và điều này tạo
sự gắn kết về chủ đề giữa chủ ngôn và kết ngôn. Ở ví dụ thứ hai, lặp cấu trúc kết hợp
với lặp từ vựng “lòng ta” tạo nên sự gắn kết chặt chẽ , liền mạch giữa các dòng thơ.
Nói về tác dụng liên kết chủ đề của lặp ngữ pháp, cần phải thấy rằng một số bài
thơ có hiện tượng lặp ngữ pháp (kết hợp với lặp từ vựng) với mật độ cao đã góp phần
85
tạo nên sự “tập trung chủ đề” rất mạnh và điều đó giúp cho việc tạo nên tính thống
nhất chủ đề cao và khắc sâu tư tưởng của tác phẩm. Có khoảng 50/285 bài thơ xuất
hiện 5 lần lặp ngữ pháp trở lên. Đặc biệt, các bài “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Theo
chân Bác” và “Ba mươi năm đời ta có Đảng” có tới 21 lần lặp ngữ pháp, “Vinh quang
Tổ quốc chúng ta” có 15 lần lặp ngữ pháp…
Chẳng hạn, ở bài “Việt Bắc” có tới 20 lần lặp ngữ pháp: cấu trúc có dạng CV -
CV (Mình về mình có nhớ ta,… Ta về ta nhớ,…Ta đi ta nhớ…) và cấu trúc cú pháp
có dạng “nhớ”+ bổ ngữ (với sự lặp lại các từ quan trọng là “ta”, “mình”, “nhớ” ) đã
được lặp lại nhiều lần đã tạo nên sự thống nhất, xuyên suốt của chủ đề (cuộc chia ly và
tình cảm giữa người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc).
Như vậy lặp ngữ pháp góp phần tăng cường sự liên kết giữa các dòng thơ, khổ
thơ trong bài.
3.2. Chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ
3.2.1. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có tác dụng nhấn mạnh góp phần khắc sâu
nội dung tư tưởng, tình cảm cần biểu thị
Về mặt nội dung, lặp nói chung và lặp ngữ pháp nói riêng, ngoài tác dụng liên
kết văn bản còn có một tác dụng nghệ thuật hết sức quan trọng là nhấn mạnh, khắc
sâu tư tưởng, tình cảm cần diễn đạt trong bài thơ.
Hình thức lặp nói chung (tức là nhắc lại) thường có tác dụng gây sự chú ý. Đặc
biệt, sự lặp lại nguyên văn và lặp lại nhiều lần sẽ gây được sự chú ý nhiều hơn và tạo
ra hiệu quả diễn đạt cao hơn. Khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, ta thấy không
phải ngẫu nhiên mà tác giả sử dụng tương đối nhiều dạng lặp nguyên văn (hoặc gần
nguyên văn) và dạng lặp nhiều lần ở cả kiểu lặp với đơn vị là dòng thơ và khổ thơ.
Dưới đây xin phân tích một số trường hợp lặp tương đối tiêu biểu với tác dụng
nhấn mạnh vào nội dung được biểu đạt.
a) Lặp nhiều lần cấu trúc của dòng thơ với tác dụng nhấn mạnh
Trong thơ Tố Hữu, lặp nhiều lần (từ 2 lần trở lên) cấu trúc của dòng thơ thường có
sự kết hợp với lặp từ vựng (lặp từ ngữ) và điều này hầu như luôn được tác giả dùng với
dụng ý nghệ thuật mà chủ yếu là nhấn mạnh vào ý nào đó.
86
Trong bài thơ “Từ ấy” việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ (với vị ngữ có
dạng “ là” + danh từ + bổ ngữ , kết hợp với lặp từ vựng có tác dụng nhấn mạnh vào ý:
Sự gắn bó tự nguyện, sâu sắc của nhà thơ với nhân dân, với quần chúng lao khổ.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
( Từ ấy)
Trong bài “Con cá chột nưa”, để nhấn mạnh ý: trong đấu tranh, người chiến sĩ
công sản cần giữ vững tinh thần, đạo đức cách mạng: trung thực, trong sáng, thủy
chung, tác giả đã dùng liên tiếp các dòng thơ có cùng cấu trúc cú pháp và một số từ ngữ.
(Phải trải lòng chân thật)
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội
(Con cá chột nưa)
Trong bài “Bắn”, việc lặp lại cấu trúc dòng thơ với hạt nhân là động từ tác động
(căng, quẳng, cướp, đốt) chi phối chủ ngữ “bay” và bổ ngữ (chị em ta, con em ta, lúa
ngô ta, xóm làng ta) có tác dụng nhấn mạnh ý: tố cáo, vạch trần tội ác của giặc Pháp:
giết người man rợ, cướp của, đốt phá hủy diệt môi trường sống của con người.
Chị em ta bay căng thịt lõa lồ
Con em ta bay quẳng chân vào lửa
Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa
Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang.
(Bắn)
Trong bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng
thơ có dạng hạt nhân là động từ thụ cảm “nghe” + bổ ngữ (chỉ sự tình hay sự kiện) được
dùng với mực đích, tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự thần kì hay những thành tựu vĩ đại
của con người trong công cuộc xay dựng hòa bình ở Việt Nam và trên thế giới.
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe núi chuyển thành con sông dài
87
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Trong bài “Mùa thu mới”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ có dạng
động từ “yêu” + bổ ngữ (kết hợp với lặp từ vựng) có tác dụng nhấn mạnh ý: Tình yêu
và niểm tự hào của nhà thơ đối với đất nước và con người lao động trong công
cuộc xây dựng cuộc sống mới trên miền Bắc.
Yêu biết mấy, những dòng sông bát ngát
…
Yêu biết mấy, những con đường ca hát
…
Yêu biết mấy, những bước đi dáng đứng
…
Yêu biết mấy, những con người đi tới
(Mùa thu mới)
Trong bài “Có thể nào yên?”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ với
bộ phận có dạng là “có thể nào” + vị từ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi niềm day
dứt, đau đớn khôn nguôi của tác giả trước sự tàn bạo của kẻ thù và những hy sinh,
mất mát của đồng bào, đồng chí miền Nam.
Có thể nào yên? Miền Nam ơi, máu chảy
…
Có thể nào nguôi? Từng viên đạn Mỹ
…
Có thể nào khuây ? Cỏ cây vẫn nhắc
…
Có thể nào quên? Hỡi miền sâu thẳm
(Có thể nào yên?)
Trong bài “Chào xuân 67”, cấu trúc cú pháp của dòng thơ có dạng “động từ
(chào) + bổ ngữ” được lặp lại nhiều lần (kết hợp với lặp một số từ ngữ) có tác dụng
nhấn mạnh vào ý: Niềm tự hào, tin tưởng của tác giả trước lực lượng hùng hậu của
88
hậu phương lớn miền Bắc (gồm các lực lượng vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến
đấu và phục vụ chiến đấu với nhiều thành phần khác nhau.
Chào cô dân quân vai súng vai cày
…
Chào các cụ bạch đầu quân trồng cây chống Mỹ
Chào các mẹ già run tay vá may cho chiến sĩ
Chào các em, những đồng chí của tương lai
(Chào xuân 67)
Trong “Bài ca xuân 68”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc cú pháp (kết hợp với lặp
từ pháp-lặp hư từ “vì”) của dòng thơ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Lí tưởng và mục
đích cao đẹp (độc lập, tự do, phẩm giá con người, tương lai, hạnh phúc của nhân
dân, dân tộc) là động lực thôi thúc chúng ta chiến đấu và chiến thắng.
Vì Độc lập, Tự do, núi sông hùng vĩ
Vì thiêng liêng giá trị Con Người
Vì muôn đời hoa lá xanh tươi
Ta quyết thắng. Giành mùa xuân đẹp nhất.
(Bài ca xuân 68)
Nói đến biện pháp lặp ngữ pháp (với đơn vị là dòng thơ) với mục đích, tác dụng
nhấn mạnh, không thể không nói đến hiện tương lặp trong hai bài “ Việt Bắc”, “Ta đi tới”.
Ở bài “Việt Bắc”, như đã đề cập, việc lặp lại cấu trúc của dòng thơ với các
khuôn hình cúpháp là: CV-CV (Mình về mình có nhớ ta…, Mình về mình có nhớ
không…, Ta về ta nhớ…, ta đi ta nhớ…) và động từ “nhớ” +bổ ngữ (Nhớ gì…,
Nhớ từng…, Nhớ sao…, Nhớ người mẹ…, Nhớ cô em gái…) kết hợp với lặp từ
vựng (mình, ta, nhớ) không chỉ có tác dụng tạo nên tính thống nhất, độ tập trung của
chủ đề (chia tay, tình cảm giữa người cán bộ cách mạng và đồng baog Việt Bắc) mà
còn có tác dụng nhấn mạnh ý: Tình cảm sâu sắc mặn nồng thủy chung son sắt giữa
người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc.
Ở bài “Ta đi tới”, việc lặp lại nhiều lần cấu trúc của dòng thơ có khuôn hình cú
pháp gồm chủ ngữ “Ai” - vị ngữ (là các động từ chuyển động có hướng : qua, xuôi,
89
về, xuống, vào, vô…) – bổ ngữ (là danh từ chỉ điểm đến) là hình thức độc đáo tạo nên
một trong những cấu trúc chủ đạo của bài tho và điều này không chỉ có tác dụng làm
nên tính thống nhất, độ tập trung của chủ đề, liên kết , mạch lạc của bào thơ mà còn
có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự tự do của con người chiến thắng (với những bước
chân ngược xuôi, ngang dọc) trên quê hương, đất nước được giải phóng.
b) Lặp cấu trúc khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh
Có thể nói, cũng như việc lặp dòng thơ, việc lặp cấu trúc của khổ thơ không chỉ
có tác dụng liên kết mà còn có tác dụng nhấn mạnh vào ý cần truyền đạt. Không có
điều kiện phân tích thật tỉ mỉ các tác dụng nhấn mạnh của việc lặp lại cấu trúc của
khổ thơ , dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cạp đến mottj số trường hợp tiêu biểu về việc
lặp cấu trúc khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh.
- Lặp nguyên văn (lặp hoàn toàn) khổ thơ có tác dụng nhấn mạnh
Lặp hoàn toàn khổ thơ (vừa lặp cấu trúc, vừa lặp toàn bộ từ ngữ) là nét khá độc đáo
của thơ Tố Hữu. Chọn hình thức lặp này, tác giả rõ ràng có chủ ý nghệ thuật mà dễ thấy
là dụng ý nhấn mạnh (vì việc lặp nguyên văn không mang lại nội dung mới nên việc
dùng hình thức này chủ yếu nhằm mục đích tu từ).
Trong bài “Con cá chột nưa” khổ thơ thể hiện lời dụ dỗ của “cái bụng” được lặp
lại hoàn toàn và điều này có tác dụng nhấn mạnh vào ý: sức cám dỗ của “cái bụng”
(chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng ham sống, sợ chết, phần bản năng) là rất mạnh, rất dai
dẳng và trong cuộc đấu tranh tư tưởng thì đây là “kẻ thù” không thể coi thường.
Ăn đi vài con cá
Dăm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự
(Con cá chột nưa)
Trong bài “Đông Kinh nhuộm máu”, khổ thơ đầu:
Nhật Hoàng! Nhật Hoàng!
Trên ngai vàng chễm chệ
Uất hận của Phù Tang
Đẫ vang cùng sống bể
(Đông Kinh nhuộm máu)
90
được lặp lại hoàn toàn ở cuối bài thơ có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Sự căm thù của
nhân loại đối với tội ác tày trời của phát xít Nhật trong việc gây ra vụ thảm sát đẫm
máu ở Đông Kinh (Trung Quốc).
Trong bài “Tâm tư trong tù”, khổ thơ:
Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng mà lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu
(Tâm tư trong tù)
được lặp lại nguyên văn ở khổ thơ sau đó, có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi cô đơn
của người tù cộng sản trẻ tuổi và niềm khát khao cuộc sống tự do, khát khao giao
cảm với đời, được hòa mình vào cuộc sống sôi động của cộng đồng . Cần thấy rằng
không phải ngẫu nhiên mà tác giả đã chọn khổ thơ này để lặp lại. Rõ ràng lí do được
chọn là khổ thơ này thể hiện tập trung, rõ ràng nhất “tâm tư” của người chiến sĩ trẻ
khi bị giam cầm trong nhà lao của thực dân Pháp. Tức là thể hiệ rõ nhất chủ đề tư
tưởng của bài thơ.
Trong bài “Nhớ đồng”, khổ thơ gồm hai dòng:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
(Nhớ đồng)
cũng được lặp lại nguyên văn và điều này có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Nỗi nhớ sâu
thẳm, da diết của tác giả đối với những điều thân thuộc, gần gũi, gắn bó máu thịt
với mình.
- Lặp nhiều lần cấu trúc của khổ thơ với tác dụng nhấn mạnh
Trong thơ Tố Hữu, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng lặp trên một lần cấu trúc
của khổ thơ. Trong những trường hợp như vậy thường có sự kết hợp nhiều kiểu dạng:
lặp cú pháp kết hợp với lặp từ vựng, lặp khổ thơ kết hợp với lặp dòng thơ, lặp hoàn
toàn (nguyên văn) kết hợp với lặp có biến đổi thành phần từ ngữ. Sự kết hợp như vậy
tạo cho việc lặp nhiều lần khổ thơ có nhiều tác dụng khác nhau và cũng làm tăng giá
91
trị, tác dụng nhấn mạnh của phép lặp.
Trong bài “Vinh quang Tổ quốc chúng ta”, để nhấn mạnh, khẳng định: sức mạnh,
thế chiến thắng của cách mạng, Tố Hữu đã sử dụng việc lặp nhiều lần (sau khổ
10,14,16 ) cấu trúc của khổ thơ hai dòng (và hai dòng này được lặp lại nguyên văn):
Sức ta là sức thanh niên
Thế ta là thế đứng trên đầu thù.
(Vinh quang tổ quốc chúng ta)
Trong bài “Chị là người mẹ”, khổ thơ:
Nửa đêm chúng vào buồng bắt chị
Lôi chị đi, súng gí vào tai
Thịt rơi, máu chảy đêm dài
Ai nghe tiếng chị kêu hoài: “Con ơi!”
(Chị là người mẹ)
Được lặp lại nhiều lần (ở các khổ thơ 2,4,6) chỉ với sự thay đổi hai từ ở cuối mỗi
khổ thơ (“Con ơi!”, “Em ơi!”, “Anh ơi!”) có tác dụng nhấn mạnh vào ý: Tố cáo hành
động tội ác dã man của kẻ thù đối với người phụ nữ - “cô giáo hiền tươi”, người mẹ
của ba đứa con thơ dại.
Trong bài “Thù đời muôn kiếp không tan” việc lặp lại nhiều lần khổ thơ hai
dòng (là lời kêu gọi thống thiết của những người tù vô tội bị đầu độc) có tác dụng tố
cáo mạnh mẽ hành động tội ác man rợ của kẻ thù trước công luận và có tác động sâu
sắc đến lương tri của những người đang sống trên thế gian.
Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể sống lại rồi
…
Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!
Chúng tôi không thể thét nữa rồi
…
Đồng bào ơi! Anh chị em ơi!
Chúng tôi không còn sống trên đời
(Thù đời muôn kiếp không tan)
92
Trong bài “Bài ca người du kích”, việc lặp lại bốn lần cấu trúc của khổ thơ (kết
hợp với lặp nguyên văn dòng thơ, lặp từ vựng) tạo ấn tượng manh mẽ, sâu sắc không
chỉ về cấu tứ độc đáo của bài thơ mà đặc biệt về lòng yêu Tổ quốc, ý chí chiến đấu,
trách nhiệm công dân của người chiến sĩ du kích (mặc dù anh có tình cảm sâu nặng đối
với gia đình (mẹ, vợ, con, ngôi nhà) và cũng là người tha thiết yêu sự sống).
Ở đầu mỗi khổ thơ trong bài thơ này là dòng thơ thể hiện tiếng gọi nhói vào tim
anh – tiếng gọi của tình cảm tự nhiên, của trách nhiệm đối với người thân:
Anh ơi mau trở về quê
…
Và ở cuối mỗi khổ thơ là sự lặp lại có chút biến đổi dòng thơ:
Ở đây chiến đấu tôi (con, anh, cha) không thể về.
3.2.2. Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu góp phần làm phong phú hiện thực được
phản ánh
Lặp ngữ pháp trong nhiều trường hợp thường có sự sóng đôi hoặc có quan hệ
bình đẳng với nhau. Đặc điểm hình thức này của lặp ngữ pháp phù hợp với sự thể
hiện đa dạng, phong phú các nội dung hay các mảng hiện thực gần gũi. Nói cách
khác, với đặc điểm tổ chức của mình, lặp ngữ pháp tạo cơ sở cho việc phản ánh
phong phú, sâu sắc hiện thực.
Các cấu trúc lặp (có sự tương đồng về cú pháp và thường tương đăng về quan hệ
, kết hợp với lặp từ vựng) trong nhiều trường hợp cho phép biểu thị cùng một nội
dung qua các dạng cụ thể khác nhau.
Chẳng hạn:
- Biểu thị các hình thức phong phú của hoạt động bình dân học vụ: học trên
đồng ruộng, trên biển, trong rừng.
Trường tôi vui giữa luống cày
…
Trường tôi vui giữa biển khơi
…
Trường tôi vui giữa rừng sâu.
(Trường tôi)
93
Ba dòng thơ có quan hệ lặp ngữ pháp (kết hợp lặp từ vựng) với cấu trúc lặp đủ
trên đây phản ánh cùng một hiện thực (hoạt động bình dân học vụ) nhưng với những
hình thức và không gian cụ thể (thể hiện ở sự khác nhau ở thành phần từ ngữ chỉ vị trí
– trạng ngữ).
- Biểu thị các biểu hiện, cung bậc khác nhau của nỗi nhớ. Cấu trúc “nhớ” + bổ
ngữ (trong bài “Việt Bắc”) được lặp lại nhiều lần phản ánh những kỉ niệm, những
hiện thực đa dạng của tình cảm nhớ nhung của người về xuôi và người ở lại.
Nhớ gì như nhớ người yêu
…
Nhớ từng bản khói cùng sương
…
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
…
Nhớ sao lớp học i tờ
…
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
…
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
(Việt Bắc)
- Biểu thị đồng thời các sự kiện khác nhau về sự thần kì, về “cái mới” ở trong
nước và trên thế giới trong công cuộc chinh phục thiên nhiên:
Đã nghe nước chảy lên non
Đã nghe núi chuyển thành con sông dài
Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
- Biểu thị đồng thời các mối quan hệ tình cảm khác nhau giữa người chiến sĩ du
kích (trong bài “Bài ca người du kích”)
+ Đối với người mẹ già:
Mẹ anh già yếu bên hè đợi mong
94
+ Đối với người vợ trẻ:
Vợ anh vò võ một bề canh suông
+ Đối với đứa con thơ:
Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng
+ Đối với ngôi nhà thân yêu:
Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng
Các dòng thơ trên đây đều có quan hệ lặp cú pháp và về nội dung đều phản ánh
các mối quan hệ tình cảm mà hiện thực có ở người du kích.
- Biểu thị những hiện thực khác nhau của phẩm chất cao đẹp của nhân dân
miền Nam. Đó là:
+ Đau khổ nhưng một lòng thủy chung, son sắc với cách mạng:
Như miền Nam, đắng cay, chung thủy
+ Kiên cường dũng cảm trong chiến đấu
Như miền Nam gan góc, dạn dày!
Trên đây chỉ là một số ví dụ về giá trị phản ánh hiện thực của lặp ngữ pháp
trong thơ Tố Hữu.
3.2.3. Lặp ngữ pháp góp phần tạo nên sự hài hòa, cân đối về vần, nhịp, tiết tấu cho
khổ thơ, bài thơ
Như đã biết, lặp ngữ pháp trong thơ thường được kết hợp với lặp từ vựng (từ
ngữ) và lặp ngữ âm (số tiếng, vần, thanh). Sự kết hợp đó tạo cho lặp ngữ pháp trong
thơ Tố Hữu có được giá trị quan trọng về hình thức: tạo nên sự hòa hợp về âm thanh
(vần, nhịp, tiết tấu…) giữa các dòng thơ và các khổ thơ trong bài và tạo âm hưởng
chung cho cả bài thơ. Người ta thường nói trong thơ có nhạc (thi trung hữu nhạc) và
tính nhạc trong thơ một phần được tạo nên nhờ lặp ngữ pháp (kết hợp với lặp từ ngữ
và lặp ngữ âm). Ấn tượng về sự hài hòa âm thanh được tạo nên ở hầu hết các cấu trúc
lặp ngữ pháp nhưng có thể thấy trong đó, những trường hợp lặp cân (chủ ngôn và kết
ngôn có cùng số tiếng), đặc biệt, lặp đối xứng (chủ ngôn và kết ngôn có quan hệ theo
kiểu đối ngẫu, tức là có số tiếng bằng nhau, tương ứng với nhau vê từ loại, về thanh,
về ý…) là những trường hợp tạo ấn tượng rõ nhất về sự hòa hợp hình thức giữa các
95
dòng thơ hay khổ thơ. Chẳng hạn, đọc những dòng thơ có quan hệ ngữ pháp thuộc
dạng đồng thời có quan hệ đối ngẫu (tương đối tiêu biểu) như dưới đây, ta dễ dàng
cảm nhận được tính cân đối hài hòa về hình thức giữa các dòng thơ.
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
( Hai đứa trẻ)
Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Gươm nào chém được dòng Bến Hải
Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn
( Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Trong những trường hợp dưới đây, hiện tượng lặp cú pháp (thuộc lặp cân) của
nửa khổ thơ (lặp 2 dòng thơ trong khổ theo đó, dòng thứ nhất lặp bắc cầu với dòng thứ
ba, dòng thứ hai lặp bắc cầu với dòng thứ tư) tạo ấn tượng rõ rệt về sự hài hòa ngữ âm
của khổ thơ.
Chí ta như núi thiên thai ấy
Đỏ rực chiều hôm, dậy cánh đồng
Lòng ta như nước Hương Giang ấy
Xanh ngắt lòng sông mát bóng thông.
(Quê mẹ)
Vì sao hỡi miền Nam yêu dấu
Người không hề tiếc máu hy sinh?
Vì sao hỡi miền Nam chiến đấu
Người hiên ngang không chịu cúi mình?
(Miền Nam)
3.3. Tiểu kết chương 3
Nghiên cứu về chức năng phép lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu, ta có thể nhận
thấy: Tố Hữu đã khai thác những chức năng to lớn của phép lặp ngữ pháp để thể hiện
96
nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo
ngôn ngữ dân tộc, đóng góp một tiếng nói quan trọng trong việc tuyên truyền tư tưởng
chính trị, khơi dậy và nuôi dưỡng những tình cảm cách mạng cao cả ở người đọc.
Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu khi được kết hợp với lặp từ vựng không chỉ có
chức năng liên kết cao về hình thức và nội dung (giữa các dòng, các khổ thơ có tính
thống nhất, tính mạch lạc) mà còn có giá trị thể hiện độ tập trung chủ đề. Điều đó
giúp cho thơ Tố Hữu dễ đọc, dễ nhớ và đặc biệt thể hiện được sâu sắc, phong phú tư
tưởng, tình cảm cách mạng của nhà thơ, trở thành nơi bộc lộ tâm tình có được sự
“đồng ý, đồng tình, đồng chí” của đông đảo độc giả.
Ngôn ngữ thơ Tố Hữu thuộc ngôn, ngữ thơ trữ tình điệu nói, khác với lời thơ cổ
điển thuộc lối thơ trữ tình ngâm vịnh. Là một thành tựu xuất sắc của thơ Việt Nam
hiện đại, thơ Tố Hữu khác với thơ cổ điển về một số nguyên tắc tổ chức lời thơ [34,
234-235]. Vì vậy, lặp ngữ pháp được sử dụng với mật độ cao và với nhiều kiểu dạng
khác nhau trong thơ Tố Hữu đã góp phần thực hiện chức năng nghệ thuật thể hiện ý
nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ.
97
KẾT LUẬN
Trên cơ sở lí luận về liên kết, về phép lặp và lặp ngữ pháp được xác lập, luận
văn đã tiến hành thống kê, khảo sát lặp ngữ pháp trong 7 tập thơ của Tố Hữu. Đồng
thời, luận văn cũng tiến hành phân loại, phân tích, miêu tả các kiểu, dạng lặp ngữ
pháp xét theo mặt hình thức và chức năng. Từ những kết quả đạt được qua ba
chương, có thể bước đầu rút ra những kết luận sau:
1. Lặp ngữ pháp là phương thức liên kết được sử dụng phổ biến trong tất cả các
loại văn bản, đặc biệt là trong thơ. Đối với Tố Hữu, lặp ngữ pháp với tư cách vừa là
phương thức liên kết, vừa là biện pháp nghệ thuật (biện pháp tu từ) đã được tác giả
khai thác rất hiệu quả.
2. Đáng chú ý của lặp ngữ pháp ở trong thơ Tố Hữu là tần suất sử dụng và sự
phong phú của các kiểu, dạng lặp. Điều này được thể hiện ở việc sử dụng số lượng lớn
(666 trường hợp) các cấu trúc lặp ngữ pháp và ở sự xuất hiện của nhiều kiểu, dạng lặp:
Xét theo mặt khối lượng đơn vị lặp có lặp dòng thơ và lặp khổ thơ; Xét theo cấu trúc
của chủ ngôn và kết ngôn có lặp đủ, lặp thiếu, lặp thừa và lặp khác; Xét theo tính chất
có lặp thuần ngữ pháp và lặp ngữ pháp kết hợp với lặp từ vựng và lặp ngữ âm; Xét theo
sự có mặt của các từ ngữ có lặp hoàn toàn (nguyên văn) và lặp có biến đổi; Xét theo số
lần lặp có lặp một lần (lặp đơn) và lặp nhiều lần (lặp phức); Xét theo vị trí của chủ
ngôn và kết ngôn có lặp liền và lặp cách. Việc khảo sát lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu
xét theo mặt số lượng và hình thức cho thấy nét khác biệt rõ rệt giữa lặp ngữ pháp
trong thơ và lặp ngữ pháp trong văn xuôi (khác ở cả đơn vị lặp và các kiểu, dạng lặp).
Chẳng hạn, hiện tượng lặp nguyên văn và lặp nhiều lần chủ ngôn là hiện tượng hầu như
không có hoặc rất ít trong văn bản văn xuôi. Dù chưa có số liệu đầy đủ, cụ thể nhưng
bước đầu cũng có thể nhận xét rằng lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu có một số nét khác
biệt so với lặp ngữ pháp trong thơ của các nhà thơ hiện đại khác (khác ở tần suất, hay
tính phổ biến và ở sự phong phú của các kiểu loại lặp được sử dụng).
3.Về chức năng nghệ thuật thể hiện ý nhấn mạnh và triển khai nội dung thơ ,
lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu (mà trong nhiều trường hợp thường kết hợp với lặp
từ vựng và lặp ngữ âm) không chỉ có tác dụng liên kết (hình thức và nội dung) mà
còn có tác dụng tạo nên sự hài hòa về vần nhịp, tiết tấu của thơ, tác dụng phản ánh
98
phong phú hiện thực, tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu chủ đề, khắc sâu tư tưởng, tình
cảm cần biểu đạt.
Có thể nói cùng với nhiều phương thức và biện pháp nghệ thuật khác, lặp ngữ
pháp trong thơ Tố Hữu đã góp phần tạo nên nét đặc sắc, giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật to lớn cũng như sức hấp dẫn, cuốn hút của thơ ông, đưa thơ Tố Hữu trở
thành “lá cờ đầu” của nền thơ ca cách mạng hiện đại.
Lặp ngữ pháp trong thơ Tố Hữu là một đề tài thú vị, hấp dẫn nhưng cũng là một
đề tài khó. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do sự hạn chế về điều kiện, năng lực, trình
độ và kinh nghiệm của tác giả nên chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa
học để luận văn được hoàn thiện hơn.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (1998), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (chủ biên), Đỗ Hữu Châu (2000), Tiếng Việt 10, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
3. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa (1982), Phong
cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (1997), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Phạm Thị Thùy Dương (2008), Từ địa phương trong thơ Tố Hữu, luận văn
thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
8. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học Xã hội.
10. Hà Minh Đức (2004), Tố Hữu - cách mạng và thơ, NXB ĐHQG Hà Nội
11. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), NXB Đại học & THCN,
Hà Nội.
13. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết (2003), Dẫn
luận ngôn ngữ học, NXB GD, Hà Nội.
15. Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ Văn
học,NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt : Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Chí Hoà (2000), Một vài đặc điểm của phát ngôn có phần dư được hình
thành bằng phương thức lặp, Hội Ngôn ngữ học VN, NXB Nghệ An
100
18. Nguyễn Thái Hòa (1996), Từ điển tu từ – phong cách học, Nxb Giáo dục
19. Lê Thị Hoàn (2011) Đối trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
20. Nguyễn Thị Thúy Hồng (2010), Tính hội thoại trong thơ Tố Hữu, luận văn
thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN.
21. Đoàn Trọng Huy (2012), Tố Hữu – nhà cách mạng – nhà thơ, Nxb. Chính trị
Quốc gia.
22. Tố Hữu (2008) , Toàn tập – Thơ ca – Văn học
23. Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu chuyên luận, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp.
24. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
26. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2004), Phong cách học tiếng Việt, NXB GD,
Hà Nội.
27. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản , Nxb Giáo dục
28. Phong Lan (2001),(tuyển chọn và giới thiệu) Tố Hữu tác giả và tác phẩm, NXB
Giáo dục.
29. Xuân Nguyên (1991), "Từ địa phương miền Trung trong thơ Tố Hữu", Sông
Hương, (10), tr.6-9.
30. Lê Thị Nhường. Cách sử dụng tính từ trong thơ Tố Hữu. Luận văn tốt
nghiệp, số 244
31. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
32. Hữu Quỳnh (1996), Tiếng Việt hiện đại, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (2003), Vần và hiệp vần trong thơ Tố Hữu, Luận
văn tốt nghiệp đại học, Đại học Sư phạm TP HCM.
34. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu chuyên luận, Nxb Văn hóa- thông tin
Hà Nội.
36. Trần Thị Tính (2005), Ngôn từ trong thơ Tố Hữu (nhìn từ bình diện từ vựng),
101
luận văn thạc sĩ, ĐHSPTPHCM.
37. Cù Đình Tú, Lê Anh Hiền, Nguyễn Thái Hòa, Võ Bình (2001), Phong cách
học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
38. Cù Đình Tú (1995), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB GD.
39. Vũ Thị Lệ Tuyết (2012), Từ ngữ xưng gọi trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP-ĐHTN.
40. Lê Đình Tư (2012), Một số vấn đề về ngữ pháp văn bản tiếng Việt, trang
Chuyên ngôn ngữ học.
41. Bùi Tất Tươm -chủ biên (1995), Giáo trình tiếng Việt, NXB GD.
42. Đào Thản (1968), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
43. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Bích Thúy (2005), Tổ chức lời thơ trong thơ Tố Hữu ( So sánh
với đồng hiện tượng trong thơ Huy Cận) Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Viện KHXH
vùng Nam Bộ, TP. HCM.
45. Nguyễn Huệ Yên (2008) Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP-ĐHTN
46. Лотман Ю.М. Структура художественного текста // Лотман
Ю.М. Об искусстве. – СПб.: «Искусство – СПБ», 1998. – С.59-66.
47. N.D. Arutjunova, Ẩn dụ ngôn ngữ. Cú pháp và từ vựng, Tài liệu dịch của
Hà Quang Năng.
48. F.de. Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã
102
hội, Hà Nội.
PHỤ LỤC 3.1.1 a Sơ đồ phân loại lặp ngữ pháp ở dòng thơ
lặp liền
cách 1 dòng
Theo vị trí
cách gần
cách 1 khổ
lặp cách
đầu - cuối bài thơ
cách xa
cách nhiều dòng
Lặp đơn
lặp 2 lần
Theo số lần
Lặp phức
lặp 5 lần trở lên
lặp 3 lần lặp 4 lần
dòng thơ 2 tiếng
dòng thơ 3 tiếng
dòng thơ 4 tiếng
dòng thơ 5 tiếng
xét theo số tiếng
dòng thơ 6 tiếng
dòng thơ 7 tiếng
Lặp cân
dòng thơ 8 tiếng
lặp cân đối xứng
lặp cân phi đối xứng
xét theo mức độ cân đối
Theo tính cân đối
trung gian
lệch 1 tiếng
LẶP DÒNG THƠ
Lặp lệch
lệch 2 tiếng lệch 3 tiếng lệc 5 tiếng
dòng thơ 2 tiếng
dòng thơ 3 tiếng
dòng thơ 4 tiếng
dòng thơ 5 tiếng
Lặp hoàn toàn
dòng thơ 6 tiếng
dòng thơ 7 tiếng
dòng thơ 8 tiếng
thay đổi vị ngữ
Lặp đủ
thay đổi chủ ngữ
thay đổi bổ ngữ
thay đổi một bộ phận
thay đổi trạng ngữ
thay đổi định ngữ
Lặp không hoàn toàn
thay đổi cụm chủ vị
thay đổi toàn bộ từ ngữ
thay đổi toàn bộ từ ngữ
thay đổi toàn bộ thành phần từ vựng
bộ phận thừa là chủ ngữ
bộ phận thừa là vị ngữ
Theo cấu trúc
Lặp thừa
bộ phận thừa là bổ ngữ
bộ phận thừa là trạng ngữ
bộ phận thừa là định ngữ
bộ phận thiếu là chủ ngữ
Lặp thiếu
bộ phậnthiếu là vị ngữ
bộ phậnthiếu là trạng ngữ
bộ phận khác là chủ ngữ biệt lập
bộ phận khác là cấu trúc vị ngữ
Lặp khác
bộ phận khác là trạng ngữ
bộ phận khác là bổ ngữ
...
3.1.1 b Sơ đồ phân loại lặp ngữ pháp ở nhiều dòng thơ
Khổ thơ 5 tiếng
Lặp một bộ phận của khổ thơ
Khổ thơ 7 tiếng
Khổ thơ lục bát
Theo dung lượng
Khổ thơ 2 dòng Khổ thơ 4 dòng
LẶP NHIỀU DÒNG THƠ
Lặp hoàn toàn
Theo sự có mặt của từ ngữ
Lặp không hoàn toàn
Lặp khổ thơ
Lặp 1 lần
Theo số lần
Lặp nhiều lần
Lặp 2 lần Lặp 3 lần Lặp 4 lần
Theo vị trí
Lặp liền Lặp cách